Remember ?

Trang 1/18 12311 ... cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 107

Tựa Đề: Bài tuyển Vinhtruong trên các Diễn Đàn Lính

  1. #1
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển Vinhtruong trên các Diễn Đàn Lính

    Bài tuyển trên diễn đàn Thiên Thần Mũ Đỏ

    Chiến Thuật “Cạ-Càng Lướt trên cây”
    Theo thống-kê Việt/Mỹ: KQVN chết 10, Mỹ chết 215; KQVN mất tích 4, Mỹ 38 đó là hậu quả sau 42 ngày của cuộc hành quân Lam-Sơn 719 vì nhờ “chân-lý đây rồi!”… Chiến thuật cạ-càng lướt thoáng trên ngọn”, Thường thường trên cao độ 50 thước với âm thanh gầm thét như luôn luôn có 6 con rồng phun lửa mới áp đảo kẻ địch phải chui rúc, dưới đó, vi bi theo đuổi bởi 32 con mắt diều-hâu ráo-đảo tìm kiếm địch thủ quanh quẩn đâu đây, vừa ló dạng bóng đen nào thoát ra khỏi chiến xa để đào thoát cũng bị dí 3 đầu mũi 6 nòng phun xuống một trận mưa đạn buộc phải ngã quỵ tại chỗ, không có mống nào chạy thoát lưỡi hái tử thần. Ðặc biệt, cánh rừng chồi da beo hình chữ nhựt ngó xuống trục lộ đã bị các nòng súng chia nhau quạt khắp mọi nơi khi chưa có mục tiêu khả nghi nào xuất hiện. Dưới cách đó gần lộ lố nhố vài hầm cá nhân B-40, đất vàng nghệ còn tươi rói, đã bị minigun giã nát tự bấy lâu rồi, cảnh vật nơi chiến địa cùng đoàn xe im-lìm bất động như khung hình chết của bãi tha-ma, trên đó ngun ngút toả ra dật-dờ vài đám khói còn lại trên xác các chiến xa trúng rockets. Nơi đây lính BV đã bỏ chạy ngay sau khi chiếc thứ 2 của Lộc giộng xuống thêm 38 rockets chống Tăng. Bây giờ còn lại cạnh bìa rừng hình chữ nhựt ngó xuống con lộ, đang bị tôi nghi-ngờ là vài chiếc PT-76 đang chỉa nòng 76ly xuống con lộ, kềm theo vài khẩu đại liên 14,5 ly, nhưng có lẽ không còn ai sống sót. Tôi cũng hiểu ra rằng với lỏm nhỏ rừng chồi nầy đã bị các minigun phun xuống cày nát, tất cả đã chém-vè theo bộ binh tùng thiết vào đám rừng già sau lưng. Chúng chạy ra khỏi bìa rừng khi tôi nhìn lại sau đuôi, phát hiện nhưng tằm đạn đạo minigun chiếc 2 chỉa về hướng 1 giờ, nhưng chưa đủ xạ trường sát hại, cũng như Trung sĩ Ðức bắn vói ra sau hướng 5 giờ nhưng cũng trớt-hướt, vô tích sự vì đạn đạo không thể tới được. Thế là nhóm nầy đã thoát nạn để lại một số PT-76 không còn người điều khiển; Cái toán quân BV nầy khá thông minh nên đào thoát kịp; Tôi đang nghe trong tần số Guard, tiếng người Việt ngồi backseater (người “tháp tùng tử” ngồi sau có thể là quan-sát viên KQVN, Pháo binh diện địa, pháo binh Dù, TQLC, hoặc sĩ quan Phòng-3) trên FAC Bronco OV-10 cho biết 10 phút nữa phi cơ chiến thuật sẽ đến dập thêm vào đoàn convoy chiến xa nầy. Vừa làm một pass rãi dài 8 hoả tiển vào bìa rừng ngó xuống con lộ, nhưng tôi đoán quân BV đã bỏ của chạy lấy người, chỉ còn lại vài chiếc PT-76 không người lái với xác người nằm yên trong đó, rồi đây quân Dù sẽ váo khai thác chiến trường và sẽ tìm ra chúng.

    Chiếc của Lưu cũng làm một pass y chang như tôi. Chúng tôi từ giã bãi chiến trường trong không khí yên lặng, dù rằng để lại vài đám cháy với lớp khói mờ-mịt tỏa ra nơi đó, tuyệt đối không thấy có sự chống trả; Chiếc Tiến và Lộc tiếp tục bao vùng cho Tiểu đoàn-1 Dù và Tiểu đoàn-8 ở hướng bắc, cạnh đó. Thình lình tôi nhìn rõ 1 chiếc A-6 Intruder, nhờ 2 đầu cánh chém gió xẹt ra 2 lằn trắng, rồi một loạt bôm snack-eye chạm nổ dữ dội, chiếc thứ 2 nhào xuống cũng salvo như chiếc trước, nhìn ra sau, khói bom che lấp đoàn convoy. Tôi mở tần số la làng, cự FAC “Anh nói 10 phút gì mà nó dội xuống sớm quá vậy… xém chút nữa chúng tôi ôm lãnh đủ”; người backseater trả lời: “Thằng pilot nó đã thấy các anh nhờ vòng tròn cánh quạt sơn màu trắng, nên nó mới cho thả… mà nó lu-bu cũng chẳng nói gì đến tôi…thôi thông cảm đi bạn! Chúng tôi nhìn xuống thấy 4 chiếc dĩa trắng quay tít như làm ảo-thuật trên nền thảm xanh rêu, rồi khi các anh lấy hướng về Aluối nó mới nhào xuống thả… thôi thông cảm nghe bạn”.

    Tôi và Lưu về lại Khe Sanh để tái võ trang và châm đầy xăng nhớt.
    Nếu giả thuyết ở nơi đây không phải là vùng cao nguyên rừng núi mà là vùng đồng bằng như vùng Trà-Kiệu trên sông Thu-bồn chẳng hạn, thì đây là một dịp may để tiêu diệt trọn gói khi mà tàn quân bị 3 mũi dùi tấn kích (3 mặt giáp công) chỉ còn con đường thoát thân duy nhứt là vượt qua sông Thu-bồn: Phía Tây tấn kích bằng Chi-đoàn/17, phía Nam bằng Tiều-đoàn/1 Dù, và phía Ðông nguyên một Thiết-đoàn/11. Ðối với Top-Gun, chúng tôi biết phải làm những gì khi Cá đang nằm trên thớt, trong khi trên cao độ 75 thước, 8 xạ-thủ đang đứng xổng lưng ghì tay súng trong tầm mắt cú vọ mà rãi đều trận mưa đạn xuống địch quân trên một vùng lau sậy tróng trải, hoặc toan lội qua sông Thu-Bồn! Ðiều dễ hiểu chúng tôi là những tiên phuông trong lằn tên mũi đạn nên hiểu được thế trận đồ, vì thế cho nên chúng tôi không phiền-trách những ai có may mắn được ngồi trên bàn giấy khi nhận xét về thế trận đồ. Khi Lữ đoàn 1 Ðặc nhiệm gởi chiến lợi phẩm bằng một thiết vận xa PT-76, trong đó có chở thêm những bánh xe-thồ, xe thùng, và vài cái chảo to đường kính hơn thước, thì Bộ TTM cho rằng làm gì trong rừng mà có bánh-xe Cyclô để du lịch, còn khi nhìn thấy cái chảo to tổ bố nặng trĩu thì nhóm văn phòng nầy chỉ há họng và trố mắt khi nhìn thấy cơm cháy còn dính nơi đáy chảo… không hiểu gì cả? Vì thế sự thiếu hiểu biết nầy không làm chúng tôi phiền muộn, khi có ai muốn soi mói châm chọc, ngay đến Tướng Abrams mà báo chí Tây phương cho là người hùng trong trận chiến cũng có nhận thức vô cùng lầm lẫn đến nổi khi đọc dòng chữ dưới đây làm tôi vô cùng đau xót. Dưới đây, tôi xin đưa ra một dẫn chứng mà không dám dịch ra tiếng Việt sợ sai lạc: Cũng trong sách “A Better War”, mục “Easter Offensive”, trang 332, hàng 25 [During the battles a new weapon system, the tank-killing TOW missile, was flown in from the United States. Initially, noted Abrams, “I gave twenty to the Marines and the 1st Division because they were the only troops I knew of that had stood and fought. I don’t want these things in the hands of the enemy. And on the Airborne, I told General Kroesen [that] when General Truong will give me his personal assurance that they will not be abandoned on the battlefield, then I’ll Consider it” .

    Nằm trên chiếc ghế-bố quân đội, tôi co-ro trong chiếc mền không đủ ấm giữa rừng núi Khe Sanh, thế-giới nơi đây, tôi như bị giam hãm thu hẹp dưới 4 góc mùng xám xịt đen tối, không lối thoát, rồi trăn-trở, trằn-trọc không sao ngủ được. Bây giờ tôi phải làm sao đây!? Khi mà chiến tranh đi đôi với tang tóc! Tôi cầu mong làm sao đừng có xảy ra thảm cảnh đó nữa, hoang mang lo-lắng cho Liên đoàn của mình! Và nhất là các Phi-đội 233 và 219… cứ miên man suy nghĩ mà không làm sao chợp mắt được, tự nhủ lòng là từ nay trở đi, phải dấn thân bay tiên phuông trong lửa đạn, là con Chim đầu đàn phải cất cánh sớm hơn, mà lại về đáp cũng trễ nhất. Tôi sẽ giao cho Đại-úy Kỳ hay Trung-úy Tiến, phụ tá hành quân thỉnh-thoảng đi họp thế; tôi dành hết thời gian cho cuộc hành quân nầy bằng cách cầm lấy chiếc Trực-thăng Võ trang mà hướng dẫn, đưa đón các cánh Chim non đang lặn hụp dưới bầu trời mới lạ, xuất phát từ biên-giới lúc đi cũng như lúc về, lấy điểm hẹn từ Trại tù Lao Bảo làm nơi điểm xuất phát. Chỉ có tôi là người duy nhất hiểu rõ được địa hình nơi đây từ ngọn núi, con sông đến đồi cao khe-suối, những đám rừng nguyên thủy chưa có dấu chân người, ngọn núi Vôi Cô-Rốc vàng óng-ánh dưới ánh bình-minh. Nhưng hôm nay bay trở lại, mọi cảnh vật khai-quang trống-trải rất nhiều, nhất là trên trục đường Mòn 559 mà tôi đã bay ngang qua đây không biết bao nhiêu lần, giờ thì quá trống-trải, đường đất Đỏ Cao-nguyên đâm chồi, chi-chít thêm ra, màu xanh trùng điệp của cánh rừng già giờ đây đã có quá nhiều loang-lỗ, rải-rác những nhà to với mái đan bằng Tre-Nứa đập dập, có lẽ là những nhà Kho hay Công-binh xưởng chăng? Chỗ Thiếu-úy Huệ đáp xuống thả Toán Thám sát STRATA (1964) vào buổi chiều chạng-vạng, cánh quạt chém vào cây, tôi phải đặt càng bánh xe lên đầu trục cánh quạt của hắn mà đem hết Phi hành đoàn về, nơi đây, bây giờ là Hậu-cần 611, cũng đã phát hoang trống-trải và có cả ống dẫn dầu băng ngang qua thì phải? Cuộc hành quân mới phát khởi được 3 ngày (N+3) mà 2 phi hành đoàn đã bị Thiết-xa PT 76, cùng phòng không 37ly bắn nổ-tung trên không phận nầy, dưới đây, ngay bây giờ là ổ Kiến Lửa! Xe vận tải ngang nhiên di chuyển mà chẳng hề sợ-sệt phi-cơ phát hiện nhờ cái Dù điều lệ ROE của trục Ma Quỷ: Ðoàn xe chạy ban đêm bật đèn mờ và ban ngày ngủ cho đúng luật ROE, còn như ban ngày khi qua các con suối cạn mà nghe tiếng phi cơ thì tài xế cứ việc tắt máy nối đuôi chờ thì không phi công Mỹ nào dám oanh tạc cả (điều nầy chỉ có quan sát viên người Việt backseater là nhân chứng sống).

    Tôi bóp đầu nặn óc tìm ra chân lý cũng như tìm ra định-luật về chiến thuật để bảo vệ cho con em mình không còn bị thảm hại… đang miên-man tìm ra chân-lý. Tối bỗng nhớ lại ngày xưa khi thành lập phi đoàn trực thăng đầu tiên, người anh cả thiên tài Nguyễn Huy Ánh đã giảng giải danh hiệu “Thần-Chùy” sau khi đặt tên cho PÐ/211; Ðã xưa lắm rồi, khi con người tìm ra vũ khí để chiến đấu với kẻ thù; Người hiệp-sĩ khi xử dụng chiếc Chùy-thung phải có sức mạnh phi thường, tuy đường chùy vun-vút có chậm hơn các vũ khí như gươm, kiếm, mả tấu, thanh long đao, chĩa ba, thước bảng, roi xích… nhưng tất cả vũ khí trên khi đụng phải Thần-Chùy đều rơi rụng tung-toé vào mọị phương hướng vô định!!!

    Tôi lại bóp trán mỉm cười… vỗ mạnh lại lên trán trong nỗi mừng vô hạn… Chân lý đây rồi! Chân lý đây rồi!!! Chiến-thuật “Ngụy-Âm Ðộn Rừng” Trong đôi tay tôi đang có thủ-thuật “Song-Chùy” làm ra chiến thuật áp đảo đối phương. Trực thăng võ trang của KQVN là loại bay chậm nhứt thua cả Cobra của Mỹ chớ đừng nói chi đến các phi cơ chiến thuật tiềm kích, nhưng tôi lại đã phát hiện ra một chiến thuật tân-kỳ và vô cùng mầu nhiệm: Có chiến hữu nào đã tham dự chiến trận tại rừng già chiến khu D, Ðồng Xoài, và rừng cao-su Bình Giả thì có thể hình dung ngay khi bạn đứng giữa rừng già mà chỉ nghe tiếng bành bạch của cánh quạt chém gió từ xa trên ngọn cây bay đến; Bạn làm sao xác định được trực thăng từ phương hướng nào bay đến? Và khi nghe tiếng gầm thét áp-đảo của Minigun như con khủng long phun lửa xuống, thì tự động bạn phải tìm chỗ nào an-toàn gần nhứt để trú ấn. Nếu là chiến xa thì phải chui xuống pháo tháp mà trú ẩn để sống còn theo phản xạ tự nhiên của con người. Kết quả nầy đã chứng minh hùng hồn qua sự ghi chép trong quân-sử Mỹ-Việt (US Army Center of Military History 1980; Lam Sơn 719 General Nguyễn Duy Hinh; và Military History Institute of Vietnam) dưới đây là sự so sánh giữa Sư-Ðoàn 101 Không-Kỵ và Liên Ðoàn 51 Tác Chiến theo như tài liệu SOG/MACV, kết quả sau 45 ngày chiến đấu quyết liệt:
    Sư-Ðoàn 101 Không Kỵ: Chết: 215, Mất tích: 38, Bị thương: 114
    Liên Ðoàn 51 Tác Chiến: Chết: 10, Mất Tích: 4, Bị thương: 11 – (có phải nhờ “Chiến Thuật “độn rừng ngụy âm?”


    Liên Ðoàn 51 Tác Chiến và HQ/Lam Sơn 719

    Ngày 22/2/1971- Cả đêm rồi tôi không thể chợp mắt được cho dù đã quen dần tiếng ầm vang của 42 khẩu trọng pháo Mỹ bắn yểm trợ, khuấy rối, mà chỉ mong đợi cho mau sáng để gởi PHÐ H-34 vào cứu Giang, On, và Sơn. Nhưng ác nghiệt thay trời hôm nay sương mù giăng đặc sệt như cháo đậu (Pea-Soup) Ðã 10 giờ sáng mà trời vẫn còn mù mịt. Ngay khi trời vừa thoang thoảng thấy được là tôi phải đem gunship bao vùng cho Ðại đội Trinh-sát Dù đang cần mở đường tiếp cứu Ðồi-31; Trước khi cất cánh tôi có liên lạc với sĩ quan điều không tiền tuyến Ðại- úy Không Quân Nghĩa và Trung úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù liên lạc với PHÐ hướng dẫn họ vào hướng nào cho ít nguy hiểm.

    Tại BCH Tiền Phương Dù, khi tôi vừa cất cánh thì một tiểu đội tác chiến điện tử Dù đang chờ nơi bãi đáp bên cạnh một chồng máy Sensor dùng để phát giác đặc công địch. Những máy nầy đã giúp cho Trại LLÐB Mỹ thoát khỏi bị bao vây, ngay sau khi Ðại úy Nguyễn Minh Vui và Thiếu úy Châu Lương Cang liều mạng đáp xuống Trại Pleime với lối bay chiếc lá cuốn theo cơn lốc, khi cất cánh dùng chiêu-thức “Khủng Long áp-đảo”, làm cho địch ngơ-ngác không biết phi cơ từ đâu đến lướt thoáng trên ngọn cây, dù vậy một binh sĩ mũ nồi xanh cũng bị trúng đạn ngay đầu, chết liền tại cabin, máu tràn lênh láng trên sàng nhôm.

    Bầu trời bắt đầu trong sáng, tôi nghe tiếng Thiếu úy Bửu đang đáp xuống LZ Tiền- Phương Dù. 10 phút sau tất cả pháo Long Tom 175, 155 ly và 8 inch của Mỹ tiền oanh kích trước mũi, dọn mở một hành lang dọc trên đường bay. Nhưng quân BV rất tinh ranh khi nghe loạt pháo đầu là chúng chạy vào hầm ngồi nghỉ, cho đến khi ngừng pháo kích thì chúng lại chui ra giao chiến Tôi cắt đặt 2 chiếc Gunship air cover cho 2 chiếc H-34 của Bửu và Yên, dù sao Gunship mình tuy có ít hỏa lực nhưng cấp cứu anh em trong Liên- Ðoàn vẫn bảo đảm hơn Mỹ. Tôi rất tin tưởng Thiếu úy Phạm Vương Thục, một Top Gun rất anh dũng dám sống chết vì anh em luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho đồng đội, tôi không tin vào Army Aviation Mỹ vì khi có chiếc nào của Mỹ rơi thì họ bỏ bay đi tìm cứu đồng đội cũa họ mà quên anh em mình, như tôi là nhân chứng cho nhiều hoàn cảnh như vậy.

    Tôi nghĩ Ðại-úy Nghĩa và Trung úy Chính Sĩ quan Không Trợ Dù sẽ chỉ dẫn đường bay nước đáp cho Bửu qua cố- vấn cũa Thiếu- úy Giang. Vì phòng không di- động trên PT-76 rất lợi hại hơn các phòng không cố- định, 12,7, 14,5 và 37 ly nằm rải rác mọi nơi, nhiều nhứt nơi hướng đông bắc, không nên đáp vào hướng ấy mà nên đáp từ hướng tây nam xuống LZ, dù sao cũng có TÐ /6 Dù m ới vừa trực thăng vận, tuy bị nhiều thiệt hại cho quân TÐ-6 Dù, nhưng Topgun Trần Lê Tiến, Hoàng Ngọc Châu… đã oanh liệt thay phiên nhau gây thiệt hại nặng nề cho 2 trung đoàn cơ-động 27, và 24B của Quân đoàn 70B.

    Giang đã trình bày cho Bửu biết, hắn đã dùng chiến thuật đáp như chiếc lá cuốn trong cơn lốc, nhưng kẹt nỗi quân BV cứ khi nghe tiếng trực thăng thì họ dội trận địa pháo tới tấp xuống, vì họ đã có tiền điều chỉnh rất chính xác. Phi-công dù tài giỏi thế nào nhưng khi gần tới đất chừng 15, 20 thước thì sẽ bị mảnh đạn văng bắn vào bộ phận cánh quạt đuôi, mất điều khiển phương hướng rồi rơi xuống quay theo counter clock wise, tại chỗ “undershoot”. Như trường hợp của Giang.

    TPC Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với TPC Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng, Giang đã dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, cơ phi Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay Bửu bay cạ-càng bánh xe lướt thoang thoáng trên ngọn cây theo chiến thuật biệt- kích razed-mode lướt từ hướng Ðông-Tây đi vào, nhưng làm sao đừng gây ra tiếng động. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 TPC Bửu còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh của Mỹ nơi Khe Sanh bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ, Bửu đổi hướng lấy Ðông Nam, roi Tây Bắc để đáp xuống; Vừa ló ra khỏi rặng cây, TPC Bữu đã thấy chiếc Gunship của TPC Thục bay vòng lại, cùng với tiếng Thục la lên trong máy “Bửu coi chừng phòng không ở hướng đông nam”. Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn Ðồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích đào xới của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống; Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng mảnh đạn cối 120ly, khắc-tinh chống trực thăng, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, cơ-phi Em la lên khẩn cấp trong máy “đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy”. Cùng lúc Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc số 2 “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa” trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống; May mắn là đạn trúng vào bình xăng sau đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên trực thăng không bắt cháy như chiếc của Thiếu-úy An ở Bù Ðốp hôm nào.

    Vừa chạm đất, theo phản xạ Bửu nhanh nhen nhảy ra khỏi trực thăng. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước, để lại một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ điện tử Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn còn nguyên vẹn, Phi hành đoàn phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù “trên đây nè Ðại uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho”. Tất cả dân-bay lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc cóc trên đầu, Lên đến nơi phi hành đoàn thở nhẹ-re như bò kéo xe. Dân- bay mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu, Tôi phải ghi vào sổ nhựt ký đơn-vị và nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

    PHÐ vừa ngồi nghỉ mệt, họ cũng vừa nhìn xuống LZ, nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc quân BV tiếp tục giã trận địa pháo đã điều chỉnh tác xạ, một quả đạn súng cối 120ly rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy thành một cột trụ khói đen mù mịt cả một góc trời. Dân bay nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã nhân cách hoá, gần gũi với phi-đoàn lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

    Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, PHÐ men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn của Giang, On, Sơn anh em mừng rỡ thăm hỏi rối rít, PHÐ được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan điều không tiền tuyến, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần; PHÐ ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “Thiên thần” nhảy Dù vẫn thản nhiên hút xì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như Trương Phi tân thời! Quả các Thiên thần ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ngầu thật.

    Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, dân bay dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù; Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ Ðồi 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ nay với ý định đánh bật căn cứ ra khỏi sinh lộ của chúng với trung đoàn 24B và trung đoàn cơ động 27 thuộc Quân đoàn 70 B và một đơn vị chiến xa yểm trợ thuộc trung đoàn 202.


    Mệnh số oan-nghiệt của 2 PHÐ/219.

    Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì quân BV luôn di-động che-dấu dàn phòng-không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng sương mù lại tan rất trễ, mất thời gian tính cho Không Quân Chiến Thuật can thiệp, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom cầu-âu vào khu vực khả nghi chung quanh đồi-31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm từ phía nam đường-9 ầm-vang như tiếng sấm rền từ xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào cõi âm-u của rừng núi trùng điệp. Từ phòng hành quân Pentagon, do tướng Al.Haig làm Chairman, phối kiểm với con mắt nhân chứng của tôi, tôi cũng có thể quyết-đoán được, B-52 Arc Light chỉ yểm trợ từ ranh giới phía nam đường 9 trở xuống, Trung đoàn của Ðại tá Ðiềm di chuyển không đúng lộ-đồ của phòng lạnh Pentagon, cũng bị B-52 đuổi đít thê thảm, (vì họ đánh giặc như bàn cờ trong phòng lạnh với bản-đồ treo trên tường trước mặt là ly cafê đen phi-phào điếu thuốc) còn từ đường 9 trở về phía bắc thuộc vùng trách nhiệm của Gunship AC-130B, còn như ngay chính trục đường-tiến-sát là đường 9 thì lại của Skypot trách nhiệm, vì thế TÐ-8 Dù tùng thiết với Thiết Giáp, chi di-hành trễ mà toan chuẩn bị dừng chân nghỉ đêm cũng bi Skypot đuổi đít bằng CBU-24, khi nổ bung ra hàng trăm quả bom nhỏ nổ đều lóm-đóm như pháo bông. Hành động nầy có 2 mục đích:
    (1) đuổi đơn vị đặc nhiệm phải mau mau đi cho đúng lộ-đồ vào cái Rọ 604 của trò chơi chiến tranh trong phòng lạnh với lộ đồ bằng thước chỉ trên bảng, hậu quả TÐ/Phó TÐ/8 bị thương ngày 9/2/1971.
    (2) trắc nghiệm nếu phi hành đoàn trực thăng bị bắn rớt, cứ chạy xuống hầm quân BV đào sẵn mà núp, AC-130B có thể thả bom CBU-24 trên miệng hầm để chờ cứu cấp, như Ðại-đội Hắc báo đã cứu 7 đoàn viên UH1 của Nỹ rớt bên Lào.

    Tất cả hoả lực nầy, chúng đều là con dao 2 lưỡi nếu quân lực VNCH mà thượng-phong thì chính chúng sẽ “làm-bộ” thả lầm cho cân bằng lực lượng của cả 2 đối thủ cho trò chơi chiến tranh rất bẩn thỉu. Thí dụ TT Thiệu ra lệnh rút quân không chịu tấn kích vào Hậu cần 604, báo hại Sư-đoàn-2 Sao Vàng nằm chờ phục-kích phải chết oan bằng BLU-82s, BLU-82AL, và B-52 Arc Light, làm xóa sổ sư-đoàn nầy mà phía Hà Nội cũng không dám mở miệng, chỉ tội nghiệp cho người lính nhỏ bé của 2 miền Nam/Bắc từ cấp trung gian trở xuống. Tôi muốn ám chỉ từ cấp Lữ đoàn, Trung đoàn, Liên đoàn trở xuống người lính quèn là con thiêu thân, Tôi cũng đã đọc một tài liệu mật tại Library of Congress, siêu chính phủ Mỹ (Permanent Government) cho rằng phải tiêu diệt tất cả sĩ quan trung gian vì họ là thành phần ưu tú có nguy hại đến bàn giao Saigon cho Ha-Nội phải bị tắm máu, vì theo dư mưu thì chỉ rỉ-máu và Saigòn không thành đống gạch vụn khi bàn giao chuyển tiếp qua 3 vị tổng thống trong 72 tiếng đồng hồ.

    Về phía quân BV quyết tâm bao vây theo lệnh của thành viên OSS-1945, Võ Nguyên Giáp, chấp nhận đánh trận xa Tchepone chớ không đánh trận gần như căn-cứ Mỹ tại Khe Sanh. Quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù theo mưu đồ cũa Pentagon phải căng quân Dù ra mà dập trận địa pháo. Những vùng phía bắc đường-9 thì chỉ có Gunship AC-130B yểm trợ, nhưng họ chỉ ưu tiên cho BÐQ vì đơn vị nầy đang bị áp lực cực mạnh. Còn quân Dù chỉ có dựa vào một nhúm Gunships Phi đội 213, nhưng phần nhiều dành cover cho tản thương và tiếp tế, chỉ có yểm trợ tiếp cận (air closed supports) khi quân Dù bị PT-76 hoặc T-54 đe doạ.

    Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, tất cả 2 đoàn viên H-34 từ Ðồi-31 đã nhận được lệnh và khởi sự di-chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa khi lớp sương mù buổi sáng vừa tan đi, đích thân phi đội-219 với 3 chiếc H-34 và 3 Gunship của phi-đội 213 sẽ yểm trợ một cách ngoạn mục theo kế hoạch rescue của tôi. Rút kinh nghiệm vừa qua tại Landing Zone North và South của BÐQ, tại sao trực thăng Mỹ rớt như chiếc lá mùa Thu? Tại sao phía Mỹ chịu quá nhiều thiệt hại hơn VN? Góp nhặt thực tế lấy ra trong các chiến trận, do các cố vấn Mỹ cũng như Trung tá Robert F Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TÐ2/LÐ17/SÐ101 Không Kỵ – Ðại úy Farrell, Phi đội trưởng, Gunship-Cobra C7/17, và Warrant Officer Joel Dozhier đại diện Phi-đội DMZ/Dust-Off cùng debriefing với Topgun trực thăng VN là tôi tại Hàm Nghi, Khe Sanh, để ghi chép vào Học-viên Quân-sư (Military History Institute of Vietnam) tuy rằng gunship KQVN chậm hơn, hoả lực có ít hơn nhưng thực tế rất hiệu quả như:

    - (1) Nhanh chóng áp đảo địch quân không thể ngóc đầu lên để chống cự, tại chiến trường Lam Sơn 719, trong khi AH-1G Cobra phải làm vòng phi đạo tiềm kích mất thời gian tính, nên địch có rộng thời giờ chuẩn bị trận địa.
    - (2) Phát hiện địch trước và tác xạ phủ đầu trước buộc địch phải kiếm nơi trú ẩn theo phản ứng tự nhiên của con người,
    - (3) Nhiều minigun có xạ thủ tác xạ bao vùng (air cover) là một khắc tinh khống-chế dí-đầu đối thủ trên các thiết xa PT-76 phải nằm rạp xuống, chỉ cần một chiếc gunship lấy tí cao độ bắn rockets chống tăng để hủy diệt dễ hơn bắn một con Nai đang chạy; nếu nơi nầy địch quá đông ta sẽ yểm trợ thêm hoả tiễn chống biển người.
    - (4) Chướng ngại vật thiên-nhiên như đồi núi, ngách đá, trên tàng cây (độn rừng) và cao độ rà sát áp đảo, ngụy hóa âm thanh làm cho địch ngơ ngác không biết sát-thủ từ hướng nào bay đến từ trên ngọn cây, nếu ngoan cố sẽ bị minigun tiêu diệt trước khi mở mắt nhìn thấy sát thủ vừa bay thoáng qua.
    - (5) Có nhiều con mắt Cú-vọ như diều hâu của các xạ-thủ đầy kinh nghiệm chiến trận không thể bỏ sót những con mồi đang nằm trong tầm mắt.

    Tại TOC dưới hầm Hàm Nghi, tôi đã bàn thảo với ba đại-tá Cockerham, Battreallda, cùng Tham-mưu-phó Hành-Quân/QÐ-1, xin được 20 phút ngừng tất cả hỏa lực pháo binh tác xạ cũng như không yểm, để chúng tôi làm cuộc đột kích lấy yếu tố bất ngờ cứu tất cả 2 phđ H-34 và thương binh Dù. Sau một hồi lâu bàn thảo suy tính cân nhắc, rồi các đại-tá nầy mới miễn cưỡng chịu chấp thuận. Vòng chờ của các hợp đoàn chúng tôi, lấy vùng trời A-luối, 15 phút làm điểm tập hợp như là một vòng chờ cho cuộc phi-diễn bay vào khán đài Ðồi-31. Cuộc rescue nầy do sự quyết định của tôi chỉ trong vòng có 5 phút chóp nhoáng trong vòng 20 phút cho cuộc hành quân phải hoàn thành. Giờ G và Phút P sẽ cho TOC biết ngay sau khi sương mù tan tại vùng hành quân.

    Tôi sẽ đích thân cho TOC biết sau; Sự cấp cứu chỉ cần 5 phút đột xuất trong chóp nhoáng là phải thi hành cho xong: 3 gunship sẽ bay sát ngọn cây cách nhau 5 giây echelon trái, tầm đạn cuồng sát trên đầu địch 75 thước, trong vị thế cường kích. Ðiểm xuất phát TÐ/8 Dù, từ điểm chạm tuyến của đại đội Trinh-sát Dù, bay thẳng về hướng tây-bắc, thẳng đến sườn trái của Ðồi-31, trong lúc 3 H-34 ở cách sau 45 giây với cao-độ 150 thước song song với mặt rừng, 3 H-34 theo sau bay thẳng một mạch tới Bunker gần LZ đễ bốc tất cả đoàn-viên cùng thương binh, dưới sự bao vùng của 6 bầu lửa minigun cover 4.000 viên phút, rải đều như trận mưa rào nặng hột, lấy Ðồi-31 làm tâm điểm, chia đều khoảng cách trên chu vi oanh kích, tuyết đối không xử dụng rockets chống Tăng mà chỉ dùng khi hữu sự, dồn nỗ lực rescue càng nhanh càng tốt; chỉ trừ khi lính BV phản ứng phóng ra khỏi hầm trú ẩn và chịu chấp nhận nghinh chiến thì đã bị bất khả dụng vì không tránh khỏi bị thương tích với trên 100.000 cái đinh sắt ghim vào người họ vào lúc cao điểm khi H-34 đang đáp xuống.

    Từ điểm xuất phát trên đầu 2 Ðại đội Trinh sát Dù bay thẳng đến Ðồi-31 là 4 cây số, theo sau 50 giây trên cao độ 150 thước cách mặt rừng 3 H-34 bay thẳng đến Bunker để đón tất cả 2 phđ và thương binh, vì đạn M-60 trên H-34 không nhiều nên chỉ tác xạ khuấy rối (neutralization) khi thấy 2 gunship kè hai bên phụt xuống bằng hỏa tiễn chống biển người, có nghĩa khi cơ-phi trên H-34 thấy từng cụm khói đỏ-hồng phụt ra từ 2 gunship kè hai bên, lúc đó cơ-phi hãy tác xạ tự vệ. Chiéc gun số 2, 3 sẽ dùng hoả tiễn chống biển người để chống trả; Coi như rockets chống Tăng của Lead Trần Lê Tiến [Trung úy Tiến và tôi là 2 người đầu tiên xác định gunship với USAF, và S/I.P UH1 với 1st Army Aviation] chỉ để dành khi hữu sự mà không dùng càng tốt. Cái quan trọng nhứt là bốc thật nhanh đồng đội và thương binh Dù ra, vì đây không phải muc-tiêu cần phải tiêu diệt; Thực ra rockets chỉ là những hoả lực tự vệ, Minigun mới vô cùng lợi hại như dĩ vãng đã chứng minh.

    Tôi sẽ bay C&C cùng với sĩ quan tham mưu Tiền-phương Dù, xử dụng tối đa M-18 cùng M-60 bắn xuống vào những nơi mà sĩ quan tham muu Dù nghi ngờ để phụ thêm hoả lực lúc cao điểm. Thế là chúng tôi sẽ hướng dẫn 3 chiếc gunships trang bị 14 rockets chống Tăng, 28 rockets chống biển người, dẹp pod-rockets 19 thay vào pod- 7 cho nhẹ và trang bị tối đa 12.000 viên 7,62 minigun cho dễ linh-động khi phải nhào lộn tác xạ; Trung úy Trần Lê Tiến sẽ lead 3 gun bay thẳng vào, trên ngọn cây, từ đám rừng già trước mặt, trên đầu 2 đại-đội Trinh-sát Dù; khi bay qua khỏi vị trí Dù 45 giây thì bắt đầu khai hỏa: 6 xạ-thủ đứng xỗng lưng chồm ra ngoài rảo con mắt diều-hâu dội mưa xuống 4.000 viên phút, nhưng phải rút kinh nghiệm khi tăng khi giảm cường độ để duy trì hệ thống control-box không bị overcharge, bay thẳng một mạch đến bên trái Ðồi-31, lúc nầy Lead gun quẹo gắt qua phải lên cao độ bao vùng, kế tiếp chiếc 2 và 3 cùng lên cao độ, kè hai bên H-34 vừa mới tới mà phụt rockets chống biển người xuống bao vùng chung quanh. Tuyệt đối khai thác chướng ngại vật thiên nhiên, tàng cây, ngách núi, cùng khe-đá, phải chủ động khống-chế đối phương bằng hỏa lực cường tập, gầm thét, áp-đảo bằng minigun là chính, không cho phép địch ngóc đầu lên chống trả; chỉ xử dụng rockets khi địch quân dám xuất đầu lộ diện chiu chơi. Nếu có chiến xa cũng bắn chụp lên phủ đầu không cho chúng ló đầu ra khỏi pháo tháp bắn trả.

    Lead Trần Lê Tiến thấy cần thì một mình lấy cao độ hủy diệt nó, trong khi 6 miniguns vẫn tiếp tục nhả đạn bao vùng, nhưng tốt hơn tha cho nó mà dành hỏa lực chỉ để rescue mà thôi. Ðiều quan trọng là cứu phi hành đoàn và thương binh là hoàn thành phi vụ với sự mãn nguyện đối với chúng ta 100%. Hợp đoàn của chúng tôi sẽ phối họp bao vùng, không cần hoả yểm cũa Mỹ vì cũng chẳng ích lợi gì ở vùng núi cao hiểm trở nầy, như Mỹ đã tiền oanh kích một cách vô ích dưới sự chứng kiến cũa chúng tôi, mà còn báo-động cho địch ở vị thế sẵn sàng chiến đấu, hơn nữa lại còn làm cho địch biết trước rồi núp vào các hầm hố kiên cố cùng làm mất thế chủ động và bất ngờ. Rơi vào thế bị động như Mỹ. Ðộng-thái nầy có nghĩa không cho phép địch ở vị thế thượng phong chuẩn bị sẵn sàng phản-kích mà ta phải giành có quyền chọn thế thượng phong. Trong chiến trận ai giành được thế chủ động thì người đó nắm chắc phần thắng.

    Trung úy Tiến sẽ cover để vào vừa tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra trong vòng 5 phút tối-đa. Trên vùng trời Ðồi 31, 3 chiếc gunships khai thác tối đa, lấy Ðồi-31 làm tâm điểm chia đều cover trên châu-vi hình tròn mà mưa xuống không chừa chỗ nào để địch không có thể chòi ra bắn trả, vào lúc cao điểm khi H-34 vừa đáp thì được bao phủ kín-mít bằng cã3 trăm ngàn mũi tên đinh sắt ghim xuống. Nên chắc chắn một điều, hãy quên rockets mà chỉ chú trọng đến mưa đạn minigun, phải dí đầu mấy tay súng không cho phép địch chường mặt, tôi nghĩ chúng ta có thể làm được. Cuộc Rescue nầy rockets chỉ là hỏa lực tư vệ không cần thiết khi phải ứng xử.

    Nhưng khốn nạn thay, trời không chiều lòng người, tạo nên một buổi sáng sương mù tan quá trễ. Lợi dụng trong khi sương mù bao phủ, các trung đoàn BV bôn tẩu với ý định lấy thịt đè người bằng xa luân chiến càn quét chỉ một tiểu đoàn-3 Dù trừ (300 tay súng mà thôi) trung đoàn chạm trán đầu tiên là 24B cùng với trung đoàn 27 cơ-động ở hướng tây bắc, chính nó vừa làm thiệt hại cho TÐ-6 Dù, ngay sau khi đổ bộ xuống để tiếp cứu Ðồi-31, tiếp theo đó 2 trung đoàn 102nd và 88 đang chuẩn bị tham chiến từ hướng đông-bắc thuộc Quân đoàn 70B, có trung đoàn chiến-xa 202 yễm trợ. Chúng quyết thanh toán Ðồi-31 với bất cứ giá nào.

    Kế hoạch rescue của tôi hoàn toàn bị đình-động, khi bất thần 42 khẩu trọng pháo của Mỹ ở Khe Sanh đã đồng loạt tác xạ vào chung quanh Ðồi-31 vì áp lực của địch vô cùng dữ-dội, trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, như vừa thỏa thuận buổi hợp sáng nay.

    Bây giờ, nơi Bunker Ðồi-31, 2 PHÐ cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi 2 PHÐ bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận, nói theo danh từ quân BV là “Trận địa pháo” dồn dập lên chung quanh Ðồi 31. Than ôi! Ðúng là muôn sự tại nhân thành sự tại thiên, Quân BV đã lợi dụng sương mù chuẩn bị một lực lượng hết sức hùng-hậu, đông như kiến mong sẽ chụp 300 thiên thần mũ đỏ chống đỡ; Vi dân-bay đã thấy trước qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, 2 PHÐ thây rõ hai chiếc thiết xa PT-76 còn T-54 không leo lên được nên từ dưới chân đồi bắn trực xạ lên Ðồi, Cả LÐ-3 Dù, mà chỉ có 300 chiến sĩ chống giữ. Quân BV thuộc Trung đoàn 24B/304 và thêm 2 Trung đoàn 9 và 66 sắp sửa tham chiến, chúng đang bôn tập từ hướng đông bắc tới.

    Bây giờ Trung Ðoàn 24B đang tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc theo sau chung quanh nhắm đỉnh đồi-31 mà nhả đạn; Còn trung đoàn cơ-động 27 đang án-ngữ hướng tây chận TÐ-6 Dù ở bên sườn tây. Những tia lửa nòng súng phụt ra từ các PT-76 và T-54 thuộc Trung Ðoàn chiến xa 202. Dưới Bunker, dân bay thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ, đạn tránh người chớ người không thể tránh đạn!” Ngồi trên ghế lái C&C như Ðĩa phải vôi, tôi không ngờ quân BV mạnh và nhiều đơn vị cấp trung đoàn đến thế, chúng âm mưu tấn công như bầy kiến tha hột cơm, làm sao quân Dù phòng thủ của ta chỉ có 300 tay súng chống đỡ? Có cả thiết vận xa PT-76 và chiến xa T-54 từ dưới chân núi bắn trực xạ lên.

    Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích 152 ly xuyên phá của của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào thiết-xa PT-76 địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc PT-76. Nhưng để trả giá cho hành động dũng- cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Anh em Dù vui sướng reo mừng trong hầm bên này; Không ngờ, chỉ một lúc sau 2 thiết-xa PT-76 khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi 31 mà bắn! Còn những chiếc T-54 không leo lên được thì sủa bậy bạ lên phía trên đồi để hù dọa các thiên thần mũ đỏ. Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 Phantom xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình Trung Ðoàn 24B, và lại phá hủy thêm 2 PT-76 nữa. Nhưng chẳng may một chiếc F-4 bị trúng phòng không 37ly xì khói, phi công đang nhảy dù, thế là tất cả phi cơ Mỹ đều bỏ lại và dồn nổ lực vào rescue chiếc F-4, người quan sát viên Việt ngồi ghế sau thuộc Phi-đoàn 110 của FAC Bronco OV-10 đành thở ra lắc đầu ngao- ngán.

    Trong tiếng bom đạn tơi bời, dân bay mừng rỡ vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 thương yêu đang vần vũ trên cao cùng chiếc UH-1 C&C của con chim đầu đàn nguyện không bỏ anh em không bỏ bạn bè, đang vang vọng trên đó như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì quân BV tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, 2 PHÐ tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.và chịu cảnh hàng binh.

    Về phía KQ, Bửu, Khánh, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và ngay tức khắc bị dẫn giải ra bắc băng đường 92B chung với tất cả tù binh khác, vì sợ B-52 trải thảm. Không thấy Giang và Em đâu; Anh em KQ tim hỏi nhau, họ bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường bị áp tải. Cuối cùng họ gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm; Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần cơ-phi Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi anh Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn anh Em gục chết ở bên đường.

    Thế là PÐ-219 ghi thêm vào quân sử của LÐ/51/TC thêm một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào; Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên trái đồi oan-nghiệt nầy, Ngọn đồi quyết tử 31; Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, Khánh, On và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

    KQ: TRƯƠNG VĂN VINH

  2. #2
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển chọn trên diễn đàn Mũ Nâu

    Tiểu đoàn 39 BÐQ và Liên Ðoàn 51 Tác Chiến

    Đến chiều ngày 20 tháng February, từ trên phi cơ nhìn xuống, các công sự và sườn đồi quanh căn cứ LZ Ranger North phủ ngập xác Cộng quân, ngay đến côn trùng cũng không thể sống nổi. Tiểu Ðoàn 39 BÐQ kiệt lực, hết đạn vì những trận cường tập liên tiếp hết ngày này sang ngày khác của Cộng quân vối quân số đông hơn gấp 10 lần; Cuối cùng, các chiến sĩ Mũ Nâu phải mở một con đường máu xuyên qua vòng vây của quân BV bằng tiếng súng đạn ngụy-âm bằng AK-47 và B-40 tịch thu được của quân BV.

    Dưới quyền điều động của Thiếu tá Khang, các sĩ quan và binh sĩ còn mạnh khỏe đi đầu, thương binh được dìu theo sau thật cảm động cho tình đồng đội; Bộ Tư Lệnh Hành Quân tại Khe Sanh và LÐ/1BÐQ tại Phú Lộc mất liên lạc vô tuyến với TÐ/39 BÐQ lúc 5 giờ 10 chiều ngày 20 tháng February, không dùng vô tuyến sợ bại-lộ âm thanh. Mãi tới khuya ra đến nơi khá an-toàn mới nhận được tin thành phần còn lại của TÐ/39 BÐQ, gồm gần 200 quân nhân trong số đó có 107 người còn khả năng chiến đấu và 92 người bị thương, cá nhân tôi phải nhìn nhận và thú thật, quân bạn đã di chuyển đến được căn cứ Ranger South cùng với vũ khí nhờ vào hỏa lực tiếp cận trên không của vận tải cơ gunship EC-130B. Theo các tài liệu báo cáo của Hoa Kỳ, trong tổng số trên 400 quân nhân, thiệt hại của TÐ/39 BÐQ được ghi nhận là 178 người chết hay mất tích, 148 bị thương. Thiệt hại về phía Cộng quân gồm 639 chết và gần 500 vũ khí bị phá hủy hay tịch thâu. Sau khi TÐ/39 BÐQ rút đi, dưới hỏa lực khủng khiếp của phi pháo dội thẳng vào vị trí, Căn Cứ Ranger North trở thành một bãi tha ma lớn chôn vùi hàng trăm quân BV, thật rất tội nghiệp cho thân phận “sinh Bắc tử Nam”.

    Trên đỉnh đồi, gần hầm chỉ huy của Thiếu Tá Khang, cảnh tượng còn hãi hùng hơn; Từng đống xác quân BV tan nát không còn nhận ra hình thù vì bom đạn của phi cơ Hoa Kỳ và pháo binh VNCH cày nát. Mùi thuốc súng, mùi bom đạn, mùi thịt người chết cháy khét lẹt vì bom napalm … khiến bầu không khí trở nên rùng rợn, nghẹt thở, nhiễm độc khi bay sát trên ngọn cây qua đó. Tuy máy bay trắc-giác chỉ đếm được 639 xác quân BV, nhưng còn hàng trăm xác khác bị vùi sâu trong hầm hố, công sự, vách núi hay tan nát cùng đất đá Hạ Lào không thể đếm được thuộc trung đoàn 102/308 BV. Quả thật nơi đây mới đúng nghĩa “Ðịa ngục trần gian”.

    Trên đường di tản đến căn căn cứ Ranger South, binh sĩ TÐ/39 BÐQ phải đạp qua hàng trăm xác địch nằm ngổn ngang quanh căn cứ và lội qua những con “suối máu” tanh rình tràn ngập khắp chân đồi với thân xác sình trướng. Thiếu tá Khang cũng cho biết khi rời bỏ căn cứ, chính mắt ông đã nhìn thấy hàng đống xác quân BV chết thành từng chùm ba, bốn chục tên. Về hỏa lực phòng không của quân BV tại vùng căn cứ Ranger North, trong một dịp đụng độ ác liệt mới đây, Thiếu Tá Khang cho biết ông không rõ chi tiết địa điểm về các ổ phòng không của Cộng quân bố trí dọc theo đường bay tới căn cứ như đã từng chu đáo xắp xếp phục binh chờ đợi trước. Thế nên, các trực thăng đã bị bắn lên dữ dội từ xa, trên hành-lang vào đáp; và chính chúng là thủ-phạm bắn tan xác hai trực thăng Huey của LÐ 51TC. Riêng quanh vị trí Ranger North, trên lưng chừng đối địch đặt rất nhiều súng cối 82 và 120ly đã điều chỉnh sẵn nên pháo kích rất chính xác, phải khen rất tài tình dưới tầm mắt từ trên đồi nhìn xuống, gây thiệt hại nặng cho những trực thăng vừa đáp xuống.


    Về việc yểm trợ của phi cơ Hoa Kỳ, nhất là trực thăng Cobra, Thiếu Tá Khang nói dường như các phi cơ chỉ bắn phá với mục đích yểm trợ ưu tiên cho trực thăng đáp xuống để bốc anh trung-sĩ y tá Fujii ra mà thôi. Ðúng như vậy, 42 khẩu đại bác của Mỹ tại Khe Sanh, dồn vào hình móng ngựa, hay chử U, chỉ chừa một cửa ngỏ hành-lang cho trực thăng ra vào với sự yểm trợ cường tập của Cobra. Còn phần yểm trợ cho TÐ/39 BÐQ phòng thủ căn cứ chỉ là thứ yếu, hay coi như không đáng quan tâm. Ðây là những gì tôi hằng chứng kiến trên khắp mặt trận đụng độ giữa quân bạn và quân BV, riêng phi công trực thăng tản thương Hoa Kỳ Joel Dozhier (DMZ Dust Off) kể lại về phi vụ của anh như sau:

    “Chiều tối hôm đó, toán tản thương chúng tôi được lệnh phải chuẩn bị gấp 5 trực thăng để tản thương chừng 100 người tại căn cứ Ranger North cho TÐ39 BÐQ. (Vì ban đêm quân BV không dám bắn lên sợ lộ mục tiêu sẽ bị EC-130B cường tập ngay vào tuyến đạn lữa) Thuyết trình viên cho biết có rất nhiều vị trí phòng không địch trong vùng nên Bộ Tư Lệnh Hành Quân đã dự trù một hàng rào đạn pháo binh hình móng ngựa để bảo vệ các trực thăng bay bên trong hàng rào tuyến lửa. Lúc đó, chúng tôi đã bay tản thương suốt ngày nên ai nấy đều mệt mỏi, do đó có phi công đề nghị hãy hoãn phi vụ đến sáng mai. Bộ Tư Lệnh trả lời rằng tình hình rất nghiêm trọng, rất có thể sẽ chẳng còn ngày mai cho căn cứ BÐQ Bắc! Vì vậy, toán trực thăng phải lên đường gấp, nhứt là ban đêm quân BV rất sợ phải nếm mùi đạn từ trên vận tải cơ EC-130B bắn xuống.

    Chúng tôi đã thiết lập đội hình và kế hoạch lần lượt bay vào bên trong hàng rào hỏa lực. Khi tất cả đã vào trong hình móng ngựa tưởng tượng, lúc đó pháo binh sẽ chuyển xạ tiến lần về căn cứ Ranger North. Nhưng khi sắp sửa thi hành, không may một trực thăng trong toán là Dust Off-30 bị tai nạn trong lúc đổ xăng nên chúng tôi lại phải dành một chiếc khác trong toán để đưa những phi công bị thương về Quảng Trị. Vì chỉ còn lại có 3 chiếc, Bộ Tư Lệnh phải kiếm thêm một chiếc nữa để thay thế, khi trực thăng này tới thì đã quá trễ. Chúng tôi hay tin căn cứ Ranger-North đã di tản nên công tác được hủy bỏ”.

    Sau đây là lời tường thuật của một số nhân chứng Hoa Kỳ và Việt Nam có mặt tại căn cứ BÐQ Bắc khi vị trí này bị thất thủ. Trung Tá Robert F. Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TÐ/2, Lữ Ðoàn 17 Không Kỵ Hoa Kỳ là người có mặt trên không phận căn cứ BÐQ Bắc trong lúc trận đánh diễn ra ác liệt nhất, đã mô tả: “Quân số địch đông hơn TÐ/39 BÐQ ít nhất 8 lần, trong 3 ngày liền, hỏa lực phòng không địch cực kỳ dữ dội khiến trực thăng của chúng tôi không thể nào đáp xuống để tiếp tế hay tản thương; Khi đã bắn hết đạn, các chiến sĩ BÐQ phải lật từng xác địch quân và bạn để tìm kiếm vũ khí và đạn dược của chúng để tiềp tục chiến đấu. Lúc phải rời bỏ vị trí, TÐ/39 BÐQ đánh xuyên qua lực lượng bao vây của cả một Trung Ðoàn 36/308 BV, dùng chính vũ khí của Cộng quân để đánh lại chúng khi mở đường máu vào chiều tối” và cũng nhờ vậy mà ngụy hoá được âm thanh khi luồn lách qua vùng trung đoàn 36 BV kiểm soát.

    Ðại Úy Không quân William Cathay, một phi công phản lực cơ Phantom F-4 thuộc Phi Ðoàn Khu Trục 40 thuộc Sư-đoàn 2 K.Q, Thái Lan, nói: “Căn cứ BÐQ Bắc trông giống như một bãi chiến trường hồi Đệ nhị thế chiến. Chúng tôi đã thả bom napalm thật gần, chỉ cách quân bạn chừng 100 thước. Chúng tôi còn trông thấy rất rõ ràng địch quân đang ẩn nấp dưới giao thông hào”.

    Trong tác phẩm “Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lửc 30″ của Ðại Úy Pháo Binh Trương Duy Hy, Pháo Ðội Trưởng Pháo Ðội C/44 Pháo Binh, có kể lại việc Hạ Sĩ Phan văn Ðăng thuộc Ðại Ðội-1, TÐ39 BÐQ hội nhập được với Đồi-30, khoảng trên 20 tuổi, người Huế, đã thuật lại những giờ phút oai hùng nhất của TÐ/39 BÐQ như sau: “Sau ngày toàn thắng 19 tháng February, TÐ/39 BÐQ chiến thắng lớn, tịch thu trên 500 vũ khí đủ loại, phá nát các kho chứa hàng ven đường mòn Hồ Chí Minh, giết trọn một Tiểu Ðoàn Cộng quân, xác nằm la liệt trên trận địa. Sau đó, chúng phản công mãnh liệt, đại đội của anh bắn đến viên đạn cuối cùng mới rút đi theo lệnh của Thiếu tá Khang, TÐT”. Anh Ðăng còn cho biết quân BV đã thí mạng khủng khiếp chưa từng thấy so với mấy chục trận đụng độ ác liệt anh từng tham dự trong chiến trường quốc nội, Ðại Ðội của anh đã phải cận chiến vô cùng dữ dội với địch quân để giữ vững vị trí; Sau cùng, Ðại Ðội của anh phải phân tán mỏng để khỏi bị biển người tràn ngập của Cộng quân tiêu diệt. Nhìn chung nếu so sánh thiệt hại về nhân mạng cũng như vũ khí, TÐ/39 BÐQ đã thắng lớn với tỉ số nhân mạng 1 đổi 10. Nhưng về mặt chiến thuật, việc căn cứ Ranger North bị thất thủ được coi như một bước lùi quan trọng trong kế hoạch tấn công của cuộc hành quân Lam Sơn 719. Chẳng những TÐ/39 BÐQ đã không còn khả năng tác chiến, mà màng lưới phòng thủ mặt Bắc của QLVNCH cũng đã bị thủng một lỗ lớn khiến Cộng quân dễ dàng theo đó tràn sâu xuống vùng hành quân Nam gần đường số 9.

    Hậu quả và nhận xét nhìn chung, các TÐ/BÐQ tại sườn Bắc bị thiệt hại khá nặng vì các trận cường tập biển người liên tiếp xa luân chiến của hai trung đoàn quân BV, nhưng số thương vong của địch còn cao hơn nhiều. Nếu chỉ kể về nhân mạng hay về mặt chiến thuật, quân BV đã bị thảm bại. Nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, thiệt hại về nhân mạng tuy đáng kể, nhưng không quan trọng bằng việc “cắt đứt đường tiếp vận của địch tại Lào” để giết địch về lâu về dài, không nhất thiết gây thiệt hại nhân mạng ngay tại chỗ. Do đó, tuy các TÐ/BÐQ đã giết được nhiều địch quân, nhưng lại phải di tản nên bỏ trống những vị trí quan trọng, thật ra lực lượng hành quân đã bị yếu thế vì quân số quá ít,về phương diện chiến lược vì những lý do sau đây:

    - QLVNCH đang từ thế tấn công trở thành phòng thủ, trong khi ngược lại, quân BV từ thế bị động trở thành chủ động. Với khả năng tăng viện từ vùng Phi Quân Sự, qua địa hình tương đối trôi chảy vì ít chướng ngại vật, trên đường tiến quân qua cánh đồi trọc với có tranh trãi dài qua đến tận vùng hành quân bên Lào; quân số quân BV ngày càng gia tăng tại chiến trường trong khi QLVNCH ở thế cột chưn phòng thủ thụ động trên các Căn Cứ Hoả Lực, và không có bổ sung quân khi bị thiệt hại, trái lại quân BV thì có tân binh bổ sung quân số tại chiến trường bằng cách thành lập tại Aluoi một Trung Tâm Huấn Luyện B-70 tân binh từ tháng 10/1970 cho cuộc hành quân nầy, do chứng liệu hình ảnh tìm thấy trong các hầm che dấu súng đạn (bạn đả chứng kiến hình ảnh trong youtube) quân trang mới toanh cho tân binh.

    Lực lượng VNCH bị chia cắt không yểm trợ được lẫn nhau, ban sáng thì sương mù dầy đặt không được yễm trợ hoả lực khi cần thiết. Quan niệm liên hoàn “hỗ tương yểm trợ” của các CCHL (FSB) bị phá vỡ vì căn cứ nào cũng bị Tướng Giáp biết trước nên tổ chức công sự, hầm-hố rất kiên-cố bao vây cô lập nên phải tự chống trả, quân ta như Cá nằm trên thớt vì sự phản bội của phản tình báo CIA Mỹ, do tên trung úy phản chiến John F Kerry cho Hà Nội biết ráo trọi phóng đồ hành quân của QLVNCH nên chúng ta mới hủy bỏ CCHL/Đồi-32.

    Mỗi vị trí của QLVNCH đều bị khống chế bằng trận địa pháo khiếp đảm của tiền sát viên BV đả tiền điều chỉnh từ lâu, và chỉ chờ chiến xa T-54 và PT-76 đến leo núi, để tiền pháo hậu xung tràn ngập biển người. Vì quân BV có chiến xa và trọng pháo bao vây nên CCHL của ta trở thành những ốc đảo, khiến địch tự do thao túng, lựa chọn mục tiêu để dứt điểm đưa quân bạn vào thế bị-động như bó đủa bị bẻ từng chiếc một. Ðây là cái bẫy do người bạn lớn của chúng ta đặt ra để hủy diệt quân lực VNCH vào đúng ngày 18 tháng Giêng 1971 do HÐAN, Pentagon quyết định. Các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị có cơ năng động tấn kích, phải nằm yên một chổ cho quân BV căng ra mà dập pháo đủ loại.

    - Về mặt tinh thần, tin hai TÐ/BÐQ 39 và 21 phòng thủ sườn Bắc phải di tản khiến các binh sĩ Dù tại các Ðồi 30 và 31 là lớp khiên-chắn phòng thủ kế-tiếp thứ hai phần nào hoang mang giao động. Kể từ nay, hai Ðồi nầy bỗng nhiên trở thành các vị trí tiền đồn, vừa phải nhận lãnh trách nhiệm ngăn chặn địch quân do BÐQ để lại, vừa phải tự bảo vệ, coi như “lưỡng diện thọ địch” và rất tiết KQVN chỉ có một nhúm gunship phải đảm đương dù riêng cho quân Dù cũng không thể cán đáng được thêm phi vụ tải thương và tiếp tế cho Slicks của Liên Đoàn; Ngoài ra, lại còn phải đảm đương trách nhiệm yểm trợ và bảo vệ cho nỗ lực chính trên đường số 9 tiến chiếm Tchepone.
    Riêng đối với các chiến sĩ BÐQ, sau các trận đánh để đời tại mặt trận Bắc đường số 9, toàn bộ lực lượng LÐ/1 BÐQ được rút về căn cứ Phú Lộc nên không còn trực tiếp tham dự cuộc hành quân trong phần đất Lào từ đó. Nhưng xét rằng LÐ1/BÐQ nầy phải được nghĩ xã hơi sau các trận đánh vô cùng đẫm máu.

    - Với tin 2 TÐ/BÐQ bị thiệt hại và di tản, các phóng viên ngoại quốc lại càng thổi phồng những tin tức bất lợi cho QLVNCH. Hình ảnh vài quân nhân BÐQ ngồi trên càng trực thăng hay những chuyến trực thăng tải thương đầy xác chết và những người lính bị thương hoặc những khuôn mặt bơ phờ hốc hác sau nhiều ngày tử chiến không được tiếp tế hay tăng viện đã là những đề tài nóng hổi để báo chí Hoa Kỳ có chủ mưu triệt để khai thác… Những hình ảnh này được các hãng thông tấn ngoại quốc loan truyền đi khắp thế giới khiến dư luận quốc tế cũng như quốc nội lầm tưởng rằng QLVNCH đang bị sa lầy và tìm đủ mọi cách để chạy trốn khỏi Hạ Lào. Bàn về dư luận không thuận lợi này với chủ tâm chinh-trị để Mỹ rút quân ra khỏi Đông Dương.

    Anh y tá Fujii, người đã trực tiếp sát cánh chiến đấu cùng TÐ/39/BÐQ trong lúc chiến truờng nóng bỏng nhất đã phát biểu: “Tôi cho rằng các chiến sĩ BÐQ/QLVNCH là những binh sĩ chuyên nghiệp và tài giỏi nhất mà tôi đã rất hân hạnh được cộng tác; Nếu có dịp, tôi sẽ không ngần ngại lại cùng chiến đấu với các BÐQ” Trung tá Molinelli, chỉ huy trưởng đơn vị trực thăng trực tiếp yểm trợ cánh quân BÐQ cũng bầy tỏ cảm tưởng tương tự: “Ðúng, một số BÐQ đã bám vào càng trực thăng để được di tản mau chóng khỏi trận địa; Nhưng một số lớn khác đã không hốt hoảng như vậy”.

    - Một thiệt hại gián tiếp khác của QLVNCH vì hậu quả của các trận đánh tại các căn cứ BÐQ và cái chết của Trung Tướng Ðổ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Ðoàn III và là người hùng trong trận đánh vượt biên sang Cam Bốt vào năm 1970. Việc các căn cứ BÐQ thất thủ là thất bại quan trọng đầu tiên cho lực lượng VNCH trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Do đó, theo các tài liệu Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng tướng Lãm đã không có những quyết định đúng lúc, đúng mức và đúng chỗ khiến cuộc hành quân bị trì trệ và lực lượng hành quân lâm vào tình thế bất lợi. Vì vậy, Tổng Thống Thiệu đã mời Tướng Trí từ BTL/QÐ III về Sài Gòn để thảo luận. Nguồn tin Hoa Kỳ cũng nói rằng, vào ngày 23 tháng 2, Tổng Thống Thiệu đã trao chức vụ Tư Lệnh cuộc hành quân Lam Sơn 719 cho Tướng Trí. Nhưng trên đường đi nhận nhiệm vụ mới được trao phó, chẳng may ông bị tử nạn trực thăng tại Tây Ninh, vì thế Tướng Lãm vẫn còn giữ chức Tư Lệnh Hành Quân. Cái chết của Tướng Tri đưa ra nhiều nghi vấn … Một thế lực ghê gớm nầy sợ Tướng Trí sẽ tiếp diển cái trò hũy diệt mau chóng các kho tàn trên đường Mòn Hồ như đã thành công trong năm vừa qua “Tốc chiến tốc thắng ở Cục R”.

    Cuộc chiến Việt Nam, bất cứ ai dù Mỹ hay Việt mà đụng đến đường Xa lộ Harriman [Ðường Mòn HCM] đều bị thảm hại, như John Paul Vann, dựa vào thân-thế từ Tổng thống Nixon, ưu tiên dùng B-52 dành riêng cho các quân khu khác mà tiêu diệt 3 Sư-đoàn BV và Trung đoàn 203 Chiến xa, không kể pháo phòng không và diện điạ, không để cho Hà Nội chiếm Kontum làm thủ phủ của MTGPMN để ăn nói tại bàn hội nghị Paris 1973. Thật nghịch-lý chỉ có ÐPQ và NQ chiến đấu giữ vững thị xã Kontum!?!? Còn như Tướng Westmorland không hiểu trách nhiệm qua Việt Nam chỉ để huấn luyện tác chiến mà thôi; nhung khi ông nổi hùng-khí đòi đưa quân vào chiếm giữ đường mòn HCM mà Liên Xô chịu trách nhiệm thiết kế ống dẩn dầu huyết mạch, song song với xa-lộ Harriman, thì bị kêu về Mỹ ngay. Nếu Tướng Westmoreland mở cuộc hành quân Lam Sơn 689 thì cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy sẽ không bao giờ xảy ra (Cuộc hành quân xảy ra năm một ngàn chín trăm 68 trên đường 9 Nam Lào).


    Gunship PD-213 và 2 ĐĐ Trinh Sát Dù/T Đ/8
    Vào những ngày đầu, ngay dưới chân núi phía nam Căn-cứ Hỏa-lực, Đồi 31, trên đường lộ 92, Thiết-đoàn 11, Lữ-đoàn-1 Kỵ-binh của Ðại-tá Nguyển-Trọng-Luật, đã tao ngộ chiến với một thành phần Thiết-vận-xa PT 76 của CSBV; Thiết-đoàn đã anh-dũng tiêu-diệt 6 Chiến-xa T-54 và 16 PT-76. (Trong 16 chiếc PT-76 nối đuôi ở phía sau, có nhiều chiếc còn nguyên vẹn vì xạ-thủ và tài xế vừa thoát chết, chém-vè rút vào rừng già cùng với Trung-đoàn tùng thiết bởi sợ phi cơ truy kích; Trực thăng vỏ trang PÐ/213 phải áp dụng “văn kiện điều hành” [Standard Operational Procedure] nên không có rượt theo truy kích mà luôn luôn giữ trên đầu quân bạn. Một trong các PT-76 còn nguyên vẹn được Tư-lệnh chiến trường, Tướng Lảm gởi về Saigon tặng Tổng thống; nhưng mầu nhiệm thay! trong khi Thiết-đoàn-11 không bị một sự thiệt hại nào, để khỏi mất lòng tin của đọc giả, người viết xin mời đ-g vào bất cứ thư-viện nào tìm SÁCH lời tựa: “A Better-War”, MỤC: Lam Son 719, TRANG: 259, HÀNG: 26: “Early in the operation the 1st Squadron, 11th Armored Cavalry had encountered NVA armored elements in a fight at Fire Base 31 and performed brilliantly, destroying six enemy T-54 tanks and sixteen PT-76 without any friendly losses in the first major tank-to-tank engagement of the war”.

    Dĩ nhiên Trực-thăng võ-trang của Phi-đoàn 213 cũng đã góp phần không nhỏ trong cuộc chiến thắng nầy với loại Rockets diệt Chiến-xa, 38 trái cho hai bầu hai bên (hình thù ngắn gọn, nằm ẩn ngay trong lòng bó Rocket, Phi Công không thấy được đầu đạn warhead lú ra) và Mini-guns đã là một khắc-tinh khống chế các xạ thủ BV không thể ló đầu ra khỏi chiến xa để chống trả; Có phải sơ-khởi 6 khẩu đại liên 6 nòng như các pháo-tháp di động linh hoạt bao vùng trên không, tạo điều kiện hửu hiệu là không một chiến xa nào phía bên ta bị thiệt hại vì hỏa lực chống trả của địch? 6 pháo tháp di động trên không nầy đã áp-dụng kỹ thuật điêu luyện trong nhịp bắn từng hồi 2000 tăng giảm đến 4000 viên phút trên cao độ 75 thước để duy trì hệ thống điện tử “control-box” không bị “overcharge” tắt nghẻn. Cuộc tao ngộ chiến ‘Chiến-xa đối đầu với Chiến-xa’ được xem là Quân-lực VNCH toàn thắng! Dỉ nhiên kết quả công đầu được thành đạt là nhờ công lớn do Lữ-đoàn/1/Dù của Ðại-tá Lưởng đã chia ra 2 đường tiến sát bén nhọn, chận đánh 2 Trung đoàn của Sư-đoàn Thép 320 và 304 của CSBV. Tịch-thu vô số xe-thồ, thuốc men thực phẩm cùng thiêu hủy kho xăng hậu cần và căn cứ huấn-luyện bổ xung tân binh tại chiến trường, làm chao-đảo tinh thần của 2 trung đoàn chủ lực CSBV nầy.

    Chúng tôi đang lấy trung tâm điểm là một Trang trại của CSBV, có lẽ là Công-binh-xưởng, hay Trung Tâm Huấn Luyện với nóc-mái lợp bằng Tre-Nứa đập dập; Ðễ chờ đợi tăng cường thêm hỏa lực, Trung-úy Trần Lê Tiến, Lead-gun đang trên đường bay đến căn cứ Aluối với 76 trái hoả tiển chống Tăng. Dĩ nhiên không phải để truy kích tàn quân của trung đoàn 64, sư đoàn Thép 320 đang bị đơn vị Dù gây thiệt hại nặng mà để phối hợp hỏa lực cho một đơn vị Dù thuộc Lữ-đoàn-1 đang tiến chiếm mực tiêu: một đơn vị chiến xa thuộc trung đoàn 202 CSBV đang phục kích trên đường 92, bắc Aluối. Chúng tôi không được quyền đi xa nguyên tắc “yễm trợ hỏa-lực tiếp cận cho quân Dù” và luôn luôn trên đầu quân bạn; Thế nên vùng chờ của chúng tôi là trên đầu Thiết đoàn-11, lực-lượng Dù, và Chi đoàn thiết vận xa của Thiết đoàn-17. Cho nên hợp-đoàn 4 chiếc trực thăng võ trang phối hợp hỏa lực nầy không đi xa nguyên tắc là truy kích tàn quân của trung đoàn7/304; Ðiều dể hiểu chúng đang di chuyển xa về phía Nam của cứ-điểm Aluối và nhập vào sư-đoàn 324B để tạo thành sức mạnh đồng thời cũng bảo vệ căn cứ kho tàng 611.

    Hợp đoàn gunships của Tiến vừa đến Aluối, tôi cắt đặt chiếc 2 của Tiến nhập vào left-echelon-3 do tôi lead, còn riêng sát thủ Tiến đi sau chúng tôi 45 giây với cao độ 300 thước trên mặt đất, vừa đủ một pass 25 giây nhào xuống phun từng đợt 4 trái, chia đều bao phủ ổ phục kích. Ðiểm phục kích nhầm vào khúc quẹo qua trái trên trục đường thẳng, lấy trục trên đầu quân bạn về hướng bắc; Chúng tôi đang vào đội hình tác chiến: Tôi cẩn thận nhắc lại các anh em đoàn viên xem lại Chicken-plate, check lại giây nịt an toàn sau lưng, kéo kiến che mắt từ helmet xuống, và kéo cổ áo nomex lên cao để không bị phỏng vì các giây cháy từ đuôi hoả tiển phun ra khi tác xạ. Tất cả bật qua VHF 118.5, intercom, trong vị thế sẵn-sàng chiến đấu.

    Tôi dùng chiến thuật “độn rừng ngụy âm” bay sát trên ngọn cây, mổi chiếc cách nhau 5 giây an-toàn khoảng cách, riêng theo sau gun Tiến lên cao độ cách 45 giây. Hợp đoàn 3 chiến gunship rà sát trên ngọn cây, ôm sát bên phải con đường thẳng nhập vào khúc quẹo trái trước mặt. Các xạ thủ đang đứng xổng lưng nhoày người ra ngoài với đôi mắt Cú-Vọ soi bói như tìm kiếm bảo vật; Còn 30 giây đến mục tiêu, tôi ra lệnh bắn … 6 khẩu đồng loạt tác xạ một tuyến lửa trước mặt 75 thước xạ trường; Sáu xạ thủ chồm hẳn ra ngoài dí đầu súng 6 nòng quay tích về trước mũi … một bầu lửa đỏ trước mũi phun ra 4000 viên xuống rừng Tre-gai, bụi rậm, bên cạnh lưng sườn đồi nhất là dưới gốc các rậm Tre nơi nghi ngờ điểm phục kích của T-54. Các anh rải đều các điểm nghi ngờ có sự hoạt động của con người. Tôi nhớ lại lời nói của Nả Phá Luân “Les sous officiers font l’armeé” [Các Hạ sỉ quan nầy là kẻ quyết định chiến trận] 6 anh không những gan dạ đứng xỏng lưng chiến đấu mà còn kinh nghiệm tác xạ, nên những cây minigun nổ đều với nhịp điệu khi nương khi mạnh; Khi chúng tôi trên đầu quân CSBV 50 thước; Thật điều quái lạ không nghe một tiếng súng nào bắn trả? Khác hẳn mọi khi có tiếng lóc cóc, hoặc nổ như bắp rang của AK-47 mỗi lúc mỗi gần hơn. Điều nầy chứng tỏ phương thức oanh kích nầy làm cho địch kinh hãi phải tìm nơi ẩn-trú.

    Nhưng chả lẽ chúng chết hết!? Không phải vậy đâu đừng ham! Vì tiếng mưa bảo của đạn đạo từ 6 cây minigun quá ghê gớm nên họ đành tạm thời núp trước rồi tính sau; Ðơn vị tùng thiết quân CSBV thuộc Sư Ðoàn Thép 64/320 nầy có kinh nghiệm, vì họ thừa hiểu muốn chường mặt ra để đối chọi với chúng tôi thì đã bị gục ngã vài giây dưới cơn mưa đạn tàn sát trước mũi trực thăng và không có dịp mở mắt nhìn thấy sát-thủ vừa bay lướt qua trên đó.. Dựa vào thế thượng phong nầy, Chiếc Lead của tôi quẹo gắt qua phải lấy chút cao độ quan sát và làm C&C cho đội hình xạ kích, Tôi quẹo gắt qua phải lead 6 minigun bao vùng trên điểm phục kích bắn xối xả vào luôn chiến xa T-54 và PT-76 nằm chàng ràng trên trục lộ vì quân BV vẩn còn ở trong đó. Cho đến lúc nầy trên cao độ 75 thước vòng tròn chúng tôi vẩn cảm thấy không một tiếng súng nào bắn lên.

    Hai chiếc đầu tiên bắt đầu phun ra hoả-tiển chống biển người, ba cụm khói màu đỏ-hồng đang để lại sau đuôi 2 chiếc đầu; Trên cao 300 thước, Tiến bắt đầu phụt ra mỗi lần 4 trái, và rãi đều trên các chiếc T-54 nắm chình-ình cách hai bên vệ đường không xa lắm. Chỉ 25 giây sau qua một pass duy nhứt, 38 trái đã rơi vào đúng mục tiêu. Lúc nầy Tiến lấy cao độ 75 thước làm trail cho Lưu ở chiếc 2, trong khi chiếc 3 của Lộc lên cao độ 300 thước để lấy trục xạ kích. Khi gun Lộc phóng xuống từng đợt 4 trái vào y chang mục tiêu của Tiến đã giộng vào đó… Lộc đang nối đuôi làm số 3 của lead Lưu; Tôi tách ra lên cao độ để tác xạ, nãy giờ tôi đã quan sát và thấy rõ ràng địch quân đả phóng ra khỏi xe mong chém-vè về cánh rừng trước mặt, nhưng đã bị các xạ thủ theo dỏi tiêu diệt một số lớn vì làm sao tránh khỏi căp mắt Cú chỉ ở trên tầm quan sát 75 thước! Luôn luôn cũng trên cao độ 75 thước, cũng thay phiên 3 chiếc cover liên tục bằng lưới đạn 7ly62, giử khoản cách đều nhau trên một chu vi hình tròn yểm trợ liên hoàn. Và cứ như thế 6 khẩu minigun tiếp tục khạc ra từng hồi 2 đế 4 ngàn viên để duy trì hệ thống control box không bị overcharge cũng như đè-nén (neutralization) không cho địch thủ bắn trả.

    Hồi nãy giờ, tôi đã quan sát thật kỹ trên trận chiến, điều đặc biệt là các dấu xe xích song song màu vàng nghệ còn tươi rói, chằng-chịt ấn dấu trên lưng chừng đồi thoải thỏi và mất dạng trong đám rừng hình chữ nhựt không có dấu vết thoát ra, mà theo con mắt kinh nghiệm chiến trường, chúng (PT-76) đang giàn hàng ngang trên mé rừng ngó xuống con lộ. Tôi căn dặn Lưu, khi tác xạ nhớ dập theo mục tiêu của tôi mà bồi thêm vì tôi chỉ còn có 8 quả hiếm hoi để chống Tăng.

    TRUONG VAN VINH

  3. #3
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển chọn trên diễn đàn Mũ Đen

    TỔNG THỐNG THIỆU CHỐNG LỊNH PENTAGON
    General Al.Haig: “Washington would like to see ARVN stay in Laos through April”

    Với Quân-lực nầy, Tổng Thống Thiệu cũng như các Tướng Lãnh đều đồng có một quan niệm, là bảo vệ tối đa sanh-mạng cho binh-sĩ, và tiết kiệm tối đa xương máu của chiến binh. Để chứng minh điều nầy, có bao giờ chúng ta nghe Quân-Lực VNCH dùng chiến thuật biển người để chống Cộng không! Dùng thuốc kích thích, hoặc là xiềng chân vào tay-lái của chiến xa không!? Trong khi Cộng-Sản như một tôn-giáo cuồng tín, tử vì Đảng! Cái đỉnh cao trí tuệ nầy có chịu thua sự ngang-ngược của TT Thiệu khi làm bể kế hoạch chiến-lược trong cuộc hành quân Lam-Sơn 719 nầy qua sự cho 2 Tiểu đoàn của SÐ/1 (6/3/1971) nhảy xuống Tchepone đái một bãi rồi về? Có nghĩa là đếch thi hành giai đoạn-3 khai thác chiến trận! Ðể dạy một bài học thâm hiểm và đồng thời cũng vì phải giữ tình hình thật yên tịnh để Mỹ tiếp tục rút quân, nên Richard Helms, người hậu vệ [linebacker] của trận đấu “Pennsylvania” phải hoặch định một phương áng “Rã ngũ quân lực VNCH” bằng sẽ có một chước quỷ cho một cuộc chạy tán loạn của quân dân miền Nam và Cộng Sản sẽ trả thù!

    Ðứng trên một góc cạnh nhãn quan chính trị, chiến sĩ chúng ta phải thông cãm và chấp nhận việc làm cũa TT Thiệu phải như vậy không còn con đường nào khác. Ðầu năm 1975, Họ đứng trong bóng tối áp lực TT Thiệu phải đích thân do chính bàn tay của mình tự bẻ gãy từng chiếc của bó đũa [quân lực VNCH] bằng cách phân tán lực lượng, rút bỏ vùng-1 và 2 vì không còn đủ hỏa lực, cơ-phận, nhiên liệu…đang cạn dần và phải bẻ nhỏ từng mảnh 2 Sư-đoàn tổng trừ bị lợi hại nhất mà Lê Ðưc Thọ rất khiếp đảm, nên Thọ khẩn thiết yêu cầu Kissinger nếu Mỹ muốn Hà-Nội chiếm miền Nam đúng theo lộ-trình, theo sự thỉnh cầu về điểm mốc thời gian chiến dịch Hồ Chí Minh… Richard Helms phải làm theo sự chủ đạo của George H.W.Bush liền tức khắc qua khai thác sự sợ hãi làm đảo chánh của TT Thiệu để áp lực TT Thiệu ra lệnh rút về chỉ một Lữ-đoàn Dù thôi cùng Quân đoàn-3, vừa đủ tạm thời trấn giữ cái cổng chính của sân vận-động, hầu trực thăng Mỹ sẽ cứu người Mỹ và những tai to mặt lớn trốn chạy ra nước ngoài. Thế là bình luận, báo chí trên thế giới cứ chĩa mũi dùi tấn công chỉ một mình tội lỗi do Tổng thống Thiệu gây ra mà thôi, nhưng làm sao dư luận hiểu nổi một bộ óc tinh xảo trong bóng tối đã đem chiếc đũa thần hoàn thành định kiến-1 (axiom-1) Dù rằng TT Thiệu đã thỏa mãn tất cả những điều kiện do phía Polgar, Trưởng CIA yêu cầu nhưng ngặt nỗi những bức thư mật giữa TT Nixon và Thiệu vẫn còn nằm trong tay TT Thiệu. Chuyện khó là tạo ra vụ Watergate để hất chiếc ghế quyền lực của Nixon, việc đó đã hoàn thành tốt đẹp do tham mưu trưởng Donald Rumsfeld chỉ thị cho R.Helms. Tại sao Nixon không dùng đặc quyền theo hiến định để tự ân xá mình? Như Thái-tử George W Bush dù bị sự ủng hộ thấp nhứt trong lịch sử TT Hoa kỳ (23%) còn mang thêm trọng tội lừa dối Quốc hội và dân Mỹ về vũ khí giết người hàng loạt WMD nhưng vẫn phây phây ngồi cho đến mãn nhiệm kỳ?! Ðộc giả yên tâm! 2 sự kiện kinh dị nầy sẽ phải đợi một thời gian coi cho được [Decent Interval] rồi các sử gia sẽ phơi bày ra ánh sáng để trả lại tính trung thực cho lịch sử.

    Trong những ngày ảm đạm của tháng 4 năm 1975 cũng trùng hơp như tháng 4 năm 1954, chỉ có một điều duy nhứt nếu Hoa Kỳ giữ vững lời hứa qua B-52 và B-29 …thì mọi việc đã khác hẳn; Nhưng sự can thiệp đó đã bị từ chối theo dự mưu của WIB. Hai trận đánh có tiếng vang quốc tế như chiến dịch Ðiện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh khi CSBV cưỡng chiếm miển Nam; Tôi thất vọng vì một thế lực tài trợ cho truyền thông văn hoá để bóp méo, xuyên tạc trên lãnh vực quân sự mờ mờ ảo ảo giữa một bên với 700 triệu tấn vũ khí tối tân và một bên cạn dần hỏa lực. Một sự sấp-sếp tàn độc cho một cuộc bàn giao quyền lực từ chính quyền Saigon cho Hà-Nội không tắm máu và Saigon không biến thành đống gạch vụn! Axiom: “There was never a legitimate non-communist government in Saigon”.

    Cho nên sau khi áp-lực khai thác xong, TT Thiệu bị áp giải giữa băng ghế sau như một tù-nhân trong chiếc công xa màu đen, bên trái trùm mật vụ Polgar và bên phải là Tướng Timmes, lên chiếc phi-cơ DC-6 (C.118, MATS) đã đợi sẵn qua Ðài-bắc với danh nghĩa là Ðại-sứ VNCH kèm theo lời hăm-dọa phải “ngậm-tăm”, không được hé môi về những gì bí mật của mưu đồ chính trị nếu còn muốn sống. Làm sao ai hiểu được TT Thiệu phải chôn-chặt mối hận u-uất nầy mãi xuống tuyền đài, làm sao giải oan cho TT Thiệu trong khi các Tướng lãnh khả-ố cứ đổ trọng tội vào vị Tư lệnh tối cao, làm cho cái gọi là Ðỉnh-Cao-Trí-Tuệ cứ cười ngặt nghẽo trong sự tự-mãn về mưu chước xảo trá thần sầu quỷ khốc của chúng. Không một ai có quyền kết tội ai mà hãy để cho lịch sử phán quyết, hãy để hậu thế sau nầy điều tra, kiểm chứng, đối chứng, phân tích hầu trả lại tính trung thực cho lịch sử; riêng cá nhân người viết xác quyết rằng, các Sử-gia thế hệ thứ 3, thứ 4 sẽ minh oan cho vị nguyên thủ quốc gia mà tôi kính trọng. Lịch sử sẽ phán quyết những việc làm của người cũng như đạo đức của TT Ngô Ðình Diệm dù chưa được mọi người hoàn-toàn chấp nhận, nhưng sử gia sẽ tái xác nhận lòng yêu nước quyết bảo vệ chính-nghĩa, chủ-quyền quốc gia của ngài dù phải trả cái giá bằng mạng sống, cũng như ngày hôm nay người dân Việt vẩn tôn thờ Ðức tả quân Lê Văn Duyệt mà đã bị quá khứ kết tội oan-ức. Không có sử gia, sự thật sẽ vĩnh-viễn chìm trong bóng tối, theo như hiền-triết W.Brayant “Sự thật dù có vùi xuống dưới đất rồi cũng sẽ trồi dậy” Người viết ước ao khi viết về những nhân vật, những sự kiện được gọi là lịch sử, theo thiện ý của tôi, là ghi lại một cách trung thực, vô tư, không thiên vị không ác ý, không diễn dịch sự kiện, tô vẻ hình ảnh nhân vật theo sở thích hoặc nhu cầu thương ghét của người viết. Ðể cho các sử gia hậu thế đúc kết các liên hệ thực tế, trong nhiệm vụ phục vụ quê hương dân tộc, có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi hầu theo dỏi vun đấp những gì đúng với sự thật, sửa chửa gạt bỏ những gì sai lỗi, xấu xa. Tôi xem tác phẩm nầy như một đốt xương nhỏ li-ti để cho các sử-gia sau nầy ráp nối với các cục xương Lớn, thành hình ảnh một con Dinosaur khổng lồ (Tại sao tôi đặt hết niềm tin nơi sử gia trẻ thuộc thế hệ 21? Thế hệ trẻ thường có những nhận định độc lập và thẳng thắn, dùng khoa học hiện thực để biện chứng trên những trang giấy trắng tinh; Họ không có lối viết phải né tránh hoặc ngần ngại như chúng ta viết là phải lách, vì những mặc cảm hoặc gánh nặng quá khứ, họ là trang giấy trắng tinh với ý thức nếu muốn phủ lên lớp sơn Hồng thì chỉ cứ việc trộn sơn Trắng với sơn Ðỏ, nếu muốn màu Hồng đậm hơn thì trộn nhiều sơn Ðỏ hơn Trắng, nhưng nếu muốn màu Hồng nhạt hơn thì trộn sơn Trắng nhiều hơn Ðỏ. Còn như thế hệ dính líu vào cuộc chiến thì hỡi-ôi, tờ giấy trắng nầy đã dính quá nhiều hoen-ố…loang-lỗ đủ các màu sắc khác biệc, không rõ nghĩa) Vì không làm được như vậy, người viết sử đương thời, không khác gì nhiều, so với những bài, sách báo, đã được một số trí thức, khoa bảng, chính khách Việt đã viết mà tôi đã được đọc, không lý luận dẫn-giải cho đúng với liên hệ thực tế, trong giai đoạn đầy nhiễu nhương của một nước Việt Nam nhỏ bé, bị ảnh hưởng quá nhiều vào ngoại bang, nhưng lại dư thừa thù-hận, ganh-ghét, đố-kỵ mà lại thiếu quá nhiều tình thương và tinh thần tự trọng thật sự đúng nghĩa là yêu nước!

    “Mỹ đem con bỏ chợ”: Ngày 23/Febuary là ngày đen tối nhất: Trực-thăng của Hoa-kỳ không biết vì lý do gì đã không chịu yểm trợ tiếp vận cho QLVNCH nữa, gây xúc động đến nỗi Phó TT Trần-Văn-Hương phải sướt mướt tức tưởi trên đài…lên án người bạn lớn của ta đã đem con bỏ chợ. Tướng Abrams, gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến vì Abrams không hiểu tí gì về mục tiêu chiến lược của cuộc hành quân mà chỉ biết có chiến thuật là yểm trợ tối đa hoả lực cho quân lực VNCH, khác hẳn với tướng Wesmoreland tại vùng Khe Sanh nầy; Westmoreland dựa vào chỉ một TÐ/BÐQ để bảo vệ vòng đai Khe Sanh, còn Abrams thì khác, quân đội Mỹ không tham chiến, nhưng nhân viên phi hành, dù không được bước xuống đất Lào, nhưng phải bay qua Lào nên vẫn bị thảm hại vì bị bắn hạ. Nhưng Abrams cũng yên tâm vì có nguyên một đại đội Hắc Báo đặt dưới quyền điều-động của tướng Sid.Berry để tìm cứu phi hành đoàn lâm nạn.

    Chứng kiến có 25% trực thăng khả dụng hành quân, Abrams nổi cáu đã chửi bới văng tục với các Tướng lãnh dưới quyền vì số trực thăng yểm trợ chỉ ở dưới mức không thể chấp nhận được, thay vì phải được 80%; Nhưng ngặt nỗi Abrams cứ nhè Tướng 3 sao Surtherland mà ‘dủa’ thê thảm. “Mấy anh là Quân-nhân, ưu tiên một là gì (Abrams dùng không biết bao nhiêu chữ god-damn thỉnh-thoảng còn chua thêm chữ ‘Fucking-bird’, trong tác phẩm ‘A Better War’) Tướng Abrams liền phái chiếc Trực-thăng dành cho riêng ông, bay xúc cho bằng được Đại-tá Lữ-đoàn-1 Không-kỵ, Sam Cockerham về gặp ông gấp gấp gấp; Trong khi chờ đợi, Abrams nghiêng qua hỏi ý kiến vị Tướng Phó của mình Weyand, Tôi nghĩ không thể tha-thứ cho Jock (tên lóng của Tướng Sutherland) vì Jock chỉ huy mà không theo-dõi tình-hình về Đ.M…mỗi mấy con chim…về tình trạng… Đ.M khả dụng mấy con chim ra sao…từng giờ… Đ.M từng ngày…Đ.M dường như có cái gì không ổn! Ông xem lại dùm tôi… Một tiểu-đoàn đã có mặt ở Con-lộ 914, đã 2 ngày rồi mà Jock không hay biết, ông xem họ làm ăn ra sao, tổ chức ra sao. “như vậy đánh động cho tôi biết, sự phối hợp giữa 2 bên Việt-Mỹ không ra cái thá gì, có nghĩa là vô hiệu quả, thất bại!”.

    Sau khi ngừng một chút xả hơi, giọng ông dịu lại “Tôi nghĩ, tốt hơn là lên nói thẳng với Tướng Mc Caffiey ngay bây giờ, Tôi nghĩ mình nên tới họ, để họ ra lệnh xuống đưa chuyên viên, dụng cụ và đồ nghề tiếp liệu, cơ phận để sửa chữa tại chỗ”.

    Tướng Abrams chấp tay sau đít đi tới đi lui dỏi mắt trông ngóng. Khi Đại-tá Cockerham bước vào, đứng thẳng nện gót giày chào theo nghi lể của thuộc cấp, Tướng Abrams ở đó chỉ chờ Cockerham tới để ‘quạt’ một mách cho nhẹ người. Abrams thả thân người mệt mỏi rơi xuống chiếc ghế da Sofa trong văn phòng của Tướng Surtherland; Tướng Abrams bắt đầu nổi nóng trở lại: “Đ.M mức sẵn-sàng tác-chiến O.R (Operational-Readiness) của Lục-quân Không-kỵ là bao nhiêu…ĐM làm sao bảo vệ niềm kiêu hãnh của Không-kỵ đây?” Sự nổi nóng cứ bộc phát tăng dần “Chiến lược, chiến thuật, về quan điểm đường lối hành động đều lộn tùng phèo hết … hỡi Ðại tá … Ð.M yêu quý của Tôi!”

    “Tôi muốn Đai-tá làm gì tôi không biết … Ð.M phải đưa tình trạng khả dụng Trực-thăng lên đến mức yêu cầu trong USARV Standard, có nghĩa là 80% khả dụng và thêm 5% gọi là danh dự của Lữ đoàn Không-kỵ, Đại-tá hiểu chứ, và có làm được …không?”

    Abrams đi thẳng vào vấn đề, “Bây giờ là 1 giờ trưa thứ Hai, Đại-tá cho tôi biết chừng nào đạt được tiêu chuẩn 85%” Cockerham: “Thưa Đại tướng Tôi cố gắng đến tối thứ Tư thì xong”

    Khi Đại-tá Cockerham rời khỏi phòng họp, Abrams nói vói theo “Kính thưa Đại-tá…tôi muốn Đại-tá phải mở… Đ.M cái máy truyền tin cho tôi được theo dõi…Okay, Đ.M Tôi nhớ và trông chờ giọng nói của Đại tá…chắc Đại tá cũng thừa hiểu chớ?”

    Sau một chuổi dài giận dữ và sỉ vã từ trên xuống dưới, Tướng 3 sao, Sutherland như con Chó cụp đuôi (General Sutherland was like a Dog with his tail tucked under) Sutheland cũng thành tâm tự cảm nhận rằng cuộc hành quân quá tầm hiểu biết và khả năng của ông.

    Liền sau đó, Tướng Phụ-tá Sư-đoàn nhảy dù 101, Sid Berry tạm thời thay thế Đại-tá Cockerham phục hồi lại uy-tín cho Lữ-đoàn; Bây giờ trở đi, trong cuộc hành quân Lam-Sơn 719 có một Tướng lãnh duy nhất tham dự chiến trường với tất cả phi-vụ được xem là hóc búa nhất, và sâu nhất nằm trên đất Lào, trong khi phía VNCH không có một Tướng lãnh nào chiến đấu trên đất Lào “Sự cương quyết của Tướng Abrams đưa HÐAN (NSC, Pentagon) vào con đường vi-phạm ROE?” Thế là tướng Haig điều động đại-tá James Vaught qua với danh nghĩa cố vấn cho Sư đoàn Dù; Khi Trung-tướng Julian Ewell thăm viếng VN, có ghé thăm Khe-Sanh ông cũng là thành viên trong phái đoàn Hòa-đàm Paris, ông có cảm tưởng, ‘thật là khó tin’ Ngày chủa Nhật, số Phi cơ khả dụng 79%, thật không thể tưởng tượng được.

    Cũng theo tác phẩm Better War, ngày hôm nay 23/Febuary/1971, thành phần Tướng lãnh Hoa-kỳ áp lực TT Thiệu phải thay đổi cấp Chỉ-huy, chứ không dựa vào thế dùng băng nhóm chính trị để thống trị đất nước, sinh mạng chiến binh phải được coi trọng; như Vùng-1 gồm có Băng Thiết Giáp:Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tướng Phan Hòa Hiệp và Tướng chưa kịp đeo Quân-hàm đã tử nạn Phi cơ A.37, là Nguyễn-Văn-Thiện, Tư-lệnh Biệt-khu Quãng-Đà. Tướng Lãm được xem là người thiếu khả năng với trách nhiệm quá nặng, Lãm không thể nào hoàn thành trọng trách được, nên được thay thế bởi Tướng Đỗ Cao-Trí, mà người Mỹ cho là George-Patton của VN, một Sĩ-quan như vậy rất hiếm có trong Quân đội Sàigòn. Chính Tướng Trí đã hiên ngang ngồi trên Thiết vận xa M.113, đầu đội nón lưỡi trai có mang chần-dần 3 sao trắng trên đó, điều động 17,000 quân cho cuộc hành quân càn quét quân BV, Cục R ở Cambodia (1970). Nhưng chúng ta cũng nên suy nghĩ điều nầy, chỉ có những Tướng lãnh Mỹ vì danh dự của tổ quốc họ, chớ cái thứ Skull and Bone thì lại khác, chính TT Nixon cho oanh tạc và tiến quân qua Mật Khu của MTGPMN ở phần đất Cambodia đã bị Quốc hội do áp lực của thứ Ma đầu-lâu nầy gây khó dễ, gọi là vi phạm hiến-quyền Power-Act của Quốc-hội.

    Chiếc Trực-Thăng của Tướng Trí đang chở phái đoàn Tham-Mưu Quân-Đoàn III thì bị nổ chết khi mới cất cánh ở Tây-Ninh; Cái tội của Tướng Trí là tiêu hủy một số chiến cụ bằng 5000 chuyến xe Molotova chở chúng từ hải cảng Sihanouk-Ville tới cục R.

    [Theo sự suy diễn riêng tư của người viết qua nghiên cứu liên hệ với thực tế bằng các tài liệu giải mật: Tướng Trí chỉ có trọng tội là dám cả gan thiêu hủy kho vũ khí khổng lồ của CSBV tại mật trận Cục-R nằm trên hành lang Xa-lộ Harriman (đường mòn Hồ) cũng như John Paul Vann dám bẻ gãy kế hoạch không cho Hà-Nội chiếm Tỉnh Kontum làm Thủ đô cho MTGPMN để có tiếng nói trong Hòa-đàm Paris-1973, dù rằng CSBV đã có 3 Sư-đoàn bao vây cùng 3 Tiểu đoàn chiến xa PT-76, T-54 thuộc Trung Đoàn 203, trong vòng 2 tháng, trong khi phi trường phải đóng vì trận địa pháo và tiếp tế hoàn toàn bị cắt đứt. Ngày 14/5/1972 B-52 và KQVN Sư-đoàn-6 đã oanh liệt triệt tiêu lực lượng của 3 Sư-đoàn nầy loại ra khỏi vòng chiến đấu khoảng 16.000 quân, thể theo sách A Better War, trang 337, hàng 34. Và lời nhận xét của Vann ca ngợi chỉ có Ðịa phương quân và Nghĩa quân mà đã chống giữ Kontum một cách oanh liệt, tất cả Tăng T-54 đều bị triệt hạ xung quanh vòng đai thị xã. Thật là một sự mầu nhiệm vô lý cần phải suy gẫm!? Các bạn là quân nhân có tin 3 sư-đoàn và 3 thiết-đoàn mà không chiếm được Kontum hay không? Mà chỉ có ÐPQ và Nghĩa quân trấn giữ, chỉ có con đường độc đáo tiếp viện duy nhứt từ Pleiku qua? Dưới đây là bút tích của John Paul Vann:
    “John Vann credited the Territorial Forces, not the Army, with much of what went right in MR-2. The RF and PF, in most places, have performed quite well and were a much more stabilizing force than the ARVN”
    Cũng như Tướng Westmoreland dám gợi ý tại Quốc-hội chiếm vùng hành quân Hạ-Lào nầy bằng cuộc Hành Quân Lam Sơn 689, với lực lượng Mỹ cùng LLÐB/Biệt Kích Dù của VNCH vào những năm trước đó nên phải bị cách chức Tư lệnh chiến trường tức khắc, lập lại sự việc đề nghị cũng y chang của Tướng Mc Arthur khi đề nghị với Quốc Hội đòi giải phóng lục địa Trung-Hoa, trong lúc Mỹ độc quyền nguyên tử. Nói tóm lại dù Mỹ hay Việt ai đụng đến Xa-lộ Harriman đều bị thảm hại. Ðịa điểm hẻo-lánh KHE-SANH nơi rừng núi xa-xôi nầy sẽ ghi mãi dấu ấn trong lịch sử Hoa kỳ với sự hy sinh 215 nhân viên phi hành Không-ky và 38 đoàn viên MIA, trong khi KQVN hy sinh 10 NVPH va 4 MIA (theo tài liệu MACV/SOG và báo cáo của tướng Hinh). Ðảng hội Skull and Bones dùng quân đội Mỹ như một công cụ người máy, chỉ cứ việc thi hành theo sự chỉ đạo của chúng. Muốn chiếm Hạ Lào phải đợi đến thời gian coi cho được (Decent-Interval) có nghĩa là quân dụng phải được vận chuyển về thừa thãi trên hành lang và được nhị-trùng đại-tá Bùi Tín xác nhận, rồi mới được mở cuộc hành quân, Ðại tá Bùi Tin sẽ cho Mỹ biết về việc tiếp liệu phải được dấu kín vào những nơi an toàn dư thừa để chiếm miền nam. Bắt đầu an toàn từ ngày 18/1/1971 do HÐAN/NSC [WIB quyết định cuộc hành quân Lam Sơn 719 [http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman, page 1 of 7- Trang 4, Political Career, hàng 19 “HARRIMAN WAS INITIATED INTO THE SKULL AND BONES SOCIETY, ALONG WITH HIS FRIEND PRESCOTT BUSH, ông nội của TT thứ 43 Hoa-Kỳ, 2 soạn giả cuộc chiến VN]

    Người viết cảm thấy cũng nên nhắc lại trong thời gian Hội nghị quốc tế Trung-lập Lào 1962, khi mà Harriman âu lo phía Hà-Nội không chịu tham dự trò chơi chiến tranh, nên ra lệnh cho William Colby phải thả toán thám sát STRATA [Short Term Road And Target Acquisition] từ đèo Mụ-Giạ, trên hành lang qua Tchepone và Attopeu để xác-định Ðoàn 559 và Ðoàn 959 có mặt trên đường Trường-Sơn Tây hầu dự trò chơi hay không? Còn như Ðoàn 759 thì Hoa kỳ dễ kiểm soát do tàu nhỏ cận duyên mà Trung Quốc chế tạo cho trò chơi tiếp tế bằng đường biển đến tận hải cảng Sihanouk-Ville trước khi Lon-Nol lật Sihanouk. Lúc đó Khe Sanh là Quận Hương-Hoá cách Tchepone 45 cây số, hành pháp Mỹ qua Harriman buộc Kennedy phải ra lệnh hủy bỏ Quận nầy vì lý do an-ninh. Ðồn điền trồng Cafê và Trà của người Pháp không còn khai thác nữa vì chiến tranh thì giữ để làm gì! Vì thế chữ Khe-Sanh đã đi vào huyền-sử Hoa kỳ, khi buộc phải xoá bỏ chữ Hương-Hoá! Nhưng TT Diệm rất bình thản vì đã có kế hoạch chỉ định Ðại-tá Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh Ðệ Tam Quân Khu làm Tư lệnh chiến trường tấn kích và chốt chận cắt con đường nam Lào từ Dakto, Ben-Het qua tận Attopeu với 1 Chiến đoàn Dù do Thiếu tá Dư Quốc Đống CÐT, 1 Thiết đoàn chiến xa và một đơn vị thuộc Sư đoàn 22. Kế hoạch nầy bị phản thần, Bác sĩ Trần Kim Tuyến báo cáo cho CIA biết ráo-trọi nên sự triệt tiêu TT Diệm đã nằm trong ống kính của người thủ lãnh Skull and Bones-1 ngay tức khắc; Ngay sau khi triệt tiêu 2 chướng ngại vật [Diệm, Kennedy] ngăn chận chương-trình CIP [Counter Insurgency Plan] COMUSMACV đưa đề nghị chỉ để cho quân lực VNCH, dĩ nhiên là không có người Mỹ, có quyền đánh đuổi quân CSBV ra khỏi biên giới Cambodia và Lào. Tổng tham mưu trưởng liên quân nghe hợp lý nên đề nghị McNamara và ông đề nghị lên TT Johnson đúng theo hệ thống quân giai. Tháng 4/1964 TT Johnson đồng ý trên nguyên tắc nên Cố vấn T.T George Bundy sắp đánh điện về Saigon thi bị Micheal Forrestal trong HÐANQG (NSC) cảnh cáo: “Gởi công điện mà không có sự đồng ý của Harriman sẽ có rắc rối. [Nguyên văn: To send the telegram without Averell Harriman’s approval is just asking for trouble! Even if the telegram had already received Johnson approval but that was not enough! It still required an “endorsement” from Harriman]

    Có phải chính-sách Mỹ bị thống lãnh bởi tập đoàn Skull and Bones trong WIB!? Harriman thủ lãnh Skull và Prescott Bush WIB’s Chairman: Đó là lý do tại sao ai đã gây ra cuộc chiến lần thứ hai, 1954-1975 bằng một mưu-lược “bỏ phiếu bằng chân”. Sau khi Liên Xô áp lực Hà Nội thành lập một loạt Đoàn 559, 759, 959 và kết thúc bằng cho ra đời MTGPMN (20/12/1960) Phía Mỹ áp lực Saigon cho ra đời luật 10/59: Tố-cộng và Diệt cộng: Tam trùng Phạm Xuân Ẩn đã móm cho Lê Đức Thọ những tuyên ngôn chỉ Nam sau đây, dù rằng quân tác chiến Mỹ chưa qua tham chiến thì làm gì có xâm lược mà chống! Chống cái gì vào năm 1960! Như “Chế độ khát máu Mỹ-Diệm,” “Giải phóng Miền Nam” “Ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ,” “Miền Nam bị Mỹ ngụy kèm kẹp” “Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào; Khi quân Mỹ rút đi Saigon chỉ còn là bộ xương khô! …”. Trong tầm nhìn sâu-sa của Harriman, những tuyên ngôn trên sẽ được giải nghĩa rõ ràng sau 50 nằm bằng phổ biến của kỹ nghệ thông tin internet. “Ðể rồi, tất cả đều là xảo-trá, lừa đảo, và phỉnh gạt”. Nhưng ngược lại cái khối óc gọi là “đỉnh cao trí tuệ” nầy rồi cũng phải chết, cũng không lừa gạt được với các sử gia thuộc thế hệ thứ 3, 4 khi các sử gia nầy đặt câu hỏi, tại sao quân tác chiến Mỹ chưa qua VN mà HĐANQG [NSC] họp ngày 21/9/1960, (thời Eisenhower) đã bày đặt ra cái huy chương “Chiến-dịch Bội tinh “dành cho quân Mỹ tham chiến VN, và đang sản xuất hàng tỷ họp lương khô C-Rations phối hợp bởi renewed Aid to Russia 1941-46 Plan, cho 3 triệu quân tác chiến Mỹ lần lược luân phiên mỗi năm qua VN dự cuộc Pinic tập trận và họ cũng là hành khách đi Máy bay book trước để nâng đỡ các hãng hàng không dân dụng [thế hệ phản-lực] đang phát triển trong lúc phôi thai khỏi bị khánh tận hay xáp nhập rút gọn; đồng thời 8000 chiếc trực thăng phản-lực UH-1 gọi là trợ huấn cụ [training-aid] để tập trận sau đó bỏ lại với danh từ Việt Nam hóa chiên tranh rồi trở thành đống sắt vụn khi không còn cơ phận để thay thế. Cái thế lực ghê-gớm nầy tinh-vi che mắt hai vị Tổng thống (Diệm-Kennedy) bằng cách chêm đệm bởi phương-án khai hoang những vùng Việt Cộng ẩn trú trong “chiến dịch Khai hoang Ranch-Hand” để cho 38 hãng thuốc khai hoang được phát triển lợi nhuận. TT Diệm nghe làm trống trải không cho Cộng-Phĩ có nơi ẩn trú để quấy rối, Kennedy và TT Diệm cũng bị dụ-dỗ như thường.

    Ðể bưng bít cái chết của tướng Trí, một phái đoàn Mỹ sang điều tra tai-nạn cho là bộ phận trong máy có trục-trặc nên gây ra tai nạn thảm khốc nầy. Nhưng mãi đến khi tàn cuộc chiến, KQVN không có một tai nạn nào tương tự như vậy xảy ra, báo hại nhà báo đội lốp CIA, Francois Sully bị chết oan mạng cũng như bốn nhà báo ngoại quốc đã chết cùng với Phi hành đoàn 213, vì thật ra Họ không được phép bay qua phần đất của Lào. Về tin tức tình báo các nhà báo ngoại quốc nầy đã không được hiểu biết rõ ràng chi tiết như Tam-trùng Phạm Xuân Ẩn. [Ẩn không dám bước chân lên trực thăng dù chỉ có người Mỹ mới không được phép qua biên giới Lào. Ẳn hiểu biết quá nhiều về CIA và CSBV có 6 trung-đoàn phòng không cổ-điển (AAA) và 8 Trung-đoàn pháo diện địa hạng nặng với 67.000 tấn đạn sẵn sàng gây trận bảo lửa khiếp đảm]

    Ðiều vô cùng quan trọng cần nên biết là, ngày 27/Feb/1971, B.52 mới thật sự rời bỏ chữ SAC (Strategic Air Commmand) để đi yểm trợ tiếp cận (Tactical Air Ground Closed Support) Đó là những chiếc pháo đài bay B.52 cất cánh từ Căn-cứ Utapao, Thái-Lan, với số hỏa-lực gần gấp đôi B.52 cất cánh từ Đảo Guam. Có phải do Abrams vì thể diện, tự-ái dân tộc và sinh mạng của các phi hành đoàn Không-kỵ nên đã vi phạm những điều mật ước với Liên-Xô (Rules Of Engament), làm trở ngại, không rõ nghĩa trong thế chiến lược, về tinh thần buổi họp bàn thảo và đưa đến quyết định giải pháp cho cuộc hành quân Lam-Sơn 719 ngày 18/Jan/1971? [Hình trang đầu] Tất cả Phi vụ B.52 là do CIA quyết định, Không-quân SAC thi hành như một cái máy ‘Tổng-Đài’, thế mà Tướng Haig đang tìm cách tế thần Tướng Không-quân, John D.Lavelle, cho là Ông yểm trợ cầm chừng, chứ không hết mình. Có lẽ do sự bất đồng, vì Tướng D.Lavelle muốn thi hành thế “chiến thuật”, mà không tuân lệnh CIA thi hành theo kế hoặch “chiến lược”. Chiến tranh VN có nhiều điều ngộ nghỉnh thường xảy ra: John Paul Vann thất trận ở Ấp Bắc bị buộc giải ngũ nhưng lại lên chức như Diều gặp gió với chức vụ ngang hàng tướng 3 sao. Ðối với WIB Vann thua chiến thuật nhưng lại thắng thế chiến-lược, còn tướng D.Lavelle nghe lệnh thượng cấp lại bị đem ra xử như con Cừu non để tế thần thay vì Tướng Abrams phải lãnh đủ! Vì thế chiến lược kinh-dị nầy của cuộc hành quân mà Sư-đoàn-1 cứ bị B-52 chiến lược từ đảo Guam bay vào đuổi đít cho theo đúng lộ-đồ hành quân đã vạch sẵn. Sự kiện nầy tôi nhận thấy nhờ sự theo dõi từng bước đi mà tại Khe Sanh Chuẩn-tướng Phú cũng rà sát theo dõi những chiến dịch “tiền-oanh-kích” cũng như những hoạt động mờ ám tính trước theo lộ-đồ của B-52, để rồi Tướng Phú cứu nguy được đàn em. Còn như Lữ đoàn-1 Ðặc nhiệm chỉ ngừng lại dưỡng quân thì bị Skyspot gọi là thả lầm khiến một số quân bạn bị chết và bị thương, trong đó có Tiểu-đoàn-phó Tiểu đoàn-8/LÐ3/Dù tùng thiết cùng Thiết đoàn 11; Hơn đơn vị nào hết, chính Tiểu- đoàn/8 Dù nầy khi đụng độ với 2 trung-đoàn tân lập [trung-đoàn 27 và 278] mới biết sự chính xác và hiệu quả của B-52. Nhưng thật ra quân bạn có biết đâu đây là do con mắt tinh-ranh và bộ óc điện-tử chuyên nghiệp của ban tham mưu dưới quyền Tướng Haig tại Pentagon khi phải làm trọng tài cho hai đối lực, cần phải phối hợp để cân bằng lực lượng giữa 2 bên cho trò chơi chiến tranh bẩn thỉu, dí tay lên xuống những con cờ thí để có phần hấp dẫn như chiến tranh thực sự hầu che mắt thế giới. Họ dùng B-52 để cân bằng 2 đối lực và tiêu diệt trọn gói tại mục tiêu là căn cứ hậu cần 604 thay vì phải thi hành kế hoạch rã-ngũ sau nầy, nhưng Tướng Haig thất vọng vì sự ngang ngược của TT Thiệu, cho một đơn vị nhỏ xuống Tchepone đái một bãi rồi rút về.

    Vấn đề quan trọng trước mắt, Abrams muốn phải khóa chặt phòng không của BV vì quá nguy hiểm cho phi công trực-thăng Mỹ, số thiệt hại trong 3 tuần nầy đã lên cao đến độ chóng mặt; Chuyện nầy sẽ gây ra sự mâu thuẫn và đụng chạm dữ-dội giữa Hội-Đồng NSC [Tướng Haig] và Tướng Abrams! Nhưng phản ứng của Abrams hoàn toàn đúng, vì phải gìn giữ uy-tín quốc-gia và sinh mạng của các phi công trực-thăng (sự hy sinh cho mưu đồ “khổ-nhục-kế” như vậy cũng đã quá lắm rồi, phi công oanh tạc Bắc Việt không được xử dụng hoả tiễn, bom vô tuyến điều khiển [no Laser targeting pods or Smart bomb] mà phải xử dụng bom nổ thường và làm mỗi prep 2 trái 2 bên cánh cho gọi là sự thăng bằng, có như thế mới tiêu thụ được hàng tiêu dung]

    Phải nhiều tháng sau, thời gian coi cho được, Tướng Haig mới kiếm cớ “bứng” được Tướng John D.Lavelle, Tư-Lệnh Đệ 7 Không-Lực (Seventh Air Force) và thay vào đó, Tướng John Vogt; Tướng Tham-mưu trưởng Không quân triệu hồi Tướng Lavelle về nước và cách chức vì lý do vi phạm luật quy-ước ROE (Rules of Engagement) và cho về hưu liền sau đó, chỉ có lãnh được lương 2 sao thay vì 4 sao. Hội-đồng buộc tội cho là phản ứng chậm-chạp, quá nhiều do-dự, không thích ứng theo kịp chiến trận. Còn phía WIB thì hiểu ngầm rằng vì phải bảo-toàn không-lộ và để xoa dịu làm vừa lòng Liên Xô, sau khi buộc phải tiêu diệt CSBV bằng chiến dịch thả Bom Linebacker thay vì Rolling Thunder để cân bằng lực lượng hai bên [theo tài liệu, chỉ có 2 tuần trước khi chấm dứt cuộc hành quân, CIA đã cho lệnh trải thảm 412 trận B-52 trên đầu lính BV, luôn cả các đoàn xe Molotova chở đạn dược hỏa tốc để phục kích QLVNCH rút lui trên đường 9, thay vì lính BV được lệnh Tướng Giáp, lo chuẩn bị phục kích và xa luân chiến tại Căn cứ hậu cần 604. Hành động khẩn cấp nầy, Hoa kỳ đã vi-phạm điều lệ trò chơi ROE từ chiến dịch “Rolling Thunder” qua “Linebacker”]

    Theo như sự ước tính tình báo của phòng MACV J-2, thì Trung-đoàn 29 của Sư-đoàn 324B đã có tham chiến chung với 6 Trung-đoàn BV tại chiến trường, được chia ra thành đơn-vị nhỏ là 21 tiểu-đoàn. Trong đó coi như 5 tiểu-đoàn BV bị xóa sổ; Tuy nhiên nhiều chiến thắng trên đoạn đường Quốc-lộ 9 đang xảy ra có lợi cho VNCH trong những ngày gần đây, nhưng không biết tương-lai sẽ ra sao? Tất cả 7 Trung-đoàn BV nầy đã vây hãm Đồi-31 cả tuần nay với quyết tâm dùng trận địa pháo tận diệt, vì quân VNCH đã lọt vào ổ hậu cần với vô số kể Hỏa tiển 122 ly và các tạc đạn pháo binh đủ loại trong đó đáng kể là tạc đạn 152 ly. Quân BV đang dồn hết nỗ lực, phối hợp trận địa pháo cùng chiến xa, bươn càng lên Đồi 31; Trong khi Tiểu-đoàn 39 BĐQ bị áp lực quá mạnh nên đành di tản chiến thuật về hội nhập với Tiểu-đoàn 21 BĐQ. Sau khi 2 Tiểu-đoàn nầy giữ được an ninh thì được Trực-thăng Mỹ bốc về Khe Sanh liền tức khắc để tái phối trí qua giai đoạn-2. Quân lực VNCH không có quân để thay, nhưng BV có quân thay tại Trung tâm huấn luyện ngay trận địa.

    Khi chở Tướng Đống đến thăm Lữ-đoàn-3 Dù, tại Đồi 31, Tôi đã nhận thấy tình hình và địa thế không ổn, Tôi đã tự hỏi: “Ai là người đã chọn địa điểm nầy?” Trên một đỉnh đồi không cao lắm so với xa về chung-quanh như là một lòng chảo Điện Biên-Phủ, con đường từ dưới Suối lên đến bãi đáp Trực-thăng là đồi trọc, PT.76 leo lên rất dễ-dàng và từ đó leo lên thêm khoảng 80 thước nữa là tới BCH/Căn-cứ cũng đường đồi thoai thoải như vậy. Không khó lắm! Tôi muốn lập lại một lần nữa: “Ai lập ra phóng đồ hành quân Lam-Sơn 719 nầy?” Quân-lực VNCH đã chui vào một kho đạn khổng lồ mà bên phía BV đã thành lập mật trận B.70 từ tháng 10 năm 1970, cả những năm trước đó mỗi ngày, hàng ngàn xe Molotova nối đuôi dài như kiến, vào ban đêm chuyển tiếp liệu vào Nam, dưới tầm mắt thản nhiên đồng tình của phản gián CIA. Riêng những điểm cao ngõ ngách, số đạn phòng không được xe-thồ đưa vào, và được khuân vác trên lưng đoàn dân-công leo lên những vách núi cheo leo dựng đứng bên phía sườn Tây vô cùng an toàn của dãy núi. (Hình ảnh ở trang 90 do phóng viên Ðông-âu chụp)

    Mục đích của cuộc hành quân nầy, theo Hội Đồng ANQG (NSC) là tiêu hủy những vũ khí và chiến cụ lỗi thời của hai đối thủ và kế đến là tiêu hủy những đơn vị sừng sỏ chủ lực của Hai bên, trong lộ-trình hoàn thành định-đề-1, [kế-hoạch Pennsylvania] để khi giao miền Nam không bị ‘tắm máu’ mà chỉ bị ‘rỉ máu’ thôi, nhưng phải đợi khi Quân-lực VNCH khai thác chiến trường trong giai đoạn-3 và trên đường ‘Độc đạo rút về’ lại Khe-Sanh. Hà Nội sẽ dùng chốt chận bằng các Trung đoàn phục kích dọc tuyến Quốc lộ 9 để tiêu diệt cho bằng hết lực lượng VNCH còn lại, dĩ nhiên B-52 cũng làm thịt cả 2 bên. Nhưng việc phục kích vĩ-đại đó không xẩy ra vì quân lực VNCH rút lui khá nhanh (lần nầy nhờ T/Thống Thiệu nên thoát khỏi nhưng lại vướng-mắc khi rút lui đường 7 Cheo Reo, Phú bổn từ pleiku của Quân đoàn 2. Lê Ðức Thọ nhờ được điệp-viên Phạm Xuân Ẩn cho tin vô cùng chính xác trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng thời CIA đã không giữ lời hứa giúp máy cày D-4 và hệ thống cầu dã-chiến cho cuộc lui binh như họ đã giúp trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy. Tướng Phạm Văn Phú vì đặt hết tin tưởng nơi người bạn lớn khi ông còn là Tư lệnh SÐ/1, nhưng khi là Tư lệnh QÐ/2 thì bị một sự bội phản quá phũ phàng giữa quân đội anh hùng bị đồng minh lừa gạt thế nên Tướng Phú đã phải dùng độc dược như Cụ Phan thanh Giản để các nước nhược tiểu đừng quá tin vào người bạn lớn xấu-xa nầy.

    B.52 không được tiêu diệt nhân mạng vào lúc nầy, thế nên, khi các Trung-đoàn BV tràn ngập vào Đồi-31; Thì B.52 không thả, nhờ thế mà Đại-tá Thọ và Phi hành đoàn trực thăng H.34 của Trung úy Chung Tử Bửu bị mắc kẹt mới còn sống để đi ở tù ngoài Bắc. Nguyên một Tiểu-đoàn-3 Dù phải chịu cảnh tàn sát dưới biển lửa của hằng chục ngàn ngàn trái đạn đại pháo cầu vòng đủ loại vùi dập, và họ đã anh dũng tử thủ cho đến hơi thở cuối cùng. “Tội nghiệp, ai biết được các chiến sĩ Dù vô danh nầy đã nằm yên vĩnh-viễn trên một ngọn đồi không người biết tới cùng với 2 Queenbees của LÐ51TC?”

    TRUONG VAN VINH

  4. #4
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển chọn trên diễn đàn THÉP SÚNG

    KGB/CIA đạo diễn cuộc chiến Việt Nam

    Xuất phát từ [http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman, page 1 of 7- Trang 4, Political Career, “Aid to Russia 1941-1946 renewed, reactivated Plan] - 1964 Hà Nội có được AK-47, VNCH vẫn còn xài Garant, Carbine M1 đến cuối 1968; 1973 sau hiệp định hòa bình Paris, Hà Nội có 700 triệu tấn vũ khí mới toanh, tối tân với 3 mục tiêu: (1) Chiếm miền nam 1975, (2) Chiếm Cambodia, (3) Phòng thủ Hà Nội 1979 bởi TQ sẽ dạy VN bài học.

    2010-2020 (10 năm trù dập TQ) Tàu ngầm Kilo, Phi cơ siêu thanh, nếu được Mỹ bật đèn Xanh như lời Đại sứ Michalak cũng nói Tướng Vịnh không phải là người mà Trung Quốc "dễ nắn gân". Michalak nhắc lại Tướng Vịnh từng nói thẳng về khả năng xảy ra xung đột quân sự với Trung Quốc và trong một cuộc gặp với quan chức ngoại giao Hoa Kỳ, tướng Vịnh đưa ra một bức tranh về ... Hoa Kỳ nói ông Vịnh không lãng tránh vấn đề Biển Đông. Ông tướng này bác bỏ tuyên bố chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc và nói Việt Nam "biết cách chiến đấu và chiến thắng".

    Tướng Nguyễn Chí Vịnh sẽ cho oanh kich đập Tam Hiệp, lấy cớ TQ làm cho vùng châu thổ hậu giang chìm dưới nước mặn, ngăn cản sự sống của vựa lúc VN được thế giới tán đồng để nuôi sống nhân loại. TQ sẽ bị tàn phá sau đó như một cuộc tận-thế đại hồng thủy và tan ra từng mảnh khi có lịnh của Mỹ, đó là thái độ của VN hiện nay (đúng vào thời đểm “roll-back” 2010) đã làm ngạc nhiên các bạn không ít, như những phản ứng của VN vừa qua trong khi kiên quyết bắn hoả lực thực, quyết không cho TQ đem giàn khoan tối tân khoan dầu dưới 3000 thước đến đặt trong vùng 200 hải lý gần Phú Yên, nơi có số lượng dầu lớn nhứt) Dưới đây là mặt trái cuộc chiến cần thiết do CIA/KGB đạo diễn:

    Một tài liệu của Bộ Quốc Phòng Hoa-Kỳ đã được giải mật, người ta phải sững sờ khi thấy những chuyện không thể ngờ về những điều khoản của ‘luật lệ giao tranh’ ROE, mà con người bình thường cho đây là một chỉ thị về điều lệ ngu-xuẩn. Nhưng đối với tư tưởng Harriman, một Chiến-lược-gia chính trị nhà nghề về Liên-Xô cho đây là cái thế để dụ dỗ đối-phương vào cái bẫy mà Nhóm học giả nghiên cứu rất công phu tỉ mỉ trong cái thế Bên kẻ mạnh (strong-man) Hay nói cách khác Hoa-kỳ đã dùng thế cờ CIP và chấp cho thế cờ NLF của Liên-Xô không những đi trước một nước, mà nhiều nước, trước khi tới phiên Mỹ. Dĩ nhiên lúc đầu Hoa-kỳ phải chới với, ngất ngư, thất thế vì bị tấn công nhiều mặt. Nhưng sau cùng, còn quá sớm để nói lên: Liên-Xô phải chào thua và nhường lại những nước như Mông Cổ, và các nước Cộng Hòa Trung Á, tài nguyện còn nguyên vẹn ở dưới lòng đất, và sau cùng là Việt-Nam sẽ là thành viên ‘lá-chắn’ (shield) son sắt trong PACOM (Manage the defeat, overhauling the damage control, to Roll-back) nhưng trên thực tế, không nước nào chịu hy sinh cho nước khác, đó chẳng qua Việt Nam có một số lượng dầu khí đứng hàng đầu của các nước ÐNÁ cho nên Hoa kỳ mới e-ấp che chở!

    Mà thật vậy, những luật lệ giao tranh ROE xem ra thật ngộ nghĩnh mà Tôi cho rằng “khổ nhục kế” Các chỉ thị nầy đã ngăn cản rất nhiều hiệu năng chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ, chẳng hạn các lệnh cấm máy bay Hoa-Kỳ không được tấn công các dàn hỏa tiễn SAM đang trong giai đoạn lắp ráp vì sợ rằng gây tử thương cho chuyên viên Liên-Xô đang nối ráp; không được tấn kích Phi-Cơ MIG trên phi đạo, chưa cất cánh, hoặc ngay cả khi các phi cơ MIG nầy đang bay nhưng không có hành động khiêu khích, như huấn luyện viên Liên-Xô đang bay thao dợt huấn luyện cho Phi-công BV. Đây cũng là điều lệ mà Hoa-kỳ tự xem như là “Khổ nhục kế” nhường cho Liên Xô có cơ hội phát triển, thí nghiệm vũ khí phòng không qua giai đoạn thế hệ mới, dùng hỏa tiễn tiêu diệt phi cơ Mỹ thay vì súng phòng không đạn cổ điển chạm nổ, trong kế hoạch Khổ-nhục-kế nầy, Hoa-kỳ và Liên Xô chụp các nhà bác-học Ðức để làm gì? nên phải có đấu trường để thí nghiệm vũ khí, Harriman phải đem những Phi-công ưu tú của Hải Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Phi Công VNCH ra làm “Mồi” cho Liên Xô thí nghiệm hỏa tiễn phòng không. Và đồng thời lợi dụng trường hợp gây chiến tranh để tiêu hủy một số phi cơ lỗi thời như: về Không Quân có F.105 Thunderchief, F.100 Suber Sabre, F.102 Woodo, F.4 Phantom…Về Hải Quân có, A.4 Sky-Haw, A.7 Corsair, A.8 Crusader, A.6 Intruder… Đã vậy, Phi-công oanh tạc Bắc Việt không được quyền xử dụng bom tinh khôn ‘smart’, bom Laser, CBU-55 hay bom vô tuyến điều khiển, mà phải dùng bom chạm nổ thông thường, và một lần nhào-xuống chỉ được thả xuống hai trái, không được thả hết một lần, có như vậy mới giải quyết bằng nhiều Phi-cơ bị bắn rơi và nhiều Phi-công bị bắt. Trò chơi khổ nhục kế nầy thật thần sầu quỷ khốc, nhưng thật ra cũng để có cơ hội giải tỏa chiến cụ lỗi thời và thay vào thí nghiệm phát triển loại vũ khí mới hiện đại hơn cho cuộc chiến Trung Đông tiếp diễn sau nầy qua Màn-3 của trò chơi chiến tranh Eurasian.

    Trong khi miền Nam quân BV dùng vũ khí tối tân như AT.3 điều khiển bằng vô tuyến bay vào ngay các hầm hố công sự của quân lực VNCH để phá hủy, dùng hỏa tiễn cầm tay SA7 để tiêu diệt Phi-cơ. Họ có B.40, 41 để tiêu diệt xe Tăng, trong khi quân lực VNCH không có thứ vũ khí diệt Tăng. Mãi đến giữa năm 1972, một đợt mới từ Hoa-kỳ qua với loại vũ khí hỏa tiễn TOW diệt Tăng. Nhưng không phải dễ dàng để được nhận đâu. Thoạt tiên Tướng Abrams nói:
    “Tôi giao 20 trái hỏa tiễn TOW cho Thủy Quân Lục Chiến VN và Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bởi vì họ là những chiến sĩ như tôi đã biết gan lì chiến đấu kiên cường; Còn như Binh Chủng Dù, tôi đã nói với Trung Tướng Kroesen Cố-vấn Vùng-1 rằng: Nếu Tướng Trưởng hứa và bảo đảm với tôi là họ không bỏ lại ngoài chiến trận và rồi tôi sẽ suy nghĩ lại có nên giao cho Dù giữ hỏa tiễn TOW hay không?”
    (Quả thật Tướng Abrams đánh giá quá sai về lực lượng mà chúng ta thường gọi là “Thiên thần mủ Ðỏ”) Trong khi đó, nhóm phản chiến nữ Tài tử Jane Fonda, nam Ca Sĩ Bob Dyla, Nữ Ca Sĩ Joan Baez và ngầm trong bóng tối là Trung Úy John Kerry cho Hà Nội biết về vị trí phòng thủ để tiêu diệt phi cơ Mỹ. Như cây cầu Hàm Rồng đã có biết bao nhiêu Phi Cơ bị bắn rơi nơi đó vì chỉ dùng bom nổ thường, thay vì chỉ cần bắn một trái hỏa tiễn Pul-Pulp vô tuyến điều khiển là xong chiếc cầu. Để rồi không biết bao nhiêu tù binh Mỹ phải bị bắn rơi, trong đó có Đại sứ Peterson tại VN sau nầy (1995) và Thượng Nghị Sĩ John McCain…

    Để đổi lại, Hoa-kỳ khai thác được phương cách chống hỏa tiễn phòng không, bằng cách xử dụng hệ thống quang-tuyến Sensor phát hiện vật lạ với một tốc độ gia tăng bắn tới Phi-cơ và máy dò-tìm sẽ báo động ngay trong nón bay của Phi Công qua tín hiệu SAM-SAM-SAM… lúc nghe được tín hiệu, Phi-công chỉ cần nhào lộn hay đổi hướng thật gắt, là hỏa tiễn sẽ bị mất đà và trượt qua một bên. Ngoài ra, Hoa-kỳ trắc nghiệm tìm hiểu và đánh giá khả năng phát hiện bằng Radar của Liên Xô qua Trực-thăng gián điệp 21-SOS chuyên thả toán thám sát Strata với ám hiệu ‘Pony’, cất cánh từ căn cứ Không Quân Nakhon-Phanom, nằm sát theo biên giới Thái-Lào. Chiếc Trực thăng tối tân HH-3S sẽ bay xuống thấp để tránh hỏa tiễn SAM, đồng thời xem thử Radar Liên-Xô có phát hiện nổi hay không? Nhưng vào những năm đó (1964) khi Tôi bay ra khỏi biên giới Lào Việt là bị ngay 2 chiếc Super Sabre F.100 của Không Quân Hoa Kỳ lên làm thủ tục ngăn chận, ám hiệu ra lệnh cho chúng tôi phải bay trở về biên giới ngay, nếu không sẽ bị hỏa tiễn bắn hạ.

    Và nhân quả tức nhiên của nó, cho mãi đến ngày 30/5/1987, một thiếu niên người Tây Đức (Không có bằng chứng CIA tài trợ nuôi dưỡng) tên là Matthias Rust lái một chiếc máy bay nhỏ từ thủ đô Helsinki Phần Lan, đã vượt biên giới Liên Xô. Rust như một Phi-công lão luyện bay thẳng một mạch, vượt qua mặt toàn thể hệ thống phòng không Radar và Hỏa-tiễn SAM-2 bay xa đến 400 miles và hạ cánh xuống ngay Công-trường Đỏ ở Mạc Tư Khoa. Người ta cho rằng thiếu niên nầy đã bị bốc đồng nên nổi hứng?! (Tôi không nghĩ như vậy) Thử xem có bay được đến Công Trường Đỏ để gây tiếng vang ngoạn mục lưu đời? Người ta cũng cho rằng, cậu bé Rust ngây thơ không bao giờ nghĩ đến hay sợ hãi hỏa lực ghê gớm của hệ thống phòng không Liên Xô. Việc nầy đã làm cho toàn bộ hệ thống an-ninh phòng thủ Liên Xô và KGB trở thành một trò cười cho cả thế giới, vì chỉ một chuyến bay có tính cách chơi đùa của trẻ con, đã khiến cho đảo lộn cả toàn bộ Chính trị và Quốc phòng Liên Xô. Tôi cho đây là Phó T.Thống, George H.W Bush, [Ðại-đế giấu mặt của thế hệ thứ 2 Skull and Bones] đã dùng chiến tranh tình báo để giúp Gorbachev lật ngược thế cờ loại bỏ những tên Cộng Sản cực đoan, cuồng tín, Liên Xô chỉ chú ý đến qua kinh nghiệm cuộc chiến tại Việt Nam, vào khoảng không với cao độ, nơi mà những hỏa tiễn SAM tìm-nhiệt diệt phi cơ phản lực của Mỹ hay máy bay do thám U.2, R. F.101 thường xuất hiện với cao độ. Còn như cậu bé Rust bay máy bay nhỏ với cao độ thật thấp, nên không hiện lên trên màn ảnh Radar. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng một chiếc phi cơ nhỏ bay dễ bị gió lạc, nhứt là ở cao độ quá thấp, nếu không có radar sensor Tacan thì không cách nào đến được mục tiêu. Ðây là một chiến công lẫy lừng của ngành phản gián CIA, để rồi nhân cơ hội nầy, Gorbachev lập tức ra lệnh thanh trừng và thay đổi cấp chỉ huy: Người thứ nhất là, Bộ-trưởng Quốc-phòng Liên Xô, người thứ hai là, Thống-chế Sergei L. Sokolov, hung thần chiến tranh, đã có lời đe dọa sẽ gởi hạm đội tàu ngầm nguyên tử qua trừng trị Mỹ năm trước, bị cho giải ngũ. Cử Thống-chế Dimitri T. Yasov lên thay thế, Thượng-tướng Vladimir Kruichkov lên nắm quyền Tư-lệnh KGB, cùng nhiều Tư lệnh an- ninh, quốc phòng và các binh chủng bị thay thế.

    Hoa-Kỳ đối về mặt Phản-tình báo chiến lược, đây là một thời điểm cực kỳ quan trọng để thay đổi lịch sử vô cùng thuận lợi để dẹp bỏ chế độ Cộng Sản như TT Reagan đã nói: “Đã đến lúc người Cộng Sản phải lật trang sử cuối cùng!” (Quả thật W.A.Harriman có tằm mắt nhìn xa khi chọn dòng họ Bushes, có máu di-truyền về tình-báo, lên ngôi Skull and Bones-2) Vì chuyện thằng bé chơi đùa ngỗ nghịch ở trên mà Ông Gorbachev hầu như không còn ai chống đối. Có phải do cơ-trời hay do sự ảo-thuật của Tình báo Hoa-Kỳ? nên ông Gorbachev không còn do dự gì nữa, thẳng đường tiến tới hợp tác với Mỹ, ra lệnh cho quân đội Liên Xô án binh bất động, mặc kệ cho nhân dân Đông Âu nổi dậy giành lại chính quyền, phá tan bức tường Bá-Linh, săn lùng các Cán-bộ Cộng Sản và tuyên bố thế chiến lược mới “Ðộc-lập Tự-do thật sự!” Ông Gorbachev cũng đến Hà Nội và nhiều nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác, cảnh cáo họ rằng: Phải chuẩn bị tự lực cánh sinh vì Liên Xô đổi mới sẽ không còn khả năng chi viện nuôi Chiến tranh Giải phóng (NLF) nữa.

    Đặc biệt đáng ghi ngận, ông Gorbachev đến tận Hà Nội và cảnh cáo lãnh đạo Hà Nội rằng: “Liệu đường mà đi với Hoa-kỳ cho nhanh, ông lại ngụ ý, phải cẩn thận vì không còn cái dù che của Liên Xô và có thể bị Trung-Cộng làm thịt. Nhưng ngặt nỗi, Hoa-kỳ không hấp tấp, để kéo dài thời gian coi cho được, cần thiết theo lộ trình rồi mới đưa hai bàn tay ra nâng đỡ VN; Hơn nữa, phải để cho VN thêm một lần nữa thấm đòn và chuốc thêm nhiều đau thương với Trung Cộng vào một thời gian khá lâu… rồi sẽ ôm ấp sau. Cái thế siêu chiến lược của Nhóm dân sự theo tư tưởng Harriman là vậy! Việt Nam ao ước được có một tuyên ngôn độc lập dân quyền, như hồi năm 1945, ngày cụ Hồ tuyên bố trước thế giới, hãy nhìn vào lịch sư Hoa Kỳ xem thử họ đã trải qua bao nhiêu thời gian đầy sóng gió, thảm cảnh nội chiến để thành đạt bản tuyên ngôn mà Họ tự cảm nhận “Freedom is not for Free!” có nghĩa “Muốn Ðộc lập Tự do phải trả giá!?”

    Cấm đánh phá các xe tải Molotova đang chạy trên đường xa lộ Harriman vào ban đêm mà không mở đèn pha, hoặc không đang di chuyển trên xa lộ, có nghĩa là đang ở bãi đậu, vì thế tài xế Molotova thường chạy ban đêm, còn ban ngày thì núp dưới rừng già để ngủ. Điều nầy đã có chứng-nhân là ông Hồ Sĩ Hãi, tài xế xe tải, quê ở Thái Bình, trong cái gọi là nạn nhân chất độc màu Da Cam. Đơn vị của Hãi được lịnh ngủ vào ban ngày, di chuyển vào ban đêm. Nhưng theo sự hiểu biết của Tôi, thì loại thuốc nầy chỉ có hiệu quả khi rải vào lúc trời tờ mờ sáng. Vì lúc nầy không khí thăng bằng ít lay động nên thuốc mới rải, tỏa từ từ theo chiều thẳng đứng xuống rừng cây. Trường hợp của ông Hải là giai đoạn trong chiến dịch “Hot-Tip”(1966-1968) để khai hoang làm dấu chỉ đường dùm cho CSBV phóng đường Trường Sơn Tây, [dù rằng các Tướng lãnh CSBV không ưa thích vì phải mất gần 4 tháng trong khi Trường sơn Ðông chỉ cần 1 tháng, làm sao ai hiểu được tư-tưởng Harriman muốn biến Trường Sơn Tây sau nầy thành Xa-lộ Liên-bang Ðông-dương] Còn tôi thì thả phun thuốc cho chiến dịch “Ranch-Hand” (1962) Ngoài ra tất cả là đều do vận tải cơ C.123 của Không-quân Hoa-kỳ đảm nhận.

    Theo mật lệnh siêu chánh-phủ, công cụ Mac Namara (tác giả của sự kiện Vịnh BV và hàng rào điện-tử Mc Namara) đích thân ra các lệnh lạc xuất phát từ Bộ-quốc-phòng, đôi khi cố tình làm trái ngược, không rõ nghĩa, mù mờ và thường xuyên phải chậm chạp gọi là vô cùng cẩn thận, rụt rè, cho có vẻ là tuyệt đối bí mật về Quân Sự, với dụng mưu không đáp ứng được với biến chuyển của tình hình nóng bỏng ở chiến trường. Dưới con mắt vô cùng bực mình của các Tướng-lãnh như: Curtis Le-May, Arleigh Burke, Nathan Twining…Các Tướng nầy cho rằng: Cuộc chiến đã có thể thắng dễ dàng, nhanh chóng, nếu không có sự điều hành ngu xuẩn của Nhóm lãnh đạo Dân Sự? Tướng Westmoreland lại không hiểu sâu xa của vấn đề, vì Quân-đội Mỹ qua Việt Nam với nghĩa-vụ “Thao dượt tập trận thật”, nên phàn nàn: TT. Johson phản ứng quá chậm chạp, còn dư luận quần chúng Hoa-kỳ thì cho rằng: Những nhà chính trị kềm hãm quân đội và không cho phép họ chiến thắng. Và theo viện thống kê thì có tới 82% quân đội Mỹ tham chiến các trận khốc liệt nhất cho rằng: Phải, chỉ chấp nhận thua trận, chớ không được quyền thắng. Điều nầy đã rõ theo sự hiểu biết của tôi là: Không cần nhiều quân, chỉ cần E.C.130B với đạn 106, và 40 ly tầm nhiệt và bom C.B.U. 55 là đủ làm thất vọng quân xâm lược CSBV, vì không còn một chiếc xe nào kể cả người và vật được di chuyển dễ dàng trên đường xa-lộ Harriman mà không bị tiêu diệt. Trong khi đó ở Nam VN có nhiều bom CBU-55 nhưng không có đầu đạn (War-Head) Có thể xem đó là loại bom có thể giết tất cả sinh vật sống bằng dưỡng khí, còn vật chất thì không hề hấn gì kể cả màng nhện.

    Đệ Thất Hạm Đội Hoa-kỳ không được tiêu diệt các tàu viễn-duyên CSBV của Ðoàn 759 điều hành, do Trung Quốc viện trợ cho Bắc Việt để tiếp tế chiến cụ cho Miền Nam VN, thuộc về mặt cung cấp tiếp liệu đường biển. Tuy nhiên cũng phải màu mè chút ít, khi báo động chỉ điểm cho quân lực Miền Nam tiêu diệt 3 chiếc tàu, 2 ở cực Bắc và Nam của Miền Nam và 1 ở ngay giữa Vũng Rô, Tuy Hòa. Còn trong đất liền Không-quân Mỹ đánh phá cầm chừng trong chiến dịch dội bom “Rolling-Thunder” hay nói cách khác để cho lính BV chỉ nghe “tiếng sấm rền thôi”, không ai chết đâu! Hàng rào điện tử Mac Namara thiết lập là không phải mục đích để tiêu diệt quân BV mà chỉ để theo dõi (Flow-Control) cường độ xâm nhập của lính BV, đồng thời cũng có vài trận đụng độ với quân đội Mỹ, nếu quân đội BV vượt qua mức đèn Vàng báo động. Thí dụ, như trận đụng độ tại Pleime trên Cao Nguyên chẳng hạn, để cho quân đội Mỹ có cơ hội thao dượt chiến trường, gọi là ‘tìm và diệt địch’ Tư-tưởng Harriman muốn vậy. Thế mà báo chí Mỹ diễu cợt quân đội VNCH là “tìm và né tránh,” (search and avoid). Họ có hiểu rằng: Người Mỹ đã bảo hộ Miền Nam và họ muốn tạo điều kiện cho quân đội họ có cơ hội để tập trận! (Combat training)

    Ông Van Marbod, Đệ 1 Phụ-tá Quốc-phòng nói: Mỹ hóa trước rồi Việt hóa sau do chiến cụ Mỹ để lại. Còn Tướng O’Daniel nói toạc ra là “Ai chi tiền thì người đó chỉ huy” (Who pays commands). Trong khi 2 anh em Cụ Diệm, Nhu, không cần chi tiền để giữ vững chủ quyền Quốc- gia mà có được đâu! Sau trận Pleime, một tiền đồn thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ ở đây, đã bị vây khốn bởi những đơn vị đông đảo BV; xung quanh đồn không biết bao nhiêu Phi-cơ Mỹ bị bắn hạ kể cả Phản-lực Cơ F.100, F.105 đặc biệt 4 quân nhân Mỹ đã bị thương và đang chờ Trực-thăng di tản. Phi công Trực thăng Mỹ không dám vào vì đã bị rớt quá nhiều chung quanh đồn; Lúc nầy Phi-công Thần-Phong 2, thuộc phi đội Project-Delta là Đại-úy Nguyễn-Minh-Vui tình nguyện bay Queen-Bee vào cứu, đồng thời trong chuyến bay cảm tử nầy Hoa kỳ đem vào một loại vũ khí khá đặc biệt để tiêu diệt phá vòng vây, đoàn viên Thần-Phong 2 gồm có Đại-úy Vui, Trung-úy Châu Lương Cang và Chuẩn-úy Nguyễn Văn Mai và 2 quân nhân Mũ Nồi Xanh Mỹ đem vào loại vũ khí mới.

    Đại úy Vui, dùng chiến thuật “chiếc lá lốc-cuốn trong cơn bão” để đáp, trong khi trên trời một đoàn Trực thăng UH.1 đang bay đánh lạc hướng đối phương. Từ một góc trời, chiếc H.34 bất thần giảm tối đa tốc lực máy, đâm đầu xuống xoáy tròn khuôn ốc như chiếc lá cuốn tròn trong cơn lốc, trong khi các loại súng phòng không đủ cỡ chỉa vào một chiếc Trực thăng đơn côi đang rùng mình trong cơn bão lửa. Vài viên đạn đại liên 14,5 ly đã xuyên qua thành tàu, bay ngay vào một quân nhân Mỹ, hắn ngã quỵ chết ngay trên sàn tàu, máu chảy lênh láng trôi về cửa chính, bay ra không gian cuốn tan theo gió. Khi Trực-thăng chạm đất, người lính Mỹ còn lại đem vũ khí xuống và liền tức khắc 4 quân nhân Mỹ bị thương được đưa lên H.34. Lúc cất cánh, Đại-úy Vui dùng lối “Khủng Long áp đảo” bay rà sát gầm thét trên đầu địch làm chúng không kịp trở tay, khi thấy được, thì chỉ còn cuộn gió và âm thanh nhỏ lần để lại nơi đó. Đến phi-trường Holloway- Airfield, tất cả Phi công Trực thăng Mỹ chạy ra bồng bế Đại úy Vui như một anh hùng vĩ-đại. Sau đó Đại úy Vui được phía Hoa-kỳ tặng cho một Anh-dũng Bội-tinh với Ngôi-sao Bạc. Phi- công biệt kích Delta (Queen-Bee) anh hùng như vậy! Tất cả Phi công Mỹ đều nghiêng mình thán phục hành động cứu bạn đồng minh của phi công VN.

    Tháng 10/1966, với sự hiệu quả của vũ khí nguyên tử chiến thuật trên, 2 năm sau, Khe-Sanh bị bao vây bởi 4 Sư-đoàn lính BV cùng với 2 Trung-đoàn Pháo yễm trợ có chiến xa T.54 và PT.76 tùng thiết đưa tổng số 40,000 quân, vây hãm 6,000 TQLC Mỹ, Tướng Westmoreland cũng sẽ dùng loại vũ khí nguyên-tử chiến thuật nầy? (Tactical Nuclear Weapons) để phá vòng vây của quân BV, dù rằng trước đó quân CSBV đã chạm súng dữ dội ngay ngoại-vi hàng rào Khe-Sanh với Tiểu-đoàn BÐQ của VNCH, nhưng cảnh Ðiện Biên Phủ ở Khe-Sanh không xảy ra như báo-chí đã ồn ào la hoảng. Sau đó, 6000 TQLC Mỹ rút ra về lại Ðệ 7 Hạm đội bằng đường bộ, không nghe dù một tiếng súng nhỏ.

    Về mặt Tình-báo là chỉ để kiểm chứng sự có mặt của Quân đội BV trên đường Trường Sơn Tây qua các toán Thám-sát như Lôi-Vũ, Biệt-kích Hunt, Strata, gián điệp ngoài Bắc, tất cả chỉ để gây tiếng vang, đồng thời kích thích lòng tự hào và cao ngạo của Đảng CSVN (do Cơ-quan Phản- gián CIA xử dụng khéo léo “Tam-trùng” Phạm Xuân Ẩn trong khi Hà Nội chẳng hiểu gì cả) Đoạn đường dài vào khoảng 900 miles từ đèo Mụ-Giạ đến dãy núi phía Bắc Pleime, sau khi được vận tải cơ C.123 phun thuốc khai hoang, B.52 dội bom phá những nơi núi đá hiểm trở cho trống trải chỉ dấu (Tracking) làm đường và đồng thời hàng 100 ngàn ‘Cần Anteme’ thu phát các tiếng động được thả xuống trên đường nầy, để được truyền về cho Tình-báo địa phương theo dõi các hoạt động của quân đội BV, có đúng là di chuyển vào Nam hay không? Càng dễ thấy và dễ hiểu được qua các cuộc hành quân LOKI, bắt người từ ngoài Bắc đem về đảo Cù Lao Ré, Quảng-Ngãi (hay gọi là cù lao Chàm), nuôi thúc cho mập rồi thả về để lộ nguyên hình, với vẻ hồng hào, mập mạp giữa đám người ốm đói, xanh xao kể cả các cán bộ cấp nhỏ,…rồi bị bắt đi cải tạo tư tưởng… trong khi Không-quân Chiến-lược Mỹ (SAC) thả 14 triệu tấn bom ở Miền Nam, trong đó có 6 triệu tấn chỉ dọc biên giới Lào Việt không dài cho lắm, nhưng không phải để tiêu diệt CSBV mà trên thực tế là để biến những hố bom thành hồ cá, và nơi tắm giặt cho cán bộ (nghe buồn cười nhưng sự thật là như vậy, chiến dịch thả bom gọi là tiếng sấm rền “Rolling Thunder” nghe vui tai) và khai phá bình địa vùng núi đá bên trong, dọc theo biên giới Lào để phóng đường Trường Sơn Tây. Mục đích sâu xa và tinh-vi là kích thích CSBV chiếm Miền Nam, nhưng ai hiểu được, trong tương lai Hoa-kỳ sẽ lịch sự nhường cho Trung Quốc qua mộng bành trướng sẽ mở xa lộ Liên-bang Đông-Dương cho đến khi vừa xử dụng được thì nước Tàu đã bị chia ra nhiều Tiểu-quốc và đương nhiên xa lộ nầy sẽ tự động biến từ Quân-sự thành mục tiêu Kinh tế hòa-bình cho các nước vùng lân cận. Và đảo Hoàng-sa ngày xưa Kissinger đã bật đèn Xanh, lập lờ giao cho Trung Cộng (1/1974) gọi là tin ngoài hành-lang (lobby scandal). Lúc đó, Hoa-kỳ làm trọng tài đứng sau lưng VN để lấy lại tại bàn hội nghị LHQ. Việc nầy cũng thuận lý, vì là ổ của loài con chim Ó làm ra, sao lại có Le Le, Vịt Trời nở con ra nơi đó!? Nhưng Nhóm trẻ Trung Quốc sau nầy có tầm nhìn xa hơn, nên đang tìm cách trả lại Hoàng-sa cho Việt Nam để khỏi bị sa vào cái Bẫy của Mỹ đã giăng ra 1974 và òn ỷ, dụ dỗ xin mướn dài hạn Hải Cảng Cam Ranh với mục đích đồng có lợi song-phương cho việc khai thác lọc dầu gần thềm lục-địa với sự gật đầu của Hoa kỳ, vì họ không muốn lập lại biến-cố Trân Châu Cảng, 1941 khi cô lập Nhựt Bản về đường tiếp tế dầu hỏa buộc Nhựt phải gây chiến trước.

    Thế kỷ 21 Trung Quốc không dại gì gây chiến trước dù VN có tát vào mặt TQ! Không có chiến tranh xảy ra trong thế kỷ 21 như siêu chiến lược gia William Averell Harriman đã dự tính mà vào ngày sinh nhựt thứ 90 của Harriman, người em út sau cùng của giòng họ Kennedy đã tuyên bố trước bá quan văn võ: “We couldn’t have held the twentieth century without him”

    KQ TRƯƠNG VĂN VINH

  5. #5
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển chọn trên diễn đàn KHÔNG QUÂN

    LAM-SƠN 719 và LIÊN ĐOÀN 51 TÁC CHIẾN

    Tôi không thể nào không kể lại chiến công của LÐ1BÐQ trong trận chiến Lam Sơn 719: Là định mệnh đặt để cho sự chiến đấu dũng cảm của TÐ39 BÐQ và sự thảm bại của LÐ51TC, có phải do thiên định mà 2 phi hành đoàn của PÐ 213 và 233 phải hy sinh 8 NVPH cho sự nhầm lẫn như dưới đây:

    Ðêm 10, February qua chưa … mà trời sao lại sáng! – Trong đôi mắt nhắm nghiền vì quá mệt mỏi cho số phận của 2 đoàn viên UH-1H đã bị bắn tan xác vào buổi chiều hôm qua. Tôi bỗng giựt mình choàng mở to đôi mắt vì một tràng đại bác bắn yểm trợ hay quấy rối gì đó cho quân bạn của Mỹ. Tiếng của đạn 175 Long Tom không chát chúa bằng 8 inch đang mỗi lúc càng ác liệt thêm lên, 42 khẩu đại bác nầy ở đây Mỹ yểm trợ cho ai? Cho TÐ39 BÐQ ở Landing Zone Ranger North, nơi trực thăng của LÐ51TC bị bắn tan xác khi cuộc hành quân mới bắt đầu đến ngày thứ ba [N+3] Thật không có cái cay đắng nào hơn hôm nay, ngày 10, February, 2 đoàn viên UH1-H đã bị bắn tan xác mà người đơn vị trưởng như tôi chẳng biết ất giáp mô-tê gì cả, Tôi như con Gà đá độ bị thua trận te-tua, ấm-ức xù lông, đang bị giam hãm dưới bốn góc mùng quân đội u-tối xám xịt không lối thoát. Cái nhục đau đớn nhứt là người anh cả không biết tình trạng của con em mình ra sao! Rồi những gương mặt thân thương của hai phi hành đoàn nầy không bao giờ không ẩn hiện trong tâm tưởng tôi như kêu-rêu oán trách đắm chìm trong những cơn ác mộng triền miên! Sáng nay tôi sẽ phải tìm đủ mọi cách để hiểu biết tường tận về tình trạng của con em mình …

    Cũng vì sức khỏe của Nhân-Viên-Phi-Hành, đối với BTL Hành Quân, sự tranh đấu cũng không dễ dàng với Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh, TMP/Hành Quân/QÐ1 để cho anh em Trực Thăng không phải đậu tại phi trường Khe Sanh nầy vì cần phải có giấc-ngủ tốt về đêm mới có sức lực yểm trợ cho quân bạn, nên anh em được về Ðồng Hà, Ái Tử ngủ đêm. Một mình tôi chịu trừng phạt bằng những âm thanh nhức óc chói tai nầy bên cạnh TOC và BCH tiền phương Dù cũng đủ bảo đảm cho nhiệm vụ yểm trợ cho ngày mai; Dù sao dựa vào tình huynh đệ chi binh tôi có nói đùa với Ðại tá: “Theo sự hiểu biết của tôi, trong mùa nầy, nếu có buổi sáng nào… Ðại tá thấy sương mù tan trước 9 giờ… Ðại tá đem tôi ra bắn bỏ!” Ðể rồi Ðại tá Vinh rất thông-cảm nhưng miễn sao chu-toàn phi vụ là OK Tôi quyết tâm phải tìm hiểu dữ kiện tai nạn ra sao?

    Ngày 8 tháng February 1971
    - Hồi 1giờ chiều, TÐ 21 BÐQ do Th/Tá Tiểu-đoàn Trưởng Nguyễn Hiệp được trực thăng vận tới bãi đáp [Landing Zone South] BÐQ Nam, khoảng 5 cs Tây Bắc FSB Ðồi-30, phòng không 12.7 ly của Việt Cộng trên đồi trọc bắn xuống dữ dội khiến 11 BÐQ bị thương; Trực thăng võ trang Cobra của toán Không Kỵ Hoa Kỳ bắn phá các ổ phòng không để bảo vệ cho trực thăng tiếp tục đổ quân [trực thăng võ trang P.Ð 213 chỉ chịu trách nhiệm yểm trợ cho quân Dù mà thôi] Các cuộc oanh kích này gây một số tiếng nổ phụ và phá hủy một số công sự của địch. Cuộc đổ quân hoàn tất vào lúc 11 giờ đêm (trong đêm tối phi cơ AC và EC-130B dễ dàng yểm trợ tiếp cận cho quân bạn và không chế, cũng như tiêu diệt các ổ phòng không địch)
    - Hồi 7 giờ 20, tại địa điểm XD 632370 gần Căn Cứ Hỏa Lực, Phú Lộc nơi đặt BCH/LÐ1/BÐQ và TÐ 37 BÐQ trú đóng bị địch pháo kích bằng khoảng 50 quả đạn vừa súng cối 120, 82ly cùng đại bác 152, 130ly khiến BÐQ 3 chết và 15 bị thương.

    Ngày 9 tháng February
    - Thời tiết xấu khiến việc chuyển quân bằng trực thăng bị đình hoãn 24 giờ; dù vậy, các đơn vị VNCH khoảng 5000 chiến binh đã sang Lào trong ngày hôm truớc đã lập tức bung ra hoạt động trong vùng trách nhiệm cũng như đào công sự phòng thủ chiến đấu
    - Hồi 3 giờ 45 chiều, TÐ/21 BÐQ chạm địch khoảng 1 Ðại Ðội cách 4 cs Tây Bắc CCHL Ðồi-30. Kết quả địch 8 chết, 1 AK 47 bị tịch-thu, phía BÐQ thiệt hại 1 chết, 1 bị thương.

    Ngày 10 tháng February
    - 2 chiếc UH1-H của PÐ/ 213 và P/Ð233 bị bắn tan xác- trong khi thời tiết có sáng sủa hơn.
    - Hồi 1 giờ chiều: Tại gần Landing Zone South, BÐQ Nam, một hợp đoàn 4 trực thăng của Liên Ðoàn 51 Tác Chiến, SÐ1KQ chở các SQ Tham Mưu QÐ/I bị phòng không 37 ly của địch bắn cùng phòng không 12, 7 và 14, 5 trên PT-76 bên sườn đồi bắn chéo qua. Kết quả 2 trực thăng bị rơi, tất cả mọi người trên 2 trực thăng này đều bị chết; Chiếc thứ nhất chở các Ðại Tá Trưởng Phòng 3 và 4 của QÐ1. Chiếc thứ ba chở 4 phóng viên ngoại quốc là các anh Larry Burrows của báo Life, Henri Huet của hãng AP, Ken Potter và Keishaburo Shimamoto của tờ Newsweek. Tin cho biết vị Trưởng Phòng 3 có mang theo bản đồ hành quân và đặc lệnh truyền tin, tuy quân ta có lục soát nhưng không tìm ra chỗ trực thăng bị rơi. Do đó địch có thể đã bắt được các tài liệu quan trọng ngay từ khi cuộc hành quân khởi đầu. Ðó là điều mà báo chí tây phương muốn đánh hỏa mù theo ý đồ của một siêu quyền lực trong bóng tối muốn vậy, làm sao ai hiểu được nhóm phản chiến do Jane Fonda và Pentagon do Trung úy Hải quân phản chiến John F Kerry đã cho Hà Nội biết tất cả chi tiết bằng ngôn từ tiếng Việt qua Tam trùng Phạm Xuân Ẩn, chứng cớ hầm dấu vũ khí súng ống đạn dược được đào sẵn chung quanh các CCHL thì rõ, nơi đây còn là một Trung Tâm Huấn Luyện bổ sung quân số ngay tại chiến trường vào những năm tháng trước ngày thành lập Quân Ðoàn 70B. Hiểu tường tận trận đồ như thế, nên là phóng viên chiến trường nhưng tam-trùng Phạm Xuân Ẩn có dám leo lên trực thăng bao giờ đâu, trái lại trận Ấp Bắc 1963 thì Ẩn khệnh khạng, ung dung ngồi trên trực thăng H-21 bước chân xuống Ấp Tân Thới quan sát, chụp hình hậu quả trận đánh.

    Mọi chi tiết về phi vụ trực thăng này được biết như sau: Trong cuộc phỏng vấn ngày hôm ấy, Ðại tá Nguyễn Văn Hiệp cho biết 4 trực thăng của KQVN này có nhiệm vụ đưa các sĩ quan Tham mưu QÐ/I đến Phú Lộc để giải quyết vài trở ngại về vấn đề tiếp tế lương thực cho LÐ/1/BÐQ, vị Trưởng Phòng 3/QÐ/I là Ðại tá Cao Khắc Nhật, Trưởng Phòng 4/QÐ/I là Trung Tá Phạm Vi. Không hiểu vì lý do gì, toán trực thăng bay lạc xa về hướng Tây Bắc tới gần các căn cứ của BÐQ trong phần đất Lào. Khoảng 3 giờ chiều, khi thấy toán trực thăng bay khá lâu mà vẫn chưa thấy báo cáo đã tới Phú Lộc nên tướng Lãm có hỏi LÐ/1/BÐQ; Cùng lúc đó, Ðại Tá Hiệp nhận được tin có hai chiến trực thăng của Viêt Nam bị bắn rơi tại Lào. Sở dĩ BTL Hành Quân không biết tin vì hai chiếc trực thăng còn lại bay thẳng về Ðông Hà. Về phía Hoa Kỳ, một trong những phi công trực thăng có mặt tại chỗ là Trung Tá Robert F. Molinelli, Chỉ Huy Trưởng Tiểu-đoàn 2, Lữ Ðoàn 17 Không Kỵ, thuộc Sư Ðoàn 101 lúc đó đang chỉ huy toán trực thăng Hoa Kỳ yểm trợ cho các đơn vị BÐQ trong vùng, cho biết: “Toán trực thăng VN bay quanh theo một khúc sông, nhưng thay vì bay bên bờ Nam, lại quẹo ngược sang bờ Bắc là nơi chúng tôi biết rõ Cộng quân tập trung rất nhiều súng phòng không 37 ly và một đơn vị chiến xa của Trung Ðoàn 202. Lúc đó, toán trực thăng gồm 4 chiếc Hueys, bay hàng dọc hình nấc thang Trái, tốc độ chừng 90 knots, cao độ 2,200 feet; Chúng tôi thấy rõ toán trực thăng nầy đang bay vào nơi nguy hiểm và đã cố gắng liên lạc trên mọi tần số Guard để báo động, Tôi thấy chiến trực thăng dẫn đầu (trên chở các sĩ quan tham mưu QÐ/I) trúng đạn nổ tung trên trời, còn chiếc thứ nhì (chở các phóng viên) bị bắn bay mất một cánh quạt chính, main rotor qua hình ảnh theo dõi từ vệ tinh cố-định (stationed satellite) chuyển về Pentagon do tướng Haig điều hành.

    Ngày 11 tháng February
    Ðể tìm kiếm tông tích tai nạn của 2 chiếc UH-1H, cùng yểm trợ cho nỗ lực chính trên tuyến xuyên lộ số 9 tiến xa hơn về hướng Tây nhắm vào Tchépone. BTL/HQ quyết định tung thêm các đơn vị bảo vệ sườn Bắc và Nam vào trận địa – Khoảng 14:30 H: T/Ð 39 BÐQ được trực thăng vận tới Landing Zone North, BÐ BÐQ Bắc, khoảng 2 cs Tây Bản-Na để tăng cường cho TÐ/21 BÐQ đã trấn đóng BÐ BÐQ Nam từ ngày 8 tháng 2 án ngữ mặt cực Bắc của vùng hành quân. Và cùng lúc đó, TÐ3/1/BB được trực thăng vận tới CCHL Delta thuộc vùng Nam đường xuyên lộ số-9 – Tới đây, cần nói qua về kế hoạch phối trí và phân nhiệm của các TÐ BÐQ vì có một vài chi tiết đáng ghi nhận, Thiếu Tá Quách Thưởng [lúc đó là Ðại Úy, TÐP TÐ 21/BÐQ] cho biết đúng ra TÐ 37/BÐQ được chỉ định phụ trách căn cứ BÐQ Bắc, còn TÐ/39 BÐQ đóng tại Phú Lộc cùng với BCH LÐ/1/BÐQ; Nhưng các trực thăng Hoa Kỳ đã thả lộn địa điểm nên TÐ 39 BÐQ đã có mặt trên đất Lào. Trung Tá Vũ Ðình Khang, TÐT TÐ 39/BÐQ nói rằng theo thông lệ luân chuyển trong mỗi cuộc hành quân, 3 TÐ thay phiên nhau, 1 làm trừ bị và bảo vệ BCH/LÐ còn 2 TÐ kia hành quân. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, tới phiên TÐ/39/BÐQ làm trừ bị, nhưng lại được bốc sang Lào. Ðại Tá Nguyễn văn Hiệp, LÐT LÐ 1/BÐQ giải thích: đúng ra theo lệnh hành quân, TÐ/39/BÐQ có nhiệm vụ trấn giữ Phú Lộc, còn 2 TÐ bạn hoạt động bên Lào. Nhưng vào ngày 10 tháng 2, các trực thăng Hoa Kỳ đã đổ quân lộn tại địa điểm chuẩn bị trong vùng lân cận Phú Lộc. Trong biến cố nầy có phải do thiên định mà LÐ51TC phải hy sinh 8 nhân viên phi hành cho sự lầm lẫn nầy? Khi bốc quân sang Lào, TÐ/39 BÐQ ở vào vị trí thích hợp nhất nên đã được chỉ định hoán đổi vị trí với TÐ/37 BÐQ. Ðiều đáng lưu ý là mặc dầu có sự thay đổi bất ngờ vào giờ chót, các đơn vị BÐQ vẫn hăng hái chu-toàn nhiệm vụ, đúng “Kỹ luật là sức mạnh của quân đội”. Về phương diện hành quân, đây không phải là một mối quan tâm lớn, vì mỗi vị trí được chỉ định đều có một TÐ BÐQ trấn giữ, điều đáng ca ngợi là các đơn vị trưởng BÐQ đã rất uyển chuyển đưa ra những quyết định thay đổi nhanh chóng phù hợp với tình thế cũng như tuyệt đối thi hành thượng lệnh, không khiếu nại hay than phiền; Ðây là một điểm son về tinh thần kỷ luật cao độ rất đáng kính phục của các chiến sĩ BÐQ. Tuy nhiên, việc trực thăng Hoa Kỳ thả lộn địa điểm, cùng với biến cố các trực thăng LÐ51TC bay lạc ngay khi cuộc hành quân mới khai diễn chứng tỏ QLVNCH đã thất thế từ đầu vì phải chiến đấu tại một địa bàn hết sức xa lạ. Mất yếu tố “địa-lợi” và “thiên-thời” vì hằng ngày sương mù bao phủ suốt cả buổi sáng, lực lượng tham chiến đã phải trả giá rất đắt trong suốt cuộc hành quân, nhưng bất công thay không ai chịu hiểu được Biệt-Ðộng Quân là binh chủng biệt kích, cơ-động xuất sắc nhứt trong QLVNCH. Theo tôi nghĩ: người ta chỉ luôn nghĩ đến 2 Sư Ðoàn Dù và TQLC mà quên nhắc nhở đến BÐQ và Ðại đội Hắc Báo [Black Panther] của Sư Ðoàn-1. Nhưng đối với 2 vị tư lệnh chiến trường Mỹ thì lại khác: Tướng Westmoreland, khi ông phải bảo vệ cho 6000 TQLC Mỹ trấn đóng tại Khe Sanh, Westmoreland đặt hết tin tưởng vào chỉ cần 1 tiểu đoàn BÐQ là đủ bảo đãm sự yên tâm cho Mỹ trấn giữ căn cứ. Còn như Tướng Abrams thì lại khác, ông chỉ cần 1 Ðại đội Hắc-Báo [Black-Panther] của SÐ/1 là đủ: Vì trách nhiệm nặng nề của ông là làm cách nào có được sự cấp cứu kịp thời, chỉ đoàn viên phi hành thuộc sư đoàn 101 không kỵ mà thôi, nhưng sự thật khi TT Thiệu ra lệnh rút quân lập tức ngay sau khi dẫm chân trên phần đất Tchepone. [Hay tin xấu, Tướng Alexander Haig bay qua Quân đoàn 24 gặp Tướng Sutherland ra lệnh “Washington would like to see ARVN stay in Laos through April” - buộc QLVNCH phải ở lại đến cuối tháng April, hầu hoàn thành cho bằng được giai đoạn 3 của cuộc hành quân là khai thác thành quả chiến trận, lúc đó Ðại đội Hắc Báo ở lại một mình bên Lào biến thành lực-lượng phản ứng nhanh [rapid deployment force] cũng như cấp cứu đoàn viên phi hành Mỹ (xem đoạn cuối)]

    Cũng ngày hôm nay, tại vùng trách nhiệm của LÐ/1/BÐQ, địch gia tăng áp lực rất nặng; Quanh vùng Phú Lộc, TÐ/37 luôn luôn chạm những toán tiền phong thuộc Quân đoàn 70B của Bắc Việt, ngoài ra, cũng bị pháo liên miên. Trên phần đất Lào, các TÐ/39 và 21/BÐQ là các đơn vị bị địch quân tấn công thăm dò nhiều nhất và cũng là tuyến lửa của mũi dùi quân BV tiến qua từ vùng hoả tuyến Bắc DMZ, sau khi đoán chắc rằng quân lực VNCH không Bắc-tiến.

    Ngày 12 tháng February
    - Hồi 11 giờ trưa, TÐ/37 đụng địch cấp tiểu đoàn tại địa điểm XD 670466, khoảng 3 cs Bắc Tây Bắc Phú Lộc, được trực thăng võ trang Cobra yểm trợ, BÐQ hạ 13 địch, bắt sống 1, thu 10 AK. Bên ta 4 chết, 6 bị thương và 2 trực thăng võ trang loại Cobra (AH-1G) bị phòng không 12.7 ly bắn hạ khiến 2 phi hành đoàn bị tử thương và 2 bị thương, cái thất thế nhứt cho Cobra là khi tác xạ phải làm vòng chờ để đâm đấu xuống xạ kích, ngoài ra bao vùng tác xạ bị hạn định về không gian phía trước, khác hẳn với gunship 213 Song Chùy, tầm xạ trường bao vùng rộng lớn hơn kể cả bắn tập hậu, lính BV chỉ biết tìm nơi trú ẩn khi nghe tiếng mưa đạn của gunship Việt Nam, người xạ thủ vô cùng lợi hại nầy với đôi mắt như con Cú ráo-đảo chiến trường, điển hình là Trung Sĩ Nguyễn Văn Ðức người xạ thủ thần tượng của tôi. Quân BV cũng không phải là mình đồng gan sắt, dù họ có uống thuốc liều khi lâm trận, nhưng khi nghe tiếng bò rống của Minigun thì liền tức khắc tìm chỗ núp mới mong sống-còn, vì không biết tử thần từ đâu đến mà chỉ nghe tiếng cánh quạt điên cuồng chém gió với âm thanh rùng-rợn nổ ròn rã ma quái đùng đùng lướt tới. Vì con chim lửa đầu đàn bị nổi khùng đưa ra thế chiến thuật mới gọi là “Thuật-Ðộn-Rừng-Ngụy-Âm” địch thủ không biết lưởi hái tử thần từ đâu đến. Có phải nhờ vậy mà đoàn viên LÐ51TC không còn bị tử trận cho đến khi cuộc hành quân chấm dứt!? Chờ xem kết-quả ở đoạn kết!
    - Hồi 6: 25 chiều, TÐ/21 BÐQ chạm khoảng 1 Trung Ðội VC tiền-sát thuộc Trung Ðoàn 88, SÐ/308 BV tại 4 cs Ðông Bắc Landing Zone South (tọa độ XD 585520), bắn hạ 11 tên địch.
    - Ðến 10 giờ đêm cùng ngày, dưới sự yểm trợ đắc lực của gunship AC-130, TÐ/21/BÐQ bị địch pháo kích khoảng 40 đạn súng cối 82, và 120 ly khiến 6 bị thương, liền tức khắc EC-130B can thiệp nên chúng không dám bắn trả vì tuyến đạn lửa dễ bị phát hiện trong đêm tối sẽ bị EC-130B dập tắt ngay bằng hoả lực đại bác đủ loại

    Ngày 13 tháng February

    - Hồi 1:50 sáng, tại địa điểm XD 575503 khoảng 3 cs Tây Tây Nam Landing Zone North, TÐ/39 BÐQ chận đánh một đơn vị VC, bắn hạ 43 tên, thu 2 đại bác phòng không 37 ly, 2 thượng liên 12.7 ly và một số lượng lớn súng cá nhân và đạn dược. Phía BÐQ chỉ có 1 chết và 10 bị thương nhờ gunship vận tải cơ bao vùng [nên nhớ rằng theo điều lệ ROE, giai đoạn-2 vận tải cơ EC-130B, chịu trách nhiệm về sườn phía Bắc, còn B-52 Arc Light chịu trách nhiệm về phía sườn Nam, nên Trung đoàn của Ðại tá Nguyễn Khoa Ðiềm cứ bị B-52 đuổi đít hầu như mỗi ngày. Còn không quân chiến thuật (Skyspot) thì chịu trách nhiệm trục nổ lực chính trên đường tiến-sát xuyên trục lộ-9 – Nên TÐ Phó TÐ/8 Dù và một số anh em Thiết-kỵ và Dù mới bị thương vì không chịu đi đúng theo lộ-đồ chiến trận bày bản trong phòng lạnh tại Pentagon do Tướng Haig là người chủ đạo và điều hành. ROE [Rule Of Engagement] còn là con dao hai lưởi nếu bên VNCH mạnh hơn thì EC-130B sẽ bắn lầm vào để cân bằng lực lượng. Ðiều nầy khó hiểu chỉ có thể những chiến sĩ BÐQ mới là nhân chứng sự bắn chính xác của EC-130B kể cả ban đêm có thể yểm trợ quân bạn cách vài chục thước. (Tôi biết sẽ có một số bạn không tin về độ chính xác nầy)
    - Trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 giờ sáng, TÐ/21 BÐQ đụng độ lẻ tẻ với chừng 1 Trung Ðội tiền sát BV, bắn hạ 15 tên.
    - Trong khoảng thời gian từ 7: 10 giờ sáng, TÐ/21 chạm địch quân số không rõ, kết quả BÐQ, 1 chết, 7 bị thương; quân Bắc Việt 4 chết. BÐQ tịch-thu 300 thùng đạn đại bác chiến xa 100, và 76ly của hậu cần phụ thuộc Trung đoàn 202 Chiến-Xa.

    Ngày 15 tháng February
    - Hồi 1 giờ 30 chiều, tại địa điểm phía Nam Landing Zone North (tọa độ XD 595515), TÐ/39 BÐQ bị pháo kích khiến 5 bị thương
    - Hồi 10: 45 tối, cũng tại vùng Nam Landing Zone North (tọa độ XD 590514) một thành phần của TÐ/39 BÐQ chạm địch, giết 5 VC, BÐQ 2 bị thương.

    Ngày 16 tháng February
    - Hồi 10 giờ tối, tại phía Bắc Landing Zone South (tọa độ XD 583503) một thành phần của TÐ/ 21 BÐQ chạm địch không rõ quân số, bắn hạ 6 VC, tịch thu 50 trái sáng, BÐQ 6 bị thương; Cho đến thời điểm này, QLVNCH đã chiếm Bản Ðông (Aluối) được gần 1 tuần lễ nhưng không dễ-dàng tiến thêm tới gần mục tiêu 604 Tchépone.
    Trận đánh tại Căn Cứ Biệt Ðộng Quân Bắc (Landing Zone North) -Sáng ngày 17 tháng February – Tin tình báo cho biết lực lượng tăng viện cấp Sư Ðoàn của Cộng quân từ vùng Phi Quân Sự đã bắt đầu xâm nhập phía Bắc vùng hành quân. Rạng sáng ngày 18 tháng February, địch gia tăng áp lực vào các đơn vị BÐQ. Các TÐ/21 và 39 BÐQ bị tấn công thăm dò và pháo kích liên tiếp. Tuy nhiên, được pháo binh và phi cơ yểm trợ rất hiệu quả, các TÐ BÐQ vẫn giữ vững vị trí; mãi đến 8: 30 sáng cùng ngày, BCH/LÐ1/BÐQ tại Phú Lộc cũng bị pháo kích 8 đạn súng cối 120 ly rất chính xác, khiến 2 chết, 4 bị thương; Tin tình báo do cung từ của tù binh xác nhận Sư Ðoàn 308 Cộng quân với ba Trung Ðoàn 64, 88 và 102nd đã tham chiến và hiện tập trung quân tại vùng trách nhiệm của BÐQ. Khi trời sáng rõ, một trực thăng tải thương loại Huey thuộc Ðại-đội 237, Tiểu Ðoàn 16, Lữ Ðoàn 44 Tải-Thương của Hoa Kỳ [có tên là DMZ Dust Off. DMZ là tên tắt của De-Military-Zone tức là vùng Phi Quân Sự. Dust Off là tên lóng để gọi chung các trực thăng tải thương Hoa Kỳ] nhận được lệnh tải thương khẩn cấp cho TÐ/39 BÐQ. Nên nhớ đại đa số những trực thăng tham chiến tại Hạ Lào không phải của Không Quân mà thuộc các Sư Ðoàn Bộ Binh Không Kỵ 101 Hoa Kỳ nên được tổ chức thành các Tiểu Ðoàn hoặc Ðại Ðội theo hệ thống Lục Quân.

    Chiếc trực thăng tản thương cất cánh tại Khe Sanh, hai phi công là Trung Úy Joseph Gordon Brown và Darrel Monteith, với hai Trung Sĩ y tá tên Fujii và Simpco cùng cơ khí viên Costello; Trên đường bay, phi hành đoàn đã được thông báo là bãi đáp rất “nóng” (hot) vì bị phòng không và súng cối địch vây chặt. Khi còn cách Căn Cứ LZ Ranger North chừng 3 cây số, phòng không địch đã bắn lên như mưa, Toán trực thăng võ trang Cobra hộ tống vội nhào xuống bắn hỏa tiễn và minigun để tiêu diệt các ổ phòng không nhưng không mấy hiệu quả vì những ổ súng này được ngụy trang rất kỹ càng, khéo léo và chôn sâu trong các công sự, hầm hố, dưới gốc bụi Tre, nơi vách núi đá khá vững chắc. Sau một hồi bắn phá, hai chiếc Cobra đã hết đạn, vả lại nhiên liệu cũng gần cạn nên phải quay về Khe Sanh tái tiếp tế. Phi công Brown nhận thấy phòng không địch vẫn còn quá mạnh, không thể vào bãi đáp nên đã quyết định hủy bỏ công tác. Nhưng chỉ một lát sau, anh đổi ý, hay có lệnh mới, anh bay vòng trở lại, mặc dầu trực thăng võ trang hộ tống đã bay về Khe Sanh để tái trang bị hỏa lực. Gần tới Bãi Ðáp Ranger North, chiếc trực thăng tản thương bay thật thấp để cố tránh màng lưới phòng không, nhưng những lằn đạn lửa AK và 12.7 ly vẫn chằng chịt đuổi theo. Từ trên trực thăng, anh Trung Sĩ, y-tá Fujii người Hawai trông thấy rõ các binh sĩ BÐQ trong giao thông hào đang chiến đấu dưới làn mưa đạn súng cối, hỏa tiễn 122ly và pháo 152ly của Cộng quân. Trực thăng tản thương quyết tâm nhào vội xuống bãi đáp; Toán tản thương của BÐQ đẩy vội các thương binh lên trực thăng, nhưng khi vừa rời mặt đất, một quả súng cối 120 ly nổ ngay bên cạnh máy bay khiến phi công trưởng Brown chết ngay tại chỗ, còn phi công phụ Monteith bị thương nặng, hai anh Fujii và Simpco đều bị trúng mảnh đạn súng cối ở lưng, chỉ có anh Costello là vô sự. Chiếc trực thăng cách mặt đất vài thước rơi xuống đất, tất cả những người sống sót, kể cả các thương binh BÐQ vội rời trực thăng chạy vào giao thông hào cách trực thăng chừng 10 thước; Sau đó, một trực thăng Huey cấp cứu khác liều lĩnh đáp xuống và cứu được phi hành đoàn Hoa Kỳ, ngoại trừ anh Trung Sĩ y-tá Fujii bị kẹt lại vì đang núp dưới bunker chạy ra không kịp; Từ lúc đó, các phi công Hoa Kỳ được lệnh tránh xa khu vực này vì hỏa lực phòng không quá dữ dội. Trong khi đó, Cộng quân cũng pháo kích vào Ranger LZ South.

    Sáng ngày 19 tháng February
    Áp lực tại căn cứ BÐQ Nam tưởng đối giảm, tuy không bị tấn công nhưng cường độ pháo kích vẫn dữ dội và liên tục. Ngoài ra, phòng không địch và súng cối 120ly vẫn khóa kín bãi đáp khiến TÐ/21 BÐQ không thể cựa quậy, đồng thời làm cho mọi hoạt động của vị trí này bị ngưng trệ. Khi đã cô lập và phá được thế liên hoàn giữa hai tiểu đoàn BÐQ, Cộng quân tập trung toàn bộ lực lượng Trung Ðoàn 102nd, SÐ 308 tấn công TÐ/39 BÐQ đóng xa hơn về phía Bắc. Tuy bị vây hãm và tấn công dữ dội, các binh sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Khang vẫn bình tĩnh chiến đấu, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người của Cộng quân. Các trực thăng thuộc TÐ/158 Trực Thăng (158 CAB – Combat Assault Battalion) Hoa Kỳ do Trung Tá Peachy chỉ huy bay liên tục để tản thương, tiếp tế và yểm trợ hỏa lực cho tiền đồn bị tấn công này; Các pháo đội thuộc TÐ 44 PB đặt tại Phú Lộc về hướng Ðông và FSB Ðồi-30 về hướng Nam cũng tác xạ tối đa vào các vị trí quân Bắc Việt. Ðể tránh hỏa lực dữ dội của phi pháo, địch quân đã liều lĩnh áp dụng tối đa chiến thuật “bám sát” [hugging] Nhiều khi chúng nằm sát lớp hàng rào phòng thủ khiến nhiều trực thăng tiếp tế bị trúng đạn địch vì lầm tưởng là binh sĩ BÐQ, vì đôi bên quá gần nhau nên phi cơ thả bom yểm trợ cũng rất khó khăn chỉ trừ có EC-130B có thể yểm trợ quân bạn 20 thước kể cả ban đêm nhờ hệ thống điển tử hồng ngoại tuyến nên đã cứu được hai tiểu đoàn BÐQ đang bị vây hảm. Trong học viện Quân sự Hoa-kỳ đánh giá cao về sự đa dụng của chiếc vận tải cơ bán phản lực EC-130B nầy.

    Trận đánh tại căn cứ Ranger North kéo dài suốt ngày 19 tháng February. TÐ39 BÐQ báo cáo địch tấn công mạnh nhất vào sườn phía Ðông bằng súng không giật trực xạ sơn pháo 85ly và súng cối 120ly đặt rất gần căn cứ nên bắn rất chính xác. Nhưng sau nhiều đợt tấn công tiền pháo hậu xung của địch, TÐ39 BÐQ vẫn giữ vững vị trí dưới các công sự để cho gunship EC-130B không tập. Cung từ của tù binh xác nhận đơn vị Cộng quân tấn công là Trung Ðoàn 102nd, được trang bị toàn vũ khí và quân trang mới. Trung Ðoàn này có nhiệm vụ thanh toán căn cứ Ranger North bằng mọi giá để dọn đường cho lực lượng tăng viện của chúng có thể tiến sâu hơn vào vùng hành quân. Tuy bị bao vây và tấn công liên tục nhưng dưới sự chỉ huy bình tĩnh và gan dạ của Thiếu tá TÐT Vũ Ðình Khang, các chiến sĩ TÐ39 BÐQ vẫn bình tĩnh chiến đấu, đánh bật những đợt tấn công biển người. Cộng quân tuy bị thiệt hại nặng nhưng vẫn bám sát trận địa và liên tiếp mở nhiều đợt tấn công vì chúng được bổ xung quân số và tăng viện rất nhanh chóng tại Trung tâm huấn luyện nơi đây và các hầm hố chôn dấu vũ khí đã có ước tính trước. Nhưng đến chiều Cộng quân đành phải rút lui để chỉnh đốn hang-ngũ vì bị chết quá nhiều, xác và vũ khí đủ loại của Cộng quân bỏ lại ngổn ngang trên các sườn đồi, dọc theo dòng suối.

    Trận đánh ngày 19 tháng February là một chiến thắng lớn của TÐ/39 BÐQ nhưng những chiến sĩ quả cảm nầy cũng đã bị yếu sức vì nhiều binh sĩ bị chết và bị thương không được di tản đã nhiều ngày, lại không được tăng viện hay giải tỏa áp lực; Nguy hiểm hơn nữa, đạn dược cũng gần cạn vì không được tiếp tế, đến đêm, quân BV sau khi bổ xung lực lượng lại tiếp tục tấn công. Cũng vào lúc đó, các căn cứ Ranger South và Phú Lộc bị pháo kích dữ-dội, và đánh cầm chân nên không thể tăng viện hay yểm trợ hữu hiệu cho TÐ/39 bạn đang bị áp lực nặng nề. Trên bốn sườn đồi bao quanh căn cứ Ranger North như lòng chảo bị bao vây, địch quân đồng loạt tấn công biển người vào các tuyến phòng thủ của BÐQ. Tại hầm chỉ huy, Thiếu Tá Vũ Ðình Khang, vị TÐT can trường vẫn bình tĩnh điều động đơn vị phòng thủ và phản công. Ông dùng anh y tá người Mỹ Fujii như một chuyên viên truyền tin bất đắc dĩ để đảm trách việc liên lạc với các phi cơ Hoa Kỳ. Trung sĩ Fujii hoạt động rất đắc lực chuyển lời yêu cầu của Thiếu tá Khang lên các trực thăng võ trang Cobra và các phản lực cơ của Không Hải Quân chiến thuật Hoa Kỳ những tọa độ mục tiêu chính xác để xin oanh tạc. Nhiều lúc, quân BV vì quá đông nên môt số đã lọt được vào phòng tuyến của BÐQ, chiếm được một khúc giao thông hào, các chiến sĩ Mũ Nâu can trường đã phải cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn để đẩy lui chúng.

    Ðến đây, tạm thời mở một dấu ngoặc để nói thêm về anh Trung sĩ y tá Fujii, lúc đó, các phóng viên báo chí, truyền thanh và truyền hình đa số thuộc loại phản chiến của Hoa Kỳ luôn tìm đủ mọi dịp loan tin giật gân nhằm mục đích triệt hạ uy tín QLVNCH. Vì đạo luật Cooper-Church Amendment 1970 ngăn cấm không cho quân bộ chiến Hoa Kỳ có mặt trên phần đất Lào và Cambodia nên gặp dịp anh y tá Fujii bị bắn rơi, chạy không kịp nên bắt buộc phải chiến đấu bên cạnh TÐ39 BÐQ, họ liền nắm lấy cơ hội. Họ ca tụng Fujii như một vị anh hùng trong trận đánh tại căn cứ Ranger North, BÐQ Bắc, coi như một mình anh y tá này đã cứu nguyên một Tiểu Ðoàn 39/BÐQ tinh nhuệ. Có người lại còn “phong” cho anh ta chức vị “cố vấn” bất đắc dĩ của TÐ39 BÐQ! Ðây là một sự thổi phồng lố bịch và quá đáng! Chúng ta hãy tưởng tượng trong lúc dầu sôi lửa bỏng, mạng sống như chỉ mành treo chuông, một anh y tá chuyên cầm kim chích bị kẹt lại dưới đất vì không chạy kịp, dù là sĩ quan Mỹ tốt nghiệp võ bị West-Point đi nữa đã “cố vấn” được những gì cho một một TÐT BÐQ dạn dầy kinh nghiệm chiến trường như Thiếu tá Khang? Ðồng ý là anh Fujii đã trợ giúp TÐ39 BÐQ rất đắc lực trong lãnh vực liên lạc truyền tin, nhưng các chiến sĩ BÐQ còn đóng góp đắc lực hơn nhiều trên phương diện thực sự kinh nghiệm chiến đấu. Thật ra, vai trò của anh y tá này đơn thuần chỉ là một âm thoại viên, nhận những quyết định, dữ kiện cùng lời yêu cầu oanh tạc yểm trợ từ Thiếu tá TÐT-Khang rồi chuyển lại cho các phi công Hoa Kỳ vì lý do anh nói tiếng Anh dĩ nhiên thành thạo và dễ hiểu hơn, rất có thể việc “liên lạc” thông thường này được người Mỹ coi là vai trò quan trọng của cố vấn chăng? Cũng anh Fujii này, sau đó có dịp nhẩy lên được một trực thăng rời khỏi Ranger North, nhưng không may trực thăng này cũng bị trúng đạn, nhưng đáp được xuống LZ Ranger South nên lại bị kẹt tại đây. Chuyện chỉ có vậy, thế mà báo chí Hoa Kỳ lại có dịp thổi phồng, nói là anh y-tá này tình nguyện ở lại với TÐ21 BÐQ để giúp đơn vị này phòng thủ căn cứ! Trở lại trận đánh tại LZ Ranger North; Tuy bị Cộng quân bao vây chặt chẽ và tấn công suốt đêm nhưng TÐ/39 BÐQ dù đã bị thiệt hại khá nặng và đạn dược cũng gần cạn nhưng vẫn còn giữ vững vị trí chiến đấu. Thiếu Tá Khang luôn đôn đốc các chiến sĩ của mình đề phòng cẩn mật và tiết kiệm đạn dược vì ông biết trong hoàn cảnh nguy-nan này, trực thăng tiếp tế hay tải thương không còn cách nào đáp xuống được nữa.

    Về trận đánh tại căn cứ BÐQ Bắc trong đêm 19 tháng February này, chính anh “cố vấn” Fujii đã kể lại cho các phóng viên Hoa Kỳ nghe như sau:“Trận đánh vô cùng khốc liệt, cả ngọn đồi như bốc lửa vì hỏa lực bom đạn đôi bên, tuy có một vài sĩ quan BÐQ hoảng hốt khi thấy được lực lượng BV quá đông và có chiến xa yễm trợ nên gỡ bỏ cấp bực phù hiệu và thiêu hủy thẻ quân nhân, nhưng bù lại vị TÐT vẫn bình tĩnh và gan dạ chỉ huy cuộc phòng thủ và phản công, có lúc địch quân đông như kiến tràn vào, tôi đã phải dùng súng M-16 bắn hết băng đạn này đến băng đạn khác vào những đợt xung phong biển người, NVA chết như rạ nhưng vẫn liều lĩnh xông vào. Có lúc toán tiền phong cảm tử của địch đã lọt được vào trong vị trí phòng thủ, nhưng bị các chiến sĩ BÐQ can trường dùng lưỡi lê và lựu đạn cận chiến đánh bật ra trong vòng 10 phút. Sáng hôm sau, chúng tôi bắn hết đạn, tôi thấy các chiến sĩ Mũ Nâu phải đi lật từng xác đồng bạn cũng như xác địch để kiếm thêm đạn dược và vũ khí còn xử dụng được. Những người còn chiến đấu được thiết lập một tuyến phòng thủ quanh hầm chỉ huy để sẵn sàng tử chiến, nhưng phải thành thật, suốt đếm đó nếu không có EC-130B gunship bao vùng thì thật khó mà không bị địch tràn ngập lên cứ-điểm LZ”.

    Sáng ngày 20 tháng February
    Ngay từ lúc hừng đông, khi lớp sương mù chưa tan hết trên rừng núi Hạ Lào, từng đợt phi cơ đủ loại đã ào tới trợ chiến. Bắt đầu từ lúc 9: 30 sáng cho tới 2: 30 chiều, tổng cộng có 32 phi vụ oanh tạc yểm trợ cho hai căn cứ BÐQ Ranger South và North đang bị vây hãm khiến hàng trăm Cộng quân bị tan xác. Mặc dầu bị thiệt hại rất nặng vì hỏa lực phi pháo, Cộng quân vẫn không rời bỏ trận địa và được yểm trợ đắc lực bằng một rừng phòng không đủ loại tạo thành màng lưới lửa dầy đặc khiến trực thăng tiếp tế và tản thương không thể nào vượt qua nổi; Nhiều phi công trực thăng Hoa Kỳ cố lao qua bức tường lửa phòng không nhưng chỉ có hai trực thăng may mắn đáp xuống được trong khoảnh khắc. Khi cất cánh, cả hai phi cơ này đều bị trúng đạn phòng không, một chiếc phải đáp khẩn cấp xuống căn cứ LZ Ranger South, chiếc kia may mắn bay được tới FSB Ðồi-30 xa hơn về phía Nam. Trận chiến quả là đẫm máu, vô cùng khốc-liệt, đến trưa, các máy bay quan sát FAC Bronco OV-10 báo cáo quân BV lại pháo kích dữ dội và có chừng 400 đến 500 tên đang vây kín vị trí của TÐ/39 BÐQ. Những trận mưa pháo liên tiếp của địch khiến ngọn đồi nhỏ như vỡ tan thành từng mảnh vụn cho đến con kiến cũng không sống nổi. Những lớp bụi đất đá Hạ Lào màu vàng nhạt liên tục tung lên sau mỗi đợt pháo kích, che phủ cả các chiến sĩ Mũ Nâu anh dũng vẫn bình tỉnh ghìm súng chờ địch dưới giao thông hào qua lớp khói mù-mịch, không còn phung phí đạn như trước đó nữa. Không được tăng viện, không được tiếp tế, không được tản thương, số tổn thất mỗi lúc một cao và đạn dược đã hết sau nhiều ngày tử chiến, số mạng của các chiến dĩ TÐ/39 BÐQ như chỉ mành treo chuông. Mọi yểm trợ sinh tử cứu nguy chỉ còn trông mong vào các phi cơ Hoa Kỳ và pháo binh từ các vị trí bạn bắn tới yểm trợ, nhưng rất tiếc trực thăng của LÐ51TC không được lệnh yểm trợ cho BÐQ mà chỉ có Dù, Thiết kỵ và Sư đoàn-1 mà thôi.

    Bỗng dưng tôi nghe trong nón bay:”Song Chùy I, đây Kingstar 5 gọi…nghe không trả lời…? Nghe tiếng Kingstar, Tôi hiểu ra ngay là của Phi-Đội 233 đã phải đổi công tác, dồn tất cả nỗ lực để tản thương cho Tiểu-Đoàn 39 BĐQ vi phi công Hoa Kỳ…

    QUEENBEE-1

  6. #6
    vinhtruong's Avatar
    Status : vinhtruong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2010
    Posts: 1,924
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Bài tuyển chọn trên diễn đàn Nha Kỹ Thuật

    W.E.Colby và cuộc chiến bí mật

    Ðây là giai đoạn cực kỳ đối-nghịch giữa ba xu-hướng chống đối nhau quyết liệt về chính sách Mỹ tại Việt Nam: Sự mâu thuẫn nầy trong cuộc chiến chi còn giải pháp cuối cùng là lấy máu để giải quyết. Tại Washington giữa chính quyền Kennedy và đặc biệt siêu chính phủ (permanent government) P.G đã keo-sơn cùng với thành viên Kỹ-nghệ Quốc-phòng (War Industries Board) quyết triệt-tiêu chiếc ghế quyền lực Kennedy; Vì là một trở ngại chính cho “Chương trình Chống Nổi Dậy (Counter Insurgency Plan) Và tại Saigon chính phủ Ngô Ðình Diệm cực kỳ cương-quyết không cho quân tác chiến Mỹ vào Việt-Nam với bất cứ hình thức nào.

    S.C.P Mỹ vừa áp lực hành pháp Kennedy buộc chính quyền Diệm phải sơ tán dân chúng, bỏ Huyện Hương-Hóa (Khe Sanh) xuống đồng bằng Quảng Trị vì lý do được gọi là vùng kém an-ninh (nhưng với con mắt phi công gián điệp của tôi, mới phát hiện được sự thật P.G buộc công-cụ gián-tiếp là Hà-Nội phãi đem Lính B.V bắt đầu khai phá Ðường-559 cho Hà-Nội cưỡng chiếm miền nam, để hoàn thành axiom-1 của chương trình CIP [Counter Insurgency Plan] Cụ cố-vấn Ngô Đình Nhu, biết được ý đồ đó cũa Mỹ, nhung vì cần viên trợ để chống đỡ, nên cụ Nhu âm thầm với mưu lược chốt chận ngay yết hầu của Ðường-559 bằng điều-động Ðại tá Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh Ðệ tam Quân khu sẽ mở cuộc hành quân chốt chận ngay yết-hầu Attopeu, với Thiếu tá Dư Quốc Ðống Chiến đoàn trưởng CÐ Dù, Ðại úy Lý Tòng Bá Thiết đoàn trưởng, cùng một đơn vị bộ binh thuộc SÐ22 với Tiểu đoàn Công Binh khai phá đường qua nam Lào, từ Ben Het, Darto tiến qua Lào.

    Sự việc nầy bị ngay tay phản-tặc, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Tổng Cục Tình Báo tại phủ tổng thống tiết-lộ cho CIA của nhóm Russell Flynn Miller (nam) và Lucien Conein (bắc) biết ráo trọi. Ðại tá Lansdale là ân-nhân của TT Diệm đã đề nghị (theo lệnh thượng cấp), Ðại tá Carver là cố vấn TUTB phủ tổng thống, nhưng mà ‘Giòi’ trong ấy ngoi ra làm sao TT Diệm hiểu nổi như H.N.Nhạ, Ðinh Xáng, P.N Thảo, Pham Xuân Ẫn… Cái nhóm CIA nầy lại là tay chân của hai nhân vật chủ chốt cuộc chiến (Harriman và Prescott Bush) đang đặt ống kính phải hủy-diệt hai hòn đá tảng (Kennedy và Diệm) cản đường CIP nầy bằng mọi giá.

    Thời kỳ chánh-quyền John F. Kennedy muốn việc làm của CIA tại Việt-Nam phải cố-gắng nhiều hơn nữa, khám phá cho được đường thâm nhập của Bắc-Việt vào Miền-Nam, tăng cưòng nhịp độ đột phá và gởi Gián-điệp ra Bắc. Hội-Đồng An-Ninh Quốc-Gia Hoa-Kỳ (NSC) đã có cuộc họp số 52 Memorandum bản ghi nhận: cho phép xử dụng Mũ Nồi Xanh và Hải-Quân người Nhái huấn luyện Cố-Vấn cho quân-đội Miền-Nam để họ thi hành những cuộc hành quân xâm nhập ngoài Bắc: “Biệt-Hải và Biệt-Kích Gián-Điệp”.

    Trên thực tế, Mũ Nồi Xanh hay Hải-Quân người Nhái gì cũng là trực thuộc của CIA chủ động điều hành. Tại Đà-Nẵng người Nhái Mỹ (SEAL) đã bắt đầu huấn luyện cho Hải-Quân Việt-Nam với chiếc thuyền gỗ thô-sơ, cách thâm-nhập miền Bắc…thời tiết, phương tiện, kiểu cách, tổ chức Toán nhỏ vài người, tuyển mộ Lính từ ngoài dân, Toán biệt-hải sẽ tấn công chớp-nhoáng rồi rút ra… những vũ-khí như xử dụng hỏa-tiễn…đầu đạn, cách che dấu vũ-khí trong thùng xăng 200 lít… trên thực tế chiếc ghe nầy quá mỏng-manh dễ bị hủy diệt, Cố-vấn người Nhái đang đề nghị thay thế bằng loại ghe khác có nhiều sức máy và tốc lực nhanh hơn. Họ đang muốn huấn luyện người Việt thay người Norway vào duyên tốc đỉnh P.T Nasty để hoạt động tại Bắc bộ [Gulf Tonkin]

    Thâm nhập đường hàng không, cần phải đòi hỏi nhiếu khả năng về kỹ-thuật chuyên-nghiệp – Trong phân nhiệm của bộ tam sên, vị đại sứ chỉ lo về hành chánh dù trên thực tế là chịu trách-nhiệm tổng quát, vị tướng Tư lệnh MACV là chỉ lo việc hành quân, nhưng nhiệm vụ CIA mới là quan trọng về chọn nhân lực. Có một điều đặc biệt là họ xài người với phương thức vắt chanh bỏ vỏ: Khi HCM ở trong tù thì khuyến-dụ được thả ra phải vào mật khu Pat-pó giúp Mỹ chống Nhựt. Khi Cụ không vâng lời trong việc phát động lại chiến tranh, thì bị hạ bệ đưa Lê Duẩn lên thế 1959, nhưng quyền hạn tuyệt đối ở trong tay hai anh em Ðức-Thọ và Chí-Thọ. Kể từ giờ phút nầy Hà Nội không phải là Cộng Sản chủ nghĩa (nhưng chiến lược gia hoàn vũ Harriman để cho thế giới có mục tiêu đã phá CSCN như là fashion thời đại phi thực dân) đối với sự dựng lên một chế độ Mafia toàn trị (totalitarianism) do Lê Ðức Thọ và bè lũ tiếp nối, Thọ là người đảng trưởng Mafia được KGB và CIA bảo-vệ có mục-đích, lãnh đạo duy nhứt cho kế hoạch 50 năm (1959-2009, decent interval chấm dứt bằng DVD “Sự Thật HCM”) Cụ Diệm cũng vậy, khi ở trong bàn tay HCM thì được CIA móc nối xin thả ra đem về tu-viện Mỹ, rồi khi Cụ Diệm vì yêu nước không muốn huynh đệ tương tàn vì không thuận cho quân tác chiến Mỹ qua, thì lấy máu giải quyết cho mục tiêu chiến lược toàn cầu… Tôi hoàn toàn tin tưởng các sử-gia sẽ làm sáng tỏ hai cụ là nhà ái-quốc là người bạn thân thiết đặt hết niềm tin nơi người bạn đồng minh thân-tín, nhưng còn quá sớm, phải đợi đến 2023 (50 năm Lính Mỹ rút đi) rồi P.G sẽ lập lại như cuốn DVD, nhưng kỳ nầy tài liệu do Mỹ sẽ trưng bày 8 bức thơ cụ Hồ thỉnh cầu Mỹ bảo trợ nền độc lập như Phi Luật Tân. Người viết có một điều chắc chắn hai cụ “không phãi là người của Mỹ” mà chỉ là bạn của Mỹ. Sự được thán phục của hai cụ đối với thế giới là “không vì sự thắng lợi mà vì sự phản bội của đồng minh” Tôi mãnh liệt căn cứ vào câu nói cũa hiền triết W-Brayant: “Sự thật dù có vùi xuống dưới đất rồi cũng sẽ trồi dậy”

    Vì theo nguyên tắc nhân sự, nên đích thân William E Colby đi vào Không-Quân tìm kiếm, ông gặp được một người có bộ râu kẻm giống như tài-tử Clark-Gable, trình diễn trong bộ đồ bay đen, mặt lạnh-lùng như một Đại-Ca trong một băng-đảng, đi đâu cũng có bốn con khỉ đột đại úy chầu rìa. Cổ chít một chiếc khăn quàng Tím cho nhẹ bớt cây súng lục nằm tòng-teng bên hông. Giống như Cowboy vào thời kỳ lập-quốc; Cây súng tượng trưng cho quyền lực, nhưng phải bắn nhanh, bắn đúng và kịp thời như dân Cowboy Texas, mà Colby biết là giòng họ Bush rất thích. Ðây là mẫu người mà Colby được lệnh phải chọn, mặc dầu mới ngoài 30 tuổi nhưng ông đã mang cấp Trung-tá Chỉ-huy-trưởng Liên phi-đoàn Vận-tải C47 tại Tân-Sơn-Nhất. Tiêu chuẩn chọn (criteria) phải trẻ để còn dùng qua giai đoạn phần mềm hậu chiến, nhưng không qua được con người đầy quyền hạn như CIA, Russell Flynn Miller (nam VN) dưới sự điều khiển của Richard Helms, (Pentagon): Sử dụng Kỳ để dẹp Phật Giáo Ấn Quang, xong là triệt ngay để xóa bỏ bàn cờ rồi chơi lại, nhưng mạng của Kỳ còn lớn nên không bị trực thăng võ trang UH1-C làm thịt. Cũng như tướng Khánh lên chỉ để bỏ tù tại Đà Lạt, 5 tướng lãnh Kim, Đính, Đôn, Vỹ, và Xuân… xong rồi hất chiếc ghế quyền hạn, cầm cục đất quê hương lưu vong, chỉ có TT Thiệu là may mắn được Bunker giữ vững chiếc ghế cho axiom-3, để Mỹ rút lui êm thắm (axiom-3: The U.S could not have won the war under any circumstances, honorable withdraw 1973 Paris Peace Talks)

    Sau nhiều câu chuyện xã-giao qua lại thường tình, Colby đi thẳng vào vấn đề:
    “Tôi muốn tuyển lựa Đoàn-viên C47, phi-cơ không có bản số, không cờ và phải bay sâu vào Miền-Bắc, ông nghĩ sao”
    Người đối diện mau-mắn cưòi trả lời:
    “Khi nào chúng ta bắt đầu”
    Colby cảm thấy nhẹ người, để lòng tìn vào người anh-hùng can-đảm và đầy nhiệt huyết nầy Nguyễn-Cao-Kỳ đã được lồng vào ống kính của CIA như là điều kiện cần và đủ (Criteria).
    Hậu quả ông đã tiến lên Tư-Lệnh Không-Quân… rồi Thủ-Tướng nhưng không quên kiêm nhiệm Chỉ-Huy-Trưởng Biệt-Đoàn 83 để nắm tuyệt đối sức mạnh của quyền lực.

    Toán thả đầu tiên bằng C47 không số, không hiệu (KQVN gọi là Cò-trắng) Toán Atlas, không nghe tín hiệu báo cáo, dường như phi-cơ mất-tích! để giữ bí-mật, tránh tầm Radar, phi-cơ phải bay ở điều kiện sáng trăng 30% và 100 bộ trên ngọn cây vào những vùng rừng núi hiểm trở như ở ngoài Bắc.

    Sau khi chiếc C47 đầu tiên bị mất tích, Kỳ đích thân bay phi-vụ thứ hai, thả Toán Castor sâu vào Miền-Bắc
    Khoảng ba tháng sau, Đài Hà-Nội công bố đã bắt được ba biệt kích gián điệp của Sàigòn, (coi Cánh Thép mục “Phi vụ Cò Trắng và những nắm mồ còn lại” Nhóm CIA của Lucien Conein đã phá hủy chiếc C-47 của trung úy Phan Thanh Vân, nổ trên không phận Ninh Bình, và nhiệm vụ các toán phá hoại phải đổi qua lấy tin tức mà thôi, ngưng ngay việc phá hủy cầu cống. Có nghĩa phía CIA Kennedy (Colby) thua CIA của Siêu chính phủ (Russel Flynn Miller) và chiếc trực thăng H-19 do trung úy Bùi Quang Các bị mất tích trên đường đem quà Noel thăm các tiền đồn sáp biên giới Lào/Việt, có lẽ vùng cấm bay vì là nơi bắt đầu khai phá xa lộ Harriman, theo Lê Đức Thọ là Đường 559, còn Tây Âu là đường mòn HCM, còn theo Việt Minh là đường Trường Sơn.

    Còn Toán Atlas phi-cơ đâm vào núi! Rồi Toán Castor của Kỳ thả cũng không bắt được liên-lạc… vẫn tiếp-tục thả Toán Dido và Echo hai Toán nầy đang bị Bắc-Việt theo dõi sát nút… tin mới nhất cho biết được, hai Toán nầy đang bị ép làm gián-điệp hàng đôi, vì CIA của Conein cho biết toạ độ để Trinh Sát BV chụp. Và Toán cuối cùng Tarzan vừa thả xuống là bị bắt ngay, đây cũng là trò chơi phản gián và chống phản gián của trục Ma-Quỷ [KGB và CIA] mà tam-trùng Phạm Xuân Ẩn là nhân vật chính trong vở bi-thãm-kịch nầy dưới cái dù tại tổng đài Pentagon dưới quyền điều động của Richard Helms. Sau khi triệt tiêu Kennedy là các toán Biệt Kích trở về quan sát lấy tin tức, tuyệt đối không được phá hoại cầu cống ám sát… coi như Biệt Kích trên không xếp bỏ thùng rác

    Riêng phần Colby, thất bại keo nầy ta bày keo khác! Mặc dầu CIA đã cố gắng tạo môi trường cho phi-công C-47 Việt-Nam huấn luyện kỹ càng, qua huấn luyện viên phi-công Trung-Hoa-Quốc-Gia với chiếc C46 (hơi mập một tý) Họ đã có kinh nghiệm với hàng trăm phi-vụ gián-điệp vào sâu trong lãnh thổ Trung-Quốc, Đại-Tá Harry Aderholt chuyên viên nhà nghề về hành quân thâm nhập bí mật vào không phận Trung-Quốc; Ông mới vừa bay chiếc C130A không bảng số vào sâu trong không phận Tây-Tạng do Trung-Quốc chiếm đóng để thả dù tiếp-tế cho kháng chiến quân bảo vệ Đức Dalai Lama trong cái thế siêu chiến lược Eurasia, sẽ gây xáo trộn tình hình nội bộ TQ trong nửa thế kỷ tới như để hù dọa TQ (đầu thế kỹ 21 như lâu lâu, TT Bush tiếp Đức Dat Lai, rồi Obama tiếp Đức Dat Lai) đưa TQ như con ngựa chạy theo cái trục Mỹ đề ngay trước mặt. Về các sắc tộc ở quanh vùng nổi loạn tại Trung-Á vào đoạn chót kế hoặch Eurasia, CIA nhận xét phi-công C-47 Việt-Nam chưa đủ kinh-nghiệm về địa hình, thời tiết, cũng như kỹ-thuật lái; Hậu quả: một chiếc đâm đầu vào núi, khi bay thấp, dĩ nhiên là điều kiện ánh sáng trăng dưới 30%. Một chiếc bị phản gián CIA của Nhóm Richard Helms phá hoại nổ rơi tại Ninh-Bình làm cho William Colby trở nên lúng-túng, phiền-phức, mất mặt đối với quốc-tế đặt chính quyền Kennedy khó xử, đồng loạt với phi công đại-úy Power bay U-2 bị bắn rơi, sự khủng hoảng hoả tiển nguyên tử lén lút đưa vào Cuba, vụ thảm bại đổ quân vào Vịnh Con Heo của CIA (chuyên lấn quyền qua giòng họ Bushes)

    Vụ việc thất bại Vịnh Con Heo làm TT Kennedy phải chịu trách nhiệm vì đương kiêm tổng thống: Tường tôi cũng nên nói rõ về vụ nầy vì rất nhiều bạn đã hiểu lầm về CIA do William Colby chịu trách nhiệm, hay nói cách khác do chính quyền Kennedy phải chịu. Như tôi đã nói Colby phò trợ chính quyền, còn Richard Helms phò trợ Bush-Cha (vị đại đế dấu mặt Skull and Bones-II đang được Harriman chuyển tiếp bàn giao) mà trong tài liệu cho rằng president of permanent government 1920 là thủ phạm.

    Báo chí thời đó cho rằng: lúc 10:15AM ngày 14/4/1961 lệnh bắt đầu đến đúng ngọ, thì CIA của Bush-Cha cho lệnh hành quân qua Vịnh Con Heo, dĩ nhiên tài trợ của Bush Cha nhưng bị thất bại nhục nhã vì TT Kennedy cương quyết không cho quân đội can thiệp. Theo lệnh CIA người điều hành cuộc hành quân là Richard Drain, ám số Skull and Bones 43, cùng cố vấn TT Kennedy là Mc George Bundy, ám số 40, người em của Bundy là William P Bundy, ám số 39 ở Bộ ngoại giao, và người thuộc Russell Trust Association cùng một người vừa tách rời William Colby là 45W thân cận của Bush Cha với ám số 45W như trên. Việc thất bại nầy thúc dục Kennedy ra lệnh cho Tướng Maxwell Taylor điều tra, Taylor cho rằng CIA như con Voi Rừng bất kham, kết quã Kennedy nổi giận giao CIA lại cho quân đội đảm nhiệm và giải nhiệm một số viên chức cũng như tướng lãnh. Đây cũng thêm một yếu tố nhỏ khiến Harriman, Bushes mướn Mafia giết Kennedy để không gây sự xung-đột mâu thuẩn giữa CIA và FBI nhưng lại đổ lỗi oan cho William Colby vì ông có kinh nghiệm mướn Mafia giết những lảnh tụ thiên tả hay Cộng Sản tại các nước tây âu qua tiền tại trợ rút tại ngân hàng Thụy Sĩ sau thế chiến 2.

    Để tiếp tục thi hành theo chỉ thị của Hội-Đồng An-Ninh Quốc-Gia, bản văn kiện ghi nhận số 52 Memorandum, CIA chuyễn qua dùng Phi-Cơ C46 không số do phi-công Trung-Hoa Quốc-Gia lái, chương trình thả Toán dài hạn (3 năm) sâu vào lãnh thổ Bắc-Việt. Tại Trung tâm huấn luyện Long-Thành, cách Sàigòn 40 cây số đang đào-tạo thêm hàng chục Toán mới; Tháng 5, 6 và 7 năm 1964 các Toán được thả xuống như: Boone, Buffalo, Lotus và Scorpion… kết quả tất cả bị tóm cổ. Tuy thất bại nhưng cũng vẫn tiếp-tục đào-luyện 21 tuần lễ các Toán mới, và chọn người có khả năng để tăng cường bổ sung cho Toán Remus và Tourbillon dành cho phía Hà Nội chơi trò “Cút-bắt”. Nhưng sự thật đây là trò chơi rẽ tiền: Dân và cán bộ cấp nhỏ người nào cũng óm nhách óm nheo vì không đủ ăn thiếu dinh dưỡng nên mặt bũn da chì, đem bắt cóc họ lùa vào chiếc PT Nasty đem vào Cù Lao Ré nuôi cho mập, rồi thả về chỗ cũ, mặt mày hồng hào khỏe mạnh đễ lộ ra coi như “Ông ơi tui ở bụi nầy” thì bị bắt rồi cho đi cải tạo tư tưởng. Rồi họ tuyên dương tình báo nhân dân của họ thật xuất quỷ nhập thần, dù rằng đây là trò chơi rẽ tiền, nhưng đối với tinh thần là kích thích sự háo thắng truyền thống của CS, có như vậy để cho họ tiếp tục phấn đấu vượt bao khó khăn để trục Ma/Quỹ hoàn thành kế sách chiến lược.

    Sơn-Tinh thất bại, CIA dùng Thủy-Tinh gỡ lại; Ở Vịnh Bắc-Việt, duyên-tốc-đỉnh Nasty và Biệt-Hải bắt đầu tấn kích phá hoại rất thành công nhiều mục-tiêu rải-rác dọc Duyên-Hải; Hai cuộc tấn kích chớp-nhoáng rồi rút ra khỏi, đó là ngày 9 và 25 tháng 7. Đặc biệt ngày 30 July tấn kích dữ-dội căn-cứ Radar của Hà-Nội, xử dụng tốc đĩnh Nasty và Biệt-Hải tấn kích quyết liệt sâu vào đất liền, hủy diệt căn-cứ thường dòm ngó nầy, gây ra nhiều đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ dài theo sau đó. Cuộc hành quân của Thủy-Tinh hoàn-toàn thắng lợi.

    Kết quả về Hành-Quân của Toán Dài Hạn: Nói tóm lại, sự hoạt động của Toán Dài-Hạn, từ ngày thành lập đến nay xem như thất bại hoàn-toàn, chỉ có bảy Toán và một Đơn Chiếc được xem như còn hoạt động trong nội-địa Bắc-Việt đến năm 1967 (xem bản đồ ở trang đầu) Ba Toán và một Đơn Chiếc do CIA đào tạo sau bốn năm hoạt động là: Eagle, Red-Dragon và Romeo đã tỏ ra có nhiều cố gắng.

    Đem so-sánh với kế-hoạch kồng-kềnh của CIA, các Toán nầy hoạt động cũng không đáng kể, mặc dầu phương tiện đem họ đi thâm-nhập rất hoàn-hảo, nhưng kết quả lại không ra gì. CIA thả Toán Tourbillon ngày 16/5/1962, sau đó tăng cường thêm hai Toán-viên ở vùng hoạt động tây-bắc Hà-Nội, lúc đầu Toán phải mở những trận phục kích, phá hoại, gây rối hậu phương địch, sau đổi lại chỉ góp nhặt tin-tức báo-cáo về Trung-ương mà thôi. Kết quả không tin-tức nào cho là đáng kể; Nhận thấy cứ mỗi lần muốn bốc họ ra thì họ xin trì hoản thối thác và đến bãi bốc không đúng hẹn (Nếu chúng ta suy gẫm có sự thay đỗi nhiệm vụ như vậy có nghĩa là CIA của Colby bị CIA của Richard Helms đè bẹp, thế thì ai nắm chính sách Mỹ? Ðúng y chang Harriman kiến trúc sư cuộc chiến, và Prescott Bush, chủ tịch hội đồng kỹ nghệ quốc phòng WIB)

    Tháng Tám năm 1963 CIA thả Toán Easy ở Sơn-La với mục địch, Toán phải tìm mọi cách liên-lạc với nhóm người lãnh đạo của sắc-tộc Mèo, Thái để được Bốc đem về cho CIA huấn luyện, sau tháng giêng năm 1964, có nghĩa là sau khi TT Kennedy và TT Diệm bị thảm sát, nhiệm vụ nầy được hủy bỏ vì chỉ-thị đột ngột của Hoa-Thịnh-Đốn (từ bộ Ngoại giao, Harriman) không được mở các cuộc đột kích cũng như tấn-kích. Toán Easy trở lại vị thế nhàn rỗi giống như tên đặt: là chỉ thu-lượm, khai-thác tin-tức và tìm hiểu để tuyển người tại địa phương.

    Kết quả, không thấy báo-cáo… nín câm như hến! Colby không biết gì nhưng điệp viên 19 Lucien thì biết tất cả mọi việc qua Phạm Xuân Ẩn. Theo sự tường trình của CIA [Colby] thì Toán Easy nầy đã được tăng cường bốn lần với hai mươi ba Toán viên. Đến khi cho biết, tình-trạng khẩn-cấp, báo-động Đỏ, vị bị nghi-ngờ, vài Toán viên phải được Bốc về ngay… thì Toán nầy cắt đứt liên-lạc tức khắc (bị bắt buộc phải làm nhiệm vụ nhị-trùng).

    Toán sáu người Remus nhảy dù xuống ngày 16 tháng 4 năm 1962 gần Điện-Biên-Phủ, ấn-định mục-tiêu: Thiết lập bí-mật tại đây một Căn-cứ chìm để đón nhận tin cũng như phát tin đi hàng ngày về diễn-tiến thay đổi tình-hình chính-trị, kinh-tế cũng như quân-sự, lựa chọn một nơi thật an-toàn để nhận tiếp-tế và cũng là nơi sẽ tiếp-nhận thêm Toán viên Mới, thu nhập tài-liệu, dữ kiện để tuyển người cho Mặt trận Gươm Thiêng Ái-Quốc, nhưng sau khi TT Kennedy bị thảm sát, Toán Remus trở lại nhiệm vụ thám sát để báo cáo tình hình, nói tóm lại từ khiêu khích trở về phòng thủ để lấy tin tức, ngay sau khi TT Kennedy bị Harriman và dòng họ Bushes quyết triệt tiêu. Các toán đã thã trở về mục tiêu do la tin tức, không được phá hoại và bị bỏ trong quên lãng

    Năm 1964, Toán Remus báo-cáo đã phá sập nhiều cầu-cống trên những huyết lộ của Bắc-Việt, Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Mc Namara làm bộ mừng rỡ khi William-Colby báo cáo, lúc nghe được tin nầy, Mc Namara nhún-nhảy tưng-tưng như đứa trẻ con vừa được Bố Mẹ mua đồ chơi; nhưng Colby cũng biết Namara không ưa gì mình khi cố mỉm cười và cứ tưởng như Mc Namara cho rằng, cuộc chiến sẽ thay đổi hẳn cục diện và đây quả là một chiến-công vĩ đại? CIA không có bằng chứng nhưng chỉ tin vào báo cáo, cho đây là kết quả tốt đẹp nhất nên Toán Remus được tăng cường năm lần, (chỉ có Nhóm phản gián của điệp-viên 19 và Phạm Xuân Ẩn là hiểu rõ mọi diễn tiến của trò chơi nầy và Mc Namara cũng thừa hiểu điều đó nhưng cũng cố đóng kịch như là người thuộc về viên chức chính quyền, trong khi điệp viên tài ba nhứt trong Ðệ-2 thế chiến, Colby đành thúc thủ)
    Mãi đến năm 1966 Remus bị nhóm Colby phê bình khiển trách vì quá tự mãn nên báo cáo quá ít và mù-mờ không rõ-ràng, Trung-ương quyết định, vì nghi ngờ, phải thay đổi nhiệm vụ nên ra lệnh Bốc bớt về hai Toán-viên. Được Toán trả lời ngay: “Rất nguy-hiểm không nên bốc hai Toán-viên ra…” Đền giữa năm 1968, tất cả vô-tuyến liên-lạc đều cắt đứt, cũng vừa phỏng vấn lấy cung một tên lính Bắc-Việt mới bị bắt, hắn tiết lộ rằng: Đội-Trinh-Sát đã bao vây bắt được Toán Gián-Điệp của Chính-phủ Sàigòn ở vùng cao thuộc Tỉnh Hoàng-Liên-Sơn. Sau khi phối kiểm, đúng là Toán Remus vào giữa tháng 6 năm 1962, có nghĩa là sau khi thâm nhập được hai tháng là bị chụp ngay, Bắc-Việt dùng Toán nầy để làm Gián-diệp hàng đôi, trong khi Colby không biết gì cả.

    Ngày 13/5/1968, Đài Hà-Nội công bố xác định có bắt được một Toán Gián-Điệp với những dữ kiện…rõ-ràng là Toán Remus. Nói tóm lại, Colby chỉ còn Một-Đơn-Chiếc Ares là đáng tin cậy được, (tôi đoán rằng Nguyễn Chí Bình, thép đen?) đầu năm 1961 Ares được thả bằng đường biển, gần biên-giới Trung-Quốc, lúc đầu không liên-lạc được nhưng sau bắt được liên-lạc; Trước đây được một viên chức của Sở-Khai-Thác Địa-Hình đề ý và tìm ra Ông khi ông còn ở Trại Tỵ nạn Cộng-Sản vào ngày 29/8/1960 được đưa vào ống kính CIA vì ông có nhiều mối căm thù tích lũy với Cộng-Sản, với sự kích động hăng-say khiến ông ao-ước được có cơ-hội nầy để tiêu-diệt Cộng-Sản, dĩ nhiên không bao lâu, sau ông được cơ quan tuyển dụng ngay. Thoạt đầu ông được xem như tích cực, hữu-hiệu, cung-cấp những tin-tức cũng như tài-liệu về Miền-Bắc, nhà máy điện Uông-Bí, Xa-lộ, Cầu-cống, Bến cảng Hải-Phòng và những tin-tức liên-quan khác, chính ông đã cố-gắng hết mình tìm được những tin-tức vô cùng quý giá. Tuy nhiên đến năm 1966, CIA bắt đầu ngạc nhiên về sự yêu cầu tiếp-tế của ông, Ông đưa ra điều-kiện nơi tiếp-tế, rồi thình-lình lại xin hủy bỏ; Khi CIA quyết tình muốn bốc ông ra thì ông thối-thác không ra chỗ hẹn, nhưng vẫn liên-lạc mãi đến năm 1968; Hà-Nội biết như vậy nên càng rà theo dõi ông sát nút nhờ qua tin của tam-trùng Ẩn báo cáo khá chính xác những hoạt động gián điệp biệt kích của VNCH.

    Nói tóm lại góp nhặt tin-tức, phá hoại đột kích… Các Toán dài-hạn ít có kết quả hơn Toán ngắn hạn, tại sao? Rất nhiều lý do phức tạp chỉ biết qua tin-tức bằng vô-tuyến, nếu có phá sập cầu, cho biết vị trí, chụp hình thế thôi. Thậm chí có những Toán bị Bắc-Việt bắt được và đang áp-đặt làm điệp-viên hàng đôi mà CIA [nhánh chính quyền Colby] cũng chẳng hay biết, cứ như thế mà tiếp-tục tiếp-tế, thả tăng thêm người: (Những khuyết điểm thực tập nầy của Colby vẫn được ghi chép vào Học viện Quân sự để rút kinh nghiệm sau nầy)

    Toán Tourbillon, năm 1962 tiếp nhận Toán viên mới hai lần, rồi tiếp-tục nhận thêm năm 1964, năm 1965, năm 1966 và năm 1967, thật là buồn cười cho một Cơ-Quan CIA tự hào là nổi tiếng khắp thế-giới mà bị mù lòa không thể tưởng. Nhưng sự thật đã bị CIA (toán phản gián của Richard Helms) qua Phạm Xuân Ẩn chỉ điểm tọa độ nên bị tóm cổ hết cả lủ, theo kế hoặch của Nhóm tham mưư Harriman là mọi ngành, binh chủng, đơn vị đều phải thực tập trách vụ nhưng không cần thu hoạch kết quả với châm ngôn (everthing worked but nothing worked enough)
    - Toán Remus nhận tiếp-tế Bốn lần
    - Toán Easy nhận tiếp-tế Năm lần
    - Tất cả những Toán viên tăng cường đều bị bắt, bị giết bởi lính tuần tra theo kiểu Cày Răng Lược của lính Bắc-Việt.

    Hồi Đệ II thế chiến, Tình-báo Quân-đội Hoa-kỳ OSS rất hữu hiệu, thao lược và kiệt xuất, họ võn-vẹn có vài người trong lòng địch kiểm soát, thay vì phải điều-động cả hàng Sư-đoàn để giao-tranh với Địch, dĩ nhiên với quân số nhiều như vậy thì phải chịu thiệt hại khi đụng độ. Cũng nên nhắc lại chuyện xưa, ngày đó OSS biết khi nào cần sự có mặt của quân bạn để tham chiến, đúng lúc, nơi nào, vào giờ nào, để làm gì…Trong khi Đồng-minh Liên-Xô không những hàng ngày mà hàng giờ chờ quân-đội Hoa-kỳ nhảy vào vòng chiến để nhẹ bớt áp-lực. Trong khi mũi dùi tiến về phía Tây-Bá-Linh, Liên-Xô chịu quá nhiều thiệt hại về nhân mạng, đến khi Liên-Xô tiến gần đến Bá-Linh, lúc nầy Sĩ-quan OSS, W.Colby mới chịu báo-cáo cho Sư-đoàn Dù nhảy vào vòng chiến để chụp giật phỏng tay trên giành được các nhà Bác-Học Đức trên tay hồng quân Liên Xô; Ngày xưa Cơ-quan Tình-báo Quân-đội OSS càng kiệt xuất bao nhiêu thì ngày hôm nay được đồi cái tên là CIA thì quá tệ trong dự mưu của SCP, vì bị thọc gậy bánh xe, mục tiêu có khác là do thế chiến lược phản tình báo của Skull and Bones. CIA [Colby] biết mình mà không biết người thì làm sao nắm vững được tình-hình; Trong khi nhóm phản gián của Richard Helms thì biết cả hai bên nhở cùng KGB phối hợp thao dượt để thí nghiệm các dụng cụ truyền tin loại update nhứt cho sự ích lợi của hai nước Mỹ/Xô. Nhưng đây là một điều trớ-trêu nhưng lại trong định kiến của Nhóm tham-mưu Dân-sự Harriman về thế chiến lược ‘bênh kẻ mạnh’ để giúp Hà Nội chiếm lỉnh Miền Nam theo định kiến-1 (axiom-1).

    - Cho thi hành công tác mà không hiểu rõ, xác định mục tiêu như thế nào, đổi mục tiêu vô chừng, khi thì phá hoại rồi đổi mục tiêu qua thu lượm tin-tức, rồi đùng một cái tuyển người ở địa phương cho chương trình Mặt-Trận Gươm Thiêng Ái Quốc, thay đổi kế-hoạch như chong-chóng (Vì mọi hoạt động đều do sự chủ đạo của Nhóm tham mưu Richard Helms/Harriman)
    - Quan niệm hành quân không thích hợp, không nắm vững, thiếu hiểu biết.
    - Thiếu kinh-nghiệm điều hành.
    - Thiếu, không đủ thủ tục, tiêu chuẩn để chọn người.
    - Huấn luyện chưa vững, thiếu tin cậy, tin-tưởng.
    - Không biết cách để kích động tinh-thần Toán viên.
    - Trong khi Bắc Việt đã điêu luyện về xử dụng Gián-Điệp hàng đôi, khích lệ bởi KGB
    - Quân đội điều-hành không chuyên môn về phương diện tình báo, đổ lổi Kennedy (Nhưng có một đều chũ yếu là thao duợt cho cã hai phía Bắc Nam để tiêu hũy cũng như thí nghiệm vũ khí mới lấy VN làm chiến trường thí nghiệm)
    Mặc dù có những sáng kiến khi phát hiện Toán bị cưỡng bức làm Gián-điệp hàng đôi như dùng Phi-cơ Phantom RF-4 thả đồ tiếp-tế theo kế hoạch đã ấn định trong chương trình: Cái thùng nhôm mang dưới bụng Phi-cơ giống như bình xăng phụ, dùng thả những tiếp liệu như Vô-tuyến, Lựu đạn, Mìn bẩy…Nhưng Lựu đạn kỳ thả nầy, hễ rút chốt ra là nổ ngay, vô-tuyến và các thứ khác đều như vậy nhưng chỉ có hiệu quả một hai lần thôi, lần sau họ đâu có dại nữa mà chịu mắc-mưu. Còn như để đánh lạc hướng địch, thả dù bằng những cục nước đá có sức nặng bằng con người… đến khi nước đá tan thì chỉ còn chiếc dù mà thôi, treo lủng lẳng trên cành cây hay cạnh sườn núi, lính Bắc-Việt sẽ tập trung vào khu đó mà tìm trong khi Toán sẽ được thả ở nơi khác, cái mưu chước nầy cũng chỉ nhất thời mà thôi, chớ không thể ứng dụng lâu dài được! Thả máy phát thanh treo trên ngọn cây phát ra tiếng liên-lạc giữa các Toán với nhau để đánh lạc hướng…nhưng dù gì thì chĩ có hậu quả nhứt thời mà thôi - Đây cũng là hình thức tạo ra sáng kiến về phía Colby.

    KQ: TRUONG VAN VINH

Trang 1/18 12311 ... cuốicuối

Similar Threads

  1. KGB/CIA đạo diển cuộc chiến VN
    By vinhtruong in forum Trang Vinhtruong
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-29-2011, 08:48 PM
  2. đàn ông khác đàn bà .
    By TAM73F in forum Vui cười
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-25-2011, 03:56 PM
  3. Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 03-19-2010, 09:23 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •