TỔNG THỐNG THIỆU CHỐNG LỊNH PENTAGON
General Al.Haig: “Washington would like to see ARVN stay in Laos through April”
Với Quân-lực nầy, Tổng Thống Thiệu cũng như các Tướng Lãnh đều đồng có một quan niệm, là bảo vệ tối đa sanh-mạng cho binh-sĩ, và tiết kiệm tối đa xương máu của chiến binh. Để chứng minh điều nầy, có bao giờ chúng ta nghe Quân-Lực VNCH dùng chiến thuật biển người để chống Cộng không! Dùng thuốc kích thích, hoặc là xiềng chân vào tay-lái của chiến xa không!? Trong khi Cộng-Sản như một tôn-giáo cuồng tín, tử vì Đảng! Cái đỉnh cao trí tuệ nầy có chịu thua sự ngang-ngược của TT Thiệu khi làm bể kế hoạch chiến-lược trong cuộc hành quân Lam-Sơn 719 nầy qua sự cho 2 Tiểu đoàn của SÐ/1 (6/3/1971) nhảy xuống Tchepone đái một bãi rồi về? Có nghĩa là đếch thi hành giai đoạn-3 khai thác chiến trận! Ðể dạy một bài học thâm hiểm và đồng thời cũng vì phải giữ tình hình thật yên tịnh để Mỹ tiếp tục rút quân, nên Richard Helms, người hậu vệ [linebacker] của trận đấu “Pennsylvania” phải hoặch định một phương áng “Rã ngũ quân lực VNCH” bằng sẽ có một chước quỷ cho một cuộc chạy tán loạn của quân dân miền Nam và Cộng Sản sẽ trả thù!
Ðứng trên một góc cạnh nhãn quan chính trị, chiến sĩ chúng ta phải thông cãm và chấp nhận việc làm cũa TT Thiệu phải như vậy không còn con đường nào khác. Ðầu năm 1975, Họ đứng trong bóng tối áp lực TT Thiệu phải đích thân do chính bàn tay của mình tự bẻ gãy từng chiếc của bó đũa [quân lực VNCH] bằng cách phân tán lực lượng, rút bỏ vùng-1 và 2 vì không còn đủ hỏa lực, cơ-phận, nhiên liệu…đang cạn dần và phải bẻ nhỏ từng mảnh 2 Sư-đoàn tổng trừ bị lợi hại nhất mà Lê Ðưc Thọ rất khiếp đảm, nên Thọ khẩn thiết yêu cầu Kissinger nếu Mỹ muốn Hà-Nội chiếm miền Nam đúng theo lộ-trình, theo sự thỉnh cầu về điểm mốc thời gian chiến dịch Hồ Chí Minh… Richard Helms phải làm theo sự chủ đạo của George H.W.Bush liền tức khắc qua khai thác sự sợ hãi làm đảo chánh của TT Thiệu để áp lực TT Thiệu ra lệnh rút về chỉ một Lữ-đoàn Dù thôi cùng Quân đoàn-3, vừa đủ tạm thời trấn giữ cái cổng chính của sân vận-động, hầu trực thăng Mỹ sẽ cứu người Mỹ và những tai to mặt lớn trốn chạy ra nước ngoài. Thế là bình luận, báo chí trên thế giới cứ chĩa mũi dùi tấn công chỉ một mình tội lỗi do Tổng thống Thiệu gây ra mà thôi, nhưng làm sao dư luận hiểu nổi một bộ óc tinh xảo trong bóng tối đã đem chiếc đũa thần hoàn thành định kiến-1 (axiom-1) Dù rằng TT Thiệu đã thỏa mãn tất cả những điều kiện do phía Polgar, Trưởng CIA yêu cầu nhưng ngặt nỗi những bức thư mật giữa TT Nixon và Thiệu vẫn còn nằm trong tay TT Thiệu. Chuyện khó là tạo ra vụ Watergate để hất chiếc ghế quyền lực của Nixon, việc đó đã hoàn thành tốt đẹp do tham mưu trưởng Donald Rumsfeld chỉ thị cho R.Helms. Tại sao Nixon không dùng đặc quyền theo hiến định để tự ân xá mình? Như Thái-tử George W Bush dù bị sự ủng hộ thấp nhứt trong lịch sử TT Hoa kỳ (23%) còn mang thêm trọng tội lừa dối Quốc hội và dân Mỹ về vũ khí giết người hàng loạt WMD nhưng vẫn phây phây ngồi cho đến mãn nhiệm kỳ?! Ðộc giả yên tâm! 2 sự kiện kinh dị nầy sẽ phải đợi một thời gian coi cho được [Decent Interval] rồi các sử gia sẽ phơi bày ra ánh sáng để trả lại tính trung thực cho lịch sử.
Trong những ngày ảm đạm của tháng 4 năm 1975 cũng trùng hơp như tháng 4 năm 1954, chỉ có một điều duy nhứt nếu Hoa Kỳ giữ vững lời hứa qua B-52 và B-29 …thì mọi việc đã khác hẳn; Nhưng sự can thiệp đó đã bị từ chối theo dự mưu của WIB. Hai trận đánh có tiếng vang quốc tế như chiến dịch Ðiện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh khi CSBV cưỡng chiếm miển Nam; Tôi thất vọng vì một thế lực tài trợ cho truyền thông văn hoá để bóp méo, xuyên tạc trên lãnh vực quân sự mờ mờ ảo ảo giữa một bên với 700 triệu tấn vũ khí tối tân và một bên cạn dần hỏa lực. Một sự sấp-sếp tàn độc cho một cuộc bàn giao quyền lực từ chính quyền Saigon cho Hà-Nội không tắm máu và Saigon không biến thành đống gạch vụn! Axiom: “There was never a legitimate non-communist government in Saigon”.
Cho nên sau khi áp-lực khai thác xong, TT Thiệu bị áp giải giữa băng ghế sau như một tù-nhân trong chiếc công xa màu đen, bên trái trùm mật vụ Polgar và bên phải là Tướng Timmes, lên chiếc phi-cơ DC-6 (C.118, MATS) đã đợi sẵn qua Ðài-bắc với danh nghĩa là Ðại-sứ VNCH kèm theo lời hăm-dọa phải “ngậm-tăm”, không được hé môi về những gì bí mật của mưu đồ chính trị nếu còn muốn sống. Làm sao ai hiểu được TT Thiệu phải chôn-chặt mối hận u-uất nầy mãi xuống tuyền đài, làm sao giải oan cho TT Thiệu trong khi các Tướng lãnh khả-ố cứ đổ trọng tội vào vị Tư lệnh tối cao, làm cho cái gọi là Ðỉnh-Cao-Trí-Tuệ cứ cười ngặt nghẽo trong sự tự-mãn về mưu chước xảo trá thần sầu quỷ khốc của chúng. Không một ai có quyền kết tội ai mà hãy để cho lịch sử phán quyết, hãy để hậu thế sau nầy điều tra, kiểm chứng, đối chứng, phân tích hầu trả lại tính trung thực cho lịch sử; riêng cá nhân người viết xác quyết rằng, các Sử-gia thế hệ thứ 3, thứ 4 sẽ minh oan cho vị nguyên thủ quốc gia mà tôi kính trọng. Lịch sử sẽ phán quyết những việc làm của người cũng như đạo đức của TT Ngô Ðình Diệm dù chưa được mọi người hoàn-toàn chấp nhận, nhưng sử gia sẽ tái xác nhận lòng yêu nước quyết bảo vệ chính-nghĩa, chủ-quyền quốc gia của ngài dù phải trả cái giá bằng mạng sống, cũng như ngày hôm nay người dân Việt vẩn tôn thờ Ðức tả quân Lê Văn Duyệt mà đã bị quá khứ kết tội oan-ức. Không có sử gia, sự thật sẽ vĩnh-viễn chìm trong bóng tối, theo như hiền-triết W.Brayant “Sự thật dù có vùi xuống dưới đất rồi cũng sẽ trồi dậy” Người viết ước ao khi viết về những nhân vật, những sự kiện được gọi là lịch sử, theo thiện ý của tôi, là ghi lại một cách trung thực, vô tư, không thiên vị không ác ý, không diễn dịch sự kiện, tô vẻ hình ảnh nhân vật theo sở thích hoặc nhu cầu thương ghét của người viết. Ðể cho các sử gia hậu thế đúc kết các liên hệ thực tế, trong nhiệm vụ phục vụ quê hương dân tộc, có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi hầu theo dỏi vun đấp những gì đúng với sự thật, sửa chửa gạt bỏ những gì sai lỗi, xấu xa. Tôi xem tác phẩm nầy như một đốt xương nhỏ li-ti để cho các sử-gia sau nầy ráp nối với các cục xương Lớn, thành hình ảnh một con Dinosaur khổng lồ (Tại sao tôi đặt hết niềm tin nơi sử gia trẻ thuộc thế hệ 21? Thế hệ trẻ thường có những nhận định độc lập và thẳng thắn, dùng khoa học hiện thực để biện chứng trên những trang giấy trắng tinh; Họ không có lối viết phải né tránh hoặc ngần ngại như chúng ta viết là phải lách, vì những mặc cảm hoặc gánh nặng quá khứ, họ là trang giấy trắng tinh với ý thức nếu muốn phủ lên lớp sơn Hồng thì chỉ cứ việc trộn sơn Trắng với sơn Ðỏ, nếu muốn màu Hồng đậm hơn thì trộn nhiều sơn Ðỏ hơn Trắng, nhưng nếu muốn màu Hồng nhạt hơn thì trộn sơn Trắng nhiều hơn Ðỏ. Còn như thế hệ dính líu vào cuộc chiến thì hỡi-ôi, tờ giấy trắng nầy đã dính quá nhiều hoen-ố…loang-lỗ đủ các màu sắc khác biệc, không rõ nghĩa) Vì không làm được như vậy, người viết sử đương thời, không khác gì nhiều, so với những bài, sách báo, đã được một số trí thức, khoa bảng, chính khách Việt đã viết mà tôi đã được đọc, không lý luận dẫn-giải cho đúng với liên hệ thực tế, trong giai đoạn đầy nhiễu nhương của một nước Việt Nam nhỏ bé, bị ảnh hưởng quá nhiều vào ngoại bang, nhưng lại dư thừa thù-hận, ganh-ghét, đố-kỵ mà lại thiếu quá nhiều tình thương và tinh thần tự trọng thật sự đúng nghĩa là yêu nước!
“Mỹ đem con bỏ chợ”: Ngày 23/Febuary là ngày đen tối nhất: Trực-thăng của Hoa-kỳ không biết vì lý do gì đã không chịu yểm trợ tiếp vận cho QLVNCH nữa, gây xúc động đến nỗi Phó TT Trần-Văn-Hương phải sướt mướt tức tưởi trên đài…lên án người bạn lớn của ta đã đem con bỏ chợ. Tướng Abrams, gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến vì Abrams không hiểu tí gì về mục tiêu chiến lược của cuộc hành quân mà chỉ biết có chiến thuật là yểm trợ tối đa hoả lực cho quân lực VNCH, khác hẳn với tướng Wesmoreland tại vùng Khe Sanh nầy; Westmoreland dựa vào chỉ một TÐ/BÐQ để bảo vệ vòng đai Khe Sanh, còn Abrams thì khác, quân đội Mỹ không tham chiến, nhưng nhân viên phi hành, dù không được bước xuống đất Lào, nhưng phải bay qua Lào nên vẫn bị thảm hại vì bị bắn hạ. Nhưng Abrams cũng yên tâm vì có nguyên một đại đội Hắc Báo đặt dưới quyền điều-động của tướng Sid.Berry để tìm cứu phi hành đoàn lâm nạn.
Chứng kiến có 25% trực thăng khả dụng hành quân, Abrams nổi cáu đã chửi bới văng tục với các Tướng lãnh dưới quyền vì số trực thăng yểm trợ chỉ ở dưới mức không thể chấp nhận được, thay vì phải được 80%; Nhưng ngặt nỗi Abrams cứ nhè Tướng 3 sao Surtherland mà ‘dủa’ thê thảm. “Mấy anh là Quân-nhân, ưu tiên một là gì (Abrams dùng không biết bao nhiêu chữ god-damn thỉnh-thoảng còn chua thêm chữ ‘Fucking-bird’, trong tác phẩm ‘A Better War’) Tướng Abrams liền phái chiếc Trực-thăng dành cho riêng ông, bay xúc cho bằng được Đại-tá Lữ-đoàn-1 Không-kỵ, Sam Cockerham về gặp ông gấp gấp gấp; Trong khi chờ đợi, Abrams nghiêng qua hỏi ý kiến vị Tướng Phó của mình Weyand, Tôi nghĩ không thể tha-thứ cho Jock (tên lóng của Tướng Sutherland) vì Jock chỉ huy mà không theo-dõi tình-hình về Đ.M…mỗi mấy con chim…về tình trạng… Đ.M khả dụng mấy con chim ra sao…từng giờ… Đ.M từng ngày…Đ.M dường như có cái gì không ổn! Ông xem lại dùm tôi… Một tiểu-đoàn đã có mặt ở Con-lộ 914, đã 2 ngày rồi mà Jock không hay biết, ông xem họ làm ăn ra sao, tổ chức ra sao. “như vậy đánh động cho tôi biết, sự phối hợp giữa 2 bên Việt-Mỹ không ra cái thá gì, có nghĩa là vô hiệu quả, thất bại!”.
Sau khi ngừng một chút xả hơi, giọng ông dịu lại “Tôi nghĩ, tốt hơn là lên nói thẳng với Tướng Mc Caffiey ngay bây giờ, Tôi nghĩ mình nên tới họ, để họ ra lệnh xuống đưa chuyên viên, dụng cụ và đồ nghề tiếp liệu, cơ phận để sửa chữa tại chỗ”.
Tướng Abrams chấp tay sau đít đi tới đi lui dỏi mắt trông ngóng. Khi Đại-tá Cockerham bước vào, đứng thẳng nện gót giày chào theo nghi lể của thuộc cấp, Tướng Abrams ở đó chỉ chờ Cockerham tới để ‘quạt’ một mách cho nhẹ người. Abrams thả thân người mệt mỏi rơi xuống chiếc ghế da Sofa trong văn phòng của Tướng Surtherland; Tướng Abrams bắt đầu nổi nóng trở lại: “Đ.M mức sẵn-sàng tác-chiến O.R (Operational-Readiness) của Lục-quân Không-kỵ là bao nhiêu…ĐM làm sao bảo vệ niềm kiêu hãnh của Không-kỵ đây?” Sự nổi nóng cứ bộc phát tăng dần “Chiến lược, chiến thuật, về quan điểm đường lối hành động đều lộn tùng phèo hết … hỡi Ðại tá … Ð.M yêu quý của Tôi!”
“Tôi muốn Đai-tá làm gì tôi không biết … Ð.M phải đưa tình trạng khả dụng Trực-thăng lên đến mức yêu cầu trong USARV Standard, có nghĩa là 80% khả dụng và thêm 5% gọi là danh dự của Lữ đoàn Không-kỵ, Đại-tá hiểu chứ, và có làm được …không?”
Abrams đi thẳng vào vấn đề, “Bây giờ là 1 giờ trưa thứ Hai, Đại-tá cho tôi biết chừng nào đạt được tiêu chuẩn 85%” Cockerham: “Thưa Đại tướng Tôi cố gắng đến tối thứ Tư thì xong”
Khi Đại-tá Cockerham rời khỏi phòng họp, Abrams nói vói theo “Kính thưa Đại-tá…tôi muốn Đại-tá phải mở… Đ.M cái máy truyền tin cho tôi được theo dõi…Okay, Đ.M Tôi nhớ và trông chờ giọng nói của Đại tá…chắc Đại tá cũng thừa hiểu chớ?”
Sau một chuổi dài giận dữ và sỉ vã từ trên xuống dưới, Tướng 3 sao, Sutherland như con Chó cụp đuôi (General Sutherland was like a Dog with his tail tucked under) Sutheland cũng thành tâm tự cảm nhận rằng cuộc hành quân quá tầm hiểu biết và khả năng của ông.
Liền sau đó, Tướng Phụ-tá Sư-đoàn nhảy dù 101, Sid Berry tạm thời thay thế Đại-tá Cockerham phục hồi lại uy-tín cho Lữ-đoàn; Bây giờ trở đi, trong cuộc hành quân Lam-Sơn 719 có một Tướng lãnh duy nhất tham dự chiến trường với tất cả phi-vụ được xem là hóc búa nhất, và sâu nhất nằm trên đất Lào, trong khi phía VNCH không có một Tướng lãnh nào chiến đấu trên đất Lào “Sự cương quyết của Tướng Abrams đưa HÐAN (NSC, Pentagon) vào con đường vi-phạm ROE?” Thế là tướng Haig điều động đại-tá James Vaught qua với danh nghĩa cố vấn cho Sư đoàn Dù; Khi Trung-tướng Julian Ewell thăm viếng VN, có ghé thăm Khe-Sanh ông cũng là thành viên trong phái đoàn Hòa-đàm Paris, ông có cảm tưởng, ‘thật là khó tin’ Ngày chủa Nhật, số Phi cơ khả dụng 79%, thật không thể tưởng tượng được.
Cũng theo tác phẩm Better War, ngày hôm nay 23/Febuary/1971, thành phần Tướng lãnh Hoa-kỳ áp lực TT Thiệu phải thay đổi cấp Chỉ-huy, chứ không dựa vào thế dùng băng nhóm chính trị để thống trị đất nước, sinh mạng chiến binh phải được coi trọng; như Vùng-1 gồm có Băng Thiết Giáp:Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tướng Phan Hòa Hiệp và Tướng chưa kịp đeo Quân-hàm đã tử nạn Phi cơ A.37, là Nguyễn-Văn-Thiện, Tư-lệnh Biệt-khu Quãng-Đà. Tướng Lãm được xem là người thiếu khả năng với trách nhiệm quá nặng, Lãm không thể nào hoàn thành trọng trách được, nên được thay thế bởi Tướng Đỗ Cao-Trí, mà người Mỹ cho là George-Patton của VN, một Sĩ-quan như vậy rất hiếm có trong Quân đội Sàigòn. Chính Tướng Trí đã hiên ngang ngồi trên Thiết vận xa M.113, đầu đội nón lưỡi trai có mang chần-dần 3 sao trắng trên đó, điều động 17,000 quân cho cuộc hành quân càn quét quân BV, Cục R ở Cambodia (1970). Nhưng chúng ta cũng nên suy nghĩ điều nầy, chỉ có những Tướng lãnh Mỹ vì danh dự của tổ quốc họ, chớ cái thứ Skull and Bone thì lại khác, chính TT Nixon cho oanh tạc và tiến quân qua Mật Khu của MTGPMN ở phần đất Cambodia đã bị Quốc hội do áp lực của thứ Ma đầu-lâu nầy gây khó dễ, gọi là vi phạm hiến-quyền Power-Act của Quốc-hội.
Chiếc Trực-Thăng của Tướng Trí đang chở phái đoàn Tham-Mưu Quân-Đoàn III thì bị nổ chết khi mới cất cánh ở Tây-Ninh; Cái tội của Tướng Trí là tiêu hủy một số chiến cụ bằng 5000 chuyến xe Molotova chở chúng từ hải cảng Sihanouk-Ville tới cục R.
[Theo sự suy diễn riêng tư của người viết qua nghiên cứu liên hệ với thực tế bằng các tài liệu giải mật: Tướng Trí chỉ có trọng tội là dám cả gan thiêu hủy kho vũ khí khổng lồ của CSBV tại mật trận Cục-R nằm trên hành lang Xa-lộ Harriman (đường mòn Hồ) cũng như John Paul Vann dám bẻ gãy kế hoạch không cho Hà-Nội chiếm Tỉnh Kontum làm Thủ đô cho MTGPMN để có tiếng nói trong Hòa-đàm Paris-1973, dù rằng CSBV đã có 3 Sư-đoàn bao vây cùng 3 Tiểu đoàn chiến xa PT-76, T-54 thuộc Trung Đoàn 203, trong vòng 2 tháng, trong khi phi trường phải đóng vì trận địa pháo và tiếp tế hoàn toàn bị cắt đứt. Ngày 14/5/1972 B-52 và KQVN Sư-đoàn-6 đã oanh liệt triệt tiêu lực lượng của 3 Sư-đoàn nầy loại ra khỏi vòng chiến đấu khoảng 16.000 quân, thể theo sách A Better War, trang 337, hàng 34. Và lời nhận xét của Vann ca ngợi chỉ có Ðịa phương quân và Nghĩa quân mà đã chống giữ Kontum một cách oanh liệt, tất cả Tăng T-54 đều bị triệt hạ xung quanh vòng đai thị xã. Thật là một sự mầu nhiệm vô lý cần phải suy gẫm!? Các bạn là quân nhân có tin 3 sư-đoàn và 3 thiết-đoàn mà không chiếm được Kontum hay không? Mà chỉ có ÐPQ và Nghĩa quân trấn giữ, chỉ có con đường độc đáo tiếp viện duy nhứt từ Pleiku qua? Dưới đây là bút tích của John Paul Vann:
“John Vann credited the Territorial Forces, not the Army, with much of what went right in MR-2. The RF and PF, in most places, have performed quite well and were a much more stabilizing force than the ARVN”
Cũng như Tướng Westmoreland dám gợi ý tại Quốc-hội chiếm vùng hành quân Hạ-Lào nầy bằng cuộc Hành Quân Lam Sơn 689, với lực lượng Mỹ cùng LLÐB/Biệt Kích Dù của VNCH vào những năm trước đó nên phải bị cách chức Tư lệnh chiến trường tức khắc, lập lại sự việc đề nghị cũng y chang của Tướng Mc Arthur khi đề nghị với Quốc Hội đòi giải phóng lục địa Trung-Hoa, trong lúc Mỹ độc quyền nguyên tử. Nói tóm lại dù Mỹ hay Việt ai đụng đến Xa-lộ Harriman đều bị thảm hại. Ðịa điểm hẻo-lánh KHE-SANH nơi rừng núi xa-xôi nầy sẽ ghi mãi dấu ấn trong lịch sử Hoa kỳ với sự hy sinh 215 nhân viên phi hành Không-ky và 38 đoàn viên MIA, trong khi KQVN hy sinh 10 NVPH va 4 MIA (theo tài liệu MACV/SOG và báo cáo của tướng Hinh). Ðảng hội Skull and Bones dùng quân đội Mỹ như một công cụ người máy, chỉ cứ việc thi hành theo sự chỉ đạo của chúng. Muốn chiếm Hạ Lào phải đợi đến thời gian coi cho được (Decent-Interval) có nghĩa là quân dụng phải được vận chuyển về thừa thãi trên hành lang và được nhị-trùng đại-tá Bùi Tín xác nhận, rồi mới được mở cuộc hành quân, Ðại tá Bùi Tin sẽ cho Mỹ biết về việc tiếp liệu phải được dấu kín vào những nơi an toàn dư thừa để chiếm miền nam. Bắt đầu an toàn từ ngày 18/1/1971 do HÐAN/NSC [WIB quyết định cuộc hành quân Lam Sơn 719 [
http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman, page 1 of 7- Trang 4, Political Career, hàng 19 “HARRIMAN WAS INITIATED INTO THE SKULL AND BONES SOCIETY, ALONG WITH HIS FRIEND PRESCOTT BUSH, ông nội của TT thứ 43 Hoa-Kỳ, 2 soạn giả cuộc chiến VN]
Người viết cảm thấy cũng nên nhắc lại trong thời gian Hội nghị quốc tế Trung-lập Lào 1962, khi mà Harriman âu lo phía Hà-Nội không chịu tham dự trò chơi chiến tranh, nên ra lệnh cho William Colby phải thả toán thám sát STRATA [Short Term Road And Target Acquisition] từ đèo Mụ-Giạ, trên hành lang qua Tchepone và Attopeu để xác-định Ðoàn 559 và Ðoàn 959 có mặt trên đường Trường-Sơn Tây hầu dự trò chơi hay không? Còn như Ðoàn 759 thì Hoa kỳ dễ kiểm soát do tàu nhỏ cận duyên mà Trung Quốc chế tạo cho trò chơi tiếp tế bằng đường biển đến tận hải cảng Sihanouk-Ville trước khi Lon-Nol lật Sihanouk. Lúc đó Khe Sanh là Quận Hương-Hoá cách Tchepone 45 cây số, hành pháp Mỹ qua Harriman buộc Kennedy phải ra lệnh hủy bỏ Quận nầy vì lý do an-ninh. Ðồn điền trồng Cafê và Trà của người Pháp không còn khai thác nữa vì chiến tranh thì giữ để làm gì! Vì thế chữ Khe-Sanh đã đi vào huyền-sử Hoa kỳ, khi buộc phải xoá bỏ chữ Hương-Hoá! Nhưng TT Diệm rất bình thản vì đã có kế hoạch chỉ định Ðại-tá Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh Ðệ Tam Quân Khu làm Tư lệnh chiến trường tấn kích và chốt chận cắt con đường nam Lào từ Dakto, Ben-Het qua tận Attopeu với 1 Chiến đoàn Dù do Thiếu tá Dư Quốc Đống CÐT, 1 Thiết đoàn chiến xa và một đơn vị thuộc Sư đoàn 22. Kế hoạch nầy bị phản thần, Bác sĩ Trần Kim Tuyến báo cáo cho CIA biết ráo-trọi nên sự triệt tiêu TT Diệm đã nằm trong ống kính của người thủ lãnh Skull and Bones-1 ngay tức khắc; Ngay sau khi triệt tiêu 2 chướng ngại vật [Diệm, Kennedy] ngăn chận chương-trình CIP [Counter Insurgency Plan] COMUSMACV đưa đề nghị chỉ để cho quân lực VNCH, dĩ nhiên là không có người Mỹ, có quyền đánh đuổi quân CSBV ra khỏi biên giới Cambodia và Lào. Tổng tham mưu trưởng liên quân nghe hợp lý nên đề nghị McNamara và ông đề nghị lên TT Johnson đúng theo hệ thống quân giai. Tháng 4/1964 TT Johnson đồng ý trên nguyên tắc nên Cố vấn T.T George Bundy sắp đánh điện về Saigon thi bị Micheal Forrestal trong HÐANQG (NSC) cảnh cáo: “Gởi công điện mà không có sự đồng ý của Harriman sẽ có rắc rối.
[Nguyên văn: To send the telegram without Averell Harriman’s approval is just asking for trouble! Even if the telegram had already received Johnson approval but that was not enough! It still required an “endorsement” from Harriman]
Có phải chính-sách Mỹ bị thống lãnh bởi tập đoàn Skull and Bones trong WIB!? Harriman thủ lãnh Skull và Prescott Bush WIB’s Chairman: Đó là lý do tại sao ai đã gây ra cuộc chiến lần thứ hai, 1954-1975 bằng một mưu-lược “bỏ phiếu bằng chân”. Sau khi Liên Xô áp lực Hà Nội thành lập một loạt Đoàn 559, 759, 959 và kết thúc bằng cho ra đời MTGPMN (20/12/1960) Phía Mỹ áp lực Saigon cho ra đời luật 10/59: Tố-cộng và Diệt cộng: Tam trùng Phạm Xuân Ẩn đã móm cho Lê Đức Thọ những tuyên ngôn chỉ Nam sau đây, dù rằng quân tác chiến Mỹ chưa qua tham chiến thì làm gì có xâm lược mà chống! Chống cái gì vào năm 1960! Như “Chế độ khát máu Mỹ-Diệm,” “Giải phóng Miền Nam” “Ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ,” “Miền Nam bị Mỹ ngụy kèm kẹp” “Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào; Khi quân Mỹ rút đi Saigon chỉ còn là bộ xương khô! …”. Trong tầm nhìn sâu-sa của Harriman, những tuyên ngôn trên sẽ được giải nghĩa rõ ràng sau 50 nằm bằng phổ biến của kỹ nghệ thông tin internet. “Ðể rồi, tất cả đều là xảo-trá, lừa đảo, và phỉnh gạt”. Nhưng ngược lại cái khối óc gọi là “đỉnh cao trí tuệ” nầy rồi cũng phải chết, cũng không lừa gạt được với các sử gia thuộc thế hệ thứ 3, 4 khi các sử gia nầy đặt câu hỏi, tại sao quân tác chiến Mỹ chưa qua VN mà HĐANQG [NSC] họp ngày 21/9/1960, (thời Eisenhower) đã bày đặt ra cái huy chương “Chiến-dịch Bội tinh “dành cho quân Mỹ tham chiến VN, và đang sản xuất hàng tỷ họp lương khô C-Rations phối hợp bởi renewed Aid to Russia 1941-46 Plan, cho 3 triệu quân tác chiến Mỹ lần lược luân phiên mỗi năm qua VN dự cuộc Pinic tập trận và họ cũng là hành khách đi Máy bay book trước để nâng đỡ các hãng hàng không dân dụng [thế hệ phản-lực] đang phát triển trong lúc phôi thai khỏi bị khánh tận hay xáp nhập rút gọn; đồng thời 8000 chiếc trực thăng phản-lực UH-1 gọi là trợ huấn cụ [training-aid] để tập trận sau đó bỏ lại với danh từ Việt Nam hóa chiên tranh rồi trở thành đống sắt vụn khi không còn cơ phận để thay thế. Cái thế lực ghê-gớm nầy tinh-vi che mắt hai vị Tổng thống (Diệm-Kennedy) bằng cách chêm đệm bởi phương-án khai hoang những vùng Việt Cộng ẩn trú trong “chiến dịch Khai hoang Ranch-Hand” để cho 38 hãng thuốc khai hoang được phát triển lợi nhuận. TT Diệm nghe làm trống trải không cho Cộng-Phĩ có nơi ẩn trú để quấy rối, Kennedy và TT Diệm cũng bị dụ-dỗ như thường.
Ðể bưng bít cái chết của tướng Trí, một phái đoàn Mỹ sang điều tra tai-nạn cho là bộ phận trong máy có trục-trặc nên gây ra tai nạn thảm khốc nầy. Nhưng mãi đến khi tàn cuộc chiến, KQVN không có một tai nạn nào tương tự như vậy xảy ra, báo hại nhà báo đội lốp CIA, Francois Sully bị chết oan mạng cũng như bốn nhà báo ngoại quốc đã chết cùng với Phi hành đoàn 213, vì thật ra Họ không được phép bay qua phần đất của Lào. Về tin tức tình báo các nhà báo ngoại quốc nầy đã không được hiểu biết rõ ràng chi tiết như Tam-trùng Phạm Xuân Ẩn. [Ẩn không dám bước chân lên trực thăng dù chỉ có người Mỹ mới không được phép qua biên giới Lào. Ẳn hiểu biết quá nhiều về CIA và CSBV có 6 trung-đoàn phòng không cổ-điển (AAA) và 8 Trung-đoàn pháo diện địa hạng nặng với 67.000 tấn đạn sẵn sàng gây trận bảo lửa khiếp đảm]
Ðiều vô cùng quan trọng cần nên biết là, ngày 27/Feb/1971, B.52 mới thật sự rời bỏ chữ SAC (Strategic Air Commmand) để đi yểm trợ tiếp cận (Tactical Air Ground Closed Support) Đó là những chiếc pháo đài bay B.52 cất cánh từ Căn-cứ Utapao, Thái-Lan, với số hỏa-lực gần gấp đôi B.52 cất cánh từ Đảo Guam. Có phải do Abrams vì thể diện, tự-ái dân tộc và sinh mạng của các phi hành đoàn Không-kỵ nên đã vi phạm những điều mật ước với Liên-Xô (Rules Of Engament), làm trở ngại, không rõ nghĩa trong thế chiến lược, về tinh thần buổi họp bàn thảo và đưa đến quyết định giải pháp cho cuộc hành quân Lam-Sơn 719 ngày 18/Jan/1971? [Hình trang đầu] Tất cả Phi vụ B.52 là do CIA quyết định, Không-quân SAC thi hành như một cái máy ‘Tổng-Đài’, thế mà Tướng Haig đang tìm cách tế thần Tướng Không-quân, John D.Lavelle, cho là Ông yểm trợ cầm chừng, chứ không hết mình. Có lẽ do sự bất đồng, vì Tướng D.Lavelle muốn thi hành thế “chiến thuật”, mà không tuân lệnh CIA thi hành theo kế hoặch “chiến lược”. Chiến tranh VN có nhiều điều ngộ nghỉnh thường xảy ra: John Paul Vann thất trận ở Ấp Bắc bị buộc giải ngũ nhưng lại lên chức như Diều gặp gió với chức vụ ngang hàng tướng 3 sao. Ðối với WIB Vann thua chiến thuật nhưng lại thắng thế chiến-lược, còn tướng D.Lavelle nghe lệnh thượng cấp lại bị đem ra xử như con Cừu non để tế thần thay vì Tướng Abrams phải lãnh đủ! Vì thế chiến lược kinh-dị nầy của cuộc hành quân mà Sư-đoàn-1 cứ bị B-52 chiến lược từ đảo Guam bay vào đuổi đít cho theo đúng lộ-đồ hành quân đã vạch sẵn. Sự kiện nầy tôi nhận thấy nhờ sự theo dõi từng bước đi mà tại Khe Sanh Chuẩn-tướng Phú cũng rà sát theo dõi những chiến dịch “tiền-oanh-kích” cũng như những hoạt động mờ ám tính trước theo lộ-đồ của B-52, để rồi Tướng Phú cứu nguy được đàn em. Còn như Lữ đoàn-1 Ðặc nhiệm chỉ ngừng lại dưỡng quân thì bị Skyspot gọi là thả lầm khiến một số quân bạn bị chết và bị thương, trong đó có Tiểu-đoàn-phó Tiểu đoàn-8/LÐ3/Dù tùng thiết cùng Thiết đoàn 11; Hơn đơn vị nào hết, chính Tiểu- đoàn/8 Dù nầy khi đụng độ với 2 trung-đoàn tân lập [trung-đoàn 27 và 278] mới biết sự chính xác và hiệu quả của B-52. Nhưng thật ra quân bạn có biết đâu đây là do con mắt tinh-ranh và bộ óc điện-tử chuyên nghiệp của ban tham mưu dưới quyền Tướng Haig tại Pentagon khi phải làm trọng tài cho hai đối lực, cần phải phối hợp để cân bằng lực lượng giữa 2 bên cho trò chơi chiến tranh bẩn thỉu, dí tay lên xuống những con cờ thí để có phần hấp dẫn như chiến tranh thực sự hầu che mắt thế giới. Họ dùng B-52 để cân bằng 2 đối lực và tiêu diệt trọn gói tại mục tiêu là căn cứ hậu cần 604 thay vì phải thi hành kế hoạch rã-ngũ sau nầy, nhưng Tướng Haig thất vọng vì sự ngang ngược của TT Thiệu, cho một đơn vị nhỏ xuống Tchepone đái một bãi rồi rút về.
Vấn đề quan trọng trước mắt, Abrams muốn phải khóa chặt phòng không của BV vì quá nguy hiểm cho phi công trực-thăng Mỹ, số thiệt hại trong 3 tuần nầy đã lên cao đến độ chóng mặt; Chuyện nầy sẽ gây ra sự mâu thuẫn và đụng chạm dữ-dội giữa Hội-Đồng NSC [Tướng Haig] và Tướng Abrams! Nhưng phản ứng của Abrams hoàn toàn đúng, vì phải gìn giữ uy-tín quốc-gia và sinh mạng của các phi công trực-thăng (sự hy sinh cho mưu đồ “khổ-nhục-kế” như vậy cũng đã quá lắm rồi, phi công oanh tạc Bắc Việt không được xử dụng hoả tiễn, bom vô tuyến điều khiển [no Laser targeting pods or Smart bomb] mà phải xử dụng bom nổ thường và làm mỗi prep 2 trái 2 bên cánh cho gọi là sự thăng bằng, có như thế mới tiêu thụ được hàng tiêu dung]
Phải nhiều tháng sau, thời gian coi cho được, Tướng Haig mới kiếm cớ “bứng” được Tướng John D.Lavelle, Tư-Lệnh Đệ 7 Không-Lực (Seventh Air Force) và thay vào đó, Tướng John Vogt; Tướng Tham-mưu trưởng Không quân triệu hồi Tướng Lavelle về nước và cách chức vì lý do vi phạm luật quy-ước ROE (Rules of Engagement) và cho về hưu liền sau đó, chỉ có lãnh được lương 2 sao thay vì 4 sao. Hội-đồng buộc tội cho là phản ứng chậm-chạp, quá nhiều do-dự, không thích ứng theo kịp chiến trận. Còn phía WIB thì hiểu ngầm rằng vì phải bảo-toàn không-lộ và để xoa dịu làm vừa lòng Liên Xô, sau khi buộc phải tiêu diệt CSBV bằng chiến dịch thả Bom Linebacker thay vì Rolling Thunder để cân bằng lực lượng hai bên [theo tài liệu, chỉ có 2 tuần trước khi chấm dứt cuộc hành quân, CIA đã cho lệnh trải thảm 412 trận B-52 trên đầu lính BV, luôn cả các đoàn xe Molotova chở đạn dược hỏa tốc để phục kích QLVNCH rút lui trên đường 9, thay vì lính BV được lệnh Tướng Giáp, lo chuẩn bị phục kích và xa luân chiến tại Căn cứ hậu cần 604. Hành động khẩn cấp nầy, Hoa kỳ đã vi-phạm điều lệ trò chơi ROE từ chiến dịch “Rolling Thunder” qua “Linebacker”]
Theo như sự ước tính tình báo của phòng MACV J-2, thì Trung-đoàn 29 của Sư-đoàn 324B đã có tham chiến chung với 6 Trung-đoàn BV tại chiến trường, được chia ra thành đơn-vị nhỏ là 21 tiểu-đoàn. Trong đó coi như 5 tiểu-đoàn BV bị xóa sổ; Tuy nhiên nhiều chiến thắng trên đoạn đường Quốc-lộ 9 đang xảy ra có lợi cho VNCH trong những ngày gần đây, nhưng không biết tương-lai sẽ ra sao? Tất cả 7 Trung-đoàn BV nầy đã vây hãm Đồi-31 cả tuần nay với quyết tâm dùng trận địa pháo tận diệt, vì quân VNCH đã lọt vào ổ hậu cần với vô số kể Hỏa tiển 122 ly và các tạc đạn pháo binh đủ loại trong đó đáng kể là tạc đạn 152 ly. Quân BV đang dồn hết nỗ lực, phối hợp trận địa pháo cùng chiến xa, bươn càng lên Đồi 31; Trong khi Tiểu-đoàn 39 BĐQ bị áp lực quá mạnh nên đành di tản chiến thuật về hội nhập với Tiểu-đoàn 21 BĐQ. Sau khi 2 Tiểu-đoàn nầy giữ được an ninh thì được Trực-thăng Mỹ bốc về Khe Sanh liền tức khắc để tái phối trí qua giai đoạn-2. Quân lực VNCH không có quân để thay, nhưng BV có quân thay tại Trung tâm huấn luyện ngay trận địa.
Khi chở Tướng Đống đến thăm Lữ-đoàn-3 Dù, tại Đồi 31, Tôi đã nhận thấy tình hình và địa thế không ổn, Tôi đã tự hỏi: “Ai là người đã chọn địa điểm nầy?” Trên một đỉnh đồi không cao lắm so với xa về chung-quanh như là một lòng chảo Điện Biên-Phủ, con đường từ dưới Suối lên đến bãi đáp Trực-thăng là đồi trọc, PT.76 leo lên rất dễ-dàng và từ đó leo lên thêm khoảng 80 thước nữa là tới BCH/Căn-cứ cũng đường đồi thoai thoải như vậy. Không khó lắm! Tôi muốn lập lại một lần nữa: “Ai lập ra phóng đồ hành quân Lam-Sơn 719 nầy?” Quân-lực VNCH đã chui vào một kho đạn khổng lồ mà bên phía BV đã thành lập mật trận B.70 từ tháng 10 năm 1970, cả những năm trước đó mỗi ngày, hàng ngàn xe Molotova nối đuôi dài như kiến, vào ban đêm chuyển tiếp liệu vào Nam, dưới tầm mắt thản nhiên đồng tình của phản gián CIA. Riêng những điểm cao ngõ ngách, số đạn phòng không được xe-thồ đưa vào, và được khuân vác trên lưng đoàn dân-công leo lên những vách núi cheo leo dựng đứng bên phía sườn Tây vô cùng an toàn của dãy núi. (Hình ảnh ở trang 90 do phóng viên Ðông-âu chụp)
Mục đích của cuộc hành quân nầy, theo Hội Đồng ANQG (NSC) là tiêu hủy những vũ khí và chiến cụ lỗi thời của hai đối thủ và kế đến là tiêu hủy những đơn vị sừng sỏ chủ lực của Hai bên, trong lộ-trình hoàn thành định-đề-1, [kế-hoạch Pennsylvania] để khi giao miền Nam không bị ‘tắm máu’ mà chỉ bị ‘rỉ máu’ thôi, nhưng phải đợi khi Quân-lực VNCH khai thác chiến trường trong giai đoạn-3 và trên đường ‘Độc đạo rút về’ lại Khe-Sanh. Hà Nội sẽ dùng chốt chận bằng các Trung đoàn phục kích dọc tuyến Quốc lộ 9 để tiêu diệt cho bằng hết lực lượng VNCH còn lại, dĩ nhiên B-52 cũng làm thịt cả 2 bên. Nhưng việc phục kích vĩ-đại đó không xẩy ra vì quân lực VNCH rút lui khá nhanh (lần nầy nhờ T/Thống Thiệu nên thoát khỏi nhưng lại vướng-mắc khi rút lui đường 7 Cheo Reo, Phú bổn từ pleiku của Quân đoàn 2. Lê Ðức Thọ nhờ được điệp-viên Phạm Xuân Ẩn cho tin vô cùng chính xác trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng thời CIA đã không giữ lời hứa giúp máy cày D-4 và hệ thống cầu dã-chiến cho cuộc lui binh như họ đã giúp trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy. Tướng Phạm Văn Phú vì đặt hết tin tưởng nơi người bạn lớn khi ông còn là Tư lệnh SÐ/1, nhưng khi là Tư lệnh QÐ/2 thì bị một sự bội phản quá phũ phàng giữa quân đội anh hùng bị đồng minh lừa gạt thế nên Tướng Phú đã phải dùng độc dược như Cụ Phan thanh Giản để các nước nhược tiểu đừng quá tin vào người bạn lớn xấu-xa nầy.
B.52 không được tiêu diệt nhân mạng vào lúc nầy, thế nên, khi các Trung-đoàn BV tràn ngập vào Đồi-31; Thì B.52 không thả, nhờ thế mà Đại-tá Thọ và Phi hành đoàn trực thăng H.34 của Trung úy Chung Tử Bửu bị mắc kẹt mới còn sống để đi ở tù ngoài Bắc. Nguyên một Tiểu-đoàn-3 Dù phải chịu cảnh tàn sát dưới biển lửa của hằng chục ngàn ngàn trái đạn đại pháo cầu vòng đủ loại vùi dập, và họ đã anh dũng tử thủ cho đến hơi thở cuối cùng. “Tội nghiệp, ai biết được các chiến sĩ Dù vô danh nầy đã nằm yên vĩnh-viễn trên một ngọn đồi không người biết tới cùng với 2 Queenbees của LÐ51TC?”
TRUONG VAN VINH