Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 14

Tựa Đề: Dòng nhạc Cung Tiến

  1. #7
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Songs



    Lệ Đá Xanh

    tôi biết những người khóc lẻ loi
    không nguôi một phút
    những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
    em biết không
    lệ là những viên đá xanh
    tim rũ rượi

    đôi khi anh muốn tin
    ngoài trời chỉ còn trời sao là đáng kể
    mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
    đến ngày cuối
    đôi khi anh muốn tin
    ngoài đời thơm phức những trái cây của thượng đế
    mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
    nguồn sữa mật khởi đầu

    đôi khi anh muốn tin
    ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
    vòng ân ái
    đôi khi anh muốn tin
    ôi những người khóc lẻ loi một mình
    đau đớn lệ là những viên đá xanh
    tim rũ rượi

    (Thanh Tâm Tuyền, 1955)









  2. #8
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Default

    Cung Tiến, một chân dung nghệ sĩ Việt Nam tiêu biểu



    Có người hỏi thơ và nhạc có gì liên quan với nhau không? Hình như trong sự gợi ý, thơ và nhạc có tác dụng hỗ tương với nhau, nhạc tháp cánh cho hồn thơ và thơ làm nồng nàn hơn cho ý nhạc. Một người đã học âm nhạc từ nhỏ, đã làm thơ, đã dịch thơ và yêu thơ, đã có những lời nhạc đầy chất thơ lại có lúc liên tục phổ nhạc những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng và đã tạo thành những sáng tác độc đáo đầy chất sáng tạo. Ông lấy cảm hứng từ các thi sĩ khác dù những ca từ của những bản nhạc đầu tay đẫm chất thơ. Người ấy là nhạc sĩ Cung Tiến tác giả của những Hương Xưa, Thu Vàng, Hoài Cảm, những bản nhạc sáng tác từ thuở còn học trò nhưng lại có đời sống âm nhạc trường cửu.

    Cung Tiến là một vóc dáng nghệ sĩ đa diện. Là dịch giả, người viết truyện ngắn, người phê bình văn học giới thiệu các trào lưu văn học thế giới, với tên tuổi là Thạch Chương. Là người viết ca khúc, soạn hòa âm, viết nhạc giao hưởng với tên tuổi Cung Tiến. Ông cũng là một nhà phân tích và nghiên cứu kinh tế, đã du học ở Úc, rồi sau du học và tốt nghiệp tại trường đại học danh tiếng Cambridge ở Anh. Ông cũng còn là một người hoạt động rất tích cực của phong trào tranh đấu cho nhân quyền International Federation of Human Rights. Trong thập niên 1980, ông đã gửi tên tuổi những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cầm tù bởi chính quyền Hà Nội đến các tổ chức, các phong trào quốc tế để thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là trả tự do cho những người làm văn học nghệ thuật của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

    Với tên tuổi Thạch Chương ông là người đã chuyển dịch sang Việt ngữ hai danh phẩm văn chương quốc tế, Một ngày trong đời Ivan Denisovitch của Alexander Solzhenitsyn và Hồi ký viết dưới hầm của Fyodor Dostoyevsky.
    Dostoyevsky là một trong những đại gia của tiểu thuyết Nga trong thế kỷ 19, đã mang những triết lý từ cảm xúc trong những tác phẩm mổ xẻ và phân tích làm nổ bùng ra những luận đề sâu sắc về tâm lý chính trị, tôn giáo và xã hội. Hồi ký viết dưới hầm là một tác phẩm viết về chủ đề của con người phải chịu đựng những thống khổ nội tâm, của những nỗi u uẩn của kiếp nhân sinh. Tác phẩm này là một bắt đầu của sự nghiệp văn học lừng lẫy của Dostoyevsky và cũng là cao điểm của văn chương Nga và được coi như là một tác phẩm “classic” của nhân loại.
    Còn Alexander Solxhenitsyn, giải Nobel Văn Chương năm 1970, người đã bị tống xuất khỏi Nga đi lưu vong vì chống đối lại chính sách của Stalin, với Một ngày trong đời Ivan Denissovitch, đã lột trần chế độ toàn trị ở Nga Xô Viết dưới thời độc tài Stalin với tất cả những kỹ thuật và chính sách nhằm hạ thấp giá trị con người xuống hàng súc vật...

    Ông cũng thường dịch thơ và đăng rải rác trên các tạp chí văn học. Thí dụ bài dịch thơ từ Federico Garcia Lorca, Bài ca khóc Ignacio Sanchez Mejias có những câu thơ gợi nhiều liên tưởng và cảm xúc. Federico Garcia Lorca được tôn xưng là một nghệ sĩ vĩ đại của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20 sống trong thời kỳ của tướng Franco. Còn Ignacio Sanchex Mejias là một bạn thân của ông, là một người đấu bò nổi danh của xứ Andalusian. Bài thơ gồm 4 đoạn và trong đó có những câu được dịch bởi Thạch Chương:

    Tôi muốn họ chỉ cho tôi những con đường nào ra thoát
    cho vị tướng soái mà tay chân thần chết đã trói buộc
    Tôi muốn họ chỉ cho tôi những giọt lệ nào như một giòng sông
    Có những sợi mây hiền lành và những bến bờ sâu thẳm
    Để ẵm đi thể xác của Ignacio và để chàng chìm xuống
    Không còn nghe bên tai những hơi thở trùng điệp của con bò rừng
    Để xác chàng chìm sâu vào đấu trường tròn của vầng trăng...


    Với Thạch Chương, người viết truyện ngắn? Truyện ngắn của Thạch Chương có vóc dáng về những nhân vật được phác họa khá lạ lùng, của một không gian thời gian nào lửng lơ giữa cảm giác và đời sống thực. Cảnh vật, dường như có chất biểu tượng và con người như có gắn liền để tạo thành một tổng hợp văn chương rất riêng. Thí dụ như truyện ngắn Tinh Cầu trong Tuyển Truyện Sáng Tạo. Một truyện ngắn mà theo tôi có chiều sâu của một suy tư khác lạ với đời thường...

    Thạch Chương trên các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề, trước năm 1975 và Đặng Hoàng trên các tạp chí văn học hải ngoại sau 1975 có những bài khảo luận công phu. Ông đã viết về nhà nhân chủng học nổi danh người Pháp Claude Levi- Strauss cha đẻ ra Cơ Cấu Luận (Structuralisme), về nữ tiểu thuyết gia người Anh Virginia Woft tác giả của những tiểu thuyết như The Waves hay Between the Acts và đã tự tử trên giòng sông và không tìm được thi thể...

    Cung Tiến cũng là người giới thiệu Club De Rome gồm một số đông các khoa học gia thuộc đủ mọi ngành trên thế giới họp ở thành phố La Mã nêu ra những vấn đề cấp thiết của con người trên hành tinh trái đất mỗi ngày một chật hẹp. Ông đã dịch cuốn sách The Limits of Growth thành Giới hạn phát triển, là tiếng kêu cảnh báo loài người trước những hiểm họa sắp tới. Trong cuốn sách này, những mục tiêu cũng như cơ cấu của một nền kinh tế toàn cầu của cuối thập niên 60 được phác họa. Vào những năm của thập niên 70, Cung Tiến còn dịch một tác phẩm khác tiếp theo của Club De Rome, cuốn The Turning Point of Mankind (Chỗ rẽ của nhân loại). Đây là những ý kiến có ảnh hưởng nhiều đến cộng đồng thế giới. Bản dịch của Cung Tiến, được đăng trên tập san Quốc Phòng, được coi như một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về chiến lược áp dụng cho quốc gia Việt Nam.

    Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến có tham chính và là một thành viên của nội các Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Ông là Thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc Kế Hoạch cho ông Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
    Sau năm 1975, ông là chuyên viên kinh tế nghiên cứu và phân tích của Department of Economic Security của tiểu bang Minnesota. Hiện ông đã về hưu.

    Cung Tiến là người yêu thơ và sống với thơ. Trong vai trò của một người nhận định văn học ông có viết nhiều về đề tài thi ca. Tôi chỉ đọc được một vài bài. Thí dụ như bài viết Sự chán chường trong phê bình văn nghệ đăng trên Sáng Tạo bộ mới số 1. Từ những nhận định của nhiều người, kẻ chê người khen, về thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn đi tìm một khuôn mẫu phê bình và nhận định vượt qua được những thiên kiến chủ quan.
    Cung Tiến viết: “Và cuối cùng, câu hỏi quan trọng hơn cả là đâu là tiêu chuẩn của những tiêu chuẩn đó (và ta sẽ hỏi đến mãi vô cực)!
    Đó là những câu hỏi cực kỳ quan trọng. Chỉ khi nào trả lời được, ta mới có quyền đặt bút phê phán giá trị. Cho nên tất cả những công trình đặt định giá trị của mọi nhà phê bình xưa nay Đông Tây, đều theo ý tôi, là những công việc vô lợi, đẫm màu chủ quan, hay là có một thứ khách quan hư ngụy, vô nghĩa. Chúng không cho lòng tin về sự đẹp của ta một lý do vững chắc nào. Chúng giống như những loại mệnh đề tuyên truyền của tôn giáo, những thứ mệnh đề ngầm ẩn những quan niệm tiên thiên, siêu việt toàn phi lý (irrationnel). Đau khổ hơn là nếu những từ ngữ đánh giá (termé evaluateurs) đó có thể chỉ là những tiếng hiệu triệu đẫm xúc cảm thì có thực chúng ta đã muôn đời tự lừa dối chúng ta mỗi khi dùng chúng (Mà giây phút nào không đúng). Thế nào là giá trị? Thế nào là chân, là thiện, là mỹ? Đâu là một vài lý do cho lòng tin, một lòng tin nho nhỏ của ta? Câu hỏi ném lên không trung, chỉ sóng gió thầm thì trả lời. Đó là nỗi chán chướng trong việc phê bình văn nghệ hôm nay”.

    Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ở ngoài đời thường có nhiều giai thoại lý thú. Như một người bạn thân của ông, nhà văn Phan Lạc Phúc, đã kể lại trong Tuyển Tập Tạp Ghi một giai thoại khá vui vui về nhà văn nhạc sĩ Cung tiến. Ông Phan Lạc Phúc kể:
    “Ngày thường gặp Cung Tiến, anh trang nhã thận trọng pha một chút lạnh lùng kiều Ăng-lê Cambridge. Nhưng trong những lúc phùng trường tác hí, nhất là khi đã nhậu dăm ba consommation rồi là Cung Tiến phừng phừng bất cần đời. Chúng tôi có thói quen ăn nhậu rồi vào khoảng 10 giờ, 11 giờ đêm là kéo đến Đêm Màu Hồng. Chủ quán Phạm Đình Chương đã dành sẵn một chỗ ngồi riêng giá biểu riêng cho bạn hữu như đã thành lệ khi Cái Bang đến là Phạm Đình Chương hay Thái Thanh chuyển hướng đề tài. Bữa ấy “cổ kim hòa điệu” diễn ra hơi dài. Cung Tiến khật khưỡng bước ra sân khấu, gạt người đánh piano ra một bên, rồi ngồi xuống dạo Senerade. Cổ kim hòa điệu với nhạc Schubert thì không thể nào “đi” với nhau được, nó ngang phè phè. Một khán giả mặc quân phục dù, mũ đỏ chợt bước lên. Anh tiến lại chỗ Cung Tiến đánh đàn và nắm lấy tay. Cung Tiến không nhìn lên, hất tay ra, vẫn tiếp tục dạo đàn và nói “đi chỗ khác chơi”. Chủ quán Phạm Đình Chương biết là có chuyện vội đứng ra xin lỗi. Nhưng không kịp nữa rồi. Một vài tiếng nổ xé tai của chai la de vỡ nổi lên. Một vài người bạn dù cùng đi đã nắm cổ chai la de vỡ kéo lên sân khấu. Tất cả khán phòng im bặt - một sự im bặt bất thần và rùng rợn - chỉ còn một mình Cung Tiến vẫn mê mải đánh đàn. Vũ Khắc Khoan vội bước ra. Dù đã nhậu sương sương nhưng Vũ Khắc Khoan vẫn còn đủ tỉnh táo để nắm lấy vai người sĩ quan dù mũ đỏ mà nói khẽ “Anh học trò tôi có phải?” người sĩ quan dù đang hầm hầm sắc giận vội vàng nhìn lại rồi đổi giọng “Thưa thầy...” Người sĩ quan ấy là môn sinh của họ Vũ, không biết ở Chu Văn An hay ở Văn Khoa. Họ Vũ khoác vai người sĩ quan dù và nói: “Thôi... anh em cả”. Người đánh đàn say không nhận được việc gì đã xảy ra sau lưng anh. Nếu không có Vũ Khắc Khoan đêm ấy... sự việc sẽ không biết còn diễn biến thế nào...”
    Nhà văn Phan Lạc Phúc nhận xét: “Có hai con người trong một Cung Tiến. Một con người duy lý, muốn đi đến cùng lý luận, một con người khác duy cảm - muốn thỏa mãn ngay những đòi hỏi của mình. Con người nào ưu thắng trong Cung Tiến? Tôi vẫn nghĩ là con người duy lý. Cung Tiến chỉ “bốc đồng” khi uống rượu say. Bình thường, như đã nói ở trên, Cung Tiến trang nhã và thận trọng. Ở trong địa hạt Cung Tiến yêu thích nhất: âm nhạc, Cung Tiến cũng rất là duy lý. Những bài hát đầu tay như Thu Vàng, Hương Xưa, Nguyệt Cầm, Hoài Cảm... dù được yêu thích đến thế nào chăng nữa, đối với Cung Tiến, vẫn chỉ là bài tập - một giai đoạn cần phải vượt qua...”

    Có một bài thơ của một người bạn viết về Cung Tiến với sự chia sẻ lớn lao. Tình cờ tôi được đọc một bài thơ của tác giả Phạm Nguyên Vũ. Ông là bạn thân với Cung Tiến, đi du học ở Úc thuộc thế hệ đầu tiên và có đăng thơ trên tạp chí Sáng Tạo bộ cũ. Thơ của ông có nét hồn nhiên của tuổi trẻ, có nét khai phá của những bước chân bước đến đầu tiên, nhưng ít có chất làm dáng trí thức mà lại có sự chân thực của người hăm hở đi tìm kiếm nét mới lạ cho thi ca của mình. Bài thơ của ông viết tặng bạn là Và Cung Tiến:

    Nhạc của hồn ta phải không
    Hay của những đêm
    xa gia đình nhớ điên cuồng
    mỗi một bóng cây là
    tiếng thì thầm bạn hữu
    nhạc của hồn ta hay nơi đây
    của đêm sao đầy mắt
    đầy linh hồn
    ôi đêm tỉnh dậy nghe
    trong khuya yên lặng nên
    giọng lời nghe từng tiếng
    em nào có biết đâu
    mỗi giòng nhạc của anh hay của bạn anh
    đều nói những ngày mai chưa đến
    em nào tin sự êm đềm
    và đau khổ ngày qua
    như chẳng tin đời ta
    có hai kẻ đọa đầy
    bằng lên tiếng thay cho người khác.


    Có nhà văn đã phát biểu rằng ca khúc của Cung Tiến đều là những bản dịch từ thơ sang nhạc. Nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã có nhận xét ấy. Ông còn nói đó là rượu cất từ trái nho chứ không phải là rượu ngang. Nhạc sĩ Cung Tiến là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ngoài viết nhạc ông còn là một dịch giả văn chương và là một chuyên gia kinh tế nhưng ông yêu thơ. Lời ca của ông có một vẻ gì đó như được chiết ra từ thơ, thơ của những người ông đã đọc, thơ của trời đất và của chính tâm hồn ông. Tôi nghĩ điều đó hiển nhiên và nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã có một nhận xét chính xác về nhạc sĩ nhà văn Cung Tiến.

    Chúng ta đã tản mạn về chân dung văn chương Cung Tiến qua bút hiệu Thạch Chương và Đăng Hoàng. Vóc dáng nghệ sĩ của ông thật đa dạng và ở bất cứ một địa hạt nào cũng đều là kết quả của sự học hỏi khổ luyện từ khởi đầu của một bộ óc suy tư và nhạy cảm. Chúng ta sẽ cùng bước chân vào cõi khai phá của một người nghệ sĩ luôn tìm tòi mong đạt được đến đỉnh cao nhất của những sáng tác để đời.

    Nếu có người hỏi suy nghĩ thế nào về nhạc Cung Tiến. Câu hỏi ấy có khó cho người trả lời không? Có lẽ không. Nhưng trả lời thì phải dài dòng. Chúng ta như đi vào một khu rừng và chỗ nào cũng muốn bước đến, chỗ nào cũng đầy mùi thơm của hương hoa, của đất trời. Nếu trả lời thật giản dị là yêu thích nhạc Cung Tiến nhất cũng xong, nhưng nếu đi tìm những kỳ hoa dị thảo thì có lẽ cũng tốn hao thời giờ nhiều lắm. Nhưng nếu nói một cách thành thật nhất thì tôi yêu thích một vài bản nhạc Cung Tiến vì có một vài kỷ niệm với nó.
    Không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe lại bản nhạc Hương Xưa là tôi lại nhớ đến một người bạn đã chết trên chiến trường Tây Nguyên năm 1972. Lúc đó tôi ở Pleiku và có một người bạn là phi công trực thăng thường hát luôn miệng hai câu nhạc đầu của bản nhạc Hương Xưa và chỉ láy đi láy lại hai câu ấy mà thôi, “Người ơi! Một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa. Người ơi! Đường xa lắm con đường về làng hồn có mơ xa...”. Những buổi chiều nhạt nắng, ngồi ở thảm cỏ đầu hiên barrack chờ đi ra phố ăn cơm, nhìn trời nhìn đất mà nghe những câu hát ấy thì quả là buồn nẫu ruột. Có lần tôi hỏi anh bạn sao hát hoài chỉ có một câu hát ấy thôi thì anh hồn nhiên trả lời “Vì câu hát mà tôi gọi người ơi là để nhớ tới em bé của tôi”. Tôi bực mình kê nhẹ, “Nhớ gì mà nhớ lắm thế? Cứ nhè mỗi buổi chiều hiu hắt như thế này mà nhớ thì thiệt là hại bạn vô cùng!” Anh cười trừ và đánh trống lảng. Nhưng rồi một ngày, con tàu của anh tan vỡ trên không và anh đã ra đi trong phi vụ ấy. Lúc nghe tin dữ, tôi lạnh buốt cả người. Và tự nhiên câu hát ấy cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Buổi chiều về cư xá, hình như tôi vẳng nghe câu hát. Những câu người ơi của tha thiết tự tình. Những chữ người ơi của một mối tình đã tử biệt sinh ly. Tôi hình dung lại vóc dáng của người bạn và thấy khao khát vô cùng làm sao nghe được câu hát xưa. Nhưng người bạn đã ra đi và không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe bản nhạc ấy là như sống lại một thời thuở đó, của những ngày tuổi trẻ tưởng như mới đây mà đã hơn mấy chục năm. Nhạc để nhớ bạn và tôi đã từ những ca từ ấy để trở về nỗi niềm của hoài vọng xa xưa...

    Thật là một kỷ niệm buồn! Nhưng chẳng lẽ yêu nhạc Cung Tiến chỉ vì lý do ấy thôi sao? Mà vì có nhiều lý do. Một trong những lý do là nhạc của ông tượng hình cho những bước chân suốt đời đi tìm kiếm. Luôn luôn thay đổi, từ phong cách đến ngôn từ, nhất là nhạc của ông dường như gắn liền với thơ, với những khung trời thơ mộng lãng mạn. Trong hành trình sáng tác, từ nhạc có lời sang nhạc không lời, từ những bản nhạc đầu tay như Hoài Cảm, Hương Xưa như những bài thơ văn xuôi trữ tình sang cả đến những bản nhạc về sau vượt qua cửa ải ngôn ngữ. Nhạc không lời có âm vực riêng và có phong cách diễn tả dễ làm người nghe xúc động.

    Nhạc của Cung Tiến liên quan thế nào với thi ca? Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm soạn cho 21 nhạc khí được trình diễn tại San Jose với dàn nhạc thính phòng. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là một áng thi ca nổi danh của dân tộc Việt Nam viết về một giai đoạn chiến tranh của đất nước. Theo lời phụ dẫn của tác giả thì thi phẩm này vô cùng súc tích về cảnh, về cách sử dụng ngôn ngữ cũng như nhạc đệm của tiếng Việt. Vì thế không ai dám nghĩ đến việc phổ nhạc cả tập thơ để hát mà chỉ dùng nó như một cảm hứng cho sáng tác của mình. Do đó, nhạc tấu khúc này cũng chỉ là một cố gắng “minh họa” chấm phá bằng nhạc một số tình, ý, và cảnh chính yếu trong tập thơ mà thôi. Theo đúng thứ tự xuất hiện trong thi phẩm của bà Đoàn Thị Điểm thì tập nhạc gồm 4 phần:
    Phần giáo đầu, với sự phụ họa của các nhạc khí, sẽ được ngâm giọng sa mạc mười hai câu thơ mở đầu cho tập Chinh Phụ Ngâm: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên...”
    Phần thứ hai: Chuyển động I – Nước thanh bình – Cơn gió bụi. Minh họa 2 câu: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Chuyển động chấm dứt bằng cảnh tiễn biệt, chia tay của chinh phu chinh phụ.
    Phần thứ ba: Chuyển động II: Nhạc đề chính từ 4 câu thơ: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi/ Chinh phu tử sĩ mấy người/ Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”.
    Chuyển động III – Mộng khải hoàn. Chủ đề chính là 2 câu thơ: “Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải / Tiếng khải ca trở lại thần kinh”, và 2 câu thơ: “Giở khăn lệ chàng trông từng tấm / Đọc thơ sầu chàng thấm từng câu”.
    Phần bạt: từ 4 câu chót của Chinh Phụ Ngâm: “Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ? Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình/ Ngâm nga mong gửi chữ tình/ Dường này âu hẳn tài lành trượng phu”.

    Năm 1982, nhạc sĩ Cung Tiến lấy 12 bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền để soạn thành ca khúc lấy tên là Vang Vang Trời Vào Xuân. Năm 1992, ông hoàn thành tập Nhạc Ta Về -thơ Tô Thùy Yên cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, ông soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng với sự tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc Quan Họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác. Năm 2003, ông hoàn thành một sáng tác nhạc đương đại Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành dựa trên một đoạn dân ca Quan Họ.

    Trường hợp nào mà ông phổ nhạc thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Chính nhạc sĩ đã kể lại về trường hợp sáng tác này:
    “Năm 1991, họa sĩ Duy Thanh từ San Francisco gửi cho tôi tập văn/ thơ/ nhạc Tắm Mát Ngọn Sông Đào, do nhà Lá Bối mới in ở Paris, gồm những sáng tác của một số văn nghệ sĩ miền Nam gửi lén ra từ các trại tù cải tạo. Trong tuyển tập này có một số bài thơ của một Trần Kha nào đó. Duy Thanh, bằng thư tín với gia đình Thanh Tâm Tuyền còn ở Sài Gòn, bảo rằng ấy là thơ “bạn ta” đấy. Quả nhiên khi đọc tôi nghe thấy đúng là ý và lời của Thanh Tâm Tuyền. Sau này được hỏi: “Sao lại Trần Kha? Muốn làm Kinh Kha chăng?” Thanh Tâm Tuyền đáp “Tôi đâu có đặt cái tên kỳ cục ấy! Giá như “Trầm Kha” thì nghe còn đỡ hơn”...

    Ông đã phổ nhạc rất nhiều. Như bản “Nguyệt Cầm” ý thơ Xuân Diệu. Như bản “Hoàng Hạc Lâu” từ bản dịch thơ của Vũ Hoàng Chương. Như “Vết Chim Bay” phổ thơ Phạm Thiên Thư. Như “Thuở Làm Thơ Yêu Em” phổ thơ Trần Dạ Từ. Như “Đi Núi” phổ thơ Xuân Diệu. Như “Đường Hoa” phổ từ hai bài thơ “Đôi Bờ” và “Đôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng. Như “Khói Hồ Bay” phổ từ bài thơ “Thu ở Vermont” của Nguyễn Tường Giang. Như bài “Lệ Đá Xanh” và “Đêm” phổ thơ Thanh Tâm Tuyền...

    Hình như nhạc sĩ Cung Tiến có một biệt nhãn nào đó với thơ Thanh Tâm Tuyền? Phải nói thơ Thanh Tâm Tuyền rất khó phổ nhạc, bởi vì thơ của ông có âm điệu khá đặc biệt, hay sử dụng vần trắc và diễn tả ý nghĩa cũng theo một cung cách âm vực riêng. Nhưng nhạc sĩ Cung Tiến đã phổ nhạc thành công có lẽ nhờ tình tri âm tri kỷ với nhau. Sau này, nhạc sĩ đã hỏi nhà thơ khi ông đang định cư tại Minnesota “Ông làm bài này trong tâm trạng nào?” về bài thơ “in trong tập Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. Thanh Tâm Tuyền trả lời: “Tức là... dạo ấy mình đã chán làm thơ quá rồi. Miền Nam thì coi tôi như là thi sĩ tả phái, và miền Bắc thì coi tôi là thi sĩ hữu phái. Thế thì tôi là kẻ untouchable rồi, là hủi rồi chứ còn gì nữa? Thì làm thơ thêm làm quái gì cho mệt?” Thành ra, bài hát ấy muốn lấy nhạc minh họa cho tâm trạng chán chường day dứt của cái ông thi sĩ lúc nào cũng thấy mình cứ vẫn “còn cô độc” này”.

    Có một bản nhạc của Cung Tiến được giải thưởng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Giai điệu ca khúc Mùa Hoa Nở được soạn tại Sài Gòn năm 1955 đáp ứng thông cáo về cuộc thi của Đài Phát Thanh Quân Đội bấy giờ đang kiếm một ca khúc nào nói về cuộc di cư lịch sử vào Nam của những người miền Bắc để tránh chế độ Cộng sản. Ca khúc Mùa Hoa Nở được chấm giải nhất của Tổng Thống VNCH và được hai đài phát thanh Quốc Gia và Quân Đội trình diễn nhiều lần trong nhiều năm với hòa âm và phối khí cho dàn nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Nội dung lời ca của ca khúc này nói về giấc mơ khải hoàn của những đoàn chiến sĩ quốc gia tiến về giải phóng Hà Nội...

    Có những bài nhạc Cung Tiến hoàn thành rất sớm khi còn tuổi thanh thiếu niên nhưng lại có giá trị trường cửu. Thu Vàng và Hoài Cảm là những bản nhạc mà Cung Tiến đã sáng tác sớm nhất khi vừa 15 tuổi còn học ở trung học. Thu Vàng viết về mùa thu Hà Nội của những ngày ấu thơ nhặt lá vàng. Ca khúc trở thành một bản nhạc của những người di cư luôn nhung nhớ quê hương đất Bắc của mình, rất được thính giả ưa thích qua phần trình diễn trẻ trung sống động của Tâm Vấn, Đỗ Tuấn, Kim Tước, Mai Hương,... toàn là các ca sĩ trẻ trong giới sinh viên học sinh. Tiếp theo, ông viết Hoài Cảm để tặng Đỗ Đình Tuân (tức ca sĩ sinh viên Đỗ Tuấn) và cũng được ái mộ ngay từ buổi trình diễn đầu tiên. Theo nhạc sĩ Cung Tiến thì “đó là hai trong số những bài hát sớm nhất được viết năm 1952 hồi tôi đang học năm thứ ba bậc trung học. Người đầu tiên đem phổ biến hai bài này trên Đài Phát Thanh Quốc Gia dạo ấy là Đỗ Tuấn rồi tới ca sĩ Tâm Vấn, nhất là bài Thu Vàng. Giai điệu và hòa âm của hai bài này đơn giản cấu trúc và nhạc thể rất chân phương và lời ca mang ảnh hưởng nặng của các nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu, Huy Cận”.

    Hương Xưa là bài nhạc Cung Tiến gửi tặng Khuất Duy Trác, một người bạn thân thiết của ông. Và cũng từ chính giọng hát của Duy Trác đã đem Hương Xưa đến đài phát thanh và các tiền trường sân khấu của các trường trung học hoặc đại học và trở thành một hãnh diện của những người trí thức trẻ say mê văn nghệ. Nhưng tại sao, chính nhạc sĩ lại coi những ca khúc này như những bài tập (exercise) mà thôi? Đó là một cá tính của nhạc sĩ Cung Tiến. Trong sự nghiệp âm nhạc của ông có nhiều giai đoạn phải tự vượt qua. Cung Tiến viết nhạc đầu tay ca từ trữ tình lãng mạn. Cung Tiến không sử dụng ca từ thi ca của mình mà lại phổ nhạc những bài thơ mà ông ưa thích và quý trọng. Rồi sau đó ông không viết nhạc có lời nữa mà viết nhạc không lời. Có lẽ ông nghĩ rằng nếu đích thực là âm nhạc thì nhạc có ngôn ngữ riêng và cũng có những quy luật diễn tả tự nhiên như trời đất vẫn hiện hữu.

    Với niềm say mê âm nhạc, ông đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng, Chung Quân và Thẩm Oánh, ở bậc trung học. Du học qua Úc, tuy môn học chính là Kinh tế nhưng ông cũng đã theo học các lớp về dương cầm, hòa âm, đối điểm và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney. Rồi khi du học bậc cao học về kinh tế học phát triển tại viện đại học Cambridge ở Anh, ông cũng theo học thêm các lớp về nhạc sử, nhạc học, nhạc lý hiện đại. Và về sau này, ông cũng là người tự học rất nhiều nên trong các tác phẩm của ông đã bày tỏ sự gắng công dù ông có thiên khiếu về âm nhạc. Và hình như, ông vẫn tự coi mình là một amateur trong âm nhạc, một nghệ sĩ tài tử coi bộ môn này như một thú tiêu khiển làm đẹp cuộc đời...

    Nhà văn Phan Lạc Phúc đã nhận xét khá xác đáng khởi từ những bài hát đầu tay của Cung Tiến từ khi xuất hiện tới nay, trên 40 năm, không lúc nào ngừng tỏa hương thơm. Một hương thơm dịu dàng sâu kín, có để ý tìm mới thấy. Nó không gây ồn ào như một số nhạc thời thượng, tiền tuyến, hậu phương, du ca, về nguồn, thân phận nhưng có một sức sống riêng bền bỉ. Đó là một khu vườn Cung Tiến không lẫn với ai, nhạc “xưa” nhưng không cũ bao giờ, nghe càng lâu càng thấm. Nó chịu được sự thử thách của thời gian...

    Nguyễn Mạnh Trinh


    (http://www.thoibao.com)

  3. #9
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Default Nghe Nguyệt Cầm của Cung Tiến - Đọc Nguyệt Cầm của Xuân Diệu





    Nguyệt Cầm - Anh Ngọc



    Nghe “Nguyệt Cầm” của Cung Tiến

    Ngày xưa khi học đến phong trào thơ mới, tôi rất yêu thích những bài thơ tình của các tác giả như: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Tế Hanh, Thâm Tâm, Quang Dũng… Trong đó Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”, có những bài thơ làm run rẩy con tim của biết bao thế hệ. Thế nhưng, lúc ấy tôi đã bỏ qua "Nguyệt cầm", có lẽ ý tứ bài thơ già quá so với lứa tuổi học sinh và không ngờ mình đã bỏ qua một tác phẩm thuộc hàng đỉnh của thi nhân, như ông và nhiều nhà phê bình đã nhận định như thế.

    Rồi một ngày khi đang lục lọi tìm tư liệu về Cung Tiến để làm một entry nhạc chủ đề của ông, thì mới biết đến một "Nguyệt cầm" của Cung Tiến. Hồi nào giờ, thiệt ra nhắc đến Cung Tiến tôi chỉ biết: Thu vàng, Hoài cảm, Hương xưa và Mắt biếc…"Nguyệt cầm" được chú thích lấy ý từ bài thơ của Xuân Diệu, thế là phải lần giở lại thơ Xuân Diệu để xem "Nguyệt cầm"… và tôi đã ngộ được một điều, ở "Nguyệt cầm" có một sự giao thoa đến mức tuyệt đỉnh của thi ca và âm nhạc… Đúng như một nhà phê bình đã viết: “thi ca cũng đã dùng đến âm - nhạc - của - ngôn - ngữ làm phương tiện để diễn tả ngôn - ngữ - của - âm - nhạc” (Chu Văn Sơn).

    Xuân Diệu nói: "Thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc - đó là một chân lý vĩnh cửu". Và "Nguyệt cầm" đã thực sự “đánh thức mọi giác quan” của người nghe… tôi dùng từ “nghe” vì từng chữ từng câu trong bài thơ đã tự nó ngân nga lên một điệu nhạc trong một không gian huyễn mộng mơ hồ, tràn đầy ảo giác:

    Nguyệt Cầm

    Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,
    Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
    Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

    Mây trắng, trời trong, đêm thủy tinh.
    Linh lung bóng sáng bỗng rung mình,
    Vì nghe Nương Tử trong câu hát
    Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

    Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời;
    Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
    Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.
    Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

    Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
    Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
    Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
    Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

    (Rút từ tập “Gửi hương cho gió”, 1945)


    Tôi không dám “bình” về "Nguyệt cầm", xin đưa vào đây vài đoạn của tác giả Chu Văn Sơn trong bài viết rất dài của ông về thi phẩm này.

    "Cái hồn của bài thơ ở ngay mấy câu dẫn nhập:

    Trăng nhập vào dây/ cung nguyệt lạnh

    Câu thơ dựng lên một ngữ cảnh huyền hoặc, bí ẩn không dễ tường minh. Ta hãy bắt đầu bằng chữ “nhập”. Vì mọi chuyện cũng khởi sự từ chữ này. Thế giới nhạc của "Nguyệt cầm" bắt đầu từ sự sống động của nhạc khí. Nhưng cây đàn ấy bắt đầu sống cái sinh mệnh đàn từ bao giờ? Từ lúc trăng nhập vào dây cung vậy! Đây là động thái huyền nhiệm, diễn tả sự nhập hồn, nhập thần… Nó xui ta nhớ đến nghi lễ hô thần nhập tượng khi hoàn thành những pho tượng Phật giáo. Nguyên là: tượng được tạc xong, chưa linh, bởi mới chỉ có phần thân xác tượng; phải sau khi được thần linh nhập vào, tượng mới là hiện thân của đức Phật. Cũng như thế, trong hình dung theo lối thi ca của Xuân Diệu, đàn vừa được làm ra, mới chỉ có thân xác. Phải khi trăng nhập vào dây cung, mới có hồn đàn. Từ cái khoảnh khắc mầu nhiệm ấy, đàn mới bắt đầu sống cái thân phận "Nguyệt cầm". Tự bấy giờ, mỗi nốt "Nguyệt cầm" tấu lên sẽ là cộng hưởng của âm thanh và ánh sáng. Mỗi nốt nhạc sẽ sinh thành từ sự giao duyên kỳ bí đó của Nguyệt và Cầm.

    Sau chữ “nhập” như thế, Trăng và Đàn đã đồng thể. Nhưng cái điểm giao tình của chúng là đâu? Ở nơi chữ “cung” vậy. Sự giao thoa ngôn từ cũng chính thức bắt đầu từ chữ đó. “Cung” vừa thuộc về đàn vừa thuộc về trăng. Ở đây, vị trí của nó là bắc cầu, ngữ nghĩa của nó là giao thoa. Nếu ngắt theo nhịp 2-2-3, thì đó là “cung nguyệt lạnh” (nghiêng về “cung trăng”), mà ngắt theo nhịp 2-3-2 thì sẽ là “dây cung” (nghiêng về “cung đàn”). Thi vị độc đáo của nó chính là sự giao động bất tuyệt giữa hai bề ngữ nghĩa ấy. Phải chăng cung nguyệt cầm chính là sự cộng hưởng của cả cung trăng lẫn cung đàn? Hai hình ảnh nhập vào một hình thể? Nhập thành một duyên phận?

    Hòa điệu với nhịp thơ, còn phải kể đến một yếu tố khác là âm thanh. Câu thơ là một chuỗi âm thanh gây thành một ấn tượng rõ rệt. Không phải ngẫu nhiên, cả câu có 3 thanh trắc, thì cả ba đều là thanh nặng: nhập, nguyệt, lạnh. Nhất là hai dấu “nặng” liền nhau trĩu xuống ở cuối câu, cảm giác lạnh từ thanh âm của các nốt “nặng” ấy toát ra đã làm lạnh suốt cả chuỗi âm thanh của câu thơ, mở đầu cho cả gam lạnh rồi đây sẽ trùm lên khắp cả "Nguyệt cầm".
    Như vậy, bằng chữ “nhập” và câu thơ nhập đề kỳ lạ, Xuân Diệu đã ngầm lý giải (hay khám phá ra) cái tính linh kỳ bí của "Nguyệt cầm". Câu thơ đã chính thức dẫn dụ người đọc vào cái thế giới huyền diệu của "Nguyệt cầm".
    Cái vía của bài thơ ở hai từ: linh lung (Linh lung bóng sáng bỗng rung mình).

    Bước vào "Nguyệt cầm" là bước vào một thế giới linh lung. Mọi ảnh hình đều rợn sáng. Cả ánh sáng của âm thanh, cả âm thanh của ánh sáng đều tan ra trong từng làn sóng âm tê buốt, tưới lên da ta, len lấn vào tâm trí ta. Cả trăng sao, sóng nước, mây trời, sỏi đá, cả sương bạc, cả canh khuya, cả nàng Nương Tử, cả bến Tầm Dương, cả hồn ta… tất tật đều vừa hiển hiện vừa tan ra trong biển nhạc trong suốt của Nguyệt Cầm không bờ không bến. Tất cả đều diễm ảo, hư huyền, chơi vơi, vô định. Không còn cõi này, không còn cõi khác, không còn hiện tại, không còn quá khứ, không còn hữu thể, không còn vô thể… chỉ còn có "Nguyệt cầm". Cả thương, nhớ, hận, sầu đều phổ vào trong ánh nhạc tê ngời. Vĩnh cửu tan cùng khoảnh khắc, phù du giao ứng vĩnh hằng. Tất cả đều rợn ánh khơi vơi trong đêm nhạc "Nguyệt cầm". Âm nhạc đến từ trăng lạnh, gieo từng chấm lạnh, từng dòng giá lạnh trong suốt vào hồn ta, để rồi khi đã dâng tràn, âm nhạc lại cuốn hồn ta trôi dạt mãi vào vô biên, đến tận bến bờ của của sao Khuê. Từ hư không, âm nhạc đã cất tiếng và tiếng nhạc lại mang hồn ta phiêu diêu về lại cõi hư không. Nối cái nhỏ nhoi hữu hạn với cái vô tận vô cùng. Đó chẳng phải là sự thăng hoa huyền diệu vào bậc nhất của hồn người ư?" (Chu Văn Sơn).


    Và nhà viết nhạc tài ba Cung Tiến đã đưa "Nguyệt cầm" của Xuân Diệu vào đúng cái không gian âm nhạc chơi vơi của trăng huyễn hoặc, của mộng thực không phân định, của ảo ảnh mà rờn rợn đến tận cùng xúc cảm… Từng thanh âm u uẩn, màu trăng úa mà làm vỡ nát hồn người như bóng trăng dưới một khúc sông vỡ vụn theo những đợt sóng lăn tăn, miên man dát vàng dát bạc cả một miền chiêm bao mộng mị…

    Nhạc của Cung Tiến có những bài rất khó nghe như: Nguyệt Cầm, Lệ Đá Xanh, Hoàng Hạc Lâu, Thuở Làm Thơ Yêu Em... Nhưng khi đã "nghe" được rồi thì có lẽ độ thẩm thấu âm nhạc của người nghe đã được nâng cao chút ít… Nhưng thú thật đến lúc này tôi cũng chỉ mới nghe được Nguyệt Cầm thôi! Nghe để rồi thấy có những đêm thật trong vắt, thật yên ắng mà hồn mượt mà chợt vỡ tan từng mảnh… chẳng bởi vì đâu, chỉ vì một màu trăng úa, một đàn trăng úa… thế thôi! Vừa buồn đến nao lòng vừa thấy sao mà đẹp đến nao lòng cái tâm hồn lúc tan tác!

    Bởi vì con người yêu trăng, hạnh phúc với trăng, chiêm ngưỡng và tận vắt hết cái đẹp của trăng thì con người cũng phải bị "hành" tơi tả vì trăng… đó là lẽ công bằng của trời đất. Khi cuộc sống ban tặng cho con người quá nhiều hạnh phúc thì số phận cũng thò tay ngắt lại chút ít. Trong hạnh phúc luôn có bóng dáng của khổ đau và ngược lại trong khổ đau người ta có khi tìm được chân hạnh phúc của mình dù không còn nguyên vẹn, dù có khi chỉ là một rẻo hạnh phúc rách bươm…


    Đàn Tỳ Bà có hai giây, hình dạng như trái lê, đầu dưới to, đầu trên nhỏ. Đầu nhỏ cũng là cần đàn. Đàn Nguyệt (hay Nguyệt Cầm) như tên gọi của nó cho thấy có bầu đàn hình tròn như mặt trăng (nguyệt) cần đàn nhỏ và dài. Đàn Nguyệt có bốn giây. Về hình dạng, đàn Tỳ Bà đẹp hơn đàn Nguyệt và cũng là đề tài cho các họa sĩ khi vẽ người đàn bà ôm đàn, một nửa cần đàn che một phần hay nửa khuôn mặt người nữ nghệ sĩ. Có lẽ họ lấy ý ở câu thơ trong Tỳ Bà Hành: “Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.”

    Trong văn học nước ta, Tỳ Bà Hành là một tác phẩm văn chương rất nổi tiếng. Tỳ Bà Hành là một bài hành, nguyên tác bằng Hán văn của Bạch Cư Dị, được Phan Huy Vịnh dịch ra thơ Nôm. Từ khi có chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn (chính phủ Trần Trọng Kim, thời Nhật) đến năm 1956, Tỳ Bà Hành được đưa vào chương trình Việt Văn lớp Đệ Tứ. Khi đi học, tôi may mắn được học tác phẩm nầy. Tuy Tỳ Bà Hành không sánh được với truyện Kiều nhưng rất nhiều người mê Tỳ Bà Hành còn hơn truyện Kiều. Sách Văn Đàn Bảo Giám viết:

    “Tỳ Bà Hành là một bài hành của Bạch Cư Dị đời Đường, gồm có một bài tự và tám mươi tám câu hát. Dưới đây là nguyên văn bài tự và bài dịch của Phan Huy Vịnh (xem phụ lục)

    Bản dịch bài tự:
    “Niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười, ta phải đổi ra làm tư-mã quận Cửu Giang. Mùa Thu năm sau, đi tiễn khách ở bến Bồn. Đêm nghe thấy người gảy đàn tỳ-bà ở trong một chiếc thuyền kia, những giọng đàn lanh lảnh có tiếng ở kinh kỳ. Hỏi ra mới biết là một người xướng nữ ở Trường An, thường học đàn ở hai nhà thiện tài họ Mục và họ Tào, đến khi tuổi cả sắc suy mới gởi thân làm vợ một anh lái buôn. Liền bảo đặt rượu và gảy mấy khúc đàn chơi. Gảy xong, người ấy buồn bã, tự kể khi trẻ trung thì vui thú chừng nào, nay phải lưu lạc tiều tụy ở nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm, vẫn thường lẵng lặng tự dưng, đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến nỗi mình bị giáng trích, nhân làm bài ca trường thiên để tặng. Cả bài có sáu trăm mười sáu lời, đặt tên là “Tỳ-bà hành”.


    Ngay bài tự, Bạch Cư Dị cũng không nói thật. Ông vì lòng ngay thẳng, lời nói thật mà bị bọn nịnh thần xàm tấu với vua nên bị biếm ra đất Giang Châu. Điều đó không làm cho Bạch buồn sao? Vậy mà Bạch viết: “Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm, vẫn thường lẵng lặng tự dưng. Không, ông không thể “lẵng lặng tự dưng” được, mà chính lòng ông ôm một mối u hoài vì lòng ngay thẳng của ông không được vua thấu rõ, lại còn đày ông ra nơi nầy. Ông không thể “đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến nỗi mình bị giáng trích.” Câu thơ sau đây mới là nỗi lòng thật của ông:

    Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai

    Và:

    Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
    Tai chẳng nghe đàn địch suốt năm
    Sông Bồn gần chốn cát lầm
    Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên
    Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
    Quốc kêu sầu vượn nói véo von
    Hoa xuân nở nguyệt thu tròn
    Lần lần tay chuốc chen son ngập ngừng
    Há chẳng có ca rừng địch nội
    Giọng líu lo nhiều nỗi khó nghe


    Trong chế độ phong kiến độc đoán Tống Nho, một lời oán trách, buồn phiền nhà vua cũng là một trọng tội, “khi quân” thành ra chữ “lẵng lặng tự dưng” ông nói ở trên chỉ là lời nói khéo để khỏi bị triều đình bắt tội mà thôi.
    Các nhà phê bình văn học cổ cho rằng bản dịch chữ Nôm của Phan Huy Vịnh còn hay hơn cả bản chính chữ Nho của Bạch Cư Dị, chứng tỏ tài năng của nghệ sĩ nước ta.

    Câu chuyện người kỹ nữ ôm đàn sang thuyền của Bạch đàn ca bị người đời sau chê nàng là người thiếu thủy chung với người chồng đi vắng. Trong truyện Kiều, Thúy Kiều thề ước với Kim Trọng “Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” cũng là muốn nói lòng thủy chung của cô với chàng Kim vậy. Vậy mà cuối cùng, vì gia biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Than ôi! Xưa cũng như nay, vì hoàn cảnh hay tự lòng mình không vững bền, mấy ai giữ được một tấm lòng chung thủy!

    Bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị do Phan Huy Vịch dịch, có ảnh hưởng rất lớn trong văn học Việt Nam, không chỉ trong cổ thi mà còn cả trong thi ca lãng mạn tiền chiến. Rõ nhất là ở bài thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu. Một đêm trăng, Bạch Cư Dị (BCD) tiễn bạn ra bến sông Bồn (Tầm Dương). BCD viết: “Thuyền không đổ bến mặc ai, Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng. Hoặc: “Nước mênh mông đượm vẻ gương trong”. Hoặc: “Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt, Một vầng trăng trong vắt lòng sông”, v.v... Như thế, nói chung, người ta có thể hiểu là đêm tiễn bạn ấy trăng nước mênh mông và lạnh lẽo. Từ ý đó. Xuân Diệu (XD) viết: “Trăng lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời, Đàn ghê như nước lạnh trời ơi”. Và: “Mây trắng trời trong đêm thủy tinh, Lung linh bóng sáng bỗng run mình”.

    Về chỗ bến sông Bồn (Tầm Duơng), BCD viết: “Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.” Xuân Diệu như linh cảm, nghe được cả tiếng sỏi kêu dưới chân kẻ đưa, người tiễn: “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận.” Chính XD cũng xác nhận bài thơ Nguyệt Cầm của ông mô tả tiếng đàn đêm nào trên bến Tầm Dương: “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...”

    “Người” XD nói ở đây là ai? Bạch Cư Dị và người bạn Bạch đưa tiễn? Không! “Người” XD nói đó chính là người ca kỹ già trong Tỳ Bà Hành. Ở một câu khác, XD nói rõ người đó hơn:

    Vì nghe nương tử trong câu hát
    Đã chết đêm rằm thu nước xanh.


    Về người kỹ nữ đó, BCD mô tả:

    Tay ôm đàn che nửa mặt hoa

    Về sắc đẹp khi còn trẻ thì:

    Ả Thu nương ghen lúc điểm tô,

    Cũng giống như cô Kiều: “Hoa ghen sắc thắm, liễu hờn kém xanh” vậy.

    Những câu khác của XD dùng để tả tiếng đàn của kỹ nữ:

    Mỗi giọt rơi tràn như lệ ngân.


    Bạch Cư Dị thì viết:

    Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi
    Lệ ai chan chứa hơn người


    Xuân Diệu viết một câu khá hay và nghe khá “ớn lạnh” có vẻ ghê rợn như trong “Bài Thơ Chiêu Niệm” của Đinh Hùng:

    Vì nghe nương tử trong câu hát
    Đã chết đêm rằm thu nước xanh


    Từ bài thơ nầy của Xuân Diệu, nhạc sĩ Cung Tiến soạn bản nhạc Nguyệt Cầm. Nhìn chung, lời ca trong bài hát Nguyệt Cầm không khác với thơ Xuân Diệu, tuy ở vài câu, Cung Tiến có phát triển thêm ý thơ của Xuân Diệu mà thôi. Tôi ghi lại lời ca trong bài hát “Nguyệt Cầm” như sau đây để độc giả có thể thấy tài năng nhạc của Cung Tiến và luôn cả tài năng thơ của ông. Quí vị nào đã xem Paris by Night 58, tất có nghe Nguyễn Ngọc Ngạn phỏng vấn Cung Tiến về việc phổ nhạc bài thơ nầy.

    Nguyệt cầm, Cung Tiến (phổ thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu)

    Đêm mùa trang úa làm vỡ hồn ta...
    Ngập ngừng xa...suối thu dồn lá úa trôi xa
    Sầu thu, sầu lên vút mịt mù
    Mà e nhớ, huong mùa thu
    Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng
    Từng thoáng lệ ngân
    Mà hồn phân vân cuồng điên nhớ
    Long lanh tiếng nguyệt cầm, tiếng đàn trầm
    Ai nhớ Nương Tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát...
    Chết theo nước xanh...Chết theo nước xanh...
    Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh...

    Long lanh long lanh, trăng chiếu một mình
    Khơi vơi khơi vơi, nhắc lòng tỏ ngời
    Nguyệt cầm ôi tiếng lệ ngân. Chết từng mùa Xuân...

    Đêm ngời men nhớ... Nhắc tên người thủa xưa
    Trăng sầu riêng chiếc... Trăng sầu riêng chiếc
    Sầu cho đến bao giờ?
    Hồn ghê bến bờ sao, ngập hồn xanh biếc trời cao
    Kìa thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương
    Nhớ nhắc lòng đêm ấy thuyền neo bến ấy

    Nguyệt Cầm nghe nức từng câu...
    Có hàng mây trắng về đâu... mặt chìm sâu
    Đêm lắng đợi sâu
    Nguyệt Cầm khơi mãi tình sâu.
    Khơi mãi nguồn đêm

    ...Mùa trăng úa làm vỡ hồn ta...
    Ngập ngừng xa suối Thu dồn lá úa trôi qua.
    Sầu Thu sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa Thu .
    Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng từng thoáng lệ ngân
    Mà hồn phân vân cuồng điên nhớ long lanh tiếng Nguyệt cầm tiếng đàn trầm.
    Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát
    Chết theo nước xanh. Chết theo nước xanh.
    Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh.


    Người ta có thể thấy một giòng trôi của thơ, hay thi ca, hay văn học, từ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị bên Tàu, sang Việt Nam, Phan Huy Vịnh dịch thành thơ Nôm, tới Nguyệt Cầm của Xuân Diệu và ngày nay, Nguyệt Cầm của Cung Tiến bằng Quốc Ngữ.

    Tuy nhiên, tôi vẫn có một thắc mắc mà chưa giải đáp đươc. Tại sao từ cây đàn Tỳ Bà của Bạch Cư Dị bên Tàu nay biến thành Cây đàn Nguyệt của Xuân Diệu và Cung Tiến? Quí vị nào từng nghiên cứu thơ văn, các nhà nghiên cứu âm nhạc, nhứt là nhạc cổ của ta như Giáo Sư Trần Văn Khê, và Trần Quang Hải, và cả Cung Tiến nữa, người đã phổ nhạc bài thơ của Xuân Diệu, nếu có chút thì giờ, xin trả lời câu hỏi nầy?

    hoanglonghai/tuechuong
    Mass, cuối mùa lạnh.


    Nguyệt Cầm - Mai Hương





    Phân tích bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu


    Nguyệt Cầm

    A Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
    Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
    Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
    *
    B Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
    Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
    Vì nghe nương tử trong câu hát
    Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.
    *
    C Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
    Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ...
    Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
    Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người ...
    *
    D Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
    Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
    Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
    Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
    Xuân Diệu

    Bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu, ảnh hưởng Tỳ Bà Hành, hòa hợp với thuyết giao ứng (correspondance) của Baudelaire, là một bài thơ mới, âm hưởng cổ điển và lãng mạn.

    Xuân Diệu nghe đàn trên sông Hương, trạnh nhớ hận tình Trương Chi - Mỵ Nương mà làm nên Nguyệt Cầm. Cảm xúc lời thơ, Cung Tiến sáng tác Nguyệt Cầm, tình khúc lãng mạn giá trị, mang những cung bậc Tây phương.

    Bài thơ Nguyệt Cầm thể hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Nói như Baudelaire: Bởi thơ và qua thơ, bởi nhạc và qua nhạc mà tâm hồn thoảng thấy những ánh hào quang ẩn sau cõi chết. Người thi sĩ bằng trực giác mẫn cảm nắm bắt giây phút hội ngộ thiêng liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và ngoại giới để đạt tới thăng hoa trong tác phẩm nghệ thuật.
    Chúng ta tìm thấy cấu trúc nội dung trên đây qua sự phân tích cấu trúc hình thức.

    Bài Nguyệt Cầm mang những tính chất cơ bản của thi ca. Nguyên lý song song xuất hiện liên tục dưới nhiều dạng:

    - Về mặt hình thức, thơ 7 chữ, 4 câu, 4 khổ. Trong 112 chữ, có 5 trăng, 2 nguyệt, 4 đàn, 3 lạnh, 3 nhạc, 2 nước v. v.... Ðặc biệt, khổ một (A) có tới 4 trăng, 1 nguyệt, 3 đàn, và trăng là nguyệt, nguyệt là đàn: cả ba đều có thể chung một nghĩa. Toàn bài gồm ít nhất 9 nhóm từ song song tương đồng ngữ nghĩa:

    thủy tinh - pha lê - trong
    lặng-vắng
    buồn-hận-sầu
    ghê-rợn
    hỡi-ôi-trời ơi
    tàn-chết-nhập-hồn
    thương-nhớ
    lung linh-long lanh
    lệ-giọt-sương

    - Về mặt nội dung, khổ một (A) song song với khổ ba (C): bầy ra sự đối diện (hay nội cảnh) giữa trăng và đàn. Khổ hai (B) song song với khổ bốn (D): dàn phần ngoại cảnh (thiên nhiên, trời đất), và tâm cảnh người nghe hoặc người ngắm nguyệt cầm.

    Trước hết, nguyệt cầm là gì? Ngay tựa đề đã vô cùng hàm súc. Nguyệt Cầm. Nguyệt và cầm: hai yếu tố tương đồng ngữ nghĩa, trùng phùng hình ảnh. Từ vừa đơn, vừa ghép, tuy hai mà có thể trở thành một, hoặc biến hoá đến vô cùng: Trăng là nguyệt, là đàn (đàn hình tròn như trăng), mà còn có thể là người kỹ nữ, là thi sĩ, là anh, là em, là tôi, là ta, ....

    Trên bình diện phân tích hình vị thì như thế. Nhưng nếu xét nguyệt cầm trên bình diện cấu trúc thi ca, sự đối xứng và tương đồng ngữ nghĩa giữa nguyệt và cầm có thể mở ra những giải thích sau đây:

    1. Nếu nhìn nguyệt cầm như một cấu trúc tỉnh lược chủ từ và hư từ, thì Nguyệt cầm là đàn trăng: đàn trăng mở ra ít nhất ba bối cảnh:

    - (đánh) đàn (dưới) trăng
    - (nghe) đàn (dưới) trăng
    - đàn (ngắm) trăng

    Nguyệt cầm còn là trăng đàn: trăng đàn mở ra ba cảnh khác:

    - trăng (đánh) đàn
    - trăng (nghe) đàn
    - trăng ( ngắm) đàn


    2. Nếu nhìn nguyệt cầm dưới dạng cấu trúc ẩn dụ, thì Nguyệt có thể là em: Nguyệt cầm = em đàn. Nguyệt cũng có thể là anh, và đàn là em:

    - Anh (nghe) đàn
    - Anh (nghe) em (đàn)
    - Anh (ngắm) đàn
    - Anh (ngắm) em (đàn)

    Tóm lại mười một bối cảnh trên đây có thể hàm ngụ trong hai chữ nguyệt cầm.

    Bước vào bài thơ, câu đầu:

    Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

    Hai chữ dây cung mập mờ ý nghĩa, làm môi giới cho tình và ý. Dây vừa là dây đàn mà cũng là dây tơ. Cung vừa là cung Hằng, vừa là cung tơ. Câu thơ đưa ra nhiều hình ảnh chập trùng: Trăng nhập vào trăng? Trăng nhập vào dây đàn? Trăng nhập vào cung tơ? Mà trăng là ai? Nếu trăng là anh: Anh nhập vào cung trăng? Anh nhập vào cung đàn? Hay anh nhập vào em? Nguyệt còn đồng âm với huyệt. "Trăng - nguyệt" -ẩn dụ cổ điển- nhờ sự táo bạo và mãnh lực của chữ nhập, vướng mắc vào dây, vương tơ (ngầm). Trăng đắm trong ẩm ướt của vùng nguyệt lạnh, gợi lên hình ảnh nồng nàn đầy nhục cảm mà cũng vô cùng dịu dàng, tế nhị, thanh khiết, mà cũng có thể là cõi chết, nơi hội ngộ của những âm hồn.

    Chuyển sang câu hai:

    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

    tính cách đối xứng giữa trăng thương và thương trăng, trăng nhớ và nhớ trăng, tạo nên sức tương ái nhớ thương - thương nhớ giữa đôi bên. Sự kết hợp với chữ hỡi - là tiếng gọi xa, gọi mà không chắc người nghe có nghe tiếng mình không (Trời hỡi! làm sao cho khỏi đói. -Hàn Mạc Tử) - tạo nên khoảng cách muôn trùng giữa hai đối tượng: trăng và đàn.

    Nếu "Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh" mở ra bối cảnh gần gụi da diết "Trăng nhập đàn" thì "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần" dẫn đến niềm nhớ thương đòi đoạn, và sự phân chia nghìn trùng xa cách giữa đôi bên. Vì thế hai câu thơ trên trở thành cặp phạm trù song song đối đẳng. Tiếp đến: "Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm" và "Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân" có sự chuyển đề: đàn đang từ vị trí khách thể ở hai câu thơ đầu:

    Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần


    bỗng chuyển sang vị trí chủ thể ở câu 3, câu 4:

    Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
    Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
    (1)

    Nhận xét thứ nhì: Tuy "Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm" vẫn giữ nguyên cấu trúc hình thức như "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần", nhưng ở đây tĩnh từ buồn và lặng đã thay thế động từ, biến trạng thái tĩnh thành động, khiến cho mệnh đề đàn buồn trở nên đa nghĩa: tiếng đàn buồn? người đánh đàn buồn? hay đàn đang gẩy khúc nhạc buồn?... và đàn lặng cũng mang những ngụ ý: tiếng đàn lặng đi? người kỹ nữ ngưng đàn? hay khúc nhạc bỗng dưng im bặt? ... cho thấy cách tạo hình ở "Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm" khácvới cách tạo hình của "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần". Câu thơ kế tiếp "Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân" tiếp tục mô tả tiếng đàn và tâm cảm người gẩy đàn. Chữ tàn gieo vào giữa câu thơ như nỗi trớ trêu của định mệnh. Tàn: Tàn cung? Tàn canh? Tàn phai? mà cũng có thể là tàn nhẫn, rơi vào chính giữa câu thơ, chia loan, rẽ thúy, tạo nên những tác dụng:

    - Phân chia câu thơ làm hai vế so sánh: Mỗi giọt rơi = như lệ ngân.
    - Chia rẽ chủ ngữ "giọt lệ" ra làm hai nhân cách khác, hai hình ảnh khác: giọt rơi, lệ ngân.
    - Hai hình ảnh này và dư âm này tác động một lần nữa xuống nỗi đau thương ly cách giữa trăng và đàn.
    - Tàn còn có nghĩa tàn cung là bặt tiếng đàn, là tàn tạ như tiếng đàn rơi xuống, tan đi, vỡ ra ... như khối hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan...
    - Và tàn còn có thể là tàn phai, như nhan sắc người kỹ nữ trong khoảnh khắc tàn canh, rỏ mỗi tiếng đàn như ngân một giọt lệ.

    Toàn bộ bốn câu thơ có cấu trúc song song, đối đẳng, nhà thơ tận dụng sự đối xứng giữa những cặp phạm trù (trăng - đèn), (gần - xa), (ngoại cảnh - tâm cảnh), dùng những ngụ ý, hàm ngôn tạo mối tương quan giữa những điều nói và những điều không nói, giữa thực và hư, giữa tĩnh và động, để mở ra đến vô cùng, sự gần gụi và xa cách giữa trăng và đàn.


    Sang tiết đoạn B, tác giả đổi thay phong cách:

    B Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
    Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
    Vì nghe nương tử trong câu hát
    Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.


    B mang cấu trúc văn xuôi, với những mệnh đề tiếp cận có tính cách giải thích, bổ nghĩa cho nhau (vì... đã...). Sự bắc cầu trực tiếp bằng một mệnh đề xé hai (enjambement avec rejet mà Xuân Diệu(2) mượn trong thơ Pháp) liên kết chặt chẽ câu thơ trên với câu thơ dưới, kết hợp bốn câu thành một phát ngôn có trình tự nhất định:

    "Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh lung linh bóng sáng bỗng rung mình vì nghe nương tử trong câu hát đã chết đêm rằm theo nước xanh"

    Tuy nhiên, câu trên vẫn là thơ vì những mệnh đề tuy liên tục và có trình tự trong ý, nhưng thiếu chủ ngữ và vị ngữ nên không "thành văn": Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh là ba hình ảnh độc lập, dị biệt nhưng song song về nghĩa: Mây vắng = trời trong = đêm thủy tinh.

    Nhịp cầu thứ nhất liên kết đêm thủy tinh với lung linh bóng sáng, bật ra hai khả năng diễn nghĩa:

    - hoặc là có hai cảnh tượng song song: Ðêm thủy tinh lung linh và bóng sáng bỗng rung mình.
    - hoặc là cả cái "đêm thủy tinh lung linh bóng sáng" đó bỗng rung mình.

    Giải thích thứ hai này ngụ ngầm ý nghĩa: Mây vắng và trời trong cũng rung mình như đêm thủy tinh vì ba yếu tố trên cùng một chức năng ngữ nghĩa và cấu trúc trong câu.

    Tại sao rung mình? Vì tất cả đều nghe nương tử trong câu hát. Ðến đây sự bắc cầu trở nên huyền nhiệm: Ðộng từ "đã chết" bơ vơ, buông lỏng, không có chủ ngữ. Ai đã chết? Nương tử đã chết? Câu hát đã chết? hay là tất cả những nhân vật: mây, trời, đêm thủy tinh, bóng sáng kia, vì nghe nương tử hát mà cùng tự tử trong đêm rằm dưới nước xanh, như huyền thoại Lý Bạch ôm trăng nhẩy xuống dòng Dương Tử?

    Tiết đoạn B kết hợp hài hòa khái niệm thẩm mỹ giữa Ðông -Tây, trong cấu trúc hình thức và nội dung thi ca.


    Tiết đoạn C trở lại cuộc tương kiến giữa Ðàn và Trăng:

    C Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
    Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ...
    Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
    Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...


    Âm hưởng và giai điệu trong tiết đoạn này ngẫu hứng từ tiếng đàn của người kỹ nữ trong Tỳ Bà Hành, nhất là "Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi ..." và "Long lanh tiếng sỏi vang vang hận":

    Nước tuôn róc rách, chẩy mau xuống ghềnh
    Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt

    Uyết tuyền lưu thủy hạ thán
    Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt


    và chính dư âm tiếng đàn đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con người tương tư nhau: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người làm cho hiện tại luyến lưu dĩ vãng, làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ thuật và tình người ngắn lại, nhưng cũng lại trải ra biền biệt đến vô cùng, và mở đường cho bốn câu thơ cuối:

    D Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
    Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
    Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
    Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.


    Tiết đoạn D, song song với tiết đoạn B, trở lại quang cảnh vũ trụ và tâm cảnh người nghe đàn, ngắm trăng: Câu 1 mở ẩn dụ thành ấn tượng so sánh:

    Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,

    Thi sĩ giao hòa âm nhạc với ánh trăng thành một biển sáng có âm thanh pha lê.

    Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.

    Lần đầu tiên, nhân xưng tôi xuất hiện trong thơ. Sự hiện diện của thi sĩ, đơn côi tuyệt đỉnh. Ẩn dụ "chiếc đảo hồn tôi" và tâm cảm "rợn bốn bề" phù trợ nỗi hoang lạnh cho hai đoản ngữ "chiếc đảo" và "hồn tôi", kèm thêm bốn hình vị độc lập chiếc - đảo - hồn - rợn đều mang ẩn nghĩa đơn chiếc, hoang vắng, âm hồn, ghê rợn, ... nói lên sự lạc lõng gây gây của thi nhân trong cõi trần âm u hoang lạnh. Niềm tâm sự ấy đắm trong khung cảnh:

    Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

    Tình huống "Sương bạc làm thinh, khuya nín thở" trên đây nối tiếp với "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề", như để giới thiệu thiên nhiên "Sương bạc" với không và thời gian "khuya", những nhân tố mới này cùng "làm thinh" và "nín thở" để:

    Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

    Thi sĩ đã đem nội tâm của con người hòa cùng âm nhạc, ném vào vũ trụ hành tinh. Còn lại một mình đối diện với cõi chết, âm u, hoang lạnh. Bềnh bồng ngoài thực tại, trong vị trí giao tiếp giữa không gian và vũ trụ. Lưỡng lự, nửa thăng thiên về một hành tinh lý tưởng, nửa hạ huyệt về cõi độc dược, Ác Hoa. Sự đối chất giữa Lý tưởng (Idéal) và Nỗi sầu (Spleen, Ennui) trong Baudelaire, không chỉ truyền sang Xuân Diệu, thấm vào Huy Cận, mà còn thông suốt cả một thế hệ thi nhân, biến thành nỗi sầu nhân thế, tận diệt thế nhân trong cảm giác nghẹt thở, bất lực, hoang mang, muôn đời buồn bã.
    (Paris 3/1995)


    Chú thích:
    (1) Tỳ Bà Hành:

    Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết

    Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
    Biệt hữu u sầu ám hận sinh Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
    hử thời vô thanh thắng hữu thanh Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay.

    (2) Theo lời Xuân Diệu kể trong Confession d'un poète, thì Huy Cận là người đầu tiên sử dụng enjambement avec rejet:

    Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt
    Buồn gieo theo bóng lá đung đưa
    Bên thềm - Ai nấn lòng tôi rộng
    Cho trải mênh mông buồn xế trưa.

    Thực ra, trong Kinh Thi, người xưa "tình cờ" cũng đã "bắc cầu":

    Khiêu hề thoát hề
    Tại thành khuyết hề.

    dịch:

    Em nhẹ nhàng nhẩy lên
    Lầu trên thành.

    và Thế Lữ là người đầu tiên sử dụng bắc cầu như một kỹ thuật du nhập từ phương Tây, trong thơ mới:

    Trời cao xanh ngắt - ô kìa!
    Hai con hạc trắng bay về bồng lai
    Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc
    Trong lòng người đứng bên hồ.



    Thụy Khuê

  4. #10
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Note Vết Chim Bay












  5. #11
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Default

    Hiện tượng Cung Tiến trong tân nhạc Việt

    Trong lịch sử tân nhạc Việt, dường như không có một nhạc sĩ nào nổi tiếng ngay với sáng tác đầu tay, ở tuổi niên thiếu, khi chỉ mới 14, 15 tuổi, như trường hợp Cung Tiến. Có dễ chính vì thế mà, có người không ngần ngại gọi hiện tượng Cung Tiến là thiên tài của bộ môn nghệ thuật này.

    Nói vậy, không có nghĩa chúng ta không có nhiều nhạc sĩ (cũng như thi sĩ), bước vào sân chơi VHNT rất sớm. Thậm chí có người chỉ ở độ tuổi lên 9, lên 10…Nhưng để được đám đông biết đến hay, được những người cùng giới công nhận thì, chí ít cũng phải nhiều năm sau. Ở đây, chúng ta cũng không nên loại trừ trường hợp, nếu có những nhạc sĩ (hay thi sĩ) thành danh chỉ với một bài duy nhất thì, cũng có những người viết nhạc (làm thơ) trọn đời vẫn không được dư luận biết tới!

    Đề cập tới những trường hợp kém may mắn này, sinh thời, đôi lần nhà văn Mai Thảo cho rằng, không phải tất cả những người bị định mệnh quay lưng đó, là những người không có khả năng hoặc, không có tài mà, chỉ vì họ không có “duyên” với văn học, nghệ thuật.

    “Nếu mình chẳng may vô duyên với sự nổi tiếng thì chỉ có nước… chịu chết thôi. Chẳng thể làm gì được…” Tác giả “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” nhấn mạnh.

    Như đã nói, nhạc Cung Tiến là một hiện tượng ngoại lệ. Phần tiểu sử của ông, trên trang mạng Wikipedia-Mở có thể tóm tắt như sau:

    Nhạc sĩ Cung Tiến tên thật Cung Thúc Tiến, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1938, tại Hà Nội, là một nhạc sĩ được dư luận liệt kê vào hàng ngũ những nhạc sĩ theo dòng nhạc Tiền chiến. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có 2 sáng tác sớm được phổ biến rộng rãi là “Thu vàng” và "Hoài cảm". Cả hai bài này được họ Cung viết năm 14, 15 tuổi. Mặc dù xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng Cung Tiến đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như "Hương xưa", "Hoài cảm".

    Trang mạng Wikipedia-Mở cũng cho biết, thời trung học, Cung Tiến đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng là Chung Quân và Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 tới 1963, Cung Tiến du học tại Úc, ngành kinh tế. Nhân cơ hội này, ông ghi tên tham dự các khóa về dương cầm, đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney.

    Trong những năm từ 1970 tới 1973, khi Cung Tiến nhận được một học bổng Cao học về Kinh tế, của British Council để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại đại học Cambridge, Anh quốc; ông cũng đã ghi tên tham dự các lớp về nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại…

    Vẫn theo trang mạng kể trên thì, về ca khúc, Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều viết sau 1954, trừ bài “Thu vàng”, “Hoài cảm” ông viết năm 1953 khi mới 14-15 tuổi. Tuy nhiên, các ca khúc này lại thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi chúng có cùng phong cách trữ tình lãng mạn…

    “Ra hải ngoại Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1988, tại San Jose, California, với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988…” Trang mạng kể trên viết. (1)

    Theo dõi sinh hoạt sáng tác của Cung Tiến, kể từ sau biến cố 30 tháng 4-1975, ở hải ngoại, người ta được biết, ông dành nhiều thì giờ hơn cho việc sáng tác - - Từ phổ nhạc thơ, cho tới những công trình nghiên cứu dân ca Việt, nghiên cứu hình thái đặc thù của truyền thống Quan Họ Bắc Ninh v.v…

    Bên cạnh lãnh vực âm nhạc, Cung Tiến cũng đóng góp nhiều cho lãnh vực văn học thuộc giai đoạn 20 năm Văn học, Nghệ thuật miền Nam. Với bút hiệu Thạch Chương, ông từng cộng tác với các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và Văn. Hai trong số những bản dịch thơ văn của Cung Tiến dưới bút hiệu Thạch Chương, được nhiều người biết tới thời trước 1975 ở Saigon là “Hồi ký viết dưới hầm” của Dostoievsky, và cuốn “Một ngày trong đời Ivan Denisovitch” của Solzhenitsyn.

    Cách đây nhiều năm, khi được một ký giả hỏi về ca khúc “Thu vàng” viết từ thời niên thiếu, nhạc sĩ Cung Tiến đã tiết lộ, đại ý, sự thực, đó chỉ là một bài tập trong thời gian ông mới bước vào khu rừng nhạc thuật mà thôi.

    Tiết lộ này của họ Cung, từng gây nên nhiều nguồn dư luận thuận / nghịch. Nhưng không vì thế mà “Thu vàng” có thể ra khỏi ký ức rộn rã những bước chân tung tăng, nhảy nhót thương yêu của rất nhiều thế hệ. Đó là những bước chân tung tăng đuổi theo không chỉ những chiếc lá vàng rơi mà, còn đuổi theo cả một mùa thu thơ dại trên đường phố nữa:

    “Chiều hôm qua lang thang trên đường
    Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
    chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
    Có mùa thu về, tơ vàng vương vương

    “Một mình đi lang thang trên đường
    Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng
    Lòng xa xôi và sầu mênh mông.
    Có nghe lá vàng não nề rơi không

    “Mùa thu vàng tới là mùa lá vàng rơi
    Và lá vàng rơi, khi tình thu vừa khơi
    Nhặt lá vàng rơi, xem màu lá còn tươi
    Nghe chừng đâu đây màu tê tái

    “Chiều hôm qua lang thang trên đường
    Nhớ nhớ, buồn buồn với chán chường
    Chiều hôm nay trời nhiều mây vương
    Có mùa Thu Vàng bao nhiêu là hương.
    (2)

    Mặc dù trong ca từ “Thu vàng” của Cung Tiến, có câu “Nhớ nhớ, buồn buồn với chán chường”, nhưng toàn cảnh vẫn là một trong rất ít những ca khúc viết về mùa thu không bi lụy hóa, hoặc sầu thảm hóa như nội dung của hầu hết những ca khúc viết về mùa thu, đã thành khuôn sáo từ hơn nửa thế kỷ trước. Thí dụ ca khúc “Lá đổ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh:

    “…Thu đi cho lá vàng bay,
    lá rơi cho đám cưới về
    Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa

    tình duyên đành dứt
    Có những đêm về sáng

    đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi
    đã vội chi men rượu nhấp đôi môi
    mà phung phí đời em không tiếc nhớ

    “Lá đổ muôn chiều ôi lá úa,
    phải chăng là nước mắt người đi
    Em ơi đừng dối lòng
    dù sao chăng nữa không nhớ đến tình đôi ta?

    “Thôi thế từ đây anh cố đành quên rằng có người
    Cầm bằng như không biết mà thôi
    Lá thu còn lại đôi ba cánh
    đành lòng cho nước cuốn hoa trôi…”
    (3)

    Khuôn sáo hay ước lệ này, theo tôi nó vẫn đeo đẳng, xuất hiện trong rất nhiều ca khúc viết về mùa thu của những nhạc sĩ ở thế hệ sau! Làm như, nếu mùa thu trong ca khúc (cũng như thơ) của họ, không bi lụy, không tan tác, đổ vỡ, chia ly thì nó sẽ là một… mùa nào khác, chứ không phải là mùa thu vậy!?!


    Hồn tính đông phương trong ca khúc Cung Tiến

    Nhiều người cùng giới với nhạc sĩ Cung Tiến cho rằng đa số ca khúc của họ Cung được viết trên căn bản bán cổ điển tây phương, nên giai điệu rất sang trọng. Theo tôi, chúng ta có không ít nhạc sĩ xây dựng sáng tác của mình trên khung, nền bán cổ điển tây phương. Nhưng rất ít người cho phần ca từ của họ nhiều hồn tính đông phương như Cung Tiến.

    Ngay ca khúc thứ hai, họ Cung viết khi còn ở độ tuổi 15 là ca khúc “Hoài cảm”, từ dòng chữ đầu tiên tới kết thúc, tính hoài cổ đã lồng lộng trong từng con chữ của ông. Mặc dù nội dung toàn thể ca từ, cho thấy tấm lòng thiết tha, trông ngóng về một tình yêu, vắng mặt. Nhưng, từ một góc độ nào khác, hay ở mặt bên kia, phía khuất lấp của tấm lòng thiết tha, trông ngóng một tình yêu, không nhất thiết phải là một người nữ (đối tượng cụ thể). Nó cũng có thể là một thứ tình yêu hướng về thiên cổ. Tựa những tiếng gõ thiết tha lên cánh cửa trăm năm, của một tâm hồn sớm cảm nhận được sự lạc lõng, bơ vơ của mình, trước hiện cảnh:

    “Chiều buồn len lén tâm-tư
    Mơ hồ nghe lá thu mưa
    Dạt dào tựa những âm xưa
    Thiết tha ngân lên lời xưa
    “Quạnh hiu về thấm không gian
    âm thầm như lấn vào hồn
    Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
    Sương buồn lắng qua hoàng hôn
    “Lòng cuồng điên vì nhớ
    ôi đâu người, đâu ân tình cũ?
    Chờ hoài nhau trong mơ
    Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa
    “Một mùa thu xa vắng
    Như mơ hồ về trong đêm tối
    Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?
    “Chờ nhau hoài cố nhân ơi!
    Sương buồn che kín nguồn đời
    Hẹn nhau một kiếp xa xôi,
    nhớ nhau muôn đời mà thôi!”
    (3)

    Tôi muốn gọi ca từ của “Hoài cảm” của người nhạc sĩ tài hoa sớm phát tiết này là “thi sĩ của hoài niệm quá khứ”. Cụ thể khi ông dùng những chữ như “thấm” và “lấn” trong “Quạnh hiu về thấm không gian / âm thầm như lấn vào hồn...” Hoặc động tự “che” trong câu “Sương buồn che kín nguồn đời...”

    Về phương diện tu từ học (rhetoric) thì những con chữ kể trên của họ Cung, không chỉ được đặt đúng vị trí mà, nó còn cụ thể hóa những túc từ trừu tượng đứng ngay sau nó nữa. Cũng thế, với “Hương xưa”, tính chất “vạn cổ sầu” của tác giả còn rưng rưng nỗi niềm lạc loài, mất dấu hơn nữa. Tôi không biết tác giả sáng tác ca khúc này, bao lâu sau “Hoài cảm”? Nhưng trong cảm nhận của riêng tôi, nó vẫn những tiếng gõ thiết tha lên cánh cửa trăm năm hoặc, như những ngọn lửa khêu thức niềm bơ vơ “thất thổ”:

    “Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
    Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao
    Còn đó tiếng khung quay tơ,
    Còn đó con diều vật vờ
    Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa
    “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
    Buồn sớm đưa chân cuộc đời
    Lời Đường Thi nghe vẫn rền trong sương mưa
    Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
    Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
    Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
    Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ
    Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó
    “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
    Dù đã quên lời hẹn hò
    Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
    Chờ đến bao giờ tái sinh cho người
    “Đời lập từ những đêm hoang sơ
    Thanh bình như bóng trưa đơn sơ
    Nay đời tan biến trong hư vô,
    chết đầy từng mồ oán thù.
    máu xương tơi bời nhiều mùa thu...
    (4)

    Ở phân khúc 6, để làm nổi bật thời “hoàng kim” – thanh bình thuở xa xưa, tác giả nhắc tới cuộc kháng chiến tháng mùa thu 1945 của đất nước, từ đó dẫn tới những thảm kịch thương đau, nhấn chìm sự sống của cả một dân tộc, với câu “...Nay đời tan biến trong hư vô / chết đầy từng mồ oán thù / máu xương tơi bời nhiều mùa thu...”

    Nhưng, tôi vẫn thấy được tố chất thi sĩ, với nhiều câu thơ đẹp trong ca khúc. Như những câu: “Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao...” Hoặc: “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi / Buồn sớm đưa chân cuộc đời...” Hay (lập lại): “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ / Dù đã quên lời hẹn hò...” Tôi cho đó là những câu thơ mà, không ít người làm thơ mơ ước viết được một lần trong đời mình. (5)






    Tóm lại, những ca khúc của Cung Tiến nằm trong khoảng thời gian 20 năm VHNT miền Nam, thủy chung, vẫn là nỗ lực tái hiện không gian nghìn năm trước, cho đời sau cơ hội sống lại, dù mơ hồ, sương khói...

    Tuy nhiên, Cung Tiến không chỉ đem được vào cõi-giới tân nhạc của ông hồn tính đông phương, như một con bài chủ, một dấu ấn của riêng ông mà, họ Cung còn là nhạc sĩ đầu tiên(?) phổ nhạc thơ tự do.

    Bằng vào tình thân giữa ông và cố thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến đã rất thành công khi soạn thành ca khúc bài thơ “Lệ đá xanh” của tác giả “Tôi không còn cô độc”: “Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin ngoài đời chỉ còn trời sao đáng kể, mà bên vì sao lấp lánh đôi mắt em, và đôi mắt em lấp lánh không thôi đến ngày cuối... / Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin, ngoài đời thơm thơm, cỏ hoa ươm hương dịu hiền / mà bên trái cây ngọt ngào đôi môi em, ngọt ngào đôi môi em, ngọt ngào đôi môi em ... / Nguồn sữa mật khởi đầu / Đôi khi anh muốn tin ngoài đời cỏ hoa tinh khiết, mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em, vòng ân ái, vòng âu yếm / Đôi khi anh muốn tin, đôi khi anh muốn tin... / Ôi những người, ôi những người khóc lẻ loi một mình / Đau đớn lệ, đau đớn lệ là những viên đá xanh / Tim rũ rượi...” (6), (7)

    Đề cập tới lãnh vực thơ phổ nhạc, những người yêu cõi-giới âm nhạc Cung Tiến, hẳn sẽ không quên ca khúc “Thuở làm thơ yêu em”, thơ Trần Dạ Từ hay; “Vết chim bay” thơ Phạm Thiên Thư... Tất cả những bài thơ này, đều được ông soạn thành ca khúc trước biến cố 30 tháng 4-1975 ở Saigòn.

    Du Tử Lê
    (Garden Grove, Sept. 2014)

    ________

    Chú thích:

    (1) Do MTQGTNGPVN (Hoàng Cơ Minh) chủ xướng.
    (2), (3), (4), (6) Nđd.
    (5) Tôi không đề cập tới ca khúc “Nguyệt cầm” của họ Cung, mặc dù sáng tác này vẫn nằm trong mạch chảy “...nỗ lực tái hiện không gian nghìn năm trước” vì ca từ của bài này, vốn là thơ của nhà thơ Xuân Diệu.
    (7) Tưởng cũng nên nói thêm, sau Cung Tiến, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương cũng đã cho thấy tài hoa của ông, khi phổ nhạc 2 bài thơ tự do cũng của Thanh Tâm Tuyền. Đó là các bài “Dạ tâm khúc” và “Bài ngợi ca tình yêu”. Riêng cố nhạc sĩ Phạm Duy, đã bước thêm một bước nữa, khi phổ nhạc bài thơ xuôi “Khi tôi về”, của nhà thơ Kim Tuấn.


  6. #12
    Moderator
    Hoanghac's Avatar
    Status : Hoanghac v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2011
    Posts: 771
    Thanks: 1
    Thanked 37 Times in 28 Posts

    Note Đường Hoa







    Đôi mắt người Sơn Tây

    Em ở thành Sơn chạy giặc về
    Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
    Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

    Vừng trán em vương trời quê hương
    Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
    Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
    Em có bao giờ em nhớ thương

    Từ độ thu về hoang bóng giặc
    Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
    Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
    Em có bao giờ lệ chứa chan

    Mẹ tôi em có gặp đâu không
    Những xác già nua ngập cánh đồng
    Tôi cũng có thằng em còn bé dại
    Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều lưu lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây

    Cho nhẹ lòng nhớ thương
    Em mơ cùng ta nhé
    Bóng ngày mai quê hương
    Đường hoa khô ráo lệ

    Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
    Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
    Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ Quốc
    Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

    Bao giờ tôi gặp em lần nữa
    Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
    Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
    Còn có bao giờ em nhớ ta?

    Quang Dũng
    (1921 – 1989)



Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Bí Quyết Sống Lâu
    By Thienbang in forum Thời Sự
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 02-02-2011, 11:16 AM
  2. Người tù lâu nhất :Đ/U Nguyễn hữu Cầu .
    By loibangTQLC in forum Sưu Tầm, Biên Khảo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-29-2010, 07:46 PM
  3. Chuyện cũ lâu rồi...
    By hung45qs in forum TL Hội ngộ LK Kỳ 3
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-09-2010, 06:53 AM
  4. Muốn Sống Lâu để Hưởng thụ
    By Thienbang in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-22-2009, 10:09 AM
  5. Nỗi buồn Tuổi Hạc .
    By loibangTQLC in forum Vườn Thơ
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-15-2009, 08:26 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •