Remember ?

Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
kết quả từ 13 tới 18 trên 21

Tựa Đề: Khi Đồng Minh THÁO CHẠY

  1. #13
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy


    Nguyễn Tiến Hưng-Khi đồng minh tháo chạy
    P3 - Chương 13

    "Sao chúng không chết phứt cho rồi!"


    Trong vòng hai tuần lễ kể từ ngày mất Ban Mê Thuộc hôm 11 tháng Ba, truyền hình Mỹ hằng ngày chiếu cảnh rút lui từ Tây nguyên về Phú Yên trên quốc lộ 7B, cảnh tắc nghẽn thê thảm ở đèo Cheo Reo, tới tình trạng hỗn loạn ở Đà Nẵng. Liên tiếp, hết cứ địa này tới cứ địa khác.
    Washington không có dấu hiệu gì tỏ ra lo ngại. Tổng thống Ford vẫn chỉ thị sắp xếp cho ông đi nghỉ lễ Phục Sinh ở Palm Spring (tiểu bang Nevada). Năm nay, vì chiến sự đang sôi bỏng nhiều nhân viên toà Bạch Ốc đã can ông đừng đi, nhưng ông không nghe. Trước khi đi, ông quyết định gửi tướng Frederick C. Weyand sang Sài gòn ngày 28 tháng Ba để thẩm định tình hình. Weyand là Tham mưu trưởng lục quân và từng là Tư lệnh Quân đội Hoa kỳ ở Việt nam trước đây.

    Vào thời điểm đó, chỉ một người dân bình thường xem tin tức trên đài cũng đủ biết là tình hình Việt nam đang đi vào giai đoạn quyết liệt. Thế mà Tổng thống Hoa kỳ lại viết trong Hồi ký của ông (năm 1979) rằng: "Ai cũng biết là vấn đề Việt nam nghiêm trọng, nhưng xem ra chẳng ai hiểu rõ nó nguy ngập đến chừng nào".
    Trên máy bay Air Force One đi Palm Springs, ông Ford từ trên ca-bin xuống gặp đoàn tuỳ tùng, trong đó có ông Rumsfeld, Đổng lý Văn phòng Tổng thống (bây giờ là Tổng trưởng quốc phòng), ông Lan Greenspan, Thống đốc Ngân hàng Liên bang, và ông Ron Nessen, Phụ tá Báo chí. Đang khi họ trò chuyện, có nhân viên phi hành đoàn tới đưa cho Nesse một phong bì màu vàng do chuyên viên truyền tin trên máy bay chuyển. Trong phong bì là một điện tín: "Đà Nẵng đã thất thủ". Nessen đưa cho ông Ford và mấy người kia đọc. Ford lắc đầu! Mọi người không ai nói gì, hoàn toàn im lặng(1).

    Tuần cuối tháng Ba, thành phố Đà Nẵng trở nên hỗn loạn. Từng làn sóng người tràn về từ Quảng Trị, Huế, Quảng Ngãi làm cho dân số từ 600 ngàn vọt lên một triệu rưởi, gần gập ba lần. Đường phố ứ đọng, tắc nghẽn, cướp giật, súng ống bắn bừa bãi.
    Lời nguyền rủa
    Đà Nẵng thất thủ vào đúng chủ nhật Lễ Phục Sinh, ngày 30 tháng Ba. Ở nhà thờ tin lành Lutheran quận Arlington (tiểu bang Virginia), Tổng trưởng quốc phòng James Schlesinger đã "rơi lệ". Hôm đó, phó Giám đốc CIA, tướng Vernon Walters có nói với ông rằng Đại sứ Việt nam ở Washington (ông Trần Kim Phượng) vừa tuyên bố: "Màn đêm dài đã phủ xuống đầu chúng tôi, và bình minh sẽ không còn hé rạng nữa?"

    Schlesinger ngậm ngùi. Ông thuật lại với chúng tôi khi phỏng vấn ông vào hè năm 1985: "Tôi nghĩ đến lời của cố Thủ tướng Anh, Winston Churchill, khi ông mô tả nước Pháp bại trận trong Đại chiến II. Cả hai đều cùng một thảm cảnh dẫu không lớn lao như nhau. Tôi không trách người Việt nam đã đặt hy vọng vào Hoa kỳ. Tôi chia xẻ nỗi đau thương với họ".
    Sau khi thị sát chiến trường và họp với phía Việt nam, tướng Weyand trở về báo cáo cho Tổng trưởng quốc phòng.
    Ngày 5-4-1975, đang khi bay về Washington, thì ông được lệnh đổi hướng bay thẳng về Palm Springs phúc trình cho Tổng thống Ford và Ngoại trưởng Kissinger. Nghe thuyết trình của Weyand xong, Kissinger đi họp báo, có Ron Nessen, Phụ tá báo chí Tổng thống cùng đi theo. Trên đường tới Trung tâm báo chí, Nessen kể lại lời Kissinger nguyền rủa:
    "Sao chúng không chết phứt cho rồi?" Ông ta rên lên trong xe, "Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài ". (Why don t these people die fast?" He moaned in the car. "The worst thing that could happen would be for them to linger on") (2).

    Câu nói buột miệng ra, bất chợt, trong những lúc vô ý lại thường phản ảnh sự thật hơn là những lời tuyên bố khôn ngoan về chính sách, những bài diễn văn hùng hồn, những câu trả lời đắn đo đối với báo chí hay lời văn chải chuốt trong hồi ký.
    Năm 1979, có lần tôi đang nói chuyện với một anh bạn Mỹ về chiến tranh Do Thái, Iran. Lúc bàn tới Việt nam, tự nhiên anh nói: "Vì sao ông Kissinger ông ấy tàn nhẫn quá nhỉ?" "Sao anh nói vậy?" tôi hỏi. "Ủa, anh chưa đọc sách của Ron Nessen à?" Tôi vội đi tìm cuốn hồi ký tựa đề "Đàng sau hậu trường thì thật là khác" (It sure looks different from the inside).
    Suy cho kỹ, ta thấy câu nói mà Nessen đã nghe được nó giải thích nhiều sự việc xảy ra cho miền Nam. Đặc biệt là nó giúp trả lời phần nào câu hỏi: Tại sao Miền Nam đã mất lẹ như vậy?

    Có ba điểm chiến lược trong tâm trí của Henry Kissinger:
    - Chắc chắn là Hoa kỳ phải dứt khoát rút hết, bỏ rơi Miền Nam;
    - Chỉ cần một khoảng thời gian coi cho được, từ lúc Mỹ rút đi tới lúc sụp đổ;
    - Khi sụp đổ thì nên tiến hành cho lẹ; vì nếu cứ sống vật vờ mãi là kẹt cho Mỹ.
    - Lập trường Kissinger từ 1967

    Sau khi mọi việc kết thúc, Kissinger quy trách việc mất miền Nam cho vụ Watergate.
    Lịch sử sẽ phán xét phân minh những chính sách và lịch trình sắp xếp của Kissinger. Tuy nhiên, ngay bây giờ ta cũng đã có thể khẳng định được rằng trước Watergate, trước cả khi ông Nixon lên làm Tổng thống, Kissinger cũng đã chẳng tin tưởng gì là miền Nam có thể cứu vãn được. Vậy chỉ cần rút làm sao mà không bị mất mặt với quốc tế là xong. Mang nửa triệu quân vào mà lại thua thì không ổn. Là người ưa viện dẫn lịch sử, có lần ông nói đến kinh nghiệm của Pháp khi bị sa lầy ở thuộc địa Algeria, sau chiến tranh Đông Dương:
    "Ông de Gaulle đã làm được cái gì cho nước Pháp ở Algeria? Ông ta đã muốn bỏ nước này một cách nào đó để cuộc triệt thoái được coi như là do một chính sách (chứ không phải là bắt buộc phải bỏ), giúp cho Pháp còn giữ được phần nào phẩm giá của mình… Đó là thành quả lớn lao của ông, chứ không phải kết quả thật sự của cuộc chiến như thế nào…"(3).
    1967

    Giải pháp "Mỹ đơn phương rút ra khỏi miền Nam" là tư tưởng Kissinger đã nuôi dưỡng từ lâu. Ngay từ 1967 khi mới bắt đầu tiếp cận vấn đề Việt nam với tư cách là một tư vấn không chính thức của Chính phủ Johnson, ông đã bí mật liên hệ với Hà Nội qua trung gian của hai người Pháp là ông Herbert Marcovich và Raymond Aubrac. Hai người là chỗ quen biết với Hồ Chí Minh từ 1946 lúc ông Hồ đi họp Hội nghị Fontainebleau (4). Lập trường của Kissinger là chiến tranh Việt nam chỉ có thể giải quyết bằng giải pháp "một thời gian coi cho được" (a decent interval).

    Tác giả David Landau, người nghiên cứu chiến lược của Kissinger đã viết lại trong cuốn "Kissinger: Sử dụng quyền lực (Kissinger: The Use of power), như sau:
    "Kissinger cho rằng giải pháp duy nhất của Hoa kỳ năm 1967 là dùng chính sách "một khoảng thời gian coi cho được". Nói cho đơn giản hơn, chính sách đó nghĩa là sự sụp đổ của Chính phủ miền Nam – điều ông cho là rất có thể xảy ra nếu không phải là bắ buộc sẽ xảy ra - phải được trì hoãn trong một thời gian kể từ lúc Hoa kỳ triệt thoái để Washington khỏi bị chỉ trích là đã không bảo vệ Đồng minh của mình.
    Như vậy, điều quan trọng chính yếu của cuộc chiến vấn đề phe nào sẽ cai trị miền Nam - thực ra chỉ là một điểm không đáng để ý. Điều quan trọng không phải là có nên hay không nên triệt thoái mà là triệt thoái như thế nào và bao giờ" (5).
    1968
    Năm 1968, khi chiến tranh đang leo thang mạnh, Tổng thống Johnson chán nản, quyết định không ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Lúc đó, Kissinger đang làm tư vấn cho ông Rockefeller, Thống đốc tiểu bang New York, để ông này ra tranh cử với ông Nixon trong chức ứng cử viên Tổng thống của đảng Cộng hoà. Kissinger cho rằng nếu có một giải pháp mới cho chiến tranh Việt nam thì chắc Rockefeller sẽ được đảng lựa chọn. Vài tuần trước khi tháp tùng ông thầy đi họp đảng tại Miami vào tháng 8, ông đã soạn ra một đề nghị về Việt nam đăng tải trên cả một trang quảng cáo của tờ New York Times. Giải pháp đó gồm bốn điểm:
    Mỹ đơn phương rút 75.000 quân;
    Thiết lập một Lực lượng quốc tế giám sát hoà bình;
    Sau đó, Mỹ rút hết; rồi để cho hai phía Việt nam hoà hợp hoà giải với nhau.
    75.000 quân chỉ là bước đầu để tạo ra một hướng đi.

    1969-1970
    Ngày 20 tháng Giêng, 1969, ông Nixon nhậm chức Tổng thống và dọn vào Toà Bạch Ốc. Kissinger chính thức trở nên Cố vấn an ninh.
    Ngày bốn tháng Tám, 1969 ông bắt đầu đàm phán sau hậu trường với Bắc Việt. Phiên họp đầu tiên giữa Kissinger, Xuân Thuỷ và Mai Văn Bộ được tổ chức ở căn nhà Jean Sainteny tại phố sang trọng Rue de Rivoli. Mật đàm kéo dài được trên ba năm.
    Đang khi thương thuyết với Bắc Việt về việc rút quân, Mỹ tiếp tục rút, ngày càng mau. Từ mức cao nhất là 537.000 người lính vào đúng lúc bắt đầu mật đàm, Mỹ đã rút 312.000 chỉ còn 225.000 vào tháng Bảy, 1971.

    Như vậy là đã rút được trên nửa số quân rồi, nhưng cũng mất hai năm. Làm sao rút hết số còn lại cho nhanh hơn?
    Kissinger liền cầu cứu sự giúp đỡ của Trung Cộng.
    Hai mươi bảy năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, tờ báo New York Times ngày 28 tháng Hai, 2002 vừa tiết lộ chuyện động trời: ngay từ cuối hè 1971, Kissinger đã nói cho Trung Cộng biết lập trường thực sự của Hoa kỳ về vấn đề rút quân.

    Trong một bài tựa đề "Tài liệu (vừa có) đã đối chọi với Kissinger về chuyến viếng thăm trung quốc của ông năm 1971", Ký giả Elaine Sciolino cho biết nội dung tài liệu mới được giải mật do National Security Archive đưa ra gồm có biên bản cuộc họp ngày chín tháng Bảy, 1971 giữa Kissinger và Chu Ân Lai.
    Trong buổi họp, chính Kissinger đã cho Chu biết chi tiết về sự thay đổi cơ bản của chính sách Hoa kỳ đối với Đài Loan, để đổi lấy sự ủng hộ của Trung Quốc hầu giúp chấm dứt chiến tranh Việt nam. Ông ta nói với ông Chu: "Dù có thương thuyết hay không thương thuyết với Bắc Việt đi nữa, rồi chúng tôi cũng sẽ rút quân - một cách đơn phương". (6)
    "Rút càng nhanh bị lật đổ càng lẹ"

    Khi Stanley Karnow, nhà sử học về Việt nam, được hỏi về tin này, ông nói: "Không còn nghi ngờ gì nữa là từ lúc tuyển chọn ứng cử viên vòng sơ bộ (của đảng Cộng hoà) hồi tháng Ba, 1968, lập trường (của Nixon) vẫn luôn luôn là "hoà bình và danh dự". Vậy mà khi đến Trung Quốc, Kissinger lại nói "Kế hoạch của chúng tôi là sẽ rút đơn phương".
    "Đơn phương" là điểm chính, và đây là điều mới lạ đối với tôi" - ông Karnow kết luận (7).
    Rõ hơn nữa, cũng theo tài liệu mới này, Kissinger còn nói với Chu Ân Lai:
    "Lập trường của chúng tôi là sẽ không duy trì bất cứ Chính phủ nào ở miền Nam cả, và nếu như Chính phủ miền Nam không được nhiều người ưa chuộng như Ngài nghĩ, thì khi quân đội chúng tôi rút đi càng nhanh, nó sẽ bị lật đổ càng lẹ. Và nếu nó bị lật đổ sau khi chúng tôi rút, chúng tôi cũng sẽ không can thiệp nữa" (8).
    1972
    Một năm sau đó, đến tháng Bảy, 1972, Mỹ đã rút hầu như toàn bộ quân đội ra khỏi Miền Nam. Số quân còn lại chỉ còn 45.000. Sắp xong rồi, chỉ cần làm sao cho bước cuối cùng được trôi chảy. Đó là làm thế nào để có một Hiệp định đình chiến là tốt đẹp nhất.
    Tại những cuộc mật đàm, Kissinger đã nhượng bộ hoàn toàn về vấn đề này: Mỹ sẽ rút đi hết và quân dội Bắc Việt ở lại Miền Nam (9).
    Ngày 10 tháng 10, ông sang Sài gòn làm áp lực bắt phải chấp nhận giải pháp đình chiến "da beo": ai ở đâu cứ ở đó.
    Ngày 26 tháng 10, Kissinger gây chấn động khi tuyên bố "Hoà bình đang trong tầm tay" (Peace is at hand).
    1973
    Kissinger đã thành công trong việc giải quyết vấn đề Việt nam nội trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Nixon như ông muốn. Chỉ chậm có hai ngày: ngày 20 tháng Giêng năm 1973, Nixon chấp chánh nhiệm kỳ hai, và ngày 23 tháng Giêng, Kissinger đã cùng Lê Đức Thọ ký tắt vào bản Hiệp định. Hiệp định Paris ký xong, ông Nixon lên truyền hình tuyên bố: với tất cả đồng bào đang nghe tôi… lòng kiên trì của đồng bào ủng hộ lập trường đòi cho bằng được một hoà bình với danh dự đã giúp thực hiện được hoà bình với danh dự"(10). Báo cáo về thành tựu ngoại giao cho Quốc hội năm ấy, Nixon viết: "Thật là cần thiết để ta đi tới giải pháp mang lại một khuôn khổ cho miền Nam VN được thực thi quyền tự quyết của mình"(11).
    Còn Kissinger: "Chúng tôi đã quyết tâm làm hết sức có thể để giúp cho Sài gòn được phát triển trong an ninh và thịnh vượng, và để họ có thể trường tồn trong bất cứ cuộc đấu tranh chính trị nào"(12).

    "Một khoảng thời gian coi cho được"
    Như trường hợp Charles de Gaulle giải quyết vấn đề Algeria, thì Kissinger cho rằng ông đã giữ được thể diện cho Mỹ: "có đủ cả rồi, cả Hoà bình, cả Danh dự". Thế là xong, không cần để ý tới kết quả ra sao. Sau ngày miền Nam sụp đổ, nhiều người đã đặt câu hỏi về vấn đề "Một khoảng thời gian coi cho coi được" trong lịch trình của Kissinger. Trong tập hồi ký dài viết lại 1979 với tựa đề "Những năm tại Toà Bạch Ốc" (The White House years), ông đã dành tới hơn một phần ba (492 trang) để giải thích những khó khăn và thành quả của ông về Việt nam. Ông viết rằng Việt nam đã cho ông một cơ hội để đền ơn cho quốc gia đã cứu gia đình ông (khỏi bàn tay của Hitler): "Tôi nhìn thấy vai trò của tôi là giúp cho quốc gia đã nhận tôi làm con nuôi". Về giải pháp hoà bình cho Việt nam do ông mang lại, ông quả quyết: "Chúng tôi đã đi tìm không phải chỉ một khoảng thời gian trước khi sụp đổ, nhưng một nền hoà bình lâu dài và danh dự"(13).

    Đó là luận điệu cho công luận và cho lịch sử. Bên trong hậu trường thì lại khác.
    Ta hãy nghe ông John Ehrlichman, Đổng lý Văn phòng của Tổng thống Nixon thuật lại trong cuốn hồi ký "Nhân chứng của quyền lực: Những năm thời Nixon" (Witness to Power, The Nixon Years)
    Ngày 24 tháng Giêng, 1973, chỉ một ngày sau khi Kissinger ký vào bản Hiệp định và về tới Washington, Ehrlichman gặp ông ở trước phòng Lincoln trong Bạch Cung, có hỏi: "Theo ông, miền Nam VN có thể còn tồn tại được bao lâu nữa?"

    "Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn thì được một năm rưỡi," Kissinger đáp lại (14).
    Ehrlichman viết thêm: "Sau này, khi xem đoạn phim trực thăng đến bốc những người Mỹ hoảng hốt trên nóc toà đại sứ Mỹ ở Sài gòn lúc quân đội Bắc Việt đang tiến gần, tôi nhớ lại ước tính có tính cách cay độc (cynical) nhưng chính xác của ông Kissinger". Ehrlichman bình luận: "Trong hồi ký của mình, Kissinger đã viết là sau khi ký tắt vào bản Hiệp định Paris "Tôi thấy bình an trong lòng, chẳng vui cũng chẳng buồn"; nhưng tôi (Ehrlichman) tự hỏi làm sao ông ta có thể nghĩ như vậy được?"
    Bàn về chiến lược của Kissinger, hai anh em phóng viên nổi tiếng Marvin Kalb và Bernard Kalb là những người đã theo sát ông bao nhiêu năm, đã tiết lộ:
    "Ông ta tin rằng điều tối đa có thể cứu vãn được cho việc dính líu của Mỹ vào Việt nam là "một khoảng thời gian coi cho được", từ lúc Mỹ rút quân đi và khả năng Cộng sản thôn tính miền Nam. Dù trong khả năng tốt nhất cho Việt nam, không gì có thể bảo đảm được quá ba tới bốn năm" (15).

    Người tiên tri
    "Một khoảng thời gian coi cho được" đã bắt đầu từ khi Mỹ rút hết quân ra khỏi Miền Nam.
    Quân đội Mỹ gọi ngày 29 tháng Ba, 1973 là ngày "X cộng 60" (X plus 60), nghĩa là ngày thứ 60 kể từ khi đình chiến. Đó là hạn chót để Nixon rút hết quân ra khỏi Việt nam. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, một toán lính Mỹ khoảng 50 người đứng nghiêm chỉnh làm lễ chào cờ. Từ ống loa, một sĩ quan đọc nhật lệnh: "Bộ Tư lệnh Yểm Trợ Quân Sự Việt nam (MACV) từ giờ phút này đã hết hoạt động, và sứ mệnh cũng như chức năng đã được chỉ định lại". Một vệ binh tiến lên, mang lá cờ MACV với huy hiệu một thanh gươm quay ngược lên. Nhìn Đại sứ Bunker và tướng Weyand, tư lệnh cuối cùng của Hoa kỳ, anh ta cẩn thận cuốn lá cờ lại, để gọn vào một cái bao trông như bao đựng đồ đánh gôn, đưa lên máy bay. Phi cơ cất cánh hay vút ra Biển Đông. Toán lính đó là những người cuối cùng của đoàn quân trên một nửa triệu tham chiến ở Việt nam. Số còn lại, 159 người chỉ là để gác toà đại sứ và 50 nhân viên văn phòng Tuỳ viên quốc phòng DAO (16). Cùng lúc đó, 67 tù binh Mỹ, nhóm cuối cùng của tổng số 595 tud binh được chở từ sân bay Nội Bài, Hà Nội tới phi trường quân sự Mỹ Clark Field ở Phillippines.
    "Một khoảng thời gian coi được" đã bắt đầu từ hôm đó, ngày 19 tháng Ba, 1973.
    Và đúng hai năm sau, cũng ngày 29 tháng Ba, 1975, quân đội Bắc Việt tiến vào Đà Nẵng. Trên thực tế một khoảng thời gian coi được đã kết thúc. Như vậy ngoài tài ba lỗi lạc, Kissinger còn là một nhà tiên tri!

    Đổ hết cho Watergate
    "Nếu không có sự sụp đổ của quyền hành pháp vì vụ Watergate, tôi tin rằng chúng ta có thể thành công". Kissinger bào chữa (17).
    Trong cuốn "Kết thúc chiến tranh Việt nam" (Ending the Vietnam war). Kissinger tiếp tục cho rằng Watergate đã làm ông Nixon suy yếu, không còn sức mạnh để ép buộc việc thực thi Hiệp định Paris nữa. Hơn nữa vì quyền lực hành pháp không còn mạnh nên Quốc hội đã cắt giảm viện trợ cho Miền Nam (18).
    Hai lý do Watergate và Quốc hội cắt viện trợ chắc chắn đã là hai yếu tố quyết định. Tuy nhiên, rõ ràng là lập trường bỏ rơi Miền Nam thì ông đã có trước cả Watergate. Rồi sau Watergate, lại sao khi thấy Quốc hội bắt đầu cắt viện trợ, cả ông lẫn Nixon đã không biện hộ cho Miền Nam trên căn bản những cam kết? Tới lúc gần sụp đổ, Kissinger lại còn chối đi là chẳng có cam kết bí mật nào cả.

    Ngoài ra Kissinger còn đem một lý do khác để giải thích việc Quốc hội Mỹ cắt quân viện. Đó là vì họ đã bị "ảo tưởng về hoà bình" (illusion of peace). Có hoà bình và danh dự rồi đâu có cần thêm quân viện. Nhưng ai là người mang lại ảo tưởng của "hoà bình và danh dự?"
    Chắc chắn rằng dù Kissinger có giải thích kiểu nào đi nữa, các sử gia sẽ còn nghiên cứu về lâu về dài tiến trình của giải pháp Việt nam. Cho đến nay, có những vấn đề về đệ nhất, đệ nhị thế chiến cũng còn đang được mổ xẻ. Chiến tranh Việt nam là một mảng đen tối trong lịch sử nước Mỹ.
    Lúc quyền lực mạnh nhất

    Hiệp định Paris được ký kết vào lúc ông Nixon mạnh nhất, lúc nhiều quyền lực nhất. Nhân dân Hoa kỳ hoan nghênh thành quả lớn lao của ông trong việc phát triển quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng và Nga Xô. Chúng tôi còn nhớ buổi sáng ngày 18 tháng Hai, 1972 đã hồi hộp đón chờ lúc Nixon tới đất Trung Cộng. Cảnh phi cơ Air Force One đáp xuống phi trường Bắc Kinh vào một ngày mùa đông giá lạnh sao thấy bí ẩn đến thế". Hầu như huyền thoại.
    Rồi tới những cuộc họp thượng đỉnh ở Moscow làm hoà dịu quan hệ (détente) giữa Mỹ và Nga, đi tới Hiệp ước tái giảm vũ khí chiến lược SALT. Cuối cùng là giải quyết chiến tranh Việt nam. Tranh cử cho nhiệm kỳ hai, Nixon đại thắng (xem (Chương l). Từ Âu sang Á, tiếng tăm ông lừng lẫy. Khi đăng quang nhiệm kỳ hai vào ngày 20 tháng Giêng, 1973, Tổng thống Nixon đã lên tới tuyệt đỉnh danh vọng.

    Hiệp định Paris được ký vào chính lúc này (hai ngày sau khi Nixon đăng quang), lức là vào lúc quyền hành của vị Tổng thống ở đỉnh cao nhất. Trong thực tế, Hoa kỳ là một trong hai tác giả chính của Hiệp định Hoa kỳ ký kết, sau đó lại tổ chức một hội nghị quốc tế để xác định giá trị của nó. Trong điều kiện như vậy mà một Hiệp định cũng đã không duy trì được thì khi Hoa kỳ ký kết những Hiệp định khác, sự bền vững của chúng sẽ ra sao? Thật lạ lùng: trong các văn thư (như trích dẫn ở trongChương 3 và 4) trước khi ký kết, cũng như những tuyên bố sau đó, Nixon-Kissinger đã giải thích nhiều lần rằng Hiệp định Paris sẽ giúp Miền Nam tồn tại như thế nào, thế mà ở hậu trường, như đã trích dẫn trên đây, khi vừa ký xong, Kissinger đã nói với Haldeman là "nếu may mắn thì Miền Nam sẽ tồn tại được một năm rưỡi". Như vậy, làm sao ông có thể đổ hết cho Watergate đã làm cho Nixon suy yếu nên không giúp cho Miền Nam được nữa? Nixon chỉ bất đầu có dấu hiệu dính dấp tới vụ Watergate vào tháng 4-1973. Sáu tháng sau đó, vào tháng 10-1973, ông còn đủ mạnh để lập một cầu không vận tiếp cứu cho Do Thái, quy mô hơn cả cầu không vận tiếp cứu Berlin.

    Thời gian sau, tuy Nixon có lo lắng bối rối thật, nhưng vẫn còn nhiều quyền lực. Ông chỉ yếu đi từ 1974 và tới Hè năm đó thì mới thực sự tê liệt.
    Rồi tới Tổng thống Ford, đâu có dính líu gì đến Watergate mà cũng để cho Quốc hội cắt gần hết viện trợ cho Việt nam cộng hoà?
    Sụp đổ vì yếu kém

    Ngoài Watergate, Kissinger còn sử dụng một lý luận rất tinh vi khác. Tuy rằng không bao giờ đặt vấn đề một cách rõ ràng, có hệ thống, nhưng bằng cách đánh giá thấp con người Việt nam, ông gián tiếp biện minh cho những hành động của mình.

    Hơn một tháng sau ngày miền Nam sụp đổ, trong một buổi nói chuyện tại Hiệp Hội Nhật Bản ở New York (16-8-1975), Kissinger bình luận về cuộc chiến Việt nam: thất bại là vì miền Nam thiếu ý chí chiến đấu: "Những cố gắng từ bên ngoài vào cũng chỉ có thể là bổ túc chứ không thể tạo ra được những cố gắng và ý chí chiến đấu cho người trong nước" (19).
    Thật đúng là chỉ có thể bổ túc thôi. Nhưng có chiến tranh nào mà Mỹ đã nhúng tay vào với tầm mức như ở Việt nam rồi đến khi kết thúc lại đơn phương rút đi? Và rút nhanh như vậy?
    Rồi cắt hết viện trợ? Ở Âu châu, sau khi thắng trận trong Thế Chiến Hai, Mỹ đóng quân lại, và còn kéo dài tới ngày nay. Chương trình Marshall được thiết lập để tái thiết Âu châu.

    Lại còn chiến tranh Triều Tiên. Nó đã kết thúc từ 1952 mà cho tới bây giờ, vẫn còn 50 ngàn lính đóng ở vĩ tuyến 38.
    Coi thường người Việt nam là tâm trạng thường xuyên của Kissinger. Trong một bữa ăn trưa với các phóng viên các báo TIME Và FORTUNE ngày 29 tháng Chín, 1972, ông nhận xét:
    "Vấn đề của chúng ta với người Việt nam là bên nào cũng cho là mình đang thắng; và khoan hồng chẳng hề là đức tính của họ…"
    "Người Việt nam là một giống người khó tính, bướng bỉnh, và đa nghi" (20).

    Nói về sự bướng bỉnh, có lần ông Thiệu kể lại một chuyện buồn cười. Sau khi làm đủ trò để giúp Nixon thắng cử tháng 11 năm 1968, Kissinger đi họp với tân Tổng thống lần đầu tiên ở đảo Midway vào tháng Sáu, 1969. Lúc đầu, ông Thiệu được thông báo rằng vì là chủ nhà nên Nixon sẽ tới trước để tiễn ông tại phi trường. Nhưng khi ông tới nơi, máy bay Nixon còn cách xa Midway tới 15 phút. Lúc ông bước vào phòng họp thì thấy bốn cái ghế đã được xếp sẵn cho hai Tổng thống và hai phụ tá (Henry Kissinger và Nguyễn Phú Đức). Cái ghế thứ tư cao hơn và chỗ dựa lưng lớn hơn, dành cho Nixon. Ông Thiệu vừa buồn cười vừa tức. Không nói gì, ông lẳng lặng đi sang phòng ăn bên cạnh, xách một cái ghế cùng chiều cao, bê xuống rồi ngồi đối diện với Nixon. Sự sắp xếp này giống như một cảnh trong phim của Chaplin, "Nhà đại độc tài" (The Great Dictator): Hitler ngồi trên một ghế cao nhìn xuống Mussolini ngồi ghế thấp hơn. Ông Thiệu nói: "Sau này tôi được một người bạn Mỹ kể lại là Kissinger đã chẳng bao giờ "tin rằng Thiệu là con người như vậy".
    Đọc kỹ tập hồi ký Kissinger viết năm 1979, ta thấy ý nghĩ của Kissinger về đặc tính người Việt không lấy gì làm khách quan. Ông đã bộc lộ ra ở nhiều chỗ. Nơi đây chúng tôi chỉ ghi lại một số trang để độc giả nghiên cứu thêm.

    Viết về những tranh cãi giữa mình với ông Thiệu lúc hoà đàm Paris, Kissinger đã phê phán (để tiện tra cứu, tôi ghi ngay số trang của cuốn hồi ký "The White House years" sau mỗi câu Kissinger viết):
    "Phương pháp của ông ta thật là đúng Việt nam một cách đáng ghét."(trang 1034);
    "Sự đa nghi không lành mạnh của ông ta là một đặc tính quá tinh tuý của người Việt nam". (trang 1034);
    "Và ông Thiệu đã làm cho chúng tôi bối rối hơn nữa bằng cách áp dụng thủ đoạn lảng tránh mà người Việt nam thường dành cho người ngoài". (1322);
    "Láo xược là áo giáp của kẻ yếu; nó là một phương cách đem lại can đảm khi phải đối diện với sự hoảng sợ của chính mình. Nhưng bây giờ tôi mới thấy rõ điều này hơn trước kia. Hồi tháng Chín 1972, phía Việt nam - Đồng minh của chúng ta - đã làm tôi uất ức bằng lối người Việt nam thường dùng để hành hạ đối thủ to con hơn họ". (1327);
    "Ông Thiệu chẳng bao giờ bàn cãi về quan niệm. Thay vào đó, ông ta đấu tranh theo đúng cung cách Việt nam: gián tiếp, quanh co, bằng phương pháp làm cho đối phương mệt nhoài hơn là làm sáng tỏ công việc, luôn luôn châm chích mà không đi thẳng vào vấn đề - cái phương pháp mà qua bao nhiêu thế kỷ, người Việt nam đã dùng để bẻ gẫy tinh thần ngoại bang trước khi đánh bại đối phương ở một trong những trận tấn công anh hùng của họ". (1368);
    "Thế nhưng, chẳng người Việt nam nào, cả Bắc lẫn Nam, tin rằng tự tín, tin tưởng, hay tình bạn là điều quyết định. Họ đã sống thoát được ngoại bang qua bao nhiêu thế kỷ không phải là do tin tường mà là do vận dụng mánh khoé". (1368).

    Sau khi cuốn hồi ký của Kissinger được xuất bản (1979), một tạp chí Đức, tờ Der Spiegel có phỏng vấn ông Thiệu (ngày 1-12-1979).
    Der Spiegel: "Ông Kissinger sau cùng đã cảm thấy rằng sự giận dữ một cách bất lực (impotent rage) là cái mà người Việt nam luôn luôn dùng để hành hạ đối phương mạnh hơn mình", ông trả lời thế nào về những nhận xét trong Hồi ký Kissinger?"
    Ông Thiệu: "Tôi không muốn trả lời ông ta. Tôi cũng không muốn bình luận về ông. Ông ta có thể bình luận về tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi chỉ muốn bàn đến cái gì thực sự đã xảy ra giữa Hoa kỳ và Miền Nam Việt nam".

    Der Spiegel: "Ông có cho ông ta lý do gì để bình luận với một giọng xúc phạm như vậy không?"
    Ông Thiệu: "Có thể là ông ta đã ngạc nhiên phải đối địch với những người thông minh và có khả năng. Có thể là từ mặc cảm tự tôn".
    Chỉ trích cá nhân ông Thiệu (và con người Việt nam) như vậy mà năm năm sau sụp đổ, Kissinger còn có thể viết cho rằng: "Cuốn sách của tôi đã không ngớt ca ngợi sự can đảm, tư tưởng đúng đắn, và công nhận rằng, trong thực chất, Ngài đã đúng" (xem cuối chương 13 và Phụ lục D).
    Kết thúc phải cho mau lẹ

    Chỉ có chiến lược "kết thúc cho mau lẹ" mới giải thích được câu hỏi then chốt: tại sao tất cả những cam kết mật giữa Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu đã được giấu thật kỹ. Kể cả những viên chức có trách nhiệm trực tiếp về Việt nam như các Tổng trưởng ngoại giao, quốc phòng thời Nixon và thời Ford cũng không ai biết gì. Đến chính Tổng thống Ford cũng bị bưng bít. Phải kín như vậy thì tới lúc kết thúc mới làm thật nhanh được, hết bàn cãi.
    Vì nếu không kết thúc cho mau lẹ là rất kẹt! Đơn giản mà nói: ví như ta đi xem kịch, nếu lới lúc hạ màn mà giây kéo màn lại bị rối thì tình trạng sẽ như thế nào? Tất nhiên người kéo màn sẽ cứ phải loay hoay, kịch sĩ diễn xong rồi mà chưa lui vào được, sân khấu lộn xộn, màn mới làm sao mà trình diễn? Chủ rạp sẽ mất uy tín.

    Năm 1975 là năm Kissinger có lịch trình mới, ưu tiên mới. Lại là năm Tổng thống Ford sửa soạn ra ứng cử Tổng thống năm 1976. Lịch mới của ông gồm nhiều công tác khẩn trương:
    - Với Nga Xô: thực hiện cho được chính sách détente (hoà dịu);
    - Với Trung Quốc: mở rộng quan hệ ngoại giao để có thế mạnh với Nga Xô;
    - Với Âu châu: quay lại với quan niệm của Jean Monnet tạo dựng lên một "tam giác vàng" gồm Tây Âu, Mỹ và Canada;
    - Với Nhật: tái lập quan hệ tốt đẹp đã mất từ khi Mỹ bắt tay Trung Cộng năm 1971 và việc phá giá đồng đô la năm 1972; và
    - Rất khẩn trương là việc dàn xếp với hai phe Do Thái- A Rập để vãn hồi hoà bình.
    Với vậy như ông đã nguyền rủa, "điều tệ hại nhất có thể xảy ra là bọn chúng cứ sống dai dẳng hoài". Và có kéo dài thêm lại càng kẹt, mà cũng chẳng được gì. Kissinger đã phán xét trong hồi ký: "Biết ơn những điều người khác làm cho mình thật không phải là đặc tính của người Việt nam". (trang 1338).
    Ngày 17-4-1975, ông gửi mật điện hối thúc Đại sứ Martin: "Hãy ra đi cho mau, và ngay lập tức"

    Chú thích:
    (1) Ron Nessen, It sure looks different from the inside, trang 96.
    (2) Ron Nessen, It sure looks different from the inside,trang 98.
    (3) Marvi(10) Diễn văn của Tổng thống Nixon sau Hiệp định Paris; xem thêm: Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger, trang 476.
    (11) Richard Nixon, U.S. Foreign Policy of the 1970 s, A Report to the Congres.s, May 3, 1973, trang 60.
    (12) Henry Kissinger, White House Years, trang 1470.
    (13) Henry Kissinger, White House Years, trang 1470.
    (14) John Erlichman, Witness to Power, trang 288.
    (15) Marvin Kalb and Bemard Kalb, Kissinger, trang 478.
    (16) Arnold R. Isaac, Without Honor, trang 123-124.
    (17) Henry Kissinger, A World Restored, trang 1470.
    (18) Henry Kissinger, Ending the Vietnam war, trang 457.
    (19) Guenter Lewy, America in Vietnam, trang 441.
    (20) Theo sổ tay của Jerrold Schecter, 4-10-1972, Tham dự bữa ăn trưa còn có cả ký giả Hedley Donovan, Henry Grunwald. Hugh Sidey, Louis Bank và Richard Campbell của tạp chí Fortune.
    hết: P3 - Chương 13, xem tiếp: Phần 4 - Chương 14
    n Kalb and Bernard Kalb, Kissinger, trang 400
    (4) Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger, trang 87.
    (5) Landau, David, Kissinger: The Uses of power, trang 436.
    (6) The New York Times, 28-2-2002.
    (7) The New York Times, 28-2-2002.
    (8) The New York Times, 28-2-2002.
    (9) Xem thêm Chương 3, mục "Rút quân từ song phương tơi đơn phương".

  2. #14
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy

    Nguyễn Tiến Hưng -Khi đồng minh tháo chạy
    Phần 4 - Chương 14

    RƯỚC CỦA NỢ HAY ĐƯỢC CỦA CÓ?


    Ai không muốn di tản người Việt?

    Đám đông cứ ùn ùn leo tường vào toà đại sứ Mỹ, cảnh rối loạn đã bắt đầu trông thấy. Lại có tin đồn toà đại sứ sắp bị pháo kích đêm nay. Bao vấn đề đang diễn ra ngay trước mắt.
    Lúc đó là một giờ sáu phút ngày 29-4- 1975. Trí óc Đại sứ Martin rối bời. Giải pháp chính trị cho Miền Nam mà ông đã theo đuổi cả tháng nay vừa tan biến như mây khói khi phi trường Tán Sơn Nhất bị pháo kích. Cho tới lúc này, ông vẫn còn ôm một hy vọng thầm kín, đó là nếu tướng Dương Văn Minh thành công thì Toà đại sứ Mỹ vẫn có thể còn được duy trì ở Sài gòn, tuy chỉ là một toà đại sứ nho nhỏ. Đang khi hình ảnh phi trường Tân Sơn Nhất lởn vởn trong đầu ông, một người tuỳ viên vội bước tới: "Thưa ông Đại sứ, có điện từ văn phòng Tổng thống Ford". Ông Martin vội vàng mở ra đọc. Sau bao nhiêu yêu cầu, gần như năn nỉ, ông đang chờ đợi Tổng thống cho thêm trực thăng để di tản số người Việt đã vào đầy toà đại sứ (1).

    Ai ngờ lại là chuyện trời ơi đất hỡi: Đổng lý Văn phòng Donald Rumsfeld (đương kim Tổng trưởng quốc phòng của Tổng thống George W. Bush) không nói gì tới việc gửi thêm trực thăng lại còn yêu cầu ông Đại sứ cho người tới cao ốc hãng IBM để bốc đi trên một trăm nhân viên và gia đình họ, rồi dùng trực thăng sẵn có để cho di tản (2).
    Martin bực tức chửi thề và lờ đi, không trả lời. Sắp tới giờ thứ hai mươi tư rồi. Theo kế hoạch của Washington thì đáng lẽ chính ông Đại sứ cũng đã phải ra đi từ mấy hôm trước. Nhưng ông Martin đã cố tình níu lại, ông câu giờ để giúp di tản thêm người Việt nam càng nhiều càng hay, và phần nào ông vẫn còn hy vọng vào một giải pháp chính trị để Mỹ ra đi đỡ mất mặt.

    Những kế hoạch chung quanh việc di tản người Mỹ và Việt nam đợt đầu đã được giữ hết sức bí mật, rồi lời nửa kín nửa hở, tới lúc hở ra là giây phút tranh giành, trèo tường toà đại sứ, lộn xộn, gần như hỗn loạn.
    Để tìm hiểu thêm về cuộc di tản, chúng tôi đã tới tận nhà Đại sứ Martin để thăm viếng và yêu cầu ông kể lại cho rành mạch những gì đã xảy ra bên trong Toà đại sứ vào những ngày giờ cuối.

    Ông Đại sứ cuối cùng
    Chúng tôi đến thăm ông vào một buổi chiều mùa hè năm 1985, mười năm sau lúc gặp ông lần cuối ở Sài gòn. Về hưu, ông cư ngụ và chăm sóc mấy cháu gái tại Winston-Salem, một thành phố nhỏ thuộc North Carolina. Ông sinh ngày 22 tháng Chín năm 1912 trong một gia đình sùng đạo ở Mars Hill một làng nhỏ cũng ở tiểu bang này. Cha ông là một mục sư đạo Baptist. Đạo này rất thịnh ở miền Nam và là một đạo giáo rất nghiêm ngặt, đặc biệt là về rượu chè. Có nhiều quận gọi là "dry counties" (những quận khô) vì Chủ nhật không được bán bia, rượu. Cha ông cấm ông uống rượu nhưng ông lại rất thích uống "Martini". Tuy nhiên khi nào uống thì ông cũng thú thật vì cha ông đã dặn: "Nếu ta luôn nói sự thật thì không bao giờ cần nhớ xem mình đã nói gì" (3). Ông còn giữ nhiều mật điện quan trọng về liên lạc Việt-Mỹ vào giai đoạn kết thúc. "Tôi muốn nói ra đợt cuối cùng về những gì đã xảy ra" ông tâm sự.

    North Carolina là tiểu bang quen thuộc vì có đại học North Carolina Wesleyan College là nơi chúng tôi bắt đầu giảng dạy môn kinh tế học từ tháng Tám năm 1963. Carolina cũng là gạch nối giữa tôi với ông Martin khi ông làm đại sứ tại Việt nam. Mỗi khi gặp ông, tôi thường bắt đầu bằng những câu chuyện vui về dân tình, phong tục và đời sống North Carolina, về những trận đấu bóng giữa Đại học Virginia, trường tôi học, về Wake Forrest College, trường của ông. Bây giờ ông đã về hưu, không còn trách nhiệm nữa, không còn lo nghĩ nữa nên thấy ông thoải mái và tươi tắn hơn lúc còn ở Sài gòn, dù đã già đi nhiều.
    Vào làm việc cho Chính phủ từ năm 1933, ông thăng tiến nhanh và giữ nhiều chức vụ quan trọng. Trước khi nhậm chức tại Việt nam, ông làm Đại sứ ở Thái Lan từ năm 1963. Lúc đó ông đã chống việc Mỹ mang quân vào Việt nam. Tới năm 1966 đang khi nhiều thanh niên Mỹ biểu tình chống đối, người con nuôi mà gia đình ông vô cùng yêu quý, cậu Glenn sang Việt nam và tử trận khi lái trực thăng trên vùng cao nguyên. Có lẽ vì vậy mà ông đã đổi hẳn thái độ.
    Mười năm trước khi trở lại viếng thăm ông, sáng ngày 15-4-1975 tôi gọi điện tạm biệt ông để lên máy bay đi công tác tại Washington. Trước khi chấm dứt cuộc điện đàm, tôi hỏi:
    "Ông Đại sứ nghĩ thế nào về tình hình khẩn trương lúc này?"
    "Tôi nghĩ chắc sẽ có một thời gian nữa hầu có thể đi tới giải pháp chính trị".
    "Ông nghĩ tôi nên làm việc tại Washington độ bao lâu?"
    "Khoảng một tuần…"
    "Tạm biệt ông Đại sứ".
    "Chúc ông đi bình an, khi trở về nhớ gọi tôi ngay, tôi rất muốn gặp lại ông sớm".
    Ông tiếp tôi và anh bạn Jerold Schecter (đồng tác giả cuốn "Hồ sơ mật Dinh Độc Lập") một cách cởi mở, khác hẳn phong thái ngày trước. Lúc ở Việt nam, trông ông lúc nào cũng dè dặt, kín đáo, thầm lặng. Người ta cho là ông còn lạnh lùng hơn Đại sứ Ellsworth Bunker, người được gọi là ông "Đại sứ tủ lạnh". Tống thống Thiệu thì gọi ông bằng một bí danh: "Ông Cà phê". Ngày trước ở Sài gòn có cà phê Pháp "Martin" nổi tiếng.
    "Đại sứ còn nhớ dặn tôi gọi lại khi về tới Sài gòn không?"

    Ông nhìn tôi với đôi mắt đăm chiêu, xa vắng. Nhắc lại câu này dường như đã khơi lại cho ông những ngày giờ kinh hoàng của 10 năm về trước. Với những cảm xúc ấy chắc cũng chưa bớt đi mức độ nóng bỏng đối với ông. "Tôi đâu có ngờ tới một kết thúc thảm thương như vậy".
    Chúng tôi bắt đầu câu chuyện "phỏng vấn" thân mật. Ông tâm sự nhiều về những khía cạnh chính trị, ngoại giao, và về cuộc chiến Việt nam. Khi nói tới cuộc di tản, ông thở dài rồi bỗng nhiên im lặng: "Thôi thì ít nhất tôi cũng đã làm được một chút gì cho nhân dân anh". Ông muốn nói tới những cố gắng vượt mức vào ngày giờ chót để giúp một số người Việt di tản, nhiều hơn gần gấp ba số người Washington định cứu.

    Ông nói là trong cuộc đời, ông cũng từng có nhiều kinh nghiệm về di tản: "Ngay từ 1939 tôi đã nghiên cứu xem những lý do nào đưa tới tình trạng hỗn loạn của cuộc di tản những đoàn người từ Paris xuống Bordeaux. Rồi đầu thập niên 1950, vì có trách nhiệm bao trùm cả khu vực Âu châu nên tôi phải tham dự EUCOM và SHAPE trong kế hoạch phòng hờ để di tản người Mỹ khỏi Âu châu. Vì vậy tôi đã hiểu là ở trong hoàn cảnh còn yên ổn thì một chiến dịch di tản cũng đã phức tạp đến chừng nào, mà sự yên ổn đó đâu có còn kéo dài được bao lâu nữa ở Sài gòn lúc ấy, trừ khi có những biện pháp đề phòng lối đa nhằm tránh sự hỗn loạn".
    Tranh đấu cho Miền Nam

    Một trong những biện pháp đề phòng là lấy cảm tình của người Việt nam. Về việc này ông đã bắt đầu ngay từ khi mới đến Sài gòn.
    Ông được bổ nhiệm làm Đại sứ vào tháng Bảy, 1973, sau Hiệp định Paris. Lúc đầu ông Thiệu rất dè dặt. Với bản tính đa nghi, nghe thấy nói ông Martin là người đã chống việc đem quân vào Việt nam, ông Thiệu phân vân không biết rồi ông này có phải là một Henry Cabot Lodge thứ hai hay không.
    Đại sứ Lodge là người đã đứng đằng sau cuộc đảo chính ông Diệm năm 1963. Khi Martin nhậm chức vào hè 1973, tình hình bang giao Việt-Mỹ lại rất căng thẳng. Ông Kissinger lại vừa mới kiêm chức Ngoại trưởng. Tuy nhiên, sự nghi ngờ của ông Thiệu đối với vị tân đại sứ đã sớm tiêu tan. Chỉ sau ba bốn lần tiếp xúc, ông Thiệu nhận ra rằng Martin là một người ủng hộ Việt nam. Lý do chính là ông muốn bảo vệ uy tín của Hoa kỳ: không nhẽ mang trên nửa triệu quân vào chiến đấu mà lại để Miền Nam sụp đổ quá nhanh. Mặt khác ông cũng không muốn trở thành người phải "đổ vỏ" ốc. Những viên chức khác làm hỏng đại sự, đến lượt ông lại phải thực hiện công tác dẹp tiệm sao?

    Hút thuốc lá liên tục và làm việc rất khuya tại căn phòng nhỏ ở tư thất, ông là người sống nhiều về nội tâm, lúc nào cũng chững chạc, dè dặt. Ông rất ít giao thiệp với các Đại sứ khác, trừ Đại sứ Pháp Merillon. Hai toà đại sứ lại ở sát bên nhau. Lúc nào ông Martin cũng trầm lặng, lủi thủi một mình. Nhân viên toà đại sứ khó tới gần ông và đã chỉ trích ông rất nhiều.

    Vừa nhậm chức thì Đại sứ Martin đã có tin Quốc hội bàn cãi việc cắt viện trợ cho Miền Nam. Thế là một mặt ông tìm mọi cách trấn an ông Thiệu, một mặt ông không ngửng biện hộ cho Việt nam cộng hoà tại Washington. Vào thời điểm đó, ông là một trong vài viên chức Hoa kỳ duy nhất còn nghĩ tới Miền Nam. Là bạn của Tổng thống Nixon, ông đã được Nixon phục chức cho ông trong ngành ngoại giao. Năm 1967 lúc còn làm Đại sứ ở Thái Lan, ông bị Ngoại trưởng Dan Rusk cho về ngồi chơi xơi nước vì quá bướng bỉnh, chống việc Mỹ mang không quân vào Thái Lan. Một năm sau thắng cử, Nixon đề bạt ông làm Đại sứ tại Ý. Ông tin là quan hệ cá nhân của ông với Tống thống giúp ông yểm trợ Việt nam trong thời hậu chiến.

    Đầu hè 1974, khi thấy viễn tượng Nixon phải từ chức đã rõ, ông hết sức lo âu. Từ tháng Sáu 1974, thỉnh thoảng ông mời tôi dùng cơm trưa tại tư thất để bàn về những vấn đề xoay quanh viện trợ Mỹ. "Hay là để tôi đề nghị Tổng thống Thiệu gửi ông sang làm Đại sứ ở Washington để cùng làm việc với tôi", có lần ông gợi ý. "Chắc không đâu, vì tôi đã ở Mỹ quá lâu rồi", tôi chối ngay. Biết là chúng tôi đã có gặp gỡ thượng nghị sĩ Kennedy lúc còn ở đại học, lại là cựu sinh viên của Schlesinger, Tổng trưởng quốc phòng và có quen biết gia đình Mục sư Elson, Tuyên uý Thượng Viện Mỹ, nên ông Martin đề nghị là dù không trở về Washington tôi cũng nên bắt tay với ông tranh đấu cho viện trợ.
    Tháng Bảy, 1974 ông về Washington cố thuyết phục Quốc hội Hoa kỳ. Trong một buổi điều trần, ông đã trình bày một hình ảnh lạc quan về Việt nam, và bị nhiều người chỉ trích (4).

    Sau khi Miền Nam sụp đổ, năm 1976 ông lại ra điều trần tại Quốc hội, vẫn không thay đổi lập trường. Lúc chúng tôi gặp lại ông mười năm sau, ông còn nhắc lại: "Nếu không bị cắt hết viện trợ thì Miền Nam vẫn còn khả năng tồn tại, dù là một Miền Nam thu hẹp" (4).
    Vào lúc Miền Nam sụp đổ, trước hết ông đã ra chỉ thị cho George Jacobson, Phụ tá đặc biệt về điều hành ở Toà đại sứ là phải dùng toàn bộ phương tiện tài chính, máy bay, tàu, sà lan của toà đại sứ ở khắp mọi địa điểm để giúp cả quân lẫn dân di tản từ Đà Nẵng và Nha Trang (5). Sau đó đã tránh sự hỗn loạn có thể xảy ra ở Sài gòn (xem Chương sau). Đồng thời đã giúp tị nạn một số người Việt đợt đầu tiên, gần gấp ba lần Washington dự tính.

    Tại những ngày cuối cùng, khi được lệnh phải di tản người Mỹ, ông chần chừ kéo dài thời gian di tản người Mỹ vì biết rõ là một khi người Mỹ cuối cùng đã ra khỏi miền Nam thì chẳng còn người Việt nào được bốc đi nữa.
    "Đại sứ giữ tài liệu mật bị điều tra", đó là đầu đề của tờ Washington Post ngày 13 tháng Chín, 1978, gần ba năm rưỡi sau khi Miền Nam sụp đổ. Bài này nói về việc Đại sứ Martin giữ lại toàn bộ tài liệu mật đã được lưu ở toà đại sứ tại Sài gòn. Căn nhà ông ở tương đối cũng nhỏ, ít chỗ lớn để xếp đồ đạc, nên khi về hưu, ông đã để một số hộp hồ sơ trong thùng xe hơi đậu trước nhà. Đến khi xe bị mất trộm, ông báo cho cảnh sát North Carolina. Lúc cảnh sát tìm được và mở thùng xe ra thì lại thay toàn là tài liệu đóng dấu "Tối mật" (Top Secret). FBI phóng xe đến điều tra ông.
    Khi đăng tin này, toà báo có phỏng vấn ông Frank Snepp tác giả cuốn "Decent Interval" về ông cựu Đại sứ. Ông Snepp trả lời: "Ông ta nói với tôi là ông muốn giữ lại những tài liệu này để có thể nói lời cuối cùng về Kissinger".

    Thế nhưng, chưa kịp nói thì ông Martin đã từ trần.
    Thật là một may mắn mà tôi được gặp lại và nghe những lời thổ lộ từ tâm huyết của vị Đại sứ Mỹ cuối cùng ở Miền Nam và được ông cung cấp một số tài liệu lịch sử.
    Ai là người được chọn?

    Khi Pháp rút lui hồi 1954, dù Mỹ không dính dáng trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương thì cũng đã giúp di tản được một triệu người từ Bắc vào Nam một cách trật tự. Thời gian di tản còn kéo dài được 300 ngày. Lúc Mỹ rút năm 1975 sau 10 năm trực tiếp tham chiến với hơn nửa triệu binh sĩ, chẳng nhẽ lại cuốn gói ra đi một mình?
    Sau đây là chi tiết về diễn tiến cuộc di tản mà Đại sứ Martin kể lại, cũng giống như ông đã điều trần tại Quốc hội vào tháng 1,1976 (xem Phụ Lục F) (6):
    Thoạt đầu, căn bản là Hoa kỳ chỉ muốn di tản người Mỹ ra khỏi Miền Nam cho nhanh, hầu như chẳng ai ở Washington muốn dính tới người Việt, ngoại trừ thân nhân của công dân Mỹ, một số chọn lọc những người đã cộng tác với Mỹ, và một số rất nhỏ viên chức cao cấp Việt nam;
    Đầu năm 1975 (đặc biệt là từ tháng Ba), Washington đã có lệnh cho di tản nhân viên làm việc tại văn phòng Tuỳ viên quốc phòng DAO (Defense Artache Office). Văn phòng này được thành lập sau Hiệp định Paris để thế MACV (Military Assistance Command, Vietnam), nhưng chỉ đặc trách về tiếp vận;

    Tuần đầu tháng Tư, Đại sứ Martin nhận được lệnh "giảm bớt" cho nhanh số người Mỹ còn ở lại;
    Trước ngày 14-4, tức là chỉ còn hai tuần trước khi sụp đổ, toà đại sứ chỉ có quyền cấp giấy phép "tạm dung" (parole authority) cho 2.000 trẻ mồ côi được di chuyển bằng máy bay vào Mỹ;

    Ngày 14-4, toà đại sứ chỉ nhận được quyền cho tạm dung thân nhân người Mỹ nhưng phải theo những điều kiện ràng buộc hết sức chặt chẽ: đó là chỉ những thân nhân đang có mặt tại Việt nam của những người Mỹ cũng đang có mặt tại Việt nam;
    Ngày 19-4, toà đại sứ nhận được quyền cho tạm dung, quyền này được nới rộng chút đỉnh, nhưng cũng chỉ bao gồm những thân nhân của công dân Mỹ và những người Việt nam thường trú (có thẻ xanh) dù không có mặt tại Việt nam nhưng với điều kiện là họ đã được thân nhân xin visa cho và đã được sở Di trú chấp thuận;
    Sau cùng, mãi tới ngày 25-4, tức là năm ngày trước khi Sài gon thất thủ, toà đại sứ mới nhận được quyền cho tạm dung thêm các bà con, thân nhân của công dân Mỹ (khoảng 80.000 người) và 50.000 người Việt nam có "mức rủi ro cao độ", tổng cộng là 130.000 người (7).
    Chỉ có 50.000 người thôi

    Như vậy hết sức rõ ràng là chỉ còn bốn ngày trước lúc triệt thoái cuối cùng, ngoài người Mỹ, thường trú Mỹ và thân nhân của họ, Hoa kỳ chỉ cho phép di tản 50.000 người Việt nam, mà số người này phải thuộc về diện những người có rủi ro cao độ.
    Nhưng ai là người có mức rủi ro cao độ? Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đã vạch rõ:
    "Những nhân viên làm việc cho Mỹ và gia đình của họ;
    "Thân nhân của công dân Mỹ;
    "Viên chức cao cấp trong chính quyền Việt nam cộng hoà;
    và một số những người khác (được coi là) có "nguy hiểm cao độ" vì sẽ là đối tượng trả thù của Cộng sản" (8).

    Và như vậy, hầu hết các bạn đang đọc quyền sách này đã không phải là người lọt vào con số được chọn.
    Đó là về thủ tục nhập cảnh, thủ tục tạm dung, vốn đã quá khó khăn. Nhưng còn một khía cạnh khác: thái độ của các nghị sĩ, dân biểu, quan chức lại Washington đối với việc di tản. Nếu Quốc hội chống thì làm sao có ngân sách di tản?
    Ngày 14-4, Uỷ ban Ngoại giao Thượng Viện đến họp tại toà Bạch Ốc. Diễn tiến buổi họp cho ta thấy thái độ của Quốc hội Mỹ đối với việc di tản người Việt tỵ nạn. Khi Kissinger trình bày là trong số trên một triệu người đã có những liên hệ với Mỹ, có 174.000 người là đặc biệt bị nguy hiểm với Cộng sản nên Mỹ phải cứu nếu có thể được. Các nghị sĩ đều thoái thác. Phụ tá Nessen kể lại buổi họp về di tản đó như sau (9):
    Nghị sĩ Frank Church: "Cho di tản 174.000 người Việt nam sẽ có thể phải cần đến một số (quân đội) Mỹ rất lớn trong một cuộc chiến rất dài";
    Nghị sĩ Clifford Case nhấn mạnh rằng ý kiến chung của Uỷ ban là số người Mỹ ở Sài gòn phải được tập trung lại để đến lúc kết thúc có thể di tản chỉ bằng một chuyến bay thôi;

    Nghị sĩ Charles Percy: "Chúng tôi không muốn người Mỹ phải làm con tin" (để di tản người Việt);
    Kissinger bình luận: "Cá nhân tôi cũng không tin rằng ta sẽ có thể di tản một số nhất định nào đâu, như là 174.000 chẳng hạn. Nhưng ta có bổn phận là nếu mang được ai ra thì càng nhiều càng tốt";

    Tại đây, Tổng thống Ford cảnh cáo các nghị sĩ: "Nếu quý vị tuyên bố "không di tản người Việt nam", quý vị sẽ có khó khăn lớn trong việc di tản 6.000 người Mỹ" (vì sẽ gặp sự chống cự của miền Nam)";
    Nghị sĩ Jacob Javits tuyên bố: "Tôi không muốn bỏ phiếu cấp thêm tiền cho một Chính phủ do Thiệu lãnh đạo, nhưng tôi sẽ trả bất cứ món tiền chuộc nào để mang người chúng ta ra";

    Nghị sĩ Joseph Biden còn nói toạc móng heo: "Tôi không muốn trả bất cứ món nào để đưa người Việt nam đi, chỉ trừ khi ta không thể mang được người Mỹ nào ra mà không phải mua 174.000 người Việt nam. Trong trường hợp đó, tôi sẵn sàng mua 174.000 người Việt nam".
    Sau cuộc họp, Tổng thống Ford còn dặn các nghị sĩ chớ để cho báo chí biết là tất cả phiên họp chỉ để bàn bạc về chuyện di tản.
    Quý vị hãy nói: "Chúng tôi chỉ bàn chuyện làm thế nào để ổn định tình hình".
    Ai không muốn di tản người Việt?

    Ngày 17-4, Đại sứ Martin nhận được một mật điện, trong đó có đoạn như sau (10):
    Người nhận: Martin
    Độ mật: Tối mật
    "Chúng tôi vừa họp xong một cuộc họp liên bộ để duyệt xét tình hình miền Nam Việt nam. Ông Đại sứ phải biết rằng trong phiên họp của Uỷ ban Đặc nhiệm Washington hôm nay, hầu như không có ai ủng hộ việc di tản người Việt và việc dùng quân lực Mỹ yểm trợ bất cứ việc di tản (người Việt) nào.
    Quan điểm chung của các giới quân sự, Bộ Quốc phòng, và CIA là phải rút ra cho lẹ và ngay lập tức.
    (We have just completed an interagency review on the State of play in South Vietnam. You should know that the WSAG (Washington Section Action Group) meeting today, there was almost no support for the evacuation of Vietnamese, and for the use of American force to help protect any evacuation. The sentimen of our military, DOD (Department of defense) and CIA colleagues was to get out fast and now"

    Với lệnh khẩn cấp đó, Kissinger hối thúc Martin phải gấp rút chạy cho nhanh. Ông Martin đã báo động Kissinger là nếu chỉ cho di tản người Mỹ thôi thì rất nguy hiểm. Kissinger không thèm để ý, và trả lời:
    "Mặc dù những lo ngại như Đại sứ đã thông báo cho tôi và tôi cũng đồng ý như vậy, nhưng điều hết sức cần thiết là yêu cầu Đại sứ xúc tiến cho nhanh việc di tản những công dân Mỹ ra khỏi Việt nam.
    Chúng ta phải làm sao để vào thứ Ba, 22-4, tất cả số công dân Mỹ dù chính thức hay không cũng chỉ còn 2.000 trở lại mà thôi".
    Như vậy có nghĩa là trong năm ngày, ông Martin phải di tản khoảng 4.000 người Mỹ.
    Ông ta đang cuống lên thì ngay hôm sau, Kissinger lại tống thêm một lệnh mới. Chính Kissinger đã viết lại trong cuốn "Ending the Vietnam war" là ngày 18-4, theo sự chấp thuận của Tổng thống, ông Martin nhận chỉ thị là phải giảm số người Mỹ xuống còn chỉ còn 1.250, cũng vào ngày 22-4. Đây là số người được tính toán là trực thăng sẽ có thể bốc đi trong chỉ một ngày. "Số người Mỹ này, và tuỳ khả năng có thể, những nhân viên người Việt làm cho Mỹ, sẽ đượcdi tản từ bãi đậu ở Toà đại sứ khi Tân Sơn Nhất bị đe doạ. Và khoảng thời gian còn lại (cho tới 22-4), sẽ cố gắng tối đa để di tản số người Việt bị nguy hiểm vì đã làm cho nước Mỹ (Those who had exposed themselves on America s behalf) (11).

    Washington chỉ hối thúc cho di tản căn bản là người Mỹ và một số nhỏ người Việt làm cho Mỹ. Vậy làm thế nào để cứu được thêm một số người Việt?
    Câu thêm giờ

    Có hàng triệu người cộng tác với Mỹ trong 20 năm qua, bây giờ lại chỉ cho di tản 50.000 người thì làm sao coi được. Ông Martin nhất định không chịu.
    Trước hết là ông đã "câu giờ": cố di tản người Mỹ thật nhanh để có thì giờ di tản thêm số người Việt. Tới Washington, khi ông Ford ra Quốc hội ngày 10-4 xin thêm tiếp viện bổ túc cho Miền Nam thì cuộc bàn cãi về Việt nam xoay chiều: thay vì viện trợ, chủ đề lại là chỉ là di tản. Như vậy, một mặt Washington muốn đưa người Mỹ ra cho lẹ, một mặt ông Martin lại muốn kéo họ ở lại. Theo chính Kissinger kể, cũng trong cuốn "Ending the Vietnam war", thì Đại sứ Martin đã chần chừ không chịu di tản cho nhanh vì: "Nhiệt tình gắn bó với những người mà ông sắp bị bắt buộc phải bỏ lại, ông Martin đã coi như bổn phận mình là phải dàn ra từng chặng, cuộc rút lui của Mỹ trong một thời gian dài nhất để giữ lại sự có mặt của Mỹ (tại Việt nam) ở mức đủ để bào chữa cho việc cứu vớt người Việt nam".
    "Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Saìgòn còn đáng lo ngại hơn những kế hoạch tấn công của Hà nội, ông phấn đấu để cho cuộc di tản chậm nhiều hơn là chính Tổng thống Ford, Brent Scowcroft, hay là tôi – bọn diều hâu trong chính phú - đã cho là thích ứng" (12)

    Nới rộng thẩm quyền
    Ngoài việc chần chừ, Martin còn dùng mánh khoé riêng của mình để đi vòng. Ngày 25-4, khi nhận được phép cho di tản có 50.000 người, ông nới rộng quyền của mình bằng cách chú thích con số "50.000" một cách phóng khoáng hơn. Điều trần trước Quốc hội (1976), ông nói:
    Ngày 25-4, chỉ còn bốn ngày trước lúc di tản cuối cùng bắt đầu ngày 29-4. Lúc đó chúng tôi mới nhận được phép cho mang đi tất cả tổng số là 50.000 người Việt nam - một con số quá ư là ít ỏi. Bởi vậy tôi đã giải thích con số này là muốn nói tới chủ gia đình chứ không phải là tổng số người. Bởi vậy, dùng "phương pháp giải thích rộng rãi theo lối John Marshall", chúng tôi đã nới thẩm quyền để giải quyết vấn đề".
    (On April 25, only four day before our evacuation began on April 29. Then we received authority to sen out a grand total of 50,000 Vietnamese – a number which was clearly insufficient. So I interpreted the number to include only heads of families and no the families too. So, song the John Marshal broad construction approach, we stretched the authority to cover the problem") (12).

    "Hành quân gió nhanh"
    Vào lúc bốn giờ năm phút sáng Thứ Ba, ngày 29-4 (4:05 chiều 28/4 giờ Washington), những hoả tiễn đầu tiên của Bắc Việt rơi trúng phi trường Tân Sơn Nhất.
    Đại sứ Martin lên chiếc xe an ninh của ông và cho lái ra sân bay để quan sát tại chỗ lúc chín giờ sáng. Một phi cơ C-130 bị phá huỷ, hai lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ gác cổng bị chết. Các chuyến bay di tản phải ngừng. Tuy nhiên, thấy phi cơ dù bị hư hại mà còn dùng được, ông Martin lại điện về xin Tổng thống cho tiếp tục các chuyến bay loại lớn. Ông Martin kể lại là lúc bảy giờ 30 chiều, ông họp với Hội đồng an ninh Quốc Gia (NSC) và quyết định chờ một giờ xem pháo binh có ngừng không, nếu ngừng thì ông sẽ cho máy bay vào tiếp tục. "Pháo kích có ngừng thật", ông viết, "nhưng chúng tôi lại có một vấn đề mới phải giải quyết. Dân chúng ào ra tận phi đạo và máy bay không đáp được. Tình hình rõ ràng không thể kiểm soát được nữa". Trong lúc đó, các bồn xăng bị trúng hoả tiễn bắt lửa nổ và phát cháy hừng hực từ góc trụ sở Hãng hàng không dân sự Air America. Tướng Smith (chỉ huy cơ quan DAO ở Sài gòn) điện thoại tới Honolulu cầu cứu đô đốc Gayler, Tổng Tư lệnh quân đội Hoa kỳ ở Thái Bình Dương. Ông Gayler gọi Đại sứ Martin thông báo không thể tiếp tục di tản bằng C-130 được nữa. Miễn cưỡng, ông Martin đồng ý "Lựa chọn IV", trong kế hoạch di tản, với mật danh "Hành quân gió nhanh" (Operation frequent wind), Lựa chọn này là chỉ dùng trực thăng bốc đi từ toà đại sứ Mỹ. Martin gọi Kissinger yêu cầu ông đề nghị Tổng thống chấp thuận.

    Lúc 10 giờ 51 sáng cùng ngày (10 giờ 51 đêm 28/4, giờ Washington), Ford hạ lệnh bắt đầu cuộc "Hành quân gió nhanh", mật hiệu của "Lựa chọn IV" (13). Đài phát thanh quân đội Mỹ ở đường Hồng Thập Tự cho phát sóng mật hiệu cho người Mỹ và một số người Việt liên hệ biết là giờ phút di tản cuối cùng đã tới.
    Chiếc trực thăng thứ nhất tới toà đại sứ đúng hai giờ chiều ngày 29-4. Có hai chỗ đáp: loại trực thăng lớn - CH-53 đáp xuống bãi trong khu sân đậu xe; loại nhỏ, CH-46 đáp trên nóc toà đại sứ.
    Trong 16 giờ cuối cùng, Đại sứ Martin đã hét sức khẩn khoản nài xin thêm 30 chiếc trực thăng loại lớn CH-53 (chở được 50 người, nhưng ngồi chen chúc cũng được 70). Nhưng ông chỉ thấy lẻ tẻ vài chiếc loại nhỏ CH-46 (chở được 20 người) bay vào! Thấy số máy bay vào quá chậm và ít ỏi, ông Martin còn dùng lý do có số trẻ con lai còn bị kẹt lại để biện hộ. Ông cầu cứu Brent Scowcroft, Chánh Văn phòng Tổng thống: "Có lẽ ông nên cố vấn cho tôi làm sao tôi thuyết phục được một số người Mỹ để họ bỏ rơi lại những đứa con lai của họ, hoặc Tổng thống sẽ được đánh giá như thế nào nếu ông ta chỉ thị như vậy… "Tôi cần đến chết được (I damn well need) hối thúc 30 chiếc CH-53 hay một khả năng tương đương…"

    Thúc rồi ông còn viện cớ rằng trong đám người kẹt lại, có cả một linh mục Mỹ, bởi vậy nếu không gửi thêm trực thăng vào mà đưa ông ta đi thì Tổng thống phải chịu trách nhiệm với lãnh đạo Công Giáo Hoa kỳ: "Giữa đám người Mỹ hiện còn lại, có cả linh mục Mcveigh, giám đốc cứu trợ Công Giáo; ngài không chịu đi nếu nhân viên của ngài không được đi.
    Làm sao Tổng thống có thể giải thích cho Giám Mục Swanstrom… hay là Hồng Y Cooke được, nếu tôi bỏ ông ta ở lại, và cứ như vậy, Đại sứ Martin gửi hết điện này tới điện khác cách nhau vài chục phút. Nhưng ông Kissinger cũng như tư lệnh Thái Bình Dương đã đi tới kết luận là ông Martin đang đánh phé, giữ người Mỹ lại để di tản một giếng không đáy người Việt"(14).

    Tại Washington, theo chính Kissinger thuật lại, ông và Schlesinger đã ước tính là còn 760 người đang ở trong khuôn viên toà đại sứ, và quyết định gửi thêm 19 trực thăng, chỉ ngần ấy thôi (15). Ông Martin sẽ phải đi chuyến thứ 19 được kết thúc khoảng 3 giờ 30 sáng.
    Lúc 3 giờ 15 sáng (30 tháng 4), một anh phi công chiếc CH-46 đáp xuống nóc toà đại sứ chuyển một trang giấy viết tay cho ông Martin do Đô đốc Gayler gửi, ông nói là được lệnh chỉ gửi lại thêm 19 trực thăng, và không gửi thêm nữa, Đại sứ Martin sẽ phải đi ra chuyến cuối cùng. Sau này ông Gayler tiết lộ: Ông đã có thẩm quyền để áp giải, nếu ông Đại sứ cưỡng lại lệnh Tổng thống. Khi Phó Đại sứ Lehman phát hiện ra những chiếc trực thăng sẽ vào lại là loại nhỏ, một nhân viên toà đại sứ, đại tá Madison, vô cùng sửng sốt vì ông đã hứa đi hứa lại với khoảng 420 người Việt còn kẹt lại ở Toà đại sứ là họ sẽ được mang đi hết. Bây giờ không có CH-53 đáp dưới bãi đậu ở sân nữa, chỉ có loại nhỏ đáp trên nóc toà nhà (và chỉ có người Mỹ được di tản thôi!). Vậy ông Madison biết ăn nói làm sao với những người đã tin cậy vào những lời hứa của ông? Madison vô cùng bất mãn! (16).

    Vài giờ sau, toán lính Thuỷ quân lục chiến gác toà đại sứ lần vào cao ốc, khoá chặt cửa sau lại, để số người muốn tị nạn không vào được nữa. Chiếc trực thăng cuối cùng, yểm trợ bằng sáu chiếc Cobra gắn đại liên, chở toán này cất cánh
    Trước tám giờ sáng ngày 30-4. Họ ném những hộp hơi cay xuống chung quanh cao ốc trên đầu số 420 người Việt đứng bàng hoàng ngơ ngác (17). Đám người này vẫn đứng chờ những chuyến trực thăng không bao giờ tới.
    Hy vọng rằng những thế hệ con cháu của đoàn người di tản là những người Mỹ mai đây sẽ nắm địa vị quyền hành, sẽ không bao giờ đối xử như vậy đối với những đoàn người di tản từ các quốc gia Đồng minh khác trong một tình huống nào đó, như từ Iraq, Atghanistan, Đài Loan, Đại Hàn, khi Đồng minh của họ cuốn gói ra đi.
    Chú thích:
    (1) David Butler, The Fall of Saigon, trang 440.
    (2) Frank Snepp, Decent Interval, trang 67.
    (3) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 543.
    (4) Tuần báo TIME, 4-21-1975, trang 19.
    (5) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 560, 576.
    (6) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 543-544; 562-563; 590-591;573, 617.
    (7) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 543-544; 562-563; 590-591;573, 617.
    (8) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony trang 617.
    (9) Ron Nessen, It sure looks different from the inside, trang 105-106.
    (10) Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold Schecter, The Place File, trang 328- 330.
    (11) Henry Kissinger, Ending the Vietnam war, trang 541.
    (12) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 544.
    (13) Gerald Ford, A time to heal, lrang 256.
    (14) David Butler. The Fall of Saigon, trang 438-439. 444.
    (15) Henry Kissinger, A World Restored, trang 551-552.
    (16) David Butler, The Fall of Saigon, trang 444-445.
    (17) David Butler, The Fall of Saigon, trang 452; về việc này, Kissinger đã chối đi, nói là ông không biết có số người còn kẹt lại trong toà đại sứ. Xem Henry Kissinger. sđd., trang 552…

    hết: Phần 4 - Chương 14, xem tiếp: P4 - Chương 15

  3. #15
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy

    Nguyễn Tiến Hưng-Khi đồng minh tháo chạy
    P4 - Chương 15
    Vào để giúp… Ra lại bắn nhau?


    Các em nữ sinh Việt nam mặc đồng phục màu trắng, đứng dàn chào trên bãi biển, chờ đón để cài hoa lan lên áo người chiến sĩ Đồng minh. Hôm đó là ngày 8 tháng 3, 1965. Hai sư đoàn TQLC Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Họ là nhóm đầu tiên mở đường cho một đoàn quân trên nửa triệu vào tham chiến tại Việt nam Họ đến để giúp nhân dân miền Nam chiến đấu với quân đội cộng sản Bắc Việt.

    Mười năm sau, cũng vào tháng 3, Mỹ lại có kế hoạch đưa TQLQLC vào. Nhưng lần này không phải vào Đà Nẵng mà là vào Sài gòn. Không phải vào để tham chiến mà là vào để đưa Mỹ rút đi. Kế hoạch rút lui của Mỹ đòi hỏi phải có tới ba chứ không phải hai sư đoàn, cùng với oanh tạc cơ bao phủ vòm trời để yểm trợ Tại sao lại như vậy? Vì vào thời điểm này, ngoài quân đội Bắc Việt, Mỹ còn lo ngại hơn nữa là phải chạm súng với chính quân đội VNCH! Ôi chao, sao lại có thể ê chề đến như vậy? Ăn ngủ với nhau đã vài chục năm, lúc ra đi lại bắn nhau hay sao?
    Ấy thế mà khả năng này lại có thật! Với thời gian, dần dần ta mới thấy rõ hơn những biến chuyển đàng sau hậu trường khi giờ hấp hối của VNCH đã gần kề. Đại sứ Martin kể lại với tôi:
    "Lúc đó đã có biết bao nhiêu những kế hoạch điên rồ (crazy plans) được mang ra. Tôi phải cố ngăn chặn lại. Suýt nữa thì hoàn toàn đổ vỡ, chẳng ai đi được mà còn có thể gây ra thảm hoạ lớn?"
    Sau khi nói chuyện với ông và nghiên cứu thêm tôi thấy các tình huống xoay quanh kế hoạch của Mỹ rút khỏi Việt nam nó ăn khớp với nhau. Nói chung, để giúp cho việc ra đi được yên ổn và không lổn hại nhiều tới uy tín của mình, Hoa kỳ đã có bốn dự định chính:
    - Thứ nhất, một kế hoạch quân sự: mang thuỷ quân lục chiến vào Sài gòn để phụ trách di tản 6,000 người Mỹ và một số rất ít người Việt nam liên hệ;
    - Thứ hai, tác động với phía Việt nam để tránh tình trạng hỗn loạn vào giờ phút chót.
    - Thứ ba, nhờ cậy Liên Xô dàn xếp với Hà Nội để không cản trở việc di tản; và
    - Thứ tư, sắp xếp một giải pháp chính trị để có một thời gian chuyển tiếp.
    Dù là cả bốn hành động đi chung với nhau, về tầm quan trọng và ưu tiên, có sự khác biệt giữa những quan chức Mỹ ở Washington và ở Sài gòn. Washington thì đặt nặng giải pháp quân sự và việc cầu cầu Liên Xô. Tại Sài gòn, Đại sứ Martin lại cực lực chống đối kế hoạch quân sự, chỉ tập trung vào việc tránh xáo trộn và sắp xếp giải pháp chính trị.
    Về mục tiêu của các giải pháp cũng có sự khác biệt: Washington theo đuổi một mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu tình thế, đó là rút ra cho mau lẹ, trong khi Đại sứ Martin lại muốn có một thời gian lâu hơn để việc rút lui không quá lộ liễu, đồng thời giúp di tản một số người Việt nam.
    Suýt có đụng độ lớn?
    Tình trạng hỗn loạn, tắc nghẽn ở Sài gòn làm kẹt việc di tản 6.000 người Mỹ là một tình huống đã làm cho Đại sứ Graham Martin lo nghĩ nhiều nhất. Ông kể lại là mình đã mất ngủ từ khi trông thấy cảnh rút lui thê thảm khỏi Cao Nguyên, rồi tới tình trạng rối loạn, kiêu binh ở Đà Nẵng, Nha Trang: dân chúng tràn ngập đường phố để tìm lối thoát, rồi tới tình trạng rối ren ở phi trường. Máy bay không đáp xuống được nữa khi các phi đạo bị tắc nghẽn. Ông giải thích về bài học quan trọng để rút ra: yếu tố đáng sợ nhất chính là sự hoảng hốt. Sự hoảng hốt có thể là kẻ giết người, là kẻ phá đổ, và là yếu tố làm tê liệt mọi việc mà ta cần phải tránh với bất cứ giá nào vào lúc đó" (1)
    Bỏ rơi là phản bội. Phản bội và hậu quả của nó là điều mà Đại sứ Martin đã vô cùng lo ngại trong những ngày cuối cùng.
    Nếu cảnh hoảng hốt lại tái diễn ra ở Sài gòn thì hơn 6,000 người Mỹ và số người Việt được chọn sẽ bị kẹt. Trong trường hợp dó, quân lực Mỹ sẽ phải vào can thiệp, dẫn tới khả năng đụng độ giữa hai quân đội MỸ-VNCH. Đó là một tình huống xấi nhất, mà lại vào giờ chót.
    Kế hoạch để di tản số người Mỹ và bà con hoặc đã có dính líu tới Mỹ, có mật hiệu là "Talon Vise". Lựa chọn thứ nhất của kế hoạch này là di tản bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất, yểm trợ bằng quân lực Mỹ.
    "Tôi cho rằng mang quân đội Mỹ vào là một sai lầm lớn, vì, thưa quý vị, nếu quý vị đứng vào hoàn cảnh của người Việt nam thì quý vị sẽ phản ứng như thế nào?" ông Martin trình bày với Quốc hội về sau này (2).
    Khi bị chất vấn là tại sao ông không yêu cầu Tổng thống cho di tản trước ngày 29 tháng 4 (ngày Tân sơn Nhất bị pháo kích), ông Martin trả lời:
    "Không, vì theo đánh giá kỹ nhất của tôi, nếu làm sớm hơn sẽ có nguy cơ là xảy ra một tình trạng hỗn loạn với kết quả là một số rất đông người Mỹ sẽ chết. Nó sẽ đưa tới một sự khủng khiếp nặng nề nhất, đó là nhu cầu phải đưa quá nhiều quân lực Mỹ vào, và chúng ta sẽ phải chiến đấu với quân đội Miền Nam để mở đường tháo lui" (3).
    Ngày nay ta mới hiểu hết được tâm tư của Đại sứ Martin. Rõ ràng là thoạt đầu Washington chỉ muốn di tản nhân viên toà đại sứ Mỹ, cơ quan Tuỳ viên quốc phòng DAO, công dân Mỹ và một số rất ít người Việt làm việc cho Mỹ mà thôi. Và phương thức di tản thì lại quá ư là nguy hiểm. Ta thử tưởng tượng: nếu Mỹ đem từ 3 tới 6 sư đoàn vào để chỉ di tản người Mỹ và bà con, trước hết là TQLC chiếm đóng phi trường Tân Sơn Nhất, rồi Toà đại sứ Mỹ; sau đó, trực thăng và từng đoàn xe Mỹ chở người tới phi trường. Và cũng như vậy, di tản từ các địa điểm khác như Biên Hoà, Cần Thơ. Khi thấy sự phản bội quá lộ liễu như thế, liệu các đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng VNCH có để yên hay không? Vào đầu tháng 4, sau những buổi họp tại Dinh Độc lập và Phủ Thủ tướng, tôi cũng đã bắt đầu nghe thấy hai chữ "Đ.m". Sau này, nhiều người cũng kể lại sự phẫn nộ lúc đó tại các đơn vị quân đội VNCH khắp nơi.
    Vào thời điểm đó, "kế hoạch điên rồ" mà ông Martin lo ngại đang được bàn định tại Ngũ Giác Đài. Kế hoạch này được tuần báo TIME tiết lộ như sau:
    "Sự nguy hiểm là Cộng sản sẽ pháo kích các phi trường. Cũng có một khả năng ác liệt khác là quân đội miền Nam Việt nam sẽ quay súng bắn vào phi trường Tân sơn Nhất, vào phía Tân cảng (cảng Newport), hay bắn vào chính cả cái bãi đáp trực thăng trên nóc toà đại sứ Mỹ nữa, nếu những người Mỹ rục rịch di tản…"(4).
    Hoa kỳ đã tập hợp lại một đoàn hạm đội ở vùng biển Nam Hải cho công tác này. Đoàn này gồm 4 hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway, và Enterprise. Một đơn vị 2.200 lính Thuỷ quân lục chiến (TQLC) đã được huy động tới trên bốn mẫu hạm này và những tàu hộ tống khác. "Nếu cần, quân đội Mỹ có thể được không vận vào Sài gòn, bắn phá mở đường tiến một địa điểm an toàn, rồi chở đoàn người di tản ra bằng trực thăng tới các tầu ngoài khơi"(5).
    Địa điểm an toàn đó là phi trường Tán Sơn Nhất. TQTC Mỹ sẽ chiếm và bao vây phi trường (xem hình). Để thi hành kế hoạch này, cũng theo tờ TIME: Theo ước lượng của các chuyên viên Ngũ Giác Đài, sẽ cần tới 3 sư đoàn - mỗi sư đoàn 18,000 người- và hơn nữa, nếu tình hình trở nên bết bát hơn là dự đoán. Ngoài những máy bay phản lực bảo vệ trên vòm trời, lại còn cần đến yểm trợ hoả lực từ ngoài khơi, và hàng tá, nếu không phải là hàng trăm chiếc trực thăng nữa"(6).
    Tờ NEWSWEEK còn tiết lộ là Ngũ Giác Đài rất lo ngại về tình huống có thể xảy ra như một ác mộng, đó là nhu cầu phải có một lực lượng làm hậu thuẫn cho kế hoạch Talon Vise, nhất là khi họ đã trông thấy cái cảnh kiêu binh của nhiều binh chủng ở Đà Nẵng (7):
    "Dù rằng đã có 20,000 quân ở Miền Tây Thái Bình Dương và vài tá chiến hạm - gồm 4 hàng không mẫu hạm cớ lớn và một mẫu hạm chở trực thăng ở ngay bên trong, hay sát gần hải phận Việt nam, lực lượng này gần như chẳng đủ để thi hành công tác đó. Sau kinh nghiệm Đà Nẵng và Nha Trang hai tuần trước đây… Ngũ Giác Đài đã trở nên thận trọng".
    Tờ báo này trích dẫn một viên chức cao cấp ở Ngũ Giác Đài đã tiết lộ:
    "Tôi đã được nghe một số tướng lãnh nói có thể cần tới 6 sư đoàn mới lập được một hành lang di tản". Viên chức cao cấp khác thêm: "Phải chiếm phi trường Tân Sơn Nhất để máy bay và trực thăng đáp, chỉ việc này không thôi cũng đã cần 3 sư đoàn. Rồi cần giữ an ninh ngoài cảng cho tầu cập bến nên lại cần thêm ba sư đoàn nữa".
    Ngày 28 tháng 4, tờ NEWSWEEK còn tiết lộ thêm là có thể cần tới 200,000 quân đội Mỹ, nhưng các nhà quân sự đã phải thừa nhận rằng khó có thể nào điều động được một số quân lớn như vậy trong một thời gian ngắn. Tờ này nói thêm: "Một viên chức Mỹ ở Sài gòn đã giải thích "Chúng tôi thật lòng cố gắng để di tản tất cả những người đã làm việc cho chúng tôi hay những người bị nguy hiểm. Thế nhưng, hãy nhìn vào thực tế: chúng tôi phải lo cho người chúng tôi trước, và trong lúc này thì chỉ việc đó cũng là một cơn ác mộng rồi".
    Đại sứ Mỹ cực lực phản đối
    Từ khi biết được kế hoạch này vào khoảng cuối tháng ba, đầu tháng tư, Đại sứ Martin đã chống lại. Rồi ngày 8-4, ông lại thấy trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội, Tổng thống Ford lại còn nói rõ ra rằng ông yêu cầu Quốc hội cho phép dùng quân lực Mỹ để thực hiện một mục tiêu giới hạn là bảo vệ mạng sống người Mỹ bằng cách đảm bảo cuộc di tản của họ, nếu trở nên cần thiết". Ông Ford còn xin Quốc hội sửa đổi luật lệ hiện hành (về quyền hạn chiến tranh của Tổng thống) để ông còn có thể dùng quân lực giúp di tản một số người Việt mà Mỹ có trách nhiệm đặc biệt đối với họ (những người làm cho Mỹ).
    Nghe Tổng thống nói tới "dùng quân lực" là ông Martin hết hồn. Ông cực lực phản đối. Không, ông không thể nào để xảy ra một tình huống có thể dẫn đến cái cảnh Mỹ-Việt chĩa súng bắn nhau, mà lại bắn nhau vào giờ phút chót! Cái cảnh nồi da xáo thịt ấy còn làm cho Mỹ bẽ mặt thêm biết bao nhiêu nữa. Trong mật điện rất dài gửi Kissinger đêm ngày 17 tháng 4, ông Martin đã thẳng thắn đề cập tới vấn đề và cố thuyết phục(8):
    "Lệnh di tán người Mỹ đột ngột có thể gây bạo động ở Sài gòn. Nếu không giữ bình tĩnh mà lại đưa thuỷ quân lục chiến vào đây thì có thể gây sự nổi giận không thể lường được… "
    Rồi ông nhấn mạnh thêm:
    "Tôi nhắc lại một lần nữa là sẽ có náo động lớn, nếu gửi quân đội Mỹ vào Sài gòn, ngoại trừ một số ít và không quí lộ liễu".
    "Tất cả phòng tin tức lặt vặt nhận được về phản ứng (của phía Miền Nam) đều xác định đây là điều ta không nên làm… "
    Chắc chắn ông Martin đã nhận được nhiều tin tức tình báo về khả năng này.
    NEWSWEEK (28 tháng 4) còn viết thẳng ra: "Thực vậy, kế hoạch phòng hờ để bảo vệ người Mỹ được soạn thảo ra dường như là để đối phó với những người lính Miền Nam đang liều mạng tìm lối thoát hoặc uất hận vì bị bỏ lại, còn nhiều hơn là đối phó với đoàn quân cộng sản đang tiến tới".
    Tờ này còn thuật lại câu chuyện là một buổi sáng nọ, khi quan sát nhóm người Mỹ và thân nhân Việt của họ kéo đến trước toà đại sứ, một viên chức cảnh sát Sài gòn bỗng nhiên chặn lại và quát lên: "Các anh không thể bỏ xứ này ra đi, tôi sẽ nhốt hết các anh lại". Lính gác vội vàng đưa đoàn người này lọt vào qua cổng toà đại sứ.
    Trường hợp khác, tại Cần Thơ, những chuyến trực thăng của hãng Air America đã phải bay ban đêm tới một khu chung cư của người Mỹ để bốc họ đi, vì viên sĩ quan chỉ huy phi trường có nói với ông Lãnh sự Hoa kỳ ở Cần Thơ rằng ông ta không thể bảo đảm được kỷ luật của quân lính dưới quyền mình nếu người Mỹ cố di tản bất cứ ai ra khỏi phi cảng"(9).
    Về điểm này, chính bản thân nhiều độc giả chắc cũng đã chứng kiến những bất mãn tương tự tại các đơn vị quân đội hay tại địa phương.
    Tại Nha Trang, NEWSWEEK thuật lại: "Khi Toà Lãnh sự Mỹ di tản, chỉ có đủ máy bay để chở người Mỹ, những lính gác Mỹ đã phải chĩa súng tự động vào số nhân viên để họ khỏi tràn ngập máy bay. Và một nhân viên CIA còn kể đến một chuyến phản bội nhẫn tâm hơn khi di tản Toà Lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng: tới lúc ra đi, người Mỹ nhận thức rằng họ không thể nào cho di tản số nhân viên Việt nam được, nên họ đã cho đậu ba chiếc xe vận tải trước cổng Toà Lãnh sự. Người Việt vội vàng trèo lên, thế là xe phóng đi liền. Khi đám đông đi rồi, người Mỹ mới chạy thoát ra. Rồi những chiếc xe vận tải thả ngay lại số người này xuống một bãi ở cách Toà Lãnh sự mấy dậm" (10).
    Theo những thông tin nhận được, ông Martin ra sức ngăn chặn việc mang quân vào. Trong cùng một mật điện (ngày 17 tháng 4), ông báo động về Washington.
    "Người Việt nam sẽ cho rằng Hoa kỳ mang TQLC vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận người Việt ở đây. Đó là một hành động phản bội trắng trợn của Hoa kỳ".
    "Họ sẽ tin rằng Mỹ chẳng còn cần để ý tới những gì sẽ xảy ra cho họ nữa. Và từ cái cảm nhận sâu đậm đó, nếu chỉ có một việc gì bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi tới đâu, cũng có thể gây ra tình trạng vô cùng hỗn độn. Cứ để như tình trạng hiện tại, chúng tôi sẽ gây được cảm tình với người Việt nam vì họ cho rằng người Mỹ còn ở lại đây cũng chịu chung số phận với họ…"
    "Hôm nay tôi đã cho di tản, một cách bất hợp pháp, bà vợ của một viên chức tình báo cao cấp. Ông ta sẽ không bao giờ ra đi, nhưng như vậy ta luôn luôn có thông tin đầy đủ, và chính ông ta cũng đã dùng ảnh hưởng lớn của mình can thiệp với tư lệnh một vài đơn vị quân đội trong số những đơn vị mạnh nhứt để giúp cho "những người bạn trung thực nhất" của Việt nam ra đi cho an toàn".
    Rồi như không còn chế ngự được mình nữa Đại sứ Martin đã đi tới chỗ gần như chửi thề ông Ngoại trưởng và Tổng thống:
    "Thế nhưng tất cả những điều này đều có thể thay đổi đột ngột nếu như có một tên điên rồ khốn kiếp nào đó (some god-damned fool) lại thuyết phục được một trong các quý ông ở địa vị lãnh đạo cao cấp, mang TQLC vào trước khi tôi yêu cầu".
    "Và tôi sẽ không ngần ngại chút nào để yêu cầu khi trật tự công cộng bắt đầu tan rã".
    Để cho tăng phần quan trọng, ông thêm: "Đây là công điện tôi tự đánh máy lấy, không có bản sao, ngoại trừ hồ sơ tại Washington".
    Chữa xong, trước khi chấm dứt bức công điện, ông đã bỏ hết mọi ràng buộc về ngoại giao và còn dứt khoát với cấp trên:
    "Có một điều tôi đoan chắc tuyệt đối (deadly certain) là nếu đưa quân đội Hoa kỳ ào ạt vào đây trong điều kiện hiện nay thì họ sẽ phải chiến đấu với quân đội miền Nam để tìm đường tháo chạy".
    "Nếu ta hành động một cách bình tĩnh thì ta có thể rút khỏi một cách êm đẹp - tôi xin nhắc lại – và ta sẽ không làm một lỗi lầm ghê gớm nữa trong trăm ngàn lỗi lầm người Mỹ đã làm ở Việt nam và về vấn đề Việt nam".
    Trân trọng,
    Martin
    Tác động phía miền Nam
    Một mặt thì ngăn chặn Washington gửi TQLC vào Sài gòn, một mặt ông lại cố tác động phía Miền Nam để giữ cho tình hình khói xáo trộn. Ông làm ba hành động: một là sinh hoạt hết sức bình tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa, không làm xôn xao thêm dư luận là Mỹ đang bỏ chạy; hai là cố kéo dài cuộc di tản người Mỹ để giúp một số người Việt ra đi; và ba là cho di tản sớm một số phi công và gia đình quan chức, tướng lãnh nòng cốt. Ông giải thích cho Quốc hội Hoa kỳ đầu năm 1976:
    Điều lo ngại nhất của chúng tôi lúc đó là tránh khỏi cảnh hoảng hốt, hỗn loạn. Sự lo nghĩ này nó ảnh hưởng đến tất cả những hành động khác. Liên quan tới điều này là mối lo âu thứ hai của tôi, có là: nếu chúng ta không cư xử cho đúng mức thì Đồng minh của chúng ta (phía VNCH) sẽ cảm thấy mình đang bị bỏ rơi, và trở mặt với Mỹ trong những ngày cuối cùng".
    "Bởi vậy phải hết sức bình tĩnh nếu muốn di tản được người Mỹ, những người Việt có liên hệ gia đình với Mỹ, và càng nhiều nếu có thể được, số người Việt mà Mỹ có trách nhiệm đối với họ" (11).
    Dù bị Kissinger hối thúc liên tục, tại tư thất cũng như văn phòng làm việc, ông Martin nhất định không chịu đóng gói. Đồ đạc, sách vở, hồ sơ, hình ảnh trên tường vẫn được để nguyên vẹn, không xê dịch. Ngày 18 tháng 4, ông còn cho Giám đốc Thông tin Hoa kỳ, ông Lan Carter lên TV Sài gòn để tham dự một cuộc phỏng vấn. Những câu hỏi và trả lời được soạn kỹ lưỡng trước, nhằm làm giảm nhẹ những lo âu là Mỹ đang bỏ Việt nam. Việc đầu liên Carter phải làm là đánh tan cái tin đồn là "nếu Quốc hội Mỹ không chấp thuận quân viện cho VN vào hạn chót như Tổng thống Ford đã đặt ra (đó là 19-4), thì toàn bộ người Mỹ sẽ được di tản".
    Tôi còn nhớ là ngày 11 tháng 4, sau khi ông Ford ấn định ngày 19 tháng 4 là ngày Quốc hội phải quyết định có hay không cấp quân viện phụ trội cho VNCH, toàn bộ Nội các hết sức xôn xao. Ông Thiệu cũng hỏi tôi tại sao lại là ngày 19-4? Tôi trả lời là thực sự tôi cũng không hiểu. Sau đó tôi tới Đại sứ Martin hỏi, ông nói lơ mơ là không có gì đặc biệt. Rồi ông soạn một trang gợi ý cho ông Thiệu mấy điểm để giải thích lập trường của ông Ford (xem chương sau).
    Trong cuộc phỏng vấn trên TV, ông Carter đã nhan mạnh "Ngày 19 tháng 4 chỉ là một ngày đề ra cho Quốc hội hành lang, chẳng có gì quan trọng cả. Ngoài ra, ông nói: "Ta cũng nên nhớ rằng Tổng thống Ford đã tuyên bố ông sẽ còn yêu cầu những $1.29 tỉ quân viện cho VNCH vào tài khoá tới (1975/76)".
    Để chứng tỏ là tình hình vẫn bình thường, Carter nói thêm: "Nếu quý vị ghé thăm tư thất Đại sứ và bà Martin, quý vị sẽ thấy hoàn toàn không có đóng gói gì hết. Và ở nhà riêng tôi cũng vậy".
    Được hỏi về lời đồn thổi là Văn phòng lãnh sự Mỹ đã cấp chiếu khán cho một số người Việt di tản, Carter chối phắt đi:
    "Đây cũng chỉ là một lời đồn đại khác nữa, không có một chút sự thật nào cả" (12).
    Người ta kể lại là ông Martin đã rất khó chịu với ông Polgar (trùm CIA) khi nghe tin ông này đã đóng gửi đồ đạc gia dụng đi từ đầu tháng 4 (13). Theo ông Von Marbod, Đệ nhất Phó phụ tá Bộ trưởng quốc phòng kể lại, dù đã tới ngày 28 tháng 4, ông Martin cũng vẫn còn chưa muốn cho Marbod di chuyển số máy bay còn lại và quân cụ nặng ra khỏi VN vì e ngại ảnh hưởng tới tinh thần quân đội VNCH. Dĩ nhiên là Marbod cứ tiếp tục vì ông đã có lệnh từ Washington. Vì sao phi công VN được di tản trước?
    Ngoài bà vợ viên chức tình báo cao cấp, Đại sứ Martin đã sắp xếp để đưa một số khá nhiều phi công VNCH và gia đình được ưu tiên ra đi. Tất cả khoảng 2,000 người di tản trước hết là tới phi cảng Utapao ở Thái lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ. Trình bày cho Quốc hội về việc này, ông Martin cho rằng nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt nam sẽ trút sự giận dữ trên đầu những người Mỹ còn lại:
    "Tình báo của chúng tôi đã có rất nhiều những báo cáo chính xác là nếu chúng ta mang số đông TQLC vào để di tản người Mỹ, chúng ta sẽ phải chiến đấu để mở đường tháo chạy; Không quân Việt nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình, khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt"(14).
    Ông Martin cho rằng phi công là những phần tử trong quân đội VNCH bị uất hận nhiều nhất nên có thể phản ứng:
    "Tôi có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày cuối cùng của cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Miền Nam đã được bay sang căn cứ Utapao ở Thái Lan. Như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu) của một số phi công chống đối trên bầu trời, họ có lẽ là phần tử uất hận nhất trong các quân chủng. Và để trả thù, họ sẽ ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của chúng ta"(15).
    Nếu phi công VNCH bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6,000 người Mỹ phải chết. Thêm vào đấy là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên. Dĩ nhiên là không lực từ Đệ thất hạm đội sẽ vào uy hiếp, dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng Sài gòn sẽ đổ nát như Baghdad, và bao nhiêu người dân sẽ là nạn nhân. Về điểm này, Đại sứ Martin đã trình bày với Quốc hội hết sức dứt khoát. Ông nói rằng nhân dân Mỹ đều "biết đếm", họ đếm được những kết quả việc ông đã làm, đó là (16):
    - Giúp cho bất cứ người Mỹ nào muốn di tản đều đã đi được;
    - Tránh khỏi sự hoảng hốt lúc Mỹ ra đi;
    - Sự chuyển tiếp qua ba Chính phủ trong mười ngày ở Miền Nam đã không bị lộn xộn, và vì vậy, đã vớt vát được chút đỉnh tính cách hợp hiến, hợp pháp ở Miền Nam;
    - Sài gòn đã không bị tàn phá, chúng ta đã không bị Đồng minh trước đây của chúng ta (VNCH) tấn công khi rút đi"; và
    - Cuộc triệt thoái đã được diễn ra tương đối với đôi chút phẩm cách.
    Trong tình huống có xô xát lớn giữa quân đội của hai Đồng minh vào những ngày cuối cùng, thì ngay tức khắc VNCH sẽ trở thành thù địch của Hoa kỳ. Trong trường hợp này thì đã không một người nào trong chúng ta được di tàn.
    Và nếu đã là thù địch, nếu đã không có di tản đợt đầu thì làm sao có đợt hai, đợt ba, làm gì có chương trình "Ra đi có trật tự" (ODP), và chương trình "Chiến dịch nhân đạo" (HO).
    Chắc chắn là đã không có "Little Saigon" ở Nam Cali hay Eden Center" ở vùng Washington D.C. Lịch sử Hoa kỳ sẽ ghi lại: "Chính Miền Nam là kẻ phản bội, sát hại một Đồng minh đã tiêu phí 150 tỷ đô la, hy sinh trên 53,000 mạng người để yểm trợ họ ròng rã hai mươi năm trời". Ngày nay, người Mỹ sẽ nhìn người Miền Nam với con mắt như thế nào? Nghĩ lại mà rùng mình! Như ông Martin đã đánh giá tình hình lúc đó: "Nếu chỉ có một việc gì bất ngờ xảy ra dù là nhỏ nhoi tới đâu, thì rất có thể gây ra tình trạng vô cùng hỗn loạn!" Thử tưởng tượng: đang khi TQLC Mỹ ào ào túa vào, dân chúng chắn trước cổng Toà đại sứ, đường phố Sài gòn bế tắc, phi trường Tân Sơn Nhất lộn xộn, chỉ một quả lựu đạn nổ, làm chết vài người lính Mỹ là tan vỡ rồi, chứ đừng nói tới không quân bắn vào máy bay vận tải Mỹ.
    Huỷ bỏ "kế hoạch điên rồ "
    Trước sự phản đối liên tục và mạnh mẽ của Đại sứ Martin, ông Ford sau cùng đã được thuyết phục. Ông lập luận theo ông Marlin và cảnh cáo các thượng nghị sĩ của Uỷ ban Ngoại giao trong một cuộc họp kín tại Bạch Cung (17):
    "Nếu quý vị tuyên bố là sẽ không di tản người Việt nam, quý vị sẽ có khó khăn lớn để đưa 6,000 người Mỹ ra".
    Về cuộc họp này, Ron Nessen kể lại như sau (18):
    "Kissinger, với vẻ mặt mệt mỏi và phiền muộn, đã báo cáo rằng một quan chức Sài gòn có nói với ông: "Nếu các Ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội Miền Nam để có lối ra".
    Trong hồi ký của ông xuất bản năm 1979, Tổng thống Ford cũng đã kết luận về cuộc di tản đúng như nhận xét của ông Martin hồi đó (19).
    "Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại thủ đô miền Nam sẽ có thể phát sinh, và trong sự chua cay là bị "phản bội", quân đội miền Nam có thể quay súng vào người Mỹ".
    Cảnh cáo các Nghị sĩ xong, cũng theo Nessen, ông Ford vẫn tiếp tục yêu cầu cấp $722 triệu quân viện mà tướng Weyand đã đề nghị. Ford và Kissinger nghĩ rằng đối với Chính phủ VNCH, yêu cầu Quốc hội khoản tiền này sẽ có tác động hối lộ". Tổng thống Ford cảnh cáo quý vị nghị sĩ: "Tôi không thể đảm bảo được rằng nếu chúng ta nói "không cấp tiền nữa", mà ông Thiệu … lại không có thể làm một chuyện gì đó là hoàn hoàn phi lý"
    Nói rõ hơn, ông Ford còn thêm: nếu rút hầu hết người Mỹ cùng một lúc sẽ làm cho người Việt nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy, sẽ có thể gây ra hoảng hốt, rồi những cuộc tấn công vào những người Mỹ còn lại".
    Sau cuộc họp, Ford còn dặn các nghị sĩ là chớ có để cho báo chí biết là tất cả phiên họp chỉ toàn bàn tới chuyện di tản.
    Quý vị hãy nói: "Chúng tôi chỉ bàn chuyện làm thế nào để ổn định tình hình lại Miền Nam".
    Cầu cứu Nga Xô
    Đó là tác động về phía Miền Nam. Còn đối với Bắc Việt thì sao? Trong cuốn sách vừa xuất bản năm 2003 về "Kết thúc chiến tranh Việt nam" ("Ending the Vietnam war"),
    Kissinger có tiết lộ rằng, tác động duy nhất mà Mỹ có thể làm được về chính trị vào lúc đó là tiếp xúc với Liên Xô. Ông cho rằng mặc dù có những đình trệ trong cuộc thương thuyết về nhiều vấn đề, Nga Xô vẫn tiếp tục thấy quyền lợi của mình trong mối bang giao giữa hai nước. Bởi vậy, Kissinger viết (20): "Ngày 19 tháng 4, tôi gửi một "lời nhắn miệng" của Tổng thống Ford cho Tổng Bí Thư Brezhnev qua Đại sứ Dobrynin rằng chúng tôi cần có một cuộc đình chiến để "di tản công dân Mỹ và những người Miền Nam có liên hệ trực tiếp và đặc biệt với Mỹ". "Chúng tôi đã liên lạc với Moscow vì, dựa trên quyền lợi hỗ tương và lâu dài giữa hai nước, tình hình phải được kết thúc mà không gây phương hại tôi quan hệ Mỹ-Nga, hoặc có ảnh hưởng tới thái độ của dân chúng Mỹ đôi với các vấn đề quốc tế khác".
    Ông còn tin rằng để làm cho giải pháp cầu cứu phía Nga Xô có hiệu quả, "Chúng tôi đã nhấn mạnh thiện chí chúng tôi muốn thảo luận về những tình huống đặc biệt cần thiết cho cuộc đình chiến - nói cách khác, tới một sự thay đổi về tình thế chính trị ở Sài gòn".
    "Về thay đổi tình thế chính trị", ý Kissinger muốn nói về nhượng hộ chính trị, đó là thay đổi Chính phủ Thiệu. Ông bình luận thêm trong cuốn sách: "Chúng tôi giả bộ nêu ra những hậu quá nguy hiểm nếu phi trường hay phi cơ dân sự bị tấn công - tuy nhiên, một người quá chuyên môn về những cuộc tranh luận tại Quốc hội Hoa kỳ như ông Dobrynin thì cũng chẳng thấy một chút trọng lượng nào trong lời hăm doạ ấy"(21).
    Hà Nội không can thiệp di tản
    Sau này, khi được hỏi về vai trò của Nga Xô trong những cuộc thương thuyết từ trung tuần tháng 4, 1975, Đại sứ Martin có xác định lại là: "Phía Nga Xô có cho phía Hoa kỳ hay rằng Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản của chúng ta"
    Về thái độ của Liên Xô, Kissinger kể lại: "Ngày 24 tháng 4, ông Dobrynin gọi điện thoại cho tôi lúc 4 giờ chiều và đọc cho tôi nghe lời phúc đáp về đề nghị ngày 19 tháng 4 của Mỹ. Lời phúc đáp này có vẻ đã bật đèn xanh cho cuộc di tản người Mỹ, và cũng nói rằng Hà Nội muốn tìm một giải pháp chính trị theo hướng Hiệp định Paris. Hà Nội còn nhắn với Moscow là "họ không có ý định làm tổn thương tới uy tín của Mỹ…" Và như vậy, Brezhnev đã cố ngăn cản Mỹ can thiệp bằng quân sự: ông ta đã mạnh dạn hơn để kìm hãm cái bản chất phiêu lưu mà thực sự đã không có của Hoa kỳ lúc đó, bằng cách bày tỏ hy vọng là Mỹ sẽ không có những hành động có thể làm cho tình hình tại Đông Dương thêm trầm trọng hơn" (22).
    Trong khi chờ đợi Liên Xô tham khảo với Hà Nội để trả lời, ngày 24 tháng 8, lúc 8:25 phút, Mỹ đáp lại lời nhắn của mình: "Theo như phúc đáp xây dựng của phía Nga Xô, phía Hoa kỳ đang tiến hành cuộc di tản với tin tưởng là điều kiện sẽ tiếp tục thuận lợi".
    Kissinger còn thêm:
    "Tổng thống Ford trấn an Brezhnev là… bao lâu cuộc di tản không bị cản trở thì Hoa kỳ sẽ không có hành động gì có thể làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn". (tức không can thiệp trở lại).
    Tại Sài gòn, Đại sứ Martin lại không mấy lo về phía Hà nội.
    Kissinger cũng xác nhận điều này: "Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài gòn còn đáng lo ngại hơn những kế hoạch tấn công của Hà nội, ông phấn đấu để cho cuộc di tản chậm nhiều hơn là chính Tổng thống Ford, Scowcroft, hay là tôi - con diều hâu trong Chính phủ- đã cho là thích ứng" (xem Chương 14).
    Ông Martin trình bày lại cho Quốc hội: "Vì phải được bảo mật, tôi là người duy nhất ở Sài gòn nhận được thông tin do Bắc Việt chuyển qua phía Liên xô cho hay rằng họ sẽ không can thiệp bằng quân sự vào cuộc di tản của chúng ta" (23). Ông còn tin rằng sở dĩ Bắc Việt vẫn muốn điều đình một giải pháp chính trị, vì họ cũng không muốn bước vào Sài gòn trên một đống gạch vụn". Lý do khác, theo ông: "Hà nội còn muốn nhận được viện trợ quốc tế nữa" (24).
    Nhưng nếu Hà Nội không can thiệp vào di tản thì tại sao lại có vụ pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất ngày 29 tháng 4?" Ông Martin trả lời: "Theo sự suy nghĩ của tôi, lý do có pháo kích vào phi trường sáng ngày 29 tháng 4, là vì ngày hôm trước đó, chúng tôi bắt đầu cho một số Không quân Việt nam đưa máy bay ra ngoại quốc; tôi nghĩ rằng vụ pháo kích nhằm mục đích chỉ là để ngăn chặn việc di chuyển này mà thôi (chứ không vì muốn chặn cuộc di tản) (25).
    Giải pháp chính trị
    Mười ngày cuối cùng của cuộc chiến là những ngày cực kỳ khó khăn. nguy hiểm. Trong những ngày đó, phía Hoa kỳ, đặc biệt là ông Marttin đã cố gắng sắp xếp một giải pháp chính trị cho Miền Nam. Kết quả là trong mười ngày, có tới ba Chính phủ. Nhưng rồi kết cuộc cũng là hoàn toàn thất bại.
    Về hành động sắp xếp đằng sau hậu trường thì trong khi tại Washington, các ông Ford và Kissinger đi qua ngả Dobrynin để nhờ Nga Xô áp lực Hà Nội, thì ở Sài gòn, hai ông Martin và Polgar liên lạc qua ngả đại diện Hungary trong phái đoàn Kiểm soát đình chiến và Đại sứ Pháp Merillon.
    Về mục tiêu của giải pháp chính trị cũng có tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Trong khi Ford-Kissinger chỉ mong có một giải pháp tình thế, một tình huống trong tầm kiểm soát, để Mỹ có thể rút ra cho yên ổn, thì Martin lại muốn theo đuổi một mục tiêu lâu dài hơn: đó là có được một giai đoạn chuyển tiếp để:
    - thứ nhất, giúp Mỹ ra đi tư từ, chứ không vội vã và mất mặt;
    - thứ hai, di tản một số người Việt nhiều hơn là Washington đã dự tính; và
    - thứ ba, như đã đề cập ở trên, để tránh xung đột Mỹ-Việt
    Tại Washington: trong cả hai thông điệp cho Nga Xô, Tổng thống Mỹ đều nói tới một giải pháp chính trị. Về thông điệp ngày 19 tháng 4, Kissinger viết (26):
    Chúng tôi nhấn mạnh thiện chí của chúng tôi muốn thảo luận về tình huống cần thiết đặc biệt cho việc đình chiến – nói cách khác, một sự thay đổi về tình hình chinh trị ở Sài gòn".
    Đây là sự mập mờ bắn tiếng về việc áp lực ông Thiệu phải từ chức. Một tuần trước khi sụp đổ, trong thông điệp ngày 24-4 gửi Brezhnev, Kissinger lại nhắc tới giải pháp chính trị:
    Lời đáp của Hoa kỳ cũng khích lệ quan điểm của Hà Nội "cách thức thi hành Hiệp định Paris để đi tới một giải pháp chính trị".
    Dù từ Washington hay Sài gòn, đòi hỏi đầu tiên của giải pháp chính trị là việc ông Thiệu phải từ chức. Ở đây, tôi còn nhớ khi tạm biệt Đại sứ Martin để lên đường đi công tác Washington ngày 15 tháng 4, tự nhiên ông hỏi tôi:
    "Nhân tiện tôi muốn hỏi ông bao giờ thì Tổng thống của ông từ chức?"
    Hết sức ngạc nhiên: "Tôi không hiểu ông Đại sứ muốn nói gì cả!", tôi đáp. Tôi để ý đây là lần đầu tiên thấy ông Martin dùng từ ngữ "Tổng thống của ông" thay vì "Ông Tổng thống" hay là "Tổng thống Thiệu". Tôi thông báo cho ông Thiệu ngay về câu hỏi trở trêu này trước khi lên máy bay.
    Hai ngày sau, 17 tháng 4, ông Martin đã đề nghị với Kissinger trong một công điện tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức (27):
    "Nếu Quốc hội bỏ phiếu chống (viện trợ cho VNCH) thì địa vị ông Thiệu là hết rồi… Bởi vậy trừ khi có chỉ thị không đồng ý, tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông Thiệu và cho ông ta biết rõ rằng đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi với tư cách là người bạn chân thật. Sau khi suy nghĩ mọi đàng, tôi đã đi đến kết luận là chỗ đứng của ông ta trong lịch sử sẽ được bảo đảm hơn nếu xét tất cả những gì ông đã làm cho đất nước này. Nếu ông ta không chịu mà cứ tham quyền cố vị, thì cơ hội cuối cùng để cứu vãn miền Nam Việt nam như một quốc gia còn chút tự do sẽ không còn nữa".
    "Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này"; "Có một cách rút lui êm đẹp và trang trọng nhất là tự ý ông từ chức, và nói cho đồng bào biết rằng ông phải làm như vậy để bảo vệ hiến pháp và để Chính phủ kế vị có thể dễ dàng điều đình cứu vãn nước Việt nam tự do…"
    Kissinger đồng ý. Ông thuật lại là vào ngày 20 tháng 4 (21 tháng 4, Sài gòn), chỉ một ngày sau thông điệp của Ford gửi Brezhnev, và trong khi chờ đợi Nga Xô trả lời: "Đại sứ Martin đã bắn tiếng cho ông Thiệu, khuyến cáo vị Tổng thống VNCH nên từ chức. Ông Martin đã cố nói như đây chỉ là theo ý riêng cá nhân của ông, nhưng thực ra thì sự vận động này đã được Tổng thống Ford và tôi chấp thuận trước rồi" (28).
    Theo Đại tá Cầm, Chánh Văn phòng Tổng thống, ông Martin đã đưa cho ông Thiệu xem những bản đồ về tình hình quân sự rất bi quan do CIA soạn để khuyến dụ ông Thiệu. Ông Thiệu hỏi Martin: "Nếu tôi từ chức thì liệu viện trợ Mỹ có đến không?"
    Martin trả lời:" Tôi không dám hứa nhưng cũng có thể".
    Trước khi ông Đại sứ ra về, ông Thiệu hứa: "Tôi sẽ làm điều gì có lợi nhất cho nước tôi".
    Mọi việc dàn xếp vừa xong thì ông Đại sứ lại nhận được một mật điện rất lạ do Kissinger gửi. Bây giờ Kissinger lại muốn hoãn việc ông Thiệu từ chức lại, có lẽ là để dùng việc này thương thuyết với phía Nga Xô (Hà nội) và để lấy điểm là chính ông ta là người ép ông Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu chơi cái trò bỉ ổi ấy nữa. Đọc xong công điện, ông bực tức và gấp ngay nó lại: "Công điện đó được xếp ngay vào hồ sơ và tôi lờ đi, không thi hành" (29).
    Ông Thiệu kể lại cho tôi (năm 1984) là ngày hôm sau khi gặp ông Martin, ông đã mời các tướng lãnh đến Dinh Độc Lập Trong buổi họp, ông cho họ biết về những chuyện Đại sứ Martin đề cập tới. Ông Thiệu nói nếu các tướng lãnh cho ông là một chướng ngại vật cho hoà bình của đất nước thì ông sẽ từ chức. Không ai phát biểu gì cả. Thế là đã rõ họ không muốn ông ngồi lại ghế Tổng thống nữa. Giữa lúc đó ông tuyên bố từ chức và để Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay.
    Họp xong, ông lên đài truyền hình thông báo quyết định từ chức. Lòng đầy cay đắng với Đồng minh, ông đọc một bài diễn văn rất dài, tuy rời rạc, thiếu mạch lạc, nhưng căng thẳng và xúc động:
    "Các ông để chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là một hành động vô nhân đạo của một Đồng minh vô nhân đạo. Đó cũng là một lý do tại sao, khi phái đoàn Quốc hội Hoa kỳ đến Việt nam, tôi đã nói với họ rằng đây không còn phải là vấn đề 300 triệu nữa mà là vấn đề Hoa kỳ có còn giữ lời hứa giúp đỡ nhân dân Việt nam trong công cuộc bảo vệ nền độc lập và tự do của họ hay không?"
    "Hoa kỳ hãnh diện là một quốc gia bảo vệ đến cùng chính nghĩa và lý tưởng tự do trên thế giới, và sẽ ăn mừng lễ độc lập năm thứ 200 vào năm tới. Tôi hỏi họ rằng: "Lời nói của Hoa kỳ có còn giá trị gì nữa không? Những cam kết của Hoa kỳ có còn hiệu lực không?"
    Ba trăm triệu không phải là món tiền lớn đối với các ông…Từ chối món tiền này, các ông còn muốn chúng tôi thắng Cộng sản hay ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng sản - là công việc rnà các ông đã không làm nổi trong suốt sáu năm trường với quân đội và chi phí khổng lồ của Hoa kỳ. Thật là phi lý...“
    Bắc Việt đổi ý đêm 27 tháng 4
    Tại Sài gòn, theo Đại sứ Martin, tuy là hồi tháng ba, ông đã có tin tình háo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự, nhưng cả ông và Polgar không đặt nặng sự chính xác của bản tin này. Theo ông, lý do là vì cũng cùng một lúc đó, lại có thông tin từ phía đại diện của Mặt trận giải phóng bên Âu châu, một từ Stockholm (Thuỵ Điển), và một từ Paris, cả hai đều cho biết rằng họ cũng muốn có một giải pháp chính trị (30). Ngoài ra, Martin còn suy luận, như đã trình bày ở trên, là chính Hà Nội cũng muốn một giải pháp chính trị để kết thúc một cách êm đẹp vì họ còn muốn nhận được viện trợ của quốc tế sau này.
    Thế nhưng, theo ông, "Không hiểu vì một lý do nào đó, đêm ngày 27 tháng 4, Bắc Việt đã bất chợt thay đổi tín hiệu, quyết định chọn giải pháp hoàn toàn quân sự, và như vậy, giải pháp chính trị đã không còn nữa" (31). Về điểm này, chính Kissinger cũng đã xác nhận trong cuộc họp báo ngày 5 tháng 5- 1975 rằng cho tới ngày 27 tháng 4, Hoa kỳ vẫn có nhiều hy vọng Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự, và còn muốn điều đình với ông Dương Văn Minh (32)
    Một Chính phủ Thiệu không có Thiệu
    Sau khi được trao quyền Tổng thống, ông Hương e ngại rằng vì ông đã là Phó Tổng thống, nên người ta cho rằng bây giờ ông chỉ điều hành một Chính phủ theo ý ông Thiệu. Ông liền yêu cầu Đại sứ Martin nên cố vấn ông Thiệu ra ngoại quốc và dàn xếp giùm chuyến đi này (33). Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Việt nam, vì nếu không, Cộng sản sẽ nói "tôi đang điều khiển một Chính phủ Thiệu không có Thiệu"(34).
    Lúc đó có một cơ hội thuận tiện. Để cho việc ra đi được hợp Pháp, ông Hương ký nghị định đề cử ông Thiệu làm đặc sứ VNCH đi Đài Bắc phúng điếu Tổng thống Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5 tháng 4. Theo Frank Snepp cả ông Minh cũng đã yêu cầu tướng Timmes tìm cách đưa ông Thiệu khỏi Việt nam (35).
    Chiếc máy bay DC-6 dưới quyền sử dụng của Đại sứ Hoa kỳ từ Thái Lan bay qua Sài gòn trong đêm 25 tháng 4. Ông Polgar, trùm CIA ở Sài gòn và tướng Timmes gặp ông Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà Thủ tướng Khiêm trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị ba chiếc công xa màu đen chở mọi người ra phi trường. Đoàn xe lướt qua đài tưởng niệm Chiến sĩ trận vong của Đồng minh gần phi trường,với ba hàng chữ nỗi bật trên bảng: "Những hy sinh cao quý của các chiến sĩ Đồng minh sẽ không bao giờ bị quên lãng". Ông Thiệu ngồi giữa ông Polgar và tướng Timmes. Nhìn thấy bảng, ông thở dài và quay mặt đi (36).
    Đoàn xe chạy vút về phía sân bay của hãng Air America. Đại sứ Martin đã đợi sẵn ở đó để tiễn đưa. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ ông quay lại cám ơn ông Martin đã dàn xếp chuyến đi.
    Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lễ:
    "Thưa Tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn"(37).
    Danh chính ngôn thuận
    Ở phi trường về, Đại sứ Martin, cùng với Đại sứ Pháp Jean Marie Merillon, lại tiếp lục công việc sắp xếp giải pháp chính trị. Ông gửi cho ông Kissinger một điện văn cho biết vẫn còn có thể điều đình giữa Chính phủ Sài gòn và Việt Cộng. Ngày 26 tháng 4, Kissinger gửi mật điện gạt đi liền:
    "Ông Đại sứ đã hiểu lầm ý kiến của tôi về các cuộc điều đình với Việt Cộng. Tôi đã không nói đến dàn xếp giữa Chính phủ Sài gòn và Việt Cộng mà đến thương lượng giữa Hoa kỳ và Việt cộng. Tôi muốn bất cứ cuộc thảo luận nào giữa Hoa kỳ và Việt Cộng cũng phải được diễn ra tại Paris".
    Vào giờ chót. Kissinger vẫn không muốn hai miền Bắc và Nam trực tiếp điều đình với nhau mà không có sự kiểm soát của ông (38)
    Tổng thống Hương mời tướng Dương Văn Minh lên làm Thủ tướng trong Chính phủ mới. Tướng Minh không chịu, nhất định đòi giữ chức Tổng thống. Ông Thiệu kể lại cho tôi rằng: "Tôi đã đề nghị với cụ Hương nên mời tướng Trần Văn Đôn để "neutraliser" (vô hiệu hoá) ông Minh nhưng cụ Hương chịu quá nhiều áp lực!"
    Ông Minh chính thức lên giữ chức Tổng thống chiều ngày 28 tháng 4 (sáng ngày 27 tháng 4, Washington). Việc đầu tiên ông làm là viết một công hàm cho Đại sứ Martin. Văn bản được chuyển giao sáng ngày 29 tháng 4. Ông Kissinger bình luận về ông Minh (39):
    "Ông Minh giữ chức Tổng thống được không tới 72 giờ, chỉ đủ để làm được hai việc quan trọng: một là yêu cầu Hà nội ngưng chiến và thương thuyết chính trị - điều mà Hà nội đã từ chối thẳng thừng - và hai là, ngày 29 tháng 4 (28 tháng 4, giờ Washington, ông yêu cầu tất cả người Mỹ ra khỏi Việt nam trong vòng 24 giờ".
    Mười năm sau ngày sụp đổ, Đại sứ Martin cho tôi xem bản công hàm của Tổng thống Minh. Tài liệu này có tính cách lịch sử vì nó là văn kiện cuối cùng của Chính phủ VNCH gửi Chính phủ Hoa kỳ:
    "Thưa ông Đại sứ,
    "Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của Cơ quan Tuỳ viên quốc phòng DAO ròi khỏi Việt-nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề Hoà bình Việt nam sớm được giải quyết".
    Trân trọng kính chào ông Đại sứ.
    Sài gòn, Ngày 28 tháng 4 năm 1975
    Đại tướng Dương Văn Minh
    Bình luận về thư này, Kissinger nói thẳng ra: "Vì lịch trình này trùng hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi, nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi Đồng minh của mình" (40).
    Nhận được thư, Đại sứ Martin vội vã gọi cô Eva Kim vào đánh thư trả lại Tổng thống Minh (41). Nhân dịp này, ông cũng yêu cầu phía quân đội VNCH giúp cho cuộc di tản ngươi Mỹ được thực hiện an toàn. Và như vậy, nguy cơ "ra đi lại bắn nhau" đã không còn nữa:
    "Kính thưa Tổng thống,
    "Tôi vừa nhận được thư của Ngài đề ngày 28 tháng 4 về yêu cầu tôi ra chỉ thị ngay cho các nhân viên của Cơ quan Tuỳ viên quốc phòng DAO rời khỏi Việt nam trong 24 giờ đồng hồ.
    "Tôi xin thông báo để Ngài hay là tôi đã ra chỉ thị như Ngài yêu cầu. Tôi tin rằng Ngài sẽ ra lệnh cho quân dội của Chính phủ Ngài cộng tác bằng mọi cách để làm dễ dàng cho việc di chuyển các nhân viên DAO.
    Tôi cũng hy vọng Ngài sẽ can thiệp với phía bên kia (phía Bắc Việt) để Tuỳ viên quốc phòng và nhân viên của chúng tôi được ra đi an toàn và trật tự".
    Trân trọng
    Graham Martin
    Đại sứ Hoa kỳ
    Câu cuối cùng chắc là để gợi ý khéo với ông Minh là từ lúc này ông đã có thể nói với phía Hà nội là chính ông đã yêu cầu Mỹ rời khỏi Việt nam cho dễ bề thương thuyết.
    Nhưng yêu cầu như vậy là đã cho Mỹ cái "danh chính ngôn thuận" để ra đi. Như Kissinger bình luận, thư ông Minh: "Đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi Đồng minh của mình".
    Nếu bây giờ, ông Minh giúp cho Mỹ ra, thì mười hai năm về trước, ông cũng đã giúp cho Mỹ vào, khi ông lật đổ Tổng thống Diệm.
    Lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống Minh ra lệnh cho Quân đội VNCH buông súng đầu hàng.
    Miền Nam Việt nam có hai nền Cộng hoà, vô tình hay hữu ý, ông Minh đã trở nên người chấm dứt cả hai.
    Bức thư của ông đã cho Mỹ cái "danh chính ngôn thuận" một cách giả tạo: Mỹ bị yêu cầu ra đi chứ đâu có tháo chạy, đâu có phản bội! Giả tạo vì Mỹ đã và đang tháo chạy gần hết rồi. Vào giờ phút chót chỉ còn có một số vài chục người, gồm ông đại sứ và mấy nhân viên của cơ quan DAO: họ cũng sắp được bốc đi vì đã có lệnh phải rút ra ngay.
    Đúng 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tức là gần 24 giờ kể từ khi một sĩ quan trẻ tuổi phóng xe từ Dinh Độc Lập đến Toà đại sứ Mỹ trao thông điệp của Tổng thống Minh cho Đại sứ Martin, một chiếc trực thăng Chinook-46 đáp trên nóc toà đại sứ Mỹ để bốc đi số 11 vệ binh còn lại canh gác. Họ được hộ tống bằng sáu chiếc Cobra có võ trang để bay ra khỏi không phận Việt nam.
    Chú thích:
    (1) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 589.
    (2) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 576.
    (3) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 569.
    (4) Tuần báo TIME, số ngày 21-4-1975, trang 16.
    (5) Tuần báo TIME, số ngày 21-4-1975, trang 16.
    (6) Tuần báo TIME, số ngày 21-4-1975, trang 16.
    (7) NEWSWEEK, 21 tháng 4, 1975, trang 19.
    (8) N.T. Hưng and J. Schecter, The Palace File, trang 328-330.
    (9) David Butler, The Fall of Saigon, trang 372; NEWSWEEK, 21 tháng 4, 1975, trang 18.
    (10) NEWSWEEK, 21 tháng 4, 1945, trang 18.
    (11) Graham Martin, Testimony, trang 543.
    (12) David Butler, The Fall of Saigon, trang 264.
    (13) David Butler, The Fall of Saigon, trang 437.
    (14) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 548.
    (15) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 586.
    (16) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 544.
    (17) Ron Nessen, It Sure Looks Dịffèrent from the Inside, trang 105.
    (18) Ron Nessen, It sure looks different from the inside, trang 105-106.
    (19) Gerald Ford, A time to heal, trang 253.
    (20) Henry Kissinger, Ending the Viertnam War, trang 542.
    (21) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 608.
    (22) Henry Kissinger, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 545-546.
    (23) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 585.
    (24) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 584.
    (25) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 586.
    (26) Henry Kissinger, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 542.
    (27) Xem N.T. Hưng and J. Schecter, Palace File, trang 329; Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 545-546.
    (28) Henry Kissinger, A World Restored, trang 543.
    (29) Phỏng vấn ông Graham Martin, 27-3-1985
    (30) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 584.
    (31) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 609.
    (32) Graham Martin nói về cuộc họp báo ngày 5/5/1975 của Kissinger, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 608.
    (33) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 547.
    (34) Phỏng vấn Thomas Polgar, 6 tháng 3, 1986.
    (35) Frank Snepp, Decent Interval, trang 434.
    (36) Frank Snepp, Decent Interval, trang 436.
    (37) Phỏng vấn ông Graham Martin, 26 tháng 3, 1985.
    (38) Kissinger viết lại là Bộ Ngoại giao Pháp đã giúp liên lạc giữa Mỹ và MTGPMN. Kissinger, A World Restored, trang 549.
    (39) Kissinger viết lại là Bộ Ngoại giao Pháp đã giúp liên lạc giữa Mỹ và MTGPMN. Kissinger, A World Restored, trang 548-549.
    (40) Kissinger viết lại là Bộ Ngoại giao Pháp đã giúp liên lạc giữa Mỹ và MTGPMN. Kissinger, A World Restored.
    (41) David Butler, The fall of Saigon, trang 385-386.
    hết: P4 - Chương 15, xem tiếp: P4 - Chương 16

  4. #16
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy

    Nguyễn Tiến Hưng-Khi đồng minh tháo chạy
    P4 - Chương 16

    Vĩnh biệt ông Đại sứ


    Lệnh "Hành quân gió nhanh" vừa ban hành. Từ xa xa, dăm ba chiếc trực thăng đang lừ lừ bay lại, lúc nghiêng sang bên phải, lúc sang bên trái, tiếng động cơ vang rền. Những cánh quạt xoáy vòng ngang, vòng dọc, làm lung lay cả ánh mặt trời lúc giữa trưa. Đài phát thanh quân đội Mỹ ở đường Hồng Thập Tự đưa tin tức về khí hậu: "Nhiệt độ ở Sài gòn là 105 độ và còn đang tăng". Nóng như vậy mà tiếng hát của Bing Crosby từ những máy thu thanh lại cứ văng vẳng “I am dreaming of a white Christmas" (Tôi đang mơ ước một Giáng Sinh tuyết trắng).

    Trong lúc tình hình rối ren, dân chúng đô thành nghe bài ca êm đềm cũng thấy có vài phút thư giãn. Thế nhưng, người Mỹ và một số nhỏ người Việt liên hệ với Mỹ lại hết sức căng thẳng, vì biết rằng giờ thứ 24 sắp tới. Tín hiệu của cuộc di tản cuối cùng, "Hành quân gió nhanh" đã được phát sóng. Họ hoang mang, bối rối, tìm mọi cách để tới những địa điểm đã hẹn trước, mong được bốc đi.

    Trước Toà đại sứ Mỹ, tình trạng lộn xộn, xô xát để trèo tường đã diễn ra. Bên trong, các nhân viên cuống cuồng, vừa lo giữ trật tự an ninh, vừa đốt cháy tài liệu mật. Phải sắp xếp cho lẹ vì trực thăng sắp đáp xuống rồi. Đại sứ Martin cũng thắt cà vạt, mặc quần áo chỉnh tề, đứng chờ sẵn trong văn phòng ông ở lầu ba. Ông sắp lên trực thăng để ra đi. Không, "Tôi muốn trở về qua tư thất", bất chợt ông quay lại nói với mấy người lính cận vệ. Sững sờ, nhóm cận vệ không hiểu tại sao ông lại muốn trở về nhà. Mà làm thế nào để lái xe cho ông ra được khỏi Toà đại sứ? Mặc dù họ tỏ ý không đồng ý, ông Martin nhất định cứ đi. Ông đã có cách: lách tường bên hông để qua toà đại sứ Pháp và đi bộ về nhà. Cận vệ bắt buộc phải đi theo. Đồ đạc, tranh ảnh trong căn nhà ông ở đường Phùng Khắc Khoan vẫn còn y nguyên. Chắc ông muốn về để lấy một vài món đồ quan trọng nào đó? Nhưng không, ông về để ẵm con Nit Noy đi với ông. Nit Noy là tên tiếng Thái ("món vật nhỏ") của con chó xù màu đen mà ông yêu quý. Chỉ có thế thôi. Ông lững thững trở lại Toà đại sứ, cũng qua ngả nhà Đại sứ Merillon. Trở về văn phòng, ông buộc Nit Noy vào chân một cái ghế (1). Thế rồi tiếp tục làm việc.

    Sau này báo chí chi trích ông về vụ chó xù, ông cãi: "Báo chí cũng chỉ trích Tổng thống Rossevelt về con "Fala" của ông như vậy! Tôi rất bất bình về việc họ công kích một con chó. Trước hết, không phải là chó của tôi mà là của con gái tôi (cô Janet). Vá thực ra tôi đã không định mang nó đi, vì đã sắp xếp để nó xin được ông Đại sứ Pháp cho tỵ nạn rồi" ("… had arl angedfor Nit Noy to seek asylum with the Ambassador office") (2).
    Vào giây phút cuối, phóng viên tờ Los Angeles Times, ông George Mcarthur trông thấy Nit Noy bị buộc vào chân ghế đã mủi lòng, và quyết định để lại cái máy chữ của mình rồi ẵm nó đi theo. "Tôi sẽ mãi mãi ghi ơn ông Mcarthur vì vợ tôi rất yêu quý con Nit Noy. Và trong gia đình tôi thì vợ tôi là người đã chịu đựng nhiều nhất vì cuộc di tản". Bà Martin chỉ có 11 phút để đóng gói, và phải để lại hết tất cả những kỷ niệm quý báu thu thập được trong bao nhiêu năm qua. Sở dĩ như vậy, vì như ông nói "Nêu chúng tôi đóng gói sớm hơn thì tín hiệu (về Mỹ bỏ chạy) sẽ truyền đi khắp Sài gòn" (3).
    Đằng sau Toà đại sứ, có cây me cổ thụ rất lớn, cây dài bóng mát. Sáng sớm ngày 29 tháng 4, nhân viên yêu cầu ông cho chặt xuống để trực thăng dễ đáp. Không chịu, ông tỏ rõ thái độ : "Nêú như cây này ngả xuống thì uy tín của Mỹ cũng ngả theo" (4).

    Ngày trước hôm đó, ông đã gửi điện cho Ngoại trưởng Kissinger nói rằng theo ông, sự có mặt của Hoa kỳ ở Sài gòn còn có thể kéo dài được chừng một năm nữa (5). Rồi chiều ngày 29, ông lại xin phép được ở lại Miền Nam cùng với vài chục nhân viên. Lý do là để "tối thiểu cũng làm cho việc Mỹ ra đi có nhân cách đôi chút" (6).
    "Được rồi, Jim (Schlesinger)," Kissinger gọi cho Tổng trưởng quốc phòng, "Anh phải nói thắng với ông ta, vì nếu anh không nói "đây là lệnh Tổng thống" thì ông ta không chịu ra đi đâu".
    "Xong rồi, tôi sẽ làm chuyện đó", Schlesinger trả lời.
    "Như anh biết, ông ta đã mất một người con ở Việt nam". Kissinger tiếp.
    "Đúng vậy, ta phải thán phục ông ta" (7).
    Ngoài người con là cậu Glenn lái trực thăng chết ở vùng cao nguyên chín năm về trước, ông Martin còn nặng lòng với uy tín của nước Mỹ. "Tôi luôn nghĩ tới sự kiện là đã có năm Tổng thống Mỹ dinh líu tới Việt nam và trong những hai thập niên"
    Trong cuốn sách Ending the Vietnam war (2003), chính Kissinger đã bình luận về việc ông Martin chần chừ không chịu đi:
    "Nhiệt tình gắn bó với những người mà ông sắp bị bắt buộc phải bỏ lại, ông Martin đã coi như bổn phận của mình là phải kéo dài cuộc rút lui của Mỹ trong một thời gian dài nhất để giữ lại sự có mặt của Mỹ (tại Việt nam) làm sao cho còn đủ để biện hộ "cho việc cứu người Việt nam".

    "Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài gòn còn đáng lo ngại hơn những kế hoạch tấn công của Hà nội, ông đã phấn đấu để cho cuộc di tản quá chậm hơn là chính Tổng thống Ford, Scowcroft, và tôi - con diều hâu trong Chính phủ- đã cho là thích ứng" (8)
    Vào dịp Lễ Phục Sinh (tháng 3) 1975, cô thư ký Eva cho hay là ông lâm bệnh, tôi có ghé thăm, thấy ông xanh xao, mệt mỏi. Ông nói là bị cúm, nhưng tôi nghi là viêm phổi. Hút thuốc lá liên tục, càng hút, ông càng ho thêm.

    Trong điều kiện sức khoẻ như vậy mà ông đã hầu như một mình đứng ra chịu trận để vớt vát cho Miền Nam và cho nước Mỹ vào giờ phút cuối cùng. Trung sĩ Colin Broussard, người cận vệ luôn theo sát ông có viết: "Tôi nghĩ rằng Đại sứ Martin đã cứu được cả ngàn người Việt, những người Mỹ dân sự và cả Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ nữa, chính vì ông không chịu nói tới "di tản" quá sớm và gây nên một tình trạng hoảng hốt".(9)
    Về việc ông xin ở lại bất chấp những gì có thể xảy ra, Kissinger bình thêm: Việc đó đã xác nhận sự nghi ngờ của tôi là ông Martin muốn giống như tướng George Gordon, viên chỉ huy nổi tiếng nước Anh, là người đã bị hạ sát tại Khartoum (nước Sudan) do quân Mahdi vào năm 1885 khi ông ta không chịu ra đi". (10)

    Đúng 4 giờ 45 phút sáng ngày 30 tháng 4, có anh phi công vạm vỡ bay chiếc trực thăng mang bảng hiệu Lady Ace 09 lượn đi lượn lại rồi đáp xuống bãi đậu trên nóc toà đại sứ. Anh gỡ miếng giấy buộc vào đùi, rồi đưa cho ông Martin: đó là lệnh của Tổng thống buộc ông phải ra đi trên chuyến bay cuối cùng này. Nếu không, theo như tiết lộ về sau của Đô đốc Gayler (Tư lệnh Thái Bình Dương) "Tôi đã có thẩm quyền để áp giải trong trường hợp ông Đại sứ không tuân lệnh của Tổng thống." (l l)

    Thế là hết đường tháo lui. Đại sứ Martin bơ phờ ôm lá cờ Mỹ bước lên chiếc Lay Ace 09 vào lúc 4 giờ 58 phút. Anh phi công phát sóng "Tiger, Tiger, Tiger" (Con hổ, Con hổ, Con hổ), mật hiệu là đã đưa được ông Đại sứ lên trực thăng rồi.
    Sự có mặt của Hoa kỳ tại Miền Nam tới đây đã hoàn toàn chấm dứt.
    Sau ngày Miền Nam sụp đổ, ông Martin tiếp tục bị chỉ trích. Ngoài việc chần chừ không lo di tản người Mỹ theo lệnh cấp trên, ngoài con chó Nit Noy, ông còn bị công kích về việc đã chủ quan và luôn luôn bào chữa cho Miền Nam.
    Hè 1974, giữa lúc Washington hầu như đã lãng quên và Quốc hội bắt đầu cắt xén viện trợ cho Miền Nam, ông Martin hết sức chống đỡ. Ông điều trần về viễn tượng của Miền Nam một cách lạc quan:

    "Về chính trị. Chính phủ Miền Nam mạnh hơn bao giờ hết. Về quân sự, quân đội Miền Nam đã chứng tỏ khả năng bảo vệ đất nước mà không cần có sự yểm trợ của lục quân Hoa kỳ"(12).
    Còn về kinh tế, liệu Miền Nam có phải dựa mãi vào Mỹ hay không? Không, ông Martin biện luận:
    "Đôi khi ta thấy trong cùng một quốc gia có sự phối hợp giữa tài nguyên phong phú, một hệ thống hành chính có quyết tâm với những chính sách kinh tế hợp lý, một dân tộc thông minh, khéo léo, và hết sức dẻo dai, với một khả năng cố gắng bền vững, một quyết tâm mãnh liệt và tha thiết bảo tồn tự do của mình".

    Khi có một kết hợp như vậy, như hiện đang có ở Miền Nam Việt nam, thì chỉ cần một nguồn tài chính từ ngoài vào làm vai trò tác dộng, để nối kết tất cả những yếu tố này lại với nhau thì có thể có những kết quả thật là xuất sắc"(13).
    Nhiều người đã chỉ trích ông về việc ông tô điểm hình ảnh quá lạc quan cũng giống như việc tướng Westmoreland đã làm thời Tổng thống Johnson. Ngay gần Tết Mậu Thân, Westmoreland còn lên đài truyền hình nói tới tình hình quân sự khả quan.

    Dù chỉ trích, ông Martin vẫn tiếp tục. Cứ vài tháng ông lại về Washington để vận động. Thông điệp chính ông mang ra nói với mọi người là nếu để Miền Nam sụp đổ thì uy tín của Mỹ sẽ xuống mạnh, và đem theo hậu quả về lâu về dài. Những nước thù địch sẽ không coi Mỹ ra gì, và hoà bình sẽ bị đe doạ. Và là vào thời gian đó, như ông đã tường trình lại cho Quốc hội Mỹ năm 1976: "Tôi chưa biết rõ đã có những trao đổi "riêng tư giữa Tổng thống Hoa kỳ và Tổng thống Việt nam cộng hoà". (14). Nếu như ông biết được những cam kết đó thì không rõ ông còn cố gắng đến như thế nào để ngăn chặn sự xuống dốc của nền ngoại giao Hoa kỳ lúc đó. Suy lại thông điệp ấy, ta có thể đặt câu hỏi: liệu Saddam Hussein, Bin La den đã có coi thường Mỹ không, trước khi có những hành động mà hậu quả là đã đưa thế giới tới tình trạng rối rắm như ngày nay?

    Khi tôi hỏi ông nghĩ sao đối với chỉ trích về những lời tuyên bố và công việc ông làm, ông Martin trả lời: "Tôi chỉ nói sự thật, và nếu tôi có tranh đấu cho Miền Nam, thì cũng chỉ là vì quyền lợi của nước Mỹ về lâu về dài, đó là uy tín của chính sách ngoại giao Hoa kỳ".
    Nhân dịp kỷ niệm mười năm Miền Nam sụp đổ (ngày 30 tháng 4, 1985), tờ New York Times có đăng câu phê phán của vị Đại sứ cuối cùng, được nhiều ngươi nhắc tới:

    "Rút cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ý chí dân tộc của Hoa kỳ đã sụp đổ". (In the end, we simply cut and ran. The American national will had collapsed).
    Để vinh danh ông, tôi xin mượn một phần câu ông nói làm đầu đề cho cuốn sách này.
    Ngày ông qua đời (1990), tôi gửi lời chia buồn cùng gia quyến: "Thay mặt cho những người Việt nam bạn ông, đặc biệt là những người đã được ông cứu giúp, chúng tôi bùi ngùi thương tiếc và xin chân thành chia buồn cùng toàn thể gia đình. Nguyện xin Thiên Chúa sớm đưa linh hồn ông về an nghỉ nơi vĩnh phúc".
    Chú thích:

    (1) David Butler, The fall of Saigon, trang 436.
    (2) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 549.
    (3) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 550.
    (4) U.S. Marines, "A Moment in Time With Dan Roberts", trong tài liệu "The Fall of Saigon By The U.S. Marine" vào internet "Letter to CMC@FALL of Saigon by U.S. Marines", trang 7.
    (5) George J. Church, "A Look At The Storm…" trong "The Fall of Saigon By The U.S. Marines",vào inlernet :"Letter to CMC@FALL of Saigon by U.S. Marines", trang 9.
    (6) David Butler, The Fall of Saigon, trang 386.
    (7) Henry Kisinger, Ending the Vietnam war, trang 552.
    (8) Henry Kisinger, Ending the Vietnam war, trang 540.
    (9) Colin Broussard, Ambassador Graham Martin, trong tài liệu The Fall of Saigon By The U.S. Marines, xem Letter to CMC@FALL of Saigon by U.S. Marine", trang 3.
    (10) Henry Kissinger, A World Restored, trang 547-548
    (11) Phỏng vấn John Munay, 20 tháng 4, 1985.
    (12) TIME (Magazine), 21 tháng 4, 1975.
    (13) U.S. News and World Report, 29 tháng 4, 1974
    (14) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 587.
    hết: P4 - Chương 16, xem tiếp: P4 - Chương 17

  5. #17
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy


    Nguyễn Tiến Hưng-Khi đồng minh tháo chạy
    P4 - Chương 17

    Một cố gắng cuối cùng


    "Hãy gửi đến cho ta những kẻ mệt nhọc, những người nghèo khó; những đám nhân quần co cụm, đang khao khát thở bầu không khí tự do…
    Hãy gửi họ đến cho ta: những người vô gia cư, những người bị bão tố dập vùi tơi tả; Ta đang nâng cao ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng".
    (Trích đoạn thơ The New Colossus của Emma Lazarus)

    Tay Bà giơ bó đuốc cao ngất như ánh đèn hải đăng. Từ năm 1885, Bà đứng phía ngoài hải cảng New York để đón nhận biết bao nhiêu đoàn người di dân. Nghèo khó, nhem nhuốc, họ đã tới với Bà sau những cuộc hành trình vượt đại dương khó khăn, nguy hiểm. Nhà điêu khắc Auguste Bartholai lấy cảm hứng từ tượng Hy Lạp "Người khổng lồ đảo Rhodes" (Colossus of Rhodes) đã cùng với kỹ sư Gustave Eiffel (người thiết kế tháp Eiffel) mất gần chín năm trời để hoàn thành kỷ vật nước Pháp tặng cho Hoa kỳ vào dịp lễ độc lập năm 1884. Pháp đặt tên cho kỳ công này là "Tự do chiếu sáng thế giới". Con tàu Isère đã phải chở 350 bộ phận cồng kềnh tới để lắp ráp thành tượng đặt trên đảo Liberly ngoài bờ Manhattan. Người Mỹ gọi kỳ công này là "Tượng Tự do". Việt nam ta gọi là "Nữ thần Tự do", có lẽ là vì trông bà đẹp như thần Hy Lạp, nhưng lại từ bi, bao dung (1).
    Nữ thi sĩ Em ma Lazarus (1849-1887) đã làm một bài thơ ca ngợi "Pho tượng vĩ đại mới" (The New Colossus). Mới, vì tượng ở Hy Lạp cũ, dựng lên để kính thần Apollo (304 trước Công Nguyên) là một người khổng lồ, vạm vỡ, cầm bó đuốc đứng gác cửa vào cảng Mandraki, mỗi chân đứng trên một hòn đảo. Tàu bè ra vào đều phải chui qua dưới hai chân pho tượng. Nhưng Nữ thần Tự do thì khác hẳn. Ngoài cửa biển lúc hoàng hôn, Bà cầm bó đuốc đứng chiếu sáng. Là "Mẹ của những người bị đày ải" (Mother of Exiles), con mắt Bà hiền từ như đang mời gọi.

    Theo tiếng gọi của Bà, bao nhiêu di dân từ các quốc gia khác đã sang Tân Thế Giới, thay đổi hẳn thành phần dân số Mỹ. Năm 1790, khi có cuộc kiểm tra đầu liên, đa số (75%) dân Mỹ là người gốc Anh Quốc. Từ đầu thế kỷ 19, các sắc tộc khác tới ngày một đông. Từ 1820 khi Chính phủ bắt đầu ghi chép sổ sách di trú cho đến 1975 đã có lới 50 triệu người nhập tịch. Trong thập niên 1840 và 1850, từng trăm ngàn người Đức đã tới để chạy trốn cảnh nghèo đói và bị truy nã. Gần một triệu người Irish di tản sau "nạn đói khoai tây". Cuộc di cư lớn nhất là giữa năm 1901 và 1910: tám triệu người đã tới từ Hungary, Ý, và Nga.

    Rồi bà cứ tiếp lục mời gọi, chào đón. Sau khi kết thúc bao cuộc chiến, bà còn tiếp nhận cả những đoàn người di tản, như từ Hungary (1956), Cuba (1959-1960), hay mới đây, từ một số nước Đông Âu. Cuộc chiến Việt nam kết thúc ngày 23 tháng 4, 1975. Ngày 22 tháng 4, tôi nghe tin Tổng thống Thiệu từ chức. Ngay hôm sau, ngày 23 tháng 4 (24/4 giờ Sài gòn), Tổng thống Ford lên chiếc máy bay Air Force One để đi New Orleans diễn thuyết tại đại học Tulane. Mọi người chờ đợi xem ông sẽ nói gì. Chiều hôm đó, như để lấy thêm can đảm, ông Ford đã uống một ly rượu cocktail, trong một tiệc chiêu đãi. Thế rồi dõng dạc, ông bước vào nơi tụ hợp. Đây là một sân chơi banh trong nhà rất rộng rãi, đã chật ních với hàng ngàn sinh viên. Cử toạ vỗ tay chào đón, cũng bình thường như đã diễn ra ở các đại học khác mỗi khi có Tổng thống tới thăm.

    Thế nhưng, bầu không khí bỗng nhiên đổi hẳn khi Tổng thống Ford chậm rãi nghiêm nghị, dằn từng tiếng:
    "Đối với Hoa kỳ, chiến tranh Việt nam đã kết thúc rồi".
    Giảng đường như muốn vỡ ra vì tiếng vỗ tay, huýt sáo, la hò vui mừng. Câu tuyên bố lịch sử này đã được đánh máy thêm vào bài diễn văn lúc chiếc Air Force One còn đang bay trên vòm trời cao (2):
    "Nước Mỹ có thể lấy lại được niềm hãnh diện đã có trước (chiến tranh) Việt nam. Nhưng niềm hãnh diện ấy sẽ chẳng có thể đạt được bằng cách tham dự trở lại một cuộc chiến mà riêng đối với Mỹ nó đã chấm dứt rồi".

    Phụ tá Ron Nessen nhận xét là chỉ mới hai tuần trước đó, ông còn ra Quốc hội đọc diễn văn xin thêm quân viện cho VNCH, mà tại Tulane, "chẳng thấy ông nói một lời nào nữa về viện trợ thêm cho Miền Nam". Tổng thống Ford chỉ nói tới tương lai:
    "Theo tôi, bây giờ đã tới lúc chúng ta phải nhìn tới một nghị trình cho tương lai. Tôi yêu cầu là ta hãy ngừng hẳn chiến trận, cũng như những lời buộc tội, tố cáo lẫn nhau của quá khứ. Tôi yêu cầu chúng ta hãy chấp nhận trách nhiệm của lãnh đạo, chúng ta sẽ là hàng xóm tốt đối với mọi người và những là thù địch của bất cứ ai".

    Và như vậy, ông Ford đã làm một việc mà trong 30 năm, chưa Tổng thống Mỹ nào làm nổi". Mọi người trong đoàn tuỳ tùng của Tổng thống tại Đại học Tulane đều hết sức vui vẻ, kích động về lời tuyên bố này (3).

    Thế là xong. Ông Hương vừa mới lên chức Tổng thống được vài ngày, Tổng thống Mỹ đã nói "toạc móng heo" ra là đối với Hoa kỳ, chiến tranh Việt nam đã kết thúc rồi". Ở Sài gòn. khi được các thuộc cấp cho hay về bài diễn văn, ông Von Marbod xúc động: "Ông Ford đã giơ cao tấm vải giường trắng. Tôi đã vô cùng bàng hoàng và hổ thẹn".
    Miền Nam đã đi vào dĩ vãng. Nhưng còn tàn dư của cuộc chiến, và đối với những người bại trận thì sao đây? Chẳng thấy ông Ford bình luận gì, hay là muốn lờ đi chăng? Chỉ thấy báo chí nói tới Chính phủ đang cho di tản gấp rút số người Mỹ và một số người làm cho Mỹ. Nghe tin tức từ hành lang Quốc hội là tất cả cũng chỉ 50,000 người Việt thôi, tôi nhất định hoạt động tối đa để cứu vớt đám người đang tuôn ra Biển Đông (4).

    Về việc Mỹ chỉ định cứu một số người quá giới hạn như vậy, sau này đã được Đại sứ Martin xác nhận trong một buổi điều trần tại Quốc hội như đã trích dẫn trong chương 14. Vì tính cách lịch sử của tài liệu này (nó chứng minh rõ ràng về số người và ngày giờ mà Washington định cứu), tôi đã trích nốt phần của văn bản ông Martin điều trần trước Quốc hội ngày 27 tháng 1, 1976 (ngày kỷ niệm năm thứ ba của Hiệp định Paris) và in vào Phụ Lục. Để nhấn mạnh về thời điểm của ngày 25 tháng 4, 1975, ông còn nói tiếp:
    "Vào ngày 25 tháng 4 (1975), sau cùng, Toà đại sứ mới nhận được quyền cho phép tạm dung thêm số người thân nhân (người Mỹ) và một giới hạn là 50.000 người Việt vào thành phần chịu rủi ro cao độ. Đó là chỉ còn có 4 ngày trước lúc cuối cùng rời khỏi Việt nam" (5).

    Nhìn vào Nữ thần Tự do
    Làm gì được bây giờ đây? Tôi tự hỏi. Hồi năm 1954, sau hiệp định Genève, cũng có cuộc di tản. Gần một triệu người được tàu Mỹ chở vào Nam. Sau đó Mỹ còn giúp tiền bạc cho ngân sách định cư. Thời gian di tản lại được kéo dài tới 300 ngày. Và lúc đó chấm dứt chiến tranh căn bản là giữa quân dội Việt Minh và Pháp. Bây giờ, sau mười năm trời trực tiếp can thiệp với trên nửa triệu quân, chiến đấu bên cạnh một triệu quân đội VNCH, thiệt hại bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu tiền của, chẳng lẽ lại chỉ di tản có 50,000 người thôi? Đã 30 năm rồi mà mỗi khi tới ngày 30 tháng 4 (1 tháng 5 giờ Việt nam), hình ảnh pho tượng Nữ thần Tự do lại hiện ra rõ ràng trong trí óc tôi. Hè 1958, khi lên New York lần đầu tiên, tôi được ra đảo Liberty để du ngoạn. Rất là thích thú. "Pho tượng đẹp và hùng vĩ quá sức", tôi nói với anh bạn hướng dẫn. Thế thôi, không có ấn tượng gì sâu xa cho lắm sau chuyến đi. Nhưng ngày 30 tháng 4, 1975 (tại Washington) thì khác. Buổi sáng hôm ấy, tôi hết sức mệt mỏi, rã rời, vì những biến cố, trăn trở từ mấy tuần trước. Và phải sửa soạn để sắp sẵn một công việc mà đối với tôi nó là lịch sử trong cuộc đời. Tâm trí tôi lúc đó rối bời. Không biết phải làm gì để cứu vớt thêm đoàn người đang bồng bế nhau túa ra Biển Đông.
    Nhưng rồi, như một tia sáng chiếu rọi, tôi nghĩ đến Nữ thần Tự do, và tới đoàn người Cuba di tản hồi năm 1960, sau khi Fidel Castro lên nắm chính quyền. Bạn bè và thân nhân của họ là người Mỹ gốc Cuba lúc đó đã tranh đấu thành công. Tôi còn nhớ là hồi đó họ đã đăng tải rất nhiều lời kêu gọi lòng từ tâm của nhân dân Hoa kỳ trên các báo chí với hình pho tượng Nữ thần Tự do. Tôi lại nảy ra ý nghĩ là mình cũng có thể làm như vậy.

    Hiện trong tay, tôi đã mang đi được toàn bộ hồ sơ mật về những trao đổi giữa hai Tổng thống Nixon, Ford và Tổng thống Thiệu. Như những lá thư tình, nếu chỉ là một vài thư lẻ tẻ thì người ta có thể cho là nó đã được viết trong lúc tình nhân bốc đồng. Nhưng gộp chung lại, và đặt nó trên căn bản thương thuyết là bốn năm trời, thì tất phải có ý nghĩa sâu xa. Tôi suy luận: người Mỹ đặt cao những giá trị xây trên căn bản công bình sòng phẳng. Do vậy, họ luôn đặt nặng cái quyền hạn chính mình. Chẳng vậy mà cứ 1.000 người thì đã có tới 3.1 luật sư, quá nhiều so với các nước khác như Pháp (0.4), Đức (0.8), Nhật (0.1). Như thế, tôi nghĩ nếu mình dựa trên căn bản công bình (Chính phủ Mỹ đã bội ước với nhân dân Miền Nam) và kêu gọi tới tinh thần bao dung, mà biểu tượng là Nữ thần Tự do, thì may ra có hy vọng phần nào sẽ cứu được một số người đông hơn.

    Tôi muốn in ngay cả một trang cầu cứu "SOS" trên tờ washington Post và một trên tờ New York Times. Nhưng lấy tiền đâu mà in bây giở? Trường hợp cầu cứu di dân Cuba là công việc của cả một tập đoàn, và với đầy đủ phương tiện tài chánh. Bây giờ đơn thương độc mã, trong túi tôi chỉ vỏn vẹn có 300 đô la lúc rời Sài gòn. Mà mỗi trang báo cũng phải trả 6.000 đô la.
    Ngày 14 tháng 4, khi Tổng thống Thiệu bảo tôi đi Washington công tác, tôi cũng đã nghĩ đến việc đăng hai tờ báo này nhưng mục đích lúc đó là để cầu cứu Quốc hội chấp thuận cho VNCH vay tiền, thay vì bỏ phiếu chống viện trợ. Một lần duy nhất nói tới tiền bạc, tôi đề nghị Tổng thống Thiệu cấp cho tôi một ngân khoản là 20.000. Số này sẽ dùng đăng hai thông báo (12.000). Số còn lại 8.000 để tôi chi tiêu cho chuyến di và ngoại giao hành lang như hội họp, chiêu đãi. Ông Thiệu chấp thuận ngay, nhưng ông lại không đưa tiền và nói tôi sang Thủ tướng yêu cầu cho trích từ Quỹ VINOPO. VINOPO (Vietnam Procurement Office) là một Cơ quan Tiếp vận đặt tại Đại sứ VNCH, Washington, D.C. Cơ quan này đấu thầu và mua gạo về Sài gòn qua chương trình viện trợ Mỹ. Mỗi một tấn gạo phải đóng vào quỹ VINOPO là 1 đô la. Đó là cơ quan đã được lập ra năm 1973 vừa để giúp tiếp vận vừa để có ngân quỹ lo việc hoạt động ngoại giao. Hè năm 1973, có lần tôi hỏi Tổng thống Thiệu xem công việc ngoại giao hành lang, "public relation" của VNCH ra sao? Ông cho biết căn bản không có gì hết, chỉ có cơ quan chính thức là Toà đại sứ mà thôi! Làm sao lại có thể như vậy được? Những quốc gia đồng minh có quan hệ quan trọng với Mỹ như Đài Loan, Do Thái, Đại Hàn, đều có vận động hành lang rất rộng rãi. Sau đó VINOPO được thành lập, nhưng VNCH cũng chưa tổ chức được những vận thông hành lang.

    Vừa tới Washington, tôi gọi cho Giám đốc VINOPO, cũng là một anh bạn tôi, nhưng anh ấy lại không có mặt ở sở vì đang trên đường đi công tác mua gạo. Nhìn vào ngân khoản tiết kiệm của gia đình, thấy còn gần ba ngàn đô, tôi bèn tạm mượn mang ra tiêu vào công tác vận động. Muốn gặp được bà thơ ký hay anh phụ tá cho một nghị sĩ hay dân biểu, dù là chỗ quen biết, chỉ có cách là mời dùng cơm trưa hay cơm chiều để khỏi mất thời giờ của họ thì may ra mới mời được. Sáng ngày 15 tháng 4, anh bạn Giám đốc VINOPO trở về Washington. Anh ấy điện thoại ngay cho tôi và cho biết là ngân quỹ trong sở đã bị nhân viên biển thủ hết rồi! Và anh đã khai báo đầy đủ cho cơ quan FBI. Thế là kế hoạch đăng báo lại phải bỏ đi. Sau này, vì không hoàn lại được số tiền vay của gia đình, tôi cũng đã gặp phải vấn đề khó khăn.

    Hãy cứu vớt đoàn người lênh đênh trên biển cả
    Bây giờ, tôi muốn đăng hai tờ báo để xin cứu vớt người tỵ nạn. Không có tiền và chẳng biết làm gì khác, tôi tìm đến ông Warren Nutter, ông thày cũ, trước làm Phụ Tá Bộ trưởng quốc phòng phụ trách về khía cạnh kinh tế của chương trình "Việt nam hoá" thời Nixon. Ông đã tận tình ủng hộ VNCH trong thời gian qua và đã sang Sài gòn gặp riêng ông Thiệu để cố vấn. Mời ông về nhà dùng cơm trưa, tôi muốn ông cố vấn để cứu giúp người di tản. Giữa lúc đó thì máy điện thoại reo, và ở đầu giây bên kia là Von Marbod, gọi từ Tân Sơn Nhất: "Tôi đang trông thấy Rick bế mẹ già anh lên chiếc C-141, và gia đình anh đang bước lên tiếp theo". Rick Armitage (Thứ trưởng ngoại giao dưới thời Tổng thống George Bush, nhiệm kỳ đầu) đã lái xe tới nhà chị tôi ở đường Phan Đình Phùng và chở bà cụ cùng gia đình ra phi trường để bay sang phi cảng Clark ở Phillippines. Hoá ra thay vì đợi tôi về, vừa vừa có quyền cho tạm dung vào Mỹ, Đại sứ Martin đã cấp giấy phép để Von Marbod cùng Rếch Armitage di tản gia đình tôi. Hôm ấy là ngày 25 tháng 4.

    Yên tâm cho mẹ già rồi, nhưng còn bạn bè, đồng bào thì sao đây? Tôi hỏi ông Nutter xem có nên gặp ông Kissinger hoặc Schlesinger để kêu nài họ giúp tăng số di tản hay không? "Ít nhất Mỹ cũng phải cho tỵ nạn một triệu người, bằng số di tản từ Bắc vào Nam năm 1954", tôi muốn đề nghị. "Họ đã phủi sạch tay về Việt nam rồi", - ông Nutter nói. "Để tôi nghĩ xem có cách nào khác không". Hôm sau, ông gọi lại và cố vấn cho tôi: "Có lẽ tranh đấu bằng một cuộc họp báo là có hiệu quả nhất". Vì các hãng thông tấn sẽ phổ biến rộng rãi, toàn cầu. Ông nói rồi ông sẽ xem lúc nào là thời điểm tốt nhất để làm việc này. Tôi vội vàng ngồi xuống làm việc liên tục nhờ mấy ly cà phê thật đậm để phác thảo một bài diễn văn sẽ dọc khai mạc cuộc họp báo. Nhưng bây giờ xong cuộc rồi, tôi có tư cách gì mà lại đòi họp báo như các quan chức lớn? "Nếu anh nhất định tiết lộ mấy cái thư mật thì tôi chắc các hãng thông tấn sẽ tới", ông Nutter góp ý. Không còn đắn đo gì nữa, tôi trả lời: "Vâng tôi đã quyết định rồi".

    Quẩn trí, tôi tiếp tục liên lạc với mọi người quen biết trên Quốc hội, cả trong lẫn ngoài chính quyền. Không nhẽ đối với nhân dân Cuba, dù Mỹ chưa có đổ máu chiến đấu, mà còn tiếp cứu tới 650.000 người khi Fidel Castro lên nắm quyền, mà lúc này lại chỉ nghĩ đến con số có 50.000 người Việt thôi, tôi tự hỏi.
    Việc thấy phải làm ngay là đối với anh em trong Bộ Kế hoạch và Phát Triển của tôi. Tôi liền đến nhà bà Anna Chennault (ở ngay trong toà nhà Watergate), chủ tịch hãng máy bay Flying Tigers để yêu cầu bà cố giúp cho một máy bay vào Sài gòn di tản ban lãnh đạo và nhân viên tại Bộ. Là người có nhiều cảm tình với Việt nam và cũng đã thu được nhiều lợi lộc vận chuyển hàng hoá vào Sài gòn trong các năm trước, bà đã đồng ý. Thế nhưng, khi máy bay đáp xuống Phillippines thì phải ngưng lại vì Tân Sơn Nhất đã bị ném bom, pháo kích!
    Về những liên lạc riêng tư, chúng tôi cũng đã liên lạc với nhiều nghị sĩ và dân biểu để yêu cầu họ viện trợ, và nếu không được thì cứu giúp đoàn người di tản. Chúng tôi có nhận được tất cả là 31 thư trả lời (xem danh sách). Hầu hết là họ đã duỗi ra. Có ông nghị tên là Bennett Johnston, tiểu bang Mouisiana còn viết mỉa mai về việc xin cứu trợ cho công cuộc di tản:
    "Đạo luật (về giúp di cư) đang được Quốc hội xem xét đã có điều khoản rõ ràng cấm chỉ không được giúp một nước cộng sản hoặc trực tiếp hay gián tiếp qua một cơ quan như Liên Hiệp Quốc. Theo tôi, Miền Nam Việt nam giờ đây đã nằm dưới quyền kiểm soát của cộng sản rồi, bởi vậy viện trợ hay cứu trợ phải được cung cấp từ các nước đã viện trợ quân sự cho Bắc Việt - Nga Xô và Trung Cộng".

    Tôi lại lìm đến vị Tuyên Uý Thượng Viện, Mục sư Edward Elson. Nói tới hình ảnh người xứ Samaritan đầy lòng nhân ái trong Kinh Thánh, tôi nhờ ông tác động những phần tử tương đối còn chút hảo tâm: "Hãy cứu vớt đoàn người chúng tôi đang trốn chạy ra biển cả," tôi cầu cứu. Mục sư Elson đã hợp tác chặt chẽ. Ông liền gọi cho một số nghị sĩ để đánh động lương tâm của họ đừng chống đối việc tỵ nạn của người Việt nam nữa.

    Sáng ngày 29 tháng 4, radio vẫn nói tới con số di tản giới hạn. Nhưng vào khoảng trưa, tôi nghe loáng thoáng là người ta đã bắt đầu nói tới con số kế hoạch 120.000 người Việt bây giờ được liệt vào thành phần có "nguy hiểm cao độ". Lại thêm chút hy vọng. Biết đâu, biết đâu đấy, Chính phủ Hoa kỳ đã thay lòng đổi dạ được đôi phần. Dù chỉ là một tia hy vọng nhỏ nhoi, nó cũng đã giúp nâng đỡ tinh thần sa sút của tôi lúc đó tiếp tục hoạt động và theo rõi tin tức từng giờ từng phút, tôi gọi ông Nutter vào buổi chiều, khi ông còn đang ở văn phòng tại Viện Kinh Doanh Mỹ (American Enterprise Institute) tren phố 117th, Washington D.C. để hỏi ý ông xem đã tới lúc họp báo chưa? Viện này được gọi là Bộ óc (Think Tank) của Đảng Cộng Hoà. Tuy nhiên, ở đó cũng có nhiều người không đồng ý với Chính phủ Ford lúc đó. "Giờ chót sắp tới rồi; bất cứ lúc nào. Người ta đang ùa ra biển để chờ được cứu vớt", ông bảo tôi đến gặp ông ngay. Tôi đưa ông xem bài diễn văn tôi vừa soạn xong. Ông góp thêm ý cho tôi là phải nói việc cứu vớt việc người di tản không những là một bổn phận mà về lâu về dài, còn có lợi cho Mỹ. Ông có ý kiến là tôi sẽ chỉ tiết lộ ra độ hai, ba bức thư thôi, còn giữ lại làm đòn bẩy (lever). Ý ông muốn nói là cứ thử để xem kết quả ra sao. Nếu họ cứ nhất định chỉ cho di tản có 50.000 thì mình sẽ tính bước tới".

    Chúng tôi ra đường đi bộ tới khách sạn May Flower nằm gần ngay bên cạnh, trên đường Connecticut Avenue, để thuê một phòng làm địa điểm họp báo. Giá phòng họp là 250 đô la. Trương mục tiết kiệm của gia đình thì tôi đã tiêu hết. Tôi lại không muốn hỏi ông Đại sứ VNCH tại Washingon vì e ngại là ông sẽ cản cuộc họp báo lại. Chỉ còn đúng 200? Ông Nutter mủi lòng bèn xuất tiền riêng giúp thêm 50 đô la, đủ để thuê phòng lớn họp báo.

    Buổi trưa ngày 30 tháng 4, (mồng 1 tháng 5 giờ Sài gòn), ông Nutter dùng phương tiện của Viện gửi một bản thông cáo cho các phóng viên và ký giả qua hãng thông tấn Associated
    "Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Cựu phụ tá đặc biệt của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sẽ tổ chức một buổi họp báo lúc 4 giờ chiều hôm nay tại Khách sạn May Flower, Phòng Pan America, để nói về bản chất những thoả thuận bí mật giữa cựu Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu. Sẽ tiết lộ hai lá thư của ông Nixon gửi ông Thiệu".

    Đúng giờ, các ký giả báo chí và truyền hình ào ào kéo đến. Mọi người ai cũng nhao nhao, nóng ruột. Không muốn mất thì giờ, họ chỉ muốn đến để lấy mấy bức thư chứ không muốn nghe trình bày dài dòng văn tự. Thái độ quá khích của báo chí khiến tôi thêm phần bực tức. Vì đã nghe họ bình luận quá nhiều về miền Nam trong bao nhiêu năm qua, tôi lên giọng, nói oang oang vào micro:

    "Thưa quý vị, đây là chỗ của tôi. Quý vị phải cho tôi cơ hội giải thích cái bối cảnh của các lá thư đó trước khi tôi trao cho quý vị. Nếu vị nào không muốn nghe tôi giải thích thì xin mời ra".
    Có tiếng lao xao càu nhàu, la ó. Nhưng tôi cứ tiếp tục:
    "Thưa Quý vị,
    "Cảm ơn quý vị đã tới đây khi mới chỉ vừa được thông báo;
    "Mục đích cuộc họp mặt hôm nay là để tôi mang ra ánh sáng cho công luận biết đến một số sự việc liên hệ tới trách nhiệm của Hoa kỳ đối với nhân dân miền Nam Việt nam. Cụ thể hơn, tôi muốn nói tới những cam kết mật của Hoa kỳ đối với Việt nam vào thời điểm thương thuyết hiệp định Paris…"
    Đề cập qua tới việc ông Thiệu và Chính phủ ông đã từ chức, tôi nói tiếp:
    "Giờ đây, tôi đang nói chuyện với quý vị với tư cách cá nhân. Tôi làm công việc này nhất mực theo lương tâm của tôi, và Tổng thống Thiệu hoàn toàn không biết trước".
    "Tôi chắc chắn rằng việc tôi nói với quý vị hôm nay không những nó có liên quan tới quyền lợi của người Việt nam, nhưng về lâu dài, nó còn liên quan trực tiếp tới quyền lợi của nhân dân Hoa kỳ".

    Bằng một cách nhắc khéo tới lời tuyên bố cạn tầu ráo máng của Tổng thống Ford mấy hôm trước đó là "hãy quên đi quá khứ và nhìn tới một nghị trình tương lai", tôi tiếp:
    "Không thể có tương lai, nếu không có dĩ vãng và hiện tại. Làm sao mà có được một nghị trình tốt cho tương lai nếu không hiểu biết thấu đáo và làm kết toán đày đủ về hiệu quả của những gì mình đã làm trong quá khứ? Chữ tín của nước Mỹ, một yếu tố nhiều khi là quyết định giữa hoà bình hay chiến tranh, cần phải được các quốc gia coi trọng nếu chính sách ngoại giao Hoa kỳ muốn được thành công".

    Sau đó tôi tóm tắt diễn tiến của cuộc hoà đàm Paris, nhấn mạnh việc Mỹ đã bội ước. Tổng thống Nixon và Cố vấn Kissinger đã ép ông Thiệu phải ký kết, trên căn bản là củ cà rốt và cái gậy. Củ cà rốt là Hoa kỳ đã cam kết rất rõ ràng là sẽ tiếp tục viện trợ đầy đủ cho VNCH và bảo đảm thực thi hiệp định đình chiến. Tôi chỉ trưng vài đoạn quan trọng trong hai bức thư của Tổng thống Nixon (thư ngày 14 tháng 11, 1972, và ngày 5 tháng 1, 1973). Để kích thích sự tò mò, tôi nói thêm là tôi chỉ cho họ xem hai lá thư này, nhưng còn giữ nhiều thư khác. Rồi trưng một vài đoạn từ một bức thư đề ngày 17-1-1973 trong đó, Nixon còn nói rõ hơn về những mật ước đối với Miền Nam.
    Nhấn mạnh là với những cam kết vững vàng đó, VNCH đã chấp nhận ký vào bản Hiệp định ngày 27 tháng 3, 1973 giúp Hoa kỳ thu lượm được bốn kết quả rõ ràng:

    - thứ nhất, rút được hết quân đội Mỹ về;
    - thứ hai, toàn bộ 519 tù binh Mỹ được thả,
    - thứ ba, được tuyên bố là đã mang lại "Hoà bình và danh dự" và giữ được uy tín cho nước Mỹ; và
    - thứ tư, tiết kiệm được 20 tỷ một năm.

    Còn Miền Nam đã được gì? Kéo dài được hai năm. Bây giờ thì phải gánh chịu bao nhiêu hậu quả, và gánh chịu một mình!"
    Trong hài diễn văn, vì nghe theo lời cố vấn của Warren Nutter, tôi đã hoàn toàn tránh né, không đả động gì tới những mật thư của chính Tổng thống Ford gửi. Như vậy để xem ông Ford đối xử ra sao với việc di tản.

    Tôi chỉ dùng vài lá thư của Tổng thống Nixon để lập luận xin cứu vớt đoàn người đang đổ xô ra Biển Đông:
    Kính thưa quý vị,
    Tôi xin kết thúc buổi trình bày ngày hôm nay với chỉ một lời cầu khẩn tới nhân dân Hoa kỳ. Chắc chắn rằng nhân dân tôi đang muốn cùng tôi khiếu nại là CÔNG BÌNH và SÒNG PHẲNG phải được đưa ra để đối xử với họ, dù là điều kiện chính trị nội bộ Hoa kỳ ra sao đi nữa;
    "Tôi tin tưởng rằng với quyền lực lớn mạnh về kinh tế và ngoại giao, trong giờ phút này đây, nước Mỹ vẫn còn có thể làm được một công việc hoàn toàn nhân đạo, đó là cứu với mạng sống đoàn người đang di tản".

    "Nếu những cam kết này đã không được tôn trọng, thì Hoa kỳ có thể đền bù vào đó bằng cách dàn xếp và cứu vớt ít nhất là một triệu người dân Việt nam;"
    "Năm 1954, Hoa kỳ đã giúp di chuyển gần một triệu người từ miền Bấc vào Nam. Giờ đây, sau khi trực tiếp tham gia vào một cuộc chiến kéo dài, giúp tị nạn một số người ít nhất cũng hằng như vậy thì không phải là một việc quá đáng. Tối thiểu, vào giờ phút này, Hoa kỳ cũng vẫn còn có thể sắp xếp để có được một khoảng thời gian ra đi tự do, hầu giúp cho một số đông hơn được di tản.

    Nhân danh lương tri của nhân dân Hoa kỳ, quí vị hãy nghĩ tới những người đã trông cậy và tin tưởng vào bao nhiêu hứa hẹn của đồng minh trong hai mươi năm trời".
    Trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng nếu như năm 1954, thời gian ra đi tự do được quy định là 10 tháng, thì ít nhất bây giờ cũng phải được một tháng!
    Bà quay mặt về đâu?

    Khi nói xong, tôi có phát bản sao hai lá thư trên. Một số ký giả và người quay phim vây chung quanh, đi theo tôi ra hành lang khách sạn. Murray Marder, ký giả tờ Washington Post ngó lời an ủi là nghe xong, ông có nhiều thiện cảm với dân tộc Việt nam hơn. Ông nói "tôi sẽ cố giúp". Nhiều nhà báo tiếp tục đặt thêm những câu hỏi này nọ, như về tham nhũng, độc tài, quân đội bỏ chạy, tại sao di tản, v.v. Tôi lờ đi. Một nhà báo có bộ râu hàm đen rậm cứ nằng nặc xin bản sao lá thư thứ ba mà tôi có trích dẫn nhưng đã không phổ biến. Sau khi tham khảo ý kiến với ông Nutter, tôi đã từ chối. Anh ta tỏ ra rất bực tức

    Đến khi khi có phóng viên hỏi thêm:
    "Thưa ông, cứ cho là Hoa kỳ đã bội ước, nhưng còn lý do gì khác khiến chúng tôi phải đưa người Việt vào Mỹ không?"
    Tôi nói ngay tới cái lý do mạnh mẽ nhất:
    "Tượng Nữ thần Tự do đang nhắc nhở cho chúng ta rằng nước Mỹ là đất của những kẻ bị truy nã, của di dân".
    Đến khi nghe thấy nói tới "Nữ thần Tự do" để yêu cầu cứu vớt tỵ nạn, anh chàng ta vội xen vào một câu xỏ xiên: "Tôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ thần Tự do quay mặt về phía Đại Tây Dương".

    Ý nói là Bà quay lưng về phía Thái Bình Dương, phía Việt nam chúng ta?
    Vô cùng đau đớn, tôi đã không cầm được nước mắt. Ông Nutter sửng sốt và phẫn nộ. Kéo tôi sang một bên, ông an ủi: "Anh đã làm một việc ích lợi cho xứ sở anh. Rồi đây nó sẽ tạo được nhiều thiện cảm, và tôi hy vọng rằng số người Việt được cứu sẽ tăng lên nhiều".
    Niềm yên ủi vô biên

    Sau đây là những sự việc liên hệ tới cuộc họp báo và việc tiết lộ một số những bức thư mật:
    Cùng ngày đó, ông Von Marbod mời tôi ăn tối tại một quán nhỏ ở Mclean. Tuy là một bữa ăn đạm bạc theo tiêu chuẩn Mỹ, nhưng đôi với tôi nó là bữa ăn nhớ đời. Cho đến bây giờ nó vẫn ghi dấu ấn đậm vào trí óc tôi bởi câu nói của ông Marbod: "Tốt, tốt. Nhưng tôi nghĩ bấy nhiêu là đủ rồi, anh khỏi cần tiết lộ thêm nữa. Tôi được biết là trong vòng mấy ngày tới, tàu Mỹ sẽ vớt hết tất cả những ai ra được ngoài biển".

    Ăn cơm tối xong, tôi bắt đầu lo về chuyện mình đã tiết lộ là còn giữ nhiều mật thư khác (dĩ nhiên là trong đó có cả thư của Tổng thống Ford), tôi vội tới nhà một người bạn ở vùng Maryland để ẩn trốn gần một tuần lễ.
    Ngày mồng 2 tháng 5, nhiều báo chí Mỹ và quốc tế, đặc biệt là hai tờ uy tín nhất, Washington Post và New York Times đã đăng tải cuộc họp báo và đặt rất nhiều câu hỏi chung quanh vấn đề mật thư. Tờ Washington Post đăng một hình hí hoạ của đại tài Herblock với đầy ý nghĩa thích hợp. Hình vẽ Quốc hội Mỹ đang cho hai ông Ford, Kissinger xem và hỏi về những thư cam kết trong các lá thư của Nixon (xem hình).

    Báo chí còn tìm xem có phải thư thật hay thư giả, và có phải chữ ký của Nixon hay không? Rất nhanh, Toà Bạch Ốc đã phải chứng nhận về tính cách xác thực của nó. Đối với Tổng thống Ford, lúc đó thì ông đã biết thực sự là có những mật thư này vì ngày 5 tháng 4 (như đã thuật lại trong Chương 10) tôi đã nhờ được tướng Weyand (qua Von Marbod) đưa tận lay cho ông vài bức thư. Và theo lời Von Marbod, ông đã xúc động. Sau đó ông ra phi trường đón tiếp lớp trẻ mồ côi Việt nam vừa được chở tới San Francisco. Tay bồng một em bé, ông bước xuống máy bay, có chiều âu yếm. Và từ giây phút này, có thể là ông đã thay đổi thái độ đối với vấn đề tị nạn. Trước đó, dù sau cuộc rút lui đầy trắc trở của Quân Đoàn 11 và cuộc di tản kinh hoàng từ Đà Nẵng, ông Ford vẫn bình chân như vại, đi Palm Springs đánh gôn. Và Ngoại trưởng Kissinger còn mời ông bà Tổng thống tới nhà dùng cơm với Frank Sinatra. "Chúng ta không thể để Tổng thống đi như vậy được", Robert Hartmann, một nhân viên của ông Ford phải than lên. "Nếu lại đi ăn với Sinatra vào cuối của tuần lễ mà Tổng thống đã bị chỉ trích hằng ngày là chỉ vui chơi trong khuôn viên những nhà triệu phú đang khi Việt nam bốc cháy, thì hình ảnh của ông Ford sẽ còn bị ê chề hơn nữa", Phụ tá Ron Nessen kể lại (6). Năm 1985 khi chúng tôi phỏng vấn Tổng thống Ford và đưa cho ông đọc lại mấy bức thư của Tổng thống Nixon, ông vẫn còn tỏ vẻ ngậm ngùi: "Không còn một nghi ngờ nào hết, đây là những lời cam kết vô cùng quyết liệt" ("Well, there is no doubt these were very categorical commitments").

    Như đã thuật lại, Tổng trưởng quốc phòng Schlesinger, người đã rất thờ ở lúc con thuyền Miền Nam sắp chìm đắm, cũng đã phàn nàn rằng:
    "Tôi tin rằng Tổng thống Ford đã bị lừa bịp về những lá thư này";
    "Quốc hội không hề hay biết chút gì về mấy lá thư đó khi họ bắt đầu chạy làng khỏi Việt nam vào mùa hè 1973";
    "Tôi còn nhớ tôi đã vô cùng sửng sốt khi đọc một số lá thư ấy, vì chúng có nghĩa là Hoa kỳ đã chạy làng những nghĩa vụ mà chính Tổng thống đã cam kết. Tuy nhiên, nếu ta không biết được là có những nghĩa vụ được cam kết thì ta đâu biết được là Hoa kỳ đã chạy làng".
    (I believe Ford as being bamboozled on the letters;
    Congress know nothing of these letters, when it started bugging out of Vietnam in the summer of 1973,
    "I remember how surprised I was when the letters surfaced, because I felt that the meant a welching by the United States on commitments that had been entered into by the President. However, if you don t know the commitments have been entered into, you don t know the country has welched")
    Đúng ba ngày sau cuộc họp báo, mồng 3 tháng 5, Kissinger thay đổi thái độ. Như Uỷ ban liên bộ định cư Đông Dương (Indochina Interagency Task Force) đã báo cáo: "Ngoại trưởng Kissinger đã yêu cầu Tổng thống Ford cho phép cấp quyền "tạm dung" cho 150.000 người Việt và Kampuchia tỵ nạn, với điều kiện là Chính phủ phải cố gắng tái định cư 20.000 người tại các quốc gia khác. Tổng thống Ford đã chấp thuận và thông báo cho Tổng trưởng Tư Pháp" (6).
    Còn về phía lập pháp của Mỹ?

    Sau đây là những lời tuyên bố của một số những bàn tay đao phủ đã đưa dao lên cắt đứt viện trợ cho Miền Nam:
    Phản ứng tức thời tại Quốc hội là có nhiều nghị sĩ, dân biểu đã rất ngạc nhiên về những tiết lộ trong cuộc họp báo. Tờ New York Times (2 tháng 5, 1975) đăng tin nghị sĩ Henry Jackson tuyên bố:
    "Thật là lố bịch và nguy hiểm khi Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ phải nhờ vào quan chức ngoại quốc (ông Hưng) để mới biết được những văn kiện tối quan trọng"; ông còn thêm rằng: "Khi không chịu tiết lộ rõ ràng bản chất và văn bản của những thoả thuận sơ bộ với Miền Nam, phía Hành pháp đã lừa dối một Chính phủ ngoại quốc cũng như Quốc hội Mỹ về bản chất và quy mô những điều do Hoa kỳ cam kết với quốc gia đó"(7)
    Nghị sĩ Mike Mansfield tiếp theo: "Thật là chuyện bất ngờ ("It looks like the jacks are coming out of the box… "), tôi nghĩ rằng sự việc này càng được sớm làm sáng tỏ ra thì càng tốt cho tất cả mọi người chúng ta". (8)

    Cùng một ngày, Uỷ ban Ngoại giao Thượng Viện, một Uỷ ban lãnh đạo việc cắt viện trợ, đã yêu cầu Tổng thống Ford cho xem bản sao những trao đổi mật giữa hai Tổng thống Nixon - Thiệu. Nhưng ông Ford đã từ chối phắt đi. Trong một bức thư gửi nghị sĩ John Sparkman, chủ tịch của Uỷ ban, ông đã nại tới "quyền hành đặc biệt của Hành pháp" để làm căn bản cho việc từ chối, và khuyên rằng "chúng ta nên xếp lại vào quá khứ những cuộc tranh luận có tính cách chia rẽ về vấn đề Việt nam". (9)
    Nghị sĩ Henry Jackson, Uỷ ban Quốc phòng Thượng Viện:
    "Những tiết lộ mới đây đã cho hay rằng ngành hành pháp đã lừa dôi một Chính phủ nước ngoài và Quốc hội về những cam kết của Hoa kỳ đối với Miền Nam Việt nam từ 1972 tới 1973"; Chính phủ Ford đã tố cáo Quốc hội là đã vi phạm những cam kết và những ràng buộc đối với Miền Nam, những điều mà Quốc hội chưa bao giờ được nghe tới, chứ đừng nói đến là đã chấp thuận";

    "Thật là một trạng thái kỳ cục và nguy hiểm khi Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ phải dựa vào quan chức ngoại quốc mới biết được những trao đổi quan trọng, nó được tung ra bất cứ lúc nào, do một Chính phủ ngoại quốc, giống như mấy con thỏ nhẩy ra khỏi cái mũ của nhà ảo thuật"; (10)
    Nghị sĩ Frank Church, người chống đối cả viện trợ, cả việc giúp di tản.

    "Hồi đó chẳng ai nói gì với chúng tôi về những cam đoan mà Hoa kỳ sẽ phải gánh vác. Tôi không nhớ là đã có người nào thông báo cho Uỷ ban tôi biết là đã có một cam đoan nào, dù được viết xuống, hay minh thị, hoặc bằng cách nào khác. Cảm tưởng rõ rệt lúc này của chúng tôi là không có điều gì dấu diếm chúng tôi cả;"(11)
    Nghị sĩ Jacob Javits, Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng Thượng Viện, người khởi xướng cắt quân viện hè 1974 (đã tuyên bố sau khi phía hành pháp cãi là những bức thư này chỉ là cam kết về tinh thần, không có giá trị pháp lý): "Muốn gọi mấy tài liệu đó là gì đi chăng nữa đáng lý chúng đã phải được đưa ra cho Uỷ ban Ngoại giao Thượng Viện cùng với những tài liệu khác liên quan đến Hiệp định Paris".

    Ngày 4 tháng 5, tôi gọi điện thoại cho vị Tuyên Uý Thượng Viện, Mục sư Elson. Ông vui mừng cho hay là phản ứng tại Quốc hội có chiều hướng tốt. Sau khi hay biết những chuyện này, nhiều nghị sĩ nhận thấy là Hoa kỳ đã bất công với nhân dân Miền Nam, và bắt đầu có thiện cảm hơn đối với vấn đề lỵ nạn. Mục sư Elson nói : "Chắc chắn Quốc hội sẽ thay đổi thái độ".
    Vì Quốc hội đã thay đổi thái độ: chỉ trên ba tuần sau khi bỏ phiếu bác đi số tiền 327 triệu để tài trợ cho di tản, ngày 23 tháng 5, 1975 Quốc hội đã biểu quyết "Đạo luật về di trú và tỵ nạn Đông Dương" "Indochina Migration and Refugee Act" - IRAP; 89 stat. 87), trợ cấp 455 triệu cho tỵ nạn từ Việt nam và Kampuchia).
    Tôi cảm thấy một niềm an ủi vô biên, vì nghĩ rằng ít ra Hoa kỳ cũng đồng ý chấp nhận một số nhiều người Việt chứ không phải chỉ vỏn vẹn có 50.000 người như Toà Bạch Ốc đã cho phép Đại sứ Martin di tản vào ngày 25 tháng 4, tức là năm ngày trước giờ hấp hối của VNCH. Câu nói của Von Marbod đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử tỵ nạn, vì nó khởi đầu cho một cuộc di cư vĩ đại kéo dài tới 25 năm. Ngày nay, sau 30 năm từ lúc bắt đầu, số người Việt di tản được tiếp nhận và đang sinh sống tại Hoa kỳ cũng đã lên trên một triệu người, xấp xỉ bằng con số tôi mang ra để cầu cứu trong cuộc họp báo ngày 30 tháng 4, 1975.
    Chú thích:
    (1) Về lịch sử tượng "Người khổng lồ đảo Rhodes" và "Nữ thần Tự do," độc giả có thể vào internet/google tìm đọc về Colossus of Rhodes và Statue of liberty.
    (2) Nessen, It sure looks different from the inside, trang 108
    (3) Nessen, It sure looks different from the inside, trang 108
    (4) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 544.
    (5) Như trên
    (6) U.S. Government, interagency task force, The President s Advisory Committee On Refugees, Back Ground Papers, May 19, 1975, trang 15.
    (7) New York Times, 2 tháng 5, 1975
    (8) New York Times, 2 tháng 5, 1975
    (9) New York Times, 2 tháng 5, 1975
    (10) New York Times, 2 tháng 5, 1975; TIME (Magazine), 21 tháng 4 1975; N.T. Hưng và J. Schecter, The Palace File, trang 355-356.
    (11) 196th congress, Review of U.S. Rẹfùgee Resettlement Program and Policies, A Report, Congressional Research Service, Library of Congress, 1980, p. 29.

    hết: P4 - Chương 17, xem tiếp: Phần 5 -Chương 18

  6. #18
    Administrator
    PS khoá 72G's Avatar
    Status : PS khoá 72G v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2008
    Posts: 1,025
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Khi Đồng Minh Tháo Chạy


    Nguyễn Tiến Hưng-Khi đồng minh tháo chạy
    Phần 5 -Chương 18


    NHÌN LẠI LỊCH SỬ
    Bao nhiêu trắc trở lúc ban đầu

    Từ Vũng Tầu và các địa điểm khác, bao nhiêu ngàn người đang cố trèo lên những con thuyền đánh cá mỏng manh, liều mạng để tìm lối thoát mà cũng chẳng biết mình sẽ đi đâu. Một số may mắn được tầu Mỹ vớt, một số khác hẩm hiu đã bị chìm đắm, trôi dạt trên đại dương. Được vớt rồi, như Đại sứ Martin đã điều trần trước Quốc hội, "vẫn không có chỗ nào cho phép họ tới một cách hợp pháp", vì ông chỉ được quyền tạm dung (parole Authority) cho nhập vào Mỹ là 50.000 người. Và dù quyền này, ông cũng chỉ nhận được bốn ngày trước chuyến ra đi cuối cùng (1). Đã không có chỗ nào cho họ đi vì ngoài việc Mỹ chấp nhận một số nhỏ này, các quốc gia láng giềng đã tránh né!
    Mang họ đi đâu bây giờ?

    Điều đáng buồn là trong số các nước đã thu được nhiều lợi nhuận vì cuộc chiến Việt nam, tới giờ phút chót lại tỏ ra thờ ở với tỵ nạn (trừ Singapore). Trên 150 tỷ đô la Mỹ tài trợ chiến tranh phần lớn đã được tiêu ngay ở Mỹ cho các hãng sản xuất quốc phòng; số còn lại được tiêu cho phần dịch vụ cung ứng tại các quốc gia Á Châu. Indonesia bán dầu lửa, nhiên liệu; Singapore bán súng M-16; Đài Loan bán quần áo quân đội, đồ hộp. Phillippines lắp ráp thiết bị, máy bay. Ngoài ra lại còn những chi tiêu cá nhân của quân đội Mỹ khi nghỉ phép tại các nước này.

    Ông Martin đã kể lại rằng từ đầu tháng 4, khi có những chuyến máy bay quân sự từ sân bay Clark ở Phillippines bay vào Tân Sơn Nhất, Toà đại sứ đã tranh thủ những chuyến bay trở ngược về Clark để cho di tản một số người Việt. Thế nhưng, Phillippines đã chống đối việc này:
    "Thoạt đầu, chúng tôi được bảo là phải mang họ trở về Việt nam ngay, vì Chính phủ Phillippines đang la lối om xòm…
    Đầu tháng 4, Bộ Ngoại giao còn chỉ thị cho tôi là phải chấm dứt việc sử dụng những chuyến bay trở về (căn cứ Clark) như thế" (2).
    Tới lúc di tản, khi cuộc "Hành quân gió nhanh" khởi sự, lúc đầu là gần 10.000 người đã được chở vội tới "Thành phố Lều, (Tent City) ở căn cứ Clark. Tổng thống Marcos lại lên tiếng phản đối. Mỹ phải dùng các máy bay vận tải quân sự C-141 và một số phi cơ 747 thuê của hãng American Airlines để chở họ gấp tới đảo Guam.
    Sát cạnh Việt nam là Thái Lan cũng chống đối, và khi toán phi công Miền Nam cùng với gia đình và một số người khác tổng cộng là 2.000 tới căn cứ Utapao cùng với 130 chiếc máy bay đủ loại, Chính phủ Thái tuyên bố là đoàn người này phải rời lãnh thổ Thái nội rạng 30 ngày (3).
    Chống đối: từ Pendleton đến trại Eglin

    Nền kinh tế Hoa kỳ năm đó rất khó khăn. Thất nghiệp lên tới 9%, tức 8 triệu người, lạm phát cũng 9%. Vật giá đắt đỏ, khan hiếm. Người ta xếp hàng trước những trạm xăng và có lúc mỗi xe chỉ mua được 5 đô la xăng. Hãng Gallup cho làm một cuộc thăm dò dân ý, kết quả là 54% chống việc nhận người di tản Việt nam vào Mỹ, và 36% đồng ý (4).
    "Hãy gửi đến cho ta những kẻ mệt nhọc, co cụm, những tướng lãnh của các người, những kẻ giàu có và được ưu đãi, những ké lưu manh, ma cô, và những cô gái bán bar, đang khao khát được thở không khí tự do…".

    ("Send me your tired and huddled masses, your generals, your wealthy and privileged classes, your crooks and pimps and bar girls, yearning to breathe free…) (5).
    Một lần nữa, "Nữ thần Tự do" lại bị mang ra để phỉ báng đoàn người tị nạn một cách rộng rãi hơn. Trên đây là một câu nhại châm biếm (bắt chước câu thơ của bà Em ma Lauzarus) ghi dưới một hình hí hoạ do Pat Oliphant, nhà hí hoạ nổi tiếng, vẽ một đoàn di tản Việt nam đang xếp hàng đi qua pho tượng đứng bao dung ngoài cảng Manhattan. Hình này được in vào một số báo lưu hành trên toàn quốc.

    Kể cả ngay sau khi chiếc máy bay khổng lồ C-5A chở đoàn cô nhi 300 người bị rớt và 206 bé em bị tử thương, vấn đề vận chuyển 2.000 trẻ em, "operation Babylift" cũng vẫn còn là một đầu đề tranh luận tại Mỹ. Tuy là một vấn đề nhân đạo và nhiều em là bé lai, vẫn có sự chống đối. Sau đây là mấy thí dụ do báo chí Mỹ ghi lại: (6)
    Nghị sĩ Mcgovern, người đã ra tranh cử với Tổng thống Nixon năm 1972, đã đổ dầu vào lửa: "Tôi cho rằng người Việt nam sẽ được sung sướng hơn nếu ở lại Việt nam, kể cả lũ trẻ mồ côi kia".

    Khi thấy đoàn người nghèo khó được ùn ùn chở từ Guam tới Camp Pendleton, các nhà lãnh đạo California- gồm cả Thống Đốc và hai Thượng Nghị sĩ - đều lên tiếng báo động! Bộ trưởng Y Tế và Xã Hội, ông Mario Obledo gửi ngay công điện cho ông Kissinger cảnh cáo rằng tiểu bang của ông khó có khả năng chấp nhận "những người tị nạn không nhà". Lý do là vì: "Cali đã có tới "952.000 người thất nghiệp, 2,4 triệu lãnh trợ cấp an sinh xã hội; 4 triệu sống gần mức nghèo khó, và 20 triệu người đã phải đóng thuế ở mức cao nhất mà một nền kinh tế tự do có thể chấp nhận".

    Rồi tới bức thứ hai: "Cali còn có kế hoạch để cô lập hoá số 64.000 người ở hai trại cũ kỹ tại sa mạc Mojave tức Camp Pendleton) và thung lũng San Joaquin (Fort Travis)". Thấy Cali lo lắng, thị trưởng Chicago bàn thêm: "Đức bác ái phải được bắt đầu tại gia".

    Một anh chàng quản lý một tiệm sách của tổ chức quá khích John Birch Society gần trại Eglin (Florida) còn lo ngại là bệnh tật nhiệt đới sẽ trôi nổi lên mặt biển". Phụ tá Báo chí Ron Nessen cũng kể lại mấy thí dụ về việc chống đối người tỵ nạn: (7)

    Bên ngoài Fort Chattee (Arkansas), những người biểu tình còn mang bảng với khẩu hiệu "Hãy về đi!" (Go home!); "Thành phố da vàng" (Gooksville).
    Câu chuyện khác: một người biểu tình ngoài Fort Chattee còn nói với anh nhà báo: "Người ta nói là ở đây lạnh lẽo hơn ở Việt nam nhiều. Với chút ít may mắn, có thể họ sẽ bị sưng phổi và chết đi".

    Một ông thị trưởng ở thành phố gần căn cứ không quân Eglin, Florida đã nói với người quay phim hãng ABC: "Chúng tôi lo ngại chẳng những đối với những gì đang xảy ra chung chung, nhưng còn cả với những gì sẽ xảy ra cho cái bãi biển sạch sẽ của chúng tôi nữa".
    Một may mắn: di sản của Mẹ

    Cái khó khăn thực tế nhất vào những ngày đầu của là chuyện tiền bạc. Ngày 1 tháng 5, Hạ Viện đã bác đi số tiền 327 triệu đô la do Tổng thống Ford yêu cầu chuẩn chi cho dân tị nạn. Toà Bạch Ốc tuyên bố về việc này:
    "Tổng thống đã rất buồn và bất mãn về hành động của Hạ Viện ngày hôm nay… Nó không xứng đáng với một dân tộc đã sống theo triết lý được tượng trưng bởi Nữ thần Tự do". (8)
    Trung Tâm Định Cư ước tính là chỉ riêng nhu cầu ăn uống, tiện nghi, sức khoẻ cho một người trong trại cũng đã cần tới 15 đô la cho một người một ngày. Ngoài ra còn tiền chuyên chở (530) và tiền chi phí cho Cơ quan Thiện Nguyện (500). Thế nhưng Quốc hội đã không chấp thuận thì làm sao mà chi được?
    Thật là may mắn: số tiền viện trợ của Mỹ cho VNCH còn lại chút ít. Bộ Ngoại giao, Quốc phòng có thể dùng để tài trợ vận chuyển, và lo an sinh cho đoàn người tị nạn lúc ban đầu. Để bạn đọc nắm được những dữ kiện tài chánh chung quanh việc di tản, và cũng là để tổng kết cho lịch sử về viện trợ của Hoa kỳ cho VNCH, tôi ghi lại kết toán trong bảng sau đây:
    Số tiền viện trợ kinh tế còn lại ( triệu USD)
    Trong sổ sách Hoa Kỳ vào ngày 30-4-1975
    182
    1. Chuyển cho Bộ Ngoại giao tài trợ di tản
    2. Chuyển cho Bộ Tư Lệnh Hải vận quân sự (Military Sealift Command) và các cơ quan "Thiện nguyện di tản biển"
    Còn lại vào ngày 31-5-1975
    111
    Quyết toán nguồn của số 111 triệu:
    Ngân khoản tài khoá 1974 còn lại
    (nghìn đô la)
    1. Chương trình nhập cảng
    21.150
    2.Viện trợ nhân đạo
    3.922
    3.Viện trợ dự án
    7.811
    Cộng
    32.883
    Ngân khoản tài khoá 1975 còn lại (nghìn đô la)
    1. Chương trình nhập cảng
    40.260
    2. Viện trợ nhân đạo
    28.855
    3. Viện trợ dự án
    8.130
    4. Chưa phân bổ
    985
    Cộng
    78.230

    Tổng cộng 111 triệu
    Tất cả số tiền viện trợ kinh tế cho tài khoá 1975 còn lại vào ngày 30 tháng 4, 1975 là 182 triệu. Nếu lấy tổng số này mà chia cho 130.000 người thì: mỗi người đã nhận được 1.400 đô la, và đó là di sản của Mẹ. Khoản này đã giúp các cơ quan trung ương sử dụng được ngay để đáp ứng nhu cầu cấp thời. Tuy nó khiêm nhượng, nhưng đã giúp giải quyết những khó khăn lúc ban đầu. Vì nếu không có số này thì chắc chắn là cuộc di tản còn kẹt lớn, chưa chắc đã thực hiện được. Nó cũng đã mua được thời gian quý giá cho người tỵ nạn lúc bước vào miền đất mới.

    Để khoá sổ, ta cũng nên biết tới số liệu của vấn đề gay go nhất lúc hạ màn, đó là viện trợ quân sự cho VNCH. Số tiền 700 triệu quân viện cho tài khoá 1975 còn lại vào ngày 30 nháng 4, 1975 là 12 triệu. Tất cả sòng phẳng là như vậy.

    Nhìn vào số này ta mới hiểu rõ hơn về hoàn cảnh chính trị, quân sự, và nhất là tâm lý của VNCH khi thấy Ban Lãnh Đạo đảng Dân Chủ cả Thượng và Hạ Viện (lúc đó hợp vào trở thành đa số tại Quốc hội), trong buổi họp kín ngày 12 tháng 3 1975 đã phán quyết: không cấp thêm viện trợ quân sự cho VNCH nữa.
    Số tiền 12 triệu còn lại cũng như 130 chiếc máy bay do phi công Việt nam bay sang Thái lan và các thiết bị, súng ống, đạn dược chưa chuyển tới Sài gòn hay đã mang ra khỏi hải phận, như một số chiến hạm, đều được thu về chủ quyền của Bộ Quốc phòng Mỹ:
    "Hãy trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar", đó là lời Chúa.
    Chú thích:

    (1) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 544, 562.
    (2) Graham Martin, Vietnam Evacuation: Testimony, trang 563.
    (3) TIME (Magazine), 12 tháng 5, 1975, trang 24.
    (4) TIME (Magazine), 12 tháng 5, 1975, trang 24.
    (5) Nessen, It sure looks different from the inside, trang 115-116.
    (6) TIME (Magazine), 12 tháng 5, 1975, trang 26; 5 tháng 5, 1975, trang 26.
    (7) Nessen, It sure looks different from the inside, trang 115.
    (8) Nessen, It sure looks different from the inside.
    hết: Phần 5 -Chương 18, xem tiếp: P5 - Chương 19

Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

Similar Threads

  1. Cua Rốc (Cua Đồng) Đến Mỹ
    By diemtan in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 08-26-2010, 01:05 PM
  2. Tình Đồng Minh và Hậu Trường - saurom
    By saurom in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-09-2010, 04:19 PM
  3. Con Cá Rô Đồng
    By PS khoá 72G in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 6
    Bài mới nhất : 07-09-2009, 12:21 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •