Remember ?

kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Tựa Đề: Bến tre, một thời thương nhớ.

  1. #1
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Button Xanh Bến tre, một thời thương nhớ.


    Về phía Nam của Định Tường (Mỷ Tho)và phía Đông của Vĩnh Long là tỉnh Bến Tre, một tỉnh nằm cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp với Biển Đông. Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh lỵ Bến Tre được đặt tại Mỏ Cày. Tỉnh Bến Tre được thành lập chủ yếu do 3 cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Đất đai trên ba cù lao này hoàn toàn được bồi đắp bởi phù sa của ba nhánh sông Cửu Long. Vì nằm sát biển nên đất phù sa bị gió biển thổi đùn lên thành những giồng đất cao, giữa các giồng là đất đai canh tác, rất phì nhiêu mầu mỡ. Tuy trước đây Bến Tre trực thuộc Dinh Long Hồ (Vĩnh Long ngày nay), nhưng lịch sử phát triển của Bến Tre lại gắn liền với lịch sử của tỉnh Định Tường. Như trên đã nói trước năm 1679, cả vùng đồng bằng sông Cửu Long mà bây giờ chúng ta Gòi là Nam kỳ, chưa có dấu vết của chính quyền Nam triều. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng đích xác là không có lưu dân Việt Nam tại đây vào thời kỳ này. Đến khi nhà Minh bên Tàu sụp đổ, những quan quân của nhà Minh trong hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây không phục nhà Thanh nên dong buồm đi về phương Nam tìm đất mới để dung thân. Nhân cơ hội đó mà chúa Hiền cho phép họ vào vùng Thủy Chân Lạp khai khẩn đất hoang. Thoạt tiên, họ tập trung ở những vùng Đồng Nai, Gia định và Mỹ Tho, dần dần họ tiến xa về những vùng Bến Tre và Gò Công. Dưới thời Gia Long, Bến Tre là một trong ba tổng của phủ Kiến An (Kiến Hưng hay Cái Bè, Kiến Hòa hay Bến Tre và Gò Công và Kiến Đăng hay Đồng Tháp Mười) thuộc dinh Trấn Định (Định Tường). Đến đời Minh Mạng thì nhà vua đổi dinh và trấn ra làm tỉnh, Bến Tre và Gò Công tách ra làm huyện Tân Hòa. Đến đời Thiệu Trị thì Gò Công được sáp nhập vào Gia Định, và Bến Tre được nhập vào Định Tường. Khi Pháp chiếm Nam kỳ, chúng lần lượt phân lục tỉnh ra thành 20 tỉnh và một phần của huyện Kiến Hòa được tách ra làm tỉnh Bến Tre vào năm 1907. Tổng diện tích là 170.000 mẫu Tây và tổng dân số thời đó (theo thống kê của La Cochinchine) là 257.216 người, đa số là người Việt. Hiện nay diện tích của tỉnh Bến Tre là 2.287 cây số vuông, và tổng dân số là 1.319.000 người. Có nhiều giả thuyết về cái tên Bến Tre, có người cho rằng vì người Miên gọi là Kompong Ruusei hay Sóc Tre nên dân Nam ta gọi là Bến Tre. Về vị trí thì Bắc giáp Định Tường, phía Tây và Tây Nam giáp Vĩnh Long, và phía Nam giáp Trà Vinh, Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Hiện tại Bến Tre có 9 quận: Trúc Giang, Hàm Long, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú. Sau năm 1975, Chợ Lách dược sáp nhập vào Bến Tre, tuy nhiên, quận Đôn Nhơn được sáp nhập vào Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú, và Hàm Long được sáp nhập vào Ba Tri nên Bến Tre chỉ còn có 7 quận. Bến Tre là một vùng đất phù sa màu mỡ, gồm ba cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Tuy mang tên Bến Tre, nhưng đây chính là quê hương xứ dừa với những vườn dừa ngút ngàn. Ngoài ra, Bến Tre còn trồng lúa, mía, thuốc lá, dưa, bông vải và đủ loại trái cây.

    Tre còn là vựa muối biển của cả vùng. Bến Tre tuy là một tỉnh nhỏ với bờ biển chỉ dài khoảng 60 cây số nhưng chỉ riêng một mình Bến Tre đã chiếm 5 cửa biển của sông Cửu Long ,( Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) nên hải sản của Bến Tre thật là phong phú và đặc sắc không thua bất kỳ nơi nào. Dù Việt Nam chịu ảnh hưởng gió mùa vùng nhiệt đới, nhưng nhờ gần biển, địa hình bằng phẳng, rải rác có những cồn cát xen lẫn với những cánh đồng ngút ngàn, lại được bao bọc xung quanh bởi một mạng nhện sông kinh và rạch, nên khí hậu Bến Tre luôn dễ chịu, chỉ trừ một vài vùng có đất giồng cao như Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú nên về mùa nắng hơi có phần oi bức. Còn cái nơi khác như Mỏ Cày, Giồng Trôm, Trúc Giang và Hàm Long thì bốn bề được sông nước bao bọc nên luôn mát mẻ và rất thuận tiện cho việc giao thông vận tải, cũng như thủy lợi. Ngoài 4 con sông lớn chảy qua Bến Tre là Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Bến Tre còn hai nhánh sông lớn của sông Hàm Luông là sông Sóc Sải và sông Cái Gấm. Ngoài ra, Bến Tre còn có kinh Chẹt hay kinh An Hóa nối sông Mỹ Tho, sông Ba Lai và rạch Trúc Giang; kinh Song Mã nối sông Hàm Luông, Ba Lai và rạch Trúc Giang; kinh Hương Điểm chạy từ cù lao Bảo qua rạch Sơn Đốc. Bến Tre còn có rất nhiều rạch quan trọng như bên cù lao Bảo có các rạch Trúc Giang, rạch Lương Phú, Ngã Con, Phú Hữu, Ba Tri, Mỹ Nhiên, Bà Hiền, Cái Bông, Sơn Đốc, Cái Mít và Thủ Cửu. Bên cù lao Minh có các rạch Cái Mơn, Mỏ Cày, Cái Quao, Băng Cung, Con ốc, Hồ Cỏ. Bên cù lao An Hóa có rạch Vũng Luông. Ngoài ra, Bến Tre còn trên một trăm rạch nhỏ khác trong toàn tỉnh. Chính vì thế mà từ trên phi cơ nhìn xuống toàn tỉnh Bến Tre giống như là một mạng nhện sông, kinh và rạch, cắt ngang cắt dọc, cắt xiên, cắt xéo, trông rất đẹp mắt. Tuy đất Bến Tre phù sa màu mỡ, nhưng hãy còn những vùng hoang dã, chỉ có cây bần, mắm, chà là hay giá mọc được mà thôi nhiều vùng hãy còn giữ được nét nguyên sơ của một thời cha anh ta đi khai mở đất nước và không khí cũng như môi trường thiên nhiên ở những nơi này rất trong lành như vùng bờ biển Bình Đại, An Thạnh và Thạnh Phú...Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp thuở hoang sơ ấy, những nơi này vẫn có ve đẹp thuần hậu của những thôn ấp với những đồng rẫy, vườn dừa và những vườn cây ăn trái rộng lớn. Chính vì thế mà ngoài chuyện rất nổi tiếng về dừa và lúa ra Bến Tre còn sản xuất nhiều sản vật và hoa quả khác như ngô, khoai, dứa, thơm, chôm chôm, mãng cầu, vú sữa sầu riêng, vân vân. Ngoài những nơi hoang sơ ấy, Bến Tre vẫn có một diện tích ruộng canh tác đáng kể, nhờ đất đai mầu mỡ nên tổng số diện tích ruộng lên tới 113.000 mẫu nằm trong đất liền của các quận Ba Tri, Thạnh Phú, Hương Mỹ và Bình Đại... nên Bến Tre trở thành một vựa lúa lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

    Vì có một bờ biển quan trọng nên ngư nghiệp tại Bến Tre cũng rất khả quan, chẳng những ven biển, mà còn trong những con sông lớn nữa nên ngành thủy và hải sản của Bến Tre cũng rất nổi tiếng với đủ loại cá, tôm, cua, sò, ốc, hến, đặc biệt là cá thiều, cá cơm, và cá mối. Về thổ sản thì Bến Tre là nơi nổi tiếng về dừa, mía, cam, quít. Diện tích trồng dừa của Bến Tre lên 40.000 mẫu, vượt trội hơn các tỉnh khác trong Nam, gấp 5 lần Vĩnh Long và Mỹ Tho, gấp 7 lần Bình Định, gấp 20 lần Quảng Ngãi. Dừa là sản phẩm chẳng những chỉ cho cây và trái, dừa tươi được dùng để gói bánh, lá dừa khô dùng để nhóm lửa hay làm đuốc soi ban đêm, gáo dừa dùng làm củi rất tốt, nhưng người ta còn dùng để múc nước và làm những đồ thủ công rất đẹp, củ hủ dừa là một món ăn tuyệt hảo của dân miền Nam, vỏ dừa dùng se dây hay dệt thảm, dầu dừa dùng chế xà bông rất tốt. Cũng chính từ dừa mà Bến Tre rất nổi tiếng về món kẹo dừa, chẳng những xuất cảng đi các tỉnh khác, mà còn được bán ra ngoại quốc nữa. Ngoài ra, Bến Tre còn nổi tiếng về ngành dệt Chiểu. Trong thời Gia Long bôn tẩu lẩn trốn quân Tây Sơn, ông đã nhiều lần lưu lại Bến Tre tại các nơi như cồn Đất, Đa Phước Hội vân vân. Tỉnh Bến Tre hãy còn nhiều di tích lịch sử như miếu, đền, chùa cổ kính, Hồ Cỏ thiên nhiên là một trong những thắng cảnh của tỉnh Bến Tre. Kỳ thật đây là một cánh đồng cỏ xanh tươi bát ngát, mặt đồng lại thấp, bằng phẳng và rì như mặt hồ không một gợn sóng, có lẽ vì thế mà dân chúng trong vùng gọi đây là hồ cỏ, chứ không gọi là đồng cỏ.

    Ngoài ra còn có chùa thờ Năm vị Cổ Phật ở Phú An Hòa. Về nhân vật lịch sử thì Bến Tre có ông Chưởng cơ Phạm văn An, phò Nguyễn ánh, ông Hoàng văn Tứ từng theo hầu cận Nguyễn Ánh, ông Nguyễn hoài Quỳnh từng làm tới chức Hình Bộ Tả Tham Tri ở Bắc Thành dưới thời Gia Long. Ngoài ra, Bến Tre còn có ông Trương tấn Bửu, di dân từ Gia Định, nhưng sống suốt đời ở Bến Tre, theo phò tá Gia Long tới chức Tiền quân Phó tướng. Đời Minh Mạng, Trương tấn Bửu đã vâng lệnh Lê văn Duyệt nạo vét kinh Vĩnh Tế. Nói đến Bến Tre là phải nói về cụ Phan thanh Giản. Nội tổ gốc Trung Hoa nhưng sáng lập nghiệp tại vùng gánh Mù U, nên cụ Phan sanh ra lên tại đất Bến Tre này. Cụ đậu thi Hương năm 1825, và Tiến Sĩ năm 1826. Trong suốt thời gian hoạn lộ dù thăng hay dù trầm, cụ vẫn một mực cần chánh thanh liêm. Trải qua ba triều, cụ đã phục vụ khắp các miền đất nước, tuy nhiên, vào cuối đời thì cụ làm Kinh Lược Sứ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên và tuẫn tiết khi thành Vĩnh Long thất thủ năm 1867. Cụ quả là một tấm gương cả đời hy sinh cho dân cho nước, thật đáng cho chúng ta noi theo. Hiện không có đền thờ cụ Phan tại Bến Tre vì thế lực và xu thế chính trị đang thống trị đất nước muốn triệt hạ uy danh của cụ, nhưng trong lòng con dân Nam Kỳ, đâu cũng là đền thờ của cụ, từ gánh Mù U đến khắp các hang cùng ngò hẻm cửa Nam Kỳ Lục Tỉnh người dân hồi trước và dân bây giờ vẫn xem cụ là một dũng tướng đã hết lòng vì nước. Hiện trong xã Bảo Thạnh, quận ba Tri vẫn còn mộ cụ Phan được xây bằng đá ong, với một tấm bia bằng chữ Hán rất sơ sài trong khuôn đất hương quả, do một người cháu 7 đời của cụ trông coi. Bến Tre còn là quê hương của Chánh Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng, người đã cố thủ trong trận tử thủ đồn Thủ Thiêm, rồi sau đó kéo quân về hợp cùng Trương Công Định tiếp tục đánh Pháp tại Gò Công. Lãnh binh Thăng tử trận năm 1866. Sau Lãnh binh Thăng, có các ông Phan Tôn và Phan Liêm (con cụ Phan thanh Giản) cũng nổi lên đánh Pháp tại Bến Tre. Sau khi cụ Phan tuẫn tiết và để lại di chúc cho các con đừng ra hợp tác với Pháp thì 2 ông Phan Tôn và Phan Liêm chiêu mộ hào kiệt ở các vùng Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Đéc nổi lên đánh Pháp, nhưng vì thế cô sức yếu nên cuộc khởi nghĩa thất bại. Ngoài ra cụ Nguyễn đình Chiểu cũng là một tấm gương yêu nước hiếm có trong thời tao loạn. Tổ tiên cụ đồ Chiểu quê Ở Huế, cha cụ làm quan dưới quyền Tả quân Lê văn Duyệt, nên sau vụ Lê văn Khôi, ông bèn đem cả nhà về miền Trung, nhưng bị vua Minh Mạng bắt tội xử tử, nhưng nhờ triều thần can thiệp, cha ông được miễn tội. Sau đó ông đem Nguyễn đình Chiểu và các con khác Gia Định lập nghiệp. Năm 22 tuổi Nguyễn đình Chiểu đậu Tú tài, đến năm 1849 khi vừa ra Huế ứng thí thi Hương thì hay mẹ mất, cụ bỏ thi trở ra miền Nam. Dọc đường vì buồn rầu than khóc mẹ mà cụ mang bệnh đến nỗi mù cả đôi mắt. Sau khi thành Gia Định thất thủ, cụ mang cả gia quyến về Cần Giuộc lánh nạn, sau đó cụ lại dời về Ba Tri. Tại đây cụ tiếp tục dạy học và liên lạc với nghĩa binh. Chủ tỉnh Bến Tre 4 lần xin ra mắt để chiêu dụ cụ, nhưng đều thất bại. Thơ văn cụ để lại hãy còn rất nhiều bài thơ chẳng những nói lên tâm trạng bất hợp tác với mà còn khuyên tấn sĩ dân nếu không chống Pháp được bằng súng đạn nên dùng ngòi bút mà chống và khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân cho đến khi không còn bóng dáng quân thù. Cụ mất năm 1888 tại Bến Tre. Ngoài ra tại xã Bảo Thạnh, Ba Tri còn có mộ cụ Võ Trường Toản. Cụ là một nhà nho lớn của Việt Nam vào thế kỷ thứ 18, với kiến thức uyên bác và chí khí thanh cao, dù quê quán của cụ ở Bình Dương, nhưng khi cụ mất, học trò của cụ là những quan chức thời danh lúc ấy đã dời lăng mộ của cụ về Bến Tre để cải táng sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay giặc Pháp. Cụ Võ trường Toản là thầy của các cụ đồ Chiểu, Trịnh hoài Đức, Lê quang Định, Ngô nhân Tịnh và Phan Thanh Giản. Cụ mất năm 1792 trong khi đất nước đang hồi suy mạt vì Nguyễn Ánh đang rong ruổi đó đây hết rước Xiêm rồi rước Tây về dày xéo mả tổ với ý đồ giành giựt lại chiếc ngai vàng cho dòng họ. Bến Tre cũng là quê hương của nhà thơ nữ Sương nguyệt Ánh (con của cụ đồ Chiểu). Bà từng làm chủ bút tờ “Nữ Giới Chung" tờ báo đầu tiên cho phụ nữ Việt Nam. Có thể nói, bà là một nữ sĩ tài ba, ngòi bút sắt thép không kém gì cha mình.

    Ngày trước khi cha anh chúng ta đi khai mở đất đai về phương Nam, thì đi đâu đến đâu quý ngài cũng xây dựng đình chùa đến đấy. Chính vì thế không riêng gì Bến Tre mà cả miền Nam thoáng đâu đâu chúng ta cũng thấy những kiến trúc mái cong của đình chùa.

    Riêng tại Bến Tre, đa số dân chúng theo đạo Phật và thờ ông bà, tuy nhiên, cũng có một ít theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài và Hòa Hảo. Tại Bến Tre hiện còn rất nhiều ngôi cổ tự được xếp vào hàng di tích như chùa Hội Tôn ở xã Quới Sơn, được Thiền sư Long Thiền xây từ thời vua Lê Hiển Tông (1740). Tại ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, quận Mõ Cày có chùa Tuyên Linh, được xây dựng vào năm 1861. Ngay tại thị xã Bến Tre có chùa Viên Minh, được xây dựng từ thế kỷ thứ 18. Đến năm 1951, chùa được trùng tu lại, trước khuôn viên chùa có tượng Quán Thế âm Bồ Tát rất lớn. Hiện tại, hệ phái Tăng Già Khất Sĩ phát triển rất mạnh tại Bến Tre với hàng chục ngôi tịnh xá, mỗi tuần đều có thuyết giảng Phật pháp cho nhân dân trong vùng. Tại quận Ba Tri, xã Phú Lễ còn ngôi Đình Phú Lễ được xây dựng từ những ngày đầu cư dân Việt Nam đến sống với người Khmer tại đây. Hiện nay dân chúng vẫn thường xuyên lai vãng lễ bái, đặc biệt là vào hai kỳ lễ, lễ Kỳ Yên hai ngày 18 và 19 tháng 3 âm lịch, cũng như lễ Cầu Bông vào ngày mồng 9 và 10 tháng 11 âm lịch. Tại các đình thần trong hai quận Bình Đại và Ba Tri, hàng năm đến ngày 16 tháng 6 âm lịch còn có lễ hội tế thần cá ông rất linh đình. Ngoài ra, tại Bầu Dơi thuộc quận Giồng Trôm hiện còn một ngôi nhà thờ cổ tên La Mã rất lớn. Rãi rác khắp nơi trong tỉnh Bến Tre cũng có nhiều thất Cao Đài với lối kiến trúc thật đặc sắc. Nói đến Bến Tre không ai không liên tưởng đến giai thoại "ông Già Ba Tri” của tỉnh này. Theo các bô lão, thời vua Tự Đức, có một ông lão đã dám đi bộ hơn một ngàn cây số từ Bến Tre ra đến kinh đô để kêu oan. Dù đây chỉ là một giai thoại, nhưng nó cũng nói lên tánh khí kiên cường của người dân Bến Tre. Ngày nay chẳng những người Bến Tre cảm thấy hãnh diện về quê hương xứ dừa mà dân Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng hãnh diện về vùng đất nước cuồn cuộn, sóng vỗ dạt dào cũng như tánh tình hiền hòa nhưng bất khuất của đồng bào Bến Tre.

    Đất Cái Mơn, nay thuộc Bến Tre còn là quê hương của cụ Vĩnh Ký, một người hiếu học thông minh, và nói được nhiều thứ tiếng. Gạt qua chuyện cụ đã hợp tác chặt chẽ với Pháp Gòn, cụ có công rất lớn với sự phát triển của chữ Quốc ngữ tại Việt Nam. Cụ chủ trương canh tân cải cách và mang văn Tây về truyền bá cho dân Việt. Hiện tại hãy còn rất nhiều tác phẩm có giá trị của cụ như bộ Văn Phạm Việt Nam viết bằng chữ Pháp, Truyện Đời Xưa viết bằng quốc ngữ, Học Vỡ Lòng Tiếng Việt viết bằng chữ Pháp. Cụ mất năm 1889 tại Sài Gòn. Ông là người đã biên soạn bộ Tự Điển Pháp Việt đầu tiên. Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền chữ quốc ngữ trong toàn cõi Việt Nam. Thuở nhỏ vì cha mất sớm nên mẹ cho ông theo Cụ Tám rồi học chữ quốc ngữ, rồi sau ông theo Cố Long và được đưa sang du học tại Penang (nhượng địa của Mã Lai cho Anh quốc). Sau ông về nước làm thông ngôn cho Pháp, rồi phụ trách trường thông ngôn ở Gia Định, cũng như tờ Gia Định Báo. Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trong đó có bộ Văn Phạm Việt Nam (viết bằng chữ Pháp cho người Pháp dùng), Truyện Đời Xưa (viết bằng quốc ngữ), và Học Vỡ Lòng Tiếng Việt (viết bằng chữ Pháp). Trước khi về hưu ông đã từng làm cố vấn cho vua Đồng Khánh. Ông mất năm 1899 tại Gia Định. Trương Vĩnh Ký chẳng những là một trong thế giới thập bát tú (18 người thông thái) vào thế kỷ thứ 19, đã để lại cho nền văn chương chữ quốc ngữ của chúng ta một kho báu văn chương, mà ông còn là người đã giúp thay đổi hẳn bộ mặt những vườn cây ăn trái của Cái Mơn nói riêng và của toàn quốc về sau nói chung. Chính ông đã mang từ Mã Lai những cây giống sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, bòn bon, li-cu-ma về trồng tại Cái Mơn. Từ đó đến nay dù mới chỉ hơn 150 năm, nhưng người bản địa cứ ngỡ là loại cây trái ấy là của dân mình, vì những đặc sản ấy vừa ngon vừa tốt trái hơn nơi đã sản sanh ra nó. Ngoài những cây ăn trái nổi tiếng của miền nhiệt đới, Cái Mơn hiện nay còn là xứ của các loài hoa, từ hoa bản xứ như cúc, vạn thọ, hồng...đến những loại hoa được đưa vào từ miền Bắc hay từ Thái Lan sang với muôn màu muôn sắc làm cho Cái Mơn trở thành một khuôn viên cây ăn trái, cây kiểng và vườn hoa dọc theo hai bên bờ sông.

    Vì được bao bọc bởi sông nước nên Bến Tre mang một nét đặc thù của miệt vườn miền Nam. Ngày trước và ngay cả bây giờ, dù đường giao thông trên bộ đã được xây dựng nhưng phương tiện di chuyển chính của người dân Bến Tre vẫn là thuyền bè. Nhiều khi cả gia đình dong ruổi đó đây trên một chiếc ghe suốt từ năm này qua tháng nọ nên tình cảm người dân Bến Tre thật gắn bó với sông nước, họ sống thật giản dị hài hòa với ruộng đồng và với những người quanh họ. Cũng chính vì vậy mà mãi cho đến bây giờ, những ai có dịp đi trên vùng sông nước Bến Tre, vẫn còn nghe được những câu hát điệu hò trên sông nước, những lời ca, điệu hát, giọng hò, hoặc những bản cải lương mà âm hưởng và ý nghĩa vẫn còn hướng về một thời cha anh chúng ta đi khai mở đất nước về phương Nam. Nhắc đến Bến Tre mà không nhắc về những cồn và những sân chim hay làng trái cây tại đây quả là một thiếu sót lớn. Ngay trong quận Châu Thành tỉnh Bến Tre, giữa sông Tiền Giang, thuộc xã Tân Thạch tức là ngay cửa ngõ từ Mỹ Tho qua Bến Tre, có một cái cồn rất nổi tiếng mang tên Cồn Phụng, quê hương của ông Đạo Dừa. Cồn nằm cách thị xã Bến Tre 12 cây số, diện tích toàn cồn vào khoảng 50 mẫu tây. Dân cư ở đây chủ yểu sống bằng nghề trồng cây ăn trái và làm đồ thủ công nghệ từ cây dừa. Hiện trên cồn còn ngôi tòa tháp của ông Đạo Dừa được xây trên một khu đất rộng khoảng 1.500 mét vuông. Tòa tháp có lối kiến trúc rất độc đáo với những mảng đắp chạm rồng phượng bằng những miếng miễng vỡ của tô, chén dĩa. Chiếc cầu thang lên đỉnh tháp uốn lượn theo hình trôn ốc trông rất đẹp mắt. Cách thị xã Bến Tre chừng 20 cây số, có Cồn Qui (giống như hình con rùa), nằm trên Sông Tiền, giữa hai xã Tân Thạch và Quái Sơn thuộc quận Châu Toàn cồn nổi tiếng với những vườn cây ăn trái và cá tôm đủ loại. Cách thị xã Bến tre khoảng 10 cây số tại xã Hưng Phong, quận Giồng Tôm có cồn ốc hay còn gọi là cồn Hưng Phong. Cồn dài trên 8 cây số và diện tích trên 1 cây số vuông với những vườn cây ăn trái xanh tươi cũng giống như cù lao An Thành ở Vĩnh Long hay cù lao Thới Sơn ở Mỹ Tho. Trong xã Tiên Long thuộc quân Châu Thành, ngang với làng Cái Mơn trên sông Tiền còn có cồn Tiên. Cồn rộng chỉ khoảng 7 mẫu tây, nằm cách thị xã Bến Tre khoảng 23 cây số, đây là một bãi tắm trên sông rất đẹp, hàng năm vào ngày 5 tháng 5 có hàng vạn người từ các nơi đổ xô về đây trên những chiếc tam bán hay tắc rán để tham dự lễ hội tắm sông ném bùn thật vui nhộn. Giữa hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân thuộc quận Ba Tri, gần cửa Ba Lai, hiện còn có một sân chim rất rộng, khoảng trên 50 mẫu tây, trong đó có khoảng trên 15 mẫu rừng chà là và khoảng 7 mẫu rừng đước chưa khai phá, đó là sân chim Vàm Hồ. Từ thị xã Bến Tre đến sân chim Vàm Hồ khoảng trên 50 cây số, người ta có thể đi đường bộ hay đường sông đến đây. Đây là nơi trú ngụ của hàng triệu chim đủ loại từ cò ngà, cò trắng, cò ruồi, vạc, sếu, le le, cồng cộc, dòng dọc, diệc xám, quắm trong, dơi, cũng như các loại thú hoang vùng đồng bằng như chồn, rắn, rùa, cua đinh, càng đước, v.v. Trên đường vào sân chim, dọc theo hai bờ sông Ba Lai là một thảm thực vật xanh mát với đủ loại cây trái, từ cây ăn quả đến cây tạp như xoài, ổi, mận, mít, chôm chôm, dừa, cam, quít...đến so đũa, bình bát, điên điển, v.v. Trong sân chim nhiều nhất là các loại cây đước, tra, chà là đầy gai (có lẽ đây là bản năng tự vệ của chúng). Vào khoảng từ 4 đến 5 giờ chiều, hàng triệu con chim từ khắp nơi bay về Vàm Hồ biến nơi đây trắng xóa tương tự như một cảnh tuyết phủ miền Bắc cực. Về giao thông đường bộ, tỉnh lộ 60 nối liền Mỹ Tho, Bến Tre, Mỏ Cày và Trà Vinh. Tỉnh lộ 57 nối liền Chợ Lách, Mỏ Cày và Thạch Phú (cắt tỉnh lộ 60 tại Mỏ Cày). Ngoài ra, từ tỉnh lộ 60 còn có các hương lộ 17 đi Bình Đại, hương lộ 26 đi Ba Tri, hương lộ 884 đi Cái Mơn.

    NGƯỜI LONG HỒ

  2. #2
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    THƯƠNG QUÁ QUÊ TÔI: BẾN TRE


    Hò ơi! Bến Tre dừa xanh bát ngát
    Đường đi Ba Vát gió mát tận xương
    Em về giữa chợ Giồng Trôm
    Đừng quên chợ Lách, Cái Mơn anh đợi chờ!




    Bến Tre! Đã bao phen thay tên đổi họ nhưng cuối cùng nhân dân vẫn quen gọi quê mình là Bến Tre!

    Tên Bến Tre có từ thuở xa xưa. Đến cơn lốc mùa Thu, họ đổi tên Bến Tre thành tỉnh Đồ Chiểu để hấp dẫn quần chúng nhân dân. Người dân tỉnh Bến Tre vẫn lòng son dạ sắt thể hiện ý chí của mình qua thời Tây Leroy, định biến tên tỉnh thành ra Trúc giang thay vì tên tỉnh. Sau này lúc chiến tranh sôi động, Bến Tre thành Kiến Hòa. Một trong ba Kiến có nhiều khói lửa nhất: Kiến Hòa, Kiến Phong, Kiến Tường.

    Bến Tre gồm có mười quận: Trúc Giang, Đôn Nhơn, Hàm Long, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Ba Tri, Bình Đại, Giồng Trộm, Thạnh Phú Và Phước Hưng... Toàn tỉnh được 116 xã, kinh tế chánh là dừa. Nhưng không phải chỉ đơn giản có bấy nhiêu thôi. Đành rằng Bến Tre có nhiều dừa, nhưng ở bên dưới gốc dừa râm mát còn có một kho tàng quý giá đặc sản mà thiết nghĩ ít có nơi nào sánh kịp.

    Trước hết hãy nói về danh nhân của tỉnh. Ở Bến Tre có hai danh nhân lừng lẫy mà cả nước không làm sao quên được công ơn. Đó là thi hào ái quốc Nguyễn Đình Chiểu. Ngôi mộ tọa lạc tại Ba Tri. Ông là tác giả của quyển Lục Vân Tiên trung trinh tiết nghĩa và cả ngàn bài thơ, văn tế ái quốc khác. Thứ hai là bác học Trương Vĩnh Ký, cha đẻ của tự điển quốc ngữ ở thời kỳ phôi thai, mà sau này cả nước vin vào đó để cải tiến cho nước mình có một chữ viết ngày càng tinh vi hơn. Mộ của Pétrus Trương Vĩnh Ký nằm ở quận Cái Mơn.


    Bên kia bờ rạch Nhỏ ngang sông nhà thờ lớn. Nhà thờ lớn Cái Mơn có một lối kiến trúc tinh vi đồ sộ cùng một kích cỡ của nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Mộ của nhà Bác Học nằm khiêm nhường ở một liếp vườn dừa tương đối không to lắm. Mộ xây bằng đá mài có mái che. Thường thì các Ky Tô hữu đến viếng trong những ngày thánh lễ. Có lúc mộ cũng im lìm suy tư như hiền triết đang suy tư vận nước đang nổi trôi.

    Sau nhà thờ lớn có một cùng lãnh địa tôn nghiêm của Soeurs thuộc dòng tu kín. Trừ ra sau 1975 thì không biết chứ nơi đây xưa nay được coi là vùng cấm địa, như một quốc gia trong một quốc gia.

    Cái Mơn có danh nhân, có nhà thờ lớn. Ngoài ra Cái Mơn lại là một địa danh trù phú mang lại kinh tế lớn cho tỉnh nhà.

    Sản phẩm của Cái Mơn là sầu riêng, chôm chôm, măng cụt... Sầu riêng, khổ qua Cái Mơn màu xanh biên biếc. Cơm vàng hạt nhỏ. Ăn vào thơm bát ngát, mát miệng mát hồn.

    Cạnh Cái Mơn còn có xã Trường Thịnh là quê hương của bòn bon. Trái bòn bon Trường Thịnh xâu dài trái khít. Lúc chín ngả màu vàng nõn nà. Khi ăn vào ít có ai bị trúng thực hoặc xót ruột như dùng các loại trái cây khác.

    Bên kia sông cái là cù lao Tiên Long, Phú Long, nơi tiếp cận với xã Tiên Thủy. Người xưa gọi xã đó là xã Tiên Thủy cũng có lý do của nó. Vì nước lộ ở đây chỉ vô tới vàm là theo thủy triều trở ra biển. Hai xã Tiên Thủy, Tiên Long quanh năm nước ngọt. Nước kém, nước rong, nước trong, nước bạc đều vẫn giữ một vị ngọt mát tự nhiên. Dân chỉ múc nước vô lu chờ nước lóng là bên trên nước ngọt thuần túy, không có lẫn phèn hôi như nước city của chúng ta ở đây. Có lẽ nhờ đó mà khu vực cù lao này là nơi cư ngụ của loài ốc gạo. Có khi người ta gặp ốc gạo kết bè kiếm cồn cát dầy để sanh xôi nẩy nở. Gặp lúc như vậy, ghe xuồng nếu không đi gấp thì họ cắm sào chờ nước ròng để mò ốc. Vì ốc gặp xuồng là khép mài lại, nhả không khí ra cho chìm tại chỗ chớ không hề di chuyển nơi đâu.

    Thuở thanh bình xa xưa, người ta ăn ốc kỹ lắm. Họ lựa con nào lớn mới bắt lên. Ốc mới bắt đem ngâm nước cơm vo để hồi lâu, ốc sẽ nhả cát ra. Cứ thế bỏ vào nồi để lên bếp không đổ nước. Cho vào nồi tí muối bọt thôi. Ốc chín sẽ rớt mài ra phơi bày thân ốc vàng tươi, mập ú. Làm nước mắm ớt cho ít xoài sống kẹp vào mà nhai. Con ốc thơm thơm béo béo đòn rúm. Có ít xoài sống tiễn đưa! Ôi còn gì ngon hơn nữa đây, thưa quý vị?

    Trên xã Tiên Long Tiên Thủy là xã Phú Long. Lưng chừng đường đi lên Phú Long có một ngã ba sông tên là ngã ba Bến Rớ. Ngã sông này chạy về Phú Túc, Phú Đức, Rạch Đình. Bên kia là Rạch Gầm Xoài Hột, nơi mà Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ làm cỏ quân Xiêm La (Thái Lan) từ 20.000 quân xuống còn 1.600 phế binh và cho tàu đưa về nước theo diện nhân đạo!

    Ngã ba Bến Rớ có câu hò rất dễ thương:

    "Ba phen quạ nói với diều
    Ngã ba Bến Rớ có nhiều cá tôm"

    chớ không phải:

    "Vĩnh Long cầu sắt có nhiều xác Tây"

    Một cánh đồng bát ngát phân chia Tiên Thủy Tiên Long thành ranh giới. Bên kia ven đồng là xã Quới Thành, Thành Triệu. Hai xã này là quê hương của loài nấm mối. Một sản phẩm quý hiếm của giới tu hành mà mỉa mai thay, dân nhậu lại thích càng dữ tợn nữa.

    Ở các nơi khác, nấm mọc tự nhiên có gò. May lắm là nhổ được nửa rổ, nửa thúng, hoặc một thúng là cùng.

    Đàng này dân xã Qưới Thành biết khai thác đặc tính của nấm để biến thành nguồn kinh tế đáng kể.

    Đến mùa khô, dân chúng chặt chót tàu lá dừa ném dày trên liếp vườn. Để lá cho mục và lá sẽ là thực phẩm cho loại mối. Mối có thực phẩm sẽ ở nguyên tại chỗ không vô nhà phá phách. Dễ sanh sôi nẩy nở và sẽ trồng nấm vào mùa mưa sắp tới.

    Người dân có lịch nấm mọc. Ngày tháng... chỉ xê xích vài hôm thôi. Lúc mưa vừa chào sân thì họ mau mau hốt bùn ở dưới mương dừa ném lên liếp. Bùn vừa ráo, cơn mưa kế tiếp bắt đầu, nắng ngã màu vàng hanh là lúc nấm mọc. Tai nấm mọc xuyên qua lớp đất ướt, thân nấm dài gấp đôi gấp ba lúc bình thường. Ngù chưa mở dù, cân nặng ký lại dòn ngon.

    Đem nấm rửa sạch để ráo trộn ít muối ớt cho vào lá bạc hà non, thêm tí mỡ hành gói kín đem để lên lửa than cho chín. Nấm tỏa mùi hương bát ngát - Ăn vào sẽ thấy nấm vừa dòn, vừa ngọt, vừa thơm... đến thánh nhân cũng phải gật gù.

    Nãy giờ nhắc nhiều đến mồi quá mà chưa kể đến món mà các đấng mày râu đợi chờ có vẻ sốt ruột: đó là nước mắt quê hương. Vâng! Bến Tre của chúng tôi chẳng những có, mà có một cách hãnh diện vì có rượu đế nào sánh kịp rượu chợ Thơm, giữa Mỏ Cày và Hương Mỹ.

    Cần Thơ có rượu Cái Trâm, Rạch Giá có rượu Đường Xuồng, ven đô có rượu Hốc Môn, Gò Đen; nhưng nếu đem so với đế Chợ Thơm thì chắc phải chào thua. Dân Chợ Thơm nấu rượu bằng nếp Hương chọn kỹ. Nước Hà Nàm pha với nước nhì là tắt lửa dẹp kháp. Rượu Hà Nàm uống cháy ruột, rượu Hàng Ba nấng bọn dạ. Hà Nàm pha với nước nhì cho một nồng độ như cognac Pháp. Hương vị quê hương thấm thía tình người.

    Xin quý vị nam tử xách lít rượu Chợ Thơm xuống Ba Tri, quê của cụ Đồ Chiểu, quý vị sẽ có mồi nhâm nhi đúng mức: Đó là sò huyết Ba Tri! Con sò không to như sò Rạch Giá nhưng sò Ba Tri thân tròn thịt mập. Sò được nướng vừa há mồm thì tách ra cho ít chanh, tiêu vào. Mình sò đỏ hỏm mập ù. Mùi vị thơm tho, ngọt béo. Bây giờ có sẵn rượu đế Chợ Thơm xin đưa cay một chút, quý vị sẽ thấy tâm hồn mình bay lên tám ngả sơn khê!


    Chưa hết đâu! Quê hương của cụ Nguyễn Đình Chiểu còn có một sản phẩm trứ danh nữa đó là cua biển Ba Động.

    Cua Ba Động bắt lên lúc tối trời. Thân cua đen kịch nặng nề. Đem nướng lên thịt cua trắng phau đầy đặn, gạch cua đỏ hỏn chứ không phải vàng hoe như cua nơi khác. Thịt cua Ba Động ngọt lịm chứ không mặn như cua nơi khác. Đám tiệc đám cưới mà đem về được vài xâu cua Ba Động để làm chả thì còn gì hơn nữa.

    Bên trên bản đồ một chốc là Giồng Trôm - Quê hương của bánh tráng mè và bánh phồng:

    Em tráng bánh tráng, anh quết bánh phồng
    Cảm thương đôi má ửng hồng, hẹn em chợ Mỹ Lòng ăn cháo về đêm.

    Chợ Mỹ Lòng ban ngày sinh hoạt có vẻ thưa thớt, nhưng ban đêm lại đông vui tấp nập đủ loại thực phẩm tươi ngon. Do đó nam thanh nữ tú thường hẹn nhau ra chợ Mỹ Lòng về đêm.

    Bên kia cù lao Minh là Bình Đại, quê hương của Tây Le Roy và Đồng Văn Cống. Tây Le Roy đánh giặc hay, biết dụ dân, cho nên có lúc y rượt Đồng Văn Cống chạy quên mặc áo.

    Đưa nữ địch vận vô, nữ địch vận mê mẩn tâm thần, quyết theo chàng về Pháp. Tây Le Roy biết ca vọng cổ, biết gõ nhịp song lang. Về sau qua Pháp, Le Roy bắt Tây thiệt là tướng Salan giam vô bót.

    Cách một bờ Cửu Long là Thạnh Phú. Nơi đây Chà Là mọc thành rừng. Mới nhìn tưởng đâu là đất hoang rừng rậm. Dân làm sao sống nổi. Nhưng thưa không. Rừng Chà Là đó là tiền bạc đấy. Dân ở đây chuyên nghề chặt củ hủ chà là con. Mỗi đọt như vậy là một vị ‘đuông’ nằm chễm chệ ở trong. Dân chặt đọt chà là bó thành bó, đem gấp ra chợ Bến Tre hoặc Sài Gòn để bán. Bó chà là về tới Chợ Cũ Sài Gòn là tư thế nó khác rồi. Nó nằm trong tiệm Chà Và nhà hàng đặc sản - Đắt không thể tả - Khách đông không thể đếm.

    Người ta tách đọt chà là bắt hoàng tử đuông ra cho lội muối một chút là nó vừa sạch vừa bất động. Nhét vào thân đuông một hạt đậu phộng rang. Thoa ít nước xì dầu hoặc nước mắm Phú Quốc rồi chiên bơ. Con đuông chiên vừa béo vừa thơm. Đúng ra chiên bơ cũng còn hơi thừa vì đuông tự nhiên đã có mùi bơ béo ngậy rồi.

    Bến Tre còn có loại Đuông Dừa cũng béo, to con hơn và nhiều hơn, nhưng lại không thơm bằng Đuông Chà Là nên vì vậy mà rẻ tiền hơn. Có lẽ sản phẩm của Bến Tre quá nhiều, quá phong phú. Chúng ta chỉ nhắc sơ qua các đặc sản trên cạn chứ chưa đề cập tới thủy sản, hải sản. Những món này có dịp khác chúng tôi sẽ bàn. Vì cù lao Bến Tre hình tam giác đáy quay về biển, và biển với cửa sông giao nhau để tích lũy vô số tôm cá dồi dào của dòng bằng Nam Việt trù phú.

    Thật là một sai lầm to tát khi gọi mấy người răng hô là dân Bến Tre. Họ muốn nói cái răng hàm hô giống như bàn nạo để nạo dừa. Lâu rồi thành câu diễu cợt khả ố! Các thanh niên ở xa đâu có biết rằng:

    Con gái Bến Tre tóc mây da trắng
    Mắt nhung đen má phấn môi son
    Dáng đi yểu điệu ru hồn
    Em đi khuất dạng mà anh còn trồng cây si!

    Đó là những nét đẹp xinh, duyên dáng của Bến Tre tôi vào thuở thanh bình xa xưa. Giờ thì tất cả đã đổi thay. Trận cuồng phong 30-4-1975 đã cuốn đi tất cả truyền thống, tập quán của quê mình.

    Mong ngày nào đó, đồng bào cả nước cùng đồng hương chúng ta khôi phục lại quê hương, cho xứng đáng lòng trung dạ hiếu của cụ Đồ Chiểu và khối óc tinh anh uyên bác của nhà bác học Trương Vĩnh Ký.

    HỒ LIỄU

    (Trích ĐS. Tiền Giang - Hậu Giang)

  3. #3
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st Cồn Phụng (Bến-Tre)

    Về Bến Tre thăm Cồn Phụng


    Giống như một ốc đảo xanh nổi trên sông Tiền, Cồn Phụng nằm trên một cù lao thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đang là một trong những điểm đến hấp dẫn về du lịch đối với du khách trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm quê hương.

    Cồn Phụng còn có tên là cồn Tân Vinh. Cồn Phụng lúc đầu chỉ là một cù lao nổi giữa sông Tiền vào những năm 1930 với diện tích khoảng 28 ha, nhưng do lượng phù sa bồi đắp dồi dào mỗi năm mà nay đã lên tới trên 50 ha.

    Đây là một trong bốn cồn nằm trên đoạn sông Mỹ Tho được đặt theo quan niệm tứ linh mang điềm an lành hạnh phúc là: long, lân, quy, phụng. Cồn Rồng là "long", cồn Thới Sơn là "lân", cồn Quy (nằm phía sông Ba Lai) là "quy", và Cồn Phụng (còn gọi là cù lao Đạo Dừa) là "phụng". Tên Cồn Phụng có từ khi ông Nguyễn Thành Nam đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật vào hồi đầu thế kỷ XX. Khi công trình này đang xây dựng, những người thợ nhặt được một cái chén cổ có hình con chim Phụng, nên đặt tên là Cồn Phụng. Ngoài ra, sở dĩ nó còn có tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa là do ông Nguyễn Thành Nam khi đến đây xây chùa Nam Quốc Phật, đã lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa. Đạo Dừa chủ trương mang lại hoà bình, sống bằng hoa trái.

    Một điểm mà du khách không thể bỏ qua là khu di tích Đạo Dừa diện tích khoảng 1.500m². Hiện di tích này được bảo tồn nguyên kiến trúc được xây dựng từ thời giáo chủ Đạo Dừa - Nguyễn Thành Nam (1909-1990) với khu sân có 9 con rồng; tháp Hòa Bình (cửu trùng đài), nơi ông Đạo Dừa ngồi giảng kinh pháp và truyền bá đạo giáo. Tòa tháp có kiến trúc huyền bí bằng những mảng đắp chạm rồng, phượng được gắn bằng những mảnh vỡ của bát đĩa, ấm chén và một đỉnh lớn cao chót vót. Trong nhà trưng bày của ông Đạo Dừa còn ghi lại những bức ảnh của ông lúc sinh thời, đến khi ông qua đời...

    Nhìn từ xa, ốc đảo Cồn Phụng nhô cao giữa con sông Tiền hiền hòa, điều này mang lại một cảm giác thú vị cho du khách những lúc ngồi trên ghe xuồng thưởng ngoạn cảnh sông nước của miền Tây. Cồn Phụng còn cuốn hút du khách bởi những nét sinh hoạt đời thường của người dân nơi đây gắn liền với các nghề thủ công được làm từ dừa. Du khách có thể đi thăm các cơ sở sản xuất kẹo dừa, sản xuất đồ lưu niệm từ cây, vỏ trái dừa...

    Cồn Phụng như một làng quê miền Tây thu nhỏ của Đồng bằng sông Cửu Long. Du khách có thể khám phá nhiều nét độc đáo về văn hoá, tập tục trong đời sống dân dã của người dân xứ dừa. Đất đai ở đây phù sa màu mỡ, cây trái xum xuê. Nhiều gia đình vẫn giữ nếp sống bằng nghề nuôi ong lấy mật từ hoa nhãn và một số hoa khác. Ngồi trên xe ngựa thăm vườn cây ăn trái, dừng chân ngồi nghỉ dưới ngôi nhà lợp lá dừa để uống trà với mật ong và quất, thưởng thức các món ăn trái cây miền nhiệt đới. Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức một đặc sản văn hóa nổi tiếng của người miền Tây, đó là đờn ca tài tử.

    Nguyễn Oanh

  4. #4
    KQVN12's Avatar
    Status : KQVN12 v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2013
    Posts: 18
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Chào đại huynh TAM 73F huynh ở Bến Tre huynh ở quận nào? KQ12 dân Bến Tre, Xả An Hội, Quận Trúc Giang cho tới ngày đức phim 30/4/1975.

Similar Threads

  1. SVSQ/KQVN _ Một Thời Để Nhớ
    By PhiLan in forum Liên Khóa SVSQKQ
    Trả lời: 3
    Bài mới nhất : 03-08-2012, 07:37 AM
  2. Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 02-19-2010, 10:55 PM
  3. ... Nhớ!... Cũng một thời để nhớ
    By PhiLan in forum Liên Khóa SVSQKQ
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-25-2009, 05:08 AM
  4. Nha Trang một thời để nhớ.......phim
    By chimtroi in forum Liên Khóa SVSQKQ
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 09-23-2008, 02:10 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •