Remember ?

kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Tựa Đề: Ngô Thế Vinh và tập truyện song ngữ Mặt Trận ở Sàigòn / The Battle of Saigon

  1. #1
    Moderator
    Nguyen Huu Thien's Avatar
    Status : Nguyen Huu Thien v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2014
    Posts: 687
    Thanks: 59
    Thanked 57 Times in 18 Posts

    Default Ngô Thế Vinh và tập truyện song ngữ Mặt Trận ở Sàigòn / The Battle of Saigon

    Ngô Thế Vinh và tập truyện song ngữ Mặt Trận ở Sàigòn / The Battle of Saigon




    Phan Tấn Hải


    Nhà văn Ngô Thế Vinh, cũng là một bác sĩ Y khoa và từng là Y sĩ trưởng của Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, có một lối viết văn không nhầm với bút pháp các nhà văn khác: đôi khi nhìn như một bác sĩ, và đôi khi nhìn như một người từ chiến trận đầy khói lửa mới về thành phố — nơi đó, ông tham chiến nhưng vẫn là người chữa lành các vết thương, ông ở vị trí gần gũi các chiến binh nơi mặt trận và cũng tiếp cận các cấp chỉ huy của Quân đoàn để nhìn chiến trường từ nhiều hướng khác nhau. Đó là một trong những lý do làm các trang sách của Ngô Thế Vinh, ngay từ các năm trước 1975, đã đứng rất riêng biệt.

    Nói như thế để thấy rất nhiều nhà thơ, nhà văn — những người hiện diện cùng chiến tuyến tại các chiến trường Miền Nam trước 1975 — có những suy nghĩ độc lập, rất riêng tư chứ không phải mê mờ chủ nghĩa. Ngòi bút của họ trong thời chiến tranh gay gắt ở Miền Nam không hề bị bóp méo để viết theo chỉ thị từ các quan chính ủy, một chức vụ chỉ có trong quân đội Miền Bắc.

    Đó là lý do, chúng ta thấy có thơ Nguyễn Bắc Sơn trong bài thơ “Chiến Tranh Và Tôi” có những dòng không hề căm thù khi nhìn người lính bên kia chiến tuyến, và bên Bắc quân hoàn toàn không có cái nhìn phóng khoáng như thế, trích:

    Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
    đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
    mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
    xem chiến cuộc như tai trời ách nước
    .
    Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
    vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
    chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi

    suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
    (Chiến Tranh Và Tôi – Nguyễn Bắc Sơn)

    Hay như Phan Nhật Nam, một nhà văn và là sĩ quan Nhảy dù trong các năm chiến trường gay gắt nhất trước 1975, nhìn chiến trận từ tuyến đầu với một cách rất riêng và rất đa diện qua Dấu Binh Lửa, nơi từng dòng chữ nhiều thập niên sau đọc lại vẫn còn vang tiếng đạn nổ dòn khi nhà văn cầm súng phóng lựu M 72 đứng dậy, thế là VC bắn rách quần nhà văn họ Phan, trích:

    “Tôi đem xác Khiêm về sau, mắt anh đã nhắm… Những chiếc râu xanh lởm chởm ở cằm người chết linh động như của đời sống đang còn thở. Nhưng anh chết thật. Rút quân ra ngày mai vào lại.

    Quân vượt qua chiếc rạch nhỏ, dàn hàng ngang lội thật nhanh, hết chiếc rạch đến bên kia là vườn cau, gắng lên! Ba người lính lên bờ trước đứng dậy. Một loạt đạn nổ dòn… Hai bị thương. Tôi đang ở trong rạch lúng túng băn khoăn, cả đại đội nằm trong nước bùn im lặng, một cây nhỏ lung linh, người lính đeo máy nằm bên cạnh tôi trở mình, loạt đạn bay đến, những nhánh dừa nước rơi tung tóe. Bực mình quá tôi nổi liều, cầm trái M.72 đứng lên… Chiếc hoả tiễn công phá được phóng đi, một tràng đạn đáp lễ lại xé rách chiếc quần… Đ.m… Hầm tụi nó phá không nổi! Hỏi ý kiến Đại uý Liên, tiểu đoàn phó. Cho rút lui vòng tay phải đánh lên? Đồng ý. Tôi
    cho đại đội lui từng người một. Lẩm bẩm chửi thề. Mẹ cha chúng mày còn một tí người cũng đòi dở chuyện. Vòng phía phải thật nhanh qua khu vườn mía, bao quanh đánh vào, Việt cộng bỏ chạy để lại ba xác chết nằm thẳng cẳng.” (Nghĩ Về Một Kẻ Thù Kiệt Lực, “Dấu Binh Lửa” — Phan Nhật Nam, Tháng 3/1968. An Phú Đông – Gia Định)

    Nếu là bút ký của nhà văn Miền Bắc, hẳn là đã giấu chi tiết vài tên địch mà chận bước tiến cả đại đội phe ta, và hẳn là không ghi lại tiếng chửi thề của nhà văn họ Phan trong cương vị sĩ quan chỉ huy đại đội Nhảy dù, và cũng sẽ giấu chi tiết sĩ quan chỉ huy bị bắn rách quần. Nhưng văn học Miền Nam, sự thực không che giấu đã hiển lộ trên từng trang giấy với bút pháp riêng từng nhà văn.

    Nhà văn Ngô Thế Vinh có bút pháp khác, cũng rất mực độc đáo. Khi tả ông Tướng biên cương, Ngô Thế Vinh nhìn dưới con mắt y sĩ tiền tuyến trước, suy nghĩ về bệnh tê thấp khớp xương của ông Tướng, và rồi nhận ra ngay bên cạnh ông Tướng là một thiếu phụ đẹp lộng lẫy trong tiếng cười nói ồn ào, khói thuốc và hơi rượu. Trích:

    “Ông Tướng Biên cương tối nay đã thôi treo tay. Như nhịp độ những trận đánh trên cao nguyên, chứng tê thấp khớp xương của ông cũng trở lại với chu kỳ của mùa mưa và bệnh tình cũng bắt đầu thuyên giảm khi bước sang thời tiết khô ráo. Ở buổi dạ hội hôm nay, ông Tướng mặc thường phục và khoác thêm một chiếc áo rực rỡ cổ truyền của người Thượng. Dưới mắt thuộc cấp, ông Tướng là hình ảnh của hào hùng và là sự cần thiết cho sự ổn định của vùng địa đầu cao nguyên. Sau nghi thức đơn giản với đôi lời chào mừng, ông Tướng đã cùng mọi người hân hoan nâng ly rượu mừng cho chiến thắng rực rỡ của Mùa Mưa. Tiếp đó ông cũng là người đầu tiến bước ra sàn nhảy, cùng với một thiếu phụ đẹp lộng lẫy, đi những bước thật bay bướm mở màn cho buổi dạ vũ. Âm thanh của những tiếng cười nói ồn ào. Không khí dày đặc khói thuốc và hơi rượu mạnh. Nhạc sống và khiêu vũ. Những người đàn bà dễ dãi.” (MTOSG, ấn bản song ngữ 2020, trang 22)

    Hình ảnh tưng bừng trong buổi dạ vũ đó trái nghịch với hình ảnh bi thảm khi Ngô Thế Vinh kể về những xác người chết nơi chiến trường, nơi tác giả có những người bạn trúng đạn tới xóa tan mặt mũi, và cả xác một Hạ sĩ quan thân tín của trúng đạn bi thương và lết vào bụi rậm nằm chờ chết. Nhà văn Ngô Thế Vinh kể:

    “Đưa ly rượu tới môi, tôi tự nhủ rằng hãy nghĩ tới những người sống chứ không phải những xác chết. Nhưng vấn đề là làm sao để quên đi. Cái hình ảnh kinh hoàng của chiến địa, hôi thối nồng nặc, chồng chất những tử thi hai bên. Xác của những người bạn bị oanh kích lầm với thứ hỏa tiễn mũi tên xóa tan cả mặt mũi. Xác của người phi công được trực thăng móc ở rừng ra, héo rũ trên dây treo như cách người ta câu về những con thú. Cả đến người Hạ sĩ quan thân tín của tôi trong bao năm nay trên khắp trận mạc cũng lại vừa chết trước một ngày khi chúng tôi được lệnh về Sài gòn. Xác của nó chỉ được kiếm ra hai hôm sau trong một bụi rậm khiến tôi hiểu rằng nó chỉ bị thương và bị bỏ rơi lại bãi. Với sẵn cái bản năng mưu sinh và thoát hiểm, tuy bị đạn, nó đã cố lết mình vào bụi rậm, sửa soạn một chỗ nằm chờ đợi được cứu hay nếu không cũng chu đáo sửa soạn một cái chết. Lúc tìm ra, xác nó còn gối đầu trên ba-lô, còn chiếc nón rừng được hắn úp lên ngực chỗ vết thương trổ từ sau lưng...” (trang 23)

    Nhiều hình ảnh nhân đạo hiện ra trong bút ký của Ngô Thế Vinh làm chúng ta bùi ngùi khi đọc tới. Tiếng trực thăng bay tới gần sẽ làm chiến binh Miền Nam vui mừng, nhưng sẽ gây kinh hoàng cho chiến binh Miền Bắc, và có thể sợ tới đứng tim mà chết, như khi tác giả kể về một tù binh trẻ, bị thương nhẹ, nghe tiếng trực thăng tới gần là kêu thất thanh “Anh” rồi chết. Và xác tù binh này phải bỏ lại giữa rừng, khi quân Miền Nam rời chiến trường; tác giả cố ý quên chỉ thị gài lựu đạn dưới xác để không có thêm vài xác trong rừng nữa.

    Trong “Hòa Bình Không Sớm Hơn” trong tuyển tập “Mặt Trận ở Sài Gòn,” tù binh đó, gốc Thanh Hóa, bị thương nhẹ, bị bỏ lại hậu cứ vì đang lên cơn sốt rét ác tính. Y sĩ tiền tuyến Ngô Thế Vinh ra lệnh y tá chăm sóc tù binh này, cho chích thuốc trợ tim và cầm máu, truyền nước biển, cho một trung đội luân phiên cáng võng tù binh này về Quân Đoàn để sẽ khai thác tin tức.

    Khi ra tới nơi dọn bãi đáp cho trực thăng, tù binh trẻ này được đặt nằm dài trên lớp cỏ mịn, chờ bốc về Quân Đoàn. Nhưng khi trực thăng tới gần, tiếng cánh quạt trực thăng trong khi làm chiến binh Miền Nam vui mừng, tù binh trẻ này kinh hoàng chết tức khắc. Ngô Thế Vinh ghi hiện tượng này như sau:

    “Tên tù binh được đặt nằm dài trên lớp cỏ mịn. Hắn xanh xao cố mỉm cười khi nhìn tôi bước tới. Tôi muốn có phút chuyện vãn và làm một cử chỉ chăm sóc hắn. Có tiếng reo mừng của đám lính tráng khi nghe đoàn trực thăng từ xa tới. Ngay lúc đó không hiểu sao bỗng dưng tên tù binh ngồi bật dậy và hốt hoảng kêu la. Có một cái gì đó khiến hắn trừng mắt ngạc nhiên và đầy vẻ sợ hãi. Như không thấy, hắn chỉ kịp quơ tay về phía trước níu lấy tôi kêu thất thanh một tiếng “Anh” rồi ngã rũ xuống và chết tốt. Tôi bàng hoàng kêu ngay y tá Tụng và ngay cả chính tôi cũng đã làm mọi điều để cấp cứu hồi sinh hắn nhưng vô hiệu. Tôi vẫn nghĩ rằng vết thương đó không đủ làm hắn chết mau như thế. Tụng y tá thì tìm cách giải thích là tên tù binh đã chết vì bị “kích xúc”. Thêm một danh từ chuyên môn cũng chẳng giải thích được gì thêm về cái chết bất ngờ và vô lý đó. Tôi để ý là khi nghe tiếng vỗ cánh của đoàn trực thăng xà trên bãi thì vẻ mặt hắn biến sắc và để lộ một vẻ sợ hãi khủng khiếp. Hình như đó là một thứ phản xạ điều kiện của tột cùng sợ hãi của một người suốt bốn năm sống trong rừng sâu mà nỗi ám ảnh đe dọa thường xuyên là các toán Biệt Kích với chiến dịch Diều Hâu trực thăng vận. Trong khi cũng thứ âm thanh của những cánh quạt gió ấy thì đang khiến đám lính tráng đói khát của tôi nhảy tưng lên như điên vì mừng rỡ sung sướng.” (trang 58)

    Tù binh chết thì phải bỏ xác lại giữa rừng. Tác giả cố ý quên một thói quen gài lựu đạn dưới xác người tù binh mới chết. Đoạn cuối “Hòa Bình Không Sớm Hơn” viết:

    “Khi đoàn trực thăng đã thực sự rời xa bãi, tên Trung sĩ cận vệ thân tín lên tiếng nhắc tôi và cố nói to. “Em thấy là Hổ xám quên.” “Không, lần này không phải là tao quên.” Nó nhắc tôi việc gài một trái lựu đạn rút kíp dưới xác người tù binh mới chết phải bỏ lại dưới bãi. Hơn một lần địch đã hành động như vậy và gây cho chúng tôi tổn thất. Nhưng ở lần này thì tôi lại nghĩ rằng cho dù có làm thêm một cạm bẫy xác nữa, gây thêm được một vài chết chóc, không vì thế mà ngày mai Hoà Bình sẽ trở lại sớm hơn.” (trang 61)

    Những đau thương của cuộc chiến không ngừng ở năm 1975. Truyện “In Retrospect — Nhìn Lại” kể về một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đặc trách xây dựng phòng tuyến McNamara từ trước Tết Mậu Thân, hai lần bị thương, nghiện rượu và hút cần sa khi còn tham chiến ở VN. Anh này có tên là Gumber, được tác giả giấu tên thật, giải ngũ nhiều năm, thất nghiệp vì cơ thể bị chiến tranh tàn phá. Trong truyện, nhân vật Phan, một bác sĩ gốc Việt, chăm sóc bệnh nhân kia. Truyện kể về anh Gumber:

    “Anh sống cô quạnh, một lần ly dị và không con. Sự thể cô vợ rất sớm phải bỏ anh vì không chịu được tính nết hung hãn bất thường của chồng cho dù họ vẫn còn thương nhau. Từng là lính cổ da, thuộc một trong những đơn vị Thủy quân Lục chiến đặc trách xây dựng phòng tuyến McNamara từ trước Tết Mậu Thân, cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, hai lần bị thương, với số tuổi nay đã gần 50. Anh đã bắt đầu nghiện rượu và hút cần sa từ lúc còn rất trẻ khi mới qua Việt nam. Giải ngũ, thất nghiệp từ nhiều năm và không thấy có một tương lai. Anh sống qua ngày bằng số tiền trợ cấp tàn phế nhỏ nhoi. Tất cả đều liên hệ tới những mất mát từ chiến trường Việt nam: chứng động kinh do vết thương sọ não. Anh đã từng bị sốt rét ác tính, và cũng là người duy nhất sống sót của một tiểu đội mất tích; tuy bị thương nặng ở bụng và chân do những miểng mìn claymore sau khi rơi vào ổ phục kích đêm của Việt cộng ở một nơi xa xôi nào đó trong vùng cao nguyên Trung phần Việt nam cách đây 27 năm. Cũng phải kể tới vết thương khác không chảy máu Bloodless Wounds PTSD – hội chứng tâm thần sau chấn thương ở những năm sau khi anh đã trở lại nước Mỹ.” (“In Retrospect — Nhìn Lại” – trang 99-100)

    Có một lúc, anh Gumber làm thiện nguyện cho chiến dịch Stand Down chăm sóc các cựu chiến binh không cửa không nhà. BS Phan nhận ra anh Gumber tích cực, năng nổ khi làm thiện nguyện ở bệnh xá, trái với hình ảnh anh Gumber mấy năm trước, buồn bã, trầm cảm, gây hấn, dễ nổi nóng, ưa than vãn, từng đôi lần cắt cổ tay để tự sát mà được cứu kịp. Tuy nhiên, một thời gian sau, BS Phan được tin anh Gumber treo cổ tự sát. Và bùi ngùi suy nghĩ, anh Gumber chưa phải là người lính Mỹ cuối cùng, trích:

    “Cho đến bây giờ trong ký ức Phan vẫn không thể nào xóa nhòa cái hình ảnh rạng rỡ và khuôn mặt hạnh phúc của anh Gumber khi bỗng chốc anh được thấy mình trở lại có ích, cho dù chỉ ngắn ngủi ở mấy ngày của chiến dịch Stand Down năm đó. Lẽ ra anh đã không chết và cả sống hạnh phúc nữa nếu anh thực sự được trở về nhà với một tấm căn cước và có cơ hội sống cho và sống với người khác. Và anh Gumber vẫn chưa phải là người lính Mỹ cuối cùng chết trong trận chiến tranh Việt Nam.” (trang 107)

    Điều độc đáo của tập truyện là “Mặt Trận ở Sài Gòn / The Battle of Saigon” ấn hành cả song ngữ Việt-Anh. Hiển nhiên là Ngô Thế Vinh có nhiều điều muốn thế giới Anh ngữ đọc về Cuộc Chiến Việt Nam — trong đó độc giả của anh có thế hệ trẻ gốc Việt và những người sẽ nắm quyền tuyên chiến tương lai trên thế giới. Tác giả Ngô Thế Vinh không phải là người chủ hòa hay phản chiến, bản thân anh là người tham dự cuộc chiến. Nhưng Ngô Thế Vinh cũng không phải người chủ chiến hay phe diều hâu, bản thân anh quý trọng hòa bình và kinh hoàng khi nhìn thấy chiến tranh tàn phá quê nhà và dân tộc anh.

    Ngô Thế Vinh chọn vị trí viết sự thật, xa lìa tất cả chủ thuyết. Tác giả nhìn vào những gì xảy ra trong cuộc chiến và kể lại để giúp dân tộc anh, và giúp nhân loại tự vấn về những trận tàn sát trên quê hương anh. Chắc chắn sẽ có những độc giả ứa nước mắt khi đọc tới một số hình ảnh tác giả ghi lại. Về lời kể của Jim cho bác sĩ Phan nghe trong “Một Bức Tường Khác” những ký ức không quên khi “bọn VC biển người từng lớp từng lớp nhào lên hàng rào dây kẽm gia,” hay về “Bọn tướng lãnh ở Lầu Năm Góc, liệu tụi nó biết được là có bao nhiêu tân binh chết tức tưởi vì cây súng M16 kẹt đạn,” để rồi chất vấn “tụi con buôn súng đạn ấy” và rồi Ngô Thế Vinh ghi lại vào năm 1991:

    “Jim sống mà như đã chết. Hắn thực sự đã chết các đây từ 22 năm, cùng với Giấc mơ Mỹ quốc, và cả giấc mơ rất nhỏ bé được trở thành thầy giáo, khi bước ra khỏi vũng bùn và máu của chiến tranh . Jim cũng như đa số những người cựu chiến binh Việt nam được gọi là còn sống , nhưng họ giống như những mảnh bom đạn vương vãi , thực sự chưa thoát ra khỏi trận địa Việt nam. Liệu có còn thêm một bức tường thương khóc nào khác ở Hoa thịnh đốn đủ dài để có thể ghi tên và vinh danh họ.

    Phan cũng tự hỏi đến bao giờ, cả chính chàng nữa mới thực sự thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đã vào qúa khứ từ 17 năm rồi.
    ” (trang 97)

    Tuyển tập song ngữ “Mặt Trận ở Sài Gòn / The Battle of Saigon” gồm 12 truyện ngắn, trong đó có truyện viết như bút ký, dày 500 trang, Lời Tựa do Nguyễn Xuân Hoàng viết với nhan đề “Ngô Thế Vinh Không Có Khoảng Cách Giữa Tác Giả và Tác Phẩm,” Bạt do Tạ Tỵ viết, lời nhận định từ nhiều nhà văn trong đó có Nguyễn Mạnh Trinh, Đoàn Nhã Văn, Mark Frankland, Tim Page, Phan Nhật Nam, Bùi Khiết, Hoàng Văn Đức, và một bài báo Bách Khoa năm 1972 nhan đề “Bách Khoa Đàm Thoại với Ngô Thế Vinh từ Vòng Đai Xanh đến Mặt Trận ở Sài Gòn.”

    Nhà văn Phan Nhật Nam trong bài viết năm 2004 nhan đề “Hòa Bình chưa hề đến, dẫu sớm, hay muộn… Nhân đọc Mặt Trận ở Sài Gòn,” được Ngô Thế Vinh dùng trong phần Bạt và Nhận Định, trang 213-218, đoạn kết là lời nhà văn họ Phan viết cho nhà văn họ Ngô:

    “Bạn Ngô Thế Vinh thân, mặt trận nơi Sài Gòn hóa ra chưa bao giờ chấm dứt, và cũng không hề chấm dứt. Tình huống hung hãn, sự việc ác độc mở rộng ra khắp Miền Nam, đến tận Miền Bắc, ở khắp nơi nào có mặt những con người gọi là Người Việt (bất kể người Việt Nam nào) với những bi kịch riêng tư (đúng ra là thảm kịch) không hề nói ra. Và hôm nay ở hải ngoại, nơi Tây Nguyên với những người anh em thuộc các sắc tộc Rhadé, S’ tieng – Chốn bạn đã một lần tiên kiến xót xa trong Vòng Đai Xanh khi bạn với tôi còn rất trẻ. Hoá ra, Người Viết Văn không có một khả năng nào khác ngoài tấm lòng thấy trước toàn khối Mối Đau.”

    Hai nhà văn Phan Nhật Nam và Ngô Thế Vinh, từng vào chiến trường trong hai đơn vị thiện chiến, Nhảy Dù và Biệt Cách Dù, cùng nhìn lại cuộc chiến đau thương như thế. Nơi đó, giấy mực của hai nhà văn này cũng chính là từ các vết thương một thời quá khứ, và bây giờ vẫn còn đau.

    Trong khi đó, một nhà báo Hoa Kỳ từ Tuần Báo Time ghi nhận về tập truyện Ngô Thế Vinh, nơi trang 212-213:

    “Vẫn liên tiếp xuất hiện những cuốn sách viết về Chiến Tranh Việt Nam, tuy nhiên có rất ít sách đề cập tới quan điểm từ miền Nam, từ góc cạnh của những người thất trận nhưng họ đã từng chiến đấu và tin tưởng ở một nền Cộng Hòa miền Nam mới khai sinh. Ngô Thế Vinh qua kinh nghiệm của một y sĩ trong một đơn vị Biệt Cách thiện chiến đã đem tới cho chúng ta những lý giải và soi sáng về những tình huống lưỡng nan ngoài trận địa. Rồi ông cũng đề cập tới cuộc sống hỗn mang ban đầu của một người tỵ nạn tạo dựng lại cuộc đời trong sự xa lạ của một miền Nam California, với phấn đấu để trở lại nghiệp cũ giữa một cộng đồng di dân gồm cả nửa triệu thuyền nhân với những khuynh hướng chánh trị phân hóa đa dạng. Một bối cảnh như vậy hầu như hoàn toàn bị lãng quên trong văn học. Người đọc sẽ thấy mình bị lôi cuốn vào tâm thức của một y sĩ tiền tuyến, của một tù nhân trong các trại tù gulag và rồi đến một người tỵ nạn bị bật ra khỏi gốc rễ được giải thoát để hội nhập vào một tầng lớp trung lưu Mỹ mới vừa hình thành. Đọc Mặt Trận Ở Sài Gòn để cảm nhận lắng nghe nỗi bâng khuâng của một con người vẫn gắn bó với những cội rễ tinh thần của một quê hương Việt Nam không thể tách rời.” (TIM PAGE, Time – Life, UPI free lance reporter)


    Nhà văn Ngô Thế Vinh sinh năm 1941 tại Thanh Hoá, nguyên quán Hà Nội. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1968, từng là tổng thư ký rồi chủ bút báo sinh viên “Tình Thương” của trường Y khoa Sài Gòn từ 1964 tới 1967. Khi gia nhập quân đội VNCH, ban đầu Ngô Thế Vinh làm bác sĩ quân y của Liên đoàn 81 Biệt cách Dù. Sau đó ông đi tu nghiệp ngành Y khoa Phục hồi tại Hoa Kỳ, về nước ông làm việc tại Trường Quân Y Sài Gòn.

    Trước biến cố 30/4/1975, Ngô Thế Vinh, sử dụng tên thật làm bút hiệu, đã xuất bản 4 tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là cuốn “Vành Đai Xanh” ấn hành năm 1971. Sau 1975, Ngô Thế Vinh đi tù “cải tạo” ba năm rồi mới tới Mỹ vào cuối năm 1983. Ông học tiếp ngành Y, rồi hành nghề bác sĩ tại Bệnh viện Đại học SUNY Dowstate Brooklyn, New York. Ông còn là bác sĩ điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện ở miền Nam California. Ở Hoa Kỳ, ông vừa tái bản tác phẩm cũ, vừa viết và ra mắt nhiều sáng tác mới, nổi bật là các tác phẩm ông viết về sông Cửu Long: “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (2001), “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” (2007).

    Tập truyện song ngữ Việt Anh do Văn Học Press & Việt Ecology Press ấn hành, đang lưu hành trên mạng: https://www.amzn.com/1989993192 và các hiệu sách. Có thể liên lạc ở: vanhocpress@gmail.com, vietecologypress@gmail.com,
    Địa chỉ liên lạc qua thư: P.O. Box 3893, Seal Beach, CA 90740

    Phan Tấn Hải


    (nguồn: T.Vấn & Bạn Hữu)

  2. The Following 4 Users Say Thank You to Nguyen Huu Thien For This Useful Post:

    dnchau (09-06-2020), khongquan2 (09-02-2020), Phạm Thái (09-02-2020), Vũ Phan (09-02-2020)

  3. #2
    Moderator
    dnchau's Avatar
    Status : dnchau v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2009
    Posts: 1,929
    Thanks: 2
    Thanked 27 Times in 10 Posts

    Default

    Xin phép NT Thiện post thêm.Cám Ơn.

    Đi Tìm Sự Yên Tĩnh Với “Mặt Trận Ở Sài Gòn”
    Hoàng Ngọc Nguyên

    Trong những ngày đang phải cố thủ tại gia một cách tuyệt vọng trước “kẻ thù vô hình” Corona virus giăng mắc, phong tỏa nơi nơi, “Mặt Trận Ở Sài Gòn” là một nguồn quên lãng lớn cơn đại dịch này. Trước hiện tại đang thêm phần đen tối không chỉ vì đại dịch Cô-Vy và nạn suy thoái/ lạm phát mà chủ yếu vì một chính tình thối nát, có khi người ta phải đi vay mượn một vài tia sáng từ quá khứ để có thể ngày qua ngày. Những câu chuyện cách đây cả 50 năm ở một nơi nay quá xa xôi bỗng dưng sống lại một cách da diết trong trí nhớ, trong con tim của mỗi chúng ta khi có “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đặt đầu bàn ngủ (không phải gối đầu giường).

    Tác phẩm này là một tuyển tập truyện ngắn, ấn bản 2020 là song ngữ Việt Anh, nhưng tôi vẫn xem đó cũng là một tuyển tập tạp bút, tạp ghi từ những đau nhức của một thời của thế hệ chúng tôi - thời đó chúng ta chỉ mới hăm mấy, ba mấy, nhưng nay đã bước qua tuổi cổ lai hi rồi. Thời gian có thể qua nhanh như vậy sao? Truyện ngắn ít nhiều vẫn có tính hư cấu (“truyện”), đặt chuyện từ mục đích của người viết muốn chuyển tải. Bởi vậy, có khi “truyện” có vẻ không thật và người xem sau khi gấp sách lại có thể nhún vai coi như xong.

    Tạp bút thì nói lên những ghi nhận, suy tư, tâm trạng buồn vui, hoan hỉ, phẫn nộ của người viết từ những kinh nghiệm thực tế trong cuộc sống. Đối với một tác giả như Ngô Thế Vinh, cuộc sống từ thời thơ ấu đã từng trải từ bắc vô trung và vào nam; trường học đã đi từ Khải Định Huế đến Chu Văn An Sài Gòn, rồi trường Y Khoa; và những năm làm y sĩ tiền tuyến tại những chiến trường xa xôi, heo hút đẫm máu vùng Tam Biên (Việt-Miên-Lào) cho đến ngày mất nước... cuộc đời của ông đã thừa sự phong phú mà không cần vay mượn sự tưởng tượng.

    Tạp ghi có lẽ là một thể loại thích hợp nhất cho Ngô Thế Vinh. Ông có đủ sự tự hào và tự tin về mình để nói lên và tìm cách diễn đạt những gì mình quan sát, nhận định, suy tư mà người nghe, người đọc có thể đón nhận. Mặt khác, ông cũng có đủ sự khiêm tốn cần thiết của một người hiểu được sự nhỏ bé, bất lực của con người trước “bể khổ mênh mông” mà “Nước mắt của Đức Phật” chỉ làm cho cái “nghiệp” của con người thêm đáng thương, đau buồn rõ ràng.

    Rất nhiều người Sài Gòn trong những năm sau của thập kỷ 60 đã đọc tạp chí Tình Thương của sinh viên trường Y Khoa Sài Gòn, bởi vì trên mặt trận hỗn tạp của báo chí thời đó, Tình Thương không phải là một “sản phẩm thương mại”, nhưng lại có sức thu hút với người đọc đang tìm kiếm một tạp chí thể hiện những giá trị nhân bản tưởng như đang thất lạc trong cuộc sống đầy bất trắc. Ngô Thế Vinh từng ở trong ban biên tập, tổng thơ ký và chủ bút của tạp chí này, một nhịp cầu cho những bác sĩ tương lai đến với một xã hội thực sự tin “lương y như từ mẫu”. Chắc chắn Ngô Thế Vinh đã có những niềm tin, những đam mê lớn lắm mới cống hiến sức mình góp phần làm nên Tình Thương, và chính Tình Thương đổi lại đã góp phần định hướng cho anh suốt cả cuộc đời – đến với những người dân lành bị bỏ quên trong xã hội, hay những người lính ngoài trận địa chẳng mấy khi được những người hậu phương nhớ đến.

    “Mặt Trận Ở Sài Gòn” là một tuyển tập gồm 12 “truyện bút ký”. Một nửa nói lên những trăn trở của một bác sĩ quân y ngoài tiền tuyến, đứng giữa làn tên mũi đạn, một nửa là những trăn trở của một người đã dấn thân vào việc tạo dựng một cuộc đời mới trên chốn “tạm dung” đất khách quê người, nhưng lại không đành để quá khứ lại đàng sau. Ít ra chỉ để nêu lên những câu hỏi cho dù câu trả lời càng ngày người ta càng không màng! Ít ra để có thể mơ mộng hão huyền - dù không xua tan được những ám ảnh như ác mộng - “Sẽ rực rỡ mùa thu này” với “Giấc mộng con năm 2000”.

    Mười hai “truyện bút ký” (Mặt trận ở Sài Gòn, Nước mắt của Đức Phật, Dấu ngoặc lịch sử, Hòa bình không sớm hơn, Giấc mơ Kim Đồng, Chiến trường tạm yên tĩnh, Cựu Kim Sơn – chưa hề giã biệt, Một bức tường khác, In Retrospect – nhìn lại, Người y tá cũ, Sẽ rực rỡ mùa thu này, Giấc mộng con năm 2000) mang cùng văn phong (le style, c’est l’homme), kể chuyện nghe như những lời tâm tình, lúc cao giọng như phẫn nộ, lúc trầm tĩnh như buồn bã, thể hiện những trăn trở mà tác giả, một người trong cuộc, muốn chia sẻ và muốn được tin cậy đón nhận, cám cảnh, đồng tình.

    Có thể Ngô Thế Vinh, với thói quen nghề nghiệp, ưa xem xét cặn kẽ mọi dấu hiệu, triệu chứng, và tìm cách giải thích hết mức khi chẩn bệnh. Nhưng cũng rõ ràng, là một quân nhân tiền tuyến, ông mang những tình cảm sâu đậm có tính cách ruột thịt với đồng đội, những người cùng vào sinh, ra tử, và là một lương y, ông đau đớn vô kể khi thấy đồng đội ngã xuống không kịp nhắm mắt tại những nơi hoang địa rừng núi sâu thẳm. Ngô Thế Vinh là y sĩ trưởng của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù. “Mặt trận ở Sài Gòn” đã thể hiện nơi anh con người của đồng đội, do đồng đội, vì đồng đội. Một tình đồng đội như chúng ta có thể thấy qua bức ảnh của Tình Thương, bốn sinh viên y khoa cùng các bạn đồng môn đảm trách tờ báo này mà thời đó tên tuổi chẳng phải xa lạ với dân Sài Gòn [Hình 1].


    Hình 1: Toà báo SVYK Tình Thương 113 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn (1965),
    từ trái: Bùi Thế Hoành, Trang Châu, Ngô Thế Vinh, Phạm Đình Vy [tư liệu Ngô Thế Vinh]


    Hay bức ảnh của những sĩ quan trong đơn vị Biệt Cách: Trung úy Nguyễn Sơn (liên toán trưởng các toán thám sát), Trung úy Nguyễn Ích Đoan (đại đội trưởng Đại đội 1 Xung kích), Y sĩ Trung úy Ngô Thế Vinh, Trung úy Nguyễn Hiền, sĩ quan Ban 2 [Hình 2].


    Hình 2: Hành quân Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Dakto tháng 5, 1971, từ trái: Trung uý Nguyễn Sơn, Liên Toán Trưởng các toán Thám Sát, Trung uý Nguyễn Ích Đoan, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Xung Kích, Y sĩ Trung uý Ngô Thế Vinh, Trung uý Nguyễn Hiền, sĩ quan Ban 2 [tư liệu Nguyễn Hiền]

    Đã hẳn, tình đồng đội trong một đơn vị đặc biệt như Biệt Cách Dù hẳn đặc biệt hơn cả bởi vì nhiệm vụ đặc biệt của đơn vị “cách biệt” này cùng cách hành sự cũng đặc biệt của nó. Như tác giả kể lại một câu chuyện, Liên đoàn Biệt Cách Dù này đang tiến hành một cuộc hành quân vào tháng năm 1971, căn cứ xuất phát là Dakto, một vùng rừng núi thuộc tỉnh Kontum cao nguyên Trung phần. Đây chính là thời điểm quân Sài Gòn mở chiến dịch tấn công vào vùng Hạ Lào nhằm giải tỏa áp lực của Bắc quân trên vùng Trung nguyên và làm suy yếu khả năng của Miền Bắc đưa quân và khí giới xâm nhập Miền Nam. Chiến dịch này gây nhiều tranh cãi, chủ yếu là vì Mỹ muốn thử thách xem “Việt Nam hóa” là thế nào, Tổng thống Thiệu thì muốn phô trương tài lãnh đạo của mình trước cuộc bầu cử độc diễn trong năm, nhưng lại không biết “bảo mật” cho nên để lực lượng quốc gia chịu nhiều tổn thất. Các toán Biệt Cách Dù có nhiệm vụ thám sát và theo dõi sự di chuyển của Bắc quân dọc biên giới xuống tới vùng Tam Biên Việt-Miên-Lào trong mục đích khám phá đường mòn “Hồ Chí Minh” ở nơi “cùng cốc, thâm sơn”. Vùng Tam Biên này rừng núi trùng trùng điệp điệp, đi dễ khó về vì chẳng dễ tìm đường ra. Những nhóm “Biệt Cách” này chỉ biết trao sinh mạng cho nhau, và cho tử thần. Nếu không có nhau, làm sao người ta có thể sống sót được qua những điệp vụ như thế.

    “Mặt trận ở Sài Gòn” là câu chuyện của một đơn vị Biệt Cách Dù đang chiến đấu gian khổ trong vùng rừng núi Tam Biên thì được đưa về thủ đô Sài Gòn. Tác giả ngậm ngùi và tự hào: “Không kể những người đã chết, chỉ riêng trong đám sống sót trở về - có thể nói họ xứng đáng mang danh anh hùng bằng chính những chiến tích lẫy lừng đi vào huyền thoại”. Lính tráng đều vui mừng vì có dịp về thành phố mừng tủi gặp lại gia đình và tha hồ vui chơi. Nhưng tác giả chẳng có gì thú vị vì hiểu rằng nhiệm vụ mới là một cuộc “chiến tranh trong thành phố”. “Chúng tôi trở về thủ đô giữa một không khí rục rịch biểu tình khởi đi từ những phong trào quần chúng đấu tranh chống chính phủ”. Tác giả đã trải qua những tháng ngày rất mệt mỏi trong cuộc nội chiến để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Ông đã chứng kiến bao nhiêu hy sinh của đồng đội; ông cũng ngán ngẩm trước đối phương xem sinh mạng của “bộ đội” như cỏ rác. Và ông cũng đau lòng trước thống khổ của người dân trong vùng chiến, vừa sợ bom đạn chiến tranh, vừa lo khủng bố, vừa bị túng quẫn vì miếng ăn... “Người lính chỉ ao ước được cầm súng chiến đấu cho tổ quốc, hy sinh cho một lý tưởng cao cả, một chính nghĩa sáng ngời, mà khỏi cần phải bận tâm suy nghĩ điều gì. Nhưng bây giờ thì họ hiểu rằng, đã thất lạc và qua rồi sự bình an giả tạo sau những mỏi mệt trở về từ rừng rú. Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn – đó là cảnh thối nát, bất công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tốí tăm tủi nhục... Vậy phải lựa chọn chiến trường nào? Rằng không phải chỉ ở chốn xa xôi biên cương – mà đích thực chiến trường thách đố của họ phải là ở Sài Gòn”.

    Câu chuyện sau đó, “Nước mắt của Đức Phật”, cũng có thể làm cho người đọc đã từng sống những ngày tháng tao loạn thời đó rơi nước mắt. Bối cảnh những truyện kể đều là thời “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon, hay đúng hơn là “giải Mỹ hóa”, (de-Americanization), tức lính Mỹ tháo chạy, bỏ rơi đồng minh, cho dù Nixon nói, “peace with honor”. Quan điểm của tác giả ngay từ thời đó đã rõ ràng: Mỹ đã quyết rút khỏi “tiền đồn”, vì Nixon đã có kế hoạch đi Nga, đi Tàu. Lúc đó là vào năm 1971, theo chỉ đạo của cố vấn Mỹ, quân Miền Nam đánh qua biên giới Campuchia để truy tầm “Cục R”, tức bộ chỉ huy của địch lập trên đất Miên để điều khiển cuộc chiến. Cuộc hành quân này như là bước đầu thử nghiệm “Việt Nam hóa”. Đơn vị Biệt Cách Dù được thả xuống đất Miên như lạc vào trong một khu rừng hoang không biết lối ra. Toán thám sát này vừa truy tầm vừa nhằm phá hoại địch, tác giả gọi đó là “một chiến tích lẫy lừng của các anh hùng vô danh”. Nhưng kết cuộc là thế nào. Tác giả viết: “Và suốt trong đêm hôm đó tại một ngôi chùa Miên bỏ hoang, có một người lính Công giáo Việt Nam kiệt quệ và đau khổ, quỳ gối bên xác một đồng bạn, mắt đẫm lệ hướng lên vẻ mặt an tĩnh của Phật thành tâm cầu nguyện cho linh hồn người bạn xấu số sớm được giải thoát...” Đây là câu chuyện ở Thị trấn Krek, Campuchia, sát biên giới Miền Nam ở Tây Ninh.

    Những truyện được viết trong thời chiến của Ngô Thế Vinh mà chúng ta đọc được qua tuyển tập “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đều mang âm hưởng tương tự: như một tiểu thuyết chiến tranh với sự căng thẳng, chết chóc, mệt mỏi, tang thương, bi đát, anh hùng, và ai điếu... Rất rõ rệt Ngô Thế Vinh mang nặng nghiệp cầm bút (thời đó chưa có computer), ông không thể không viết trước những bức bách của thực tế cuộc sống, xã hội, đất nước, nhưng nếu không là y sĩ ở tuyến đầu, sẵn sàng dấn thân trong chốn trận mạc, đương nhiên ông không thể có những kinh nghiệm phong phú như thế để ghi lại – không chỉ những gì đã xảy ra mà cả những suy nghĩ, biến động trong nội tâm của ông. Diễn biến nội tâm đúng là phức tạp, khủng hoảng mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi: ông vừa thấy cuộc chiến là sống còn cho Miền Nam vừa thấy cuộc chiến là phi nhân vì lãnh đạo Hà Nội thì bất nhân (đã thí mạng đến cả nửa triệu thanh niên) và lãnh đạo Sài Gòn thì “vô tâm” (quân đội, chính khách, lãnh đạo tôn giáo mãi lo quyền lực, quyền lợi của mình hơn quyền sống của người dân).

    Truyện ngắn “Mặt Trận Ở Sài Gòn”, khoảng 5,000 chữ, xuất hiện đơn độc lần đầu tiên trên tạp chí Trình Bầy ngày 18-12-1971 và sau đó tác giả bị đưa ra tòa – chẳng bao lâu sau khi “Vòng Đai Xanh” của ông được trao giải thưởng. “Mặt Trận Ở Sài Gòn” bị khép vào tội có “luận điệu phương hại trật tự công cộng, và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của quân đội”. Tờ báo bị tịch thu, bị “phạt vạ” và đình bản mấy tháng sau đó. Nhưng năm 1972 là năm Mùa Hè Đỏ Lửa, và vụ án đã nhanh chóng chìm vào quên lãng. Mãi đến sau này, vào năm 1996 khi tác giả tập họp một số truyện ngắn để có tuyển tập “Mặt Trận Ở Sài Gòn” xuất bản ở California, nhiều tác giả hữu danh như Nguyễn Xuân Hoàng, Tạ Tỵ, Phan Nhật Nam... lên tiếng, chia sẻ những trăn trở của tác giả vì đất nước, vì xã hội trong thời chiến. Nguyễn Xuân Hoàng cho rằng giữa “con người và tác phẩm” không có khoảng cách. Và Ngô Thế Vinh là một tác giả của xã hội. Ngô Thế Vinh cũng có dịp bộc bạch tâm sự của mình trong một số bàí phỏng vấn dài của tạp chí Bách Khoa và của nhà báo Nguyễn Mạnh Trinh.

    Như thế, nay chúng ta có thể nói thêm gì đây?

    Người đọc nay có thể nhìn lại để thấy “Mặt Trận Ở Sài Gòn” không chỉ là tiểu thuyết chiến tranh mà còn có một nội dung chính trị sôi sục của một người đối kháng vì lương tâm. Chính trị là một nội dung mà tác giả đã chất chứa trên từng trang giấy của từng truyện. Một điều chúng ta đều có thể thấy nhưng ít người viết tiện nói ra, nói thẳng, nói thật, đó chính là sự “bất túc” của lãnh đạo Miền Nam cho nên cuộc chiến đã trở thành một cuộc phiêu lưu ngày qua ngày thay vì là một Hội nghị Diên Hồng tập họp quần chúng trong một cuộc chiến sống còn của đất nước. Không chỉ là nhân chứng, Ngô Thế Vinh là người dấn thân ở chốn trận tiền. Hiểu rất rõ sinh mệnh mong manh của người cầm súng. Cho nên không sợ mang tiếng “phản chiến” ông có quyền đặt những câu hỏi chính trị. Khi không hiểu đúng và đủ nội dung và ý nghĩa của chính trị, nhiều người - nhất là giới văn nghệ sĩ - ngại ngùng và muốn tránh xa “chính trị”. Nhưng khi hiểu chính trị chụp lên đời sống của tất cả mọi người, quyết định sự sống còn của con người, của xã hội, của đất nước, là sự mưu tìm dân chủ, tự do, nhân quyền và công bằng xã hội, thì đó là điều người viết không thể tránh né. Và hẳn sai lầm khi tránh né.

    Quyết định của Ngô Thế Vinh có một ấn bản song ngữ giữa năm đại dịch này bởi thế đáng hoan nghênh. Không chỉ vì đó là một nỗ lực táo bạo, phi thường mà vì ông nghĩ đến chuyện gởi gắm cho những thế hệ những đời sau một di chúc xứng đáng. Dĩ nhiên, càng ngày người ta càng ít đọc. Mong muốn những thế hệ trẻ cầm sách về lịch sử hay chính trị đất nước Việt Nam trước đây đúng là chuyện “giấc mộng con”. Cũng như muốn người Mỹ phải hiểu rõ hơn lịch sử và chính trị của Hoa Kỳ để cho nội chiến đa chủng, đa văn hóa, thực sự chấm dứt. Nhưng Ngô Thế Vinh bao giờ cũng là người sống trong giấc mộng con người phải tốt đẹp hơn để xã hội tốt đẹp hơn.

    Đọc “Mặt Trận Ở Sài Gòn”, chúng ta tưởng chừng như đang nghe thổn thức “Tình khúc trên chiến trường tồi tệ”. “Mặt Trận Ở Sài Gòn” hay “Chiến trường tồi tệ” (tác giả là Ngô Đình Vận, người bạn ở Saigon Post) sẽ chẳng thế nào rời khỏi tâm trí của những người đã sống một thời đầy đau nhức đó, và nay đã là một ám ảnh đau buồn khi chợt nghĩ ra rằng chúng ta chỉ có một thời để sống.

    HOÀNG NGỌC NGUYÊN *

    Utah, September 5, 2020


    * Tốt nghiệp Cao học Hành chánh (Sài Gòn), đã qua các trường Hertford College (Oxford) và David Eccles School (University of Utah). Theo đuổi “nghiệp báo” rất sớm, chính thức vào nghề với The Saigon Post ( với Chủ bút Trần Nhã) từ 1968 tới 1975. Tham gia nhóm nghiên cứu đổi mới kinh tế của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh trong những năm 80. Sang Mỹ, tiếp tục viết báo về các chủ đề kinh tế, cộng tác chặt chẽ với The Việt Mercury News, Việt Tribune, Saigon Nhỏ, Bút Tre và hiện định cư tại bang Utah.

    Source:https://vietbao.com/a304783/di-tim-su-yen-tinh

  4. Xin cám ơn dnchau

    Nguyen Huu Thien (09-06-2020)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 09-01-2019, 12:54 AM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-23-2019, 04:36 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-15-2012, 07:29 PM
  4. Audio Trần Thế Vinh - Phi Vụ Cuối Cùng
    By chimtroi in forum Truyện Đọc
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-29-2012, 12:59 AM
  5. Anh hùng trần thế vinh
    By caonguyen in forum Hùng ca
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-02-2009, 07:02 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •