Thời Đại Kỹ Nghệ
(Tiếp Phần 2)


Phạm Văn Bản


- Hiến Pháp

Mục đích của hiến pháp là (1) bảo vệ đời sống tự do của mỗi cá nhân, (2) áp dụng nguyên tắc chia quyền, phân quyền, và tản quyền trong cộng đồng chính trị xã hội, (3) thiết lập một chính quyền hiến định. Chính quyền hiến định là hạn chế quyền lực, ngăn ngừa thao túng của nhà cầm quyền mưu đồ tập trung quyền lực để trở thành độc tài tham nhũng, do đó mỗi chế độ chính trị cần có một khung tổ chức nhằm phân chia quyền hành, hệ thống định nghĩa, và một quy chế cộng đồng.

Những cuộc cách mạng Âu Mỹ đã đưa nhân loại tới thể chế chính trị dân chủ như ngày nay. Năm 1688 Vua James II của nước Anh bị đại chúng phản đối, đa số lãnh tụ Quốc Hội muốn mời William of Orange trở về điều hành đất nước. Sau khi William từ Netherlands về nước, Vua James II phải rời bỏ ngai vàng chạy trốn sang nước Pháp, và đó là cuộc thay đổi chính trị vẻ vang vì cách mạng diễn ra không đổ máu. Vua William đăng quang và chấp nhận bản Tuyên Ngôn Dân Quyền vào năm 1689, một văn kiện chính trị đầu tiên công nhận quyền căn bản của người dân, những quyết định tăng thuế hay tăng quân đội của nhà vua phải có sự phê chuần và chấp thuận của quốc hội.

Hiến pháp của nước Pháp được công bố sau cuộc cách mạng phá ngục Bastille năm 1789, giải tán chế độ quân chủ để thực hiện châm ngôn “Tự Do, Bình Đẳng và Huynh Đệ.” Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền do Lafayette soạn thảo, quy định mọi người có quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền được an toàn về thân thể, quyền chống áp bức bất công là những quyền lợi tự nhiên của con người. Công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do sáng tác và xuất bản, pháp luật là tiêu biểu cho nguyên vọng chung, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được dân chúng đồng ý yểm trợ. Nhưng những nhà lãnh đạo cách mạng thời đó thiếu sáng tạo để soạn thảo ra một chương trình hành động nhằm khởi xướng một tổ chức chính trị dân chủ, ngược lại họ tái lập chế độ cũ, theo phương thức tổ chức chính trị cũ, đường lối cũ của hệ thống vua quan.

Bản hiến pháp của nước Pháp tuy rằng trở thành khuôn mẫu, nhưng nhiều điều khoản đã phải thay đổi nhiều lần… chứng tỏ nhà lập hiến soạn thảo theo cảm tính, lý tưởng, ước mơ chớ chưa đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn dân và hoàn cảnh thực tại nước Pháp thời bấy giờ. Nhà soạn thảo cũng chưa đủ tầm nhìn thoát khỏi biên cương quốc gia mà đem “Tự Do, Bình Đẳng, và Huynh Đệ” lên tầm kích vũ trụ nhân loại như bản văn Hiến Pháp Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ am tường bài học cách mạng chính trị của hai nước Anh Pháp, cho nên tránh tái lập chế độ quân chủ, và sáng lập ra một thể chế chính trị dân chủ gọi là tổng thống chế, quân bình quyền lực giữa liên bang với các tiểu bang, khai sáng kỷ nguyên tam quyền phân lập, mở ra trang sử dân chủ pháp trị cho nhân loại trong thời đại kỹ nghệ vừa khai trương.

Hiến Pháp Hoa Kỳ đặt ra nguyên tắc Tản Quyền, áp dụng vào việc điều hành giữa trung ương và địa phương. Liên bang dành quyền tự chủ tự quyết cho các tiểu bang, và quyền tự do tự lập cho người dân.

Đã tản quyền, Hoa Kỳ lại còn có nguyên tắc Phân Quyền giữa chính phủ do tổng thống chịu trách nhiệm, Quốc Hội là cơ quan lập pháp và là đại diện cho toàn dân. Cơ quan này có nhiều quyền hạn hơn của bất cứ quốc hội nào khác. Đặc biệt tổng thống, là người do dân bầu và do cử tri đoàn chọn ra.

Nguyên tắc Kiểm Soát và Điều Hòa của Hiến Pháp Hoa Kỳ trở thành một nét đặc trưng trong lịch sử chính trị, vì rằng đã phối hợp thành công trong nhiều việc trọng đại của quốc gia, thay vì những cơ quan công quyền lấn áp, chèn ép, tranh chấp lẫn nhau, như chúng ta thấy ở nhiều quốc gia khác. Tóm lại Hiến Pháp Hoa Kỳ là luật của quốc gia hay bộ luật mẹ.

Hiến pháp ấn định thể thức tổ chức chính quyền, ấn định các quyền và mang lại sự tự do cho công dân. Hiến pháp cũng nêu rõ các mục đích của chính quyền, các phương cách và đường lối thực hiện để đạt đến mục đích, do hiến pháp đề ra.

Hiến pháp được soạn thảo để thống nhất và thành lập một chính quyền quốc gia, từ thời chiến tranh vào năm 1775 đến 1783, Hoa Kỳ chiến đấu với Anh quốc và dành lại độc lập từ đế quốc Anh. Khởi đầu năm 1781 mười ba Tiểu Bang đề xướng chính quyền Liên Bang, dưới bộ luật gọi là Hiến Chương Liên Bang (The Articles of Confederation). Hiến Chương kết hợp hành pháp, lập pháp, tư pháp thành một cơ quan gọi là Quốc Hội. Vị chủ tịch được chọn bởi ủy ban của các tiểu bang, và có quyền chủ tọa như tổng thống.

Thực tế Hiến Chương thiếu ngành hành pháp và hệ thống tòa án quốc gia, vì chỉ là đại diện 13 tiểu bang đầu tiên của Hoa Kỳ. Hiến chương cho phép chính quyền Liên Bang có quyền tuyên chiến và điều hành công việc ngoại giao, nhưng không cho phép Liên Bang thu thuế, quy định mậu dịch, thương mại trong nước và ngoài nước.

Nói khác đi Hiến Chương không cho phép Liên Bang điều khiển các sinh hoạt của cấp tiểu bang, cho nên Liên Bang không có phương tiện, không có tài chính, không có lực lượng để bảo vệ quốc gia. Hơn nữa số tiểu bang lại tự phát hành tiền tệ, tạo ra những thay đổi mệnh giá của đồng tiền, làm hỗn loạn kinh tế quốc gia. Như vậy Hiến Chương không thích hợp trong việc điều hành đất nước mà Hoa Kỳ cần phải có Hiến Pháp.

Năm 1787 Hội Nghị Quốc Gia tổ chức tại Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania với mục đích xét duyệt Hiến Chương, nhưng kết quả lại là một chương trình tổ chức chính quyền quy mô do Hiến Pháp đề xướng. Hiến Pháp Hoa Kỳ được ký vào ngày 17 tháng 9 năm 1787, tác giả gồm nhiều nhân vật như George Washington, Thomas Jefferson, James Madison, Alexander Hamilton, và Benjamin Franklin… Trước khi Hiến Pháp trở thành luật thì cần sự phê chuẩn của 9 Tiểu Bang, nhưng chỉ vài tháng sau bản văn được ký kết và phê chuần đầy đủ.

Delaware là tiểu bang đầu tiên phê chuẩn vào ngày 7 tháng 12 năm 1787. Và New Hamshire là tiểu bang thứ chín, làm cho Hiến Pháp trở thành hiệu lực vào ngày 21 tháng 6 năm 1788.

Có nhiều sự chống đối Hiến Pháp vì người ta cho rằng văn kiện này không bảo đảm đủ quyền lợi cá nhân, không bảo vệ tự do cho mỗi người, không ngăn ngừa bất công do chính quyền có thể tạo ra… Bởi thế 10 Tu Chính Án Hiến Pháp hay còn gọi là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Bill of Right) được đệ trình.

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trở thành luật vào ngày 15 tháng 12 năm 1791, do các tu chính án Hiến Pháp bảo đảm tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và báo chí, tự do hội họp ôn hòa của công dân và quyền được xét xử bởi bồi thẩm đòan.

Hiến pháp quy định Tổng Thống đắc cử bởi “tuyển cử đòan,” một nhóm người được chọn bởi các tiểu bang. Toàn dân bầu thành phần Hạ Viện đầu tiên như đang thi hành bầu cử ngày nay. Nhưng các Nghị Sĩ được tuyển chọn bởi các nhà lập pháp tiểu bang, điều này tiếp diễn cho tới những năm 1900 thì tất cả lại do dân bầu.

Tối cao pháp viện có quyền sau cùng để giải thích hiến pháp. Tòa án có thể hủy bỏ bất cứ đạo luật nào của liên bang, tiểu bang hay địa phương nếu có tranh chấp liên quan đến Hiến Pháp. Ba điều đầu tiên của hiến pháp chia quyền thành ba ngành với quy định phân biệt rõ ràng:

- Ngành Lập Pháp làm luật và đại diện bởi Quốc Hội
- Ngành Hành Pháp thi hành luật, đại diện bởi Tổng Thống
- Ngành Tư Pháp giải thích luật, đại diện bởi Tối Cao Pháp Viện

Sự phân chia này được hiểu là phân quyền, mục đích là ngăn ngừa bất cứ ngành nào của của chính quyền trở nên qúa mạnh, để có thể trở thành độc tôn độc tài. Hiến Pháp Hoa Kỳ ấn định nguyên tắc “kiểm soát và điều hòa” (check and balance) để bảo đảm không có ngành nào ưu thế hơn, và ngăn ngừa từng ngành vượt quyền hạn của mình mà quên đi quyền hạn của ngành khác.

Quốc Hội có quyền làm luật, nhưng Tổng Thống có quyền phủ quyết các dự luật đó. Đó là kiểm soát và điều hòa. Trong trường hợp “check on a check” quốc hội có thể vượt qua (override) để phủ quyết quyền tổng thống bằng cách đạt 2/3 số phiếu thuận trong Quốc Hội. Và Tối Cao Pháp Viện có thể kiểm (check) Quốc Hội bằng cách vô hiệu hóa luật của Quốc Hội vừa thông qua, nếu vi hiến.

Đối với nhân dân Hoa Kỳ, câu mở đầu hiến pháp gồm 4 điểm, thiết lập nền tảng cho truyền thống chính trị Hoa Kỳ.

- “Chúng tôi Nhân Dân Hiệp Chủng Quốc” (We the People of the United States). Điểm chính yếu là người Mỹ tự xưng mình với tư cách một quốc gia thống nhất, không còn liên bang gồm nhiều tiểu bang hội nhập, và nhấn mạnh việc cần thiết tạo dựng, thống nhất một dân tộc mới.

- “Với mục đích tạo sự liên kết toàn hảo” (In order to form a more perfect union). Theo cách nói này thì sự cố gắng đầu tiên của người Mỹ soạn thảo “Hiến Chương Liên Bang,” nhưng còn thiếu sót, không thích hợp và nói lên việc soạn thảo Hiến Pháp là điều cần thiết.

- “Lập công lý, bảo đảm yên vui gia đình, dự phòng sự chiến đấu chung, khuyến khích an sinh và bảo đảm hoàn toàn tự do cho chúng ta và con cháu chúng ta” (established justice, insure domestic tranquility, provide for the common defense, promote the general welfare and secure the blessings of liberty to ourselves and our posterity). Đây là những mục tiêu chính của sự thành hình Hiến Pháp và Chính Quyền của một quốc gia. Đọan văn này còn nói lên sự cần thiết việc có chính quyền để mang lại trật tự và tự do cho quốc gia dân tộc.

- “Soạn thảo và lập bản hiến pháp này cho Hiệp Chủng Quốc Châu Mỹ” (do ordain and establish this contitution for the United States of America). Với các mục đích trên và phương thức làm việc, người Mỹ bắt đầu thành lập chính phủ.

Hiến Pháp Hoa Kỳ được chấp nhận vào năm 1787 chứa đựng số bảo đảm cá nhân, nhưng dù sao cũng đã có nhiều tiểu bang từ chối, và không thông qua bản văn kiện này vì không có một đạo luật đặc biệt về nhân quyền. Bởi thế Hiến Pháp Hoa Kỳ phải có mười tu chính án ra đời, được biết với tên là Đạo Luật Nhân Quyền. Hiến Pháp khởi đầu chỉ gồm Lời Mở (Preamble) và 7 Điều (Articles).

Điều I: Ngành Lập Pháp (Legislative)

Đoạn 1: Quốc Hội (Congress)

Ngành lập pháp của Chính Quyền Liên Bang do Đoạn 1 của Hiến Pháp ấn định. Quốc Hội được chia thành Hạ Viện và Thượng Viện. Quốc Hội được chia theo hệ thống lưỡng đảng. Khi một đảng chính trị có đa số trong Hạ Viện, đảng này kiểm soát tất cả ủy ban Hạ Viện. Phát Ngôn Viện/ Chủ Tịch (Speaker) Hạ Viện chủ tọa các phiên họp của Hạ Viện, và cũng là lãnh tụ đảng.

Đoạn 2: Hạ Viện – Viện dân biểu (House of Representatives). Hạ Viện của Quốc Hội gồm những đại biểu của quận (Districts), những Dân Biểu từ các quận bầu cử của 50 tiểu bang. Hạ Viện đại diện cho dân trên căn bản dân số tùy thuộc vào địa phương. Nhưng tới năm 1929, Quốc Hội giới hạn tổng số đại biểu là 435 và không chú trọng tới tổng số dân nữa. Hạ Viện có quyền đề nghị các dự luật, chỉ có Hạ Viện mới có quyền khởi tố các nhân vật cao cấp của chính quyền (impeachment). Thượng Viện xét xử những vụ khởi tố đó.

Đoạn 3: Thượng Viện – Viện Nghị Sĩ (Senate). Thượng Viện của Quốc Hội gồm có hai Nghị Sĩ cho mỗi tiểu bang (2 x 50 = 100) nhiệm kỳ là 6 năm. Các tiểu bang có đại diện tại thượng viện bằng nhau, không tính dân số. Phó Tổng Thống Hoa Kỳ là chủ tịch Thượng Viện, nhưng không được bỏ phiếu, chỉ trong trường hợp biểu quyết mà Thượng Viện đồng phiếu thì lúc đó lá phiếu của chủ tịch Thượng Viện là phiếu quyết đinh.

Điều II: Ngành Hành Pháp (Executive). Hiến Pháp quy định thể thức bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, với những quyền hạn của hai chức vụ này. Tổng Thống Hoa Kỳ được bầu với nhiệm kỳ 4 năm bởi nhân dân của 50 tiểu bang qua Cử Tri Đoàn, giới hạn trong hai nhiệm kỳ, và là trưởng ngành Hành Pháp. Thẩm quyền hiến định của Tổng Thống là:

- Tư lệnh quân đội
- Quyền bổ nhiệm
- Giảm án tử hình và ân xá
- Thi hành luật một cách trung thực

Tổng Thống được ủy quyền trong việc ký kết hiệp ước với sự chấp thuận của 2/3 nghị sĩ. Hiến Pháp coi chính sách ngoại giao của Tổng Thống là chính sách ngoại giao của quốc gia.

Điều III: Ngành Tư Pháp (Judical). Hiến Pháp Hoa Kỳ ấn định Tối Cao Pháp Viện lãnh đạo ngành Tư Pháp là tòa án tối cao của chính quyền, và quốc gia Hoa Kỳ. Ngành này đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị là giải thích hiến pháp.

Để làm trọn vai trò đó, nhiệm vụ của Tòa Án trong việc phát triển của Hoa Kỳ rất lớn, đôi khi vượt qua tổng thống hay quốc hội. Tối Cao Pháp Viện là cơ quan cuối cùng giải thích hiến pháp, có quyền vô hiệu hóa, hành động của tổng thống hoặc luật của quốc hội, nếu vi hiến.

Điều IV: Sự Quan Hệ Giữa Các Tiểu Bang

Điều V: Giải Thích và Phương Thức Tu Chính Hiến Pháp

Thông thường thì tiến trình sửa đổi các điều khoản của hiến pháp là phản ảnh sự thay đổi của xã hội, qua sự tu chính hay gỉai thích hiến pháp. Nhưng những nhà lập hiến Hoa Kỳ, ngay từ
khởi thủy đã nhận thấy sự cần thiết phải có một điều khoản dự phòng để bản hiến pháp được quyền tu chính, do đó ho đã đề ra:

Tu chính án hiến pháp Hoa Kỳ cần được sự chấp thuận của 2/3 Quốc Hội và 3/ 4 của các Tiểu Bang. Phương pháp tu chính án hiến pháp của Hoa Kỳ thì thường khó hơn là thông qua điều luật thông thường. Đang khi quốc tế thì lại khác, ví dụ Điều 80 của Hiến Pháp nước Pháp ấn định tu chính hiến pháp chỉ do quốc hội biểu quyết. Năm 1962 Tổng Thống De Gaulle đã làm ngơ khoản luật tu chính này, mà ông tổ chức Trưng Cầu Dân Ý một tu chính án, ấn định cách bầu cử tổng thống bằng phổ thông đầu phiếu, thay vì bầu cử hạn chế như trước khiến cho dư luận chính giới xôn xao một thời.

Cũng như Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi đề xuất cách tu chính án hiến pháp là sau khi thông qua lưỡng viện quốc hội, tu chính án phải được trưng cầu dân ý, và phải được đa số trong 4 trên 6 tiểu bang nước Úc chấp thuận.

Điều VI: Chấp Nhận Các Khoản Nợ Và Hiệp Ước Đã Ký Trước Khi Có Hiến Pháp

Điều VII: Phê Chuẩn Hiến Pháp. Hiến Pháp cần sự phê chuẩn của 9 trên 13 tiểu bang để cho hiến pháp trở thành hiệu lực.

Tiếp đến là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Trong 10 tu chính án của Đạo Luật Nhân Quyền chỉ có 8 điều tu chính án đầu tiên bảo đảm quyền tự do cá nhân. Đạo luật này có hiệu lực vào ngày 15 tháng 12 năm 1791, là một ngày được lấy để mừng Ngày Nhân Quyền. Tám tu chính án trong Hiến Pháp Hoa Kỳ bao gồm những quyền căn bản và những quyền tự do cho mọi công dân.

1. Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do cải chính (rectify).
2. Quyền mang vũ khí.
3. Cho quân nhân tạm trú (housing of soldiers). Điều này là để chống lại chính quyền Anh quốc vào những năm 1700, khi bắt buộc dân Hoa Kỳ cho quân nhân tạm trú trong nhà. Trong thời bình, cần phải có sự đồng ý của chủ nhà, Đoạn 3 – 5, quy định vấn đề riêng tư cá nhân (personal privacy) của người dân.
4. Cơ quan công quyền khám xét tư gia thì phải có trát tòa (search warrant).
5. Quyền của người dân trong những vụ án hình sự (rights in criminal cases).
6. Quyền được xét xử một cách hợp pháp, công bình, vô tư và không thiên vị (rights to a fair trial).
7. Quyền của người dân trong những vụ án hộ sự (rights in civil lawsuits).
8. Ấn định tiền thế chân (bail), tiền phạt, hình phạt tương xứng với tội trạng.

Điều 9 và 10 nhấn mạnh đến những quyền không ghi trong hiến pháp là quyền dành cho người dân, và tiểu bang. Những quyền không ghi trong hiến pháp có nghĩa là tâm luật, chớ không chỉ có văn luật, và không ghi không có nghĩa là không có.

Hiến Pháp của các Tiểu Bang cũng chứa đựng Đạo Luật hay Tuyên Ngôn Nhân Quyền được chi tiết hóa và rõ ràng hơn Hiến Pháp của Liên Bang. Hiến Pháp ngày nay được coi là bản hiến pháp mẫu, nhưng cũng ít những quốc gia trên thế giới biết mang đến các quyền công dân cho người dân sở tại, như những người Công Dân Hoa Kỳ đang được hưởng.

Hơn thế nữa, bản Hiến Pháp của Hoa Kỳ cho tới nay cũng được coi là khuôn mẫu của xã hội kỹ nghệ, và bắt đầu trở thành lỗi thời khi xã hội tiến sang thời đại mới, Thời Đại Văn Minh Tín Liệu (Information Age) từ khi Hoa Kỳ phát minh ra máy điện toán và liên thị tín liệu, cho nên Hiến Pháp cũng cần thay thế hay cải tiến. Vì bộ mặt thế giới cũng đang thay đổi theo sự phát triển của dân số, khoa học kỹ thuật mới và vận tốc thời đại mới. Phương tiện di chuyển phát triển cao tốc cũng đồng nghĩa với sự thu hẹp quả địa cầu về mọi phương diện tứ chính trị, quân sự, kinh tế và điều hành.

- Cạnh Tranh kỹ Nghệ

Thời đại ngày nay là giao thương, con người đã chuyển chiến tranh quân sự sang giai đoạn của cuộc sống mới, là cạnh tranh kinh tế. Sự cạnh tranh quốc gia là nước nào có sản phẩm tốt, nâng cao đời sống dân chúng, phát triển ngành giáo dục tốt, và đào tạo đội ngũ chuyên viên giỏi… nước nào chiến thắng kinh tế thì sẽ chiến thắng trong các đấu trường khác.

Chiều hướng suy tư của giới lãnh đạo quản trị là luôn luôn thay đổi tạo ra sản phẩm kỹ nghệ mới, tốt hơn và dẫn đưa tới thịnh vượng. Hàng tháng các công ty lớn đều phải thay đổi cách quảng cáo, quảng cáo sau là phải hay hơn, hấp dẫn hơn, có tính cách quốc tế, toàn cầu hơn.

Qua nhiều kết hợp hệ thống, thời đại kỹ nghệ tạo ra đa sản xuất, đa tiêu thụ, đa giáo dục, đa truyền thông… Những nối kết này lại tạo ra những cơ quan gọi là trường đại học, công ty, đảng chính trị… Những nước chưa từng có kinh nghiệm sống trong cơ chế tự do dân chủ thì cho rằng xã hội kỹ nghệ hỗn độn, mặc dù xã hội đó vẫn phát triển theo chiều hướng văn minh, bởi xã hội có nhiều hệ thống phức tạp của thời đại kỹ nghệ.

Người viết phải thành thực nhìn nhận rằng thời đại ngày nay đã quá muộn cho dân tộc Việt Nam bước vào bình minh kỹ nghệ, nhưng giới lãnh đạo cầm quyền lại cản trở sức vươn vai của cả một dân tộc vì tư lợi cá nhân đảng phái.


- Đối Kháng Kỹ Nghệ Và Nông Nghiệp

Những thay đổi quan trọng trong xã hội đã xảy ra rất nhiều đụng độ giữa dân chúng kỹ nghệ và nông nghiệp. Các quốc gia kỹ nghệ hóa đã từng xót thương chứng kiến những va chạm đẫm máu giữa hai thành phần kỹ nghệ thương mại với khối lãnh chúa chủ đất ở Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… Nhiều nông dân bị bắt đi làm công nhân phục vụ với đồng lương rẻ mạt trong xí nghiệp kỹ nghệ mà giới bảo thủ kết án là “cơ sở ma quỷ, devil base.” Đặc biệt đảng Cộng Sản cầm quyền và kỹ nghệ hóa đã sinh ra giai cấp mới là cò đất và dân oan.

Những chống đối của nông dân, đấu tranh biên giới, phong trào quốc gia… nổi lên giữa nông nghiệp và kỹ nghệ, tạo ra bế quan tỏa cảng của các nước nông nghiệp. Ví dụ Việt Nam đối đầu với các nước kỹ nghệ Phương Tây vào thế kỷ 18, và hiện tượng này vẫn còn lặp lại ở bất cứ quốc gia nào muốn có kỹ nghệ hóa. Bởi vì kỹ nghệ tự làm mòn biên cương lãnh thổ của mình, xâm nhập lãnh thổ nước khác… với các cuộc xâm nhập từ khoa học kỹ thuật, văn hóa, tôn giáo, kinh tế để làm mờ hay xóa bỏ biên cương chính trị của nhiều quốc gia.

Kỹ nghệ bành trướng thị trường quốc gia, kéo theo chủ nghĩa quốc gia, và chiến tranh thống nhất quốc gia như đã từng xảy ra ở Đức, Ý và nhiều nơi khác trên thế giới. Sức mạnh kỹ nghệ của Châu Âu cần thị trường và nguyên liệu rẻ ở những nơi xa xôi, do đó sức mạnh kỹ nghệ tạo ra chiến tranh và xâm chiếm các nước ở trong thời đại bộ lạc, hay làng nước nông nghiệp của châu Á, châu Phi. Những nhân tài của thời kỳ kỹ nghệ đã chiến thắng trong việc tranh đoạt quyền hành ở trong nước cũng như đã chiến thắng trong những cuộc tranh đấu ở các nơi khác trên thế giới.

Quốc gia kỹ nghệ có nền kinh tế và xã hội phức tạp hơn nên cần liên lạc với các nước bên ngoài nhiều hơn qua các hiệp ước quốc tế. Do đó khối lượng hiệp ước quốc tế gia tăng trong thời gian qua. Quốc gia kỹ nghệ tiến đến nền kỹ thuật cao là nhờ sự liên lạc tối tân. Một lần nữa, kỹ thuật cao làm mềm làm mỏng biên giới quốc gia. Trong nước phải chịu những cải cách kinh tế, bằng cách đập phá một số xí nghiệp cũ để tân tạo xã hội mới. Nhưng các cơ sở và máy móc cũ này lại trở thành “mới” với các nước chậm tiến.

- Vận Tốc Thời Đại

Vận tốc thời đại kỹ nghệ đã tăng nhiều lần từ khởi đầu tới cuối thời đại, từ vận tốc cỡi ngựa, thuyền buồm, đến xe lửa, tàu thủy, phản lực cơ với vận tốc cả ngàn cây số giờ. Vận tốc tiến của một dân tộc của thời đại sau sẽ nhanh hơn thời đại trước tùy theo các hệ thống thông tin liên lạc. Sự liên lạc càng nhanh thì giao thương quốc tế càng dễ dàng và đạt tầm vóc toàn cầu.

Từ khi chiếc xe ra đời đã làm đời đã làm thay đổi bộ mặt xã hội. Nhờ dụng cụ kim khí con người cắt thân cây thành vòng tròn, đẽo đục và tra trục vào giữa tâm vòng tròn hoặc nhiều vòng tròn quay trên một trục gỗ. Theo thời gian trục gỗ được bọc đồng, và chiếc xe do người hay vật kéo giúp cho con người phương tiện di chuyển, chuyên chở nhanh và làm tăng vận tốc thời đại.

Từ chiếc xe trâu xe bò của mấy ngàn năm trước sang xe lửa, xe vận tải, xe gia đình, xe đạp, xe đua, xe tăng, xe cày, xe biết bay… cũng như xuồng độc mộc đến xuồng biết bay trên biển.

Từ thế hệ xe đầu tiên của con người làm toàn bằng gỗ; thế hệ hai thì bánh xe bằng kim loại; thế hệ ba có gắn máy, tiêu thụ nhiên liệu, cần người lái trực tiếp; thế hệ tư thì hỗn hợp máy chạy nhiên liệu và năng lượng mặt trời; thế hệ năm lại không cần nhiên liệu, mà chạy bằng năng lượng mặt trời và không cần người lái vì được hướng dẫn bằng điện tử…

Mỗi thời đại có con đường riêng. Thời săn hái con đường chỉ là những vết mòn do con người hay thú vật tạo thành. Đến khi có xe do súc vật kéo thì đường được mở rộng thêm cho xe di chuyển. Tiếp đến là đường lót gạch, trải sỏi đá, rồi đường tráng nhựa, xi măng cốt sắt, đường sắt, đường thủy, đường bay, đường đạn… và các đô thị kỹ thuật cao có đường xe tự động, không cần người lái, và hành khách có thể ra lệnh bằng máy cho xe chở tới nhà của nơi chỉ định.

Thế hệ đường đầu tiên là đường mòn nối liền giữa các nhà để hình thành thôn xóm, đợt đường thứ hai là nối liền làng xã thành con đường cái quan. Tiếp đến thế hệ đường nhựa, đường xi măng cốt sắt, và tới giai đoạn kỹ nghệ đã phát sinh đường dịch vụ, đường gia cư, đường thành phố, đường tự do, đường vòng đai, đường một chiều, hai chiều… Từ con đường đất xuyên qua lũy tre làng kết duyên trai gái tới con đường tình ái chuyên chở những bức thư tình… thì nay trở thành hệ thống đường mạng lưới điện tóan.

Con đường truyền tin Marathon dài 40 cây số do chiến binh liên lạc chạy về bộ chỉ huy báo tin mừng, sau tiếng “chiến thắng” và bị chết vì kiệt sức, so việc loan tin trên hệ thống truyền thanh truyền hình xung quanh thế giới ngày nay là một cải tiến vĩ đại không ngừng.

Con đường cứu nước Trưng Nữ Vương đánh đuổi quân xâm lăng Mã Viện, hay con đường thỉnh kinh Tam Tạng, hoặc con đường bách đạo/ truyền đạo của thánh Paul, so với những đường điện tử, đường ánh sáng, đường vô hình chuyển quân, chuyển kinh thư hay khối lượng tiền tệ khổng lồ là một bước tiến vượt mức tưởng tưởng của nhiều người.

Con đường cản binh Truông Nhà Hồ, chận đường tiến quân đối phương của Hồ Qúy Ly, so với đường bay vệ tinh quân sự kiểm sóat ngày đêm bay quanh trái đất là một sự thay đổi bất ngờ và khủng khiếp của thời đại.

Người ta có thể theo dõi trên hệ thống truyền thanh truyền hình để biết tin tức chiến tranh, tuy không được đầy đủ vì có những nơi mà thông tín viên không được vào, nhưng người ta cũng biết nhanh chóng hơn là tin tức của nhà cầm quyền nơi ấy đưa ra.

Vận tốc của thời đại càng nhanh bao nhiêu, thì nguy cơ chiến tranh bùng nổ và sự tàn phá của chiến trận trong thời đại sau bộc phát nhanh theo vận tốc cực kỳ nguy hiểm hơn với thời đại trước, và có thể ảnh hưởng giây chuyền toàn thể thế giới, nếu phe tuyên chiến hay lâm chiến có những đồng minh ủng hộ khắp thế giới.

Trong lúc đợt sóng thứ hai vẫn còn đang tiếp diễn trên các quốc gia chậm tiến, thì đợt sóng khác quan trọng hơn lại đã bắt đầu. Đợt sóng mới khởi nguồn từ đầu thập niên sau Thế Chiến II, và là Đợt Sóng Thứ Ba đang lan tràn trên địa cầu, làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người.

Nếu như đợt sóng thứ hai bắt đầu tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1650, thì đợt sóng thứ ba đã chuyển đổi thời đại tại Hoa Kỳ vào năm 1955. Ở thập niên này, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: giới công nhân dịch vụ văn phòng có nhiều hơn công nhân lao động chân tay. Chúng ta thấy xuất hiện máy điện toán, máy bay phản lực thương mại, thuốc kiểm soát sinh sản, và những phát minh kỹ thuật khác.

Ngày nay tại những quốc gia kỹ thuật cao, thì sự va chạm giữa hai đợt sóng nói trên đã làm cho nền kinh tế của đợt sóng thứ hai đông đặc và tàn lụi dần.