Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 8 trên 8

Tựa Đề: Góc Truyện Dài *Tình HOÀI HƯƠNG *Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn

  1. #7
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Đời Chi Lạ!

    Photo by Hoài Hương

    Trên Ngọn Tình Sầu
    Nhạc: Từ Công Phụng
    Thơ: Du Tử Lê
    Tiếng hát: Hà Võ


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 6

    Đời Chi Lạ!
    Tình Hoài Hương
    *


    Dòng sông Vệ xanh biếc êm đềm có một khúc bên lở thì nước đục ngầu phù sa, còn bên bồi nước trong leo lẻo, lâu thật lâu Hiền Hòa thấy một giang đỉnh đi trên sông, cột nước bắn vọt thẳng đứng lên cao, giang đoàn trưởng cho tàu tà tà đi tới, anh chờ đợi khi con nước xuống thấp đến mứt tàu có thể chui qua cầu. Trên sông lác đác có năm bảy ghe thuyền nhịp nhàng khua mái chèo lênh đênh theo sóng nước, trên con đường đất đỏ lởm chởm đá dăm, có rặng tre la ngà uốn mình men men theo ven sông. Nắng dắt vàng trên mấy cù lao, mặt trời thắm đỏ lóng lánh to to, tròn tròn như viên hồng ngọc khổng lồ ngời sáng, dần vươn lên cao, lên cao. Hương hoa đâu đó thoang thoảng bay dìu dịu thơm thơm trong ánh nắng ngọt ngào buông tỏa.

    Xe chở hành khách đi Đà Nẵng chạy ngược chiều vừa qua mặt xe GMC, trên xe khách lố nhố người ngồi chật như nêm. Vừa thấy có “mấy hoa hồng biết nói” xinh xinh, đẹp đẹp… thì các anh lính í dà dá da… liền huýt gió, tróc lưỡi, xíp xi, xíp xì... la ó, hớn hở reo vui. Họ chồm người ra vẫy tay lia lịa, tíu tít chào hỏi nhốn nháo (giống như có bà con với nhau từ đời vua Tự Đức ha qúy anh chị em!). Các cô gái xuân-thì ngồi khép nép bên xe kia cứ e e, ấp ấp, lí lí, lắc lắc dụi đầu vô vai nhau, họ ríu ra ríu rít nói líu lo, xù xì to nhỏ mí nhau mà cười khúc khích. Họ chỉ chỏ, vẫy vẫy tay lại, dấu mặt dưới vành nón lá kéo nghiêng, e e thẹn thẹn. Trông thật dễ thương ghê nơi, càng ấm áp lòng anh lính chiến với “tình quân dân như cá với nước” biết bao!

    Con đường nhỏ trong Thôn được toán lính “viễn chinh mũ mão cân đai, gươm giáo" chỉnh tề, tà tà đi tới đi lui, đi dài dài hoài. Khiến bà con sống ở hai bên đường Ấp biết mặt. Dãy phố nhỏ trừ mươi nhà mở rộng cửa buôn bán chụp giựt thời cơ. Còn đa số nhà khác thì đóng cửa cài then cẩn thận, họ ra đồng làm việc, hoặc sợ cảnh Làng, Thôn, Xóm bị lôi giật dậy giấc ngủ muộn phiền, bị dựng đứng lên bởi tiếng nổ đinh tai nhức óc do Việt Cộng chuyên pháo kích bừa bãi, nhứt là họ sợ bọn vici thần sầu bi tráng lạnh tanh, không tha ai, chúng nó cứ thích nhòm ngó lôi thôi đến đời dân dã rất muốn an phận, khi nước mắt đọa đày đớn đau cứ trôi hoài chảy mau theo tháng năm cuồng nộ.

    Tất cả anh em Phòng 5 đứng xớ rớ bên một nhịp cầu nơi đã sập, họ đợi đò ngang rước qua sông Vệ, để đi Ba Tơ, đi Nghĩa Hành. Bao giờ cũng vậy, các anh khinh binh sẽ đi trước dò đường an toàn, lúc đó, Phòng 5 sao y bản chính lọt tọt lẽo đẽo bám riết theo sát đằng sau. Nhóm công tác Trung Đoàn 25 Công-Binh Kiến-Tạo đã đến khai thông hương lộ bên đầu dốc. Chiến sĩ ra trận có áo giáp: thì phần nào yên tâm, phủ quyết bao lo sợ khi lâm chiến, nên Trung nai nịt chỉnh tề, đi thị sát xong, anh vững tin trình báo về bộ chỉ huy kịp thời, hầu chận đứng “con đường lạc lối” của bọn “vici” từ làng ra bưng, và ngược lại.

    Vài ba "ông tướng con" khác lén lén lút lút, xầm xầm xì xì to nhỏ, nháy nhó bấm béo rù quến nhau, lũi đi tìm chút hương hoa phù dung cuộc đời nơi chị em ta, cho đỡ ghiền. Tấm bảng tên dính một đinh khuy lủng lẳng, xệ xuống cửa sổ vỗ lách cách mỗi khi có gió lùa. Anh Phước cấm ngặt, cấm chỉ… anh em không được bén mảng đến gần. Phước ghê rợn gớm ghiết, kỳ thị với cả tấm bảng kinh khủng. Trông nó thật chướng tai gai mắt quá chừng! Đó là Snack Bar dưới sự điều khiển của mụ Chánh (là một quán cà phê lậu kín đáo trá hình). Con ả tô son trét phấn rất diêm dúa, dáng ả đi uốn éo nhảy nhót tước bộ xà hành. Bao phen bị cảnh sát ruồng bắt, ả Chánh cứ trốn chui, trốn nhủi vẫn không chừa cái mặt mo mụ tú bà lì lợm, trơ trẽn, ù lì lẵng lơ thộn chường ra, coi quá dễ ghét. Chỉ có khách quen say sưa bội tình hoan lạc trong bầu không khí sặc sụa rượu nồng, khói bồ đà tàn dư từ thời Pháp-thuộc cay xè, khét lẹt còn lưu lại. Từ chỗ đó, thuốc phiện lan đi khắp mọi nơi. Loại cây nầy trồng ở vùng cao Lai Châu (xứ Thái), và Vịnh Hạ Long, người ta làm ra thuốc phiện, rồi bán cho lái buôn “Tàu Ô” (black sail pirates) để đổi lấy tiền, vàng, súng đạn. Hoa thuốc phiện nhiều màu, lá so le có khía răng không đều, thân và quả chế ra codein, morphin; quyện lẫn mùi da thịt kẻ ghiền rịn ra khét khét, chua chua, ơn ớn, hôi hôi, nhơm nhớp tanh tanh trên cái giường bóng nhẫy mồ hôi.

    Ai đã vào cái hang ổ đó rồi, thì... khó tìm thấy lối ra. Bầu trời, sông dài, biển rộng, núi cao hồ thẳm, giờ chỉ thu hẹp trong gang tấc, đẵm trong vò rượu tăm sủi bọt, bên bàn đèn nâu, dưới bàn chân si mê phóng đãng bước thấp bước cao, trôi theo con sóng xô giạt. Thân hình hắn nhấp nhô, nhẹ như bông gòn bay, đẩy đưa phiến lá tội tình. Lưng gù gù, đầu gật gưỡng hắn cúi cúi lắc lắc, bước đi loạng choạng thểu não, bơ phờ, đôi chân bành giạng ra ngượng ngập và nhút nhát. Trông hắn chẳng giống ai, chả giống con giáp nào! Tàn mớ đời trước vận nước điêu linh đang cần sức trai lèo lái con thuyền cỡi sóng ba đào. Kẻ ghiền rồi, hai bàn tay trơn không còn sinh khí hào hùng, sáng giá của gót giày botte de saut đập mạnh vô nhau kêu cái cộp. Thật kiêu! Thật hách! Thật oai hùng siêu đẳng! Kẻ hút sẽ không còn bàn tay anh tài vững chắc đưa lên mũ, ngực ưỡn ra, mắt sáng quắc nhìn thẳng; sẽ tiêu tùng đời trai trẻ. Nếu vào... "cửa mả tam giác tử vong" đó. Còn chết tiệt hơn khu tam giác vàng giáp giới Thái. Miến. Lào. Vì thế, người ta mới đặt cho cái tên chết người là: Thuốc phiện.

    Góc đằng kia có bốn anh trải poncho cạnh cây bần, họ ngồi giạng chân với xị rượu và con cá mòi vừa nướng thơm phức. Đa số người lính lúc nào cũng vui nhộn. Có chút men bia, là anh thấy đời tà tà vi vút lên hương. Thống khoái hơi men nếp cẩm xịn mà cho "vô mỏ" mấy anh, thì đã-điếu hết sẫy, đưa họ ngoắt cần câu lên cơn say khi trống dạ. Họ đang "du ca mùa Xuân" làm bợm nhậu chì nhứt phố núi he. Trong lều bạt, Sĩ gây sòng đen đỏ, năm anh chụm đầu vào con bài, mê đến nỗi nhịn cơm nhịn canh, lên xe GMC cũng xòe, ngồi trên giường bố cũng đánh. Chỉ có khi đi làm việc họ mới yên. Túi tiền mấy anh xẹp lép, nhường chỗ cho cỗ bài dày cộm đút trong túi.
    - Mấy anh ơi! Mấy anh ra chiến trận, sao mấy anh thích la cà chỗ nầy chỗ nọ linh tinh, xĩn xạc, tháu cáy nhau kinh khiếp vậy? Chắc vợ con các anh ở nhà rất lo lắng, thất điên bát đảo đó. Mấy anh ưng lắt léo cuộc đời làm chi! Ba trợn quá! Quỷ thiệt chớ. Dị hợm ghê! Khỉ đột á! Coi chừng! Bọn em lén đi méc Trưởng-phòng; thì các anh sẽ bị kỷ luật gấp đó nha! Nhưng em nghĩ anh Phước chẳng thèm lưu tâm chuyện riêng tư làm gì, chỉ vì các anh đã “thành nhân chi mỹ” có tự do cá nhân cả rồi. Anh Phước đang điên đầu vì chuyện họp hành kìa.

    Được thượng cấp chỉ định làm trưởng ban nhạc, khi tuổi anh Cương đã xế chiều, ảnh gầy gò, trán hói, gương mặt nghiêm khắc. Ngọc nghe Thu Hoa nói:
    - Lâu lâu ảnh có cảm hứng dồi dào, đã sáng tác chiều tác, hoà âm hòa iếc gì đó. Đối với tôi, nghe ảnh đàn từng tứng tưng, tằng tắng tang, bùm búm bum, bòng bóng bong… giống như đàn gải tai trâu. Tôi coi anh Cương cũng ra trò dị biệt trong phường văn nghệ sĩ miệt vườn. Ưu điểm của ảnh có chừng ấy, nhưng đối với đàn em, ảnh nổi tiếng hách xì xằng, tỏ vẻ ta đây tài ba lỗi lạc hơn bất cứ loại kỳ nhông cắt kè nào, (oai hơn cả anh em thứ thiệt nữa). Khi anh Cương muốn dùng một người nào, anh nâng người đó lên chín tầng mây. Nhưng lúc không cần đến họ, thì anh Cương có cử chỉ kém tế nhị, phun trào những lời cay độc! Có vài ba hạ cấp e ngại anh ta, họ luồn cúi nâng bi, đánh bóng cuộc đời ảnh quá đáng. Thiệt mắc cỡ khi họ trắng trợn "bơm" ảnh căng hơi, “thổi" ảnh phồng to hơn quả khinh khí cầu. Thế là ảnh nở mũi, dương dương hiu hiu tự đắt, ảnh "nổ" muốn "vồ" người khác một tí cho oai í mờ.
    Mai Hương chêm vào:
    - Ảnh giữ một "củ súng" mousqueton cổ lỗ sĩ, giống vệt nhăn cày sâu trên trán khổ chủ, khẩu súng lỗi thời như Garant M.I, kẹp đạn 8 viên, hay Carbin M.I bắn từng phát một, củ súng giơ lên bắn từng phát một “bụp, bụp…”. Vô duyên òm, y đúc như súng bắn lon trong hội chợ ghê. Sau trận chiến, trong tận cùng tan hoang đổ nát của quê hương đỏ lửa, Cương đi thu nhặt chiến lợi phẩm, nào là lựu đạn nội hóa, mìn muỗi, súng AK, mũ nồi tai bèo, dép râu, vân vân... Thành tích đó của mấy anh Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến… Sau khi “phe ta uýnh vi ci" te tua chạy có cờ vứt bỏ lại, họ tặng cho Cương. Cương lụt lịt sai lính trơn tà lọt mới nhập gia khệ nệ bưng những thứ đó về, để kê khai làm thành tích riêng. Cương “hù" anh em, ảnh khôn mà không ngoan, chỉ muốn ra oai "vồ" xí, nhưng lớn giọng xỉ vã tàn tệ người khác đến khiếp vía.

    Bọn con gái mới “nhập gia” nghe bạn “thâm niên công vụ” kể về Cương mà le lưỡi, hết hồn! Trong Đoàn 5 nầy có anh Thái vừa bị thượng cấp cạo trọc lóc đầu, cạo râu, cạo cả lông mày, cắt lông mi (thiệt tình là Hoà nhìn anh Thái bị... “trọc lóc cái trốt, tu mi nhẵn thín bóng láng” như vậy, cô tưởng tượng anh giống con khỉ đít đỏ mắt xanh ở trong mấy gánh sơn đông mãi võ, rất dị hợm, mắc cười kinh khủng, mà cũng ghê ghê dị hợm sao đâu!). Lý do Thái bị kỳ kỳ, dị dạng như thế là: do anh có tới... “thất tình sầu đời”: nồng, chát, đắng, cay, mặn, ngọt, lạt ; nên ảnh nhậu say khướt mà quậy, đánh lộn tùm lum. Thái bị gián cấp. Thế là anh bất mãn, bất bình, bất cần, bất chấp, bất định, bất hạnh, bất lợi đi quậy tưng trời: Ảnh thiệt “sừng sỏ”, ba gai quá chừng. Khi say bí tỉ chân nam đá chân chiêu, Thái dám bố láo bố lếu đứng giạng háng, trợn con ngươi ốc nhồi muốn lòi ra khỏi hai mắt, anh trừng trừng xỉ xỉ vô mặt cấp chỉ huy, láu cá nói:
    - Chỉ là con tắc kè bông ôm đít chạy lông nhông.

    Biết là Thái quá say mới dám nói những câu xúc phạm với thượng cấp như vậy, nhưng chỉ huy phải cho anh vô chuồng cọp, trừng trị cái tội anh bất nhã, không đúng quy cách tác phong của con nhà lính, phải có kỷ luật của một quân đội nghiêm minh, để làm gương cho đồng đội, là chí phải. Từ lâu Thái vốn không trọng tài năng Cương, Thái thấy Cương gàn bướng ngu ngu sao ấy. Nói nào ngay Thái khá giỏi về nhiều phương diện, nhưng khổ một điều là anh Thái có tính cao cách, kiêu ngạo, hung hăng, ba gai, bản chất ta đây đã ăn sâu vô xương tủy anh rồi. Ẩn nấp đằng sau gương mặt phong trần coi cũng khá đẹp trai qua nụ cười mỉm miệng, lại chứa đựng một tham vọng mê hồn cuốn hút anh phải hiên ngang đứng lên, “chơi” một cái gì cho nổi trội hơn đồng bạn. Thái nghĩ: “Anh Thượng-sĩ chỉ hơn anh Trung-sĩ-nhứt có một bậc, thì xêm xêm mém mém, chứ có cao cách gì, mà buộc người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu gan lì như ta, việc gì cũng nhứt nhứt phải nghe theo sao”.

    Nhìn các anh em khác khúm na khúm núm cung kính nâng bi trình bẩm “y”, Thái lại càng khó chịu. Mình vượt trội không thua chi Cương, nhứt là tri thức và tài đờn ca hát xướng… là nghề của chàng mà. Rồi việc gì đến tất nhiên đã đến, khi Trung-úy Phước đi lên bộ Tổng Chỉ Huy hành quân dự phiên họp, Trung-úy trao quyền điều hành lại cho Cương chỉ huy Phòng 5. Do Cương đã có thành kiến với Thái, cậy ỷ mình có quyền hành trong tay, nên anh Cương lớn lối mạt sát hạ cấp Thái không tiếc lời. Nếu anh “Phó chỉ huy Cương” biết dẹp bỏ lòng tự trọng, và anh Thái bớt tự ái một xí, thì trong Phòng 5 sẽ có được những anh lính giỏi, tốt. Thế nhưng rất tiếc… đã có vấn đề không hay xảy ra giữa hai người. Không hiểu vì lý do gì Cương và Thái “gườm” nhau "đậm-đà”, nên đâm ra xích mích, đấu khẩu ác liệt, tay đôi nầy cãi lộn rần trời... khi cơm trưa vừa dọn ra, chưa kịp ăn. Anh em trong đoàn không ai can gián nỗi.
    Có tỵ hiềm và ghét Cương từ lâu, nay “Thái phong trần” càng tức giận, quê xệ, cảm thấy mất mặt với đàn em quá. Thái phải cay cú lật tẩy quân bài “ngu ngu" kia, nói huỵch toẹt ra những ý nghĩ mình, mà không ngượng mồm. Thái cần tỏ ra ta đây đếch sợ chết, bất quá thì giống như “cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi”, chứ sợ gì ai mà run, mà rét! Sự “chân thật” quá mức cần thiết cuả Thái, xét ra đôi khi tàn nhẫn, phũ phàng! Thái “hiên ngang” liền móc "trái na sắt" đáng ghét dằn dộng thật mạnh trên bàn cơm: nơi có dĩa rau muống luộc, dĩa cá diêu hồng chiên dòn, tô canh bầu nấu tôm khô lỏng bỏng nước, ai nấy đều nghe cái “cộp”. Mấy thức ăn đó tự động lắc lư, văng nước canh tung tóe, những con cá hồng đã chiên xù chết rồi mà còn nhảy tưng tưng. Anh Thái khư khư cầm trái na ấp vô ngực, lăm le chực mở chốt an toàn, hù tự sát.

    Anh Cương tuy bất bình, mất mặt, cụt hứng, hết hăng tiết vịt, giận run, nhưng anh xanh mặt im re, xép ve! Cả hai anh nghẹn đắng cổ họng, không nói thêm tiếng nào, y như con tuấn mã đang phi nước đại, bỗng dưng bị cây đao chặt xuống cái phụp: cụt mất bờm và đuôi. Trông thật thảm thương dị hợm quá chừng. Một lúc thật lâu, anh Long len lén đến bên Thái ngọt ngào năn nỉ Thái bớt giận: “Chuyện đâu còn có đó, ông sẽ được minh oan”. Mấy cô đơ dem cùi bắp thấy vậy la hét rân trời, lo chạy trốn tá lả, sợ “trái na” hơn sợ giặc cộng sản đuổi té re bên đít. Các cô hét tướng lên om sòm, nghe the thé, chát chúa, thiệt điếc con ráy quá đi! Chỉ có Ngọc từ trong xó góc bếp lò mò chạy xộc ra, cong cong cái lưng eo ếch, cô ôm tay Thái, cô dám cả gan xớ rớ gần bàn ăn có “quả na”, Ngọc vừa khóc hu hu, hic hic… cô dỗ dành anh ta như bà chị dỗ em bé tí nị. Mặc dù Tuyết Ngọc nhỏ hơn anh Thái mười tuổi. Khiến Thái càng mủi lòng khóc rống hụ hụ hụ!

    Mấy anh khác, mỗi người một câu phải trái, ôn tồn phân tích rành mạch, cho hai bên “bất phân thắng bại” nguôi ngoa dần dần xí. Anh Vị “tà lọt” (anh chị em trong phòng “thương”, mà “thân” gọi Vị như thế, vì đối với ai ai, thì anh Vị hiền hòa, chí tình, ân cần giúp đỡ bạn ngay khi có ai nhờ vã, anh vui vẻ nhận lời, dễ dãi cười xòa), anh Vị đến bên bạn: gỡ tay Thái, lấy trái na độc hại giết người, Vị lật đật đem dấu ở xó xĩnh nào. Chả biết. Riêng Hoà cảm thấy ơn ớn sợ sợ, ít muốn thân thiện với cấp trên, nhứt là cô có nhận xét riêng về anh Cương: “nghĩ mà buồn khi anh Cương dùng người “rếch lô” quá, anh Cương ưa chê bai, cấp trên mà ganh tỵ kẻ dưới cơ ngầm ngầm, lại có chút ghim gút “trù dập”, đa nghi. Nếu anh Cương đã nghi rồi, thì Hoà tưởng anh không nên tin dùng, càng hơn nữa nếu người ấy làm điều gì sai trong quá khứ, hiện tại họ cố gắng không làm thêm điều sai quấy nữa, thì ta nên dìu dắt và nâng vực họ lên! Tất nhiên khi hiện tại đã trở thành dĩ vãng, có lẽ họ biết điều sai quấy, sẽ ân hận, xấu hổ, dày vò... họ cố tình không dẫm chân lên vết chàm cũ, sẽ chia sẻ với bạn từng bước trên chiến trường; giống như đang chia sẻ tính mạng mình.

    Anh Phước đi họp về, nhìn mặt mày ai nấy méo xẹo, ủ dột, bàn cơm nguội lạnh, đàn kiến sắp lớp bò bò trên mâm cơm lo bu bám hút mấy con cá diêu hồng chiên béo ngậy không nhúc nhích, ruồi bu bay lên đáp xuống ù ù u u... vui say nhậu nhẹt no nê. Anh Phước từ tâm độ lượng khéo léo điều tra. Phước khôn ngoan khiển trách nhẹ nhàng “huynh đệ chi binh như thủ túc”, anh giản hòa hai người ấy rất hợp lý:
    - Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Nếu anh em có “ngắt nhéo cào cấu” chỉ một chút ở bên tay nầy, thì không những tay kia, mà nguyên cả thân thể anh em cũng biết đau. Phải không nà? Nhứt là chuyện tẹp nhẹp riêng tư giữa hai cá nhân, thì không nên khêu ra thành to tát, để mà xích mích nhau, làm mất danh dự, thể diện anh em quân nhân đồng đội trong Phòng 5 nói riêng, và quân đội nói chung. Ta cần nói với nhau những lời dịu êm, xây dựng tốt đẹp, phải biết đoàn kết, cư xử với nhau yêu thương, tận tình giúp đỡ trong tình mến gia đình quân nhân.
    - … Đây là lần đầu, cũng lần lần cuối, tôi không muốn trình việc nầy lên cấp chỉ huy, tôi muốn giữ anh em ngồi lại cùng tôi: đùm bọc nhau, chia sẻ nỗi niềm... Việc lưu lại “người tài” là điều quan trọng, nếu cái tâm cuả anh em trong sáng, chân tình, anh-minh, có lòng tự hào dân tộc! Thì tôi rất cần anh em! Tuy nhiên, còn người nào tự ý thích chà đạp nhân cách chính mình và dày vò kẻ khác, để đạt tới quyền lực, vu khống người tận trung, thì họ phải trả giá cho hành động và trách nhiệm cuả một quân nhân bất khả tín. Kết quả là họ phải đối mặt với cái nút thắt về sự trắc trở cùng sự thất bại chua cay, hối tiếc vô vàn về những điều lố bịch do tự mình đã gây ra vậy.

    Anh Phước đúng là một vị chỉ huy mẫn tuệ và mẫn tiệp. Phước có tinh thần cộng đồng tha nhân, có lòng hào hiệp, nặng danh dự và trách nhiệm, yêu thương thuộc cấp thật tình như em út. Nhưng, ở chiến trận anh Phước cương quyết, nghiệt ngã với anh em nào quậy phá và sai trái. Ấy là điều chí phải. Anh Phước cần bảo vệ sinh mạng, tài sản, tình cảm đồng đội từng giây, từng phút. Dù anh Phước không muốn nặng lời quở phạt ai, vì ai ai cũng “thành nhân, thành danh, thành tài” cả rồi. Hai anh ấy cảm thấy ngượng, hổ thẹn, họ tự động đứng lên cúi mặt ấp úng xin lỗi mọi người cái lỗi cố chấp, nông nỗi nóng giận phi lý. Do:
    Anh với Tôi hai người chung nhịp sống,
    Cùng máu hồng nhịp đập của trái tim
    Cùng một Mẹ giống anh hùng Lạc Việt,
    Của tổ tiên xưa miền đất Văn Lang
    Từ Vua Hùng cho đến Lý Trần Lê ...
    Bao thế hệ đi qua non sử Việt.
    Rồi ngày ấy quê tôi binh lửa khói
    Anh và Tôi thề nguyện bước chân đi...
    Đem tất cả tâm hồn dâng Đất Mẹ,
    Nguyện một lòng, quyết chiến giữ TỰ DO .
    Đem thái bình vĩnh cữu đến non sông... (1)

    Mọi người trong đoàn vui vẻ ôm nhau cười ra nước mắt, chẳng ai kịp ăn uống gì, vì đến giờ Phòng 5 phải thu xếp hành trang lên đường. Mỗi người đi công tác đều phải cõng trên lưng một lít gạo một ngày, tha đi đây đi đó, cùng chia phiên nhau canh gác, nấu cơm ăn. Ban đầu được phát gạo sấy và đồ hộp, Ngọc khoái chí ăn liền một tuần. Sau đó, thấy đồ hộp Ration C, cô sợ, vì ngán lên tới cần cổ! Anh chị em đã hùn tiền, giao cho nhóm đầu bếp của Phòng 5 đi chợ mua rau, thịt, cá tươi, về nấu cho cả phòng cùng ăn, ăn cơm chung nói chuyện rổn rảng như thế thật vui, có tí canh húp rột rột, mà cảm thấy mát ruột mát gan.
    Chợ xóm nhỏ họp thoáng chốc khoảng vài ba giờ, lo chụp giựt mua bán. Hôm nào chị em Ngọc lỡ đi chợ trễ, thì kể như không còn gì ngoài mấy bó rau muống bầm dập. Thà có rau ăn, còn hơn ăn lương khô. Ven bờ rau muống phồn thịnh, hào phóng mọc từng bè chạy suốt dòng sông, ăn đọt rau thả gốc già xuống nước có tí bùn đất, ít lâu sau chúng sinh sản ra “cả Làng, cả Tổng”. Ăn rau muống Hòa thấy ngon ngọt mùi vị quê hương, dễ ăn nhứt, hái rau vào, rửa sạch ăn sống, xào, nấu canh, trộn gỏi thịt heo thịt gà, thịt bò, tôm, cua... Hoặc không cần pha trộn thịt thà, để vậy ăn nguyên chất, mà tươi ngon đậm đà hương đồng vị nội.

    Lớp nón sắt bên ngoài nầy được múc thêm lần nước nữa, để dùng làm cái nồi nấu thịt bò kho gừng, sả, ớt, cà ri nị... thì tiện lợi và có thức ăn ngon tuyệt. "Nồi mũ sắt" treo ở cây sào gỗ, lửa đỏ trên đầu nón sắt lật ngửa, coi ngộ ghê. Ngọc lấy nón sắt, gỡ lớp mũ nhựa lót lưới ra, để múc nước sông lên. Cô vén tóc qua một bên uống ừng ực, tỉnh bơ:
    - Coi chừng bị sốt rét đó. Để Hoà lấy nước nấu chín ở trên xe cho uống.
    - Khát quá, lỡ uống rồi. Ớ! Ai vật nỗi mình mà bệnh. Hoà ha.

    Ngọc phụ anh Minh làm bếp, cô lấy hộp quẹt zippo, bật lò dầu nấu nước sôi. Chờ nước sôi rồi, cô lấy kéo cắt mấy bọc gạo, Ngọc để bọc gạo sấy cạnh mấy keo ruốc sả xào thịt thiệt khô. Có ngày nào thong thả xí, anh Minh cho lính ăn khô nướng, nấu nồi canh chua lá giang, cá đồng kho tiêu. Món canh rau đạm bạc duy nhứt ăn với rau sống và cơm gạo sấy. Đôi khi chỉ có rau muống luộc, nước luộc rau dằm thêm trái cà chua, củ hành hương, có chút muối, bột ngọt. Thế mà anh em lính ăn, vẫn cảm thấy ngon hết sẫy.
    * * *
    Ngày tàn... Rồi ngày lại ngày tiếp nối lạnh lùng qua mau không thể đổi mới hơn. Con đường phiá trước bỗng dưng quyện từng đám bụi bay mịt mù. Phút chốc sau đuôi xe mặt trời nhẹ nhàng rón rén le lói len lén vươn lên tỏa màu hồng tươi, xen lẫn màu đỏ thắm chan hoà màu vàng tía, như gom cả ánh sáng óng mướt đầu ngày vừa hé. Cuộc sống tao loạn bắt đầu rơi rải rác khắp nơi trên chiến trường Việt Nam sôi sục, bùng nổ dữ dội từ năm 1962. Khói lửa phủ chụp trên đầu, dù nơi nầy kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác, dù cho quê hương tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc. Người, người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi, đi mãi... lúc tháng năm lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha, thản nhiên trôi qua trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn khi chiến tranh dừng lại cúi nhìn: Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng nhìn chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, hung hăng quay tròn lông lốc, vun vút bùm bùm, ầm ầm… kéo theo chuỗi bi thương tột cùng kinh hoàng, bao giếng mắt đẫm lệ vĩnh viễn chia ly. Nhiều vùng đất xôi thịt lẫn lộn dọc miền Trung không thể phân chia ranh giới, không còn kinh tuyến, vĩ tuyến, phân biệt ra môn ra khoai chi tê mô răn rứa hết rồi!

    Trận bão lửa đạn xoáy bốc hung hăng điên cuồng, pháo kích tầm gần tầm xa tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, bọn chúng tàn ác không để yên cho dân làm ăn, thì bên ta phải phản pháo là tất nhiên, đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại… như màn nhện đỏ ngầu, gớm ghiết dường như lăm le dội trên đầu mọi người. Hằng chục quả đại bác không giật, đại liên nổ ầm ầm ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao, toé ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuồn cuộn phụt lên, phụt lên cao ngất lưng trời, bụi lửa mù khói ám chướng che khuất góc núi xa xa. Dường như đêm nhờ ánh mắt hoả châu đỏ rực luôn nở rộ trong bầu trời hắc ám, đã rọi chút ánh sáng hiu hắt, rồi vội vàng tắt ngúm, trả lại đêm đen hãi hùng, coi càng ghê rợn. Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối khiến không khí thêm ngột ngạt nặng nề, vẫn oi nồng khó thở. Hoà thấy ngày cũng như đêm, cứ tưởng tượng lúc nầy là hoàng hôn dìu dịu, bình minh trộn lẫn nắng tươi tuyệt đẹp ẩn trong các đài mây ngà ung dung bay bay, lờ lững trôi trôi trên đỉnh bình yên.

    Hoà nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy, lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực phập phồng, nhấp nhô, cơn đau đớn dần dà thấm đẫm vô từng chân tơ kẽ tóc. Hoà điếc thiệt rồi mà hai mắt nhướng lên mở trừng trừng nhìn đầu đạn bay vun vút. Hoà thập thò lấp ló run run đi ra, đi vô trong lều bạt, thấp thỏm sợ sệt nhìn về mấy ụ súng. Khi nòng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi, xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vô không trung, từng đống đít đạn lộp độp rớt xuống chân giàn trọng pháo: Ùm. Oằng. Pằng. Pằng. Tạch Tạch… Bùm! thì Hoà sợ hãi kinh khủng, tái méc mặt mày, mắt trợn trừng, nghiến chặt hàm răng trèo trẹo ken két, Hoà lo nấp vô góc nhà, rụt cổ co rúm người, ngồi hụp xuống đất, chẳng dám thập thò lấp ló dòm ngó đâu nữa. Hai tay Hoà bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng, đứt quãng như muốn hụt hơi, run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì, riết rồi điếc đặc có lẽ cô không sợ súng thật chăng!?

    Bị bắn trực xạ, có lẽ là gần lắm, cả chục miểng nhỏ li ti ghim vào giường bố. Sau vài giờ giao tranh cận chiến ác liệt, bọn “vici” kia lùi lại vô rừng già, địa pháo rót bừa bãi, đạn nổ bay tứ tán bất kể chỗ nào, kể cả nơi đồng bào đang ở trong vùng cận chiến hiểm nguy. Nặng nề nhứt vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ bị tàn phá, chúng hủy diệt nơi thờ phượng trở thành bia đỡ đạn. Chiến tranh vô tình bay tới, hay do bàn tay bọn hung thần cố ý cấm đoán tự do tín ngưỡng? Phóng pháo làm người dân vô tội lo sợ kinh khủng, hớt hải quýnh quáng chạy thục mạng vô chùa chiền trú ẩn, họ khẩn thiết cầu xin Trời Phật mở lòng từ bi, độ lượng, hải hà ra tay cứu giúp con người sống trong cảnh chiến tranh, lầm than, đầy tang tóc, điêu linh, hãi hùng, quái ác quá kinh dị. Trong nhà thờ họ nhắm đôi mắt, bàn tay cầm chặt chuỗi hạt, miệng lẩm bẩm cầu kinh.

    Họ không dám nhìn cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc bầy nhầy trộn với đất cát tro bụi. Trong tro có chất khoáng mặn, làm cho bờ môi người dân thêm nặng giọt sầu trộn mồ hôi muối đắng chát. Đôi mắt Kim lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng anh Tam há hốc, nhăn răng, lưỡi le dài thườn thượt. Thân hình Phan cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy trước khi anh sụm xuống. Dĩ nhiên cuộc đời và sự sống là: Sinh. Lão. Bệnh. Tử... Có sống thì có chết, ở đời chẳng có gì trường tồn vĩnh cửu cả! Họ bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò xay xát quằn xiết. Nhưng người còn sống đã tận mắt chứng kiến thì... dường như có ai lấy con dao lóc từng đoạn thịt, khiến ta nhìn mà đau tột độ.

    Có một thời những chàng trai ấy đã từng phân vân, bối rối, phập phồng đứng tư lự ở ngả tư, ngả năm đường cái mà… băn khoăn trước sự lựa chọn, rồi dứt khoát bằng lòng với cuộc đời lính chiến bây giờ! Thân trai biết cam chịu, tuân phục và chấp nhận trung thành hy sinh vì tổ quốc; trong lòng họ suy niệm một điều duy nhứt: bảo vệ tổ quốc, quê hương và dân tộc Việt Nam đến hơi thở cuối cùng. Không phải họ chỉ dấn thân hành động (để bảo vệ quê hương sớm thoát cảnh điêu linh bạo tàn), mà họ còn gánh lấy trọng trách giữ gìn từng tấc đất do ông cha truyền lại: từ cây đa, gò mối, bụi tre bên những bờ thôn xóm đã được tất cả mọi người tín cẩn giao phó. Họ có ý chí quyết chiến vì lý tưởng, hoài bão, có lập trường để giành thắng. Tài sản trân quý nhứt trong quân đội là sự cân nhắc, đắn đo, thận trọng, suy nghĩ và giàu kinh nghiệm...

    Chiến tranh không thể chiến thắng chỉ bằng hy vọng thôi, cũng như họ không định dùng những hòn đá cuội giơ cao vung tay mà lấp biển vá trời. Kẻ thù nội tâm không thấy mặt: mới thiệt là đáng sợ hãi. Kẻ thù lớn nhứt cuả người lính là những tảng đá nằm lì đè nặng trong lòng tính đa cảm, nhân nhượng, bao dung, giằng co, níu kéo. Càng chẳng phải họ là những người lính “thời thế thế thời phải thế”, mà họ dám hy sinh sức trai đầy tươi sáng hứa hẹn ở tương lai, tình yêu, gia đình; ngỏ hầu chung sức ghé vai gánh vác bổn phận, trách nhiệm và danh dự mà tổ quốc kỳ vọng! Tấm lòng cao cả, biết hy sinh gian khổ nhọc nhằn ở tại chiến điạ vì người khác (cuả người lính Cộng Hoà Việt Nam): không thể có ai sánh bằng! Họ giữ vững lập trường và mạng sống khi lâm trận, thì mai sau sẽ thành đại cuộc. Thế nên nếu họ phải hy sinh mạng sống, thì cái chết chính trực trung nghĩa cuả họ: thực ra không hề thấp hèn! Thật đáng lưu danh thiên cổ, rất trân trọng ngưỡng phục, và không vô nghiã, như Lamartine đã nói: "Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương" ấy mà.
    Anh nằm xuống trên chiến trường khắc nghiệt.
    Anh ra đi không lời từ biệt vợ con.
    Bao tháng năm trông chờ đợi mỏi mòn.
    Anh nằm xuống! Tổ Quốc còn ghi công trận.
    Anh ra đi không một lời ân hận.
    Đã làm tròn bổn phận một đời trai.
    Rồi chiến tranh cứ tang tóc kéo dài.
    Anh nằm xuống hình hài không nguyên vẹn.
    Vẫn mỉm cười không bao giờ hổ thẹn. (2)
    ***
    Vài ba lần khi Đoàn 5 ở Trà Phong, thì Ngọc thích rủ Hoà đi tắm đêm ở sông Trà Khúc. Phía xa kia là núi Thiên Ấn ở huyện Sơn Tịnh ẩn hiện dưới vầng trăng lúc tỏ lúc mờ. Từ chân núi có đường xoắn ốc lên trên tóp đỉnh rợp bóng thùy dương xanh mát. Đỉnh núi tà tà rộng rãi và bằng phẳng, nên ta có thể lên đó cắm trại. Dọc ven hai bờ sông có nhiều guồng xe nước quay bằng gỗ (hay làm bằng những bè tre già) do nghệ nhân khéo tay đan kín, trám trát lớp dầu ráy, dầu hắc rất công phu, cẩn thận. Xe quay nước mang nghệ thuật độc đáo dẫn thủy nhập điền: từ dòng sông Trà Khúc nước chảy xuống các mương gỗ, rồi nước từ từ luồn lách chảy đi theo từng khe lạch, nước dẫn vào rất nhiều ruộng lúa xanh rì, phì nhiêu. Ngọc rất thích ngắm những guồng xe nước nhân tạo độc đáo ở Tỉnh nầy. Bởi thế từ ca dao đã có:
    Ai về Quảng Ngãi xa xôi
    Nhớ sông Trà Khúc sóng dồi lăn tăn
    Nhìn dòng nước chảy phăng phăng
    Đôi bờ xe nước quay lăn bánh tròn
    Xa xa Cổ Lũy cô thôn
    Tam Thương cá bống ngon giòn nhớ lâu (3)

    Tiếng cá vẫy đuôi khỏi mặt sông, cá tung mình nhảy lên đùa giỡn dưới đêm huyền ảo. Trời se lạnh giữa lưng trời gom từng phiến mây bạc phơi phới bay. Chị hằng nga dọi ánh sáng xuống những lượn sóng bạc đầu cuồng nộ, lượn sóng khi trồi lên khi trụt xuống, nhấp nhô theo dòng nước huyền phù; làm vỡ nát ánh trăng soi đôi thân hình trắng nõn ngâm trong nước. Trăng rằm sáng vằng vặc rớt trên đầu, trên vai, và xô sóng nơi bờ ngực trần ẩn dưới nước nỗi hoang vu, sầu lắng. Ánh trăng xanh xao lung linh nhảy nhót và chảy xuống thân thể đã đắm mình trong dòng nước mát, khiến Hoà càng buồn và thất vọng (trước chút riêng tư ngại ngần, e ấp che dấu tấm thân gầy, bỗng oà vỡ tan tành giữa lòng sông lụa trắng). Cuộc đời và cuộc tình chắc rồi sẽ vỡ tan, như bong bóng nước trôi trên dòng sông gợn sóng nầy ư!?
    Sông Trà sát núi Long Đầu
    Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa
    Núi Long Đầu lưu danh hậu thế
    Chùa Thiên Ấn ấn để hậu hoàng
    Ai về xứ Quảng cho nàng về theo (3)

    Ngâm mình trong dòng sông Trà Khúc khiến Hòa nhớ ơi là nhớ... ôi chao. Ơi... Huế trữ tình với núi Ngự sông Hương! Hòa đã xa Huế mấy mùa hoa Phượng nở rồi hi? Hòa nhớ cả Nha Trang thành phố biển xanh tuyệt đẹp với cồn cát trắng hàng dừa rũ lá ven bờ. Nào là những anh SVSQKQ & SVSQHQ trong quân trường ngày đêm miệt mài trau dồi binh sử. Đà Nẵng phồn vinh tấp nập những chàng Hải-quân, Không-quân hào hùng! An Khê, Vũng Tàu luyến nhớ, Bamêthuột rợp bóng tình quê. Thủ đô Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông hẳn là vẫn yên ổn! Giờ nầy ở xứ Lâm Viên thơ mộng ngàn đời quyến rũ du khách ra sao nhỉ? Đà Lạt vẫn như một nơi chốn bình an đầy mộng mơ, quyến rũ, thi vị mời gọi Hoà muốn tất tả xôn xao quay về. Cầu xin cho tất cả mọi người trên quê hương Việt Nam sống thái hòa, êm ấm, an vui và trường tồn.

    Chú tài xế sau khi tắm rửa, và lo chuyển nước nôi vô hai cistern đầy đủ. Chú bồng súng đứng gác trên góc kín, nơi xa xa. Chú chở hai cô đi lấy nước, mặc dù sợ trưởng phòng la khi xe đi ra khỏi doanh trại, và trở về quá giờ ấn định, nhứt là lo sợ vùng tranh sáng tranh tối xôi đậu lộn xộn nhập nhằng. Nhưng chú phải chở hai cô đi nhiều chuyến và nhiều lần. Mấy ngày tháng ở vùng hành quân, nếu có một bi đông nước cũng quý như vàng, chớ lấy đâu ra mà có nước tắm thoải mái. Hoà và Ngọc đi tắm xong, lúc về còn mang theo vài cistern nước cho anh chị em xài, cũng là đi công tác cho Sư Đoàn 2 rồi. Chú tài xế ngại ngùng, lo lắng, thỉnh thoảng nhìn quanh, kêu nho nhỏ:
    - Hai cô ơi! lẹ lẹ lên, mau mau đi về, kẽo bị đóng cổng bi giờ. Chết đa. Trời à!
    Bởi hơn ai hết chú rất sợ: mất một dòng sông... Chỉ vì chú ấy là trai xứ Quảng:
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu
    Phải đâu chàng nói mà xiêu
    Tại con cá bống tại niêu nước chè (3)

    Hay là tự chú đã có vợ con đang ngóng chờ:
    Từ ngày xa bạn đến nay
    Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
    Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
    Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
    Quán Cơm nào quán nào nhà
    Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
    Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
    Ngó vô hàng rượu mà không thấy chàng (3)
    ***

    Từ chiến trường Hiếu Hoà được trở về Đà Nẵng, chiều hôm sau, Thắng đến nhà ngồi nói chuyện phiếm. Hoà buồn buồn:
    - Tuần tới, Hoà lại đi Minh Long, Nghĩa Phú, một tháng. Anh à.
    - Làm quái gì ở đấy mà... đi lâu thế?
    - Suỵt! Bí mật quân sự mà anh.
    - Đúng. Nhưng đi lâu quá, anh lại solo trên phố!
    - Anh thiếu gì bạn gái, em gái, mà anh phải solo!?
    - Anh thiếu gì, chứ chả có... thừa gì.
    - Làm sao em biết anh có thừa nào!? Nhưng cũng chả nhằm nhò gì tới ai.
    - Hoà có quyền biết, với tư cách là người thân.
    - Cũng tùy.
    Thắng cười rất xinh, nhìn Hoà trìu mến đá lông nheo mấy cái:
    - Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
    - Ơ! Viết thư à?
    - Phải! Làm gì ngạc nhiên khiếp thế? Em chưa từng viết thư! Hở?
    - Thú thật Hoà không nghĩ có ngày em sẽ viết thư cho anh kìa.
    - Sao thế?
    - Lại hỏi nữa rồi. Bây giờ thì bí mật quốc phòng.
    - Hậu sinh khả úy, ha ha ha...
    - Hôm nay anh thua em hai không rồi. Nhé.
    - Nguyễn Công Trứ nói câu nầy: "Tất do Thiên, âu phận ấy là thường. Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ". Thì, việc anh thua em: hai ba không, là chuyện thường. Phải không Hoà?
    - Anh nói tiếng Tàu, tiếng Miên hay tiếng Mã Lai, em cũng: câm, điếc. Huề cả làng thôi.
    - Cô bé thế mà... khôn thật.

    Hai người nhìn nhau vui vẻ cười hồn nhiên. Thắng treo cây đàn trên tường, xuống nhà dưới chào chị Huyền, anh lên solex về nhà. Nắng vàng hanh yếu dần thở hơi nồng đang ngậm ngùi chuyển ánh sáng thành màu mờ mờ, trời chiều luyến lưu chút ngày tàn giăng rộng vòng tay yêu thương ôm vạn vật, buổi tối lấn chiếm vô ô cửa đã lên đèn, trộn lẫn màu tím thẫm hoàng hôn, màu trời ven đêm đậm đà quyện gió hiu hiu thổi, làm ửng hồng đôi má người thiếu nữ nghèn nghẹn đứng thờ thẩn nhìn vu vơ dưới tàng lá me bay bay.
    *
    Tình Hoài Hương

    (1) Ngàn Thông Đà Lạt
    (2) Phong Vũ Thiên
    (3 cd) ca dao
    *

    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  2. The Following 3 Users Say Thank You to Tinh Hoai Huong For This Useful Post:

    khongquan2 (08-12-2020), kqcantho (08-22-2020), Phạm Văn Bản (08-30-2020)

  3. #8
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Thật Tình Cờ

    Photo by Hoài Hương

    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 7

    Thật Tình Cờ
    Thân kính tặng qúy quân nhân QLVNCH
    đã có một thời vang bóng trên quê hương Việt Nam…
    Tình Hoài Hương

    ***

    Ngày mới chớm vào đầu mùa Hạ sau cơn mưa phùn li ti lất phất bay bay rất nhẹ, rồi đậu trên mái tóc Hiếu Hoà, mà sao phong cảnh nơi núi rừng nầy trông thiệt ảm đạm. Gió lạnh thập thò ngoài khung xe GMC, gió run run ngập ngừng lay động bông hoa lau. Mây xám pha màu lam phơn phớt tím kéo từng bè về bên kia dãy trường sơn. Buổi sáng về rất chậm, kèm theo phiến nắng vàng lợt lạt le lói yếu ớt ẩn sau các bè mây. Từ cánh bướm chập chờn do dự trên dòng sông rực nét tình xưa, dẫn Hoà quay về bao ngày thuở còn hái hoa, bắt bướm... ép khô trong trang sách học trò nơi ngôi nhà cũ. Hoà nhớ những chiều năm nao dọc theo bờ suối, nhớ từng người thân qua mỗi đoá hoa: pensée, violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng, tím, hồng; hoa ngâu, hoa sứ, tường vi, mãn đình hồng, sen địa, vân vân...

    Nay tại chốn nầy hoa bằng lăng màu tím rộ nở bên góc hè nhà ai, cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoà quay trở lại ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối, Hoà ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long xuôi về Bao Vinh, Huế dẫn Hoà theo dòng lưu thủy tan vào cuối nguồn. Nước luân lưu chảy đến đầu non ở Minh Long, Tà Noát, nước từ sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà... ưu ái hòa thông nơi nơi đều nhập hội trùng dương ở biển cả. Rồi cánh bướm vụt bay lên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng nơi bờ rào nhà ai trước sức gió thổi, bỗng nghiêng ngã dồn dập xô về. Bướm không buồn quay lại bên đoá bằng lăng tím yêu kiều, để Hoà ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình trong ca bin xe GMC.

    Hiếu Hoà nghĩ đến tình quê, nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ: xóm, làng nầy gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng trong chiến tranh đau thương, chưa biết có kết thúc hay không nữa!? Nhà nào cũng có bụi chuối mương tre, gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau óng ả quyến luyến bện dây trầu quấn quanh thân. Những chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình tán tỉnh ve mái nghe dễ thương, "chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh màu xanh với "cô nàng" ưa làm le, làm dóc, làm bộ ra cái điều ả ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp. Chú ve cứ ra rả: "anh... ve ve! anh... ve ve ve”... Trứng ve sống dưới lớp đất dày nhờ ăn nhựa rể cây, từ từ nó lớn lên biến thành con nhộng, ấu trùng kéo dài sự sống từ 15 năm tới 17 năm mới đội đất chui lên. Đây là loại sinh vật có sự sống dai dẵng kinh khủng nhứt khi chưa trưởng thành.
    Thật quá lạ lùng & kỳ diệu! Chỉ có con ve đực có cái kèn dưới bụng ung dung “líu lo thổi kèn suốt” không cần ăn uống. Từ sáu tuần đến tám tuần nó sống thảnh thơi an nhàn trên cây, nó chuyên quyến rũ “nhân tình” và làm công việc truyền giống. Khi hết mùa “ân ái”, thì con ve đực xanh xao héo mòn khô đét bấu chặt chân trên cây cao, treo mình mà “qua đời”. Thiệt quá tội cho kiếp ve sầu.

    Hoà nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc, nhấp nhô cánh lục bình, lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm đọt lên trời, cô thấy một giang đỉnh chạy trên sông, cột nước vọt thẳng đứng. Giang đoàn Trưởng cho con tàu neo gần bờ, để chờ đợi khi nước xuống thấp, thì ông cho tàu chui qua gầm cầu Cộng Hoà. Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế không biết bao lâu, từ phía hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm. Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt, quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, một anh Pháo-binh, một anh Nhảy Dù. Hoa vui vẻ nói:
    - Em xin giới thiệu với các anh: đây là Hiếu Hoà, cô gái vừa rồi đã ngâm bài thơ “Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương”, mà anh Đan hỏi em: "Ai ngâm rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hiếu Hoà.

    Hoà mỉm cười gật đầu chào hai chàng trai, họ mặc áo trận bạc màu nắng gió khói sương, quần đầy bụi đỏ, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa. Đan trầm ngâm hút thuốc lá không đầu lọc, anh đứng chống tay ngang hông nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý, rồi Đan nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, anh lại ngoái nhìn cây bạch đàn phía sau. Họ không mang cấp bậc, huy hiệu, nhưng ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch, khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường ở bờ chiến tuyến. Nhìn ngón tay tháp bút vàng khói thuốc và không đeo nhẫn của Đan, Hoà chợt cảm thấy lòng rộn ràng nao nao, trào dâng niềm vui vui lâng lâng vu vơ kỳ lạ mà… mà thiệt khó tả. Tại sao lòng vội vã dâng ngập niềm vui, khi mình chưa khẳng định Đan còn độc thân, hoặc đã có gia đình, nhưng anh chẳng đeo nhẫn cưới, thì sao!?

    Họ đang hiên ngang đánh chiếm, dành lại, gìn giữ từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa dân cư. Lính quý từng mảnh đất thân yêu trên khắp bốn vùng chiến thuật, lặn lội qua từng nẽo sơn khê, những dấu giày đinh dẫm lên cùng khắp khi chiến tranh Việt Nam bùng vỡ. Quân nhân miền Nam Việt Nam anh dũng lẫy lừng qua chứng tích đã đạt được, những trận đánh có cường độ tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, kèm chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị. Không cần huân chương, mề đay, hai anh đã tặng cho Thu Hoa, cô đem về nộp những thứ đó làm thành chiến công riêng mình.
    Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay ra đón bắt, sau đó anh quay qua vỗ vỗ vô vai bạn thân, trêu đùa:
    - Thế nào? Anh bắt tôi lội qua sông Nghĩa Phú cho bằng được, để anh có dịp làm quen, nói chuyện với người em cùng quê hương. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi... sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh!

    Đan ngẩng nhìn Hoà qua rèm mi che nửa giếng mắt u buồn, đôi mắt Đan khá đẹp ẩn dưới hàng mi dài dày cong vút, nét mặt anh trông nghiêng đầy vẻ bất khuất, kiên cường rắn đanh như khắc trên tấm phù điêu. Vầng trán Đan cao rộng biểu lộ con người thông minh, dáng anh hiên ngang oai dũng dưới hai ống quần ướt sũng nước còn lọc ọc bì bọp trong đôi giày đinh, môi Đan thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo nheo từ đôi mắt hữu tình mà nhìn... nhìn Hoà trìu mến:
    - “Sá chi một kiếp phù du nhỉ. Mà chẳng trao nhau trọn chữ tình” (1). Nhưng… ấy dà, đứng trước giai nhân thì… bao nhiêu dự tính đã tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông, tôi mới biết sông sâu, nước lạnh. Khó dò.

    Phút định mệnh thật tình cờ cúi xuống đọng lại qua nụ cười, Hoà thấy Đan nhã nhặn quá đỗi, tự dưng cô "vụt cảm thấy" mình có “cảm tình đặc biệt” với anh. Tại sao kỳ vậy, chả biết. Bỏ thói độc hành để song hành cùng người mới gặp, Hoà nhẹ nhàng mỉm cười:
    - Xin phép cho em gọi anh Đan, tự xưng là em, nhe anh!
    - Xưng hô là tượng trưng về thân tình quý mến lẫn nhau. Muốn gọi sao thì gọi, có hề chi! Em.
    - Dạ dạ… Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy: "đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, thì anh vượt thắng sông núi rồi. Vì, dưới đôi ống quần ướt sũng nước đó, có thể anh đạt vài ý nguyện, bằng cách là Hoà đang đối diện, đối thoại với anh nè.
    Văn ngửa người ra cười ha hả, vỗ bôm bốp vô vai bạn:
    - Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
    - Cả anh Văn nữa! Các anh lội qua sông sẽ bị ướt hết quần áo, giày đinh. Coi chừng tránh xa thủy lôi Việt Cộng thả theo giòng nước, nhứt là nguy hiểm đó, hai anh.
    - Em chu đáo quá! Cám ơn em.
    Thu Hoa reo lên như tiếng chim hót:
    - Hoà là cô bé cưng dễ thương! (nhưng thương không dễ á). Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoà còn cô-đơn à nha.
    - Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
    - Ê! Bồ tèo. Trưa nay tui cho bồ nhịn đói, hì.
    Văn khoát tay lia liạ:
    - Đừng lo Hoà, mời em dùng cơm từ hôm nay nghe.
    Thu Hoa chúm đôi môi, nguây nguẩy giây lát:
    - Hai anh không mời em há?
    - Dĩ nhiên anh muốn mời cả em nữa. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, ngẩn ngơ vì... cảm động nè.
    Màn đấu hót tay đôi giữa Văn và Hoa nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
    - Ở Huế, em ở đường nào vậy?
    - Dạ, nay ba má em dời về ở Mỹ Chánh lập đồn điền. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm ha?
    - Quen rồi em. Lâu nay em có về Huế không?
    - Dạ không anh à. Em ở Đà Nẵng.
    - Anh biết.
    Ngạc nhiên, Hoà tròn xoe đôi mắt nhìn Đan:
    - Ố! Anh biết... Hoà?
    - Có gì đâu, ngày đầu tiên anh thấy em leo lên đỉnh núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh để ý dò hỏi, mới biết em cùng quê, là cánh hoa rừng biết nói. Càng không ngờ em là hoa hậu dễ bị ngất xĩu vì... bệnh tim thời đại. Ha ha...

    À thì ra... hôm ở trong tầng hầm khu tiền chế Hòa sợ hãi kinh khủng khi nhìn anh thương binh bị cưa cụt chân, cô đã bị ngất xĩu, không ngờ chuyện nầy lọt tới tai anh lính Pháo-binh nầy cơ đấy! Thoáng mắt bất ngờ cảm mến giao nhanh, hai người cùng cười hồn nhiên. Hoà e dè dò hỏi:
    - Hẳn là anh nhớ lắm cô áo trắng, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón lá có quai tơ vàng óng ánh rồi, há anh?
    - Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây anh là người lính độc hành, còn lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
    - Sao vậy anh?
    - Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa Xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý mình, thấu hiểu, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; tuy nhiên muốn tìm người bạn đường phù hợp đã khó, anh tìm một bạn đời càng khó hơn. Em ạ!
    - À... ra thế.
    - Cũng có thể do bận bịu chiến chinh. Hẳn nhiên em và anh không thích chiến tranh, nhưng khi chiến tranh xảy ra, bắt buộc phải tiêu diệt kẻ xâm lăng đất nước mình, thì ta có nghĩa vụ, bổn phận cùng đứng lên chiến đấu, để bảo vệ quê hương, cho dân tộc sinh tồn. Phải không nào?
    - Dạ phải.
    Nghe Hoà than bị nhức đầu do ngồi đây vừa nóng lại vừa ngưởi mùi xăng hôi chịu không nỗi. Đan nhìn cô:
    - Em nhảy xuống dưới đất đứng nơi bóng mát đằng kia chút đi. Xe GMC đậu ngoài trời quá nóng thế nầy, đương nhiên em hít thở nhiều benzen rồi. Nó là một độc tố gây thiếu máu, gây bệnh bạch cầu (leukemia), đầu độc xương, tác hại lên thận, gan. Benzen đã nhập vô cơ thể, khó thải ra ngoài. Rất nguy hiểm.
    Thu Hoa & Hòa nghe lời anh liền nhảy xuống đất đứng chuyện trò thêm một lát nữa. Mấy chiếc phi cơ trực thăng CH vụt bay qua trên không trung, giây lát sau không lâu bên kia sông Hòa thấy mấy anh tiền sát viên Pháo-binh chạy ra ụ súng. Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh bay xa, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả bầu trời, do hỏa tập pháo binh nối đuôi thi nhau khạc đạn, nã đạn ùm! ùm! ùm... về cuối ghềnh.
    Anh Đan nói:
    - Đột kích bằng hỏa lực xong, thì sẽ có một đợt bắn tập trung về hướng Bắc vô trong rừng sâu, để chi viện cho đại đội phòng thủ biên thùy. Các em đừng sợ, xa đây lắm. Được nghỉ cũng không xong, lát nữa anh phải đi rồi.
    Hòa nghe từ xa giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm nổ rầm rầm, hoặc như trận mưa giông sấm sét rất lớn. Hay như người ta giật mìn làm nổ hầm đá, để lấy đá trong núi, làm nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, cành cây bạch đàn đã gãy lìa. Hai người lính điềm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen mỉm cười, họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ. Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy là luyến lưu chia tay. Trước khi chia tay, Đan mỉm cười nhìn Hoà đá nhẹ hàng mi cong vút mà “phán” một câu:
    - Núi non sông biển còn đó, thì hy vọng anh với em sẽ có ngày vui gặp lại nha.
    - À, dạ, dạ…
    Đoàn xe của Hoà lên đường trở về ngọn đồi “T T 2”. Đan cùng bạn lại vội vã lội qua sông rộng nước sâu, trở về với doanh trại cuối làng mạc quạnh hiu ở chân núi đầu đèo hoang dã.
    Bửu Đan sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương yêu nồng ấm của gia đình. Đan đã đi Pháp từ lúc anh tròn mười tuổi. Mỗi năm, anh đều trở về Việt Nam hai ba lần thăm quê nhà trong dịp lễ, nghỉ hè, Tết, Spring break, v.v… Sống ở xứ người từ thuở nhỏ qua nền giáo dục phương Tây, đã dạy cho anh hấp thụ tính sòng phẳng, công bằng, tổ chức đời sống có khoa học, anh biết phép lịch sự nhã nhặn đối nhân xử thế tuyệt vời. Mặc dù sống trên xứ người văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc. Nhưng Đan vẫn nhớ thương gia đình, nhứt là Đan thương nhớ me của anh và hoài hương xiết bao!
    Đan thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà ta rất thương con cháu, nhưng không quá cưng chìu chuộng con cháu ưa lì lợm vòi vĩnh nầy nọ, nhõng nhẽo. Họ không buông thả cho chúng tự do quá trớn, trẻ con ít “hành” người lớn như lũ con bên Tây. Con cháu ở Việt Nam biết kính trọng thương yêu ông cha, nể sợ họ một phép, chúng không trân trân tráo tráo, còn choai choai dé dé xíu xíu non dại... mà láu cá eo xèo “đòi hỏi tự do quá mức” như đám Tây con. Biết con hư nhưng cha mẹ lại sợ con “xu; xù” nên họ không dám hó hé!

    Tại viễn xứ xa lắc xa lơ kia, trước Noel tình cờ Đan quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine. Khi ấy trời mưa tầm tả, hai người vô tình đứng đụt mưa, họ vui vẻ trao qua đổi lại từ thời tiết gió mưa, tới chuyện Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 thế nầy: một hôm để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh sinh viên bước vô thánh đường cổ ở Paris, anh thấy một người quỳ cầu nguyện sốt sắng nơi dãy ghế đầu. Đến gần, sinh viên mới nhận ra người ấy là nhà bác học Ampère. Khi bác học ra khỏi giáo đường, sinh viên theo gót ông đến phòng làm việc. Thấy thanh niên đứng trước cửa phòng, nhà bác học lên tiếng:
    - Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
    Thanh niên nhỏ nhẹ:
    - Thưa thầy, con là sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!
    Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn:
    - Anh lầm rồi, đức tin là môn tôi yếu nhứt. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng hân hạnh lắm.
    Sinh viên liền hỏi:
    - Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
    Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
    - Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi nào chúng ta cầu nguyện mà thôi! (2)

    Nàng vui vẻ và khả ái, nàng kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà ta hô hào cư dân Pháp đứng lên lật đổ chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị hoàng gia Anh-quốc bắt bỏ tù và thiêu sống. Đan cảm thấy thoải mái, ý nhị, anh hùng hồn kể cho nàng nghe về oai danh bà Triệu, về hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị của nước Việt Nam, vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân qua Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua trận, hai bà can đảm nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử.
    Nghe xong nàng gật gù thú nhận em bội phục phụ nữ Việt tuyệt vời hơn bà thánh của nàng. Đan lại kể danh nhân: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris: Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt, và chìm đắm trong cầu nguyện. Sinh viên quan sát cử chỉ cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:
    - Thưa, ông còn tin vô những chuyện nhảm nhí thế à?
    Cụ già thản nhiên trả lời:
    - Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
    Thanh niên xấc xược trả lời:
    - Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ tôi không thể tin chuyện nhảm nhí ấy, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi, hãy học hỏi khám phá mới của khoa học. Rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay, đều là những chuyện nhảm nhí.
    Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:
    - Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?
    Sinh viên nhanh nhẩu trả lời:
    - Ông cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách đến ông, rồi ông sẽ say mê về thế giới phong phú của khoa học.
    Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp, trao cho sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người ấy tái mặt xấu hổ, lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. (2)

    Thế là từ đấy họ hợp ý nhau... Đan say đắm người con gái dễ thương học tại L’Ecole supérieure des Beaux Arts de Montpellier Aggomération, tức là trường Trang-trí Mỹ-thuật Montpellier. Nàng đã đem lại ngọn lửa tình vút lên từ đôi tay Đan kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin Thượng Đế. Sau đó hai người hò hẹn đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Từ nơi quê hương nàng, anh nhớ da diết và yêu đôi mắt xanh lam, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến, thân hình nàng rất hấp dẫn, quyến rũ đã khắc sâu vô đời Đan những vết in đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến và nhớ nhung vô vàn.

    Tình yêu anh đối với nàng là một tình cảm vô cùng đặc biệt; cho dù nàng khác chủng tộc, màu da, tiếng nói, nàng chưa toàn vẹn hiểu Đan sâu sắc, hoặc hồi đáp lại Đan điều gì khao khát từ trong tư tưởng như anh mong đợi. Nhưng với hai người thì mối tình ấy khá hồn nhiên gắn bó, chân thật, trao nhau hết tình. Bên nhau trong ngôi biệt thự xinh xắn của cha mẹ nàng ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu ki lô mét về hướng Tây Nam. Họ trao nhau tình yêu mặn nồng đầy thắm thiết ái ân… Ấy thế mà cuối cùng trong thành phố Lyon... chàng và nàng cùng cậu con trai tí hon đã đồng thuận chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu:
    Em là gió thổi qua dòng sông lạ
    Và thuyền ta chìm giữa đáy tang thương
    Em là sóng ta bạc đầu trắng xóa
    Bọt bèo ta trôi mãi giữa vô cùng. (3)

    Dù rằng tình yêu ấy đã từ đôi tay nầy ân cần chấp lại khẩn thiết cầu xin ơn trên ban cho anh; thì nay cũng từ đôi tay ấy đã mọc cánh vút xa bay trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng, rồi trở thành đau buốt. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur" (mưa ngoài trời (phố) giống như mưa trong lòng tôi). Mà thôi: xin hãy qua đi! xin hãy quên đi! xin cho bình lặng tâm hồn. Đan không muốn nhắc đến tên nàng, dù vô tình anh đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” anh càng đau đớn vậy. Vì Đan yêu me của mình hơn bất cứ ai, anh không muốn mẹ đau khổ buồn phiền, bởi vì me cổ kính đã rớt nước mắt rất nhiều ngày đêm... khi me biết cô sinh viên đoan trang và anh thư ấy là đầm. Rồi có một ngày em & anh sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ trong giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm mẹ con em nhe. Chúng ta hàn huyên tâm sự cho bỏ những ngày trống vắng chia xa, mình sẽ tìm thấy nhau nơi giấc ngủ bình yên muộn màng. Em ơi:
    Mơ ước nhỏ nhưng sao không hề dễ
    Bởi anh đi, đâu hứa hẹn ngày về
    Nghĩ tới em lòng anh lại tái tê
    Vì trách nhiệm nặng nề anh đang gánh
    Giữa đêm khuya trên ngọn đồi cô quạnh
    Nghĩ đến em là hạnh phúc tuyệt vời (4)

    Đan học xong lớp second = đệ tam, lớp premire= đệ nhị, anh thi Tú Tài I (Baccalauréat Premiere Partie). Đỗ Tú Tài phần I xong, anh chọn Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentales) và Toán (Mathématiques Élémentaires). Học hết class terminal, đậu Tú Tài II hạng ưu. Nhứt là vì từ thuở nhỏ anh yêu con đường binh nghiệp, như Nguyễn Công Trứ, đã nói: " Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây. Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể". Anh từng tu nghiệp Pháo-binh ở Châlons-sur-Marnes (Pháp) và Fort Sill (Hoa Kỳ). Anh bảo: “nếu anh không nổ lực cố gắng, kiên trì trong công việc đến khi có kết quả, thì anh sẽ không thể thực hiện được lý tưởng hoài bão, ước mơ cuả mình”. Sau bao năm học hành rồi thành đạt vinh hoa, Đan trở về quê nhà mong đem chút kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu ra giúp đời. Thế rồi giờ đây… ngày nầy qua ngày khác, Đan vẫn soi chiếc bóng cô độc chao đảo khi tỏ khi mờ trên dòng suối lờ lợ đục:
    Đêm đóng quân trên tiền đồn hẻo lánh
    Sương mịt mù mang hơi lạnh tái tê
    Kỷ niệm xưa ở đâu bỗng chợt về
    Rồi rõ nét với đê mê ngọt lịm
    Tôi thấy em trong áo dài mầu tím
    Màu tím hồng của những cánh hoa sim (2)

    Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần vắt qua sườn dốc, khi đám mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá, nước chảy róc rách trên lưng đồi Minh Long suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa, nghe tiếng đạn đan chéo suốt đêm ngày trên quê hương điêu tàn, đổ nát, là vô tình vết thương đậm sâu không trông thấy vẫn nhói buốt đau đớn trong lòng Đan. Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm nhức nhối tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia, giờ rụng đi từ đôi mắt Đan sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Hạnh phúc xưa bé nhỏ liu riu bất chợt thoáng qua mau, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt nơi sơn khê ngun ngút dặm ngàn. Đan thầm tự hỏi lòng: “Mình có thể thay đổi tình yêu xưa, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu nó sẽ dễ thương trùng hợp đáng yêu; như thế, hoặc hơn thế nữa”!? Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?".

    Đan đắm mình trong khí ấm đầu mùa Hạ vuốt ve, thu hút ong bướm từ mật ngọt và hương hoa, có tia vui hào quang dọi sáng, có khúc nhạc nên thơ êm mát, gió núi trong lành lao xao nét tình quê xanh thắm thoảng lại. Tiếng nói của Hoà hôm trước văng vẵng đâu đây, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vô tâm tư Đan cô lẽ, như những giọt mật tròn, mật đắng, đắng không thể tả. Đan thầm nhũ với lòng mình: … mà nè Đan, biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực đối với cô gái Đà Lạt dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống không? Anh mến Hoà từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình, Đan sống giữa chốn núi rừng Minh Long nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, dày vò, âu lo.

    Nhưng Đan không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ ngồi trầm ngâm, lặng lẽ ngấm ngầm suy tư dưới gốc đại thụ mọc đủ mọi thứ lộn xộn: măng le, tre, nứa, giang, dây leo không tên um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có vài con đường mòn đất nâu láng trơn len lỏi đã trũng xuống cận dòng suối đỗ dồn. Bốn bề núi đồi hoang vu bao bọc, hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ. Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh xác xơ lắc lư gió táp mưa gào. Rừng sậy già rậm rịt um tùm lô xô thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù cong cong, giống đuôi con sóc leo trèo trên cây sấu vàng ửng tàng lá tỏa rộng bay xào xạc trong gió. Ở đây toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo, mịt mùng. Núi. Rừng. Đồi. Suối. Ao. Đầm. Cỏ lướt cỏ cây đan cây, cành đan cành, lá đan lá chằng chịt. Vượn hú kêu đàn thảm thiết buồn bã, những con quạ mình to đen bóng xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu, nó ngóng cổ hoác miệng kêu "quạ! quạ!" Quạ gù gù lưng cúi cổ nhảy từng bước cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò:
    Tiếng chim gù gọi trưa hè say nắng
    Em về đâu, chiều rớt lại bên sông
    Tôi ngơ ngác tìm em hoài chẳng thấy
    Vòng đời quay thời khắc cũng bềnh bồng (3)

    Không hiểu từ ở đâu, nước từ thượng nguồn dội xuống khe suối rộng xuôi chảy, ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Ôi! Phong cảnh nơi đây tuyệt diệu… nhưng vô số muỗi, ruồi, vắt, ve, ưa búng mình bò lên hút máu. Một phía bên kia suối nước bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ giống màu đỏ sông Hồng trôi lặng lờ trên xứ Quảng. Thấy mà ghê hồn, cảnh vật nơi đây hoang vắng u buồn, Đan sống những giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi, gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung, buồn thương da diết vệt nắng rải sau hè rực nét tình xưa.

    Chiến tranh vỡ bung ra nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước thuộc lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tuy nhắm mắt lại, Đan vẫn thấy đóm mắt hỏa châu thả xuống đỏ rực góc đồi, giao tranh bi thiết bàng hoàng kinh dị. Nơi nầy cường độ hung hăng chém giết lên tột đỉnh, tàn ác xâu xé cuồng loạn nhứt (ghê gớm hơn cả cảnh Mục Liên Thanh Đề đi thăm điạ ngục). Nhớ một chiều kia Đan chỉ huy mấy quân nhân đào những hố trũng sâu, mỗi hố cách xa nhau hơn 4m, sau đó ngụy trang cẩn thận những cây chà gát trên miệng hố, rải lớp cỏ tranh dày phủ lên những cây chà che hầm hố, để chống chiến xa việt cộng. Vậy mà tiếng mưa trái muà đỗ trên lá rào rào không thể xóa nhòa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Pháo-binh gục xuống hố cá nhân, anh giống thân cây kiền kiền bị đốn ngã, khi đại liên 12 ly 7 quạt rát bỏng ù tai, làm tan nát đớn đau lòng anh.

    Đấy là lần đầu tiên trên đường binh nghiệp Đan giương to đôi mắt kinh hoàng chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật từng cơn hấp hối. Đan cảm thấy toàn thân nóng rang, phừng phưng luồng khí nóng phẫn nộ dồn lên mặt, nước mắt tiếc thương bạn ứa ra khoé mi lúc hai hàm răng Đan nghiến lại. Trước khi chết chẳng hiểu tại sao bạn ấy ngáp rất nhiều, ngáp hoài ngáp mãi, sau đó từ từ ngáp chậm lại, rồi cách năm bảy phút, vài phút ngáp anh ta mới uể oải ngáp một lần, cơn ngáp nấc nấc lên thưa dần, lâu dần rồi tắt lặng, yên ắng hẳn. Bạn ấy đã xuôi tay vĩnh biệt chấm dứt cuộc sống. Ấy là lúc ranh giới thiêng liêng cuả sự sống và cõi chết đã thực sự đối diện, khốc liệt, tàn nhẫn, lạnh lùng chạm trán nhau gay gắt kinh hoàng đau buồn tột độ. Dù ranh giới mỏng như tơ nhện, mà không ai có thể giơ tay ra dùng dằng níu kéo tích tắt thời gian vắn vỏi, ngỏ hầu phân định rõ ràng biên giới âm dương về một mạng người. Hai thế giới & một kiếp người đã hoàn toàn phũ phàng đóng ập lại. Hai phân giới vô hình nhưng minh định rõ ràng không thể va chạm vô nhau, dù chỉ qua một lằn ranh vô cùng mong manh như sợi tóc!

    Hằng ngày Đan chạm trán va mặt với chiến tranh gian nguy, cực nhọc buồn lo thì cường độ đớn đau tăng mãi trong đời, Đan cúi đầu đón nhận tang thương người khác rồi chua xót vò xé, anh nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng mà Đan cố nuốt vô lòng. Dần dần cũng quen với bối cảnh tàn khốc ở hiện tại, nhưng cục sạn không trôi xuống bao tử, mà cứ uất nghẹn trên cuống cổ, rồi dội ngược vô tim, chạy lên đầu óc anh đau buốt, đầy thống khổ, như xác định mình hiện hữu. Đan tha thiết mong đóng góp một phần đời bé nhỏ cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư, chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân lù đù chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng đang trào máu mắt!

    Trăng lá mít mảnh dẻ nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục, như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ trên không trung. Cơn mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch trơn, đã bóng mướt dưới ánh trăng bàng bạc chiếu lung linh. Tiết trời miền núi vẫn buốt giá do sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá lóng lánh ướt sũng ánh trăng. Ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, họ xuýt xoa hà hơi chà đôi bàn tay vô nhau cho ấm chút xíu. Từng giờ, từng đêm, họ khều nhau đổi phiên gác canh thâu. Dẫu vậy họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính miền Nam Việt Nam, thân thể họ rạo rực dưới sức lôi cuốn theo tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy, coi vô-tư-lự tươi trẻ hồn nhiên như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang và đầy bụi đỏ dặm trường. Những người lính trực chiến trên chiến trường không ai khác hơn chính họ trực tiếp đương đầu với chiến cuộc!

    Cho dù danh nghĩa “đơ dem cùi bắp” nghe vừa tức cười trong cái quê mùa cục mịch nông thôn, đồng ruộng, lại càng có vẻ như giễu cợt người lính cà tàng thấp cổ bé họng; thật tội nghiệp làm sao ấy. Họ là những con tốt thí thân trong cuộc cờ chiến tranh nhiễu nhương phức tạp. Cấp trên cũng không thể đoan chắc rằng không có người lính nào bị thương, hoặc tử thương khi xung trận. Vậy thì để bảo vệ chính thân và đồng đội, chính quân đội ấy phải xã thân - vì quê hương và dân tộc- đã hiên ngang oai dũng bước thẳng tới trước. Họ vẫn biết rằng: thân phận một người lính khi trở thành thương phế binh thì ví như đôi giày đinh bị hư nát mất một chiếc, chiếc giày đinh còn lại người lính ấy sẽ phải tiếc nuối phế thải vứt đi. Thế là không còn lính hợp quần gây sức mạnh, thì dù danh tướng chỉ huy có tài ba cách mấy, nếu không có quân, chắc chắn ông ta chưa thể làm nên đại sự!

    Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng, anh đi một vòng thị sát đến từng điểm gác di động kép. Cứ hai người đi lui đi tới gác chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gác đêm, họ giăng rộng đôi chân ra, giữ thăng bằng thân mình trên đôi giày đinh sờn cũ bám bụi đất. Cấp chỉ huy đối với lính cần có sự dung hoà, tha thứ, yêu thương, tận tình hướng dẫn tỏ tường, cho thuộc cấp ôn luyện, học tập hoài gần như nhắc nhở thấu đáo về cơ cấu và thể chế quốc gia, đồng thời cấp chỉ huy nghiêm minh thi hành quân kỷ, nếu thuộc cấp phạm kỷ luật! Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi. Đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gác cẩn mật ít nhứt vài ba giờ. Cơm không kịp ăn, không có nước uống. Ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai.

    Mỗi đêm dài hiu hắt nơi rừng sâu nước độc, Đan rất thương anh em quá gian khổ, "tiền lương lính tính liền" vô tay nầy ra tay kia, quá hạn hẹp! Thật chẳng xứng chút nào so với trách nhiệm nặng nề và bổn phận mà người lính cưu mang. Anh đến với họ lúc người lính cô đơn ôm súng gác giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo & u ám. Thỉnh thoảng Đan đưa quà tận tay mấy chú lính, ân cần sẻ chia chút ngọt bùi ấm áp tình người. Không phải họ qúy mến anh vì khúc bánh mì, vì ca nước nóng. Mà, do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu Đan có tư cách, bao dung, từ tâm, và độ lượng. Do Đan chí tình thương yêu cảm mến lính, anh tự xích lại thân thiết với thuộc quyền, không phân biệt giai cấp. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, thấu hiểu, gần gũi, gắn bó, chia sẻ, an ủi và thắt chặt tình đồng đội càng thắm thiết hơn.
    Thôi thì xin các anh hãy cùng em Hòa chia nhau chút niềm vui với cỏ cây thác ngàn ở chốn sơn lâm cùng cốc nhe anh:
    Hoàng hôn tỏa những tia nắng nhạt.
    Đường em đi bóng mát cây dài.
    Nắng xiên trên hàng hoa lác đác.
    Mặt hồ xưa lóng lánh mây bay.

    Nỗi niềm riêng xôn xao gợi nhớ.
    Tình yêu đời hoài vọng ước ao.
    Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
    Mùa Đông qua, Xuân mới bước vào.

    Hàng thông xanh im mờ phủ bóng.
    Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ.
    Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
    Lá sầu đông tê tái phất phơ.

    Thác ven rừng uốn lên chảy xiết.
    Nước rẽ dòng thương kẻ chia ly.
    Đường về quê nhớ phút phân kỳ.
    Mối tình tựa ngấn sương tiễn biệt.

    Mộng đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
    Nhạc gieo tình cọng cỏ tơ vương.
    Dưới ánh trăng lá cỏ ngậm sương.
    Sương rụng ướt cỏ đường đêm vắng.

    Cỏ ngậm sương nở hoa trăng trắng.
    Tình thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
    Nghê Thường hãy tấu khúc đêm nầy.
    Sương tưới cỏ đời thêm tươi mát.
    *
    Tình Hoài Hương


    (1) Khuyết Danh
    (2) sưu tầm
    (3) Lê Văn Trung
    (4) Trương Trọng Kiên
    (5) Thơ Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. The Following 3 Users Say Thank You to Tinh Hoai Huong For This Useful Post:

    BachMa (08-30-2020), KiwiTeTua (08-30-2020), Phạm Văn Bản (08-30-2020)

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Góc Thơ Tình Hoài Hương
    By Tinh Hoai Huong in forum Trang Thành Viên
    Trả lời: 419
    Bài mới nhất : 09-06-2020, 04:02 AM
  2. Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 273
    Bài mới nhất : 09-01-2020, 10:31 PM
  3. Góc Thơ lytamhoan
    By lytamhoan in forum Trang Thành Viên
    Trả lời: 287
    Bài mới nhất : 08-23-2019, 04:06 PM
  4. Góc Thơ VUI Tình HOÀI HƯƠNG
    By Tinh Hoai Huong in forum Vui cười
    Trả lời: 136
    Bài mới nhất : 08-22-2019, 06:04 PM
  5. Qua Góc Phố Xưa
    By saomai in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-02-2019, 06:18 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •