Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 8

Tựa Đề: Góc Truyện Dài *Tình HOÀI HƯƠNG *Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn

  1. #1
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Góc Truyện Dài *Tình HOÀI HƯƠNG *Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 1
    Đời Lên Hương


    Tết Nguyên Đán lại tưng bừng trở về trên thế trần rồi đó ư? Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao hớn hở hân hoan đầy ân tình gởi cho nhau quà giáng sinh, kế đến là mừng năm mới Dương Lịch với cánh thiệp nồng ấm thắm thiết tình người. Thú vị quá! Đối với Hiếu Hòa thì ngày Thanksgiving, Christmas, Noel… no iết, hay Tết Nguyên Đán nguyên iết gì gì đó... không còn nữa, như Nhất Tuấn với bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" mà cô rất thích:
    . . . Mới bốn mùa Thu qua
    Mimosa, Mimosa, vẫn nở...
    Sao mối tình đôi ta,
    Ai làm cho dang dỡ?
    Đêm nay Noel đây,
    Nhưng em không về nữa.
    Ðường khuya mưa bay bay.
    Mimosa, Mimosa, thôi nở…
    Trong hồn anh đêm nầy…
    Tháng ngày thấm thoát trôi qua mau, như bóng chiều câu qua song cửa, cho mình nếm trọn đủ nỗi cay đắng, niềm đớn đau thầm lặng cùng cực buồn nhớ, khiến Hoà chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây... Hồi nhỏ bé, trước thềm năm mới xa xưa ở thành phố khá lạnh xứ Đà Lạt, Hòa ưa theo ba má đi khắp nơi chúc tết chú bác dì dượng họ hàng. Cô nhỏ thích có nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, dù không biết xài tiền, nhỏ cất tiền lẽ trong bóp cái đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, nhỏ vui mừng khấp khởi tới khoe bạn trẻ, xem ai có nhiều tiền hơn ai thôi. Hiếu Hòa vui vẻ tụm năm tụm ba với bạn, niềm hạnh phúc ấu thơ là xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai bé lủng lẳng bông vàng lắc lư theo từng cử động vui mắt. Đêm đêm nhỏ nằm mơ cô hái hoa bắt bướm lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ.

    Rồi tháng năm qua dần... cô em lớn lên với tà áo hoa màu rực rỡ, thời mới lên trung học cùng bạn lượn quanh phố chợ, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng bạn với ta phơi phới nét xuân thì. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay quá đỗi là mau. Nay, nắng mùa Đông sót lại nét hoen sầu rả rích từng giọt mưa phùn bay bay trên phố Đà Nẵng, điệu buồn êm nhẹ hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Hòa thấy nhớ những cánh thiệp tươi màu còn cất ở dưới đáy va ly, cô muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Ở tình bạn cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, xa xăm, lẻ loi khôn tả. Cuộc đời Hòa như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông bao la bát ngát. Còn con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả bạn và người thân từ từ xa (như con tàu chỉ dừng chân lại trước thềm lục địa, tạm nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng họ tươi cười thản nhiên về sự phản bội đó. Rồi con tàu lặng lẽ nhổ neo ra đi). Hòa không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu, mà buồn làm chi. Do vậy tình bạn có phần dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều cất lên bên sườn đồi, dưới giàn hoa thiên lý kế rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo… muốn đặt nơi nào cũng được, không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ phai lạt, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ cần thiết!

    Buổi tối cô ở nhà anh chị Thương, (vì nhà ba má quê Mỹ Chánh đang lộn xộn, không yên ổn, cô sống nơi đó chẳng tiện). Hòa kinh ngạc khi nhận được thiệp của Phú, Đông, chị Hạc. (Phú giới thiệu Đông gởi thư cho mình theo kiểu bạn bốn phương, vì cô không hề quen biết Đông). Thật quá lạ, Phú nghĩ gì về tôi? Tự thâm tâm cô có nhiều điều đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hòa không nhớ mấy về ai, và quên mất mình đã quen thân Phú. Mừng rỡ cầm mấy phong thư vô phòng, Hòa ngồi lên giường mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn xong, anh đã nhập ngũ, nay làm việc tại ven biên tỉnh Khánh Hòa. Đi nghỉ phép ở Đà Lạt, Phú đến thăm chị Khánh, và xin điạ chỉ Hoà.

    Thoáng thời gian ngắn ngủi qua mau, Phú có biết bao thay đổi, đầy hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẻ, hai bàn tay trắng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn. Hòa thấy có cái gì sắt cạnh đâm sâu trong lồng ngực vỡ vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia Hòa tưởng là không có ai có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy. Thuở xa xưa ấy gặp Phú, quen Phú, trái tim cô như cuộn giấy trắng tinh, chưa thâu nhận bóng hình ai. Thấy Phú đẹp trai, phong nhã, đa tình, và sao mà anh lãng mạn, lả lướt quá đi! Hòa sợ. Vã chăng, nói cho cùng thì lúc đó cô đã có cảm tình thân thiết với “cố nhân”. Không! Hòa chẳng muốn nhớ đến “tên ai”, dù kỷ niệm nhỏ nhặt gợi lên hình ảnh đẹp trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái trước ngưỡng đời mệt nhoài, hụt hơi đắng cổ đến bây giờ.

    Mùa Đông xưa trôi tuột về dĩ vãng mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian chìm sâu từng ngày, từng ngày… vào ý niệm. Hòa từ Đà Lạt xuôi qua mọi miền, đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng, về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang, ra tới Bến Hải… Có thể suốt đời mình vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm dịu êm một thuở vàng son. Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ vẫn theo cô đến chân trời góc bể, nơi Hòa đã sống, vui buồn, mòn mỏi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hoà âm thầm, nhỏ bé như loài hoa cỏ may mọc bên lề viả hè trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm một thuở ru tình... Do vậy cô rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại trong đó có câu:
    Nửa bước em về chiều nay tư lự.
    Nửa bước em về ngày xưa tháng cũ.
    Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
    Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
    Thơ anh bỗng buồn viết mãi không nên
    Chiều cũ ven mưa phố lạnh lên đèn
    Tình yêu bây giờ làm sao xa cách?
    Tình yêu bây giờ buồn thế sao em?

    Cô Ba Thu năm nay ngoài năm mươi tuổi, sinh tại Hà Đông (miền Bắc) vóc dáng cô Thu mập ơi là mập, lùn xủn; cô siêng năng chăm chỉ lo làm ăn buôn bán, nên cô hái ra tiền. Cô hoạt bát, nếu không muốn nói là hơi quá lanh miệng dẽo mồm. Bạn thân thiết của cô Thu là cô Nga (suýt soát tuổi bạn, cô sinh ở Phát Diệm) thì ốm nhom, cao lêu khêu. Hòa ít khi nghe cô Nga nói cười, cô kín đáo siêng năng mà lặng lẽ. Sáng sớm mỗi người đi bán một ngả, người bán chợ Cồn, người bán chợ Hàn, tối họ về ở chung một phòng chật chội, ngủ cùng một giường. Họ bán những thứ hàng tạp hóa giống nhau. Chẳng bao giờ Hòa nghe họ ồn ào, bực bội nặng nhẹ to tiếng cãi cọ. Hai bạn già (“còn tơ” chưa bao giờ có chồng, nên cả xóm thân thiện gọi họ là cô) họ suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, mà thuở ấy Hòa chưa từng nghe người khác gọi họ là “lesbian”, “bóng biết, lại cái” chi cả! Họ là hàng xóm sơ giao của chị Huyền.
    Hôm nay bỗng nhiên cô Thu qua nhà chơi, cô nói nhiều chuyện vui thật vui, rồi cô vào đề: xin chị Huyền cho Hòa đi phụ cô trông coi cửa tiệm vào tháng Tết. Cô cười:
    - Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẩy! Chị đồng ý cho em Hòa ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
    Chị Huyền nhìn em cười nói:
    - Em tôi chưa đi học, nếu giúp cô Thu, cũng hay, em ha.
    Hòa đã ỏn ẻn mỉm cười đồng ý. Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc, người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô Thu và Hoà bận rộn suốt từ sáng đến tối bán buôn không ngơi tay, nhưng Hòa cảm thấy vui, không phiền hà‎ khi hoà mình theo lòng phố thị huyên náo. Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít bán hàng không ngừng tay, bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều thì hai chị em mới có thể nghỉ ngơi xí, họ chia phiên nhau vô góc tiệm ăn cơm, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến từ lúc mười một giờ, thức ăn bây chừ đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Hòa ăn chẳng thấy ngon lành, vì mệt quá.

    Ngày thứ hai trước khi đi làm, Hòa ghé tiệm ảnh Phụng Ký lấy mấy tấm hình. Ngày thứ ba, hai chị em rảo bước trên phố thật sớm. Hòa mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít đen. Má đã mua cho con đủ mọi thứ cần thiết từ đồng tiền lao nhọc của mẹ cha. Vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn không có năm bảy lần được mặc áo mới đẹp nhứt, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười vu vơ, không nhỉ? Tiệm của cô Thu đông nghẹt khách mua hàng, Hiếu Hòa đứng sau quầy niềm nở cười cười, bán bán, trao trao.
    Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, cô chợt nhìn theo mãi chàng trai ngồi sau chiếc Velosolex do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vô tiệm, họ cười hoài. Hai chàng cứ... “liếc mắt đưa tình” húc cùi chỏ cười đùa với nhau. Họ chưa dám dựng xe để vô trêu ghẹo con bé áo tím. Mặc cô Thu đon đả mời chào, và cô ấy sẽ nói huỵch toẹt ra, nếu ai có ý “lả lơi chọc ghẹo” Hòa, khiến khách đỏ mặt mà xéo bước mau. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì!
    Thanh niên ngồi sau lưng bạn có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, làn da trắng trẻo, đôi mắt anh sáng ngời đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn với hai má lúm đồng tiền sâu hoắm, chiếc răng khểnh khép nép bên khóe môi phớt hồng, anh có nụ cười tươi mát đến ngã lòng người. Ah! anh có dáng dấp khá giống Phú ở nụ cười có hai lúm đồng tiền! Anh nhìn Hòa đăm đăm và quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi! Cuối cùng dựng xe trước cửa tiệm, họ vô mua bốn hộp mứt, hai lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, ba chai rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Năm dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Mười áo thun trắng, mỗi cặp có màu khác nhau, quần sọt cũng vậy.

    Trong khi Hòa gói hàng, cô Thu loay hoay soạn mấy cái giỏ xách nhựa mới, hào phóng tặng cho họ mang mớ quà cồng kềnh về. Chờ Hòa ngẩng lên, “chàng thư sinh Bắc Kỳ” đẹp trai ấy lại khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, anh đá lông nheo "kịch kịch" với cô em vài ba cái, anh mới chịu khệ nệ bưng hàng hóa theo bạn ra về. Ơ hay! Anh lại gật gật gù gù nheo nheo mắt ướt vẫy vẫy tay chào thân thiết. Hai chàng to nhỏ điều gì, lại khúc khích cười cười mãi nữa kìa! Hòa mắc cỡ, hai má nóng bừng, cô vội vàng cúi xuống tủ kính, giả vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Hòa "không có đồng tiền bát gạo nào" làm sao dám khoe với ai! Hòa thấy vui khi tối hôm ấy cô Thu qua nhà chị đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
    - Em Hòa giúp tôi mấy hôm nay, thú thật là em đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi sẽ trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, thì mỗi ngày một trăm, vì em sẽ thức khuya bán chợ đêm Tết, về nhà rất muộn. Ăn uống tôi lo hết. Vất vả đấy nhá. Ra Giêng, nếu em còn ở nhà, thì giúp tôi bán hàng, tôi đưa em mỗi ngày ba bốn chục thôi, tùy ngày bán được hay không, vì tháng Giêng là tháng “ăn chơi” sẽ ế ẩm mà lị. Chỗ chị em, tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hòa không giận tôi nhá.
    - Em vừa ở quê vô đây... lưng chừng ngày tháng, chưa biết đi học lại ở trường nào, nên giúp cô cho vui, tiền nong gì. Cô Thu.
    - Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? em Hòa có duyên bán hàng ra phết nhé, tiệm tôi đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu mua đồ, chả mặc cả kỳ kèo gì sớt. Buôn bán, tôi chỉ trông chờ có khách xộp điệu nghệ thế chứ. Tôi có nhờ hai cậu ấy ra Giêng đến mở hàng khai xuân đầu năm. À, chị nhớ cho em giúp tôi một tay nhá.
    - Tùy em tôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
    - Ối dào! Em cứ đi làm cho vui mà có tị tiền còm, chờ tới lúc em đi học lại, không phải tiện và tốt sao?
    - Chị nói có lý. Tôi sẽ nói em suy nghĩ, sẽ trả lời chị sau.

    Liên tiếp mấy hôm sau, hai anh kia vẫn thả bộ trên phố, rồi họ vô tiệm cô Thu mua cái nầy, cái nọ. Có lần “chàng đẹp giai” nhờ Hòa chọn hộ cà vạt. Hòa biết anh ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình nào có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua anh muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi. Hòa thấy sợ! Mặc dù quen họ với tính cách là người khách mua bán hàng. Có thể chỉ là bạn, hay là anh trai hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống, không thể đi xa hơn. Hòa như con chim non lìa đàn sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh, sợ cơn đau buồn điếng lặng khác ập đến, thì tình cảm sẽ tổn thương biết mấy.

    Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình anh ấy thơ thẩn solo trên phố, dường như cố ý chờ đợi ai. Sau đó vô tiệm, anh phụ cô Thu treo đồ đạc khách chê, đã vất bừa bãi trong góc phòng. Dù một hai giờ khuya, anh vẫn chờ cô dọn dẹp xong, anh mời hai chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa" khỏi chi địa, là cô Thu khoái khẩu, vui vẻ nồng nhiệt tươi tắn hân hoan hẳn lên. Chuyện gì cô cũng tốt, nhưng việc tiền nong thì: "tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cổ chày ra nước mà lị". Cô Thu vẫn nói thế với ông chủ cho cô thuê nhà mà. Có người khách không mời bỗng dưng đêm đêm đến giúp một tay, cô Thuận khoái tỷ vì chả mất tiền công, anh lại khỏe mạnh, nhanh nhẹn, xốc vác khá được việc.
    “Ảnh” còn hào phóng mời hai chị em nhiều bữa ăn tối, ăn khuya… hậu hĩ quá chừng. Họa có điên hay sao mà cô Thu không nhận lời chứ. Chuyện trò vui vẻ hồn nhiên "thái mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô Thu cũng mời lại "con người tốt bụng ấy" tô bún bò giò heo, tô hoành thánh mì, chén chè, dĩa xôi. Vã chăng, cô Thu nhận thấy nếu cứ làm cái trò tình vờ phớt lờ… muối mặt ăn hoài của người ta, như ngầm ngầm lợi dụng chàng trai “dại gái”, cũng kỳ kỳ, ngượng ngùng bẽn lẽn sao sao ấy! Hiếu Hòa đi theo họ vào tiệm ăn như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi thân mật chuyện trò với ai, khiến cô Thu nhăn mặt, ghé miệng qua tai Hòa nói nhỏ:
    - Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ. Chả biết.

    Vì phép lịch sự, Hòa vờ lắng nghe anh ấy giới thiệu tên, nhưng thật tình nhỏ không nhớ rõ anh tên gì. Hòa nhút nhát rụt rè không dám hỏi lại, e bất lịch sự, sợ anh nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Trời đất ơi còn cô Thu chê em là con nhà quê vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó sao? Thế, cô tưởng em còn "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ ấy chắc? Hòa ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô Thu ân cần nói:
    - Cậu Toàn Thắng là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn. Em nên vui tươi nhã nhặn một tị nha. Suốt buổi ăn em cứ xụ mặt xuống, trông thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!

    Hôm sau quên lời cô dặn, Hòa vẫn buồn xo, lặng thinh, nên cô Thu nhích tấm thân phì lũ lết đít gần tới bên Hòa, cô khẽ húc một cái vô hông Hòa. Giật mình, Hòa vội nhăn răng ra cười rõ tươi. Trong khi anh đang bình luận chuyện thời sự, chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui, để cho em cười như reo thế. Ngạc nhiên, anh im bặt nhìn Hòa đăm đăm. Có lẽ anh nghĩ cô nhỏ nầy có dòng máu lãng lãng, khùng khùng, điên điên, chi chi đó nhỉ!? Cô Thu liền quay qua Hòa, lén thò bàn tay mũm mĩm xuống gầm bàn, dùng mấy ngón tay mập ú bấm bấm cào cào vô bên đùi Hòa, khiến em cảm thấy nhột nhột đau đau, nhưng không dám nhúc nhích, hoặc cười ruồi. Cô thì thầm:
    - Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
    - . . .
    Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ những ụ rác to tướng, họ đem đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, hân hoan nồng nhiệt vui vẻ đón chào năm mới cổ truyền khá tưng bừng háo hức, trên những cành mai vàng tứ qúy nở hết cánh đẹp ơi là đẹp. Giao thừa và Tết Nguyên Đán lại đến. Bây giờ là ngày mồng hai tết, Hòa ghi tên dự thi hoa hậu, do Sư Đoàn 2 tổ chức tại hội chợ "Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ" bên Sơn Trà. Vì Hoà còn quá nhỏ tuổi, nên anh Thương (chồng chị Huyền) bắt em phải chạy xuống nhà anh Thuận ở đường Đống Đa, để anh trai ký giấy chấp thuận cho phép em đi thi (như ban tổ chức tại Sư Đoàn 2 yêu cầu).

    Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng cuồn cuộn như vũ bão, khi lả lướt êm đềm nhẹ nhàng lâng lâng như mây khói sương lam. Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa đầy rung cảm, tạo thành âm điệu trầm bổng tuyệt vời, do ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, đã phủ chụp lên tâm hồn cô nhỏ vốn đa cảm, những dòng âm thanh rì rào, lâng lâng, ngất ngây, táo bạo và run rẩy. Sự tưng bừng huyên náo nầy khuấy đảo lên tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hòa phập phồng bối rối, băn khoăn, âu lo. Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, còn có năm người bạn mới, cũ, cùng khán giả đông nghẹt nồng nhiệt cổ võ, thì Hòa vững tin cố gắng hết mình.

    Khuôn mặt Hoà để tự nhiên không hề biết dùng chút phấn son trang điểm, xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buôn làng Mnông rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nhiệt liệt hoan ca rất nhiều. Sau vũ điệu tưng bừng sôi động giật gân, Hòa phải hát một bài tự chọn "Nắng Chiều" của Lê Trọng Nguyễn. Vì khá mệt trong điệu nhảy "hùng hồn" mà hoang dại, nên Hòa vừa ca vừa thở, nghe dỡ ẹc. Đồng thời em phải trả lời năm bảy câu trắc nghiệm vấn đáp hóc búa, cùng các thích ứng thông minh mau lẹ khác. Hiếu Hòa lo mình kém tài, sẽ gây nên cảnh lố bịch đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói; sẽ hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy!

    Đứng trên sân khấu có 84 vị xinh như mộng, tươi như hoa đang dự thi. Tất cả chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Họ và Hòa đã vượt qua vòng sơ kết. Rồi đợt hai còn bốn mươi cô lọt vô vòng bán kết. Đợt ba có mười lăm người may mắn vô vòng chung kết. Những ai bị loại bỏ thì buồn xo, len lén cúi mặt lủi thủi bẽn lẽn đi xuống. Số người còn nuôi hy vọng được đứng lại trên sân khấu, thì reo hoan tươi cười ôm nhau nhảy tưng tưng, giống trẻ con ghê, mặc dù cô nào cô nấy từ mười lăm đến “hâm” đi hâm lại xấp xỉ tới bâm mí tuổi rồi. Những cô còn đứng trên khán đài đã được ban điều hành mời họ qua đứng hai bên cánh gà tả và hữu. Hòa hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ ngày đầu năm mới mà bị ném cà chua, liệng trứng thối, bị xịt nước dơ đuổi xuống khán đài, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm chứ chẳng chơi.

    Còn lại hai cô kia và Hòa là người cuối cùng đứng giữa khán đài rộng mênh mông. Giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Cuộc đời Hiếu Hòa dường như thăng hoa, từ khi đại diện ban giám khảo đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi, băng trôn đeo hàng chữ Hoa Hậu Cây Muà Xuân Chiến Sĩ. Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhứt, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay, năm ngàn đồng tiền mặt, do Đại Tá Lâm Văn Phát trao tận tay. Số tiền khá lớn, (khi lương lính bấy giờ một tháng chỉ có 1.200$).

    Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Lòng hân hoan vui vẻ kinh khủng, Hoà mừng rỡ không thể tả nỗi. Mọi người ùa đến chúc mừng, bất kể lạ hay quen, họ chen lấn nhau đứng bên nhỏ xin chụp ảnh chung. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn quen phải nhảy lên sân khấu đứng gần Hòa, đưa hai tay ra che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim cô bừng sống, bay lên tận mây xanh, Hòa cười liên miên, vui mừng, luôn miệng nói cảm ơn mọi người đã gởi đến Hoà lời ưu ái chúc tụng nồng nhiệt. Ồ! Định mệnh đã đưa đến tay mình những cao qúy tươi đẹp nhứt trong đời tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không có ngôn ngữ nào có thể diễn đạt hết tâm tư Hoà mừng vui cuống quít kinh khủng. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho cô một kẽ hở vô cùng niềm nở, tuyệt vời, trân qúy, thân yêu nhứt đó mà. Hoà không biết để tri ân mà tạ ơn Ngài.

    Hòa háo hức nhón gót nhìn quanh, cố ý tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao” ấy đã đến chúc mừng vinh quang “bạn”. Lần đầu tiên, bây giờ Hòa mới có dịp nhìn kỹ anh trong bộ quân phục đại lễ mùa Đông oai hùng. Ah! Thì ra anh là lính ở văn phòng, coi anh thật lạ hơn mọi lần, chứ không phải thư sinh bạch diện như cô đã nghĩ lầm! Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên: Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ có một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn, tay anh cầm chiếc mũ casket. Bây giờ nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, Thắng đứng nói chuyện bên mấy người quen mặc cevil, Hòa thấy họ khác lạ như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Thắng gật đầu chào Hoà, cười thân ái:
    - Thân chào Hiếu Hoà. Ngồi làm khán giả, anh nghĩ thể nào em cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Anh rất hân hạnh chúc mừng Hòa nha.
    - Cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan.
    - Như anh, có ngờ đâu anh quen biết với một hoa hậu kìa.
    - Ban giám khảo thấy em tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho lầm.
    - Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thật mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, anh cũng thích tôn trọng sự thật hơn.
    - Điều đó quý lắm chớ.
    - Là thế. Mong em giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay nha.
    - Hòa cảm ơn anh nhiều.

    Thắng nhìn Hòa cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhứt đời mình đã để lại trong lòng cô tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hòa lâng lâng, xúc động, ngất ngây niềm vui bất ngờ khi bỗng nhiên mình được thành công chói sáng, hiển đạt không dám mơ. Tim Hòa rung lên từng hồi theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, muốn hụt hơi, khiến cô hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện. Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhứt là từ nay, cô có thể ngẩng mặt với đời chút xí, phụ chị ít tiền cho gia đình chị bớt khó khăn (sau ngày cháu bé con anh chị vừa mất). Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn ban tổ chức cho mở cuộc thi. Cám ơn ban giám-khảo và Sư-đoàn 2 Bộ Binh. Cám ơn gia đình chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, & bạn hữu thân quen rất nhiều.

    Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông đi theo, còn có anh em Trịnh Trần, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc, đã đưa chị em Hiếu Hòa từ bến Sơn Trà, lên phà qua sông về đến tận ngỏ nhà. Đêm bây giờ tuyệt đẹp, đêm không u sầu không hoang liêu, đêm không ủ dột không lo âu, không còn hãi hùng đau thương do chiến tranh tàn phá, không phải đói khát nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu, mà là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao lấp lánh, huyền diệu trên bến Ngân Hà. Dù không có Thắng tiễn đưa Hòa về nhà như mọi ngày từ tháng Chạp vừa qua. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn 2. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao! Đúng lúc đời Hoà lên hương, Thắng lên sân khấu ghi tặng Hòa bài thơ:
    “Dạ thưa!” người con gái khá ngoan hiền.
    Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
    Gió sớm khuya chiều viền quanh môi thắm.
    E ấp ngập ngừng đồng tâm bẽn lẽn.

    Khao khát trao em tình mến thầm hẹn.
    Ngày anh đi mây xám lén bên thềm!
    Cung đàn nhè nhẹ sáo diều êm êm.
    Chiều xuống xua bóng đêm vờn quanh núi.

    Tình tha phương với túi thơ ngậm ngùi…
    Bãng lãng gót son bụi bờ tư lự.
    Thơ người lữ thứ trao niềm an thư.
    Dẫu trăm năm xin nồng nhiệt tương tư.

    Mắt em nhìn là rung lên vạn ý,
    Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
    Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
    Tha thiết lắm. Ôi! Tình em gái nhỏ... (*)

    - Ố... ồ ô! Thì ra Hòa hân hạnh quen biết với một quân nhân thi sĩ! Vui lắm thay.
    ***


    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  2. #2
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Anh “Khanh Tướng Công Hầu” Vui Tính


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 2
    Anh “Khanh Tướng Công Hầu” Vui Tính

    Lúc vẩn vơ tần ngần nhìn đám mây trắng lâng lâng trôi trên bầu trời quang rạng, bị ngọn gió vô tình đưa mấy chiếc lá vàng bay về cuối góc đường xa xa, thì Hiếu Hòa quyết định chọn sống ở Đà Nẵng cùng với anh chị Huyền. Điều tất yếu là cô cần tìm hiểu sơ sơ qua đôi chút về phong tục tập quán nhân sinh, địa hình nơi ấy, ngỏ hầu hy vọng mình sớm vui vẻ hoà nhập vào một miền đất đối với riêng Hoà vừa lạ vừa mới.

    Khi “Liên Bang Đông Dương” Pháp ghi tên danh địa nầy là Tourane, thành lập từ năm 1888. Phác thảo sơ lược về Đà Nẵng, thì địa hình đa dạng tự tại an ngự ở trung bộ, hướng Tây và Nam giáp Tỉnh Quảng Nam. Bắc giáp Tỉnh Thừa Thiên, Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng có các Quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hoành Sơn, Liên Chiểu, Hoà Vang & quần đảo Hoàng Sa. Tuy Đà Nẵng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa khô và mùa mưa, nhiệt độ trung bình khoảng 30/o – 34o/C, nhưng không mấy oi bức ngột ngạt, vì có con sông Hàn Giang dài khoảng 7,2km chảy từ Nam lên Bắc thành phố, có biển Thanh Bình cách trung tâm thành phố chỉ vài km, & do thành phố ở bên nách sông Hàn và các biển gần & không xa, nên Đà Nẵng có phần mát mẻ dịu êm vào mỗi sáng sớm, hoặc chiều về, đêm buông.

    Đà Nẵng thuận lợi về trục giao thông, tiện đường bộ trên quốc lộ 1A & đường xuyên Việt, quốc lộ 14B nối cảng biển với Tây Nguyên: đường biển, đường sắt, đường hàng không… đều là huyết mạch từ Đà Nẵng. Nói nôm na Đà Nẵng có thể coi như là “cái rốn trung độ” của miền Trung (nói riêng) và miền Nam Việt Nam (nói chung), vì nó nằm ở vị thế chính yếu quan trọng khi đối nội, điều phối trung tâm với miền Trung, Tây Nguyên. v.v… Đối ngoại dễ dàng thiết lập đường bay với Manila, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Phillippine, Thái Lan, Đài Loan… Đà Nẵng là một thương cảng tốt, là trung tâm có cửa ngỏ thương mại vô cùng quan trọng cho cả nước Việt Nam (lớn vào bậc nhứt ở các vùng Tỉnh phụ cận), cảng biển Tiên Sa sâu, (phi cảng Đà Nẵng đứng sau Tân Sơn Nhứt, vượt trội không thua kém Vũng Tàu, Nha Trang).

    Đà Nẵng là thành phố đẹp oai sang với những ngôi biệt thự xinh lịch & nhiều toà nhà tráng lệ từ thời Pháp thuộc bỏ lại. Ven ranh có đồi dốc quanh co ở Huyện Hòa Vang xen kẽ vùng đồng bằng trù phú. Núi Mang cao 1708m, núi Bà Nà 1487m, đèo Hải Vân cao 500m. Núi Chúa, núi Ngũ Hoành Sơn cao 106m. Núi non phóng khoáng nhìn xuống tứ phương.
    Biển Nam Ô xa thành phố 17km ở Phường Hoà Hiệp, hướng Tây Bắc. Biển Mỹ Khê xa thành phố 900m, không sâu, có phong cảnh êm đềm tĩnh mịch, cát trắng mịn, nước biển ấm với hàng dừa rũ bóng, đặc biệt nơi đây có nhiều rong câu chỉ vàng, rong câu chân vịt, có loại cá Chuồn làm gỏi trứng cá, thì ngon lắm. Có nhiều san hô đẹp. Biển Tiên Sa có bờ cát mịn ở phía Bắc Sơn Trà. Biển Non Nước bao la mênh mông nằm dọc ven chân núi Ngũ Hoành Sơn, có rặng phi lao ngày đêm lao xao theo tiếng rì rào sóng vỗ bờ trong thiên nhiên hữu tình. Biển Mỹ An xinh xinh nho nhỏ ở Quận Ngũ Hoành Sơn.

    Đà Nẵng có nhiều di tích, cảng sông Hàn Giang, Liên Chiểu, sông Túy Loan, sông Cu Đê… Nhà thờ, chùa chiền, am tự, v.v... di tích lịch sử dân tộc Chăm… Tất cả những gì thuộc về Đà Nẵng đều độc đáo, thi vị, duyên dáng nét đặc thù nên thơ riêng! Nổi bật nhứt là các doanh trại… trong số đó có Sư Đoàn 2 Bộ Binh (2nd Infantry Division) được thành lập vào ngày 03 tháng 11 năm 1953 tại Mỹ Côi, Ninh Bình (là Liên Đoàn 32 lưu động cuả quân đội Liên Hiệp Pháp. Sau đó Pháp bàn giao lại cho ông Tôn Thất Đính, đổi tên thành Sư-đoàn 2 Dã Chiến). Khi nền Đệ Nhứt Cộng Hòa thành lập, thì lúc đó ông Tôn Thất Đính (đã thăng lên Đại-tá) bàn giao Sư-đoàn cho Trung-tá Đặng Văn Sơn ngày 22-11-1956. Ngày 1-12-1957 thì Trung-tá Lê Quang Trọng đảm nhiệm Tư Lệnh Sư-đoàn.
    Ngày 1-12-1958, Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 2 đã chính thức đổi tên thành Sư-đoàn II Bộ Binh VNCH, là một trong ba đơn vị Chủ Lực Quân, trực thuộc Quân-đoàn I và Quân-khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sư đoàn 2 được tuyên dương công trạng, nhận lãnh giây biểu chương màu tam hợp trên quân kỳ Sư đoàn. Hiện nay Sư-đoàn 2 Bộ-binh đặt bộ chỉ huy chính ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Tư-lệnh Sư-đoàn 2 Bộ Binh do Đại-tá Lâm Văn Phát đảm trách từ tháng 6-1961. Tại nơi nầy, Hiếu Hòa hân hạnh quen thêm các anh khác, (bạn của Thắng). Họ đã:
    Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
    Cái công danh là cái nợ nần.
    Nặng nề thay hai chữ “quân thân”,
    Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ.
    Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt,
    Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
    Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
    Hết bốn chữ “trinh trung báo quốc”.
    Nghiêng mình những vì dân vì nước,
    Túi kinh luân từ trước để về sau.
    Nghìn thu một tiếng công hầu. (1)

    Thắng hiên ngang oai hùng đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, dây biểu chương tam hợp móc bên trái, gù vai đỏ. Anh đến nhà đón Hiếu Hòa đi dự lễ mừng Quân Lực VNCH đã chiến thắng, diệt tàn quân việt cộng phương Bắc lẽn vô quậy phá miền Nam, trận đánh diễn ra ác liệt tại vùng Tiên Phước, Trà My. (Đà Nẵng, Quảng Nam). Đây cũng là dịp chào đón các thượng khách. Không phải là chờ xem buổi đại lễ long trọng, mà cô cùng dân chúng dám bất bình la ó om sòm, khi trải qua ba giờ chầu chực mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang. Thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công!

    Nhứt là có ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn, Đại tá Tư Lệnh là cố vấn William làm quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên đến Việt Nam, được ông Tỉnh-thị Trưởng kiêm Tiểu-khu Trưởng lo hành chánh và quân sự, mời họ tham dự. Hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ (trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay hoà hảo mật thiết). Cờ Mỹ năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta. Đó là những kinh viện và quân viện -một nhu cầu chính trị khôn khéo, để thực hiện giai đoạn "hoà hảo thân thiện" then chốt đầu tiên-. Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời! Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở mút bên bờ đại dương xa xôi nầy, cũng được Mỹ ưu ái đặt mắt nhìn ngắm đến. Không hiểu họ có muốn đổi chác, nghiên cứu, dòm ngó gì tới xứ Việt Nam, hay không kỳ vọng mơ tưởng mảy may... mà họ chỉ muốn nhân đạo hào phóng cho đi tất cả (?!).

    Tự dưng Thắng cúi xuống gần Hòa, anh thì thầm:
    - Hẳn là em có xem phim “Midway” đang chiếu ở đây rồi, phải không nhỉ? Phim ghi lại cuộc hải chiến giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ ở trận “Battle of Midway” trong Thế Chiến Thứ Hai, thì Đô Đốc Hải Quân (của Nhật Bản Yamamoto), khi đoàn quân thắng trận ở Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), ông phán một câu xanh dờn:
    - Tôi lo sợ những gì chúng ta đã làm, là đánh thức một gã khổng lồ đang ngủ, và trao cho ông ấy một ý chí khủng khiếp. (nguyên nghĩa tiếng Anh: I fear all we have done is to awaken a sleeping giant and fill him with a terrible resolve). (!!!, ???)

    Các vị hành pháp, tư pháp (“mũ mão cân đai” chỉnh tề) đi sau vị chủ toạ, những “ôn” quyền uy bệ vệ đủng đỉnh lên khán đài chính. Quý phu-quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với chiến thắng tài danh lẫy lừng, đã đành thế! Nhưng kèm bên qúy phu nhân thủng thỉnh kiêu sa, đài các qua mái tóc búi quá cao đã làm kỹ ở ngoài tiệm, quần là áo lụa chưng diện sang trọng rực rỡ và thơm tho, theo mốt cổ áo hở toẹt vai, toác hoác xề xệ như mốt bà Nhu, cốt yếu khoe yết hầu đeo kim cương bự sư, cổ xệ xệ tới gần hai đường khe của bộ ngực thổn thện đung đưa, là dịp để quý bà phô trương thân hình úc núc giàu bơ sữa, khoe vòng vàng rườm rà từng xâu, lủng lẳng từng chùm sáng chói.

    Qúy phu nhân không là gì ngoài dựa hơi hám vai vế chồng, một bước bà ta nhảy tót lên sàng danh vọng, bộ mặt vênh váo tô trét diêm dúa phấn son dày cui, ưỡn cặp vú bơm silicon, có bà sữa mắt hai mí đã lồi và trợn lên như mắt ếch, mũi hếch độn nòng không khéo, nên coi lộ liễu, bơm thừ lừ “cằm đôi môi chẽ” trề ra quá lố, mỗi khi họ nói cười hoặc ăn uống, thiệt dị hợm. Họ dương dương tự đắt nhoi nhoi lắc lư cái đít sung túc béo bở phì nhiêu lên... coi "khêu gợi khiêu khích"... sự dật dờ lả lơi thèm khát mấy gã xồn xồn "biết nhiu" mà kể!!! thì bố ai chịu cho nỗi hỡi quý phu nhân ui! Mặc sức cho đám phu phen, dân ngu khu đen (như Hạnh mà cũng... đứng dưới khán đài nầy há hốc miệng ngẩn ngơ thèm, thộn ra nhìn quý bà chằm chằm; thiệt đã con mắt quá đi). Các "ôn thần" chớp chớp mắt lia chia nhìn suốt từ trên xuống dưới bộ quần áo mỏng dính; như kỳ lân đá ngày đêm nhìn trời nhìn hiu quạnh không chớp mắt. Khán giả đứng chầu ở dưới tha hồ lỏ trăm ngàn con mắt nhìn lên "quý mệ" mà chỉ chỏ.

    Ôi thôi… họ bàn tán lộ liễu, trắng trợn và bất lịch sự quá chừng, lấn át tiếng người xướng ngôn viên gào lên trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Hoà cũng không trách đám "phu phen bình dân giáo dục như mình" làm chi, bởi vì ai ai cũng được coi chùa, tội gì không ngó có mà ngu! Thì cứ tha hồ dòm cho đã... các nơi nghe! Khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới chịu im lặng đứng yên. Riêng đám dân gian mãi lo đứng thộn ra ngắm cặp vú trái bưởi ưỡn ra trước, cặp mông diêu nhô phía sau như cái thúng úp vô đít, thì dân gian cũng có vỗ tay vài ba nơi vang lên lẻ tẻ đấy, nhưng quá rời rạc, lổng chổng. Họ vỗ tay không nhiệt tình hưởng ứng, mà do “bổn phận, miễn cưỡng” của kẻ thấp cổ bé họng, thì đúng hơn. Buổi lễ long trọng càng kéo dài giống như bất cứ buổi lễ nào khác. Gió lộng xô đầu bù tóc rối, áo quần ai nấy đều bám bụi vàng, mặt mày bơ phờ mệt mỏi hốc hác; đồng bào chán ngán thở phào, như trút xong gánh nặng đè vai, họ vội vã về trên các ngả đường nghẹt cứng ứ nghẽn người tất bật lo chạy ngược xuôi kiếm sống.

    Tiện cùng trên một đường đi, nên Thắng mời Hòa rẽ qua nhà anh cho biết. Thắng ở chung với ba anh bạn độc thân vui tính (và một anh vừa cưới vợ, vợ còn ở xa). Căn nhà thuê bao đủ tiện nghi, vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm ngoái hai anh ấy đi sắm đồ dùng cho bạn: thứ gì cũng có năm màu sắc phân biệt khác nhau, (mà lúc ấy Hòa nghĩ là hai ông khách nầy ưa làm đỏm, chải chuốt mà khó tính). Họ đang bàn tán về lần đảo chánh thứ nhứt ngày 11-11-1960, do Đại-Tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ-Huy-Trưởng Nhảy Dù + Trung-Tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các Thiếu-Tá Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Đại-Úy Phan Lạc Tuyên, Bác-Sĩ Phan Quang Đán... Lần thứ nhì gần nhứt do hai phi công Việt Nam: Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn Văn Cử đã ném bom bắn cháy dinh Độc Lập vào hôm 27 tháng 2 năm l962. Một quả bom không nổ rơi trúng phòng đọc sách của Tổng-thống Diệm, khi cụ đang ngồi đọc sách, thế mà tổng thống chả việc gì. Bà Nhu bị gãy một cánh tay. Một quả bom khác rơi ra ngoài sân dinh. Một lúc sau phòng-không mới bắn trả lên. Phi cơ ông Quốc bị trúng đạn, ông nhảy dù ra rớt xuống Nhà Bè. Ông Quốc bị bắt tại trận và vô tù. Còn ông Cử bay mút qua bên Nam Vang, nhưng dân chúng bàn tán: ổng cũng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!
    Chuyện dội bom gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhứt là đời sống dân cư đang an lành; bỗng chốc ngơ ngáo kinh dị bàng hoàng thêm. Chả hiểu vì sao!? Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh, do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ, người đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhận. Thắng chua chát nghĩ thầm: “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí”. Có nghĩa là: “Làm tướng mà thua trận, thì đừng nói những câu có vẻ anh dũng. Làm quan mà bị mất nước, thì đừng nói những câu ra vẻ tài trí”. Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyển đề tài, niềm nở tiếp chào Hòa. Sau khi giới thiệu cô với bạn hữu ở chung nhà, Thắng nói:
    - Mời em ngồi, anh vào thay bộ quần áo nặng nề nầy, rồi ra ngay. Xin lỗi em!
    - Dạ vâng, anh cứ tự nhiên.
    Bốn anh còn độc thân, có anh Lê Tiến là đỉnh đạt về tuổi tác cũng như binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi hai tuổi, tuy thế Hòa trông anh còn nét trẻ trung, vui tính. Anh Đào Ngũ Quang, hai mươi bảy tuổi: Thiếu úy Hải-quân. Kế đến là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng hai mươi hai tuổi, Bộ-binh. Anh Vương Quốc Tùng: Trung-úy Y sĩ Quân Y vừa có gia đình. Sau rốt anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân:
    Anh chỉ là quân nhân Biệt Động
    Đang thi hành "diệt Cộng an dân"
    Nhọc nhằn nguy hiểm bội phần
    Mưa bom lưới đạn xả thân diệt thù (2)

    Anh Tiến nhìn Hòa nháy mắt, để trêu chọc anh Tùng:
    - Hiếu Hòa biết không! Anh thích làm nghề mỗ tim gan phèo phổi. Không phải như bác sĩ Tùng. Mà anh í hả! anh thích mỗ thịt bò, heo, ngựa, thịt dê... cơ!
    - Để làm gì cha nội?
    - Lấy tim, bao tử, ruột non, ruột già làm phá lấu. Ăn ngon nhứt nhĩ à nha.
    - Ngưởi thì hôi, nhìn lại ghê quá.
    - Ấy. Sao toa nóng quá vậy, hở Quang? Để yên moa nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dô miệng mình. Còn hứng thú đâu mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, là toa khóc ré thế?
    Quang (Quang là người đã chở Thắng đi mua sắm Tết, mà Hòa biết mặt) pha ly chanh đá bưng ra mời cô. Ngồi trên ghế nệm, anh tủm tỉm cười đùa:
    - Á à a! Chả vì lúc đó tôi lười học, ăn chơi lêu lổng, hoang đàng chi điạ, đếch có tấm bằng nào, dù tuổi mình cao cao, vẫn ưa ở nhà bu theo bố mẹ. Tôi trốn chui trốn nhủi như con dế mèn trong cái lu dấu kín nơi góc phòng tối, để luyện "tịch tà kiếm phổ", coi thật chẳng giống con giáp nào. Bao giờ đói, tôi kêu inh ỏi re re ré… Đã bảo là con dế mèn mà không re ré sao nhỉ? Thế là có người nhà bưng cơm canh hầu tận chỗ. Đã nhe. Ngon lành nhe. Le lói nhe. Mẹ kiếp! Tôi chả trốn được bao lâu, thì cảnh sát đến nhà lục soát. Họ nắm tóc lôi giật lên, mang tôi về đồn bót. Họ hỏi cung tới tấp:
    - Anh có yêu đồng bào, yêu gia đình không?
    - Yêu.
    - Yêu lính tráng không?
    - Có.
    - Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh không?
    - Rất sẵn sàng.
    - Hãy chuẩn bị đi lính.
    - Không.
    - Tại sao? Anh nói rằng: anh yêu nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
    - ... Tôi lỡ dại vãi vào đấy bao nhiêu nước ...tiểu, khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Ngài coi tôi bước đi nè: có phải một chân là dấu chấm, một chân chấm phết, lê lết, te tua, tàn tạ, tiều tụy, tả tơi thối tha từ tiểu tiện, hay không hì.
    - Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được đa. Tôi hỏi anh có yêu "Nước" không?
    - Nước?
    Chữ Nước viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc. Đất Nước. Quê Hương, chớ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chưa?
    - Lỡ vênh váo rồi, tôi cho tới luôn, tiến lên, dọt lên, hứng lên, chứ có gì mà sợ! mà rét… mà run hì! Có sức chơi, thì có sức chịu, cứ liệu mà chơi:
    - Ô! Ông nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à!
    - Anh nầy giỏi quá ta.
    - Có điều tôi chán ghét gây thù hận, giết chóc, máu huyết thổ ra có vòi, coi chóng mặt kinh hồn lắm. Tôi không thích tham dự. Thế thôi.
    - Bây giờ, tôi mời anh đi.
    - Đi đâu?
    - Đi lính.
    - Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
    - Họ nghĩ tôi ngông cuồng, hay thần kinh bất ổn bấn loạn, khùng điên gì đó, nên anh kia cho ngay con số tám vô hai cườm tay tôi, kêu cái cộp. Ui cha ơi đau điếng thấy tới tổ tiên ông bà vãi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy mình hết giả đò thương tật, chân không cần đi điệu tango, bì bộp, cha cha cha... nhún nhảy nữa rồi. Cũng may là họ chưa tống cổ tôi vô nhà thương Biên Hoà, nếu bị chích vài mũi thuốc, chắc tôi ngoẽo thì chết cha đời trai!
    Lúc ấy tôi hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức bên ta. Tại sao nà!? Giờ ăn cơm tù có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu có lính ôm súng gác lom lom dòm tôi. Nếu họ không dòm, lỡ tôi trốn chui trốn nhũi như con nòng nọc lặn sâu tít xuống hồ, thì sao! Giờ ngủ có lính đổi canh. Do tôi nghĩ: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. [Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lì, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy. Albert Einstein (1879-1955)]
    - Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho ta. Ah! Nè các bạn! “ngũ quang” là có năm con đường tươi sáng rạng rỡ í. Cơ khổ! vì cái họ tôi trót lỡ là “Đào” chả hiểu sao ông cụ lẩm cà lẩm cẩm, đặt ngay tên đệm là “Ngũ”; thành thử vô tình tôi trở thành tên “đào ngũ”. Cha chả! nó ám ảnh tôi triền miên cho tới ngày ra khỏi lu, là tôi ngậm ngùi ca “những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt...” Ấy mà sau nầy tôi đi lính, thì nghiêm trang, đàng hoàng, sự thực “ta” đếch cần đào ngũ nhe, lẽ là tôi rất yêu mến đồng đội, đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Tôi mong thăng cấp như thằng Chiến, bạn nối khố nè.
    Còn về việc khóc hu hu, thì đơn giản thôi, tôi đa tình, lãng mạn, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và da diết yêu cô bồ nho nhỏ ở phương xa. Tôi không được khóc đấy phổng? Nè bạn, muốn thoát ra khỏi những đau thương dằn vặt dày vò trong quá khứ, khi không có cách nào che chắn lại dĩ vãng buồn đau, thì ta phải cố gắng vượt qua rất nhiều đợt huấn luyện, thế là thân và tình cũng mềm ra, tôi nghiền ngẫm, suy nghĩ, thẩm thấu soi rọi một trong năm ba dữ kiện và sự kiện, mà mình từng nếm trải, cùng những chia sẻ ngọt bùi đắng cay và thân tình ấm áp trong cuộc sống, thì... phải vậy thôi.

    Họ cười ha ha, hả hả, hí hí, khà… Quang muốn nhảy dựng lên chơi giựt nổi với đời, anh muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích lên mặt lấy hên dợt le xí, phừng phưng nổ những pha mê ly nghe ghê hồn từ Long An tới Long Bình, Long Biên, Long Hải, Long Đất, Long Thành, "Long Cuội ngồi gốc cây đa"... nếu không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, không dẹo chân ẹo người mà cười vang, thì không ăn tiền. Quang không nổi, thì đời trai kém vui đi. Lạ lùng thay, đến nay anh Quang: Thiếu úy Hải-quân đã thành nhân chi mỹ, anh đi lính và anh "sống dưới nước non" bồng bềnh nhiều ngày tháng, hơn anh ở trên bờ, (nay chắc anh nhớ cái lu nước, nên có phép về nhà ăn Tết chăng?) điều mà cô rất ngạc nhiên, tưởng anh chỉ lè phè là một võ biền, ai ngờ về mặt tri thức và giao tế, thì anh có miệng mồm nhanh nhẫu (“đoãn”), Quang lịch lãm, hóm hỉnh thì khỏi nói rùi.

    Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn, anh thở từng hơi thuốc vặt:
    - Quang chọc quê anh đó, khi uống rượu thì phải biết, hắn rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, ui đã điếu rồi, hắn nói hết sẫy. Hòa đừng tin hắn, nếu em tin hắn, ắt có ngày em vô “ngũ tử” à nha.
    - Dạ. ảnh có tới "năm cửa tử", ai mà xớ rớ, thì dật dờ tiêu tùng, anh ha! Ảnh lém lắm.
    Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện mình kể nửa đúng nửa sai. Quang biết hối hận về ngày cũ lêu lổng. Lẽ ra bây giờ ít ra là Đại-úy rồi. Thời buổi nầy không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng, để tự vươn lên với đời đích thực hơn.
    Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, Hoà thấy anh trẻ trung tươi mát hơn khi anh mặc bộ quân phục, cô nhìn Thắng lại giống một bạch diện thư sinh ngày ngày đi lượn phố Tết hôm nào. Thắng cười:
    - Trời ơi! Đoàn kết... kiểu thằng Quang á hả; đoàn kết là “đết còn” ấy.
    - Đừng có dốc tổ nghe. Ỷ ta đây “đẹp giai, con nhà ràu, học rỏi” ứ hử! Báo cho mà biết: cậu chịu đèn “đằng ấy đã da diết tới đâu" rồi, thì bảo!

    Ôi! anh Quang mập mờ lơ lửng lí lắc vu vơ… mà ngụ ý muốn “nhắc khéo ai” vậy cà? Những anh lính chiến phong sương nhuốm bụi trần, mỗi anh một cung cách: dí dỏm, duyên dáng, hóm hỉnh riêng… Họ hoan hỉ vui vẻ cười vang, thật trẻ trung hoà ái vô ngần, để tạm lãng quên những trách nhiệm và bổn phận của người lính trước binh đao khói lửa đang chờ đón. Đó là những hiền huynh vui tính trong thời loạn; mà cô có cảm tình nồng hậu & rất hân hạnh khi Hòa đã có một thời vàng son vinh dự từng thân quen quý anh. Dù cho “nếu Anh là...”
    Nếu anh: lính Nhảy-Dù.
    Em cố thành ưu tú.
    Sánh vai ta vui bước.
    Thủy-Quân mình nguyện ước.

    Nếu anh là Binh-Bộ,
    Ngao du giữa sông hồ.
    Ngát hương đời dịu ngọt.
    Pháo-Binh súng đề thơ.

    Trao về nhau tình mơ.
    Nếu anh là cánh buồm.
    Em làm áng mây trôi.
    Thiết Giáp vượt ngàn non.

    Nếu anh là Phi-công.
    Lả lướt trên thinh không.
    Em sẽ là nắng lụa.
    Đàn rung ngân phím loan

    Nếu anh lính Hải Quân.
    Em mơ mình nữ hoàng.
    Nối nhịp cầu tao ngộ.
    Tình yêu xuyên đại dương.

    Nếu anh gieo tình thương.
    Cùng chung một chí hướng.
    Em nguyện làm nữ tì.
    Hương trầm toả khói sương… (3)
    *
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

    (1) Nguyễn Công Trứ
    (2) Trương Trọng Kiên
    (3) thơ Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  3. #3
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Đường Trăng Tố Nữ


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 3
    Đường Trăng Tố Nữ


    Hơi thuốc thơm thoang thoảng bay bay làn khói nhạt uốn éo vướng lại từ đôi mắt Thắng sáng ngời, khiến phòng khách be bé gọn gàng trong căn nhà nho nhỏ xinh xinh (của anh Thương chị Huyền) có vẻ thanh lịch dễ nhìn hơn. Thắng ngồi bên chiếc đàn guitar ung dung đánh vài điệu. Trông anh phong lưu an hòa, khuôn mặt xinh trai bỏ lững tay đàn, Thắng ngẩng lên liếc mắt nhìn về phiá Hiếu Hòa. Anh đá lông nheo kèm theo nụ cười tinh nghịch, cử chỉ hoà ái vui tươi. Cô nhìn sững chàng trai mỉm cười như bị thôi miên, cái nhìn không cho Thắng biết là sự vui tính, phong lưu, đẹp trai ấy... khiến cô ngẩn ngơ phút giây hoài cảm, e lệ chớp mắt dường như Hòa muốn đáp lời thầm lặng và ngưỡng phục.
    - Hiếu Hòa biết bản nhạc nầy chứ?
    Cô dối Thắng, giả vờ lắc đầu nhè nhẹ, để nghe anh nói:
    - Là “Thu Quyến Rũ”. Này nhé: Anh mong chờ Hiếu Hoà thương… Ấy chết!
    Thắng cười xinh xinh, anh ca tiếp: “Anh mong chờ mùa Thu. Trời đất kia ngã màu xanh xanh lơ. Đàn bướm kia đùa vui bên muôn hoa. Bên những bông hồng đẹp tươi. Anh mong chờ mùa Thu...” Hòa ơi em quyến rũ anh rồi.

    Khóe mắt khắc khoải ưu sầu lóe sáng tia chớp, từng phiến u hoài rụng rơi, tim cô bừng lên niềm vui thích dịu dàng, bao tin yêu dấu ái dường như bừng sống dậy trong lòng. Giọng hát của Thắng trầm ấm, truyền cảm, dịu vợi, đã khuấy động tâm hồn Hòa đã lắng đọng niềm khát khao nhớ thương, giống như con thiên nga khuấy đảo tưng bừng mặt nước đang yên ắng. Hòa thán phục và rụt rè trước mặt chàng trai, bởi vì anh khả ái, lịch lãm, vui tươi, lúc nào Thắng cũng lộ vẻ hân hoan, khiến anh thêm hồn nhiên, dễ thương lắm.
    - Cảm ơn anh đã gieo cho em niềm tin.
    - Hòa thiếu niềm tin từ buổi em đứng tư lự bên góc nhà thờ kìa.
    - Ồ! Hòa như vậy sao?
    - Bởi lẽ anh có tâm sự đau buồn gần gần như thế, nên thông cảm... do:
    Ta đứng lại moi tìm trong ký ức
    Kỷ niệm xưa dường đã chết trong lòng
    Đường Cổ Ngư những chiều tập xe đạp
    Nắng lung linh hàng cây đứng giao nhau
    Vườn Bách Thảo lang thang ôm cặp sách
    Hồn trắng tinh nào biết đợi ai đâu
    Phố Hàng Bột khu Văn Hương Tiểu-học
    Trái nhót xanh phấn trắng cả áo len
    Mùa Đông cũ run từng hơi gió bấc
    Vẫn còn nguyên sao ta mãi đi tìm (1)

    - Em thấy anh lạc quan, yêu đời quá mà.
    - Ấy! "Cười là tiếng khóc khô không lệ. Người ta cười những lúc quá chua cay", Hòa biết đấy. Có câu danh ngôn: “Giữa quá khứ đã trốn tránh ta. Tương lai mà ta mù tịt. Chỉ có hiện tại gồm các bổn phận của ta”. Thế thì bổn phận ta là vui vẻ, lạc quan, yêu đời, để tự vươn lên chứ em.
    - Dạ phải.
    - Hiếu Hòa ngoan lắm. Nhớ hôm trước đi lễ, anh đứng gần em ở cuối giáo đường, lo cầu nguyện, em chẳng biết anh nhìn em đăm đăm. Không ngờ em cùng đạo mí anh đấy.
    - Anh tếu thật, "tứ hải giai huynh đệ" mà anh.
    - À há! Quả thực anh vô duyên bỏ xừ! Đừng buồn anh, cô bé nha.
    - Ối dào. Hơi đâu buồn anh cho mệt.
    Thắng nghe Hòa nói "hơi đâu buồn anh", thì đầu cô nghiêng nghiêng, mái tóc dài rung rinh, bờ môi lí lắc cong cong, mím mím, mỉm mỉm. Anh thấy dễ mích lòng, dễ hờn nhau, và và... sao mà ngây ngất dễ thương... ghê nơi. Thắng cười:
    - Biết rồi. Chán ơi là chán.
    Tiếng xưa như rót về từng phiến u hoài ngân vang trong lòng Hòa, khi ngọn lửa tình nồng nhiệt cũ còn bí mật âm ỉ cháy; dĩ vãng xa xôi hiện ra như dòng sông phủ lớp sương mờ nhòa, bao chua xót như vỗ sóng âm thầm xô giạt làm nhăn mặt nước.
    - Xị mặt ra rồi hử. Cấm không buồn à nha.
    - Dạ. Ông tướng ơi.
    Thắng lặng người mất vài giây, anh thân ái nhìn Hòa mỉm nụ cười có lúm đồng tiền duyên ơi là duyên, và chiếc răng khểnh tinh nghịch lú ra khỏi vành môi phớt hồng, như trêu ghẹo cô. Móc đàn trên đinh treo, Thắng quay nhìn đám lá me bay bay ngoài khung cửa sổ hững hờ đáp nhẹ xuống bên bờ giếng. Chào chị em Hòa, Thắng lững thững đi về nhà.

    Sau kỳ thi và trở thành hoa hậu, thì Hiếu Hòa rất hân hoan được Đại-tá Lâm Văn Phát ký giấy mời cô vô làm việc tại Phòng 5, trụ sở tại Sơn Trà, (cùng Sư-đoàn với Thắng). Hoà lại phải chạy tới nhà nhờ anh Thuận ký giấy đồng ý ưng thuận cho em nhỏ đi làm việc). Trong Sư-đoàn nầy có Ban 1 là ban Quân số. Ban 2 là An-ninh. Ban 3 là Hành-quân. Ban 4 là Tiếp-vụ. Ban 5 là Tâm-lý-chiến. Thắng làm ở ban Quân-số. Vốn dĩ Thắng có quen biết sơ giao cô trước khi Hoà được thu nhận vô “đại gia đình huynh đệ chi binh”, do đó thân càng thân, vì đôi khi hai Ban ngành nầy cần bổ sung công việc cho nhau.

    Trong Ban 5 gồm có những anh, chị: Trung úy Lê Văn Phước làm Trưởng-phòng, quê quán anh Phước ở Huế, là một người hiền lành từ tâm và độ lượng, anh đã có vợ và hai con trai. Thượng-sĩ Cương nói giọng Bắc làm Trưởng-ban văn nghệ, anh có vợ và con trai gái năm đứa. Trung-sĩ Nhứt Thái có vợ đã bảy năm rồi không con, anh là Phó ban Văn-nghệ. Ban văn nghệ còn có sáu nữ và mười Nam. Năm cô làm chung với Hòa là: Lan Anh hai mươi ba tuổi, quê ở Tam Kỳ. Thu Hoa, Mai Hồng: hai mươi lăm tuổi, quê ở Quảng Nam. Thu Hương ba mươi bốn tuổi, có gia đình hai con, quê chị ở Đà Nẵng. Tuyết Ngọc nói giọng Bắc ở trong Sài Gòn ra, mười chín tuổi. Ngọc có cảm tình ngay khi thấy Hòa hiền như nai, con bé quá khờ khạo ở nhà quê thò vừa ra Tỉnh. Hiếu Hòa là em út nhỏ nhít của Sư Đoàn có chút xíu kiến thức căn bản, về kinh nghiệm, công việc, tài năng và tuổi đời, Hoà thua hẳn, thua xa đàn anh, đàn chị.

    Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, rứa mà tiếc chi tên cúng cơm của con, cha mẹ đặt tên cho hầu hết các cô cái tên dị hợm, khó nghe vậy hổng biết! Ở trong nhà hay ra ngoài ngỏ họ đã dấu nhẹm tên “Bẹn”, tên “Gái”, tên “Ệp”... tên “Mu”... quê xệ như mèo dấu cứt. Rứa mà mẹ cha vô tình cứ oang oang réo tên con quê mùa mục mịch! (ngoại trừ tên cuả HH… là tên thật 100% à nhen). Thật khó chịu xấu hổ hết biết mỗi khi có người nheo nhéo gọi, mắc cỡ muốn độn thổ. Các cô… khi đã ra trường đời thì qúy cô... tự ý cãi lời bố tổ, ông cha “hủ lậu”. Thôi thì ta tự đặt cho mình tên thật kêu, thật đẹp mê ly, thật hách, đầy hoa mỹ, du dương êm ái ngọt ngào như mật rót vô môi. Lúc ai gọi tên em nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ đến rụng rời… đứt đuôi con nòng nọc!

    Hòa yêu màu tím, thế nên từ áo dài, áo lạnh, khăn quàng, bít tất, giày, đều tím “tông xuyệt tông”. Lên sân khấu diễn kịch, ca hát, Tuyết Ngọc làm giúp make up cho Hòa tô nhẹ mí mắt màu tim tím, môi son phơn phớt màu tím hoa cà. Trông Hòa lãng mạn, đa tình, mơ màng, và buồn rười rượi. Mọi công việc của Hòa đều do bạn chỉ dẫn giúp. Mặc dù Hòa vẫn biết: “chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong bầu rượu qúy. Không đựng đầy trong đôi mắt giai nhân”. Anh Thái là người tận tình hướng dẫn dặn dò Hòa:
    - Em nên chọn Tuyết Ngọc làm bạn.

    Ý kiến hay, Hòa suy nghĩ: có lẽ Ngọc sẽ là người bạn tốt: một thiếu nữ xuân-thì khá xinh đẹp, duyên dáng và tài hoa, là cháu họ xa xa xôi xôi của Đại Tá chi chi đó. Ngọc đi làm có tài xế đưa đi đón về, cuộc sống khá thoải mái về vật chất. Tuy về phương diện tinh thần thì Tuyết Ngọc có phần hạn hẹp, muốn bảo vệ uy danh cậu, cô phải đi thưa về trình. Khi cậu đi hành quân vắng nhà, thì Ngọc qua mặt mợ vù vù vì mối đa tình khá sôi nổi, lăng nhăng của cô. Có phải Ngọc là "nữ châm" không, mà cứ như cục “nam châm” hút trai trẻ hằng tá. Ngọc hay nhờ Hòa đến cổng nhà ông Tá bấm chuông, gởi lính mang tờ giấy giả: "giấy ở Phòng 5 mời đi họp khẩn", để Ngọc có cơ hội xin phép mợ cho mình vắng nhà xí. Sổ lồng rồi, Tuyết Ngọc tha hồ tung bay giữa bầu trời tự do, cô hẹn với bồ đi dạo phố, đi chơi, đi du hí thoải mái. Đôi lúc hai cô cậu xin ngồi nhờ ở nhà chị Thương, họ nói chuyện tâm tình suốt cả buổi. Nhờ thân thế cậu, nhờ ưu điểm khá xinh đẹp, hát hay nhứt trong đoàn, nên cô càng ở ngôi vị cao hơn anh chị em cùng phòng.
    Trong Ban 5 muốn chiều ý Ngọc, có thể họ không “khẩu phục tâm phục” về ý kiến ý cò của cô đúng. Nhưng chỉ vì muốn nịnh Ngọc, phòng xa, để họ khỏi bị đổi đi các vùng địa đầu giới tuyến giữa lằn đạn mũi tên. Họ sợ việc làm của mình sẽ đến tai ông Tá, đôi khi Ngọc thêm mắm dặm muối, thì nguy to. Tuy nhiên Ngọc có tính tốt, không rảnh công đi mách chuyện đâu đâu có hại cho đồng nghiệp. Phải nói rằng cô có nhiều ưu điểm nổi bật làm mờ khuyết điểm "lả lướt" mà cô gái đẹp thường có. Để kết thúc bức tranh Tố Nữ, Trời còn ban cho Tuyết Ngọc có giọng ca oanh vàng rất hay, làm say đắm biết bao người.

    Phòng 5 được lịnh đi công tác ngoài Quảng Ngãi xa Đà Nẵng 146km về hướng Bắc trên quốc lộ 1A. Một buổi tối khi trời sao lấp lánh trên không trung mờ mờ, sương núi thấp thoáng bay bay, từ trong khu đồn trú đóng quân chằn chịt hầm hào hố bom lỗ chỗ, các cô gái vô trình giấy xin ra cổng ở bản doanh, họ rủ nhau xuống chân đồi dưới làng ở bên góc cầu, để ăn bún bò Huế tại quán bà Tư. Khi họ đến lưng chừng khu đồi mang bí số 415 (mà Hòa đặt tên là ngọn đồi kia là “T, T2”, (có nghiã là “chị Tuyết, anh Trọng”). Kế sát con đường đất đỏ trong khu đồi nầy, có một nhà hầm to lớn chôn hai phần ba cây nhà ngập xuống lòng đất, một phần tường còn lại vây kín bao cát, chung quanh có vòng kẽm gai chằn chịt, có từng dãy giao thông hào nối với bộ chỉ huy. Hòa thấy người ra kẻ vô vội vàng, coi có vẻ khẩn thiết vội vã và im lặng. Tò mò các cô rủ nhau vô đó coi xem.

    Dưới ánh đèn điện vàng vọt tù mù hắt ra cửa, một cảnh tượng bi thương hãi hùng phơi bày: Trong phòng mùi hôi thối nồng nặc do máu mủ tanh chưa khô tỏa ra, mùi creostote, alcoln, mùi mồ hôi, mùi cỏ ẩm, mùi thuốc súng đâu đó bay ra khét lẹt, khiến khứu giác Hòa nghẹt thở. Hầm nầy có năm ghế bố, hai thương binh xài chung một ghế bố, người nằm xuôi kẻ nằm ngược. Họ rên xiết, quằn quại, co quắp, quắt queo với những vết thương lầy nhầy máu mủ lở loét. Có người tay chân quờ quạng, đôi mắt mở thao láo. Người băng chân kẻ băng tay, băng đầu, vân vân... Quá vào trong tí nữa là hai bác sĩ quân y, bốn y tá đang lo cấp cứu cho một thương binh bị đạn ghim vô ruột, thân hình anh ta bê bết máu, mắt lạc thần, mặt xanh lè, anh ta đau đớn gào lên, nghe rùng rợn kinh khủng.

    Hòa thấy Huyền Nữ, (cô y tá Trung-sĩ đã chính thức được áp triện son, con dấu có hàm ý phong cho cô: “ta đã vinh thăng, đừng có xớ rớ, đừng hòng lên mặt dạy đời, ta không chịu nỗi a nha”, mà các anh quân nhân thân ái đã âu yếm gọi ngược Nữ là: “Trung tá y sĩ Nữ quân-y cưng ui là cưng”)! Nữ thản nhiên cầm bàn chân đẫm máu (của một thương binh vừa bị cưa cụt), Nữ bọc cái chân ấy trong túi ni lông, cô liệng nó vô thùng đựng rác bằng sắt, nghe kêu khô khan một tiếng "đùng". Hòa rùng mình, cơn ớn lạnh từ đâu ập vô thân thể, chạy dọc theo sống lưng, vì chứng kiến máu tươi phọt ra, nghe, thấy sự đau đớn, rên siết não nuột của những thương binh như tiếng hú từ âm ty đưa về, rồi thấy Nữ liệng cái chân anh kia, Hòa đồng cảm ghi trọn ý niệm kinh hoàng tột đỉnh về cơn đau đớn kiếp người:
    Tôi trở lại cao nguyên miền sơn cước
    Đường mù sương đẫm ướt nửa tấm thân
    Kẻ một chân, lê nẻo bước phong trần
    Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ Quốc.
    Từ dạo ấy nỗi niềm dâng chất ngất
    Tây Nguyên buồn lất phất giọt Thu rơi
    Kiếp lang thang lạnh buốt giữa đất trời (2)

    Đến lúc này thì không thể nào chịu đựng nỗi cảnh khủng khiếp rùng rợn đó, Hòa rệu xuống ngất xỉu như trái mít ướt rụng, cô không còn biết ất giáp gì nữa. Ngọc hoảng hốt la lớn. Bác sĩ Quân-y, y-tá và mấy bạn vội chạy đến bên Hòa vực cô nằm ngay đơ lên một góc ghế bố, (do anh thương binh nhanh nhẹn nhổm dậy nhường chỗ). Bác sĩ khám bệnh cho Hòa xong, ông ta mỉm cười đi rửa tay, cô đã thoát khỏi cơn đột biến, không còn lo ngại về sức khỏe. Nhưng khi trở về lán trại, thì mấy nàng bị anh Phước la cho một tăng, và cấm mấy cô nhóc không được la cà bén mãng xớ rớ tới những nơi ấy (nếu không có phép).
    * * *
    Đoàn 5 Sư Đoàn 2 đi hành quân một tháng, nay đang đóng quanh vùng Thị-xã Quảng Ngãi, nơi có các Huyện: Đức Phổ, Bình Sơn, Ba Tơ, Lý Sơn, Minh Long, Mộ Đức, Tư Hà, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Tây Hà, Trà Bồng. Từ Tiểu Khu Quảng Ngãi anh Phước sẽ phân phối đoàn đi công tác thêm mấy vùng lân cận như: Sa Huỳnh nằm ở cực Nam trên quốc lộ 1A, cách thành phố (Quảng Ngãi) 30km. Bờ biển sạch bãi cát thoai thoải mịn màng, nước trong xanh, đẹp, cùng những đụn muối trắng phau in hình trên nền trời xanh bát ngát, mênh mông. Ngày 16 tháng Ba thì nơi đây có Hội lớn ở đền thờ Cá Ông. Đầm nước ngọt trong vắt từ “đầm An Khê, cua Huỳnh Đế” nổi tiếng xứ Quảng.

    Rồi đoàn 5 sẽ đi Mộ Đức nằm ở phía Đông Nam (Quảng Ngãi), Đông giáp biển. Phiá Tây giáp Huyện Nghĩa Hành. Nam giáp Huyện Đức Phổ. Bắc giáp Huyện Tư Nghiã. Mộ Đức nằm kề quốc lộ 1A và 24, & đường xe lửa, đó là một đồng bằng trồng cây trái xanh tươi, ruộng lúa bạt ngàn trù phú, vì có phù sa sông Vệ & chi lưu sông Thoa chảy qua hướng Đông Nam. Mộ Đức có Xã, Thôn, (dễ nhận ra họ hàng, vì nơi nầy mang toàn họ “Đức”), như: Đức Quang, Đức Phụng, Đức Hải, Đức Hoài, Đức Thọ, Đức Lương, Đức Phước, Đức Vinh, Đức Thạch, Đức Sơn, Đức Thuận, Đức Mỹ. Mộ Đức có các núi: Đại Sơn, Văn Bân, Long Hồi, Long Phụng, Ông Đọ, Vom, Thụ, Giảng, Điệp.

    Cuối cùng, đoàn 5 đóng ở cận sông Trà Khúc, không lên Minh Long, các cô có bạn ở chốn giang đầu tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng nha. Nhiều buổi tối ở Thị-xã, tất cả anh chị em vô ngủ nhờ trong Tiểu-khu cho an toàn. Hội Trường chứa khoảng vài ngàn người, lính tráng ở đâu về tạm dừng chân qua đêm nay đông kinh khủng. Hội trường có đòn dong, cột, kèo, vân vân... đều làm bằng nhiều cây sắt to, đây là loại nhà tiền chế của Mỹ, rộng lớn, tứ bề chỉ che kín bằng những tấm bạt dày và to từ trên nóc xuống nền nhà thay tường, không có cửa ra vô như nhà thường, bốn bề có lính gác cửa, (bằng bạt có dây kéo từ dưới lên), nóc nhà lợp "tôn xi măng”, trong nhà tiền chế có máy lạnh mát rượi.

    Những đêm di hành thường ăn bờ ngủ bụi luôn luôn, nay may mắn lắm mới có chỗ ngã lưng tốt thế nầy. Thật qúy hiếm. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, đã nhanh nhẹn chiếm cái bàn rộng làm thành giường ngủ, coi thật thoải mái. Ba cô ấy mến thương nhau, giận hờn và xoi tì xoi tướng nhau một cách thân ái; giống như các chấp chính quan thời kỳ La Mã, hay triều đình vua Tự Đức vậy. Giăng mùng xong, Ngọc, Hòa chui vô một giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đỡ chật, thì điện cúp. Hòa từ hồi còn nhỏ xíu đã ngủ riêng quen rồi, nay nằm ngủ chung với bạn như vậy, cô bị mất ngủ luôn. Hòa nhắm mắt mơ màng dĩ tưởng về ngày qua, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên, cô ngỡ là bạn nào tìm chỗ ngủ, nên nói:
    - Hết chỗ rồi, bạn ơi!
    Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ xoa nhè nhẹ lên hai đầu gối cô thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ cuả anh Thái nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi, cô lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô, sần sùi chai cứng kia chộp lấy, cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần sát bên, nghe rất dễ sợ. Hòa vùng mạnh tay hắn ra, thất thanh hét tướng lên:
    - Trời ơi! Ai làm cái gì đây?
    Sau tiếng hét kêu rất to nghe thiệt chát tai ấy, thì bóng đen vén tấm bạt lên, hắn vụt chạy biến vô đêm tối mất dạng. Cả hội trường nhốn nháo vì tiếng la hét rít lên the the và đột ngột, nghe rợn tóc gáy. Điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt lao nhao khắp nơi. Mấy cô gái sợ quá, nhảy dựng tót lên nơi bàn Thu Hương đã chiếm, họ dồn nhau ngồi chung một chỗ không dám hó hé.
    Mặt Hòa tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng ban ai nấy đã vén mùng lên hạ mùng xuống, không nhịn được cười. Quả thật, cô sợ bị “bắt vô bưng”! Tưởng tượng về bàn tay sần sùi kia, và trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện quỷ. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hòa run rẩy sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu. Dù bi chừ ở bốn góc nhà đều mở đèn ngủ mờ mờ, thế mà suốt đêm cô mở mắt tháo láo trừng trừng nhìn nóc mùng, mà run.

    Sáng sớm hôm sau đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Ngọc gởi theo anh tài xế Bốn mang cho Trọng, (bạn trai): gói trà, cà phê chồn, đường cát, hai cây thuốc lá Ruby Queen, bịch khô nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi viết trong tờ thư xinh xinh, cô gởi đến các anh chiến đấu ngoài sa trường ở chốn giang đầu chút tình người:
    Ai về em gởi bức thơ
    Hỏi người bạn cũ bây giờ ra sao?
    Non kia ai đắp mà cao
    Sông kia biển nọ ai đào mà sâu! (ca dao)

    Ngày thứ Bảy, Hoà & Ngọc đi làm xa, lúc chiều về trại, họ nghe anh Lân nói:
    - Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm hai em đó.
    Ban đầu Ngọc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết khác của cô, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục, chứ đâu có lè phè mặc đồ cevil? Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó đang giao tranh dữ dội, làm gì có chuyện người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường Quảng Ngãi? Tuyết Ngọc chợt nhớ lạ lùng bài ca: “Biệt Kinh Kỳ” của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa khuya sớm. Họ đi giữa hai lằn đạn trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Nghĩa Phú, Tà Noát, Ba Tơ, có lần Trọng đã hát cho Ngọc nghe say sưa. Phải không hở Trọng:
    Em đánh thức một hồn thơ trở dậy
    Gọi quay về cánh gió trót phiêu linh.
    Thuyền lạc bến, lưng chừng trôi, trôi mãi...
    Biết tìm đâu - một bến đỗ yên bình?
    Em nhỏ bé, lặng thầm bên đời vắng
    Bóng thời gian in mái tóc tàn phai.
    Không son phấn, không má hồng, môi thắm
    Tim lắt lay theo nhịp đập mệt nhoài. (3)

    Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên ngồi trên mình con tuấn mã, ruỗi dong ngàn dặm, để tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, quắc thước, tính tình cương trực cỡi con xích thố, sử dụng cây thanh long đao tuyệt hảo. Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Mà anh là Trần Trung Trọng ở ngàn chốn sơn khê, nơi cuối núi đầu ghềnh xa tít tắp. Tay anh luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng cõng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt có mắt kính lồi bằng nhựa đục. Phải không nà?

    Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi pát phố Hai Bà Trưng, Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng, rồi đi dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy mặt hoa da phấn, môi thắm má hồng, áo quần xum xoe, xức nước hoa thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công lạc giữa đám gà vịt bát nháo. Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm ở đồng áng ruộng vườn, chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Ở đâu ra có thì giờ nhởn nhơ tung tăng trên đường nhựa với quần là áo lụa, nàng thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, ngại ngần kéo vành nón lá che nghiêng, dân quê chống cuốc ngẩn ngơ thộn ra đứng nhìn. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào, chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh gay gắt diễn ra cách đó mươi cây số. Vậy thì các cô gái thị thành ỏng ẹo lượn lui lượn tới để dợt le, lấy le với ai đây? Sao mà lố bịch quá!

    Các cô vội vàng trở về con phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt cư dân thị thành. Khoan khoái thả bước thong dong trên phố, mấy cô cùng nhau ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần, vân vân... Quảng Thành ngày nay đã mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước, vì các quán ăn, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động đã mọc lên như nấm. Các tiệm buôn, nhà hàng, quán bar đều tập trung ở các đường phố: Quang Trung. Phan Bội Châu... Người Mỹ vừa đưa những tên cố vấn đến trên quê hương nghèo nàn, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp nhứt là ở các Snack bar mới mọc lên luôn náo nhiệt ồn ào tưng bừng trong thành phố.

    Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng? Lòng phố xuất hiện những chàng lính Mỹ trắng, Mỹ đen lạ mắt đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy, họ chấp hành luật pháp, khá sợ Quân Cảnh Mỹ luôn lái xe jeep đi rà soát quanh vùng. Ít khi Hòa thấy lính Mỹ hung hăng bạo động ở thời điểm nầy. Họ rất thích nói chuyện với trẻ em, dù không ai hiểu ai, mà họ ưa tặng quà bánh hậu hĩnh, nên trẻ con luôn bu lại bên người lính Mỹ đa dạng rất đông. Nếu có bạo động chẳng qua là... sự thật là có mấy nhúm trai choai choai dé dé ở nước mình, chuyên môn ra tay “sát phạt” trước, vì… hổng ưa “bọn kia” đã rầm rộ đến vùng đất chúng ta, vung vít thả tiền hậu hỉ, xã láng ăn uống ồn ào, và ưa cua gái.

    Hiếu Hoà thực sự vào Đời khi tóc vừa chấm ngang lưng, khi đôi mắt xanh hớt hãi vương từng phiến u hoài, cô say mê đi tìm cuộc sống mới dần dần đổi thay hoàn cảnh hiện tại, cô không muốn đầu hàng đau khổ, lao khó. muộn phiền, nghèo đói. Tình yêu là ánh sáng hướng thiện soi dọi đường trăng Tố Nữ trước mặt, để mình khỏi vấp ngã. Hòa sẽ đoạn tuyệt tất cả, sẵn sàng xây dựng viên gạch đầu tiên chân xác hơn. Mặc dù cô không yêu thích cảnh sống phức tạp hiện tại, nhưng đành phải chấp nhận. Cuộc sống cuộn chặt vào đời Hòa không chỉ chỉ vì miếng cơm manh áo, mà cần phải có tình yêu người. Sự thay đổi lối sống đa dạng trong cuộc đời chông gai nầy, có gì đâu! Đơn giản thôi! chỉ cần một động tác nhẹ nhõm uốn mình nhảy qua khe suối nhỏ. Giống như chú mèo uyển chuyển, nhẹ nhàng nhảy từ trên mái nhà xuống nền đất. Thế là Hiếu Hòa đã rũ bỏ sau lưng tất cả mật ngọt, hương hoa tình yêu, và hủ mật... đắng, đắng nghét của đời giông bão đang uốn lên uốn xuống... làm kiệt lực con người trong giòng sinh mệnh chiến chinh bùng vỡ trên quê hương. Vì đời em lá bạc, nên quyết chí phen nầy em phải xông xáo đứng lên... từ “Dặm Trường Lặng Lẽ”:
    Trần mây nặng, vì gió lùa rung tiếp.
    Núi đứng nhìn trời biên biếc khói sương.
    Em đi… đem theo luyến tiếc, thương phố phường!
    Anh ở lại, bao đêm trường qua góc phố.
    Kẻ nhớ người chờ, mong hội ngộ.
    Ân tình trọn kiếp tơ tằm vương.
    Bởi ly tan nên tóc ngã màu sương.
    Nay bóng xế dặm trường không hoa nở!
    Đời tang hải mấy ai chưa vàng võ.
    Ít nhiều chi cũng thấm lệ rơi.
    Lẽ nào không có đơn côi?
    Tình đời dâu bể một thời xót thương
    Đôi khi lặng lẽ trên đường…(4)
    *
    Tình Hoài Hương


    (1) Lý Thảo Yên
    (2) Nguyên Thạch
    (3) Thanh Cảnh
    (4) Tình Hoài Hương
    Trân trọng mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. #4
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Trên Đồi TÀ BIÊN


    Cho Một Người Nằm Xuống;
    Nhạc: Trịnh Công Sơn
    Duy Khánh ca


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 4
    Trên Đồi TÀ BIÊN
    Tình Hoài Hương
    *

    Hiếu Hòa ngồi trong ca bin xe GMC ngó ra dòng sông Trà Khúc mênh mông: bờ nầy và bờ kia nhìn tưởng là gần, nhưng mà so ra là thật xa, xa mờ xa dưới ánh trăng tàn chênh chếch, bàng bạc, lạnh lẽo bao bọc bởi lớp sương mù và lớp khói xám bốc cao ngùn ngụt ở góc trời lững lờ uốn éo bay bay. Dọc hai bờ quốc lộ và ẩn dưới núi rừng hoang vu cùng bao làng mạc ruộng nương, thì sông Trà Khúc dài 135km, nguồn sông bắt đầu từ núi Đắc Tơ Rôn, do bốn con sông Đắk Xà Lò, Rhe, Tang Ong, Rhinh, nơi ngã tư của bốn hợp lưu sông nầy còn có tên gọi Ly Lang. Sông chảy qua Sơn Trà, Sơn Tịnh, Tư Nghiã, Nghiã Hành và đổ ra cửa biển Đại Cổ Lũy.

    Ven bờ có hàng tre lớp lớp nghiêng bóng ẻo lả sà xuống soi mình trên mặt nước, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt, lá tre reo vui ca hát khi trăng đã lặn, thì bình minh quang rạng, nắng sớm lấp ló vừa lên trên đầu cây ngọn cỏ, ấy là lúc đoàn xe ba chiếc trong phòng Tâm Lý chiến đã tới nơi cần đến, càng thúc giục ”cô nhỏ Hòa” non nớt tuổi đời dạt dào niềm vui, nôn nóng, xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm.

    Tỉnh lỵ Quảng Ngãi an ngự tại thị tứ Cẩm Thành, Quảng Ngãi có những nét đặc thù riêng vô cùng độc đáo, thi vị, nồng nàn tình yêu thương chan chứa (mà có lẽ chẳng mấy khi các anh chị bạn chung nhóm và Hòa nghĩ tới). Đó là tên địa danh cuả các Thôn, Xã thường ưu ái đặt theo Huyện lỵ của mình. Ví dụ như: Nghiã Hành, thì có các Xã = Hành Dũng. Hành Đức. Hành Minh. Hành Nhân. Hành Phước. Hành Thiện. Hành Thịnh. Hành Tín Đông. Hành Tín Tây. Ba Tơ = thì có: Ba Bích. Ba Dinh. Ba Điền. Ba Động. Ba Chùa. Ba Cung. Ba Giang. Ba Khâm. Ba Lễ. Ba Liên. Ba Nam. Ba Ngạc. Ba Thành. Ba Trang. Ba Tiêu. Ba Tô. Tư Nghiã= thì có: Nghiã An. Nghĩa Điền. Nghiã Hà. Nghĩa Hoà. Nghĩa Hiệp. Nghĩa Kỳ. Nghiã Lâm. Nghiã Mỹ. Nghiã Phương. Nghĩa Sơn. Nghĩa Thắng. Nghĩa Thọ. Nghĩa Thuận. Nghiã Trung. Nghĩa Phương. Nghĩa Phú... Trà Bồng = thì có: Trà Bình. Trà Bùi. Trà Giang. Trà Hiệp. Trà Lâm. Trà Phú. Trà Trà Sơn. Trà Tân. Trà Thủy... Thật tuyệt vời khi nhận ra nhau là "họ hàng" thân mật.

    Tiểu khu Quảng Ngãi có một phần chi khu của bộ chỉ huy hành quân nơi Sư Đoàn 2 trú đóng. Xe chạy từ dưới Tỉnh Quảng Ngãi lên hướng Huyện Minh Long, bên phía phải nhìn từ xa xa thì đồi Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng, lưng đồi lổm chổm những mảng da đất khô, coi thô kệch, kinh dị như những cục máu bầm nứt nẻ, tạo thành vết thương lồi lõm lở loét. Sau cơn mưa chiều hôm trước, con đường đất đỏ độc nhứt ngoằn ngoèo càng sình lún, nổi bật trên lưng đồi quanh co là những chiếc xe nhà binh lắc lư, xe mệt nhọc chậm rì mò mò bò bò theo vết xe cũ.
    Cũng đứng nhìn từ xa thì con đường đất nầy tạo thành một sợi gân khổng lồ, xù xì, gồ ghề, dày cộm nhô cao, chia ngọn đồi ra hai phần: ở giữa hai lằn xe, là đường đất uốn lên uốn xuống, cạ quẹt rột rột rào rạo ràn rạt nơi lườn xe, khiến bùn sền sệt văng tung tóe khi xe rồ máy, mọi sự di chuyển càng khó khăn thêm.

    Dưới chân ngọn đồi Tà Biên có nhiều bãi cỏ hôi mọc um tùm, bụi hoa mắc cỡ chằn chịt gai mọc lúp xúp. Chung quanh là công sự phòng thủ giao thông hào bố phòng cẩn mật, chu đáo: Hai cánh cửa cổng gỗ khá lớn, có sợi dây xích dài và to, móc từ bên trạm gác ở phía vào, sợi dây giăng qua tít bên trạm gác ở phía ra. Sau sợi dây xích có thêm một vòng chắn, ấy là nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn, dính lòng thòng những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại bao la, thỉnh thoảng khi có gió lùa, những chiếc lon kêu leng keng, kêu hoài, cộng thêm những con bọ ngựa gỗ. Tại cổng gác có hai anh lính đứng làm việc trong trạm, và hai anh khác bồng súng gác ngoài cổng. Trạm gác có hệ thống đường dây chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã chiến reo róc róc ro…óc… hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay trên máy truyền tin nhanh chóng kêu tít tít tít, tè tè tè…ti ti… Bên trong doanh trại cũng có hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên bậc thang đắp đất lắt lẻo, chênh vênh, cheo leo ở bốn mé sườn đồi.

    Dọc theo tứ phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng bốn năm hecta, có rào kẽm gai chằn chịt, những giao thông hào cao lút đầu người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bê tông chắn ghi sắt kiên cố dày và to. Chung quanh những hầm chất thêm nhiều hàng bao cát cao, dường như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống lòng đất sâu, chỉ nhô lên khỏi mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía. Bên mé phải là nơi đặt bộ chỉ huy hành quân. Từ xạ trường nhìn xuống dưới thấp là một vạt đồng trống, nên dễ nhìn thấy mọi thứ dưới tứ phía làng mạc xa gần.
    Ngọn đồi dựng đứng cao sừng sững là vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và điều quân; thì không thể nào chê. Ngoài ra, có kho đạn và bãi đậu cho các phi cơ tốc hành hạng nhẹ.
    Một máy phát điện khổng lồ thường xuyên ầm ỉ nổ suốt ngày đêm. Bên mé trái ngọn đồi là bệnh viện dã chiến nằm lún một phần tư xuống lòng đất, có vài cửa ra vào ở lưng chừng đồi. Gần tổng hành dinh có một giàn trọng pháo, nơi đây các binh sĩ Pháo-binh làm việc quần quật không ngừng nghỉ, họ luôn tay điều chỉnh tác xạ theo nhu cầu chiến trường: nâng nòng súng lên, khi thì điều chỉnh chính xác phương giác cho đạn đạo.

    Sáu giờ sáng, đoàn xe Phòng 5 gồm hai chiếc xe GMC chất đầy dụng cụ ván gỗ kèo cột loại nặng, giàn trống, các loại đàn, màn, sân khấu, vân vân... để làm một sân khấu lộ thiên khá lớn, & một chiếc xe jeep. Đoàn 5 tiến tới con đường nhỏ độc nhứt chạy một chiều tấp nập đủ thứ loại xe nhà binh chạy lên đồi cao ì ầm. Gò đất đỏ chẹp nhẹp bùn do cơn mưa mấy hôm trước, cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống vũng sình lầy, con đường trông như con lươn đất uốn lượn nhô lên cao (con đường nầy giống đúc đường cái mà xe hàng chở hành khách lẫn xe lính vừa đi qua).
    Đoàn xe đậu tại vạt đất trống, để chờ xin lệnh từ Bộ Tổng-Chỉ-Huy Hành-quân, khi nào ban điều-hành cho phép, thì xe mới chở quân nhân vô doanh trại. Các cô gái ưa đùa dai, gọi giỡn là khu “phi phe” quân sự của Sư-đoàn 2 chiến thuật. (“phi phe quân sự” nầy không phải vùng DMZ= de-militarized-zone, nằm ở phía Bắc của Tỉnh Quảng Trị, dọc theo bờ Nam Bến Hải, mà Gio Linh là một quận lỵ đâu). Hai anh lính gác tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc xe đậu bên lề đường, (trong đó có ba xe của Phòng 5) thì đoàn xe được phép vô vùng cấm địa khá rộng.

    Từng cơn rung chuyển chạy rần rần, động trời động đất, động suốt dòng sông quê hương, dưới bước chân người lính chiến và cư dân muộn phiền run run, đau đau, buốt buốt, tê tê, lạnh lạnh bên hai bờ thôn xóm quê mình. Đoàn xe từ từ tiến vô khu tổng chỉ huy hành quân. Cùng lúc ấy những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo mùi mỡ khét, thịt cháy bốc lên hừng hực từ đám khói đen nghịt xa xa lùa theo gió ào ạt bay về. Đại bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, súng giận dữ gào thét ùm ùm, uỳnh uỵch… oằng! trút cả khối hung tàn đến khu rừng già tận phía chân trời xa.
    Nhiều loại súng ì oành ì ầm, pằng, pằng, pằng… rít rít, xiu xít… cắc bụp... gay gắt vang trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn hầm chắn ghi sắt. Cửa hầm phủ bạc, thỉnh thoảng tủ sắt giật rung kêu ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang.

    Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi. Có lẽ do bắn trực xạ dữ dội và gần lắm, khu đồi sôi ục ục, rung rinh, nghe thật ớn lạnh. Tiếng súng cối thị uy bắn vô ngọn núi Ô Chai xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất từng hồi trầm thống, gầm rú rền rền như những nhịp sấm dồn. Phía chân trời, các đụn khói đen sì cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng khói lửa tỏa rộng ra, đụn khói quyện lửa giống mấy cây lọng che khổng lồ, đùn đùn khói đen xám, rồi lửa vàng đỏ nối tiếp nhau phụt vọt lên lưng trời, đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt lại xoắn xuýt quấn lẫn vô nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới trời đất xiên xiên mờ mờ sương lam muối vùng núi, rồi khói đen lửa đỏ phủ chụp xuống ngọn đồi trọc hoang tàn nhanh như chớp. Tiếng súng lẫn lộn vẫn nổ rang, ầm ầm, rúng động cả bầu trời. Tất cả các loại đạn nổ chụp, nổ tạt, delay... cắt bụp xè... thay phiên nhau cày xới đất, xé tan nát những gì nằm trong tầm sát hại.

    Chiếc bà già xập xệ, ì ạch kịp thời bay giữa cơn lốc cuốn cao. Tuyết Ngọc lo sợ nó bị hút xuống vùng trôn ốc, không qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng lông lốc quá! Nhưng chiếc phi cơ vẫn bình an vô sự tiếp tục làm nhiệm vụ quan sát cho thật rõ, viên hoa tiêu lượn quanh vùng, máy bay nghiêng ngả trên bầu trời, vòng bay khi hẹp khi rộng, trông thật bay bướm lả lướt ngoạn mục quá chừng! Từ trời cao, khu trục cơ Skyraider bay hợp đoàn bốn chiếc gầm thét chúi mũi vào mục tiêu, động cơ rít trong gió, mỗi chiếc mang khoảng 6 trái bom. Những vật đen nho nhỏ rời cánh lao xuống lòng đất. Quả bom được ném xuống mé núi hướng Tây Bắc ầm ầm… Ùm ùm... Bùm bùm…
    Tiếng pháo nổ như đâm thủng óc
    Gieo kinh hoàng râu tóc phạc phờ
    Tử thần trông đợi từng giờ
    Ai người tới số có ngờ được đâu
    Đạn pháo địch trên đầu rơi xuống
    Hầm dẫu sâu nào luống an toàn
    Một viên rớt trúng là tan
    Ngày về lại thấy bao hàng khăn tang (1)

    Vạn vật bị cày tung cào xới, xé toang hoang, rồi cuồng bạo vất mọi thứ bay ngược lên cao, khi đã hết đà, lại rơi lả tả hay lăn lông lốc trên mặt đất. Lửa cuồn cuộn bốc lên theo sau đuôi cũng là lúc phi cơ ngẩng đầu cất vút lên cao. Anh phi công tài hoa dễ thương nào đó (có thể là của Ngọc, hi hi hi…) bay lượn vài vòng, phi cơ nghiêng cánh chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, rồi rời vùng hành quân bay vút đi mất dạng vào vừng mây trắng xa xa.

    Sau nhiều ngày qua thì pháo kích ngưng bặt, trả sự yên tĩnh đôi chút trên bình nguyên còn thao thức. Ngọc nghĩ: Lính Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân, Dân Vệ là những tay súng lặng lẽ âm thầm, mà rất cừ khôi & chính xác, họ kiên cố giữ lũy thành chắc chắn. Vì, họ thông thạo từng bờ cây bụi cỏ, biết rõ tường tận từng xóm, từng thôn, từng người; ít khi lầm lẫn. Cộng thêm hầm hào kiên cố với trường lũy Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) sẽ kiểm soát giữ gìn non sông gấm vóc, do ông cha truyền lại từ ngàn xưa thoát khỏi cảnh: "Người tại xứ mình lại xâm lăng đất nước chúng ta" trên chính quê hương chung, chia sẻ niềm đớn đau thiết thực qua vết thương hoác miệng trầm thống, vì cảnh nồi da xáo thịt cốt nhục tương tàn, cảnh người lừa gạt người. Người bội phản người. Người thù hận người. Và, người phản bội quy ước hiệp định: đã tràn vô Nam thao túng xâm lăng, thẳng tay chém giết sát hại người thân như điên. Người bị chiến tranh hành hạ cưỡng bức tan hoang trên chính đất quê mình!

    Từ vòng đai kiên cố nầy (Strategic Hamlets) là động cơ thúc đẩy người đi làm cách mạng giật dây, rù quến, hò la kêu gào nhau đứng lên phản đối chính phủ hạn chế quyền tự do đi lại, bị kiểm soát giấy tờ tùy thân chặt chẽ, bị kiểm soát từng Thôn, Ấp, mất tự do vì hàng rào Ấp Chiến Lược. Vâng! Tuy mất thì giờ thật, nhưng xôi đậu không lẫn lộn, an toàn, bảo đảm an ninh và giữ gìn sinh mạng muôn người, kẻ gian ác xớ rớ trong thôn xóm là bị lộ tung tích ngay. Ta tưởng cần nên có vòng đai Ấp Chiến Lược chắc chắn kiên cố nầy lắm thay! (4)
    * * *
    Bây giờ Hoà biết tin đích xác, anh Trung-uý Trưởng-phòng Phước thừa lệnh Đại Tá Lâm Văn Phát ra chỉ thị mới:
    - Tất cả anh em Phòng 5 trực tiến không thể lùi, phụ giúp bên quân-y khiêng người bị thương, nhặt xác chết phe ta lẫn địch quân, cấp tốc chở về hậu cứ.

    Trời ơi! Nghe tin đó Hoà đứng xớ rớ đằng sau lưng anh Vũ, sợ đến bải hoải chân tay, căng thẳng trí óc, cô thút thít khóc, rụng rời lệ giọt dài giọt ngắn, hai chân lết lết run run lê lê rã rời, ủ rũ đi từng bước ngập ngừng trên đường đến tụ điểm làm việc. Mấy anh chị tưởng cô em giàu tình cảm xúc động ngậm ngùi trước cảnh thương tâm, đã trào nước mắt. Chứ họ có ngờ đâu con bé chết nhát nầy chả ra cái thể thống gì! Khi Cộng-quân phóng pháo, độ rung kéo dài từng chuỗi nghe rúng động đảo điên cuồng sát. Từ ngoài bản doanh có một xe cứu thương hú còi inh ỏi, xả hết tốc độ lao vô khu bệnh xá, xe mang theo người ngoài ấp lạc đạn bị trọng thương.

    Ngọc vội chạy tới xem một hầm lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình nghi chúng nằm vùng vừa tóm được) ban đêm phòng Nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Vài xác chết chưa biết là ai, (Nghĩa- quân, Dân-vệ hay thường dân, hoặc “vi ci” do máu me bê bết trộn với đất cát và khói tèm lem, nên chẳng rõ!?) căng phồng). Giờ phút thập tử nhất sinh nầy, hơi sức đâu ai có thì giờ mà đi bới móc lý lịch cá nhân ra cho rầy rà? Họ lo quắn đít chữa trị mọi người ngáp ngáp sống còn, xin đừng hộc máu tươi ra thêm mà thôi. Nhân viên cấp cứu cùng nhau đưa gấp các bệnh nhân vô nằm trên chiếc băng ca. Y sĩ, y tá cúi đầu xem xét các vết thương. Cánh tay, bàn chân của một ông tím bầm, sưng húp, lở loét, nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy.

    Một anh mặt mày xanh méc, (do mất máu), run run lúi húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi loang lỗ máu tươi. Anh Sáu Dương bị thương khá nặng vẫn ăn nói đàng hoàng, tỉnh táo nhếch mép ngóng cổ lên nhìn vết thương ở tay, trên bụng, trên đùi. Anh nhìn ngó lung tung như không có việc gì quan trọng trước khi bất thần "rệu" xuống. Hoà sợ e anh sẽ “đi đon” quá, khi anh:
    Tôi trở lại Cao Nguyên miền sơn cước
    Đường mù sương đẫm ướt nửa tấm thân
    Kẻ một chân, lê nẻo bước phong trần
    Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ Quốc. (2)

    Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm, tiều tụy dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa, may thô thiển vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, một chân mang dép râu, một chân đất. Hai cánh tay nổi ốc trâu xù xì dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí tuổi đời mới độ mười lăm mười sáu, lớp ghéc đất bẩn thấm mồ hôi vo viên đen đen nhỏ xí vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn.

    Khiến Hòa cảm thấy phiền phiền, ngây ngây, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam miền Nam, trong lòng cô nẩy nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy bàng hoàng lo sợ. Hoà muốn đánh bài chuồn. Không dám chạm trán với các bác. Gặp "bác" kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa, éo le, tàn phai, nát đời. Chứ không được hay ho, tuyệt vời như nhạc phẩm “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước mô nà.

    Cuối góc phòng có xác chết to phình, căng cứng như con vật kỳ lạ, mắt đứng tròng mở thao láo. Bụng căng phồng như chiếc bong bóng da heo. Anh Vị để họ nằm trong poncho, bên trên mé hầm của khu bệnh xá, xác chết chưa kịp chôn, thum thủm thúi. (Ngày xưa, mỗi khi làm thịt heo, ba lấy bóng da heo bơm đầy hơi, cột kỹ phơi ngoài nắng cho anh em Hoà làm trái bóng đá nhăn nhúm chơi đùa).
    Ngọc dám đến cúi sát xuống một anh lật khăn che mặt, tò mò xem từng người chết nhìn rất kinh dị, tay xuôi theo thân hình co quắp. Có người giống thân cây chuối bị đốn ngã, róc hết lá vẫn nặng kinh khủng. Những bàn tay tài hoa khí phách nam nhi, bản lĩnh và dũng mãnh ấy không rõ dấu chỉ tận cùng bằng số ở đâu? Ngọc cả gan dám đến bên một anh lính, nàng vén tóc xem trái tai anh ta lớn hay nhỏ, yểu mệnh tới đâu. Ngọc lại cầm bàn tay kia lên, nắn nắn bóp bóp, lật qua lật lại, cô coi đường chỉ thọ của họ ghi đến chỗ nào.

    Hoà sợ kinh khủng, không dám nắm bàn tay Tuyết Ngọc cả tuần. Những buổi cơm nhìn miếng thịt heo, thịt bò, nhứt là thịt ếch, (con ếch khi ai làm thịt, thì nó luôn chắp hai tay trước lại van lạy xin tha mạng, nó lỏ hai con mắt trợn trừng tráo trưng, khi lóc hết da con ếch Hoà trông sao mà giống... con người)! Thịt ếch bơi bơi trong tô canh chua lá giang. Hoà nghĩ đến con ếch chắp đôi tay, mắt thao láo trợn trừng, nghĩ đến vết thương lở loét, đỏ tím, hoác miệng trên bụng người chết. Ếch là một loài động vật lưỡng thê, sống dưới nước và trên bờ. cặp mắt ếch chỉ nhìn được những chuyển động nhanh, những chuyển động chậm thì hoàn toàn không thấy. Tự dưng cồn ngực vun tròn nhấp nhô phập phồng theo nhịp thở, Hoà chạy xộc tới cuối vườn, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Hoà sợ mâm cơm hơn bất cứ thấy gì.

    Tuần sau lại thấy thân hình anh Nguyễn Văn Ba thi sĩ, lính Bộ Binh Sư Đoàn 2 bị hất tung lên cao, thân xé ra từng mãnh nhỏ, xương thịt rơi phịch xuống đất, giống bịch gạo tung tóe vung vãi ra. Anh Ba chết thảm trước ngưỡng đời vừa độ bừng chớm tuổi hai mươi. Anh chưa vợ chẳng con, chưa một lần hò hẹn, chưa nếm mùi chiến đấu giao tranh thổn thức với đời, Anh chỉ yêu binh nghiệp. Thế mà như một linh cảm vô cùng điếng lặng, đau đớn xót xa, anh đã nhắn nhủ với bạn qua lời di chúc bất ngờ trong bài thơ:
    Xin đừng đem ra biển khi tôi chết.
    Đưa về BỒNG-SƠN, PHÙ-CÁT, CỬA-VIỆT.
    BÌNH-GIÃ, TRÃNG-BOM, PHAN-THIẾT, TÀ-BIÊN.
    Bên mộ cổ nhân ĐỨC XUYÊN bạn hiền.

    Không ra đại dương. MỸ-ĐIỀN, THỪA-THIÊN*
    AN-KHÊ, HỒNG-NGỰ, PHÚ-YÊN, GIỒNG-RIỀNG
    QUY-NHƠN sóng gợn HÀ-TIÊN ta tới.
    Bạn lính VŨNG-TÀU, ĐẦM DƠI đồng đội.

    Tôi chết đừng đem ra biển. ĐẮC-ĐOA
    Quân hành từng đêm VẠN-GIẢ, KHÁNH-HOÀ
    Hải-trình xưa nhớ SƠN-TRÀ, MỘC-HOÁ
    Sương khuya SÔNG-CẦU, ĐỒNG-XOÀI, BÌNH-ĐỊNH.

    Đừng đưa ra biển. LỘC-NINH, VÕ-ĐẮC*.
    SA-HUỲNH xin về ĐÀ-LẠT, ĐỒNG-NAI
    TRÀ-MY, HOÀ-NGHIÃ* GIA-LAI, CẦU-NGANG.
    PLEI-ME, DAK-NÔNG, CHÂU-THÀNH* VẠN-NINH* .

    Khi tôi chết, đi ĐÀ-NẴNG, GIO-LINH
    Tìm tới anh hùng TRÀ-VINH, SUỐI-VÀNG*
    SÔNG-CẦU, VĨNH-LONG, HẬU-GIANG, THÁP-CHÀM.
    Xin gần PHÙ-MỸ, PHAN-RANG, TRÀ-THẠNH*.

    Nhớ bạn ĐẮC-TÔ, HỘI-AN, ĐỊNH-QUÁN.
    Đã chết, không ra biển vắng bạn vàng!
    Về HUẾ, U-MINH, KIÊN-GIANG, TRÃNG-BÀNG.
    ĐẮC-LẮC, GIA-LAI, TAM-QUAN an hưởng

    Tôi chết QUẢNG-TRỊ, BÌNH-SƠN* tôi dừng…
    VŨNG-TÀU ghé qua TÚC-TRƯNG, ĐỊNH-TƯỜNG.
    CẦN-ĐƯỚC gào thét BÌNH-DƯƠNG, ĐẮC-NÔNG.
    Đầm bùn ĐỒNG-ĐẾ, MINH-LONG, ĐỨC-TRỌNG*.

    Khi tôi chết không ra biển. Ước mộng...
    Tình lính ĐÔNG-HÀ, PHƯỚC-LONG, GÒ-CÔNG.
    Linh cửu ghé về CHƯ PRÔNG* LÂM-ĐỒNG.
    SA-ĐÉC, AN-KHÊ, TRÀ-BỒNG sôi động.

    Tôi chết rồi không ra biển... rất mừng!
    ĐỒNG-THÁP thắm thiết TÚC-TRƯNG, BÌNH-DƯƠNG.
    Nghìn năm ôm trọn quê hương nhớ tưởng.
    Tôi ở trong mồ phù trợ an khương... (3)
    *

    Nỗi u ám đã chín đen như cơn giông sét đánh toé lửa, phủ chụp xuống đời nhau, tưởng chừng một nửa thân Hoà đã móc nối sít-sao, ăn khớp với xác người xa lạ. Như nửa phần thân thể người chết trĩu nặng luôn dùng dằng trì kéo bám túm lấy Hoà không thể cựa quậy nhúc nhích nỗi. Lòng cô em rớt xuống trũng ưu phiền hố thẳm tăm tối mù mịt phủ đầy lá non, giống nõn trà hong phơi dưới lửa bỗng tàn úa quá nhanh, khiến mình thêm rũ liệt. Hằng ngày, cả nhóm tâm lý chiến đi ủy lạo săn sóc đồng bào và chiến sĩ. Anh chị em hướng dẫn trẻ em đồng bào cách giữ gìn vệ sinh, phòng tránh bệnh truyền nhiễm, phân phát thuốc men, nhu yếu phẩm, quần áo chiếu chăn, phụ giúp đồng bào thu dọn nhà cửa, vườn tượt tan hoang hư nát. Phúng viếng tang gia bối rối. Họ chu đáo lo việc ma chay tươm tất đàng hoàng cho đồng bào.

    Trước cảnh đau thương tàn khốc, dù các cô có đi quyên gom hết tất cả tiền tài, và lòng trắc ẩn mọi người trên quê hương, ngỏ hầu mong bù đắp lại muôn điều đau đớn, mất mác to lớn ở một góc quê nầy. Tưởng vẫn không sao lấp đầy, không thể nào xoa dịu nỗi khổ đau khốn cùng bi đát đầy cay đắng trong lòng họ:
    Không phải vì mình mà tôi nuôi cơn giận
    Nhưng vì bao đồng đội thương phế binh
    Những anh hùng đã dâng hiến thân mình
    Trong bom đạn trong chiến chinh giữ nước
    Những anh hùng không bao giờ khiếp nhược
    Dù phế tàn thân thể vẫn mỉm cười
    Giờ họ đang lây lất giữa cuộc đời
    Đến tuổi già vẫn không nơi nương tựa (1)

    Không hiểu sao bài lịch sử Hoà đã học: Từ trận quyết chiến quyết thắng của Đức Trần Hưng Đạo. Cho đến vụ nước Nhật bị trái bom nguyên tử đầu tiên ném xuống thành phố Hiroshima ngày 06.8.1945, tiêu diệt 66 ngàn người. Rồi trái bom thứ hai thả xuống Nagasaki 09.08.1945 đầy kinh dị, người chết la liệt trên đất Nhật. Tất cả bừng nhớ trong tâm trí Hoà.

    Cảnh kinh thiên động điạ có thật đã xảy ra từng ngày rùng rợn ấy. Nỗi thống hận, dã man, quằn quại, đau đớn, đói khát, bệnh tật. Lương dân rên siết, mù lòa, cùng khổ, không có tương lai. Kẻ xâm lăng quê mình lạnh lùng thẳng tay cuồng nộ giết hại người thân. Người dân vô tội bị làm mồi cho cường quyền đầy tham vọng thống trị. Dân đen muôn đời thiệt thòi đau đớn với hai bàn tay trắng bị cào xé trần truồng tan hoang. Chiến tranh nguyên tử cuồng nộ hung hăng húc vào muôn dân bên xứ anh đào Phù Tang kia. Và… kẻ về đây tạo ra thảm cảnh chiến tranh Việt Nam, so ra... chưa thua đau khổ Tokyo-Việt Nam là mấy! Nỗi đau khổ của con người trong cảnh chiến tranh tràn đầy trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Tin tức nóng bỏng từ truyền thanh, báo chí mỗi ngày một nhiều.

    Cuộc chiến dần dần mở rộng như vết dầu loang, như vòi con bạch tuộc. Từ các nẽo miền quê xa xôi loang nhanh đến ven biên thị thành, đè nặng lên đầu người. Đến nỗi Hoà không dám ngẩng mặt nhìn lên, chỉ thập thò lấp ló dúm dó co ro nép bên vách hầm hào chắn bao cát, mở to mắt nhìn dáo dác ra ngoài lỗ châu mai. Hoà không khỏi kinh ngạc, khi thấy mặt trời vẫn ưu ái đan chiếc cầu vồng bảy sắc lung linh, vui tươi hào phóng rót nắng vàng rực rỡ, từ thinh không nắng êm ả chan hoà lên vạn vật, ve vuốt từng phiến lá ru tình đong đưa. Chim chóc lí lí lắc lắc nhảy nhót, ríu rít hót líu lo, hoà ái trữ tình, lảnh lót lơi lả trao duyên.

    Chao ôi! Cảnh quê hương cẩm tú chìm trong chiến tranh nầy, chính là mảnh đời buồn bã trong cuộc sống muôn điều có thật. Dù cho Thu Hoa, Lan Anh, Mai Hồng, Tuyết Ngọc đã xức nước hoa hiệu Charlie, Tabu, hay loại thượng hảo hạng J’adore; vẫn không khỏi ngửi mùi tử khí tanh nồng chát khét quanh quất đâu đây. Cuộc đời thật chẳng có nghĩa lý gì trước ngày chân không dài vô tận; khi con người ngơ ngáo bàng hoàng ra đi vào vùng tử biệt, súng đạn vèo vèo bay trong đêm, tạo thành một đường sáng loáng vút tới vút lui. Khói lửa chiến tranh còn ở lại: thì đói khát bệnh tật, chết chóc, tan nát, đớn đau mãi cào xé, dày vò tận cùng tơ rung xương tủy huyết mạch con người.
    *
    Tình Hoài Hương
    *
    Mỹ Điền* thuộc Long An
    Đầm Dơi* thuộc Cà Mau.
    Suối Vàng* thắng cảnh ở Đà Lạt
    Châu Thành* Bà Riạ & Tây Ninh & Tiền Giang
    Vạn Ninh* thuộc Vạn Giả, Khánh Hoà.
    Trà Thạnh* thuộc Bình Phước
    Bình Sơn* thuộc Quảng Ngãi.
    Võ Đắc* thuộc Bình Thuận
    Chư Prông* thuộc Gia Rai
    Đức Trọng* thuộc Đà Lạt/Tuyên Đức. (3)
    * * *
    (1) Trương Trọng Kiên
    (2) Nguyen Thạch
    (3) Thơ Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    ***


    (4) Mãi về thời gian khá dài sau nầy, được vinh dự đọc bài viết cuả ông Trương Văn Vinh, tác giả rất đắc ý về "Quốc Sách Ấp Chiến Lược… vậy xin ông Trương Văn Vinh: cho tôi mạn phép trích dẫn ít trích đoạn, và chân thành cám ơn ông TVV về vấn đề : Quốc Sách Ấp Chiến Lược: Nguyên văn ông Trương Văn Vinh viết:
    Đây là nhu-cầu thiết yếu để chống lại chủ nghĩa Cộng Sản và cũng là sách lược hữu hiệu nhứt của nền Đệ 1 Cộng-Hòa, cần chận đứng cuộc xâm-lăng của Cộng Sản Bắc-Việt. Quốc Sách Ấp Chiến Lược là tách rời du kích quân sự cộng sản ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho chúng bám dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở và hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn để chúng phải chọn lựa, một là ra hồi chánh, hai là bị tiêu diệt. Nắm vững được sách lược của địch, Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược, đây quả là một đối sách đúng đắn và vô cùng lợi hại của chính quyền lúc bấy giờ.

    Tất cả các Ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố bao quanh, các cổng chính ra vào được canh gác đúng mức tùy theo địa thế, mỗi Ấp đều có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, ban ngày người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ mặt muốn vào Ấp phải qua thủ tục kiểm soát chặt chẽ, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại, tuy nhiên các trường hợp cấp thiết của dân chúng vẫn được giải quyết. Ngoài ra, các Ấp Chiến Lược đều có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp vào Ấp. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. Ấp Chiến Lược được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng và tự phát triển.

    … ; … Trở ra miền Trung, Chiến dịch hành quân, “Rạng Đông” trải rộng ra suốt Tỉnh Bình Định, hoàn thành 328 Ấp Chiến Lược, rồi cuộc hành quân “Phượng Hoàng” thuộc tỉnh Quảng Ngải có 162 Ấp, và cuộc hành quân “HảiYến” thuộc tỉnh PhúYên thành lập được 281 Ấp. ‘Tất cả cho chương trình Bình định xây dựng nông thôn” Cuối mùa Hè năm 1962, chính phủ Diệm công bố: 3225 Ấp đã hoàn thành, trong kế hoặch phải đạt cho được 11,316 Ấp, như vậy là 33% dân số thôn quê, có nghĩa là 4, 3 triệu dân đã được định cư tại các Ấp Chiến Lược.
    (TVVinh)
    ***
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  5. #5
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Tháng Giêng & Tình Anh Lính Chiến



    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 5

    Tháng Giêng & Tình Anh Lính Chiến


    Hiếu Hoà ráng bện-đơm vô trong tâm chút hương hoa nồng ấm tình quê ở ngay trước mặt, mà xem ra dường như dật dờ, vời vợi, vò võ, lặng lờ, mênh mông, im lắng, bởi mọi thứ đang rời xa khỏi tầm tay mình. Từ nơi đây cảnh vật và con người đã thay đổi khác hơn xưa mất rồi! Hoà như con le le tan tác đàn, chấp chới, chờn vờn lạc lối bay giữa vùng trời bao la, lòng hoang dại với đôi cánh mệt mỏi rã rời…

    Hoà nhìn khu ấp chiến lược dưới chân đồi bây giờ đã khác hẳn, coi thật buồn bã, vô cùng đơn độc khi nắng mới vừa ươm (hay chiều tà phai nắng lả lơi vắt mình trên đọt tre la ngà). Dù rằng quê hương trọn đời thủy chung không bao giờ phản bội con người; mà chính con người ngoảnh mặt quay lưng lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn, vì ai đó đành đoạn tập kết ra Bắc, rồi lủi vô Nam, lén gây ra cảnh chinh chiến tang thương khổ sầu trong lòng đất mẹ Việt dấu yêu? Để bây chừ nơi bóng chòi canh gỗ cao chót vót có những người lính phong sương đầu đội nón sắt, họ lo trấn giữ biên cương suốt từ tháng Giêng đến tháng Chạp chẳng hề nghỉ ngơi, bổn phận các anh chia nhau trông coi một vòng cung trách nhiệm. Hòa thấy anh đơn điệu, im lặng, chơ vơ trên vọng gác nơi phòng tuyến lồng lộng gió, tay anh luôn ghìm chặt bá súng, mắt anh chăm chú quan sát tứ phía, anh gìn giữ nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, xe GMC, xe thiết giáp cày xới, đất đỏ ngợp trời mù bay, nhiều khói thuốc súng dày phủ một góc núi, hoặc trầm lắng:
    Trong đêm tối ai đang canh bóng giặc.
    Anh có tiếc một thời anh đã mất.
    Xác phượng hồng tơi tả tóc ai bay.
    Cao nguyên đó một chuyện buồn bỏ ngỏ.
    Bom đạn về cày xới cảnh tang thương. (1)

    Bụi cây bờ cỏ bị đốt trụi đen thủi đen thui bên sườn dốc, len lỏi nơi khúc đồi thưa có con lộ với hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, dẫn đến doanh trại bộ chĩ huy của Sư Đoàn 2 chưa chắc hứa hẹn yên ổn, an vui gì. Hoả châu luôn bừng nở trong không gian đẫm sương mù và lạnh giá. Sau loạt B 40 và bê ta, nhiều hoả tiễn xè xè vút vút bay, từng chuỗi nổ dồn dập rền rền ngân vọng. Kinh khủng và buồn ơi là buồn biết bao! Địa pháo tới tấp rót xuống vùng giao tranh ác liệt, đạn rít bên mang tai rú rền, nghe to hơn trời long đất lở, ôi điêu tàn đổ nát, mắt các em và anh lính Bộ-binh nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí tiến vun vút về phía nội thù: Xi xi xì... Tạch tạch tạch… Pằng pằng… Uỳnh. Oằng. Ùm. Đạch đạch… cắc bụp, cắc cắc, bụp xè...

    Sau khi bị pháo kích, thì quân ta đã phản pháo khá lâu. Đầu choáng váng đinh tai nhức óc, lừ đừ leo lên mấy bậc cấp làm bằng bao cát, chui tọt vô hầm Hoà lấm lét nhìn ra lổ châu mai: trên trời luôn có những chiếc phi cơ vun vút bay đi bay lại, rồi bay vút vô vùng khói lửa thảm khốc không chút ngại ngần. Theo đà lướt từ mấy chiếc phi cơ có mang theo những quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định khá chính xác. Những cây nấm lửa cuồn cuộn khổng lồ đùn lên, đùn lên cao. Khiến địch im hơi lặng tiếng nhiều giờ. Dưới đất xe tăng ầm ầm hú động quái dị nghe điếc tai không kém gì tiếng bom nổ xa xa.

    Tàu bay thả lính Dù xuống rất xa dưới chân đồi, cuộc tổng tấn công quy mô của quân-nhân Nhảy Dù do Trung Tá Trần Quốc Lịch đích thân chỉ huy. Chân chưa bén đất, lính Dù đã hét vang, sôi bỏng cơn uất giận bùng vỡ. Dường như bọn Hoà đau ngực tức đến độ muốn ói máu, và các anh Bộ-binh mắt nổi đom đóm, những chòm râu tua tủa quanh cằm đựng đứng, hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẽ răng rít lên tiếng thở hổn hển dập dồn. Các anh dưới đất mặc bộ đồ tác chiến màu xanh nai nịt gọn gàng, thân dắt đầy lá, mang giày botte de saut, đầu đội mũ lưới sắt, họ lăm le ghì khẩu súng cổ lỗ sĩ trong tay, từng hàng nịt da đầy băng đạn, vài trái na dắt hai bên mạn sườn, hoặc trên ngực áo thò ra đung đưa lúc lắc. Lưng chiến sĩ cong cong cõng ba lô ghi những bài thơ tình nặng trĩu quân hành căng phồng hết cỡ: một tuần lương khô cá nhân gạo sấy mỗi ngày, vài bộ quân phục, chiếu mền, linh tinh... (hoặc anh dùng ba lô để chứa thêm đạn dược? Hoà có bao giờ dám lục lọi đồ dùng cá nhân của ai, nên không rõ). Bổn phận làm trai thời loạn dập vùi men đắng rượu cay đi hái thú đau thương: trả nợ non sông thật hết sẫy. Họ từng đi tham chiến đó đây:
    Những trận nào Trà Linh qua Đá Dừng, Hòn Dựng
    Dùi Chiên về Phường Rạnh ngược Khe Rinh
    Bao lần anh cùng chúng em lận đận
    Bôn ba băng rú rậm luống rùng mình
    Những bận nào Quế Sơn, Rù Rì con suối ngược
    Nước trôi nguồn nước lũ cuốn phăng phăng
    Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
    Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng (2)

    Thân hình cong còng xuống dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã, họ tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn (truy tìm địch đang lén lút rình mò về phá hoại an ninh bình yên thôn làng). Chẳng bao giờ lính chịu bó tay chờ chết, cho đến lúc tai tái người gây gây rét từng cơn ớn lạnh luồn vô tủy sống mà chấp nhận thương đau. Chính nhân quân tử hiên ngang anh dũng đi tiêu diệt địch. Nếu lỡ trên đường sạn đạo có lạc vào cửa tử thần (bao trùm cả vùng chiến sử ca), Hoà thấy họ không tỏ lộ nét sợ hãi, băn khoăn lo lắng trên những khuôn mặt cương nghị đượm phong trần nắng gió mưa sương. Mắt họ bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa, cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống đâm vô cuống cổ khát khô bỏng họng. Họ trợn trừng hai con mắt, hàm răng nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh vững chãi đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá; cả nơi bì bõm sình lầy đồng chua nước mặn:
    Đã nhiều lần đánh vào tận chiến khu
    Lại nhiều đêm nằm trên đồi nghe gió hú
    Đời chiến binh rất nhiều đêm mất ngủ
    Súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng
    Đợi địch quân như ngăn sói cản lang
    Chỉ chập chờn chờ cho trời mau sáng (3)

    Họ chụm đầu cúi mặt chia nhau từng vụn thuốc nhỏ, hít hít hơi thuốc vặt cho bớt lạnh, hai bàn tay khum khum che kín đóm lửa, không cho ánh sáng le lói thoát ra ngoài. Người lính Bô-binh thì luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu họ có được cái giao thông hào ẩm ướt trú chân, là may. Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến bàng hoàng cúi mặt, che dấu giòng nước mắt mằn mặn cay cay cố nuốt vô trong tim. Họ cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính xót xa cực nhọc khốn khó xiết bao! Họ luôn bị đời vô tình lãng quên! Cuộc sống người lính chiến nằm gai nếm mật là thế! là những ngọn nến lắt lẻo trong muôn triệu ngọn nến đời, do tự bàn tay người lính âm thầm đốt lên. Và, cuộc sống gian truân phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn gian khổ, khi bảo vệ quê hương, tổ quốc, tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn:
    Sau những chuyến quân hành rong ruổi
    Sống trở về trong bao nỗi mong chờ
    Đời chiến chinh là thơ hay tiếng khóc?
    Nếu không thì bằng khó nhọc đẫm mồ hôi! (3)

    Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường điệu thôi-thúc họ từ bỏ tất cả phù du tuổi trẻ: yêu thương, xa hoa quyến rũ trong cuộc đời phù phiếm? mà họ không chút e ngại rụt rè, do dự? Phải chăng như đó là nghề của chàng mà! Thật cảm động đến bàng hoàng thảng thốt ngẩn ngơ. Tại sao người lính xông vô vùng chiến địa tàn khốc điêu linh nầy làm gì, thế hử!? Tại sao!? Nếu không vì các anh thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình??? & họ cầu mong ước ao giữ gìn non sông gấm vóc, và dân tộc an lành trường tồn đến thế? Phải không, thưa qúy anh rất đáng ngưỡng trọng và kính phục!? Cũng có thể do vì có em:
    Em là em anh đợi khắp nẻo đường
    Em có nụ cười buồn mây mọng
    Em có làn mi khép lá cây rung
    Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
    Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng! (2)

    Có lẽ đang bắn nhau gần khu nầy lắm hay sao, mà cả ngọn đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Các cô gái của phòng 5 chân ướt chân ráo vừa đứng chưa vững trên sân của bộ chỉ huy hành quân, đã khiếp sợ xính vính lo âu tột cùng. Các cô giật mình quýnh quáng hét to, đồng loạt cúi cong người, tay bịt hai tai, họ vụt chạy vô căn hầm gần nhứt, chui tọt xuống hầm trú sâu lút đầu người. Các cô chui mau vào gầm bàn, gầm giường bố, họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng mếu máo như em bé lên ba, không ngớt kêu gào, thảng thốt, rên rỉ. Như có ai vừa thọc con dao găm sâu lút cán ngoáy ngoáy vô bụng mình.

    Trái tim Hoà đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình nào đó bấu móng nhọn cắm phụp nơi trái tim mình, buồng phổi bóp chặt, làm ứ nghẹt hơi thở muốn bật máu tươi. Hoà tưởng mình mang trong người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm cho thân thể co siết, dúm dó, tay chân bủn rủn, run lẩy bẩy, lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ. Các cô la ó kêu gào từng hồi thất thanh, giống như con heo bị chọc tiết trong lò sát sinh. Các cô chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố nổ kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp ngân rền. Mặt đất rung rinh chuyển động u u… ục ục… như ở trong cơn động thổ bảy tám chấm.

    Sau loạt đạn chi chi đó xé gió cỡ mươi quả bay đi, súng lớn giới hạn tầm bắn dường như bay ngang đầu, xuyên qua tường ghi sắt chắn bao cát nứt nẻ, khiến gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, đã rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt bị gió thổi vù vù chạm điện kêu lanh canh lách cách, lửa vàng lóe chớp đỏ đỏ kêu xẹt xẹt xẹt, nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp rơi loảng xoảng. Căn hầm bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay khét lẹt, quyện lẫn mùi hỗn hợp cuốn thốc bụi đất lẫn lộn tàn tro mù bay tứ phương. Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, năm cô gái nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay, lo lắng sợ hãi, xen lẫn chút hào khí đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt.

    Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt sụp xuống quá lông mày, mấy cô dùng hai tay vịn lên góc hầm, lò mò bò bò, thụt thụt thò thò, họ nhấp nhổm tính leo ra khỏi miệng hầm đã bị sập một góc to, sẽ chạy đi tìm nơi an toàn khác; thì một tràng đạn lại ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ thất thanh kêu rú, hét tướng lên như con bò rống trong ba toa. Mấy cô lại vội vàng xô nhau cúi hụp người chui tọt xuống hầm sâu, giống con nhái bén lặn kỹ dưới đáy ao mút mùa lệ thủy. Cả khu đồi sục sôi kêu ục ục, ọc ọc... bụp bụp, ùm ùm, lòng đất nhấp nhô. Nhà cửa tiền chế phía trên hầm dường như động thổ, nhấp nhô rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều đã bạc mau trong giờ phút đẫm máu kinh hoàng!

    Nhiều giờ sau, bình nguyên lắng dịu dần dần, thỉnh thoảng chỉ còn năm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ... từ từ nhỏ dần, xa dần rồi im bặt. Khi tiếng súng hoàn toàn im ắng, nhưng không gian còn bao trùm mùi khét nồng, oi ả, khi khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu, các cô mới uể oải lóp ngóp rều rệu bò dậy, họ đi không nỗi chẳng phải do đói, mà vì còn quá khiếp sợ. Tuyết Ngọc là cô gái ưa quậy tưng trời, mà bây giờ cũng im thin thít, xép re, cô lù đù ngồi bó gối ở một góc! Từng người một rụt rè len lén khum người, chổng mông bò bò bằng hai bàn tay và hai đầu gối… lên khỏi miệng hầm rồi, các cô tự động ngồi phệt ngay xuống đất, duỗi đôi chân ra, họ thừ người ngẩn ngơ, ngố ngáo, ngơ ngơ ngác ngác. Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng loang lổ gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn với tro bụi đất cát. Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ hãi hùng đã dâng đầy cổ họng khô bỏng.

    Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm, mặc dù trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn, yểu điệu thắt đáy lưng ong, chăm chút tỉa tót tóc tai, họ cẩn thận vẽ lông mày lá liễu, đôi mắt kẻ viền lá răm, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, nụ cười rõ tươi tuyệt đẹp làm mát lòng người. Giờ phút thập tử nhứt sinh nầy, họ đã chà mặt xuống đất; bây chừ trông “qúy ẻm” lem luốc dị hợm, bộ dạng ai nấy giống như con mèo vá. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da “công nương qúy phái đài các diễm lệ” mất rùi. Mà bọn con gái ni đã "xù lông nhím" không ai thèm nhìn bạn cười nhạo nhau nửa lời.

    Trung Tá Lịch được Đại-tá Phát mời, cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Tuyết Ngọc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân vinh dự, đã theo học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao tranh không chợp mắt, trông ông có vẻ hơi mệt, do tấm bản đồ hành quân địa phương chằn chịt dấu mực khoanh tròn xanh đỏ ghi trục toạ độ và đóng quân. Màu nâu ghi vùng cao độ, điểm chuẩn của trục trung độ và hoành độ được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái. Ông vẫn ra khẩu lệnh gọn gàng.

    Tuy mệt thế, ông không mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, hồ ủi thẳng nếp. Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu, làm gậy chỉ huy. Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ huy Sư Đoàn nầy. Ông đậu thủ khoa khoá Sĩ quan Đông Dương, mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng, như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.

    Đại Tá Phát vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với ông Rufus Phillips, làm giám đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ). Và ông Giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, đồ hộp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân... Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh "du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ.

    Ắt hẳn "anh chàng" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy. Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng Hoà Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ. Vả chăng "chàng Mẽo" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" Cộng Hoà Việt Nam "bắt tay với Mỹ quốc viện trợ". Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao!? Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ kia: Thực tế nhất là xin vật liệu làm nhà tiền chế, tráng những con đường nhựa. Xin cung cấp cho xi măng, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, v.v... Cùng các giao hảo tốt đẹp khác. “Anh chàng ta” nói:
    - "Sure". Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OKay!

    Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các nữ quân nhân xộc xệch quần áo đang ngồi soãi chân, giạng háng, họ sửng sốt vội vàng lóp ngóp đứng phắt dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốc, đầu bù tóc rối xù to như tò vò ổ rơm, thân thể dúm dó, co ro cúm rúm, run run như người bị bệnh thần kinh ngố ngáo nặng. Thì ông quay sang Trung Tá Lịch và các sĩ quan tùy tùng... Họ nhìn nhau khe khẽ nhún vai, nhích cặp lông mày lên một chút, rồi qúy sỹ quan từng trải giàu kinh nghiệm lừ mắt, mím môi, cái bụng họ rung rinh vì dấu tiếng cười tươi, họ quay lại nhìn nhìn... mấy cô binh nhì dưới quyền non đời, hơi nhếch mép thân mến mỉm mỉm gật gù. Chao ôi! Thật thảm thương cho các em! đâu rồi nữ tướng hào kiệt anh tài (giống như Hoa Mộc Lan thuở xưa!? Có lẽ các nàng lo dông tuốt… chạy bán mạng về bên Tàu mất tiêu). Quê xệ hết sức ha các anh ui, các em thiệt mắc cỡ vì nơi đây các em đã:
    Phấn hương đã nhạt, tình dẫu đậm
    Cũng chẳng gặp chi để ngỡ ngàng
    Hình ảnh cô em xinh ngày ấy
    Đã rũ nhàu theo bóng thời gian. (4)

    Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh bàng quan của thôn, xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ tai hoạ khác bất ngờ ập đến. Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút, nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các quân nhân dạn dày sương gió, từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn ở chiến trường, nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ, nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải. Các cô nhận biết, nghe quen tai đã phân biệt tiếng súng bắn đi hoặc câu vào. Tuy đôi lúc bất thần nghe súng nổ, họ giật bắn người, còn run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì, riết rồi điếc đặc không sợ súng.
    Riêng Hoà điếc thật rồi, nhưng đứng trong khu bộ chỉ huy cô còn thấy đầu đạn bay vun vút trên đầu, cô thập thò lấp ló đi ra, đi vô nơi lều bạt, thấp thỏm run run nhìn về mấy ụ súng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung ùm… Oằng… Pằng… Tạch Tạch Tạch… Bùm! Hoà sợ hãi kinh khủng nấp vô góc nhà, rụt cổ co người, ngồi hụp xuống, hai tay Hoà bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng, đứt quãng như muốn hụt hơi. Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã đón chào Hiếu Hoà “bằng những pha ngoạn mục” đến thế sao!?
    * * *
    Tình Hoài Hương

    *
    (1) Phạm Hồng Thước
    (2) Bùi Giáng
    (3) Trương Trọng Kiên
    (4) Thanh Cảnh
    (5) (Yên Phú–Trần Điềm

    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  6. #6
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Thật Tình Cờ Gặp Đan



    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 6

    Thật Tình Cờ Gặp Đan
    Thân kính tặng qúy quân nhân QLVNCH
    đã có một thời vang bóng trên quê hương Việt Nam…
    Tình Hoài Hương

    ***


    Ngày mới chớm vào đầu mùa Hạ sau cơn mưa phùn li ti lất phất bay bay rất nhẹ, rồi đậu trên mái tóc Hoà, mà phong cảnh nơi núi rừng nầy trông sao thiệt ảm đạm. Gió lạnh thập thò ngoài khung xe, gió run run ngập ngừng lay động bông hoa lau. Mây xám pha màu lam tím phơn phớt kéo từng bè về bên kia dãy trường sơn. Buổi sáng về rất chậm, kèm theo phiến nắng vàng lợt lạt le lói yếu ớt ẩn sau các bè mây. Từ cánh bướm chập chờn do dự trên dòng sông rực nét tình xưa, dẫn Hoà quay về bao ngày hái hoa, bắt bướm... ép khô trong trang sách học trò nơi ngôi nhà cũ. Hoà nhớ những chiều năm nao dọc theo bờ suối, nhớ từng người thân qua mỗi đoá hoa: pensée, violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng, tím, hồng; hoa ngâu, hoa sứ, tường vi, mãn đình hồng, sen địa, vân vân...

    Tại chốn nầy hoa bằng lăng màu tím rộ nở bên góc hè nhà ai, cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoà quay trở lại thuở nhỏ cùng ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối. Hoà ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long xuôi về Bao Vinh, Huế thơ dẫn Hoà theo dòng lưu thủy tan vào cuối nguồn. Nước luân lưu chảy đến đầu non ở Minh Long, Tà Noát, nước từ sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà... ưu ái hòa thông nơi nơi đều nhập hội trùng dương ở biển cả.. Rồi cánh bướm hôm nay vụt bay đi lên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng nơi bờ rào nhà ai trước sức gió đổi thay bỗng nghiêng ngã dồn dập xô về. Bướm không buồn quay lại bên đoá bằng lăng tim tím yêu kiều, để Hoà ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình xót xa trong ca bin xe GMC.

    Hiếu Hoà nghĩ đến tình quê, nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ: xóm, làng nầy gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng trong chiến tranh đau thương, chưa biết có kết thúc hay không nữa!? Nhà nào cũng có bụi chuối mương tre, gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau óng ả quyến luyến bện dây trầu quấn quanh thân, có vài ba chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình tán tỉnh nàng ve mái dễ thương. "chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh, đỏ rực màu lửa với "cô nàng" ưa làm le, làm dóc, làm bộ ra cái điều cô ả ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp, cứ ra rả: "em... ve ve! em... ve ve ve”... Hoà nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc, nhấp nhô cánh lục bình, lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm thẳng đọt lên trời, cô thấy một giang đỉnh chạy trên sông, cột nước vọt thẳng đứng lên cao. Giang đoàn Trưởng cho con tàu neo gần bờ, để chờ đợi khi con nước xuống thấp, thì ông cho tàu chui qua gầm cầu Cộng Hoà. Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế không biết bao lâu, thì từ phía hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm đã tịch thu đâu đó. Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt, quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, một anh Pháo-binh, một anh Nhảy Dù. Hoa vui vẻ nói:
    - Em xin giới thiệu các anh: đây là Hiếu Hoà, cô gái vừa rồi đã ngâm bài thơ “Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương”, mà anh Đan hỏi em: "Ai ngâm rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hoà.

    Hoà mỉm cười gật đầu chào hai chàng trai, họ mặc áo trận bạc màu nắng gió khói sương bạc phếch thời gian, quần áo đầy bụi đỏ, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa. Đan trầm ngâm hút thuốc lá, anh đứng chống tay ngang hông nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý, rồi Đan nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, nhìn hoa bạch đàn nở vàng cây phía trước. Họ không mang phù hiệu, cấp bậc, huy hiệu, nhưng ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch, khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường ở bờ chiến tuyến. Nhìn ngón tay tháp bút vàng khói thuốc và không đeo nhẫn của Đan, Hoà chợt cảm thấy lòng rộn ràng nao nao, trào dâng niềm vui vui lâng lâng đầm ấm vu vơ kỳ lạ mà… mà khó tả. Tại sao lòng vội vã dâng ngập niềm vui, khi mình chưa khẳng định Đan còn độc thân, hoặc anh đã có gia đình, nhưng anh chẳng đeo nhẫn cưới, thì sao!?

    Họ đang hiên ngang đánh chiếm, dành lại, gìn giữ từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa dân cư. Lính quý từng mảnh đất thân yêu trên khắp bốn vùng chiến thuật. Quân nhân miền Nam Cộng Hòa Việt Nam anh dũng lẫy lừng qua chứng tích đã đạt được: những trận đánh có cường độ tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, kèm chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị. Không cần huân chương, mề đay, hai anh đã tặng cho Thu Hoa, cô đem về nộp những thứ đó làm thành chiến công riêng mình. Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay ra đón bắt. Sau đó anh quay qua vỗ vỗ vô vai bạn thân, trêu đùa:
    - Thế nào? Anh bắt tôi lội qua sông Nghĩa Phú cho bằng được, để anh có dịp làm quen, nói chuyện với người em cùng quê hương. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi... sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh?

    Đan ngẩng nhìn Hoà qua rèm mi cong che nửa giếng mắt u buồn, nét mặt anh trông nghiêng đầy vẻ bất khuất, kiên cường rắn đanh như khắc trên tấm phù điêu. Vầng trán Đan cao rộng biểu lộ con người thông minh, dáng anh hiên ngang oai dũng, hai ống quần lính ướt sũng nước còn lọc ọc bì bọp trong đôi giày đinh. Đôi mắt Đan khá đẹp ẩn dưới hàng mi dài dày cong vút, môi Đan thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo nheo đôi mắt hữu tình mà nhìn... nhìn Hoà trìu mến:
    - “Sá chi một kiếp phù du nhỉ
    Mà chẳng trao nhau trọn chữ tình” (1) Nhưng… ấy dà, đứng trước giai nhân thì… bao nhiêu dự tính đã tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông, tôi mới biết sông sâu, nước lạnh. Khó dò.

    Phút định mệnh thật tình cờ cúi xuống đọng lại qua nụ cười, Hoà thấy Đan nhã nhặn quá đỗi, và tự dưng cô "vụt cảm thấy" mình có “cảm tình đặc biệt” với anh vậy, tại sao kỳ vậy, chả biết. Bỏ thói độc hành để song hành cùng người mới gặp, Hoà nhẹ nhàng mỉm cười:
    - Xin phép cho em gọi anh Đan, tự xưng là em, nhe anh!
    - Xưng hô là tượng trưng về thân tình quý mến nhau. Muốn gọi sao thì gọi, có hề chi! Em.
    - Dạ dạ… Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy: "đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, thì anh vượt thắng sông núi rồi. Vì, dưới đôi ống quần ướt sũng nước đó, có thể anh đạt vài ý nguyện, bằng cách là Hoà đang đối diện, đối thoại với anh nè.
    Văn ngửa người ra cười ha hả, vỗ bôm bốp vô vai bạn:
    - Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
    - Cả anh Văn nữa! Các anh lội qua sông, hãy coi chừng tránh xa thủy lôi Việt Cộng thả theo giòng nước. Cũng như các anh ưa đi ven bờ, hoặc lội qua sông, sẽ bị ướt hết quần áo, giày đinh, nhứt là nguy hiểm đó, hai anh.
    - Em chu đáo quá! Cám ơn em.
    Thu Hoa reo lên như tiếng chim hót:
    - Hoà là cô bé cưng dễ thương! (nhưng thương không dễ á). Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoà còn cô-đơn à nha.
    - Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
    - Ê! Bồ tèo. Trưa nay tui cho bồ nhịn đói, hì.
    Văn khoát tay lia liạ:
    - Đừng lo Hoà, mời em dùng cơm từ hôm nay nghe.
    Thu Hoa chúm đôi môi, nguây nguẩy giây lát, rồi nói:
    - Hai anh không mời em há?
    - Dĩ nhiên anh muốn mời cả em nữa chứ. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, ngẩn ngơ vì... cảm động nè.
    Màn đấu hót tay đôi giữa Văn và Hoa nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
    - Ở Huế, em ở đường nào vậy?
    - Dạ, nay ba má em dời về ở Mỹ Chánh lập đồn điền. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm ha?
    - Quen rồi em. Lâu nay em có về Huế không?
    - Dạ không anh à. Em ở Đà Nẵng.
    - Anh biết.
    Ngạc nhiên, Hoà tròn xoe đôi mắt nhìn Đan:
    - Ố! Anh biết... Hoà?
    - Có gì đâu, ngày đầu tiên anh thấy em leo lên đỉnh Núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh để ý dò hỏi, mới biết em cùng quê, là cánh hoa rừng biết nói như sơn ca. Càng không ngờ em là hoa hậu dễ bị ngất xĩu vì... bệnh tim thời đại. Ha ha...
    Thoáng mắt bất ngờ cảm mến giao nhanh, họ cùng cười hồn nhiên. Hoà:
    - Hẳn là anh nhớ lắm cô em áo trắng, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón lá, quai tơ vàng óng ánh, rồi há anh?
    - Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây anh là người lính độc hành, còn lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
    - Sao vậy anh?
    - Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa Xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý mình, thấu hiểu, khoan dung, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; tuy nhiên muốn tìm người bạn đường, phù hợp đã khó, anh tìm một bạn đời càng khó hơn. Em ạ!
    - À... ra thế.
    - Hẳn nhiên em và anh không thích chiến tranh, nhưng chiến tranh xảy ra thì bắt buộc… (khi kẻ khác xâm lăng đất nước mình), thì ta có nghĩa vụ và bổn phận phải cùng đứng lên chiến đấu, để bảo vệ quê hương, cho dân tộc sinh tồn.

    Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh bay cao vút trên trời. Bỗng ùm! ùm! ùm!!! Pháo binh nã đạn về cuối ghềnh, nghe từ xa giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm nổ rầm rầm, hoặc như trận mưa giông sấm sét rất lớn, hay như người ta giật mìn làm nổ hầm đá, để lấy đá trong núi. Mấy chiếc máy bay vụt bay qua trên không trung, giây lát sau có những tiếng nổ lớn rung chuyển cả bầu trời, làm nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, cành cây bạch đàn đã gãy lìa. Hai người lính điềm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen mỉm cười, họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ. Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy là luyến lưu chia tay. Đoàn xe của Hoà vội vã lên đường trở về ngọn đồi “T T 2”. Đan cùng bạn lại lội qua sông rộng nước sâu, trở về với doanh trại cuối làng mạc quạnh hiu ở chân núi đầu đèo hoang dã.

    Bửu Đan sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương yêu nồng ấm của gia đình. Đan đã đi Pháp từ lúc anh tròn mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều trở về Việt Nam hai ba lần thăm quê nhà dịp lễ, nghỉ hè, Tết, Spring break, v.v… Sống ở xứ người từ thuở nhỏ qua nền giáo dục phương Tây, đã dạy cho anh hấp thụ tính sòng phẳng, công bằng, tổ chức đời sống có khoa học, anh biết phép lịch sự nhã nhặn đối nhân xử thế tuyệt vời. Mặc dù sống trên xứ người văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc. Nhưng Đan vẫn nhớ thương gia đình, nhứt là Đan thương nhớ me của anh và hoài hương xiết bao! Đan thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục có tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà rất thương con cháu, nhưng không quá cưng chuộng con cháu ưa lì lợm vòi vĩnh nầy nọ hoặc nhõng nhẽo. Họ không buông thả cho chúng tự do quá trớn, trẻ con ít “hành” người lớn như lũ con bên Tây. Con cháu ở Việt Nam biết kính trọng, nể sợ, thương yêu ông cha một phép, chúng không trân trân tráo tráo, láu cá còn choai choai dé dé xíu xíu non dại... mà eo xèo “đòi hỏi” tự do quá mức như đám Tây con. Biết con hư nhưng cha mẹ lại sợ con “xu; xù” nên họ không dám hó hé!

    Tại viễn xứ xa lắc xa lơ kia, một vài ngày trước Noel, tình cờ Đan quen một nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine. Khi ấy trời mưa tầm tả, hai người vô tình đứng đụt mưa, họ vui vẻ trao qua đổi lại từ chuyện thời tiết gió mưa, tới chuyện: Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, như thế nầy: Trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học: một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vô thánh đường cổ ở Paris, từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen quỳ cầu nguyện sốt sắng nơi dãy ghế đầu. Đến gần, sinh viên mới nhận ra người cầu nguyện không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Đứng lặng lẽ một lúc theo dõi cử chỉ của ông ta. Khi ông đứng lên ra khỏi giáo đường, sinh viên ấy đã theo gót ông về đến phòng làm việc. Thấy thanh niên đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng:
    - Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
    Thanh niên nhỏ nhẹ:
    - Thưa thầy, con là sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!
    Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn:
    - Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhứt của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.
    Sinh viên liền hỏi:
    - Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
    Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
    - Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi! (2)

    Bên nàng vui vẻ và khả ái, anh cảm thấy thoải mái, ý nhị khi nàng kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà ta hô hào cư dân Pháp đứng lên lật đổ chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị hoàng gia Anh-quốc bắt bỏ tù và thiêu sống. Đan cũng hùng hồn kể cho nàng nghe về oai danh bà Triệu, về hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị của nước Việt Nam, vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân qua Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua trận, hai bà can đảm nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử. Nghe xong nàng gật gù thú nhận là bội phục phụ nữ Việt tuyệt vời hơn bà thánh của nàng. Đan lại kể cho nàng về chuyện danh nhân: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris: Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt, và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:
    - Thưa, ông còn tin vô những chuyện nhảm nhí thế à?
    Cụ già thản nhiên trả lời:
    - Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
    Thanh niên xấc xược trả lời:
    - Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy học hỏi khám phá mới của khoa học. Rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay, đều là những chuyện nhảm nhí hết.
    Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:
    - Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?
    Sinh viên nhanh nhẩu trả lời:
    - Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách đến cho ông, rồi ông sẽ say mê về thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.
    Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp, trao cho sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người ấy xấu hổ tái mặt, lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. (2)

    Thế là từ đấy họ hợp ý nhau... Đan say đắm người con gái dễ thương học tại L’Ecole supérieure des Beaux Arts de Montpellier Aggomération, tức là trường Trang-trí Mỹ-thuật Montpellier, nàng đã đem lại ngọn lửa tình vút lên từ đôi tay Đan kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin Thượng Đế. Sau đó hai người thường hò hẹn đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Từ nơi quê hương nàng, anh nhớ da diết và yêu đôi mắt xanh lam, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến, thân hình nàng rất hấp dẫn, quyến rũ đã khắc sâu vô đời Đan những vết in đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến và nhớ nhung vô vàn. Tình yêu anh đối với nàng là một tình cảm vô cùng đặc biệt; cho dù người anh yêu khác chủng tộc, màu da, tiếng nói, nàng chưa toàn vẹn hiểu Đan sâu sắc, hoặc hồi đáp lại Đan điều gì khao khát từ trong tư tưởng như anh mong đợi. Nhưng với hai người thì mối tình ấy khá hồn nhiên gắn bó, chân thật, trao nhau hết tình. Bên nhau trong ngôi biệt thự xinh xắn của cha mẹ nàng ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu ki lô mét về hướng Tây Nam. Họ trao nhau tình yêu mặn nồng đầy thắm thiết ái ân… Ấy thế mà cuối cùng trong thành phố Lyon... chàng và nàng cùng cậu con trai tí hon đã đồng thuận chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu.
    Em là gió thổi qua dòng sông lạ
    Và thuyền ta chìm giữa đáy tang thương
    Em là sóng ta bạc đầu trắng xóa
    Bọt bèo ta trôi mãi giữa vô cùng. (3)

    Dù rằng tình yêu ấy đã từ đôi tay nầy ân cần chấp lại khẩn thiết cầu xin ơn trên ban cho anh; thì nay cũng từ đôi tay ấy đã mọc cánh vút xa bay trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng, rồi trở thành dại khờ đau buốt. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur". Mà thôi: xin hãy qua đi! xin hãy quên đi! xin cho bình lặng tâm hồn. Đan không muốn nhắc đến tên nàng, dù vô tình anh đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Vì Đan yêu me của mình hơn bất cứ ai, anh không muốn mẹ đau buồn, bởi vì me cổ kính đã rớt nước mắt rất nhiều ngày đêm... khi me biết cô sinh viên đoan trang và anh thư ấy là... đầm.
    Rồi có một ngày em & anh sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ trong giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm mẹ con em nhe. Chúng ta hàn huyên tâm sự cho bỏ những ngày trống vắng chia xa, mình sẽ tìm thấy nhau nơi giấc ngủ bình yên muộn màng. Em ơi:
    Mơ ước nhỏ nhưng sao không hề dễ
    Bởi anh đi, đâu hứa hẹn ngày về
    Nghĩ tới em lòng anh lại tái tê
    Vì trách nhiệm nặng nề anh đang gánh
    Giữa đêm khuya trên ngọn đồi cô quạnh
    Nghĩ đến em là hạnh phúc tuyệt vời (4)

    Sau bao năm học hành rồi thành đạt vinh hoa, Đan trở về quê nhà mong đem chút kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu ra giúp đời. Nhứt là vì từ thuở nhỏ anh đã yêu con đường binh nghiệp. Thế rồi giờ đây… ngày nầy qua ngày khác, Đan vẫn soi chiếc bóng cô độc chao đảo khi tỏ khi mờ trên dòng suối lờ lợ đục.
    Đêm đóng quân trên tiền đồn hẻo lánh
    Sương mịt mù mang hơi lạnh tái tê
    Kỷ niệm xưa ở đâu bỗng chợt về
    Rồi rõ nét với đê mê ngọt lịm
    Tôi thấy em trong áo dài mầu tím
    Màu tím hồng của những cánh hoa sim (2)

    Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần vắt qua sườn dốc, khi đám mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá, nước chảy róc rách trên lưng đồi Minh Long suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa nghe tiếng súng đạn đan chéo suốt đêm ngày trên quê hương điêu tàn, đổ nát, là vô tình vết thương đậm sâu không trông thấy vẫn nhói buốt đau đớn trong lòng Đan. Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm nhức nhối tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia, giờ rụng đi từ đôi mắt Đan sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Tiếng nói của Hoà hôm trước văng vẵng đâu đây, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vô tâm tư Đan cô lẽ, như những giọt mật tròn, mật đắng, đắng không thể tả. Hạnh phúc xưa bé nhỏ liu riu bất chợt thoáng qua mau, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt nơi sơn khê ngun ngút dặm ngàn. Đan vẫn thầm tự hỏi lòng: “Mình có thể thay đổi tình yêu xưa, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu nó sẽ dễ thương trùng hợp đáng yêu; như thế, hoặc hơn thế nữa”!? Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?".

    Đan đắm mình trong khí ấm đầu mùa Hạ vuốt ve, thu hút ong bướm từ mật ngọt và hương hoa, có tia vui hào quang dọi sáng, có khúc nhạc nên thơ êm mát, gió núi trong lành lao xao nét tình quê xanh thắm thoảng lại. Đan thầm nhũ với lòng mình: … mà nè Đan, biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực đối với cô gái Đà Lạt dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống không? Anh mến Hoà từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình, Đan sống giữa chốn núi rừng Minh Long nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, dày vò, âu lo. Nhưng Đan không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ ngồi trầm ngâm, lặng lẽ ngấm ngầm suy tư dưới gốc đại thụ mọc đủ mọi thứ lộn xộn: măng le, tre, nứa, giang, dây leo không tên um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có vài con đường mòn đất nâu láng trơn len lỏi đã trũng xuống cận dòng suối đỗ dồn.

    Bốn bề núi đồi hoang vu bao bọc, hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ. Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh xác xơ lắc lư gió táp mưa gào. Rừng sậy già rậm rịt um tùm lô xô thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù cong cong, giống đuôi con sóc leo trèo trên cây sấu vàng ửng tàng lá tỏa rộng bay xào xạc trong gió. Ở đây toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo, mịt mùng. Núi. Rừng. Đồi. Suối. Ao. Đầm. Cỏ lướt cỏ cây đan cây, cành đan cành, lá đan lá chằng chịt. Vượn hú kêu đàn thảm thiết buồn bã, những con quạ mình to đen bóng xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu, nó ngóng cổ hoác miệng kêu "quạ! quạ!" Quạ gù gù lưng cúi cổ nhảy từng bước cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò.
    Tiếng chim gù gọi trưa hè say nắng
    Em về đâu, chiều rớt lại bên sông
    Tôi ngơ ngác tìm em hoài chẳng thấy
    Vòng đời quay thời khắc cũng bềnh bồng (3)

    Không hiểu từ ở đâu, nước từ thượng nguồn dội xuống khe suối rộng xuôi chảy, ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Ôi! Phong cảnh nơi đây tuyệt diệu… Thế nhưng xin hãy coi chừng vô số muỗi, ruồi, vắt, ve, ưa búng mình bò lên hút máu. Một phía bên kia suối nước bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ giống màu đỏ sông Hồng trôi lặng lờ trên xứ Quảng. Thấy mà ghê hồn, cảnh vật nơi đây hoang vắng u buồn. Đan sống những giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi, gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung, buồn thương da diết vệt nắng rải sau hè rực nét tình xưa.

    Chiến tranh đang vỡ bung ra nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước thuộc lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tuy nhắm mắt lại, Đan vẫn thấy đóm mắt hỏa châu thả xuống đỏ rực góc đồi, giao tranh càng bi thiết, bàng hoàng kinh dị. Nơi nầy cường độ hung hăng chém giết đang lên tột đỉnh, tàn ác xâu xé cuồng loạn nhứt (ghê gớm hơn cả cảnh Mục Liên Thanh Đề đi thăm điạ ngục). Tiếng mưa trái muà đỗ trên lá rào rào không thể xóa nhòa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Pháo-binh gục xuống hố cá nhân, anh giống thân cây kiền kiền bị đốn ngã, khi đại liên 12 ly 7 quạt rát bỏng ù tai, làm tan nát đớn đau lòng anh. Đấy là lần đầu tiên trên đường binh nghiệp Đan giương to đôi mắt kinh hoàng chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật từng cơn hấp hối. Đan cảm thấy toàn thân nóng rang, phừng phưng luồng khí nóng phẫn nộ dồn lên mặt, nước mắt tiếc thương bạn ứa ra khoé mi lúc hai hàm răng Đan nghiến lại.

    Trước khi chết chẳng hiểu tại sao bạn ấy ngáp rất nhiều, ngáp hoài ngáp mãi, sau đó từ từ ngáp chậm lại, rồi cách năm bảy phút, vài phút ngáp anh ta mới uể oải ngáp một lần, cơn ngáp nấc nấc lên thưa dần, lâu dần rồi tắt lặng, yên ắng hẳn. Bạn ấy đã xuôi tay vĩnh biệt chấm dứt cuộc sống. Ấy là lúc mà ranh giới thiêng liêng cuả sự sống và cõi chết đã thực sự đối diện, khốc liệt, tàn nhẫn, lạnh lùng chạm trán nhau gay gắt kinh hoàng rất đau buồn tột độ. Dù ranh giới mỏng như tơ nhện, mà không ai có thể giơ tay ra dùng dằng níu kéo tích tắt thời gian vắn vỏi, ngỏ hầu phân định rõ ràng biên giới âm dương về một mạng người. Hai thế giới kinh khủng của một kiếp người đã hoàn toàn phũ phàng đóng ập lại. Hai phân giới vô hình nhưng minh định rõ ràng không thể va chạm vào nhau, dù chỉ qua một lằn ranh vô cùng mong manh như sợi tóc!

    Hằng ngày Đan chạm trán, va mặt với chiến tranh gian nguy, cực nhọc buồn lo thì cường độ đớn đau tăng mãi trong đời, Đan cúi đầu đón nhận tang thương người khác rồi chua xót vò xé, anh nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng mà Đan cố nuốt vô lòng. Dần dần cũng quen với bối cảnh tàn khốc ở hiện tại, nhưng cục sạn không trôi xuống bao tử, mà cứ uất nghẹn trên cuống cổ, rồi dội ngược vào tim, chạy lên đầu óc anh đau buốt, đầy thống khổ, như xác định mình hiện hữu. Đan tha thiết mong đóng góp một phần đời bé nhỏ cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư, chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân lù đù chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng đang trào máu mắt!

    Trăng lá mít mảnh dẻ, nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục, như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ trên không trung. Cơn mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch trơn, đã bóng mướt dưới ánh trăng bàng bạc chiếu lung linh. Tiết trời miền núi vẫn buốt giá nhờ sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá lóng lánh ướt sũng ánh trăng. Ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, họ xuýt xoa hà hơi chà đôi bàn tay vô nhau cho ấm chút xíu.

    Từng giờ. Từng đêm, họ khều nhau đổi phiên gác canh thâu. Dẫu vậy họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính miền Nam Cộng Hòa Việt Nam, thân thể họ rạo rực dưới sức lôi cuốn theo tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy, coi vô-tư-lự tươi trẻ hồn nhiên như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang và đầy bụi đỏ dặm trường. Những người lính trực chiến trên chiến trường không ai khác hơn là chính họ đương đầu với chiến cuộc! Cho dù danh nghĩa “đơ dem cùi bắp” nghe vừa tức cười trong cái quê mùa cục mịch nông thôn, đồng ruộng, lại càng có vẻ như giễu cợt người lính cà tàng thấp cổ bé họng; thật tội nghiệp làm sao ấy. Họ là những con tốt thí thân trong cuộc cờ chiến tranh nhiễu nhưng phức tạp. Cấp trên cũng không thể đoan chắc rằng không có người lính nào bị thương, hoặc tử thương khi xung trận. Vậy thì để bảo vệ chính thân và đồng đội, thì chính quân đội ấy phải xã thân - vì quê hương và dân tộc- đã hiên ngang oai dũng bước thẳng tới trước. Họ vẫn biết rằng: thân phận một người lính khi trở thành thương phế binh; thì ví như đôi giày đinh bị hư nát mất một chiếc, chiếc còn lại người lính sẽ phải tiếc nuối phế thải vứt giày đinh đi. Thế là không còn lính hợp quần gây sức mạnh, dù danh tướng có tài ba cách mấy, nếu không có quân, chắc chắn chưa thể làm nên đại sự!

    Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng, anh đi một vòng thị sát đến từng điểm gác di động kép. Cứ hai người đi lui đi tới gác chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gác đêm, họ giăng rộng đôi chân ra, giữ thăng bằng thân mình trên đôi giày đinh sờn cũ. Cấp chỉ huy đối với lính lúc nào cũng cần có sự dung hoà, tha thứ, yêu thương, tận tình hướng dẫn, đồng thời cấp chỉ huy nghiêm minh thi hành quân kỷ, nếu thuộc cấp phạm kỷ luật! Đan đưa quà tận tay mấy chú lính. Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi. Đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gác cẩn mật ít nhất là vài ba giờ. Cơm không kịp ăn, không có nước uống. Ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai. Mỗi đêm dài hiu hắt nơi rừng sâu nước độc, Đan đến với họ lúc người lính cô đơn ôm súng gác giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo & u ám. Anh ân cần sẻ chia chút ngọt bùi ấm áp tình người. Không phải họ qúy mến anh vì khúc bánh mì, vì ca nước nóng. Mà, do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu Đan có tư cách, bao dung, từ tâm, và độ lượng. Do Đan chí tình thương yêu cảm mến lính, anh tự xích lại thân thiết với thuộc quyền, không phân biệt giai cấp. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, thấu hiểu, gần gũi, gắn bó, chia sẻ, an ủi và thắt chặt tình đồng đội càng thắm thiết hơn. Thôi thì xin các anh hãy cùng em Hòa như chia nhau “Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương”:
    Hoàng hôn tỏa những tia nắng nhạt.
    Đường em đi bóng mát cây dài.
    Nắng xiên trên hàng hoa lác đác.
    Mặt hồ xưa lóng lánh mây bay.

    Nỗi niềm riêng xôn xao gợi nhớ.
    Tình yêu ơi! hoài vọng ước ao.
    Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
    Mùa Đông qua, Xuân mới bước vào.

    Hàng thông xanh im mờ phủ bóng.
    Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ.
    Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
    Lá sầu đông tê tái phất phơ.

    Thác ven rừng uốn lên chảy xiết.
    Nước rẽ dòng thương kẻ chia ly.
    Đường về quê nhớ phút phân kỳ.
    Mối tình tựa ngấn sương tiễn biệt.

    Mộng ước đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
    Nhạc sương gieo tình cọng cỏ tơ vương.
    Nhún nhảy dưới trăng lá cỏ ngậm sương.
    Sương rơi rụng ướt cỏ đường đêm vắng.

    Bông cỏ ngậm sương nở hoa vàng trắng.
    Tình yêu thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
    Nghê Thường đâu hãy tấu khúc đêm nầy.
    Sương tưới cỏ đời vui thêm tươi mát.
    *
    Tình Hoài Hương


    (1) Khuyết danh)
    (2) sưu tầm
    (3) Lê Văn Trung
    (4) Trương Trọng Kiên
    (5) Thơ Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

Trang 1/2 12 cuốicuối

Similar Threads

  1. Góc Thơ Tình Hoài Hương
    By Tinh Hoai Huong in forum Trang Thành Viên
    Trả lời: 419
    Bài mới nhất : 09-06-2020, 04:02 AM
  2. Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 273
    Bài mới nhất : 09-01-2020, 10:31 PM
  3. Góc Thơ lytamhoan
    By lytamhoan in forum Trang Thành Viên
    Trả lời: 287
    Bài mới nhất : 08-23-2019, 04:06 PM
  4. Góc Thơ VUI Tình HOÀI HƯƠNG
    By Tinh Hoai Huong in forum Vui cười
    Trả lời: 136
    Bài mới nhất : 08-22-2019, 06:04 PM
  5. Qua Góc Phố Xưa
    By saomai in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-02-2019, 06:18 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •