Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 10 trên 10

Tựa Đề: Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

  1. #7
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default Mỹ-Tho Về Đêm

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Mỹ-Tho về đêm

    Tiểu Minh - Germany


    Hình minh họa

    Nếu ai có hỏi nơi nào đẹp nhất? Không cần suy nghĩ, tôi sẽ trả lời ngay là: Mỹ-Tho! Nhớ lại thời trung học Hoa văn trong thập niên 60 ở trường Thiên-Chúa Giáo Minh-Viễn, tại ngã sáu trên đường Minh-Mạng Chợ-Lớn, thành phần nữ giáo sư trẻ đẹp, độc thân từ Ðài-Loan sang dạy học thường hay nói với học sinh rằng: “Không có nơi nào đẹp bằng quê hương, cho dù quê hương mình có nghèo khó đi nữa“. Ðiều nầy quả thật không sai! Hơn 30 năm xa xứ sống nơi một thành phố lớn đầy vui nhộn của nước Ðức, thỉnh thoảng tôi hay tưởng nhớ về Mỹ-Tho thân thương nơi mình sinh ra và lớn lên. So với Hong-Kong, Tokyo hay Paris by night, cùng nhiều phồn hoa đô thị khác, với bao cảnh ăn chơi bậc nhất thế giới thì Mỹ-Tho về đêm thuở xưa quá nhỏ và hết sức quê mùa, bình dị, nhưng lại rất vui với bao kỷ niệm đong đầy, mà kỷ niệm thì bao giờ cũng đẹp!

    Ngược dòng thời gian … Trước năm 1975, gia đình ba mẹ tôi có hai thương hiệu tại chợ Mỹ-Tho. Mỗi khi màn đêm buông xuống, sinh hoạt sôi động trong ngày chuyển sang lắng đọng thấy rõ. Tiệm buôn trên nhiều khu phố của người Hoa đóng cửa nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt nhọc. Những con đường xung quanh nhà lồng và chợ cá náo nhiệt, bắt đầu dọn dẹp từ một giờ trưa để nhường chỗ cho xe cộ lưu thông. Khu vực nầy vắng lặng và kém sạch sẽ, nên ban đêm lượng xe qua lại rất ít. Từ 19 đến 21 giờ, hai cái loa sắt to đùng gắn ở đầu ngôi chợ phía đường Nguyễn Huệ, phát thanh nghe đinh tai nhức óc cùng lúc với những chiếc loa được treo trên cột trụ cao, tại nhiều giao điểm trọng yếu như đầu Cầu Quây, vườn hoa Lạc-Hồng, Cầu Bắc, bùng binh cuối đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long (nay là đường 3 tháng 2), Bến Xe Mới, công viên Dân Chủ, chợ Hàng Bông và bên kia Cầu Quây là ngả tư “Quốc Tế“, rồi chạy dài xuống tận Chợ Cũ. Chương trình phát thanh địa phương vào buổi tối thường do nữ xướng ngôn viên duyên dáng Hồng-Loan phụ trách. Ngoài tin tức trong nước và tiếp vận đài Sài-Gòn, đa phần đều là tân nhạc. Thỉnh thoảng còn có nhạc kích động ngoại quốc không lời rất hay!

    Chợ búa ngưng hoạt động, ảnh hưởng dây chuyền đến mọi sinh động của thành phố. Trong chợ Hàng Bông, một số bạn hàng đàn bà ngồi trên chiếu đệm dưới đất, bàn bạc chuyện buôn bán bên đống trái cây còn sót lại trong ngày. Ðược biết, nhóm người nầy ban đêm thường giăng mùng ngủ tại chỗ, đợi sáng sớm đón mua trái cây của những người trong vườn mang ra. Dãy phố bên kia gần góc đường, nhà thuốc Tây Bình Dân đêm nào cũng mở cửa tới khuya. Phía ngoài đầu chợ, những xe hủ tiếu, thịt bò viên, nước đá, nước mía, xe bán bánh kẹo, cốc, ổi, xoài chua ngâm nước cam thảo (xe lẻng-kẻng), khô, mực nướng ép luôn có khách vãng lai ghé vào.

    Phía ngả ba đầu đường Nguyễn Huệ, nơi rạp hát Vĩnh Lợi chuyên chiếu phim kiếm hiệp Ấn-Ðộ, có phần nhộn nhịp hơn vì là trung tâm phố. Thỉnh thoảng rạp còn chiếu phim võ hiệp Hong-Kong của hãng SB (Shaws Brother), do hai anh em nhà tài phiệt làm chủ. Lâu lâu, có gánh cải lương từ Sài-Gòn xuống hát vài đêm, tuy chỉ vài đêm thôi nhưng cũng đủ làm khán giả say mê và đến xem đầy rạp. Bình thường rạp chiếu mỗi ngày hai xuất, 3 giờ chiều, 6 giờ tối, chúa nhật và ngày lễ thì thêm xuất 9 giờ sáng. Mặt tiền của rạp rộng lớn, nằm trên một thế đất cao ở giữa có dạng nửa hình bầu dục. Phía trên treo ngang những tấm bảng vải lớn nối liền nhau được căng bằng khung cây, vẽ hình ảnh tài tử của phim đang trình chiếu với màu sắc sặc sỡ. Từ 2 giờ chiều, tiếng nhạc Ấn-Ðộ không ngừng được phát lớn, trở thành quen thuộc với mọi người vì bị “tra tấn“ hai tai. Gian hàng ăn uống lặt vặt trước rạp như xe lẻng-kẻng, hột vịt lộn, nghêu, chuối nếp nướng, nước đá, nước mía, luôn thu hút được đông người trước giờ chiếu phim. Bên kia góc lề đường nơi hông tiệm vàng Phước Tín, xe cháo vịt luộc chấm ăn với nước mắm gừng khá đậm đà của chú người Quảng Ðông, được đẩy ra bày bán từ bốn giờ chiều là điểm hấp dẫn của nhiều người sành ăn. Ban đêm, cùng chiều gần góc bên kia đường, tiệm buôn Vân-Phát Hãng, đèn ống sáng choang với những tủ kiếng lớn, bày bán các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, trái vải khô, nho, lê, bôm (pomme), phô-mai đầu bò, bơ (beurre) hiệu đồng tiền, nước tương Maggi của Pháp, mứt trái cây, bánh kẹo nhập cảng và rất nhiều thứ khác trông thật đẹp mắt như một Shop ở nước ngoài. Mặc dù là cửa hàng duy nhất, nhưng vì hàng thuộc dạng cao cấp, nên tiệm nầy rất ít người vào mua.

    Ban đêm, xe cộ giảm thiểu rất nhiều. Bến Xe Mới trên giếng nước đôi trở nên đìu hiu, vắng vẻ. Xe Lambretta ba bánh thì không thấy, nhưng một số ít xe đò tuyến đường Sài-Gòn, Tân-An, Tân-Hiệp còn nằm tại bến chờ tài vào sáng sớm hôm sau. Trạm xe lô Minh-Chánh từ đường lộ quẹo vào ngay phía bên phải, chỉ còn trơ lại cái bàn bán vé cùng chiếc ghế gỗ. Dãy phố phía sau gần đó, cũng như dãy lầu hai tầng giống nhau nằm đối diện bên kia, vài tiệm bán nước giải khát đang chờ khách dưới ánh đèn đường leo lét, tạo nên một khung cảnh ảm đạm giữa màn đêm. Bên ngoài đường cái, phương tiện giao thông tương đối ồn ào, vì là cửa ngõ ra vào của thành phố nối liền với Sài-Gòn và các tỉnh miền Tây. Ðường ra ngã ba Trung-Lương tối tăm, xe cộ ít hơn ban ngày rất nhiều. Thỉnh thoảng, một vài xe vận tải chở đầy hàng, xuất phát từ các vựa nông sản phẩm bên đường Phan Thanh-Giản trực chỉ chạy về cung ứng cho thủ đô.

    Bến Xe Mới chạy qua Cầu Ðúc, con đường quẹo trái nhỏ hẹp không tráng nhựa dài khoảng hai cây số, trẻ em trong các xóm nhà lao động hai bên, thường tựu tập lác đác thành từng nhóm nhỏ ra lộ chơi giỡn dưới ánh đèn yếu ớt. Nơi ngả ba chợ Vòng Nhỏ dân cư đông đúc, ngôi chợ tuy đã ngủ yên, nhưng vài hàng quán ăn vặt vẫn có người mua lai rai. Cũng tại ngả ba nầy, một con đường ngắn nhỏ tạo thành ngả tư dẫn xuống bờ sông. Bên phải nơi đây, một căn nhà ngói được rào, sân vườn có trồng cây nhãn lớn, nên chủ nhà mở quán nhậu lấy tên là Cây Nhãn. Quán ăn nhỏ có tính cách gia đình tuy nằm trong sâu, nhưng lại đông khách vào chiều tối. Với cảnh vật cây nhà lá vườn không trang trí, những chiếc bàn ghế đơn sơ được bày trước sân nhà. Thực khách thường là những người quen biết tìm đến, mà phần đông là quân nhân, rồi chuyền miệng giới thiệu lẫn nhau, vì quán có các món ăn ngon không nơi nào có, nhất là món gà con sắp nở trong trứng, lăn bột chiên ăn với rau răm chấm muối tiêu chanh. Còn thịt bò được thái mỏng ướp rất thơm, nướng bằng miếng ngói cong lợp nhà đặt nghiêng trên lò than, có chén hứng mỡ phía dưới được thoa liên tục lên miếng ngói khi nướng. Thịt bò cuốn bánh tráng cùng với bún, rau sống, chuối chát, khế chua, chấm ăn với mắm nêm uống bia thì phải nói là tuyệt!

    Nơi chợ Vòng Nhỏ, con đường hướng về chợ Ðồng Sanh ít xe qua lại. Dưới ánh đèn đường vừa đủ sáng, người dân nhà ở hai bên thường tủa ra lộ hóng mát. Một vài tủ thuốc hút bên vệ đường ế ẩm, nên người bán hay ngồi đọc tiểu thuyết. Ðoạn đường tiếp nối đổ lên Bình-Ðức, rồi đến căn cứ quân sự Ðồng-Tâm dài gần 10 cây số không có đèn đường, lại thiếu an ninh, thế mà hàng đêm trên đoạn đường mạo hiểm nầy, thường có nhiều người lính mặc quân phục, liều mạng trốn trại phóng xe Honda “dù“ về Mỹ-Tho ngủ, trong đó có … tôi!

    Ngược lại, từ chợ Vòng Nhỏ về hướng Cầu Bắc, xe gắn máy và xe đạp tấp nập. Người dân Mỹ-Tho hay ở bất cứ nơi nào, thích tìm vui trong thói quen ban đêm chạy xe vòng vòng không mục đích. Bến bắc sang Tân-Thạch ban đêm vẫn còn hoạt động, nhưng lượng người và xe ít đi khá nhiều. Hàng quán hai bên, sức bán cũng giảm theo. Cách đó không xa trong phần đất của Ty Công-Chánh, cạnh bồn cấp nước khổng lồ trên cao, những đóm đèn tròn an toàn màu đỏ từ dưới thân tháp sắt phát sóng, tới đỉnh cao 128 mét của đài truyền thanh không ngừng chớp tắt. Bên đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long, nhiều tàng cổ thụ rợp bóng về đêm làm không khí càng mát mẻ hơn! Nơi ngả tư gần giếng nước, một ngôi biệt thự đẹp nổi bật có lính gác, mà người dân trong thành phố đều biết, đó là tư gia của phu nhân cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cũng nên kể thêm rằng, ông cụ của bà Thiệu ngày xưa là Thầy xem mạch trong tiệm thuốc bắc Thọ-Nam Ðường, tại ngả ba đầu đường Võ Tánh - Nguyễn Huệ phía Cửa Nam nhà lồng chợ Mỹ-Tho, nơi mà tôi thường lui tới chơi thân với mấy đứa con của chủ tiệm. Trong một sự tình cờ, ngôi biệt thự được hai chiến xa M-113 canh phòng vào mùa Xuân 1968 năm xưa, khi bà Thiệu về quê nhà ăn Tết, nhờ đó mà giảm thiểu được thiệt hại phần nào, cho thành phố có cái tên Ðẹp và Thơm trong biến cố tang thương của Tết Mậu Thân.

    Ðoạn đường dài Ông Bà Nguyễn Trung-Long ban đêm không có gì vui, ngoại trừ vài quán nước nhỏ, nhưng ngày nay được bình chọn là con đường đẹp nhất tại địa phương. Cuối đường là một ngả tư lớn, nối tiếp với đường Trần Quốc-Tuấn đi vô lò heo, mà nay là chợ Thạnh-Trị, hai bên nhà dân lao động có nhiều hàng quán. Tiệm phở Thanh-Bình trong mấy căn phố gần đầu đường, vừa nấu xong nồi súp bò to tướng chuẩn bị cho sáng mai cũng bắt đầu bán khi có khách vào. Tại ngả tư giao tiếp với đường Nguyễn Tri-Phương, một bùng binh tròn ở giữa được trồng hoa với thành nước xung quanh. Nơi đây xưa kia có một bót cảnh sát, nhưng về sau không còn nữa! Bên trái gần đó là ngôi nhà thờ Tin Lành trang nghiêm được sơn màu trắng. Cách đó không xa đi về hướng chợ là ngả tư đại lộ Hùng Vương, con đường rộng nhất trong thành phố. Ðối diện với trường Thánh Giu-Se, ngôi nhà thờ Công Giáo đồ sộ, do người Pháp xây cất vẫn uy nghi và là niềm hãnh diện của người sùng đạo. Khoảng giữa trên con đường lớn nầy, đáng kể nhất là ngôi trường trung học công lập danh tiếng và lâu đời Nguyễn Ðình-Chiểu, cũng do người Pháp xây cất vào năm 1879. Khuôn viên ngôi trường rộng lớn, được bao bọc bởi bốn con đường là Hùng Vương, Ngô Quyền, Lê Lợi và Lê Ðại-Hành. Phía bên kia ngả tư đường Ngô Quyền là trường Nữ Trung Học Lê Ngọc-Hân. Những con đường nầy, sáu ngày trong tuần được tô điểm thật đẹp bởi đầy bóng dáng nam, nữ học sinh của nhiều ngôi trường công, tư, tiểu và trung học tập trung, nhưng ban đêm thì trống vắng buồn tênh.

    Hai bên đường phía trên đại lộ Hùng Vương, ngoại trừ hai tiệm chụp hình Bạch-Ðằng, tiệm bán tạp hóa Huỳnh Bá có bàn bi-da và đá banh bàn nơi góc đường Lê Ðại-Hành còn mở cửa, từ khán đài trước bảo sanh viện, Trung-Tâm Y-Tế Toàn Khoa, sân vận động (giờ là cung văn hóa thiếu nhi), công viên Dân Chủ, doanh trại rộng lớn của Tiểu-Khu và dinh Tỉnh Trưởng, phạm vi nầy vắng lạnh, lại có phần nghiêm trọng bởi sự canh phòng của lính gác, nên khi chạy xe dạo chơi qua đây mà trong lòng không khỏi hồi hộp, lo sợ. Từ dinh Tỉnh Trưởng quẹo phải, băng qua ngả tư đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long đến hai giếng nước lớn, nhỏ hai bên, rồi quẹo phải chạy dọc theo chiều dài giếng nước lớn sang bên kia đường ra Bến Xe Mới, đèn đường thưa thớt tối tăm, nhưng cảnh vật lại không hữu tình, nên ban đêm không phải là địa điểm hấp dẫn cho trai gái đưa nhau đến đây hò hẹn.

    Mỹ-Tho là một đại phố cổ xưa, có nhiều thương thuyền ngược xuôi các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu-Long và thủ đô Sài-Gòn. Con sông dài cắt đôi tỉnh lỵ chạy xuyên qua khu trung tâm chợ với lưu lượng lớn ghe thuyền, mà hai bờ được nối liền bởi chiếc Cầu Quây có bề dầy lịch sử, đã tô điểm cho thành phố thêm nét đặc thù của miền Nam-Kỳ Lục Tỉnh. Từ phía chợ sang Cầu Quây, có bót cảnh sát bên trái nơi dốc cầu đi xuống khu Ðập Ðá và bến đò chèo đã ngưng đưa khách sang chợ Mỹ-Tho. Hai ngõ đường hẹp phân ra, dẫn sâu ngoằn ngoèo vào trong xóm nhà đông đúc dân cư đầy huyên náo. Ði đến đâu ngoài đường, người ta cũng nghe mồn một chương trình phát thanh của đài Sài-Gòn và Quân Ðội từ trong nhà vọng ra. Vào tối thứ bảy còn vui tai hơn nữa! Trong màn đêm thanh vắng, vở tuồng cải lương miền Nam qua ống loa được mở hết công suất, phát ra từ những máy truyền hình, của nhiều nhà có đông người lối xóm đến xem tập thể cho tới khuya, hình như đã quá quen thuộc, nên không thấy ai than phiền gì hết! Mọi người đang chăm chú say mê theo dõi cốt truyện, bất chợt có những tiếng cười vang thích thú, khi vai hề diễn xuất một tình tiết mắc cười như thế nào đó. Thường thì trong những tuồng tích cải lương không thiếu những màn bi kịch thảm sầu, nên khiến người xem nhất là phái nữ không khỏi thương vay khóc mướn đến hai mắt đỏ hoe.

    Hướng bên kia cùng đường Phan Thanh-Giản, đối diện với dãy phố buôn bán của người Hoa, là nhà sàn có gác được xây bằng gỗ dọc theo bờ sông của người Việt, ngoài trừ vài vựa cá, hầu hết đều là vựa thu mua nông sản phẩm từ các miền nông thôn xa xôi thuộc tỉnh Bến Tre chở đến. Ban ngày, con đường nhỏ gồ ghề nầy xe cộ tấp nập rất khó lưu thông, nhưng ban đêm ngưng hoạt động và ít xe qua lại. Nhiều công nhân khuân vác giăng võng ngủ giữa nhà, chờ ghe thuyền sáng sớm cặp bến phía sau vựa lên hàng. Bến đò nơi cuối đường, nhiều đò máy đã đến vào buổi chiều từ các quận, xã hẻo lánh ven sông như Bình-Ðại, Ba-Tri, An-Hóa, Cái-Mơn, Tân-Ðịnh, Vang-Quới, Lộc-Thuận, thuộc tỉnh Bến Tre để bổ hàng cũng hồi sinh khi trời tờ mờ vào sáng hôm sau.

    Song song với con đường bờ sông Phan Thanh-Giản, phía trong là đường Trịnh Hoài-Ðức có ngôi đình Ðiều-Hòa. Truyền thuyết dân gian cho biết thần đình rất linh thiêng nên các bàn thờ khói hương thường nghi ngút, dập dìu người đến khấn nguyện vào những ngày lễ lạc trong năm. Ngoài ra còn có ngôi chùa Chà xây cất vào thời Pháp thuộc sơn màu trắng. Bên phải chùa Chà, một con đường nhỏ bằng xi-măng chạy dài thông ra tới đường Ðinh Bộ-Lĩnh đối diện với rạp hát Viễn-Trường. Ban đêm nhà cửa hai bên đèn điện vừa đủ sáng, vài quán nước bình dân trong xóm thường có nhiều thanh niên tựu tập tán gẫu rất to tiếng.

    Con đường Ðinh Bộ-Lĩnh từ đầu Cầu Quây đến ngả tư Chợ Cũ, ngày cũng như đêm luôn có nhiều xe cộ lưu thông. Khoảng giữa con đường nầy, rạp hát Viễn-Trường xập xệ nằm phía trong, có cái sân hình chữ nhật trải rộng ra đến ven đường, chuyên chiếu phim cũ hay hai phim chung một xuất, dù vậy mà vẫn ít người xem. Trên thềm cao trước rạp, hầu như đêm nào cũng có vài người vô gia cư trải chiếu, giăng mùng qua đêm. Bên kia đường, đèn điện trong tiệm chụp hình lâu đời Lâm Tuấn vẫn còn sáng trưng.

    Ngả tư Chợ Cũ về đêm thật yên tịnh khác hẳn ban ngày. Mặt đường bên chợ hướng vào chùa Ông của người Triều-Châu và đường tới xã Gò Cát luôn dơ bẩn, nực nồng mùi hôi tanh của các gian hàng thịt cá đã dọn dẹp còn lưu lại. Ðầu đường bên kia xuống Bến Tắm Ngựa, ban ngày là bến xe ngựa đi Trung-Lương, xe lam chạy quận Chợ Gạo và xe đò xuyên quận Ông Văn đến tỉnh Gò-Công. Nhưng ban đêm không thấy bóng dáng một xe nào hết. Vài hàng quán ăn uống nơi đây luôn mở cửa mặc dù rất ế khách.

    Mỹ-Tho vào thuở xa xưa khoảng từ 1950 đến năm đầu 1960, Cầu Tàu không chỉ là nơi lý tưởng cho những người thích bơi lội vào buổi sáng và tập thể dục, mà còn là một công viên đẹp đầy bóng cây. Ban đêm thật mát mẻ nhờ gió sông thổi vào dưới tàng đại thụ. Nhiều người thưởng ngoạn thích đến đây ngồi chơi hóng mát, bước ra phía ngoài chiếc cầu hít thở không khí trong lành và xem người ta câu cá. Cũng trong thời điểm nầy, công viên Dân Chủ với diện tích không lớn bên ngoài sân vận động được xây cất, có hồ phun nước tròn với ánh đèn xung quanh khi trời về đêm. Nơi đây tuy trồng nhiều loại hoa đẹp, nhưng lại không có duyên với quần chúng, nên người đến ngồi chơi trên các băng đá rất thưa thớt.

    Cuối thập niên 50, tuyến đường sắt cũ kỹ Mỹ-Tho nối liền Sài-Gòn, do người Pháp thiết lập vào năm 1883 bị hủy bỏ. Nhà ga xe lửa nằm nơi góc đường đã biến thành vườn hoa Lạc-Hồng với một diện tích rộng lớn, có cây bồ đề thật to nhiều tàng xum xuê. Nhà hàng cao cấp Cửu-Long nằm lẻ loi sát bờ sông gần đó rất ít khách ban đêm. Vườn hoa Lạc-Hồng tân lập, nên không có kỳ hoa dị thảo và nhiều cây to lớn như ở Cầu Tàu cách đó không xa. Băng đá ngồi được đặt rải rác nhiều chỗ, hầu hết là do các nhà thương mại tài trợ, với những dòng chữ quảng cáo tiệm buôn được in trên thành dựa.

    Nhìn chung thì vườn hoa quang đãng có nhiều đường đi bộ rộng rãi. Những đêm mát trời, thiên hạ ra đây ngồi chơi hứng gió khá đông. Vì thế mà vườn hoa Lạc-Hồng ban đêm rất ồn ào bởi tiếng nói chuyện, cười giỡn, chạy chơi của trẻ em, cùng với tiếng rao của những người bán hàng rong như đậu phộng rang, bánh kẹo, cà-rem cây, mía ghim, bong bóng bay, chong chóng giấy. Phần đông những người đến đây vui chơi là gia đình lao động. Một số thanh niên nam nữ cũng tìm đến nơi nầy để hẹn hò hay thố lộ tâm tình. Dọc theo lề đường bên ngoài, những chiếc xe bán nước đá, sữa đậu nành, mía hấp luôn luôn có khách. Ở vàm sông nơi góc đường, gần cầu thang bằng đá đi xuống bến đò chèo, nhiều phu cyclo ngồi trên xe nghỉ mệt hướng mắt tìm khách. Phía ngoài, tiếng xe gắn máy bóp kèn inh ỏi, nối đuôi không ngừng chạy rầm rộ rẽ trái sang dãy bar trên đường một chiều Trưng Trắc.

    Xa xa phía bên kia là cù lao Tân-Long, nhiều đóm đèn điện của nhà dân được thắp sáng. Dưới nước, chiếc tàu của cây xăng Shell đang nhấp nhô theo lượn sóng giữa màn đêm, phút chốc lại có một chiếc ghe gắn máy đuôi tôm nổ tành-tạch chạy qua lại ở giữa con sông rộng lớn. Mặc dù trời đã tối đen, nhưng người ta vẫn nghe được đâu đó tiếng róc-rách của nước sông bị khuấy động, bởi những chiếc xuồng tam bản mong manh đang xuôi mái chèo đưa khách sang sông. Trên bờ, dãy phố hai tầng vắng người bên kia đường, các khách sạn Hạnh-Huê, Mỹ-Hoa, Lạc-Hồng và tiệm cơm Việt-Nam ảm đạm đang chờ khách lỡ đường.

    Nói đến thành phố Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc tới dãy bar dọc theo bờ sông trên đường Trưng Trắc quả là một điều thiếu sót, hay nói đúng hơn là chưa biết Mỹ-Tho. Gần bốn thập niên sống nơi hải ngoại, nhiều người khi biết tôi quê quán ở Mỹ-Tho, đã thích thú đề cập ngay đến nơi chốn ăn uống nhộn nhịp nầy.

    Năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ 184.000 quân ào ạt vào Việt Nam theo chương trình viện trợ quân sự, sang năm 1966 tăng tới 385.000 và năm 1967 lên tiếp đến con số 485.600. Trong lúc chiến tranh đang leo thang cao độ, một khoảng đất rộng lớn hình vuông đầm lầy, hoang dại ở khu Bình-Ðức, đã nhanh chóng biến thành căn cứ Ðồng-Tâm có một cạnh tiếp giáp với mặt sông Cửu-Long, theo lối xây cất nhà tiền chế bằng gỗ hai tầng cho quân đội Ðồng-Minh. Vào thời điểm nầy, phong trào Snack Bar bắt đầu nở rộ ở nơi nào có căn cứ của quân đội viễn chinh. Trên đường Trưng Trắc, chừng năm cái bar đầu tiên phía vườn hoa Lạc-Hồng, đã thay hình đổi dạng khác hẳn thành một thế giới riêng biệt, từ những cái tên bar bằng tiếng Anh, đến các ghế ngồi cao trong quán rượu và bộ Salon màu mè. Giờ mở cửa các bar nầy từ sáu giờ chiều cho đến khuya, với thức uống rượu mạnh, bia lon, Coca-Cola lon và các loại Chips khoai Tây hay đậu phộng rang. Những hàng ngoại nầy đều mua từ trong PX (Post Exchange) của Mỹ rồi mang ra bán lại với giá cắt cổ. Khách đến uống bia nhậu rượu đều là lính Mỹ và trả bằng tiền đô-la. Mỗi bar có gần mười nữ chiêu đãi viên Việt-Nam trẻ đẹp, trang điểm phấn son lòe loẹt và nực nồng mùi dầu thơm rẻ tiền. Còn ăn mặc thì cũn cỡn, áo hai dây hở hang đầy khiêu gợi. Hầu hết gái bán bar khi ngồi thân mật, lả lơi với khách đều nói được tiếng Anh, nhưng là loại tiếng bồi lẫn ngôn ngữ múa tay. Mỗi đêm, nhất là thứ bảy, tiếng nhạc ngoại quốc kích động trong những bar nầy được mở lớn vang dội cả một góc trời. Nhiều người đi đường hay chạy xe qua lại không khỏi tò mò ném mắt nhìn vào. Ðêm càng về khuya, không khí nơi góc đường nầy càng tưng bừng đôi khi náo loạn, khiến xe Jeep của MP (Military Police) Mỹ thường xuyên tuần tiểu qua lại kiểm soát nhiều lần.

    Ðến giữa năm 1969, quân đội Hoa-Kỳ đồn trú tại căn cứ Ðồng-Tâm được lệnh di chuyển, bàn giao doanh trại lại cho hai đại đơn vị là Hải-Quân và Sư-Ðoàn 7 Bộ-Binh trong thành phố Mỹ-Tho dời ra. Lúc bấy giờ, những Bar dành cho lính Mỹ đã tự động đóng cửa, rồi biến thành các quán giải khát bình thường mang tên Tina, Ru, nhưng nổi bật nhất là quán Mây Chiều có lối trang trí mỹ thuật, ấm cúng và thường mở nhạc TCS, nên đã thu hút được đông đảo giới học sinh, cùng những thức uống ngon như cà-phê Phin và nhất là món chè thạch, mặc dù giá cả có đắt đôi chút. Trong khi quán nước Hoa Xuân gần đó tuy rộng rãi hơn, nhưng có vẻ bình dân nên luôn ít khách. Ðối diện bên kia, quán nước Hoài Vĩnh Phúc đã một thời nổi đình nổi đám nhờ có nhạc sống vào mỗi tối thứ bảy. Ban nhạc của nhóm bạn người Hoa chúng tôi nhiều lần được mời đánh nhạc tại đây. Trên dãy phố nầy, hầu hết tiệm buôn ban đêm đều đóng cửa, ngoại trừ một số ít còn kinh doanh được như nơi đầu đường, tiệm chơi billard Lạc-Hồng, có nền nhà nằm trên thế đất cao, tiếp đến là tiệm chụp hình Thiện-Ký. Nhà hàng Nam-Sơn nơi ngả ba đường, chỉ bán cà-phê cho một số ít người Hoa quen biết thường đến đây đánh cờ tướng, hay bàn chuyện làm ăn.

    Hướng về phía Cầu Quây, nhà may Âu phục Văn Minh có tiếng và bán nhiều loại vải ngoại đắt tiền. Ông chủ tuổi trung niên, dáng người hào hoa phong nhã và luôn ăn mặc chỉnh tề, thường đứng cắt vải say mê với “cây kéo vàng“ của mình, bên cái tủ kiếng lớn hình chữ nhật đặt giữa phía trước, rồi chuyền vải vào bên trong cho thợ may. Sát bên là hai tiệm basar lớn nằm cạnh nhau là Huỳnh Căn-Ký và Mỹ-Lệ Hưng với đèn néon sáng chói, hàng hóa đầy ắp với cách trang hoàng đẹp mắt. Một điểm ngộ nghĩnh là khách hàng phần đông thích xem và mua radio của Nhật. Cạnh hai tiệm buôn nầy, rạp hát Ðịnh-Tường khang trang có máy lạnh thường chiếu phim Pháp, mà xuất hát chót từ 21 đến 23 giờ luôn ít khán giả. Cho nên sau 21 giờ, khi phim đã bắt đầu thì trước rạp cũng như quán kem Hương-Duyên đối diện trở nên vắng vẻ khác lạ, đèn điện tắt bớt và cánh cửa sắt cũng được khép lại, bên trong chỉ còn anh soát vé thấp thoáng khi ẩn, lúc hiện trên chiếc ghế cạnh tấm màn nhung màu đỏ sậm nơi cửa ra vào.

    Nối tiếp phía dưới, quán kem Mỹ-Duyên từ bàn ghế cho đến cách trang hoàng kém phần bắt mắt, nên không được sự ủng hộ của giới trẻ. Phần đông khách đến quán nầy là người Hoa quen biết và thường thích ăn kem dừa, sau đó được chủ tiệm cho thêm một ly nước lã pha bạc hà thật lạnh. Băng qua ngả ba đầu đường cùng chiều, chiếc xe bán bánh mì thịt Ba-Lê luôn đông khách. Bánh mì Baguette loại lớn được cắt ra từng khúc, đặt trên vỉ lò than nhỏ nướng lại cho nóng dòn rồi thoa bơ. Trước khi dồn thịt đùi khìa và chả lụa, người bán trét vào hai má bên trong ruột bánh mì, một lớp mỏng pâté gan được bọc lớp mỡ chài thơm phức. Sau đó, chế dài lên đó một muỗng nước sốt thịt thay vì nước tương, rồi cho thêm vài miếng dưa chua, ít cọng ngò rí và mấy lát ớt sừng trâu nữa là người mua có được một khúc bánh mì thịt khá ngon miệng.

    Cách đó không xa, tiệm bán đồng hồ Lưu Vinh-Ký còn mở cửa chờ khách. Nơi góc cuối dãy phố nầy, tòa nhà từ thời Pháp thuộc là Ty Ðiền Ðịa hai tầng, có cái sân thượng rộng lớn hình vòng cung nhìn xuống quang cảnh đầu Cầu Quây khá đẹp. Ðối diện phía bên bờ sông, một khoảng nền trống bằng xi-măng không có kiosk hay quán bar, mà là một sạp bánh khá quen thuộc đối với người dân địa phương, nhất là giới thanh niên. Phải công nhận quầy nầy làm bánh rất khéo và bánh lúc nào cũng còn nóng hổi, thơm ngon vì vừa từ nhà mới mang ra. Quầy có nhiều thứ bánh: bánh bò, bánh tiêu, bánh da lợn, bánh qui, bánh gan và bánh khoai mì. Sạp bánh ngọt nầy chỉ bán từ 6 giờ chiều đến chừng 10 giờ đêm là hết sạch! Chủ sạp là bà Sáu, dáng người mập mạp, phúc hậu, vui vẻ. Nhưng thường trực ngồi bán là con gái của bà, thuộc người đẹp của trường Nữ Trung Học Lê Ngọc-Hân với tánh tình đoan trang, thùy mị và ít nói. Cũng chính vì điểm nói ít, nên nàng đã thu hút được nhiều nam sinh trường Nguyễn, thường đến mua bánh nhằm mục đích để ngắm nhìn.

    Song song với đường Trưng Trắc phía bên trong gần khám đường, một con đường nhỏ yên tịnh, câu lạc bộ Châu-Diều rộng lớn và khang trang, được thành lập vào năm 1961 với bốn bức tường cao bao bọc xung quanh. Hội quán thể thao nầy mở cửa từ 10 giờ sáng, nhưng đến chiều tối mới có đông khách đến đá banh bàn, đánh ping-pong và thụt bi-da. Gần dốc Cầu Quây, hai tiệm chụp hình Phong-Lan và Cảnh-Trung còn tiếp khách chụp hình ban đêm.

    Con đường Trưng Trắc dọc theo bờ sông dài gần hai cây số, tính từ vườn hoa Lạc-Hồng, đến ngã ba Ty Công An đường Ngô Quyền tại bến đò ngang qua xóm Dầu. Tiếp nối theo là đường Alexandre de Rhodes (Bá Ða Lộc). Với chừng chiều dài đó được phân ra làm ba đoạn có sinh hoạt khác biệt cả ngày lẫn đêm. Phía các quán bar thì khỏi phải nói. Còn bên dãy phố khoảng giữa từ đầu Cầu Quây nơi Phòng Thông Tin, xuyên qua phạm vi chợ cá và phía trước cổng ra vào nhà lồng chợ Mỹ-Tho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp, nơi có bến đò máy và chiếc cầu bằng gỗ, được xây cất sau nầy để bắt qua bên kia sông, là khu vực thương mại sầm uất của người Hoa vào ban ngày. Phần đường ngắn còn lại chỉ có vài ba tiệm buôn nhỏ, hàn tiện làm cửa sắt và ngôi chùa Ông lâu đời được sự sùng bái của giới Hoa thương, hàng năm trong đêm Giao-Thừa đông nghẹt người đến xin xăm, cầu mong cho Năm Mới làm ăn thuận lợi phát tài.

    Trở lại đoạn đường Trưng Trắc vui nhộn của thành phố, dãy bar dọc bờ sông buổi sáng tương đối im lìm, ngoại trừ vài quán bán thức ăn sáng và cà-phê như Thái-Ký, Quới-Ký. Trong quán Xường, một số người Hoa ngồi trên những chiếc bàn ăn mì, hủ tiếu, một cách ngon lành! Từ 11 giờ trưa, hầu hết các bar bắt đầu hoạt động cầm chừng chờ hoàng hôn buông xuống. Khi trời vừa nhá nhem tối, đèn đường bật lên hòa quyện chung với ánh sáng từ bao quán bar được thắp tỏa lên, tạo nên không khí đầy sống động của một khu phố về đêm. Người và xe bắt đầu tăng dần trong tiết trời mát dịu. Một số bar đông khách có quán ăn Tòng-Ký, tiệm kem Hương-Lan. Ông chủ quán ăn A-Lục trong chiếc quần đùi và để mình trần, đưa cái “thùng nước lèo“ tròn trĩnh như Ông Ðịa phía trước, một bên vai vắt cái khăn lau mồ hôi, tay cầm chiếc vợt thau nhanh nhẹn chiên mì dòn, trên chiếc lò gas nơi bếp đang cháy bùng với ngọn lửa táp. Cạnh bên là quán ăn Chí-Thành, em ruột của chú A-Lục cũng bận rộn thao tác không kém, với những món chiên xào bốc khói, để ứng phó cho nhiều khách đang đợi chờ ngoài các bàn ăn. Nhìn chung thì thực đơn của dạng các quán ăn nầy giống nhà hàng Tàu, như thịt heo, bò, gà, vịt, tôm, cua, mực xào sền-sệt với rau cải các loại và vài món canh để ăn cơm. Tiệm kem Duyên Thắm rộng rãi với nhiều bàn ghế, thường mở nhạc kích động Mai Lệ Huyền và Hùng Cường khá lớn vang dội ra đến ngoài đường. Quán bò 7 món Hữu-Lợi và quán bánh hỏi, nem nướng Sinh-Viên có bảng thực đơn riêng biệt, với những món ăn độc đáo cũng thu hút khá đông thực khách. Gần đó, quán sâm bổ lượng Khâm Ký bán đủ các loại chè ngọt khá đậm đà luôn được nhiều người chiếu cố.

    Trong các quán ăn tập trung kề cận nầy, phải nói Việt Hải là quán nhậu ngon nhất! Ông già chủ quán người Hoa gốc Hải-Nam, có bà vợ Việt-Nam trẻ tuổi hơn nhiều, nên đặt tên quán là Việt-Hải. Ðầu bếp do chính ông chủ đảm nhận, bà vợ cùng đứa con gái duy nhất chạy bàn. Ðặc sản của quán nầy có món bồ câu quay, thịt bò lúc lắc chấm với muối tiêu chanh ăn với xà-lách-son, dồi trường xào dòn với ớt xanh Ðà-Lạt, lẩu lương hay cá bông lau ăn với rau nhúc và uống bia thì khỏi chê! Mỗi lần chủ quán chiên xào, khói thơm bay đầy ra đến ngoài đường. Quán có các món nhậu độc đáo, ông bà chủ lại nhiệt tình chiêu đãi và cô con gái xinh đẹp luôn tươi cười vui vẻ, nên khách đến ăn rất đông, nhất là vào những ngày cuối tháng lãnh lương, lính tráng khó mà tìm được bàn trống nơi quán ăn nầy. Nhan nhản dọc theo nhiều quán bar, hầu như lúc nào cũng có vài người nghèo khó, bệnh tật, phải lê thân nài nỉ thực khách để bán vé số, hoặc cầu xin ít đồng tiền lẻ độ nhật trông mà tội nghiệp!

    Còn gì thi vị cho bằng những đêm trăng thanh gió mát, an nhàn ngồi trong quán cùng bạn bè ăn uống hàn huyên tâm sự, hướng mắt nhìn xuống mặt nước dâng đầy lên dãy vựa phía bên kia bờ sông, trong khi nhiều ghe thuyền neo bến đang im lìm soi bóng dưới ánh trăng sáng thật đẹp! Bên ngoài đường lộ, người xe đông đúc qua lại không ngừng. Những ngày nghỉ lễ hay các ngày Tết, đoạn đường Trưng Trắc về đêm càng đông nghẹt rừng người và xe. Nam thanh nữ tú thích chưng diện quần áo đẹp, không rủ nhau mà cùng diễn trò “ông đi qua, bà đi lại“ nhiều lần trên con đường huyên náo nầy, chỉ đơn giản thế mà trong lòng cũng cảm thấy đầy thích thú!

    Nhiều lần trở về quê nhà thăm thân nhân sau hơn 30 năm xa cách, tôi không quên đi khắp mọi nẻo đường mong tìm lại dấu chân kỷ niệm năm xưa của mình, nhưng cảnh vật nay đã hoàn toàn thay đổi, nhà cửa lớn nhỏ đâu đâu cũng được sửa sang hoặc xây mới, cao, thấp, rộng, hẹp, đủ sắc màu không chút mỹ quan đô thị. Xe gắn máy tràn ngập đường phố chạy hỗn độn dọc ngang, hầu như không có luật lệ giao thông. Ði đến bất cứ nơi nào, tâm tư tôi không khỏi cảm thấy buồn buồn, xót xa như đánh mất một cái gì không bao tìm lại được. Lòng người viễn xứ luôn hoài niệm về cố hương. Nhưng quê hương Mỹ-Tho của tôi ngày nay sao quá xa lạ thế nầy?

    Câu nói thở than của các nữ Giáo Sư Ðài-Loan xa gia đình năm xưa, vẫn còn văng vẳng bên tai. Mà thật vậy! Không có nơi nào đẹp bằng quê hương, nhưng phải chăng Mỹ-Tho thân thương của tôi vẫn đẹp mãi, mà tôi không bao giờ quên được chỉ còn trong ký ức?

    Tiểu Minh - Germany

    Bài viết nầy đã được đăng trong Ðặc San số Xuân 2012, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho Úc-Châu và báo Viên-Giác số 189, tháng 6 năm 2012 tại Ðức-Quốc.

  2. The Following 2 Users Say Thank You to nguyenphuong For This Useful Post:

    BachMa (06-24-2020), hoang yen (08-15-2020), khongquan2 (08-15-2020), KiwiTeTua (06-24-2020), Nguyen Huu Thien (06-23-2020), philong51 (07-01-2020), Satan526 (07-30-2020), Tinh Hoai Huong (06-24-2020)

  3. #8
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Talking

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Chợ Mỹ-Tho
    Tiểu-Minh Germany


    Từ thôn quê đến thành thị ở Việt-Nam, đi đến đâu người ta cũng đều thấy Chợ, vì đây gần như là huyết mạch của đời sống con người. Làng, xã, huyện nhỏ thì chợ nhỏ, tỉnh thành lớn, chợ lớn theo để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của người dân ở tại nơi chốn đó. Hầu hết chợ búa lớn nhỏ đều có xây một nhà lồng chợ ở trung tâm phố chính và mang tên của địa phương, ngoại trừ một số ít chợ lấy tên đặc biệt chẳng hạn như Cố Ðô Huế ở miền Trung có chợ Ðông-Ba, trong Nam thì có chợ Bến-Thành tại Sài-Gòn. Tuy nhiên, ở các tỉnh và thành phố lớn, mỗi nơi ngoài chợ chánh còn có thêm vài chợ phụ nhỏ nữa, để thuận tiện phục vụ cho đời sống quần chúng tại địa phương, như thành phố có cái tên Ðẹp và Thơm là Mỹ-Tho thì có chợ Hàng Bông, chợ Thạnh-Trị, Chợ Cũ, chợ Vòng Nhỏ, còn ... Chợ Gạo là tên của một quận lỵ cách xa Mỹ-Tho 10 km về hướng tỉnh Gò-Công.

    Tôi còn nhớ vào giữa thập niên 50, lúc đó tôi chưa đầy 10 tuổi, ngôi chợ Mỹ-Tho do Pháp xây cất tuy còn kiên cố, vì bề ngoài nhìn thấy có rất nhiều cọc sắt lớn nhỏ sơn màu xanh lá cây từ trên tới dưới. Mặc dù chợ chỉ có một tầng trệt, nhưng mái nhà được ngăn làm hai tầng cao thấp bằng ngói, có một khoảng thông hơi và ánh sáng ở giữa, mà tầng trên là hình chóp nón dài theo hình chữ nhật của ngôi chợ khá cao. Nhìn tổng quát thì lối kiến trúc không đẹp. Diện tích bên trong nhà lồng chợ có mái che lại không rộng lớn, bởi phần chợ lộ thiên song song dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ đã bằng phân nửa bên trong. Có lẽ vì thế mà chính quyền địa phương đã cho phá hủy toàn bộ để xây cất mới lại ngôi chợ Mỹ-Tho.

    So với chợ cũ thì mái che chợ mới thấp hơn. Hệ thống thoát hơi phía trên lại không được rộng lớn, vì thế mà buổi trưa khi trời nắng rất nóng nực. Ngôi chợ mới tứ phía có bốn cổng rộng lớn ra vào với cửa sắt, ban đêm được đóng khóa lại và sáng sớm có người trực trong Ban Quản Lý ở cổng phía đường Nguyễn Huệ đi mở cửa. Chợ Mỹ-Tho hình chữ nhật, chiều ngang của mỗi bên có một cổng chánh. Phía trên là một thành vách khá cao mà trên đỉnh có dựng ba chữ “CHỢ MỸ-THO“ to đùng bằng xi-măng sơn màu đỏ tươi.

    Còn cổng ra vào hai bên chiều dài có phần hẹp và thấp hơn chừng một nửa hai cổng chánh, phía trên mỗi bên có xây một bức tường hình chữ nhật lớn chừng 3 m x 2 m, ở giữa có hai chữ nổi lớn cũng sơn màu đỏ tươi, bên kia là CỬA NAM, còn bên đây là CỬA BẮC, đối diện trực tiếp qua con đường lộ ngắn với cửa nầy là tiệm buôn bán của Ba Mẹ tôi ngày xưa trên dãy phố có mười thương hiệu, con đường phía bên Cửa Nam cũng vậy. Hai dãy phố lầu thương mại hai tầng cùng mang tên là đường Võ Tánh, được xây cất giống nhau mà chỉ khác số nhà chẵn, lẻ. Mặt ngoài đường và bên trong xung quanh nhà lồng chợ, đều là những tiệm buôn nhỏ xây đâu lưng thống nhất với nhau, mà phần lớn đều bán tạp hóa và hàng vải tơ lụa. Ở giữa trong nhà lồng chợ có một đường đi khá rộng lớn được ngăn đôi từ cổng ra vào từ cửa Nam đến cửa Bắc, một bên dành cho các sạp bán basar, kim chỉ, giày dép, va-li, túi xách, nhưng phần lớn là sạp vải thông với cổng chánh hướng ra đường Nguyễn Huệ. Còn phân nửa là khu bán tạp hóa và thịt heo, mà cổng chánh hướng ra chợ cá giáp với con sông dài. Nhìn chung với lối kiến trúc cũng như sự phân chia sắp xếp các gian hàng buôn bán bên trong và phía ngoài rất mỹ quan.

    Phạm vi chợ Mỹ-Tho tính ra cũng khá rộng lớn, bao gồm từ chợ Hàng Bông phía đường Nguyễn Huệ đến trước rạp hát Vĩnh Lợi, rồi từ bên trái rạp hát đến ngả ba bờ sông đường Trưng Trắc. Trên con đường dài nầy từ dốc cầu quây cho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp rồi quanh trái giáp vòng lại với Chợ Hàng Bông. Cộng thêm hai con đường ngắn Võ Tánh dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ, cùng một đoạn ngắn đường Lê Ðại Hành ở giữa, giao tiếp với ngả ba đường Nguyễn Huệ và ngả tư Lê Lợi. Ngoài ra, từ dốc cầu quây phía Chợ Cũ bên phải là con đường Phan Thanh Giản chạy dài cho tới Bến Ðò, một bên là dãy phố buôn bán, còn phía bờ sông đều là những vựa cá, vựa bán trái cây và nông sản phẩm cũng tấp nập không kém bởi ghe xuồng, đò máy chở đầy ắp hàng hóa dài dọc theo bờ sông từ các vùng phụ cận tới. Chợ Mỹ-Tho trước năm 1975 được xem là một chợ sầm uất nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vì địa thế nằm gần thủ đô Sài-Gòn hơn các tỉnh miền Hậu Giang, nên phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ cũng như đường thủy rất thuận lợi.

    Chợ Mỹ-Tho sau một đêm vắng vẻ yên tịnh thì trở mình bừng sống dậy khoảng ba giờ sáng, với đủ mọi thứ tiếng động ồn ào khá lớn. Bắt đầu từ khu chợ cá khi những ghe cá ở trên sông chạy bình-bịch từ các địa phương nhỏ thuộc tỉnh lỵ Mỹ-Tho và Bến-Tre rầm rộ đổ tới, cộng với tiếng đò máy chạy đưa khách từ miền thôn quê lân cận của hai tỉnh nhiều sông rạch nầy lên chợ Mỹ-Tho để bổ hàng. Chiếc máy xay nước đá của depot Chú Cẩu không ngừng nổ máy nghe đinh tai điếc óc để cung cấp nước đá bào cho bạn hàng cá. Những cái máng thiếc to và tròn cạn đáy đựng cá của mấy bà bán cá ban đêm xếp chất chồng lên được thảy xuống đất nghe xốn cả tai.

    Vài chiếc xe hàng nổ máy xình-xịt chạy chầm chậm vô chợ cá để lên hàng chở về Sài-Gòn. Tiếng nói chuyện to lớn cũng như lời mặc cả giá tiền của những bà bán cá phải nói là như … bể thùng thiếc giữa không gian vào buổi sáng thật sớm. Lâu lâu cũng không tránh khỏi những tiếng chửi lộn tục tĩu trong chốc lát rồi ngưng. Ðó là chuyện xãy ra rất bình thường, vì họ là dân “hàng tôm, hàng cá“ mà! Tiếp theo đó, trên khắp các nẻo đường hướng về chợ Mỹ-Tho, từ Cầu Quây phía bên Chợ Cũ, đường Nguyễn Trải, Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lê Lợi, rừng người mà phần đông là các bà, các cô trong vườn gồng gành rau cải, hoa quả, trái cây đổ xô ra chợ bán, có người còn buộc cây đuốc đang cháy lửa trên đầu đòn gánh để soi đường đi. Song song đó, những chiếc xe xích lô, ba bánh chất đầy rau cải, trái cây từ hướng Bến Xe Mới vội vã chạy xuống chợ. Tất cả tạo nên một quang cảnh vô cùng sống động cho một buổi chợ sáng bắt đầu.

    Bên ngoài còn nhá nhem tối, tiết trời thật mát dịu vào buổi sáng đầy sương mai. Dưới ánh đèn đường yếu ớt, đông đảo bạn hàng buôn bán xung quanh chợ nhôn nhao bày những chiếc sạp, dựng mái che hoặc trương những cây dù bằng vải ny-lon cho gian hàng của mình. Nhiều người còn đốt những cây đèn khí đá hoặc đèn dầu để thấy đường bày hàng ra. Trong nhà lồng chợ, nơi khu vực bán thịt rộng lớn, những phần nửa con heo xẻ ra từ lò heo được xe ba bánh vội vã chở đến. Tiếng hô to để thiên hạ tránh đường của những người khuân vác nặng nhọc, cồng kềnh không ngớt vang dậy bởi ngổn ngang người qua lại. Tiếng dao to búa lớn nghe lạnh cả người của các bạn hàng thịt không ngừng thi nhau phân chia xương thịt, trên những tấm thớt không lồ bằng gốc cây to. Khu bán tạp hóa gần đó cũng bắt đầu lăng xăng bày biện đủ thứ đồ hàng xén ra. Còn phía bên bán vải vóc có vẻ nhàn hạ, sạch sẽ cũng như sự sắp xếp, bày trí thì tương đối gọn gàng và ít bận rộn hơn, nên từ bảy giờ chủ sạp mới ra mở cửa hàng, vì khách của họ gần như không thấy vào giờ nầy, ngoài trừ một số ít người ở miền thôn quê đi đò máy lên thật sớm để mua sắm.

    Gần chợ cá dọc theo bờ sông là một dãy tiệm nhà sàn đều bán chén, dĩa, lò than, cà-ràng, khạp, lu nước chất đầy thiếu điều không có đường đi trong nhà. Nơi đây mở cửa rất sớm, vì khách hàng của họ phần đông đều từ trong vườn ra đi chợ. Những xe hủ tiếu, quán cà-phê, tiệm nước Cao-Thăng và Kỳ-Hương gần chợ đã có khách ngồi ăn uống một cách ngon lành.

    Ðoạn đường Trưng Trắc từ chợ cá đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp gần cây cầu gỗ bắt qua bên kia sông là những sạp bán gà, vịt con kêu chíp-chíp không ngừng nghe rất vui tai. Tiếp đến là các gian hàng bán đồ thủ công nghệ được đan bằng tre, bằng mây như thúng, rổ, đệm, cần xé .v.v. Ðến hàng gia cầm heo, gà, vịt là thấy bắt đầu có mùi khó chịu rồi! Nhiều con gà, vịt bị buộc chân dính từng chùm với nhau nằm la liệt dưới đất, một số ít được nhốt trong các lồng tròn bằng tre. Thỉnh thoảng có những con gà trống đứng hiên ngang cất tiếng lớn gáy sáng. Kế đến là chỗ bán của những người lái heo còn tồi tệ hơn nữa về mặt vệ sinh. Những chú lợn sữa được chủ quan tâm cho ở trong mấy cái chuồng nhỏ khối chữ nhật có lưới kẽm. Phần lớn mấy anh Trư Bát-Giới bị trói chặt chân nằm lăn lóc vẫy vùng trên những lớp rơm mỏng dưới đất, một số khó chịu kêu la như đang bị cắt cổ không bằng, có con còn phóng uế tại chỗ bừa bãi, nhiều con thì đưa cái bụng phệ sang một bên nằm ngủ ngáy khò khò …

    Khoảng đường Nguyễn Huệ gần đầu chợ đến ngả ba đường Võ Tánh là khu vực ưa thích và quen thuộc của các bà, các cô, vì nơi đây tập trung nhiều sạp hàng ẩm thực ăn uống rất thơm ngon như: cháo lòng, cháo cá, bánh xèo, bánh giá, bánh đậu, bún bì, thịt nướng, chạo tôm, gỏi, bì cuốn, chè đậu, chè thưng, bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa, bánh tét nhưn đậu, mỡ, chuối, bánh quy, bánh khoai mì, bánh da lợn, xôi, bắp ôi thôi đủ các thứ ngon miệng. Con đường Võ Tánh bên số nhà chẵn, phía Cửa Nam nhà lồng chợ là những sạp bán nón lá, kim chỉ, đồ đệm, mây, chiếu nằm, mà ở góc ngả ba đường Nguyễn Huệ, sát tường bên hông của tiệm thuốc Bắc Thọ-Nam Ðường, có một kiosque đặc biệt của chú Bảy Ích chuyên bán các loại bánh Tây và trái cây nhập cảng từ Pháp, Hong-Kong như: nho, táo, lê, củ năng, vải khô, hồng khô, hột dưa .v.v. Còn con đường ngắn số lẻ bên phía Cửa Bắc chỉ bán rau cải mà thôi. Từ đầu chợ đường Nguyễn Huệ đến con đường ngang rạp hát Vĩnh Lợi, là những sạp bán kim chỉ, guốc, nón lá, áo quần may sẵn. Bên phải khoảng giữa dãy phố, có tiệm buôn độc nhất Vân-Phát Hãng chuyên bán khá đầy đủ tất cả các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, pho mai, mức, bánh kẹo nhập cảng không khác nào như một shop ở nước ngoài. Con đường phía trái dẫn đến ngả ba bờ sông là khu bán trái cây, nhưng nơi nầy bán không nhiều và ngon bằng ở đoạn đường ngắn Lê Ðại Hành tiếp giáp hai đầu với đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi. Còn chợ Hàng Bông trái cây với khối lượng lớn thường bán sỉ cho những bạn hàng mua đi bán lại.

    Những dãy phố tiệm buôn của người Hoa xung quanh chợ có thông lệ mở cửa lúc 6 giờ sáng, nhưng thật ra vào giờ nầy chẳng mấy tiệm có khách vào mua. Không riêng gì tại chợ Mỹ-Tho mà hầu hết ngành thương mại ở các tỉnh thành lớn nhỏ tại Việt-Nam đều do người Hoa nắm giữ, đó chẳng qua vì họ có biệt tài buôn bán, tháo vác, cần kiệm, chịu cực giỏi và có tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau.

    Nói về chợ Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc đến chợ đêm thì quả là một điều thiếu sót. Nhớ lại hồi nhỏ, các chị em tôi rất thích chợ đêm, vì quanh năm suốt tháng chỉ thấy chợ ngày, nên khi gặp chợ đêm thì lấy làm vui thích lắm! Hàng năm, chợ Mỹ-Tho chỉ có ba buổi chợ đêm vào ngày 27, 28 và 29 tháng chạp Âm Lịch. Trước Tết một tuần, những đoạn đường tráng nhựa thuộc phạm vi chợ, đầu tiên người ta thấy hai bên lề đường, cách khoảng xa xa có hai cái lỗ nhỏ sâu hơn nửa thước, được đào sẵn đối diện song song với nhau. Qua hôm sau, tất cả các lỗ đó đã được dựng lên những cây cột cao chừng sáu mét. Mấy ngày kế tiếp, những sợi dây chì được nối liền ở phần trên giữa hai cây cột, rồi có dây điện và sau cùng ở chính giữa có gắn một cái bóng đèn tròn. Ðó là diễn tiến của những giai đoạn để chuẩn bị đèn đuốc cho ba buổi chợ đêm vào cuối năm.

    Thực sự thì với những cái bóng đèn nhỏ được treo vỏn vẹn cách khoảng như thế, độ chiếu xa không đủ sức để tỏa sáng khắp các khu vực chợ rộng lớn, mà phải nhờ có sự phối hợp với những cột đèn đường và ánh sáng từ trong nhiều tiệm buôn dọc theo hai bên phố tăng cường thêm.

    So với chợ ngày, dĩ nhiên chợ đêm không náo nhiệt bằng. Những gian hàng bánh trái ăn uống buổi sáng, cùng nhiều sạp buôn bán lộ thiên khác trên đường Nguyễn Huệ, ở hướng đầu nhà lồng chợ được rút lui, nhường chỗ cho các gian hàng bán rượu, trà, bánh mức, kẹo, thèo lèo, chà là, quà cáp và pháo Tết .v.v. Nói đến các sạp bán pháo tiểu, pháo trung và pháo đại thì trẻ em con trai mê thích lắm! Hiệu pháo nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Từ Quang và Ðiện Quang, với những phong pháo 100 viên, được bọc trong hộp giấy cứng dẹp hình chữ nhật màu đỏ, có giấy kiếng trắng bao bên ngoài. Một cạnh của chiều dài phong pháo để hở, thấy rõ một bên hai hàng dài “đít” pháo song song đều nhau là 50 cái lõm tròn nhỏ, với thuốc pháo có chất lưu huỳnh trong đó. Hai hiệu pháo nầy rất nhạy, nổ dòn lớn tiếng lại tan xác thành từng mảnh nhỏ như pháo của Hong-Kong.

    Ðặc biệt dọc theo giữa con đường ngang trước rạp hát Vĩnh Lợi, nhiều gian hàng căng dù che và trải những chiếc đệm thật lớn san sát bên nhau, bày bán hàng núi dưa hấu được phân loại lớn nhỏ, chất đống có thứ tự theo hình chóp nón trông thật đẹp mắt. Một vài trái dưa bị bể lòi ruột đỏ au nằm lăn lóc một góc trên mặt đất, bên cạnh một tấm thớt nhỏ với cây dao sắc bén dài bảng lớn. Thỉnh thoảng, người chủ hàng xẻ một trái dưa to thật ngon ra làm 10 đến 12 miếng đều đặn hình bán nguyệt, rồi sắp đứng trên một cái mâm nhôm theo hình tròn bên cạnh một dĩa muối và con dao nhỏ, để cho người nhà vác lên một bên vai đi bán dạo vòng khắp chợ. Dĩ nhiên, dưa bán lẻ từng miếng nhỏ có lời nhiều hơn là bán nguyên trái. Những người có tiền, hay khách hàng mua đi bán lại mua trên chục trái thì giá tiền lại càng rẻ hơn. Loại dưa thời bấy giờ chỉ có vỏ màu xanh lá cây đậm bóng láng và chỉ xuất hiện trong mùa Tết, chớ không có sọc xanh trắng như ngày nay có quanh năm. Cũng nơi khu vực nầy trên vỉa hè trước rạp hát Vĩnh Lợi, những sòng “bầu cua cá cọp” bất hợp pháp được đám con nít say mê bao quanh, trước lệnh chỉ cho phép chơi trong ba ngày đầu năm.

    Mấy tên lưu manh cờ gian bạc lận thừa cơ hội cho đồng bọn làm cò mồi, để chiêu dụ ăn tiền những người nhẹ dạ dễ tin một cách vô lương tâm, bằng trò chơi xảo thuật tráo bài ba lá. Mà khổ nỗi nạn nhân thua bạc đáng thương, lại có những người đàn bà bán rau cải, trái cây. Ban đêm họ trải chiếu, giăng mùng đơn sơ ngủ bờ ngủ bụi dưới mái hiên những tiệm buôn dọc theo phố để qua đêm, chờ sáng sớm hôm sau mối lái từ trong vườn mang hàng ra mua rồi bán tiếp. Có bà vì quá mê trò đỏ đen, nên bị thua sạch số tiền làm vốn buôn bán mà mặt mày thất sắc, xanh lét không biết tính sao trông thật tội nghiệp. Mặc dù mấy ông cảnh sát chợ thỉnh thoảng có đi tuần bố ráp các sòng cờ bạc. Nhưng khi ông Cò đi rồi thì nhóm phần tử xấu nầy lại vân tập trở lại, với hai con mắt “phía sau” để lừa bịp thiên hạ.

    Mỗi năm khi có chợ đêm, giới trẻ rất thích thú được dịp hẹn nhau đi dạo rong chơi, còn những người có gia đình thì tìm thấy được phần nào không khí mùa Xuân sắp đến, qua sự mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết. Chợ đêm được kéo dài đến chừng 11 giờ thì vắng vẻ người đi. Lác đác đâu đó, người ta nghe được những tiếng pháo nổ đì đùng, mà lẽ ra lệnh cho đốt pháo được cho phép; kể từ chiều 30 Tết cho đến trễ lắm là hết ngày mùng 10.

    Nhắc tới chợ Tết là phải kể đến chợ hoa, mà chợ hoa ở thành phố lớn nhỏ nào cũng có. Mỹ-Tho thì nhóm ở ngoài vườn hoa Lạc-Hồng. Ðoạn đường dài khoảng hơn 100 mét từ góc đường Trưng Trắc cho đến Ty Bưu Ðiện, được ngăn lại cấm xe lưu thông kể từ ngày 20 tháng chạp. Nơi đây bày bán đầy cả một rừng hoa với đủ mọi chủng loại như: cúc, huệ, mồng gà đỏ, vàng, trắng, tím, nhất là mai vàng và vạn thọ được người mua chiếu cố nhiều nhất! Ngoài bông hoa còn có kiểng như tùng, đặc biệt để chỉ sự sung túc thì có kim quít sai đầy trái vàng tươi.

    Chợ hoa tấp nập nhất là vào buổi xế chiều trời mát cho đến tối, với dòng người nhộn nhịp mà phần đông là phụ nữ. Hàng ngàn chậu hoa đẹp ngũ sắc thuộc nhiều chủng loại, được sắp đầy tua tủa dưới mặt lộ để cho người mua tha hồ chọn lựa ngã giá. Nhiều nhánh mai vàng lớn nhỏ được người bán giơ cao lên để chào hàng. Có những cành mai chưa ra giêng thì đã nở rộ nên được bán với giá rẻ. Còn giới người Hoa bán tiệm trong chợ thường chuộng những gốc mai thật to đắt tiền, có nhiều nhánh bung xòe ra như cánh quạt, để gắn lên đó nhiều thiệp chúc Tết màu đại hồng, của người cùng trong ngành thương mại gởi tặng.

    Thường thì chợ hoa náo nhiệt và bán đắt nhất vào mấy ngày cận Tết. Một số người vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên đợi cho đến chiều 30 Tết mới đi mua hoa về chưng bày trong nhà, vì giờ nầy chợ hoa đã thu dẹp rất nhiều và thưa thớt thấy rõ, người bán thì bán tháo bán đổ để lo về nhà đón Giao-Thừa, người mua được dịp mua hoa rẻ mà vẫn ăn Tết vui vẻ trong ba ngày Xuân.

    Những ai có đi Chợ Mỹ-Tho vào buổi sáng 30 Tết thì đã biết, trên bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh nhà lồng chợ, rừng người chen lấn chật cứng như nêm chưa từng thấy chỉ có thể nhích đi từ bước, tình trạng móc túi cũng thừa cơ hội nảy sinh ra không ít, vì sau Tết mấy ngày, chợ mới buôn bán trở lại bình thường, nên thiên hạ cần mua thêm nhiều nhu yếu phẩm dự trữ. Chừng 2 giờ chiều, chợ bắt đầu thưa người, từ bạn hàng trong nhà lồng chợ đến những người buôn bán bên ngoài đều đóng cửa, dọn dẹp về nhà lo chuẩn bị đón Giao Thừa. Xe chữa lửa của Sở Phòng Hỏa Cứu Hỏa bắt đầu tiến vào chợ cá ở bờ sông để rửa chợ cuối năm ăn Tết. Tất cả tiệm buôn tại chợ Mỹ-Tho đều ngưng thương mãi, phấn khởi làm tổng vệ sinh xách nước lau bàn, rửa ghế, chùi tủ, quét dọn nền nhà cửa sắt, đánh bóng lư hương tỉ mỉ để đón mừng Năm Mới.

    Mùng một Tết, chợ Mỹ-Tho hoàn toàn ngưng hoạt động. Nhan nhản ở những góc phố, nhiều chiếc xe hủ tiếu, nước đá bán đắt như tôm tươi mà phần đông khách của họ là trẻ em mặc áo quần mới, mặt mày hớn hở vui vẻ vì trong túi có được nhiều tiền lì xì mới toanh. Qua ngày mùng hai, chỉ có một số ít người bán rau cải dọc theo chợ cá. Ðến mùng ba, mùng bốn thì quang cảnh chợ đông đúc thêm, nhà lồng chợ bắt đầu mở cửa, nhưng các sạp bên trong bán vẫn còn rất ít. Ðến ngày mùng năm, mùng sáu, đa số tiệm buôn bán tại chợ đã khai trương hơn một nửa và đến ngày mùng mười thì chợ nhóm trở lại bình thường.

    Thời gian thấm thoát qua mau … Mới đây mà đã gần 40 năm dài xa Việt-Nam. Nhiều lần về thăm quê nhà, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Những lúc rỗi rảnh, tôi thường yêu cầu thân nhân chở đi vòng quanh khắp mọi nẻo đường lớn nhỏ để tìm lại dấu chân của mình năm xưa. Ði đến đâu, tôi cũng đều có cảm tưởng như đang phảng phất ít nhiều kỷ niệm của một thời thanh xuân đầy hoa mộng, không khỏi khiến tâm tư bồi hồi xao xuyến.

    Khi xe chạy ngang đại lộ Hùng Vương góc đường Ngô-Quyền, ngôi Trường “tà áo dài“ rất dễ thương Lê Ngọc-Hân bên nầy, đối diện gần đó là trường Nguyễn Ðình-Chiểu, mà ngày xưa tôi đã một thời theo học và ái mộ nhất! Quẹo trái sang đường Lê Ðại-Hành thì nhà cửa, tiệm buôn đã hoàn toàn khác hơn xưa. Ðến cuối đường rẽ sang phải là ngôi chợ hai tầng mới được xây cất sau nầy, mà bên trong rất ít người mua. Từ chợ cá đến những con đường xung quanh nhà lồng, chợ nhóm rất thưa thớt khác hẳn thời trước, người bán nhiều mà người mua thì lại quá ít. Tình thiệt mà nói, trầm ngâm đứng nhìn ngôi chợ “thiếu thiện cảm“ nầy, tâm trí tôi không khỏi liên tưởng đến hình ảnh ngôi chợ cũ thân thương đầy kỷ niệm với gia đình ba mẹ tôi đã một thời vang bóng: chợ Mỹ-Tho.

    Tiểu-Minh

    Bài viết đã được đăng trong Ðặc-San năm 2006, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho ở CA-USA, Nội San số Xuân 2007 của Hội Âu-Châu và trong website văn học nghệ thuật Nam-Kỳ Lục-Tỉnh tại CA-USA.

  4. The Following 2 Users Say Thank You to nguyenphuong For This Useful Post:

    BachMa (06-30-2020), hoang yen (08-15-2020), khongquan2 (06-30-2020), KiwiTeTua (06-30-2020), Nguyen Huu Thien (06-30-2020), philong51 (07-01-2020), Satan526 (07-30-2020), Tinh Hoai Huong (06-30-2020)

  5. #9
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Rửa chợ
    Tiểu-Minh Germany


    Nhớ lại hồi còn tấm bé với cái tuổi 11, 12 khi còn … ở truồng tắm mưa, mỗi lần nghe nói đến hai tiếng “rửa chợ“ là trong bụng tôi thấy vui mừng và nôn nao làm sao ấy. Người ta thường nói, con nít thích vọc nước, tắm nước quả không sai! Tôi đây cũng không ngoại lệ.

    Hàng mấy thập niên trước năm 1975, gia đình Ba Mẹ tôi có tiệm bán trà đối diện Cửa Bắc tại nhà lồng Chợ Mỹ-Tho, mà chợ cá dọc theo đường Trưng Trắc gần đó được xây cất phía trên con sông Tiền. Cũng vì cái chợ cá náo nhiệt, nhưng dơ bẩn có mùi đặc biệt khó chịu nhất thành phố nầy, mà chính quyền địa phương mới cho đội phòng hỏa cứu hỏa, dùng xe chữa lửa mỗi tuần đến đây xịt rửa một lần, sẵn tiện rửa hết luôn những con đường đi, ngang dọc trong nhà lồng chợ và bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh ngôi chợ.

    Vào thời điểm cuối thập niên 50 và mãi đến sau nầy, ba trường tiểu học dạy Hoa ngữ cho con em người Hoa là Việt-Tú, Tân-Dân và Sùng-Chánh, mà anh chị em tôi đang theo học, mỗi tuần được nghỉ một ngày rưỡi, tức là chiều thứ bảy và trọn ngày chúa nhật. Riêng tôi, sau giờ tan học trưa thứ bảy là trong bụng cảm thấy vui thích lắm, vì buổi chiều được xem rửa chợ.

    Chợ Mỹ-Tho ồn ào và sầm uất nhất vào buổi sáng. Nhưng khoảng từ một giờ trưa trở đi, người bán kẻ mua thưa dần thấy rõ. Ðến hai giờ thì các con đường xung quanh chợ, đều được dọn dẹp trống và xe cộ có thể lưu thông được, để lại một quang cảnh ngổn ngang đầy rác rưởi thật mất vệ sinh. Tội nghiệp cho những người phu quét chợ, phải cật lực gom hàng núi rác lên xe, kéo đến ngả ba bờ sông gần chợ cá đổ xuống đó cho nước cuốn trôi đi. Cũng vào giờ nắng cháy ngày thứ bảy hàng tuần, chiếc xe cứu hỏa to lớn đỏ chói như cục lửa khổng lồ, hụ còi inh ỏi dẹp đường hiên ngang từ từ tiến vào chợ. Ðám con nít đang đợi chờ vui reo chạy theo xe như đón tiếp xe hoa không bằng.

    Ðiểm đậu cố định của xe chữa lửa là sát mé bờ sông, ngả ba đường đường Trưng-Trắc và Võ Tánh bên cạnh chợ cá. Ðội nhân viên rửa chợ trong bộ đồng phục màu đen rất oai, đầu đội nón bảo hiểm, chân mang giày ống cao su gần tới đầu gối, nhanh nhẹn nhảy xuống xe để chuẩn bị các thứ cho công việc sắp làm. Bọn con nít đứng xung quanh nhìn xem trầm trồ có vẻ thán phục lắm! Có đứa còn ngây ngô hỏi các chú bác rằng:

    - Thưa chú, sau nầy lớn con có thể rửa chợ như các chú được hay không?

    Ðội rửa chợ thường là sáu người cao lớn khỏe mạnh. Họ phân công làm việc một cách mau lẹ và ăn ý với nhau. Hai người tháo cái ống nước lớn đặc biệt gắn trên xe bằng cao su có đường kính chừng 15 cm, dài độ 5 mét xuống và nối liền một đầu vào máy bơm bên hông xe, còn một đầu có bao bọc lược lỗ lớn bằng kim loại cho thả xuống nước dưới sông. Nhưng họ còn cẩn thận buộc đầu nầy vào bên trong một cái thùng thiếc, có nhiều lỗ lớn đề phòng nghẹt nước bởi rác bám vào. Các nhân viên khác thì vác những bành ống nước bằng cao su, có bọc vải bố bên ngoài được cuốn tròn, đi thành hàng thẳng cách khoảng xa xa rồi đặt xuống đất lăn cho dài ra, sau đó vặn khớp nối lại giữa đầu dây của hai ống nước bằng kim loại thành một ống nước thật dài có hai đầu, một đầu được bắt chặt vào máy bơm nước ra bên hông xe. Ðâu đó xong xuôi rồi thì ông đội trưởng cầm cái vòi xịt nước bằng nhôm cứng, dài chừng nửa thước có một đầu túm nhỏ lại, vội vã đi lên đầu trên vặn chặt vào đầu ống nước. Lúc nầy thì đám con nít mừng vui hơn bao giờ hết, vì vòi nước sẽ bắt đầu xịt.

    Vài nhân viên liền gọi to dây chuyền đến địa điểm chiếc xe cứu hỏa đậu, để tài xế cho nổ máy và nước từ dưới lòng sông bắt đầu được bơm lên chạy dài theo ống nước. Thật vui thích cho bọn trẻ, khi chăm chú nhìn thấy dây ống nước dài ở dưới đất đang dẹp lép, bỗng căng phồng tròn lên và nhanh chóng chạy dài. Dòng nước đầu tiên được phun xịt ra bao giờ cũng rất mãnh liệt. Mặc dù đã chuẩn bị tư thế cùng với hai nhân viên phụ đứng phía sau cầm dây ống nước, nhưng ông đội trưởng vẫn không khỏi bị mất thăng bằng, khi dòng nước mạnh trong vòi vừa xịt ra, khiến đám con nít đứng kế bên đó phá lên cười khoái chí.

    Nơi chốn được xịt rửa trước nhất là khu bán thịt heo trong nhà lồng chợ. Tất cả chủ sạp đều đã dọn dẹp đóng cửa, nên trong chợ nhìn thấy vắng tanh và thật trống trải. Nền đất của mấy chục gian hàng bán thịt heo phải nói là … dơ như heo. Nhờ vòi nước chỉa chúi xuống đất với dòng nước cực mạnh, nên lớp nhớp nhúa dầy cộm trên nền gạch được bong mất sạch sẽ. Kế đến, đội rửa chợ kéo dây nước đến khu bán tạp hóa. Những con đường ngắn ngang dọc nầy tuy không dơ bẩn bằng khu bán thịt heo, nhưng cũng “đóng hờm“ không ít.

    Tiếp theo đó là khu rộng lớn chiếm phân nửa nhà lồng chợ bán basar, giày dép và phần lớn là sạp vải thì đỡ vất vả hơn cho đội rửa chợ. Ống nước dài trên 100 mét được nối ráp lại bởi nhiều khúc, không đủ trải hết được trên mặt đất của tất cả những con đường đi trong nhà lồng chợ, vì thế mà cứ mỗi lần xịt rửa xong một đoạn đường dài, thì đội rửa chợ phải quay đầu ngược lại để đi sang con đường kế tiếp. Ðến vài đoạn đường sau cùng ngoài bìa, vì dây ống nước không đủ dài, nên một ông trong đội phải chạy ra xe đậu ngoài bờ sông yêu cầu tắt máy, đồng thời ông ta vác trở vào một bành dây ống nước để nối dài thêm. Dây ống khi đầy nước coi vậy mà rất nặng, ngoài ông đội trưởng dẫn đầu cầm vòi xịt nước ra, phía sau có đến hai ba nhân viên phụ nâng ống nước và kéo theo một cách khó khăn. Khối lượng nước khá lớn đã xịt ra, theo những chỗ thoát nước được xây hơi lõm dưới đất chảy xuống cống rãnh. Toàn bộ mặt đất nhà lồng chợ mới được xịt rửa xong dĩ nhiên thấy sạch sẽ mới lạ rất nhiều. Tuy nhìn còn ẩm ướt, nhưng đến sáng hôm sau khi nhóm chợ thì đã khô ráo và có bộ mặt mới thật tươi mát.

    Sau khi xịt rửa xong nhà lồng chợ, máy xe cứu hỏa được tắt để máy bơm nước tạm ngưng hoạt động, trong thời gian nầy, đội rửa chợ kéo ống nước xẹp ra phía ngoài, để xịt rửa bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh ngôi chợ Mỹ-Tho, mà đặc biệt khu vực chợ cá dơ bẩn và hôi thối nhất được xịt rửa sau cùng.

    Trong lúc rửa chợ, thỉnh thoảng dòng nước đang xịt rửa bỗng nhiên chảy yếu lại thấy rõ, nhân viên rửa chợ thừa biết là đầu ống hút nước dưới lòng sông đã bị nghẹt. Thế là xe chữa lửa phải tắt máy để cho máy ngưng bơm nước. Họ kéo ống nước lớn có bọc cái thùng thiếc ở dưới nước lên, để gỡ lấy hàng khối rác bám đầy ra rồi thả trở lại xuống nước. Ngày cuối tuần rửa chợ nào gặp lúc nước lớn lên thì đội rửa chợ vui mừng, còn nhằm ngày trăng khuyết nước ròng, họ phải nối thêm một cái ống hút nước cho ra xa, tiếp xúc phía dưới mặt nước của dòng sông.

    Lâu lâu, có khi đang lúc rửa chợ, gặp một vài dây ống nước nào đó đã cũ, nên vải bố bị mục lủng vài lỗ, tạo thành những tia nước nhỏ phun xịt cao ra phía ngoài, làm trò chơi và vui mắt cho đám con nít không ít.

    Hàng tuần, trong suốt thời gian rửa chợ khoảng bốn tiếng đồng hồ, đám con nít phần lớn đi chân không, ở trần, mặc quần xà lỏn, không rõ từ đâu tới thường luôn có mặt, đi theo phía sau những nhân viên cầm ống và vòi xịt nước, mà xem một cách say mê. Hầu như đứa nào ít nhiều gì cũng đều bị ướt mình, nhưng bọn chúng lấy làm rất vui thích! Ðội rửa chợ phải công nhận là rất dễ thương, dễ chịu, cứ lo chăm chỉ thi hành nhiệm vụ của mình. Ðôi lúc có đứa đứng án làm cản trở tầm hoạt động, mà họ không hề rầy la lớn tiếng. Tôi nghiệp cho họ sau một buổi chiều làm việc nặng nhọc với nước dưới nắng cháy, mặt mày người nào cũng đỏ ngòm, áo quần ướt sũng, mà vẫn thấy họ luôn biểu lộ niềm vui và nụ cười trên nét mặt đầy sạm nắng.

    Ngày xưa khi còn ở quê nhà, với bản tính thích “đi cho biết đó biết đây“, nên hầu hết các tỉnh thành lớn nhỏ ở miền Nam, từ cố đô Huế cho đến đất Mũi, đều có dấu chân của tôi đặt tới. Dãy đất Việt hình chữ S, vùng 4 ở miền Nam được xem là trù phú nhất với đất đai màu mỡ, dân cư đông đúc, ruộng lúa phì nhiêu, cây trái xum xuê, sông ngòi chằng chịt, tôm cá đầy sông. Chợ cá của các tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Cửu-Long, phần nhiều được xây cất gần bờ sông, để thuận tiện cho việc vận chuyển, nhưng đi đến bất cứ địa phương nào, tôi chưa hề nghe nói đến hai tiếng “rửa chợ“. Ðáng mừng thay duy nhất cho thành phố Mỹ-Tho nhiều cây trái là có chương trình “Rửa Chợ“. Hồi nhỏ tôi nghe nói, vào thập niên 50, một vị Tỉnh Trưởng nào đó đã chủ trương đề xướng làm sạch sẽ chợ Mỹ-Tho mà về sau, những ông Ðầu Tỉnh kế tiếp nhận thấy rất hợp lý nên cứ chiếu theo thi hành. Ðó cũng là một đặc ân cho thành phố đầy bóng mát, rất thích hợp khi mang tên Ðẹp và Thơm nầy.

    Trong tất cả các chợ mà nhất là chợ cá, nếu không được quan tâm đến vấn đề vệ sinh thì phải nói là … hết ý kiến! Buồn thay cho “Hòn Ngọc Viễn-Ðông“ sáng chói của chúng ta ngày xưa, lại bị phải chợ cá Trần Quốc-Toản làm cho hoen danh ố tiếng. Nói đến chợ cá trên đường Trần Quốc-Toản ở Chợ-Lớn năm nào, tôi xin được phép miễn bàn!

    Chợ nào được rửa năm xưa
    Mỹ-Tho, thứ bảy buổi trưa, hàng tuần
    .

    Tiểu-Minh

    Bài viết đã được đăng trong Bản Tin số 40, tháng 05 năm 2006, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho, website namkyluctinh ở CA-USA và báo Phật Giáo Viên-Giác số 164, tháng 04 năm 2008 tại Ðức-Quốc.Hoài niệm về Mỹ-Tho

  6. The Following 2 Users Say Thank You to nguyenphuong For This Useful Post:

    BachMa (07-30-2020), hoang yen (08-15-2020), khongquan2 (08-15-2020), KiwiTeTua (07-30-2020), Nguyen Huu Thien (07-30-2020), philong51 (07-30-2020), Satan526 (07-30-2020)

  7. #10
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Ai Về Mỹ Tho
    Nhuan Nguyen - Tukwila, Washington - U.S.A.


    Năm 1960, tôi đến Mỹ Tho tản cư, trọ học. Năm 1960, sáu mươi năm trước, bắt đầu của cuộc chiến ở miền Nam. Tôi không còn bình yên vui chơi thời thơ ấu ở quê nghèo, không còn căp sách đến ngôi trường làng. Đêm là trống, mõ, đào đường; ngày là phá mô, súng nổ…Con đường tôi đi học bị đào xới, là xác người đó đây, là hình nộm là truyền đơn. Người lớn mải mê với cuộc chơi sắt máu tương tàn, cho cái lý tưởng gì đó mà tuổi thơ tôi không hiểu nổi. Chiêc đò máy nhỏ ngược nước đưa tôi từ vùng quê lên Mỹ Tho ngót nghét 10 tiếng đồng hồ cho hơn hai-muơi-kí-lô-mét-đường- sông. Tôi trọ học ở khu chợ Vòng Nhỏ, Ba tôi mua một căn nhà trong hẻm. Tôi có 15 năm ở đây, dài hơn thời gian tôi ở quê tôi.

    Năm 60, thị xã Mỹ Tho còn cổ kính, yên bình lắm. Đường phố còn leo lét ánh điện vàng vọt từ những bóng đèn tròn, mãi đến mấy năm sau mới thay bằng trụ điện neon. Bến phà Rạch Miễu nằm cuối đường Ô.B. Nguyễn Trung Long, chỉ có vài chiếc phà nhỏ một mỏ phà. Tôi ở trên đường Vòng Nhỏ, sau đổi là Pasteur, sau 75 thì tôi mù tịt không biêt là tên gì nữa rồi. Con đường Pasteur hầu như là địa giới thành phố, phiá Tây là nghĩa địa còn mồ mả hoang sơ và trường Bán Công mới cất. Từ đây lên đến cầu Trung An là đồng trống, có năm là bãi nhảy dù. Các con đường đa phần tráng nhựa nhưng hẹp vì lưu luợng xe cộ không nhiều, chủ yếu là cyclo đạp. Thành phố có công viên Dân Chủ và vườn Hoa Lạc Hồng. Sau 75, công viên Dân Chủ bị phá bỏ. Sao vậy? chắc là tội tình chi đó, tôi ngơ biết.

    Còn gì nữa không? Mỹ Tho nhiều địa danh hay lắm: bót số Tám, Bến Tắm Ngựa, Battambang, Chùa Phật Ân (dân NĐC chắc rành!), Vuờn Ông Khánh, Trưng Trắc, Chợ Hàng Bông, Cầu Dầu, Chu Vi Đạo và…khu chị em ta : Hàng Còng (nam U 70 chắc biết chỗ này).

    Tôi từ vùng quê về thị xã, từ cây đèn chong, cái un- cúi mỗi đêm leo lét,bập bùng để đêm đêm đèn “ngọn xanh ngọn đỏ, ngọn tỏ ngọn lu”. Tôi làm người thành phố từ đây. Bàn chân tôi không còn để trần chạy nhảy trên cánh đồng bao la, mùi lúa thơm thơm, bàn chân nhiểm phèn vàng cháy. Tôi về thành phố, chân xỏ đôi guôc vông; không gian cơ hồ hẹp lại, chen chúc quanh con hẻm, mùi hôi thúi nực nồng. Tôi nhớ mẹ, tôi nhớ quê tôi, tôi nhớ những thằng bạn đầu trần chân đất ngày nào, từng đêm buồn lắm.“Weekdays”, tôi đi học, về nhà tự nấu lấy bữa cơm. Mẹ ở xa, tự lực là chính từ những ngày lên tám, lên mười. Hồi đó chưa có bếp dầu,bếp gas, nồi điện. Ba mẹ tôi gởi từng bó củi, bao gạo, lon guigoz thức ăn theo chuyến đò lên. Con trai thường mắc cỡ khi đi chợ nên bữa ăn chỉ là canh khoai, mắm chưng hay khô cá. Vậy thôi, mà lớn lên, lớn lên từ cái đơn sơ. Bạn mình sống với mẹ cha, có bữa ăn ngon, mè nheo từng món, chê khen. Anh em tôi đâu có thể…Hồi đó, tôi nhớ mấy câu thơ, hình như không dành cho hoàn cảnh của mình,nhưng thich thich:

    Ra đi là sự đánh liều
    Nắng mai ai biết, mưa chiều ai hay!


    Cái ăn, cái ngủ, cái học…do mình cả, cha mẹ đâu gần. Nhất ẩm, nhất trác…

    Cuối tuần, tôi thường đạp xe xuống công viên Dân Chủ,xem rồng phun nước, đèn neon xanh đỏ đẹp lắm. Khán đài đại lộ Hùng Vương và những đêm chiếu phim, văn nghệ, hoà nhạc đông đảo người xem. Sân vận động và những trận đá banh, tôi mê mãi tới bây giờ.

    Chiến tranh về gần thành phố. Tiếng đại bác ầm ì mỗi đêm, tiếng pháo kich nổ phiá trung tâm thành phố, những ngày Mậu Thân xé toạt thành phố không thương tiêc. Từ hoạn nạn, thành phố khập khiểng đi lên, trụ viễn thông bưu điện còn đó như một niềm tin. Các Anh tôi lần lượt vào quân trường, họ vui với đời lính, thỉnh thoảng cũng về, đôi giày saut thay đôi dép ngày nào. Tôi một mình…

    Con hẻm tôi sống từ những tấm bia mộ lót làm đường đi, dần cũng lát gạch. Con hẻm tối thui, xóm lao động nghèo vẫn nghèo,vẫn chửi lộn, đánh nhau,cờ bạc. Con hẻm của nước tù đọng đen ngòm, trời mưa đêm chong đèn ngồi tát hoặc ngồi chồm hỗm trên giường học bài. Con hẻm cũng nhiều kỷ niệm buồn vui: Thằng học trò trọ học, đêm đêm có cô gái lén nhìn.

    Tôi xa tuổi học trò lâu lắm, tôi nhớ thời ấy khi viêt lưu bút, khi tặng ảnh cho nhau, các cô thường thêm vài câu thơ cho tăng thêm phần “trầm trọng”:

    Thuơng nhau mới tặng ảnh này
    Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau
    Dù cho ảnh có phai màu
    Xin đừng xé bỏ mà đau lòng người..


    Cuối dòng, vẽ thêm mấy trái tim rướm máu cho thêm bi ai, áo nảo.

    Tôi xa Mỹ Tho, chợt nhớ mấy câu thơ, ai đó viêt về Mỹ Tho:

    Chợ Mỹ Tho mấy chiều nắng sớm
    Bến Cầu Dầu ai tắm chiều nay
    Ra đi còn nhớ chốn này
    Mong ngày tao ngộ trả vay tấc lòng
    Rồi đây những buổi chiều đông
    Nhớ về quê cũ đôi dòng lệ tuôn..


    Nghe sao mà thấm thiá…mà chan hoà tình cảm quê hương. (Cô Bình Trần, nhà ở khu Cầu Dầu có biết bài thơ này không nhỉ?)

    Rồi thôi, ngày tháng cũng qua. Năm mười chín, tôi xong tú tài 2, vào sư phạm. Rồi cũng bỏ thành phố mà đi. Tôi cũng còn trở lại cho đến 75. Năm ấy, thành phố,tên đường, tên phố, tên phường thay đổi…Con người cũng thay đổi theo thời. Tôi trở lại quê nhà từ đó. Thành phố ấy tôi trọ đã mười lăm năm…

    Nhuan Nguyen
    https://www.facebook.com/groups/2863...4269263372885/

  8. The Following 5 Users Say Thank You to nguyenphuong For This Useful Post:

    BachMa (08-15-2020), hoang yen (08-15-2020), khongquan2 (08-15-2020), KiwiTeTua (08-17-2020), Tinh Hoai Huong (08-15-2020)

Trang 2/2 đầuđầu 12

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •