Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 10

Tựa Đề: Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

  1. #1
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Post Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

    Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức
    Hồi ức một đời của Nguyên Trần

    1) Đường Đinh Bộ Lĩnh: chạy dài từ Ngả Tư Chợ Cũ tới dốc đầu Cầu Quây. Ngay Chợ Cũ có phòng mạch bác sĩ Ngô Văn Bỉnh, kế bên là nhà thuốc tây Bùi Khắc Từ. Đoạn giữa đường là rạp hát Viễn Trường ít chiếu phim Tây Phương, phần lớn là phim Tàu, Việt Nam và Ấn Độ. Rạp cũng thường cho mướn tổ chức đại nhạc hội, kịch ban Dân Nam, Túy Hồng… và các đoàn cải lương Thanh Minh, Dạ Lý Hương, Kim Chưởng…


    Rạp Viễn Trường

    Đối diện rạp Viễn Trường là tiệm chụp hình Lâm Tuấn của người đẹp Lâm thị Nhàn, và cũng là nhà của Trúc Giang. Xéo rạp Viễn Trường là trại hòm bà Bảy Nhiểu. Nghe mấy người láng giềng đồn rằng mỗi khi bị ế ẩm thì đêm tối bà xõa tóc vào ngồi trong chiếc hòm trống khấn vái thì hôm sao đắc hàng luôn. Không biết chuyện thiệt giả ra làm sao nhưng nghe kể cũng thấy ớn.

    Qua khỏi trại hòm là phòng mạch thầy Tư Giao chuyện về thuốc nam.
    Bên kia đường, xích lên trên một chút về phía rạp Viễn Trường là chùa Ông (Đức Quan Thánh) mà nhiều người Tàu cũng như Việt thường tới cúng bái và xin xăm Ông.

    Sát chùa Ông là dãy nhà 2 căn lầu mà một căn trong đó giáo sư Lý Công Chuẩn mướn mở lớp dạy Anh Văn còn căn kia là trường dạy đánh máy William Minh.

    Bỏ con hẻm cạnh bên là dãy phố trệt khoảng 10 căn đa số là cơ sở kinh doanh thương mại như: tiệm hớt tóc và quán cơm tấm bì Bảy Hạp, tiệm cầm đồ Bình Dân của gia đình Võ Ba, nhà may Mỹ Công, tạp hóa Trang Xuân, dépôt nước đá Huê Hưng. Trang Xuân là nhà của bạn Nguyễn Thế Xuân tốt nghiệp ban Sử Điạ Đại Học Sư Phạm, chồng chị Nhàn tiệm chụp hình Lâm Tuấn.
    Đối diện là nhà thuốc tây Trần Kiêm Loan do dược sĩ Loan là vợ của dược sĩ Bùi Khắc Từ (nhà thuốc tây Chợ Cũ) mướn phần trước của căn nhà lầu bác Chín Phụng. Kế đó là hảng xà bông Việt Nam.

    Đến đây thì chúng ta đã tới Ngã Tư Quốc Tế nổi tiếng rồi đó. Góc Tây Bắc của Ngã Tư là các các gánh cơm tấm bì, bánh canh, xôi trước mặt dãy phố của các tiệm thuốc bắc của người đẹp Hồ Phi Yến, kế đó là tiệm nước Nam Hoa nổi tiếng món banh bao xí mại, tiệm mì chú Ngầu (em chú Phánh) rồi tới biệt thự ông Huyện Hương, tiếp theo là hủ tiếu Phánh Ký ngon nhất nước, tiệm bi da banh bàn Ngọc Thạch rồi tiệm nước Hòa Thạnh.

    Bên kia đường tức là cạnh Nam đường Đinh Bộ Lĩnh có tiệm radio Mỹ Tuyến, hàn xì gió đá Tám Danh, nhà thuốc Hồ Duy Thiệt phòng mạch bác sĩ Võ Văn Cẩn mà ông ta không bỏ dấu nên có người gọi đùa là Vo Van Can. Sát vách là tiệm phở Đồng Thanh mà món bò kho xem như đệ nhất Mỹ Tho.

    2) Đường Trịnh Hoài Đức: đây là con đường cắt ngang đường Đinh Bộ Lĩnh mà sau này có cái tên là Ngã Tư Quốc Tế. “Ngay đầu Ngả Tư là nhà thuốc tây Trần Kiêm Loan cũng là tư gia của một người đẹp khuê các lầu hoa đã làm chết mê chết mệt bao chàng trai trong xóm. Điều đáng nói là tất cả cây si trồng quanh nhà nàng, không biết có phải do thổ nhưỡng xung khắc hay sao mà chẳng có cây nào lớn lên được, khiến sau cùng người đẹp bước xuống thuyền hoa vượt qua sông Bắc Mỹ Thuận lấy chồng Vĩnh Long bỏ lại sau lưng bao cây si ngẩn ngơ ủ rủ thật là tội nghiệp. Xéo mặt hông nhà thuốc tây là dãy phố bà sáu Đức trong đó có căn phố gia đình chị Đỗ Thanh Vân mướn. Chị Vân hiện định cư tại Đức thường viết truyện dưới bút hiệu Vinh Lan. Đối diện nhà chị Thanh Vân là nhà thuốc bắc Đồng An Đường của gia đình họ Chung. Xích vô trong một chút là xóm Chùa Chà của tôi tập họp đủ mọi thành phần xã hội thượng vàng hạ cám. Chạy tới gần cuối đường là đình Điều Hòa nơi thờ phượng linh thiêng mà rất đông người Mỹ Tho tới cúng bái cầu xin nhất là trong dịp lễ Kỳ Yên hằng năm.

    Nằm giữa đường Trịnh Hoài Đức là trường Tàu Tân Dân có đội bóng rổ nổi tiếng thường mời các đội bóng chuyên nghiệp Sài Gòn như Tinh Võ, Quảng Triệu xuống đấu giao hữu. Đặc biệt đội bóng rổ Tân Dân có một đấu thủ Việt Nam là anh Trần Văn Hồng Đức (đen) Đại úy chỉ huy trường trường Vũ Thuật và Thể Dục Quân Sự, nằm trong Trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh Đức hiện còn ở Mỹ Tho.

    3) Đường Phan Thanh Giản: cắt ngang đường Đinh Bộ Lĩnh ngay dốc Cầu Quây. Con đường nầy chạy dọc theo bờ sông Bảo Định từ Vàm Tiền Giang tới đường Học Lạc. Nằm dọc theo bờ sông là các vựa cá và vựa trái cây để ghe thuyền ở khắp nơi đổ xô về bỏ mối. Vựa cá lớn nhất là vựa bác Tư Ngôn. Bác Tư là người vui tính lanh lợi, đặc biệt nhất là bác đặt tên mấy người con toàn là kiểu gây hấn như: Xô, Lấn, Trì, Đẩy, Níu, Kéo, Cản… mà trong đó Đẩy và Kéo là hai cầu thủ nối tiếng của đội Bưu Điện và Thương Cảng Sài Gòn.

    Đối diện là các dãy phố nhà ở xen kẻ các cơ sở thương mại như tiệm tương ông bang Cửng, tiệm tương Chí Mỹ, vựa củi và vật liệu xây cất Chí Nguyên… Gần ngả tư Đinh Bộ Lĩnh là trường Tàu Sùng Chính mà một số bạn lối xóm người Việt gốc Hoa của tôi theo học.

    4) Đường Trưng Trắc: Vừa qua khỏi Cầu Quây là đường Trưng Trắc. Đường nầy song song với đường Phan Thanh Giản nhưng ở phía bên kia bờ sông Bảo Định. Có thể nói đây là con đường buôn bán sầm uất nhất ở Mỹ Tho. Đường Trưng Trắc chạy dài từ đầu vàm Tiền Giang cho tới đường Nguyễn Trãi thì được nối liền bởi đường Alexandre de Rhôdes.
    Kể từ đầu Vàm (tiếp giáp đường Gia Long) tới tận đầu Cầu Quây nằm dọc theo bờ sông thì phải kể tới tất cả những kiosques bán đồ ăn thức uống giống như là một food court. Chắc các bạn vẫn còn nhớ những quán ăn uống nổi tiếng như mì xào A Lục, quán nhậu Trung Thành, kem Duyên Thắm, Anh Đào, cháo bồ dục Anh Chui, bò viên sâm bổ lượng Cầu Ký…

    Đối diện phía bên kia đường có nhà thuốc tây ông Phan, tiệm chụp hình Thiện Ký mà con rể sau nầy là hề Thanh Việt, tiệm may Văn Minh với nhiều design thật chic, tiệm nước Nam Sơn (chủ là chú 5 Vìn cũng ở xóm Chùa Chà) với tuyệt chiêu cá hầm vĩ, tiệm bánh Thuận Phát (chủ tiệm là chị Ba dâu nhà thuốc Đồng An Đường-Trịnh Hoài Đức), tiệm Đức Nguyên bán máy đuôi tôm máy cày, tiệm giày Bata, rạp chiếu bóng Định Tường, tiệm vàng Khương Hữu ngay ngả ba Trưng Trắc- Lý Thường Kiệt. Tiệm vàng nầy có cô cháu ngoại là người đẹp hoa khôi Mỹ Tho Huỳnh Thị Nguyệt Thu.


    Cầu Quây ngày nay


    Cầu Quây ngày xưa

    Xích lại gần Cầu Quây có khách sạn Minh Cảnh, tiệm chụp hình Thiện Lai, tiệm thuốc bắc Đức Sanh Đường, tiệm bánh Khương Lạc, lò bánh mì Khánh Chương. Khu vực nầy thời Pháp thuộc có một nhà hàng Tây dành cho người Pháp mang tên La Pagode mà lúc còn nhỏ bọn nhóc chúng tôi thường vào lượm…nút khoén các chai rượu đắc tiền để đánh bài cào bằng…nút khoén.

    Gần đầu Cầu Quây là Sở Bảo Thủ Điền Thổ sau đổi là Ty Điền Địa. Ngay dốc cầu có Phòng Thông Tin Mỹ Tho đầy đủ sách báo. Đặc biệt nhật báo được treo trên mấy cái giá thẳng đứng để người đọc có thể xem từ hai phía. Kế Phòng Thông Tin là nhà sách Mai Liên của hai người đẹp Mai Liên chuyên làm Hai Bà Trưng trong ngày lễ hai bà. Ngay trước nhà sách là hảng xe bus Cosara chạy đường Sài Gòn Mỹ Tho, nổi tiếng nhờ sạch sẽ khang trang và chạy rất đúng giờ hơn xe đò Á Đông, Ngọc Châu …nhiều. Vô trong phía chợ dãy bờ sông có nhà sách Lê Tạc của đại gia đình Công, Thành, Danh, Toại- Phỉ (cô 5 Phỉ), Chí, Nam (cô Bảy Nam, má kịch sĩ Kim Cương), Nhi; Bia (cô 9 Bia), Truyền, Tạc, Để (cậu Út Để, chồng nghệ sĩ Kim Hoàng). Đối diện là dãy phố buôn bán: tiệm kiếng Huê Việt, tiệm bazaar Mỹ Đạt Hàng, qua khỏi đường Lý Công Uẩn là tiệm thuốc bắc Tân Minh Tế, các tiệm tạp hóa Nam Sanh, Hiệp Hòa Sanh (gia đình ca sĩ Tuấn Anh), đối diện khu nầy là tiệm khô Mỹ Hường, quay bán thịt quay xá xíu rồi tới nhà lồng chợ cá, hàng rau cải…

    4) Đường Alexandre de Rhôdes: nối liền đường Trưng Trắc ngay khu bán rau cải chạy dọc theo rạch Bảo Định tới ngả ba Đài Chiến Sĩ đại lộ Hùng Vương. Hai bên đường nầy toàn la khu gia cư, đặc biệt trường trung học tư thục Trúc Giang của giáo sư Trúc Giang nằm bên dãy đối diện bờ rạch.

    5) Đường Lý Công Uẩn: bắt đầu từ tiệm bazaar Mỹ Đạt Hàng tới tiệm trà Ích Phong, rạp ciné Vĩnh Lợi (ngày xưa là rạp hát cải lương Thầy Năm Tú).


    Hí Viện Vĩnh Lợi

    Tiệm cơm chay Hòa Bình, nhà bảo sanh bác sĩ Trần Công Trực tới phòng răng nha công Trần văn Mạnh. Ngay phía đối diện là dãy phố trệt chạy dài tới đường Nguyễn Huệ là tiệm vàng Phước Tín, quán cháo vịt bên hông. Đối diện nhà bảo sanh bác sĩ Trực là gia đình Huỳnh Quang. Các anh Huỳnh Quang Tòng, Huỳnh Quang Huy, Huỳnh Quang Áng (học cùng thời với tôi) hiện ở tại thành phố Toronto, Canada.

    Tưởng cũng nên nói thêm là tiệm cơm chay Hòa Bình là của dì Hai Nhung, con của ông bác Đồng An Đường và là má của tụi con Oanh con Phụng ở xéo nhà tôi, thường ngồi chung xích lô đi học trường Cầu Bắc với tôi. Sau nầy Oanh Phụng đi tu trở thành cô Tố cô Sáng.

    6) Đường Nguyễn Huệ: chạy dài từ rạp Vĩnh Lợi tới ngả ba Alexandre De Rhôdes, mở đầu là tiệm bán vật liệu xây cất Hoa Lệ, tiệm vải Kim Điền đi dài tới tiệm bazaar Đức Thái, rồi Huỳnh Thái Dũ, tiệm nước Kỳ Hương, tiệm thuốc bắc Thọ Nam Đường mà chủ tiệm là dì Năm Binh của chị Ngà,chị Hoàng, con Cúc ổ lộ đá gần xóm tôi. Đối diện là nhà lồng chợ Mỹ Tho trong đó có rất nhiều sạp bán vải và quầy thức ăn mà nổi tiếng nhất là món bún gỏi và Bà Ba với lại bánh đậu bánh giá chị Huệ.

    Xích tới một chút là trụ sở xã Điều Hòa, một tòa nhà rộng lớn sau ngăn hơn 3/4 làm văn phòng tòa thị chánh Mỹ Tho. Đối diện có tiệm may Trung Thành của chú Ba Mạnh, ba thằng Mạnh học chung lớp tôi, và là cậu thằng Nguyễn văn Hường sau tốt nghiệp cao học Hành Chánh. Khi qua khỏi đường Châu văn Tiếp thì đường Nguyễn Huệ không còn là khu thương mại nữa mà chỉ là nhà cửa dân chúng như nhà Dì Ba lục sự, vợ ông lục sự Hường, nhà chị Bé Long học cùng thời với tôi, vài nhà của gia đình bên vợ ông commis Huấn phó tỉnh trưởng.

    7) Đường Thủ Khoa Huân: đường nầy chạy dài từ đầu cầy Quây tới đường ông bà Nguyễn Trung Long.

    Kế Phòng Thông Tin là nhà thuốc tây Ông Khánh là một trong hai nhà thuốc tây xưa nhất Mỹ Tho. Tiếp đến là tiệm Đức Đồng Lợi bán máy đuôi tôm và bôm nước. Gần đó là tiệm Thành Đạt chuyên bán các hiệu xe gắn máy như Puch, Goebel…và đồ phụ tùng.

    Tới góc ngả tư Lê Lợi là biệt thư lầu ty Quan Thuế. Phía đối diện có tiệm chụp hình Phong Lan, Cảnh Trung, nhà sách Đổ Quang, tiệm vàng Huỳnh Anh, phòng mạch bác sĩ Nguyễn Văn Bửu. Xéo góc Ty Quan Thuế là Sở Trước Bạ. Tưởng cũng nên nói thêm là tiệm chụp hình Cảnh Trung là tiệm chụp hình đẹp nhất thời bấy giờ.

    Bên kia đường, đối diện Sở Trước Bạ là dãy phố công chức trong đó có nhà thầy Bùi văn Mạnh, thầy Nguyễn văn Châu cả hai thầy cùng dạy Pháp Văn, thầy Đỗ Trung Ruyên, thầy Vũ Mộng Hà đều dạy Lý Hóa, thầy Nguyễn Cao Cảo dạy Toán.

    Thầy Mạnh đặt tên con toàn là Bùi Ngọc như Bùi Ngọc Quang là thầy dạy Pháp Văn của tôi, Bùi Ngọc Đường, Bùi Ngọc Điệp (bác sĩ còn hành nghề ở Cali), Bùi Ngọc Lan. Thầy Mạnh sau qua làm hiệu trưởng trường Trung Học Kiến Hòa.

    Lên phía trên một chút là nhà bảo sanh Mỹ Tho (sau đổi thành bệnh viện 3 dã chiến), xéo góc là nhà thương.

    Rồi sau đó, đường Thủ Khoa Huân chạy bên hông sân banh cho tới khu gia binh tiếp giáp đường Ô.B. Nguyễn Trung Long.

    8) Đường Lê Lợi: Có lẽ đây là con đường nên thơ nhất với hai hàng me đoạn Tòa Án và Phố Nóc Bằng nơi mà một thời chắc quý bạn đã từng đi bên cạnh người yêu với lá me rơi lất phất trên suối tóc huyền tha thướt.

    Xích lại gần ngã tư Lý Thường Kiệt có Ty Hiến Binh mà anh Lê Minh Bá (em thẩm phán Lê Minh Liên cựu tổng trưởng Giáo Dục) con bác giáo Mực, nhà ở đường Trịnh Hoài Đức ngay đầu hẻm Chùa Chà làm chỉ huy trưởng. Nhân nói tới anh Bá, chắc các bạn cùng lứa với tôi không quên vụ thảm sát (massacre) kinh hoàng giữa thâp niên 50 làm chấn động dư luận. Đó là chuyện chàng Trung sĩ Hải quân giang đoàn 21 đóng tại Mỹ Tho vì thất tình cô Marie nhà ở hảng xáng Cầu Bắc nên xách súng tới hạ sát chẳng những cô Marie mà còn bà mẹ và bà chị Odette của cô. Chị Odette là vị hôn thê của anh Bá nên khi đưa đám, chiếc xe tang được sắp xếp cho chạy trên đường Trịnh Hoài Đức ngang nhà anh Bá để hương linh chị Odette thăm nhà vị hôn phu lần cuối cùng.

    Xéo Ty Hiến Binh là dãy phố Nóc Bằng trong đó có nhà ông Vệ Giang có cô con gái là chị Jane, chị thằng Albert học chung với tôi. Chị Jane nổi tiếng là người đẹp và cao lớn. Có lẽ vì vậy nên chị chỉ giao du với các sĩ quan Pháp mà thôi.

    Băng qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là Tòa Án Mỹ Tho mà đối diện là văn phòng luật sư Nguyễn Lâm Sanh và Trần Ngọc Liễng cũng như phòng mạch bác sĩ Trần văn Chuẩn. Hồi còn là đấng nhi đồng cứu quốc, tôi có xem Tòa Án Mỹ Tho xử anh Lê văn Hữu đâm chết người yêu và cũng là em cô cậu ruột là chị Hải Đường, hoa khôi Mỹ Tho thời bấy giờ. Mặc dù bà luật sư Nguyễn Phước Đại tận tình biện hộ nhưng anh Hữu vẫn bị kết án 25 năm tù. Ra Côn Đảo anh Hữu ở dinh tỉnh trưởng để phụ giảng cho hai con của Thiếu tá Lê Văn Thể, tỉnh trưởng Côn Sơn.

    Qua khỏi ngã tư Thủ Khoa Huân là phòng mạch bác sĩ Nguyễn Kiển Bá, nhà thuốc tây Lâm Danh Mộc, bác sĩ Nguyễn Kiển Mỹ Hương, phòng răng nha sĩ Nhan Văn Túc, nhà thuốc tây Dư Yên Trí. Dược sĩ Trí là con của giáo sư Dư văn An, dạy toán chúng tôi ở lớp Đệ Tứ.

    Trở lại con đường Lê Lợi, đi một đổi nữa là tới trụ sở xã Điều Hòa, đối diện trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Qua khỏi ngả tư Ngô Quyền là dãy phố nhà thầy Huỳnh văn Đồ thầy dạy học tôi lớp Tiếp Liên. Thầy có đứa con trai cùng lứa với tôi là Huỳnh Minh Đức nghe nói là tốt nghiệp HEC Paris (Haute Étude Commerciale). Xéo xuống phía dưới là biệt thự bác sĩ Nguyễn Kiển Bá, biệt thự quá rộng nên ông cho mấy cô giáo ở xa mướn. Cách đó lối 50m là trường Lễ Nghi học hiệu của ông đốc Cấp là thân phụ kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, cựu tổng trưởng Công Chánh, kỹ sư Dương Mộng Ảo cựu tổng giám đốc Xi Măng Hà Tiên. Sát bên là trường tư thục tàu Quảng Triệu.

    Cũng nên nói thêm là đường Nguyễn Trãi đoạn ở gần đại lộ Hùng Vương thì hai bên đường có trồng nhiều cây xoài nên còn có tên là lộ Hàng Xoài. Vào cuối thập niên 60, ở cuối đường Nguyễn Trãi tiếp giáp với rạch Bảo Định, một cây cầu sắt được dựng lên nối liền luôn với đường đi chùa Vĩnh Tràng.

    9) Đường Châu văn Tiếp: con đường tuy ngắn nhưng là một trong những huyết mạch của tỉnh Mỹ Tho. Chỗ ngả ba Lê Lợi là mặt sau của trường trung học Nguyễn Đình Chiểu (thực ra ngày xưa là mặt trước khi trường còn mang tên Lycée Nguyễn Đình Chiểu), ở đầu kia tiếp giáp với đường Nguyễn Huệ. Nguyên cả mặt hông trụ sở xã Điều Hòa (sau chia một nữa cho thị chánh Mỹ Tho) chiếm trọn chiều dài con đường lối 150m.

    Đặc biệt tiệm phở Hy Lập của anh Tư Thẹo nằm trên đường Châu văn Tiếp gần góc đường Lê Lợi ngọn nổi tiếng không thua bất cứ tiệm phở nào ở Sài Gòn.

    10) Đường Trương Công Định: là con đường chạy ngang bệnh viện 3 dã chiến, nó chạy dài từ nhà xác (gọi tên khoa học là cơ thể học viện), nhà đèn, rồi băng ngang qua đường Thủ Khoa Huân là biệt thự bác sĩ Dũ ngay ngả tư, tới nhà các bạn Chánh, Hòa, Thảo, nhà Chiêu Hòa, Chiêu Thuận con thầy Bảy Chánh, nhà cô Tư Huê, thầy Đoàn văn Viễn, các chị Phụng Nga, Phụng Mỹ… đối diện bệnh viện 3 dã chiến. Tới ngả ba Nguyễn Bĩnh Khiêm là nhà bảo sanh tư bác sĩ Tải. Chạy qua khỏi Lý Thường Kiệt ngang hông sân tennis, hông ty Bưu Điện rồi chấm dứt ở ngả ba Gia Long.

    11) Đại lộ Hùng Vương: có thể gọi đây là con đường của tuổi yêu đương hò hẹn học trò vì hai trường nam Trung Học Nguyễn Đình Chiểu và nữ trung học Lê Ngọc Hân nằm hai bên của con đường ngay góc Ngô Quyền nên các nam thanh nữ tú dễ có cơ hội đá bóng với nhau lắm (phải vậy hôn mấy anh mấy chị đồng môn của tui?). Nhưng buồn thay đa phần các cuộc tình nầy đều không đi tới nơi tới chốn, trong đó có cả tui luôn nữa mới đau. Họa hoằng lắm mới có vài cặp chịu hát câu “ta về ta tắm ao ta” như Lê văn Trinh-Lê thị Hóa, Lê Trường Phước (em anh Lê Tài Sinh bác sĩ)-Nguyễn thị Hòa. Nhắc tới Lê Trường Phước mà không nói tới cái tài thổi sáo bằng hai bàn tay của anh chàng là cả một điều thiếu sót. Phước có biệt tài chụm hai bàn tay chung quanh miệng rồi không biết anh di chuyển thế nào mà phát ra âm thành thành bản nhạc như bản Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên, Trở về của Châu Kỳ. Nếu ngày xưa tiếng sáo thiệt của Trương Chi làm nàng Mỵ Nương đau tương tư thì thời bấy giờ tiếng sáo miệng của Lê Trường Phước chắc cũng khiến cho lắm nàng Lê Ngọc Hân mê mệt chàng ta lắm đó nha. Từ đó Phước có biệt danh là “Phước thổi sáo” mà đúng ra phải là “Phước thổi tay”. Phước hiện giờ ở tại Mõ Cày Bến Tre.

    Trở lại đại lộ Hùng Vương thì con đường nầy chạy từ dinh tỉnh trưởng (ngả ba Lý Thường Kiệt) cho tới tận đài chiến chiến sĩ (ngả ba Alexandre de Rhodes. Xích lên một chút phía trái là doanh trại Phù Đổng Thiên Vương của binh chủng thiết giáp. Qua khỏi ngả tư Thủ Khoa Huân cũng phía trái là sân banh mà phía trước là Công Viên Dân Chủ. Đối diện là bệnh viện Mỹ Tho và Ty Y Tế. Tới ngả tư Lê Đại Hành là trường thiếu sinh quân, sau đổi thành trường Nam Tiểu Học.

    Kế bên Ty Tiểu Học là trường Lê Ngọc Hân và đối diện là trường Nguyễn đình Chiểu và các biệt thự lầu của các thầy Phạm văn Lược, Võ Quang Định, Huỳnh Đình Tràng, Trần văn Dinh, thầy Nguyễn Ngọc Quang …

    Qua khỏi ngã tư Nguyễn Trãi là nhà thờ chánh Tòa phía tay mặt và đối diện là Trường Thánh Giu-Se. Nhắc tới nhà thờ Chánh Tòa là tôi không bao giờ quên không khí rộn rịp vào lễ Giáng Sinh ngoài thánh lễ trang trọng còn là dịp bao trai thanh gái lịch Mỹ Tho công cũng như lương cùng “ xuống đường” tìm vui và tìm duyên.

    12) Đường Ngô Quyền: Có thể nói rằng con đường nầy là con đường của những nhà tai mắt Mỹ Tho. Đường nầy chạy dài từ rạch Bảo Định cho tới ngả ba Nguyễn Trung Long. Gần ngả tư Nguyễn Huệ là nhà thuốc tây Huỳnh Hữu Tạo. Qua khỏi ngả tư Lê Lợi phía mặt là sirôp Trương văn Hoài, chung quanh có nhà cô Huỳnh thị Trị, chị Nguyễn Khai và một số bạn tôi là tụi thằng Trần Thảo Lư, Nguyễn Minh Hiền (em bác sĩ Nguyễn Minh Tiên),Nguyễn Trọng Khâm (vô địch chạy bộ Mỹ Tho) và Ngô Ngọc Vĩnh cũng là đồng môn. Vĩnh một thời là hội trưởng hội NĐC-LNH Nam Cali. Tưởng cũng nên biết là cô Trị và chị Nguyễn Khai đều du học bên Mỹ và trở về dạy trường Lê Ngọc Hân.

    Gần đó, là dãy biệt thự trong đó có nhà thầy Võ văn Liễu, chồng cô Lê thị Hai hiệu trưởng Nữ Tiểu Học Mỹ Tho. Chị Võ Bạch Mai giáo sư Đệ Nhị Cấp là vợ của giáo sư Lê Hà Quảng Lan (con nhà văn Vita). Cạnh bên là ông commis Tùng (em thầy Liễu). Hai nhà nầy là hai đại gia Võ Ngọc và Võ Bá.

    Đối diện là dãy phố tư gia của thầy Đinh văn Của, thầy Trương Ngọc Sâm (ba của Trương Ngọc Khôi học chung lớp tôi).

    Qua khỏi ngả tư Hùng Vương, phía tay trái là trường Lê Ngọc Hân, phía tay mặt là chùa Phật Ân. Gần đó là nhà của thầy Giản cô Huỳnh, thân sinh anh Lâm Trí Chánh một thời là hội trưởng NĐC-LNH Âu Châu.

    Kế bên là một khu nhà thấp hơn mặt đường của trường Bá Nghệ và ty Canh Nông. Trong đó có các nhà của cô Bảy Tốt, cô Nữ chị của Chánh học chung với tôi, nhà cô Ba Trương là thân mẫu của chị Ánh Quách, Quách Tinh Cần (thủ khoa khoá 20 trường võ bị Đà Lạt), Quách Tinh Võ (cùng lớp Đệ Tam B10 với tôi), Quách Tinh Văn.

    13) Đường Gia Long: Nếu ai hỏi tôi con đường nào đẹp nhất Mỹ Tho, tôi sẽ không ngần ngại trả lời rằng đó là con đường Gia Long. Phải! Chỉ mỗi việc con đường chạy dọc theo sông Tiền Giang đã nói lên được điều nầy rồi.
    Khởi đầu từ Vườn Hoa Lạc Hồng là chỗ hẹn hò của bao cặp trai gái ngồi bên nhau trên chiếc ghế đá công viên nghe tiếng sóng vỗ rì rào trên bờ đá , hít thở làn gió hiu hiu dịu mát từ mặt nước sông Tiền Giang để cùng nhau mơ chuyện tương lai lứa đôi. Vườn Hoa Lạc Hồng ngày xưa là nhà ga xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho, một phương tiện chuyển vận đã đóng góp phần lớn vào việc phát triển nền kinh tế tỉnh nhà. Từ đó có câu ca dao tình tứ như:

    "Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành
    Tàu Tây lủng đáy anh mới đành xa em"


    Đối diện Vườn Hoa Lạc Hồng là nhà thuốc tây ông Phan là một trong hai nhà thuốc tây lâu đời nhất Mỹ Tho, kế bên là hotel Bungalow. Qua khỏi ngã ba Huyện Toại có nhà may Huy Hoàng của thằng Thành học chung tiểu học với tôi, Thành tuy còn nhỏ tuổi mà dữ dằn du côn lắm, tiệm cơm Viễn Đông. Cũng có hai ba phòng ngủ ở khu nầy mà tôi chỉ còn nhớ có một là Hạnh Huê. Qua khỏi dãy phố lầu nầy là Ty Ngân Khố, đối diện bên kia đường Lê Lợi là Ty Bưu Điện.

    Nhắc tới Ty Bưu Điện là tôi nhớ ngay tới anh Phạm Phú Lộc ở cùng xóm Trịnh Hoài Đức với tôi làm Trưởng ty Bưu Điện Mỹ Tho. Anh ở nhà vợ khu Chợ Cũ gần Bến Tắm Ngựa, thế nên mỗi ngày anh đón đò máy dưới Bình Đại lên để đi tới Vườn Hoa Lạc Hồng rồi đi bộ tới Ty Bưu Điện làm việc cả hai lượt đi về nên bạn bè gọi anh là ông Trưởng ty “đò máy”.

    Cách Ty Bưu Điện không xa là 3 biệt thự của quý ông Chánh Án, Biện Lý và Dự Thẩm Tòa Án Mỹ Tho. Điểm đáng nhớ của 3 ngôi biệt thự nầy là có rất nhiều cây hoa ngọc lan hương thơm bát ngát. Ngang qua một con đường nhỏ (mà tôi không thể nhớ tên) là dinh Tỉnh Trưởng. Đối diện là căn cứ Giang Đoàn 21 xung phong và công viên Cầu Tàu là chỗ tắm sông lý tưởng của dân Mỹ Tho.

    Kế Cầu Tàu là Ty Thanh Niên, khu cư xá công chức, Ty Công Chánh, Ty Cấp Thủy, Ty Thủy Nông. Đối diện là Tòa Hành Chánh tỉnh Định Tường mà phía sau là tư dinh Phó Tỉnh Trưởng.

    Đường Gia Long chấm dứt ở ngay ngã tư Nguyễn Trung Long thường được gọi là ngã tư Cầu Bắc mà trường tiểu học Cầu Bắc (nhà lá) tọa lạc ngay gốc Tây Bắc.

    14) Đường Ông Bà Nguyễn Trung Long: con đường nầy chạy dài từ Ngã Tư Cây Xăng tới tận cầu Bắc đi Rạch Miễu. Ngay ngã Ba Ngô Quyền là trường Bách Nghệ và Ty Canh Nông. Xuống tới Ngã Ba Lê Đại Hành là trường Nữ Tiểu Học.

    Tới Ngã Tư Lý Thường Kiệt là tư gia phu nhân cố Tổng Thống Thiệu (biệt thự thầy Năm Thưởng, xéo góc là nhà vãng lai tỉnh mà sát một bên là Ty Thuế Vụ rồi tới đường rầy xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho.

    Xích tới một chút khỏi nhà bà Thiệu là trường Tiểu Học Cầu Bắc hay còn gọi trường Nhà Lá thời xa xưa mà chắc các bạn không quên hai cây còng to lớn lá xanh um cùng với bông màu tím thẳm nằm hai bên sân trường.

    Qua khỏi ngã tư đường Gia Long một bên và Ngô Tùng Châu một bên (đường Ông Bà Nguyễn Trung Long chia cắt hai đường Gia Long và Ngô Tùng Châu) là Bến Bắc Mỹ Tho-Rạch Miễu mà hai bên có nhiều quán xá bán thức ăn.

    15) Đường Ngô Tùng Châu: là đường nối dài của đường Gia Long kể từ đường Ông Bà Nguyễn Trung Long chạy lên tận Vòng Nhỏ. Gần ngả tư Cầu Cầu Bắc về phía tay trái là hảng Xáng chuyên sửa chửa tàu bè, phía ngoài một chút là Lò Sát Sinh mà dân Mỹ Tho quen gọi là Phú De (Fourière).

    Khu vực Hảng Xáng ngày xưa đã xảy ra vụ thảm sát cô Marie mà tôi có dịp trình bày ở đoạn trên.

    Đối diện vùng nầy là Giếng Nước thứ hai. Giếng Nước thứ nhất nằm ngang Đất Thánh Tây chạy dài tới đường Nguyễn Tri Phương. Hai giếng nước được ngăn cách bỡi đường rầy xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho (bấy giờ là đường Lý Thường Kiệt gần nhà ông thầy Năm Thưởng là nhạc phụ cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu).

    Đường Ngô Tùng Châu chạy dài tới ngả tư chợ Vòng Nhỏ ngang qua nhà các cô Chín Nhãn (chủ xe đò Ngọc Châu chạy đường Sài Gòn Mỹ Tho), cô Ba Đê, thầy Nhiêu dạy trường Tiểu Học Nhà Lá. Cũng có nhà dì Tám Lịch má của anh em Khải, Hoàn. Dì Tám Lịch là đồng nghiệp nữ hộ sinh với bà ngoại tôi tại bảo sanh viện Mỹ Tho (sau đổi thành bệnh viện 3 dã chiến).

    Điểm đặc biệt nhất của con đường Ngô Tùng Châu là hai bên đường có những cây phượng vĩ tuyệt đẹp.
    Đường Ngô Tùng Châu khi chạy qua khỏi Chợ Vòng Nhỏ gần tới Cầu Dầu là giang sơn của hãng nước mắm Cửu Long với hai chị em người đẹp mà nghe cái tên không cũng đã thấy "phê” lắm rồi, đó là Thương Hương và Tiếc Ngọc mà bạn Lê văn Cầu của tôi có may mắn là phu quân của chị Tiếc Ngọc.

    Dãy nhà bên trái là các nhà may Huy Hoàng, quán cơm Viễn Đông, khách sạn Hạnh Huê, Bungalow, nhà thuốc tây ông Phan ở cuối dãy.

    Thưa quý niên trưởng và các bạn,

    Từ nãy giờ, quý vị và các bạn đã cùng tôi trở về Mỹ Tho thân yêu qua hình ảnh sinh hoạt của một thời hoa mộng trên những con đường chính của thành phố, những con đường một thời đã in hình gót chân bay nhảy của tuổi thơ và thanh xuân nhưng chắc chắn rằng Mỹ Tho luôn luôn khắc ghi trong tâm tưởng những người đã gắn bó một phần đời hay cả đời với thành phố yêu dấu.

    Hy vọng qua bài viết nầy, quý vị và các bạn có được giây phút nhẹ nhàng thả hồn về một vùng trời quá khứ với chính hình bóng của mình.

    Nguyên Trần Nguyễn Tấn Phát

    https://vietbao.com/a303311/my-tho-trong-mien-ky-uc

  2. Xin cám ơn nguyenphuong

    BachMa (06-10-2020), BaNai (05-21-2020), chimtroi (06-08-2020), Donghuong (09-04-2020), ducquany (05-20-2020), hoang yen (05-21-2020), hungleda (05-20-2020), khongquan2 (06-09-2020), KiwiTeTua (05-22-2020), Phạm Văn Bản (05-20-2020), Satan526 (05-22-2020), Tinh Hoai Huong (06-14-2020)

  3. #2
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Post Hủ Tiếu Mỹ Tho

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Hủ Tiếu Mỹ Tho
    Huỳnh Quốc Minh (Tiểu-Minh ) - Germany

    Vào cuối thập niên 1950, bến xe đò đi các tỉnh khác còn ở tại chợ Mỹ Tho, bên hông xã Điều Hòa ngay cổng phía sau trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Bến xe chỉ đông người và náo nhiệt từ sáng sớm cho tới khoảng ba giờ chiều, chừng sáu giờ tối là hầu hết xe đò đều rời bến, chỉ còn neo lại vài chiếc lẻ tẻ vì nhà xa, nên lơ xe ban đêm phải ngủ giữ xe.

    Những tài xế ở Mỹ Tho thì đánh xe về nhà nghỉ, sáng sớm hôm sau chạy ra lấy tài. Bến xe buổi tối không vì thế mà vắng vẻ, đìu hiu, nhiều gánh hàng rong và xe hủ tiếu, nước đá, nước mía, xe bán cóc ổi, khô mực nướng ép đều quy tụ xung quanh khu vực này. Lâu lâu, Giáo hội Phật giáo thống nhất địa phương cho tổ chức vài đêm thuyết pháp tại đây và rất được đông đảo người dân Mỹ Tho hưởng ứng nồng nhiệt.

    Trên lề dọc theo hàng rào sắt xã Điều Hòa có những ki ốt (kiosque) buôn bán phục vụ cho khách đi đường, nhưng tôi chỉ thích nhất là quán phở Bắc mang bảng hiệu nhỏ treo lơ lửng rất khiêm nhường: Tư Phở ở gần góc đường Lê Lợi. Sở dĩ tôi biết quán này là do mấy chị tôi thỉnh thoảng buổi sáng dẫn tôi đến đây ăn. Quán phở này phải công nhận là ngon tuyệt và chỉ bán từ sáng sớm cho đến trưa.


    Sau này, vì nhu cầu xe cộ ngày càng nhiều hơn, nên bến xe được dời ra trên giếng nước một đỗi, nhường chỗ cho ngôi chợ hàng bông bán trái cây được xây cất lên. Lúc đầu, chị em tôi cũng thấy buồn buồn vì quán Tư Phở đã dẹp mất! Sau đó tôi phát hiện ra quán này là vì nhận dạng được ông chủ quán có cái thẹo to ở một bên thái dương, mà hầu như lúc nào tôi cũng thấy ông đứng chăm chú nấu phở trước cửa tiệm. Quán đã dời ra dãy phố lầu hai tầng vừa kiến thiết xong nằm ngay mặt lộ, đối diện bến xe mới.

    Trước đây, quán Tư Phở trông chật hẹp và xập xệ. Sau vài năm làm ăn khấm khá thì tiệm phở rộng rãi, khang trang và sạch sẽ nay được đổi tên lại là Hy Lạp với cái bảng hiệu to lớn chữ đỏ trông thật oai. Đúng ra thì tiệm phở phải dùng loại bánh phở bản to, ướt và mềm, nhưng phở Hy Lạp thì lại nấu với hủ tiếu Mỹ Tho ăn không chỗ nào chê được, nhất là nước xúp được pha chế có mùi thơm ngon hết sức đặc biệt mà không nơi nào sánh bằng, nên tiệm lúc nào cũng không chỉ có nhiều khách vãng lai, mà còn đông khách quen thuộc vào buổi sáng từ các khu phố khác trong thành phố đến ăn.

    Trên mỗi bàn bên trong lẫn vài bàn phía ngoài luôn bày sẵn những hũ nhỏ và dĩa đựng các thứ như nước mắm, tương ngọt, chanh, ớt hiểm, ớt sừng trâu xắt xéo mỏng, ngò gai, rau quế, giá sống, chanh, tăm xỉa răng. Đôi khi có những khách đang ăn ngon miệng lại kêu một chén mỡ gàu hay nạm, gân hoặc củ cải để ăn thêm một cách ngon lành, vừa ăn vừa xuýt xoa đổ mồ hôi bởi nước xúp nóng, ớt cay lẫn tiết trời nóng nực bên ngoài.

    Sau khi bến xe mới được thành lập, “giang sơn” của đoàn xe lô Minh Chánh chạy tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho và ngược lại, được phân phối ở góc phải khi từ phía giếng nước vừa quẹn vào bến xe. Kế bên quầy bán vé có một xe hủ tiếu, mì và hoành thánh nơi này ăn chỉ được thôi chớ không ngon lắm! Nếu nói đến quán và xe hủ tiếu ở Mỹ Tho lúc bấy giờ thì mỗi một góc chợ, khu phố đều thấy nhan nhản. Nói chung là chỗ nào ăn cũng tương đối ngon hết!

    Tuy nhiên có một vài nơi ngon đặc biệt, ngon đến nổi vang danh khắp nơi để rồi trở thành danh từ rất quen thuốc là hủ tiếu Mỹ Tho mà mãi cho đến ngày nay, có nhiều tiệm ăn ở hải ngoại vẫn mượn “đầu heo” hủ tiếu Mỹ Tho để “nấu cháo” cho tô hủ tiếu của mình.

    Gia đình chú thím bà con của tôi ở bên kia sông gần xóm Đập Đá, đối diện với chợ cá trước năm 1975 là lò sản xuất hủ tiếu nổi tiếng lớn nhất Mỹ Tho. Hồi nhỏ, tôi thường qua chơi với mấy đứa con của chú thím, luôn tiện xem công nhân bên này nấu, vớt, phơi và cắt hủ tiếu bằng máy thấy cũng thích thú lắm! Mỗi lần đi về, thím đều lấy giấy báo gói cho tôi cả bao hủ tiếu mới ra lò, thân thương căn dặn là mang về để mẹ tôi xào cho cả nhà ăn.

    Đặc điểm của hủ tiếu Mỹ Tho là cọng nhỏ, khô, dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tiếu ở một nơi nào khác. Những quán hủ tiếu thật ngon ở Mỹ Tho kể ra không nhiều. Thường thì nơi nào bán hủ tiếu đều có kèm theo mì và hoành thánh. Bên cạnh đó còn có một xe nước đá để cho khách giải khát. Có khi khách ăn hủ tiếu với mì hoặc không ăn hủ tiếu mà chỉ ăn mì hay hoành thánh với mì. Nhưng dù sao thì hủ tiếu vẫn luôn được đại chúng ưa chuộng nhiều hơn! Hoành thánh được xem là ngon, ngoài da bao phải mỏng và dòn, thịt nạc bằm bọc bên trong ướp cho thơm cần trộn thêm ít mỡ, nếu có pha lẫn thêm thịt cua nữa thì ăn khỏi chê!

    Mì ngon có tiếng lâu đời ở Mỹ Tho phải kể là tiệm Phánh Ký, gần bốt cảnh sát đầu cầu quay phía bên Chợ Cũ. Sợi mì vàng óng lớn và nhỏ hai loại do chính chủ nhân làm, ăn phải nói là “hết xẩy”! Lúc nhỏ, khi tôi còn học chữ Tàu ở trường tiểu học Sùng Chánh gần đó, ông hiệu trưởng rất mê mì của tiệm Phánh Ký. Tôi là học trò cưng nên thỉnh thoảng “được” ông sai cầm tô sang Phánh Ký mua mì và gói thuốc Bastos bao xanh ở tủ kiếng thuốc hút của người bán lẻ trước tiệm.

    Mỹ Tho có mì Phánh Ký, còn bên Cần Thơ, đối diện với rạp hát Minh Châu thì có mì tiệm Khung Ký cũng “oanh liệt” ở miền Tây Đô. Thời gian trong quân đội, có dạo tôi thuyên chuyển về đây nên đã “làm quen” với khá nhiều tiệm ăn. Ngoài quán nhậu đặc sản nổi danh Vĩnh Ký ở cuối đường Phan Đình Phùng, tôi chỉ chấm có mì Khung Ký mà thôi!

    Sau này kế tiệm hủ tiếu mì Phánh Ký phía trong lề đường, có xe hủ tiếu của chú Phúc cũng “nổi đình, nổi đám” không kém nhờ hủ tiếu có đặc điểm là sườn chéo chặt ra từng khúc nhỏ, tôm khô được cháy với mỡ rất dòn và thật thơm ngon.

    Song song đó, đấu mặt với hiệu Phánh Ký còn có tiệm phở, hủ tiếu bò kho Đồng Thanh nấu ăn cũng khá và rất đông khách. Từ khi có hai “đại hiệp” này xuất hiện, tiệm mì Phánh Ký ế khách thấy rõ. Tuy nhiên, tiệm này “sống được” là nhờ còn nhiều khách trung thành vẫn chưa quên được cọng mì dòn khá ngon tại đây.

    Con gái ông chủ tiệm, chị Huỳnh Hảo là bạn học chung luyện thi lớp đệ thất với tôi ở trường Hùng Vương vào năm 1961. Dáng chị đô con và mặt tròn, mới nhìn biết ngay là “A Muối”, thường bị các bạn trai chọc ghẹo là “xì dầu”. Nhưng tánh chị rất hiền hòa nên không giận mà chỉ cười hè hè thôi. Tôi cũng là người Hoa, nhưng nhờ ăn… nước mắm nhiều, nên nói tiếng Việt rành và viết chính tả khá hơn nên không bị các bạn phát hiện.

    Bên phải xe hủ tiếu của chú Phúc là tiệm nước lớn Nam Hoa lâu đời có bán mì, hủ tiếu, dimsum như: bánh bao, há cảo, xíu mại, v.v. Tiệm này hầu như mỗi buổi sáng đều đông khách quen thuộc, ngồi tập trung thành từng nhóm nhỏ uống cà phê đầy những bàn bày ra tới phía trước cửa để tán gẫu, bàn chuyện làm ăn, áp phe, đoán số đề, cá độ đá gà hay hút thuốc nhìn xe cộ dập dìu qua lại. Họ rất lớn tiếng và xem thiên hạ xung quanh như không có, thỉnh thoảng lại còn chửi thề và cãi vã nữa! Bởi thế, giới dân chơi Mỹ Tho đặt tên cho ngã tư gần đó là “Ngã tư Quốc tế”, vì nơi đây thường tập trung nhiều thành phần xã hội phức tạp, nhất là khi trời về đêm.

    Ở ngoài dãy bar bờ sông đường Trưng Trắc đối diện xéo với tiệm kem Mỹ Duyên thì có quán hủ tiếu Xường “đóng đô”. Quán này thật ra chỉ “có tiếng mà không có miếng” của giới trẻ người Hoa thường đi chơi ban đêm đói bụng tụ tập đến ăn uống, trong đó có tôi, chớ dân ăn mì, hủ tiếu sành điệu ít khi tới đây.

    Còn trong lãnh địa chợ hàng bông, ngoài tiệm nước bán cà phê, hủ tiếu ở góc đường phía cổng sau trường Nguyễn Đình Chiểu không đáng kể, thì ở khoảng giữa dãy phố có tiệm bán hủ tiếu rất nổi tiếng Hưng Ký của ông chú và bà thím tôi. Tiệm này buổi sáng luôn có đầy khách ngồi ra tới những bàn bên ngoài. Nhiều người đến ăn đôi khi sốt ruột phải đứng nhìn đồng hồ đeo tay mà đợi bàn trống.


    Chiếc xe nấu được đặt ngang phía trái tại cửa ra vào. Nước lèo ở đây nấu thơm ngọt rất đặc biệt không nơi nào ngon hơn. Một tô hủ tiếu hay mì trước khi bưng ra cho khách, đều được múc chừng một phần ba vá to thịt nạc bằm ướp rất ngon vào một cái tô cạn đáy, sau đó gần một vá đầy nước lèo thật nóng đã nấu bằng xương heo, khô mực, tôm khô được cho vào tô rồi dùng và đập nhè nhẹ để thịt bằm rời ra và vừa chín tới ăn mới ngọt, liền sau đó đổ ngay vào tô hủ tiếu đã làm sẵn phủ đầy trên mặt nào phèo, tôm khô chấy, tóp mỡ, gan heo, thịt xá xíu xắt mỏng, ngò Tây, hành lá, cải bắc thảo. Giá một tô hủ tiếu và mì ở tiệm này đắt hơn các nơi khác một ít, nhưng vẫn luôn được đông người đến ăn. Thực khách của tiệm này đa số là giới thương gia và công chức.

    Ngoài ra, ở gần đầu ngả tư bùng binh đường Trần Quốc Tuấn đi vô lò heo, bên phải có một quán hủ tiếu xương rất lè phè của chú Tiều khá ngon. Đối diện với quán này lại có một tiệm phở Bắc nấu ăn cũng khỏi chê! Nghe đâu ông chủ quán là em của chú Tư tiệm phở nổi tiếng Hy Lạp thì phải. Cũng như Hy Lạp, tiệm này bắt đầu khoảng từ 6 giờ chiều là bán lai rai cho đến tối. Nhưng thực sự thì nồi nước xúp to tướng vừa nấu xong buổi chiều là để chuẩn bị bán cho sáng ngày hôm sau. Rất tiếc hai tiệm này không có thời nên ít được người ta biết đến.

    Về sau, ngoài ngã ba Trung Lương mở quán hủ tiếu tôm và cật heo ăn cũng có mùi vị đặc biệt lắm! nhưng vì địa điểm hơi xa thành phố nên dân Mỹ Tho ít khi ra tới đây, quán chỉ bán được nhiều cho khách đi xe đò tuyến đường Sài Gòn và miền lục tỉnh dừng chân nghỉ mệt mà thôi.

    Gia đình tôi khi xưa buôn bán tại chợ Mỹ Tho, phía trước cửa tiệm của ba mẹ tôi có đến hai xe hủ tiếu và hai xe nước đá xếp hàng ngang xen kẽ với nhau. Xe hủ tiếu trước tiệm là của vợ chồng chú Ngầu được đẩy từ nhà đến vào ba giờ sáng khi chợ bắt đầu nhóm. Trong lúc chú bày trí, sắp xếp các thứ trừ trong xe ra thì vợ chú đi vô nhà lồng chợ gần đó mua thịt và xương heo. Liền sau đó, xương được nấu với khô mực và tôm khô trong một cái nồi khổng lồ với lửa than chầm chậm cho đến khoảng bảy giờ là bắt đầu bán.

    Hầu hết khách đến ăn là thành phần lao động buôn gánh bán bưng và người đi chợ. Khách quen của chú Ngầu rất đông, những người đàn ông vác mướn tại chợ hầu như ngày nào cũng đều ghé ăn, nhưng họ không ăn bình thường như người ta, mà mua nửa ký hủ tiếu mang lại nấu thành một tô lớn đầy vun và ăn một cách ngon lành. Sau đó còn kêu thêm một tô xí quách với vài con khô mực thơm phức, được vớt ra từ thùng nước lèo nóng hồi, rồi chấm vào nước tương hiệu hai con chuột để nhậu với một xị rượu đế.

    Cũng nên nói thêm về hai chữ “xí quách” mà người ta thường nghe nói là nguồn gốc của tiếng Quảng Đông, có nghĩa là xương heo dùng để nấu nước lèo hủ tiếu, người Việt Nam ăn thấy ngon nên nói theo không đúng giọng mà lệch đi thành “xí quách”. Tiếng hủ tiếu cũng do âm từ lơ lớ tiếng Hoa mà ra.

    Trước năm 1975, tôi rất thích “ngao du sơn thủy” và đi chơi gần hết các tỉnh thành miền Nam. Ở miền Trung thì tôi chưa thấy, nhưng nơi thành phố sương mù Đà Lạt có bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho. Là người lữ khách đến từ sông Tiền hiền hòa, tôi cảm thấy rất thân thương với bốn chữ quá quen thuộc này, nơi xứ lạnh hoa anh đào mộng mơ nên liền vào tiệm ủng hộ ngay, nhưng…

    Ở Sài Gòn, tiệm bán hủ tiếu và phở dĩ nhiên là nhiều đếm không hết, nhưng chỉ có một số tiệm có tiếng được người ta biết đến, chẳng hạn như trên con đường Huỳnh Thúc Kháng có tiệm mang tên Hủ Tiếu Mỹ Tho, nhưng ăn chỉ thấy mùi… không khí nhộn nhịp của Sài Gòn. Trên con đường lớn Võ Tánh số nhà 79, có tiệm phở mang bảng hiệu số 79 thật to ăn cũng khá, nhưng rất tiếc tiệm này gây không được tiếng vang. Còn tiệm phở bò, gà Hiền Vương ở đường Hiền Vương nấu ăn rất ngon, đã một thời làm “dậy sóng” trong giới sinh viên học sinh Sài Gòn.

    Khu vực Ngã Sáu tấp nập xe cộ lưu thông ở đường Minh Mạng Chợ Lớn, đối diện trường trung học Hoa ngữ Thiên Chúa giáo Minh Viễn thì có “tướng lãnh đầu bò” phở Tương Lai trấn giữ. Ngoài bảng hiệu tiệm lớn treo ngang phía trên có vẽ hình đầu con bò trông thật vui mắt, phía dưới đất lại còn dựng thêm một cái bảng nhỏ quảng cáo nữa! Chiếc xe nấu phở án ngữ ngay trước cửa ra vào được bày trí trông sạch sẽ rất xôm tụ. Những miếng thịt bò nạm và gân khổng lồ đã luộc chín trông phát thèm được treo lên phía ngoài xe để câu khách.

    Tiệm này nấu bằng bánh phở bản lớn và mềm. Nhờ nước xúp khá ngon ngọt nên được nhiều người biết đến. Ngoài phở bò, lúc sau tiệm còn bán thêm bánh ướt chả lụa và các loại chè ngọt nước đá rất ngon. Bên kia đường trước hàng rào sắt của trường học Hoa văn, ban đêm ở khu vực này rất huyên náo bởi những hàng quán bình dân đặc biệt bán nghêu, sò, ốc, hến, hột vịt lộn, khô, mực nướng, bia, rượu

    Trong khu Chợ Lớn ở đường Nguyễn Trải, gần đại lộ Tổng đốc Phương thì có tiệm phở Tâm Tín ăn khá đậm đà nhưng nước xúp quá nhiều mỡ và bột ngọt, nhưng đó cũng là sở thích của người Hoa.

    Nói đến tô phở Sài Gòn năm xưa, người ta không quên nhắc đến tiệm phở Tàu Bay trên đường Trần Quốc Toản. Tô phở bằng thủy tinh trong suốt tuy lớn thật, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy nước xúp nhiều hơn bánh phở và thịt. Cái bảng hiệu tiệm với hai chữ to Tàu Bay hình như có một ma lực để thu hút thực khách thì phải, chớ thật ra nước xúp tô phở chỉ nặng mùi đinh hương và tai vị hơn mùi thơm ngon của xương và thịt bò. Địa điểm của tiệm cũng gợi cho người ta nhớ lại, đối diện bên kia đường đó là chợ cá Trần Quốc Toản nổi tiếng… dơ nhất Sài Gòn, có mùi nực nồng muốn bể lỗ mũi người bộ hành hay xe cộ chạy ngang qua đây.

    Bước sang năm 1975, làn sóng người tỵ nạn bên Campuchia ồ ạt tràn sang Việt Nam. Một số người Triều Châu đã hành nghề bán hủ tiếu ở thủ đô bên đó liền sắm vợt, vá, tô, chén, dĩa, muỗng, v.v. để mưu sinh. Danh từ Hủ Tiếu Nam Vang được vang dội mạnh từ đấy nhờ cách nấu và pha chế nước lèo thơm ngon rất đặc biệt.

    Tôi đã dịp chứng kiến một ông Tiều bên Cam Bốt mới về, mở quán bán hủ tiếu Nam Vang ở ngoài quốc lộ ngã tư quận Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho. Cứ mỗi lần nấu một tô hủ tiếu cho khách, ông đều biểu diễn tài nghệ khá đẹp mắt, bằng cách: khi vớt hủ tiếu được trụng từ nồi nước sôi lớn ra bằng cái vợt lưới to, ông liền đập nhè nhẹ phần giữa cán tre của vợt nơi mép nồi cho hủ tiếu ráo nước. Sau đó, ông ta cầm vợt để ra ngoài nhún nhún vài cái lấy trớn rồi bất thần hất mạnh vợt lên cho vắt hủ tiếu bay cao trên không. Hơi nghiêng mình, ông nhanh nhẹn lòn tréo tay phải đang cầm chiếc vợt ôm sát phía sau lưng đưa sang bên trái, để kịp hứng lấy vắt hủ tiếu từ trên đang rơi xuống một cách tài tình, rồi đổ ngay vào cái tô ông cầm bên tay trái.


    Mỗi lần ông biểu diễn như thế đều được tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhiều người. Cũng nhờ nghệ thuật hấp dẫn mà quán hủ tiếu dù thiết bị rất đơn sơ này bán rất đắt. Phải công nhận là hủ tiếu của ông khá ngon nhờ nước lèo thật ngọt và nhiều tôm, thịt, cật heo. Có người vì thích xem ông “hát xiệc” mà thường đến ăn. Tội nghiệp cho đám con nít hiếu kỳ nghèo không có tiền, chỉ đứng trước quán trông chờ xem ông biểu diễn mà cảm thấy đầy thích thú.

    Xe hủ tiếu ở Việt Nam trước năm 1975 phần lớn đều thu gọn trong một chiếc xe đẩy. Tuy là xe, nhưng không đẩy đi bán dạo như những xe mì gõ của người miền Trung bây giờ ở Sài Gòn mà người ta thường thấy.

    Còn hủ tiếu ở Chợ Lớn bản to và mềm, thậm chí hơi nhão, khác với cọng hủ tiếu khô, dai như Hủ Tiếu Mỹ Tho hay Hủ Tiếu Nam Vang sau này. Tô hủ tiếu bao giờ cũng lềnh mỡ, lăn tăn những thịt nạc bằm và luôn có một hai lá cải xà lách to nằm chễm chệ, ít cọng hẹ, bên cạnh là những lát thịt xá xíu và gan mỏng phủ kín mặt tô, chen chúc là những miếng tóp mỡ cỡ bằng hạt đậu phộng vàng ruộm.

    Hủ tiếu là món ăn buổi sáng khá quen thuôc của người Hoa ở Chợ Lớn. Tuy nhiên, đối với người bình dân lao động thì thỉnh thoảng mới ăn mà thôi! Các xe hủ tiếu bán đắt nhất trong mấy ngày Tết cổ truyền, giới trẻ được nhiều tiền lì xì nên tha hồ kéo nhau đi ăn hầu như mỗi ngày. Hồi nhỏ tôi cũng vậy, trong khi đồ ăn thức uống khá ngon ở nhà ấp lẩm trong ba ngày Tết thì không mấy “thiết tha”, mà lại gắn bó không quên được tô hủ tiếu.

    Lạ một điều là cho tới ngày hôm nay, mặc dù có rất nhiều vật liệu phục vụ nấu nướng bằng inox, nhôm, sắt xi bóng láng, nhưng nhan nhản ở Việt Nam, người ta vẫn còn thấy được những chiếc xe hủ tiếu kỳ cựu, mà chủ nhân nó luôn “chung thủy”. Họ nấu hủ tiếu với vợt lưới to, vớt mì bằng thau, cùng vá lớn hình khối tròn bằng nhôm có lỗ tròn, ghế xếp mặt ngồi bóng lưỡng bằng gỗ và chân sắt một mạc cũ kỹ, nhưng chắc chắn. Bên nồi nước lèo thơm ngon nghi ngút khói, thực khách dù là giới bình dân hoặc quý tộc, đều ngồi ăn xì xụp một cách vô tư trước xe bên lề đường hay trong tiệm.

    Một điều thiếu sót khi nói đến chiếc xe hủ tiếu, với nét đặc trưng riêng có tính hoài cổ của người Hoa, mà không đề cập đến những hình ảnh được trang trí trên mặt kính xung quanh xe, mô phỏng những điển tích cổ của Trung Hoa, như: Tiết Nhơn Quý, Nhạc Phi, Đông Chu Liệt Quốc, Phong Thần, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, v.v. mà hồi nhỏ tôi rất say mê ngắm nhìn, mỗi khi ngồi trước bàn xếp dài dính liền theo xe cầm đũa sẵn để chờ đợi… Những hình ảnh sinh động này được khắc khá rõ nét với nhiều màu sắc lòe loẹt.

    Gần cuối thập niên 70, khi vừa đặt chân đến xứ lạnh Đức quốc không bao lâu, tôi có sang khu Chinatown ở khu 13 bên Paris (Pháp) tìm đến bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho ăn thử cho biết, nhưng tôi rất thất vọng!

    Ở thành phố lớn nhất Hà Lan là Amsterdam và Rotterdam, khu phố Tàu hoạt động rất mạnh, có nhiều tiệm ăn bán hủ tiếu, nhưng mức độ thơm ngon vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn cao như hủ tiếu của thành phố Mỹ Tho năm xưa.

    Mấy lần sang Mỹ châu đến các tiểu bang California, Texas, LA, Philadelphia, MA, tôi đều không quên thăm viếng vài bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho và những tiệm phở nổi tiếng tại địa phương. Tình thiệt mà nói, không phải tôi là dân Mỹ Tho mà luôn bênh vực cho những gì của quê nhà mình. Có lẽ tôi đi không tới và tìm chưa được nơi nào có mùi phở thơm ngon đặc biệt như phở Hy Lạp, mùi hủ tiếu ngọt ngào như hủ tiếu Hưng Ký hay của chú Phúc ngày nào chăng?

    Bên Toronto, Canada, khu phố Tàu của người Hoa rất đông và ngành ẩm thực phát triển vô cùng phồn thịnh. Nhiều tiệm ở đây nấu mì ăn ngon hơn mì của Phánh Ký là nhờ nước lèo. Có tiệm xào mì còn thơm khói hơn quán mì xào dòn lộ thiên ban đêm năm xưa, đã từng “vang bóng một thời” trước villa của chú Hỏa ở đường Hồ Văn Ngà (Sài Gòn).

    Nhớ lại lần đầu tiên sang thăm nhóm bạn chơi thân từ hồi nhỏ nơi quê nhà ở Toronto. Các bạn dẫn tôi đến một tiệm ăn lớn bán đầy đủ không thiếu một món ăn thuần túy nào của Trung Hoa và Việt Nam. Nhiều năm… "chết thèm" bên trời Âu, trước hết tôi xực một tô Hủ Tiếu Mỹ Tho, nhưng mới ăn vài đũa liền phải bỏ ngang vì dở quá! Sau đó tôi đã giựt giải “quán quân” về số dĩa và tô đã ăn sạch được xếp chồng lên nhau, khiến các bạn tôi ngạc nhiên và cười vỡ bụng cho tới bây giờ mỗi khi nhắc đến tôi.

    Vài lần trở về thăm quê nhà, tôi đã đi khắp hết các nẻo đường góc chợ của thành phố thân yêu để tìm lại dấu chân kỷ niệm năm xưa của mình. Việt Nam bây giờ thay đổi quá nhiều! Qua lăng kính tâm hồn, tôi nhận thấy Mỹ Tho ngày nay không còn vẻ đẹp hiền hòa của 30 năm về trước, nhất là về mặt xây cất nhà cửa và cơ sở nhà nước đa số đều được đổi mới hoặc kiến thiết thêm. Người và xe gắn máy tấp nập hơn xưa nhiều. Những tháng ngày về thăm gia đình, tôi thường yêu cầu thân nhân dẫn tôi đến những hàng quán nào bán phở, mì và hủ tiếu ngon nhất để “chấm điểm” lại. Tự nhiên tôi cảm thấy buồn buồn vì những hương vị thơm ngon, đậm đà năm xưa nay đã bay mất từ lâu rồi.

    Ngày xưa, tôi là đứa cháu… dễ thương nhất của những chú bác bán phở, hủ tiếu nơi quê nhà nhờ cái miệng… ăn hàng. Ngày nay sống nơi xứ người, mỗi lần ăn hai món này ở bất cứ nơi nào cũng không vừa ý, tâm trí tôi luôn tưởng nhớ đến hình ảnh các chú bác thân thương đó. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn rất thích ăn hủ tiếu, nhưng tìm đâu cho ra được đúng với hương vị của Hủ Tiếu Mỹ Tho ngày xưa?

    Huỳnh Quốc Minh (Tiểu-Minh) - Germany

    https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

  4. #3
    ducquany's Avatar
    Status : ducquany v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Mar 2009
    Posts: 1,067
    Thanks: 14
    Thanked 20 Times in 7 Posts

    Default

    Tôi có vài thắc mắc nhờ các bạn chỉ giáo giùm :
    - Hủ tiếu Mỹ Tho và Hủ tiếu Nam Vang khác nhau thế nào?
    - Chuối sứ Mỹ Tho ngon nổi tiếng mà chuối ở những nơi khác không bằng ,tại sao?
    - Sài Gòn trước 75 có tiệm hủ tiếu Thanh Xuân nổi tiếng ,DQY là fan của tiệm này
    mà cũng không để ý hủ tiếu Thanh Xuân là Mỹ Tho hay Nam Vang.
    - Ở vùng Chợ Gạo có con sông Bảo Định ,nhưng nhiều người gọi là kinh Bảo Định
    ,kinh hay sông cái nào đúng ?

  5. #4
    philong51's Avatar
    Status : philong51 v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 38
    Thanks: 3
    Thanked 1 Time in 1 Post

    Default

    Trích Nguyên văn bởi ducquany View Post
    Tôi có vài thắc mắc nhờ các bạn chỉ giáo giùm :

    - Ở vùng Chợ Gạo có con sông Bảo Định ,nhưng nhiều người gọi là kinh Bảo Định
    ,kinh hay sông cái nào đúng ?
    Sông, kinh hay rạch Bảo Đinh nối liền sông Vàm Cỏ Tây tại tỉnh lỵ Long An và sông Tiền tỉnh lỵ Định Tường, gần như song song với Quốc Lộ 4, trước năm 1975 trực thuộc quận Bến Tranh (trụ sở quận Bến Tranh vời về Tân Hiệp thời Đệ Nhất Cộng Hoà) :

    Sông Bảo Định

    Sông Bảo Định tục gọi là kênh Vũng Gù, là thủy lộ nối liền rạch Vũng Gù với rạch Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, sông này chỉ là một con mương đào (hào), đến năm 1819 được vua Gia Long cho nạo vét và nó trở thành con kênh đào đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Thời Pháp thuộc, sông Bảo Định lại là con kênh đầu tiên ở Nam Bộ được dùng phương tiện cơ giới là chiếc xáng múc[1] để nâng cấp dòng chảy.

    Kể từ khi hoàn thành, sông Bảo Định luôn giữ một vai trò quan trọng về các mặt: quân sự, thủy lợi, giao thông và cung cấp một phần nước sinh hoạt cho cư dân trong vùng.



    Lịch sử
    Trước khi có sông Bảo Định, tại đây đã có rạch Vũng Gù ở về phía Đông Bắc, chảy từ sông Vàm Cỏ Tây đến xóm Thị Cai; và rạch Mỹ Tho ở về phía Nam, chảy từ sông Tiền tới Bến Tranh (vì bán tranh lợp nhà, nay là chợ Lương Phú thuộc xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo). Khoảng giữa, tức từ xóm Thị Cai đến Bến Tranh thuộc thôn Lương Phú, là ruộng vườn liên tiếp.

    Năm Ất Dậu (1705), vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Vân Trường hầu Nguyễn Cửu Vân đem quân sang bình định đất Chân Lạp. Xong việc, để phòng giữ miền biên cảnh và vùng đất Mỹ Tho, được tạo lập và phồn vinh từ thời Dương Ngạn Địch (một võ tướng nhà Minh chạy sang xin thần phục Đại Việt thời chúa Nguyễn Phúc Tần) đến coi quản, Nguyễn Cửu Vân cho đắp một chiến lũy dài từ Thị Cai đến Bến Tranh. Bên ngoài lũy, ông còn cho đào một hào sâu rộng nối liền rạch Vũng Gù (Tân An) và rạch Mỹ Tho.

    Sau một thời gian dài, con mương (hào) xưa vốn có nhiều khúc quanh co hẹp nhỏ, nay lại bị bùn cỏ tích tụ gây cạn lấp, thuyền lớn đi đến đây phải đợi nước lên đầy mới đi được, nhất là đoạn giáp nước tại chợ Thang Trông. Vì vậy, ngày 28 tháng Giêng (âm lịch) năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long đã sai quan trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong lo việc nạo vét và nới rộng dòng chảy này.

    Theo sử liệu thì ngoài Nguyễn Văn Phong, còn sự trợ giúp của Phó tổng trấn Gia Định thành là Huỳnh Công Lý và vài viên quan khác nữa [2] đã huy động 9.679 dân tráng trong trấn, chia làm ba tốp, thay nhau nạo vét. Dân phu làm thì được cấp cho mỗi người một quan tiền và một vuông gạo để chi dùng trong một tháng.[3]

    Công trình cải tạo con mương được tiến hành trong khoảng hơn ba tháng, khởi công ngày 23 tháng 2 năm 1819 và kết thúc ngày 28 tháng 5 năm 1819. Tính từ chợ Thang Trông qua Hóc Đồng (hay Hóc Đùn) đến bến Mỹ Tho thì chiều dài của kênh là 40 dặm rưỡi (khoảng 14km), rộng trung bình 15 thước ta (độ 6 m) và sâu trung bình 9 thước ta (3,50m).

    Việc tâu lên, vua Gia Long khen ngợi và cho đặt tên là Bảo Định hà (sông Bảo Định), và cho phép Huỳnh Công Lý được dựng bia ghi công ở bên bờ kênh gần chợ Thang Trong. Năm Ất Tỵ (1835), vua Minh Mạng cho đổi tên lại là Trí Tường giang (sông Trí Tường), có tạc bia đá dựng nơi bờ sông thôn Phú Kiết. Đời vua Thiệu Trị, không rõ năm nào, lại đổi tên thành sông An Định. Đến khi quân Pháp sang xâm lấn Việt Nam, họ lại cho đổi tên là Arroyo de la Poste (kênh Bưu điện).

    Tuy nhiên, người dân vẫn quen gọi là sông Bảo Định hay kênh Trạm (vì trên bờ sông có đặt trạm để chuyển công văn của triều Nguyễn và sau nữa là của Pháp).

    Thông tin thêm

    Chỗ sông Bảo Định tiếp giáp với sông Tiền ở thành phố Mỹ Tho
    Theo Trịnh Hoài Đức, thì lúc bấy giờ để có chỗ "đứng nhắm đo đạc địa thế", người ta cho dựng một cái thang cao, tục gọi là thang trông (tên chữ là Vọng Thê), và về sau nó trở thành địa danh: chợ Thang Trông ở xã Phú Kiết thuộc huyện Chợ Gạo[4]. Tuy nhiên, theo monographie thời Pháp thuộc thì cái tên này bắt nguồn từ "cái thang cao để trông chừng địch quân". Và nó (sách chuyên khảo này ghi là Thân Trong hay Thân Trọng) đã có từ thời chúa Nguyễn đánh nhau với quân Tây Sơn, nhưng có người lại cho rằng nó có từ khi giao chiến với quân Thổ (thời Nguyễn Cửu Vân?)[5].
    Đây là một trong số địa bàn hoạt động của nghĩa quân Thủ Khoa Huân, và là thủy lộ chính đã được quân Pháp sử dụng để đưa quân và tàu chiến đến đánh chiếm tỉnh Định Tường năm 1861 (xem trang Pháp đánh chiếm Định Tường). Bởi có vai trò quan trọng về quân sự và nhiều mặt khác nữa, năm 1867 (có tài liệu ghi là năm 1866), thực dân Pháp đã cho dùng chiếc xáng múc để nâng cấp dòng kênh, và nó lại trở thành là con kênh đầu tiên ở Nam Bộ được nạo vét bằng phương tiện cơ giới.
    Sông Bảo Định trở thành bút danh của một nhà thơ đất Nam Bộ, đó là Bảo Định Giang (1919-2005). Ông kể:
    ...Thủ Khoa Huân bị quân Pháp đóng gông chở đi bằng thuyền xuôi dòng Bảo Định đến Mỹ Tịnh An để hành quyết. Với lòng biết ơn sâu sắc, buộc tôi chọn cái tên Bảo Định Giang đặt làm bút danh của mình trước khi bước vào cuộc chiến kháng chiến. Đó là đêm giao thừa năm 1946...[6]


    https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B...%90%E1%BB%8Bnh

  6. #5
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Phố Cũ Trường Xưa
    Tiểu Minh - Germany

    Nhớ lại vào năm 1998, khi phụ thân tôi niên kỷ đã 95, hầu hết bằng hữu cũng như những người quen biết trạc tuổi ông tại chợ Mỹ-Tho đều đã ra nước ngài vào cuối thập niên 70, những người còn ở lại thì hóa ra người thiên cổ từ lâu lắm rồi! Ðược tin ông lâm trọng bệnh mà lần đầu tiên sau đúng hai mươi năm tha hương, tôi về Việt-Nam, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi được sinh ra, lớn lên và rời bỏ ra đi.


    Ðúng 9 giờ sáng, khi cánh cửa phi cơ của hãng hàng không Vietnam-Airlines vừa mở toang, hơi nóng bốc khói như hỏa lò từ bên ngoài tràn vào, khiến tôi cảm thấy khó chịu làm sao ấy, nhưng lòng thầm vui mừng và bồi hồi, vì sắp gặp lại thân nhân sau những tháng năm dài biền biệt xa cách. Tôi là người thứ nhất bước vội vã xuống cầu thang và đặt chân lên phi trường Tân Sơn Nhất.

    Nhiều năm sống trong một nước tiến bộ bậc nhất ở trời Âu, về đây nhìn thấy quang cảnh cùng sinh hoạt nghèo nàn của sân bay quê nhà, mà lòng tôi không khỏi bùi ngùi xót xa …

    Mặc dù khoảng cách chỉ chừng 100 thước, nhưng mọi người đều phải lên xe buýt để được đưa vào bên trong. Khi cánh cửa xe vừa mở, tôi cũng là người đầu tiên bước xuống và đi nhanh vào các trạm kiểm soát thủ tục nhập cảnh. Một anh kiểm soát viên mặc đồ bộ đội, ngồi ở góc bìa trái thấy tôi bước vào một mình, liền nháy mắt cười tươi có vẻ thân thiện với tôi lắm! Trước khi ra đi, tôi đã được những người bạn về trước cho biết nhiều về thủ tục “đầu tiên”, cũng như mãnh lực của đồng đô-la Mỹ hiện nay ở Việt-Nam.

    Tôi liền tiến đến để trình giấy tờ, thoáng thấy ở góc Passport lú cạnh một tờ “giấy xanh” quen thuộc, anh kiểm soát viên vội lật nhanh ra xem và thản nhiên lấy ra để vào một ngăn hộc nhỏ. Vừa bấm máy computer, anh vui vẻ tự nhiên hỏi chuyện bâng quơ, như đã quen biết với tôi từ bao giờ. Phần làm thủ tục nhập cảnh rất nhanh, sau khi đóng vài con dấu, trả lại giấy tờ cho tôi, anh lịch sự chúc tôi nhiều vui vẻ khi gặp lại thân nhân. Tôi vội tiến nhanh ra phía ngoài nhận hành lý chất lên xe và đẩy đến các trạm kiểm soát sau cùng. Ðưa mắt đảo nhanh một loạt, tôi thấy không có nhân viên nào mặt mày “vui vẻ” như anh hồi nãy. Tôi vội rút trong túi áo ra một “lá bùa” đã xếp nhỏ sẵn, để cập phía dưới tờ giấy kê khai hành lý màu vàng, tiến đến trình cho một nữ kiểm soát viên đang ngồi đợi. Tôi nghĩ, dù sao thì phụ nữ cũng dễ dãi hơn đàn ông. Phần kiểm soát hành lý xuyên qua máy quang tuyến rất nhanh chóng và dễ dàng. Quả đúng:

    Trên trời ai đẹp bằng tiên ?
    Dưới đất ai mạnh bằng tiền đô-la ?


    Mừng vui đẩy chiếc xe với hai va-li lớn và một xách tay nhỏ ra ngoài. Tôi đi giữa hai hàng rào dài với cả một rừng người đầy huyên náo đang chăm chú nhìn tôi. Tình thiệt mà nói, hai mươi năm sống khô khan buồn tẻ ở xứ Ðức, lần đầu tiên tôi mới được nhìn thấy đông đảo người Việt-Nam ở tại nước ... Việt-Nam nầy. Bất chợt, tôi có cảm tưởng như mình là một tù binh vừa mới được trao đổi, phóng thích trở về sau cuộc Hội Ðàm Ba-Lê vào đầu năm 1973 ở Lộc-Ninh.

    Thật không có gì vui mừng và xúc động cho bằng, khi được trùng phùng với thân nhân sau hai thập niên dài xa cách. Trên chiếc xe 14 chỗ ngồi có máy lạnh cùng với những người thân trong gia đình, từ phi trường Tân Sơn Nhất về Mỹ-Tho, tôi không ngớt hỏi thăm tình trạng sức khoẻ, cùng cuộc sống hiện tại của tất cả người thân và những người mà ngày xưa tôi quen biết. Qua lăng kính tâm hồn, tôi nhận thấy rõ thân nhân mình đã già đi nhiều lắm bởi lớp bụi thời gian mai một. Tôi mừng vui nói chuyện huyên thuyên không biết mệt, mắt không ngừng nhìn ra quang cảnh phía bên ngoài. Tôi không ngờ Sài-Gòn bây giờ thay đổi quá nhiều.

    Trên các đường phố, nhất là xe gắn máy Honda chạy ngổn ngang đầy đường, bóp còi inh ỏi tưởng chừng như không có luật lệ giao thông gì cả. Thực tình mà nói, tôi đã từng lái xe an toàn gần bốn mươi năm. Ngày xưa, tôi cũng là một tay yêng hùng trên xa lộ khi còn ở quê nhà mà ngày nay, nhìn kiểu cách chạy xe ở Việt-Nam như thế nầy tôi đành phải chào thua. Cảnh buôn bán ở các khu chợ tấp nập, sầm uất còn nhiều hơn trước năm 1975, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy người bán quá nhiều mà người mua lại rất ít. Nhan nhản trên những đường phố lớn, các cao ốc, công ty đồ sộ của nước ngoài đều được kiến trúc mới toanh và đang tiếp tục xây cất.

    Nhà cửa lớn nhỏ thi nhau mọc lên như nấm ở khắp nơi. Dọc theo hai bên quốc lộ 1A về đến Mỹ-Tho, tưởng chừng như không còn khoảng đất nào trống như xưa kia. Ðặc biệt là hàng quán ăn uống nhiều vô số kể ở hai bên ven lộ, mà chẳng thấy có đông khách.

    Ngoài trời nắng cháy oi bức, không khí ô nhiễm, cát bụi tung bay mịt trời mỗi khi có xe chạy qua. Tôi đã từng sống trong một xã hội an lành nề nếp ở trời Âu, về đây nhìn thấy sinh hoạt căng thẳng xô bồ hỗn độn, con người khô cằn hốc hác hình như lúc nào cũng lăng xăng không ổn, để lo chạy gạo hàng ngày, khiến tôi cảm thấy thương xót cho hoàn cảnh vất vả của họ hết biết!

    Mãi mê trò chuyện với thân nhân đủ thứ đề tài xưa nay, thì xe đã chạy về đến ngả ba Trung-Lương. Nơi đây có xây một cái cổng khá cao, nhìn thấy bốn chữ to lớn THÀNH-PHỐ MỸ-THO thân thương quen thuộc dắt ngang phía trên, tâm tư tôi như sống dậy cả một khung trời kỷ niệm xa xưa mà mình đã đánh mất từ lâu. Con đường dẫn vào thành phố, nhà cửa, tiệm buôn, quán cốc được xây cất san sát nhau tưởng chừng như muốn trồi ra mặt lộ, khiến tôi không cách nào nhận dạng được đâu là đâu, mặc dù ngày xưa tôi là “thổ địa” của thành phố nhiều cây trái nầy.

    Ði đâu cũng thấy xe gắn máy và dòng người náo nhiệt đầy đường. Bến Xe Mới nay đã dời ra trên Bót Số 8 một đổi. Còn giếng nước rộng lớn hơn, trong hai giếng nước nằm song song phía gần Bến Xe Mới ngày xưa, nay đã biến đổi thành một công viên thật rộng lớn khang trang. Ðường lộ hai bên được tráng nhựa và có xây những cột đèn cao trông rất đẹp mắt. Qua sự giải thích của thân nhân, từ ngạc nhiên nầy đến ngỡ ngàng kia, khi tôi được nhìn lại bộ mặt mới của thành phố xưa thân yêu, bỗng tôi có cảm tưởng như mình là một lữ khách từ phương xa mới tới.

    Khi xe quẹo phải qua đại lộ Hùng-Vương, để sau đó quanh trái sang đường Lê Ðại-Hành xuống chợ về nhà, thì xe không thể chạy nhanh được nữa vì nhằm lúc tan học buổi trưa. Học sinh từ các ngôi trường ở khu vực nầy đổ xô ra về đầy đường, nào xe gắn máy, xe đạp cùng nhóm học sinh đi bộ. Bên phải là trường Lê Ngọc-Hân với bao tà áo dài thướt tha tung bay trong gió. Có điều các cô bây giờ ít để tóc thề và đội nón lá hơn trước. Dóc dáng nữ sinh ngày nay hình như hơi nhỏ nhắn và trông kém duyên dáng hơn, so với thế hệ các bậc đàn chị năm xưa. Khi xe chạy chầm chậm đến trước cổng trường Nguyễn Ðình-Chiểu thì đột nhiên ngừng hẳn lại, hỏi ra thì được biết phía trước ngả tư vừa mới xãy ra tai nạn xe cộ.

    Ngồi trong xe nhìn từng đoàn học sinh từ trong trường Nguyễn Ðình-Chiểu đổ xô ra về, mà lòng tôi cảm thấy ngập tràn xao xuyến bồi hồi. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ ... Ðã lâu lắm rồi, hôm nay tôi mới được nhìn thấy lại ngôi trường thân ái ngày xưa. Qua bao thế sự thăng trầm, vật đổi sao dời, tôi thầm mừng vui khi được thấy cổng trường ra vào với ba ngăn rộng lớn vẫn còn đông đảo học sinh, hai gian nhà ở hai bên hình như đã được tu sửa lại thì phải. Sáu chữ lớn TRUONG TRUNG HOC NGUYEN ÐINH CHIEU không có bỏ dấu làm bằng xi măng dựng ở phía trên cổng vẫn còn đỏ màu nước sơn.

    Công tâm mà nói, trong những trường tôi đã theo học qua khi còn ở quê nhà, chỉ có trường Trung Học Nguyễn Ðình-Chiểu là tôi ái mộ nhất. Giờ đây, nơi xứ lạnh Âu-Châu, những lúc ngồi bên song cửa nhìn tuyết rơi ngoài trời, hồi tưởng lại quá khứ xa xưa một thời áo trắng của tuổi học trò, lòng tôi vẫn còn cảm thấy luyến nhớ ngôi trường mà ngày xưa mình đã theo học, trường trung học công lập Nguyễn Ðình-Chiểu.

    Nhớ về phố cũ trường xưa
    Bao nhiêu kỷ niệm vẫn chưa phai mờ.


    Bài viết nầy đã được đăng trong Bản Tin tháng 2-2005, của Hội Ái-Hữu
    Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho ở Úc-Châu.

  7. #6
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Post Lược Sử Trường Trung Học Lê Ngọc Hân

    Lược Sử Trường Trung Học
    Lê Ngọc Hân


    Hoài Văn


    Trường Trung Học Lê Ngọc Hân

    Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” còn tồn tại khá lâu đây đó trên thế giới, cho nên ngày xưa số thiếu nữ được đi học rất hạn chế. Cách nay không đầy một thế kỷ ở Việt Nam chưa có trường dành riêng cho nữ sinh, ngay cả ở cấp tiểu học.

    Giở trang lịch sử giáo dục Việt Nam, nói riêng ở Nam kỳ, sau ngày người Pháp chiếm đóng, ta thấy các ngôi trường đầu tiên họ thành lập đều dành cho nam sinh. Tính theo thời gian:

    1.- Trường Trung học D’Adran (Collège D’Adran) thành lập vào năm 1874 dành cho con em người Pháp và gia đình người công giáo.

    2.- Trường Collège Indigène hay Ttrường Trung học bản xứ xây cất cũng vào năm 1874 sau đổi thành Trung học Chasseloup Laubat. Năm 1954 đổi thành trường Trung học Jean Jacques Rousseau. Năm 1967 lại đổi tên Trung học Lê Quý Đôn và bây giờ vẫn là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn.

    3.- Trường Collège de Mỹ Tho hay là Trung học Mỹ Tho thành lập năm 1879 tại Mỹ Tho, sau đổi lại Collège Le Myre de Villers, phát triển thành Lycée Nguyễn Đình Chiểu, sau đó là Trung học Nguyễn Đình Chiểu, hiện nay là trường Trung Học Phổ Thông (THPT) Nguyễn Đình Chiểu.

    4.- Trường Collège de Cần Thơ hay là Trung học Cần Thơ thành lập năm 1917 tại Cần Thơ, sau đổi lại là Trung học Phan Thanh Giản nay là trường THPT. Châu Văn Liêm.

    5.- Trường Lycée Pétrus Ký được thành lập vào năm 1927 tại Sài Gòn và hiện nay là Trường THPT Lê Hồng Phong.
    Những trường nầy chỉ thu nhận học sinh nam nếu có nữ thì chỉ là những con số không đáng kể. Vậy khi nào ở Nam kỳ mới có trường trung học dành riêng cho nữ sinh?

    BỐN TRƯỜNG TRUNG HỌC NỮ ĐẦU TIÊN MIỀN NAM

    1.- Tính theo thời gian, trường Trung học đầu tiên dành riêng cho nữ sinh ở Nam Kỳ là Trường Nữ Sinh Áo Tím (École des jeunes filles) tại Sài Gòn xây cất từ năm 1913 và khai giảng vào năm 1915. Vào năm 1953 trường nầy được đổi tên là trường Nữ Trung học Gia Long giờ là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai.

    2.- Ngôi trường thứ hai là trường Nữ Trung học Marie Curie, xây dựng năm 1915 tị Sài Gòn và khai giảng năm 1918 thu nhận nữ sinh người Pháp, hay có quốc tịch Pháp. Thoạt đầu trường mang tên Ecole Primaire Supérieure des Jeunes Filles tức là Trường Nữ Cao đẳng Tiểu học. Bây giờ là trường THPT Marie Curie..

    3.- Ngôi trường trung học nữ thứ ba là trường Trung học Trưng Vương vẫn ở Sài Gòn ra đời vào năm 1955 tiếp nhận nữ sinh từ Bắc vào Nam. Bây giờ là Trường THPT Trưng Vương.

    4.-Ngôi trường trung học nữ thứ tư là trường Trung học Lê Ngọc Hân xây dựng vào năm 1957 tại Mỹ Tho. Lúc đầu trường mang tên Trường Nữ Trung học Mỹ Tho sau đó đổi lại là Trường Trung Học Lê Ngọc Hân giờ là Trường Trung học Cơ sở (THCS) Lê Ngọc Hân.

    TRƯỜNG TRUNG HỌC LÊ NGỌC HÂN

    1. Tầm vóc
    Trường Nữ Trung học Mỹ Tho rồi sau đó đổi thành trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (xin nói về tên trường ở đoạn sau) được thành lập với một vai trò quan trọng là thu nhận học sinh nữ của các tỉnh Định Tường, Gò Công, Bến Tre, Tân An nối gót đàn anh là trường Nguyễn Đình Chiểu trước kia cũng nhận học sinh một số tỉnh miền Trung Tây Nam Bộ..

    Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân còn có một giá trị khá dày trong lịch sử giáo dục, như nói ở trên, là một ngôi trường nữ trung học hàng thứ tư được thành lập, trước hơn trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ, trước hơn trường Nữ Trung học Lê Văn Duyệt ở Gia Định…
    Còn nếu tính theo tầm vóc hệ giáo dục thì trường Lê Ngọc Hân ngay từ ngày thành lập đã là ngôi trường Trung học có chương trình giáo dục hệ Tú Tài, một trường Trung học Đệ Nhị cấp(Enseignement secondaire) một lycée đàng hoàng tức là hệ THPT, chớ không phải là hệ THCS như bây giờ.

    2. Vị trí xây cất của trường
    Ngày xưa khi quy hoạch chương trình thiết kế đô thị thành phố Mỹ Tho, người Pháp đã ưu tiên dành cho giáo dục 2 thửa đất rộng lớn tại đại lộ Hùng Vương, ngay giũa trung tâm thành phố. Đó là khu tứ giác Hùng Vương-Lê Đại Hành-Nam kỳ Khỡi nghĩa -Ngô Quyền-Hùng Vương dành cho giáo dục Tiểu học. Khu tứ giác đối diện dành cho giáo dục Trung học.

    Khi có nhu cầu thành lập một trường trung học dành cho nữ sinh, nơi khu đất dành cho trung học(NĐC) không còn chỗ. Do đó có một sự dàn xếp và chuyển nhượng của chính quyền giữa hai bên chủ quản Trung học và Tiểu học để cho ngôi trường trung học nữ được xây dựng bên phần đất của Tiểu hoc.

    Do đó, ngôi Trường Lê Ngọc Hân được xây cất nơi phần đất hiện hữu thuộc về Tiểu học và vị trí nằm sát cạnh Ty Tiểu học xưa, sau đó là Sở Học chánh bây giờ là Sở Giáo dục và Đào tạo.

    3. Công cuộc xây cất
    Cơ chế hành chánh lúc đó đặt các trường học theo hệ thống ngang đối với cấp Tỉnh (Định Tường) về hành chánh, còn hệ thống dọc đối với cấp Bộ (Giáo dục) về ngân sách, về tô chức về quản lý nhân viên và nhất là về chuyên môn. Do vậy, trường Lê Ngọc Hân được xây cất là do chương trình của Bộ Giáo Dục.

    Ngân sách xây cất một phần do ngân sách nhà nước, một phần do quỹ viện trợ nước ngoài. Lúc bấy giờ cơ quan thụ hưởng chịu trách nhiệm xây cất lâm thời là do Ban Giám đốc Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu đứng đầu là thầy Phạm Văn Lược, Hiệu trưởng.

    Khởi công năm 1957 không có tài liệu để có ngày chính xác.

    Hoàn tất công tác và nhận học sinh vào ngày đầu khai giảng năm học 1957- 1958 tức là 26.8.1957 ngày mà nhà trường lấy làm ngày kỷ niệm.

    Qui mô ban đầu: Ngay đợt đầu xây cất đã có 2 dãy lầu, một trệt một lầu. Dãy tiền diện gồm 14 phòng day ra đường Ngô Quyền. Dãy thứ hai gồm 10 phòng nằm hơi chếch về phía sau của dãy trước sát bên Ty Tiểu học sau là Sở Học chánh. Dãy trước dùng làm văn phòng và phòng học cho các lớp đệ tứ đến đệ nhị. Những phòng của dãy sau dành hết cho phòng học các lớp còn lại.

    4. Ngày nhận học sinh đầu tiên
    Do nhu cầu có một một trường trung học nữ riêng biệt nên ngày đầu năm học 1957-1958, trường mở cửa chỉ để đón nhận học sinh nữ từ bên Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu vốn là trường hỗn hợp (mixte) đưa sang. Hôm ấy tất cả số nữ sinh của trường Nguyễn Đình Chiểu đều được đưa qua hết bên trường Lê Ngọc Hân chỉ trừ số nữ sinh học lớp đệ nhị C, ban văn chương, vẫn phải ở lại Nguyễn Đình Chiểu, vì sĩ số ban nầy không đủ để thành lập một lớp bên trường mới.

    [/B]5. Ban Giám đốc[B]
    Thoạt đầu trường Lê Ngọc Hân được xem như là chi nhánh của trường Nguyễn Đình Chiểu nên từ công việc hành chánh, nhân viên, kế toán đến học vụ, giảng huấn, giám thị kể cả thư viện và phòng thí nghiệm đều do trường Nguyễn Đình Chiểu hoặc chi viện hoặc cho mượn để chờ Bộ Giáo dục trực tiếp điều hành. Từ bên trường Nguyễn Đinh Chiểu, chính thầy Phạm Văn Lược, Hiệu trưởng, thầy Lê Văn Chí. Tổng giám thị, thầy Võ Văn Định Giám học kể cả thầy Dương Văn Thông phụ trách kế toán cũng như thầy Đặng Văn Nữ phụ trách học vụ, thầy Trần Văn Kế phụ trách phòng thí nghiệm….ngày ngày cũng phải qua yểm trợ cho công việc được trôi chảy.

    Mãi đến năm học 1960-1961, Bộ Giáo duc mới cử bà Nguyễn Như Hằng, một giáo sư đệ nhị cấp về đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng cùng với nhân viên cho các bộ phận khác của trường.

    TÊN TRƯỜNG

    Khi Bà Nguyễn Như Hằng về làm Hiệu trưởng, trường chưa có tên nên có một cuộc họp giữa ban Giám đốc, giáo sư và hội Phụ huynh học sinh để chọn tên. Vì là trường nữ nên có nêu ba danh nhân lịch sử nữ là: Trưng Vương, Bà Triệu, Âu Cơ. Trưng Vương thì lúc bấy giờ đã là tên của trường Nữ Tiểu học rồi. Bà Triệu thì cũng có đâu đó rồi. Âu Cơ được chọn nhưng trong một thời gian ngắn vì nghe giống trường mẫu giáo quá nên huỷ bỏ. Cuối cùng tên trường là Trường Nữ Trung Học Mỹ Tho.

    Mãi đến năm 1966 việc đặt tên lại cho trường dưới thời kỳ bà Nguyễn Diệu Thông làm Hiệu trưởng được khởi xướng trở lại. Và trường chính thức mang tên Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân tồn tại đến ngày 1.5.1975

    Trường bắt đầu hoạt động và nhanh chóng góp mặt cùng trường Nam Nguyễn Đình Chiểu giảng dạy chương trình tú tài (Enseignement secondaire) đúng phong cách của một Lycée nữ (Trung học Cấp III) trong tỉnh nhà.

    Lúc đầu các lớp Ban C (văn chương), còn gởi bên trường Nguyễn Đình Chiểu, nay thì trường đủ điều kiện để đảm nhận lại. Trường vẫn chia ra hai cấp: đệ nhất cấp (ĐIC) và đệ nhị cấp (ĐIIC).

    Sau một thời gian ngắn, trường đã có đầy đủ các lớp cho các môn Toán, Khoa học Tự nhiên, Văn chương (A, B, C) để học sinh có đủ điều kiện và trình độ ra thi tú tài ngang ngửa với tất cả nam sinh trong toàn quốc.

    Trường nguyên thủy là một trường Nữ Trung học, với tên Lê Ngọc Hân, nguyên là Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một phụ nữ tài sắc vẹn toàn, thật sự đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng người nhất là trong giới nữ sinh, đã từng một thời vang bóng trong hệ thống giáo dục Miền Nam và mãi đến sau nầy.

    NHỮNG VỊ HIỆU TRƯỞNG trước 1975

    -Bà Nguyễn Như Hằng
    -Bà Dương Thị Lớn
    -Bà Nguyễn Diệu Thông


    Hoài Văn

    http://banhoc12c6mytho.blogspot.com/...-ngoc-han.html

Trang 1/2 12 cuốicuối

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •