8. Nói một cách tổng quát, không nơi đâu kinh nghiệm được phổ biến cấp tốc như trong tù.

Những người tù tự xem như cùng một giai cấp, giai cấp bị trị, phải chịu đựng sự trừng phạt của một giai cấp khác, giai cấp thống trị. Vì thế, trừ lý do đặc biệt, họ đối xử với nhau rất tận tình, thương yêu nhau, chỉ dạy lẫn nhau những kinh nghiệm ngục tù, những kinh nghiệm về tra tấn để làm giảm bớt cho nhau đau đớn về thể chất cũng như tinh thần. Vì thế, sau trận đòn tra tấn, có tù nhân bò về đến phòng giam hay xà-lim của mình, sống dở chết dở, cũng cố lấy hết sức tàn thì thầm vào tai kẻ cùng đến lượt lên phòng lấy cung chịu thử thách, mấy lời dặn dò hay " mách nước " trước. Rồi mới chịu ngã xuống mê man bất tỉnh.

Trong hoàn cảnh eo hẹp của nhà tù, kinh nghiệm nào cũng thật quý giá. Một vài loại lá cây có dược tính chữa đòn, chữa thương, thường được tù nhân hái lúc lao tác trong rừng, cất đi dự phòng cho những trường hợp cần dùng. Muối, nước tiểu, " dáy " tai (bôi lên chữa đinh râu), giấy vỏ bao diêm (nơi có diêm sinh), thuốc lào và nước điếu thuốc lào (chữa ghẻ hờm)... đều được sử dụng hợp thời hợp bệnh.

Rồi thậm chí cả đến cách thức chữa thương, chữa gân, khớp xương, chữa đòn bị tra tấn cũng được truyền dạy cho nhau chẳng khác chi những phương thuốc ngoại khoa hay gia truyền. Trong trại giam, thiếu gì tù nhân chết vì bệnh chấy rận nên cách diệt trừ chấy rận cho hiệu quả rất cần thiết. Vì vậy, không ai lấy làm lạ khi họ " truyền " cho nhau cách thức giết rận bằng kiến bò nhọt.

Tổng tấn công chấy rận bằng kiến bò nhọt rất có hiệu quả nhưng muốn bắt kiến bò nhọt, người tù phải chờ dịp thuận tiện. Loại kiến này rất thích chất béo, người ta bỏ miếng mỡ vào trong lòng ống tre rồi đặt bên ổ kiến bò nhọt. Đánh hơi thấy mùi mỡ, kiến từ trong ổ kéo ra, ùn ùn chui vào ống, tha mồi. Khi chúng đã chui vào khá nhiều, người tù dùng lá hoặc một khúc cây nút thật kín ống tre, nhốt đàn kiến bò nhọt bên trong, đem về.

Bữa đó, 982 lùng bắt một con thằn lằn trong bụi cây, ngắt đuôi đập dập ra làm mồi nhử kiến. Đuôi thằn lằn cũng như đuôi cắc kè là bộ phận nhiều mỡ nhất trong cơ thể, dùng để nhử bò nhọt rất hiệu quả.

Theo dõi từ đầu vụ bắt kiến bò nhọt, Toàn thấy cũng hay hay. 982 nút chặt ống tre đựng kiến rồi dựng bên một tảng đá cạnh nơi anh ta đặt đồ nghề với chiếc nón lá gồi mang từ Việt Bắc về. Lúc đó, mọi người còn ngồi nghỉ tản mác dưới bóng cây hay dựa lưng vào vách đá thiu thiu ngủ. Hai tên cảnh vệ đã ngưng đánh cờ, mỗi tên quay nhìn một phía canh tù. Giám thị leo lên ngồi trên một tảng đá cao hơn đầu người, phì phèo điếu thuốc lá một cách kênh kiệu đáng ghét. Làn khói thơm phức thoảng lan rộng, nhiều anh tù thèm chẩy rãi, liếc trộm hoài.

Toàn không thèm thuốc lá nhưng đói. Trong thời gian bị tù, anh vẫn bị thói quen ăn bữa trưa dằn vặt, bụng đói như cào và " sôi " òm ọp, cách cả thước cũng nghe " sấm động " trong bụng. Để quên đói, anh bước sâu vào sau vách núi vài chục bước làm như cần tống các " chất thừa " trong bụng ra ngoài!

Sự thật, anh " đói meo " vì có gì trong bụng đâu. Đã có lần làm củi rồi đói quá, Toàn nghĩ lẩn thẩn, phì cười một mình:
- Giá mà cứ một tuần lễ đi cầu một lần, có lẽ bụng cũng bớt... trống rỗng! Sau đó, anh suy nghĩ rồi tự nhiếc mắng thầm: Tinh thần mình sa sút quá! Không chừng cảnh khổ trong trại giam làm mình mất trí, lẩn thẩn rồi trở nên điên khùng cũng nên!

Toàn bỗng đứng khựng lại. Có tiếng sột soạt rất khẽ trên cành cây, chỉ những người quen làm việc trong rừng mới nhận thấy. Rồi ngay phía trên đỉnh đầu anh, có tiếng kêu của cắc kè nhưng là tiếng kêu thất thanh, đặc biệt sợ hãi. Nhờ trực giác bén nhạy, Toàn lật đật nhẩy lùi lại dăm bước, đề phòng rồi ngửng lên nhìn nơi phát ra tiếng " Cắc kè... Cắc kè ".

Ra trên cành cao đang xẩy ra một vụ xung đột giữa một con cắc kè và con rắn đen dài tới hơn một thước. Con cắc kè khá lớn, mình bằng cổ tay đứa nhỏ, đang chống cự một cách tuyệt vọng với con rắn đen. Con rắn quấn mình vào cành cây, tuồn dần đến trước con cắc kè, chụp lấy địch thủ. Con cắc kè nhẩy thoát sang cành kế bên, kêu rời rạc vài tiếng rồi rơi xuống đất.

Con rắn tấn công trượt cũng rớt theo, bỏ mồi bò vào bụi rậm. Còn cắc kè ngất ngư loạng choạng giây lát rồi chạy về phía có vách đá.

Một ý nghĩ thoáng qua trong óc, Toàn quơ lẹ một cành cây đập trúng cón cắc kè khiến nó nẩy lên, toàn thân run bần bậ rồi nằm ngay đơ. Toàn đè cành cây lên đầu cắc kè nhìn quanh để phòng con rắn đen quay lại. Không thấy gì, anh ta đập thêm một roi lên mình cắc kè rồi lật nó nằm ngửa trên mặt đất.
- Đánh được rồi phải không? Hay quá!

982 mừng rỡ nói tiếp:
- Ngon lắm! Béo lắm! Thịt nó lại còn chữa được bệnh nữa.

Toàn tò mò hỏi:
- Chữa bệnh gì? Mà thịt nó ăn có độc không?

Toàn vốn nhát và chưa ăn thịt cắc kè lần nào. Anh chỉ thấy người ta ngâm cắc kè trong rượu thuốc chứ chưa thấy làm thịt ăn bao giờ!
- Chữa " bệnh hen " chứ còn bệnh gì nữa!

Toàn mừng quýnh nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên. Anh chớm mắc bệnh hen từ tháng nay; nếu đúng như vậy, thật là dịp may hiếm có:
- Anh đã ăn thịt cắc kè lần nào chưa?
- Nhiều lần!

- Ăn bao giờ?
- Mấy tháng trước, khi còn ở Việt Bắc. Ngon lắm, bổ lắm!

Toàn thân mật cười hỏi:
- Biết làm thịt không?
- Biết.

Toàn ngẫm nghĩ rồi lại hỏi:
- Trong cơ thể cắc kè, có bộ phận nào độc, ăn nguy hiểm chết người như gan cóc không?
- Không! Vả lại, cóc còn ăn được, huống hồ là cắc kè.

Nghĩ đến cóc, Toàn lại sợ, mất hết nhuệ khí. Nhưng khi anh nhớ trước đây, tù nhân Pháp đã nướng cóc ăn vì đói quá mà không nghe nói có người chết thì ăn thịt cắc kè chắc cũng không sao.

982 ngó quanh giây lát rồi hỏi:
- Có còn thì giờ không? Được nghỉ bao nhiêu lâu nữa, anh Trưởng toán?
- Chừng 20 phút là nhiều.

- Có thể kịp làm thịt cắc kè.

Nói rồi, 982 bảo Toàn cầm dao trong khi y lật đật vun lá khô và ít cành cây để dúm lửa.

982 rạch một đường dao từ trán cắc kè xuống đến khấu đuôi rồi lột như lột da ếch, rất gọn gàng. Thịt cắc kè hồng lợt như thịt ếch, Toàn thấy mà thèm. Rồi 982 mổ bụng con vật, moi hết ruột gan ra liệng bỏ, dùng hai ngón tay nắn khúc đuôi rồi nhìn Toàn gật gù nói, môi bĩu dài ra:
- Béo quá, mỡ không!

Sau khi chặt " mõm " cắc kè và bốn chân, 982 dùng một cây que nhỏ xiên qua mình con vật, đưa đi đưa lại nướng trên ngọn lửa nổ lách tách. 982 hỏi Toàn:
- Có khói, giám thị trông thấy có sao không?

Toàn suy nghĩ, ngập ngừng:
- Thôi! Để xin phép giám thị cho chắc chắn...

Vừa đi được mấy bước, đã nghe một hồi còi ré lên: hết giờ nghỉ!

Anh thở dài quay lại, thẫn thờ bảo 982:
- Hết giờ! Dập tắt lửa đi. Trở lại làm việc!

982 gập đôi con cắc kè dấu trong nón lá, lấy mấy chiếc lá đậy thật kín.

Mọi người hăm hở tiếp tục công việc. Tiếng chặt cây vang đội, tiếng hò kéo đổ cây khiến khu rừng náo nhiệt trở lại. Mấy người trong toán của Toàn bàn nhau xếp số củi thước đã chặt trước khi sửa soạn từng bó cho mỗi người gánh về.

Đầu óc Toàn vẫn vẩn vơ nghĩ đến con cắc kè. Anh luôn miệng tiếc rẻ: chỉ sớm mươi lăm phút nữa, anh và 982 đã đủ thì giờ nướng chín con cắc kè. Nếu không tiện ăn ngay thì mang về Trại, đến bữa ăn đem thịt cắc kè béo ngậy thơm phức ra chấm với muối ớt thì " ngon quên chết ". Tiếc quá! Tiếc quá! Toàn lại càng thấy đói, ao ước lát nữa đây trên con đường về dài mười mấy cây số, kiếm trộm được trái cây gì bỏ vào miệng thì sướng quá! Cái gì chớ ăn lén giám thị, tù có cả trăm mánh lới khác nhau. Đã có lần, Toàn ăn hết nửa củ khoai sống trong khi ngụp lặn dưới nước.

Nghĩ đến bữa cơm chiều hôm nay có chất thịt cắc kè vừa béo lại vừa chữa được bệnh hen, Toàn đã thấy ngon miệng quá chừng.

Cảnh vệ xách súng đi đi lại lại, ngó đám này, trông chừng đám kia. Toàn nhìn mặt trời để đoán giờ giấc. Phía xa, trên lưng chừng sườn núi, đã có sương mù loáng thoáng.

Trời sắp về chiều. Mấy căn nhà sàn ở chân núi xa xa lẫn trong sương hồi nào. Toàn khẽ hối anh em:
- Sắp tới giờ rồi. Anh em nhanh tay lên cho kịp.

Năm người đã xếp xong số củi thước lưu lại trong rừng theo tiêu chuẩn mới của trại giam. Và bắt đầu bó gánh củi lại từng bó, đường kính hai gang tay. Một người chạy đi chặt thêm dây leo và mây buộc củi. Toàn lựa năm cành cây thẳng và vừa cỡ, làm đòn gánh cho cả bọn.

Ai nấy đều nhanh chân nhanh tay cho kịp. Công việc nhộn nhịp hẳn lên. Những " dây " củi được xếp thành một hàng dài sát với vách núi, đống nọ cách đống kia một khe nhỏ làm giới hạn cho mỗi toán. Giám thị lần lượt kiểm soát kết quả công việc của tù nhân. Bữa nay, có mấy đống củi không hợp lệ, Trưởng toán cùng toán viên phải làm gấp, xếp thêm một, hai lượt củi nữa trên đống củi cho đủ. Cố nhiên, Trưởng toán cùng ba toán viên làm không đúng thể lệ bị ghi tên vào sổ đen. Ba lần thiếu thiện chí trong công việc sẽ bị phạt, nặng nhẹ tùy theo đề nghị của gáim thị và quyết định của ban Quản trị trại.

Giám thị cầm cây roi, vừa đi vừa gõ lên những đống củi mà y cho là hợp lệ. Toàn hồi hộp chờ cho hắn gõ một cái vào đống củi của toán anh rồi mới quay lại liếc nhìn mấy người trong toán đang bó củi gánh mà tủm tỉm cười. Thế là xong một phần công tác.

Phần thứ hai nặng nhọc và dai dẳng hơn khiến nhiều tù nhân bị... gục vì mệt và đói, nhất là đói. Đó là gánh 50 ký củi trên quãng đường 14, 15 cây số.

Không có thì giờ nói chuyện vì ai cũng chăm chú làm cho mau rồi. Những bó củi được xếp dựng đứng, có dây nâu hay dây mây buộc chặt hai đầu và giữa bó. Mỗi người tù có một cành cây thẳng hai đầu vạt nhọn, dùng làm đòn gánh. Họ dùng sức xiên thẳng cây đòn ngập vào hai bó củi, gánh thử ước lượng nặng nhẹ thăng bằng. Rồi đặt xuống đất, chờ lệnh của giám thị là lên đường về trại.

Gió lạnh từ trong núi đá bắt đầu thổi ra ào ào. Mưa xuân ngớt từ hồi sáng, lại dăng dăng mờ mịt xóa nhòa hết các ngọn cây cao.

Ngọn núi sau rừng biến mất trong làn mưa bụi. Con đường đất đỏ sắp phải đi qua trở nên ướt át và trơn láng. Trông con đường về, anh nào anh nấy đều ngán thầm.

Toán của Toàn đã chuẩn bị đâu vào đấy, từ nẫy chỉ còn chờ lệnh của giám thị là lên đường. Những cành lá rơi rớt rải rác và những mẩu cây vụn vặt được thu vào một đống cho gọn gàng sạch sẽ. Tù gọi công việc đó là " thu dọn chiến trường ". Toàn đã dùng lá bọc kín con cắc kè buộc lại rồi trịnh trọng treo vào đòn gánh. Chiều nay, có miếng thịt thì sướng " thần khẩu " biết chừng nào! Từ lúc 982 nói thịt cắc kè " béo ngậy ", hai phẩm từ này cứ " xoáy " vào óc Toàn. Đã lâu lắm, từ khi bị đưa vào Trại giam Đầm Đùn, Toàn chưa được " thưởng thức " một miếng thịt nào " béo ngậy ". Thèm thật là thèm! Toàn nuốt ừng ực, nước miếng ứ đầy miệng hoài.

982 lại gần Toàn, thì thầm:
- Coi chừng nhé!
- Coi chừng cái gì?

- Cột cẩn thận, coi chừng lúng túng lại rớt mất thì tiếc lắm đó.

Toàn tủm tỉm cười, liếc nhìn gói lá bọc con cắc kè treo lủng lẳng ở đòn gánh, trả lời vẻ hóm hỉnh:
- Kiến trong miệng chén còn bò đi đâu! Có rớt vào miệng thì có!

982 cười vơ vẩn:
- Biết đâu đó!

Một hồi còi ré lên. Đó là lệnh lên đường trở về trại của giám thị. Đám đông ào ào chuyển động. Rồi tiếng đòn cây xiên sần sật vào bó củi, tiếng gọi nhau, tiếng nói xì xào, tiếng bước chân, tiếng nguyền rủa gánh nặng, phàn nàn trời mưa...

Nhưng tại hàng cuối cùng của đoàn tù gánh củi, bỗng có mấy tiếng nói lớn vượt hẳn lên tiếng xì xào chung. Toàn vẫn giữ gánh củi trên vai, quay lại ngó. Đã có mấy người hạ gánh xuống, vây quanh và cúi ngó vật gì trên mặt đất mà Toàn nhìn không thấy, đoán không ra.

Giám thị xăm xăm chạy lại, mặt bừng bừng sát khí như mỗi khi y không vừa ý. Đám đông rãn rộng và nứt ra một lối để giám thị bước vào. Toàn hạ gánh xuống, tò mò lại gần.

Thì ra có hai người té xỉu. Một người đang cố đứng lên nhưng không nổi, mặt xanh lét như trúng gió. Còn người kia, mồ hôi vã ra đầy mặt, đã ngồi lên được và đang lau mồ hôi bằng một mảnh giẻ rách, mệt nhọc như người ốm nặng. Toàn thầm nghĩ không hiểu trại viên này sẽ làm thế nào đặng bò về trại với gánh củi 50 ký trên vai. Nếu lâm cảnh này Toàn cầm chắc cái chết.

Giám-thị bỗng nổi giận, chỉ ngọn roi vào mặt một trong hai người đang nhăn nhó và quát:
- Thằng kia! Có đứng lên không?
- Dạ, dạ...

Người này lại quệt mồ hôi trên mặt, chống tay xuống đất, lấy sức cố đứng nhổm lên. Đứng được rồi, y mới bước tới gần gánh củi bỗng lại dừng, đầu chúi xuống giây lát, thốt nhiên y chạy quanh gánh củi mấy vòng mà không té, chẳng khác con gà bị liệng gạch trúng đầu choáng óc chạy vòng vòng quanh sân. Sau cùng, y vịn vào một người gần đó, rán đứng ngay ngắn. Giám thị cũng ngạc nhiên chưa kịp la, y đã chậm rãi nói sau một hơi thở ra thật dài:
- Những khi quá mệt, tôi thường bị " động kinh ". (1)

Giám thị không cần biết lý do đã khiến tù nhân bị té xỉu, quát lớn:
- Muốn gánh củi về trại hay muốn " nằm ngủ luôn " trong rừng?

" Ngủ luôn " có nghĩa là ngủ một giấc vĩnh viễn. Người tù sợ quá, chắp hai tay lễ " sống " giám thị. Tên này lại mắng:
- Thôi! Vẫn chưa bỏ được những cử chỉ phong kiến, lạc hậu.

Người thứ hai cũng đã gắng gượng đứng lên. Anh ta nhăn nhó ôm bụng rồi trong lúc mọi người không ngờ, anh ta nhìn quanh quất như tìm kiếm vật gì rồi chạy lại bên vách đá. Nơi đây có một mô đất, cỏ non mọc mơn mởn nhờ mấy trận mưa xuân. Người tù xoè bàn tay ra nắm lấy một búi cỏ, bứt lên một nắm ngọn cỏ xanh trong tay. Y ngần ngừ một giây rồi nhét luôn nắm cỏ vào miệng trệu trạo nhai, như ăn rau ghém.

Lúc anh ta loạng choạng trở lại bên gánh củi, chỉ còn vài lá cỏ thò ra ở miệng. Rồi thì nhai hết. Người tù đã đánh lừa được cơn đói và nhấc gánh lên vai như mọi người. Toàn ngây người nghĩ thầm chua chát:
- Tù nhân trở thành một " loài ăn cỏ " như trâu bò. Nhưng coi chừng! Ăn cỏ là mất lập trường, vi phạm quan điểm của nhân dân. Lại chết nữa!

Anh lan man nghĩ trong khi vẫn đều đều bước theo người đi trước: " Nếu người ăn cỏ mà sống được, may ra tù nhân cũng bớt đói ".

Đoàn gánh củi đi thành một hàng dài trên con đường ngoằn ngoèo đưa họ trở về nơi có bữa cơm chiều. Đi được một thôi, Toàn nhận ra anh đã tụt xuống hàng cuối cùng. Anh đổi vai ba lần và bắt đầu cảm thấy ê ẩm cả hai vai. Có khúc đường trơn như mỡ khiến anh suýt té nhiều lần.

Gió thổi từng cơn dài trên quãng đường vắng mà anh không thấy lạnh, hai bên trán còn xâm xấp mồ hôi. Đường càng đi càng trơn. Toàn tránh một vũng nước trượt chân một cái, chỉ kịp thấy thoáng một khoảng trời mờ mịt mưa bay trắng xoá thì đã nằm lăn kềnh trên vũng nước, gánh củi đổ nghiêng về một bên trên đám cỏ.

Toàn chửi thề một câu tục tĩu, lóp ngóp bò dậy. Cả lưng áo bị lấm bùn be bét. Anh cởi áo ra chùi lên ngọn cỏ ướt đẫm mưa xuân cho trôi bớt bùn và nước dơ. Sau đó, anh dựng lại hai bó củi, xiên đòn gánh cho chắc chắn, lặng nhìn về phía trước, thấy con đường dài dằng dặc mà sợ.

Mưa xuân vẫn không ngớt hạt. Một làn bụi nước bay mờ mịt. Phía trước, Toàn chỉ còn thấy mấy chục người loáng thoáng đi trong mưa rơi. Toàn bỗng nhớ đến mấy bức tranh thuỷ mạc cổ của người Tàu treo tại phòng khách nhà anh Hải ở Hải Dương. Trong bốn bức tranh, có bức vẽ một người tiều phu gánh củi, lom khom bước trên tuyết, đầu đội nón tu lờ, chung quanh là núi trắng xoá lềnh bềnh trong sương. Vai gánh củi, tay xách một con cá , có lẽ anh tiều phu Trung Hoa bắt được trong khe suối. Còn Toàn gánh củi đi trong mưa phùn và có con cắc kè treo ở đòn gánh.

Toàn bất giác thở dài. Chao ơi! Không ngờ cái cảnh trong tưởng tượng của hoạ sĩ lại là cái cảnh thực tế của anh bây giờ. Đúng anh là người tiều phu trong tranh. Nếu vợ con tiều phu Toàn gặp anh lúc này, họ sẽ nghĩ sao?

Toàn xốc gánh củi, đổi vai, rảo bước cho kịp đoàn. Anh chăm chú nhìn mặt đất để tránh những chỗ trơn trợt dễ té, cố lết mỗt thôi dài mới chịu dừng lại đổi vai. Đến lúc ngửng lên theo dõi đoàn người ở phía trước, anh đứng sững lại vì nghe có tiếng quát tháo om xòm tại một thửa ruộng xanh ngắt mé tay mặt. Trên lề đường có tới 6, 7 gánh củi dựng ngổn ngang mà không thấy người. Thì ra họ đã xuống hết đám ruộng xanh vừa nói. Toàn lật đật đặt gánh chạy đến coi.

Một cảnh tượng kỳ cục, quái gở, thảm thương một các tức cười hiện ra.

Giữa một thửa ruộng trồng xu hào xanh ngắt, có ba người tù nằm, ngồi ngả nghiêng. Người tù nằm không ngớt lăn lộn người dưới đất, vật vã hết bên trái lại qua bên phải, hai tay ôm bụng, cứ giây lát lại há hốc mồm ra để ngáp. Còn hai người kia ngồi phệt, chân duỗi dài, hai tay chống trên mặt đất, cặp mắt trợn ngược chỉ còn lòng trắng trông phát gớm, bụng căng phồng đưa lên đưa xuống theo từng hơi thở rất dài. Cũng như người nằm dưới đất, chốc chốc hai người này há ngoác mồm ra để mửa mà không được, chỉ thấy nhớt rãi lòng thòng.

Toàn thấy lá xu hào liệng rải rác và cả chục gốc xu hào còn dính đất vất đây đó. Hai ba trái xu hào đã nhổ lên rồi nhưng còn nguyên vẹn. Toàn thoáng suy nghĩ, đoán ra ngay đầu đuôi câu chuyện, nhất là khi anh nhận diện được hai trong ba người: khi nãy, một người vì đói quá đã phải bứt cỏ bỏ vào miệng nhai, và một người bị " kinh vì quá mệt " nên té xỉu.

Giây phút này, hai người đó đang ngoác mồm ra thở từng hơi như cá ngáp chết, mắt trợn ngược như bị bóp cổ. Tên giám thị từ nãy không nói gì, chỉ nhìn một vẻ giận dữ, bỗng vụt túi bụi vào hai người má mắng:
- Chúng bay đã xâm phạm hoa màu của nhân dân, ăn sống nuốt tươi cả chục củ xu hào, bây giờ chúng bay nằm ăn vạ ở đây hẳn?

Quát xong, tên giám thị vụt tới tấp năm, sáu mươi roi mây vào mặt, vào cổ, vào lưng hai người. Lạ thay, hai người này không phản ứng cũng không lộ vẻ sợ sệt, chỉ ngoác rộng thêm miệng thở hổn hển, mắt mở trừng trừng mà không thấy lòng đen trông càng thêm khiếp hãi. Trong khi đó, người nằm lăn dưới đất bỗng cong rút người lại, mửa ra được một đống, khởi sự rên hừ hừ và càng thở mạnh, tuyệt nhiên không lưu ý đến sự việc đang xẩy ra ở ngay kế bên.

Toàn chứng kiến cảnh thảm thương từ nãy đến giờ, vừa sợ vừa tội nghiệp, lại vừa thương thân mình vô hạn. Qua hình ảnh đang phơi bày trước mắt, anh thấy cảnh ngộ của anh, cảnh ngộ chết đói chết khát thường xuyên của tù nhân trại giam Cộng sản.

Toàn biết ba người này khó lòng thoát chết vì bội thực. Nhưng cái chết là phương tiện giải thoát cho họ. Trong cảnh đói khổ liên miên, chết là lối thoát vĩnh viễn, nhất là chết sau khi ăn một bữa thật no, thật nhiều. Ba người tù này đã phát giác ruộng xu hào từ lượt đi, nên bàn nhau khi về sẽ lén xuống ruộng làm một bữa no nê phưỡn bụng cho đã thèm, rồi sau muốn ra sao thì ra, chết cũng được.

Quả nhiên, ăn đầy chặt một bụng xu hào sống, họ bị bội thực và đang chết... no. Măc cho giám thị đánh mỏi tay tét cả ngọn roi song, họ chỉ lặng thinh trả lời bằng cách nhắm mắt lại ngửa mặt lên trời, há hốc miệng thở dồn dập từng chập. Mưa phùn ướt đẫm mặt, họ cũng không vuốt cho bớt nước.

Toàn lại gần giám thị, xin phép được cứu chữa cho mấy người này. Anh nghĩ ra cách chữa cấp thời cho người bội thực. Đang lúc tức giận, giám thị gật đầu cho phép, mặt y vẫn cau có dễ sợ.

Toàn bảo mấy người đứng đó phụ anh xốc người bội thực qua một bãi đất phẳng phiu gần bên, để anh làm cho họ mửa ra bớt số lượng thức ăn trong dạ dày.

Khi họ đã xốc nách " người ăn cỏ " qua bãi đất phẳng. Toàn nắm tay người này và quay cho chạy vòng quanh. Nhưng chỉ rán chạy được hai vòng, anh ta loạng choạng té huỵch xuống đất, mửa ra một ít. Rồi anh ta ngồi lên, trợn ngược mắt mà thở dồn dập như đứt hơi đến nơi, coi bộ khó lòng chịu nổi cơn bội thực.

Toàn ghé vào tai " người ăn cỏ " và nói:
- Cho tay vào miệng, móc họng để mửa ra. Ráng làm, không thì nguy đó.

Người đó rán hết sức mới lắc đầu được vài cái, tiếp tục thở gấp một cách nặng nhọc hơn trước, bụng y thốt nhiên trương phình lên rõ rệt. Từ nãy, giám thị vẫn lộ vẻ suy nghĩ gay go. Nhìn về phía xa xa, thấy chỉ còn thấp thoáng vài người gánh chậm chạp đi sau cùng, y bèn lạnh lùng ra lệnh:
- Nếu ba thằng kia không đứng lên gánh củi trở về thì tao cho chúng bay nằm luôn cho được việc. Tao không có thì giờ chờ chúng bay tiêu hoá xong cả chục củ xu hào ăn trộm!

Rồi chỉ vào Toàn và mấy người đứng coi, quát:
_ Mấy người này cũng ở lại đây luôn, hả?

Toàn và mấy người tù hoảng kinh thui thủi quay trở lại nơi đặt gánh, thì thầm bên nhau:
- Chắc chắn ba người đó " đi đứt " mất rồi. Hết phương cứu chữa. Nếu ở trong trại, may ra...

Rồi họ xốc gánh lên vai rảo bước, sau khi quay nhìn lần chót về phía ruộng xu hào. Trời vẫn mưa phùn, cảnh vật về chiều thêm ảm đạm, bóng tên giám thị đứng sừng sững trên bờ ruộng. Toàn tự hỏi: Không biết hắn đang làm gì?

Sự thật, tên giám thị đang suy nghĩ lung lắm. Trước khi " giải quyết ", y ngầm nhìn ba người tù bội thực lần cuối. Người tù nằm đang hấp hối sắp chết xong, mắt còn mở ti hí như người buồn ngủ. Nước mưa đọng trên hàng mi mắt anh ta như giọt tranh. Còn hai người kia vẫn ngồi trong một dáng điệu kỳ cục, giay lát " ngoáp " một cái, hai con mắt trắng dã mất hết lòng đen như lườm trời, oán trách lần cuối Trời cao bất công, độc địa. Bụng đã trương phồng lên khiến họ phải ngả người ra sau gần té ngửa. Giám thị rút súng lục, chỉa vào một người ngồi, kéo quy lát sành sạch cho nghe tiếng, rồi quát:
- Lần chót, có đứng lên không?

Người nọ không nghe hoặc nghe mà không thèm trả lời, chỉ " ngoáp " một cái để giỡn với câu hăm doạ. Giám thị lạnh lùng đến trước mặt người thứ hai chỉa súng hỏi nhưng cũng vẫn không gây được sự sợ hãi như mọi lần. Y chẳng nói chẳng rằng bước tới trước mặt người thứ ba. Người này nằm yên, bụng thôi phập phồng vì đã hết thở. Giám thị nghĩ thầm; còn hai tên phải thanh toán!.

Đã tới giây phút chót, giám thị lật áo mấy người tù, thò tay vào túi áo họ, rờ khắp lưng quần rồi bĩu môi khinh bỉ. Mấy tên tù này không có đồ vật chi hết, thật đáng chết!

Trong khi đó, Toàn và mấy người tù gánh củi đang cố rảo bước để đuổi kịp bọn đi trước. Một người bỗng quay lại phía sau nhìn kỹ rồi rút trong người ra một củ xu hào còn nguyên cả lá. Anh ta đã lợi dụng lúc giám thị quay đi nhìn nơi khác, lượm vội một củ dấu trong áo, mang đi luôn. Lúc này, anh ta mới lấy ra, bứt mấy cành lá cho người đi kế bên. Người này cho liền vào miệng nhai nhồm nhoàm. Chủ nhân củ xu hào vừa gánh vừa cạp hai miếng nhai rau ráu rồi chia cho Toàn. Toàn không nói không rằng, cập luôn hai miếng thật lớn rồi chuyền tay cho người thứ ba. Anh này làm luôn như hai người trước. Chuyền tay nhau được bốn lượt thì củ xu hào không còn. Người thứ tư là người ăn miếng chót trong bọn buột miệng khen:
- Mát ruột quá! Chẳng trách ba người kia bội thực mà...

Đúng lúc đó, một tiếng nổ như tiếng pháo vẳng nghe trong làn không khí ẩm ướt.

Toàn lặng thinh đưa mắt cho ba người kia, thở dài. Một người chép miệng:
- Thế là xong!

Họ rảo bước như để khỏi phải nghe thêm tiếng súng giết người.

Nhưng tiếng nổ thứ hai lại vang lên, không ai nói mà cùng nhau thở dài. Toàn sực nghĩ ra bèn nhe răng cho người đi bên cạnh coi, rồi hỏi:
- Có dính răng không?

Người nọ lắc đầu rồi cũng nhe răng nhờ bạn coi dùm.

Bỗng Toàn hét lớn làm mọi người hoảng kinh:
- Thôi, chết tôi rồi!

Rồi đặt gánh đứng sững lại: con cắc kè đã rớt mất từ lúc nào!

Toàn thẫn thờ, chán nản như chưa bao giờ chán nản đến như thế. Anh đã có lần thua một canh bạc lớn cũng không thấy tiếc bằng đánh rớt mất con cắc kè. Trời ơi! Con cắc kè béo ngậy, con cắc kè múp míp chất thịt béo bổ chữa được bệnh hen rớt mất rồi.

Từ đó về đến trại, Toàn như người câm người điếc, không nói, không nghe một tiếng. Đầu óc anh chán chường, thân thể anh rã rời, anh chỉ muốn chết phứt cho xong! Con cắc kè đã mất, cuộc đời anh coi như hết luôn!

Về đến trại, sau khi xếp củi vào vựa, câu nói đầu tiên của Toàn là phàn nàn với 982 về vụ làm rớt con cắc kè. 982 nhìn anh để nhận định Toàn nói thiệt hay không, rồi nói:
- " Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định ". Tôi đã dặn trước rồi mà vẫn không giữ được! Chỉ có ổ kiến bò nhọt của tôi là còn nguyên.

982 xách ống tre nhốt ổ kiến đặt khuất dưới chân giường, hắn định tối nay trước khi đi ngủ sẽ thả kiến bắt rận trong quần áo của mình và của một số anh em muốn tẩy uế. Đợi sau buồi học tập, lúc sửa soạn đi ngủ, hắn sẽ " thông báo " cho anh em sau.

Ai ngờ trong trại giam Cộng sản, thiện chí lại gây ra tai hoạ tầy trời.

*****

Bữa cơm chiều hôm đó, bọn tù làm củi về muộn hơn mọi ngày cả tiếng đồng hồ nên ăn xong, trời vừa tối. Trong bữa ăn, tên giám thị đi đi lại lại bên đám tù về chậm, hầm hầm tức giận chưa nguôi.

Bọn tù lấm lét nhìn trộm y, ăn vội vàng cho mau xong. Tuy thế tin ba người tù lén xuống ruộng ăn sống củ xu hào bị bội thực rồi ngắc ngoải khiến giám thị tốn mấy viên đạn, đã được lan truyền rất mau. Đến giờ học tập, hầu hết trại viên đều rõ chuyện.

Một làn không khí ủ ê buồn thảm phảng phất khắp trại. Mới đầu năm, đã có ba người bị " ra bai " một cách " lãng nhách ". Đó là một điềm bất tường cho tù nhân. Nhớ đến vụ Đầu Trâu đánh đòn phạt. Người tù bâng khuâng, lo lắng cho số phận mình. Sau giờ học tập tại nhà Tiểu Công Nghệ, vì trời mưa không ngồi được ngoài sân - tù âm thầm sợ sệt về trại ngủ. Trước khi đi nằm, 982 cho biết hắn sẽ phát động cuộc tổng tấn công rận đêm nay bằng kiến bò nhọt, người nào muốn " tẩy uế " hãy đưa luôn quần áo cho hắn.

Gặp cơ hội tốt, nhiều đồng cảnh lật đật đưa quần áo cho 982 nhờ tẩy uế. 982 giở hết quần áo ra bỏ trong một tấm vài rộng, dùng tấm vải như cái túi rồi buộc chặt, thật chặt mép túi lại. Trước lúc đó, ống tre đựng kiến độc cũng được bỏ vào giữa đống quần áo. 982 còn cẩn thận dùng dây quấn thêm nhiều vòng quanh mép túi, ngăn kiến độc chui ra ngoài. Xong đâu vào đấy, hắn mới mở khúc cây nút ống tre, thả đàn kiến. Kiến độc " càn " cả một đêm trường, khỏi có chú rận hay trứng rận nào sống sót nổi.

Trong bóng tối, 982 thích chí mỉm cười, đặt bọc quần áo ngay dưới chân giường của hắn, định bụng đến trưa mai, vào giờ nghỉ sẽ đem quần áo ra sân giũ hết bò nhọt, giũ luôn xác rận, rệp cho sạch sẽ rồi trả lại mọi người.

Tù nhân trực vặn nhỏ ngọn đèn dầu lửa trên kệ sát vách, Việc hô số tù đã xong, thiếu mất 3 người. Đó là 3 người tù đã "ngủ" trên bãi đất phẳng phiu bên cạnh ruộng xu hào, sau khi được ăn một bữa thật no nê như ao ước từ lâu.

Toàn nghĩ vẩn vơ đến con Cắc Kè rớt mà tiếc.

Sau cùng, Anh nhớ ra lúc trượt chân té, cây đòn gánh sút một đầu làm con Cắc Kè rớt luôn xuống bãi cỏ. Anh mải đứng lên, quên phứt coi lại nên không dè. Toàn tiếc ngẩn tiếc ngơ mãi đến lúc thiếp đi trong giấc ngủ mệt nhọc. Đêm hôm đó, Anh mơ kiếm lại được con Cắc Kè, ăn một bữa thịt ngon thật là ngon. Ăn xong,làm một giấc thật kỹ.

... Mấy tiếng la thét vang sân khiến Toàn bừng tỉnh. Bên ngoài, trời đã tờ mờ sáng. Đúng lúc đó, tiếng kẻng đánh thức nổi lên một hồi lanh lảnh. Dưới chân giường 982, viên giám thị đang la thét om sòm, vừa la, vừa rờ lung tung khắp mình như đang bị giống gì độc chui vào trong người cắn tứ tung.

Toàn giật mình tỉnh ngủ hẳn. 982 cũng đã ngồi nhổm lên rồi hốt hoảng nhảy xuống đất, nhìn nơi chân giường có đặt một bọc quần áo lớn. Chết rồi! phen này ắt chết rồi. Bất giác, 982 toát mồ hôi đầm mình như tắm.

Các tù nhân lật đật nhổm dậy suốt lượt. Ai nấy đều hoảng sợ, ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ thấy một người dở mếu, dở khóc khoanh tay đứng chết trân nhìn tên giám thị một cách thiểu não như chưa biết xử trí ra sao. Nhìn kỹ, họ nhận ra trại viên 982.

Giám thị vừa la hét vừa hấp tấp lột bỏ áo ngoài, cuống quýt xoa trên cổ, trên lưng, trên bụng, hai chân nhảy lung tung như điên như cuồng.

Bỗng y nắm được một vật gì bé nhỏ trong tay, hốt hoảng thả xuống đất, cúi nhìn. Té ra đó là một con kiến bò nhọt. Những tù nhân có quần áo đưa cho 982 tẩy uế nhất loạt hiểu ra ngay. Một người đánh bạo lại gần cúi thấp xuống ngó bọc đồ dưới chân giường. Trên tấm vải bọc ngoài đống quần áo, hàng trăm con kiến bò nhọt đang hăm hở bò, đen ngòm.

Giám thị bỗng la lên một tiếng thất thanh rồi vừa nắm chặt một khoảng quần dưới rốn, vừa cởi dây nịt lưng lột luôn quần, rũ phành phạch. Mấy chú kiến bò nhọt rớt rải rác trên mặt đất. Giám thị đạp luôn bốn năm cái xuống đất, mấy con kiến độc nát bấy. Chứng cớ đã rành rành. Y quát rầm rĩ :
- Thằng nào đem kiến bò nhọt ở rừng về thả cho đốt nhân viên trong trại? Thằng nào ? khai ngay, nếu không chúng bây vào nằm xà lim cả lũ.

Trước cơn lôi đình của giám thị, nhiều tù nhân run lên cầm cập. Sáng sớm, trời lạnh như thế mà y chỉ còn mang quần đùi, vì quần áo ngoài y đã cởi hết vắt lên lưng ghế. Một anh tù có máu nịnh bợ, trịnh trọng cầm quần của giám thị giũ thật mạnh. Mãi mới có một con kiến độc rớt ra giúp anh ta dịp tâng công :
- Thưa giám thị : Có kiến ! Có kiến bò nhọt !

Trong trại, anh chàng này cũng có biệt danh là " Lưỡi dài ".

Giám thị hét lên một tiếng như bị rắn cắn. Y cởi luôn quần cụt đang mặc ngay trước mặt tù nhân, rồi giũ phành phạch mươi cái.

Trên ngực, trên bụng, lưng, cổ, đùi giám thị nhiều vết đỏ mẩn loang thành quầng. Nọc độc kiến bò nhọt đang lan khắp cơ thể hắn. Tuy rất sợ giám thị mà Toàn phải nghiến răng mới nhịn được cười. Giám thị xuýt xoa luôn miệng, hai tay thoa nắn cùng hết. Mặc dầu trần truồng như con nhộng, hắn vẫn đeo súng lục trước bụng, trông càng dơ dáy, bẩn mắt. Nhưng có một điều chắc chắn: Nọc kiến bò nhọt độc bao nhiêu, tai họa kẻ phạm lỗi phải chịu càng ghê gớm bấy nhiêu. Cái nguy ở chỗ đó !

Sau khi mặc lại quần áo đàng hoàng, sửa cây súng lủng lẳng cho oai vệ, giám thị quắc mắt nhìn đám tù, rồi chỉ bọc quần áo dưới đất, lớn tiếng :
- Bọc quần áo này của ai ?

982 rụt rè bước lại trước mặt giám thị, thở không ra hơi :
- Dạ, thưa ông giám thị, của cháu và mấy anh em cùng trại ...
- Sao mày dám thả kiến độc trong trại ngủ ? Thằng nào là thủ phạm tha kiến ở rừng về trại?

- Dạ...dạ...cháu nhốt kiến trong bọc đã buộc kín cho kiến bắt rận...Không dè vải bọc có lỗ thủng, kiến chui ra...Xin ông giám thị rộng lượng tha lỗi cho cháu.
- Giấu giếm mang kiến độc vào trại ngủ thả cho đốt người... gần chết!... Tha hả?...Tha hả !

Bất ngờ, giám thị co chân đạp vào giữa ngực 982 đến "Hự" một cái, 982 văng tới cuối giường ngã phịch xuống đất. Biết mình có tội, 982 lại khúm núm đến trước mặt giám thị chắp tay, cúi gằm mặt. Giám thị ra lệnh:
--Mọi người ra ngoài. Trại viên 982 ở lại...

Các tù nhân mừng thầm kéo nhau ra ngoài, xếp hàng đi rửa mặt. Còn một mình 982 với giám thị. Chẳng nói chẳng rằng, giám thị lặng lẽ giơ cánh tay lên coi vết kiến độc cắn, Mấy vầng đỏ trên da đã lan rộng bằng quả trứng, giám thị rờ lên vết cắn, nhăn nhó rồi gật gù, hầm hầm quát:
- Lên văn phòng !

982 lại chắp hai tay " lễ sống " viên giám thị như bổ củi và lộ vẻ khiếp hãi đến tột bực. Trên khuôn mặt bừng bừng sát khí, miệng giám thị bỗng toét ra thành nụ cười giễu cợt, đểu cáng:
- Lên văn phòng khai về tội " mưu sát " nhân viên ban Quản Trị. Sắp đáp chuyến tàu suốt rồi con ơi!

Giám thị rút trong túi ra một vật. Sau một tiếng " cách " nhỏ, hai cổ tay 982 đã bị còng. 982 phải đưa cả hai tay còng lên để chùi những giọt mồ hôi vã ra đầy mặt.

Rồi thất thểu bước như người mất hồn, đi lên văn phòng. Giám thị theo sau, vừa đi vừa suýt xoa , rên rỉ.

Ngoài kia, tù nhân đã xếp hàng trở lại nhà Tiểu- Công Nghệ đợi ăn bữa sáng trước khi đi lao tác. Vì sợ quá, 982 quên cả đói. Và cũng vì sợ quá, anh đái vãi ướt hết chân lúc nào không biết. Trước khi vào văn phòng, 982 chợt nhận thấy, phải dừng lại mấy giây, dùng bàn chân nọ chùi lên cẳng chân kia cho khô nước tiểu, để khỏi bị bắt lỗi là vô lễ, và khỏi chọc giận thêm nhân viên ban Quản Trị.

(1) Làm kinh

____________________________


9. Đứng ở nhà tiểu công nghệ trông ra, căn lều đó chỉ hẹp và không cao hơn túp lều dùng làm cầu tiêu ở nhà quê bao nhiêu. Nhưng khi lại gần, người tù thấy khác hẳn và bất giác rùng mình vì cái hình ảnh đơn độc vắng vẻ của túp lều. Thật là một điều lạ lùng, rất khó giải thích. Tuy không thấy dấu vết gì để lại, tù nhân ngắm nhìn túp lều đã đoán ngay ra có nhiều người bỏ mạng nơi đây rồi!

Cách xa văn phòng đến ba trăm thước, những túp lều vẫn đứng bên trong hàng rào nứa bao vây trại, cách con đường nhỏ dành cho lính cảnh vệ đi tuần không quá 20 thước. Bên ngoài con đường nhỏ còn hàng rào nứa thứ hai, chắc chắn không kém gì hàng rào thứ nhất.

Bằng súng, bằng lưỡi lê hoặc bằng bất cứ võ khí gì khác, cảnh vệ và giám thị có quyền hạ sát ngay tù nhân nào đặt chân lên con đường cấm này mà không cần phải "khuyến hàng" trước.

Tù nhân bất hạnh bị giam riêng tại túp lều nói trên, tự coi như sắp thoát khỏi cảnh ngục tù, chậm lắm, tù nhân sẽ lên đường đáp "chuyến tàu suốt' trong vòng mười ngày trở lại. Từ trước đến nay, chỉ có một trường hợp ngoại lệ mà thôi còn không tù nhân nào sống sót nổi quá một tuần lễ. Vì đói, vì khát, vì bịnh và kiệt quệ tinh thần.

Trong trại giam cộng sản hồi đó, chế độ dành riêng túp lều nói trên cho những tù được phong vương. "Phong vương" là phong cho làm vua, một mình một "long sàng", một cung điện. Tù "phong vương" ăn, ngủ một mình tại lều rồi chết đơn độc, không được mà cũng chẳng cần ngó lần cuối hình ảnh những người còn sống. Đó là một túp lều tầm thường như nhiều lều khác vẫn thấy ở miền quê, dựng trên sáu cây cột chắc chắn, mái lợp rạ. "long sàng" cao khoảng hai thước, bằng tre ghép lại, tù lên xuống bằng một thang cây. Tù nhân nằm hay ngồi trên sàn lều, lính cản vệ hoặc giám thị dễ kiểm soát, từ xa đã trông thấy người tù phong vương mà không phải mất công lại gần. Nói một cách khác, tù nhân rời long sàng leo xuống đất là người ta biết ngay.

Đã bị xiềng cả hai chân, tù phong vương còn phải đeo cùm. Vì thế, suốt ngày anh ta chỉ ngồi hoặc nằm dài trên long sàng, nhàn rỗi không phải làm gì. Mỗi buổi sáng, một giám thị tới coi tù phong vương chết chưa, nếu chưa chết, y sẽ mở cùm cho tù nhân ở dưới đất đi đại tiện, tiểu tiện, rửa mặt trong vòng mười, mười hai phút đồng hồ. Rửa mặt, nghĩa là thò tay xuống một vũng nước rộng gần bằng chiếc chiếu, vốc nước đưa lên mặt rửa. Không biết đất có chất gì mà nước vũng cứ lờ lờ như nước luộc hến và tanh không thể tả được. Có người tù bị giam lâu biết chuyện nói vũng này nguyên trước đào để chôn tù nhưng đào phải nhiều xác người nên bỏ dở. Trời mưa, nước ngập đọng lại thành vũng nước. Giữa vũng, dăm ngọn cỏ mọc vượt lên khỏi mặt nước thường là nơi hạ cánh của mấy con chuồn chuồn nhàn hạ hay mỏi cánh giang hồ. Một người tù mô tả với anh em như sau: Đây là một thau nước lớn, tù phong vương rửa mặt, giặt quần áo, rửa những vết thương, mụn ghẻ lở, rồi lại súc miệng và uống luôn mà không bao giờ chịu thay thua nước mới.

Sau công việc "vệ sinh" buổi sáng, tù phong vương lồm cồm leo lên sàn, vội vã đút hai cổ chân vào cùm cho giám thị khóa lại. vì phải thường xuyên đeo xiềng vào cùm hai chân, tù nhân bắt buộc phải mặc quần không đũng, có như vậy mới thay được quần.

Khẩu phần của tù phong vương rất đặc biệt vì giản dị. Mỗi ngày, vào buổi sáng, người của ban quản trị tới phát cho hai nắm gạo, tù nhân muốn làm thế nào ăn được gạo thì làm. Tất nhiên, vì không có vật dụng nấu cơm, tù nhân không có cách gì khác hơn là nhai gạo sống khi không chịu nổi cái đói, tuy biết trước là ăn gạo sống, chỉ ít hôm sẽ "ỉa cứt cò" nghĩa là phân trắng toát như nước vo gạo đặc rồi đau lỵ hay đau tả mà chết. Về khoản nước uống thì buổi sáng, nhân lúc đi đại tiện, tù mang theo một ống tre múc nước ở "thau nước lưu cữu" đem về uống trong một ngày. Trong những điều kiện ăn uống như thế, tất nhiên cái chết phải rất gần, không thể nào tránh né được.

Ấy thế mà hai năm trước, một người tù đã có sáng kiến nấu được cơm ăn trong những điều kiện thiếu thốn như vậy. Bọn cộng sản quản trị trại giam phải khiếp phục sát đất rồi tìm cách giết cho mau, khỏi lo hậu họa.

Hồi ấy, tù phong vương bị nhốt riêng tại lều này chỉ bị xiềng hai chân chứ không bị cùm nên vẫn có thể di chuyển.

Tù nhân cùng trại được biết lờ mờ rằng anh này là một nhân vật chính trị có khuynh hướng quốc gia, đã đỗ kỹ sư ở ngoại quốc, bị cộng sản bắt vì có tư tưởng đối lập rồi bị giam tại Khu Tư cho tới chết.

Giấu được bao diêm trong mình, viên kỹ sư đó định dùng bao diêm -nghĩa là lửa- làm phương tiện vượt trại khi nhận khẩu phần gạo, viên kỹ sư biết ngay tụi cộng sản định giết anh. Anh ta nhất định không chịu chết vì bịnh ruột nên tìm cách nấu cơm ăn bằng được. Ít nhất, anh cũng tỏ cho bọn cộng sản biết rằng người quốc gia chiến đấu đến cùng chống bọn cộng sản, dù trong cảnh tù đày.

Trước tiên, anh kiếm một bẹ chuối, một tầu là chuối và vét một vốc bùn đất sét dưới vũng lên. Xong anh ta đào một lỗ nông trên mặt đất, đổ nước vào cho đất ngấm nước thành nhão. Ngâm gạo trong nước cho gạo ngấm kỹ nước, anh ta bọc gạo thật kín trong mấy lượt lá chuối, dùng bẹ chuối bọc thật kín bên ngoài như một đòn bánh tét. Sau khi cột kỹ bằng dây tước ở bẹ chuối, anh ta lấy đất nhão bao kín bên ngoài gói gạo, bỏ xuống lỗ rồi lấp đất.

Sau khi đổ nước xuống lỗ cho ngấm đẫm nước, người tù chất lá và củi lên trên mà đốt, đốt mãi. Tới khi đất bùn đã khô queo dưới sức nóng, anh còn chờ thêm một lúc lâu cho đủ sức chín cơm rồi mới giỡ bọc cơm lên ăn. Tuy không ngon lành gì nhưng gạo đã nấu chín thành cơm, ăn không bị bịnh.

Đến lần nấu cơm thứ ba, mưu kế của anh bị khám phá và bao quẹt bị tịch thu. Khi đó viên kỹ sư mới đành chịu bó tay và từ đó trại giam áp dụng biện pháp cùm luôn tù phong vương để chặn hết mọi phương tiện di chuyển.

Tù nhân đành phải ăn gạo sống nếu không muốn chết đói chăm chú hai nắm gạo sống trên miếng lá chuối khô ở góc long sàng rồi thở dài. Trông lại, nhận ra ngay 982, người đã có sáng kiến thả kiến bò nhót bắt rận trong quần áo tù, để ngừa bệnh chấy rận bị kiến bò nhót phản lại nên "được" đưa đến giam tại lều phong vương!

Nhắc lại bữa đó, 982 cứ sự thật mà khai và nhận hết tội lỗi về phần mình vì không muốn anh em bị liên lụy một cách vô ích. Sau một trận đòn tơi bời, 982 được "phong vương" ngay sáng hôm đó do quyết định của phó trưởng ban quản trị trại.

Một nhân viên mở hồ sơ cá nhân của 982, đọc qua loa rồi ghi thêm bản án tử hình:
- Phạm tội mưu sát nhân viên ban quản trị, được phong vương kể từ ngày...4.1954.

Y đặt cây viết trên tờ lý lịch cá nhân, tò mò nhìn 982 từ đầu đến chân như để xem tướng mạo một người sắp chết rồi buông mấy tiếng nhạt nhẽo:
- Muốn được "làm vua" thì "phong vương" ngay tức thì! Thôi, về cung điện mà ngự lên "long sàng"!

982 ngẩn mặt ra một cách sợ hãi, chưa hiểu ất giáp gì hết, viên giám thị bị kiến độc đốt đã hầm hầm nhìn hắn và nạt:
- Đi theo đây!

982 lần lũi theo sau giám thị, băn khoăn lo lắng, không biết sẽ bị trừng phạt cách nào. Giám thị đưa đầu ngón tay trỏ lên miệng, chấm nước miếng, day lên vết độc cắn hãy còn xưng vù rồi cau có nói:
- Xuống dưới lò rèn để đánh xiềng! Biết không?

Tuy chưa biết đích xác lò rèn ở đâu, 982 cũng thưa:
- Dạ, biết!

Rồi toát mồ hôi đầy mình, bước trên mặt đất mà bàng hoàng như đi trong mây. Đang là tội nhân thường, nghĩa là có hy vọng một ngày kia được phóng thích, nay bỗng biến thành tù trọng tội mang xiềng và cùm. Chỉ vì mấy con kiến bò nhọt oan nghiệt!

Đến đây, tác giả xin mở một dấu ngoặc để nói qua về một ngành hoạt động chuyên môn trong Trại Giam Đầm Đùn.

Nguyên số tù nhân của Trại Đầm Đùn khi đông nhất có thể tới hơn ngàn người và ngay khi chết dần chết mòn vì "ra bai", vì thương vong hàng ngày hay vì nhiều lý do khác, cũng còn bảy tám trăm người. Tất cả số tù nhân đông đảo ấy thuộc nhiều giai cấp, thành phần và làm nhiều nghề khác nhau: Cày ruộng, thợ cấy, thợ gặt, trồng tỉa, thợ máy, đào giếng, làm củi, làm than, giáo sư trí thức, thanh thiếu niên, du đãng, thợ rèn, thợ mộc, bếp nấu ăn, thương gia, viết văn, nhà chính trị cách mạng, tu sĩ và cả cường hào ác bá nữa v.v...Thôi thì đủ mặt anh hùng thiên hạ không sao kể hết.

Khi họ bị đưa vào giam tại Trại Sản Xuất và Tiết Kiệm Đầm Đùn, ban quản trị sắp xếp chia ra làm nhiều hạng theo nghề nghiệp, thành phần, giai cấp. Vì thế, trại có một số thợ chuyên môn, để phụ trách về các công tác chuyên môn khi cần đến. Cũng bởi lý do trên, Trại Giam Đầm Đùn có một ban thợ rèn do một tay thợ rèn khá chuyên môn điều khiển. Hai thanh niên phụ giúp những công việc lặt vặt cho ban này.

Tù nhân phải mang xiềng đều được giám thị dẫn xuống lò rèn đặng làm xiềng đeo vào chân.

Thường những ngày ít việc, thợ rèn "đánh" sẵn những sợi lòi tòi dài cả mấy chục thước quấn thành một đống lù lù lớn như đống mả ở góc nhà. Vậy mà có khi chỉ trong mấy ngày là cả ba bốn chục thước xiềng đã xài hến nhẵn, tù thợ rèn phải luôn tay quai búa chan chát trên đe mới thỏa mãn kịp cho nhu cầu của Trại.

Lò rèn cách nhà tiểu công nghệ cả bốn, năm chục thước, đặt trong một căn nhà lá khá rộng, ba bề không có vách. Đứng trên nhà tiểu công nghệ trông xuống, tù nhân chỉ thấy lấp ló mái nhá lá vì lò rèn bị lấp sau dãy nhà bếp. Nhưng có ngày những tiếng búa đập chan chát trên đe để rèn xiềng nghe như tiếng đóng "cá" quan tài khiến nhiều tù nhân thấy đau nhói ở tim, chịu không nổi. Nhiều người tù khó ngủ hay bịnh, đêm nằm nửa tỉnh nửa thức, bỗng nghe vắng tiếng búa đập chan chát xuống mắt xiềng rồi lo sợ nghĩ ngợi lan man thao thức cho đến sáng không chớp mắt. Bởi vì hình ảnh sợi xiềng sắt xích liền hai cổ chân tù nhân là một hình ảnh thiểu não cùng cực đã in sâu vào tâm thức họ. Tuy thế, cũng chưa ghê rợn bằng nghe tiếng xiềng kéo lê trên mặt đất chạm nhau lách cách, nhịp theo bước chân ngắn dài của tù nhân đi trong ánh trăng non buổi tối mùa Thu, sương mù đầy sân. Nhiều tù nhân không phải mang xiềng tự thương thân bật khóc tức tưởi.

Muốn "được" đeo xiềng vào chân, tù nhân còn phải đau đớn khá nhiều, vì ở trong trại giam, vẫn luôn luôn xảy ra những vụ bóc lột, hối lộ, làm tiền. Nhiều tù nhân đã bị què trước khi mang xiềng vào chân.

Đến trước lò rèn, 982 sợ hãi bước chậm lại rồi đứng trên ngưỡng cửa trân trối nhìn một người cởi trần, mình đẫm mồ hôi đang đập búa lên một mắt xích. Khi ngước thấy giám thị, người này mỉm cười gật đầu chào, và lễ phép đứng lên. Tuy giám thị chưa nói, anh ta đã biết giám thị sẽ ra lệnh cho làm việc gì. Sau khi nhìn giám thị, thợ rèn liếc mắt thật nhanh ngó 982 rồi chừng như nhận thấy dấu hiệu đặc biệt gì của giám thị -một cái đưa mắt chẳng hạn-. thợ rèn ngó sững bộ đồ trên mình 982.

Tuy bộ đồ không còn mới nhưng lành lặn nguyên vẹn và may bằng loại vải dầy và bền, vải chúc bâu trắng. Đợi cho tù thợ rèn nhận định xong, giám thị mới nói:
- Đánh sợi xiềng dài một thước cho thằng này (vừa nói vừa chỉ vào giữa trán 982). Nó mới được phong vương vì tội thả kiến độc trong trại ngủ cho cắn nhân viên gần chết!

892 vừa ức vừa sợ, nhất là sợ, định lắp bắp phân trần để giám thị hiểu cho là y không dám có ác tâm ấy nhưng không nói ra hơi. Quá tuyệt vọng trước một định mệnh tàn ác, y ngớ ngẩn nhìn giám thị rồi cúi gầm mặt xuống, lặng thinh luôn.

Tù thợ rèn hỏi:
- Thưa ông giám thị, cho đeo liền bây giờ?
- Xiềng hai chân luôn. Dài một thước. Nghe rõ chưa?

- Dạ, thưa rõ...
- Nửa giờ nữa, tôi quay lại lãnh tù. Làm xong, biểu nó ngồi chờ ở đây.

Rồi giám thị quay nhìn 982, quát lớn:
- Đeo xiềng xong, ngồi đợi tao đưa mày đến long sàng mới của mày. Không được bước ra ngoài ngưỡng cửa lò rèn, hiểu chưa?

982 khúm núm:
- Thưa ông giám thị, xin tuân lệnh.

Giám thị nhìn thợ rèn lần nữa, nháy mắt một cái rồi quay đít, lên thẳng nhà bếp. Hắn kiếm bữa ăn sáng.

Tù thợ rèn mỉm cười, nhìn theo bóng dáng tên giám thị giây lát, nhưng đến lúc quay lại nhìn 982, mặt y đanh lại, với một vẻ tàn nhẫn lạnh lùng như vừa đeo một mắt nạ bằng sắt. 982 nhìn tù thợ rèn, lễ phép xuống nước năn nỉ:
- Kính chào ông anh. Xin ông anh thương giùm em bị oan, làm phước nhẹ tay cho em nhờ...

Thợ rèn lạnh lùng nghe rồi gay gắt hỏi:
- Nghề lò rèn phải quai búa tạ, đâu có nhẹ tay được! Mà nếu "nặng tay" thì sao?

982 luống cuống chưa biết trả lời cách nào để khỏi phật ý thợ rèn, tên này đã gườm gườm cặp mắt, nhìn chằm chặp bộ đồ 982 đang mặc với vuông khăn quấn ở cổ và nói:
- Bộ quần áo còn tốt quá nhỉ? Ra lều "phong vương" mặc bộ đồ này uổng quá, phí của giời. Thôi, người anh em "bán lại" cho tôi đi.

Rồi hắn nhìn 982 toét miệng mà cười...cầu tài. 982 thấy rõ vẻ làm tiền sống sượng của hắn, bẽn lẽn còn chưa kịp trả lời, hắn đã gằn giọng:
- Đưa cổ chân ra coi!

982 sợ hãi đưa cổ chân lại gần bên cho thợ rèn ước lượng. Thợ rèn nheo mắt ước cỡ cổ chân của 982 rồi lẳng lặng lại sát vách, nơi có một thùng cây vuông vắn như cái rương đựng quần áo. Trước khi mở nắp rương, y quát bảo thiếu niên từ nãy vẫn đứng cạnh bễ tò mò theo dõi sự việc và các mẩu đối thoại giữa hai bên:
- Thắng kia! Thổi lửa lên! Mày cũng muốn được "phong vương" hả?

Thiếu niên lặng lẽ kéo bễ thì thụt. Đống than bỗng hồng lên theo từng hơi thụt rồi ngọn lửa xanh từ đống than vươn lên liếm vào không khí. Một làn hơi nóng bốc lên ngùn ngụt. Thợ rèn nhấc nắp rương, thò tay kéo. Tiếng kim khí loảng xoảng, một sợi xích sắt được nhấc ra vứt xuống đất, dài tới ba thước. Cảm tưởng đầu tiên của 982 là cảm tưởng nặng nề. Sợi lòi tòi này phải nặng tới 20 kg là ít.

982 định thần nhìn kỹ. Hai đầu sợi lòi tòi đã dính liền vào hai cái đai sắt tròn vành vạch, đường kính rộng hơn cổ chân chút ít. Đai sắt cao khoảng hai phân và dầy bằng tập vở học trò. Một chi tiết làm 982 hoảng kinh, cạnh đai sắt cứa vào cổ chân và mu bàn chân thì đến bật xương rách thịt, làm sao chịu cho thấu. Lần thứ hai, 982 khép nép, xuống nước nhỏ năn nỉ:
- Xin ông anh làm phước cho em cái đai sắt nào cạnh bớt sắc. Hoặc giả, xin ông anh cho phép em mượn cái giũa, giũa vài nhát vào cạnh đai cho bơt bén. Tội nghiệp em lắm!

982 chẩy nước mắt lúc nào không biết. Y chợt thấy thiếu niên đứng phía sau thợ rèn ra hiệu cho ý, một tay thiếu niên vẫn kéo bể còn một tay nắm vào ngực áo, kéo ra kéo vào vài cái, 982 vẫn chưa quyết định tính toán cách nào, thợ rèn đã quát:
- Lại gần đe, ngồi xuống.

Như người mất hồn, 982 sợ sệt nhích lại gần đe ngồi thụp xuống, rồi duỗi dài hai chân ra khi thấy thợ rèn giơ tay ra hiệu.

Hai đầu sợi lòi tòi đã gắn chặt vào đai sắt. Nhưng mép nối của đai sắt hãy còn mở, khi nào tù nhân cho lọt vào trong vòng đai rồi, người ta mới tán cho hai mẫu sắt ở mép đai cắn chặt với nhau bằng một đanh sắt có mũ gọi là "ri-vê". Bao nhiêu công việc đóng xiềng vào chân tội nhân nguy hiểm là ở chỗ này. Có thể vô tình hay cố ý, khi đập xuống đanh ri-vê để tán, cây búa tạ đánh vào xương ống quyển hay mắt cá chân. Chỉ thấy tội nhân hét lên một tiếng điếng hồn rồi què luôn từ giây phút ấy. Nhưng trong tù có nhiều hiện tượng lạ lùng, què hẳn hoi mà vẫn phải lõng thõng bước đi như thường, khi cần.

982 theo lệnh của thợ rèn, cố đút bàn chân to như bàn cuốc cho lọt qua vòng đai sắt trong khi thợ rèn dùng kìm mở cho đường kính vòng đai rộng thêm ra. Đút lọt một chân vào trong đai sắt rồi, 982 mới nhìn lại bàn chân đã xây xước rướm máu. Chưa kịp chùi vết máu, anh ta đã phải ghếch cả cổ chân có đai sắt lên trên đe trong khi thợ rèn ướm thử một chiếc đanh ri-vê vào lỗ chuẩn bị tán:
- Ê, thằng kia, ra giữ đai cho tao "đóng" đây!

Thiếu niên ngừng thụt bễ, lại gần dùng kìm, kẹp chặt hai mẫu sắt ở mép đai, có lỗ thủng sẵn đặng thợ rèn tán ri-vê 982 rùng mình khiếp hãi, nghĩ thầm:
- Trượt búa một cái, đành là mình gẫy đứt một giò.

Nghĩ vậy, anh ta nhắm mắt lại không dám nhìn. Nhưng lúc mở tí hí mắt thì vừa vặn đúng lúc thợ rèn giơ cao tay búa giáng xuống. Chẳng may, búa trượt ngang, đập trúng mắt cá chân đến "cốp" một cái 982 "ối" mấy tiếng đau đớn nằm lăn quay ra đất mà rên hừ hừ.
- Câm cái mồm lại! Chưa được!

Quả nhiên, khi nhìn lại 982 thấy cây đanh đi-vê chưa dính chặt vào lỗ và miệng đai sắt vẫn chưa đóng kín. 982 ràn rụa nước mắt vì nhức nhối, chép miệng, cởi khuy áo, lạy van rối rít:
- Thế này thật không phải, xin biếu ông anh chiếc áo này và xin ông anh thương tình cho lại em chiếc áo rách, rách thế nào cũng được, miễn còn được chỗ lành để em xin "in số" là được. Ông anh thương mà nhẹ tay giùm.

Lúc bấy giờ thợ rèn mới mỉm cười ra vẻ thông cảm. Hắn ngẫm nghĩ giây lát rồi quay ra phía thiếu niên kéo bễ và nói:
- Mày kiếm một chiếc áo còn khá tốt đổi cho ông bạn, kẻo tội nghiệp. Trời rét này mà ở trần, làm sao chịu nổi.

Gần nửa giờ sau, 982 đã mang xong xiềng vào chân. Gần đúng như lời dặn của giám thị, sợi xiềng nối liền hai cổ chân đo được 98 phân. Lúc tới lò, 982 mặc áo lành lặn, lúc ở lò ra theo giám thị, mặc áo rách, cũ kỹ, ngắn ngũn như áo con nít. Tuy vậy, trên ngực và lưng áo còn hai khoảng lành lặn nhờ có đắp thêm hai mảnh vải còn tốt, 982 có thể năn nỉ xin ban quản trị cho in số tù trên khoảng áo lành là được rồi.

Anh ta khập khễnh như người què. Cũng còn may, cạnh vòng đai sắt đã được thợ rèn giũa qua mấy nhát cho bớt sắc, nếu không, chỉ đi mười bước là tóe máu chân ra liền. Tiếng xích sắt lách cách tiến về phía lều phong vương.

982 bàng hoàng nhìn túp lều, ngừng bước chân. Không nghe tiếng mắt xích đập vào nhau, giám thị quay lại quắc mắt, 982 lại vội cất bước.
- Bắt đầu từ giờ phút này (giám thị nhìn đồng hồ tay) 8 giờ 45 ngày...tháng 4.1954... tôi tuyên cáo từ 982 được chính thức phong vương theo quyết định của ban quản trị.

Với một giọng điệu đầy vẻ đểu cáng, giám thị mỉm cười thích thú. 982 ngẩn ngơ như người mất trí, tiến không dám, lùi thì sợ...nên chẳng khác chi người chết đứng. Túp lều phong vương thảm nhiên chờ đợi trong cái vắng lặng của khu trại, người bạn ăn nằm với túp lều trong một thời gian ngắn ngủi ít ngày.

_____________________


10. Không biết lần thứ mấy, 982 nhìn lại nắm gạo bỏ trên mảnh lá chuối khô tại góc sàn lều mà ban quản trị đặt cho mỹ danh là "long sàng" đặng xứng với danh từ "tù phong vương". Phải, bắt đầu từ 8 giờ 45 sáng nay, anh được thăng làm "tù phong vương" và gần như chắc chắn rằng 8 giờ 45 phút cũng ngày này tuần tới, anh sẽ không còn sống trên cõi đời này nữa.

Ý nghĩ trên làm 982 thắt ruột vì tiếc nuối, căm hờn và đau đớn...Đầu óc 982 trở lại trống rỗng như không còn đủ sức suy nghĩ đến một việc cỏn còn nào hết. Tên giám thị đểu cáng, sau khi cho anh làm công việc "vệ sinh" buổi sáng và rửa mặt bên cái vũng nước đục lờ lờ, hất ngón tay ra lệnh cho anh trèo lên sàn. Rồi y lấy hai mảnh ván cùm vứt lăn lóc trên sàn từ bao giờ, cùm hai chân anh lại. 892 biết chắc cùm này đã "chiếu cố" đến nhiều tù phong vương khác, những người đã sang bên kia thế giới trước anh. Cứ coi các góc cạnh đã nhẵn thín cũng dư biết thành tích giết người của cùm. Ít ra cũng cả trăm cả tù nhân đã mất mạng vì nó.

Dần dà, đầu óc 982 bình tĩnh lại, bản năng sinh tồn của con người vùng dậy. Anh tự nhủ thầm: Hoảng hốt, sợ hãi lại càng mau chết. Đành rằng nếu tổ chức bên ngoài không thực hiện kịp thời một kế hoạch giải cứu, anh khó lòng thoát chết. Nhưng tìm cách kéo dài sự sống vẫn hy vọng hơn. Biết đâu chẳng có một cuộc đời xá...một đặc ân bất ngờ nào đó. Hoặc giả, gặp dịp may trốn thoát về vùng Tề. Biết đâu chừng!

Mắt cá chân buốt đánh thót một cái vì anh vừa gượng co đầu gối lại. Khi đó 982 đang ngồi dựa vào chân cột, ngó khung cảnh chung quanh "điện ngọc" vắng vẻ, im lìm. Dưới đất, những ngọn cỏ còn ướt đẫm sương đêm. Trên chòi xa, một tên cảnh vệ canh gác, đang ngó về phía anh...982 nhìn chiếc áo cụt ngủn đang mặc mà giận. Đằng nào cũng mất áo mà còn bị búa đánh toét mắt cá chân. Thật ngu dốt đần độn quá, 982 tự rủa thầm như vậy.

Nhất là khi nhớ ra những chuyện bạn tù kể lại về tác phong của tên tù thợ rèn, 982 càng giận thêm. Họ đã cho anh biết những vụ làm tiền, bóc lột vật dụng quần áo là chuyện tất nhiên phải có, khi tù bị thợ rèn đóng xiềng vào chân. Dù không muốn có những hành động khốn nạn đó, nó vẫn phải làm theo lệnh của giám thị. Vì giám thị của Trại Giam Đầm Đùn cũng túng thiếu, phải bóc lột tù mới đủ ăn. Làm việc ở vùng nước độc khỉ ho cò gáy, xa nơi thị tứ, quanh năm buồn như chấu cắn, giám thị là những phần tử phạm lỗi, phải thuyên chuyển đến trại này vì lý do kỷ luật, tác phong hủ hóa, để chia sớt sự thiếu thốn với bọn tù ốm đói sắp chết và đang chết.

Thế cho nên khi tù nhân đến lò rèn để đóng xiềng, gần như bắt buộc phải mất một vật dụng gì cho giám thị qua trung gian là tù thợ rèn. Tùy giá trị món đồ bóc lột được, giám thị sẽ chia cho thợ rèn một phần.

Nhưng có những tù nhân nghèo quá, chỉ còn một bộ đồ rách bươm, giám thị có lột lấy bán lại cũng chẳng được là bao. Trường hợp này, đành phải châm chước mà tùy nghi định liệu. Tù nhân bị đóng xiềng muốn khỏi bị búa trợt vào ống quyển, vào mắt cá chân, có thể điều đình bằng cách nhường cả một bữa cơm cho thợ rèn. Thợ rèn cũng là tù nhân nên vẫn "đói" chẳng khác chi các tù nhân cùng trại. Nhường cho hắn một bữa cơm, hắn tán đanh ri-vê mỗi đai cổ chân một cái, trúng ngay. Nếu không, hắn bèn trợt búa thì chết mẹ cái cẳng chân ăn tù cần đeo xiềng. Bữa cơm, nếu không ăn hắn cất đi, đổi lấy thuốc lá, thuốc lào hay áo cánh, quần đùi, rồi nộp giám thị hoặc bán lấy tiền đưa giám thị chia theo nguyên tắc "tứ lục", giám thị hưởng 6 phần, thợ rèn 4 phần.

Nhưng trên thực tế, phần của sư tử bao giờ cũng phải lớn hơn nhiều nên tù thợ rèn chỉ được một, hai phần mười là đã toại nguyện lắm rồi. Để được đền bù phần nào, thợ rèn còn được giám thị che chở, nâng đỡ về tinh thần nên hắn có quyền hống hách, muốn cho ống quyển tù nhân bị đeo xiềng ăn..."đòn trợt búa" lúc nào cũng được.

Đã biết nguyên tắc nộp "thuế đóng vào chân" như vậy, 982 còn để cho búa táng vào mắt cá chân, thật đáng tội què!

Nhưng có một mánh lới làm tiền khác của thợ rèn, 982 chưa được nghe nói đến nên chưa biết. Tù nhân phải đeo xiềng nhưng đến một hạn nào đó, tất nhiên cũng phải tháo xiềng ra trả lại cho trại. Hoặc là tù xiềng được đặc ân (trường hợp này rất hiếm) hoặc gặp kỳ đại xá, ban quản trị có thể xét cho họ tháo xiềng để trở về làm tù nhân hạng nhẹ. Lúc tháo xiềng ra mới thật khổ, không khác chi lúc đeo xiềng.

Tù thợ rèn có hai cách tán ri-vê vào đai sắt của xiềng, một là tán toét đầu ri-vê ra, hai là tán vừa đúng mức mà tù vẫn không thể nào tháo ra được. Trong trường hợp thứ nhất, khi tù nhân được bỏ xiềng, thợ rèn phải chặt đứt ri-vê bằng đục và búa. Độc giả khó tưởng tượng nổi cổ chân phải đau đớn đến mức nào khi thợ rèn chặt ri-vê trên đe!

Trong trường hợp dưới, thợ rèn chỉ dùng một cái chốt sắt đặt đúng lên ri-vê, "đột" một cái là trúng phóc, ri vê bật ra liền, cổ chân không hề đau đớn gì hết.

Cách tán ri-vê trong trường hợp thứ nhất còn gây ra nhiều điều không hay.

Nếu tù nhân này chết, cố nhiên phải khiêng ra bãi để chôn.

Tháo ri-vê ra phiền phức mất công quá nên thợ rèn thấy không gì tiện hơn là chặt phăng bằng dựa hay rìu hai cổ chân xác chết, thu hồi xiềng trả lại ban quản trị rồi liệng hai chân xuống hố phân là xong chuyện. Chỉ trong ít hôm, ròi ăn hết hai bàn chân liền. Dưới âm phủ, cái xác mất hai bàn chân làm sao đi lại được như những xác còn nguyên vẹn thân hình (!)

Nhiều tù nhân mê tín hoặc lẩm cẩm lại còn ngẫm nghĩ cả về điềm vớ vẩn vừa nói nữa.

982 ngắm nhìn cây ri-vê đóng vào đai sắt, gọn gàng, nhẵn nhụi, bỗng cau mặt tức giận. Chắc chắn bị "cúp" mất bữa ăn sáng nay rồi. Thật là họa vô đơn chí! 982 rền rĩ trong họng:
- Đói quá! Đói quá!!

Anh ta vòng hai tay ôm bụng, co đầu gối ép lên hai cánh tay thật chặt. Chiều hôm qua đi làm củi ở rừng về, ăn hết hai lưng cơm mà vẫn đói như chưa được hột cơm nào. Vậy mà sáng nay lại phải nhịn nữa thì chịu sao nổi. Cái đói ùa đến thật nhanh khiến mồ hôi 982 toát ra ướt đẫm lưng. Đôi mắt lờ đờ chợt hướng về phía vũng nước, anh nghĩ thầm:
- Có vũng nước thì phải có ếch, có nhái, cóc hay là tôm, cá nữa, không biết chừng. Hay ta liều xuống kiếm coi.

Liền khi đó, một ảo giác hiện ra trước mắt 982. Ngay giữa "long sàng", một con ếch tròn vành vạch đang ngồi, gương mắt nhìn anh. Một lưỡi câu có dính bông hoa mướp vàng nhẩy nhót để nhử. Bị khích thích vì màu vàng hoa mướp, con ếch nhoài mình đuổi theo mồi. Một sức mạnh giựt ở đầu sợi dây câu khiến lưỡi câu bung lên đóng chặt vào miệng con ếch béo múp míp.

982 dụi mắt, con ếch biến mất. 982 vừa tưởng tượng đến những lần câu ếch trong dĩ vãng xa xôi ở ven ao làng. Cái đói, cái khát thường tạo ra ảo ảnh như vậy.

982 chợt ngước lên mái lều, nơi vừa phát ra tiếng lạt sạt rất khẽ nhưng vì không khí quá yên tĩnh nên anh nghe được. 982 phát giác một con thạch sùng đang bắt muỗi trên mái, da con thạch sùng vàng ngậy lẫn với màu rạ. Một ý nghĩ thoáng trong đầu 982 như một cứu cánh, mắt anh không rời con vật và lóe ra những tia sáng chói của thèm muốn. Im lặng như cái bóng, 982 vẫn ngồi mà lết dần đến bên dưới khoảng mái rạ có con thạch sùng trong khi tay anh lần cởi khuy rồi lột áo ra, xoắn lại thành một sợi dây lớn, nắm chặt một đầu trong tay. Anh vẫn ngửa mặt nhìn lên nóc nhà, cằm đưa ra đàng trước, mắt lom lom theo dõi con thạch sùng.

Con vật bỗng bò nhanh để bắt một con nắc nẻ đậu gần đấy. Khi đã lại gần đúng tầm, nó nhô mạnh về phía trước để đớp con mồi thì cũng đúng lúc đó, 982 vụt đứng thẳng lên, vung tay cầm áo đập giữa mình con thạch sùng, nhanh không thể tả.

Chiếc áo rơi xuống mang theo con thạch sùng. Nhưng con vật chỉ bị đau sơ chứ không chết. Vừa rơi trên "long sàng", nó loạng choạng chạy về cây cột lều nhưng 982 đã nhoài người vồ được nắm gọn trong tay, mặc cho con vật vùng vẫy.

Một khoảng đầu con thạch sùng còn thò ra ngoài nắm tay của người tù đói, nhưng nó chạy sao cho thoát! Vừa định quật chết con thạch sùng, anh chợt ngừng kịp cánh tay đang giơ lên nửa chừng. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Hai mắt tóe lửa thèm khát của 982 nhìn chòng chọc miếng ăn sống trong tay.

982 há nhẹ hai hàm răng, đút đầu con thạch sùng lọt vào bên trong miệng. Bằng hai ngón tay, anh cấu vào đuôi con vật một cái, đồng thời lỏng bớt tay nắm. Bị đau, con thạch sùng vùng chạy chui thẳng tọt vào cổ họng 982 rồi biến luôn. 982 đã ngậm miệng như thường. Một cảm giác ngứa ngáy khó chịu khi con thạch sùng chạy theo ống thực quản xuống bao tử khiến 982 so hai đầu vai lên như bị thọc nách.

Rồi anh ngẩn người ra ngẫm nghĩ: Cũng may, con thạch sùng không bị rụng đuôi khi rớt, chứ chỉ nuốt riêng cái mẫu đuôi thì cũng dỡ dang, mà bỏ đuôi cũng uổng!

Một lát sau, cái cảm giác nhột và buồn bực do con thạch sùng bò trong bao tử gây ra mới hết dần. 982 cho là còn may, mới tới đã kiếm được thức ăn bỏ vào miệng để dằn cơn đói quái ác! Nhưng sẽ làm gì với nắm gạo sống này đây?

982 giật mình quay về phía trại vì anh lại nghe tiếng chân dẫm trên đất ướt. Quả vậy, một người đang đi tới, tay cầm gói gì mà anh chưa nhận ra. Dáng người trông quen quen, gầy gò, nhỏ nhắn, không phải là tên giám thị khốn nạn. Người đó lại đội cái nón chóp bằng lá gối dậy dặn anh đã cố công mang từ Việt Bắc về. Không thấy mặt nhưng 982 đọc được số 271 in trên ngực người đội nón.

271 là danh số của trại viên Toàn. Hôm nay, 271 được cắt công tác xay 5 thúng lúa ở nhà tiểu công nghệ và gánh hai chục gánh nước tưới rau, vườn cà của trại. Chưa gánh xong nước, Toàn được giám thị sai mang đến trao cho 982 một bọc gồm mấy cái quần áo. Ba bốn miếng giẻ, một bao tải, một đôi dép cao su "con hổ" đế đã mỏng như lá bàng. Với tư cách trưởng toán, Toàn sẽ cho biết luôn 982 không còn thuộc toán của anh nữa. Như thế con số 982 đã được gạch bỏ trên danh sách trại thường tội trước khi người mang con số đó bị bỏ một cách lạnh lùng ra khỏi cõi nhân thế.

Tới chân thang, Toàn giở nón là ngước nhìn lên "long sàng" mà cười gượng như để an ủi "tân vương". Nhưng 982 không lưu ý đến vẻ mặt cùng thái độ của Toàn mà chỉ đợi Toàn cho biết những sự việc xảy ra sau lúc anh ta bị gọi lên văn phòng và xin Toàn giúp cho một việc rất hệ trọng.

Toàn ý tứ nhìn quanh quất tứ phía, coi có ai rình rập theo dõi chăng, rồi chăm chú ngó chòi lính canh đàng xa. Tên cảnh vệ ngồi xây lưng lại phía lều phong vương, 271 yên trí leo lên thang, ngồi ghé xuống "long sàng".

Thấy mắt cá chân của 982 tím bầm như quả bồ quân. Toàn lờ đi, không muốn gợi cái đau ra cho bạn đồng cảnh. Anh chìa bọc quần áo, cầm hết vật dụng trong tay lần lượt đưa từng thứ cho 982 và chợt có một cảm tưởng kỳ lạ, gặp 982 lần này là lần cuối cùng. Trong Trại Giam Đầm Đùn, cái sống xa cách cái chết không quá mươi bước chân. Toàn lặng lẽ nói:
- Đây, tất cả đồ dùng của anh, không thiếu thứ gì, còn quần áo, tôi đã rũ thật sạch, anh yên trí mà mặc...

Toàn cố tránh nhắc đến đàn kiến bò nhọt chết tiệt đã gây ra tai họa cho 982. Toàn thấy 982 mấp máy định nói rồi ngậm chặt vành môi đến gần chảy máu. Hắn giở từng thứ ra coi qua loa, liệng đống ngay bên cạnh, rồi thở dài. Trong giọng nói của 982, Toàn thấy một âm hưởng căm hờn, ngao ngán, nhưng không sợ sệt:
- Tôi bị "phong vương" rồi, anh ơi! Chắc khó sống hết tháng này...Tôi gởi lời chào tất cả các bạn và mấy anh em trong giam cầm này. Dè đâu...

Thiếu chút nữa Toàn bật lên khóc thành tiếng, vừa thương người đồng cảnh, vừa lo cho thân mình. 982 bỗng ngưng ngang, mắt hắn ráo hoảnh long lanh dữ tợn, hai bàn tay nắm chặt thành hai quả đấm, run run. Toàn đoán hắn đang có những ý nghĩ liều lĩnh, bất thường. Người tù nào mới được đưa đến lều phong vương cũng có phản ứng như thế. Thoạt đầu là cảm giác sợ sệt hoang mang, rồi sau đó là lòng căm phẫn, thù hận, những ý tưởng liều lĩnh giết người hay vượt trại giam. Còn sau này có gan thực hiện những mưu định không, lại là chuyện khác.

Toàn đưa mắt nhìn địa thế quanh lều...Tuy đã vào trại giam sáu tháng, Toàn chưa có dịp đến khu này lần nào. Sự vắng vẻ, yên tĩnh, cô độc gây cho anh một cảm giác hồi hộp, sợ hãi 982 chợt hỏi bâng quơ:
- Này anh trưởng toán, sáng nay tôi bị "cúp" mất bữa cơm một cách oan uổng nên đói quá. Trước khi bị đưa tới đây, cũng không được ăn bữa cơm cuối cùng với anh em. Thiệt đáng hận...

Nói đến cơm, dường như 982 lại càng đói thấm thía nên hãm ghì chặt hai cánh tay ôm bụng. Toàn xúc động mạnh trong lòng nhưng vẫn làm lơ, giả bộ quay nhìn xuống vũng nước và mấy ngọn cỏ mọc vượt lên khỏi váng nước vàng như gạch cua...Anh định hỏi: "uống nước ở vũng này à?" nhưng lại thôi.

Hai người cùng yên lặng giây lâu. Trán 982 đẫm mồ hôi và hai hàm răng hắn bỗng nghiến ken két. Toàn rùng mình ba bốn lần liên tiếp.
- Chà, cơn đói quái ác!

Mắt 982 bỗng tóe tia lửa khiến Toàn bất giác rợn người. Nếu đúng giây phút này, nhét vào tay hắn một con dao rồi dẫn hắn đi tìm giám thị, hắn giám liều. Toàn sực nhớ đến cảm giác căm thù hết mọi người khi anh bị cơn đói hành hạ. Nếu anh đủ sức khỏe, chắc anh có lần phạm tội sát nhân chứ chẳng không. Rồi so sánh với hiện cảnh của 982, anh thấy anh còn có diễm phúc. Đây là lần đầu tiên trong trại giam, sự so sánh khiến Toàn tự thấy bớt đau khổ, và còn may mắn hơn nhiều người khác.

Ngập ngừng vài giây rồi lấy hết can đảm. Toàn rút trong cạp quần ra một trái bắp luộc còn cả áo bên ngoài, mạnh dạn chìa ra cho 982 và nói:
- Tôi xin tặng anh trái bắp này. Tôi vừa đổi nửa ống quần lấy trái bắp, định tách hạt bắp ra cất để dành, phòng khi đói hay đau ốm, bây giờ chỉ ăn lõi bắp và nhai mấy tấm áo bọc ngoài hít lấy nước ngọt. Nhưng thấy anh tội nghiệp quá, tôi không đành lòng...

982 trợn tròn mắt một cách ngạc nhiên và dữ tợn, bất thần nhanh như cắt chộp luôn trái bắp trên tay 271, dường như sợ 271 thay đổi ý kiến. Rồi lột luôn bắp cạp liền, nhai ngồm nhoàm, vừa nhai vừa nói:
- Cám ơn anh! Cám ơn anh! Đói quá! Không ăn ngay thì chết mấy!

Toàn cười vớ vẩn nửa như tiếc rẻ, nửa như tự mãn, lặng thinh không nói. Lúc này Toàn mới nhận mình quá "anh hùng cá nhân" thì đã muộn! Cướp lại sẽ gây phiền phức rắc rối, nguy cho cả hai, nội vụ sẽ vỡ lỡ. Thôi đành vậy.

Nhưng Toàn lại lần cạp quần phía trái, lấy ra một vật gì mà 982 chưa nhận định được. Toàn xuống thang, bước đến đất mới đưa vật đó vào miệng mà nhai ngon lành. 982 vừa nhận ra đó là một miếng cháy lớn bằng bàn tay thì hắn đã ngượng nghịu chìa bàn tay ra xin lúc nào rồi. Hai người không khác chi hai đứa trẻ dụ ăn của nhau. Toàn lắc đầu không trả lời, tiếp tục lạnh lùng nhai miếng cháy. Khi đó 982 đã cạp hết những hạt bắp vàng ửng chắc nịch và tiếp tục nhai lõi bắp, vừa nhai vừa hít nước, hít hết nước nhả bã lõi bắp lả tả vào bàn tay, trải xuống mặt "long sàng", vun lại thành hàng đều đặn. Toàn đoán:
- Phơi để dành, khi đói quá không chịu nổi sẽ nhai lại nuốt hết.

Loáng cái Toàn cũng nhai hết miếng cơm cháy.

Anh đứng bên chân cầu thang, nói vọng lên, tự coi như mình nhiệm vụ tinh thần với anh em.
- Thôi, anh bạn ngồi nghỉ, tôi về trại đây.

Nhưng 982 lật bật năn nỉ:
- Xin anh làm phúc cho tôi nhờ anh một việc.

Toàn ngập ngừng leo lên thang, 982 đã chắp hai tay lại và nói nhỏ:
- Nhờ anh làm phúc hỏi dùm tôi thằng nhỏ làm ở lò rèn có phải tên Hợi, người Sơn Tây không? Rồi nhắn cho tôi biết. Nếu đúng thằng Hợi, xin anh bảo nó có chú Dũng đang bị "phong vương" đó. Cảm tạ anh trước.

Toàn gật đầu nhận lời, lừng lững quay đi, nghĩ bụng dù Hợi có là người nhà của 982 cũng không giúp gì được hết vì tù phong vương phải ăn gạo sống, uống nước vũng, như thế khó lòng "thọ" được quá tuần lễ! Ngược lại, 982 lại rất hy vọng...và xắp đặt trong đầu một kế hoạch vượt trại giam tuy thấy rằng lúc này có lẽ quá muộn!

Tuy vậy, bắt đầu từ phút đó, nếu rình trộm, giám thị sẽ luôn luôn thấy 982 ngó trừng trừng vào quãng không, vẻ suy nghĩ lung lắm. Mặt hắn ta đanh lại như bằng đá. Sự thật, tuy bề ngoài có vẻ hiền lành chậm chạp nhưng 982 là một người chiến sĩ có thành tích trong hàng ngũ những người trời sinh ra là đã không thể chấp nhận được chủ nghĩa cộng sản vì bản năng hơn vì lý trí.

Cách đây năm năm, 982 gia nhập một tổ chức chính trị có khuynh hướng quốc gia cực đoan nhưng sau này tổ chức bị nứt rạn trầm trọng, 982 phải lẩn tránh, thay đổi họ tên, sống một cuộc sống che đậy giả tạo chuẩn bị trốn về Tề thì chẳng may bị chính quyền cộng sản bắt vì một lỗi chỉ có tính cách dân sự, rồi chẳng được xét xử gì hết, bị đưa lên mạn ngược, khổ sai tại các công trường tập thể trước khi bị đưa về Trại Giam Đầm Đùn. Tội trạng ghi trong hồ sơ không có yếu tố cấu thành rõ rệt như tội trạng của bao người khác bị bắt hồi bấy giờ, đó là tội lừng chừng, "không triệt để ủng hộ mặt trận Việt Minh" v.v...

982 may mắn dấu được lý lịch thật của mình, cũng nhờ trước đây anh chỉ hoạt động chìm trong tổ chức nên thành tích chính trị của anh không bị tụi công an việt cộng phát giác. Nếu không, chắc anh đã phải bỏ thây ở Việt Bắc sau khi nhận một nhát dao găm vào ngực hay một ngọn búa vào gáy như hàng trăm, hàng ngàn người khác trong hàng ngũ đối lập với mặt trận.

Vừa ngẫm nghĩ, 982 vừa nhai những tấm lá cuối cùng bọc ngoài trái bắp. Anh nhai kỹ như nhai trầu, càng nhai càng thấy mềm môi nên nuốt luôn cả bã. Dù sao, cũng còn có chất bổ dưỡng hơn nhai vớ vẩn mảnh rẻ rách như mấy người tù mất trí vì quá đói vẫn thường làm.

982 nghĩ lan man từ chuyện này qua chuyện khác, sau cùng cũng quay lại một sự kiện thực tế lúc nào cũng sôi bỏng như lửa đốt. Đó là vấn đề "đói". Hiển nhiên yếu tố "đói" là một đòn ban quản trị sử dụng tới mức để trừng phạt và làm tán loạn tinh thần tù nhân. Điểm đáng sợ là lúc nào, bọn cộng sản cũng tạo được một không khí khiếp đảm hoang mang trong trại, tù nhân bị đàn áp về tinh thần lại bị chi phối gay gắt về sự sống thực tế trong mỗi giờ, mỗi khắc. Luôn luôn bất kể lúc nào, tù nhân cũng đói, thèm ăn, thèm uống, lại bị kiệt sức như người bịnh nặng nên không thể đủ minh mẫn để suy nghĩ tính toán đến việc gì khác.

982 cau mày lại một cách tức giận. Anh chỉ còn một cách trốn ngay khỏi trại giam, nếu không chỉ trong vòng một tuần lễ anh sẽ lâm bệnh nặng nếu chưa chết, và tới khi đó mọi phương tiện đều trở thành vô dụng, dù có dịp cũng không thực hiện được nữa. 983 tự nhủ:
- Chỉ cần vượt được khoảng 30 cây số xa Đầm Đùn là hy vọng thoát...

Đi bộ 30 cây số đối với tù nhân của trại giam cộng sản là việc làm tầm thường có thể đi thẳng một hơi không cần nghỉ chặng nào. Một ngày chỉ gánh bốn mươi gánh nước tưới rau, cà cũng phải đi trên 30 cây số. 982 suy tính và cho rằng anh chỉ cần bốn bữa ăn đủ no trước khi lên đường và có một lon gạo rang kỹ làm lương khô, phòng bị kẹt...không tiện xuất đầu lộ diện kiếm bữa, sợ bị phát giác. Thế thôi!

Từ lúc bị lọt trong màng lưới cộng sản, 982 phải đóng một vai ngớ ngẩn, thật thà, đặc biệt nông dân để giấu lý lịch thực hiện của anh. Vì thế, anh luôn luôn phải lộ vẻ sợ hãi quá mức, có dịp là xung phong tăng năng xuất để tỏ ra đã giác ngộ, cố gắng đái tội lập công. Nhờ tác phong đó nên 982 thoát chết khi có lệnh mật của Tổng Bộ phải "thanh toán" càng nhiều càng tốt số tù nhân bị đưa lên Việt Bắc cho nhẹ bớt phí tổn của nhà nước. Sau đó, 982 được dắt về giam tại Đầm Đùn cùng một số đồng cảnh đã được đãi lọc rất kỹ trên phương diện tác phong và thành phần giai cấp.

Theo tin bên ngoài đưa vào, 982 phải tìm cách bắt liên lạc với một thiếu niên tên Hợi, một phần tử bị tình nghi (vì con một người bạn anh hoạt động trong đảng phái quốc gia) cũng đang bị giam ở trại và lao tác tại ban lò rèn. 982 không biết mặt Hợi, nên trong hoàn cảnh bất đắc dĩ đã đánh liều nhờ Toàn tìm hỏi giùm. Nếu 982 bắt liên lạc được, mưu định có cơ thành tựu...Lúc này ở bên ngoài, chiến tranh Việt-Pháp đã đi đến giai đoạn quyết liệt một mất một còn, mặt trận xảy ra khắp nơi, tàn bạo dữ dội...Biết đâu 982 chỉ vượt khỏi trại vài chục cây số là gặp cuộc hành quân của quân đội quốc gia hay của quân viễn chinh Pháp. 982 sẽ nhào vào giữa cửa tử để tìm sinh lộ. Anh sẽ tìm đến Bộ Chỉ Huy để trình diện và xin xung phong làm hướng đạo dẫn quân đội quốc gia đến đánh phá Đầm Đùn, giải cứu cho các tù nhân đang bị giam giữ và để trả thù...

Ý nghĩ 982 lan man theo óc tưởng tượng. Chưa ra thoát cảnh ngục tù, anh đã nghĩ đến sự trả thù...rửa hận. Nhân lúc này tâm trí bình tĩnh lại, anh cố nhớ đến những kinh nghiệm bản thân, nhớ đến chuyện vượt ngục cộng sản đã được nghe, hoặc đọc trong sách, báo v.v...rút ưu khuyết điểm mang ra thực hiện trong một ngày gần đây, nếu Trời còn tựa những người quốc gia yêu nước...

982 bàng hoàng nhìn ánh nắng Xuân trên bãi cỏ, trên hàng rào nứa và trên mặt con đường đất nhẵn thín quanh trại. Anh chợt nhớ đến một chuyện viết bằng ngoại ngữ dịch ra tiếng Việt đã đọc vào khoảng 1940 gì đó, trên một tuần báo xuất bản tại Hà Nội. Tuy đã đọc trên mười năm nhưng những sự việc chính ghê sợ, kinh tởm và vô nhân đạo nhất, anh vẫn nhớ. Anh suy ngẫm và thấy cộng sản dù là cộng sản Âu, Nga, Tầu hay Việt cũng vẫn là một thứ phi nhân, phi nghĩa, không thể để cho tồn tại trên trái đất nếu loại người còn muốn đứng trên loài ác thú. Đó là câu chuyện vượt trại giam cộng sản của một đám tù bị đày ở Tây Bá Lợi Á, một câu chuyện có thực 100 phần 100, nhưng hồi đó ít người dám tin là chuyện có thật, kể cả người đã có kinh nghiệm sống chung với cộng sản.

_________________________

11. Sau cuộc thanh trừng rộng lớn năm đó, có tới năm ngàn người Nga bị chánh quyền vô sản đem đầy ở Tây Bá Lợi Á, một vùng sa mạc quanh năm tuyết phủ trắng xóa. Năm ngàn người đó bị giam trong những căn nhà cất giữa sa mạc mênh mông, tuyết rơi liền nhau. Ban ngày họ phải đi lao tác tại các công trường vĩ đại xây cất trong rừng núi, cách trại dăm cây số.

Chừng 6 tháng sau, tù nhân chỉ còn gần một nửa, đa số đã chết vì công tác khổ sai, bệnh tật và thời tiết.

Hàng trăm trại nhỏ, mỗi trại ở vào một khu riêng biệt, lạnh lẽo đứng dưới tuyết.

Trong một trại kia, số tù nhân đông hơn trăm người, sáu tháng sau chỉ còn 50. Tất cả tù nhân đều biết chắc với mức thương vong hàng tháng như thế, chỉ ít lâu nữa họ cũng sẽ theo các bạn đồng cảnh mà vùi thây dưới tuyết, nên bàn nhau liều vượt ngục. Vượt trại giam cộng sản thì thiên niên vạn nan thật đấy nhưng còn một phần mười hy vọng sống sót, nếu cứ chịu sống trong trại sẽ cầm chắc cái chết gần kề cả mười phần.

Cùng trong một căn trại đó, có ba tù nhân thân thiết với nhau hơn tình ruột thịt vì phải chung sống trong cảnh tù tội, phần vì cùng thuộc một giai cấp trong xã hội, giai cấp trí thức. Nhưng đúng nhất là vì họ có cùng một lý tưởng chống cộng sản đệ tam, một người nguyên là kỹ sư, một là nhà văn và người thứ ba là một cựu sĩ quan cao cấp của Hồng Quân bị thanh trừng khỏi quân đội và lý do chính trị.

Sau khi dò xét kỹ càng tinh thần của mấy chục tù nhân cùng trại, ba người thuyết phục họ vượt ngục và được hưởng ứng nhiệt liệt. Địa bàn, bản đồ, khí giới chuẩn bị đầy đủ nhờ có những đường dây liên lạc bí mật giúp đỡ tổ chức ngay trong trại.

Nửa tháng sau, dịp may tới, trại chỉ còn 43 người.

Luật lệ của trại nghiêm ngặt như bất cứ luật lệ của một trại giam cộng sản nào. Tù nhân -tất cả bị án khổ sai chung thân hay hữu hạn- đều bị ban quản trị đóng dấu "sống" trên trán để phân biệt họ với thường dân. Một miếng sắt nung đỏ lửa ấn vào trán để đóng dấu như người ta đóng dấu trâu bò. Dân chúng bắt gặp tù nhân mang dấu, bất kỳ ở đâu ngoài trại mà không có giám thị trông coi, có quyền và có bổn phận phải hạ sát, không tội vạ gì hết. Cách xa trại giam ba, bốn chục cây số, mới có nhà của dân chúng, biện pháp này nhằm ngăn chặn những vụ liên lạc với tù, nếu có. Như vậy, khỏi nói cũng thấy rằng tù khổ sai ở Tây Bá Lợi Á hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài và trên thực tế, họ bị án chết mòn trong trại giam.

Nhằm ngăn chặn tù nhân giấu giếm vật dụng hoặc khí giới đem vào trại để phá hoại hay nổi loạn, mỗi khi tù nhân vào rừng làm củi hay làm việc ở công trường về, giám thị khám xét rất kỹ. Bọn tù phải cởi truồng, dưới một thời tiết lạnh 30, 40 độ dưới độ không, để giám thị xét từng chiếc áo, từng chiếc quần và thân thể rất tỷ mỷ.

Ấy thế mà tù nhân cũng vẫn mang được dụng cụ vào trại để cưa đứt chấn song sắt vây quanh phòng giam to bằng ngón chân cái.

Người chịu hy sinh đau đớn về thể xác để giấu dụng cụ phá ngục là viên kỹ sư trong ban lãnh đạo. Không biết phải bao nhiêu lâu và làm thế nào mà anh ta giấu kín được bên trong làn da của bộ phận sinh dục ba lưỡi cưa nhỏ, mỗi lưỡi dài hơn hai đốt ngón tay, do dây thiều của đồng hồ biến chế thành. Ba lưỡi cưa đó do một đồng chí vẫn sống trà trộn trong dân quanh vùng, tìm cách chuyển đến tay viên kỹ sư.

Với ba lưỡi cưa nhỏ, đêm đêm ba người trong ban lãnh đạo bọn tù nhân vượt ngục, kiên nhẫn cưa một cây chấn song sắt. Công việc mỏi mệt nguy hiển đó tiến hành liên tiếp trong hai mươi mốt đêm. Mỗi đêm 5 người luân phiên nhau cưa và 5 người canh chừng. Lưỡi cưa đầu tiên gẫy nửa chừng, lưỡi cưa thứ hai mòn gần hết và phải "giũa" nhiều lần bằng dao giũa do một tù nhân mang vào trại từ lâu chưa kịp sử dụng thì chết. Khi dùng mòn lưỡi cưa thứ ba được một phần, chấn song đã bị cắt đứt. Đêm hôm đó, mấy chục người tù mừng rỡ khóc trong đêm tối và chắp tay cảm tạ Thượng Đế đã cứu thoát đời họ. Họ nhất loạt quỳ xuống cầu nguyện và xin Thượng Đế giúp họ thêm nghị lực và sức chịu đựng để họ vượt thoát hơn một ngàn cây số sa mạc tuyết đặng trở về đời sống nhân gian như mọi người.

Đám tù nhân phải chờ hai hôm nữa mới có dịp bẻ oằn chấn song sắt, chui ra khỏi phòng giam rồi trốn ra ngoài sa mạc.

Đêm hôm đó, tuyết rơi tới tấp như mưa sa, gió thổi như bão trên sa mạc. Thời tiết có lẽ lạnh tới 60 độ dưới không. Các giám thị và chức việc chúi đầu ngủ trong những căn buồng ấm có củi đốt trong lò sưởi. Củi đó do tù chặt ở rừng về. Những con chó canh trại lớn như con bê, bị đánh bả bằng thuốc độc không biết bọn tù kiếm được bằng cách nào, đã nằm lăn quay từ hồi tối ở ngoài sân, bị tuyết lấp kín không để lại dấu vết.

Nương bóng tối, bọn tù lặng lẽ trốn ra sa mạc, dắt nhau đi về hướng Tây. Vừa ra khỏi trại, một số tù chợt nhận thức được sự vất vả giam nam, sợ hãi ngập ngừng định thối lui nhưng không được. Để khỏi bị tiết lộ, các đồng cảnh sẽ buộc lòng phải giết họ.

Người nào cũng giấu được rìu, dao, búa mang theo dùng làm khí giới tự vệ. Nhưng cần nhất là những tấm chăn trắng. Khi có nhân viên của trại hay dân làng đuổi theo, họ sẽ nằm xuống tuyết, trùm chăn lên trên mình. Không tới năm phút, tuyết sẽ phủ kín họ, không sao tìm thấy. Lương khô họ dành dụm trong hai tháng trời nên sẽ kiếm cách đánh bẫy hay săn các thú rừng làm lương thực. Tuy không chắc chắn về kết quả song họ đành phải liều, hy vọng vào sự may mắn.

Đoàn tù gồm 43 người đi suốt đêm đầu tiên, xa trại càng mau càng đỡ nguy hiểm, nhưng đến gần trưa hôm sau khi vừng Thái Dương ảm đạm chiếu xuống sa mạc tuyết mênh mông, kiểm điểm lại, ban chỉ huy mới thấy mất năm người. Đó là những người yếu đuối không chịu nổi thời tiết và mệt nhọc, đã ngã gục ở dọc đường. Không ai biết mấy người nọ gục xuống lúc nào nhưng dù cho có biết, cũng không ai dám dừng lại để cứu vì sợ mất thì giờ vô ích, vả lại, chính những người đang lết đi cũng mệt mỏi quá sức rồi.

Bây giờ những hiểm nguy cấp bách lúc đầu đã vượt qua, họ quây quần lại để kiểm điểm tình hình và ấn định kế hoạch "vạn lý trường chinh". Ban ngày họ sẽ đi luôn từ lúc có mặt trời đến quá trưa, và đêm thì nghỉ ngơi trong rừng có kín gió. Mỗi đêm, họ cắt cử mươi người luân phiên nhau canh gác, võ trang bằng rìu, dao, búa gậy v.v...cho những người khác ngủ, đề phòng những trường hợp bị thú dữ như gấu tuyết, chó sói tấn công. Lương thực là vấn đề khó giải quyết nhất trong mọi vấn đề đặt ra cho đoàn tù nên họ ăn rất dè dặt, càng ít càng tốt, càng có nhiều hy vọng tới đích hơn.

Đến chiều ngày thứ ba, hầu hết đoàn người vượt ngục đều không giấu được vẻ mệt nhọc chán nản. Hai người già nhứt trong bọn khoảng trên dưới 60 tuổi, tóc đã bạc trắng như tuyết, ngước nhìn trời rồi nhìn sa mạc tuyết mênh mông trắng xóa tứ phía, bất giác chảy nước mắt. Dưới trời lạnh, những giọt nước mắt lăn nửa chừng trên má đã đông lại thành đá. Mọi người thấy thế đều buồn nản lo lắng cho những ngày sắp tới, nhưng không ai dám thở dài thành tiếng.

Quá trưa hôm sau, theo ý kiến của ban lãnh đạo, đoàn tù vào ẩn náu trong một cánh rừng khá rậm rạp và sau lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi, họ chia nhau đi tìm kiếm săn bắn bắt thú rừng làm lương thực. May mắn quá, lần đó họ đập chết một con chồn, hai con thỏ rừng và một con nhím. Họ làm thịt luôn mấy con thú rừng và đốt lửa nướng ăn ít miếng cầm hơi, còn bao nhiêu chia đều để dự trữ ăn dần. Sau đó, họ bàn nhau lưu lại rừng này một ngày nữa để "kiếm thêm lương thực. Họ bắt được một con chồn và một con cu-ly (marmotte) đang ngủ say trong giấc ngủ mùa Đông.

Đêm đó, trong đám tù, đã có nhiều tiếng ho sù sụ không ngớt. Nhiều người không chịu nổi cái lạnh ngoài trời mắc bệnh sưng phổi rất trầm trọng.

Trưa hôm sau, khi mặt trời đã lên cao khỏi khu rừng, mọi người lục tục sửa soạn để lên đường. Khi đó, họ mới thấy có bẩy người ngủ luôn thức dậy nữa. Trong số này, có hai ông già lớn tuổi nhất đám ngồi dựa lưng vào nhau mà chết. Còn năm người kia thì có kẻ nằm gục trên tuyết, có kẻ ngồi mà chết rét lúc nào không hay. Khi viên kỹ sư trong ban chỉ huy xô mạnh vào vai để đánh thức, cái xác đổ lăn kềnh, giữ nguyên thế ngồi chết cóng.

Trước cảnh đó, một tù nhân nguyên là văn sĩ thay mặt ban lãnh đạo, ngỏ lời tiếc thương mấy người ra đi vĩnh viễn, cầu nguyện cho họ tìm thấy yên ổn ở bên kia thế giới. Rồi xin những người chết tha thứ cho họ nếu vì tình thế họ phải lấy quần áo và vật dụng của người chết cấp phát cho những người thiếu thốn trong đoàn. Nghe nói vậy, nhiều người tù thiếu quần áo ấm lật đật nhìn một cách soi mói vào mấy cái xác chết như để ước lượng giá trị thực tiễn của những vật dụng các xác chết mang trên mình.

Sau đó, họ đào hố để chôn tập thể cả 7 xác sau khi ban chỉ huy đã lột lấy nhiều vật dụng cần thiết. Một người chặt cành làm cây thập tự cắm trên mộ nhưng viên chỉ huy ngăn cản, nói không nên để lại dấu vết có thể phát giác bọn tù đã đi qua nơi đây. Mọi người đều ngậm ngùi đồng ý.

Hôm sau, một trận bão tuyết nổi lên bất ngờ nên cả đoàn tù không thể lên đường, phải chui hết vào trong một cánh rừng. Để tránh những tai nạn bất ngờ, viên kỹ sư trong ban lãnh đạo hội họp tất cả mọi người thực hiện gấp mấy cái mái bằng cành, lá cây, rồi đốt lửa bên dưới đặng sưởi cho khỏi bị chết cóng.

Để xua đuổi không khí chán nản, ban lãnh đạo đề nghị mọi người cùng hát bên ngọn lửa bài hát "Niềm hy vọng của đoàn tù vượt ngục" mà nhà văn trong bọn tù đã viết lời ca và một tù nhân khác nguyên là nhạc sĩ, đã phổ nhạc. Hát xong, họ ngồi dựa vào nhau mà ngủ gà ngủ vịt để lấy lại sức và...quên đói.

Sáng hôm sau, bão tuyết tan cơn, song việc di chuyển còn nhiều khó khăn nên ban lãnh đạo đưa ra ý kiến ở lại ngày nữa săn thêm thú rừng lấy lương thực đi đường.

May thay hôm đó, bọn tù vây đập chết được một con sói bị thương đi kiếm ăn lẻ loi và một con cáo. Họ làm thịt ngay hai con thú rừng rồi nhúm lửa, nướng thật chín. Lần này, bọn người vượt ngục ý thức đúng tầm quan trọng của lương thực trên sa mạc tuyết nên không bỏ phí một miếng thịt hay cục xương nào cả. Cả bộ lòng của con chó sói, đoàn tù cũng làm rất sạch sẽ rồi nướng ăn hết. Mặc dầu không ai loại bỏ một miếng nào, vì thòi quen, có một, hai người vừa nhai vừa nhăn nhó gượng gạo.

Lần đầu tiên có sự bất đồng ý kiến trong việc chia khẩu phần người được phần lớn, người phần nhỏ nên một tù nhân còn trẻ đề nghị ban chỉ huy sửa đổi lại cách thức chia lương thực cho công bằng.

Sau khi hội ý, thể thức sau đây được áp dụng: Mỗi con vật được chia làm 31 phần đều nhau, đánh số từ 1 đến 31. Rồi rút thăm, ai được số nào nhận phần mang số ấy.

Viên kỹ sư lên tiếng nhắc nhở mọi người nên ăn thật dè dặt, phòng khi lương thực cạn mà chẳng may chưa hạ được con thú nào.

Sáng hôm sau, khi ai nấy đang chuẩn bị hành lý để lên đường thì có tiếng la bải hãi làm mọi người hoảng hốt. Thì ra một người tù đã bị đánh cắp phần thịt xấy mà hồi hôm, trước khi đi ngủ, anh ta đã cất kỹ trong bọc. Nay phần lương thực đã bị đánh cắp mất, làm sao anh ta có sức đi nổi. Người bị mất trộm giở tung quần áo, hành lý trước mặt mọi người để "phân bua" rồi lạnh lùng xếp gọn lại bỏ vào bọc, nhìn mọi người như dò xét thủ phạm rồi yêu cầu ban chỉ huy giải quyết.

Ba người trong ban chỉ huy bèn đứng riêng ra một chỗ thảo luận với nhau rồi viên kỹ sư tập họp mọi người lại. Trước tiên, ông ta ngỏ ý lấy làm tiếc rằng một việc như thế đã xảy ra trong đoàn. Nếu đó là một vụ "đùa nghịch" thì sự đùa nghịch đó nên chấm dứt để khỏi làm thiệt hại đến quyền sở hữu của người khác. Vả lại, đoàn tù vượt ngục tuy nhiều người nhưng chỉ là một, vì cùng một ý chí, một quyết tâm đi tìm tự do, không sợ chết, không sợ nguy hiểm. Như vậy, nếu phải nhịn đói thì cùng nhịn đói như mọi người chớ nhất định không chịu chiếm phần ăn của người khác đồng cảnh ngộ gian khổ như mình.

Viên kỹ sư ngừng lại giây lát rồi tuyên bố:

- Để chia sẻ sự thiệt thòi với một đoàn viên, ban chỉ huy sẵn sàng chia sớt bớt phần lương thực của ba người trong ban để đền bù phần nào cho người anh em, nạn nhân của một hành động không đẹp.

Nhiều tiếng vỗ tay hoan nghênh nổi lên. Bốn người khác tuyên bố theo gương ban chỉ huy rồi mở bọc lấy gói thịt ra thì bất ngờ, người nọ lên tiếng cám ơn, từ chối sự giúp đỡ và nói:

- Tôi tự xét không đủ sức theo anh em nên tôi biết trước sau gì tôi cũng không thực hiện được ý định tìm tự do mà tôi hằng ôm ấp. Hơn thế nữa, xét mình không giúp ích gì mà còn là một gánh nặng cho anh em, tôi xin rút lui khỏi đoàn và xin chúc anh em gặp mọi sự may mắn hơn tôi...

Nhiều tiếng xì xào nổi lên...Viên kỹ sư nghiêm nét mặt rồi lạnh lùng hỏi:

- Đi theo đoàn là tùy tâm, không bắt buộc, nhưng bạn ở lại, bạn có biết những hình phạt bạo quyền sẽ giành cho bạn không?

- Biết...Tử hình...!

- Vậy mà bạn đành chịu lãnh án tử hình?

- Khi cùng đường, tôi sẽ có cách tự xử. Tôi tự kết liễu cuộc đời...

Nhiều người nhìn nhau thở dài như chợt nghĩ đến thân phận mình. Người kia nói xong, ngồi xếp trên bọc hành lý, cúi gầm xuống nhìn đôi giầy dính đầy tuyết. Ba người trong ban chỉ huy thảo luận thầm thì với nhau một lát rồi nhà văn đút hai ngón tay vào miệng. Một tiếng còi ré lên tan liền trong bầu không khí lạnh và vô cùng tận của sa mạc. Lệnh lên đường đã ban hành.

Mọi người lục tục bước theo hàng, mỗi người cầm một cây gậy để chống trên tuyết. Sau cơn bảo, trời quang đãng trở lại. Được một quãng, người hướng dẫn ra lệnh ngừng. Khi đó, mọi người mới biết là viên kỹ sư và viên sĩ quan cao cấp còn ở lại thảo luận với người "bỏ cuộc" hồi nãy, chưa theo kịp đoàn.

Lát sau, hai người trong ban chỉ huy đuổi kịp cả bọn. Mọi người thấy sắc mặt của hai người nọ bừng bừng sát khí nên không đoán được việc gì đã xảy ra. Đến khi thấy vết máu trên lưng áo của viên sĩ quan, họ mới xì xào bàn tán với nhau, nhưng vẫn chưa dám tin là "chuyện đó" có thực.

° ° °

Nhưng "chuyện đó" có thực một trăm phần trăm. Viên sĩ quan và viên kỹ sư đã phải hạ sát người bỏ cuộc, vì sợ hành tung của đoàn tù vượt ngục bị bại lộ vì người này.

Sau vụ thủ tiêu bất đắc dĩ của một đồng chí bỏ cuộc, viên sĩ quan và viên kỹ sư đã rửa sạch các vết máu nhưng không chùi hết một vết máu thấm trên lưng áo. Hậu quả của sự sơ xuất này thật là trầm trọng.

Chiều hôm đó, đến một cánh rừng nhỏ, đoàn tù dừng lại nghỉ ngơi, tìm chỗ trú ẩn. Viên kỹ sư chợt nhận thấy có một bọn chừng 10 người ngồi riêng ra một chỗ và đang xầm xì bàn tán với nhau. Viên kỹ sư lảng vảng lại gần thì họ ngưng bàn tán, rồi bắt sang nói chuyện khác. Thái độ của bọn này từ lúc đó có vẻ bí mật, không tự nhiên nên viên kỹ sư phải ngầm báo động ngay cho hai người bạn đặng đề phòng. Đêm hôm đó, ba người trong ban chỉ huy luân phiên nhau canh chừng, luôn luôn thủ khí giới trong tay.

Qua đêm đến sáng, chẳng có chuyện gì xẩy ra hết. Mọi người sửa soạn lên đường, và nhận ra có sự thay đổi về nhân số của đoàn. Kiểm soát lại, thấy thiếu mất mười người. Đúng là bọn người có thái độ bất mãn, nghi hoặc chiều hôm trước. Khi đó viên cựu sĩ quan mới sực nhớ lại rằng vào hồi gần sáng dường như ông ta có nghe những tiếng động do nhiều người bước trên mặt tuyết gây ra, nhưng ông ta tưởng lầm là gió thổi làm tuyết trên cây rớt xuống đất.

Ban chỉ huy tập họp mọi người, báo cáo sự việc đáng tiếc rồi nói thêm:

- Chúng ta chỉ cần những người can đảm, chịu đựng gian khổ và tin tưởng mãnh liệt rằng chúng ta phải tới đích. Cứ đi theo cái mức bình thường, chỉ phải cố gắng trong một tháng rưỡi đến hai tháng là nhiều, sẽ tới thị trấn đầu tiên có thể giúp ta phương tiện muốn đi đâu tùy ý. Nghĩa là khi đó, ta đã đến bến Tự Do để tìm cuộc sống thích hợp với mỗi người...

Một ông lão lạnh lùng hỏi:

- Chúng ta đã đi được bao nhiêu đường đất rồi?

Viên kỹ sư lẩm nhẩm tính rồi đáp:

- Trên dưới 100 cây số...Mới vượt được khoảng một phần mười con đường phải đi.

Nhưng cũng bắt đầu từ buổi sáng hôm đó, một làn không khí chán nản, phảng phất nghi kỵ bao bọc đoàn người vạn lý trường chinh. Họ ít nói chuyện với nhau, lầm lầm lỳ lỳ, người nào cũng lộ vẻ suy nghĩ bí hiểm. Sự bất đồng ý kiến manh nha từ bữa chia khẩu phần thịt chó sói xấy lại phát hiện trong một vài sự việc khác như canh gác ban đêm hay đi săn. Đoàn tù chỉ còn 21 người, nghĩa là còn một nửa.

Chiều hôm đó, trước khi ăn để cầm hơi, họ căng mấy tấm chăn che tuyết rồi cầu kinh khá lâu. Sự tin tưởng ở Đấng Tối Cao chí công chí chính hiển nhiên đã mang lại cho mấy người trong bọn sự bình tâm và sự hăng hái. Đã có người mỉm cười buổi sáng khi thức dậy.

Nhưng việc phải đến đã đến. Đến ngày thứ 25 trong cuộc trường chinh, chỉ còn lại một nhóm 4 người, sau khi chịu nhiều sự tang thương biến đổi. Một số đoàn viên quá nản chí trước những gian nan nguy hiểm do vấn đề lương thực gây ra vì yếu tố may rủi là yếu tố chính hoàn toàn chi phối sự sống của họ, một số khác quá kiệt sức buộc lòng bỏ cuộc, đành ngồi lại trong rừng rưng rưng nước mắt nhìn theo các đồng chí lên đường, xa dần, nhỏ dần trên sa mạc tuyết. Lại có người không chống chỏi nổi với bệnh hoạn, buổi tối còn lẩm nhẩm cầu kinh rồi sáng hôm sau không đứng dậy nữa, chẳng một lời từ biệt...

Tối hôm trước, khi bọn tù vào ẩn trong rừng, chỉ còn vỏn vẹn ba người trong ban chỉ huy với một ông già trên 50 tuổi và một thanh niên đúng hai mươi. Nhưng sáng hôm sau, ông già đã lên đường sớm hơn mọi người để tìm Tự Do ở một thế giới khác, chỉ có trong niềm tin của những người có đạo. Ông già vẫn ngồi trên bọc hành lý nhỏ, lưng dựa vào một chỗ lõm của thân cây nhưng độ lạnh của tuyết đã khiến cơ thể ông cứng nhắc liền sau khi mạch đập vừa ngừng.

Mặc dầu vậy, 4 người còn lại vẫn phải lên đường. Ban chỉ huy đã tự ý giải tán vì hết đoàn viên! Viên kỹ sư nhờ có nhiều khả năng đặc biệt, sức mạnh tinh thần và thể chất ít có nên vẫn được 2 người tín nghiệm và yêu cầu dẫn dắt họ. Liệu viên kỹ sư còn dẫn dắt họ được bao lâu nữa?

Bốn người đã phải nhịn đói gần một ngày vì cạn lương. Mãi đến chiều hôm qua mới bẫy được con chồn nhỏ xíu không đủ bốn bữa ăn trong 48 tiếng đồng hồ cho 4 người. Thanh niên nọ đang sức ăn, lại bị đói suốt ngày nên không ăn dè được mặc dầu đã có lời khuyến cáo của nhà văn. Chỉ từ sáng đến tối, khẩu phần dành cho hai ngày đã chui hết vào bụng thanh niên một cách thòm thèm.

Tình hình lương thực như vậy, nên hôm nay, mới quá trưa một lát, cả bọn phải vào một cánh rừng tìm thú. Viên kỹ sư vẫn có một chiếc rìu, viên sĩ quan một con dao rừng, nhà văn đeo một con dao găm to bản, thanh niên nọ thì lúc vượt trại giam đã kiếm đâu được một sợi dây kẽm gai dài mà cậu ta chấp lại làm bốn thành một võ khí trông khá dữ dội, cầm lắt lẻo trong tay. Từ ít ngày nay, không người nào để tay không mà luôn luôn cầm võ khí. Họ rất ít nói và lộ vẻ đăm chiêu. Họ nghĩ gì? Và họ đề phòng sự gì?

Cho tới xẫm tối bữa đó, không săn được con mồi nào hết. Cả bốn người đều phải nhịn đói tìm chỗ trú ẩn dưới hốc cây mà ngủ cho qua đêm. Sự thật thì ba người kia -trừ anh thanh niên- đều còn một ít lương thực nhưng họ phải để dành cho ngày hôm sau.

Bốn người ngồi dựa lưng vào nhau cho bớt lạnh. Nhưng nào họ có ngủ được! Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh! Quá nửa đêm, ba người kia mới chớp mắt được một lúc lại giật mình thức dậy vì thanh niên nọ cứ lục đục ngọ nguậy hoài, làm sô lệch mấy bọc hành lý lót bên dưới chỗ họ ngồi ngủ.

Vừa sáng, viên sĩ quan giật mình tỉnh dậy trước tiên vì thấy như có vật gì luồn dưới bọc hành lý. Ông ta đứng nhổm lên, bắt quả tang thanh niên nọ đang luồn tay vào trong bọc hành lý của ông ta lấy trộm miếng thịt xấy. Ông ta thét lên một tiếng dọa nạt thì thanh niên nọ bất ngờ xô nhà văn ngã lăn cù ra xa, để cướp miếng thịt xấy bằng bàn tay mà hắn đã moi ra ngoài bọc được quá nửa. Thanh niên nọ dữ tợn như con thú điên. Trong lúc thảng thốt, có lẽ tưởng rằng chính mình bị cướp đoạt, sẵn con dao rừng vừa tầm tay, viên kỹ sư vung lên rồi bổ lại xuống một nhát. Đầu thanh niên hứng chịu cả sức mạnh của lưỡi dao, chỉ nghe "phập" một tiếng rồi thanh niên nọ loạng choạng ngã vật xuống đống tuyết, cây roi bằng kẽm gai chập lại chưa kịp sử dụng từ tay hắn văng ra xa.

Sự việc xẩy ra bất ngờ. Ba người kia đứng lặng nhìn xác của người bạn trẻ, không nói một lời. Sau cùng, một người nuốt nước miếng, lên tiếng trước tiên:

- Hắn có lỗi vì xâm phạm vật sở hữu của người khác. Dù sao, việc này cũng rất đáng tiếc...

Viên kỹ sư nói rồi nhìn hai người bạn dò xét phản ứng. Hai người này mặt tái nhợt như xác chết, vẫn không nói một tiếng...Nhà văn quay đi nhìn nơi khác, thở dài suy nghĩ.

Ba người xách hành lý ra cách xa đó mươi bước chân rồi lấy lương thực ra ăn, mặc dầu là khẩu phần cuối cùng. Họ đói quá, không nhịn lâu hơn được nữa. Khi ăn, mỗi người nhìn đi một phía như sượng sùng không muốn trông mặt nhau. Dù sao, lương tâm của họ cũng không thể yên ổn được. Người thanh niên kia là một đồng chí, đã chia sẻ những phút nguy hiểm từ đầu đến cuối và đã quyết theo họ đến cùng để tìm Tự Do.

Vậy mà nay chính thanh niên đó lại bị chết trong tay một đồng chí!

Ăn xong, theo ý kiến của viên kỹ sư, ba người lại đi sâu vào rừng để săn thú lấy lương thực. Cho đến quá trưa không gặp một con thú nào hết, ba người đành phải quay lại gốc cây nơi giấu hành lý. Cách mấy mươi bước chân là xác của người chết, tuyết phủ gần kín. Ba người lầm lầm lì lì, bụng đói, tâm hồn nặng chĩu lo âu bực dọc. Những ngày sắp tới ăn bằng gì đây? Rừng mỗi ngày một thấy xác xơ hơn, không loài cầm thú nào sinh sống nổi. Mà muốn sống để đi đến đích phải có gì bỏ vào bụng mỗi ngày, không thể thiếu được.

Đêm hôm đó, cả ba bóp bụng trống rỗng leo lên cây ngủ.

Viên cựu sĩ quan là người háu đói nhất, đã dậy từ lúc nào không ai biết. Khi hai người kia thức giấc, thấy ông ta đứng nhìn xác thanh niên với một vẻ mặt khó tả, vừa sợ hãi vừa hung tợn. Nhà văn liếc nhìn viên kỹ sư có ý ngầm hỏi, ông này nhún vai một cách lờ mờ khó hiểu.

Hình như xác thanh niên nọ có mang một cái gì hấp dẫn lắm nên viên cựu sĩ quan để hết tâm trí vào đó, không biết ở phía này, hai đồng chí đang theo dõi nhất cử nhất động của ông ta. Lát sau, lại thấy ông ta lúi húi cúi xuống, tháo chiếc giày của xác chết ra, rồi cầm dao chặt mạnh xuống vật gì trên mình xác chết.

- Này, anh bạn! Làm cái gì vậy?

Lúc đó, một cẳng chân của xác chết đã bị chặt đứt băng khỏi thân thể. Chà! Cái bắp chân núc ních những thịt, trông bắt thèm. Viên cựu sĩ quan đăm đăm nhìn như đang ước lượng sức nặng của miếng thịt tươi tốt, trắng như thịt heo mới cạo sạch sẽ. Nghe hỏi bất ngờ, ông ta giật mình, cười ngượng:

- Liệng bỏ ở đây, thú rừng cũng sẽ ăn hết. Chi bằng mang đi theo một cẳng làm...kỷ niệm!

Viên kỹ sư bỗng bật cười lên khanh khách như người điên, nghe mà bắt rùng mình. Ông ta mân mê cái rìu trong tay rồi hỏi với một giọng gần như khiêu khích:

- Vậy chớ tôi cũng mang một khúc làm..."kỷ niệm" được không?

- Được chớ! Cả ba chúng ta đều có phần tình cảm bằng nhau đối với "hắn", nên có quyền được mang theo những kỷ niệm "nặng" bằng nhau về "hắn".

° ° °

...Kể từ ngày vượt ngục, đây là lần đầu tiên họ có điều kiện ăn no đủ nhất. Nhưng vì một lẽ dễ hiểu, họ nhai một cách gượng gạo và nuốt rất khó khăn những miếng thịt người xấy kỹ, nghẹn ngào như bị một bàn tay vô hình chặn lấy họng, không cho nuốt.

Rồi ba người lại thu xếp lên đường một cách vội vã như sợ trông thấy những hình ảnh nhắc nhở họ sự việc ghê tởm đã xảy ra.

Số lương thực mang theo khá nhiều, đầy đủ cho một thời gian hai mươi ngày là ít. Ngoài ra, mỗi người lại còn một bọc hành lý và khí giới, tất cả đều khá nặng nề trong cuộc trường chinh nên họ không đeo trên lưng mà kéo lê hành lý trên mặt tuyết. Ba người bèn làm một cái khung bằng cây, giống như khung của chiếc xe "kéo trên tuyết" (Traineau), xếp hết mọi thứ lên trên ngoài khí giới rồi dùng một sợi dây dài buộc vào kéo theo. Như thế gọn hơn lại đỡ mệt sức.

Từ cái buổi sáng ghê sợ đó, thái độ và tính nết của ba người thay đổi hẳn...Ít nói, chỉ nói khi thiệt cần. Viên kỹ sư từ sáng đến chiều luôn luôn trầm ngâm, viên cựu sĩ quan càng lầm lì hơn trước và thỉnh thoảng phải nhìn trộm hai người kia. Còn nhà văn nét mặt u tối, đăm chiêu, nhưng khi nghỉ ngơi cố ý ngồi cách xa hai người bạn, lấy bút hí hoáy ghi vào cuốn sổ tay rồi cất trên túi áo ngực. Hai người kia nhiều lúc tò mò muốn biết nhà văn ghi những gì, song không hỏi.

Có lương thực đầy đủ nên họ có sức chịu đựng, đi đều đặn hơn trước từ trưa cho đến xế chiều, mới kiếm chỗ nghỉ ngơi. Sự mệt nhọc giảm rất nhiều.

Chiều đó, như thường lệ, họ vào trú ẩn trong một khoảng rừng, đốt lửa nướng lại phần thịt mang theo. Trong lúc quân quần bên ngọn lửa, nhà văn lạnh lùng cất tiếng hỏi viên kỹ sư:

- Còn chừng bao nhiêu lần nữa thì...hy vọng tới?

- Nếu tính không lầm và nếu ta không đi sai đường, khoảng hơn một tháng nữa!

Rồi viên kỹ sư rút trong túi ra một bản đồ vẽ tay. Y chỉ chỉ, vạch vạch trên bản đồ, tính cộng lại những quãng đường đã qua, thời gian đi mỗi ngày, ngày nào có người chết, có người trốn, nhất nhất viên kỹ sư đều ghi rõ.

Ăn xong, trong khi hai người kia đang kiếm chỗ ngủ, nhà văn lững thững đi ra xa một quãng để thỏa mãn một nhu cầu về tiêu hóa.

Ít phút sau, bỗng có tiếng la hét rùng rợn từ phía sau một gốc cây lớn đưa lại, hai người bạn lật đật xách khí giới chạy tới tuy chưa hiểu chuyện gì. Đến nơi, họ thấy nhà văn đang bị một con chó sói tấn công rất hiểm nghèo.

Nguyên con chó sói lạc loài này đi theo rình ba người tù đã hai tiếng đồng hồ mà họ vô tình không biết. Không dám tấn công vì thấy lực lượng của người mạnh hơn, nó đành lẽo đẽo theo, chờ cô hội. Lúc ba người ngồi ăn, chó sói nấp sau một gốc cây, thèm chẩy rãi. Chẳng may, nhà văn lại tự dẫn thân đến miệng nó. Khi vừa nhận ra có mùi khác lạ của thú vật, ông ta chưa kịp đứng lên, chó sói đã phi tới như tên bắn, chồm lên cắn vào cổ và đè dí xuống. Ngã ngửa trên tuyết, vừa la được mấy tiếng kêu cứu, nhà văn đã bị chó sói táp một miếng vào cổ họng rồi tha đi một quãng. Viên kỹ sư lật đật xách rìu đuổi theo, phang mạnh một đòn trúng giữ sống lưng chó sói, nó mới chịu nhả mồi, khập khiễng bỏ chạy.

Đêm hôm đó, nhà văn nóng mê man, cổ họng bị rách toác, không trả lời được những câu hỏi của hai người bạn, chỉ ra hiệu một cách khó nhọc. Bị thương vào chỗ phạm, máu ra nhiều, phần khác, vì thời tiết quá lạnh, sự đau đớn tăng thêm nên nhà văn kiệt sức rồi lịm chết trước khi trời sáng rõ. Trước đó, hai người bạn đốt lửa sưởi cho người bị thương và đề phòng chó sói quay trở lại tấn công, họ đành leo lên cây ngủ. Đến sáng, họ mới dám leo xuống, người bịnh đã chết từ lúc nào. Cũng may! Con chó sói bị thương không quay lại.

Lương thực của người chết được lấy ra chia đều làm hai phần. Nhờ thế, số lương thực dự trữ của hai người còn sống lại tăng thêm nên hai người cho là tạm đủ đến khi săn được thú rừng. Vả lại, nếu đem thêm lương thực nữa thì nặng quá, đi mau không nổi.

Thật ra, chỉ vì lúc này hai người không bị cái đói thắt ruột thắt gan dầy vò nên cả hai đều không đủ can đảm chặt lấy hai bắp đùi và hai cánh tay mang theo. Nhờ đó, người bạn chết được vùi sâu dưới tuyết, đầy đủ cả thân hình.

° ° °

Tính đến hôm nay, hai người tù còn lại đã vượt sa mạc tuyết được thêm 25 ngày. Sự vất vả mỗi ngày một nhiều, đã có lúc tưởng bỏ thây ngoài sa mạc vì gặp bão tuyết. Nhiều lần, lại thấy cả vết chân hàng đàn chó sói.

Ban đêm, họ đều ngủ trên cây nhưng mỗi người một nơi. Và cẩn thận hơn, họ đem theo luôn cả bọc hành lý, lương thực cất kỹ càng ngay kế bên họ cùng khí giới. Viên kỹ sư không lúc nào rời chiếc rìu. Còn viên cự sĩ quan vẫn có con dao rừng to bản cán dài. Lúc sau này, một người chiếm con dao găm nhà văn đã bỏ lại, còn người kia chiếm luôn cây roi bằng dây kẽm gai của thanh niên bị hạ sát.

Cả hai đều đề phòng cẩn thận hơn trước nhiều, làm như kẻ thù lúc nào cũng lẩn quẩn trước mặt! Thật là kỳ cục vì không hề có hình bóng một người thứ ba.

Thì ra, hoàn cảnh bất ngờ đã đưa hai người đến một tình trạng thê thảm lạ lùng.

Hai người tù khổ sai kia, đồng một chí hướng, không thể sống dưới một chế độ tàn bạo nên liên kết lại để có thêm sức mạnh đặng vượt ngục. Giờ đây, họ có thêm một kẻ thù tàn bạo ghê gớm không kém mà hàng ngày, hàng giờ họ phải chống cự rất gay go.

Đó là thần đói.

Cái đói làm thay đổi nhãn quan của con người, làm thay đổi luôn lòng dạ và quan niệm về sự sống còn và cái chết.

Do đó, hai người sống sót cuối cùng của đoàn người vượt ngục bắt đầu đề phòng nhau vì họ bắt đầu kính sợ, ghê tởm nay. Hai bên sức lực gần tương đương nên cuộc tranh sống sẽ rất gay go gian khổ.

Đã hơn mười ngày, họ không đánh bẫy được con mồi nào để bù đắp số lượng lương thực hao hụt lần mòn. Những ngày họ sống trên sa mạc tùy thuộc vào số lương thực dự trữ. Nói một cách khác, ăn hết đến đâu đời sống của họ thu ngắn lại đến đấy. Hai người cũng biết như thế nên cùng bị một nỗi ám ảnh. Tuy vậy, họ cứ không thể rời bỏ nhau mà vẫn phải đi cùng một đường nhưng cách xa nhau vừa đủ để người nọ không thể tấn công bất ngờ mà người kia không kịp đối phó.

Cái xe kéo trên tuyết đã liệng vào một xó rừng. Lúc này, người nào vác hành lý của người nấy, riêng biệt. Viên kỹ sư vẫn là người dẫn đường vì có địa bàn, viên cựu sĩ quan vẫn lẽo đẽo theo nhưng đi ngang hàng, bên tay mặt hoặc tay trái. Như thế, lúc nào hai người cũng vẫn "thấy" nhau mà không cần nhìn.

Cả hai cùng có một nhận định đáng sợ: Người nào chịu đựng được lâu hơn dù chỉ một tiếng đồng hồ, là người ấy sống. Muốn thế, cần phải ăn ít hơn mỗi bữa một vài miếng, chịu đói gan hơn và nhất là ít và tỉnh ngủ hơn. Khi ngủ say, làm sao đỡ hoặc tránh được một nhát búa hay một nhát dao vào đầu.

Rồi thì lương thực cũng hết mà đã hai ngày ròng đã không gặp một con thú rừng nào. Viên cựu sĩ quan có tật háu đói, đã có lúc phải vặt mấy cái lá cây rừng nhai. Hoặc giả lão ta đã bắt đầu mất trí? Lão đói quá, đói không chịu nổi, đói từ sáng đến chiều và từ chiều đến sáng, liên miên bất tận. Có lúc lão ta toát mồ hôi đẫm lưng trong khi tuyết rơi lả tả chung quanh. Cả hai người bạn cùng lấy vẻ thành thực nói cho nhau biết đã cạn hết lương thực dự trữ rồi và đành chịu chết đói. Nhưng trong thâm tâm, người nào cũng tha thiết mong mỏi người cùng thề nguyền sống chết với mình ngã gục xuống trước mình dăm, mười phút là đủ. Đủ cho mình sống thêm một thời gian khá dài nữa.

Cả hai cầm khí giới trong tay, sẵn sàng tấn công và sẵn sàng tự vệ. Viên cựu sĩ quan nhìn viên kỹ sư một cách căm thù hiển nhiên vì hắn biết người kia nói dối, còn hai miếng thịt bằng bàn tay giấu trong mình mà nói là hết, chờ đến tối mới kín đáo lấy ra ăn một mình. Sáng hôm sau hắn năn nỉ mãi, bạn hắn mới liệng cho một miếng bằng ngón tay trỏ và ngón tay giữa chập lại. Rồi nhất định không cho nữa, mặt hầm hầm, tay lăm lăm cán rìu. Viên sĩ quan ước lượng sức khỏe của địch thủ ngang tay với mình, lại còn nhanh nhẹn hơn nên tính hạ thủ hắn bằng sức mạnh, ắt không xong. Phải tìm thế đánh bất ngờ mới mong có kết quả.

Viên kỹ sư lặng lẽ đi, bước hơi mau hơn lúc thường khiến viên cựu sĩ quan phải cố gắng mới đuổi kịp. Y thấy mồ hôi khi không lại toát ra đẫm mình rồi ruột gan thắt lại vì đói, cẳng chân rời rã không muốn nhấc nữa. Song y vẫn phải bám sát, không thể bỏ người bạn đồng hành, chẳng khác chi con chó đói đuổi theo miếng mồi. Lúc đói, người ta không còn bạn, chỉ có địch thủ giành ăn để sống.

Viên cựu sĩ quan thầm nhủ: Phải hết sức tỉnh táo mới được! Giây phút này là giây phút của định mệnh. Tâm trí mình bàng hoàng, tay chân mình lẩy bẩy là...không xong rồi.

Hắn rảo bước và hướng chênh chếch về phía viên kỹ sư với mục đích sát lại gần đối thủ mà không muốn cho đối thủ nhận thấy dụng ý của hắn. Đằng kia, viên kỹ sư vẫn lầm lũi bước, nửa mình trên ngả về trước, nhìn thẳng, cây rìu cầm chắc bên tay trái. Viên cựu sĩ quan lại nghĩ thầm:

- Thắng cha này thuận tay trái. Vậy phải nhớ: Ta từ phía trái tiến lên.

Rồi đặt một kế hoạch tấn công chớp nhoáng. Thời gian này đây, chỉ còn mỗi "cách đó" để tự cứu.

Trong khi ấy, viên kỹ sư vẫn lầm lũi bước như không hay gì hết.

Hai người chỉ còn cách nhau mươi bước chân thì vừa vặn tới hàng cây đầu tiên của một khu rừng thưa. Vẻ mệt nhọc, viên kỹ sư đặt bọc hành lý dưới gốc rồi ngồi lên trên, chống cây rìu xuống tuyết, ngẩn nhìn người bạn cùng đường.

- Lại mất một dịp thuận tiện rồi!

Viên cựu sĩ quan nghĩ thầm như vậy một cách tức tối rồi cũng đặt hành lý bên gốc cây. Nhưng lão ta không ngồi mà đứng, tính toán mưu kế và ước lượng địa thế. Hai người cách nhau khoảng sáu thước, nghĩa là chỉ ba bước nhẩy là tới bên, vừa tầm tay.

Bỗng viên kỹ sư thò tay vào trong ngục móc ra một khúc thịt bọc bên ngoài một ống xương chân. A! Lần này hắn không cần giữ gìn che dấu nữa mà ăn ngay trước mặt địch thủ. Hiển nhiên là một sự thách thức, hắn đưa thịt vào miệng cắn một miếng nhai ngon lành, mắt long lanh một vẻ thỏa mãn. Vừa ăn hắn vừa nhìn nơi khác để khỏi trông thấy người kia đang nhăn nhó chìa tay ra xin như một kẻ hành khất sắp chết đói. Hai con mắt viên cựu sĩ quan vẫn đăm dăm nhì, lóe ra những tia sáng thèm giết người. Rồi miệng hắn nhếch thành một nụ cười, rãi rớt chảy lòng thòng như rãi chó sói.

Trong khi đó, viên kỹ sư lạnh lùng nhai nhồm nhoàn, mắt lấm lét liếc ngang liếc dọc, nhưng vì say mê với miếng ăn, không biết rằng kẻ địch đang nhích lại gần, chỉ còn một bước là nhẩy tới...Đúng lúc đó, xẩy ra một sự việc bất ngờ. Khi dằng cho đứt một miếng đã ngậm một nửa trong miệng, viên kỹ sư dùng quá sức nên tuột tay, cả một khúc xương còn dính thịt văng xuống mặt tuyết, khoảng giữa 2 kẻ thù. Nhanh như cắt, viên cựu sĩ quan lăn xả tới, ngả người trên tuyết chụp lấy khúc xương đưa ngay vào miệng. Giữa khi đó, nhanh hơn cắt, một đường búa đã vung lên tựa ánh chớp đập trúng gáy người nằm trên tuyết, khiến khúc xương văng ra xa. Người bị thương mất trí liền sau khi trúng đòn, cố nhỏm lên mà không nổi, còn ngơ ngác ngước nhìn kẻ đã giết được mình thì một đường búa thứ hai lại đập trúng giữa sọ hắn. Sau nhát này, hắn nằm thẳng cẳng không cục cựa, máu tuôn xối xả.

Liền sau đó, giữa sa mạc mênh mông, những tiếng cười -hay những tiếng khóc thì đúng hơn- nổi lên, man rợ và đau đớn, vừa hùng tráng tàn bạo lại vừa thảm thiết thê lương. Chó sói nghe thấy cũng phải rùng mình khiếp hãi mà chạy trốn.

...Bóng tối buông xuống dần trên sa mạc tuyết lạnh lẽo, phủ lên một cái xác chỉ còn khúc giữa. Đằng xa, một bóng người nặng nề mỏi mệt lẻ bước vào trong rừng...

°

Bốn tháng sau đó, một buổi chiều, tại một tiệm rượu đường X...ở Thủ Đô Varsovie (Ba Lan), một người đàn ông hốc hác kể xong câu chuyện cho mấy bạn nghe, run rẩy đưa tay lên vuốt mồ hôi tên trán, trên mặt, nốc một hơi cạn ly rượu, rồi quay về phía quầy rượu, quát lớn.

- Ê bồi! Rót cho tao ly rượu nữa đấy! Một ly cối nghe. Tao phải uống để quên hết chuyện cũ...

Đó là một nhân vật độc nhất còn xót lại trong số 43 người tù khổ sai vượt ngục Tây Bá Lợi Á kể trên.

Nhưng 3 tháng sau, y phát điên thật sự, phải nhốt vào "Trung Tâm Những Người Mất Trí". Luôn luôn lúc cười lúc khóc, y chối bai bải - dường như với người vô hình đứng trước mặt- rằng y không hề ăn thịt mấy người bạn "cùng vượt ngục".

_________________________

12. 982 nhăn nhó vì hai cẳng chân tê dại trong chiếc cùm, gần như không thể sai khiến được nữa. Anh ta cầm mép cùm kéo hai cẳng chân lại gần rồi bóp từ đầu gối xuống bắp chân, đến đầu các ngón chân cho máu chảy đều hòa. Lúc đó, trăng sắp lặn. Anh ước đoán là 4 giờ sáng. Rồi không sao ngủ lại được nữa.

Vụ 43 người tù khổ sai vượt ngục Tây Bá Lợi Á lần lượt diễn ra trước mắt anh như một cuốn phim dài linh động, nhất là khúc cuối thật bi thảm chua xót.

Quay về hiện tại, 982 rán sức tập trung tư tưởng để sắp xếp trong trí những kế hoạch vượt Trại Giam Đầm Đùn, rời bỏ túp lều phong vương này. Anh tính nhẩm: Còn bốn ngày nữa để chuẩn bị.

Bữa nay là Rằm, trăng tròn. Đợi đến tối 19, trăng hạ tuần mọc rễ, xẩm tối sẽ trốn trại, chạy vào ẩn trong rừng rồi đợi trăng mọc, anh sẽ nương ánh trăng lu mà cao chạy xa bay. Sau nữa ra sao, đành nhờ Trời, nhờ số phận. Có một điều bất lợi là anh không thuộc đường lối trong địa phương Thanh Hóa. Nhưng tùy cơ ứng biến, anh sẽ hỏi thăm đường về Chi Nê, Nho Quan rồi từ đấy sẽ kiếm cách vào làng Tề, là thoát!

Ước gì giữa đường gặp mặt trận, công việc sẽ dễ dàng biết bao nhiêu!

982 lại quay về thực tại. Sự việc cần phải giải quyết trước khi vượt ngục, ngay giờ phút này đây là vấn đề ăn, uống, nghĩa là vấn đề đói, khát. Phải làm sao cho khỏi phải ăn gạo sống, tránh uống nước vũng. Nếu không, mọi việc đều hư hết, anh sẽ mắc bệnh "phân cò" như mọi người bị phong vương trước anh, và vấn đề vượt ngục sẽ coi như không có. Như thế, chỉ còn mỗi việc là ngồi hay nằm chờ chết, cho tới khi chết thực sự, không nhổm dậy được nữa.

Cả ngày hôm qua cũng vẫn không gặp thằng nhỏ Hợi làm ở ban thợ rèn. Và cả Toàn cũng biệt tích luôn. Mới có một ngày 982 bị gạt ra ngoài cuộc sống chung trong trại mà đã thấy dài thật là dài. Đúng vậy: Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Nhưng phải là một ngày ở lều phong vương thì câu ví mới đúng hết ý nghĩa của nó.

Cái đêm đầu tiên ngủ tại lều phong vương thật là đêm thê lương khủng khiếp mà 982 sẽ nhớ mãi, nhớ suốt đời cho đến khi xuống lỗ. Cái cảm giác rõ rệt nhất là cảm giác cô đơn, sợ hãi. Nằm trên "long sàng" bằng tre mà 982 tưởng là nằm dưới mộ, nghe gió thổi rào rào lạnh lẽo như mưa đêm Đông. 982 nhận chân một sự thực, anh đã bị gạt ra ngoài cộng đồng Đầm Đùn trước khi bị gạt ra ngoài nhân thế. Vừa đói bụng lại vừa lạnh, rét từ trong ruột rét ra, anh đã cắt một đường sợi gai ở đáy bao tải vừa đủ rộng để chui lọt đầu rồi chụp luôn bao tải vào mình, thò đầu ra ngoài bao, hai tay lùng bùng ở bên trong quấn chặt bao tải vào mình. Ấy vậy mà khí lạnh vẫn thấm vào trong người khiến 982 run lên từng hồi.

Gió từ trong rừng thổi ra, rít lên từng chập như tiếng thở dài của sơn lâm. Mấy cây cột rung rinh, mái rạ rào rạt như bị bốc đi đến nơi. 982 nhích lại nằm sát bên cây cột, đề phòng gió thổi sập lều sẽ ôm chặt cứng cây cột.

Cách một giờ, tiếng mõ cầm canh của cảnh vệ lại lóc cóc một hồi. Rồi yên lặng hoàn toàn.

982 nghe nói hồi trước đó, sàn nằm của lều phong vương hẹp lắm, mỗi bề không quá 90 phân, tù nhân phong vương chỉ ngồi chứ không nằm. Vì chỉ có một khoảng từ bả vai đến mông đít được nằm, còn đầu và hai cẳng chân thì lủng lẳng chênh vênh "chân chẳng đến đất, cật chẳng đến giời". Nằm trong tư thế đó, mỏi đến gẫy xương nên tù nhân chỉ ngồi còm cọm sáng đến tối ngày. Nay, không biết vì lý do gì ban quản trị cho làm lại sàn lều rộng rãi để tù nhân nằm một cách thoải mái đàng hoàng. Nhờ vậy, đêm hôm trước, 982 chợp mắt từ canh ba cho đến gần sáng. Anh cần ngủ để quên đói.

Chiều hôm qua, vì đói quá, anh ta đành bỏ mấy dúm gạo sống vào miệng nhai nát rồi chiêu ngụm nước. Nhai xong gạo lại thấp thỏm sợ vì lo mắc bệnh "phân cò". Đến tối, trước khi "đi ngủ" anh bốc hết gạo vào trong mảnh áo, gói kỹ rồi giữ luôn bên mình. Phòng đang đêm, cần dúm gạo nhai cho đỡ đói. Lại nữa, chuột bọ khỏi ăn mất. Nghĩ đến chuột, 982 hơi hy vọng. Trước khi cất bọc gạo, anh ta đếm đủ ba chục hạt gạo, vãi trên một mảnh là chuối khô, đặt trên sàn lấy đồ đè lên kỹ cho khỏi bay. Nếu sáng dậy, thấy mấy chục hạt gạo biến mất, ắt là đã có chuột tới. Như thế, anh sẽ tìm cái bẫy chuột, vì thịt chuột ăn rất...ngon nếu được nấu chín đàng hoàng. 982 lẩm bẩm: Sáng mai, sẽ lạy van giám thị xin được để trên sàn lều một cành cây, phòng đêm hôm có rắn leo lên sàn thì đuổi. Sự thực anh sẽ dùng cành cây đập chuột, lấy thịt ăn. Ăn bằng cách nào, 982 chưa nghĩ tới, bẩy được chuột, nghĩ cách cũng chưa muộn.

Trời sắp sáng rõ, tuy thế sương mù còn dầy đặc trong rừng và trên những lùm cây. Chưa có lệnh kẻng, tù nhân chưa được ra sân, nhưng giám thị và mấy tên cảnh vệ đã đi lại trong sân trại. Bọn này vẫn phải có mặt dưới trại từ trước lúc có tiếng kẻng.

Nghĩ đến ăn cơm, 982 thấy thèm rõ rãi, mặc dù khẩu phần hạng C không đủ vào đâu cho tù. Tuy vậy, tù chỉ đói dài mà chưa đến nỗi chết. Giờ đây, 982 lại không có cả hai chén "cơm chín" mà chỉ được hai nắm gạo sống mỗi ngày! Hai ngày nay, không có "hơi cơm chín" vào bụng, cơ thể anh ta yếu đi nhiều lắm. Bất giác 982 tha thiết cầu mong được ân huệ trở lại làm tù nhân thường tội dù khẩu phần C cũng tốt! Anh biết mong ước đó đối với anh từ lúc này, không thể nào thực hiện nổi. Rồi 982 triết lý vụn: Cái khổ cũng như cái sướng lại còn có cái sướng hơn, và sướng hay khổ là do sự so sánh mà có.

982 vẫn tiếp tục vẩn vơ suy nghĩ, nhìn về phía nhà tiểu công nghệ. Tù nhân đang tấp nập bưng cơm từ bếp lên. Hơi nóng từ các chảo cơm bốc lên nghi ngút, ăn được chén cơm nóng no lòng ấm bụng, khỏe sức biết là dường nào. Người ta sinh ra, ai cũng có quyền có chén cơm, đến con chó nuôi cũng được quyền có miếng cơm, vậy mà 982 không bằng con chó, vì có ai bắt chó mình nuôi phải ăn gạo sống thay cơm bao giờ!

982 thấy uất ức, phẫn nộ căm thù cả xã hội loài người, căm thù cái chế độ vô nhân đạo! Ý định vượt ngục lại sôi lên sùng sục trong lòng.

- Nhưng quái lạ! Không thấy giám thị tới mở cùm cho mình xuống dưới đất!

982 băn khoăn lo lằng, chờ đợi trong sự phập phồng.

Đến lúc tù nhân, đám sắp hàng đi làm củi, toán đi cuốc đất, người gánh nước tưới rau hay ra ngoài ruộng cuốc đất làm màu, trại vắng hẳn người mà vẫn không thấy bóng vía giám thị đâu hết. Bụng rân rân đau khó chịu, 982 đành phải men ra mép sàn, nắm lấy cột lều cho khỏi té, lom khom nửa đứng nửa ngồi vì vướng cùm ở chân, rồi tống các chất thừa trong bụng xuống bên dưới sàn.

° ° °

684 ngừng tay thụt bể, cầm xẻng xúc đầy than đá lấp kín lên đống than hồng. Không biết có chuyện gì, giám thị vừa tới gọi tù thợ rèn lên văn phòng ban quản trị. Thằng nhỏ thứ hai phụ việc ở lò rèn bữa nay được cắt công tác gánh nước tưới ruộng cà, đến trưa mới về. Thỉnh thoảng, một trong hai thiếu niên thuộc ba thợ rèn vẫn phải cắt đi làm công tác bên ngoài một, hai buổi những khi kẹt người. Lúc này, chỉ có một mình 684 ngồi bên lò rèn. Hắn đem một cuộn sắt tròn cũ ra, nắn lại cho thẳng theo lệnh của trưởng ban thợ rèn trước khi hắn ta lên văn phòng. Nắn xong là cắt ra từng khúc 12 phân một, để rèn thành mắt xích làm xiềng cho tù.

684 nhớ lại câu chuyện tán ri-vê hôm vừa đây mà tù nhân 982 bị tên thợ rèn cố tình cho trượt búa vào mắt cá chân để lột lấy chiếc áo cánh còn tốt. Lúc đó, vì thương hại 982 nên 684 đã ra hiệu cho biết nên đổi áo tốt cho thợ rèn để khỏi bị què chân. Khi giám thị dẫn 982 khập khễnh ra lều phong vương, 684 nhìn theo mà vẫn không nhớ đã gặp 982 ở đâu, trong trường hợp nào. Nhất định 982 không phải là người xa lạ. Cả ngày, cố sức bới trong trí mà 684 vẫn không nhớ ra là ai?

684 vừa nắm cây sắt tròn cho thẳng, vừa suy nghĩ...

Bỗng một người đến trước lò rèn liệng lưỡi cuốc xuống mặt đất, nhanh nhẩu nói:

- Cháu làm ơn sửa dùm...

Thiếu niên ngửng lên nhìn, nhận ngay được Toàn, vui vẻ hỏi:

- Bác cần sửa như thế nào? Tra cán vào cuốc, hả?

- Phải, tra cán vào cuốc. Và làm dùm ngay, nghe cháu?

684 kiếm dao dựa, gọt bớt cán cho vừa lỗ, rồi lanh lẹ đóng chặt cứng cán vào bàn cuốc. Xong, hắn lại còn cẩn thận đóng thêm một cây đinh vào cán, đánh quặp lại cho lưỡi cuốc khỏi lung lay.

Thiếu niên này thường gặp Toàn trong giờ ăn và hai người -một lớn một nhỏ- có cảm tình với nhau. Thấy 684 nhanh nhẹn, mặt mũi sáng sủa, ăn nói ra vẻ con nhà tử tế, cùng thuộc giai cấp tiểu tư sản nên Toàn mến 684, định có dịp thuận tiện sẽ hỏi lý do đã đưa 684 vào trại giam này. Một lần, Toàn đã cho ba thìa đường nên 684 nhớ mãi. Khi đó 684 đang bịnh, thèm một miếng đường kinh khủng.

Bữa nay Toàn xung phong đi cuốc đất trồng khoai. Đang làm, Toàn thấy thằng cha thợ rèn lên văn phòng, anh nghĩ không còn dịp nào tốt hơn, bèn cố ý đẩy mạnh cán cuốc cho gẫy, để có dịp đến lò rèn nhờ sửa lại và được gặp thiếu niên 684.

684 cắm cúi sửa cán cuốc. Toàn bỗng lộ vẻ suy nghĩ nhìn quanh quất một vòng thấy không có người, anh cúi nhìn đăm đăm vào mặt 684, khẽ buông một tiếng vừa cho người đối thoại đủ nghe:

- Hợi!

Thiếu niên vẫn tiếp tục đóng như không nghe. Nhưng Toàn cũng kịp nhận thấy cậu ta hơi giật mình mà trầm tĩnh kịp. Toàn khen thầm 684 còn nhỏ mà có bản lãnh, khẽ gọi lần nữa:

- Hợi! Hợi!!

Lần này, thiếu niên mới ngửng lên nhìn vào mắt Toàn, lạnh lùng và soi mói.

- Bác biết cháu là người thân của bác Dũng. Cháu không cần phải giấu bác nữa. Bác Dũng đang muốn gặp cháu lắm. Cháu không nhận ra bác Dũng sao?

Bây giờ 684 mới nhớ ra người tù phong vương là bác Dũng, đầu năm ngoái vẫn hoạt động trong cùng một tổ chức chính trị với ba của Hợi. Hắn mừng rỡ thốt lên:

- Cháu nhớ ra rồi!

Sau đó, Toàn tóm tắt kể lại cho Hợi nghe 982 đã nhờ anh việc gì. Hợi vẫn nghe, luôn luôn liếc ngang liếc dọc đề phòng có người tới bất ngờ. Toàn nhắc đi nhắc lại:

- Bác Dũng rất cần gặp cháu. Bác ấy đói lắm và đặt hết hy vọng vào cháu đấy.

- Cháu sẽ gặp bác Dũng, bằng bất cứ giá nào.

Toàn vác cuốc đi khỏi, Hợi tiếp tục cắm cúi làm việc. Nhưng tâm trí hắn chỉ nghĩ đến 982. Không ngờ bác Dũng lại bị bắt vào đây cùng với hắn. Một lần kia, ba của Hợi bị bọn cộng sản bắt hụt tại nhà riêng, chúng liền bắt luôn con để thế cho bố. Rồi Hợi bị đưa vào giam tại Đầm Đùn với các tội danh bịa đặt: Làm tay sai cho Phòng Nhì của Pháp! Hợi có máu liều lĩnh gan dạ của bố nên cắn răng chịu tội, nghĩ mưu tính kế chờ dịp vượt trại giam.

Nay gặp đồng chí của bố trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Hợi nhất quyết sẽ giúp ích phần nào.

Còn đang nghĩ ngợi, Hợi thấy 271 quay lại lò với cây cuốc. Lúc đó, tù thợ rèn vẫn chưa về. Toàn xin đóng thêm một cây đanh nữa vào gần cổ cuốc, không thấy ai, Toàn nói vội:

- Cháu nói với bác Dũng rằng bác Thanh ở trên lò than đã về trại, được lưu lại trại vài hôm. Bác ấy hỏi thăm và sẽ đưa bác Dũng ít viên thuốc phòng trường hợp ăn gạo sống bị bệnh tả lỵ. Chiều nay, trong bữa cơm, sẽ chuyển thuốc cho cháu để đưa bác Dũng dùng khi cần.

Rồi Toàn vác cuốc đi thẳng ra ruộng, thoáng nghĩ đến Thanh. Tối hôm qua, sau lúc học tập, Thanh mới tâm sự với Toàn và tiết lộ anh ta là bạn thân của 982. Toàn quyết đoán hai người cùng hoạt động trong một đảng phái quốc gia và bỗng thấy có cảm tình với họ hơn trước. Vừa làm, Toàn vừa liếc nhìn chung quanh, coi có ai để ý đến mình không. Trên bờ ruộng, tên cảnh vệ vẫn đi đi lại lại, coi chừng bọn tù cuốc đất, gánh nước tưới rau và cầy ruộng. Trước khi đi, Toàn lại trình tên cảnh vệ, đưa xem cán cuốc gẫy vì mục và được phép quay về lò rèn sửa lại cán cuốc đàng hoàng. Tuy thế, bản tính nhút nhát Toàn vẫn thấp tha thấp thỏm.

Vừa cuốc như máy, Toàn vừa suy nghĩ tính toán mưu định riêng của anh. Thấm thoát tới cuối tháng 4 rồi. Toàn vẫn chưa "xoay" được lên làm than trong rừng với bọn Tuyên, Thanh và Mạnh...Thanh cho biết lứa than cuối đã ra lò được mấy bữa, từ đầu năm đến giờ, được 5 lứa than rất tốt, xếp đầy một khu trong rừng mà ban quản trị Trại Sản Xuất và Tiết Kiệm chưa cho người lên gánh về phân phối. Thanh được cắt vào việc gánh than về trại. Tuyên và Mạnh cũng xung phong xin gánh than. Thấy có dịp, Thanh nhắc Toàn "vận động" xin lên rừng làm than như Toàn vẫn mong ước. Nghe các bạn kể lại, Toàn thấy công việc làm than "thích" hơn, nhất là được tự do hơn, thỉnh thoảng tù được gánh than ra chợ, bán được hàng lại có tiền thưởng, đủ mua một quả chuối, một phong thuốc lào, có thể lui tới các xóm của dân thiểu số địa phương, gặp dịp tán chuyện với đàn bà, con gái...Đã lâu nay, Toàn không được nghe tiếng nói trong trẻo của đàn bà con gái, chỉ nghe tiếng hô "báo cáo", quát tháo, mắng nhiếc, đe dọa cục cằn, tiếng búa rèn xích trên đe, tiếng roi song quất đen đét. Toàn mĩm cười ví von: "Tai mình thèm nghe tiếng chim hót, mắt mình thèm trông thấy bông hoa cười..." Phải chỉ lúc khác được tự do, cao hứng như thế, Toàn dám lấy giấy bút ra làm thơ ca ngợi tiếng oanh vàng rồi đó. Cái chất "phiếm" đặc biệt của con người tiểu tư sản vẫn thường lộ ra như vậy, ngay ở trong nhà tù.

Nhưng trên hết, đi làm than ở rừng có một điểm khoái nhất là được ăn no, và tù có thể làm lấy món ăn nếu có tiền mua thực phẩm sống ngoài chợ.

Tại sao tù làm than lại được ăn no?

Lý do cũng giản dị: Chỉ những tù nhẹ tội có hạnh kiểm tốt, mới được cho đi làm than và họ hy vọng sẽ được trả tự do khi có đại xá. Trên phương diện phục vụ, tù nhân làm than đem lại một mối lợi khổng lồ, đủ sức nuôi cả Trại Giam Đầm Đùn nên được hưởng chút xíu ân huệ. Vả lại, công tác làm than cũng rất vất vả nguy hiểm, dễ mất mạng, khác với tưởng tượng của Toàn.

Vì có mục đích riêng, Toàn đang cố gắng xung phong trong mọi công tác, và làm đầy đủ công việc không dám để giám thị chê trách. Dịp này, Toàn hy vọng lắm. Nghĩ vẩn vơ xa gần, Toàn sực nhớ đến số quần áo còn lại mà buồn. Hồi đầu tháng, khi thấy vô hy vọng nhận đồ tiếp tế của gia đình, anh đã liền cắt nốt nửa chiếc quần dài may thành quần đùi vì quần cũ đã bợt lắm không còn mặc được. Nhớ lại, dịp Lễ Giáng Sinh vừa rồi, Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế có thả dù cho tù nhân Pháp -ở riêng trại bên kia- và tù nhân Việt mà họ gọi chung là "nạn nhân của cuộc chiến", bao nhiêu thực phẩm và quần áo. Nhưng tù nhân Việt phải khăng khăng từ chối, không thèm ăn hay dùng đồ của thực dân phản động. Ít lâu sau, tù thấy nhân viên ban quản trị mặc nhiều kiểu áo lạ mắt lắm, không phải ở Việt Nam. Nhưng không anh nào dám nhìn kỹ, ngắm nghía hay bàn tán gì. Vì họ không muốn mất mạng một cách lảng nhách.

(Tù nhân Pháp tương đối mặc lành lặn hơn. Thời gian đầu tiên ở tù, tù nhân Pháp cũng rách rưới không tả được. Và có nhiều chuyện tức cười lắm. Vốn phong lưu, tác phong thực dân đã quen, mỗi lần đi cầu không có giấy chùi, tù nhân Pháp phải xé quần, xé áo ra để chùi cho sạch. Chùi riết mất tiêu luôn cả quần lẫn áo. Về sau, học theo lối tù Việt, "đi" xong lấy que "chùi" đỡ. Tù nhân Việt không kiếm được que, dùng hòn đất cũng được. Nhưng tù Pháp phải kiếm là thay que. Một lần, bất đồ hái phải lá han, anh tù Pháp nọ gần chết vì ngứa và dát, nhẩy đùng đùng trong trại như thằng hóa dại.

Với "kinh nghiệm xương máu" đó, tù nhân Pháp bảo nhau đề phòng lá han, loại lá có "chất độc nguy hiển". Câu chuyện "thiếu vệ sinh" này, tù vẫn thường kể lại cho nhau nghe...những giờ rảnh rỗi. Người kể chuyện còn tả lại từng nét mặt anh tù binh Pháp, vẻ cuống quít vì ngứa và dát nên cả bọn cùng cười, quên được nỗi buồn trong giây lát. Toàn buồn chán như thế, cũng phải bật cười).

...Toàn chợt thấy gan bàn tay rát như bị bỏng. Anh đã cuốc được một khoảng hơn hai chục thước vuông nghĩa là từ sáng sớm đến giờ mới được một phần năm công việc phải làm trong một ngày. Anh chống cuốc xuống đất, nhổ toẹt vào mỗi bàn tay một miếng nước bọt, rồi vội vã nắm chặt cán cuốc, nghiến răng cuốc như máy. Có làm tận lực như thế mới đạt tới mức trung bình...

Hợi làm không hở tay trong khi đầu óc suy tính đến trường hợp của 982 không ngừng. Từ khi vào trại giam, chính mắt hắn đã thấy sáu tù phong vương lần lượt mất mạng trước sau không đầy một tháng. Vì thế Hợi cho rằng nếu bác 982 không tìm cách vượt Trại Đầm Đùn ngay, e không kịp. Bây giờ, có hai phương pháp giúp đỡ 982, một là giúp bác ta làm sao khỏi chết vì tả lỵ, hai là giúp bác ta làm cách nào tháo cùm và xiềng để trốn. Về điểm trên, phải lấy trộm cơn hay cháy của nhà bếp đặng tiếp tế cho 982. Đó là một việc rất khó khăn không biết có làm nổi không? Trong Trại Đầm Đùn, một miếng cơm chín, một thìa nước rau, một cục xương, một điếu thuốc lào, thường đổi lấy mạng người như bỡn, vẫn thường thấy.

Muốn cắt xiềng, phải kiếm cho bác ta một cái giũa -cố nhiên phải giấu kín nhẹm thằng cha thợ rèn- để giũa mắt xiềng. Còn việc mở khóa cùm thì không khó, chỉ một sợi dây kẽm cứng, đập bẹt đầu, bẻ quặp lại như cái mỏ, cho vào lỗ khóa, nậy đúng khớp lò xo bật ngay. Điều này không đáng ngại. Hợi nghĩ tiếp:

- Bây giờ, nhân lúc lão thợ rèn vắng mặt, ta có thể chế tạo luôn chìa mở khóa đã.

May quá, Hợi vừa mở thùng đựng sắt vụn, tình cờ thấy một cây nan hoa (căm) xe đạp đã rỉ. Hợi vội rút ra, ngó coi chừng thợ rèn trong khi đập bẹt đầu cây nan hoa, rồi bẻ quặp lại thành một đầu mẩu vuông thước thợ, bằng hột thóc. Cẩn thận hơn, Hợi đập bẹt luôn đầu kia, nhưng làm "khấc" ngắn hơn chút đỉnh. Chỉ ba phút là xong, Hợi giấu luôn lên mái rạ rồi thảm nhiên tiếp tục chặt sắt làm mắt xích. Thợ rèn vẫn chưa về.

Tuổi trẻ vẫn hăng, nhất là vừa thực hiện xong một phần chương trình, Hợi tính đến việc kiếm giũa. Hợi nhớ mang máng trong một lần dọn đồ, cách đây hơn một tháng, có thấy một chiếc giũa cũ, nhưng xài vào việc vặt như cắt mắt xích của xiềng thì dư sức, không biết thợ rèn cất đâu. Thủng thẳng sẽ kiếm ra, quanh quẩn chỉ trong hai thùng đựng đồ nghề.

Hợi tiếp tục nghĩ, phấn khởi vì kết quả:

- Nhưng khi trốn vào rừng mà không có khí giới tự vệ sẽ rất nguy hiểm. Phải kiếm cho bác Dũng một con dao, có thể dùng để cắt trái cây, chặt cành cây v.v...Thôi cho luôn bác con dao của mình, làm con dao khác sau.

Hợi có rèn được một con dao bằng thép, chưa kịp làm cán, vẫn giấu trong thùng sắt vụn phòng khi cần. Như vậy, chỉ còn kiếm được giũa là hoàn toàn.

Hợi vẫn có dịp vào nhà bếp tuy có lệnh cấm rất nghiêm ngặt. Vì tù vào nhà bếp thường không dằn nổi sự thèm muốn, thấy thức ăn gì cũng lấy trộm bỏ vào miệng, thuận tiện sẽ nhai, không thì nuốt chửng. Nhiều tù bị đánh hộc máu mũi, máu miệng chỉ vì giả đò vấp té sấp vào rổ rau muống luộc, cố bốc một miếng rau bỏ vào miệng nuốt chửng. Lần nọ, một anh chẳng may bị nhà bếp, -ban hỏa thực cũng là tù trừ trưởng ban và dăm phụ tá- khám phá được mưu kế bắt há miệng nhe răng ra coi. Không còn sợi rau nào dính vào răng, anh tù ăn vụng tưởng đã thoát nhưng tên trưởng ban hỏa thực bắt há miệng đứng yên đó rồi quát nhân viên lấy chén nước lã bắt anh tù súc miệng nhổ vào chén. Coi lại, nước súc miệng còn xanh chất rau, tang chứng rành rành.

Sau đó một lát, anh tù đói ôm mặt từ nhà bếp đi ra, máu mồm máu mũi đổ ra ròng ròng vì bị "ăn" gần hai chục quả tống thay cho rau muống.

Như trên đã nói, tù không tha nuốt một thứ gì. Lần kia, một người tù vào bếp bưng cơm lên trại, chợt liếc thấy mấy cái xương cá đã ăn hết thịt và một nắm vỏ tôm đã giã lọc lấy nước ngọt (nấu riêng cho nhân viên ban quản trị) vứt bỏ ở góc bếp. Người tù mừng quá vội bốc hết bỏ vào túi đem lên trại, định ăn lại. Không may bị bắt quả tang, người tù bị phạt nhịn ăn một bữa là lãnh đủ năm roi song vì đã hành động trái với quan điểm của nhân dân và làm hại đến uy tín của chính phủ (!). Như thế khác gì nói xấu chính phủ không săn sóc đến đời sống của tù nhân (!), cho tù nhân ăn đói ăn khát??!! Tối hôm đó, trong giờ kiểm thảo, người tù phạm lỗi công nhận hành động hủ hóa của mình đáng tội và long trọng hứa sẽ sửa đổi, đề cao cảnh giác để không có những cử chỉ phương hại đến uy tín của chính phủ, bêu xấu chế độ.

Từ trước tới nay, Hợi vẫn vào nhà bếp, tuyệt nhiên chưa bao giờ ăn vụng, ăn trộm. Nhiều khi hắn cũng đói lắm nhưng tự kiềm giữ được. Có một vài lần nhân viên nhà bếp giương bẫy, nhưng Hợi may mắn không mắc, nhờ đó hắn được trưởng ban hỏa thực tin cậy và có cảm tình. Mấy chục con dao của nhà bếp đều do tay Hợi sửa lại khi quằn hay mài khi lụt. Hợi có "tay" mài dao, cả nhà bếp ai cũng thích hắn! Vì cảm tình riêng, lâu lâu trưởng ban hỏa thực lại giấu diếm cho Hợi một miếng cơm cháy lớn bằng hai bàn tay, Hợi để dành ăn dần ba, bốn ngày mới hết.

Cách đây tám hôm, được miếng cơm cháy lớn bằng nửa trang giấy học trò, Hợi chưa ăn đến, bẻ vụn ra bỏ vào lon sắt để dành. Đã có lần Hợi chia cho Toàn một miếng cháy thật lớn, bằng gói thuốc lá. Toàn giấu liền vào cạp quần, hồi hộp, mừng rỡ, yêu đời, yêu bạn đồng cảnh, đợi lúc vắng vẻ lấy ra nhai từng chút, ngon không thể tả được. Còn một miếng bằng hai đốt ngón tay, Toàn muốn kéo dài sự thích thú nên để dành đến đêm, mọi người trong trại ngủ yên, Toàn len lén vạch lưng quần lấy miếng cháy bỏ dần vào miệng, ngậm cho nát ra, chất gạo ngọt lừ, cho đến khi "miếng ngọc thực" biến dần...đi đâu mất hết! Toàn có kể lại cho Hợi nghe, cả hai bác cháu cùng cười.

Hợi miên man suy nghĩ, định chiều nay hay mai, mài dao cho nhà bếp xong, hắn sẽ ngoại giao xin một miếng cơm cháy nữa đặng tiếp tế cho bác Dũng.

Mọi việc tạm xếp đặt xong.

- Thế nào, làm xong chưa?

Thợ rèn tươi cười bước vào. Hợi ngửng lên trả lời:

- Dạ, chặt cũng sắp xong hết.

- Thôi, bỏ đấy ra thụt bể, đặng tao có chuyện làm đồ gấp...

Đến trưa, vừa có tiếng kẻng nghỉ việc, tên giám thị lại lò mò tới. Thợ rèn đang thu dọn đồ nghề, thấy giám thị vội ngừng tay kính cẩn gật chào, kiếm chuyện bợ đỡ:

- Giờ này, ông giám thị còn chưa được nghỉ vì công việc. Ông giám thị nên nghỉ một chút cho đỡ mệt.

Giám thị hách dịch gật đầu, quay sang bảo Hợi:

- 684! Vào nhà bếp nói với ông trưởng ban đưa cho lưng bát gạo, mày cầm ra cho thằng cha phong vương. Cho nó ăn nhiều gạo một chút đặng nó mau về với tổ tiên. Tao còn nhớ nọc kiến bò nhọt của nó, chưa hết buốt đây.

684 mừng thầm, lễ phép hỏi lại:

- Thưa ông giám thị, một lưng bát gạo phải không ạ?

- Ừ! Nếu nó đã nằm ngủ luôn không dậy nữa, báo cáo cho tao biết ngay. Để cho nó "ra bai" gấp.

- Vâng.

Thợ rèn phụ họa:

- Trước khi phát gạo, hãy gọi nó tỉnh dậy đường hoàng, nhận khẩu phần cho đủ, biết không?

Rồi nháy 684 một cách rất đểu, hạ thấp giọng:

- Mầy ngó luôn mắt cá chân nó, coi đã..."sâu quảng" chưa?

- Vâng.

Giám thị quay mặt lại, tủm tỉm cười một vẻ đồng lõa rồi đi thẳng lên văn phòng. Thợ rèn vội vã ra ngoài làm chi đó. Một mình trong lều, nhanh như chớp, Hợi với tay lên mái lều rút cây căm xe đạp trong mình, thủng thẳng lên nhà bếp.

Lát sau, tay cầm bát gạo, hắn theo con đường nhỏ đến lều phong vương, trong lòng xốn xang hồi hộp, nửa mừng nửa sợ...Vì trong quần phía trước bụng, hắn lại giấu được miếng cơm cháy, đủ nuôi sống người tù trong một ngày rưỡi. Cơm cháy vẫn bền no hơn cơm nạc. Qua cơn nguy hiểm ngặt nghèo, 684 đã hết hoảng sợ, hai chân bước thoăn thoắt. Khi đó, trên lều phong vương, 982 gần xỉu vì đói. Nhưng anh ta còn đủ tỉnh táo để mong mỏi, gói gạo sống còn lại từ hôm qua đặt trước mặt, 982 vẫn chưa dám bỏ vào miệng nhai. Anh ta có linh tính thế nào Toàn hoặc thiếu niên Hợi cũng đến. Nhưng hết cả buổi sáng, hồi kẻng nghỉ việc đã vang lên hồi nãy mà không có người nào tới. Giám thị cũng mất mặt luôn, không tới mở cùm như mọi ngày, cũng không phát cho gạo sống. 982 bỗng rợn người vì ý nghĩ:

- Hay nó bắt mình nhịn đói luôn tới chết để trả thù?

Nếu đúng như thế, đằng nào cũng chết, khi tên giám thị léo hánh lại lều, nhất định phải làm cách nào giết chết được nó, rồi mới chịu nhắm mắt sau. Không có vũ khí, anh sẽ ôm chặt nó cắn vào mũi, vào tai, vào cổ họng cho tới khi nó chết mới thôi. Ít nhất cũng trả thù được một kẻ trong đám cộng sản, một kẻ thù anh muốn giết hơn hết dù phải đổi mạng.

Mặt 982 bỗng bừng bừng, hai con mắt trũng sâu vì đói ăn trường kỳ quắc lên một cách dữ tợn. Nhưng...

982 lắng tai nghe rồi quay phắt về bên phải. Một người đang xăm xăm bước tới. 982 nhận ngay ra Hợi tuy Hợi có lớn hơn và thay đổi chút ít nét mặt, so với hồi còn ở Hà Nội. Vậy mà hôm nọ ở lò rèn, anh không thể nào nhớ ra Hợi, con một đồng chí chứ không phải em như anh nhớ lầm lúc đầu. Thiếu chút nữa, 982 hét lên một tiếng mừng rỡ.

Nhưng Hợi thảm nhiên leo lên cầu thang, mặt hắn tai tái vì xúc động, miệng nửa cười nửa lại như mếu một cách kỳ cục khó tả.

- Cháu Hợi!

- Bác Dũng!

982 định đứng lên nhưng bị cản trở vì cùm, đành ngồi nguyên vị mà chìa tay ra. Hợi nắm lấy bàn tay gầy guộc, nhìn thẳng vào mắt 982. Mới ba ngày mà 982 đã tóp đi nhiều. Cả hai cùng yên lặng trong mấy giây rồi 982 nói:

- Lấy tư cách là đồng chí của ba cháu, bác mong cháu giúp bác trong lúc này, tận tình giúp bác.

- Bác hãy tin ở cháu. Cháu xin cố gắng hết sức.

982 vội cho Hợi biết kế hoạch chuẩn bị: Nội tuần trăng này anh phải trốn. Muốn vậy, phải tháo cùm, cưa xiềng, phải có cơm ăn để khỏi và bịnh mới có sức băng rừng, vượt suối... 982 mong Hợi đang làm lò rèn. 982 nói không chút dè dặt, hoàn toàn tin chắc Hợi sẽ tận tình giúp anh.

Hợi chăm chú lắng nghe. Đến lúc 982 ngưng nói, Hợi lạnh lùng rút trong lưng quần miếng cơm cháy đưa cho 982. Phản ứng thật lạ lùng. 982 sững sờ, nhăn nhó vì cảm động, trông không khác chi một người gặp chuyện đau lòng, không nói được một tiếng, đến lúc chớp mắt mấy cái, hai giòng nước mắt đã lã chã. 982 đã có thuốc hồi sinh cứu tử một cách bất ngờ.

- Bác cất kín, kẻo giám thị thấy thì cả bác lẫn cháu đều mất mạng. Bác giấu từng miếng nhỏ trong nơi kín đáo để ăn dần. Cháu sẽ cố tiếp tế cho bác một lần nữa.

982 bẻ một miếng cháy bỏ tọt vào miệng, giữ thêm một miếng lớn hơn trong tay, rồi vịn cột lều đứng lên, đút miếng cơm cháy còn lại ngập trong lớp rạ thật kín. Một bữa của tù phong vương bấy nhiêu là tạm đủ.

- Bác sẽ nhớ ơn cháu mãi mãi.

Hợi liếc ngang liếc dọc tứ phía, buổi trưa, trong trại vắng vẻ, yên tĩnh. Tù nghỉ ngơi hết trong trại ngủ. Hợi đưa nhanh cây căm xe đạp cho 982 và nói:

- Đây là chìa khóa mở cùm...

982 chỉ xuýt xoa mấy tiếng "Hay quá! Hay quá!" rồi ngắm nghía cây căm và nói nhanh:

- Được rồi! Lúc lại đây, cháu thấy có mấy hòn đá trong đám cỏ. Nhưng cháu nghĩ không cần đến!

- Còn cái này?

982 chỉ vào sợi lòi tòi, đưa mắt hỏi. Hợi lặng lẽ đáp:

- Cháu sẽ mang cho bác một cái giũa còn tốt. Phút chót, trước khi rời lều này, bác sẽ cưa mắt xích. Cần nhất, bác phải nhớ mang theo cây giũa đừng để tụi nó kiếm thấy. Nếu không, đành là cháu vào ngồi thay bác ở lều này...Cháu còn trẻ quá, lên ngôi "vua" không xứng.

982 mỉm cười, thầm phục sự bình tĩnh, gan dạ và khôn ngoan của thiếu niên. Sực nhớ ra, anh vội nói:

- À, có chỗ giấu đồ kín lắm. Đủ rộng để cất 4, 5 miếng cơm cháy lớn và nhiều thứ khác. Cháu khỏi lo không có nơi kín đáo.

- Bác nên tập mở khóa cùm cho thạo, khi cần sẽ mở được ngay. Ngày một, ngày hai, cháu sẽ mang giũa cho bác. Thôi cháu về.

- Có tin của ba cháu không?

- Không! Bác Thanh trên lò than đã về trại được mấy bữa. Bác Thanh sẽ chuyển cho bác ít viên thuốc phòng bệnh tả lỵ, cháu sẽ đưa bác sau...

982 đưa Hợi ống tre, nhờ múc đầy một ống nước.

Hợi vác ống tre lại bên vũng nước. Mấy con chuồn chuồn đậu trên ngọn cỏ ở giữa vũng cất cánh bay đi. Hợi khỏa nhẹ ông tre cho tan váng "riêu cua" rồi múc đầy ống mang về cho 982.

Hợi đã quay về tới lò rèn mà 982 còn nhìn theo.

Quan sát khóa cùm, 982 biết ngay là một thứ khóa thường. Anh mừng thầm trong bụng, nhìn trước nhìn sau rồi vịn cột đứng lên, rút cây căm, cho đầu mẫu vào trong lỗ khóa. Hồi nhỏ, anh ta có học việc với một người thợ khóa ở Phố Lò Rèn Hà Nội nên chỉ một phút sau, nghe "cách" một tiếng, khóa bật ra liền. 982 lặng người đi vì mừng tuy biết trước kết quả, sau đấy anh mở ra, khóa vào mấy lần cho quen.

Sau cùng, 982 khóa cùm như trước, gài cây căm lên mái rạ, thầm nghĩ một cách sung sướng, đêm nay anh sẽ tháo cùm ra một lúc cho thoải mái cặp giò, để hiểu thấm thía thế nào là tự do của hai cẳng chân.

Từ lúc mở được khóa cùm, 982 có cảm tưởng tìm lại được sinh lộ và giờ khắc vượt trại chẳng còn xa. Anh ngồi dựa vào cột lều, ước lượng khoảng cách từ lều phong vương đến hàng ráo nứa thứ nhất, băng qua lối đi hẹp đến hàng rào thứ hai rồi...hết. Tự do! Tự do!

Khoảng hai mươi thước là ba chục bước chân, bước thật đều. Trong đêm tối, phải lấy bước chân tính đường. Tới hàng rào thứ nhất, anh sẽ đào ngạch dưới chân để chun qua, rồi đào ngạch chun qua rào thứ hai. Đào xong một ngạch, phải mất nửa tiếng đồng hồ đào hai ngạch mất một tiếng. Bỏ thêm ra nửa giờ nữa cho những trở ngại bất ngờ, thế là một tiếng rưỡi đồng hồ dùng vào việc đào ngạch.

Bảy giờ tối, trời đã tối mịt, sẽ bắt đầu mở cùm giũa xích. Mất một tiếng đồng hồ để cắt hai mắt xích ở hai đầu sợi xiềng, nửa tiếng cho một mối sắt, đào ngạch một tiếng rưỡi, 7 giờ tối khởi sự thì 9 giờ rưỡi sẽ ra lọt bên ngoài trại giam. Chạy vào rừng, chừng một tiếng đồng hồ nữa sẽ vượt được nửa cây số, hay nhiều lắm một cây số. Tối 19 âm lịch, tới 10 giờ khuya trăng mới mọc. Cố chạy thêm hai tiếng nữa dưới ánh trăng rồi leo lên cây ngủ, tới gần sáng sẽ chạy nữa. Khi đó vẫn còn trăng. Thế là thoát trận đầu.

Trong mình tràn trề một sinh lực mới vì 982 đã thấy lóe ra một niềm hy vọng chắc chắn. Theo kinh nghiệm, tù nhân nào còn nuôi hy vọng trong lòng sẽ là tù nhân sống sót.

982 bỗng ngồi thẳng người lên, nghểnh cổ đếm lại từng bước chân theo đường tưởng tượng, từ lều đến hàng rào. Lần này anh ước lượng khoảng đường đó dài từ 20 đến 21 thước nghĩa là từ 30 đến 32 bước chân. Trong đêm tối, cứ đếm đủ bước chân thì vừa tới hàng rào. Nhưng còn nhiều khó khăn khác trong thời gian lẩn trốn trong rừng, kiếm đâu ra thức ăn?

Vào nhà dân mượn nồi nấu cơm hoặc đổi gạo lấy thức ăn chín? Không được! Lộ hành tung thì nguy! Kiếm hoa quả trong rừng ăn tạm vậy. Nhưng nếu không kiếm được trái cây, củ sắn, củ khoai...? Đành vào nhà dân ăn xin lấy cỡ lỡ độ đường, cùng lắm sẽ ăn trộm, miễn sao sống sót!

982 miên man suy tính, tự đặt hàng trăm câu hỏi rồi tự trả lời. Tù nhân trong trại đã làm việc lúc nào không biết. Anh đang sống hoàn toàn trong giấc mơ giải phóng, tưởng tượng đang là con chim tự do bay trong rừng, sắp bay về tận tổ ấm gia đình, về tận trụ sở bí mật để hội họp, thảo luận, hoạt động với các anh em cùng chí hướng.

Trong trại giam cộng sản, quên được hiện tại khổ não mà hướng tâm trí về tương lai một cách tin tưởng là một sự kiện hiếm có và quý báu vô cùng. Cũng vì có tác dụng làm quên được khổ não nên một điếu thuốc lào mới trở thành một thức vật quan trọng, quan trọng ngang mạng người. Có người tù không được tiếp tế, phải để dành cả tháng mới kiếm đủ một điếu thuốc lào vì mỗi lần có dịp "mót" bã thuốc chỉ được một, hai sợi thuốc chưa cháy hết là nhiều. "Mót" được thêm sợi nào, người tù lại gom vào mảnh lá chuối dắt trong mình. Tới khi có ngót nghét một điếu thuốc, tù nhân đó mới chuẩn bị nửa ngày hay cả một ngày trời, đợi lúc thuận tiện nhất, thường thì vào buổi tối, sau khi học tập kiểm thảo xong trở về trại ngủ. Ngồi rảnh rang, người tù thận trọng sửa soạn kỹ càng cái điều cầy, rồi xin lửa kéo một hơi...thật dài, để hết cả thần lẫn trí vào điều thuốc.

Vừa tàn điếu thuốc là nằm lăn quay xuống trõng, lập tức không phí một giây, người tù dùng sức mạnh của tâm tưởng, nghĩ đến người thân nhất đối với mình, thường tình là cha mẹ, vợ con. Như vậy, người tù quên được hiện cảnh đau khổ và sống hai, ba mươi giây trong mộng ước. Rồi quay về sống thực tế trong trại giam.

Trường hợp của 982 không phải là điếu thuốc lào mà là mấy miếng cơm cháy và cây căm xe đạp có tác dụng mở khóa cùm để trốn khỏi trại giam....

(còn tiếp)