Moderator
Status :
Tham gia: Jun 2008
Posts: 2,146
Thanks: 23
Thanked 31 Times in 19 Posts
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (07)
Ngày xửa, ngày xưa…
Những năm 1940… trong thị xã Hà Đông nhỏ bé, hiền hòa, chú thiếu niên hai mươi mùa mít chín sau đó tự nhận là Công Tử Hà Đông được đọc lại hai câu thơ:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Hai câu không nhớ của thi sĩ nào làm. Sau tìm và biết là của Xuân Diệu. Chú thấy ý thơ hay hay. Hai câu ấy ở mãi trong trí nhớ của chú.
Bốn mươi mùa sầu riêng trổ bông sau đó, một người tù cải tạo ở trại Lao động Xã hội chủ nghĩa Z30A Xuân Lộc Đồng Nai được con lên thăm, đem cho quyển Anthology of English Poems do Đại học Oxford ấn hành. Tuyển tập thơ Anh dầy hai ngàn trang, hơn một ngàn bài thơ của Shakespeare, Shelly, John Donne, Robert Browing, Mary Elizabeth Coleridge. Trong tập thơ, người tù yêu thơ tìm thấy bài thơ The Call:
Sound, sound the clarion, fill the file!
Throughout the sensual world proclaim:
One crowded hour of glorious life
Is worth an age without a name.
(Thomas Osbert Mordaunt)
Đêm buồn nằm thao thức trong tù nghe tiếng gió vi vu thổi đến từ núi Chứa Chan, người tù cảm khái bèn mần thơ dịch:
Tiếng gọi
Kèn vang lên, trống nổi lên
Lặng yên nghe – Tiếng loa truyền
Sống một giờ quang vinh rực rỡ
Hơn tầm thường trọn kiếp không tên!
Như vậy là phải chăng năm sáu mươi mùa ổi chín trước đây, Xuân Diệu đã đọc bài tứ tuyệt The Call của T.O Mordaunt và lấy ý ra làm hai câu
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm!
Hai câu thơ làm người tù đi một đường cảm khái, nhớ lại cả một thời thơ ấu “ngày xưa còn bé”.
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi. (Tản Đà)
Thấp thoáng đấy mà đã năm mươi mùa tu hú kêu trong những vườn vải đỏ. Còn nhớ như in những ngày Tháng Tám năm 1945 chú thiếu niên Hà Đông náo nức đi biểu tình giành độc lập, những ngày đi kháng chiến thật đẹp ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, gót chân liên lạc viên đi dưới núi Thiên Thai, qua cửa chùa Tiêu Sơn, Rừng Khế, nơi có lăng tẩm của các vị vua triều Lý ở trước làng Đình Bảng, từng sống trong thành Cổ Loa có giếng nước tục truyền được dùng để rửa ngọc trai thật tốt, từng sống trong làng Phù Đổng ven đê sông Đuống, quê hương của Thánh Gióng, những đêm mùa đông nước cạn, buộc quần áo lên đầu, ôm cây chuối bơi qua sông Đuống… Những năm xưa ấy, người tù Z30A “yêu mê” Việt Minh đến là chừng nào. Vật đổi sao dời, khi nón cối, dép râu, súng AK, cờ đỏ ngơ ngáo vào Sài Gòn, chú thiếu niên năm xưa nay cùng không biết bao nhiêu người khác bị Bác và Đảng cho đi tù mút mùa Lệ Thủy.
Đã cảm khái, người tù Z30A còn xúc động hơn khi đọc bài thơ Respice Finem của Francis Quarles. Đây là nguyên bản:
My soul, sit thou a patient looker-on
Judge not the play before the play is done
Her plot hath many changes , every day
Speaks a new scence, the last act crowns the play!
Đêm cuối năm lạnh lẽo trong tù anh nằm dịch bài thơ ra tiếng nước anh.
Vở tuồng đời
Ôi hồn ta, ngồi yên mà coi
Vở tuồng đời
Đừng phê phán trước khi tuồng hết
Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười
Tuồng đang diễn, làm sao ta biết
Mỗi ngày qua là một đổi đời
Chờ đến lúc coi xong màn kết
Mới biết tuồng hay dở mà thôi.
(Trại cải tạo Z30A, Tháng 10-1989)
Nội quy nhà tù Xã hội chủ nghĩa áp dụng ở miền Nam có điều bắt buộc người tù phải gọi cai tù bằng cái tên chung là “cán bộ”, không có ông, anh, nhất là không có “đồng chí”, “đồng rận” gì ráo trọi. Ngược lại cai tù cộng sản gọi tất cả những người dân bị họ bỏ tù là anh, chị, dù cho anh, chị có bẩy bó, tám bó bằng tuổi ông bà nội ngoại họ.
Vài anh tù lỡ lời gọi cai tù là “đồng chí”, liền bị các “đồng chí” cự:
– Anh nói gì? Ai “đồng chí” mí anh? Bậy bạ…
Nhưng Hà Huy Giáp, một trong số cán bộ lãnh đạo văn nghệ Đảng những năm 1975-85 lại ưu ái gọi một số văn nghệ sĩ Sài Gòn lơ láo đi dự cái gọi là “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị” năm 1976 ở Nhà Hát thành phố HCM là “đồng chí”. Số là Việt Cộng vào được Sài Gòn từ Ba Mươi tháng Tư năm 1975, nhưng mãi một niên sau – tháng 5 năm 1976 – họ mới nhân dịp cho cái gọi là Chánh phủ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đi chỗ khác chơi không xơi nước, phát động chiến dịch hỏi thăm sức khỏe văn nghệ sĩ Sài Gòn VNCH. Nhiều văn nghệ sĩ, ký giả VNCH lớn nhỏ được xe bông công an thành phố HCM đến tận nhà rước đi liền tù tì trong mấy ngày đêm đầu tháng Ba năm 1976.
Xin kể tên những người bị bắt theo trí nhớ của tôi: Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Sĩ Tế, Lý Đại Nguyên, Trần Việt Sơn, Nguyễn Hải Chí tức họa sĩ Chóe, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Duyên Anh, Đằng Giao, Trịnh Viết Thành, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Thu, Thái Thủy, Hồ Nam, Cao Sơn, Minh Vồ (chủ nhiệm Con Ong), Hoàng Vĩnh Lộc, Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Thân Trọng Kỳ, Lê Xuyên (Chú Tư Cầu), Anh Quân, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Hữu Hiệu, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn (đạo diễn “Hai chuyến xe bông”) v.v… Nhiều không nhớ xiết.
Các anh Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến, Uyên Thao, Văn Chi đã bị bắt từ trước. Tú Kếu Trần Đức Uyển bị bắt vì tội tham gia tổ chức chống Cộng ở Đà Lạt ngay cuối năm 1975, ra tòa, lãnh án tù 18 năm. Mai Thảo may mắn trốn thoát cuộc bắt bớ, ở ẩn đến hơn hai năm cho đến đêm xuống tàu vượt biển. Tử Vi ông này không có Sao Quả Tạ nên ổng không bị ở tù.
Chiến dịch bắt bớ rầm rộ mấy ngày đêm đầu tháng, lai rai kéo dài mãi đến cuối tháng Ba năm 1976 mới chấm dứt. Không phải tất cả văn nghệ sĩ Sài Gòn đều bị bắt hết. Những người chưa bị bắt mặt mũi xanh xám không biết xe bông công an đến rước mình lúc nào. Tháng Năm năm 1976, cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng TPHCM tổ chức cái gọi là “Khóa Bồi dưỡng Chính trị” cho văn nghệ sĩ Sài Gòn “kẹt giỏ” hàng dân lơ láo ở Thành Hồ. Khóa Bồi Dưỡng Một có những văn nghệ sĩ thượng thặng của giới văn nghệ Sài Gòn đi dự: Thái Thanh, Hoài Bắc, Thẩm Thúy Hằng, Lê Trọng Nguyễn (Nắng Chiều), Lệ Hằng (Bản Tango Cuối Cùng), Nguyễn Thụy Long (Loan Mắt Nhung), Phạm Thiên Thư (Động Hoa Vàng) v.v…
Khóa Bồi Dưỡng Một không được tổ chức linh đình, không nhiều người tham dự bằng Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai, Tháng Bẩy năm 1976. Khóa Hai có trên năm trăm khóa viên hăng hái và rầu rĩ đăng ký tham gia. Giới nghệ sĩ cải lương đông người nhất. Tất cả những anh em kéo màn, chạy đề-co – tức bầy dọn ngai vàng, bàn thờ Phật, bàn ghế, giường tủ trên sân khấu – những người bà con xa gần với bà Bầu, cô Đào v.v… đều là nghệ sĩ và đều tự thấy có quyền được dự khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ. Trong số 500 khóa viên có trên 300 mạng là nghệ sĩ cải lương, số 200 ngoe còn lại chia đều cho các tổ Thơ Văn, Điện ảnh, Tân nhạc, Cổ nhạc…
Cái gọi là tổ Thơ Văn – tức tổ chấy của các anh ký giả, văn nghệ sĩ viết tiểu thuyết kiểu “phơi-ơ-tông” – là tổ “được” Cán Cộng chú ý nhất. Cán Cộng coi bộ môn sáng tác gồm những người tự mình chống cộng bằng tư tưởng, bằng tác phẩm của mình, không mượn tác phẩm hay ý tưởng của người khác. Cán Cộng không coi quan trọng lắm những người thuộc bộ môn trình diễn, tức là những người khi được giao vai trò chống Cộng thì chửi Cộng ra rít theo lời người khác, khi được giao đóng vai chửi Quốc gia thì lại mặt trơ trán bóng chửi bới Việt Nam Cộng Hòa ra trò.
Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai được khai mạc ở Nhà Hát Thành Phố. Người khai mạc là Hà Huy Giáp. Người lãnh đạo văn nghệ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa có nhiều người dân không đến nỗi chết đói mà chỉ đói đến chết, lại có thể hình béo tốt, hồng hào, mặt mũi, da dẻ láng bóng quá cỡ thợ mộc. Khi ban huấn từ “lãnh đạo” nói một câu xanh rờn:
– Tôi gọi các bạn là “đồng chí” vì tất cả chúng ta đều chung chí nguyện: làm cho nước Việt Nam được giầu đẹp, làm cho nhân dân Việt Nam được ấm no…
“Lãnh đạo” nói tiếp:
– Khóa này được gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị vì những người tổ chức thấy các văn nghệ sĩ Sài Gòn có thành kiến, có ác cảm với hai tiếng “cải tạo”. Thực ra cải tạo chẳng có gì đáng sợ. Chúng ta phải tự cải tạo mỗi ngày để trở thành người tốt…
Khóa học trong 21 ngày, khóa viên được bồi dưỡng sinh hoạt phí 1 đồng tiền Hồ mỗi ngày, được một lần cấp “nhu yếu phẩm”: nửa ký đường, hai hộp sữa, hai gói thuốc lá, một lạng bột ngọt. Được đớp hai bữa trưa ở Nhà Hát: bánh mì mỗi mạng một ổ, nước ngọt, bia gọi là bia hơi được đựng trong thùng phuy. Khóa nào muốn uống phải mang theo ca hoặc mượn ca của khóa khác.
Những anh ký giả Sài Gòn trước đó một niên đã làm Ngày Ký Giả Đi Ăn Mày để bỉ mặt Tổng Thiệu, nay được dịp “ăn mày” thật sự. Ký giả là những người đói nhất trong giới văn nghệ sĩ bỏ nước chạy lấy người không kịp. Không phải anh em ký giả, văn nghệ sĩ Sài Gòn ta ngày xưa không kiếm được tiền. Anh em kiếm được nhưng tuyệt đại đa số anh em ăn chơi, tiêu hoang, kiếm được năm thì tiêu mười. Việt Cộng vào Sài Gòn, anh em đói đến không có cơm mà ăn, không phải chỉ đói phở, đói cơm sườn, đói giả cầy quán Bà Cả Đọi. Cùng dự khóa bồi dưỡng với kẻ viết bài này có Nguyễn Ngọc Tú tức Ngọc Thứ Lang dịch giả Bố Già (The Godfather của Mario Puzo). Hôm được phát “nhu yếu phẩm” như vừa kể, người ta thấy vắng bóng Ngọc Thứ Lang ngay lập tức, rồi vắng bóng chàng suốt ngày hôm sau. Khóa viên không đến lớp vì còn bận tự “bồi dưỡng” bằng hai hộp sữa, nửa ký đường, hai gói thuốc, lạng bột ngọt. Chàng phát mại ngay những thứ không nhu yếu gì với đời sống của chàng để lấy tiền “choác”.
Và Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai có Cô Khóa Mộng Tuyền. Tháng Bẩy năm 1976 ở Thành Hồ, Mộng Tuyền còn trẻ, đẹp. Ký giả đói, nhưng các em đào cải lương vẫn đông vàng, đông kim cang. Các em như Mộng Tuyền – bận bà ba phin nõn, quần đen, đi guốc – phây phây đến lớp. Các em không đi xế hộp, nhưng các em cũng không đi xế đạp, các em đi học bằng xe xích lô.
Sau Hà Huy Giáp ban huấn từ khai mạc, khóa bồi dưỡng có từng này vị lên lớp, mỗi vị một ngày:
– Huy Cận nói về Thơ.
– Chế Lan Viên nói về người nghệ sĩ đi theo Đảng.
– Hoàng Trinh, lý thuyết gia văn nghệ nói về “Sự bế tắc văn học nghệ thuật của xã hội tư bản”.
– Vũ Khiêu nói về văn nghệ chung chung…
– Bẩy Lý, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng lên lớp về “Chủ nghĩa Mác-Lê-nin”.
Huy Cận mập khỏe, nước da bánh mật, trông không có vẻ gì là người làm được những câu “Nắng chia nửa bãi chiều rồi. Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu…” Huy Cận nói đúng là nói vung xích chó, nói văng bọt mép. Ngoài việc khoe anh sung sướng, thoải mái mần thơ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, anh còn khoe anh vẫn mần thơ tình, anh quả quyết chế độ xã hội chủ nghĩa không tiêu diệt thơ tình v.v… Chế Lan Viên yếu hơn Huy Cận về mọi mặt. Buổi nói chuyện của Chế Lan Viên được tổ chức ở rạp Olympic đường Hồng Thập Tự. Rạp không đủ đèn sáng. Chế Lan Viên ngồi bàn nói chuyện, đặt ly bia trên bàn. Mỗi lần diễn giả ghé mồm uống bia, micro bắt tiếng động làm người ta nghe thấy những tiếng
“chụp choạp” rất xã hội chủ nghĩa.
Vũ Khiêu – nghe nói tên thật là Đặng Vũ Khiêu – là anh nói dở nhất trong cả bọn. Vốn liếng học thức của anh chỉ đủ cho anh nói láp nháp được trong một giờ. Buổi lên lớp của anh kéo dài cả ngày. Buổi sáng anh nói được hai tiếng thì tạm nghỉ để đi giải lao và đi đé. Ngọc Thứ Lang nói ngay:
– Thằng cha Vũ Khiêu này… hay chữ lỏng…
Thành ngữ Bắc kỳ gọi những anh chữ nghĩa đựng không đầy cái lá mít nhưng thích ba hoa nói những chuyện văn học, nghệ thuật là những anh hay chữ lỏng. Vũ Khiêu thuộc loại “Bắc Kít Hay Chữ Lỏng” điển hình. Anh nói ba lăng nhăng về Kiều, ca tụng Từ Hải như đại anh hùng dân tộc. Người nghe dốt nát nhất cõi đời này cũng biết anh quên, hay anh cố tình quên, ông cố, bà sơ anh có câu dặn con cháu:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Văn học lý luận gia Mác-xít Vũ Khiêu tỏ ra “hay chữ lỏng” rõ ràng nhất ở câu chuyện anh kể về cái gọi là “tình đoàn kết thân thương cố hữu” của dân tộc Việt. Anh đưa chuyện ngày xưa có nhà kia năm đời sống chung một nhà đoàn tụ gia đình hòa hợp với nhau. Vua nghe tiếng tốt bèn đến thăm và ban cho gia đình một trái lê với ẩn ý thử xem gia đình này chia nhau ơn Vua ra sao. Nhà đông tới hai, ba trăm miệng ăn. Làm sao chia cho mỗi người một miếng lê nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng? Trưởng gia bèn nẩy ra sáng kiến kính cẩn cho trái lê vua ban vào nồi ba mươi nước sôi, pha như pha trà, mỗi mạng uống một ly nước. Thế là cả nhà ai cũng được hưởng lộc vua.
Câu chuyện thuộc loại quân tử Tây gọi là “a-nết-đốt: – chuyện truyền khẩu, chuyện ngoài lề nghe chơi rồi bỏ – trái lê nấu nước chia nhau uống xưa như trái đất. Đó là chuyện xẩy ra dưới một đời vua nào đó bên Tầu, nếu người viết không lầm thì là đời vua Đường, vua Mật chi đó, nhưng người văn nghệ Mác-xít lại nói là chuyện xẩy ra đời vua Trần nước Việt.
Các đàn anh dzăng nghệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa lên lớp chung cho 500 đàn em dzăng nghệ, dzăng gừng, dzăng bút, dzăng báo, dzăng cơm, dzăng đủ thứ ở Thành Hồ tại Nhà Hát. Hôm sau, các khóa sinh trở về tổ mình thảo luận về đề tài đàn anh lên lớp hôm qua. Hướng dẫn viên Tổ Một Thi Văn Vũ Hạnh gọi việc này là “đèo seo…”, tức “đào sâu” vào đề tài. Thảo luận thêm, tham gia ý kiến của mình, thường là ca tụng: “…Hay quá, giúp cho người nghe có tư liệu chất lượng tốt để hiểu thêm về dân tộc, về dzăng nghệ v.v…”. Những cuộc thảo luận “đèo seo học hỏi” này có biên bản để nộp các lãnh đạo dzăng nghệ.
Khi ấy, người viết bài này đã có ý định phát biểu mấy nhận xét để ghi vào biên bản gửi đến ông Vũ Khiêu Hay Chữ Lỏng. Đại khái:
– Chuyện trái lê nấu nước chia nhau uống là chuyện người Tầu đời Đường, không phải chuyện xẩy ra đời nhà Trần nước ta. Nhận vơ không hay hướm gì và tôi nghĩ ta không cần nhận vơ. Khi ông nói trước cả trăm người Sài Gòn chúng tôi về chuyện đó, tôi thấy:
– Nếu ông không biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu thì ông ngu quá.
– Nếu ông biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu mà ông cho chúng tôi hổng biết, ông có nói đó là chuyện đời nhà Trần chúng tôi cũng mù tịt thì ông cũng… quá ngu.
– Nếu ông biết chúng tôi cho việc ông nói chuyện trái lê nấu nước là chuyện người Việt là nói bậy mà ông vẫn cứ nói thì ông mặt trơ, trán bóng quá đỗi. Chúng tôi không có lời gì để đánh giá con người dzăng nghệ Mác-xít như ông.
Nhưng… nghĩ vậy người viết bài này đã không nói ra. Tâm trạng anh Khóa bất đắc dĩ Tháng Bẩy năm 1976 đang đen hơn mõm chó mực. Các bạn anh đang ngồi rù trong tù, anh không bị bắt như anh em, vợ con anh không khổ nhục như vợ con anh em, anh vác bản mặt nhẵn hơn cái đũng quần lĩnh cô đầu đi dự
“Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị”, anh ngồi tễu mặt nghe Việt Cộng nó dậy dỗ nó chỉ bảo, anh không câm miệng, cúi mặt xuống, anh còn ọ ẹ bắt bẻ Việt Cộng nỗi gì.
Nghe nói có lần nói chuyện xong Vũ Khiêu hỏi Đoàn Phú Tứ:
– Anh thấy tôi nói ra sao?
Đoàn Phú Tứ trả lời:
– Anh nói thì con rắn ở trong lỗ cũng phải bò ra nghe. Nó bò ra nghe nhưng không thấy gì cả nó lại bò vào lỗ.
Hoàng Trinh – nghe nói là sui gia với Trường Chinh – lên bục nói về “Sự bế tắc văn học nghệ thuật tư bản” nói chung và nói riêng về tình trạng tắc tị trong lãnh vực tiểu thuyết ở các nước Âu Mỹ.
Hoàng Trinh nói dễ thôi. Các đàn anh lý thuyết văn nghệ Liên Xô ăn lương tháng viết vung xích chó cả ngàn bài nghiên cứu về văn học nghệ thuật tư sản – tư bản, các đàn em chỉ việc dịch và đọc. Tất nhiên là văn học nghệ thuật tư bản đồi trụy, thối nát, tắc nghẽn, cuồng dâm, ca tụng bạo lực, ăn bám, thối nát, đang rẫy chết và chết đến đít rồi. Chuyện tất nhiên khỏi cần nói thêm. Hoàng Trinh kể một tác phẩm kịch điển hình làm bằng chứng là “văn học nghệ thuật tư bản thối nát quá cỡ…”
Vở kịch Hoàng Trinh đưa ra là vở Le Balcon của Jean Genet. Việc dùng kịch Le Balcon để đả kích văn nghệ tư sản cũng chẳng phải là sáng kiến của Hoàng Trinh. Đàn anh Nga Cộng viết, Hoàng Trinh chỉ việc nhai lại.
Jean Genet là văn sĩ thuộc loại “thiên tài hắc ám, quỷ ám” của Pháp. Người Pháp có tiếng “maudit” chỉ loại người này. Ra đời năm 1911 ở Paris, bị mẹ bỏ rơi, được nuôi trong Viện Cô Nhi, năm 13 tuổi Jean Genet bị đưa đến Trại Trừng Giới, bỏ trốn, đi bụi đời, bị bắt nhiều lần vì các tội trộm cướp; năm 1948 phạm trọng tội bị án tù chung thân. Nhiều văn sĩ Pháp, trong đó có Jean-Paul Sartre, người vận động tích cực nhất, gửi kiến nghị thư lên Tổng thống Pháp xin ân xá cho Jean Genet, tác giả những tác phẩm Notre Dames Les Fleurs, Journal d’un voleur, Querelle, Miracle de la rose v.v… Jean Genet được ân xá, Jean Paul Sartre phong thánh cho Jean Genet, gọi Jean Genet là một thiên tài văn nghệ. Jean Genet qua đời năm 1986.
Đây là lời Hoàng Trinh kể kịch Le Balcon:
– Kịch xẩy ra trong một nhà ăn chơi ở thủ đô một quốc gia Âu Châu. Nhà ăn chơi này do một phụ nữ làm chủ. Khách chơi là bọn đàn ông giàu tiền có ẩn ức sinh lý, những anh muốn được làm đại tướng, chánh án, giáo chủ. Chị chủ nhà tổ chức những phiên tòa cho chánh án rởm xử, những trận đánh cho đại tướng rởm chỉ huy, những thánh lễ cho giáo chủ rởm hành lễ.
Đêm ấy có cuộc nổi loạn nổ ra trong thủ đô. Anh Tổng Giám đốc Cảnh sát là tình nhân của chị Chủ Chứa. Anh đến cho mọi người trong nhà biết với lực lượng cảnh sát anh có thể dẹp được đám nổi loạn nhưng phiền một nỗi là Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Chưởng lý, Đại tướng, Giáo chủ v.v… nghe tiếng súng nổ và biết có loạn đã bỏ thủ đô phú lỉnh ra nước ngoài hết. Anh Xếp Phú lít than thở: “Phải chi bây giờ có Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Giáo chủ, Đại tướng… xuất hiện trên ban-công Hoàng cung cho nhân dân thấy thì nhân dân bỏ bọn nổi loạn ngay”.
Chị Chủ nẩy ra sáng kiến:
– Khó gì? Ở đây mình có đủ triều đình. Mình có ông Đuy Quốc Tô đây là Đại tướng, ông mần vai đại tướng quen rồi, ông còn oai phong hơn cả đại tướng thứ thiệt. Mình có ông Đờ Cốc Si Cốc đây là Chủ tịt Quốc hội, có ông Lơ Poan vẫn mần Giáo chủ hành lễ trang trọng. Ông Pip Pơ Lô đây đóng vai Chánh án đẹp lão nhất thế giới. Còn em. Em đóng vai Nữ hoàng? Được hông? Ai cũng nói trông em giống Nữ hoàng lắm. Người ta còn khen em đẹp hơn Nữ Hoàng năm bẩy thành…
Và thế là (xin bạn đọc nhớ đây là lời kể của kép Hoàng Trinh ở Nhà Hát Thành Hồ tháng Bẩy năm 1976) kế hoạch được chấp thuận. Triều đình Nhà Thổ đủ mặt Nữ Hoàng, văn võ bá quan, lãnh đạo tôn giáo, tư pháp, lập pháp, quân đội, cảnh sát đàng hoàng xuất hiện. Nhân dân thấy triều đình vẫn vững như chum vại bèn bỏ rơi đám nổi loạn, tan hàng trở về nhà. Cuộc nổi loạn bị diệt thê thảm.
– Đây chỉ là chuyện kịch thôi – lời Hoàng Trinh – nhưng xin quý bạn nhớ rằng bọn văn sĩ tư sản đồi trụy đã khinh khi tất cả những giá trị của xã hội. Nữ Hoàng của họ là chị chủ chứa, những nhà cầm quyền của họ là những tên đàn ông bệnh hoạn tâm-sinh lý. Không những bọn văn sĩ tư sản chỉ miệt thị những giá trị tư sản mà thôi, họ còn miệt thị cả nhân dân nữa. Nhân dân trong kịch Le Balcon được trình bày như một lớp người ngu đần chuyên bị đánh lừa và chỉ bị lợi dụng.
Lý luận gia Mác-xít ăn theo Hoàng Trinh nhận “nhân dân” thuộc phe anh, bọn văn sĩ tư sản đồi trụy phỉ báng những nhân vật lãnh đạo tư sản thì anh cho là đúng, là được, nhưng khi văn sĩ tư sản miệt thị “nhân dân” thì anh phẫn nộ. Anh hằn học:
– Jean Genet chửi cả “nhân dân”…
Tất cả những gì xấu xa trên cõi đời này đều của phe tư sản, tất cả những gì tốt đẹp trên cõi đời này đều của phe cộng sản. Thái độ nhận vơ lố bịch ấy của những người cộng sản – thường được gọi là “vơ vào” – đã làm họ bị kê tủ đứng vào miệng khi Liên Xô, thành trì xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, phơi bầy những tội ác ghê rợn của cộng sản đối với loài người. Chuyện ấy chẳng cần phải nói nhiều hơn.
Chi tiết cần ghi lại buổi nói chuyện của Hoàng Trinh khi anh ta nói:
– Thưa quý bạn, Le Balcon kết thúc bằng câu nói của chị chủ nhà thổ. Khi cuộc nổi loạn đã bị dẹp, chị nói với cử tọa: “Kịch đến đây là hết. Trời sắp sáng. Mời quý vị trở về nhà. Xin quý vị nhớ cho rằng chẳng phải chỉ ở đây quý vị mới thấy kịch, mới đóng kịch. Ở bất cứ đâu cũng kịch mà thôi. Ở những nơi khác còn kịch cợm, còn giả dối hơn ở đây nữa”.
Hoàng Trinh vừa nói đến câu “Ở đây kịch, ở đâu cũng kịch, kịch cả mà thôi” thì khựng lại vì tiếng vỗ tay ồ ạt nổi lên.
Quý anh văn nghệ sĩ bộ môn Cải lương ngồi trên lầu Nhà Hát vỗ tay trước. Bọn chúng tôi vỗ theo. Tôi – thú thực vẫn không coi trọng quý anh cải lương lắm -nhưng tôi thán phục quý anh quá cỡ khi tôi dự Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai cùng quý anh và được thấy quý anh biểu diễn phản ứng tuyệt vời hai lần bằng những cái vỗ tay điệu nghệ thần sầu, quỷ khốc, nhân kinh, Cán Cộng ngẩn ngơ.
Quý anh vỗ tay đây là vỗ tay hoan hô Jean Genet. Hổng phải quý anh vỗ tay hoan hô Kép Cộng Hoàng Trinh. Tất nhiên Jean Genet viết đã hay, quý anh sử dụng Jean Genet cũng tuyệt chiêu, bằng những tràng pháo tay ấy quý anh nói với bọn cán cộng:
– Đúng. Kịch cả mà thôi. Chúng tôi đến đây xem các anh đóng kịch. Chúng tôi cũng đóng kịch với các anh.
Nhưng quý anh nào đã nghĩ ra cách nói ấy đầu tiên? Quý anh bộ môn cải lương nào là người thứ nhất đã vỗ tay để cả nhà kịch chúng tôi bắt chước hôm ấy?
Trong Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị tháng Bẩy năm 1976, quý anh cải lương không chỉ phát biểu bằng cách vỗ tay một lần, các anh vỗ tay hai lần. Lần nào tôi cũng thấy thán phục sự linh động, óc thông minh của quý anh.
Hai mươi mốt ngày học xong, ngày bế mạc cũng được tổ chức linh đình ở Nhà Hát Lớn. Mỗi tổ cử một đại diện lên phát biểu cảm tưởng sau khóa học. Ông Nguyễn Hữu Ba đại diện tổ Cổ Nhạc lên máy.
Tội nghiệp ông già Nguyễn Hữu Ba. Ông lên nói láp nháp vài câu là được rồi. Không ai, kể cả Cán Cộng, muốn ông nhiều lời. Ông nói dai quá. Đã nói dai, ông còn ngắc ngứ, vô duyên.
Khi ông nói:
– Đã bao nhiêu năm chúng ta ôm người đàn bà Phi Luật Tân và gọi bà ta bằng mẹ… Bi giờ đã đến lúc chúng ta trở về với bà mẹ Việt Nam đích thật của chúng ta…
Ý ông Nguyễn Hữu Ba muốn nói bao nhiêu năm nay bọn đàn địch Sègoòng vẫn ôm cây ghi-ta ét-ba-nhon mà coi đó là đàn của mình, nay nhờ Bác và Đảng cho sáng mắt, sáng lòng, hãy trở về với cây đàn cò…
Một lần nữa phải nói “Tội nghiệp…” bọn đàn địch Sègoòng có bao giờ nhận những cây đàn ghi-ta ét-ba-nhon, ha-uây-iên, vi-ô-lông là đàn Việt Nam đâu. Bọn đàn đúm cũng chẳng bao giờ ôm một người đàn bà Phi Luật Tân mà gọi là mẹ. Khi ông Nguyễn Hữu Ba nói đến bà mẹ Việt Nam bị các con yêu bỏ rơi, bỏ quên, bỏ xó, có vẻ xúc động, ông ngừng lại.
Ông Ba vừa ngừng lại thì tiếng vỗ tay nổi lên từ trên lầu Nhà Hát. Một lần nữa, lại quý anh cải lương Sègoòng vỗ tay… đuổi. Ông Ba ngẩn người, ông chờ tiếng vỗ tay ngừng để tiếp tục nói. Nhưng những người vỗ tay không chịu ngừng. Ông Nguyễn Hữu Ba còn đứng đó, họ còn vỗ tay. Cuối cùng đương sự phải chịu nhận mình bị đuổi và cúi đầu đi xuống.
Quân tử Tầu có câu: “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn”. Người viết bài này cảm khái thêm câu: “Tiểu nhân ca tụng hai mươi năm chưa muộn”.
Tháng Bẩy năm 1976, tháng Mười năm 1995. Hai mươi mùa lá rụng đã rơi trên đường đời của chúng ta. Sáng nay bình yên ngồi viết ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, Virginia Đất Tình Nhân, tôi ca tụng quý anh nghệ sĩ cải lương Sài Gòn ta. Tôi thán phục hai lần vỗ tay tuyệt vời của quý anh tháng ấy, năm ấy.
Chúng ta đã thấy những trò, những cảnh ruồi bâu kiến đậu trong cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị chúng ta tham dự ở Thành Hồ. Nhiều anh chị em bị buộc phải lên micro phát biểu đã tránh né, đàng hoàng, rất khéo như Ngọc Chánh, Bạch Tuyết… Nhiều anh chị em lên nhận mình “mắt mù, tai điếc, nay may mắn được Đảng cho sáng mắt sáng lòng” làm chúng ta tủi hổ. Nhưng thôi, chúng ta nên quên. Tết đến, ngày xuân, năm mới. Ở xứ người chúng ta nên vui vẻ, thương yêu nhau. Tôi không bới móc tội lỗi của người khác để tội lỗi của tôi không bị người khác bới móc.
Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ,
Vai kép tuồng kia vẫn diễu hoài.
Thơ Thanh Nam, Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi, làm ở Sài Gòn năm 1970. Và đây là thơ Francis Quarles:
Ôi hồn ta, ngồi yên mà coi
Vở tuồng đời
Đừng phê phán trước khi tuồng hết
Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười.
Thi sĩ khuyên ngồi yên mà coi. Nhưng làm sao ta ngồi yên mà coi được? Ta không phải khán giả ngồi xem vở tuồng đời. Ta là một nhân vật trong vở tuồng ấy, ta bị quay cuồng, ta khóc, ta cười trên sân khấu Đời ấy. Nếu nói được như chị chủ Le Balcon: “Kịch cả mà thôi. Giả hết”, chắc ta có thể thản nhiên sống trong vở tuồng đời. Khổ nỗi, đôi khi ta không thể đóng kịch, ta không giả dối được. Vì không đóng kịch được nên đôi khi ta bị roi đời quất hằn trên mặt. Song cuối cùng tôi thấy, khi ta bị hổ nhục ta thấy hổ nhục, còn khá hơn là khi bị hổ nhục mà ta vẫn nhơn nhơn mặt trơ, trán bóng cho là không có gì để phải nhục nhã.
Tôi hổ thẹn khi phải vác mặt mo đến dự cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn. Có hôm xớ rớ trong hành lang Nhà Hát Lớn, thấy Lệ Thu đi đến, tôi không dám để nàng nhìn thấy mặt. Lẽ ra tôi phải hỏi thăm Lệ Thu về Hồng Dương, bạn tôi đang ở trong tù: “Ở đâu có biết không? Sức khỏe ra sao? Gửi đồ tiếp tế thế nào? Có tin gì gửi ra không? Có được gặp mặt không v.v…?”. Thay vì hỏi Lệ Thu những câu ấy, tôi xấu hổ nên quay mặt đi hướng khác.
Ngày bế mạc khóa học được tổ chức ở Nhà Hát Lớn, tôi là người được anh chị em Tổ Thi Văn bầu làm đại diện Tổ, sẽ lên nói cảm tưởng sau khóa học. Nhưng đến phút cuối cùng những người tổ chức không cho tôi lên nói, tôi bị bất ngờ và tôi cũng sợ nên tôi ngồi im. Nếu tôi không ngán sợ, lúc ấy lẽ ra tôi phải đứng lên phản đối: “Tôi là đại diện Tổ. Sao không cho tôi lên nói mà lại để người khác nói?” Lẽ ra tôi phải làm như thế rồi bỏ ra về.
Tan hàng lúc 5 giờ chiều. Tôi u uất đến độ không muốn đạp xe về căn nhà tối của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ. Tôi đến nhà ông anh kết ngãi với tôi ở đường Ký Con để nói với ông vài câu, uống chạc của ông mấy ly rượu cho bớt sầu đời. Thấy tôi vào, ông hỏi tôi:
– Làm cái gì mà mặt mũi cậu trông ghê như mặt tù cải tạo vậy?
Tôi rầu rĩ trả lời:
– Hôm nay tôi đi xem một số người tự bốc phân vứt lên mặt họ. Tôi không làm việc ấy nhưng vì tôi ngồi cạnh họ nên phân văng cả sang mặt tôi.
Hai anh An Khê Nguyễn Bính Thinh, tác giả tiểu thuyết Hai Chuyến Xe Bông, Nguyễn Ngọc Tú Ngọc Thứ Lang, dịch giả Bố Già (The Godfather), Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago), cùng dự Khóa Bồi Dưỡng với tôi, đã qua đời. Anh An Khê mất ở Pháp, Ngọc Thứ Lang chết ở trong trại cải tạo Phú Khánh, Tú Kếu bị bệnh Quên, vẫn sống ở Đà Lạt. Nhiều bạn đồng khóa với tôi hiện sống ở Hoa Kỳ: Lệ Thu, Ngọc Minh, Băng Châu, Ngọc Chánh v.v…
Nhân vật Đảng Ủy quan trọng nhất phát biểu kết thúc Ngày bế mạc Khóa Bồi Dưỡng là “đồng chí thành quỷ” Tư Tân (người Sài Gòn gọi “Thành Ủy” là “Thành Quỷ”). “Đồng chí thành quỷ” Tư Tân tức Trần Trọng Tân, người năm 1994 giữ chức vụ chính trị lãnh đạo cao nhất, nhì, ba ở Thành Hồ. Trần Trọng Đăng Đàn là em Tư Tân, viết quyển “Kết án văn nghệ đồi trụy, phản động Sài Gòn”. Quyển này kê khai đầy đủ tên cúng cơm, tên tác phẩm của những người viết Sài Gòn bị cấm đoán. Năm 1976 rất nhiều người đến Nhà hát Thành Phố dự lễ Bế mạc Khóa học Bồi dưỡng Chính trị còn khá trẻ. “Đồng chí” Tư Tân năm ấy cũng chưa già.
Năm 1994, đọc trong Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín tôi thấy mấy dòng: “…Người dân Quảng Bình, ai còn lạ gì những việc làm của anh em ông Trần Trọng Tân trong thời quân Nhật làm chủ Quảng Bình…”
Không rõ ràng lắm nhưng người đọc dù kém thông minh cũng có thể hiểu: “Đại tá” Bùi Tín tố cáo “Đồng chí Thành ủy” Trần Trọng Tân và người em trai làm mật thám, làm tay sai, làm chó săn cho Nhật.
Kể từ khi đọc những dòng ấy về anh em “đồng chí thành quỷ” Trần Trọng Tân, mỗi lần nhìn thấy bộ mặt nghiêm trọng của “đồng chí thành quỷ” trên Tivi tôi lại cứ tủm tỉm, lỉm rỉm cười một mình…
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (08)
Sống ở Mỹ, ăn gạo Thái, nhớ, nghĩ, nói, kể, và ân hận, tiếc thương toàn chuyện Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa bị tiêu vong. Đã hai mươi sáu năm rồi còn gì? Sao không quên đi mà sống? Sao cứ nhớ mãi, cứ nhắc hoài? Bao nhiêu người mất nước đâu phải mình anh, người ta có nhớ thương đâu? Trở thành công dân cường quốc số một thế giới, người ta ăn mừng, người ta chúc mừng nhau không còn là dân Việt nữa, người ta hớn hở vì đã là “a-mơ-ri-cân si-ti-zhân”, người ta nói: “Công-grê-tu-lê-shơn!”
Nhưng đâu có phải hai triệu người Việt lưu vong, lưu đầy ở bốn phương trời hải ngoại đều quên nước cũ, quên hận cũ, đều hãnh diện được làm công dân những nước khác! Cũng còn nhiều người mỗi năm Ngày Ba Mươi Tháng Tư đến vẫn thấy đau nhói trong tim, vẫn thấy mình là người lính vừa thua trận, nằm giữa sa trường nát gió mưa, nhắm mắt không quên đời chiến sĩ, làm thân cây cỏ nát ven bờ, vẫn đêm đêm bàng hoàng, đau đớn nghe từ đáy hồn thương tích, vẳng tiếng kèn truy điệu nước xưa…
Hôm nay hai mươi sáu năm trước, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu – Tổng Thống thứ hai và cũng là Tổng Thống cuối cùng – của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ chức, bỏ nước, cùng thê tử, thủ hạ, chạy ra ngoại quốc, mở màn cho cuộc bỏ chạy tán loạn “vĩ đại” nhất lịch sử dân tộc. Nói theo ngôn từ Tầu Cộng, đây là cuộc bỏ chạy tập thể, cuộc bỏ chạy cả nước. Ngày nào đi lính đánh Cộng sản dân Việt còn hò nhau: “Một-Hai-Ba… Chúng ta đi lính cả làng…”, trong cuộc bỏ chạy cỡ quốc gia này không có “một-hai-ba…” gì cả, mạnh thằng nào thằng ấy chạy; chạy từ anh Tổng Thống đến ông tống thư văn, chạy từ chú đại tướng đến ông binh nhì…! Chúng ta bỏ chạy cả nước. Bỏ chạy tán loạn và khiếp đảm đến như thế, ta còn mặt mũi nào ngước mặt lên nhìn thẳng vào mặt ai.
Chuyện cũ kể thêm buồn, nhưng cứ phải kể. Năm 1992 ở Thành Hồ, một số anh em chúng tôi gặp nhau trong tiệc cưới con trai Thanh Thương Hoàng. Năm ấy anh em chúng tôi còn sống ở Thành Hồ là Mặc Thu, Như Phong (Lê Văn Tiến), Tú Kếu (Trần Đức Uyển), Văn Quang, Dạ Lan, Thái Thủy, Uyên Thao, Nguyễn Đình Toàn, Hồ Nam, Vân Sơn, Cao Nguyên Lang, Nguyễn Thụy Long, Chóe (Nguyễn Hải Chí), Thế Phong, Hoàng Hương Trang v.v… Năm ấy, đời sống của anh em chúng tôi không còn đói rách, cơ cực quá đỗi như những năm 80. Đi ăn cưới con cháu, nhiều người trong chúng tôi bận com-lê, vét-tông, anh nào lè phè lắm cũng có cái ca-vát, nhiều người đi xế Honda. Trong tiệc tôi gặp anh Nhữ Văn Úy.
Bạn hẳn còn nhớ Dân Biểu Nhữ Văn Úy chứ? Quên ai thì quên, ta khó quên anh dân biểu thước mốt này. Anh Thổ Hành Tôn bỏ nước chạy lấy người thoát thân trước ngày 30 Tháng Tư 75. Nghe nói khi mới sang đảo Guam, anh là một trong số những kẻ đầu têu ra chuyện đòi trở về nước, nhưng trong số người trở về trên tầu Việt Nam Thương Tín năm xưa ấy lại không có anh. Anh sống nhờ ở Pháp, và anh trở về làm thương mại ở Thành Hồ. Tôi hỏi anh:
– Anh này đã chạy được rồi còn về đây làm gì?
Không trả lời câu hỏi của tôi, anh ta nói:
– Anh mà chạy được như tôi, anh cũng chạy khác gì tôi…
Héng nói đúng. Tôi chạy không được, không phải tôi không muốn chạy, không phải tôi muốn ở lại chịu đau khổ với nhân dân. Không để cho tôi nói đến câu thứ hai, héng phú lỉnh luôn.
Những ngày Tháng Ba, Tháng Tư đen hơn mõm chó năm 1975 tôi là nhân viên Sở Thông Tin Hoa Kỳ (tiếng Mỹ là Iu-dzít: USIS). Tôi ở trong ban biên tập tờ Triển Vọng, tạp chí của USIS. Năm 1972, sau khi ký hòa ước với Việt Cộng để rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường Viêït Nam, chánh phủ Hoa Kỳ dẹp bỏ hai cơ sở truyền thông từng tuyên truyền chống Cộng sản là Đài Phát Thanh Tiếng Nói Tự Do và tờ tạp chí Thế Giới Tự Do. Họ mở đài phát thanh mới là Đài Mẹ Việt Nam; tờ Thế Giới Tự Do được thay bằng tờ Triển Vọng. Tạp chí Triển Vọng không tuyên truyền chiến tranh chống Cộng, báo chỉ có những bài quảng bá văn minh, văn hóa, kỹ thuật Hoa Kỳ và lối sống của dân Hoa Kỳ.
Trong những ngày dầu sôi, lửa bỏng giữa Tháng Tư 1975, tất cả nhân viên Mỹ trong USIS đã về nước hết, ở lại Sài Gòn chỉ còn bốn người: Giám Đốc, Phó Giám Đốc, Trưởng Phòng Nhân Viên, Trưởng Phòng An Ninh.
Giám Đốc USIS Alan Carter (ông này hiện còn sống, vẫn làm việc trong chính phủ Mỹ) mỗi chiều sau khi đi họp bên Tòa Đại Sứ về, thường họp một số nhân viên USIS để phổ biến tình hình. Trong một buổi họp ấy, nhân viên Việt USIS hỏi ông về việc chính phủ Mỹ có đưa nhân viên Việt USIS đi khỏi nước không, Giám Đốc Carter trả lời:
– Vấn đề ấy chưa được đặt ra. Lúc này Việt Nam Cộng Hoà như cái nhà có nguy cơ sụp đổ, nhiều người đang ra sức chống giữ cho nhà không bị đổ. Nay nếu chúng tôi đưa tay vào kéo các anh ra khỏi nhà, những người kia sẽ buông tay, nhà sẽ đổ luôn.
Chúng tôi gặng hỏi:
– Nhưng khi Việt Cộng sắp vào Sài Gòn, các ông có đưa chúng tôi đi không?
Carter vẫn tránh né:
– Tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Bởi vì nếu tôi nói khi Sài Gòn sắp mất, khi ViXi sắp vào Sài Gòn, chúng tôi sẽ đưa các anh đi, các anh sẽ nói với vợ con các anh là người Mỹ sẽ đưa nhân viên Sở Mỹ đi. Việc đó sẽ gây tai hại.
Một chiều lúc năm giờ, đi họp bên Tòa Đại Sứ về, Carter cho gọi chúng tôi đến phòng họp. Tôi thấy ông có vẻ xúc động, ông đứng lên để nói:
– Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ quyết định đưa các anh, chị và gia đình ra khỏi nước. Các anh, chị ghi lại quy định này để phổ biến cho đồng nghiệp của các anh, chị: Các anh, chị được đem theo vợ, chồng, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, các con anh, chị. Con trai phải dưới 17 tuổi, con gái phải dưới 21 tuổi mới được theo bố mẹ…
Tối hôm đó, ông Thiệu và gia đình đi khỏi Việt Nam. Ngày 25 Tháng Tư chuyến di tản nhân viên USIS thứ nhất lên xe buýt vào phi trường Tân Sơn Nhất. Mỗi ngày USIS chỉ một lần đưa nhân viên vào Tân Sơn Nhất. Người đi được Giám Đốc Carter chọn trong danh sách. Chỉ có chưa đầy ba phần mười nhân viên USIS đi thoát, vì chuyến đầu đi ngày 25-4, đến chiều ngày 28-4 phi trường Tân Sơn Nhất bị đánh bom, những chuyến phi cơ từ Guam bay sang ngừng lại, cuộc di tản bằng hàng không đứt ngang.
Ngày 29-4-75, Sài Gòn náo loạn như tổ kiến vỡ, phi cơ trực thăng Mỹ bay vần vũ trên trời Sài Gòn từ trưa qua suốt đêm:
Đùng đùng gió giục, mây vần
Trực thăng trong cõi hồng trần như bay…
Mãi sau tôi mới biết Tòa Đại Sứ Mỹ dự định đưa nhân viên Việt đi từ từ và đều đều cho đến ngày 15 Tháng Năm mới chấm dứt cuộc di tản, nhưng quân Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn quá nhanh. Lại thêm chính phủ Vũ Văn Mẫu yêu cầu: “Tất cả người Mỹ phải đi khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ”. Người Mỹ phải cuốn cờ lên trực thăng. Những ngày đêm tuyệt vọng kéo dài, khi nghe một anh bạn USIS nói “Mỹ nó không có ý đưa bọn mình đi”, tôi nghĩ dù đi được hay không tôi vẫn cám ơn Giám Đốc Alan Carter. Trong một cuộc họp giữa ông và chúng tôi vào chiều 23-4 hay 24-4-75, tôi hỏi Carter:
– Các ông ra điều kiện con trai chúng tôi phải dưới 17 tuổi, con gái chúng tôi phải dưới 21 tuổi mới được đi theo chúng tôi. Đa số chúng tôi có con trai trên 17 tuổi, phải bỏ con lại, làm sao chúng tôi đi được?
Carter nói:
– Những điều kiện đó là do chính phủ của các anh đưa ra, không phải do chúng tôi. Chúng tôi muốn thực hiện một cuộc di tản đại qui mô, chúng tôi phải làm theo pháp luật. Nhưng… anh nói con trai anh 16 tuổi mà tôi nhìn nó như ông này (Carter nhìn ông bạn đồng nghiệp của tôi) tôi cũng không biết, tôi không phải nhà nhân diện học, tôi chỉ biết anh nói với tôi con anh 16 tuổi; anh nói con gái anh 20 tuổi mà tôi thấy nó như bà bạn đồng nghiệp của anh đây, tôi cũng không biết, tôi chỉ biết anh nói với tôi con gái anh 20 tuổi…
Hai mươi sáu Tháng Tư đến, hai mươi sáu Tháng Tư đi, biết bao vật đổi, sao dời, bao nhiêu dâu biển, tôi vẫn không quên lời nói của Giám Đốc USIS Alan Carter chiều xưa ấy, tôi vẫn nhớ nét mặt ông khi ông nhìn tôi, tôi thấy rõ ông muốn thầm nói với tôi:
– Sao anh ngu quá. Anh cứ khai trên danh sách con trai anh 16 tuổi là chúng tôi để nó đi theo anh, chúng tôi có đòi anh chứng minh con anh 16 tuổi đâu.
Nhưng thôi, tôi không kể chuyện ta bỏ nước chạy lấy người nữa. Tôi nghĩ đây là lần cuối cùng tôi viết về Ngày Ba Mươi Tháng Tư 1975. Sang năm, Tháng Tư năm 2002, tôi muốn viết những chuyện gì khác chuyện Tháng Tư 1975. Tôi thấy tôi phải viết thêm. Viết “tất cả quân dân ta bỏ chạy trong Tháng Tư 1975” là không đúng. Trên các mặt trận tháng ấy, năm ấy, nhiều chiến sĩ của ta vẫn chiến đấu trong vô vọng, vẫn anh dũng đứng thẳng trước quân địch; nhiều người lấy cái chết đền nợ nước. Chiến sĩ ta chết trên khắp nước, đến ba, bốn giờ chiều Ngày Ba Mươi Tháng Tư 1975 vẫn còn những chiến sĩ ta anh dũng chết trên những đường phố Sài Gòn.
Nhưng đốn mạt là bọn năm, ba tên Sài Gòn, vào lúc 4 giờ chiều ngày 30-4, chạy đến đài phát thanh phừng phưng ca hát chào mừng quân Cộng sản xâm lăng vào Sài Gòn. Đây là những tên mà người dân Sài Gòn bị chiếm đóng gọi là bọn “Cách Mạng Ba Mươi”. Bọn ca hát ở đài phát thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa chào mừng Cộng sản xâm lăng buổi chiều ngày 30 Tháng Tư 1975 là những tên Cách Mạng Ba Mươi thứ nhất ló mặt ở Sài Gòn sau khi quân Bắc Việt Cộng kéo vào Sài Gòn. Bọn Cách Mạng Ba Mươi là những tên xun xoe bám đít bọn Cộng sản. Nhân dân Việt Nam Cộng Hòa thù và khinh những tên Cách Mạng Ba Mươi. Nhân dân có câu:
“Công an, bộ đội còn tha
Ba Mươi giết hết, lột da đóng giày“.
Sụp đổ tan tành, tủi nhục, tù tội, đói khổ, bị cướp đoạt hết, sống trong đen tối, tuyệt vọng, người dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn mơ có ngày quân ta trở về, vẫn ước ao ngày ta lại làm chủ đất nước, ngày ấy ta có thể tha chết cho những tên công an, bộ đội cộng sản bị ta bắt sống nhưng ta sẽ không tha chết cho những thằng Cách Mạng Ba Mươi – những thằng vẫn ở trong phe ta, những thằng khi thấy ta thua, ta ngã, chạy ra xun xoe vẫy đuôi chào đón bọn chủ mới.
Ôi… giấc mơ quân ta trở về, ta lại làm chủ đất nước, đất nước lại của ta, khi ấy dù Thiệu, dù Kỳ, dù Khánh… dù gì cũng được, miễn là phe ta…
Than ôi… Giấc mơ ấy không bao giờ đến. Bọn Cộng sản vẫn làm chủ Sài Gòn, bọn Cách Mạng Ba Mươi vẫn nhơn nhơn sống và chết, ta chỉ có thể lột da bọn Cách Mạng Ba Mươi trong những giấc mơ sầu muộn của ta…
Người dân Việt Nam Cộng Hòa đã nghe danh từ “cách mạng” bị dùng bậy từ những năm 1963, 1964, khi đám tướng lãnh làm đảo chính tự nhận họ “làm cách mạng”. Năm 1975, người dân Việt Nam Cộng Hòa bị nghe tiếng “cách mạng” suốt ngày đêm và bị ám ảnh đến phát điên vì tiếng “cách mạng”. Họ gọi những tên tự nguyện nhẩy ra phục vụ đám chủ mới là bọn “Cách Mạng Ba Mươi”.
“Cách Mạng Ba Mươi”, vì chỉ sau ngày 30 Tháng Tư 75 người ta mới thấy bọn đốn mạt này chường mặt. Trước ngày đó chúng là những người dân Việt Nam Cộng Hòa như mọi người. Hai việc làm chính mà bọn Cách Mạng Ba Mươi làm để phục vụ Việt Cộng trong những tháng đầu Việt Cộng mới làm chủ Sài Gòn là việc: chỉ điểm và dắt lính Việt Cộng đi chiếm những ngôi nhà mà chủ nhà đã chạy ra nước ngoài, chỉ chọc cho Việt Cộng bắt những người không chịu theo lệnh trình diện cải tạo, những người bị Việt Cộng kết tội là “có nợ máu với nhân dân”.
Tôi đã viết về bọn Cách Mạng Ba Mươi năm 1995, vài tháng sau khi tôi bánh xe lãng tử đến Kỳ Hoa Đất Trích. Dưới đây là đoạn trích trong “Biệt Kích Cầm Bút” của tôi do nhà xuất bản Làng Văn ấn hành. Tôi viết loạt bài này trong những tháng đầu năm 1995, đăng trên tờ bán nguyệt san Ngày Nay, ấn hành ở Houston, Texas:
“Tôi nghĩ ta không nên vu cho Việt Cộng nhiều tội ác hơn là những tội ác họ đã làm với đồng bào của họ. Việt Cộng, nón cối, giép râu, AK, răng cải mả, lính cái, nữ cán tóc bím đuôi sam kiểu Tầu Mãn Thanh, mông đít to như cái thúng, ngơ ngáo kéo nhau vào Sài Gòn như đàn bò vào thành phố ba triệu dân mà, trong số cả ngàn văn nghệ sĩ đủ loại, đủ bộ môn, chỉ có ba anh… Xin lỗi, tính lại chỉ có bốn anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Vũ Hạnh và Thái Bạch là bốn người quen sơ sơ. Ký giả Thái Bạch, thường được gọi là Thái Bịch, mặt mũi khó đăm đăm, trước 30 Tháng Tư 1975 ngồi xào nấu tin lô-can, tin xe cán chó, tin người đánh nhau được gọi là tin “Từ thành đến tỉnh” trong tòa soạn nhật báo Xây Dựng của Linh mục Thiên Hổ Nguyễn Quang Lãm ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về mục Cờ Tây. Thái Bạch làm văn nghệ từ lâu lắm, là tác giả quyển “Thi Văn Quốc Cấm thời Pháp thuộc“. Quyển này được tái bản ở Hoa Kỳ.
“Công tử Hà Đông nhấn nút linh tử bộ nhớ xem lại vài cảnh bỏ nước chạy lấy người thê thảm hai mươi mốt mùa cô hồn Tháng Tư năm xưa. Phải nói là ngày ấy, tháng ấy, năm ấy Công tử gà què kẹt giỏ chạy không kịp chứ không phải là không muốn chạy.
“Từ trưa ngày 29 Tháng Tư trực thăng Mẽo bay vần vũ trên trời Sài Gòn, tiếng máy bay quần thảo suốt đêm. Tảng sáng Ba Mươi, trực thăng Mỹ vắng bóng trên thành phố đầu hàng. 11 giờ trưa “Toỏng Thoóng” Dương Văn Minh đọc lệnh buông súng trên ra-dzô, những người lính Việt Nam Cộng Hòa bại trận, buông súng, vừa đi vừa khóc trên hè phố. Đường phố Sài Gòn náo loạn, người ta chạy lên, chạy xuống như kiến vỡ tổ. Bốn giờ chiều có anh nào đó tên là Tòng – Nguyễn hay Lê Văn Tòng – cùng vài anh nữa hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng Bắc Việt Cộng trên đài phát thanh.
“Năm, sáu, bẩy, tám, chín, mười ngày sau, một số ký giả nhanh chân chạy đến “trình diện” ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Lê Lợi. Ở đây có một anh cán bộ nào đó tên là Kỳ Nhân cấp cho đám ký giả Sài Gòn nhanh chân chạy đến với chủ mới những giấy chứng nhận “có đến trình diện” ký tên Kỳ Nhân. Ít ngày sau, anh Kỳ Nhân này mất tích. Nhiều ký giả nói với nhau: “Không biết thằng Kỳ Nhân là thằng nào. Có lẽ tên nó là Kỳ Nhông thì đúng hơn…”
“Bọn Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam chiếm tòa Đại sứ Đại Hàn ở đường Nguyễn Du (nghe nói nhà này nguyên là nhà của ông Nguyễn Hữu Hào, ông Quốc cữu thời vua Bảo Đại). Văn nghệ sĩ Sài Gòn kẹt giỏ bảo nhau đến đó “trình diện cách mạng”.
“Thực ra Việt Cộng nó chỉ ra lệnh và kêu gọi các sĩ quan, cảnh sát, công chức và đặc biệt là quý ông bác sĩ, giáo viên, nhân viên bệnh viện v.v… đi trình diện ở nhiệm sở thôi. Mới vào được Sài Gòn, Việt Cộng đang có quá nhiều việc rối tinh, rối mù. Họ không ngờ họ chiếm được “Sài Gòn đẹp quá Sài Gòn ơi” dễ và nhanh ngon lành đến thế, hai là họ chẳng thèm để ý, để tứ, để mắt, để mũi gì đến đám văn nghệ sĩ Sài Gòn nên họ hổng có kêu gọi mấy anh đi “trình diện, trình mạo” chi ráo trọi. Mấy ảnh sợ và mấy ảnh tưởng bở, mấy ảnh nghĩ “đi trình diện là tốt”, nên mấy ảnh lơ láo đến Tòa Đại sứ Đại Hàn nay đã đổi chủ. Công tử Hà Đông cũng đến đấy.
“Đến đấy mấy ảnh gặp ký giả Thái Bịch. Bộ mặt Thái Bịch những ngày Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh trông đã khó thương, nay cờ đỏ sao vàng đầy thành phố, bộ mặt ấy trông lại càng ghê rợn. Ký giả nhà ta lúc thì mặt lạnh như tiền, lúc thì hòa nhã với cái vẻ cố ý để cho những kẻ đến gặp anh biết anh muốn nói với họ: “Bi giờ ngươi đã biết Thái Bịch này chưa?”
“Để chứng tỏ mình không phải là thường dân, mình là chiến sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mấy anh Cách Mạng Ba Mươi chạy cờ, chạy hiệu, chạy bàn thường đeo cái băng đỏ ở cánh tay. Đặc biệt Ký giả Thái Bịch đeo sề sệ một khẩu Côn Đui bên hông. Ký giả Thái Bịch nhờ ơn Bác, Đảng, được hạnh phúc đeo Côn Đui (hay Côn Bạt, súng Mỹ) liên tục dễ đến hơn cả tháng. Vài tháng sau, Việt Cộng tổ chức lại, đem cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng về tòa nhà Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, ngã tư đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Bộ mặt hãm tài của ký giả Thái Bịch không còn xuất hiện nữa”. (Trích “Biệt Kích Cầm Bút”, Hoàng Hải Thủy)
Những tên “Cách Mạng Ba Mươi” là những thằng hèn kiêm ngu si, tưởng bở. Chúng tưởng chúng nhẩy ra chào mừng bọn Việt Cộng chiến thắng, tự nguyện hiến dâng thân khuyển mã phục vụ chủ mới, chúng sẽ được chủ mới chấp nhận, cho hưởng vài đặc quyền. Bọn Việt Công gần như không dùng một tên “ba mươi” nào lâu. Nói cho đúng, Việt Cộng có dùng nhưng rất hạn chế và thường chỉ dùng trong những việc vặt, việc chỉ chọc, việc bới móc tố cáo những người dân Việt Nam Cộng Hòa mà Việt Cộng cho là có tội. Bọn “ba mươi” lòng lang, dạ thú lập công bằng cách làm hại những người chúng quen biết, những người từng đối xử tốt với chúng. Dù chúng làm những việc tồi tàn, khốn nạn đến chính vợ con chúng cũng phải tủi hổ, chúng vẫn bị Việt Cộng đối xử lạnh nhạt, cho đi chỗ khác chơi sau một thời gian ngắn. Tôi gọi chúng là thứ “phi cầm phi thú”.
Tôi nghe thành ngữ “phi cầm, phi thú” lần đầu vài ngày sau ngày 1-11-1963, ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu bị hạ bệ. Một tâm thư ngắn được đăng trên hai tờ nhật báo Ngôn Luận, Đồng Nai. Trong thư này, ba ký giả Từ Chung, Chu Tử, Hiếu Chân (cả ba anh đều đã qua đời) tự nhận các anh có lỗi vì các anh thấy chính phủ Ngô Đình Diệm phạm nhiều tội ác với nhân dân mà không dám tố cáo, các anh tự nhận các anh là một loại “phi cầm, phi thú”.
Dưới đây là đoạn tôi viết năm 1995 về một số người tôi gọi là “phi cầm, phi thú”:
“Chúng tôi, bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn bại trận, chúng tôi có anh có em. Trong nhục nhã, trong khổ cực, trong tù đầy, chúng tôi vẫn có nhau, chúng tôi vẫn là những văn nghệ sĩ Sài Gòn. Cảnh “phi cầm, phi thú” hiện ra rõ nhất trong những cái gọi là buổi sinh hoạt tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố Hồ Chí Minh, trụ sở đặt trong tòa nhà có vườn rộng trước 75 là một cơ sở tình báo của Việt Nam Cộng Hòa, góc đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Những người trong Ban Chấp Hành cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng, thường là Tổng Thư Ký Việt Phương, lên Ủy Ban Thành Phố họp, nghe chỉ thị, về phổ biến với các văn nghệ sĩ. Những buổi như thế gọi là buổi sinh hoạt.
“Trong những buổi sinh hoạt này, bọn trong Ban Chấp Hành Hội ngồi hàng ghế chủ tọa đối diện với hàng ghế của văn nghệ sĩ Sài Gòn. Hai bên ngồi đối mặt với nhau. Hai anh Kỳ Nhông, Kỳ Đà Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn cũng dự buổi sinh hoạt. Hai anh không thể ngồi cùng hàng ghế hay ngồi sau lưng bọn Giải Phóng Miền Nam. Sức mấy chúng nó cho hai anh ngồi chung. Hai anh không ngồi chung chỗ với bọn chúng tôi, chắc hai anh sợ ngồi với chúng tôi hai anh xấu hổ… Cũng có thể hai anh nhìn thấy sự khinh bỉ hai anh trong ánh mắt của anh em chúng tôi… Hai anh không thể ngồi sau đít bọn Văn Nghệ Giải Phóng đối diện với bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn bại trận, hai anh không muốn ngồi chung với bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn nhục nhã. Vậy thì trong những buổi họp chia hai phe rõ rệt mặt đối mặt, chính tà hai phái, hai anh Kỳ Nhông đặt đít ở đâu?
“Hai anh ngồi ở hai ghế bên cạnh. Hai anh không ngồi trong phe giải phóng, hai anh cũng không ngồi trong phe Việt Nam Cộng Hòa bại trận.
“Dường như Phạm Trọng Cầu – Phạm Trọng: “Em ra đi mùa thu… mùa thu không trở lại…” cũng đã được sáng mắt, sáng lòng đôi chút trước cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa do cách mạng vô sản dựng lên, vì thấy nó bê bối, bết bát, dơ dáy quá đỗi. Nhiều anh chị nhờ gia đình có tiền cho sang Tây ăn học, đớp phải bả xã hội chủ nghĩa, tưởng bở, hung hăng con bọ xít, theo đuôi cộng sản mần “cách mạng”, bị Cộng sản cho hộc máu, vỡ mặt khi chúng cướp được chính quyền. Điển hình và đại diện cho giới “phi cầm, phi thú” này là Mợ Dương Quỳnh Hoa.
“Nghe nói chỉ sau vài mùa kỷ niệm bác Hồ đầu thai, Phạm Trọng đã có vẻ thất vọng. Phạm Trọng có mần lời ca theo điệu nhạc bài “Quê Em”:
“Quê em miền trung du,
Đồng quê lúa xanh rờn,
Giặc tràn lên cướp phá.
Anh về quê cũ,
Đi diệt thù giữ quê,
Giặc tan đón em về”
Lời ca của Phạm Trọng theo nhạc “Quê Em” có câu mở đầu:
Ba tôi trồng khoai lang,
Đào lên thấy khoai mì,
Thật là điều phi lý.
Tôi về quê cũ,
Ra vườn trồng khoai lang,
Đào lên thấy khoai mì…
“Những anh Kỳ Nhông đi theo cộng sản mần “cách mạng xã hội chủ nghĩa” tưởng bở: xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa nhất định phải tốt đẹp hơn xã hội tư sản dân chủ. Mấy ảnh ngẩn ngơ khi thấy sao nó bẩn quá.
“Thứ củ có thể ăn được, người Bắc gọi là sắn, người Nam gọi là mì hoặc khoai mì. Những chị đi bán rong trong những xóm nghèo thường rao: “Ai khoai lang, khoai mì…”
“Thứ củ người Nam kêu là củ sắn, người Bắc gọi là củ đậu. Ông bố mấy anh Kỳ Nhông trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì cũng còn là khá, ông nội anh không có trồng khoai lang, khoai mì, ông nội ác ôn của anh trồng người. Các em nhỏ bất hạnh bị đem ra trồng đầu vùi dưới đất, chân chổng lên trời.
“Ở những cánh đồng cách mạng vô sản ấy, khi đào đất lên người ta không thấy khoai mì, khoai lang chi cả, người ta chỉ thấy sọ người, xương người và máu người.
“Lo việc mười năm: trồng cây. Lo việc trăm năm: trồng người”.
“Câu nói của một Quân Tải Tàu nào ngày xưa, được ghi trong sách Minh Tâm Bảo Giám do ông Đoàn Trung Còn biên soạn. Già Hồ mượn dùng cũng được đi. Nhưng trồng là trồng cây: trồng cây si, trồng đậu, trồng gạch, trồng gì cũng được, “trồng người” nghe sao man rợ quá trời. Những anh cộng sản coi đồng bào như những con vật để họ sai khiến, bóc lột, như những cái cây để họ đem trồng. Những em bé Việt Nam bất hạnh được coi là những khúc măng non…
“Em là khúc măng non…
Em chín queo trong nồi cách mạng“, và:
“Cháu lên ba… Cháu vô mẫu giáo
Cô thương cháu là cháu không khóc nhè…
Không khóc nhè…. È é e…
Em vào trường học
Mẹ cha vào nhà máy…
Ông bà lo cấy cầy…”
“Ông bà lo cấy cầy?”. Chèng đét théng thèng ơi… Ông bà xã hội chủ nghĩa cho có trẻ lắm cũng phải sáu mươi, bẩy mươi… Khứa lão lọm cọm sống trong xã hội thối nát tư sản đến tuổi sáu bó là đã bị con cháu cho ngồi chơi xơi nước. Khứa ông buổi sáng nhâm nhi ly trà tầu, trà ướp sen, ly cà phê hay ly nước trà thường nóng nếu sống giản dị, ngày xưa ở Bắc Kỳ các khứa lão còn để móng tay dài, râu ba chòm, xuân hạ tay phe phẩy cái quạt, chống gậy đi chơi, gặp ông bạn cũng khứa lão đánh vài ván cờ tướng, thu chơi hoa cúc, câu cá, trưa mùa đông ăn cơm uống ly rượu tăm rồi đắp mền nằm ngáo. Khứa lão bà trông nom các cháu, giúp đỡ con dâu, ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật, sáng sáng, chiều chiều đến nhà thờ dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, cảm ơn và xin ơn Thiên Chúa.
“Đấy là đại khái vài hình ảnh, cuộc sống những ông già, bà lão trong xã hội tư sản. Những ông già, bà lão trong xã hội vô sản ra đồng làm trâu bò cho đến lúc ngã xuống thở hơi cuối cùng. Trong khi đó thì “thi sĩ Đảng” Tố Hữu mần thơ diễn tả tấm lòng cao cả của bác Hồ muôn kính, ngàn yêu, ngày đêm bác vẫn mơ mộng làm sao để có:
“Sữa tặng em thơ, lụa tặng già”.
Tối mùa mưa năm 1982, chúng tôi ngồi uống rượu đế một đồng tiền Hồ một ly ở quán nghèo thật nghèo trên vỉa hè bên cổng xe lửa Số 6. Bạn tôi, L.T.N nói:
– Bảo Trịnh Công Sơn là cộng sản tội nghiệp nó.
Tôi nói:
– Có ai bảo nó là cộng sản đâu. Nếu nó là cộng sản thì ai nói làm gì. Vì nó không phải là cộng sản mà nó lại bợ đít bọn cộng sản nên người ta mới có vấn đề về nó.
Bạn tôi, Văn Quang, ở Thành Hồ, tường thuật đám tang Trịnh Công Sơn, tả anh đem máy ảnh đến nhà Trịnh Công Sơn ngồi chờ chụp ảnh. Anh phải ngồi chờ vì lúc ấy người chết chưa được liệm, Trịnh Công Sơn nằm đó với chiếc khăn phủ mặt. Anh kể chuyện ngày xưa, Tết Mậu Thân, Việt Cộng đánh vào Sài Gòn, thành phố giới nghiêm từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng. Là sĩ quan, anh có giấy phép đi trong giờ giới nghiêm. Anh lái xe đưa Trịnh Công Sơn đi chơi trong thành phố Sài Gòn ban đêm vắng tanh, chỉ có những dẫy đèn vàng, những binh sĩ tuần tiễu, đứng gác ở những ngã tư đường. Anh kể anh đưa Trịnh Công Sơn, với cây đàn ghi-ta, về ở trong căn phòng riêng của anh v.v… Anh kể trong căn phòng đó (anh bạn tôi có vợ con, có nhà lầu, nhưng cũng như nhiều tay chơi Sài Gòn trước 75, anh có căn phòng riêng trong một bin-đinh dùng làm nơi ăn chơi), những ngày sau Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn đã sáng tác những bản nhạc X, Y, Z… Lời kể của anh cho thấy anh vừa là đàn anh cưu mang vừa là bạn văn nghệ, bạn tâm giao của Trịnh Công Sơn. Tôi bùi ngùi muốn hỏi anh, muốn nói với anh:
– Tháng Tư 75 nó có mù đâu, nó phải thấy đồng bào mình ghê sợ Cộng sản, chê bỏ Cộng sản, đồng bào mình liều chết chạy trốn quân Bắc Việt Cộng, đồng bào mình chết đau thương, khổ cực thê thảm đến như thế nào. Nó phải thấy Việt Cộng tàn sát đồng bào ở Huế trong Tết Mậu Thân, nó phải thấy bọn Bắc Việt Cộng xâm lăng bắn giết đồng bào trên khắp đất nước. Nó không ngu đến cái độ không biết là quân Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn, những sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng mến tài nó, che chở nó, làm ơn cho nó, như mày, như Lưu Kim Cương, sẽ bị bọn Bắc Việt Cộng bỏ tù mút chỉ cà tha. Nó phải biết chứ, nó phải thấy chứ, sao nó nhẫn tâm ca hát chào mừng bọn Việt Cộng, sao nó tỏ ra sung sướng khi nó biết chúng mày sắp khốn khổ, khốn nạn? Mày kể mày thân với nó, mày là bạn nó, tao không thấy nó thân với mày, không thấy nó nhận mày là bạn, mày cưu mang nó, mày đi tù mười mấy năm nó không một lời hỏi thăm. Mày thân tàn trở về, vợ bỏ, nhà mất, con mày tan tác, tao không thấy nó đi tìm mày, không thấy nó chi cho mày nửa lời an ủi. Nó bạn với bọn văn nghệ sĩ miền Bắc, nó không bạn với bất cứ thằng văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà bại trận nào.
Ông bạn N.T, nhân câu dân dao “Ba Mươi giết hết lột da đóng giày”, nói:
– Tha nó. Lột da nó làm gì. Mình khác nó…
Thở hắt ra, tôi nghĩ: “Nói vậy thôi, mình có lột da được thằng nào đâu. Chúng nó lột da mình thì có. Chúng nó lột da anh em mình dài dài từ ngày ấy…”
Tôi mượn lời ông Elie Weisel để diễn tả tâm trạng tôi. Elie Weisel là người Do Thái, sinh trưởng ở Romania, hiện cư ngụ ở Hoa Kỳ. Sống sót từ Lò Thiêu Người Do Thái của Đức Quốc Xã, trong khi cha mẹ, anh chị em ông chết hết trong Lò Thiêu Người. Elie Weisel viết Hồi Ký tố cáo tội ác bọn Đức Quốc Xã đã làm với dân Do Thái trong Thế Chiến Thứ Hai. Ông được Giải Nobel Hòa Bình năm 1986. Chắc có ai đó đề nghị ông nên tha thứ, ông viết:
– Tôi không có quyền tha thứ cho bọn giết người về cái tội chúng đã tiêu diệt 6 triệu người Do Thái. Quyền tha thứ hay không là ở những người đã chết.
Chiều nay, đúng giờ này, ngày này 26 năm trước, 4 giờ chiều Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, trời Sài Gòn u ám, đất Sài Gòn quằn quại, người Sài Gòn đau thương, mấy tên đốn mạt đến đài phát thanh phứng phưng hát chào mừng quân xâm lăng.
Tôn vinh hương linh những công dân Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa – quân và dân – đã chết vì chống lại cộng sản, tưởng nhớ những người Sài Gòn đến 4 giờ chiều ngày 30 Tháng Tư 1975 còn chết vì chống Cộng sản ở Sài Gòn, tôi thành kính – và ngậm ngùi – viết những dòng này.
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (09)
“Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa…”
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, những anh Con Trai Bà Cả Đọi Giao Chỉ có cái hay là không cần kỳ cọc học chữ Hán, vẫn có thể hiểu được Thơ Đường. Chẳng hạn như hai câu thơ của Đỗ Mục, các anh hiểu “Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”. Các anh chẳng cần phụ đề Việt ngữ: “Những em gái chơi – trong bài thơ này là các em ca kĩ 0 không biết cái hận mất nước. Đêm đêm vẫn hát bài Hậu Đình Hoa!” Cay cú thì thêm vào mấy tiếng: “Hát cho bọn cướp nước nghe”.
Tôi đọc Dạ Bạc Tần Hoài những năm 1950. Năm xưa ấy, tôi thấy thơ Dạ Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục rằng hay thì thật là hay… nhưng không ngậm đắng, nuốt cay tí nào! Không cay đắng bởi vì từ năm 1950 đến năm 1975 tuy tôi đã mất một nửa nước, tôi vẫn còn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Chỉ đến những đêm buồn khủng khiếp sau 1975, từ đó dài dài dài mãi đến bây giờ và không biết còn dài đến bao giờ, tôi mới biết cái nhục mất nước và tôi mới thấm thơ Dạ Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục.
Những em xướng ca, đời nào cũng vậy, thường chỉ hát phục vụ bọn đàn ông có quyền, có tiền. Nghề nghiệp buộc các em phải làm thế. Ta đã thấy Người Thơ tài hoa Nguyễn Du kể chuyện Nàng Cầm ở thành Thăng Long những năm 1800:
“Long Thành giai nhân
Tính thị bất kỳ thanh
Độc thiện Nguyễn cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh…”
(Người đẹp Thành Thăng Long
Họ tên không ai rõ
Riêng giỏi đàn cầm
Nên người toàn thành gọi tên là Cầm…)
Đàn Cầm còn có tên là đàn Nguyệt, lại có tên là đàn Nguyễn, do Nguyễn Hàm, một vị trong Trúc Lâm Thất Hiền đời Tấn tạo ra.
Thi sĩ Trữ Tình kể chàng nhìn thấy Nàng Nguyệt Cầm lần thứ nhất trong một dạ yến của các tướng lãnh Tây Sơn ở Thăng Long. Thi sĩ ta tuy không ở trong phe Tây Sơn chiến thắng, hơn thế nữa chàng còn ở trong phe Lê Trịnh chiến bại, chàng cũng góp mặt ăn có, ăn theo những cuộc liên hoan của những người chiến thắng. Chàng kể:
Tôi khi trẻ đã được thấy Nàng một lần
Trong buổi yến tiệc bên Hồ Giám.
Bấy giờ tuổi Nàng ba lần bẩy – “Kỷ thì tam thất chính phương niên” – tức Nàng hai mươi mốt tuổi đương xuân.
Áo hồng ánh chiếu lên khuôn mặt hoa đào
Vẻ mặt Nàng mơ màng, dáng vẻ ngây ngất rất đẹp
Năm cung rộn rịp, biến hóa dưới ngón tay nàng (…)
Tướng lãnh Tây Sơn trong tiệc đều nghiêng ngả
Họ đua nhau tặng thưởng tiền cho Nàng
Nhớ lại dạ tiệc ấy qua đã hai mươi năm
Tây Sơn thảm bại, tôi vào Nam
Long Thành trong gang tấc không được thấy nữa…
Nay Tuyên Phủ Sứ vì tôi mở tiệc vui
Trong tiệc các nàng ca nữ đều trẻ đẹp
Duy ở phía cuối có một người tóc hoa râm
Mặt gầy gò, thần sắc khô héo, thân mình nhỏ bé
Đôi mày tàn tạ không trang điểm
Nào có ai biết đó là người chơi đàn hay nhất thành.
Nghe khúc nhạc cũ mà giọng điệu mới, tôi thầm rơi lệ
Tai lặng nghe mà lòng buồn thương
Nhớ lại hai mươi năm trước từng thấy Nàng..
Thành quách đổi rời, việc người cũng khác.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết
Chỉ còn sót lại người nữ nhạc công này
Chớp mắt trăm năm có là bao
Đau lòng việc cũ lệ thấm áo…
Tôi từ ngày vào Nam tóc trắng hết
Tất nhiên nhan sắc người đẹp phải suy tàn…
Khi tướng lãnh Tây Sơn làm chủ Thăng Long, Nguyệt Cầm đang thời xuân sắc. Chàng chưa có danh vọng gì. Chắc năm ấy tuổi Chàng cũng ba lần bẩy bằng tuổi Nàng. Chàng được vào dự yến chắc là nhờ đi theo ông anh là đại thần của Nhà Tây Sơn. Chàng ngồi ở cuối tiệc. Hai mươi năm sau (1813) Chàng là Đại Sứ Trưởng Sứ Bộ An Nam sang triều cống Thiên Triều Mãn Thanh. Trên đường sang Thiên Quốc, Chàng và Sứ Bộ nghỉ lại thành Thăng Long. Tuyên Phủ Sứ đặc biệt mở dạ tiệc khoản đãi. Đêm nay, vật đổi, sao dời, Chàng là thượng khách của dạ tiệc, Nàng là nữ nhạc công già, ngồi đàn ở cuối ban nhạc.
Kể lại chuyện xưa để thấy những người hành nghề ca xướng, đàn địch, đời xưa, đời nay, đời sau, đời nào cũng phải phục vụ bọn có quyền. Do đó họ bị chê là:
“Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”.
Biết vậy nhưng ta vẫn đắng cay khi ta sống ở Thành Hồ những năm sau cuộc trời long, đất ngả nghiêng đen hơn mõm chó mực, đen hơn cái lá đa ca dao, ta nghe, ta thấy, ta bị, ta phải nghe, phải thấy những em thương nữ ca hát nâng bi bọn Bắc Việt Cộng nón cối, giép râu, răng cải mả, tóc bím, đít to hơn cái thúng, kéo vào làm chủ Sài Gòn Thủ Đô của ta. Ta cay đắng và ta cay cú. Không cay cú sao được. Ta cay cú vì ta là người. Thần kinh ta rã rời, trái tim ta nát ngấu như trái sa-bô-chê bị xay trong bình quay sinh tố khi trong ngày bế mạc cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị II cho Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Kẹt Giỏ ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn thất thủ của ta – Tháng Bẩy 1976. Trong buổi chiều, đại biểu các Tổ học tập lên diễn đàn phát biểu ý kiến, tâm hồn ta như cái ruột xe đạp sì hơi, rách còn hơn cái mền Sakymen (Sài Gòn Kỹ Nghệ Mền Len, Xưởng Máy ở chân cầu Bình Triệu), khi ta ngồi chết dí ở đấy nghe em thương nữ nói thao thao như mây bay, như suối chẩy:
– Cách mạng mới vào, em cũng sợ lắm. Em từng được nghe nhiều chuyện không hay về cách mạng. Những ngày đầu em cũng hoang mang. May mắn em được chị Kim Cương dẫn dắt. Em đi hát và trong một lần trình diễn em thấy cử tọa nghiêm túc nghe em hát, tán thưởng, cổ võ đúng lúc. Em nghĩ đây mới thật là chỗ đứng của người nghệ sĩ. Em phấn khởi nghĩ: “Đây mới thực là chỗ đứng của mình…”
Không biết đó là những lời tự em nghĩ ra hay em được ai mớm? Hai mươi nhăm năm xưa khi nghe em nói những câu đó tôi đã thắc mắc như thế, hôm nay viết lại chuyện xưa tôi vẫn còn nguyên thắc mắc ấy. Nếu em nghĩ ra thì tôi phải phục em vì tài nghệ nâng bi của em, nếu đó là lời người khác mớm cho em thì tôi cũng phải phục em vì em nhớ, em nói không vấp váp. Em nói em hát cho bọn ViXi nghe và em thấy việc ấy là đúng, là việc em nên làm, em nói bọn ViXi mới xứng đáng là những kẻ được nghe em hát, chỉ có bọn ViXi mới kính trọng con người nghệ sĩ của em, tôn trọng tài năng của em; em nói “chỗ đứng” – đây là chỗ em đứng em hát, “chỗ đứng” của em là chỗ trước mặt bọn ViXi. Nhưng rồi ngay sau đó em bỏ chỗ đứng của em, em ù té, em đi một đường vượt biên. Hai mươi mùa sầu riêng trổ gai sau ở Hoa Kỳ, tôi nhìn thấy em trên băng video. Thiên hạ hỏi em tại sao em hát hay thế, em trả lời em “hát bằng trái tim”. Tôi thắc mắc không biết những năm 76, 77 ở Thành Hồ em hát cho bọn ViXi nghe bằng cái gì?
Ngoài việc nâng bi ViXi trong lần phát biểu cảm tưởng (Cán Cộng gọi là “thu hoạch”) sau khóa Bồi Dưỡng Chính Trị chiều xưa ấy, em nữ ca sĩ Hậu Đình Sài Gòn còn phăng phăng kể cho bọn ViXi nghe chuyện Tổng Thẹo mê em, Tổng Thẹo cứ nhẩy với một mình em trong Đêm Liên Hoan Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở Cà Mâu. Em kể, em nói với Tổng Thẹo: “Ở đây có nhiều cô… Tổng Thống nhẩy với cô khác đi, bài nào Tổng Thống cũng nhẩy với em người ta thấy kỳ quá. Ông ấy nói: “Cái đinh đã đóng vào cột rồi, đâu có dễ gì nhổ ra”.
Chiều xưa, một chiều mưa Tháng Bẩy 1976, trong nhà Hát Lớn của ta nay Bắc ViXi làm chủ, khi nghe em ca sĩ kể chuyện Tổng Thẹo đa tình ôm nữ ca sĩ đi một đường Tango lả lướt ở Cà Mâu, đang buồn thúi ruột tôi cũng phải nhếch mép cười như mếu vì câu nói văn huê của Tổng Thẹo: “Cái đinh đóng cột…”, và lúc đó tôi nghĩ: “Người ta đang nhắc đến ông ta, không biết giờ này ở bên ấy ông ta có bị ù tai, hắt sì hơi không?” Tôi tự hỏi em ca sĩ kể chuyện Tổng Thẹo mê em cho Việt Cộng nghe để làm cái gì vậy? Em cứ nói em phục nó lắm, em hãnh diện được hát cho nó nghe, là nó hài lòng rồi, nó có đòi em kể chuyện Tổng Thẹo lẹo tẹo với em đâu.
Một ông bạn tôi nói:
– Ngày nào bọn Việt Cộng bị lật, chắc đồng bào ta cũng không ai trả thù chúng đâu. Dân tộc ta dễ tha thứ. Chuyện Cục Đá Ngày Xưa trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, ông nhớ chứ?
Nhớ chứ. Nhưng tôi không đồng ý với việc vứt cục đá đi của nhân vật trong chuyện. Khi tên nhà giầu ném cục đá vào đầu anh nay đã lâm vào cảnh ăn mày ăn nhặt, anh nghĩ trước kia anh ném lại cục đá vào đầu nó là anh dại, nay anh ném nó là anh hèn… cũng được đi. Nhưng tôi nghĩ anh nên cầm cục đá dí vào mặt nó, kể lại chuyện ngày trước nó cậy giầu nó ném cục đá đó vào đầu anh cho nó nghe, cho mọi người nghe, nói cho nó biết nó có tội và nay anh có thể trả thù, anh hành tội nó được nhưng anh không thèm làm. Nói để cho những thằng nhà giầu khác thấy để chúng nó sợ không dám làm bậy khi có tiền, có quyền, có thế.
Quân tử Tầu còn có câu: “Không đánh người ngã ngựa. Đánh người ngã ngựa là hèn”. Tôi cũng không đồng ý với tinh thần câu ấy. Lúc nó ngồi trên ngựa, tức lúc nó có quyền, có thế, nó đánh mình, làm sao mình đánh lại nó? Lúc ấy mình chỉ né nó thôi cũng đã vỡ mặt rồi. Ở đó mà đánh lại. Nhưng lúc nó ngã ngựa, lúc nó ngang cơ với mình, mình đánh cho nó bỏ mẹ nó là phải chứ. Đánh nó để cho những thằng đang ngồi trên ngựa thấy cảnh nhục nhã của những thằng khi có quyền, có thế hung hãn đánh người, làm hại người, đến khi mất quyền sẽ bị người đối xử ra sao. Cho chúng thấy để chúng tởn, chúng bớt làm bậy.
Thời loạn, nhất là trong những quốc gia bị xâm lăng, bị thôn tính, bị tiêu diệt, chẳng cứ gì đám “thương nữ” mới “bất tri vong quốc hận”, bọn văn nhân vô hạnh cũng có nhiều tên tự nguyện nâng bi bọn chiến thắng. Trong buổi bế mạc cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị cho Văn Nghệ Sĩ ở Thành Hồ Tháng Bẩy 1976, ngoài em ca sĩ Cái Đinh Đóng Cột, còn có anh nhà dzăng lên xưng tội, thành khẩn cám ơn Bác và Đảng đã cho anh được sáng mắt, sáng lòng (anh này, ngay sau khi cám ơn Bác và Đảng, cũng ù té một đường vượt biên đi mất hút),có anh ca sĩ lên phát biểu, nói gì không nói, kể chuyện ma tịt:
– Chị Phen Hường Tỏi có cái xe Mát-đa thì chị Phen Hường Riềng cũng phải có cái Đát-sun. Những nữ ca sĩ Sài Gòn muốn nổi tiếng phải đi qua cái giường…
Chiều ấy, nghe anh Ca Sĩ Cà Chớn nói, tôi ngơ ngác: “Tại sao lại có thể mở miệng nói như thế trước bọn Việt Cộng? Chúng nó có đòi mình phải nói như thế đâu? Tại sao mình lại tự bôi bẩn lên mặt mình một cách ngu xuẩn quá như thế?
. Loại xướng ca này hát cho Lính chỉ làm cho Lính xấu hổ.
oOo
Thôi nhé… Hãy tạm quên đi những hờn giận, những đắng cay, để trở về với bài thơ Hậu Đình Hoa.
Tác giả là Trần Thúc Bảo, ông vua cuối cùng của nhà Trần Nam Triều bên Tầu. Tất nhiên, Nam Triều bên Tầu, không phải Nam Triều Tiên. Ông vua Tầu này thường được gọi là Trần Hậu Chủ, làm Vua từ năm 583 đến năm 589, vỏn vẹn 6 năm, thì bị Tùy Văn Đế diệt, nhưng tên tuổi được nhắc mãi nhờ là tác giả một bài thơ và phần lớn nhờ được thi sĩ Đỗ Mục nhắc đến bài thơ đó. Đây là bài thơ “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa” của Trần Hậu Chủ:
“Lệ vũ phương lâm đối cao các
Tân trang diễm chất bản khuynh thành.
Aùnh hộ ngưng kiều sạ bất tiến
Xuất duy hàm thái tiếu tương nghênh.
Yêu cơ kiểm thị hoa hàm lộ
Ngọc thụ lưu quang chiếu hậu đình”.
(Cây Ngọc Như Hoa ở Hậu Đình
Nhà ngọc, rừng thơm đối diện với lầu cao,
Mới trang điểm, sắc đẹp vốn khuynh thành.
Cánh cửa sáng lên, dáng kiều ngập ngừng dừng lại.
Vén rèm bước ra,mặt tươi nét cười đón nhau
Người đẹp trẻ tuổi, mặt tươi như hoa ngậm sương
Nàng như cây ngọc phát ánh sáng, chiếu rực rỡ cả hậu đình.
Ý thơ thường thôi, bài thơ sống được mãi với đời là nhờ thơ “Dạ Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục:
“Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa.
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa“.
(Khói lồng nước lạnh, trăng lồng cát.
Đêm ở Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Thương nữ không hay sầu mất nước
Bên sông vẫn hát Hậu Đình Hoa).
Kể cũng lạ. Đỗ Mục sống và làm thơ trong thời nhà Đường, một trong những thời đại cường thịnh nhất của nước Trung Hoa. Nhà Đường đánh xuống miền Nam, thôn tính Giao Châu, lập lên An Nam Đô Hộ Phủ, đánh sang miền Đông, chiếm Cao Ly, lập lên An Đông Đô Hộ Phủ. Đỗ Mục biết gì về chuyện vong quốc, ông đau gì về chuyện mất nước mà ông trách người ta cứ hát khúc Hậu Đình Hoa?
Ông mà sống vào thời của bọn mất nước chúng tôi bây giờ, ông mà sống lưu vong như bọn tôi, ông thấy bọn văn nhân vô hạnh, bọn xướng ca vô loài của chúng tôi khi kẹt trong nước thì ca tụng bọn cướp nước, chạy được ra nước ngoài thì hai mươi năm sau trở về đầu hàng bọn cướp nước… chắc ông hết làm thơ được, ông khóc.
Vua Bảo Đại nước An Nam và vua Trần Hậu Chủ nước Ba Tầu giống nhau ở điểm hai ông cùng ăn chơi, cùng mất ngôi, mất nước, nhưng khác nhau ở điểm vua Trần Hậu Chủ làm thơ Hậu Đình và tự tử chết ngay khi mất ngôi, vua Bảo Đại Bại Đảo suốt đời không viết gì cả – quyển Hồi Ký của ông là do ông kể, ông Tây viết, tất nhiên là bằng tiếng Tây – và sống thật lâu sau khi mất ngôi, mất nước.