Moderator
Status :
Tham gia: Jun 2008
Posts: 2,146
Thanks: 23
Thanked 31 Times in 19 Posts
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (04)
Năm 1982, ở tù hai năm trở về, tôi mới được quen anh Cao Hữu Đính. Anh Đính đã qua đời năm 1992 trong căn nhà của anh ở khoảng giữa nhà thờ Bùi Phát và cổng xe lửa số 6 đường Trương Minh Giảng. Anh nguyên là Tổng thư ký Liên Ban Tôn Giáo Chống Độc Tài Ngô Đình Diệm năm 1963, là giáo sư Đại học Vạn Hạnh. Anh hơn tôi gần hai mươi tuổi.
Tôi gặp anh Cao Hữu Đính lần đầu ở nhà anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Năm ấy, 1982, tôi viết một số bài kể chuyện linh về cuộc sống ở Thành Hồ gửi sang Mỹ, Pháp, Úc. Tôi đưa vài bài để anh Đính đọc. Anh nói:
– Trước kia tôi có nghe tên anh nhưng tôi không đọc anh. Tôi vẫn tưởng anh chỉ viết được tiểu thuyết, không ngờ anh viết chính luận được quá. Hay đấy.
Từ đó anh Đính mến tôi, hay đến nhà tôi chơi, đưa tôi đi ăn những chỗ anh thấy có thức ăn ngon, giúp đỡ vợ chồng tôi tất cả những gì anh có thể giúp. Anh chị Đính những năm ấy sống tương đối thoải mái hơn nhiều người, anh chị có bẩy, tám người con, năm người sống ở nước ngoài, tất cả các con anh chị đều thành đạt.
Là nhà nghiên cứu Phật giáo và tích cực tham gia phong trào chấn hưng đạo Phật từ những năm 1940, anh Đính biết khá nhiều về giới giáo sĩ Phật giáo ở miền Trung Việt Nam. Những lúc vui chuyện anh kể cho tôi nghe về tiểu sử, đời tư, hạnh kiểm, hành động của nhiều vị lãnh đạo Phật giáo như Hòa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, các vị Thượng Tọa Thiện Minh, Quảng Độ, Đức Nhuận, Trí Quang, Nhất Hạnh v.v…
Là người ngoại đạo, tôi nghe rồi quên ngay. Tháng 3 năm 1984 anh Đính cho tôi biết:
– Lại có chiến dịch khủng bố Phật giáo đồ. Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Nữ Trí Hải bị bắt hôm qua. Cả ba cùng bị bắt trong một buổi sáng. Chưa biết còn những ai bị bắt nữa.
Anh nhấn mạnh:
– Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Trí Hải là… la crème du Bouddhisme… tinh hoa của Phật giáo.
Vài ngày sau anh cho tôi biết thêm về vụ bắt bớ lớn ấy:
– Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Trí Hải là những người con cưng của Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Tuệ Sĩ, Trí Siêu bị bắt ở Chùa Già Lam, Phú Nhuận. Cô Trí Hải đang lập một tịnh xá ở Hố Nai, làm chỗ cư trú cho những tăng ni không có tên trong sổ hộ khẩu chùa nào cả. Công an đi xe đến tận nơi mời cô Trí Hải về Sài Gòn. Buổi sáng Hòa Thượng Thích Trí Thủ được mời đến trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc. Trong lúc Hòa Thượng đi vắng, Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị bắt. Ở trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc, Hòa Thượng Trí Thủ được mời nghe cuộn băng ghi tiếng nói của một tăng sinh can tội phản động bị bắt. Tăng sinh này khai Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và Ni cô Trí Hải là những người trong ban lãnh đạo tổ chức phản động. Nghe nói tổ chức này lớn lắm, định lập chiến khu, gây bạo động ở thành phố, có súng. Khi Hòa Thượng Trí Thủ trở về đến chùa, nghe báo Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát bị bắt, Hòa Thượng ứa nước mắt.
Tai họa dồn dập đến với những Phật tử Việt Nam. Khoảng bẩy ngày sau, anh Đính cho tôi biết Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Pháp Chủ Phật Giáo Việt Nam, đột ngột tạ thế. Đấy là những ngày cuối tháng Ba năm 1984. Tình trạng cá nhân tôi cũng đen tối không kém. Nhiều sự kiện xẩy đến làm tôi lờ mờ cảm thấy xe bông của Sở Công an Thành Hồ lại sắp sửa đến nhà tôi rước tôi đi lần nữa.
Tháng Giêng 1984 chúng tôi nghe tin mới có một đài phát thanh chống Cộng. Tết năm ấy một số người ở Nha Trang tình cờ bắt được tiếng nói của đài phát thanh này. Tin truyền về Sài Gòn. Đầu tháng Hai 1984 anh Đính và tôi nghe được đài. Đó là Đài Phát Thanh Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh.
Từ ngày ấy đến khi tôi viết những dòng này ở Rừng Phong, Hoa Kỳ, thời gian đã gần hai mươi năm. Thật nhanh. Tôi nhớ Đài Phát Thanh Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh năm ấy phát thanh mỗi ngày năm lần, mỗi lần một giờ. Đài yếu. Rất khó bắt. Người nào có duyên với đài thì may tay có lời, bắt được tiếng nói ngay bất kể máy thu thanh xấu tốt. Nhiều người ra-đi-ô thật “sịn” loay hoay mò cả nửa tiếng cũng không bắt được đài. Một giờ phát thanh quá lâu. Đài phát thanh bằng băng thâu sẵn. Ba, bốn ngày mới thay một băng. Tin tức không có. Gần như toàn những bài viết đả kích cộng sản. Những ngày đầu vợ chồng tôi náo nức tìm nghe, chúng tôi xúc động khi nghe nhạc hiệu của đài, bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông – bản nhạc, lời ca thật hay nhưng đã bị vợ chồng tôi từ lâu quên lãng – chúng tôi xúc động hơn khi nghe tiếng hát Thái Thanh hát bài Quê Em:
Quê em miền trung du
Đồng quê lúa xanh rờn
Giặc tràn lên cướp phá
Anh về quê cũ
Đi diệt thù giữ quê
Giặc tan đón em về…
Một tối, lúc 11 giờ đêm, tôi nghe đài kháng chiến. Cái ra-đi-ô Sony cũ rích nằm bên tôi trên căn gác lửng, Alice nằm tình tang trên cái võng mắc dưới nhà lại nghe tiếng nói phát ra từ máy rõ hơn tôi. Nguyên do là hệ thống truyền âm trong căn nhà nhỏ của chúng tôi khá ly kỳ. Đêm ấy vợ chồng tôi cùng nghe một bài bình luận của Đài Kháng Chiến. Tôi chắc một văn nghệ sĩ nào đó có trình độ hiểu biết khá cao là tác giả bài đó. Đại ý của bài là trước 1975 các văn nghệ sĩ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa có cái lỗi là không tích cực chống Cộng, nhưng sau 1975 họ có cái hay là không một người nào cộng tác với cộng sản.
Đây là nguyên văn một câu trong bài chúng tôi nghe được đêm hôm đó:
–… trong năm 1983 chúng ta đã được đọc văn thơ chống Cộng của Hoàng Hải Thủy, Bùi Hoàng Cầm, Nguyễn Chí Thiện…
Tôi bồi hồi xúc động với những cảm giác vui, lo, kiêu hãnh, sợ hãi lẫn lộn. Tôi được kể tên trước Hoàng Cầm, thi sĩ tôi rất ái mộ. Hết giờ phát thanh, tôi lọ mọ xuống gác, nói với Alice:
– Em nghe rõ tên anh chứ? Chắc chúng nó phải bắt anh thôi, chúng nó không để anh yên đâu.
Nhiều người nghe được bài ấy trên đài Hoàng Cơ Minh. Một sáng, anh Nguyễn Văn Đạt, nguyên Đại Tá, nguyên Tỉnh Trưởng Bình Định những năm 1953-1954, đi chiếc xe đạp mi-ni đến nhà tôi. Tôi được quen anh Đạt qua anh Đính. Anh Đạt đi cải tạo ở miền Bắc về năm 1980. Sáng ấy anh đến chào từ biệt tôi, anh nghe đài kháng chiến gọi tên tôi nên anh biết tôi sắp bị bắt. Vợ chồng tôi cám ơn anh và tiễn anh ra tới hàng ba. Dừng lại bên cửa với chiếc xe đạp mi-ni anh nói với vợ chồng tôi lời cuối:
– Chị đừng buồn. Chị làm vợ một người chồng có tài, chị phải chịu cái tai của anh ấy.
Vợ chồng tôi bồi hồi nhìn theo anh đạp xe ra khỏi cư xá. Đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh, nghe tiếng anh nói. Năm 1990 khi tôi từ nhà tù trở về mái nhà xưa, anh Đạt đã qua đời.
Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni cô Trí Hải bị bắt ngày 30 tháng 3, 1984. Chừng một tuần sau Hòa Thượng Thích Trí Thủ viên tịch. Hai giờ sáng rạng ngày mùng 2 tháng 5 năm 1984 Công an Thành Hồ đem xe bông đến nhà rước tôi đi.
Tôi lại trở vào cái gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, trung tâm thẩm vấn của Sở Công an Thành Hồ, nơi bốn năm trước tôi đã sống hai năm và đã ra thoát. Trở vô lần này tôi lại vào biệt giam Khu C Một. Lần trước tôi nằm phòng biệt giam – sà lim – số 6 cũng khu này, lần thứ hai này tôi nằm phòng biệt giam số 10.
Sau thời gian chịu thẩm vấn, cai tù đưa tôi sang phòng tập thể số 6 cùng khu. Vào phòng tôi được xếp nằm cạnh một thanh niên trạc ngoài ba mươi tuổi. Chú kém tôi đến mười lăm tuổi nên tôi gọi là chú, chú gọi tôi là bác. Nằm bên nhau chúng tôi nói chuyện làm quen. Khi nghe chú nói chú là tu sĩ chùa Già Lam, tôi vội hỏi tên chú – vì anh Đính có cho tôi biết tên người tăng sinh chịu không nổi khổ cực vì bị nằm sà lim dài hạn nên đã phải cung khai. Biết chú không phải tăng sinh cung khai, tôi cho chú biết tin Hòa Thượng Trí Thủ đã viên tịch.
Chú không biết tin ấy, chú cũng chỉ lờ mờ biết dường như Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát đã bị bắt. Chú cho tôi biết chú bị bắt đã ba năm, năm đầu chú bị giam ở đây – Số 4 Phan Đăng Lưu – năm thứ hai chú sang khám Chí Hòa và bây giờ chú mới được đưa từ Chí Hòa về đây khoảng một tuần nay để thẩm vấn lại. Chú bị đưa trở lại đây chịu thẩm vấn thêm vì công an vừa bắt Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và cô Trí Hải. Nghe tôi nói linh tinh và nói vanh vách về những chuyện Phật giáo, Phật tử v.v… chú hỏi tôi:
– Bác không phải Phật tử, sao bác biết những chuyện ấy?
– Ông Cao Hữu Đính cho tôi biết – tôi trả lời – Tôi hay gặp ông ấy lắm.
Tôi được biết một nhóm tu sĩ Phật giáo và Phật tử liên kết với một số tín hữu Thiên Chúa giáo – đa số là người Việt miền Trung – thành lập một tổ chức chống Cộng có tầm cỡ khá lớn. Nhiều người trong tổ chức đã bị bắt từ ba năm trước (1980) nhưng họ không chịu khai những người lãnh đạo họ. Vì họ không chịu khai nên họ cứ bị Việt Cộng giam mãi. Mới đây một người trong nhóm bị nằm sà-lim mút chỉ ba năm, không được nhận đồ gửi vào nuôi, ta gọi là tiếp tế, chịu không nổi đã cung khai. Lời khai của người này được thâu vào băng, Hòa Thượng Trí Thủ đã được công an mời nghe cuộn băng cung khai. Do đó Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và Ni cô Trí Hải bị bắt.
Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, cạnh Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, nhìn sang Chợ Bà Chiểu và Lăng Ông, là trung tâm thẩm vấn của Sở Công an Thành Hồ. Gần như tất cả người Sài Gòn bị bắt đều bị đưa vào đây thẩm vấn. Đặc biệt trung tâm này chỉ có những tù chính trị, tù vượt biên, tù xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (tức ăn cắp của công), không có tù hình sự (tức tù trộm cướp, giết người, hiếp dâm).
Nhóm Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi bị bắt sau Tổ Chức Chống Cộng Già Lam một tháng. Chúng tôi ở Số 4 Phan Đăng Lưu 12 tháng: anh Doãn Quốc Sĩ ở khu C Hai, Khuất Duy Trác ở Phòng Tập Thể 1 khu C Một, Dương Hùng Cường ở Phòng Tập Thể 3 khu C Một, Trần Ngọc Tự ở Phòng Tập Thể 5 và tôi ở Phòng Tập Thể 6 khu C Một. Nhóm Già Lam đi sang Chí Hòa trước chúng tôi.
Tháng Năm 1985 tôi đặt chân xuống Thánh Địa Chí Hòa. Buổi trưa, tay ôm, tay xách hành lý: quần áo, mùng mền, chiếu, tôi theo các bạn bước vào trung tâm Thánh Địa. Đứng trong sân tôi ngửng nhìn, chỉ thấy song sắt và song sắt. Người Sài Gòn bị bắt đi tù nếu chưa vào Khám Chí Hòa thì vẫn chưa biết tù đày đích thực là gì. Nhìn lên những tầng lầu cao tôi bồi hồi tự nhủ: “Đây Chí Hòa… Với người tù Sài Gòn, Chí Hòa giống như Đại học Harvard của sinh viên Mỹ, Eton của sinh viên Anh, Sorbonne của sinh viên Pháp”. Tâm trạng tôi lúc ấy như dòng suối cuồn cuộn trôi. Tôi sợ hãi và tôi kiêu hãnh. Sống dưới cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa đi tù vì tội chống đối Cộng sản là một thành tích tốt. Trong hai mươi năm, từ 1954 đến 1975, tôi đã sống, đã hưởng thụ, đã để cho những người khác chết, để cho vợ con những người khác khóc. Bằng những năm tháng tù đày này, tôi trả được phần nào cái nợ sống, được đóng góp một phần công nhỏ của tôi trong công cuộc chung của cả dân tộc. Tôi chỉ là một người tù rất thường như cả trăm ngàn người tù chống Cộng khác. Nhiều người tù đã chết trong nhà tù lớn nhất Đông Dương này. Rất có thể và chẳng có gì lạ nếu tôi không còn sống để ra khỏi những vách tường này. Nhưng ngày nào trở ra được, mai sau, trọn đời tôi, tôi sẽ kiêu hãnh vì từng sống trong Nhà Tù Chí Hòa.
Bẩy anh em chúng tôi, Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn và tôi (anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đã sang Chí Hòa tháng trước) cùng từ Số 4 Phan Đăng Lưu sang Thánh Địa Chí Hòa trong một chuyến xe. Vào Khu ED – Ơ Đê – cai tù chia chúng tôi ra, đưa chúng tôi mỗi người vào một phòng.
Khu ED là khu giam tù chính trị, tù vượt biên, tù xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tức tù ăn cắp của công, biển thủ công quĩ, hối lộ, buôn trầm, vàng… Những năm 1985, 1986… Phòng 2, ở dưới đất, là phòng giam những người bị bắt từ năm 1975. Cộng sản không đưa tù Phòng 2 khu ED Chí Hòa đi trại cải tạo, không đưa ra tòa, các vị cứ bị giam miệt mài đã cả mười năm. Tháng Năm 1985 ở Phòng 2 đó có các ông Nguyễn Tiến Hỷ, Thái Lăng Nghiêm, Như Phong Lê Văn Tiến, Nguyễn Đan Quế, Trần Thành và chừng hai mươi vị khác.
Sau chừng nửa giờ đoàn tụ ở trên tù xa, anh em chúng tôi lại tan hàng, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn vào hai phòng nữ 3 và 4 ở dưới đất, ni cô Thích Nữ Trí Hải đang ở một trong hai phòng nữ ấy. Dương Hùng Cường, Trần Ngọc Tự vào hai phòng lầu Hai, Khuất Duy Trác vào phòng 9, tôi vào phòng 10 lầu Ba, anh Doãn Quốc Sĩ lên lầu Bốn, anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, từ Số 4 Phan Đăng Lưu sang Chí Hòa trước chúng tôi một tháng, ở phòng 9 Lầu Ba khu ED.
Tôi gặp Trí Siêu Lê Mạnh Thát trong phòng 10 khu ED. Lê Mạnh Thát cùng nhóm Già Lam sang Chí Hòa trước tôi một tháng. Hai chúng tôi có chung một người bạn tù rất tốt. Anh bạn tù trẻ của chúng tôi là tu sĩ Thiên Chúa giáo: Lê Văn Bẩy đã học xong nhưng không được Việt Cộng cho thụ phong linh mục. Bẩy ăn chung, nằm cạnh tôi ở Phòng 6 Số 4 Phan Đăng Lưu. Bẩy sang Chí Hòa cùng chuyến xe với Lê Mạnh Thát. Bẩy quí mến Lê Mạnh Thát còn hơn Bẩy quí mến tôi. Bẩy đang ăn chung, nằm cạnh Thát, nên nhờ Bẩy, vừa vào phòng 10, tôi được ngay người quen đón tiếp, lo cho đủ thứ. Tôi ăn chung, nằm cạnh Bẩy và Thát.
Tôi gọi Lê Mạnh Thát là thầy, Thát gọi tôi là bác. Thát kém tôi khoảng mười tuổi, có khổ người nhỏ nhắn đúng kiểu bạch diện thư sinh, nước da trắng hơn da con gái, mắt sáng, chưa phải dùng kính lão khi đọc báo, môi hồng, răng trắng đều đặn và còn tốt nguyên, thông minh thì khỏi nói. Tôi thấy con người Thát đẹp trai, hào hoa phong nhã.
Tôi trở thành người bạn đồng tù thân thiết nhất của Lê Mạnh Thát ở Chí Hòa. Trong sáu năm tù lần thứ hai của tôi, chỉ có một năm đầu ở Số 4 Phan Đăng Lưu tôi và Thát không sống chung phòng, từ 1985 đến 1989 chúng tôi sống gần nhau, sống chung, sống sát nhau suốt ngày, suốt đêm: 4 năm ở Phòng 10 Khu ED Chí Hòa, một năm ở Trại Lao Động Cải Tạo Z30A. Sự kiện đặc biệt tôi thấy ở con người Lê Mạnh Thát là suốt năm năm trời sống sát bên nhau, tôi không thấy Thát bị qua một lần cảm cúm, nhức đầu, đau bụng, đau răng, ho hen nào, cũng không một lần ghẻ ngứa. Anh em tù ghẻ lu bù kèn, riêng tôi năm nào cũng bị hai lần ghẻ ngứa, mỗi lần kéo dài khoảng hai tháng, vào thời gian thời tiết thay đổi, nhưng Thát thì không. Ở tù như mọi người nhưng cả mấy mụn ghẻ còm Thát cũng không có. Thát rất ham đọc sách báo. Ở vào số tuổi ngoài bốn mươi, mắt Thát vẫn sáng nguyên, vẫn đọc sách không biết mỏi và không phải dùng kính lão.
Sau một năm chung sống, người bạn trẻ Lê Văn Bẩy của chúng tôi ra tòa. Lãnh án 8 năm, Bẩy từ biệt chúng tôi và Phòng 10 ED để qua khu FG chờ đi Trại Lao Động Cải Tạo. Thát và tôi ở lại bên nhau. Anh em tù cũ ra khỏi phòng, anh em tù mới vào phòng rồi ra khỏi phòng, Thát và tôi cứ ở lại đấy mãi. Đến năm 1988 Thát là người tù thâm niên nhất Phòng 10, tôi là người tù thâm niên thứ hai.
Gia đình Lê Mạnh Thát chỉ có một mình Thát là con trai, Thát tu hành từ năm mới mười một, mười hai tuổi. Năm 1964 Thát sang Hoa Kỳ học ngành y khoa ở tiểu bang Wisconsin. Học xong Thát từng làm việc mấy năm trong trường đại học Thát tốt nghiệp ở Wisconsin. Năm 1974 Thát trở về Sài Gòn. Tháng Tư 1975 đến, Thái có sẵn re-entry permit của Hoa Kỳ và vé máy bay nhưng không đi. Thát có bà mẹ già và cô em ở Sài Gòn. Cờ đỏ vào Sài Gòn, nhiều tu sĩ Phật giáo bị bắt, bị chết trong tù như Thượng Tọa Thiện Minh, nhiều ông bị bắt, được thả về, bị bắt lại, bị đưa về nguyên quán quản thúc, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương vẫn sống bình yên trong chùa Già Lam cho đến Tháng Ba 1984.
Lê Mạnh Thát giỏi chữ Hán, ít nhất Thát cũng giỏi chữ Hán hơn tất cả những người tù biết chữ Hán từng ở chung phòng tù với Thát và tôi. Tù Chí Hòa bị cấm dùng giấy bút, anh em tù chế ra những tấm bảng viết bằng giấy: lấy giấy bao thăm nuôi dán nhiều tờ lại thành một miếng dầy như các-tông, xoa mỡ nước và xà-bông lên mặt giấy, đặt miếng nylon lên, viết bằng que cán chổi. Viết xong bóc miếng nylon, nét chữ mất. Lê Mạnh Thát không nhớ một câu thơ chữ Hán nào cả, tôi đọc cho Thát viết mấy bài thơ chữ Hán tôi thuộc, như:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong, ngư hỏa đối sầu miên…
Hay thơ Tố Như:
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Độc đáo song tiền nhất chỉ thư…
Tôi đọc, Thát viết chữ. Chúng tôi giúp nhau qua ngày giờ trong tù. Thời gian cứ thế lê thê trôi qua…
Ở Chí Hòa có những người tù bị giam đến sáu, bẩy năm mà không “được” đưa ra tòa xét xử, không “được” đưa đi trại, không được ai hỏi đến, không được báo tin về nhà, không được thăm nuôi. Cứ ở tù riết như bị bỏ quên, như hồ sơ bị mất. Guồng máy tư pháp cộng sản hoạt động rất ì ạch. Một trong những nguyên nhân làm cho cái gọi là bộ máy tư pháp cộng sản nặng nề, han rỉ, mất đinh ốc, không dầu mỡ hết sức cồng kềnh ấy chạy cà ạch cà đụi là việc họ giam người mà không cần đưa ra tòa xét xử, giam cho chết luôn là chuyện rất thường.
Theo lệ kể từ năm 1985 những vụ án chính trị, tổ chức vượt biên, vẫn được đưa ra tòa xử, hay giải quyết bằng cách đưa can phạm đi trại lao cải sau ngày bị bắt khoảng hai năm. Vụ văn nghệ sĩ phản động bị gọi là bọn Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi bị giam tới bốn năm mới đem ra xử, vụ Tổ Chức Già Lam phản động có Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni cô Thích Trí Hải, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận trong ban lãnh đạo – những người bị bắt đầu tiên năm 1980, những người bị bắt cuối cùng khoảng cuối Tháng Năm 1984 – bị ngâm tôm ở Chí Hòa đến bẩy năm mới đưa ra tòa.
Đúng ra vào đầu năm 1986, trước kỳ họp Đại hội Đảng lần 6, Công an Thành Hồ đã quyết định đưa anh em chúng tôi ra tòa xử, lệnh ra tòa đã được đọc cho anh em chúng tôi nghe. Hai tờ tuần báo Công An Thành Hồ và Tuổi Trẻ om xòm loan tin về vụ xử và đăng những bài viết kể tội chúng tôi. Nhưng đến phút cuối cùng họ hoãn xử. Một năm rưỡi sau, 1988, họ mới đưa anh em chúng tôi ra tòa xử. Lãnh án 8 năm, tôi ôm chiếu, xách giỏ, rời khu ED sang khu FG, nằm chờ kháng án lên cái gọi là tòa trên.
Sau vụ xử chúng tôi chừng ba tháng, vụ Già Lam ra tòa. Can phạm trong tổ chức Già Lam đến hai mươi người. Chỉ nội cái việc tù phải đứng nghe đọc cáo trạng kết tội từng người cũng đã mất một ngày. Tòa phải xử đến hai ngày. Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương bị án tử hình, nhiều người 20 năm, 15 năm, Thượng Tọa Đức Nhuận lãnh án 10 năm, Ni cô Trí Hải 4 năm.
Trong buổi chiều ngày xử thứ hai Thượng Tọa Đức Nhuận quá mệt, ngất xỉu. Hai tên công an vào phòng xử khiêng ông ra ngoài. Những tu sĩ Già Lam sau đó trở về Chí Hòa mà không có Thượng Tọa cùng về trên xe. Mọi người yên trí là bọn công an áp giải tù đã đưa Thượng Tọa đi bệnh viện hay đưa ông về bệnh xá Chí Hòa để điều trị. Nhưng Thượng Tọa không được cai tù cộng sản chú ý đến như thế. Mãi trưa ngày hôm sau chúng tôi thấy cai tù đưa Thượng Tọa về phòng giam. Thì ra ông bị bỏ quên trong xe chở tù.
Xe chở tù – tôi không được đi xe này khi ra tòa – nghe nói của Liên Xô viện trợ, có ngăn riêng kín mít để nhốt tù tử hình hoặc những tù làm dữ, la hét, nguy hiểm. Khi Thương Tọa Đức Nhuận ngất xỉu bọn công an không đưa ông đi bệnh viện mà cũng chẳng chạy chữa, cứu cấp gì cả, chúng khiêng Thượng Tọa ra xe, bỏ ông vào ngăn nhốt tù nguy hiểm, khóa cửa lại. Xe về Chí Hòa, chẳng thằng nào nhớ có ông trong đó, chúng bỏ quên ông luôn, những người Già Lam thì yên trí chúng đưa ông đi bệnh viện nên chẳng ai hỏi.
Thượng Tọa Đức Nhuận ngồi cả đêm trong ngăn tù xa. Ông không thể kêu cứu được, có kêu tiếng ông cũng không vang ra được ngoài. Ông cứ ngồi trong đó mà niệm kinh suốt đêm cho đến sáng. Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát chắc là nghe tiếng ông nên đến cứu ông. Thấy trên trần xe có lỗ thông hơi, Thượng Tọa thò bàn tay qua cái lỗ đó ra ngoài, vẫy vẫy. Có tên công an đi qua chỗ xe đậu nhìn thấy bàn tay vẫy vẫy, đi lấy chìa khóa xe lên xe mở ngăn tù xa “giải phóng” cho Thượng Tọa trở về phòng tù.
oOo
Khi tuyên án tử hình Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, những người cộng sản đã tính trước. Họ biết thế nào hàng giáo sĩ và Phật Giáo đồ, trong nước, ngoài nước, cũng lên tiếng phản đối bản án và đòi giảm án, nên họ chơi đòn “giơ cao, đánh khẽ”, cứ tuyên án thật nặng chờ xin là giảm án. Làm như vậy họ được cái lợi: vừa có vẻ nhân đạo, làm thỏa mãn số người xin khoan hồng – giảm án rồi còn đòi hỏi gì nữa? – vừa vẫn giáng được những cái án nặng lên đầu hai can phạm. Đành rằng tổ chức Già Lam có mua được mấy khẩu súng nhưng chưa bắn phát đạn nào, chưa làm nổ một trái mìn, chưa giết chết một tên công an Việt Cộng, làm cái gì mà phang họ những hai án tử hình, mà giết đến hai người trong tổ chức? Nếu họ hành động nặng hơn thế thì lấy mức án gì mà xủ? Đến tử hình là hết mức án rồi. Nếu tổ chức gây bạo động, cho nổ mìn, bắn chết năm bẩy anh VC thì chắc là sẽ phải tuyên án tru di tam tộc hay bắn chết hết tất cả những người sống cùng khu phố với can phạm?
Theo thông lệ – vì số vụ án dồn đọng quá nhiều, không giải quyết được đúng thời hạn theo luật – những vụ án chính trị, hay vượt biên, phải chờ ít lắm là sáu, bẩy tháng mới được đưa ra xử lại.
Vụ Già Lam được xử lại chỉ sau hơn một tháng. Trí Siêu, Tuệ Sĩ được đưa từ khám tử hình Chí Hòa trở ra tòa. Lần này hai người tử tội Già Lam được giảm án xuống 20 năm tù.
Theo luật của chính Việt Cộng, án tử hình chỉ có thể giảm xuống án tù chung thân, Việt Cộng đã phớt lờ luật của chính họ để cho hai tử tù Già Lam từ án tử hình xuống thẳng án 20 năm, bỏ qua án chung thân. Cộng sản Việt Nam bắt chước hai đàn anh Nga Xô, Trung Cộng, thường tuyên những cái án thật nặng để rồi sau đó giảm án dần dần mỗi năm ở Trại Lao Động Cải Tạo, gọi tắt là Trại Lao Cải. Người lãnh án tù 20 năm khi ở trại Lao Cải nếu chịp ép một bề, chịu làm theo lệnh và tỏ ra sốt sắng làm đúng chỉ tiêu, có thể được giảm án mỗi năm ba tháng. Người án tù chung thân cũng phải đi trại làm khổ sai như những người tù khác nhưng không được giảm án hàng năm. Chỉ sau khoảng từ tám, chín đến mười, mười một năm khổ dịch người tù chung thân mới được phá án, được xuống án 20 năm, đến khi xuống án tù 20 năm đương sự mới được giảm án hàng năm. Trung bình người án tù chung thân phải ở tù từ 15 đến 17 năm.
Khi sống trong khám Chí Hòa, anh em tù chúng tôi thường bàn tán với nhau về cái tiểu sử nhà tù chúng tôi cư ngụ.
Tôi có ý định khi trở ra ngoài tôi sẽ tìm biết Nhà Tù này được kiến trúc sư tên là gì, người nước nào, vẽ kiểu, ai phụ trách xây dựng Nhà Tù lớn này, Nhà Tù được bắt đầu xây cất ngày nào, hoàn thành ngày nào, tháng nào, năm nào, hết bao nhiêu tiền v.v…
Khi trở về khu Ngã Ba Ông Tạ và đường phố Sài Gòn tôi thấy Nhà Tù Chí Hòa chỉ quan trọng, chỉ đáng được tìm hiểu với những người tù đang sống trong lòng nó. Những người chưa từng một lần đem thân vào Nhà Tù Chí Hòa chẳng cần biết gì về nó. Những thân chủ của Chí Hòa khi ra khỏi những bức tường kiềm tỏa của nó, khi bỏ những hàng chấn song sắt, những cửa sắt lại sau lưng, cũng quên nó luôn.
Vì vậy, tôi chỉ mô tả rất sơ lược về kiến trúc Nhà Tù Chí Hòa. Nhà Tù Hỏa Lò Hà Nội đã tiêu rồi..Một ngày nào đó Nhà Tù Chí Hòa cũng sẽ biến mất.
Mai sau dầu có bao giờ…
Một trăm năm sau – hãy nói một trăm năm sau, đừng đao to, búa lớn nói ba, bốn trăm năm sau. Tố Như théc méc thế thì được. Tam bách dư niên hậu… Hà nhân khấp Tố Như… Mình tính chuyện ba trăm năm là không được – trong số những người Việt Nam đến cõi đời này sau tôi có thể có vài người đọc những dòng chữ này tò mò muốn biết nhiều hơn về Nhà Tù Chí Hòa, nơi từng giam giữ ông cha họ ngày xưa, nơi họ không được thấy.
Ngày xưa… những năm 1950, 1951, khi Sài Gòn còn ít cư dân, khi những con đường còn viền những hàng cây xanh – đường Bonard không chỉ có hai mà có bốn hàng cây xanh – khi người Pháp còn làm chủ Sài Gòn, nhà tù Sài Gòn được nhân dân gọi là Khám Lớn, và Khám Lớn Sài Gòn nằm ngay giữa trung tâm thành phố: mặt tiền đường Gia Long, tường sau đường Lê Thánh Tôn, nơi bây giờ là Thư Viện Quốc Gia.
Thời xa xưa ấy – cách nay hơn nửa thế kỷ – người Sài Gòn phạm pháp bị bắt về Bót Catinat, đầu đường Tự Do gặp đường Nguyễn Du. Bót Catinat là nơi tạm giam và thẩm vấn tội phạm. Thời Pháp thường thì thời gian thẩm vấn ở Bót Catinat chỉ kéo dài mười lăm ngày. Từ Bót Catinat can phạm được đưa sang Khám Lớn Sài Gòn ngay gần đấy. Cái gọi là Sở Lục Hình – nơi lưu trữ hồ sơ lý lịch các tội phạm – nằm ở sau Tòa án Sài Gòn, cạnh Khách sạn Embassy. Người tù được còng tay đi bộ từ Khám Lớn sang Sở Lục Hình ngay gần đó, khi ra tòa người tù cũng chỉ cần đi qua đường Gia Long là vào được Tòa án bằng lối cửa bên cạnh. Năm xưa nhiều người có tên trên bảng đường thủ đô Sài Gòn của ta từng bị giam trong khám đường này: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm. Ông Huỳnh Thúc Kháng và một số ông tù quốc phạm khi từ Côn Đảo về có ghé vào khám đường này nghỉ chân trước khi lên tầu hỏa về Trung, ra Bắc.
Trong những năm đầu Thế kỷ 20 nhà tù Sài Gòn nằm ngay cạnh Tòa án Sài Gòn là hợp lý, tiện lợi. Sau năm 1945 dân Sài Gòn ngày một đông hơn, thành phố phát triển, nhiều nhà dân quanh Khám Lớn Sài Gòn trở thành nhà lầu. Người sống trên những nhà lầu đường Lê Thánh Tôn có thể dễ dàng nhìn vào giữa sân Khám Lớn. Người ta không còn có thể cứ để mãi khám lớn nằm chình ình ngay giữa đô thành.
Nghe nói Nhà Tù Chí Hòa được các quan Đại Pháp quyết định xây và “đặt viên gạch đầu tiên” rồi được các quan Đại Nhật khánh thành.
Từ 1940 đất nước chúng ta có nhiều thay đổi lớn, Sài Gòn cũng vậy. Quân đội Nhật Bản làm binh biến hạ bệ người Pháp, các quan Đại Pháp bị quân Nhật bắt đi bộ lếch thếch vào những trại tập trung.
Chiến tranh thế giới chấm dứt, người Pháp theo chân người Anh trở lại Sài Gòn, những anh Tây lai cô-lô-nhần từng bị khổ nhục trở thành bọn Sureté Tây, thẳng tay bắt bớ, tra tấn, hành hạ người Việt. Bọn Tây lai này đối xử với người Việt tàn tệ, dã man, táng tận, đểu giả hơn cả những người Pháp. Theo tôi, sự đểu giả của bọn lai Tây trong chiến tranh Việt-Pháp là nguyên nhân làm cho đa số người Việt chúng ta không ưa những người con lai giống…
Tôi nghe nói nhà tù Chí Hòa được xây xong vào khoảng 1945-1946, bắt đầu đón khách từ những năm 1946-1947. Khám Lớn Sài Gòn đường Gia Long trở thành nhà tù nhỏ so với Khám Lớn Chí Hòa vẫn được duy trì. Trong thời gian này người Sài Gòn bị bắt vẫn bị giam, bị thẩm vấn ở Bót Catinat, vẫn sang Khám Lớn Gia Long nằm chờ ra tòa án bên kia đường, chỉ sau khi có án mới được đưa vào nằm dài ngày trong Nhà Tù Chí Hòa.
Năm 1952 Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm ra lệnh phá nhà tù đường Gia Long. Trong một buổi lễ được coi là long trọng và mới lạ Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đọc bài diễn từ ngắn, cầm búa “đập viên gạch đầu tiên” phá nhà tù. Khi đó tôi là phóng viên nhật báo Ánh Sáng và có cái vinh hạnh được dự lễ phá nhà tù này. Lễ xong, Ông Lớn lên xe về dinh, chàng phóng viên mới vào nghề là tôi tò mò đi một vòng xem nhà tù.
Thời gian qua. Chiều nay ở quê người, tôi tưởng tượng lại hình ảnh tôi, chú phóng viên trẻ măng năm xưa đứng ngoài hiên nhìn qua song sắt vào những phòng giam không có người, những phòng giam cửa mở, chật hẹp, tối tăm, dơ bẩn, lạnh lẽo. Và hình ảnh tôi những năm 1985, 1986, tóc bạc, gầy ốm, đứng sau hàng song sắt nhà tù Chí Hòa nhìn ra.
Được phá bỏ từ 1952, khu đất từng là nhà tù Sài Gòn dầu dãi nắng mưa mãi đến thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xây nên tòa nhà Thư Viện Quốc Gia.
Từ năm 1980 những người cộng sản Việt Nam sau khi ăn hết, vơ vét hết, phá hết, phung phí, tẩu tán hết của cải của đất nước và nhân dân, phải bắt chước đàn anh cộng sản Tầu thi hành chính sách gọi là “mở cửa”. Cũng như nhiều công sở khác, Thư Viện Quốc Gia được mở cửa cho Ba Tầu vào mở cao lâu, rõ hơn là cho Ba Tầu Chợ Lớn mướn nguyên một tầng làm hàng ăn. Vào năm 1994, 1995 nhiều người dân Sài Gòn vẫn đến Thư Viện Thành Phố nhưng không phải để đọc sách mà là để ăn cưới.
Từ sau hai hàng song sắt Phòng 10 Khu ED trong bốn năm trời ròng rã, tôi ngày đêm trông thấy Khu Tử Hình ở bên kia sân.
Khu đó vắng bóng người, tối tăm, ảm đạm, tối tăm hơn những khu khác. Tôi kinh sợ khi tưởng tượng tôi phải vào khu đó. Tôi càng sợ hơn khi nghe các chuyện kể về cảnh sống của người tử tù chờ chết trong Khu Tử Hình Khám Chí Hòa. Người tử tù bị còng chân suốt ngày, suốt đêm. Ba, bốn giờ sáng cai tù vào đánh thức, cho ăn bữa cuối cùng, thường là cái bánh bao, chai nước ngọt, hai điếu thuốc có cán. Người tử tù bị bịt mắt, bị tọng giẻ, trái chanh hay trái cóc vào miệng, đưa lên xe bít bùng chạy lên bãi bắn ở Thủ Đức. Nghe nói tử tù bị đưa lên đứng trên những thùng phuy đổ đầy đất để chịu bắn nên anh em tù thường nói đùa “lên thùng phuy”. Cũng nghe nói nhiều người tù bị nhét trái chanh, trái cóc quá lớn vào miệng nên chết ngạt trước khi bị bắn.
Tử tù Thành Hồ bị bắn vào lúc năm giờ sáng, xác được chôn ngay ở khu đất cạnh bãi bắn. Thân nhân tử tù có thể đến nhận mộ nhưng nếu muốn đặt bia trên mộ, bia phải có hàng chữ “Tội… Chịu án ngày…”
Những chuyện cộng sản Việt Nam giết người Việt Nam, tôi được nghe trong ngục, làm tôi nhớ một bài viết về chị Võ Thị Sáu, người được CSVN suy tôn là liệt sĩ, bị người Pháp hành quyết ở Côn Đảo.
Khoảng những năm đầu thập niên 1980, tôi tình cờ đọc được bài viết ấy trong một tập sách Văn dậy học sinh trung học.
Bài viết tả cảnh người nữ tử tù Võ Thị Sáu trên đường đi ra pháp trường đã “ngắt bông hoa hồng dại bên đường đưa tặng người lính Bắc Phi sẽ bắn chị…”
Ôi…! Tác phong của người cộng sản Võ Thị Sáu mới hào hùng, cao đẹp làm sao! Cho đến lúc sắp bị kẻ thù giết, chị vẫn sống đẹp, sống hùng, chị vẫn yêu thương người, chị vẫn tha thứ!
Đây là bài trong sách giáo khoa, không phải bài đăng trên báo.
Người viết bài ca tụng ấy phạm hai tội, một là ngu, hai là coi thường người khác. Có thể y can cả hai tội. Có ngu tận mạng và coi thường mọi người y mới viết những chuyện như thế. Y còn can tội phản tuyên truyền, bôi bác chế độ xã hội chủ nghĩa, vì y tả người tù Võ Thị Sáu khi bị cai tù Pháp đưa đi bắn ở Côn Đảo được cho đi ung dung, thoải mái, không bị bịt mắt, không bị nhét trái chanh hay cục giẻ vào miệng, không bị còng tay, xích chân, bằng chứng là đang đi chị có thể dừng lại, cúi xuống, ngắt bông hồng dại bên đường, đưa cho người lính Bắc Phi sẽ bắn chị…
Tình cảnh những người tử tù chính trị Việt Nam bị những người cộng sản Việt Nam đưa đi bắn có thể nói là cực kỳ thê thảm.
Tôi không ngu đến cái độ nghi ngờ chuyện chị Võ Thị Sáu hái bông hồng trên đường ra bãi bắn Côn Đảo là chuyện không có thật, tất nhiên đó là chuyện bịa, tôi chỉ lấy làm lạ tại sao một bài viết lếu láo, ngu si đến như thế lại có thể được những người cộng sản cho vào sách giáo khoa. Người viết bài có thể ngu si, có thể coi thường mọi người, nhưng còn bao nhiêu người cộng sản khác?
oOo
Từ khu tử hình Khám Lớn Chí Hòa, Trí Siêu và Tuệ Sĩ xách giỏ sang khu FG sau khi được bỏ án tử hình. Hai tu sĩ Phật giáo ở tù không có gì hơn anh em Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi – không hay hơn cũng không dở hơn – nhưng hai người hơn anh em chúng tôi một chuyện: họ đã vào Khu Tử Hình Khám Chí Hòa.
Chia tay với Lê Mạnh Thát ở Phòng 10 Khu ED tôi ôm chiếu, xách giỏ sang khu FG trước Thát, nhưng duyên nghiệp giữa Thát và tôi chưa hết.
Khoảng bốn tháng sau Thát và Tuệ Sĩ từ Khu Tử Hình lại ôm chiếu, xách giỏ sang ở cùng một phòng Khu FG với tôi.
Đã có án, những người tù đồng vụ không còn bị chia ra ở nhiều phòng nữa, những người Già Lam nay được sống chung một phòng. Ni cô Trí Hải ra tòa lãnh án 4 năm tù, ở tù vừa đủ án kể từ ngày bị bắt, ni cô được về chùa ngay.
Đoàn tụ với nhau trong một phòng tù chừng một tháng, nhóm Già Lam được đưa đi trại lao động cải tạo. Lần thứ hai tôi chia tay với Lê Mạnh Thát. Thát đi khỏi Nhà Tù Chí Hòa vào một buổi sáng cuối năm 1988. Nằm lại Chí Hòa tôi được tin nhóm Già Lam lên Trại Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai. Cơ may của tôi được đến Z30A là 5/5.
Ngày 19 Tháng Giêng Ta là ngày giỗ ông thân tôi. Ngày này cũng là ngày tù phòng tôi được nhận đồ nuôi bên ngoài gửi vào, tôi được ăn xôi vò, chè đường, hai thứ mẹ tôi làm rất ngon.
Hai ngày sau, ngày 18 Tháng Giêng Ta, mùa xuân mới đến trên thành phố thân thương, tôi ôm chiếu, xách giỏ lên xe rời Thánh Địa.
Bị còng chân ngồi sát cánh với anh em trên sàn xe, nhìn lên qua những song sắt cửa sau xe tôi thấy những ngọn cây, những cột đèn, những đường dây điện, những mái nhà thành phố.
Con đường xưa tôi đi… Như vậy là trước sau tôi đã ba lần bị còng tay đi trên con đường này – tôi ra tòa hai lần, một lần đi trại cải tạo.
Xe ra xa lộ. Khoảng 11 giờ trưa xe ngừng. Tôi theo anh em xuống xe trước cổng trại Z30A, khi xe rời quốc lộ ở Ngã Ba Ông Đồn để chạy vào con đường nhỏ, chúng tôi đã biết chúng tôi đến trại Z30A.
Năm năm trời sống tù túng trong những phòng giam, tôi sung sướng đặt chân lên mặt đất đỏ Xuân Lộc. Mặt đất mới mịn, mới mát làm sao! Việc làm đầu tiên của tôi là vào bãi cỏ bên cổng trại khoan khoái đi một đường tiểu tiện. Thoải mái rồi tôi trở lên ngồi chồm hổm xếp hàng với anh em chờ, văn huê là “cán bộ quản giáo”, nôm na là cai tù, ra lãnh vào trại. Tôi phì phèo điếu thuốc rê thở khói xanh lên những cành bạch đàn, sung sướng cảm nhận làn gió mát ve vuốt trên má, cảm nhận hơi ấm của nắng trưa trên tóc, trên vai áo, tim tôi rưng rưng vì tiếng chim, tiếng lá bạch đàn rì rào, năm năm rồi tôi không được nghe tiếng chim hót, tiếng lá reo…
Đến Z30A tôi gặp lại gần tất cả những ông bạn tù đã sống cùng phòng với tôi ở Chí Hòa, đã quen biết tôi, trò chuyện, chia ngọt, xẻ bùi với tôi: Mã Thành Công, giáo sư Sử, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài, tù 10 năm, Lê Công Minh, kỹ sư, tù chung thân, Sáu Vui, tổ chức vượt biên, tù 14 năm.
Cũng tại đây tôi gặp người tù độc đáo Lê Vĩnh Xuân. Xuân từng có thời làm nhân viên Sở Thông Tin Hoa Kỳ, USIS. Xuân bị bắt từ năm 1976, bị nghi là nhân viên CIA được CIA gài lại, bị giam mút chỉ cà tha từ đó mãi đến năm 1992 mới được thả. Trong giấy ra trại, tức lệnh tạm tha của Xuân, ghi cái tội danh hết sức ly kỳ là “Can tội: Thông dịch viên”.
Và ở Z30A tôi gặp lại tất cả những người trong nhóm Già Lam, tôi lại ở chung một phòng tù với Lê Mạnh Thát. Đến hết năm 1989 tôi đã ở tù cùng một phòng với Lê Mạnh Thát đúng 5 năm liền.
Tôi đến Z30A ngày 18 Tết, một năm sau hết án, tôi ra khỏi Z30A ngày Mùng 7 Tết. Lúc 9 giờ sáng tôi ra về. Anh em đi làm hết, trại vắng tanh, Lê Mạnh Thát – ở nhà làm công việc dịch sách – tiễn tôi ra đến cổng trại.
Đây là lần thứ ba tôi chia tay với Lê Mạnh Thát. Chúng tôi đã ba lần hợp, ba lần tan: một ở Phòng 10 ED Nhà Tù Chí Hòa, một ở Phòng 20 Khu FG Chí Hòa, một ở trại lao cải Z30A.
Hôm nay nhớ lại những ngày tù đày và những người bạn tù ở quê hương, tôi bồi hồi tự hỏi không biết duyên tình giữa tôi và Lê Mạnh Thát đã hết chưa? Không biết cuộc đời có dàn xếp cho hai chúng tôi hợp tan một lần nữa hay không?
Tôi đã sống gần sát Trí Siêu Lê Mạnh Thát năm năm, tôi đã thấy một số những cái hay, cái dở – những cái văn huê là sở trường, sở đoản – của con người Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Tù và túng. Trong tù người ta thường chỉ thấy những sở đoản của nhau, nhiều lúc tôi cũng coi thường, cũng thấy khó chịu vì Thát.
Đầu năm 1990 tôi về Sài Gòn, Thát vẫn ở Z30A. Ngay thời đó mỗi lần nhớ Lê Mạnh Thát tôi vẫn định có dịp sẽ nói với Thát:
– Khi ở gần núi Thái Sơn thấy Thái Sơn cũng thường thôi, cũng không có gì cao lắm. Khi xa Thái Sơn mới thấy Thái Sơn (dù sao cũng vẫn) cao hơn nhiều núi khác.
Tuêï Sĩ mỗi ngày chỉ ăn một bữa, quá ngọ là không ăn nữa, Trí Siêu ăn chay thật bền và điều độ, bữa nào cũng ăn hết phần cơm tù. Chúng tôi quen lệ ngày được nuôi là bỏ cơm tù, ăn toàn thức ăn người nhà gửi vào, Lê Mạnh Thát trong ngày được nhận đồ nuôi vẫn từ tốn ăn hết bát cơm tù, sau đó mới ăn đôi chút quà cáp gửi vào.
Có những lúc Thát và tôi ở trần, bận quần sà lỏn, đứng ghếch chân bên song sắt, nói chuyện nho nhỏ với nhau cả giờ. Ngoài phòng giam là một hành lang rộng, ngoài hành lang ấy còn một hàng song sắt nữa, chúng tôi phải nhìn qua hai hàng song sắt mới thấy mảnh trời nhỏ trên cao.
Một tối mùa mưa chúng tôi đứng đó, trời vừa mưa lớn nhưng lúc ấy đã tạnh và có trăng. Chúng tôi không nhìn thấy mặt trăng nhưng nhìn thấy bóng vừng trăng in trong vũng nước đọng trong hành lang.
– Này thầy – tôi nói với Thát – Thầy thấy bóng trăng kia chứ? Nó là ảo ảnh nhưng tôi nghĩ tôi có thể cho nó là thật, vì tôi biết có vầng trăng thật trên trời kia, vì có vầng trăng thật trên trời nên mới có bóng vầng trăng trong vũng nước này.
Trong tù tôi thấy có nhiều anh em đêm đêm ngồi thiền, tất cả những tu sĩ Già Lam ở chung phòng tù với tôi đều không ai ngồi thiền hay tĩnh tọa. Tôi cũng chẳng thấy ai trong họ tụng kinh hay làm những cử chỉ, hành động chứng tỏ họ là sư sãi.
– Khi ở xa Thái Sơn tôi thấy quả thật Thái Sơn có hơn nhiều núi khác.
Ý tôi muốn nói là, trong 5 năm trời sống gần – phải nói là quá gần – Trí Siêu Lê Mạnh Thát, có nhiều lúc tôi coi thường Lê Mạnh Thát, khi xa và nhớ lại tôi thấy con người, cuộc sống của Lê Mạnh Thát, ở một tầm cao hơn con người và cuộc sống của nhiều người tôi đã gặp.
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (05)
“….Gặp những ngày trời đất xuống mầu như thế, người khách xa nhà, cả trăm người như một, đều cảm thấy buồn tê tê trong lòng mà tự nhủ: “Ờ, đúng là mùa thu ở Bắc. Trời này có rượu ngon đem uống thì tuyệt trần đời!”
“Thế thì cái ngày trời đất xuống mầu ấy ra sao mà người ta lại rầu rầu trong dạ, sầu sầu muốn uống một cái gì? Thôi, ai còn lạ gì cái thời tiết ở miền Nam nước Việt nhõng nhẽo đến chừng nào; buổi tối nóng như điên, nửa đêm xoay ra lạnh lúc nào không biết; chiều sấm chớp ầm ầm, yên trí có mưa thì một lát sau trăng lại sáng trưng; ấy thế mà chính lúc người ta đang yên trí là nóng còn lâu thì mưa trút xuống rào rào làm cho ai cũng ngạc nhiên tự hỏi: “Quái, sao năm nay mưa sớm thế?” Thế rồi khi ai cũng tưởng là mùa mưa bắt đầu thì chọc trời cũng không một hạt nước, trời nóng đến cái mức làm người ta mờ cả mắt, nhức cả đầu; nhưng có một buổi tối kia đi ăn đầu cá với một người yêu xa cách lâu ngày ở cầu Bình Lợi thì tự nhiên trời đổi gió, giăng tơ lên ngọn cỏ. lá cây để đến lúc sắp đứng dậy ra về anh cảm thấy như có môt cái lưới buồn rũ từ trên trời xuống nước, lan tràn ra khắp cả mặt đất chân mây và gói ghém luôn cả anh cùng với tâm óc anh vào đó.
“Lau lách ở ven hồ kêu lên những tiếng rì rào y như thể những tiếng than nhỏ bé; nước vỗ vào bờ nghe trầm trầm; qua những chùm lá, qua những cành cây, gió rì rào như kể chuyện xa xưa và giục người ta xích lại gần nhau cho ấm cõi lòng hơn một chút….”. (Thương Nhớ Mười Hai – Vũ Bằng)
Văn của anh Vũ Bằng, trong tác phẩm “Thương Nhớ Mười Hai”, chương viết về Tháng Tám: “Tháng Tám: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiện hạ cộng tri thu“.
Một buổi sáng tôi đang ngồi viết, bỗng nghe có tiếng gì văng vẳng như tiếng chim tôi từng được nghe từ lâu lắm, từ những năm xa xưa ở tỉnh lỵ Hà Đông hiền hòa, thân thương của tôi; tiếng chim mà từ ngày theo cha mẹ rời khỏi tỉnh Hà Đông, tôi không còn bao giờ được nghe thấy nữa. Tiếng chim gáy: “Curuucu…”
Tôi ngừng viết ngoảnh nhìn. Trên thành của sổ phòng tôi mở ra Rừng Phong có con chim đậu. Con chim lông mầu nâu nhạt pha sắc xám, nhỏ hơn chim bồ câu. Nó là con chim gáy tôi thấy ở những cánh đồng lúa vàng sắp chín quanh tỉnh Hà Đông năm mươi năm xưa. Mèn ơi…! Ở Hoa Kỳ cũng có chim gáy như ở quê ta ư? Không những chỉ có mà còn giống y boong. Không khác một ly ông cụ. Bánh xe lãng tử sang Mỹ gần năm mùa thu vàng hôm nay tôi mới thấy con chim gáy Mỹ. Thấy tôi nhìn, con chim đủng đỉnh đi đi, lại lại trên thành cửa sổ. Nó gáy lên như để cho riêng tôi nghe: “Curuucu…” Đúng nó là con chim gáy. Tiếng gáy của nó y hệt tiếng những con chim đồng loại gáy trên những bụi tre làng miền Bắc quê tôi khi cánh đồng vàng mầu lúa chín!
Những năm 1940, 1941, 1942 tôi đã lớn. Mỗi năm vào mùa lúa chín, ông bố tôi thường mang súng bắn chim đi bắn một hai lần ở những cánh đồng quanh thị xã Hà Đông. Ông có khẩu súng hai nòng, calibre 16, mua ở nhà Chaffanjon, Hà Nội. Năm 1945 Việt Minh tịch thu khẩu súng ấy. Tôi đi theo ông bố tôi trong những buổi sáng chủ nhật đi bắn chim gáy ngày xưa. Cứ đến mùa lúa chín là ngoài đồng có chim gáy và tôi thấy mơ màng ẩn hiện hình ảnh chú nhỏ mười, mười một tuổi, xách cái túi đựng chim, đi theo ông bố trong những cánh đồng vàng lúa ngày xưa.
Tôi nghĩ cứ đến mùa lúa chín mới có chim gáy; chim gáy sống bằng lúa. Ở xứ Mỹ này cả trăm cây số quanh thành phố thủ đô không có cánh đồng lúa nào, chim gáy lấy gì mà sống? Sao chim gáy có thể sống giữa cái thành phố mặt đất đầy xi-măng này? Tôi nẩy ra ý viết về chim gáy, về những sáng chủ nhật tôi theo ông bố tôi đi bắn chim gáy ngày xưa ở Hà Đông. Những ý nghĩ miên man đến trong tôi như như những đợt sóng.
Tôi bỗng nhớ anh Vũ Bằng. Trong tác phẩm Thương Nhớ Mười Hai tôi đọc năm xưa anh có viết về chim gáy. Tôi đi tìm quyển Thương Nhớ Mười Hai.
Nơi tôi sống nhờ có ba nhà sách. Ngay lúc này không nhà nào có quyển Thương Nhớ Mười Hai. Mà tôi thì lại cần có sách để xem lại, để viết ngay. Sách được tái bản chùa ở Hoa Kỳ, nhưng chờ order sách từ Cali gửi sang thì đến bao giờ. Tôi cầu cứu bạn tôi là Tạ Quang Khôi, người chúng tôi gọi đùa là Tạ Ống Khói vì nước da của anh. Anh Giáo Khói của chúng tôi có con làm ở Thư Viện, anh có thể nhờ mượn sách. Giáo Khói trả lời: “Có Thương Nhớ Mười Hai ngay!”
Tôi được quen biết ông nhân sĩ P.Ng. H, một cựu giáo sư học giả ở cùng đồng đất Virginia. Ông H. yêu sách, nhà có thật nhiều sách. Tôi mượn của ông tập Tam Quốc Chí của Tử Vi Lang dễ đã đến hai mùa lá rụng chưa đem trả. Trong khi chờ đợi được anh Giáo Khói cho mượn sách, tôi đem bộ Tam Quốc Chí đến nhà trả ông H. và hỏi ông có quyển Thương Nhớ Mười Hai không? Lập tức, ông cho tôi mượn quyển Thương Nhớ Mười Hai in lại mới toanh.
Tôi bồi hồi cầm quyển sách. Một chiều xanh năm vàng xưa anh Vũ Bằng hẹn tôi đến nhà in Nguyễn Đình Vượng đường Phạm Ngũ Lão, trước rạp xi-nê Thanh Bình, nơi có tòa soạn các báo Văn, Tuổi Ngọc; anh cho tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai do Nhà Nguyễn Đình Vượng vừa xuất bản. Thời ấy sách báo ta in bằng giấy mầu vàng, sang lắm là giấy Nhật, nhưng cũng là loại giấy rẻ tiền, giấy sốp nên sách có bề dầy. Nay trên tay tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai năm 1999 in giấy trắng tinh, nên dầy chỉ bằng nửa quyển Thương Nhớ Mười Hai năm 1972. Quyển TNMH trên tay tôi do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 1993. Tôi đọc trang cuối: “In 1.000 cuốn, khổ 13x19cm tại Xưởng In CTVHQ 11 (Công ty Văn Hóa Quận 11). Số giấy phép: 126/XBVH. In xong tháng 9 năm 1993”.
Cộng sản Bắc Việt tái bản “Thương Nhớ Mười Ha”i – và có thể đã tái bản “Vĩnh Biệt Phù Dung” (Cai, tên truyện VBPD trước năm 1945). Họ tái bản những tác phẩm của Vũ Bằng, như họ đã tái bản những “Thơ Say”, “Mây”, “Rừng Phong”, “Ta Đã Làm Chi Đời Ta” của Vũ Hoàng Chương. Họ đã bắt giam Vũ Hoàng Chương, họ đã lên án tất cả những tác phẩm văn học, tiểu thuyết của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa là phản động, đồi trụy; họ đã tịch thu, tiêu hủy những văn phẩm này. Nhưng như Vũ Hoàng Chương đã nói trong thơ anh ngay từ những tháng ngày đen tối, vô vọng nhất cuối năm 1975: “Miệng túi càn… khôn thắt nổi danh“, những người Việt cộng sản miền Bắc không thể chối bỏ được những giá trị văn học, nghệ thuật của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa.
Tìm trong Thương Nhớ Mười Hai tôi thấy anh Vũ Bằng không viết về chim gáy mà viết về chim ngói: “Tháng Chín, gạo mới chim ngói”. Thời gian trước mắt tôi mới là sắp đến Tháng Tám Trung Thu nên tôi mời bạn trở lại với Tháng Tám ở quê hương ta qua lời diễn tả của tác giả Thương Nhớ Mười Hai:
“Mùa thu ở Bắc cũng đến với người ta như thế. Bây giờ mỗi khi thấy trời trở gió, không gian bàng bạc một mầu chì; mỗi khi thấy lá rụng ở các công viên như những người đau ngực, bay lào xào trên mặt đất hanh hao, mỗi khi thấy lá tre rụng vèo xuống các ao hồ nằm yên ả trong những lớp bèo rong, bèo tấm, có ai biết rằng tôi nhớ lại những gì không? Cứ đầu tháng tám, trời Bắc Việt buồn se sắt, đẹp não nùng, sáng sáng thức dậy vào lúc còn tối đèn, cầm cái áo ma-ga mẹ lấy từ trong rương ra cho mình, húp bát cháo đậu kho và ăn ba nắm xôi lạc do mẹ mua cho rồi đút hai ba đồng xu, đồng kên sủng soẻng trong túi áo đi qua dẫy Nhà Thờ, thẳng một lèo lên dốc Hàng Kèn, có ai biết rằng tôi đã trông thấy những gì và nghĩ những gì không?
“Lúc ấy, trời đã sang thu. Lá cây nhội ở hai bên đường đi ra dốc Hàng Kèn vươn những cái thân gầy lên trên trời và mỗi khi có gió thổi thì từng chiếc lá vàng lại rụng xuống, xoay nhiều vòng, rồi đậu trên những cái vai trắng muốt của các pho tượng mỹ nhân cởi truồng trong công viên ở cuối Phố Nhi, gần cái hang đá thờ Đức Mẹ.
“Cái mà bây giờ tôi còn trông thấy rõ từng ly từng tí là một cậu bé xách cái cặp da nặng trĩu đi học một mình, vừa đi vừa ôn lại một bài văn xuôi có vần…
“….Lẩm nhẩm ôn lại bài học rồi cậu học trò bé nhỏ ấy nhìn lên bầu trời bàng bạc và nhẩy nhót như một con chim sẻ. Là vì y biết là mùa thu đã bắt đầu, các cây nhội chi chít quả, chim hét về nhiều, chắc chắn y có nhiều hy vọng bắn được nhiều để về nuôi, nếu còn sống, hay rán lên cho mèo ăn, nếu chẳng may chim bị trọng thương mà chết.
“Tuy nhiên, chỉ có ý tưởng của tôi theo chân được cậu bé ấy mà thôi, vì cậu bé ấy chỉ là cái bóng của chính tôi năm mươi mấy năm về trước. Thương thương cậu bé vô tội ấy biết chừng nào!”
Anatole France. Bài La Rentreé des Classes?? Lâu quá không được đọc lại bài văn, chỉ còn nhớ đại khái: Anatole France tả ngày tựu trường, cậu học trò nhỏ đi qua vườn Luxembourg mùa thu, thấy những pho tượng đá trắng và “…những cánh lá vàng đi trong những cái cây run rẩy… et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent…”
Ảnh hưởng cũng chẳng sao. Tôi không được sống nhiều ở Hà Nội nên tôi không được biết nhiều về Hà Nội. Hôm nay tuổi đời Sáu Bó lẻ mấy que, sống nhờ trên đất Mỹ, đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi théc méc về chi tiết: “…mỗi khi có gió thổi thì từng chiếc lá vàng lại rụng xuống, xoay nhiều vòng. rồi đậu ở trên những cái vai trắng muốt của các pho tượng mỹ nhân cởi truồng trong công viên ở cuối Phố Nhi…”
Ơi… những vị Công Tử Hà Nội tuổi đời năm nay ít nhất phải từ Sáu Bó trở lên. Xin hỏi các vị: “Hà Nội ba mươi sáu phố phường có phố nào tên là Phố Nhi không? Tôi chưa bao giờ nghe nói Hà Nội có Phố Nhi. Cứ theo lời tả thì tôi thấy cái Phố Nhi trong Thương Nhớ Mười Hai ở gần Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Trong trí nhớ của tôi khu này làm gì có công viên nào, lại càng không có những “pho tượng mỹ nhân cởi truồng…” lớn đến cỡ đủ để cho những cánh lá vàng rơi có thể nằm trên bờ vai trắng muốt! Tức là lớn bằng người thật. Đàn anh Vũ Bằng ơi, đàn anh sống khôn, chết thiêng, cho đàn em khều nhẹ đàn anh một tí: Tượng mỹ nhân khỏa thân chứ! Mỹ nhân cởi truồng coi bộ Thị Mịch nằm nghiêng quá đi…
Noel năm 1983, anh Trần Tam Tiệp ở Paris gửi về cho chúng tôi khoản tiền để tổ chức một tiệc đêm Giáng Sinh anh em vui với nhau. Chúng tôi gặp nhau trong một vi-la trong cư xá Lữ Gia. Hai anh Vũ Bằng, Tam Lang có đến dự. Năm ấy anh Tam Lang đã tám mươi, anh Vũ Bằng khoảng bẩy mươi. Anh Vũ Bằng gầy, người chỉ còn xương với da, anh vẫn đi lại nhanh nhẹn, cười nói vui vẻ. Đó là lần cuối cùng tôi được gập anh. Khi ấy anh Trần Việt Sơn đã qua đời. Anh Sơn bị bắt tù những năm 1976, 1977. Tháng Tư 1984 anh Vũ Bằng từ trần. Mùng 2 tháng Năm 1984 tôi bị bắt. Khi thẩm vấn tôi anh công an nói:
– Hai ông Trần Việt Sơn, Vũ Bằng chết rồi. Đỡ mệt cho chúng tôi. Không bắt thì không được mà bắt hai ông già ấy thì cũng kỳ…
Đó là chuyện năm 1984. Năm 1990 những tác phẩm của hai anh Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng lại xuất hiện trên những chỗ trang trọng nhất trong các tiệm sách ở Thành Hồ. Anh Vũ Bằng sống nhiều ở Hà Nội, nên nhớ Hà Nội và quê hương miền Bắc, nhớ những năm tháng hoa niên của anh trên đất Bắc. Anh diễn tả tuyệt vời niềm thương, nỗi nhớ của anh trong Thương Nhớ Mười Hai:
“…Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thân yêu, nhớ những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan còn thơm mát hơn cả hoa cau, hoa bưởi. Người ta nhớ heo may giếng vàng, nhớ cá mè rau rút, nhớ trăng bạc, chén vàng…
“…Ăn tô hủ tíu thì nhớ đến phở Bắc “chính cống” ăn vào buổi sáng rét căm căm; trông thấy cua bể nhớ bát canh cua đồng nấu với rau rút và khoai sọ…
“Ới những người thiên lý tương tư! Nếu bất ngờ những dòng sau đây có lạc vào tay bạn, mà thấy nói lên được mối cảm hoài bạn vẫn chất chứa ở bên lòng, thế là kẻ viết bài này lấy làm mãn nguyện lắm rồi”.
Ới đàn anh! Đàn anh từ Hà Nội vào Sài Gòn, Sài Gòn vẫn là đất nước chúng ta. Ở Sài Gòn đàn anh vẫn dễ dàng có bát canh cua đồng nấu với khoai sọ, rau rút, đàn anh vẫn còn được thưởng thức những món ăn thuần túy dân tộc, những món ăn chỉ dân tộc ta mới có, như bún ốc, bún riêu, bún thang, tiết canh vịt, cầy tơ. Muốn ăn ốc hấp, chả cá, đàn anh đến những hàng ăn Sơn Hải, Như Ý, Thăng Long. Không ngon bằng ở Hà Nội nhưng cũng đạt năm, bẩy chục phần trăm phẩm chất. Đàn anh chỉ mới thiên lý tương tư thôi. Nếu đàn anh bốn mươi tuổi năm 1975 như chúng tôi, đàn anh sống tàn mạt, mỏi mòn, tuyệt vọng, nhục nhã đến hai mươi mùa lá rụng giữa thành phố Sài Gòn đầy cờ đỏ, sao vàng – trong hai mươi mùa thu vàng võ ấy có bẩy, tám, chín mười niên đàn anh chuyên ở trần, quần sà lỏn, ngồi rù ngâm thơ trong những nhà tù – rồi đàn anh làm chuyến lưu vong qua biển sang phần bên kia – bên này – của trái đất như chúng tôi, đàn anh ở cảnh vạn lý tha hương như chúng tôi, tôi chắc đàn anh sẽ Thương Nhớ Mười Hai tập Hai, tập Ba, tập Bốn… Và lần này đàn anh sẽ thương nhớ Sài Gòn Đẹp lắm, Sài Gòn ơi, văn đàn anh sẽ da diết gấp triệu lần với nỗi nhớ thương miền Nam hai mùa mưa nắng…
Tôi thương nhớ Sài Gòn, thương nhớ miền Nam thân yêu – ta sống ở đâu ta mến thương nơi ấy. Không thể trách những trẻ em Việt, năm bẩy tuổi theo cha mẹ sang Mỹ đến năm hai mươi tuổi không nói được tiếng Việt, không đọc được chữ Việt; những em này sẽ yêu thương nước Mỹ. Tôi năm hai mươi tuổi vào Sài Gòn, tôi đã sống ở Sài Gòn đến gần năm mươi năm; tôi sống ở miền Nam, tôi biết về miền Nam nhiều hơn tôi sống và biết về miền Bắc. Tự nhiên là tôi yêu thương miền Nam, tôi yêu thương và tôi nhớ Sài Gòn.
Bây giờ Tháng Tám. Mùa thu sắp về Virginia nơi tôi sống nhờ. Virginia có những cánh đồng trồng thuốc lá bạt ngàn, có mùa thu lá vàng, lá đỏ thật đẹp. Cảnh sắc Virginia thơ mộng và tình tứ đến nỗi người Mỹ cho nó cái danh hiệu “Virginia is for Lovers”. Nhưng tôi mang tâm trạng “cảnh đẹp cảnh của người ta, mình là khách đọi ở và mươi năm…” Cảnh xứ người càng đẹp tôi càng thương nhớ quê hương ta.
Anh Vũ ơi… Vạn lý tha hương… Tôi thương nhớ Sài Gòn, nơi tôi đã sống những ngày hoa niên đẹp nhất đời tôi, nơi tôi đã gặp Tình Yêu… Nhưng tôi không đủ tài, không đủ lời nói lên niềâ thương nhớ ấy. Tôi muợn văn anh để gây hứng khởi cho tôi, tôi chuyển nỗi nhớ thương Hà Nội, miền Bắc của anh thành nỗi nhớ thương Sài Gòn, miền Nam của tôi.
Tên chương truyện của anh: “Tháng Tám, Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu” gợi tôi nhớ lại Tết Trung Thu thứ nhất bọn Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn. Đêm Trung Thu ấy ở Sài Gòn trời mưa tầm tã từ chiều, Sài Gòn không có trăng Rằm Tháng Tám. Tôi và thằng con lớn của tôi từ Sài Gòn về Ngã Ba Ông Tạ trên xe buýt – khi ấy bọn xâm lăng chưa đổi tiền, Sài Gòn vẫn còn xe buýt – bố con tôi vào tiệm phở của Văn Chi ở ngay đầu Ngã Ba Ông Tạ.
Ký giả Văn Chi từng Tác-dzăng nổi giận đấm hộc máu mồm, sồm máu mũi anh giáo viên người Pháp, sang dậy học ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp; anh cà chớn này loạng quạng làm cái việc ruồi bâu kiến đậu là mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến treo ở công trường Lam Sơn, trước cửa Nhà Quốc Hội ta. Vụ này xẩy ra khoảng năm 1970, khi ấy Văn Chi đang là nhân viên Bộ Thông Tin, văn phòng ở ngay tòa nhà bên cạnh công trường Lam Sơn. Nghe có chuyện lộn xộn Văn Chi chạy qua công trường, thấy anh kiều dân Pháp cà cháo treo cờ MTGP, Văn Chi nóng mắt đấm liền cho anh mấy đấm.
Nhà Văn Chi ở khu nhà thờ Chí Hòa. Tháng Năm 1975 anh mở tiệm phở ở ngay Ngã Ba Ông Tạ. Phở anh nấu rất được. Khoảng tám giờ đêm Trung Thu năm ấy, trời mưa rả rích, tiệm không có khách. Văn Chi ngồi với bố con tôi, anh lách cách gõ cái muỗng lên cái bát, hát: “Đêm nay trăng sáng quá, em ơi…” Anh ghé tai tôi, nói nhỏ: “Có đường, có nẻo thì dzu lu đi. Nó cho đi tù hết đấy”. Noel năm ấy Văn Chi bị bắt. Anh là một trong số những ký giả VNCH bị Việt Cộng bắt sớm nhất. Năm 1982 Văn Chi mới từ nhà tù trở về Ngã Ba Ông Tạ. Anh lại mở quán phở. Năm 1986 anh bị đau. liệt, rồi qua đời.
Mùa thu năm 1975 – bốn năm tháng sau ngày nón cối, giép râu kéo nhau vào Sài Gòn – một chiều u ám tôi đạp xe đi lang thang trong lòng thành phố buồn. Nhìn những chiếc lá vàng rơi trên đường, tôi đau đớn thấy thế giới đã bỏ quên quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, đã quên những người dân quốc gia VNCH. Tôi cay đắng và sầu muộn nghĩ: “Mùa thu đến. Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu… Chỉ một lá ngô đồng rơi thôi mọi người biết là mùa thu đến. Ở đây hai mươi triệu chiếc lá ngô đồng rơi, hai mươi triệu người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi đang đau khổ, tại sao thiên hạ không ai biết?”
Bây giờ Tháng Tám rồi hỡi Em… Mùa thu về trên xứ người, tôi trang trọng gửi Thương Nhớ Mười Hai của anh Vũ Bằng đến những người Việt sống đời vạn lý tha hương ở góc trời này!
Quyển Thương Nhớ Mười Hai tôi mượn được do nhà xuất bản Văn Học tái bản năm 1993. Tôi đọc lại Thương Nhớ Mười Hai và thấy có một vài chuyện tôi cần viết ra, cần có ý kiến. Trong cái gọi là Lời Nói Đầu, người tự nhận là “Giáo sư” Hoàng Như Mai viết:
“Thương Nhớ Mười Hai mời bạn đọc thưởng thức những thứ gọi là “thời trân”.
“Trong truyện Kiều, lần đầu tiên Kim Trọng được đón tiếp Thúy Kiều ở nhà mình: Thời trân thức thức sẵn bày. Bởi vì cuộc đón tiếp này đối với chàng Kim là một hạnh phúc vô song, cho nên chàng tiếp đãi Thúy Kiều một cách quý trọng và thanh lịch. “Thời trân” là những vật sản quý đương mùa (thời là mùa, trân là quý)”.
Người tự nhận là “giáo sư” cho rằng những món cam, quýt v.v… là do Kim công tử bày ra để chờ Vương tiểu thư chui rào sang thưởng thức. Đây là lời nói về “thời trân” trong Truyện Thơ Kiều:
“Nhà lan thanh vắng một mình
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay
Thời trân thức thức sẵn bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông…”
Hai ông Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim chú thích “thời trân”:
“Thì trân là hoa quả hay vật quí đang mùa bấy giờ. Cứ theo trong bản tiểu thuyết của Tàu là Kiều làm đồ uống rượu để đem sang bên Kim Trọng, vì tục bên Tàu cuộc vui phải có ăn uống. Bởi vậy khi gặp Kim Trọng và tìm được lối đi sang, Kiều chạy trở về bưng đồ rượu sang nhà Kim Trọng. Nhưng chỗ này tác giả chỉ nói có một câu, rồi sau không nhắc lại nữa, cho nên thành ra tối nghĩa, đọc không hiểu là Kiều bày những đồ thì trân ra làm gì”.
Đây là đoạn viết về “thời trân” trong truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử:
“…Gặp ngày bên nhạc gia có tiệc mừng thọ, Vương ông sắm sanh lễ vật, đem vợ con sang. Thúy Kiều giả vờ bị ốm, ở lại trông nhà, đợi khi cha mẹ cùng hai em đi khỏi, nàng bèn hối hả sửa mấy món nhắm và hồ rượu ngon, xăm xăm ra lối vườn sau, định tìm Kim Trọng để tạ lại câu chuyện cành thoa hôm trước…”
Dễ hiểu thôi. Cái gọi là “thời trân” ấy là những món ăn do Thúy Kiều soạn để đem sang nhà Kim Trọng. Không hiểu tại sao người viết lời giới thiệu Thương Nhớ Mười Hai ấn bản 1993 lại nghĩ rằng đó là “những món Kim Trọng bày ra để chờ khoản đãi Thúy Kiều”. Lầm lộn cũng nhỏ thôi, nhưng bất cứ ai cũng có thể lầm, người tự xưng là “giáo sư” và lẩy Kiều trong lời giới thiệu tác phẩm văn chương thì không thể lầm được. Những đêm u buồn, tăm tối những năm 1981, 1982 tôi sống mòn mỏi giữa lòng thành phố thủ đô ta đầy cờ đỏ, một đêm đọc một bài viết về Kiều của Xuân Diệu, tôi ngạc nhiên khi thấy Xuân Diệu phê bình, phê lọ loạn cào cào đoạn Từ Hải mới gập Kiều. Cũng như tất cả những anh Bắc Việt Cộng sản và những anh nâng bi Cộng sản, Xuân Diệu ca tụng nhân vật Từ Hải một cách quá đáng đến lố bịch. Truyện Thơ Kiều tả đoạn này như sau:
“Nàng rằng: Người dậy quá lời
Thân này còn dám coi ai làm thường.
Tấc riêng chọn đá, thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu.
Còn như vào trước, ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?
Từ rằng: Lời nói hữu tình
Khiến người lại nhớ câu Bình nguyên quân
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?”
Không cần phải là sinh viên Văn Khoa, bất cứ người đọc thường dân nào của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa khi đọc đoạn thơ trên cũng hiểu là Từ Hải bảo Kiều: “Em lại gần đây nhìn kỹ anh đi, xem anh có phải là người em có thể tin được hay không?” Xuân Diệu, sau khi ca tụng Từ Hải hào hùng, ngang tàng loạn châu chấu, viết: “Họ Từ nắm cổ Thúy Kiều, kéo lại, nhìn sát vào mặt nàng mà nói: Nàng nói hay lắm. Để ta nhìn nàng xem ta có thể tin nàng được không?”
Nhưng mấy chuyện lặt vặt đó không phải là những chuyện làm tôi suy nghĩ và thắc mắc khi đọc lại Thương Nhớ Mười Hai. Ở trang 179, ấn bản 1993, tôi đọc thấy:
“Tháng Một, thương về những ngày nhể bọng con rận rồng. Tưởng là hết chuyện truyền kỳ, quả là lầm. Sang tháng một, lại có truyền kỳ về con cà cuống.
“Có ai ở Bắc Việt vào đây cho tôi hỏi thăm tháng một mấy năm nay ở Bắc Việt, trời có rét lắm không, mưa vẫn riêu riêu buồn như trước, hay thời tiết vì ảnh hưởng bom đạn của Mỹ đã khác xưa? Nghe thấy nước Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn bom nặng tới bảy trăm tấn có sức phá hoại ngang bom nguyên tử, mình ở đây thấy rợn cả tóc gáy lên, ấy thế mà không hiểu làm sao cứ nghe thấy người ta nói là Bắc Việt vẫn đánh và đánh dữ hơn cả lúc mới phát động chiến tranh là khác!
“Thế thì là cái thớ gì? Ở đây, người ta cũng ném bom tiêu diệt quá khích, ai cũng bảo là thời tiết không như trước, mưa không đúng cữ mà nắng cũng ra ngoại lệ, thành ra mình cũng tưởng thời tiết Bắc Việt đổi thay, do đó lắm đêm nằm tưởng tượng, mình cứ ngỡ Bắc Việt là không còn mưa rét mà có khi lại nóng nứt đá tan vàng cũng nên, nghĩ như thế, thấy buồn; nhưng nằm nghĩ thêm một lúc mình lại cười muốn khóc. Bom đã không làm nhục được người thì sao mà lại ảnh hưởng được đến trời?”
Đoạn văn trên làm tôi nghĩ: “Kỳ nhỉ? Những năm 1969, 70 ở Sài Gòn, ông Vũ Bằng ca tụng Cộng Sản Bắc Việt đánh Mỹ giỏi ư? Năm 1972, 73 mình đã đọc đoạn văn này, sao mình không thấy gì lạ? Có thể nào mấy anh Việt Cộng mạo tác đoạn văn này không? Mình đang đọc Thương Nhớ Mười Hai do Bắc Việt Cộng in lại năm 1993, nguyên bản Thương Nhớ Mười Hai do nhà Nguyễn Đình Vượng xuất bản năm 1972 có đoạn này không?”
Tôi không bị théc méc lâu. Tạ Quang Khôi, bạn tôi, tìm được ngay cho tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai do Nhà Nguyễn Đình Vượng xuất bản. Tôi so hai bản với nhau: Việt Cộng không mạo tác, không thêm thắt. Quả thật Vũ Bằng viết như thế. Chỉ khác có hai chi tiết:
TNMH 1972: Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom…
TNMH 1993: Nghe thấy nước Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom…
TNMH 1972: Bom không làm nhụt được người…
TNMH 1993: Bom không làm nhục được người…
Ở trang cuối cùng, tác giả Thương Nhớ Mười Hai viết: “Bắt đầu viết tháng Giêng 1960. Tiếp tục năm 1965. Viết hết năm 1970-1971”. Kể cũng lạ. Người viết Vũ Bằng đã sống những ngày kinh hoàng Tết Mậu Thân, đã sợ quíu đít khi chỉ mới nghe nói bộ đội Bắc Việt Cộng kéo vào Chợ Lớn, Bà Quẹo, Thị Nghè, Hạnh Thông Tây, đã thấy nhân dân Huế bị tàn sát dã man, ghê rợn đến chừng nào, đã qua những đêm hồi hộp khi ViXi pháo kích bừa bãi vào thủ đô ta. Nhưng những chuyện đó không ảnh hưởng chút síu nào đến việc ông diễn tả tâm tình thương nhớ đất Bắc và Hà Nội của ông. Nếu năm Mậu Thân những người Bắc Việt Cộng làm chủ được Sài Gòn, chuyện xẩy ra chắc hơn bắp rang, hơn cua gạch là tùy bút Thương Nhớ Mười Hai không bao giờ được in ra. Rất có thể ông Vũ Bằng đã len lén đem bản thảo Thương Nhớ Mười Hai vào bếp châm lửa hỏa thiêu: “Giữ làm gì cái của nợ này. Nó bắt được thì bỏ mẹ!”
Tôi thấm đau khi thấy ông văn nghệ sĩ đàn anh của tôi viết: “Ở đây, người ta cũng ném bom tiêu diệt quá khích”. “Quá khích” chứ không phải “Việt Cộng”. Và “người ta” đây là ai? Không thể hiểu tác giả dùng tiếng “người ta” chỉ là để ám chỉ người Mỹ. Với câu “Ở đây, người ta cũng ném bom”, ông Vũ Bằng đã tự đưa ông đứng ra ngoài cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa.
Đau thật là đau. Bao nhiêu người chết để cho ông Vũ Bằng được sống an lành và phây phây viết Thương Nhớ Mười Hai, và để ông viết trên giấy trắng, mực đen những lời ngụ ý: “Các anh giết nhau. Không có tôi trong cuộc chém giết ấy”. Giờ đây, sau cuộc biển dâu, khi ở số tuổi đời gần Bẩy Bó, trong cảnh “Liêu lạc bi tiền sự. Chi li tiếu thử thân”, đọc lại những trang sách xưa, tôi bùi ngùi thấy thái độ ngoài cuộc của anh Vũ Bằng, ông đàn anh văn nghệ của tôi, cũng là thái độ của nhiều nhà biên khảo ngày xưa ở Sài Gòn.
Như anh Vũ Bằng chẳng hạn. Vào Sài Gòn từ 1954, cho đến Tháng Tư 1975 anh viết những gì? Quyển Thương Nhớ Mười Hai Nguyễn Đình Vượng xuất bản ghi: “CÙNG MỘT TÁC GIẢ, CÙNG NHÀ XUẤT BẢN – Đã in: Mê Chữ, Món Lạ Miền Nam, Cái Đèn Lồng, Nói Có Sách, Bát Cơm. Sẽ in: Con-Dấu-Hóa, Đẹp Mùa Huyền Thoại”.
Các ông Vũ Bằng, Nguyễn Hiến Lê, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Lãng Nhân v.v… chỉ làm văn hóa, văn nghệ. Trong bao năm trời, trước cuộc chiến đấu gian khổ, đầy máu và nước mắt của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, không ông nào trong số các ông trên đây nói lên một lời, viết ra một trang chống Cộng.
Không có gì lạ khi Việt Cộng vào Sài Gòn, họ bắt các ông Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Vũ Hoàng Chương đi tù mút chỉ, họ để yên không lý gì đến những ông “làm văn học, văn nghệ thuần túy” có tên trên đây.
Thương Nhớ Mười Hai ấn bản 1993, trang 107:
“…Quả là khi viết tới đây tôi cũng không hiểu tại sao lại nhớ đến một chương trong thiên phóng sự “Về Bắc Việt” của Madeleine Riffaud “viết dưới bom”; ờ, Mỹ bắt đầu oanh tạc Bắc Việt hồi 1966 chính là vào cữ mưa rằm tháng bẩy, vong nhân xá tội đây! Chúng tôi đọc thấy rằng, từ một vài tháng nay, các phi vụ ở Bắc tăng gấp ba, số bom ném cao lên vòn vọt, còn nhiều gấp tư số bom ném trung bình hàng tháng ở Cao Ly. Người Việt Nam có bị tiêu diệt không? Mà họ làm thế nào chịu đựng được?”
“Chẳng cần phải nghĩ vẩn vơ, ai mà lại không biết số người chết hẳn phải nhiều. Đem cộng con số này với bao nhiêu người Việt Nam đã chết vì bom của “đồng minh” đến “giải phóng” chúng ta khỏi ách của “Phát-xít” Nhật, bao nhiêu người chết vì “chống cộng”, bao nhiêu người chết vì bom Mỹ, súng Mỹ ở ngay tại miền Nam, bao nhiêu người chết đói năm 1945, bao nhiêu người chết vì bệnh tật, súng đạn của Pháp đến “cứu” ta ra khỏi “nanh vuốt” của Cộng sản, rồi lại bao nhiêu người bị đột kích, pháo kích, xung kích, oanh kích, công kích, xạ kích, phục kích…”
Đến đây thấy có sự gian xảo trong việc sửa văn bản: Vũ Bằng viết trong Thương Nhớ Mười Hai ấn bản Nguyễn Đình Vượng 1972: “bao nhiêu người chết vì Cộng sản và vì chống Cộng”, trong Thương Nhớ Mười Hai 1993 không có bốn chữ “chết vì Cộng sản”.
Tôi thấy đàn anh Vũ Bằng của tôi không được công bằng trong đoạn văn trên. Không phải tự nhiên người Mỹ đưa đại bác, bom đạn và xương máu thanh niên Mỹ đến đổ trên đất nước chúng ta. Có gì đáng để chúng ta oán trách, mỉa mai, dè bỉu việc phi cơ đồng minh, tức Anh Mỹ, đến ném bom đất nước ta khi nước ta bị Nhật Bản xâm chiếm? Có một số người Việt chết vì những trái bom đồng minh ấy, nhưng nếu không có những trái bom đồng minh ấy thì quân phiệt Nhật cứ làm chủ đất nước ta và đến bây giờ đất nước ta, dân tộc ta đã ra sao?
Tác giả Thương Nhớ Mười Hai có phóng đại khi viết: “Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn những bom nặng tới bẩy trăm tấn, có sức phá hoại ngang bom nguyên tử”. Đàn anh Vũ Bằng của tôi đã “về quê” khoảng cuối năm 1983, đầu năm 1984. Nếu ông còn sống, tôi sẽ gửi ông bài viết này và nói nhỏ với ông: “Vừa thôi, ông ơi. Làm gì có thứ bom nào không phải là bom nguyên tử mà có sức phá hoại như bom nguyên tử. Nếu Mỹ nó ném loại bom nặng như ông tả thì làm gì có ngày ông ngao ngán và ông ngớ ngẩn thấy bọn nón cối, giép râu ngơ ngáo kéo vào Sài Gòn! Mà ông có lú lẫn không ông? Ông đào ở đâu ra quả bom nặng bẩy trăm tấn? Ông có nhớ bẩy trăm tấn là mấy chục ngàn ký lô không?”
Thương nhớ đất Bắc và Hà Nội ra rít đến như được diễn tả “cực kỳ” trong Thương Nhớ Mười Hai – cái gì của Bắc Việt, của Hà Nội, với ông Vũ Bằng, cũng hay, cũng đẹp, cũng đáng yêu, cũng Năm-bơ Uân, cũng nhất thế giới – nhưng sau ngày khốn nạn 30 Tháng Tư tuy có thể về miền Bắc dễ dàng ông Vũ Bằng đã không về.
Ông đã, cứ và vẫn ở rịt trong thành phố Sài Gòn. Ông sài lắc khi nghe ai nói đến chuyện về thăm quê hương miền Bắc. Ông không về, dù chỉ là về thăm lại những nơi ông từng sống sung sướng ngày xưa, những cảnh ông thương nhớ, và ông chết ở Khánh Hội, Sài Gòn. Cũng đúng thôi, cũng phải thôi. Cái miền Bắc, cái Hà Nội mà ông thương nhớ ấy là miền Bắc, là Hà Nội trước năm 1954. Hà Nội được tả thật đẹp, được nhớ thương da diết trong Thương Nhớ Mười Hai của ông Vũ Bằng nay không còn nữa.
Đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi không thấy lạ về chuyện những người làm văn hóa Việt Cộng cho tái bản Thương Nhớ Mười Hai và viết những lời ca tụng tác giả Vũ Bằng.
Ông có chống họ đâu mà họ không cho tác phẩm của ông sống lại. Tác phẩm của ông có lợi cho họ. Họ bốc ông: “Nhà văn Vũ Bằng thuộc một dòng họ túc nho ở đất Lương Ngọc, Hải Dương (cũ), sau 1954 vào Nam, viết cuốn sách này giữa lúc đất nước hai miền bị chia cắt. Dù phải thích nghi với hoàn cảnh chính trị như thế nào đấy, cuốn sách này vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một người con miền Bắc nhớ da diết quê hương ở bên kia “giới tuyến”. Chính tấm lòng ấy đã cùng với ngọn bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng dòng, từng trang”.
Sau ngày nón cối, giép râu vào Sài Gòn, không khác gì tuyệt đại đa số người dân – hằm ba lằng sáng cấu đàn ông, đàn bà, già trẻ, tức là từ em nhỏ lên ba đến cụ già chín bó – đàn anh Vũ Bằng của tôi chán ghét Bắc Việt Cộng đến xương tủy.
Khi còn hỏi anh được, tôi đã không hỏi, vì đó là chuyện riêng tư của anh: tại sao năm 1954 anh lại để chị Quỳ, người vợ tấm mẳn mà anh yêu thương, ở lại miền Bắc? Trong Thương Nhớ Mười Hai, anh viết về chị những lời thương nhớ:
“Em yêu ơi, sống là tin tưởng và chờ đợi, nhưng biết rằng mái tóc người ta có còn xanh mãi được chăng?
“Đã lâu lắm, chúng mình không được tin tức gì của nhau, Quỳ nhỉ. Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta, thôi đành lấy câu vận mệnh để khuây dần nhớ thương vậy.
“Nhưng thương nhớ kỳ lạ lắm. Có những đêm không ngủ, nằm nghe mưa rơi, tôi cố nhớ lại nét mặt của người thương, mà không hiểu tại sao con mắt, miệng cười và mớ tóc xõa trên hai bờ vai tròn trĩnh lại lu mờ như thể chìm đắm trong khói sóng. Mà trái lại có những kỷ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường, lại hiện ra rõ rệt, không suy suyển một ly trong trí nhớ của người nặng nợ lưu ly, nằm buồn trong gác nhỏ ngâm câu thơ nhớ vợ:
“Ủ ê nét liễu sầu tuôn gió
Thổn thức tình tơ lệ ướt bào
Hoa tủi còn đâu duyên tác hợp
Mây bay rồi nữa giấc chiêm bao”.
Ba mươi năm trôi qua kể từ ngày tôi đọc Thương Nhớ Mười Hai lần thứ nhất. Hôm nay sống buồn ở một góc trời xứ người – xứ người thật là xứ người – xa vời vợi, cách xa quê hương nưả vòng trái đất, đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi thương anh Vũ Bằng.
Anh nhắm mắt, lìa đời những năm 1983, 1984, những năm Đảng Cộng sản Việt Nam đang hung hăng con bọ xít, Liên Xô chưa tan rã, chủ nghĩa Cộng sản chưa bị triệt tiêu, đảng viên cộng sản còn nắm quyền hành trong nhiều nước.
Anh ra khỏi cõi đời này mà không được biết rằng chỉ vài năm sau Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa cộng sản thất bại, bọn đảng viên cộng sản bị nhân dân chính các nước chúng bợp tai, đá đít, đuổi đi…
Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (06)
Thanh Nam Trần Đại Việt, viết tiểu thuyết, làm thơ từ năm 1950 ở Hà Nội, cùng thời với Nguyễn Minh Lang, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Công Khanh, những người viết trẻ nổi lên sau 1945. Năm 1952, Thanh Nam vào Sài Gòn làm việc ở Đài Phát Thanh Quân đội. Những năm 1952, 1953 Thanh Nam làm thư ký tòa soạn Tuần báo Thẩm Mỹ – thời ấy Sài Gòn có hai tuần báo Đời Mới, Thẩm Mỹ.
Năm 1975, Thanh Nam là nhân viên Đài Phát Thanh Mẹ Việt Nam, đài này là một đài do người Mỹ dựng lên và quản lý. Nhân viên Đài Mẹ Việt Nam được người Mỹ đưa ra đảo Phú Quốc trước ngày 30 Tháng Tư 1975. Nhờ thế Thanh Nam và vợ con đi thoát. Sang Hoa Kỳ thời gian đầu, Thanh Nam sống ở miền đông (nghe nói ở New Jersey) rồi sang định cư ở thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Ở Seattle, Thanh Nam viết cho Tạp chí Đất Mới cùng với Mai Thảo, Huy Quang Vũ Đức Vinh. Anh bị ung thư thanh quản và tạ thế ở Seattle năm 1986.
Năm 1970 ở Sài Gòn, Thanh Nam bốn mươi tuổi. Anh làm “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi“. Năm 1977 ở thành phố Seattle, Hoa Kỳ, Thanh Nam làm bài “Thơ Xuân Đất Khách” cũng hay thiệt là hay. Khen thơ mà cứ tấm tắc “Hay thiệt là hay. Hay ơi là hay. Hay quá là hay”, người đọc chẳng thấy hay ở chỗ nào cả. Chi bằng mời bạn thưởng thức ngay bài thơ hay: Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi.
Én nhạn về nam, xuân rồi đây
Chợt thèm ly rượu, chút mưa bay
Gọi về trong đáy hồn lưu lạc
Những bước chân xưa nhạt dấu giầy
Bạn cũ hay nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say.
Uống ly thứ nhất mừng tao ngộâ
Cho tiếng cười lên vỡ tháng ngày.
Vào cuộc hành hương tìm gập lại
Cõi trời xanh ngắt tuổi thơ ngây
Trong veo cặp mắt chưa vương bụi
Chăn chiếu còn thơm ngát mộng trai
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến toc xanh phai
Đồng tiền mừng tuổi ngày Nguyên Đán
Canh bạc đời chưa lột trắng tay.
Dăm bẩy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này
Gió nổi mười phương trời buổi đó
Với ngày như tháng, lá như mây.
Lầu sương từng buổi đùa nhan sắc
Giấc ngủ thềm khuya rộn tiếng hài.
Chiều xuống đã nghe lòng rộn rã
Gió lên hồn ngỏ phố vui mời
Ca trường, hý viện, xuân như hạ
Đời thả trôi vào nhịp phách lơi
Lãng đãng khói sương trời tưởng nhớ
Ly này xin cạn hết chua cay
Mười lăm năm đó từ phiêu bạt
Đứa vợ con yên, đứa lạc loài
Viết mướn đã bao thằng mệt mỏi
Sang giàu đếm được những ai đây?
Lưới đời chân đã bùn nhơ vướng
Mắt vẫn trời cao rướn cánh tya
Cuộc chiến nay chừa dăm bẩy mạng
Thôi thì rượu đó uống cho say
Rót thêm ly nữa chào năm cũ
Tuổi bốn mươi rồi, thương lắm thay.
Lận đận lý nào theo trọn kiếp
Tối tăm không lẽ mãi đêm dài?
Niềm thê nhi đó giờ an phận
Nợ áo cơm này nặng trĩu vai
Năm tháng sức trai mòn mỏi mãi
Nụ xuân đời đã lánh tầm tay
Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ
Vai kép hề kia vẫn riễu hoài
Nhìn lại trời xuân vừa khép kín
Thơ hồng, tuổi ngọc tiếc thương ai.
Nghiêng chai thêm một ly này nữa
Trên vách sầu ta đối bóng gầy
Chợt tiếng con thơ cười lảnh lót
Nhìn con, lòng bỗng thấy xuân đầy
Lại đây con nhỏ, con yêu dấu
Bố uống cho con ly rượu này
Ly rượu mừng con tròn mộng đẹp
Niềm vui hoa nở tháng năm dài
Ngủ đi, con hỡi, mai khôn lớn
Đời sẽ bình yên không lửa gai
Trong vắt hồn con nguyên khối ngọc
Lượng xuân đời chẳng khép vòng tay
Nhìn con giây phút lòng tan biến
Những chuyện ân thù, những đắng cay
Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ
Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai
Trắng tay nhìn lại còn con đó
Hy vọng đời cha mẹ kiếp này
Tăm tối căn phần cha đã chịu
Cánh hồng con hẳn sẽ xa bay!
Ngủ đi con, ngủ đi yên giấc
Cha ru con bằng hơi rượu say
Cha ru con bằng lời thống khổ
Trong nhục nhằn mê sảng đêm nay.
Chếnh choáng lòng khuya men đã ngấm
Nghe ngoài đêm tối tiếng mưa rơi
Vọng lời sao xác hồn năm tháng
Chuyển nhịp mùa xanh lại đất trời
Bắt chước cổ nhân nâng chén rượu
Mừng xuân thay áo mới cho đời.
Mười năm thêm một bài thơ nữa
Viết tặng riêng mình tuổi bốn mươi…
(Sài Gòn 1970)
Thanh Nam làm những lời thơ Đón Tuổi Bốn Mươi ở Sài Gòn khi anh bốn mươi tuổi. Anh hẹn mười năm – năm 1980 – anh sẽ làm bài thơ nữa khi anh tròn năm mươi tuổi, anh không làm được việc đó. Ngày 30 Tháng Tư 1975 sầm sập đến…
Năm 1970 đọc Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi, tôi thấy hay, thấy não nùng nhưng tôi không xúc động bao nhiêu.Phải đến những năm sau 1975, và đến những năm này, những năm 1999, 2000… hai mươi mùa thu lá bay sau, tôi thấy lời thơ thật hay và càng ngày càng hay. Những lời thơ tuyệt đẹp:
“…Gió nổi mười phương trời buổi đó
Với ngày như lá, tháng như mây…
Lãng đãng khói sương trời tưởng nhớ
Thơ hồng, tuổi ngọc tiếc thương ai?”
Kể từ ngày oan nghiệt ấy có biết bao nhiêu văn nghệ sĩ đã vĩnh viễn ra đi? Chết thì tất cả mọi người đều phải chết thôi, nhưng từ Ngày 30 Tháng Tư 1975 đến nay các văn nghệ sĩ đàn anh tôi, các văn nghệ sĩ bạn tôi, đã bao nhiêu nngười phải chết trong tủi nhục?
Đa số bị tù đầy: anh Chu Tử Chu Văn Bình đi tiên phong trong ngày 30 Tháng Tư – anh chết vì đạn thù bắn theo trên con tầu đưa anh ra biển – tiếp đến là anh Vũ Hoàng Chương, rồi Hoàng Vĩnh Lộc, Trọng Nguyên, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn, Trần Việt Hoài, Vũ Bằng, Tam Lang, Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Trúc Ly, Huy Cường…
Ba anh Nguyễn Mạnh Côn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường chết trong tù.
Ba anh đều chết thảm nhưng anh Nguyễn Mạnh Côn chết thảm nhất. Ở tù được ba năm, khi ở Trại Lao Động Cải Tạo Xuyên Mộc, anh Côn tuyệt thực đòi Việt Cộng phải thả anh. Bắt chước cách đàn áp tù nhân dã man đến cùng cực của bọn Nga Cộng và Tầu Cộng, Cai ngục Xuyên Mộc giam riêng người tù tuyệt thực Nguyễn Mạnh Côn. Không cho anh uống nước, cai ngục Xuyên Mộc lạnh lùng bắt anh chết vì khát.
Họ công bố cho các tù nhân biết khi người tù không ăn, họ không cho người tù uống nước, cho người tù chết luôn. Họ giết anh Nguyễn Mạnh Côn để những tù nhân khác không còn ai dám tuyệt thực. Và người tù văn nhân chính trị Nguyễn Mạnh Côn đã chết thê thảm ở Nhà tù Xuyên Mộc, xác anh nằm lại nơi bìa rừng hiu quạnh ấy.
Không bao giờ tôi quên được hình dáng anh trong buổi sáng chủ nhật ở lối đi trong Nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu, khi anh được ra ngồi phơi nắng chừng hai mươi phút. Sáng ấy – một buổi sáng giữa năm 1977 – anh gầy ốm, tóc bạc, râu ria, trong bộ đồ ngủ nâu đã cũ nát. Tôi bồi hồi nhìn anh qua cửa gió xà-lim, nghe tiếng anh ngâm câu thơ Hồ Trường:
“Chí ta ta biết, lòng ta ta hay…”
Trước 1975 nhiều người trong anh em chúng tôi – trong số có tôi – bất mãn với cuộc đời, kêu khổ rầm trời, giận trời, trách đất, oán người vung xích chó.
Vì vậy tôi không lạ, tôi hiểu tại sao trong bài thơ đón tuổi bốn mươi năm 1970 ở Sài Gòn của Thanh Nam lại có câu: “Bố ru con bằng lời thống khổ – Trong nhục nhằn mê sảng đêm nay…” Tội thay.
Thời ấy chúng tôi thực sự chưa biết khổ nhục là gì.
Kim Thánh Thán viết trong bài phê bình Tây Sương Ký: “Năm xưa nghèo không có đất cắm dùi chưa phải là nghèo. Năm nay nghèo mới thật là nghèo, nghèo đến cái dùi cũng không có mà mang đi cắm”.
Phải đến sau 1975 chúng tôi, ở quê nhà, ở nước ngoài, mới biết thế nào là khổ nhục, chúng tôi mới thực là khổ nhục, trước 1975 chúng tôi chỉ kêu là chúng tôi khổ nhục thôi, chúng tôi chưa thực sự khổ nhục.
Thanh Nam đi xa quê hương từ hải đảo Phú Quốc trong một đêm mờ sương. Hai mùa lá rụng sau đó, mùa xuân năm 1977, ở Seattle, thành phố mưa quanh năm, Thanh Nam làm bài Thơ Xuân Đất Khách:
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thưở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư.
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư!
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho dông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nuớc đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do!
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa.
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta.
Đây là một trong những bài thơ tha hương hay nhất, cảm khái nhất tôi được đọc. Những câu làm dạ tôi xót sa, tim tôi đau nhói: “…Thức ngủ một mình trong tủi nhục…Giống như người lính vừa thua trận. Nằm giữa sa trường nát gió mưa…Chợt nghe từ đáy hồn thương tích… Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa… Một năm người có mười hai tháng. Ta trọn năm dài Một Tháng Tư.. Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt. Học làm con trẻ nói ngu ngơ…”
Dù sống ở xứ người hay sống ở quê hương, sống ở đâu tâm hồn, thể xác anh em chúng tôi cũng như người lính vừa thua trận, nằm giữa sa trường nát gió mưa. Trong những đêm buồn thê thảm, chúng tôi nghe mãi từ đáy hồn thương tích, vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa. Chỉ có khác là sống ở quê hương, chúng tôi không phải đổi ngược họ tên cha mẹ đặt, chúng tôi phải cúi đầu nhận là chúng tôi có tội với nhân dân, có tội với tổ quốc. Chúng tôi có một cái chung là:
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn đời ta Một Tháng Tư!
Qua hai bài thơ tôi thấy: Năm 1970 ở Sài Gòn, Thanh Nam bốn mươi tuổi, anh thương tiếc tuổi hai mươi trong veo cặp mắt chưa vương bụi, chăn chiếu còn thơm ngát mộng trai.. Và than: “Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ. Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai“. Để rồi bẩy năm sau, lưu lạc quê người bên kia đại dương, bên kia trái đất, Thanh Nam thấy những ngày, những tháng, những năm 1970, 1971 sống ở quê hương là đẹp tuyệt vời, anh lại tiếc, lại thương, anh không thấy tiếng bạc đời anh gieo đã lỡ mà anh thấy: “Canh bạc chưa chơi mà hết vốn. Cờ còn nước đánh phải đành thua…”
Tôi quen Thanh Nam ở Sài Gòn, năm 1952. Những năm này có lúc anh sống với thi sĩ Trúc Giang (đã chết) ở đường Frère Louis, có lúc anh sống với Đại úy Nguyễn Ngọc Loan ở nhà Sách Á Châu của anh Nguyễn Bá Châu, đường Lê Lai. Những năm 1960 Thanh Nam chưa lập gia đình, tôi thường đến chơi với anh ở Bin-đinh Cửu Long, đường Hai Bà Trưng. Thời ấy Thanh Nam, Thái Thủy và Hoàng Thư là ba văn nghệ sĩ độc thân từng sống chung nhà với nhau, rồi cùng ở Bin-đinh Cửu Long. Hoàng Thư lấy vợ trước – khoảng năm 1960. Thái Thủy là người thứ hai rời bỏ Bin-đinh Cửu Long và đời sống trai độc thân – khoảng năm 1965. Thanh Nam cô đơn. Anh nói với tôi:
– Tao sợ đêm đêm đi chơi về bin-đinh như đi vào nhà tù. Mở cửa vào phòng tao có cảm giác như chui vào xà-lim…
Năm ấy chúng tôi chưa biết tù đày, nhà tù, sà lim là gì, chúng tôi chỉ mới nhìn thấy cảnh nhà tù trên màn ảnh xi-nê. Nhiều năm sau ở trong tù, tôi thấy lời Thanh Nam nói thật đúng. Hành lang bin-đinh Cửu Long chia đôi hai dẫy phòng, cửa phòng sơn mầu xám. Đêm hay ngày đi trong hành lang đó cũng như đi trong hành lang nhà tù. Căn phòng bin-đinh y hệt sà-lim. Rộng hơn, sạch hơn, dễ chịu hơn. Tất nhiên.
Đó là lúc Thanh Nam thấy cô đơn, thấy chán đời sống trai già độc thân ở phòng bin-đinh, anh muốn có gia đình, vợ con.
Thời ấy tôi có cái xe Jeep nhà banh – xe phế thải – có đêm thứ bẩy tôi chở Thanh Nam đi chơi. Chủ nhật mọi người nghỉ làm, nhà báo Sài Gòn Mới làm việc ngày chủ nhật để ra số báo ngày thứ hai nên ngày chủ nhật tôi phải đi làm. Đi chơi với Thanh Nam đến hai giờ sáng, tôi nói:
– Thôi về. Tao về ngủ một lúc. Mai tao phải đi làm, tao có vợ..
Anh nói:
– Mày làm như cả Sài Gòn này chỉ có mày là thằng có vợ!
Đâu phải cả Sài Gòn chỉ có tôi là có vợ! Đêm ấy tôi đi chơi với bạn suốt đêm. Năm, sáu năm sau – khoảng 1967, 1968 – khi Thanh Nam có vợ, một tối chúng tôi đi ăn cơm với nhau. Ăn xong, Trịnh Viết Thành chở chúng tôi đến Quang Minh Đỉnh trên chiếc xe Simca của anh. Thanh Nam giao hẹn:
– Tao đi đến 10 giờ thôi.
Mười giờ, cuộc vui đang vui, Thanh Nam đi về. Trịnh Viết Thành ngăn lại:
– Ở lại chút nữa tao đưa về luôn…
Thanh Nam cứ về. Về là phải, bởi vì ở lại thêm một lúc là hai, ba giờ sáng lúc nào không biết. Năm ấy quân đội Mỹ vào đầy Sài Gòn, xe taxi thiếu, trời lại mưa, Thanh Nam cứ xuống đường chờ xe về. Cả giờ sau chúng tôi từ Quang Minh Đỉnh xuống, anh vẫn còn đứng núp mưa bên gốc cây sao chờ xe. Nhìn Thanh Nam đứng đó tôi nhớ mấy năm trước tôi đi chơi với anh đến 2 giờ sáng, đòi về, anh nói:
– Mày làm như cả Sài Gòn chỉ có mày là thằng có vợ!
Một tối Ngọc Linh bán được tác phẩm tiểu thuyết, mời chúng tôi đi ăn ở nhà hàng Động Phát đường Hàm Nghi, Chợ Cũ. Năm đó là năm 1960. Bữa ăn có Thanh Nam, Nguyên Sa, Tô Kiều Ngân, Quốc Phong, Văn Quang, Phan Nghị, Thái Thủy và tôi. Trong bữa ăn chúng tôi nói linh tinh đến chuyện vợ bé, con riêng. Tôi nói:
– Tao sẽ không bao giờ có vợ bé. Ông già tao không có vợ bé nên tao cũng không bao giờ có vợ bé.
Văn Quang cười:
– Nếu mày nói thế thì tao có quyền có vợ bé. Ông già tao nhiều vợ lắm..
Tôi không hoạt bát, không linh lợi, không sắc xảo trong lời nói và khi đang cao hứng nói ra lời gì bị người khác nói ngược là tôi bị khựng. Tôi ngồi im. Một lúc sau khi các bạn tôi đã nói sang chuyện khác, tôi trở lại chuyện vợ bé:
– Ê… Văn Quang… Trước đây mày có khổ vì ông già mày có vợ bé không? Nếu mày khổ thì bi giờ mày đừng làm cho các con mày khổ.
Thanh Nam bảo tôi:
– Làm cái gì mà mày cay cú thế? Mày mới có vợ đây, đã lâu la gì. Đừng nói trước. Tao thấy những thằng nói như mày là những thằng có vợ bé trước hơn ai hết…
Buổi tối trong căn phòng riêng trên lầu nhà hàng Động Phát năm 1960, 1961. Bốn mươi năm trời đã qua đời tôi. Những ngày như lá, tháng như mây… Tôi thường quên những chuyện nhiều người cho là quan trọng, nhưng lại nhớ những chuyện nhiều người cho là không có gì đáng nhớ. Hôm nay trời mưa trên Rừng Phong, tôi viết chuyện xưa, tưởng nhớ, mến thương những người bạn tôi còn sống, đã chết, những người đã cùng sống thời hoa niên của tôi ở Sài Gòn – những năm 60 đời tôi thật đẹp – tôi tưởng như tôi đang nhìn thấy anh em chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn ăn tròn cao lâu Tầu đêm xưa ấy. Thanh Nam, Nguyên Sa đã chết, Tô Kiều Ngân, Văn Quang, Phan Nghị hiện ở Thành Hồ, Quốc Phong ở Pháp, Thái Thủy ở Cali. Chúng tôi mến thương nhau đến là chừng nào! Tình thương mến ấy vẫn còn đến hôm nay. Khi gần những người bạn xưa của tôi, tôi thấy thoải mái, bình yên. Vì tôi là bạn tôi, bạn tôi là tôi. Những cái tật của tôi là những tật của bạn tôi, và ngược lại.
Tôi viết nhiều về những chuyện ngày xưa. Biết làm sao hơn được. Người viết thường viết ra những gì ở trong tim mình, trong óc mình. Trong tôi chỉ có những chuyện ngày xưa…
(Còn tiếp)