Remember ?

kết quả từ 1 tới 6 trên 7

Tựa Đề: Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (04)



    Năm 1982, ở tù hai năm trở về, tôi mới được quen anh Cao Hữu Đính. Anh Đính đã qua đời năm 1992 trong căn nhà của anh ở khoảng giữa nhà thờ Bùi Phát và cổng xe lửa số 6 đường Trương Minh Giảng. Anh nguyên là Tổng thư ký Liên Ban Tôn Giáo Chống Độc Tài Ngô Đình Diệm năm 1963, là giáo sư Đại học Vạn Hạnh. Anh hơn tôi gần hai mươi tuổi.

    Tôi gặp anh Cao Hữu Đính lần đầu ở nhà anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Năm ấy, 1982, tôi viết một số bài kể chuyện linh về cuộc sống ở Thành Hồ gửi sang Mỹ, Pháp, Úc. Tôi đưa vài bài để anh Đính đọc. Anh nói:

    – Trước kia tôi có nghe tên anh nhưng tôi không đọc anh. Tôi vẫn tưởng anh chỉ viết được tiểu thuyết, không ngờ anh viết chính luận được quá. Hay đấy.

    Từ đó anh Đính mến tôi, hay đến nhà tôi chơi, đưa tôi đi ăn những chỗ anh thấy có thức ăn ngon, giúp đỡ vợ chồng tôi tất cả những gì anh có thể giúp. Anh chị Đính những năm ấy sống tương đối thoải mái hơn nhiều người, anh chị có bẩy, tám người con, năm người sống ở nước ngoài, tất cả các con anh chị đều thành đạt.

    Là nhà nghiên cứu Phật giáo và tích cực tham gia phong trào chấn hưng đạo Phật từ những năm 1940, anh Đính biết khá nhiều về giới giáo sĩ Phật giáo ở miền Trung Việt Nam. Những lúc vui chuyện anh kể cho tôi nghe về tiểu sử, đời tư, hạnh kiểm, hành động của nhiều vị lãnh đạo Phật giáo như Hòa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, các vị Thượng Tọa Thiện Minh, Quảng Độ, Đức Nhuận, Trí Quang, Nhất Hạnh v.v…

    Là người ngoại đạo, tôi nghe rồi quên ngay. Tháng 3 năm 1984 anh Đính cho tôi biết:

    – Lại có chiến dịch khủng bố Phật giáo đồ. Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Thích Nữ Trí Hải bị bắt hôm qua. Cả ba cùng bị bắt trong một buổi sáng. Chưa biết còn những ai bị bắt nữa.

    Anh nhấn mạnh:

    – Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Trí Hải là… la crème du Bouddhisme… tinh hoa của Phật giáo.

    Vài ngày sau anh cho tôi biết thêm về vụ bắt bớ lớn ấy:

    – Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Trí Hải là những người con cưng của Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Tuệ Sĩ, Trí Siêu bị bắt ở Chùa Già Lam, Phú Nhuận. Cô Trí Hải đang lập một tịnh xá ở Hố Nai, làm chỗ cư trú cho những tăng ni không có tên trong sổ hộ khẩu chùa nào cả. Công an đi xe đến tận nơi mời cô Trí Hải về Sài Gòn. Buổi sáng Hòa Thượng Thích Trí Thủ được mời đến trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc. Trong lúc Hòa Thượng đi vắng, Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị bắt. Ở trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc, Hòa Thượng Trí Thủ được mời nghe cuộn băng ghi tiếng nói của một tăng sinh can tội phản động bị bắt. Tăng sinh này khai Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và Ni cô Trí Hải là những người trong ban lãnh đạo tổ chức phản động. Nghe nói tổ chức này lớn lắm, định lập chiến khu, gây bạo động ở thành phố, có súng. Khi Hòa Thượng Trí Thủ trở về đến chùa, nghe báo Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát bị bắt, Hòa Thượng ứa nước mắt.

    Tai họa dồn dập đến với những Phật tử Việt Nam. Khoảng bẩy ngày sau, anh Đính cho tôi biết Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Pháp Chủ Phật Giáo Việt Nam, đột ngột tạ thế. Đấy là những ngày cuối tháng Ba năm 1984. Tình trạng cá nhân tôi cũng đen tối không kém. Nhiều sự kiện xẩy đến làm tôi lờ mờ cảm thấy xe bông của Sở Công an Thành Hồ lại sắp sửa đến nhà tôi rước tôi đi lần nữa.

    Tháng Giêng 1984 chúng tôi nghe tin mới có một đài phát thanh chống Cộng. Tết năm ấy một số người ở Nha Trang tình cờ bắt được tiếng nói của đài phát thanh này. Tin truyền về Sài Gòn. Đầu tháng Hai 1984 anh Đính và tôi nghe được đài. Đó là Đài Phát Thanh Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh.

    Từ ngày ấy đến khi tôi viết những dòng này ở Rừng Phong, Hoa Kỳ, thời gian đã gần hai mươi năm. Thật nhanh. Tôi nhớ Đài Phát Thanh Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh năm ấy phát thanh mỗi ngày năm lần, mỗi lần một giờ. Đài yếu. Rất khó bắt. Người nào có duyên với đài thì may tay có lời, bắt được tiếng nói ngay bất kể máy thu thanh xấu tốt. Nhiều người ra-đi-ô thật “sịn” loay hoay mò cả nửa tiếng cũng không bắt được đài. Một giờ phát thanh quá lâu. Đài phát thanh bằng băng thâu sẵn. Ba, bốn ngày mới thay một băng. Tin tức không có. Gần như toàn những bài viết đả kích cộng sản. Những ngày đầu vợ chồng tôi náo nức tìm nghe, chúng tôi xúc động khi nghe nhạc hiệu của đài, bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông – bản nhạc, lời ca thật hay nhưng đã bị vợ chồng tôi từ lâu quên lãng – chúng tôi xúc động hơn khi nghe tiếng hát Thái Thanh hát bài Quê Em:

    Quê em miền trung du
    Đồng quê lúa xanh rờn
    Giặc tràn lên cướp phá
    Anh về quê cũ
    Đi diệt thù giữ quê
    Giặc tan đón em về…

    Một tối, lúc 11 giờ đêm, tôi nghe đài kháng chiến. Cái ra-đi-ô Sony cũ rích nằm bên tôi trên căn gác lửng, Alice nằm tình tang trên cái võng mắc dưới nhà lại nghe tiếng nói phát ra từ máy rõ hơn tôi. Nguyên do là hệ thống truyền âm trong căn nhà nhỏ của chúng tôi khá ly kỳ. Đêm ấy vợ chồng tôi cùng nghe một bài bình luận của Đài Kháng Chiến. Tôi chắc một văn nghệ sĩ nào đó có trình độ hiểu biết khá cao là tác giả bài đó. Đại ý của bài là trước 1975 các văn nghệ sĩ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa có cái lỗi là không tích cực chống Cộng, nhưng sau 1975 họ có cái hay là không một người nào cộng tác với cộng sản.

    Đây là nguyên văn một câu trong bài chúng tôi nghe được đêm hôm đó:

    –… trong năm 1983 chúng ta đã được đọc văn thơ chống Cộng của Hoàng Hải Thủy, Bùi Hoàng Cầm, Nguyễn Chí Thiện…

    Tôi bồi hồi xúc động với những cảm giác vui, lo, kiêu hãnh, sợ hãi lẫn lộn. Tôi được kể tên trước Hoàng Cầm, thi sĩ tôi rất ái mộ. Hết giờ phát thanh, tôi lọ mọ xuống gác, nói với Alice:

    – Em nghe rõ tên anh chứ? Chắc chúng nó phải bắt anh thôi, chúng nó không để anh yên đâu.

    Nhiều người nghe được bài ấy trên đài Hoàng Cơ Minh. Một sáng, anh Nguyễn Văn Đạt, nguyên Đại Tá, nguyên Tỉnh Trưởng Bình Định những năm 1953-1954, đi chiếc xe đạp mi-ni đến nhà tôi. Tôi được quen anh Đạt qua anh Đính. Anh Đạt đi cải tạo ở miền Bắc về năm 1980. Sáng ấy anh đến chào từ biệt tôi, anh nghe đài kháng chiến gọi tên tôi nên anh biết tôi sắp bị bắt. Vợ chồng tôi cám ơn anh và tiễn anh ra tới hàng ba. Dừng lại bên cửa với chiếc xe đạp mi-ni anh nói với vợ chồng tôi lời cuối:

    – Chị đừng buồn. Chị làm vợ một người chồng có tài, chị phải chịu cái tai của anh ấy.

    Vợ chồng tôi bồi hồi nhìn theo anh đạp xe ra khỏi cư xá. Đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh, nghe tiếng anh nói. Năm 1990 khi tôi từ nhà tù trở về mái nhà xưa, anh Đạt đã qua đời.


    Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni cô Trí Hải bị bắt ngày 30 tháng 3, 1984. Chừng một tuần sau Hòa Thượng Thích Trí Thủ viên tịch. Hai giờ sáng rạng ngày mùng 2 tháng 5 năm 1984 Công an Thành Hồ đem xe bông đến nhà rước tôi đi.

    Tôi lại trở vào cái gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, trung tâm thẩm vấn của Sở Công an Thành Hồ, nơi bốn năm trước tôi đã sống hai năm và đã ra thoát. Trở vô lần này tôi lại vào biệt giam Khu C Một. Lần trước tôi nằm phòng biệt giam – sà lim – số 6 cũng khu này, lần thứ hai này tôi nằm phòng biệt giam số 10.

    Sau thời gian chịu thẩm vấn, cai tù đưa tôi sang phòng tập thể số 6 cùng khu. Vào phòng tôi được xếp nằm cạnh một thanh niên trạc ngoài ba mươi tuổi. Chú kém tôi đến mười lăm tuổi nên tôi gọi là chú, chú gọi tôi là bác. Nằm bên nhau chúng tôi nói chuyện làm quen. Khi nghe chú nói chú là tu sĩ chùa Già Lam, tôi vội hỏi tên chú – vì anh Đính có cho tôi biết tên người tăng sinh chịu không nổi khổ cực vì bị nằm sà lim dài hạn nên đã phải cung khai. Biết chú không phải tăng sinh cung khai, tôi cho chú biết tin Hòa Thượng Trí Thủ đã viên tịch.

    Chú không biết tin ấy, chú cũng chỉ lờ mờ biết dường như Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát đã bị bắt. Chú cho tôi biết chú bị bắt đã ba năm, năm đầu chú bị giam ở đây – Số 4 Phan Đăng Lưu – năm thứ hai chú sang khám Chí Hòa và bây giờ chú mới được đưa từ Chí Hòa về đây khoảng một tuần nay để thẩm vấn lại. Chú bị đưa trở lại đây chịu thẩm vấn thêm vì công an vừa bắt Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và cô Trí Hải. Nghe tôi nói linh tinh và nói vanh vách về những chuyện Phật giáo, Phật tử v.v… chú hỏi tôi:

    – Bác không phải Phật tử, sao bác biết những chuyện ấy?

    – Ông Cao Hữu Đính cho tôi biết – tôi trả lời – Tôi hay gặp ông ấy lắm.

    Tôi được biết một nhóm tu sĩ Phật giáo và Phật tử liên kết với một số tín hữu Thiên Chúa giáo – đa số là người Việt miền Trung – thành lập một tổ chức chống Cộng có tầm cỡ khá lớn. Nhiều người trong tổ chức đã bị bắt từ ba năm trước (1980) nhưng họ không chịu khai những người lãnh đạo họ. Vì họ không chịu khai nên họ cứ bị Việt Cộng giam mãi. Mới đây một người trong nhóm bị nằm sà-lim mút chỉ ba năm, không được nhận đồ gửi vào nuôi, ta gọi là tiếp tế, chịu không nổi đã cung khai. Lời khai của người này được thâu vào băng, Hòa Thượng Trí Thủ đã được công an mời nghe cuộn băng cung khai. Do đó Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát và Ni cô Trí Hải bị bắt.

    Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, cạnh Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, nhìn sang Chợ Bà Chiểu và Lăng Ông, là trung tâm thẩm vấn của Sở Công an Thành Hồ. Gần như tất cả người Sài Gòn bị bắt đều bị đưa vào đây thẩm vấn. Đặc biệt trung tâm này chỉ có những tù chính trị, tù vượt biên, tù xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (tức ăn cắp của công), không có tù hình sự (tức tù trộm cướp, giết người, hiếp dâm).

    Nhóm Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi bị bắt sau Tổ Chức Chống Cộng Già Lam một tháng. Chúng tôi ở Số 4 Phan Đăng Lưu 12 tháng: anh Doãn Quốc Sĩ ở khu C Hai, Khuất Duy Trác ở Phòng Tập Thể 1 khu C Một, Dương Hùng Cường ở Phòng Tập Thể 3 khu C Một, Trần Ngọc Tự ở Phòng Tập Thể 5 và tôi ở Phòng Tập Thể 6 khu C Một. Nhóm Già Lam đi sang Chí Hòa trước chúng tôi.

    Tháng Năm 1985 tôi đặt chân xuống Thánh Địa Chí Hòa. Buổi trưa, tay ôm, tay xách hành lý: quần áo, mùng mền, chiếu, tôi theo các bạn bước vào trung tâm Thánh Địa. Đứng trong sân tôi ngửng nhìn, chỉ thấy song sắt và song sắt. Người Sài Gòn bị bắt đi tù nếu chưa vào Khám Chí Hòa thì vẫn chưa biết tù đày đích thực là gì. Nhìn lên những tầng lầu cao tôi bồi hồi tự nhủ: “Đây Chí Hòa… Với người tù Sài Gòn, Chí Hòa giống như Đại học Harvard của sinh viên Mỹ, Eton của sinh viên Anh, Sorbonne của sinh viên Pháp”. Tâm trạng tôi lúc ấy như dòng suối cuồn cuộn trôi. Tôi sợ hãi và tôi kiêu hãnh. Sống dưới cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa đi tù vì tội chống đối Cộng sản là một thành tích tốt. Trong hai mươi năm, từ 1954 đến 1975, tôi đã sống, đã hưởng thụ, đã để cho những người khác chết, để cho vợ con những người khác khóc. Bằng những năm tháng tù đày này, tôi trả được phần nào cái nợ sống, được đóng góp một phần công nhỏ của tôi trong công cuộc chung của cả dân tộc. Tôi chỉ là một người tù rất thường như cả trăm ngàn người tù chống Cộng khác. Nhiều người tù đã chết trong nhà tù lớn nhất Đông Dương này. Rất có thể và chẳng có gì lạ nếu tôi không còn sống để ra khỏi những vách tường này. Nhưng ngày nào trở ra được, mai sau, trọn đời tôi, tôi sẽ kiêu hãnh vì từng sống trong Nhà Tù Chí Hòa.

    Bẩy anh em chúng tôi, Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn và tôi (anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đã sang Chí Hòa tháng trước) cùng từ Số 4 Phan Đăng Lưu sang Thánh Địa Chí Hòa trong một chuyến xe. Vào Khu ED – Ơ Đê – cai tù chia chúng tôi ra, đưa chúng tôi mỗi người vào một phòng.

    Khu ED là khu giam tù chính trị, tù vượt biên, tù xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tức tù ăn cắp của công, biển thủ công quĩ, hối lộ, buôn trầm, vàng… Những năm 1985, 1986… Phòng 2, ở dưới đất, là phòng giam những người bị bắt từ năm 1975. Cộng sản không đưa tù Phòng 2 khu ED Chí Hòa đi trại cải tạo, không đưa ra tòa, các vị cứ bị giam miệt mài đã cả mười năm. Tháng Năm 1985 ở Phòng 2 đó có các ông Nguyễn Tiến Hỷ, Thái Lăng Nghiêm, Như Phong Lê Văn Tiến, Nguyễn Đan Quế, Trần Thành và chừng hai mươi vị khác.

    Sau chừng nửa giờ đoàn tụ ở trên tù xa, anh em chúng tôi lại tan hàng, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn vào hai phòng nữ 3 và 4 ở dưới đất, ni cô Thích Nữ Trí Hải đang ở một trong hai phòng nữ ấy. Dương Hùng Cường, Trần Ngọc Tự vào hai phòng lầu Hai, Khuất Duy Trác vào phòng 9, tôi vào phòng 10 lầu Ba, anh Doãn Quốc Sĩ lên lầu Bốn, anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, từ Số 4 Phan Đăng Lưu sang Chí Hòa trước chúng tôi một tháng, ở phòng 9 Lầu Ba khu ED.

    Tôi gặp Trí Siêu Lê Mạnh Thát trong phòng 10 khu ED. Lê Mạnh Thát cùng nhóm Già Lam sang Chí Hòa trước tôi một tháng. Hai chúng tôi có chung một người bạn tù rất tốt. Anh bạn tù trẻ của chúng tôi là tu sĩ Thiên Chúa giáo: Lê Văn Bẩy đã học xong nhưng không được Việt Cộng cho thụ phong linh mục. Bẩy ăn chung, nằm cạnh tôi ở Phòng 6 Số 4 Phan Đăng Lưu. Bẩy sang Chí Hòa cùng chuyến xe với Lê Mạnh Thát. Bẩy quí mến Lê Mạnh Thát còn hơn Bẩy quí mến tôi. Bẩy đang ăn chung, nằm cạnh Thát, nên nhờ Bẩy, vừa vào phòng 10, tôi được ngay người quen đón tiếp, lo cho đủ thứ. Tôi ăn chung, nằm cạnh Bẩy và Thát.

    Tôi gọi Lê Mạnh Thát là thầy, Thát gọi tôi là bác. Thát kém tôi khoảng mười tuổi, có khổ người nhỏ nhắn đúng kiểu bạch diện thư sinh, nước da trắng hơn da con gái, mắt sáng, chưa phải dùng kính lão khi đọc báo, môi hồng, răng trắng đều đặn và còn tốt nguyên, thông minh thì khỏi nói. Tôi thấy con người Thát đẹp trai, hào hoa phong nhã.

    Tôi trở thành người bạn đồng tù thân thiết nhất của Lê Mạnh Thát ở Chí Hòa. Trong sáu năm tù lần thứ hai của tôi, chỉ có một năm đầu ở Số 4 Phan Đăng Lưu tôi và Thát không sống chung phòng, từ 1985 đến 1989 chúng tôi sống gần nhau, sống chung, sống sát nhau suốt ngày, suốt đêm: 4 năm ở Phòng 10 Khu ED Chí Hòa, một năm ở Trại Lao Động Cải Tạo Z30A. Sự kiện đặc biệt tôi thấy ở con người Lê Mạnh Thát là suốt năm năm trời sống sát bên nhau, tôi không thấy Thát bị qua một lần cảm cúm, nhức đầu, đau bụng, đau răng, ho hen nào, cũng không một lần ghẻ ngứa. Anh em tù ghẻ lu bù kèn, riêng tôi năm nào cũng bị hai lần ghẻ ngứa, mỗi lần kéo dài khoảng hai tháng, vào thời gian thời tiết thay đổi, nhưng Thát thì không. Ở tù như mọi người nhưng cả mấy mụn ghẻ còm Thát cũng không có. Thát rất ham đọc sách báo. Ở vào số tuổi ngoài bốn mươi, mắt Thát vẫn sáng nguyên, vẫn đọc sách không biết mỏi và không phải dùng kính lão.

    Sau một năm chung sống, người bạn trẻ Lê Văn Bẩy của chúng tôi ra tòa. Lãnh án 8 năm, Bẩy từ biệt chúng tôi và Phòng 10 ED để qua khu FG chờ đi Trại Lao Động Cải Tạo. Thát và tôi ở lại bên nhau. Anh em tù cũ ra khỏi phòng, anh em tù mới vào phòng rồi ra khỏi phòng, Thát và tôi cứ ở lại đấy mãi. Đến năm 1988 Thát là người tù thâm niên nhất Phòng 10, tôi là người tù thâm niên thứ hai.

    Gia đình Lê Mạnh Thát chỉ có một mình Thát là con trai, Thát tu hành từ năm mới mười một, mười hai tuổi. Năm 1964 Thát sang Hoa Kỳ học ngành y khoa ở tiểu bang Wisconsin. Học xong Thát từng làm việc mấy năm trong trường đại học Thát tốt nghiệp ở Wisconsin. Năm 1974 Thát trở về Sài Gòn. Tháng Tư 1975 đến, Thái có sẵn re-entry permit của Hoa Kỳ và vé máy bay nhưng không đi. Thát có bà mẹ già và cô em ở Sài Gòn. Cờ đỏ vào Sài Gòn, nhiều tu sĩ Phật giáo bị bắt, bị chết trong tù như Thượng Tọa Thiện Minh, nhiều ông bị bắt, được thả về, bị bắt lại, bị đưa về nguyên quán quản thúc, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương vẫn sống bình yên trong chùa Già Lam cho đến Tháng Ba 1984.

    Lê Mạnh Thát giỏi chữ Hán, ít nhất Thát cũng giỏi chữ Hán hơn tất cả những người tù biết chữ Hán từng ở chung phòng tù với Thát và tôi. Tù Chí Hòa bị cấm dùng giấy bút, anh em tù chế ra những tấm bảng viết bằng giấy: lấy giấy bao thăm nuôi dán nhiều tờ lại thành một miếng dầy như các-tông, xoa mỡ nước và xà-bông lên mặt giấy, đặt miếng nylon lên, viết bằng que cán chổi. Viết xong bóc miếng nylon, nét chữ mất. Lê Mạnh Thát không nhớ một câu thơ chữ Hán nào cả, tôi đọc cho Thát viết mấy bài thơ chữ Hán tôi thuộc, như:

    Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
    Giang phong, ngư hỏa đối sầu miên…

    Hay thơ Tố Như:

    Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
    Độc đáo song tiền nhất chỉ thư…

    Tôi đọc, Thát viết chữ. Chúng tôi giúp nhau qua ngày giờ trong tù. Thời gian cứ thế lê thê trôi qua…

    Ở Chí Hòa có những người tù bị giam đến sáu, bẩy năm mà không “được” đưa ra tòa xét xử, không “được” đưa đi trại, không được ai hỏi đến, không được báo tin về nhà, không được thăm nuôi. Cứ ở tù riết như bị bỏ quên, như hồ sơ bị mất. Guồng máy tư pháp cộng sản hoạt động rất ì ạch. Một trong những nguyên nhân làm cho cái gọi là bộ máy tư pháp cộng sản nặng nề, han rỉ, mất đinh ốc, không dầu mỡ hết sức cồng kềnh ấy chạy cà ạch cà đụi là việc họ giam người mà không cần đưa ra tòa xét xử, giam cho chết luôn là chuyện rất thường.

    Theo lệ kể từ năm 1985 những vụ án chính trị, tổ chức vượt biên, vẫn được đưa ra tòa xử, hay giải quyết bằng cách đưa can phạm đi trại lao cải sau ngày bị bắt khoảng hai năm. Vụ văn nghệ sĩ phản động bị gọi là bọn Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi bị giam tới bốn năm mới đem ra xử, vụ Tổ Chức Già Lam phản động có Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni cô Thích Trí Hải, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận trong ban lãnh đạo – những người bị bắt đầu tiên năm 1980, những người bị bắt cuối cùng khoảng cuối Tháng Năm 1984 – bị ngâm tôm ở Chí Hòa đến bẩy năm mới đưa ra tòa.

    Đúng ra vào đầu năm 1986, trước kỳ họp Đại hội Đảng lần 6, Công an Thành Hồ đã quyết định đưa anh em chúng tôi ra tòa xử, lệnh ra tòa đã được đọc cho anh em chúng tôi nghe. Hai tờ tuần báo Công An Thành Hồ và Tuổi Trẻ om xòm loan tin về vụ xử và đăng những bài viết kể tội chúng tôi. Nhưng đến phút cuối cùng họ hoãn xử. Một năm rưỡi sau, 1988, họ mới đưa anh em chúng tôi ra tòa xử. Lãnh án 8 năm, tôi ôm chiếu, xách giỏ, rời khu ED sang khu FG, nằm chờ kháng án lên cái gọi là tòa trên.

    Sau vụ xử chúng tôi chừng ba tháng, vụ Già Lam ra tòa. Can phạm trong tổ chức Già Lam đến hai mươi người. Chỉ nội cái việc tù phải đứng nghe đọc cáo trạng kết tội từng người cũng đã mất một ngày. Tòa phải xử đến hai ngày. Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương bị án tử hình, nhiều người 20 năm, 15 năm, Thượng Tọa Đức Nhuận lãnh án 10 năm, Ni cô Trí Hải 4 năm.

    Trong buổi chiều ngày xử thứ hai Thượng Tọa Đức Nhuận quá mệt, ngất xỉu. Hai tên công an vào phòng xử khiêng ông ra ngoài. Những tu sĩ Già Lam sau đó trở về Chí Hòa mà không có Thượng Tọa cùng về trên xe. Mọi người yên trí là bọn công an áp giải tù đã đưa Thượng Tọa đi bệnh viện hay đưa ông về bệnh xá Chí Hòa để điều trị. Nhưng Thượng Tọa không được cai tù cộng sản chú ý đến như thế. Mãi trưa ngày hôm sau chúng tôi thấy cai tù đưa Thượng Tọa về phòng giam. Thì ra ông bị bỏ quên trong xe chở tù.

    Xe chở tù – tôi không được đi xe này khi ra tòa – nghe nói của Liên Xô viện trợ, có ngăn riêng kín mít để nhốt tù tử hình hoặc những tù làm dữ, la hét, nguy hiểm. Khi Thương Tọa Đức Nhuận ngất xỉu bọn công an không đưa ông đi bệnh viện mà cũng chẳng chạy chữa, cứu cấp gì cả, chúng khiêng Thượng Tọa ra xe, bỏ ông vào ngăn nhốt tù nguy hiểm, khóa cửa lại. Xe về Chí Hòa, chẳng thằng nào nhớ có ông trong đó, chúng bỏ quên ông luôn, những người Già Lam thì yên trí chúng đưa ông đi bệnh viện nên chẳng ai hỏi.

    Thượng Tọa Đức Nhuận ngồi cả đêm trong ngăn tù xa. Ông không thể kêu cứu được, có kêu tiếng ông cũng không vang ra được ngoài. Ông cứ ngồi trong đó mà niệm kinh suốt đêm cho đến sáng. Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát chắc là nghe tiếng ông nên đến cứu ông. Thấy trên trần xe có lỗ thông hơi, Thượng Tọa thò bàn tay qua cái lỗ đó ra ngoài, vẫy vẫy. Có tên công an đi qua chỗ xe đậu nhìn thấy bàn tay vẫy vẫy, đi lấy chìa khóa xe lên xe mở ngăn tù xa “giải phóng” cho Thượng Tọa trở về phòng tù.

    oOo

    Khi tuyên án tử hình Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, những người cộng sản đã tính trước. Họ biết thế nào hàng giáo sĩ và Phật Giáo đồ, trong nước, ngoài nước, cũng lên tiếng phản đối bản án và đòi giảm án, nên họ chơi đòn “giơ cao, đánh khẽ”, cứ tuyên án thật nặng chờ xin là giảm án. Làm như vậy họ được cái lợi: vừa có vẻ nhân đạo, làm thỏa mãn số người xin khoan hồng – giảm án rồi còn đòi hỏi gì nữa? – vừa vẫn giáng được những cái án nặng lên đầu hai can phạm. Đành rằng tổ chức Già Lam có mua được mấy khẩu súng nhưng chưa bắn phát đạn nào, chưa làm nổ một trái mìn, chưa giết chết một tên công an Việt Cộng, làm cái gì mà phang họ những hai án tử hình, mà giết đến hai người trong tổ chức? Nếu họ hành động nặng hơn thế thì lấy mức án gì mà xủ? Đến tử hình là hết mức án rồi. Nếu tổ chức gây bạo động, cho nổ mìn, bắn chết năm bẩy anh VC thì chắc là sẽ phải tuyên án tru di tam tộc hay bắn chết hết tất cả những người sống cùng khu phố với can phạm?

    Theo thông lệ – vì số vụ án dồn đọng quá nhiều, không giải quyết được đúng thời hạn theo luật – những vụ án chính trị, hay vượt biên, phải chờ ít lắm là sáu, bẩy tháng mới được đưa ra xử lại.

    Vụ Già Lam được xử lại chỉ sau hơn một tháng. Trí Siêu, Tuệ Sĩ được đưa từ khám tử hình Chí Hòa trở ra tòa. Lần này hai người tử tội Già Lam được giảm án xuống 20 năm tù.

    Theo luật của chính Việt Cộng, án tử hình chỉ có thể giảm xuống án tù chung thân, Việt Cộng đã phớt lờ luật của chính họ để cho hai tử tù Già Lam từ án tử hình xuống thẳng án 20 năm, bỏ qua án chung thân. Cộng sản Việt Nam bắt chước hai đàn anh Nga Xô, Trung Cộng, thường tuyên những cái án thật nặng để rồi sau đó giảm án dần dần mỗi năm ở Trại Lao Động Cải Tạo, gọi tắt là Trại Lao Cải. Người lãnh án tù 20 năm khi ở trại Lao Cải nếu chịp ép một bề, chịu làm theo lệnh và tỏ ra sốt sắng làm đúng chỉ tiêu, có thể được giảm án mỗi năm ba tháng. Người án tù chung thân cũng phải đi trại làm khổ sai như những người tù khác nhưng không được giảm án hàng năm. Chỉ sau khoảng từ tám, chín đến mười, mười một năm khổ dịch người tù chung thân mới được phá án, được xuống án 20 năm, đến khi xuống án tù 20 năm đương sự mới được giảm án hàng năm. Trung bình người án tù chung thân phải ở tù từ 15 đến 17 năm.



    Khi sống trong khám Chí Hòa, anh em tù chúng tôi thường bàn tán với nhau về cái tiểu sử nhà tù chúng tôi cư ngụ.

    Tôi có ý định khi trở ra ngoài tôi sẽ tìm biết Nhà Tù này được kiến trúc sư tên là gì, người nước nào, vẽ kiểu, ai phụ trách xây dựng Nhà Tù lớn này, Nhà Tù được bắt đầu xây cất ngày nào, hoàn thành ngày nào, tháng nào, năm nào, hết bao nhiêu tiền v.v…

    Khi trở về khu Ngã Ba Ông Tạ và đường phố Sài Gòn tôi thấy Nhà Tù Chí Hòa chỉ quan trọng, chỉ đáng được tìm hiểu với những người tù đang sống trong lòng nó. Những người chưa từng một lần đem thân vào Nhà Tù Chí Hòa chẳng cần biết gì về nó. Những thân chủ của Chí Hòa khi ra khỏi những bức tường kiềm tỏa của nó, khi bỏ những hàng chấn song sắt, những cửa sắt lại sau lưng, cũng quên nó luôn.

    Vì vậy, tôi chỉ mô tả rất sơ lược về kiến trúc Nhà Tù Chí Hòa. Nhà Tù Hỏa Lò Hà Nội đã tiêu rồi..Một ngày nào đó Nhà Tù Chí Hòa cũng sẽ biến mất.

    Mai sau dầu có bao giờ…

    Một trăm năm sau – hãy nói một trăm năm sau, đừng đao to, búa lớn nói ba, bốn trăm năm sau. Tố Như théc méc thế thì được. Tam bách dư niên hậu… Hà nhân khấp Tố Như… Mình tính chuyện ba trăm năm là không được – trong số những người Việt Nam đến cõi đời này sau tôi có thể có vài người đọc những dòng chữ này tò mò muốn biết nhiều hơn về Nhà Tù Chí Hòa, nơi từng giam giữ ông cha họ ngày xưa, nơi họ không được thấy.

    Ngày xưa… những năm 1950, 1951, khi Sài Gòn còn ít cư dân, khi những con đường còn viền những hàng cây xanh – đường Bonard không chỉ có hai mà có bốn hàng cây xanh – khi người Pháp còn làm chủ Sài Gòn, nhà tù Sài Gòn được nhân dân gọi là Khám Lớn, và Khám Lớn Sài Gòn nằm ngay giữa trung tâm thành phố: mặt tiền đường Gia Long, tường sau đường Lê Thánh Tôn, nơi bây giờ là Thư Viện Quốc Gia.

    Thời xa xưa ấy – cách nay hơn nửa thế kỷ – người Sài Gòn phạm pháp bị bắt về Bót Catinat, đầu đường Tự Do gặp đường Nguyễn Du. Bót Catinat là nơi tạm giam và thẩm vấn tội phạm. Thời Pháp thường thì thời gian thẩm vấn ở Bót Catinat chỉ kéo dài mười lăm ngày. Từ Bót Catinat can phạm được đưa sang Khám Lớn Sài Gòn ngay gần đấy. Cái gọi là Sở Lục Hình – nơi lưu trữ hồ sơ lý lịch các tội phạm – nằm ở sau Tòa án Sài Gòn, cạnh Khách sạn Embassy. Người tù được còng tay đi bộ từ Khám Lớn sang Sở Lục Hình ngay gần đó, khi ra tòa người tù cũng chỉ cần đi qua đường Gia Long là vào được Tòa án bằng lối cửa bên cạnh. Năm xưa nhiều người có tên trên bảng đường thủ đô Sài Gòn của ta từng bị giam trong khám đường này: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm. Ông Huỳnh Thúc Kháng và một số ông tù quốc phạm khi từ Côn Đảo về có ghé vào khám đường này nghỉ chân trước khi lên tầu hỏa về Trung, ra Bắc.

    Trong những năm đầu Thế kỷ 20 nhà tù Sài Gòn nằm ngay cạnh Tòa án Sài Gòn là hợp lý, tiện lợi. Sau năm 1945 dân Sài Gòn ngày một đông hơn, thành phố phát triển, nhiều nhà dân quanh Khám Lớn Sài Gòn trở thành nhà lầu. Người sống trên những nhà lầu đường Lê Thánh Tôn có thể dễ dàng nhìn vào giữa sân Khám Lớn. Người ta không còn có thể cứ để mãi khám lớn nằm chình ình ngay giữa đô thành.

    Nghe nói Nhà Tù Chí Hòa được các quan Đại Pháp quyết định xây và “đặt viên gạch đầu tiên” rồi được các quan Đại Nhật khánh thành.

    Từ 1940 đất nước chúng ta có nhiều thay đổi lớn, Sài Gòn cũng vậy. Quân đội Nhật Bản làm binh biến hạ bệ người Pháp, các quan Đại Pháp bị quân Nhật bắt đi bộ lếch thếch vào những trại tập trung.

    Chiến tranh thế giới chấm dứt, người Pháp theo chân người Anh trở lại Sài Gòn, những anh Tây lai cô-lô-nhần từng bị khổ nhục trở thành bọn Sureté Tây, thẳng tay bắt bớ, tra tấn, hành hạ người Việt. Bọn Tây lai này đối xử với người Việt tàn tệ, dã man, táng tận, đểu giả hơn cả những người Pháp. Theo tôi, sự đểu giả của bọn lai Tây trong chiến tranh Việt-Pháp là nguyên nhân làm cho đa số người Việt chúng ta không ưa những người con lai giống…

    Tôi nghe nói nhà tù Chí Hòa được xây xong vào khoảng 1945-1946, bắt đầu đón khách từ những năm 1946-1947. Khám Lớn Sài Gòn đường Gia Long trở thành nhà tù nhỏ so với Khám Lớn Chí Hòa vẫn được duy trì. Trong thời gian này người Sài Gòn bị bắt vẫn bị giam, bị thẩm vấn ở Bót Catinat, vẫn sang Khám Lớn Gia Long nằm chờ ra tòa án bên kia đường, chỉ sau khi có án mới được đưa vào nằm dài ngày trong Nhà Tù Chí Hòa.

    Năm 1952 Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm ra lệnh phá nhà tù đường Gia Long. Trong một buổi lễ được coi là long trọng và mới lạ Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đọc bài diễn từ ngắn, cầm búa “đập viên gạch đầu tiên” phá nhà tù. Khi đó tôi là phóng viên nhật báo Ánh Sáng và có cái vinh hạnh được dự lễ phá nhà tù này. Lễ xong, Ông Lớn lên xe về dinh, chàng phóng viên mới vào nghề là tôi tò mò đi một vòng xem nhà tù.

    Thời gian qua. Chiều nay ở quê người, tôi tưởng tượng lại hình ảnh tôi, chú phóng viên trẻ măng năm xưa đứng ngoài hiên nhìn qua song sắt vào những phòng giam không có người, những phòng giam cửa mở, chật hẹp, tối tăm, dơ bẩn, lạnh lẽo. Và hình ảnh tôi những năm 1985, 1986, tóc bạc, gầy ốm, đứng sau hàng song sắt nhà tù Chí Hòa nhìn ra.

    Được phá bỏ từ 1952, khu đất từng là nhà tù Sài Gòn dầu dãi nắng mưa mãi đến thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xây nên tòa nhà Thư Viện Quốc Gia.

    Từ năm 1980 những người cộng sản Việt Nam sau khi ăn hết, vơ vét hết, phá hết, phung phí, tẩu tán hết của cải của đất nước và nhân dân, phải bắt chước đàn anh cộng sản Tầu thi hành chính sách gọi là “mở cửa”. Cũng như nhiều công sở khác, Thư Viện Quốc Gia được mở cửa cho Ba Tầu vào mở cao lâu, rõ hơn là cho Ba Tầu Chợ Lớn mướn nguyên một tầng làm hàng ăn. Vào năm 1994, 1995 nhiều người dân Sài Gòn vẫn đến Thư Viện Thành Phố nhưng không phải để đọc sách mà là để ăn cưới.

    Từ sau hai hàng song sắt Phòng 10 Khu ED trong bốn năm trời ròng rã, tôi ngày đêm trông thấy Khu Tử Hình ở bên kia sân.

    Khu đó vắng bóng người, tối tăm, ảm đạm, tối tăm hơn những khu khác. Tôi kinh sợ khi tưởng tượng tôi phải vào khu đó. Tôi càng sợ hơn khi nghe các chuyện kể về cảnh sống của người tử tù chờ chết trong Khu Tử Hình Khám Chí Hòa. Người tử tù bị còng chân suốt ngày, suốt đêm. Ba, bốn giờ sáng cai tù vào đánh thức, cho ăn bữa cuối cùng, thường là cái bánh bao, chai nước ngọt, hai điếu thuốc có cán. Người tử tù bị bịt mắt, bị tọng giẻ, trái chanh hay trái cóc vào miệng, đưa lên xe bít bùng chạy lên bãi bắn ở Thủ Đức. Nghe nói tử tù bị đưa lên đứng trên những thùng phuy đổ đầy đất để chịu bắn nên anh em tù thường nói đùa “lên thùng phuy”. Cũng nghe nói nhiều người tù bị nhét trái chanh, trái cóc quá lớn vào miệng nên chết ngạt trước khi bị bắn.

    Tử tù Thành Hồ bị bắn vào lúc năm giờ sáng, xác được chôn ngay ở khu đất cạnh bãi bắn. Thân nhân tử tù có thể đến nhận mộ nhưng nếu muốn đặt bia trên mộ, bia phải có hàng chữ “Tội… Chịu án ngày…”

    Những chuyện cộng sản Việt Nam giết người Việt Nam, tôi được nghe trong ngục, làm tôi nhớ một bài viết về chị Võ Thị Sáu, người được CSVN suy tôn là liệt sĩ, bị người Pháp hành quyết ở Côn Đảo.

    Khoảng những năm đầu thập niên 1980, tôi tình cờ đọc được bài viết ấy trong một tập sách Văn dậy học sinh trung học.

    Bài viết tả cảnh người nữ tử tù Võ Thị Sáu trên đường đi ra pháp trường đã “ngắt bông hoa hồng dại bên đường đưa tặng người lính Bắc Phi sẽ bắn chị…”

    Ôi…! Tác phong của người cộng sản Võ Thị Sáu mới hào hùng, cao đẹp làm sao! Cho đến lúc sắp bị kẻ thù giết, chị vẫn sống đẹp, sống hùng, chị vẫn yêu thương người, chị vẫn tha thứ!

    Đây là bài trong sách giáo khoa, không phải bài đăng trên báo.

    Người viết bài ca tụng ấy phạm hai tội, một là ngu, hai là coi thường người khác. Có thể y can cả hai tội. Có ngu tận mạng và coi thường mọi người y mới viết những chuyện như thế. Y còn can tội phản tuyên truyền, bôi bác chế độ xã hội chủ nghĩa, vì y tả người tù Võ Thị Sáu khi bị cai tù Pháp đưa đi bắn ở Côn Đảo được cho đi ung dung, thoải mái, không bị bịt mắt, không bị nhét trái chanh hay cục giẻ vào miệng, không bị còng tay, xích chân, bằng chứng là đang đi chị có thể dừng lại, cúi xuống, ngắt bông hồng dại bên đường, đưa cho người lính Bắc Phi sẽ bắn chị…

    Tình cảnh những người tử tù chính trị Việt Nam bị những người cộng sản Việt Nam đưa đi bắn có thể nói là cực kỳ thê thảm.

    Tôi không ngu đến cái độ nghi ngờ chuyện chị Võ Thị Sáu hái bông hồng trên đường ra bãi bắn Côn Đảo là chuyện không có thật, tất nhiên đó là chuyện bịa, tôi chỉ lấy làm lạ tại sao một bài viết lếu láo, ngu si đến như thế lại có thể được những người cộng sản cho vào sách giáo khoa. Người viết bài có thể ngu si, có thể coi thường mọi người, nhưng còn bao nhiêu người cộng sản khác?

    oOo

    Từ khu tử hình Khám Lớn Chí Hòa, Trí Siêu và Tuệ Sĩ xách giỏ sang khu FG sau khi được bỏ án tử hình. Hai tu sĩ Phật giáo ở tù không có gì hơn anh em Biệt Kích Cầm Bút chúng tôi – không hay hơn cũng không dở hơn – nhưng hai người hơn anh em chúng tôi một chuyện: họ đã vào Khu Tử Hình Khám Chí Hòa.

    Chia tay với Lê Mạnh Thát ở Phòng 10 Khu ED tôi ôm chiếu, xách giỏ sang khu FG trước Thát, nhưng duyên nghiệp giữa Thát và tôi chưa hết.

    Khoảng bốn tháng sau Thát và Tuệ Sĩ từ Khu Tử Hình lại ôm chiếu, xách giỏ sang ở cùng một phòng Khu FG với tôi.

    Đã có án, những người tù đồng vụ không còn bị chia ra ở nhiều phòng nữa, những người Già Lam nay được sống chung một phòng. Ni cô Trí Hải ra tòa lãnh án 4 năm tù, ở tù vừa đủ án kể từ ngày bị bắt, ni cô được về chùa ngay.

    Đoàn tụ với nhau trong một phòng tù chừng một tháng, nhóm Già Lam được đưa đi trại lao động cải tạo. Lần thứ hai tôi chia tay với Lê Mạnh Thát. Thát đi khỏi Nhà Tù Chí Hòa vào một buổi sáng cuối năm 1988. Nằm lại Chí Hòa tôi được tin nhóm Già Lam lên Trại Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai. Cơ may của tôi được đến Z30A là 5/5.

    Ngày 19 Tháng Giêng Ta là ngày giỗ ông thân tôi. Ngày này cũng là ngày tù phòng tôi được nhận đồ nuôi bên ngoài gửi vào, tôi được ăn xôi vò, chè đường, hai thứ mẹ tôi làm rất ngon.

    Hai ngày sau, ngày 18 Tháng Giêng Ta, mùa xuân mới đến trên thành phố thân thương, tôi ôm chiếu, xách giỏ lên xe rời Thánh Địa.

    Bị còng chân ngồi sát cánh với anh em trên sàn xe, nhìn lên qua những song sắt cửa sau xe tôi thấy những ngọn cây, những cột đèn, những đường dây điện, những mái nhà thành phố.

    Con đường xưa tôi đi… Như vậy là trước sau tôi đã ba lần bị còng tay đi trên con đường này – tôi ra tòa hai lần, một lần đi trại cải tạo.

    Xe ra xa lộ. Khoảng 11 giờ trưa xe ngừng. Tôi theo anh em xuống xe trước cổng trại Z30A, khi xe rời quốc lộ ở Ngã Ba Ông Đồn để chạy vào con đường nhỏ, chúng tôi đã biết chúng tôi đến trại Z30A.

    Năm năm trời sống tù túng trong những phòng giam, tôi sung sướng đặt chân lên mặt đất đỏ Xuân Lộc. Mặt đất mới mịn, mới mát làm sao! Việc làm đầu tiên của tôi là vào bãi cỏ bên cổng trại khoan khoái đi một đường tiểu tiện. Thoải mái rồi tôi trở lên ngồi chồm hổm xếp hàng với anh em chờ, văn huê là “cán bộ quản giáo”, nôm na là cai tù, ra lãnh vào trại. Tôi phì phèo điếu thuốc rê thở khói xanh lên những cành bạch đàn, sung sướng cảm nhận làn gió mát ve vuốt trên má, cảm nhận hơi ấm của nắng trưa trên tóc, trên vai áo, tim tôi rưng rưng vì tiếng chim, tiếng lá bạch đàn rì rào, năm năm rồi tôi không được nghe tiếng chim hót, tiếng lá reo…

    Đến Z30A tôi gặp lại gần tất cả những ông bạn tù đã sống cùng phòng với tôi ở Chí Hòa, đã quen biết tôi, trò chuyện, chia ngọt, xẻ bùi với tôi: Mã Thành Công, giáo sư Sử, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài, tù 10 năm, Lê Công Minh, kỹ sư, tù chung thân, Sáu Vui, tổ chức vượt biên, tù 14 năm.

    Cũng tại đây tôi gặp người tù độc đáo Lê Vĩnh Xuân. Xuân từng có thời làm nhân viên Sở Thông Tin Hoa Kỳ, USIS. Xuân bị bắt từ năm 1976, bị nghi là nhân viên CIA được CIA gài lại, bị giam mút chỉ cà tha từ đó mãi đến năm 1992 mới được thả. Trong giấy ra trại, tức lệnh tạm tha của Xuân, ghi cái tội danh hết sức ly kỳ là “Can tội: Thông dịch viên”.

    Và ở Z30A tôi gặp lại tất cả những người trong nhóm Già Lam, tôi lại ở chung một phòng tù với Lê Mạnh Thát. Đến hết năm 1989 tôi đã ở tù cùng một phòng với Lê Mạnh Thát đúng 5 năm liền.

    Tôi đến Z30A ngày 18 Tết, một năm sau hết án, tôi ra khỏi Z30A ngày Mùng 7 Tết. Lúc 9 giờ sáng tôi ra về. Anh em đi làm hết, trại vắng tanh, Lê Mạnh Thát – ở nhà làm công việc dịch sách – tiễn tôi ra đến cổng trại.

    Đây là lần thứ ba tôi chia tay với Lê Mạnh Thát. Chúng tôi đã ba lần hợp, ba lần tan: một ở Phòng 10 ED Nhà Tù Chí Hòa, một ở Phòng 20 Khu FG Chí Hòa, một ở trại lao cải Z30A.

    Hôm nay nhớ lại những ngày tù đày và những người bạn tù ở quê hương, tôi bồi hồi tự hỏi không biết duyên tình giữa tôi và Lê Mạnh Thát đã hết chưa? Không biết cuộc đời có dàn xếp cho hai chúng tôi hợp tan một lần nữa hay không?

    Tôi đã sống gần sát Trí Siêu Lê Mạnh Thát năm năm, tôi đã thấy một số những cái hay, cái dở – những cái văn huê là sở trường, sở đoản – của con người Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Tù và túng. Trong tù người ta thường chỉ thấy những sở đoản của nhau, nhiều lúc tôi cũng coi thường, cũng thấy khó chịu vì Thát.

    Đầu năm 1990 tôi về Sài Gòn, Thát vẫn ở Z30A. Ngay thời đó mỗi lần nhớ Lê Mạnh Thát tôi vẫn định có dịp sẽ nói với Thát:

    – Khi ở gần núi Thái Sơn thấy Thái Sơn cũng thường thôi, cũng không có gì cao lắm. Khi xa Thái Sơn mới thấy Thái Sơn (dù sao cũng vẫn) cao hơn nhiều núi khác.

    Tuêï Sĩ mỗi ngày chỉ ăn một bữa, quá ngọ là không ăn nữa, Trí Siêu ăn chay thật bền và điều độ, bữa nào cũng ăn hết phần cơm tù. Chúng tôi quen lệ ngày được nuôi là bỏ cơm tù, ăn toàn thức ăn người nhà gửi vào, Lê Mạnh Thát trong ngày được nhận đồ nuôi vẫn từ tốn ăn hết bát cơm tù, sau đó mới ăn đôi chút quà cáp gửi vào.

    Có những lúc Thát và tôi ở trần, bận quần sà lỏn, đứng ghếch chân bên song sắt, nói chuyện nho nhỏ với nhau cả giờ. Ngoài phòng giam là một hành lang rộng, ngoài hành lang ấy còn một hàng song sắt nữa, chúng tôi phải nhìn qua hai hàng song sắt mới thấy mảnh trời nhỏ trên cao.

    Một tối mùa mưa chúng tôi đứng đó, trời vừa mưa lớn nhưng lúc ấy đã tạnh và có trăng. Chúng tôi không nhìn thấy mặt trăng nhưng nhìn thấy bóng vừng trăng in trong vũng nước đọng trong hành lang.

    – Này thầy – tôi nói với Thát – Thầy thấy bóng trăng kia chứ? Nó là ảo ảnh nhưng tôi nghĩ tôi có thể cho nó là thật, vì tôi biết có vầng trăng thật trên trời kia, vì có vầng trăng thật trên trời nên mới có bóng vầng trăng trong vũng nước này.

    Trong tù tôi thấy có nhiều anh em đêm đêm ngồi thiền, tất cả những tu sĩ Già Lam ở chung phòng tù với tôi đều không ai ngồi thiền hay tĩnh tọa. Tôi cũng chẳng thấy ai trong họ tụng kinh hay làm những cử chỉ, hành động chứng tỏ họ là sư sãi.

    – Khi ở xa Thái Sơn tôi thấy quả thật Thái Sơn có hơn nhiều núi khác.

    Ý tôi muốn nói là, trong 5 năm trời sống gần – phải nói là quá gần – Trí Siêu Lê Mạnh Thát, có nhiều lúc tôi coi thường Lê Mạnh Thát, khi xa và nhớ lại tôi thấy con người, cuộc sống của Lê Mạnh Thát, ở một tầm cao hơn con người và cuộc sống của nhiều người tôi đã gặp.

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (05)

    “….Gặp những ngày trời đất xuống mầu như thế, người khách xa nhà, cả trăm người như một, đều cảm thấy buồn tê tê trong lòng mà tự nhủ: “Ờ, đúng là mùa thu ở Bắc. Trời này có rượu ngon đem uống thì tuyệt trần đời!”

    “Thế thì cái ngày trời đất xuống mầu ấy ra sao mà người ta lại rầu rầu trong dạ, sầu sầu muốn uống một cái gì? Thôi, ai còn lạ gì cái thời tiết ở miền Nam nước Việt nhõng nhẽo đến chừng nào; buổi tối nóng như điên, nửa đêm xoay ra lạnh lúc nào không biết; chiều sấm chớp ầm ầm, yên trí có mưa thì một lát sau trăng lại sáng trưng; ấy thế mà chính lúc người ta đang yên trí là nóng còn lâu thì mưa trút xuống rào rào làm cho ai cũng ngạc nhiên tự hỏi: “Quái, sao năm nay mưa sớm thế?” Thế rồi khi ai cũng tưởng là mùa mưa bắt đầu thì chọc trời cũng không một hạt nước, trời nóng đến cái mức làm người ta mờ cả mắt, nhức cả đầu; nhưng có một buổi tối kia đi ăn đầu cá với một người yêu xa cách lâu ngày ở cầu Bình Lợi thì tự nhiên trời đổi gió, giăng tơ lên ngọn cỏ. lá cây để đến lúc sắp đứng dậy ra về anh cảm thấy như có môt cái lưới buồn rũ từ trên trời xuống nước, lan tràn ra khắp cả mặt đất chân mây và gói ghém luôn cả anh cùng với tâm óc anh vào đó.

    “Lau lách ở ven hồ kêu lên những tiếng rì rào y như thể những tiếng than nhỏ bé; nước vỗ vào bờ nghe trầm trầm; qua những chùm lá, qua những cành cây, gió rì rào như kể chuyện xa xưa và giục người ta xích lại gần nhau cho ấm cõi lòng hơn một chút….”. (Thương Nhớ Mười Hai – Vũ Bằng)

    Văn của anh Vũ Bằng, trong tác phẩm “Thương Nhớ Mười Hai”, chương viết về Tháng Tám: “Tháng Tám: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiện hạ cộng tri thu“.

    Một buổi sáng tôi đang ngồi viết, bỗng nghe có tiếng gì văng vẳng như tiếng chim tôi từng được nghe từ lâu lắm, từ những năm xa xưa ở tỉnh lỵ Hà Đông hiền hòa, thân thương của tôi; tiếng chim mà từ ngày theo cha mẹ rời khỏi tỉnh Hà Đông, tôi không còn bao giờ được nghe thấy nữa. Tiếng chim gáy: “Curuucu…”

    Tôi ngừng viết ngoảnh nhìn. Trên thành của sổ phòng tôi mở ra Rừng Phong có con chim đậu. Con chim lông mầu nâu nhạt pha sắc xám, nhỏ hơn chim bồ câu. Nó là con chim gáy tôi thấy ở những cánh đồng lúa vàng sắp chín quanh tỉnh Hà Đông năm mươi năm xưa. Mèn ơi…! Ở Hoa Kỳ cũng có chim gáy như ở quê ta ư? Không những chỉ có mà còn giống y boong. Không khác một ly ông cụ. Bánh xe lãng tử sang Mỹ gần năm mùa thu vàng hôm nay tôi mới thấy con chim gáy Mỹ. Thấy tôi nhìn, con chim đủng đỉnh đi đi, lại lại trên thành cửa sổ. Nó gáy lên như để cho riêng tôi nghe: “Curuucu…” Đúng nó là con chim gáy. Tiếng gáy của nó y hệt tiếng những con chim đồng loại gáy trên những bụi tre làng miền Bắc quê tôi khi cánh đồng vàng mầu lúa chín!

    Những năm 1940, 1941, 1942 tôi đã lớn. Mỗi năm vào mùa lúa chín, ông bố tôi thường mang súng bắn chim đi bắn một hai lần ở những cánh đồng quanh thị xã Hà Đông. Ông có khẩu súng hai nòng, calibre 16, mua ở nhà Chaffanjon, Hà Nội. Năm 1945 Việt Minh tịch thu khẩu súng ấy. Tôi đi theo ông bố tôi trong những buổi sáng chủ nhật đi bắn chim gáy ngày xưa. Cứ đến mùa lúa chín là ngoài đồng có chim gáy và tôi thấy mơ màng ẩn hiện hình ảnh chú nhỏ mười, mười một tuổi, xách cái túi đựng chim, đi theo ông bố trong những cánh đồng vàng lúa ngày xưa.

    Tôi nghĩ cứ đến mùa lúa chín mới có chim gáy; chim gáy sống bằng lúa. Ở xứ Mỹ này cả trăm cây số quanh thành phố thủ đô không có cánh đồng lúa nào, chim gáy lấy gì mà sống? Sao chim gáy có thể sống giữa cái thành phố mặt đất đầy xi-măng này? Tôi nẩy ra ý viết về chim gáy, về những sáng chủ nhật tôi theo ông bố tôi đi bắn chim gáy ngày xưa ở Hà Đông. Những ý nghĩ miên man đến trong tôi như như những đợt sóng.

    Tôi bỗng nhớ anh Vũ Bằng. Trong tác phẩm Thương Nhớ Mười Hai tôi đọc năm xưa anh có viết về chim gáy. Tôi đi tìm quyển Thương Nhớ Mười Hai.

    Nơi tôi sống nhờ có ba nhà sách. Ngay lúc này không nhà nào có quyển Thương Nhớ Mười Hai. Mà tôi thì lại cần có sách để xem lại, để viết ngay. Sách được tái bản chùa ở Hoa Kỳ, nhưng chờ order sách từ Cali gửi sang thì đến bao giờ. Tôi cầu cứu bạn tôi là Tạ Quang Khôi, người chúng tôi gọi đùa là Tạ Ống Khói vì nước da của anh. Anh Giáo Khói của chúng tôi có con làm ở Thư Viện, anh có thể nhờ mượn sách. Giáo Khói trả lời: “Có Thương Nhớ Mười Hai ngay!”

    Tôi được quen biết ông nhân sĩ P.Ng. H, một cựu giáo sư học giả ở cùng đồng đất Virginia. Ông H. yêu sách, nhà có thật nhiều sách. Tôi mượn của ông tập Tam Quốc Chí của Tử Vi Lang dễ đã đến hai mùa lá rụng chưa đem trả. Trong khi chờ đợi được anh Giáo Khói cho mượn sách, tôi đem bộ Tam Quốc Chí đến nhà trả ông H. và hỏi ông có quyển Thương Nhớ Mười Hai không? Lập tức, ông cho tôi mượn quyển Thương Nhớ Mười Hai in lại mới toanh.

    Tôi bồi hồi cầm quyển sách. Một chiều xanh năm vàng xưa anh Vũ Bằng hẹn tôi đến nhà in Nguyễn Đình Vượng đường Phạm Ngũ Lão, trước rạp xi-nê Thanh Bình, nơi có tòa soạn các báo Văn, Tuổi Ngọc; anh cho tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai do Nhà Nguyễn Đình Vượng vừa xuất bản. Thời ấy sách báo ta in bằng giấy mầu vàng, sang lắm là giấy Nhật, nhưng cũng là loại giấy rẻ tiền, giấy sốp nên sách có bề dầy. Nay trên tay tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai năm 1999 in giấy trắng tinh, nên dầy chỉ bằng nửa quyển Thương Nhớ Mười Hai năm 1972. Quyển TNMH trên tay tôi do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 1993. Tôi đọc trang cuối: “In 1.000 cuốn, khổ 13x19cm tại Xưởng In CTVHQ 11 (Công ty Văn Hóa Quận 11). Số giấy phép: 126/XBVH. In xong tháng 9 năm 1993”.

    Cộng sản Bắc Việt tái bản “Thương Nhớ Mười Ha”i – và có thể đã tái bản “Vĩnh Biệt Phù Dung” (Cai, tên truyện VBPD trước năm 1945). Họ tái bản những tác phẩm của Vũ Bằng, như họ đã tái bản những “Thơ Say”, “Mây”, “Rừng Phong”, “Ta Đã Làm Chi Đời Ta” của Vũ Hoàng Chương. Họ đã bắt giam Vũ Hoàng Chương, họ đã lên án tất cả những tác phẩm văn học, tiểu thuyết của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa là phản động, đồi trụy; họ đã tịch thu, tiêu hủy những văn phẩm này. Nhưng như Vũ Hoàng Chương đã nói trong thơ anh ngay từ những tháng ngày đen tối, vô vọng nhất cuối năm 1975: “Miệng túi càn… khôn thắt nổi danh“, những người Việt cộng sản miền Bắc không thể chối bỏ được những giá trị văn học, nghệ thuật của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa.

    Tìm trong Thương Nhớ Mười Hai tôi thấy anh Vũ Bằng không viết về chim gáy mà viết về chim ngói: “Tháng Chín, gạo mới chim ngói”. Thời gian trước mắt tôi mới là sắp đến Tháng Tám Trung Thu nên tôi mời bạn trở lại với Tháng Tám ở quê hương ta qua lời diễn tả của tác giả Thương Nhớ Mười Hai:

    “Mùa thu ở Bắc cũng đến với người ta như thế. Bây giờ mỗi khi thấy trời trở gió, không gian bàng bạc một mầu chì; mỗi khi thấy lá rụng ở các công viên như những người đau ngực, bay lào xào trên mặt đất hanh hao, mỗi khi thấy lá tre rụng vèo xuống các ao hồ nằm yên ả trong những lớp bèo rong, bèo tấm, có ai biết rằng tôi nhớ lại những gì không? Cứ đầu tháng tám, trời Bắc Việt buồn se sắt, đẹp não nùng, sáng sáng thức dậy vào lúc còn tối đèn, cầm cái áo ma-ga mẹ lấy từ trong rương ra cho mình, húp bát cháo đậu kho và ăn ba nắm xôi lạc do mẹ mua cho rồi đút hai ba đồng xu, đồng kên sủng soẻng trong túi áo đi qua dẫy Nhà Thờ, thẳng một lèo lên dốc Hàng Kèn, có ai biết rằng tôi đã trông thấy những gì và nghĩ những gì không?

    “Lúc ấy, trời đã sang thu. Lá cây nhội ở hai bên đường đi ra dốc Hàng Kèn vươn những cái thân gầy lên trên trời và mỗi khi có gió thổi thì từng chiếc lá vàng lại rụng xuống, xoay nhiều vòng, rồi đậu trên những cái vai trắng muốt của các pho tượng mỹ nhân cởi truồng trong công viên ở cuối Phố Nhi, gần cái hang đá thờ Đức Mẹ.

    “Cái mà bây giờ tôi còn trông thấy rõ từng ly từng tí là một cậu bé xách cái cặp da nặng trĩu đi học một mình, vừa đi vừa ôn lại một bài văn xuôi có vần…

    “….Lẩm nhẩm ôn lại bài học rồi cậu học trò bé nhỏ ấy nhìn lên bầu trời bàng bạc và nhẩy nhót như một con chim sẻ. Là vì y biết là mùa thu đã bắt đầu, các cây nhội chi chít quả, chim hét về nhiều, chắc chắn y có nhiều hy vọng bắn được nhiều để về nuôi, nếu còn sống, hay rán lên cho mèo ăn, nếu chẳng may chim bị trọng thương mà chết.

    “Tuy nhiên, chỉ có ý tưởng của tôi theo chân được cậu bé ấy mà thôi, vì cậu bé ấy chỉ là cái bóng của chính tôi năm mươi mấy năm về trước. Thương thương cậu bé vô tội ấy biết chừng nào!”

    Anatole France. Bài La Rentreé des Classes?? Lâu quá không được đọc lại bài văn, chỉ còn nhớ đại khái: Anatole France tả ngày tựu trường, cậu học trò nhỏ đi qua vườn Luxembourg mùa thu, thấy những pho tượng đá trắng và “…những cánh lá vàng đi trong những cái cây run rẩy… et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent…”

    Ảnh hưởng cũng chẳng sao. Tôi không được sống nhiều ở Hà Nội nên tôi không được biết nhiều về Hà Nội. Hôm nay tuổi đời Sáu Bó lẻ mấy que, sống nhờ trên đất Mỹ, đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi théc méc về chi tiết: “…mỗi khi có gió thổi thì từng chiếc lá vàng lại rụng xuống, xoay nhiều vòng. rồi đậu ở trên những cái vai trắng muốt của các pho tượng mỹ nhân cởi truồng trong công viên ở cuối Phố Nhi…”

    Ơi… những vị Công Tử Hà Nội tuổi đời năm nay ít nhất phải từ Sáu Bó trở lên. Xin hỏi các vị: “Hà Nội ba mươi sáu phố phường có phố nào tên là Phố Nhi không? Tôi chưa bao giờ nghe nói Hà Nội có Phố Nhi. Cứ theo lời tả thì tôi thấy cái Phố Nhi trong Thương Nhớ Mười Hai ở gần Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Trong trí nhớ của tôi khu này làm gì có công viên nào, lại càng không có những “pho tượng mỹ nhân cởi truồng…” lớn đến cỡ đủ để cho những cánh lá vàng rơi có thể nằm trên bờ vai trắng muốt! Tức là lớn bằng người thật. Đàn anh Vũ Bằng ơi, đàn anh sống khôn, chết thiêng, cho đàn em khều nhẹ đàn anh một tí: Tượng mỹ nhân khỏa thân chứ! Mỹ nhân cởi truồng coi bộ Thị Mịch nằm nghiêng quá đi…

    Noel năm 1983, anh Trần Tam Tiệp ở Paris gửi về cho chúng tôi khoản tiền để tổ chức một tiệc đêm Giáng Sinh anh em vui với nhau. Chúng tôi gặp nhau trong một vi-la trong cư xá Lữ Gia. Hai anh Vũ Bằng, Tam Lang có đến dự. Năm ấy anh Tam Lang đã tám mươi, anh Vũ Bằng khoảng bẩy mươi. Anh Vũ Bằng gầy, người chỉ còn xương với da, anh vẫn đi lại nhanh nhẹn, cười nói vui vẻ. Đó là lần cuối cùng tôi được gập anh. Khi ấy anh Trần Việt Sơn đã qua đời. Anh Sơn bị bắt tù những năm 1976, 1977. Tháng Tư 1984 anh Vũ Bằng từ trần. Mùng 2 tháng Năm 1984 tôi bị bắt. Khi thẩm vấn tôi anh công an nói:

    – Hai ông Trần Việt Sơn, Vũ Bằng chết rồi. Đỡ mệt cho chúng tôi. Không bắt thì không được mà bắt hai ông già ấy thì cũng kỳ…

    Đó là chuyện năm 1984. Năm 1990 những tác phẩm của hai anh Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng lại xuất hiện trên những chỗ trang trọng nhất trong các tiệm sách ở Thành Hồ. Anh Vũ Bằng sống nhiều ở Hà Nội, nên nhớ Hà Nội và quê hương miền Bắc, nhớ những năm tháng hoa niên của anh trên đất Bắc. Anh diễn tả tuyệt vời niềm thương, nỗi nhớ của anh trong Thương Nhớ Mười Hai:

    “…Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thân yêu, nhớ những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan còn thơm mát hơn cả hoa cau, hoa bưởi. Người ta nhớ heo may giếng vàng, nhớ cá mè rau rút, nhớ trăng bạc, chén vàng…

    “…Ăn tô hủ tíu thì nhớ đến phở Bắc “chính cống” ăn vào buổi sáng rét căm căm; trông thấy cua bể nhớ bát canh cua đồng nấu với rau rút và khoai sọ…

    “Ới những người thiên lý tương tư! Nếu bất ngờ những dòng sau đây có lạc vào tay bạn, mà thấy nói lên được mối cảm hoài bạn vẫn chất chứa ở bên lòng, thế là kẻ viết bài này lấy làm mãn nguyện lắm rồi”.

    Ới đàn anh! Đàn anh từ Hà Nội vào Sài Gòn, Sài Gòn vẫn là đất nước chúng ta. Ở Sài Gòn đàn anh vẫn dễ dàng có bát canh cua đồng nấu với khoai sọ, rau rút, đàn anh vẫn còn được thưởng thức những món ăn thuần túy dân tộc, những món ăn chỉ dân tộc ta mới có, như bún ốc, bún riêu, bún thang, tiết canh vịt, cầy tơ. Muốn ăn ốc hấp, chả cá, đàn anh đến những hàng ăn Sơn Hải, Như Ý, Thăng Long. Không ngon bằng ở Hà Nội nhưng cũng đạt năm, bẩy chục phần trăm phẩm chất. Đàn anh chỉ mới thiên lý tương tư thôi. Nếu đàn anh bốn mươi tuổi năm 1975 như chúng tôi, đàn anh sống tàn mạt, mỏi mòn, tuyệt vọng, nhục nhã đến hai mươi mùa lá rụng giữa thành phố Sài Gòn đầy cờ đỏ, sao vàng – trong hai mươi mùa thu vàng võ ấy có bẩy, tám, chín mười niên đàn anh chuyên ở trần, quần sà lỏn, ngồi rù ngâm thơ trong những nhà tù – rồi đàn anh làm chuyến lưu vong qua biển sang phần bên kia – bên này – của trái đất như chúng tôi, đàn anh ở cảnh vạn lý tha hương như chúng tôi, tôi chắc đàn anh sẽ Thương Nhớ Mười Hai tập Hai, tập Ba, tập Bốn… Và lần này đàn anh sẽ thương nhớ Sài Gòn Đẹp lắm, Sài Gòn ơi, văn đàn anh sẽ da diết gấp triệu lần với nỗi nhớ thương miền Nam hai mùa mưa nắng…

    Tôi thương nhớ Sài Gòn, thương nhớ miền Nam thân yêu – ta sống ở đâu ta mến thương nơi ấy. Không thể trách những trẻ em Việt, năm bẩy tuổi theo cha mẹ sang Mỹ đến năm hai mươi tuổi không nói được tiếng Việt, không đọc được chữ Việt; những em này sẽ yêu thương nước Mỹ. Tôi năm hai mươi tuổi vào Sài Gòn, tôi đã sống ở Sài Gòn đến gần năm mươi năm; tôi sống ở miền Nam, tôi biết về miền Nam nhiều hơn tôi sống và biết về miền Bắc. Tự nhiên là tôi yêu thương miền Nam, tôi yêu thương và tôi nhớ Sài Gòn.

    Bây giờ Tháng Tám. Mùa thu sắp về Virginia nơi tôi sống nhờ. Virginia có những cánh đồng trồng thuốc lá bạt ngàn, có mùa thu lá vàng, lá đỏ thật đẹp. Cảnh sắc Virginia thơ mộng và tình tứ đến nỗi người Mỹ cho nó cái danh hiệu “Virginia is for Lovers”. Nhưng tôi mang tâm trạng “cảnh đẹp cảnh của người ta, mình là khách đọi ở và mươi năm…” Cảnh xứ người càng đẹp tôi càng thương nhớ quê hương ta.

    Anh Vũ ơi… Vạn lý tha hương… Tôi thương nhớ Sài Gòn, nơi tôi đã sống những ngày hoa niên đẹp nhất đời tôi, nơi tôi đã gặp Tình Yêu… Nhưng tôi không đủ tài, không đủ lời nói lên niềâ thương nhớ ấy. Tôi muợn văn anh để gây hứng khởi cho tôi, tôi chuyển nỗi nhớ thương Hà Nội, miền Bắc của anh thành nỗi nhớ thương Sài Gòn, miền Nam của tôi.

    Tên chương truyện của anh: “Tháng Tám, Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu” gợi tôi nhớ lại Tết Trung Thu thứ nhất bọn Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn. Đêm Trung Thu ấy ở Sài Gòn trời mưa tầm tã từ chiều, Sài Gòn không có trăng Rằm Tháng Tám. Tôi và thằng con lớn của tôi từ Sài Gòn về Ngã Ba Ông Tạ trên xe buýt – khi ấy bọn xâm lăng chưa đổi tiền, Sài Gòn vẫn còn xe buýt – bố con tôi vào tiệm phở của Văn Chi ở ngay đầu Ngã Ba Ông Tạ.

    Ký giả Văn Chi từng Tác-dzăng nổi giận đấm hộc máu mồm, sồm máu mũi anh giáo viên người Pháp, sang dậy học ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp; anh cà chớn này loạng quạng làm cái việc ruồi bâu kiến đậu là mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến treo ở công trường Lam Sơn, trước cửa Nhà Quốc Hội ta. Vụ này xẩy ra khoảng năm 1970, khi ấy Văn Chi đang là nhân viên Bộ Thông Tin, văn phòng ở ngay tòa nhà bên cạnh công trường Lam Sơn. Nghe có chuyện lộn xộn Văn Chi chạy qua công trường, thấy anh kiều dân Pháp cà cháo treo cờ MTGP, Văn Chi nóng mắt đấm liền cho anh mấy đấm.

    Nhà Văn Chi ở khu nhà thờ Chí Hòa. Tháng Năm 1975 anh mở tiệm phở ở ngay Ngã Ba Ông Tạ. Phở anh nấu rất được. Khoảng tám giờ đêm Trung Thu năm ấy, trời mưa rả rích, tiệm không có khách. Văn Chi ngồi với bố con tôi, anh lách cách gõ cái muỗng lên cái bát, hát: “Đêm nay trăng sáng quá, em ơi…” Anh ghé tai tôi, nói nhỏ: “Có đường, có nẻo thì dzu lu đi. Nó cho đi tù hết đấy”. Noel năm ấy Văn Chi bị bắt. Anh là một trong số những ký giả VNCH bị Việt Cộng bắt sớm nhất. Năm 1982 Văn Chi mới từ nhà tù trở về Ngã Ba Ông Tạ. Anh lại mở quán phở. Năm 1986 anh bị đau. liệt, rồi qua đời.

    Mùa thu năm 1975 – bốn năm tháng sau ngày nón cối, giép râu kéo nhau vào Sài Gòn – một chiều u ám tôi đạp xe đi lang thang trong lòng thành phố buồn. Nhìn những chiếc lá vàng rơi trên đường, tôi đau đớn thấy thế giới đã bỏ quên quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, đã quên những người dân quốc gia VNCH. Tôi cay đắng và sầu muộn nghĩ: “Mùa thu đến. Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu… Chỉ một lá ngô đồng rơi thôi mọi người biết là mùa thu đến. Ở đây hai mươi triệu chiếc lá ngô đồng rơi, hai mươi triệu người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi đang đau khổ, tại sao thiên hạ không ai biết?”

    Bây giờ Tháng Tám rồi hỡi Em… Mùa thu về trên xứ người, tôi trang trọng gửi Thương Nhớ Mười Hai của anh Vũ Bằng đến những người Việt sống đời vạn lý tha hương ở góc trời này!

    Quyển Thương Nhớ Mười Hai tôi mượn được do nhà xuất bản Văn Học tái bản năm 1993. Tôi đọc lại Thương Nhớ Mười Hai và thấy có một vài chuyện tôi cần viết ra, cần có ý kiến. Trong cái gọi là Lời Nói Đầu, người tự nhận là “Giáo sư” Hoàng Như Mai viết:

    “Thương Nhớ Mười Hai mời bạn đọc thưởng thức những thứ gọi là “thời trân”.

    “Trong truyện Kiều, lần đầu tiên Kim Trọng được đón tiếp Thúy Kiều ở nhà mình: Thời trân thức thức sẵn bày. Bởi vì cuộc đón tiếp này đối với chàng Kim là một hạnh phúc vô song, cho nên chàng tiếp đãi Thúy Kiều một cách quý trọng và thanh lịch. “Thời trân” là những vật sản quý đương mùa (thời là mùa, trân là quý)”.

    Người tự nhận là “giáo sư” cho rằng những món cam, quýt v.v… là do Kim công tử bày ra để chờ Vương tiểu thư chui rào sang thưởng thức. Đây là lời nói về “thời trân” trong Truyện Thơ Kiều:

    “Nhà lan thanh vắng một mình
    Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay
    Thời trân thức thức sẵn bày
    Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường
    Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng
    Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông…”

    Hai ông Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim chú thích “thời trân”:

    “Thì trân là hoa quả hay vật quí đang mùa bấy giờ. Cứ theo trong bản tiểu thuyết của Tàu là Kiều làm đồ uống rượu để đem sang bên Kim Trọng, vì tục bên Tàu cuộc vui phải có ăn uống. Bởi vậy khi gặp Kim Trọng và tìm được lối đi sang, Kiều chạy trở về bưng đồ rượu sang nhà Kim Trọng. Nhưng chỗ này tác giả chỉ nói có một câu, rồi sau không nhắc lại nữa, cho nên thành ra tối nghĩa, đọc không hiểu là Kiều bày những đồ thì trân ra làm gì”.

    Đây là đoạn viết về “thời trân” trong truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử:

    “…Gặp ngày bên nhạc gia có tiệc mừng thọ, Vương ông sắm sanh lễ vật, đem vợ con sang. Thúy Kiều giả vờ bị ốm, ở lại trông nhà, đợi khi cha mẹ cùng hai em đi khỏi, nàng bèn hối hả sửa mấy món nhắm và hồ rượu ngon, xăm xăm ra lối vườn sau, định tìm Kim Trọng để tạ lại câu chuyện cành thoa hôm trước…”

    Dễ hiểu thôi. Cái gọi là “thời trân” ấy là những món ăn do Thúy Kiều soạn để đem sang nhà Kim Trọng. Không hiểu tại sao người viết lời giới thiệu Thương Nhớ Mười Hai ấn bản 1993 lại nghĩ rằng đó là “những món Kim Trọng bày ra để chờ khoản đãi Thúy Kiều”. Lầm lộn cũng nhỏ thôi, nhưng bất cứ ai cũng có thể lầm, người tự xưng là “giáo sư” và lẩy Kiều trong lời giới thiệu tác phẩm văn chương thì không thể lầm được. Những đêm u buồn, tăm tối những năm 1981, 1982 tôi sống mòn mỏi giữa lòng thành phố thủ đô ta đầy cờ đỏ, một đêm đọc một bài viết về Kiều của Xuân Diệu, tôi ngạc nhiên khi thấy Xuân Diệu phê bình, phê lọ loạn cào cào đoạn Từ Hải mới gập Kiều. Cũng như tất cả những anh Bắc Việt Cộng sản và những anh nâng bi Cộng sản, Xuân Diệu ca tụng nhân vật Từ Hải một cách quá đáng đến lố bịch. Truyện Thơ Kiều tả đoạn này như sau:

    “Nàng rằng: Người dậy quá lời
    Thân này còn dám coi ai làm thường.
    Tấc riêng chọn đá, thử vàng
    Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu.
    Còn như vào trước, ra sau
    Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?
    Từ rằng: Lời nói hữu tình
    Khiến người lại nhớ câu Bình nguyên quân
    Lại đây xem lại cho gần
    Phỏng tin được một vài phần hay không?”

    Không cần phải là sinh viên Văn Khoa, bất cứ người đọc thường dân nào của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa khi đọc đoạn thơ trên cũng hiểu là Từ Hải bảo Kiều: “Em lại gần đây nhìn kỹ anh đi, xem anh có phải là người em có thể tin được hay không?” Xuân Diệu, sau khi ca tụng Từ Hải hào hùng, ngang tàng loạn châu chấu, viết: “Họ Từ nắm cổ Thúy Kiều, kéo lại, nhìn sát vào mặt nàng mà nói: Nàng nói hay lắm. Để ta nhìn nàng xem ta có thể tin nàng được không?”

    Nhưng mấy chuyện lặt vặt đó không phải là những chuyện làm tôi suy nghĩ và thắc mắc khi đọc lại Thương Nhớ Mười Hai. Ở trang 179, ấn bản 1993, tôi đọc thấy:

    “Tháng Một, thương về những ngày nhể bọng con rận rồng. Tưởng là hết chuyện truyền kỳ, quả là lầm. Sang tháng một, lại có truyền kỳ về con cà cuống.

    “Có ai ở Bắc Việt vào đây cho tôi hỏi thăm tháng một mấy năm nay ở Bắc Việt, trời có rét lắm không, mưa vẫn riêu riêu buồn như trước, hay thời tiết vì ảnh hưởng bom đạn của Mỹ đã khác xưa? Nghe thấy nước Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn bom nặng tới bảy trăm tấn có sức phá hoại ngang bom nguyên tử, mình ở đây thấy rợn cả tóc gáy lên, ấy thế mà không hiểu làm sao cứ nghe thấy người ta nói là Bắc Việt vẫn đánh và đánh dữ hơn cả lúc mới phát động chiến tranh là khác!

    “Thế thì là cái thớ gì? Ở đây, người ta cũng ném bom tiêu diệt quá khích, ai cũng bảo là thời tiết không như trước, mưa không đúng cữ mà nắng cũng ra ngoại lệ, thành ra mình cũng tưởng thời tiết Bắc Việt đổi thay, do đó lắm đêm nằm tưởng tượng, mình cứ ngỡ Bắc Việt là không còn mưa rét mà có khi lại nóng nứt đá tan vàng cũng nên, nghĩ như thế, thấy buồn; nhưng nằm nghĩ thêm một lúc mình lại cười muốn khóc. Bom đã không làm nhục được người thì sao mà lại ảnh hưởng được đến trời?”

    Đoạn văn trên làm tôi nghĩ: “Kỳ nhỉ? Những năm 1969, 70 ở Sài Gòn, ông Vũ Bằng ca tụng Cộng Sản Bắc Việt đánh Mỹ giỏi ư? Năm 1972, 73 mình đã đọc đoạn văn này, sao mình không thấy gì lạ? Có thể nào mấy anh Việt Cộng mạo tác đoạn văn này không? Mình đang đọc Thương Nhớ Mười Hai do Bắc Việt Cộng in lại năm 1993, nguyên bản Thương Nhớ Mười Hai do nhà Nguyễn Đình Vượng xuất bản năm 1972 có đoạn này không?”

    Tôi không bị théc méc lâu. Tạ Quang Khôi, bạn tôi, tìm được ngay cho tôi quyển Thương Nhớ Mười Hai do Nhà Nguyễn Đình Vượng xuất bản. Tôi so hai bản với nhau: Việt Cộng không mạo tác, không thêm thắt. Quả thật Vũ Bằng viết như thế. Chỉ khác có hai chi tiết:
    TNMH 1972: Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom…
    TNMH 1993: Nghe thấy nước Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom…
    TNMH 1972: Bom không làm nhụt được người…
    TNMH 1993: Bom không làm nhục được người…

    Ở trang cuối cùng, tác giả Thương Nhớ Mười Hai viết: “Bắt đầu viết tháng Giêng 1960. Tiếp tục năm 1965. Viết hết năm 1970-1971”. Kể cũng lạ. Người viết Vũ Bằng đã sống những ngày kinh hoàng Tết Mậu Thân, đã sợ quíu đít khi chỉ mới nghe nói bộ đội Bắc Việt Cộng kéo vào Chợ Lớn, Bà Quẹo, Thị Nghè, Hạnh Thông Tây, đã thấy nhân dân Huế bị tàn sát dã man, ghê rợn đến chừng nào, đã qua những đêm hồi hộp khi ViXi pháo kích bừa bãi vào thủ đô ta. Nhưng những chuyện đó không ảnh hưởng chút síu nào đến việc ông diễn tả tâm tình thương nhớ đất Bắc và Hà Nội của ông. Nếu năm Mậu Thân những người Bắc Việt Cộng làm chủ được Sài Gòn, chuyện xẩy ra chắc hơn bắp rang, hơn cua gạch là tùy bút Thương Nhớ Mười Hai không bao giờ được in ra. Rất có thể ông Vũ Bằng đã len lén đem bản thảo Thương Nhớ Mười Hai vào bếp châm lửa hỏa thiêu: “Giữ làm gì cái của nợ này. Nó bắt được thì bỏ mẹ!”

    Tôi thấm đau khi thấy ông văn nghệ sĩ đàn anh của tôi viết: “Ở đây, người ta cũng ném bom tiêu diệt quá khích”. “Quá khích” chứ không phải “Việt Cộng”. Và “người ta” đây là ai? Không thể hiểu tác giả dùng tiếng “người ta” chỉ là để ám chỉ người Mỹ. Với câu “Ở đây, người ta cũng ném bom”, ông Vũ Bằng đã tự đưa ông đứng ra ngoài cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa.

    Đau thật là đau. Bao nhiêu người chết để cho ông Vũ Bằng được sống an lành và phây phây viết Thương Nhớ Mười Hai, và để ông viết trên giấy trắng, mực đen những lời ngụ ý: “Các anh giết nhau. Không có tôi trong cuộc chém giết ấy”. Giờ đây, sau cuộc biển dâu, khi ở số tuổi đời gần Bẩy Bó, trong cảnh “Liêu lạc bi tiền sự. Chi li tiếu thử thân”, đọc lại những trang sách xưa, tôi bùi ngùi thấy thái độ ngoài cuộc của anh Vũ Bằng, ông đàn anh văn nghệ của tôi, cũng là thái độ của nhiều nhà biên khảo ngày xưa ở Sài Gòn.

    Như anh Vũ Bằng chẳng hạn. Vào Sài Gòn từ 1954, cho đến Tháng Tư 1975 anh viết những gì? Quyển Thương Nhớ Mười Hai Nguyễn Đình Vượng xuất bản ghi: “CÙNG MỘT TÁC GIẢ, CÙNG NHÀ XUẤT BẢN – Đã in: Mê Chữ, Món Lạ Miền Nam, Cái Đèn Lồng, Nói Có Sách, Bát Cơm. Sẽ in: Con-Dấu-Hóa, Đẹp Mùa Huyền Thoại”.

    Các ông Vũ Bằng, Nguyễn Hiến Lê, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Lãng Nhân v.v… chỉ làm văn hóa, văn nghệ. Trong bao năm trời, trước cuộc chiến đấu gian khổ, đầy máu và nước mắt của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, không ông nào trong số các ông trên đây nói lên một lời, viết ra một trang chống Cộng.

    Không có gì lạ khi Việt Cộng vào Sài Gòn, họ bắt các ông Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Vũ Hoàng Chương đi tù mút chỉ, họ để yên không lý gì đến những ông “làm văn học, văn nghệ thuần túy” có tên trên đây.

    Thương Nhớ Mười Hai ấn bản 1993, trang 107:

    “…Quả là khi viết tới đây tôi cũng không hiểu tại sao lại nhớ đến một chương trong thiên phóng sự “Về Bắc Việt” của Madeleine Riffaud “viết dưới bom”; ờ, Mỹ bắt đầu oanh tạc Bắc Việt hồi 1966 chính là vào cữ mưa rằm tháng bẩy, vong nhân xá tội đây! Chúng tôi đọc thấy rằng, từ một vài tháng nay, các phi vụ ở Bắc tăng gấp ba, số bom ném cao lên vòn vọt, còn nhiều gấp tư số bom ném trung bình hàng tháng ở Cao Ly. Người Việt Nam có bị tiêu diệt không? Mà họ làm thế nào chịu đựng được?”

    “Chẳng cần phải nghĩ vẩn vơ, ai mà lại không biết số người chết hẳn phải nhiều. Đem cộng con số này với bao nhiêu người Việt Nam đã chết vì bom của “đồng minh” đến “giải phóng” chúng ta khỏi ách của “Phát-xít” Nhật, bao nhiêu người chết vì “chống cộng”, bao nhiêu người chết vì bom Mỹ, súng Mỹ ở ngay tại miền Nam, bao nhiêu người chết đói năm 1945, bao nhiêu người chết vì bệnh tật, súng đạn của Pháp đến “cứu” ta ra khỏi “nanh vuốt” của Cộng sản, rồi lại bao nhiêu người bị đột kích, pháo kích, xung kích, oanh kích, công kích, xạ kích, phục kích…”

    Đến đây thấy có sự gian xảo trong việc sửa văn bản: Vũ Bằng viết trong Thương Nhớ Mười Hai ấn bản Nguyễn Đình Vượng 1972: “bao nhiêu người chết vì Cộng sản và vì chống Cộng”, trong Thương Nhớ Mười Hai 1993 không có bốn chữ “chết vì Cộng sản”.

    Tôi thấy đàn anh Vũ Bằng của tôi không được công bằng trong đoạn văn trên. Không phải tự nhiên người Mỹ đưa đại bác, bom đạn và xương máu thanh niên Mỹ đến đổ trên đất nước chúng ta. Có gì đáng để chúng ta oán trách, mỉa mai, dè bỉu việc phi cơ đồng minh, tức Anh Mỹ, đến ném bom đất nước ta khi nước ta bị Nhật Bản xâm chiếm? Có một số người Việt chết vì những trái bom đồng minh ấy, nhưng nếu không có những trái bom đồng minh ấy thì quân phiệt Nhật cứ làm chủ đất nước ta và đến bây giờ đất nước ta, dân tộc ta đã ra sao?

    Tác giả Thương Nhớ Mười Hai có phóng đại khi viết: “Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn những bom nặng tới bẩy trăm tấn, có sức phá hoại ngang bom nguyên tử”. Đàn anh Vũ Bằng của tôi đã “về quê” khoảng cuối năm 1983, đầu năm 1984. Nếu ông còn sống, tôi sẽ gửi ông bài viết này và nói nhỏ với ông: “Vừa thôi, ông ơi. Làm gì có thứ bom nào không phải là bom nguyên tử mà có sức phá hoại như bom nguyên tử. Nếu Mỹ nó ném loại bom nặng như ông tả thì làm gì có ngày ông ngao ngán và ông ngớ ngẩn thấy bọn nón cối, giép râu ngơ ngáo kéo vào Sài Gòn! Mà ông có lú lẫn không ông? Ông đào ở đâu ra quả bom nặng bẩy trăm tấn? Ông có nhớ bẩy trăm tấn là mấy chục ngàn ký lô không?”

    Thương nhớ đất Bắc và Hà Nội ra rít đến như được diễn tả “cực kỳ” trong Thương Nhớ Mười Hai – cái gì của Bắc Việt, của Hà Nội, với ông Vũ Bằng, cũng hay, cũng đẹp, cũng đáng yêu, cũng Năm-bơ Uân, cũng nhất thế giới – nhưng sau ngày khốn nạn 30 Tháng Tư tuy có thể về miền Bắc dễ dàng ông Vũ Bằng đã không về.

    Ông đã, cứ và vẫn ở rịt trong thành phố Sài Gòn. Ông sài lắc khi nghe ai nói đến chuyện về thăm quê hương miền Bắc. Ông không về, dù chỉ là về thăm lại những nơi ông từng sống sung sướng ngày xưa, những cảnh ông thương nhớ, và ông chết ở Khánh Hội, Sài Gòn. Cũng đúng thôi, cũng phải thôi. Cái miền Bắc, cái Hà Nội mà ông thương nhớ ấy là miền Bắc, là Hà Nội trước năm 1954. Hà Nội được tả thật đẹp, được nhớ thương da diết trong Thương Nhớ Mười Hai của ông Vũ Bằng nay không còn nữa.

    Đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi không thấy lạ về chuyện những người làm văn hóa Việt Cộng cho tái bản Thương Nhớ Mười Hai và viết những lời ca tụng tác giả Vũ Bằng.

    Ông có chống họ đâu mà họ không cho tác phẩm của ông sống lại. Tác phẩm của ông có lợi cho họ. Họ bốc ông: “Nhà văn Vũ Bằng thuộc một dòng họ túc nho ở đất Lương Ngọc, Hải Dương (cũ), sau 1954 vào Nam, viết cuốn sách này giữa lúc đất nước hai miền bị chia cắt. Dù phải thích nghi với hoàn cảnh chính trị như thế nào đấy, cuốn sách này vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một người con miền Bắc nhớ da diết quê hương ở bên kia “giới tuyến”. Chính tấm lòng ấy đã cùng với ngọn bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng dòng, từng trang”.

    Sau ngày nón cối, giép râu vào Sài Gòn, không khác gì tuyệt đại đa số người dân – hằm ba lằng sáng cấu đàn ông, đàn bà, già trẻ, tức là từ em nhỏ lên ba đến cụ già chín bó – đàn anh Vũ Bằng của tôi chán ghét Bắc Việt Cộng đến xương tủy.

    Khi còn hỏi anh được, tôi đã không hỏi, vì đó là chuyện riêng tư của anh: tại sao năm 1954 anh lại để chị Quỳ, người vợ tấm mẳn mà anh yêu thương, ở lại miền Bắc? Trong Thương Nhớ Mười Hai, anh viết về chị những lời thương nhớ:

    “Em yêu ơi, sống là tin tưởng và chờ đợi, nhưng biết rằng mái tóc người ta có còn xanh mãi được chăng?
    “Đã lâu lắm, chúng mình không được tin tức gì của nhau, Quỳ nhỉ. Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta, thôi đành lấy câu vận mệnh để khuây dần nhớ thương vậy.

    “Nhưng thương nhớ kỳ lạ lắm. Có những đêm không ngủ, nằm nghe mưa rơi, tôi cố nhớ lại nét mặt của người thương, mà không hiểu tại sao con mắt, miệng cười và mớ tóc xõa trên hai bờ vai tròn trĩnh lại lu mờ như thể chìm đắm trong khói sóng. Mà trái lại có những kỷ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường, lại hiện ra rõ rệt, không suy suyển một ly trong trí nhớ của người nặng nợ lưu ly, nằm buồn trong gác nhỏ ngâm câu thơ nhớ vợ:

    “Ủ ê nét liễu sầu tuôn gió
    Thổn thức tình tơ lệ ướt bào
    Hoa tủi còn đâu duyên tác hợp
    Mây bay rồi nữa giấc chiêm bao”.

    Ba mươi năm trôi qua kể từ ngày tôi đọc Thương Nhớ Mười Hai lần thứ nhất. Hôm nay sống buồn ở một góc trời xứ người – xứ người thật là xứ người – xa vời vợi, cách xa quê hương nưả vòng trái đất, đọc lại Thương Nhớ Mười Hai, tôi thương anh Vũ Bằng.

    Anh nhắm mắt, lìa đời những năm 1983, 1984, những năm Đảng Cộng sản Việt Nam đang hung hăng con bọ xít, Liên Xô chưa tan rã, chủ nghĩa Cộng sản chưa bị triệt tiêu, đảng viên cộng sản còn nắm quyền hành trong nhiều nước.

    Anh ra khỏi cõi đời này mà không được biết rằng chỉ vài năm sau Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa cộng sản thất bại, bọn đảng viên cộng sản bị nhân dân chính các nước chúng bợp tai, đá đít, đuổi đi…

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (06)


    Thanh Nam Trần Đại Việt, viết tiểu thuyết, làm thơ từ năm 1950 ở Hà Nội, cùng thời với Nguyễn Minh Lang, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Công Khanh, những người viết trẻ nổi lên sau 1945. Năm 1952, Thanh Nam vào Sài Gòn làm việc ở Đài Phát Thanh Quân đội. Những năm 1952, 1953 Thanh Nam làm thư ký tòa soạn Tuần báo Thẩm Mỹ – thời ấy Sài Gòn có hai tuần báo Đời Mới, Thẩm Mỹ.


    Năm 1975, Thanh Nam là nhân viên Đài Phát Thanh Mẹ Việt Nam, đài này là một đài do người Mỹ dựng lên và quản lý. Nhân viên Đài Mẹ Việt Nam được người Mỹ đưa ra đảo Phú Quốc trước ngày 30 Tháng Tư 1975. Nhờ thế Thanh Nam và vợ con đi thoát. Sang Hoa Kỳ thời gian đầu, Thanh Nam sống ở miền đông (nghe nói ở New Jersey) rồi sang định cư ở thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Ở Seattle, Thanh Nam viết cho Tạp chí Đất Mới cùng với Mai Thảo, Huy Quang Vũ Đức Vinh. Anh bị ung thư thanh quản và tạ thế ở Seattle năm 1986.

    Năm 1970 ở Sài Gòn, Thanh Nam bốn mươi tuổi. Anh làm “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi“. Năm 1977 ở thành phố Seattle, Hoa Kỳ, Thanh Nam làm bài “Thơ Xuân Đất Khách” cũng hay thiệt là hay. Khen thơ mà cứ tấm tắc “Hay thiệt là hay. Hay ơi là hay. Hay quá là hay”, người đọc chẳng thấy hay ở chỗ nào cả. Chi bằng mời bạn thưởng thức ngay bài thơ hay: Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi.

    Én nhạn về nam, xuân rồi đây
    Chợt thèm ly rượu, chút mưa bay
    Gọi về trong đáy hồn lưu lạc
    Những bước chân xưa nhạt dấu giầy
    Bạn cũ hay nương theo rét lạnh
    Về đây cùng nhập một cơn say.
    Uống ly thứ nhất mừng tao ngộâ
    Cho tiếng cười lên vỡ tháng ngày.
    Vào cuộc hành hương tìm gập lại
    Cõi trời xanh ngắt tuổi thơ ngây
    Trong veo cặp mắt chưa vương bụi
    Chăn chiếu còn thơm ngát mộng trai
    Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
    Bụi hồng chưa khiến toc xanh phai
    Đồng tiền mừng tuổi ngày Nguyên Đán
    Canh bạc đời chưa lột trắng tay.
    Dăm bẩy lòng sông ôm biển cả
    Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
    Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
    Thân thế chưa đau cát bụi này
    Gió nổi mười phương trời buổi đó
    Với ngày như tháng, lá như mây.
    Lầu sương từng buổi đùa nhan sắc
    Giấc ngủ thềm khuya rộn tiếng hài.
    Chiều xuống đã nghe lòng rộn rã
    Gió lên hồn ngỏ phố vui mời
    Ca trường, hý viện, xuân như hạ
    Đời thả trôi vào nhịp phách lơi
    Lãng đãng khói sương trời tưởng nhớ
    Ly này xin cạn hết chua cay
    Mười lăm năm đó từ phiêu bạt
    Đứa vợ con yên, đứa lạc loài
    Viết mướn đã bao thằng mệt mỏi
    Sang giàu đếm được những ai đây?
    Lưới đời chân đã bùn nhơ vướng
    Mắt vẫn trời cao rướn cánh tya
    Cuộc chiến nay chừa dăm bẩy mạng
    Thôi thì rượu đó uống cho say
    Rót thêm ly nữa chào năm cũ
    Tuổi bốn mươi rồi, thương lắm thay.
    Lận đận lý nào theo trọn kiếp
    Tối tăm không lẽ mãi đêm dài?
    Niềm thê nhi đó giờ an phận
    Nợ áo cơm này nặng trĩu vai
    Năm tháng sức trai mòn mỏi mãi
    Nụ xuân đời đã lánh tầm tay
    Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ
    Vai kép hề kia vẫn riễu hoài
    Nhìn lại trời xuân vừa khép kín
    Thơ hồng, tuổi ngọc tiếc thương ai.
    Nghiêng chai thêm một ly này nữa
    Trên vách sầu ta đối bóng gầy
    Chợt tiếng con thơ cười lảnh lót
    Nhìn con, lòng bỗng thấy xuân đầy
    Lại đây con nhỏ, con yêu dấu
    Bố uống cho con ly rượu này
    Ly rượu mừng con tròn mộng đẹp
    Niềm vui hoa nở tháng năm dài
    Ngủ đi, con hỡi, mai khôn lớn
    Đời sẽ bình yên không lửa gai
    Trong vắt hồn con nguyên khối ngọc
    Lượng xuân đời chẳng khép vòng tay
    Nhìn con giây phút lòng tan biến
    Những chuyện ân thù, những đắng cay
    Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ
    Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai
    Trắng tay nhìn lại còn con đó
    Hy vọng đời cha mẹ kiếp này
    Tăm tối căn phần cha đã chịu
    Cánh hồng con hẳn sẽ xa bay!
    Ngủ đi con, ngủ đi yên giấc
    Cha ru con bằng hơi rượu say
    Cha ru con bằng lời thống khổ
    Trong nhục nhằn mê sảng đêm nay.
    Chếnh choáng lòng khuya men đã ngấm
    Nghe ngoài đêm tối tiếng mưa rơi
    Vọng lời sao xác hồn năm tháng
    Chuyển nhịp mùa xanh lại đất trời
    Bắt chước cổ nhân nâng chén rượu
    Mừng xuân thay áo mới cho đời.
    Mười năm thêm một bài thơ nữa
    Viết tặng riêng mình tuổi bốn mươi…
    (Sài Gòn 1970)


    Thanh Nam làm những lời thơ Đón Tuổi Bốn Mươi ở Sài Gòn khi anh bốn mươi tuổi. Anh hẹn mười năm – năm 1980 – anh sẽ làm bài thơ nữa khi anh tròn năm mươi tuổi, anh không làm được việc đó. Ngày 30 Tháng Tư 1975 sầm sập đến…

    Năm 1970 đọc Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi, tôi thấy hay, thấy não nùng nhưng tôi không xúc động bao nhiêu.Phải đến những năm sau 1975, và đến những năm này, những năm 1999, 2000… hai mươi mùa thu lá bay sau, tôi thấy lời thơ thật hay và càng ngày càng hay. Những lời thơ tuyệt đẹp:

    “…Gió nổi mười phương trời buổi đó
    Với ngày như lá, tháng như mây…
    Lãng đãng khói sương trời tưởng nhớ
    Thơ hồng, tuổi ngọc tiếc thương ai?”

    Kể từ ngày oan nghiệt ấy có biết bao nhiêu văn nghệ sĩ đã vĩnh viễn ra đi? Chết thì tất cả mọi người đều phải chết thôi, nhưng từ Ngày 30 Tháng Tư 1975 đến nay các văn nghệ sĩ đàn anh tôi, các văn nghệ sĩ bạn tôi, đã bao nhiêu nngười phải chết trong tủi nhục?

    Đa số bị tù đầy: anh Chu Tử Chu Văn Bình đi tiên phong trong ngày 30 Tháng Tư – anh chết vì đạn thù bắn theo trên con tầu đưa anh ra biển – tiếp đến là anh Vũ Hoàng Chương, rồi Hoàng Vĩnh Lộc, Trọng Nguyên, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn, Trần Việt Hoài, Vũ Bằng, Tam Lang, Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Trúc Ly, Huy Cường…

    Ba anh Nguyễn Mạnh Côn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường chết trong tù.

    Ba anh đều chết thảm nhưng anh Nguyễn Mạnh Côn chết thảm nhất. Ở tù được ba năm, khi ở Trại Lao Động Cải Tạo Xuyên Mộc, anh Côn tuyệt thực đòi Việt Cộng phải thả anh. Bắt chước cách đàn áp tù nhân dã man đến cùng cực của bọn Nga Cộng và Tầu Cộng, Cai ngục Xuyên Mộc giam riêng người tù tuyệt thực Nguyễn Mạnh Côn. Không cho anh uống nước, cai ngục Xuyên Mộc lạnh lùng bắt anh chết vì khát.

    Họ công bố cho các tù nhân biết khi người tù không ăn, họ không cho người tù uống nước, cho người tù chết luôn. Họ giết anh Nguyễn Mạnh Côn để những tù nhân khác không còn ai dám tuyệt thực. Và người tù văn nhân chính trị Nguyễn Mạnh Côn đã chết thê thảm ở Nhà tù Xuyên Mộc, xác anh nằm lại nơi bìa rừng hiu quạnh ấy.

    Không bao giờ tôi quên được hình dáng anh trong buổi sáng chủ nhật ở lối đi trong Nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu, khi anh được ra ngồi phơi nắng chừng hai mươi phút. Sáng ấy – một buổi sáng giữa năm 1977 – anh gầy ốm, tóc bạc, râu ria, trong bộ đồ ngủ nâu đã cũ nát. Tôi bồi hồi nhìn anh qua cửa gió xà-lim, nghe tiếng anh ngâm câu thơ Hồ Trường:

    “Chí ta ta biết, lòng ta ta hay…”

    Trước 1975 nhiều người trong anh em chúng tôi – trong số có tôi – bất mãn với cuộc đời, kêu khổ rầm trời, giận trời, trách đất, oán người vung xích chó.

    Vì vậy tôi không lạ, tôi hiểu tại sao trong bài thơ đón tuổi bốn mươi năm 1970 ở Sài Gòn của Thanh Nam lại có câu: “Bố ru con bằng lời thống khổ – Trong nhục nhằn mê sảng đêm nay…” Tội thay.

    Thời ấy chúng tôi thực sự chưa biết khổ nhục là gì.

    Kim Thánh Thán viết trong bài phê bình Tây Sương Ký: “Năm xưa nghèo không có đất cắm dùi chưa phải là nghèo. Năm nay nghèo mới thật là nghèo, nghèo đến cái dùi cũng không có mà mang đi cắm”.

    Phải đến sau 1975 chúng tôi, ở quê nhà, ở nước ngoài, mới biết thế nào là khổ nhục, chúng tôi mới thực là khổ nhục, trước 1975 chúng tôi chỉ kêu là chúng tôi khổ nhục thôi, chúng tôi chưa thực sự khổ nhục.

    Thanh Nam đi xa quê hương từ hải đảo Phú Quốc trong một đêm mờ sương. Hai mùa lá rụng sau đó, mùa xuân năm 1977, ở Seattle, thành phố mưa quanh năm, Thanh Nam làm bài Thơ Xuân Đất Khách:

    Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
    Mới hay năm tháng đã thay mùa
    Ra đi từ thưở làm ly khách
    Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
    Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
    Hành trình trơ một gánh ưu tư.
    Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
    Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
    Thức ngủ một mình trong tủi nhục
    Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
    Giống như người lính vừa thua trận
    Nằm giữa sa trường nát gió mưa
    Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
    Làm thân cây cỏ gục ven bờ
    Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
    Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
    Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
    Những ai còn mất giữa sa mù
    Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
    Không một tin nhà, một cánh thư
    Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
    Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
    Một năm người có mười hai tháng
    Ta trọn năm dài Một Tháng Tư!
    Chấp nhận hai đời trong một kiếp
    Đành cho dông bão phũ phàng đưa
    Đầu thai lần nữa trên trần thế
    Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
    Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
    Học làm con trẻ nói ngu ngơ
    Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
    Thân phận không bằng đứa mãng phu
    Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
    Cờ còn nuớc đánh phải đành thua
    Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
    Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do!
    Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
    Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
    Đứa nằm yên phận vui êm ấm
    Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa.
    Mây nước có phen còn hội ngộ
    Thâm tình viễn xứ lại như xa
    Xuân này đón tuổi gần năm chục
    Đối bóng mình ta say với ta.


    Đây là một trong những bài thơ tha hương hay nhất, cảm khái nhất tôi được đọc. Những câu làm dạ tôi xót sa, tim tôi đau nhói: “…Thức ngủ một mình trong tủi nhục…Giống như người lính vừa thua trận. Nằm giữa sa trường nát gió mưa…Chợt nghe từ đáy hồn thương tích… Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa… Một năm người có mười hai tháng. Ta trọn năm dài Một Tháng Tư.. Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt. Học làm con trẻ nói ngu ngơ…”

    Dù sống ở xứ người hay sống ở quê hương, sống ở đâu tâm hồn, thể xác anh em chúng tôi cũng như người lính vừa thua trận, nằm giữa sa trường nát gió mưa. Trong những đêm buồn thê thảm, chúng tôi nghe mãi từ đáy hồn thương tích, vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa. Chỉ có khác là sống ở quê hương, chúng tôi không phải đổi ngược họ tên cha mẹ đặt, chúng tôi phải cúi đầu nhận là chúng tôi có tội với nhân dân, có tội với tổ quốc. Chúng tôi có một cái chung là:

    Một năm người có mười hai tháng
    Ta trọn đời ta Một Tháng Tư!

    Qua hai bài thơ tôi thấy: Năm 1970 ở Sài Gòn, Thanh Nam bốn mươi tuổi, anh thương tiếc tuổi hai mươi trong veo cặp mắt chưa vương bụi, chăn chiếu còn thơm ngát mộng trai.. Và than: “Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ. Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai“. Để rồi bẩy năm sau, lưu lạc quê người bên kia đại dương, bên kia trái đất, Thanh Nam thấy những ngày, những tháng, những năm 1970, 1971 sống ở quê hương là đẹp tuyệt vời, anh lại tiếc, lại thương, anh không thấy tiếng bạc đời anh gieo đã lỡ mà anh thấy: “Canh bạc chưa chơi mà hết vốn. Cờ còn nước đánh phải đành thua…”

    Tôi quen Thanh Nam ở Sài Gòn, năm 1952. Những năm này có lúc anh sống với thi sĩ Trúc Giang (đã chết) ở đường Frère Louis, có lúc anh sống với Đại úy Nguyễn Ngọc Loan ở nhà Sách Á Châu của anh Nguyễn Bá Châu, đường Lê Lai. Những năm 1960 Thanh Nam chưa lập gia đình, tôi thường đến chơi với anh ở Bin-đinh Cửu Long, đường Hai Bà Trưng. Thời ấy Thanh Nam, Thái Thủy và Hoàng Thư là ba văn nghệ sĩ độc thân từng sống chung nhà với nhau, rồi cùng ở Bin-đinh Cửu Long. Hoàng Thư lấy vợ trước – khoảng năm 1960. Thái Thủy là người thứ hai rời bỏ Bin-đinh Cửu Long và đời sống trai độc thân – khoảng năm 1965. Thanh Nam cô đơn. Anh nói với tôi:

    – Tao sợ đêm đêm đi chơi về bin-đinh như đi vào nhà tù. Mở cửa vào phòng tao có cảm giác như chui vào xà-lim…

    Năm ấy chúng tôi chưa biết tù đày, nhà tù, sà lim là gì, chúng tôi chỉ mới nhìn thấy cảnh nhà tù trên màn ảnh xi-nê. Nhiều năm sau ở trong tù, tôi thấy lời Thanh Nam nói thật đúng. Hành lang bin-đinh Cửu Long chia đôi hai dẫy phòng, cửa phòng sơn mầu xám. Đêm hay ngày đi trong hành lang đó cũng như đi trong hành lang nhà tù. Căn phòng bin-đinh y hệt sà-lim. Rộng hơn, sạch hơn, dễ chịu hơn. Tất nhiên.

    Đó là lúc Thanh Nam thấy cô đơn, thấy chán đời sống trai già độc thân ở phòng bin-đinh, anh muốn có gia đình, vợ con.

    Thời ấy tôi có cái xe Jeep nhà banh – xe phế thải – có đêm thứ bẩy tôi chở Thanh Nam đi chơi. Chủ nhật mọi người nghỉ làm, nhà báo Sài Gòn Mới làm việc ngày chủ nhật để ra số báo ngày thứ hai nên ngày chủ nhật tôi phải đi làm. Đi chơi với Thanh Nam đến hai giờ sáng, tôi nói:

    – Thôi về. Tao về ngủ một lúc. Mai tao phải đi làm, tao có vợ..

    Anh nói:

    – Mày làm như cả Sài Gòn này chỉ có mày là thằng có vợ!

    Đâu phải cả Sài Gòn chỉ có tôi là có vợ! Đêm ấy tôi đi chơi với bạn suốt đêm. Năm, sáu năm sau – khoảng 1967, 1968 – khi Thanh Nam có vợ, một tối chúng tôi đi ăn cơm với nhau. Ăn xong, Trịnh Viết Thành chở chúng tôi đến Quang Minh Đỉnh trên chiếc xe Simca của anh. Thanh Nam giao hẹn:

    – Tao đi đến 10 giờ thôi.

    Mười giờ, cuộc vui đang vui, Thanh Nam đi về. Trịnh Viết Thành ngăn lại:

    – Ở lại chút nữa tao đưa về luôn…

    Thanh Nam cứ về. Về là phải, bởi vì ở lại thêm một lúc là hai, ba giờ sáng lúc nào không biết. Năm ấy quân đội Mỹ vào đầy Sài Gòn, xe taxi thiếu, trời lại mưa, Thanh Nam cứ xuống đường chờ xe về. Cả giờ sau chúng tôi từ Quang Minh Đỉnh xuống, anh vẫn còn đứng núp mưa bên gốc cây sao chờ xe. Nhìn Thanh Nam đứng đó tôi nhớ mấy năm trước tôi đi chơi với anh đến 2 giờ sáng, đòi về, anh nói:

    – Mày làm như cả Sài Gòn chỉ có mày là thằng có vợ!

    Một tối Ngọc Linh bán được tác phẩm tiểu thuyết, mời chúng tôi đi ăn ở nhà hàng Động Phát đường Hàm Nghi, Chợ Cũ. Năm đó là năm 1960. Bữa ăn có Thanh Nam, Nguyên Sa, Tô Kiều Ngân, Quốc Phong, Văn Quang, Phan Nghị, Thái Thủy và tôi. Trong bữa ăn chúng tôi nói linh tinh đến chuyện vợ bé, con riêng. Tôi nói:

    – Tao sẽ không bao giờ có vợ bé. Ông già tao không có vợ bé nên tao cũng không bao giờ có vợ bé.

    Văn Quang cười:

    – Nếu mày nói thế thì tao có quyền có vợ bé. Ông già tao nhiều vợ lắm..

    Tôi không hoạt bát, không linh lợi, không sắc xảo trong lời nói và khi đang cao hứng nói ra lời gì bị người khác nói ngược là tôi bị khựng. Tôi ngồi im. Một lúc sau khi các bạn tôi đã nói sang chuyện khác, tôi trở lại chuyện vợ bé:

    – Ê… Văn Quang… Trước đây mày có khổ vì ông già mày có vợ bé không? Nếu mày khổ thì bi giờ mày đừng làm cho các con mày khổ.

    Thanh Nam bảo tôi:

    – Làm cái gì mà mày cay cú thế? Mày mới có vợ đây, đã lâu la gì. Đừng nói trước. Tao thấy những thằng nói như mày là những thằng có vợ bé trước hơn ai hết…

    Buổi tối trong căn phòng riêng trên lầu nhà hàng Động Phát năm 1960, 1961. Bốn mươi năm trời đã qua đời tôi. Những ngày như lá, tháng như mây… Tôi thường quên những chuyện nhiều người cho là quan trọng, nhưng lại nhớ những chuyện nhiều người cho là không có gì đáng nhớ. Hôm nay trời mưa trên Rừng Phong, tôi viết chuyện xưa, tưởng nhớ, mến thương những người bạn tôi còn sống, đã chết, những người đã cùng sống thời hoa niên của tôi ở Sài Gòn – những năm 60 đời tôi thật đẹp – tôi tưởng như tôi đang nhìn thấy anh em chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn ăn tròn cao lâu Tầu đêm xưa ấy. Thanh Nam, Nguyên Sa đã chết, Tô Kiều Ngân, Văn Quang, Phan Nghị hiện ở Thành Hồ, Quốc Phong ở Pháp, Thái Thủy ở Cali. Chúng tôi mến thương nhau đến là chừng nào! Tình thương mến ấy vẫn còn đến hôm nay. Khi gần những người bạn xưa của tôi, tôi thấy thoải mái, bình yên. Vì tôi là bạn tôi, bạn tôi là tôi. Những cái tật của tôi là những tật của bạn tôi, và ngược lại.

    Tôi viết nhiều về những chuyện ngày xưa. Biết làm sao hơn được. Người viết thường viết ra những gì ở trong tim mình, trong óc mình. Trong tôi chỉ có những chuyện ngày xưa…

    (Còn tiếp)

  2. #2
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (07)

    Ngày xửa, ngày xưa…

    Những năm 1940… trong thị xã Hà Đông nhỏ bé, hiền hòa, chú thiếu niên hai mươi mùa mít chín sau đó tự nhận là Công Tử Hà Đông được đọc lại hai câu thơ:

    Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
    Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

    Hai câu không nhớ của thi sĩ nào làm. Sau tìm và biết là của Xuân Diệu. Chú thấy ý thơ hay hay. Hai câu ấy ở mãi trong trí nhớ của chú.

    Bốn mươi mùa sầu riêng trổ bông sau đó, một người tù cải tạo ở trại Lao động Xã hội chủ nghĩa Z30A Xuân Lộc Đồng Nai được con lên thăm, đem cho quyển Anthology of English Poems do Đại học Oxford ấn hành. Tuyển tập thơ Anh dầy hai ngàn trang, hơn một ngàn bài thơ của Shakespeare, Shelly, John Donne, Robert Browing, Mary Elizabeth Coleridge. Trong tập thơ, người tù yêu thơ tìm thấy bài thơ The Call:

    Sound, sound the clarion, fill the file!
    Throughout the sensual world proclaim:
    One crowded hour of glorious life
    Is worth an age without a name.
    (Thomas Osbert Mordaunt)

    Đêm buồn nằm thao thức trong tù nghe tiếng gió vi vu thổi đến từ núi Chứa Chan, người tù cảm khái bèn mần thơ dịch:

    Tiếng gọi
    Kèn vang lên, trống nổi lên
    Lặng yên nghe – Tiếng loa truyền
    Sống một giờ quang vinh rực rỡ
    Hơn tầm thường trọn kiếp không tên!

    Như vậy là phải chăng năm sáu mươi mùa ổi chín trước đây, Xuân Diệu đã đọc bài tứ tuyệt The Call của T.O Mordaunt và lấy ý ra làm hai câu

    Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
    Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm!

    Hai câu thơ làm người tù đi một đường cảm khái, nhớ lại cả một thời thơ ấu “ngày xưa còn bé”.

    Vèo trông lá rụng đầy sân,
    Công danh phù thế có ngần ấy thôi. (Tản Đà)

    Thấp thoáng đấy mà đã năm mươi mùa tu hú kêu trong những vườn vải đỏ. Còn nhớ như in những ngày Tháng Tám năm 1945 chú thiếu niên Hà Đông náo nức đi biểu tình giành độc lập, những ngày đi kháng chiến thật đẹp ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, gót chân liên lạc viên đi dưới núi Thiên Thai, qua cửa chùa Tiêu Sơn, Rừng Khế, nơi có lăng tẩm của các vị vua triều Lý ở trước làng Đình Bảng, từng sống trong thành Cổ Loa có giếng nước tục truyền được dùng để rửa ngọc trai thật tốt, từng sống trong làng Phù Đổng ven đê sông Đuống, quê hương của Thánh Gióng, những đêm mùa đông nước cạn, buộc quần áo lên đầu, ôm cây chuối bơi qua sông Đuống… Những năm xưa ấy, người tù Z30A “yêu mê” Việt Minh đến là chừng nào. Vật đổi sao dời, khi nón cối, dép râu, súng AK, cờ đỏ ngơ ngáo vào Sài Gòn, chú thiếu niên năm xưa nay cùng không biết bao nhiêu người khác bị Bác và Đảng cho đi tù mút mùa Lệ Thủy.

    Đã cảm khái, người tù Z30A còn xúc động hơn khi đọc bài thơ Respice Finem của Francis Quarles. Đây là nguyên bản:

    My soul, sit thou a patient looker-on
    Judge not the play before the play is done
    Her plot hath many changes , every day
    Speaks a new scence, the last act crowns the play!

    Đêm cuối năm lạnh lẽo trong tù anh nằm dịch bài thơ ra tiếng nước anh.

    Vở tuồng đời
    Ôi hồn ta, ngồi yên mà coi
    Vở tuồng đời
    Đừng phê phán trước khi tuồng hết
    Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười
    Tuồng đang diễn, làm sao ta biết
    Mỗi ngày qua là một đổi đời
    Chờ đến lúc coi xong màn kết
    Mới biết tuồng hay dở mà thôi.
    (Trại cải tạo Z30A, Tháng 10-1989)



    Nội quy nhà tù Xã hội chủ nghĩa áp dụng ở miền Nam có điều bắt buộc người tù phải gọi cai tù bằng cái tên chung là “cán bộ”, không có ông, anh, nhất là không có “đồng chí”, “đồng rận” gì ráo trọi. Ngược lại cai tù cộng sản gọi tất cả những người dân bị họ bỏ tù là anh, chị, dù cho anh, chị có bẩy bó, tám bó bằng tuổi ông bà nội ngoại họ.

    Vài anh tù lỡ lời gọi cai tù là “đồng chí”, liền bị các “đồng chí” cự:
    – Anh nói gì? Ai “đồng chí” mí anh? Bậy bạ…

    Nhưng Hà Huy Giáp, một trong số cán bộ lãnh đạo văn nghệ Đảng những năm 1975-85 lại ưu ái gọi một số văn nghệ sĩ Sài Gòn lơ láo đi dự cái gọi là “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị” năm 1976 ở Nhà Hát thành phố HCM là “đồng chí”. Số là Việt Cộng vào được Sài Gòn từ Ba Mươi tháng Tư năm 1975, nhưng mãi một niên sau – tháng 5 năm 1976 – họ mới nhân dịp cho cái gọi là Chánh phủ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đi chỗ khác chơi không xơi nước, phát động chiến dịch hỏi thăm sức khỏe văn nghệ sĩ Sài Gòn VNCH. Nhiều văn nghệ sĩ, ký giả VNCH lớn nhỏ được xe bông công an thành phố HCM đến tận nhà rước đi liền tù tì trong mấy ngày đêm đầu tháng Ba năm 1976.

    Xin kể tên những người bị bắt theo trí nhớ của tôi: Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Sĩ Tế, Lý Đại Nguyên, Trần Việt Sơn, Nguyễn Hải Chí tức họa sĩ Chóe, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Duyên Anh, Đằng Giao, Trịnh Viết Thành, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Thu, Thái Thủy, Hồ Nam, Cao Sơn, Minh Vồ (chủ nhiệm Con Ong), Hoàng Vĩnh Lộc, Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Thân Trọng Kỳ, Lê Xuyên (Chú Tư Cầu), Anh Quân, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Hữu Hiệu, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn (đạo diễn “Hai chuyến xe bông”) v.v… Nhiều không nhớ xiết.

    Các anh Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến, Uyên Thao, Văn Chi đã bị bắt từ trước. Tú Kếu Trần Đức Uyển bị bắt vì tội tham gia tổ chức chống Cộng ở Đà Lạt ngay cuối năm 1975, ra tòa, lãnh án tù 18 năm. Mai Thảo may mắn trốn thoát cuộc bắt bớ, ở ẩn đến hơn hai năm cho đến đêm xuống tàu vượt biển. Tử Vi ông này không có Sao Quả Tạ nên ổng không bị ở tù.

    Chiến dịch bắt bớ rầm rộ mấy ngày đêm đầu tháng, lai rai kéo dài mãi đến cuối tháng Ba năm 1976 mới chấm dứt. Không phải tất cả văn nghệ sĩ Sài Gòn đều bị bắt hết. Những người chưa bị bắt mặt mũi xanh xám không biết xe bông công an đến rước mình lúc nào. Tháng Năm năm 1976, cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng TPHCM tổ chức cái gọi là “Khóa Bồi dưỡng Chính trị” cho văn nghệ sĩ Sài Gòn “kẹt giỏ” hàng dân lơ láo ở Thành Hồ. Khóa Bồi Dưỡng Một có những văn nghệ sĩ thượng thặng của giới văn nghệ Sài Gòn đi dự: Thái Thanh, Hoài Bắc, Thẩm Thúy Hằng, Lê Trọng Nguyễn (Nắng Chiều), Lệ Hằng (Bản Tango Cuối Cùng), Nguyễn Thụy Long (Loan Mắt Nhung), Phạm Thiên Thư (Động Hoa Vàng) v.v…
    Khóa Bồi Dưỡng Một không được tổ chức linh đình, không nhiều người tham dự bằng Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai, Tháng Bẩy năm 1976. Khóa Hai có trên năm trăm khóa viên hăng hái và rầu rĩ đăng ký tham gia. Giới nghệ sĩ cải lương đông người nhất. Tất cả những anh em kéo màn, chạy đề-co – tức bầy dọn ngai vàng, bàn thờ Phật, bàn ghế, giường tủ trên sân khấu – những người bà con xa gần với bà Bầu, cô Đào v.v… đều là nghệ sĩ và đều tự thấy có quyền được dự khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ. Trong số 500 khóa viên có trên 300 mạng là nghệ sĩ cải lương, số 200 ngoe còn lại chia đều cho các tổ Thơ Văn, Điện ảnh, Tân nhạc, Cổ nhạc…

    Cái gọi là tổ Thơ Văn – tức tổ chấy của các anh ký giả, văn nghệ sĩ viết tiểu thuyết kiểu “phơi-ơ-tông” – là tổ “được” Cán Cộng chú ý nhất. Cán Cộng coi bộ môn sáng tác gồm những người tự mình chống cộng bằng tư tưởng, bằng tác phẩm của mình, không mượn tác phẩm hay ý tưởng của người khác. Cán Cộng không coi quan trọng lắm những người thuộc bộ môn trình diễn, tức là những người khi được giao vai trò chống Cộng thì chửi Cộng ra rít theo lời người khác, khi được giao đóng vai chửi Quốc gia thì lại mặt trơ trán bóng chửi bới Việt Nam Cộng Hòa ra trò.

    Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai được khai mạc ở Nhà Hát Thành Phố. Người khai mạc là Hà Huy Giáp. Người lãnh đạo văn nghệ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa có nhiều người dân không đến nỗi chết đói mà chỉ đói đến chết, lại có thể hình béo tốt, hồng hào, mặt mũi, da dẻ láng bóng quá cỡ thợ mộc. Khi ban huấn từ “lãnh đạo” nói một câu xanh rờn:

    – Tôi gọi các bạn là “đồng chí” vì tất cả chúng ta đều chung chí nguyện: làm cho nước Việt Nam được giầu đẹp, làm cho nhân dân Việt Nam được ấm no…

    “Lãnh đạo” nói tiếp:

    – Khóa này được gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị vì những người tổ chức thấy các văn nghệ sĩ Sài Gòn có thành kiến, có ác cảm với hai tiếng “cải tạo”. Thực ra cải tạo chẳng có gì đáng sợ. Chúng ta phải tự cải tạo mỗi ngày để trở thành người tốt…

    Khóa học trong 21 ngày, khóa viên được bồi dưỡng sinh hoạt phí 1 đồng tiền Hồ mỗi ngày, được một lần cấp “nhu yếu phẩm”: nửa ký đường, hai hộp sữa, hai gói thuốc lá, một lạng bột ngọt. Được đớp hai bữa trưa ở Nhà Hát: bánh mì mỗi mạng một ổ, nước ngọt, bia gọi là bia hơi được đựng trong thùng phuy. Khóa nào muốn uống phải mang theo ca hoặc mượn ca của khóa khác.

    Những anh ký giả Sài Gòn trước đó một niên đã làm Ngày Ký Giả Đi Ăn Mày để bỉ mặt Tổng Thiệu, nay được dịp “ăn mày” thật sự. Ký giả là những người đói nhất trong giới văn nghệ sĩ bỏ nước chạy lấy người không kịp. Không phải anh em ký giả, văn nghệ sĩ Sài Gòn ta ngày xưa không kiếm được tiền. Anh em kiếm được nhưng tuyệt đại đa số anh em ăn chơi, tiêu hoang, kiếm được năm thì tiêu mười. Việt Cộng vào Sài Gòn, anh em đói đến không có cơm mà ăn, không phải chỉ đói phở, đói cơm sườn, đói giả cầy quán Bà Cả Đọi. Cùng dự khóa bồi dưỡng với kẻ viết bài này có Nguyễn Ngọc Tú tức Ngọc Thứ Lang dịch giả Bố Già (The Godfather của Mario Puzo). Hôm được phát “nhu yếu phẩm” như vừa kể, người ta thấy vắng bóng Ngọc Thứ Lang ngay lập tức, rồi vắng bóng chàng suốt ngày hôm sau. Khóa viên không đến lớp vì còn bận tự “bồi dưỡng” bằng hai hộp sữa, nửa ký đường, hai gói thuốc, lạng bột ngọt. Chàng phát mại ngay những thứ không nhu yếu gì với đời sống của chàng để lấy tiền “choác”.

    Và Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai có Cô Khóa Mộng Tuyền. Tháng Bẩy năm 1976 ở Thành Hồ, Mộng Tuyền còn trẻ, đẹp. Ký giả đói, nhưng các em đào cải lương vẫn đông vàng, đông kim cang. Các em như Mộng Tuyền – bận bà ba phin nõn, quần đen, đi guốc – phây phây đến lớp. Các em không đi xế hộp, nhưng các em cũng không đi xế đạp, các em đi học bằng xe xích lô.

    Sau Hà Huy Giáp ban huấn từ khai mạc, khóa bồi dưỡng có từng này vị lên lớp, mỗi vị một ngày:
    – Huy Cận nói về Thơ.
    – Chế Lan Viên nói về người nghệ sĩ đi theo Đảng.
    – Hoàng Trinh, lý thuyết gia văn nghệ nói về “Sự bế tắc văn học nghệ thuật của xã hội tư bản”.
    – Vũ Khiêu nói về văn nghệ chung chung…
    – Bẩy Lý, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng lên lớp về “Chủ nghĩa Mác-Lê-nin”.

    Huy Cận mập khỏe, nước da bánh mật, trông không có vẻ gì là người làm được những câu “Nắng chia nửa bãi chiều rồi. Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu…” Huy Cận nói đúng là nói vung xích chó, nói văng bọt mép. Ngoài việc khoe anh sung sướng, thoải mái mần thơ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, anh còn khoe anh vẫn mần thơ tình, anh quả quyết chế độ xã hội chủ nghĩa không tiêu diệt thơ tình v.v… Chế Lan Viên yếu hơn Huy Cận về mọi mặt. Buổi nói chuyện của Chế Lan Viên được tổ chức ở rạp Olympic đường Hồng Thập Tự. Rạp không đủ đèn sáng. Chế Lan Viên ngồi bàn nói chuyện, đặt ly bia trên bàn. Mỗi lần diễn giả ghé mồm uống bia, micro bắt tiếng động làm người ta nghe thấy những tiếng
    “chụp choạp” rất xã hội chủ nghĩa.

    Vũ Khiêu – nghe nói tên thật là Đặng Vũ Khiêu – là anh nói dở nhất trong cả bọn. Vốn liếng học thức của anh chỉ đủ cho anh nói láp nháp được trong một giờ. Buổi lên lớp của anh kéo dài cả ngày. Buổi sáng anh nói được hai tiếng thì tạm nghỉ để đi giải lao và đi đé. Ngọc Thứ Lang nói ngay:

    – Thằng cha Vũ Khiêu này… hay chữ lỏng…

    Thành ngữ Bắc kỳ gọi những anh chữ nghĩa đựng không đầy cái lá mít nhưng thích ba hoa nói những chuyện văn học, nghệ thuật là những anh hay chữ lỏng. Vũ Khiêu thuộc loại “Bắc Kít Hay Chữ Lỏng” điển hình. Anh nói ba lăng nhăng về Kiều, ca tụng Từ Hải như đại anh hùng dân tộc. Người nghe dốt nát nhất cõi đời này cũng biết anh quên, hay anh cố tình quên, ông cố, bà sơ anh có câu dặn con cháu:

    Đàn ông chớ kể Phan Trần
    Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.

    Văn học lý luận gia Mác-xít Vũ Khiêu tỏ ra “hay chữ lỏng” rõ ràng nhất ở câu chuyện anh kể về cái gọi là “tình đoàn kết thân thương cố hữu” của dân tộc Việt. Anh đưa chuyện ngày xưa có nhà kia năm đời sống chung một nhà đoàn tụ gia đình hòa hợp với nhau. Vua nghe tiếng tốt bèn đến thăm và ban cho gia đình một trái lê với ẩn ý thử xem gia đình này chia nhau ơn Vua ra sao. Nhà đông tới hai, ba trăm miệng ăn. Làm sao chia cho mỗi người một miếng lê nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng? Trưởng gia bèn nẩy ra sáng kiến kính cẩn cho trái lê vua ban vào nồi ba mươi nước sôi, pha như pha trà, mỗi mạng uống một ly nước. Thế là cả nhà ai cũng được hưởng lộc vua.

    Câu chuyện thuộc loại quân tử Tây gọi là “a-nết-đốt: – chuyện truyền khẩu, chuyện ngoài lề nghe chơi rồi bỏ – trái lê nấu nước chia nhau uống xưa như trái đất. Đó là chuyện xẩy ra dưới một đời vua nào đó bên Tầu, nếu người viết không lầm thì là đời vua Đường, vua Mật chi đó, nhưng người văn nghệ Mác-xít lại nói là chuyện xẩy ra đời vua Trần nước Việt.

    Các đàn anh dzăng nghệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa lên lớp chung cho 500 đàn em dzăng nghệ, dzăng gừng, dzăng bút, dzăng báo, dzăng cơm, dzăng đủ thứ ở Thành Hồ tại Nhà Hát. Hôm sau, các khóa sinh trở về tổ mình thảo luận về đề tài đàn anh lên lớp hôm qua. Hướng dẫn viên Tổ Một Thi Văn Vũ Hạnh gọi việc này là “đèo seo…”, tức “đào sâu” vào đề tài. Thảo luận thêm, tham gia ý kiến của mình, thường là ca tụng: “…Hay quá, giúp cho người nghe có tư liệu chất lượng tốt để hiểu thêm về dân tộc, về dzăng nghệ v.v…”. Những cuộc thảo luận “đèo seo học hỏi” này có biên bản để nộp các lãnh đạo dzăng nghệ.

    Khi ấy, người viết bài này đã có ý định phát biểu mấy nhận xét để ghi vào biên bản gửi đến ông Vũ Khiêu Hay Chữ Lỏng. Đại khái:

    – Chuyện trái lê nấu nước chia nhau uống là chuyện người Tầu đời Đường, không phải chuyện xẩy ra đời nhà Trần nước ta. Nhận vơ không hay hướm gì và tôi nghĩ ta không cần nhận vơ. Khi ông nói trước cả trăm người Sài Gòn chúng tôi về chuyện đó, tôi thấy:
    – Nếu ông không biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu thì ông ngu quá.
    – Nếu ông biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu mà ông cho chúng tôi hổng biết, ông có nói đó là chuyện đời nhà Trần chúng tôi cũng mù tịt thì ông cũng… quá ngu.
    – Nếu ông biết chúng tôi cho việc ông nói chuyện trái lê nấu nước là chuyện người Việt là nói bậy mà ông vẫn cứ nói thì ông mặt trơ, trán bóng quá đỗi. Chúng tôi không có lời gì để đánh giá con người dzăng nghệ Mác-xít như ông.

    Nhưng… nghĩ vậy người viết bài này đã không nói ra. Tâm trạng anh Khóa bất đắc dĩ Tháng Bẩy năm 1976 đang đen hơn mõm chó mực. Các bạn anh đang ngồi rù trong tù, anh không bị bắt như anh em, vợ con anh không khổ nhục như vợ con anh em, anh vác bản mặt nhẵn hơn cái đũng quần lĩnh cô đầu đi dự
    “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị”, anh ngồi tễu mặt nghe Việt Cộng nó dậy dỗ nó chỉ bảo, anh không câm miệng, cúi mặt xuống, anh còn ọ ẹ bắt bẻ Việt Cộng nỗi gì.

    Nghe nói có lần nói chuyện xong Vũ Khiêu hỏi Đoàn Phú Tứ:

    – Anh thấy tôi nói ra sao?

    Đoàn Phú Tứ trả lời:

    – Anh nói thì con rắn ở trong lỗ cũng phải bò ra nghe. Nó bò ra nghe nhưng không thấy gì cả nó lại bò vào lỗ.

    Hoàng Trinh – nghe nói là sui gia với Trường Chinh – lên bục nói về “Sự bế tắc văn học nghệ thuật tư bản” nói chung và nói riêng về tình trạng tắc tị trong lãnh vực tiểu thuyết ở các nước Âu Mỹ.
    Hoàng Trinh nói dễ thôi. Các đàn anh lý thuyết văn nghệ Liên Xô ăn lương tháng viết vung xích chó cả ngàn bài nghiên cứu về văn học nghệ thuật tư sản – tư bản, các đàn em chỉ việc dịch và đọc. Tất nhiên là văn học nghệ thuật tư bản đồi trụy, thối nát, tắc nghẽn, cuồng dâm, ca tụng bạo lực, ăn bám, thối nát, đang rẫy chết và chết đến đít rồi. Chuyện tất nhiên khỏi cần nói thêm. Hoàng Trinh kể một tác phẩm kịch điển hình làm bằng chứng là “văn học nghệ thuật tư bản thối nát quá cỡ…”

    Vở kịch Hoàng Trinh đưa ra là vở Le Balcon của Jean Genet. Việc dùng kịch Le Balcon để đả kích văn nghệ tư sản cũng chẳng phải là sáng kiến của Hoàng Trinh. Đàn anh Nga Cộng viết, Hoàng Trinh chỉ việc nhai lại.

    Jean Genet là văn sĩ thuộc loại “thiên tài hắc ám, quỷ ám” của Pháp. Người Pháp có tiếng “maudit” chỉ loại người này. Ra đời năm 1911 ở Paris, bị mẹ bỏ rơi, được nuôi trong Viện Cô Nhi, năm 13 tuổi Jean Genet bị đưa đến Trại Trừng Giới, bỏ trốn, đi bụi đời, bị bắt nhiều lần vì các tội trộm cướp; năm 1948 phạm trọng tội bị án tù chung thân. Nhiều văn sĩ Pháp, trong đó có Jean-Paul Sartre, người vận động tích cực nhất, gửi kiến nghị thư lên Tổng thống Pháp xin ân xá cho Jean Genet, tác giả những tác phẩm Notre Dames Les Fleurs, Journal d’un voleur, Querelle, Miracle de la rose v.v… Jean Genet được ân xá, Jean Paul Sartre phong thánh cho Jean Genet, gọi Jean Genet là một thiên tài văn nghệ. Jean Genet qua đời năm 1986.

    Đây là lời Hoàng Trinh kể kịch Le Balcon:

    – Kịch xẩy ra trong một nhà ăn chơi ở thủ đô một quốc gia Âu Châu. Nhà ăn chơi này do một phụ nữ làm chủ. Khách chơi là bọn đàn ông giàu tiền có ẩn ức sinh lý, những anh muốn được làm đại tướng, chánh án, giáo chủ. Chị chủ nhà tổ chức những phiên tòa cho chánh án rởm xử, những trận đánh cho đại tướng rởm chỉ huy, những thánh lễ cho giáo chủ rởm hành lễ.

    Đêm ấy có cuộc nổi loạn nổ ra trong thủ đô. Anh Tổng Giám đốc Cảnh sát là tình nhân của chị Chủ Chứa. Anh đến cho mọi người trong nhà biết với lực lượng cảnh sát anh có thể dẹp được đám nổi loạn nhưng phiền một nỗi là Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Chưởng lý, Đại tướng, Giáo chủ v.v… nghe tiếng súng nổ và biết có loạn đã bỏ thủ đô phú lỉnh ra nước ngoài hết. Anh Xếp Phú lít than thở: “Phải chi bây giờ có Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Giáo chủ, Đại tướng… xuất hiện trên ban-công Hoàng cung cho nhân dân thấy thì nhân dân bỏ bọn nổi loạn ngay”.

    Chị Chủ nẩy ra sáng kiến:

    – Khó gì? Ở đây mình có đủ triều đình. Mình có ông Đuy Quốc Tô đây là Đại tướng, ông mần vai đại tướng quen rồi, ông còn oai phong hơn cả đại tướng thứ thiệt. Mình có ông Đờ Cốc Si Cốc đây là Chủ tịt Quốc hội, có ông Lơ Poan vẫn mần Giáo chủ hành lễ trang trọng. Ông Pip Pơ Lô đây đóng vai Chánh án đẹp lão nhất thế giới. Còn em. Em đóng vai Nữ hoàng? Được hông? Ai cũng nói trông em giống Nữ hoàng lắm. Người ta còn khen em đẹp hơn Nữ Hoàng năm bẩy thành…

    Và thế là (xin bạn đọc nhớ đây là lời kể của kép Hoàng Trinh ở Nhà Hát Thành Hồ tháng Bẩy năm 1976) kế hoạch được chấp thuận. Triều đình Nhà Thổ đủ mặt Nữ Hoàng, văn võ bá quan, lãnh đạo tôn giáo, tư pháp, lập pháp, quân đội, cảnh sát đàng hoàng xuất hiện. Nhân dân thấy triều đình vẫn vững như chum vại bèn bỏ rơi đám nổi loạn, tan hàng trở về nhà. Cuộc nổi loạn bị diệt thê thảm.

    – Đây chỉ là chuyện kịch thôi – lời Hoàng Trinh – nhưng xin quý bạn nhớ rằng bọn văn sĩ tư sản đồi trụy đã khinh khi tất cả những giá trị của xã hội. Nữ Hoàng của họ là chị chủ chứa, những nhà cầm quyền của họ là những tên đàn ông bệnh hoạn tâm-sinh lý. Không những bọn văn sĩ tư sản chỉ miệt thị những giá trị tư sản mà thôi, họ còn miệt thị cả nhân dân nữa. Nhân dân trong kịch Le Balcon được trình bày như một lớp người ngu đần chuyên bị đánh lừa và chỉ bị lợi dụng.

    Lý luận gia Mác-xít ăn theo Hoàng Trinh nhận “nhân dân” thuộc phe anh, bọn văn sĩ tư sản đồi trụy phỉ báng những nhân vật lãnh đạo tư sản thì anh cho là đúng, là được, nhưng khi văn sĩ tư sản miệt thị “nhân dân” thì anh phẫn nộ. Anh hằn học:

    – Jean Genet chửi cả “nhân dân”…

    Tất cả những gì xấu xa trên cõi đời này đều của phe tư sản, tất cả những gì tốt đẹp trên cõi đời này đều của phe cộng sản. Thái độ nhận vơ lố bịch ấy của những người cộng sản – thường được gọi là “vơ vào” – đã làm họ bị kê tủ đứng vào miệng khi Liên Xô, thành trì xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, phơi bầy những tội ác ghê rợn của cộng sản đối với loài người. Chuyện ấy chẳng cần phải nói nhiều hơn.

    Chi tiết cần ghi lại buổi nói chuyện của Hoàng Trinh khi anh ta nói:

    – Thưa quý bạn, Le Balcon kết thúc bằng câu nói của chị chủ nhà thổ. Khi cuộc nổi loạn đã bị dẹp, chị nói với cử tọa: “Kịch đến đây là hết. Trời sắp sáng. Mời quý vị trở về nhà. Xin quý vị nhớ cho rằng chẳng phải chỉ ở đây quý vị mới thấy kịch, mới đóng kịch. Ở bất cứ đâu cũng kịch mà thôi. Ở những nơi khác còn kịch cợm, còn giả dối hơn ở đây nữa”.

    Hoàng Trinh vừa nói đến câu “Ở đây kịch, ở đâu cũng kịch, kịch cả mà thôi” thì khựng lại vì tiếng vỗ tay ồ ạt nổi lên.

    Quý anh văn nghệ sĩ bộ môn Cải lương ngồi trên lầu Nhà Hát vỗ tay trước. Bọn chúng tôi vỗ theo. Tôi – thú thực vẫn không coi trọng quý anh cải lương lắm -nhưng tôi thán phục quý anh quá cỡ khi tôi dự Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai cùng quý anh và được thấy quý anh biểu diễn phản ứng tuyệt vời hai lần bằng những cái vỗ tay điệu nghệ thần sầu, quỷ khốc, nhân kinh, Cán Cộng ngẩn ngơ.

    Quý anh vỗ tay đây là vỗ tay hoan hô Jean Genet. Hổng phải quý anh vỗ tay hoan hô Kép Cộng Hoàng Trinh. Tất nhiên Jean Genet viết đã hay, quý anh sử dụng Jean Genet cũng tuyệt chiêu, bằng những tràng pháo tay ấy quý anh nói với bọn cán cộng:

    – Đúng. Kịch cả mà thôi. Chúng tôi đến đây xem các anh đóng kịch. Chúng tôi cũng đóng kịch với các anh.

    Nhưng quý anh nào đã nghĩ ra cách nói ấy đầu tiên? Quý anh bộ môn cải lương nào là người thứ nhất đã vỗ tay để cả nhà kịch chúng tôi bắt chước hôm ấy?

    Trong Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị tháng Bẩy năm 1976, quý anh cải lương không chỉ phát biểu bằng cách vỗ tay một lần, các anh vỗ tay hai lần. Lần nào tôi cũng thấy thán phục sự linh động, óc thông minh của quý anh.

    Hai mươi mốt ngày học xong, ngày bế mạc cũng được tổ chức linh đình ở Nhà Hát Lớn. Mỗi tổ cử một đại diện lên phát biểu cảm tưởng sau khóa học. Ông Nguyễn Hữu Ba đại diện tổ Cổ Nhạc lên máy.

    Tội nghiệp ông già Nguyễn Hữu Ba. Ông lên nói láp nháp vài câu là được rồi. Không ai, kể cả Cán Cộng, muốn ông nhiều lời. Ông nói dai quá. Đã nói dai, ông còn ngắc ngứ, vô duyên.

    Khi ông nói:

    – Đã bao nhiêu năm chúng ta ôm người đàn bà Phi Luật Tân và gọi bà ta bằng mẹ… Bi giờ đã đến lúc chúng ta trở về với bà mẹ Việt Nam đích thật của chúng ta…

    Ý ông Nguyễn Hữu Ba muốn nói bao nhiêu năm nay bọn đàn địch Sègoòng vẫn ôm cây ghi-ta ét-ba-nhon mà coi đó là đàn của mình, nay nhờ Bác và Đảng cho sáng mắt, sáng lòng, hãy trở về với cây đàn cò…

    Một lần nữa phải nói “Tội nghiệp…” bọn đàn địch Sègoòng có bao giờ nhận những cây đàn ghi-ta ét-ba-nhon, ha-uây-iên, vi-ô-lông là đàn Việt Nam đâu. Bọn đàn đúm cũng chẳng bao giờ ôm một người đàn bà Phi Luật Tân mà gọi là mẹ. Khi ông Nguyễn Hữu Ba nói đến bà mẹ Việt Nam bị các con yêu bỏ rơi, bỏ quên, bỏ xó, có vẻ xúc động, ông ngừng lại.

    Ông Ba vừa ngừng lại thì tiếng vỗ tay nổi lên từ trên lầu Nhà Hát. Một lần nữa, lại quý anh cải lương Sègoòng vỗ tay… đuổi. Ông Ba ngẩn người, ông chờ tiếng vỗ tay ngừng để tiếp tục nói. Nhưng những người vỗ tay không chịu ngừng. Ông Nguyễn Hữu Ba còn đứng đó, họ còn vỗ tay. Cuối cùng đương sự phải chịu nhận mình bị đuổi và cúi đầu đi xuống.

    Quân tử Tầu có câu: “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn”. Người viết bài này cảm khái thêm câu: “Tiểu nhân ca tụng hai mươi năm chưa muộn”.

    Tháng Bẩy năm 1976, tháng Mười năm 1995. Hai mươi mùa lá rụng đã rơi trên đường đời của chúng ta. Sáng nay bình yên ngồi viết ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, Virginia Đất Tình Nhân, tôi ca tụng quý anh nghệ sĩ cải lương Sài Gòn ta. Tôi thán phục hai lần vỗ tay tuyệt vời của quý anh tháng ấy, năm ấy.

    Chúng ta đã thấy những trò, những cảnh ruồi bâu kiến đậu trong cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị chúng ta tham dự ở Thành Hồ. Nhiều anh chị em bị buộc phải lên micro phát biểu đã tránh né, đàng hoàng, rất khéo như Ngọc Chánh, Bạch Tuyết… Nhiều anh chị em lên nhận mình “mắt mù, tai điếc, nay may mắn được Đảng cho sáng mắt sáng lòng” làm chúng ta tủi hổ. Nhưng thôi, chúng ta nên quên. Tết đến, ngày xuân, năm mới. Ở xứ người chúng ta nên vui vẻ, thương yêu nhau. Tôi không bới móc tội lỗi của người khác để tội lỗi của tôi không bị người khác bới móc.

    Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ,
    Vai kép tuồng kia vẫn diễu hoài.

    Thơ Thanh Nam, Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi, làm ở Sài Gòn năm 1970. Và đây là thơ Francis Quarles:

    Ôi hồn ta, ngồi yên mà coi
    Vở tuồng đời
    Đừng phê phán trước khi tuồng hết
    Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười.

    Thi sĩ khuyên ngồi yên mà coi. Nhưng làm sao ta ngồi yên mà coi được? Ta không phải khán giả ngồi xem vở tuồng đời. Ta là một nhân vật trong vở tuồng ấy, ta bị quay cuồng, ta khóc, ta cười trên sân khấu Đời ấy. Nếu nói được như chị chủ Le Balcon: “Kịch cả mà thôi. Giả hết”, chắc ta có thể thản nhiên sống trong vở tuồng đời. Khổ nỗi, đôi khi ta không thể đóng kịch, ta không giả dối được. Vì không đóng kịch được nên đôi khi ta bị roi đời quất hằn trên mặt. Song cuối cùng tôi thấy, khi ta bị hổ nhục ta thấy hổ nhục, còn khá hơn là khi bị hổ nhục mà ta vẫn nhơn nhơn mặt trơ, trán bóng cho là không có gì để phải nhục nhã.

    Tôi hổ thẹn khi phải vác mặt mo đến dự cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn. Có hôm xớ rớ trong hành lang Nhà Hát Lớn, thấy Lệ Thu đi đến, tôi không dám để nàng nhìn thấy mặt. Lẽ ra tôi phải hỏi thăm Lệ Thu về Hồng Dương, bạn tôi đang ở trong tù: “Ở đâu có biết không? Sức khỏe ra sao? Gửi đồ tiếp tế thế nào? Có tin gì gửi ra không? Có được gặp mặt không v.v…?”. Thay vì hỏi Lệ Thu những câu ấy, tôi xấu hổ nên quay mặt đi hướng khác.

    Ngày bế mạc khóa học được tổ chức ở Nhà Hát Lớn, tôi là người được anh chị em Tổ Thi Văn bầu làm đại diện Tổ, sẽ lên nói cảm tưởng sau khóa học. Nhưng đến phút cuối cùng những người tổ chức không cho tôi lên nói, tôi bị bất ngờ và tôi cũng sợ nên tôi ngồi im. Nếu tôi không ngán sợ, lúc ấy lẽ ra tôi phải đứng lên phản đối: “Tôi là đại diện Tổ. Sao không cho tôi lên nói mà lại để người khác nói?” Lẽ ra tôi phải làm như thế rồi bỏ ra về.

    Tan hàng lúc 5 giờ chiều. Tôi u uất đến độ không muốn đạp xe về căn nhà tối của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ. Tôi đến nhà ông anh kết ngãi với tôi ở đường Ký Con để nói với ông vài câu, uống chạc của ông mấy ly rượu cho bớt sầu đời. Thấy tôi vào, ông hỏi tôi:

    – Làm cái gì mà mặt mũi cậu trông ghê như mặt tù cải tạo vậy?

    Tôi rầu rĩ trả lời:

    – Hôm nay tôi đi xem một số người tự bốc phân vứt lên mặt họ. Tôi không làm việc ấy nhưng vì tôi ngồi cạnh họ nên phân văng cả sang mặt tôi.

    Hai anh An Khê Nguyễn Bính Thinh, tác giả tiểu thuyết Hai Chuyến Xe Bông, Nguyễn Ngọc Tú Ngọc Thứ Lang, dịch giả Bố Già (The Godfather), Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago), cùng dự Khóa Bồi Dưỡng với tôi, đã qua đời. Anh An Khê mất ở Pháp, Ngọc Thứ Lang chết ở trong trại cải tạo Phú Khánh, Tú Kếu bị bệnh Quên, vẫn sống ở Đà Lạt. Nhiều bạn đồng khóa với tôi hiện sống ở Hoa Kỳ: Lệ Thu, Ngọc Minh, Băng Châu, Ngọc Chánh v.v…

    Nhân vật Đảng Ủy quan trọng nhất phát biểu kết thúc Ngày bế mạc Khóa Bồi Dưỡng là “đồng chí thành quỷ” Tư Tân (người Sài Gòn gọi “Thành Ủy” là “Thành Quỷ”). “Đồng chí thành quỷ” Tư Tân tức Trần Trọng Tân, người năm 1994 giữ chức vụ chính trị lãnh đạo cao nhất, nhì, ba ở Thành Hồ. Trần Trọng Đăng Đàn là em Tư Tân, viết quyển “Kết án văn nghệ đồi trụy, phản động Sài Gòn”. Quyển này kê khai đầy đủ tên cúng cơm, tên tác phẩm của những người viết Sài Gòn bị cấm đoán. Năm 1976 rất nhiều người đến Nhà hát Thành Phố dự lễ Bế mạc Khóa học Bồi dưỡng Chính trị còn khá trẻ. “Đồng chí” Tư Tân năm ấy cũng chưa già.

    Năm 1994, đọc trong Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín tôi thấy mấy dòng: “…Người dân Quảng Bình, ai còn lạ gì những việc làm của anh em ông Trần Trọng Tân trong thời quân Nhật làm chủ Quảng Bình…”

    Không rõ ràng lắm nhưng người đọc dù kém thông minh cũng có thể hiểu: “Đại tá” Bùi Tín tố cáo “Đồng chí Thành ủy” Trần Trọng Tân và người em trai làm mật thám, làm tay sai, làm chó săn cho Nhật.
    Kể từ khi đọc những dòng ấy về anh em “đồng chí thành quỷ” Trần Trọng Tân, mỗi lần nhìn thấy bộ mặt nghiêm trọng của “đồng chí thành quỷ” trên Tivi tôi lại cứ tủm tỉm, lỉm rỉm cười một mình…

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (08)



    Sống ở Mỹ, ăn gạo Thái, nhớ, nghĩ, nói, kể, và ân hận, tiếc thương toàn chuyện Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa bị tiêu vong. Đã hai mươi sáu năm rồi còn gì? Sao không quên đi mà sống? Sao cứ nhớ mãi, cứ nhắc hoài? Bao nhiêu người mất nước đâu phải mình anh, người ta có nhớ thương đâu? Trở thành công dân cường quốc số một thế giới, người ta ăn mừng, người ta chúc mừng nhau không còn là dân Việt nữa, người ta hớn hở vì đã là “a-mơ-ri-cân si-ti-zhân”, người ta nói: “Công-grê-tu-lê-shơn!”
    Nhưng đâu có phải hai triệu người Việt lưu vong, lưu đầy ở bốn phương trời hải ngoại đều quên nước cũ, quên hận cũ, đều hãnh diện được làm công dân những nước khác! Cũng còn nhiều người mỗi năm Ngày Ba Mươi Tháng Tư đến vẫn thấy đau nhói trong tim, vẫn thấy mình là người lính vừa thua trận, nằm giữa sa trường nát gió mưa, nhắm mắt không quên đời chiến sĩ, làm thân cây cỏ nát ven bờ, vẫn đêm đêm bàng hoàng, đau đớn nghe từ đáy hồn thương tích, vẳng tiếng kèn truy điệu nước xưa…
    Hôm nay hai mươi sáu năm trước, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu – Tổng Thống thứ hai và cũng là Tổng Thống cuối cùng – của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ chức, bỏ nước, cùng thê tử, thủ hạ, chạy ra ngoại quốc, mở màn cho cuộc bỏ chạy tán loạn “vĩ đại” nhất lịch sử dân tộc. Nói theo ngôn từ Tầu Cộng, đây là cuộc bỏ chạy tập thể, cuộc bỏ chạy cả nước. Ngày nào đi lính đánh Cộng sản dân Việt còn hò nhau: “Một-Hai-Ba… Chúng ta đi lính cả làng…”, trong cuộc bỏ chạy cỡ quốc gia này không có “một-hai-ba…” gì cả, mạnh thằng nào thằng ấy chạy; chạy từ anh Tổng Thống đến ông tống thư văn, chạy từ chú đại tướng đến ông binh nhì…! Chúng ta bỏ chạy cả nước. Bỏ chạy tán loạn và khiếp đảm đến như thế, ta còn mặt mũi nào ngước mặt lên nhìn thẳng vào mặt ai.
    Chuyện cũ kể thêm buồn, nhưng cứ phải kể. Năm 1992 ở Thành Hồ, một số anh em chúng tôi gặp nhau trong tiệc cưới con trai Thanh Thương Hoàng. Năm ấy anh em chúng tôi còn sống ở Thành Hồ là Mặc Thu, Như Phong (Lê Văn Tiến), Tú Kếu (Trần Đức Uyển), Văn Quang, Dạ Lan, Thái Thủy, Uyên Thao, Nguyễn Đình Toàn, Hồ Nam, Vân Sơn, Cao Nguyên Lang, Nguyễn Thụy Long, Chóe (Nguyễn Hải Chí), Thế Phong, Hoàng Hương Trang v.v… Năm ấy, đời sống của anh em chúng tôi không còn đói rách, cơ cực quá đỗi như những năm 80. Đi ăn cưới con cháu, nhiều người trong chúng tôi bận com-lê, vét-tông, anh nào lè phè lắm cũng có cái ca-vát, nhiều người đi xế Honda. Trong tiệc tôi gặp anh Nhữ Văn Úy.
    Bạn hẳn còn nhớ Dân Biểu Nhữ Văn Úy chứ? Quên ai thì quên, ta khó quên anh dân biểu thước mốt này. Anh Thổ Hành Tôn bỏ nước chạy lấy người thoát thân trước ngày 30 Tháng Tư 75. Nghe nói khi mới sang đảo Guam, anh là một trong số những kẻ đầu têu ra chuyện đòi trở về nước, nhưng trong số người trở về trên tầu Việt Nam Thương Tín năm xưa ấy lại không có anh. Anh sống nhờ ở Pháp, và anh trở về làm thương mại ở Thành Hồ. Tôi hỏi anh:
    – Anh này đã chạy được rồi còn về đây làm gì?
    Không trả lời câu hỏi của tôi, anh ta nói:
    – Anh mà chạy được như tôi, anh cũng chạy khác gì tôi…
    Héng nói đúng. Tôi chạy không được, không phải tôi không muốn chạy, không phải tôi muốn ở lại chịu đau khổ với nhân dân. Không để cho tôi nói đến câu thứ hai, héng phú lỉnh luôn.
    Những ngày Tháng Ba, Tháng Tư đen hơn mõm chó năm 1975 tôi là nhân viên Sở Thông Tin Hoa Kỳ (tiếng Mỹ là Iu-dzít: USIS). Tôi ở trong ban biên tập tờ Triển Vọng, tạp chí của USIS. Năm 1972, sau khi ký hòa ước với Việt Cộng để rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường Viêït Nam, chánh phủ Hoa Kỳ dẹp bỏ hai cơ sở truyền thông từng tuyên truyền chống Cộng sản là Đài Phát Thanh Tiếng Nói Tự Do và tờ tạp chí Thế Giới Tự Do. Họ mở đài phát thanh mới là Đài Mẹ Việt Nam; tờ Thế Giới Tự Do được thay bằng tờ Triển Vọng. Tạp chí Triển Vọng không tuyên truyền chiến tranh chống Cộng, báo chỉ có những bài quảng bá văn minh, văn hóa, kỹ thuật Hoa Kỳ và lối sống của dân Hoa Kỳ.
    Trong những ngày dầu sôi, lửa bỏng giữa Tháng Tư 1975, tất cả nhân viên Mỹ trong USIS đã về nước hết, ở lại Sài Gòn chỉ còn bốn người: Giám Đốc, Phó Giám Đốc, Trưởng Phòng Nhân Viên, Trưởng Phòng An Ninh.
    Giám Đốc USIS Alan Carter (ông này hiện còn sống, vẫn làm việc trong chính phủ Mỹ) mỗi chiều sau khi đi họp bên Tòa Đại Sứ về, thường họp một số nhân viên USIS để phổ biến tình hình. Trong một buổi họp ấy, nhân viên Việt USIS hỏi ông về việc chính phủ Mỹ có đưa nhân viên Việt USIS đi khỏi nước không, Giám Đốc Carter trả lời:
    – Vấn đề ấy chưa được đặt ra. Lúc này Việt Nam Cộng Hoà như cái nhà có nguy cơ sụp đổ, nhiều người đang ra sức chống giữ cho nhà không bị đổ. Nay nếu chúng tôi đưa tay vào kéo các anh ra khỏi nhà, những người kia sẽ buông tay, nhà sẽ đổ luôn.
    Chúng tôi gặng hỏi:
    – Nhưng khi Việt Cộng sắp vào Sài Gòn, các ông có đưa chúng tôi đi không?
    Carter vẫn tránh né:
    – Tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Bởi vì nếu tôi nói khi Sài Gòn sắp mất, khi ViXi sắp vào Sài Gòn, chúng tôi sẽ đưa các anh đi, các anh sẽ nói với vợ con các anh là người Mỹ sẽ đưa nhân viên Sở Mỹ đi. Việc đó sẽ gây tai hại.
    Một chiều lúc năm giờ, đi họp bên Tòa Đại Sứ về, Carter cho gọi chúng tôi đến phòng họp. Tôi thấy ông có vẻ xúc động, ông đứng lên để nói:
    – Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ quyết định đưa các anh, chị và gia đình ra khỏi nước. Các anh, chị ghi lại quy định này để phổ biến cho đồng nghiệp của các anh, chị: Các anh, chị được đem theo vợ, chồng, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ, các con anh, chị. Con trai phải dưới 17 tuổi, con gái phải dưới 21 tuổi mới được theo bố mẹ…
    Tối hôm đó, ông Thiệu và gia đình đi khỏi Việt Nam. Ngày 25 Tháng Tư chuyến di tản nhân viên USIS thứ nhất lên xe buýt vào phi trường Tân Sơn Nhất. Mỗi ngày USIS chỉ một lần đưa nhân viên vào Tân Sơn Nhất. Người đi được Giám Đốc Carter chọn trong danh sách. Chỉ có chưa đầy ba phần mười nhân viên USIS đi thoát, vì chuyến đầu đi ngày 25-4, đến chiều ngày 28-4 phi trường Tân Sơn Nhất bị đánh bom, những chuyến phi cơ từ Guam bay sang ngừng lại, cuộc di tản bằng hàng không đứt ngang.
    Ngày 29-4-75, Sài Gòn náo loạn như tổ kiến vỡ, phi cơ trực thăng Mỹ bay vần vũ trên trời Sài Gòn từ trưa qua suốt đêm:
    Đùng đùng gió giục, mây vần
    Trực thăng trong cõi hồng trần như bay…
    Mãi sau tôi mới biết Tòa Đại Sứ Mỹ dự định đưa nhân viên Việt đi từ từ và đều đều cho đến ngày 15 Tháng Năm mới chấm dứt cuộc di tản, nhưng quân Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn quá nhanh. Lại thêm chính phủ Vũ Văn Mẫu yêu cầu: “Tất cả người Mỹ phải đi khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ”. Người Mỹ phải cuốn cờ lên trực thăng. Những ngày đêm tuyệt vọng kéo dài, khi nghe một anh bạn USIS nói “Mỹ nó không có ý đưa bọn mình đi”, tôi nghĩ dù đi được hay không tôi vẫn cám ơn Giám Đốc Alan Carter. Trong một cuộc họp giữa ông và chúng tôi vào chiều 23-4 hay 24-4-75, tôi hỏi Carter:
    – Các ông ra điều kiện con trai chúng tôi phải dưới 17 tuổi, con gái chúng tôi phải dưới 21 tuổi mới được đi theo chúng tôi. Đa số chúng tôi có con trai trên 17 tuổi, phải bỏ con lại, làm sao chúng tôi đi được?
    Carter nói:
    – Những điều kiện đó là do chính phủ của các anh đưa ra, không phải do chúng tôi. Chúng tôi muốn thực hiện một cuộc di tản đại qui mô, chúng tôi phải làm theo pháp luật. Nhưng… anh nói con trai anh 16 tuổi mà tôi nhìn nó như ông này (Carter nhìn ông bạn đồng nghiệp của tôi) tôi cũng không biết, tôi không phải nhà nhân diện học, tôi chỉ biết anh nói với tôi con anh 16 tuổi; anh nói con gái anh 20 tuổi mà tôi thấy nó như bà bạn đồng nghiệp của anh đây, tôi cũng không biết, tôi chỉ biết anh nói với tôi con gái anh 20 tuổi…
    Hai mươi sáu Tháng Tư đến, hai mươi sáu Tháng Tư đi, biết bao vật đổi, sao dời, bao nhiêu dâu biển, tôi vẫn không quên lời nói của Giám Đốc USIS Alan Carter chiều xưa ấy, tôi vẫn nhớ nét mặt ông khi ông nhìn tôi, tôi thấy rõ ông muốn thầm nói với tôi:
    – Sao anh ngu quá. Anh cứ khai trên danh sách con trai anh 16 tuổi là chúng tôi để nó đi theo anh, chúng tôi có đòi anh chứng minh con anh 16 tuổi đâu.



    Nhưng thôi, tôi không kể chuyện ta bỏ nước chạy lấy người nữa. Tôi nghĩ đây là lần cuối cùng tôi viết về Ngày Ba Mươi Tháng Tư 1975. Sang năm, Tháng Tư năm 2002, tôi muốn viết những chuyện gì khác chuyện Tháng Tư 1975. Tôi thấy tôi phải viết thêm. Viết “tất cả quân dân ta bỏ chạy trong Tháng Tư 1975” là không đúng. Trên các mặt trận tháng ấy, năm ấy, nhiều chiến sĩ của ta vẫn chiến đấu trong vô vọng, vẫn anh dũng đứng thẳng trước quân địch; nhiều người lấy cái chết đền nợ nước. Chiến sĩ ta chết trên khắp nước, đến ba, bốn giờ chiều Ngày Ba Mươi Tháng Tư 1975 vẫn còn những chiến sĩ ta anh dũng chết trên những đường phố Sài Gòn.
    Nhưng đốn mạt là bọn năm, ba tên Sài Gòn, vào lúc 4 giờ chiều ngày 30-4, chạy đến đài phát thanh phừng phưng ca hát chào mừng quân Cộng sản xâm lăng vào Sài Gòn. Đây là những tên mà người dân Sài Gòn bị chiếm đóng gọi là bọn “Cách Mạng Ba Mươi”. Bọn ca hát ở đài phát thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa chào mừng Cộng sản xâm lăng buổi chiều ngày 30 Tháng Tư 1975 là những tên Cách Mạng Ba Mươi thứ nhất ló mặt ở Sài Gòn sau khi quân Bắc Việt Cộng kéo vào Sài Gòn. Bọn Cách Mạng Ba Mươi là những tên xun xoe bám đít bọn Cộng sản. Nhân dân Việt Nam Cộng Hòa thù và khinh những tên Cách Mạng Ba Mươi. Nhân dân có câu:
    “Công an, bộ đội còn tha
    Ba Mươi giết hết, lột da đóng giày“.
    Sụp đổ tan tành, tủi nhục, tù tội, đói khổ, bị cướp đoạt hết, sống trong đen tối, tuyệt vọng, người dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn mơ có ngày quân ta trở về, vẫn ước ao ngày ta lại làm chủ đất nước, ngày ấy ta có thể tha chết cho những tên công an, bộ đội cộng sản bị ta bắt sống nhưng ta sẽ không tha chết cho những thằng Cách Mạng Ba Mươi – những thằng vẫn ở trong phe ta, những thằng khi thấy ta thua, ta ngã, chạy ra xun xoe vẫy đuôi chào đón bọn chủ mới.
    Ôi… giấc mơ quân ta trở về, ta lại làm chủ đất nước, đất nước lại của ta, khi ấy dù Thiệu, dù Kỳ, dù Khánh… dù gì cũng được, miễn là phe ta…
    Than ôi… Giấc mơ ấy không bao giờ đến. Bọn Cộng sản vẫn làm chủ Sài Gòn, bọn Cách Mạng Ba Mươi vẫn nhơn nhơn sống và chết, ta chỉ có thể lột da bọn Cách Mạng Ba Mươi trong những giấc mơ sầu muộn của ta…
    Người dân Việt Nam Cộng Hòa đã nghe danh từ “cách mạng” bị dùng bậy từ những năm 1963, 1964, khi đám tướng lãnh làm đảo chính tự nhận họ “làm cách mạng”. Năm 1975, người dân Việt Nam Cộng Hòa bị nghe tiếng “cách mạng” suốt ngày đêm và bị ám ảnh đến phát điên vì tiếng “cách mạng”. Họ gọi những tên tự nguyện nhẩy ra phục vụ đám chủ mới là bọn “Cách Mạng Ba Mươi”.
    “Cách Mạng Ba Mươi”, vì chỉ sau ngày 30 Tháng Tư 75 người ta mới thấy bọn đốn mạt này chường mặt. Trước ngày đó chúng là những người dân Việt Nam Cộng Hòa như mọi người. Hai việc làm chính mà bọn Cách Mạng Ba Mươi làm để phục vụ Việt Cộng trong những tháng đầu Việt Cộng mới làm chủ Sài Gòn là việc: chỉ điểm và dắt lính Việt Cộng đi chiếm những ngôi nhà mà chủ nhà đã chạy ra nước ngoài, chỉ chọc cho Việt Cộng bắt những người không chịu theo lệnh trình diện cải tạo, những người bị Việt Cộng kết tội là “có nợ máu với nhân dân”.
    Tôi đã viết về bọn Cách Mạng Ba Mươi năm 1995, vài tháng sau khi tôi bánh xe lãng tử đến Kỳ Hoa Đất Trích. Dưới đây là đoạn trích trong “Biệt Kích Cầm Bút” của tôi do nhà xuất bản Làng Văn ấn hành. Tôi viết loạt bài này trong những tháng đầu năm 1995, đăng trên tờ bán nguyệt san Ngày Nay, ấn hành ở Houston, Texas:
    “Tôi nghĩ ta không nên vu cho Việt Cộng nhiều tội ác hơn là những tội ác họ đã làm với đồng bào của họ. Việt Cộng, nón cối, giép râu, AK, răng cải mả, lính cái, nữ cán tóc bím đuôi sam kiểu Tầu Mãn Thanh, mông đít to như cái thúng, ngơ ngáo kéo nhau vào Sài Gòn như đàn bò vào thành phố ba triệu dân mà, trong số cả ngàn văn nghệ sĩ đủ loại, đủ bộ môn, chỉ có ba anh… Xin lỗi, tính lại chỉ có bốn anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Vũ Hạnh và Thái Bạch là bốn người quen sơ sơ. Ký giả Thái Bạch, thường được gọi là Thái Bịch, mặt mũi khó đăm đăm, trước 30 Tháng Tư 1975 ngồi xào nấu tin lô-can, tin xe cán chó, tin người đánh nhau được gọi là tin “Từ thành đến tỉnh” trong tòa soạn nhật báo Xây Dựng của Linh mục Thiên Hổ Nguyễn Quang Lãm ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về mục Cờ Tây. Thái Bạch làm văn nghệ từ lâu lắm, là tác giả quyển “Thi Văn Quốc Cấm thời Pháp thuộc“. Quyển này được tái bản ở Hoa Kỳ.
    “Công tử Hà Đông nhấn nút linh tử bộ nhớ xem lại vài cảnh bỏ nước chạy lấy người thê thảm hai mươi mốt mùa cô hồn Tháng Tư năm xưa. Phải nói là ngày ấy, tháng ấy, năm ấy Công tử gà què kẹt giỏ chạy không kịp chứ không phải là không muốn chạy.
    “Từ trưa ngày 29 Tháng Tư trực thăng Mẽo bay vần vũ trên trời Sài Gòn, tiếng máy bay quần thảo suốt đêm. Tảng sáng Ba Mươi, trực thăng Mỹ vắng bóng trên thành phố đầu hàng. 11 giờ trưa “Toỏng Thoóng” Dương Văn Minh đọc lệnh buông súng trên ra-dzô, những người lính Việt Nam Cộng Hòa bại trận, buông súng, vừa đi vừa khóc trên hè phố. Đường phố Sài Gòn náo loạn, người ta chạy lên, chạy xuống như kiến vỡ tổ. Bốn giờ chiều có anh nào đó tên là Tòng – Nguyễn hay Lê Văn Tòng – cùng vài anh nữa hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng Bắc Việt Cộng trên đài phát thanh.
    “Năm, sáu, bẩy, tám, chín, mười ngày sau, một số ký giả nhanh chân chạy đến “trình diện” ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Lê Lợi. Ở đây có một anh cán bộ nào đó tên là Kỳ Nhân cấp cho đám ký giả Sài Gòn nhanh chân chạy đến với chủ mới những giấy chứng nhận “có đến trình diện” ký tên Kỳ Nhân. Ít ngày sau, anh Kỳ Nhân này mất tích. Nhiều ký giả nói với nhau: “Không biết thằng Kỳ Nhân là thằng nào. Có lẽ tên nó là Kỳ Nhông thì đúng hơn…”
    “Bọn Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam chiếm tòa Đại sứ Đại Hàn ở đường Nguyễn Du (nghe nói nhà này nguyên là nhà của ông Nguyễn Hữu Hào, ông Quốc cữu thời vua Bảo Đại). Văn nghệ sĩ Sài Gòn kẹt giỏ bảo nhau đến đó “trình diện cách mạng”.
    “Thực ra Việt Cộng nó chỉ ra lệnh và kêu gọi các sĩ quan, cảnh sát, công chức và đặc biệt là quý ông bác sĩ, giáo viên, nhân viên bệnh viện v.v… đi trình diện ở nhiệm sở thôi. Mới vào được Sài Gòn, Việt Cộng đang có quá nhiều việc rối tinh, rối mù. Họ không ngờ họ chiếm được “Sài Gòn đẹp quá Sài Gòn ơi” dễ và nhanh ngon lành đến thế, hai là họ chẳng thèm để ý, để tứ, để mắt, để mũi gì đến đám văn nghệ sĩ Sài Gòn nên họ hổng có kêu gọi mấy anh đi “trình diện, trình mạo” chi ráo trọi. Mấy ảnh sợ và mấy ảnh tưởng bở, mấy ảnh nghĩ “đi trình diện là tốt”, nên mấy ảnh lơ láo đến Tòa Đại sứ Đại Hàn nay đã đổi chủ. Công tử Hà Đông cũng đến đấy.
    “Đến đấy mấy ảnh gặp ký giả Thái Bịch. Bộ mặt Thái Bịch những ngày Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh trông đã khó thương, nay cờ đỏ sao vàng đầy thành phố, bộ mặt ấy trông lại càng ghê rợn. Ký giả nhà ta lúc thì mặt lạnh như tiền, lúc thì hòa nhã với cái vẻ cố ý để cho những kẻ đến gặp anh biết anh muốn nói với họ: “Bi giờ ngươi đã biết Thái Bịch này chưa?”
    “Để chứng tỏ mình không phải là thường dân, mình là chiến sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mấy anh Cách Mạng Ba Mươi chạy cờ, chạy hiệu, chạy bàn thường đeo cái băng đỏ ở cánh tay. Đặc biệt Ký giả Thái Bịch đeo sề sệ một khẩu Côn Đui bên hông. Ký giả Thái Bịch nhờ ơn Bác, Đảng, được hạnh phúc đeo Côn Đui (hay Côn Bạt, súng Mỹ) liên tục dễ đến hơn cả tháng. Vài tháng sau, Việt Cộng tổ chức lại, đem cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng về tòa nhà Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, ngã tư đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Bộ mặt hãm tài của ký giả Thái Bịch không còn xuất hiện nữa”. (Trích “Biệt Kích Cầm Bút”, Hoàng Hải Thủy)
    Những tên “Cách Mạng Ba Mươi” là những thằng hèn kiêm ngu si, tưởng bở. Chúng tưởng chúng nhẩy ra chào mừng bọn Việt Cộng chiến thắng, tự nguyện hiến dâng thân khuyển mã phục vụ chủ mới, chúng sẽ được chủ mới chấp nhận, cho hưởng vài đặc quyền. Bọn Việt Công gần như không dùng một tên “ba mươi” nào lâu. Nói cho đúng, Việt Cộng có dùng nhưng rất hạn chế và thường chỉ dùng trong những việc vặt, việc chỉ chọc, việc bới móc tố cáo những người dân Việt Nam Cộng Hòa mà Việt Cộng cho là có tội. Bọn “ba mươi” lòng lang, dạ thú lập công bằng cách làm hại những người chúng quen biết, những người từng đối xử tốt với chúng. Dù chúng làm những việc tồi tàn, khốn nạn đến chính vợ con chúng cũng phải tủi hổ, chúng vẫn bị Việt Cộng đối xử lạnh nhạt, cho đi chỗ khác chơi sau một thời gian ngắn. Tôi gọi chúng là thứ “phi cầm phi thú”.
    Tôi nghe thành ngữ “phi cầm, phi thú” lần đầu vài ngày sau ngày 1-11-1963, ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu bị hạ bệ. Một tâm thư ngắn được đăng trên hai tờ nhật báo Ngôn Luận, Đồng Nai. Trong thư này, ba ký giả Từ Chung, Chu Tử, Hiếu Chân (cả ba anh đều đã qua đời) tự nhận các anh có lỗi vì các anh thấy chính phủ Ngô Đình Diệm phạm nhiều tội ác với nhân dân mà không dám tố cáo, các anh tự nhận các anh là một loại “phi cầm, phi thú”.
    Dưới đây là đoạn tôi viết năm 1995 về một số người tôi gọi là “phi cầm, phi thú”:
    “Chúng tôi, bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn bại trận, chúng tôi có anh có em. Trong nhục nhã, trong khổ cực, trong tù đầy, chúng tôi vẫn có nhau, chúng tôi vẫn là những văn nghệ sĩ Sài Gòn. Cảnh “phi cầm, phi thú” hiện ra rõ nhất trong những cái gọi là buổi sinh hoạt tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố Hồ Chí Minh, trụ sở đặt trong tòa nhà có vườn rộng trước 75 là một cơ sở tình báo của Việt Nam Cộng Hòa, góc đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Những người trong Ban Chấp Hành cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng, thường là Tổng Thư Ký Việt Phương, lên Ủy Ban Thành Phố họp, nghe chỉ thị, về phổ biến với các văn nghệ sĩ. Những buổi như thế gọi là buổi sinh hoạt.
    “Trong những buổi sinh hoạt này, bọn trong Ban Chấp Hành Hội ngồi hàng ghế chủ tọa đối diện với hàng ghế của văn nghệ sĩ Sài Gòn. Hai bên ngồi đối mặt với nhau. Hai anh Kỳ Nhông, Kỳ Đà Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn cũng dự buổi sinh hoạt. Hai anh không thể ngồi cùng hàng ghế hay ngồi sau lưng bọn Giải Phóng Miền Nam. Sức mấy chúng nó cho hai anh ngồi chung. Hai anh không ngồi chung chỗ với bọn chúng tôi, chắc hai anh sợ ngồi với chúng tôi hai anh xấu hổ… Cũng có thể hai anh nhìn thấy sự khinh bỉ hai anh trong ánh mắt của anh em chúng tôi… Hai anh không thể ngồi sau đít bọn Văn Nghệ Giải Phóng đối diện với bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn bại trận, hai anh không muốn ngồi chung với bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn nhục nhã. Vậy thì trong những buổi họp chia hai phe rõ rệt mặt đối mặt, chính tà hai phái, hai anh Kỳ Nhông đặt đít ở đâu?
    “Hai anh ngồi ở hai ghế bên cạnh. Hai anh không ngồi trong phe giải phóng, hai anh cũng không ngồi trong phe Việt Nam Cộng Hòa bại trận.
    “Dường như Phạm Trọng Cầu – Phạm Trọng: “Em ra đi mùa thu… mùa thu không trở lại…” cũng đã được sáng mắt, sáng lòng đôi chút trước cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa do cách mạng vô sản dựng lên, vì thấy nó bê bối, bết bát, dơ dáy quá đỗi. Nhiều anh chị nhờ gia đình có tiền cho sang Tây ăn học, đớp phải bả xã hội chủ nghĩa, tưởng bở, hung hăng con bọ xít, theo đuôi cộng sản mần “cách mạng”, bị Cộng sản cho hộc máu, vỡ mặt khi chúng cướp được chính quyền. Điển hình và đại diện cho giới “phi cầm, phi thú” này là Mợ Dương Quỳnh Hoa.
    “Nghe nói chỉ sau vài mùa kỷ niệm bác Hồ đầu thai, Phạm Trọng đã có vẻ thất vọng. Phạm Trọng có mần lời ca theo điệu nhạc bài “Quê Em”:
    “Quê em miền trung du,
    Đồng quê lúa xanh rờn,
    Giặc tràn lên cướp phá.
    Anh về quê cũ,
    Đi diệt thù giữ quê,
    Giặc tan đón em về”
    Lời ca của Phạm Trọng theo nhạc “Quê Em” có câu mở đầu:
    Ba tôi trồng khoai lang,
    Đào lên thấy khoai mì,
    Thật là điều phi lý.
    Tôi về quê cũ,
    Ra vườn trồng khoai lang,
    Đào lên thấy khoai mì…
    “Những anh Kỳ Nhông đi theo cộng sản mần “cách mạng xã hội chủ nghĩa” tưởng bở: xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa nhất định phải tốt đẹp hơn xã hội tư sản dân chủ. Mấy ảnh ngẩn ngơ khi thấy sao nó bẩn quá.
    “Thứ củ có thể ăn được, người Bắc gọi là sắn, người Nam gọi là mì hoặc khoai mì. Những chị đi bán rong trong những xóm nghèo thường rao: “Ai khoai lang, khoai mì…”
    “Thứ củ người Nam kêu là củ sắn, người Bắc gọi là củ đậu. Ông bố mấy anh Kỳ Nhông trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì cũng còn là khá, ông nội anh không có trồng khoai lang, khoai mì, ông nội ác ôn của anh trồng người. Các em nhỏ bất hạnh bị đem ra trồng đầu vùi dưới đất, chân chổng lên trời.
    “Ở những cánh đồng cách mạng vô sản ấy, khi đào đất lên người ta không thấy khoai mì, khoai lang chi cả, người ta chỉ thấy sọ người, xương người và máu người.
    “Lo việc mười năm: trồng cây. Lo việc trăm năm: trồng người”.
    “Câu nói của một Quân Tải Tàu nào ngày xưa, được ghi trong sách Minh Tâm Bảo Giám do ông Đoàn Trung Còn biên soạn. Già Hồ mượn dùng cũng được đi. Nhưng trồng là trồng cây: trồng cây si, trồng đậu, trồng gạch, trồng gì cũng được, “trồng người” nghe sao man rợ quá trời. Những anh cộng sản coi đồng bào như những con vật để họ sai khiến, bóc lột, như những cái cây để họ đem trồng. Những em bé Việt Nam bất hạnh được coi là những khúc măng non…
    “Em là khúc măng non…
    Em chín queo trong nồi cách mạng“, và:
    “Cháu lên ba… Cháu vô mẫu giáo
    Cô thương cháu là cháu không khóc nhè…
    Không khóc nhè…. È é e…
    Em vào trường học
    Mẹ cha vào nhà máy…
    Ông bà lo cấy cầy…”
    “Ông bà lo cấy cầy?”. Chèng đét théng thèng ơi… Ông bà xã hội chủ nghĩa cho có trẻ lắm cũng phải sáu mươi, bẩy mươi… Khứa lão lọm cọm sống trong xã hội thối nát tư sản đến tuổi sáu bó là đã bị con cháu cho ngồi chơi xơi nước. Khứa ông buổi sáng nhâm nhi ly trà tầu, trà ướp sen, ly cà phê hay ly nước trà thường nóng nếu sống giản dị, ngày xưa ở Bắc Kỳ các khứa lão còn để móng tay dài, râu ba chòm, xuân hạ tay phe phẩy cái quạt, chống gậy đi chơi, gặp ông bạn cũng khứa lão đánh vài ván cờ tướng, thu chơi hoa cúc, câu cá, trưa mùa đông ăn cơm uống ly rượu tăm rồi đắp mền nằm ngáo. Khứa lão bà trông nom các cháu, giúp đỡ con dâu, ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật, sáng sáng, chiều chiều đến nhà thờ dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, cảm ơn và xin ơn Thiên Chúa.
    “Đấy là đại khái vài hình ảnh, cuộc sống những ông già, bà lão trong xã hội tư sản. Những ông già, bà lão trong xã hội vô sản ra đồng làm trâu bò cho đến lúc ngã xuống thở hơi cuối cùng. Trong khi đó thì “thi sĩ Đảng” Tố Hữu mần thơ diễn tả tấm lòng cao cả của bác Hồ muôn kính, ngàn yêu, ngày đêm bác vẫn mơ mộng làm sao để có:
    “Sữa tặng em thơ, lụa tặng già”.

    Tối mùa mưa năm 1982, chúng tôi ngồi uống rượu đế một đồng tiền Hồ một ly ở quán nghèo thật nghèo trên vỉa hè bên cổng xe lửa Số 6. Bạn tôi, L.T.N nói:
    – Bảo Trịnh Công Sơn là cộng sản tội nghiệp nó.
    Tôi nói:
    – Có ai bảo nó là cộng sản đâu. Nếu nó là cộng sản thì ai nói làm gì. Vì nó không phải là cộng sản mà nó lại bợ đít bọn cộng sản nên người ta mới có vấn đề về nó.
    Bạn tôi, Văn Quang, ở Thành Hồ, tường thuật đám tang Trịnh Công Sơn, tả anh đem máy ảnh đến nhà Trịnh Công Sơn ngồi chờ chụp ảnh. Anh phải ngồi chờ vì lúc ấy người chết chưa được liệm, Trịnh Công Sơn nằm đó với chiếc khăn phủ mặt. Anh kể chuyện ngày xưa, Tết Mậu Thân, Việt Cộng đánh vào Sài Gòn, thành phố giới nghiêm từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng. Là sĩ quan, anh có giấy phép đi trong giờ giới nghiêm. Anh lái xe đưa Trịnh Công Sơn đi chơi trong thành phố Sài Gòn ban đêm vắng tanh, chỉ có những dẫy đèn vàng, những binh sĩ tuần tiễu, đứng gác ở những ngã tư đường. Anh kể anh đưa Trịnh Công Sơn, với cây đàn ghi-ta, về ở trong căn phòng riêng của anh v.v… Anh kể trong căn phòng đó (anh bạn tôi có vợ con, có nhà lầu, nhưng cũng như nhiều tay chơi Sài Gòn trước 75, anh có căn phòng riêng trong một bin-đinh dùng làm nơi ăn chơi), những ngày sau Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn đã sáng tác những bản nhạc X, Y, Z… Lời kể của anh cho thấy anh vừa là đàn anh cưu mang vừa là bạn văn nghệ, bạn tâm giao của Trịnh Công Sơn. Tôi bùi ngùi muốn hỏi anh, muốn nói với anh:
    – Tháng Tư 75 nó có mù đâu, nó phải thấy đồng bào mình ghê sợ Cộng sản, chê bỏ Cộng sản, đồng bào mình liều chết chạy trốn quân Bắc Việt Cộng, đồng bào mình chết đau thương, khổ cực thê thảm đến như thế nào. Nó phải thấy Việt Cộng tàn sát đồng bào ở Huế trong Tết Mậu Thân, nó phải thấy bọn Bắc Việt Cộng xâm lăng bắn giết đồng bào trên khắp đất nước. Nó không ngu đến cái độ không biết là quân Bắc Việt Cộng vào Sài Gòn, những sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng mến tài nó, che chở nó, làm ơn cho nó, như mày, như Lưu Kim Cương, sẽ bị bọn Bắc Việt Cộng bỏ tù mút chỉ cà tha. Nó phải biết chứ, nó phải thấy chứ, sao nó nhẫn tâm ca hát chào mừng bọn Việt Cộng, sao nó tỏ ra sung sướng khi nó biết chúng mày sắp khốn khổ, khốn nạn? Mày kể mày thân với nó, mày là bạn nó, tao không thấy nó thân với mày, không thấy nó nhận mày là bạn, mày cưu mang nó, mày đi tù mười mấy năm nó không một lời hỏi thăm. Mày thân tàn trở về, vợ bỏ, nhà mất, con mày tan tác, tao không thấy nó đi tìm mày, không thấy nó chi cho mày nửa lời an ủi. Nó bạn với bọn văn nghệ sĩ miền Bắc, nó không bạn với bất cứ thằng văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà bại trận nào.
    Ông bạn N.T, nhân câu dân dao “Ba Mươi giết hết lột da đóng giày”, nói:
    – Tha nó. Lột da nó làm gì. Mình khác nó…
    Thở hắt ra, tôi nghĩ: “Nói vậy thôi, mình có lột da được thằng nào đâu. Chúng nó lột da mình thì có. Chúng nó lột da anh em mình dài dài từ ngày ấy…”
    Tôi mượn lời ông Elie Weisel để diễn tả tâm trạng tôi. Elie Weisel là người Do Thái, sinh trưởng ở Romania, hiện cư ngụ ở Hoa Kỳ. Sống sót từ Lò Thiêu Người Do Thái của Đức Quốc Xã, trong khi cha mẹ, anh chị em ông chết hết trong Lò Thiêu Người. Elie Weisel viết Hồi Ký tố cáo tội ác bọn Đức Quốc Xã đã làm với dân Do Thái trong Thế Chiến Thứ Hai. Ông được Giải Nobel Hòa Bình năm 1986. Chắc có ai đó đề nghị ông nên tha thứ, ông viết:
    – Tôi không có quyền tha thứ cho bọn giết người về cái tội chúng đã tiêu diệt 6 triệu người Do Thái. Quyền tha thứ hay không là ở những người đã chết.
    Chiều nay, đúng giờ này, ngày này 26 năm trước, 4 giờ chiều Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, trời Sài Gòn u ám, đất Sài Gòn quằn quại, người Sài Gòn đau thương, mấy tên đốn mạt đến đài phát thanh phứng phưng hát chào mừng quân xâm lăng.
    Tôn vinh hương linh những công dân Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa – quân và dân – đã chết vì chống lại cộng sản, tưởng nhớ những người Sài Gòn đến 4 giờ chiều ngày 30 Tháng Tư 1975 còn chết vì chống Cộng sản ở Sài Gòn, tôi thành kính – và ngậm ngùi – viết những dòng này.

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (09)




    “Thương nữ bất tri vong quốc hận
    Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa…”

    Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, những anh Con Trai Bà Cả Đọi Giao Chỉ có cái hay là không cần kỳ cọc học chữ Hán, vẫn có thể hiểu được Thơ Đường. Chẳng hạn như hai câu thơ của Đỗ Mục, các anh hiểu “Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”. Các anh chẳng cần phụ đề Việt ngữ: “Những em gái chơi – trong bài thơ này là các em ca kĩ 0 không biết cái hận mất nước. Đêm đêm vẫn hát bài Hậu Đình Hoa!” Cay cú thì thêm vào mấy tiếng: “Hát cho bọn cướp nước nghe”.

    Tôi đọc Dạ Bạc Tần Hoài những năm 1950. Năm xưa ấy, tôi thấy thơ Dạ Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục rằng hay thì thật là hay… nhưng không ngậm đắng, nuốt cay tí nào! Không cay đắng bởi vì từ năm 1950 đến năm 1975 tuy tôi đã mất một nửa nước, tôi vẫn còn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Chỉ đến những đêm buồn khủng khiếp sau 1975, từ đó dài dài dài mãi đến bây giờ và không biết còn dài đến bao giờ, tôi mới biết cái nhục mất nước và tôi mới thấm thơ Dạ Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục.

    Những em xướng ca, đời nào cũng vậy, thường chỉ hát phục vụ bọn đàn ông có quyền, có tiền. Nghề nghiệp buộc các em phải làm thế. Ta đã thấy Người Thơ tài hoa Nguyễn Du kể chuyện Nàng Cầm ở thành Thăng Long những năm 1800:

    “Long Thành giai nhân
    Tính thị bất kỳ thanh
    Độc thiện Nguyễn cầm
    Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh…”
    (Người đẹp Thành Thăng Long
    Họ tên không ai rõ
    Riêng giỏi đàn cầm
    Nên người toàn thành gọi tên là Cầm…)

    Đàn Cầm còn có tên là đàn Nguyệt, lại có tên là đàn Nguyễn, do Nguyễn Hàm, một vị trong Trúc Lâm Thất Hiền đời Tấn tạo ra.

    Thi sĩ Trữ Tình kể chàng nhìn thấy Nàng Nguyệt Cầm lần thứ nhất trong một dạ yến của các tướng lãnh Tây Sơn ở Thăng Long. Thi sĩ ta tuy không ở trong phe Tây Sơn chiến thắng, hơn thế nữa chàng còn ở trong phe Lê Trịnh chiến bại, chàng cũng góp mặt ăn có, ăn theo những cuộc liên hoan của những người chiến thắng. Chàng kể:

    Tôi khi trẻ đã được thấy Nàng một lần
    Trong buổi yến tiệc bên Hồ Giám.
    Bấy giờ tuổi Nàng ba lần bẩy – “Kỷ thì tam thất chính phương niên” – tức Nàng hai mươi mốt tuổi đương xuân.
    Áo hồng ánh chiếu lên khuôn mặt hoa đào
    Vẻ mặt Nàng mơ màng, dáng vẻ ngây ngất rất đẹp
    Năm cung rộn rịp, biến hóa dưới ngón tay nàng (…)
    Tướng lãnh Tây Sơn trong tiệc đều nghiêng ngả
    Họ đua nhau tặng thưởng tiền cho Nàng
    Nhớ lại dạ tiệc ấy qua đã hai mươi năm
    Tây Sơn thảm bại, tôi vào Nam
    Long Thành trong gang tấc không được thấy nữa…
    Nay Tuyên Phủ Sứ vì tôi mở tiệc vui
    Trong tiệc các nàng ca nữ đều trẻ đẹp
    Duy ở phía cuối có một người tóc hoa râm
    Mặt gầy gò, thần sắc khô héo, thân mình nhỏ bé
    Đôi mày tàn tạ không trang điểm
    Nào có ai biết đó là người chơi đàn hay nhất thành.
    Nghe khúc nhạc cũ mà giọng điệu mới, tôi thầm rơi lệ
    Tai lặng nghe mà lòng buồn thương
    Nhớ lại hai mươi năm trước từng thấy Nàng..
    Thành quách đổi rời, việc người cũng khác.
    Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết
    Chỉ còn sót lại người nữ nhạc công này
    Chớp mắt trăm năm có là bao
    Đau lòng việc cũ lệ thấm áo…
    Tôi từ ngày vào Nam tóc trắng hết
    Tất nhiên nhan sắc người đẹp phải suy tàn…

    Khi tướng lãnh Tây Sơn làm chủ Thăng Long, Nguyệt Cầm đang thời xuân sắc. Chàng chưa có danh vọng gì. Chắc năm ấy tuổi Chàng cũng ba lần bẩy bằng tuổi Nàng. Chàng được vào dự yến chắc là nhờ đi theo ông anh là đại thần của Nhà Tây Sơn. Chàng ngồi ở cuối tiệc. Hai mươi năm sau (1813) Chàng là Đại Sứ Trưởng Sứ Bộ An Nam sang triều cống Thiên Triều Mãn Thanh. Trên đường sang Thiên Quốc, Chàng và Sứ Bộ nghỉ lại thành Thăng Long. Tuyên Phủ Sứ đặc biệt mở dạ tiệc khoản đãi. Đêm nay, vật đổi, sao dời, Chàng là thượng khách của dạ tiệc, Nàng là nữ nhạc công già, ngồi đàn ở cuối ban nhạc.

    Kể lại chuyện xưa để thấy những người hành nghề ca xướng, đàn địch, đời xưa, đời nay, đời sau, đời nào cũng phải phục vụ bọn có quyền. Do đó họ bị chê là:

    “Thương nữ bất tri vong quốc hận
    Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”.

    Biết vậy nhưng ta vẫn đắng cay khi ta sống ở Thành Hồ những năm sau cuộc trời long, đất ngả nghiêng đen hơn mõm chó mực, đen hơn cái lá đa ca dao, ta nghe, ta thấy, ta bị, ta phải nghe, phải thấy những em thương nữ ca hát nâng bi bọn Bắc Việt Cộng nón cối, giép râu, răng cải mả, tóc bím, đít to hơn cái thúng, kéo vào làm chủ Sài Gòn Thủ Đô của ta. Ta cay đắng và ta cay cú. Không cay cú sao được. Ta cay cú vì ta là người. Thần kinh ta rã rời, trái tim ta nát ngấu như trái sa-bô-chê bị xay trong bình quay sinh tố khi trong ngày bế mạc cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị II cho Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Kẹt Giỏ ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn thất thủ của ta – Tháng Bẩy 1976. Trong buổi chiều, đại biểu các Tổ học tập lên diễn đàn phát biểu ý kiến, tâm hồn ta như cái ruột xe đạp sì hơi, rách còn hơn cái mền Sakymen (Sài Gòn Kỹ Nghệ Mền Len, Xưởng Máy ở chân cầu Bình Triệu), khi ta ngồi chết dí ở đấy nghe em thương nữ nói thao thao như mây bay, như suối chẩy:

    – Cách mạng mới vào, em cũng sợ lắm. Em từng được nghe nhiều chuyện không hay về cách mạng. Những ngày đầu em cũng hoang mang. May mắn em được chị Kim Cương dẫn dắt. Em đi hát và trong một lần trình diễn em thấy cử tọa nghiêm túc nghe em hát, tán thưởng, cổ võ đúng lúc. Em nghĩ đây mới thật là chỗ đứng của người nghệ sĩ. Em phấn khởi nghĩ: “Đây mới thực là chỗ đứng của mình…”

    Không biết đó là những lời tự em nghĩ ra hay em được ai mớm? Hai mươi nhăm năm xưa khi nghe em nói những câu đó tôi đã thắc mắc như thế, hôm nay viết lại chuyện xưa tôi vẫn còn nguyên thắc mắc ấy. Nếu em nghĩ ra thì tôi phải phục em vì tài nghệ nâng bi của em, nếu đó là lời người khác mớm cho em thì tôi cũng phải phục em vì em nhớ, em nói không vấp váp. Em nói em hát cho bọn ViXi nghe và em thấy việc ấy là đúng, là việc em nên làm, em nói bọn ViXi mới xứng đáng là những kẻ được nghe em hát, chỉ có bọn ViXi mới kính trọng con người nghệ sĩ của em, tôn trọng tài năng của em; em nói “chỗ đứng” – đây là chỗ em đứng em hát, “chỗ đứng” của em là chỗ trước mặt bọn ViXi. Nhưng rồi ngay sau đó em bỏ chỗ đứng của em, em ù té, em đi một đường vượt biên. Hai mươi mùa sầu riêng trổ gai sau ở Hoa Kỳ, tôi nhìn thấy em trên băng video. Thiên hạ hỏi em tại sao em hát hay thế, em trả lời em “hát bằng trái tim”. Tôi thắc mắc không biết những năm 76, 77 ở Thành Hồ em hát cho bọn ViXi nghe bằng cái gì?

    Ngoài việc nâng bi ViXi trong lần phát biểu cảm tưởng (Cán Cộng gọi là “thu hoạch”) sau khóa Bồi Dưỡng Chính Trị chiều xưa ấy, em nữ ca sĩ Hậu Đình Sài Gòn còn phăng phăng kể cho bọn ViXi nghe chuyện Tổng Thẹo mê em, Tổng Thẹo cứ nhẩy với một mình em trong Đêm Liên Hoan Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở Cà Mâu. Em kể, em nói với Tổng Thẹo: “Ở đây có nhiều cô… Tổng Thống nhẩy với cô khác đi, bài nào Tổng Thống cũng nhẩy với em người ta thấy kỳ quá. Ông ấy nói: “Cái đinh đã đóng vào cột rồi, đâu có dễ gì nhổ ra”.

    Chiều xưa, một chiều mưa Tháng Bẩy 1976, trong nhà Hát Lớn của ta nay Bắc ViXi làm chủ, khi nghe em ca sĩ kể chuyện Tổng Thẹo đa tình ôm nữ ca sĩ đi một đường Tango lả lướt ở Cà Mâu, đang buồn thúi ruột tôi cũng phải nhếch mép cười như mếu vì câu nói văn huê của Tổng Thẹo: “Cái đinh đóng cột…”, và lúc đó tôi nghĩ: “Người ta đang nhắc đến ông ta, không biết giờ này ở bên ấy ông ta có bị ù tai, hắt sì hơi không?” Tôi tự hỏi em ca sĩ kể chuyện Tổng Thẹo mê em cho Việt Cộng nghe để làm cái gì vậy? Em cứ nói em phục nó lắm, em hãnh diện được hát cho nó nghe, là nó hài lòng rồi, nó có đòi em kể chuyện Tổng Thẹo lẹo tẹo với em đâu.

    Một ông bạn tôi nói:

    – Ngày nào bọn Việt Cộng bị lật, chắc đồng bào ta cũng không ai trả thù chúng đâu. Dân tộc ta dễ tha thứ. Chuyện Cục Đá Ngày Xưa trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, ông nhớ chứ?

    Nhớ chứ. Nhưng tôi không đồng ý với việc vứt cục đá đi của nhân vật trong chuyện. Khi tên nhà giầu ném cục đá vào đầu anh nay đã lâm vào cảnh ăn mày ăn nhặt, anh nghĩ trước kia anh ném lại cục đá vào đầu nó là anh dại, nay anh ném nó là anh hèn… cũng được đi. Nhưng tôi nghĩ anh nên cầm cục đá dí vào mặt nó, kể lại chuyện ngày trước nó cậy giầu nó ném cục đá đó vào đầu anh cho nó nghe, cho mọi người nghe, nói cho nó biết nó có tội và nay anh có thể trả thù, anh hành tội nó được nhưng anh không thèm làm. Nói để cho những thằng nhà giầu khác thấy để chúng nó sợ không dám làm bậy khi có tiền, có quyền, có thế.

    Quân tử Tầu còn có câu: “Không đánh người ngã ngựa. Đánh người ngã ngựa là hèn”. Tôi cũng không đồng ý với tinh thần câu ấy. Lúc nó ngồi trên ngựa, tức lúc nó có quyền, có thế, nó đánh mình, làm sao mình đánh lại nó? Lúc ấy mình chỉ né nó thôi cũng đã vỡ mặt rồi. Ở đó mà đánh lại. Nhưng lúc nó ngã ngựa, lúc nó ngang cơ với mình, mình đánh cho nó bỏ mẹ nó là phải chứ. Đánh nó để cho những thằng đang ngồi trên ngựa thấy cảnh nhục nhã của những thằng khi có quyền, có thế hung hãn đánh người, làm hại người, đến khi mất quyền sẽ bị người đối xử ra sao. Cho chúng thấy để chúng tởn, chúng bớt làm bậy.

    Thời loạn, nhất là trong những quốc gia bị xâm lăng, bị thôn tính, bị tiêu diệt, chẳng cứ gì đám “thương nữ” mới “bất tri vong quốc hận”, bọn văn nhân vô hạnh cũng có nhiều tên tự nguyện nâng bi bọn chiến thắng. Trong buổi bế mạc cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị cho Văn Nghệ Sĩ ở Thành Hồ Tháng Bẩy 1976, ngoài em ca sĩ Cái Đinh Đóng Cột, còn có anh nhà dzăng lên xưng tội, thành khẩn cám ơn Bác và Đảng đã cho anh được sáng mắt, sáng lòng (anh này, ngay sau khi cám ơn Bác và Đảng, cũng ù té một đường vượt biên đi mất hút),có anh ca sĩ lên phát biểu, nói gì không nói, kể chuyện ma tịt:

    – Chị Phen Hường Tỏi có cái xe Mát-đa thì chị Phen Hường Riềng cũng phải có cái Đát-sun. Những nữ ca sĩ Sài Gòn muốn nổi tiếng phải đi qua cái giường…

    Chiều ấy, nghe anh Ca Sĩ Cà Chớn nói, tôi ngơ ngác: “Tại sao lại có thể mở miệng nói như thế trước bọn Việt Cộng? Chúng nó có đòi mình phải nói như thế đâu? Tại sao mình lại tự bôi bẩn lên mặt mình một cách ngu xuẩn quá như thế?

    . Loại xướng ca này hát cho Lính chỉ làm cho Lính xấu hổ.

    oOo

    Thôi nhé… Hãy tạm quên đi những hờn giận, những đắng cay, để trở về với bài thơ Hậu Đình Hoa.
    Tác giả là Trần Thúc Bảo, ông vua cuối cùng của nhà Trần Nam Triều bên Tầu. Tất nhiên, Nam Triều bên Tầu, không phải Nam Triều Tiên. Ông vua Tầu này thường được gọi là Trần Hậu Chủ, làm Vua từ năm 583 đến năm 589, vỏn vẹn 6 năm, thì bị Tùy Văn Đế diệt, nhưng tên tuổi được nhắc mãi nhờ là tác giả một bài thơ và phần lớn nhờ được thi sĩ Đỗ Mục nhắc đến bài thơ đó. Đây là bài thơ “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa” của Trần Hậu Chủ:

    “Lệ vũ phương lâm đối cao các
    Tân trang diễm chất bản khuynh thành.
    Aùnh hộ ngưng kiều sạ bất tiến
    Xuất duy hàm thái tiếu tương nghênh.
    Yêu cơ kiểm thị hoa hàm lộ
    Ngọc thụ lưu quang chiếu hậu đình”.
    (Cây Ngọc Như Hoa ở Hậu Đình
    Nhà ngọc, rừng thơm đối diện với lầu cao,
    Mới trang điểm, sắc đẹp vốn khuynh thành.
    Cánh cửa sáng lên, dáng kiều ngập ngừng dừng lại.
    Vén rèm bước ra,mặt tươi nét cười đón nhau
    Người đẹp trẻ tuổi, mặt tươi như hoa ngậm sương
    Nàng như cây ngọc phát ánh sáng, chiếu rực rỡ cả hậu đình.

    Ý thơ thường thôi, bài thơ sống được mãi với đời là nhờ thơ “Dạ Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục:

    “Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa.
    Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
    Thương nữ bất tri vong quốc hận
    Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa“.
    (Khói lồng nước lạnh, trăng lồng cát.
    Đêm ở Tần Hoài, cạnh tửu gia.
    Thương nữ không hay sầu mất nước
    Bên sông vẫn hát Hậu Đình Hoa).

    Kể cũng lạ. Đỗ Mục sống và làm thơ trong thời nhà Đường, một trong những thời đại cường thịnh nhất của nước Trung Hoa. Nhà Đường đánh xuống miền Nam, thôn tính Giao Châu, lập lên An Nam Đô Hộ Phủ, đánh sang miền Đông, chiếm Cao Ly, lập lên An Đông Đô Hộ Phủ. Đỗ Mục biết gì về chuyện vong quốc, ông đau gì về chuyện mất nước mà ông trách người ta cứ hát khúc Hậu Đình Hoa?
    Ông mà sống vào thời của bọn mất nước chúng tôi bây giờ, ông mà sống lưu vong như bọn tôi, ông thấy bọn văn nhân vô hạnh, bọn xướng ca vô loài của chúng tôi khi kẹt trong nước thì ca tụng bọn cướp nước, chạy được ra nước ngoài thì hai mươi năm sau trở về đầu hàng bọn cướp nước… chắc ông hết làm thơ được, ông khóc.

    Vua Bảo Đại nước An Nam và vua Trần Hậu Chủ nước Ba Tầu giống nhau ở điểm hai ông cùng ăn chơi, cùng mất ngôi, mất nước, nhưng khác nhau ở điểm vua Trần Hậu Chủ làm thơ Hậu Đình và tự tử chết ngay khi mất ngôi, vua Bảo Đại Bại Đảo suốt đời không viết gì cả – quyển Hồi Ký của ông là do ông kể, ông Tây viết, tất nhiên là bằng tiếng Tây – và sống thật lâu sau khi mất ngôi, mất nước.

  3. #3
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (10)



    Số văn nghê sĩ Sài Gòn bám đít quân Bắc Việt Cộng, những tên vô liêm sỉ bị nhân dân gọi là bọn “Cách Mạng Ba Mươi” không nhiều. Anh thứ nhất là Trịnh Công Sơn – bốn giờ chiều ngày 30 Tháng Tư, đất trời Sài Gòn sầu thảm, anh CM30 Trịnh Công Sơn lên tiếng hát chào đón quân xâm lăng trên đài phát thanh – tiếp đó là Cung Tích Biền, Thái Bạch, Hoàng Trọng Miên…
    Hai mươi sáu năm sau, ở xứ người, tôi vẫn cảm thấy nhục khi viết những dòng chữ này. Dù sao những anh Cách Mạng Ba Mươi ấy cũng là văn nghệ sĩ Sài Gòn. Sống ở Sài Gòn sau năm 1975, tôi mới cảm biết thế nào là nhục bại trận, nhục đầu hàng, nhục không chết được, nhục không dám chết, nhục biết là sống nhục mà cứ phải sống để chịu nhục, tôi mới thấm câu Kiều “Bắt phong trần phải phong trần”. Lòng tôi quặn đau khi tôi nhìn thấy những ông tướng của quân đội tôi khóc mếu trên màn ảnh TiVi trước mặt quân thù. Tôi mới thấy, mới hiểu thế nào là “hàng thần lơ láo, văn nhân vô hạnh, xướng ca vô loại”.
    Ngày 1 Tháng 5, không biết những tên Cách Mạng Ba Mươi nào cho ra tờ báo Trắng Đen. Báo không có tin tức gì, chỉ có hình Hồ Chí Minh và vài cái thông cáo của cái gọi là Ủy Ban Quân Quản. Bọn ra báo này là bọn Cách Mạng Ba Mươi vì chúng chỉ ra được một số báo, tờ báo Cách Mạng Ba Mươi mang măng-xét Trắng Đen bị Bắc Việt Cộng dẹp tức khắc.
    Chừng mười ngày sau ngày 30 Tháng Tư, tôi mới gượng đi lên trung tâm Sài Gòn. Đường Lê Lợi của ta lúc 10 giờ sáng long lanh nắng vàng – sáng mát trong như sáng năm xưa, gió thổi mùa thu vào Lê Lợi – cảnh vẫn là cảnh hôm qua chỉ có lòng người tan nát. Đường phố Sài Gòn đã được dọn dẹp, không còn những cây súng M16 vứt ở các gốc cây, không còn những chiếc áo blouson của phi công nằm lạc loài trong các góc phố. Hãy còn quá sớm, hôm ấy Sài Gòn chưa có Chợ Trời.
    Tôi gặp vợ chồng Duyên Anh.
    Rất tự tin, Duyên Anh nói:
    – Yên trí. Chúng nó sẽ phải dùng mình.
    Tôi ngậm ngùi nghĩ: “Chúng nó dùng mày, chúng nó không dùng tao”.
    Tôi thường mua thuốc lá của chị bán thuốc ngồi bên cửa tiệm kem Mai Hương.
    Thấy tôi, chị hỏi nhỏ:
    – Cậu không chạy được à?
    Tôi thấy ý thương hại trong mắt chị.
    Tôi chỉ là một người khách mua hàng của chị, nhưng chị cũng mong tôi chạy thoát, chị cũng muốn tôi không bị khổ nhục. Hàng của chị xác xơ nghèo, chẳng còn bao nhiêu thuốc lá Mỹ, bẩy, tám gói Lucky, một hộp thuốc pipe Sir Walter Raleigh. Tôi mua hết số thuốc ấy. Đấy là lần cuối cùng tôi mua thuốc lá Mỹ ở Sài Gòn.
    Tôi thấy ca sĩ Hùng Cường bận bộ áo cánh, quần đen, như lính Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, không nón tai bèo, không giép râu, đi giầy Bata, lưng đeo cái ba-lô có cắm lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đi phây phây trên đường Tự Do. Tôi nghĩ Hùng Cường nhân buổi tranh tối, tranh sáng, bận bộ đồ đó đi rỡn chơi, như anh hóa trang đóng một vai tuồng. Nhưng cảnh thay đổi từ bộ quân phục lính VNCH (Bạn nhớ không? Hùng Cường là lính Biệt Động Quân!) sang bộ đồ đen GPMN, chỉ thiếu cái khăn rằn, cũng làm đau lòng người Sài Gòn, nó báo trước cái cảnh:
    Công hầu đệ trạch giai tân chủ
    Văn vũ y quan dị tích thì…
    Tôi nghe các bạn tôi kể về một cuộc họp ở trụ sở Hội Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam tại Tòa Đại Sứ Đại Hàn đường Nguyễn Du. Đây không hẳn là một cuộc họp. Vì văn nghệ sĩ Sài Gòn kéo đến đông quá, một, hai anh GPMN phải ra tiếp, nói vài câu trấn an. Lúc đó Hùng Cường đứng lên, hát ngay một bài ca tụng Bác Hồ do anh sáng tác.
    Thế rồi một số nam nữ ca sĩ Sài Gòn chiều chiều đến nhà hàng Queen Bee ca hát. Họ hát những bài Tiếng Đàn Ta Lư, Tiếng Chày trên Sóc Bom Bo, Dưới bóng cây Kà Nưa, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây v.v…
    Bọn cán bộ văn nghệ MTGP không tổ chức cuộc tập hát này, họ không mời ca sĩ Sài Gòn đến tập hát, đây là sáng kiến của Hùng Cường với một anh Tầu Chợ Lớn có tiền. Anh Tầu bỏ tiền ra cho Hùng Cường thành lập một đội văn công chờ sẵn, ViXi cần đến là có ngay. Nhưng ViXi dẹp cái ban ca kịch cà chớn phi cầm, phi thú này tức thì. Việt Cộng không thèm dùng những anh chị văn nghệ sĩ Sài Gòn, nếu Việt Cộng dùng chắc hàng ngũ Cách Mạng Ba Mươi còn có nhiều khuôn mặt mẹt văn nghệ sĩ Sài Gòn hơn.
    Hoàng Trọng Miên là anh Cách Mạng Ba Mươi có vẻ có giá nhất, anh có người anh là Thanh Nghị Hoàng Trọng Quĩ làm Phó bộ trưởng Văn hóa trong chính phủ “cách mạng lâm thời Cộng Hoà Miền Nam VN”. Những tháng đầu tiên Hoàng Trọng Miên “phấn khởi, hồ hởi” ra mặt. Mấy anh Tầu Chợ Lớn chuyên đón gió o bế Hoàng Trọng Miên hết cỡ. Mấy anh dùng ô tô đưa Hoàng Trọng Miên ra Vũng Tầu, lên Đà Lạt, xí nhà đất, vườn cây của các tướng lãnh VNCH. Bọn ViXi cấp xã, quận, kể cả cấp tỉnh, thấy đàn anh và phái đoàn từ Sài Gòn ra, nhân danh Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố, tiếp quản nhà đất của tướng Ngụy bỏ chạy, dễ dàng làm giấy xác nhận chủ quyền ngay. Bọn Hoàng Trọng Miên hí hửng ăn nhậu tưng bừng, cuộc đời tươi như hoa hồng thắm. Vài tháng sau bọn cán bộ phụ trách nhà đất từ Hà Nội vào. Bọn này mới là bọn có quyền tịch thu và quản lý nhà đất của những kẻ bị coi là “có tội với nhân dân đã bỏ chạy ra ngoại quốc”. Các giấy chứng nhận chủ quyền nhà đất bọn Hoàng Trọng Miên lấy được trở thành giấy lộn. Mấy anh Tầu vỡ mộng bèn bỏ rơi anh Cách Mạng Ba Mươi Hoàng Trọng Miên.
    Tháng Tư 1976, Cộng sản Hà Nội khai tử cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, quẳng đi luôn cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng, Phó Bộ trưởng Văn hóa Thanh Nghị được cho làm quản thủ Thư Viện. Nghe nói Thanh Nghị than:
    – Bây giờ tôi là tên tù giữ sách.
    Cũng nghe nói Thanh Nghị chết không nhắm được mắt. Hoàng Trọng Miên cũng đã qua đời. Số phận chung của những anh Cách Mạng Ba Mươi là:
    – bị nhân dân khinh bỉ.
    – không được Việt Cộng dùng, ngay cả Việt Cộng cũng khinh bỉ bọn Cách Mạng Ba Mươi.
    Duyên Anh Vũ Mộng Long – bị bắt tháng 4-1976, tù 6 năm, vượt biên năm 1983, sống và chết ở Pháp – viết trong hồi ký “Nhà Tù”, xuất bản năm 1987, về một số những anh chị Cách Mạng Ba Mươi:
    “…Khi trở về sau 6 năm tù, tôi nhìn rõ Thái Bạch bệ rạc nằm ở sòng hút thuốc phiện xin xỏ từng điếu. Nó đã bị đá ra khỏi sinh hoạt văn nghệ. Cái hiệu sách Giải Phóng của nó ở đường Gia Long đã biến thành trụ sở công an phường. Quần áo nó lếch thếch, hôi hám. Cái chất nhễ nhãi vênh vang trên khuôn mặt đắc thời của nó giữa tháng 5-1975 đã khô rom. Nó bắt đầu chửi cộng sản chỉ để bấu một điếu thuốc phiện rẻ rề. Thế Nguyên thì tuyệt tích. Vũ Hạnh phải làm sà-bông lậu, bị công an phường gây khó dễ. Sơn Nam quần ống thấp ống cao, lang thang hè phố. Em rể Trần Bạch Đằng nằm ấp Chí Hòa một ngày, vợ nhận hết tội “áp phe” xuất cảnh, nằm thế chồng ba tháng, nhà cửa bị khám xét, đồ tế nhuyễn bị tịch thu. Lệ Hằng hết mon men tới Hội Nhà Văn sau vở kịch chửi vượt biên rồi vượt biên bị bắt. Từ Kế Tường mất chức chủ nhiệm Nhà Văn Hóa Quận 4. Nguyễn Khánh Trịnh, Ngụy Ngữ, Hoàng Ngọc Tuấn mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn. Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận mất báo Tin Sáng, mất luôn tổ hợp sơn mài, đi buôn bán tre và sẽ bị bắt…” (Nhà Tù – Duyên Anh, Xuân Thu 1987, trang 167).
    “…Vẫn trò chơi bắt văn nghệ sĩ phóng uế lên sự nghiệp của mình, Trịnh Công Sơn đã tự kiểm để được làm ở Sở Thông tin Văn hóaThành phố. Loạt bài tự kiểm của Trịnh Công Sơn đã làm ngao ngán tuổi trẻ ngưỡng mộ nhạc của Sơn. Từ đó, Sơn say mèm. Bố già Á Nam Trần Tuấn Khải tự kiểm trên tờ Văn Nghệ Giải Phóng mới nản chứ! Người nản nhất, xấu hổ nhất là Trần Việt Hoài (con của ông Trần Tuấn Khải). Anh đã uất ức làm bốn câu thơ trước khi chết:
    “Đầy tớ Mỹ ngã gục
    Bồi Tầu, Nga reo vui
    Riêng cháu con nòi Việt
    Ôi xiết bao ngậm ngùi…” (Nhà Tù, Xuân Thu 1987, trang 182)
    Ông Á Nam Trần Tuấn Khải không hẳn thuộc loại Cách Mạng Ba Mươi, ông thuộc hàng ngũ “văn nhân vô hạnh”, đội ngũ này có cái tên diễn nôm hơi dài “Văn Thi Sĩ Sài Gòn Phản Thùng Nâng Bi Việt Cộng”. Bài Thơ Nâng Bi của ông là bài thơ Nâng Bi để đời. Đây là lời và thơ ông Á Nam Trần tuấn Khải:
    “Cuối xuân Ất Mão (1975) tiếng súng cuối cùng Sài Gòn – Chợ Lớn đã tắt, ngọn cờ giải phóng tung bay khắp miền Nam, nước Việt Nam ta hoàn toàn sạch vết quân xâm lược. Những quân tay sai bán nước đều cao bay xa chạy. Tác giả tuổi ngoài tám mươi này được trông thấy cái cảnh huy hoàng rực rỡ của cả dân tộc Việt Nam, trút hết nỗi uất hờn sâu thẳm trong bấy nhiêu lâu, thực chẳng khác gì tái sinh nên viết mấy dòng sau đây để góp vui cùng bạn lòng trong cõi:
    Hơn tám mươi năm lộn kiếp đây
    Tuổi đời: lên một, tính từ nay!
    Cơm no đoàn kết mau khôn lớn
    Nước sạch xâm lăng khỏi quấy rầy.
    Độc lập đi về nhiều chuyện thú
    Tự do ăn học lắm tài hay.
    Nhờ ơn cách mạng bồi thêm thọ
    Hưởng mãi non sông đất nước này“.

    oOo

    Liêu lạc bi tiền sự. Chi ly tiếu thử thân…
    Vèo trông lá rụng đầy sân… Tha hương tâm sự có ngần ấy thôi… Sự đời đã quá đôi hồi… Thôi còn đâu nữa những người năm xưa… Quốc kỳ còn đó trơ trơ… Dám xa xôi nước mà thưa thớt lòng… Quê hương đâu nữa mà mong… Thôi đành thẹn sắt, tủi đồng thế thôi…
    Anh bạn dãi dầu không bước nữa… Gục trên súng mũ bỏ quên đời… Tôi buồn tôi viết không còn lửa. Mượn thơ truy điệu để thay lời. Hỡi ơi bạn tác ngoài trôi giạt. Chẳng đọc văn ta cũng ngậm ngùi…

    Tung hoành trong chốn can qua ấy
    Bến Hải, Cà Mâu chẳng tiếc thân
    Nước mất buông đời theo nạn nước
    Khó vi tướng tá, dễ vi thần
    Lậy mẹ, con đi, em ở lại
    Nỗi nhà, nỗi nước há phân vân
    Quê xanh lá vẫy, đầu xanh biệt
    Hăm mốt tuổi đời, mấy tuổi quân
    Lính chiến vốn nghèo như cát bụi
    Họa chăng dư dật mảnh trăng xuân
    Những phiên gác giặc thèm hơi thuốc
    Mong ánh chiêu dương ló dạng dần
    Mới đêm cùng bạn chung đầu võng
    Sáng mở đường nghe súng nổ rân
    Bạn đổ như cây chưa tỏa ngọn
    Chưa từng hò hẹn một tình nhân
    Lính nghèo nên lính càng thương lính
    Chiến dịch dài thêm mỗi bước chân
    Mỗi bước chân chưa đầy nửa thước
    Băng đồng, lội suối, vượt trùng san
    Quân đi tính mỗi mùa khô dứt
    Từng chặng ngày đêm kể dặm ngàn
    Phi pháo sẵn hai nguồn yểm trợ
    Trực thăng vi vút đảo xa gần
    Giang đoàn, hạm đội đầy sông biển
    Hải Lục Không Quân thế trận dàn
    Trai gái vai kề vai giữ nước
    Toàn Quân Binh Chủng chấp nguy nan…
    Hữu thân hữu khổ đà ghi khắc
    Bia miệng ca dao đắng chát vần
    Lính Chiến Cộng Hòa còn lãnh đủ
    Súng thù, gươm bạn mấy gian truân
    Bây giờ anh ở đâu anh hỡi
    Câu hát năm xưa rộn xóm làng
    Một bước lỡ muôn trùng cách biệt
    Quốc Quân kỳ ủ rũ mầu tang
    Gọi nhau trong nỗi niềm bi lụy
    Mấy suối cho vừa nước Giải Oan
    Ai đó thẹn thùng câu chật đất
    Hỡi ơi từ thủa lính tan hàng.

    Băng Đình (Wichita. Tháng Tư 2001)
    Súng thù, gươm bạn, lính tan hàng… Mấy suối cho vừa nước Giải Oan… Hỡi ơi… bạn tác ngoài ly loạn… Chẳng đọc thơ nhau cũng đoạn tràng…


    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (11 & 12)



    Sáng ngày 18 Tháng Giêng Ta năm 1989 tôi cùng khoảng ba mươi bạn đồng tù ngồi trong tù xa ra khỏi Thánh Thất Chí Hòa. Vừa mới ra giêng, trời còn lạnh lạnh. Tôi đã sống năm cái Tết trong tù, một Tết ở Số 4 Phan Đăng Lưu, bốn Tết ở Chí Hòa.
    Trong sáu tháng cuối năm 1988, Cộng sản Thành Hồ thanh toán những vụ án chính trị tồn đọng cả năm, sáu năm trong tình trạng giam cứu mút chỉ cà tha ở Chí Hòa. Vụ bị ngâm tôm lâu nhất là vụ Già Lam. Năm 1980 công an Thành Hồ đã phát giác tổ chức chống đối có võ trang, tức có súng, định lập chiến khu chống lại Cộng quyền bằng võ lực. Một số thành viên của tổ chức này, đông đến hai mươi người, đã bị bắt nhưng họ không chịu khai ra những người lãnh đạo tổ chức của họ. Họ cắn răng chịu tù đày. Một người trong số họ bị giam trong sà-lim ở Chí Hòa đến hơn hai năm, chịu không nổi người này phải cung khai. Tháng 3, 1984, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Đại Đức Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Đại Đức Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Sư cô Thích Trí Hải bị bắt. Nhiều người trong tổ chức bị bắt từ năm 1980 đã bị đưa đi trại lao động cải tạo, lại bị công an Thành Hồ cho xe bông đến trại rước về Chí Hòa để chúng tái điều tra, thẩm vấn.
    Trong năm 1988 các mục sư Hồ Hiếu Hạ, Nguyễn Hữu Cương, thầy truyền giảng Lê Thiện Dũng ra tòa, mỗi ông bị phang tám năm tù, tiếp đó là vụ mấy anh Biệt Kích Cầm Bút ra tòa, rồi đến vụ Già Lam.
    Ra Tòa, tôi lãnh án tù 8 năm. Trở về Chí Hòa nằm chờ chống án rồi đi trại lao động cải tạo, tôi làm bài thơ “Ra Tòa, Về Tòa”:

    Ra tòa trong chiếc xe heo,
    Tay còng, áo dấu, ngặt nghèo bước chân.
    Mấy năm tòa xử mấy lần,
    Bồi hồi Em đến, ngại ngần Anh ra.
    Anh tù Anh ở Chí Hòa,
    Em tù Em ở riêng nhà vắng anh.
    Anh làm, Anh tội đã đành,
    Em làm gì tội một cành thiên hương.
    Ma dẫn lối, quỉ đưa đường,
    Đôi ta qua nẻo đoạn trường đến đây !
    Ra tòa trong chiếc xe cây,
    Tay còng, áo dấu, dạn dầy bước chân.
    Tài tử đa cùng
    Hồng nhan đa truân…
    Đa tình tài tử, giai nhân,
    Đa đoan thân thế mấy lần biển dâu.
    Biển dâu, dâu biển mặc dầu
    Đoạn trường ta vẫn qua cầu nắm tay.
    Tòa về trong chiếc xe này,
    Tám năm tòa xử, một ngày bên nhau.
    Thời gian qua chậm, qua mau
    Mặc thời gian chẩy dưới cầu thời gian.
    Em năm mươi tuổi đang xoan,
    Anh năm mươi tuổi chửa toan về già.
    Tòa về Anh ghé Chí Hòa,
    Tòa về Em trở về nhà đón Anh.

    Tôi bị đưa ra cái gọi là Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Meo – tòa án chuyên xử tội nhân dân chống Đảng Cộng sản – hai lần, lần đầu năm 1986, hoãn xử, lần hai năm 1988. Lần ra tòa thứ nhất tôi xúc động, sợ hãi, lần thứ hai tôi quen rồi nên tôi không còn sợ nữa.
    Xe tù rời Đại Học Xá Chí Hòa lúc 8 giờ sáng, khoảng 11 giờ trưa chúng tôi đến Trại Lao Động Cải Tạo Z.30 A, Xuân Lộc.
    Xe ngừng ở cổng trại, tù nhân xuống xe. Việc làm đầu tiên của tôi khi đến trại là vào vệ đường tiểu tiện rồi ngồi xổm xếp hàng cùng với anh em chờ cai tù ra lãnh vào trại. Năm năm trời sống quanh quẩn giữa những bức tường phòng tù – năm năm là bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm? Thử làm con tính 3×365 = 1,095. Tôi ngồi đó ngoài trời, ven rừng, trước cổng nhà tù, sung sướng cảm nhận làn gió mát mơn man trên má, lùa trong mái tóc bạc, sung sướng nhìn vòng ánh nắng xuyên qua cành lá lung linh trên vai áo, nghe tiếng chim hót trong vòm cây…
    Ở Z.30 A tôi gặp lại các tu sĩ Trí Siêu, Tuệ Sĩ, Thượng tọa Đức Nhuận, Linh mục Trần Đình Thủ, Linh mục Nguyễn Công Đoan, Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, Kỹ sư Lê Công Minh..Sống năm năm giữa những bức tường phòng tù, tôi không được trông thấy mặt trời, mặt trăng – ánh nắng, ánh trăng thì thấy. Buổi sáng thứ nhất đứng ở sân trại nhìn lên núi Chứa Chan mờ mờ trong sướng sớm, tôi không làm thơ, những lời thơ đến với tôi:

    Bình minh ngắm đỉnh Chứa Chan,
    Tưởng như trời đất bạt ngàn hoa bay.
    Đến đây đoạn cuối tù đày,
    Năm năm xa mộng một ngày bên nhau.
    Ai về Anh gửi đôi câu,
    Đón Em Anh đợi bên cầu Quan San.
    Em lên chơi núi Chứa Chan,
    Ru Em lả tiếng bạch đàn…à …ơi..!
    Tiếng ai dậy đất, vang trời:
    – Em lên Xuân Lộc, Em ơi, Anh chờ!

    Z.30 A nằm trong thung lũng dưới chân núi Chứa Chan, bên đồi Phượng Vĩ – nơi đóng quân của Sư Đoàn Bộ Binh 18 ngày xưa. Trại trồng nhiều cây bạch đàn. Tù trồng. Alice lên thăm tôi. Lúc năm giờ chiều Nhà Thăm Nuôi vắng tanh, năm năm trời lại được gần nhau. Trong cảnh tù đày vợ chồng tôi mừng mừng, tủi tủi, tôi bảo nàng;
    – Anh xách nước cho em tắm nhé.
    Chúng tôi đã sống với nhau những ngày hạnh phúc ở Z.30 A trong tiếng ru của lá bạch đàn. Tôi đặt một lô tên thơ mộng cho cảnh sắc Z 30 A. Và tôi làm thơ “Chứa Chan”:

    Ta đến mùa xuân Núi Chứa Chan,
    Tù đày nay sắp hết gian nan.
    Suối Tình Em ngát hương hồng hảo,
    Núi Nhớ Anh vang tiếng bạch đàn.
    Em thương trời mở xuân huyền ảo,
    Anh yêu đất nở hội hoa đăng.
    Mái tóc Em thơm mùi dạ thảo,
    Cho suốt đời Anh được chứa chan.

    Yêu suốt đời nhau vẫn chứa chan.
    Chứa Chan nay lại đến tham quan.
    Anh chờ, Anh đón Rừng Thanh Thản,
    Em tìm, Em đến Suối Miên Man.
    Em cho muôn kiếp tình nguyên bản,
    Anh hưởng nghìn năm nghĩa huệ lan.
    Suối đời trôi mãi yên chưa chán,
    Mới biết rằng Em Núi Chứa Chan.

    Núi Chứa Chan, tình ái chứa chan.
    Mây mù nắng đến cũng sương tan.
    Thiên Thai đứng giữa Rừng Thanh Thản,
    Đào Nguyên nằm cạnh Suối Miên Man.
    Giáng Tiên Em trắng hoa trinh quán,
    Từ Thức Anh xanh lá bạch đàn.
    Vợ chồng nhân thế ta chưa chán,
    Yêu suốt đời nhau vẫn chứa chan.

    Chan chứa tình ta vẫn chứa chan,
    Chứa chan tình ái cứ đầy tràn.
    Hoa lan Em hái Rừng Thanh Thản,
    Trăng vàng Anh thả Suối Miên Man.
    Yêu hoài Anh kết mây hồng tản,
    Thương mãi Em đan lá bạch đàn.
    Ai lên Xuân Lộc xin đừng nản,
    Hãy ngắm tình tôi: Núi Chứa Chan.

    Khi đến Z.30 A án tù của tôi chỉ còn một năm – với tội Biệt Kích Cầm Bút tôi bị xử án 8 năm, sau đó được giảm xuống 6 năm, khi rời Nhà Tù Lớn Chí Hòa tôi đã ở tù được 5 năm. 12 tháng tù cuối cùng của tôi êm đềm trôi qua ở Z.30 A. Tôi sống bình yên chờ đợi ngày về. Trong khi chờ đợi ngày về, tôi chờ đợi tháng tháng vợ tôi, các con tôi đến thăm tôi.
    Đây là bài thơ “Anh chỉ sống để chờ em đến”, tôi làm hơn hai mươi năm trước ở Z.30 A:

    Như trái đất chỉ quay để chờ nắng lên
    Anh chỉ sống để chờ Em đến.
    Giòng thời gian muôn kiếp lênh đênh
    Ta muôn kiếp vẫn yêu, vẫn mến.
    Trên vai Anh mái tóc thương huyền
    Em đã ngả từ ngày có biển.
    Như mưa nguồn trở lại Đào Nguyên
    Em yêu ơi, như thuyền về bến
    Anh chỉ sống để chờ Em đến.

    Như từ núi nước suôi về biển
    Như trên hoa về nhũng giọt sương
    Như Eva trở lại Thiên Đường
    Anh chỉ sống để chờ Em đến.

    Thưở tinh khôi đất trời vừa hiện
    Chim mới ca, suối mới đưa hương
    Trong thanh không vừa có thái dương
    Em đã đến…Và Em sẽ đến.

    Khi trái đất chỉ quay để chờ nắng lên
    Khi loài người còn mãi tình duyên
    Thuyền Thời Gian ta mãi lênh đênh
    Anh chỉ sống để chờ Em đến.

    Khi trái đất ngừng quay, ngày chẳng còn lên
    Đêm thôi xuống, gió không còn thổi
    Khi loài người ngừng cuộc tình duyên
    Thuyền Thời Gian ta hết lênh đênh
    Anh vẫn sống để chờ Em đến.

    Anh chỉ sống để chờ Em đến.

    (Trại Lao Cải Z 30 A Xuân Lộc – Xuân 1989)

    oOo

    Chúng tôi gọi đùa Thái Thủy, bạn chúng tôi, là Thi sĩ Lươn Om, vì những năm trước 1963 anh làm bài thơ tình trong đó có câu: “Hạnh phúc như con lươn trườn khỏi bàn tay người bắt vụng về… “. Thái Thủy là tác giả bài thơ phổ nhạc “Lá Thư Gửi Mẹ” – không nhớ do nhạc sĩ Đan Phú hay Đan Thọ phổ nhạc – được hát nhiều những năm 1956, 1958, những năm sau Ngày Đất Nước ta bị chia đôi ở sông Bến Hải: “Mẹ ơi… Thôi đừng khóc nữa… Cho lòng già nặng sầu thương…”
    Năm 1954, Thái Thủy giã từ Hà Nội vào Sài Gòn, anh có bà mẹ già ở lại miền Bắc. Năm 1975, bà cụ còn sống, Thái Thủy bị công an Thành Hồ bắt đi tù mút chỉ cà tha từ Tháng Ba 1976 đến 1988 mới được về. Chúng tôi đùa anh: “Năm 54 Thái Thủy đi, bà mẹ anh khóc, năm 75 Việt Cộng theo chân Thái Thủy vào Sài Gòn, Thái Thủy khóc. Lần này bà mẹ anh khuyên anh: “Con ơi… Thôi đừng khóc nữa…”
    Thái Thủy đi tị nạn sang Hoa Kỳ năm 1997. Đến Cali anh còn gặp Mai Thảo và Nguyên Sa. Sống ở xứ người chưa được một năm anh bị tai nạn xe cộ đứt ruột, gẫy xương sườn, phải chịu đựng cả nửa năm trời cái lỗ rốn thứ hai ở bụng. Tháng Tư 1999 anh nói với chúng tôi ở xa Cali:
    – Tao vừa đến nhà Nguyên Sa dự lễ giỗ đầu nó. (*)
    Ngày giỗ của Nguyên Sa làm tôi nhớ Mai Thảo.
    Mai Thảo, Nguyên Sa qua đời đã một năm. Nghe nói anh em văn nghệ Cali có tổ chức một Giải Văn Học Mai Thảo. Dù không có vợ con, Mai Thảo cũng không mất giỗ, anh có nhiều thân nhân ở Hoa Kỳ. Người cháu con bà chị ruột Mai Thảo, anh Nguyễn Đ.C, hiện ở San Jose, Cali, là người rất thương cậu Quí.
    Mai Thảo và tôi có họ với nhau. Bà nội tôi là em ruột ông nội của Mai Thảo. Ngày xưa xa lắm, những năm 1940, tôi có được về chơi làng Thổ Khối, làng bà nội tôi, cạnh làng Bát Tràng, phủ Gia Lâm. Ông thân Mai Thảo và ông thân tôi thường gặp nhau ở Sài Gòn.
    Tháng Ba 1976 bọn Cộng sản Bắc việt – thời đó do hai tên Việt Cộng cuồng tín ác ôn nhất là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cầm đầu – mở chiến dịch bắt bỏ tù những văn nghệ sĩ, ký giả quốc gia Việt Nam Cộng Hòa bại trận, gọi giản dị là văn nghệ sĩ Sài Gòn. Đây là một phần trong tổng chiến dịch càn quét, khủng bố để cho chìm xuồng luôn bọn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tháng Sáu 1976 những anh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Tấn Mẫm, Thanh Nghị, Lâm Văn Tết, Nguyễn Hữu Thọ bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cho ngồi chơi không sơi nước ráo trọi. Buổi sáng sớm, một anh bạn đi xe đạp đến đập cửa nhà tôi:
    – Đêm qua nó bắt anh Côn, Đằng Giao, Duyên Anh, Nhã Ca… Chưa biết còn những ai đã bị bắt… Ông đi trốn hay cứ ở nhà?
    Trong một đêm bọn công an Thành Hồ tung ra năm, bẩy toán đi bắt người. Nhiều lắm là mỗi toán bắt được hai người trong một đêm. Anh em vừa bị bắt trong đêm, sáng hôm sau chúng tôi biết ngay. Người nọ loan tin dữ cho người kia. Chúng tôi không sợ hãi lắm cũng không ngạc nhiên nhiều trước chuyện chúng tôi bị bắt. Gần một năm rồi, anh em sĩ quan đi tù hết, không ai biết các sĩ quan, các dân biểu, thượng nghị sĩ, các vị công chức cao cấp của ta đang bị giam giữ ở đâu, sống chết ra sao. Việt Cộng bắt người dài dài và đều đều không ngừng nghỉ, bọn văn nghệ sĩ chúng tôi có bị Việt Cộng bắt cũng phải thôi. Việt Cộng không bắt chúng tôi mới là chuyện lạ.
    Chiến dịch bắt giam văn nghệ sĩ Sài Gòn kéo dài suốt Tháng Ba 1976. Mai Thảo ở trong danh sách văn nghệ sĩ bị bắt Tháng Ba 76. Công an Thành Hồ rất muốn bắt Mai Thảo, nhưng bắt không được vì Mai Thảo không có số ở tù. Công an Cộng sản từng tự hào muốn bắt ai là bắt được người đó. Chẳng phải họ tài giỏi gì, chỉ vì họ học cách kiểm soát nhân dân của Nga Cộng, Tầu Cộng. Và họ tỏ ra cực kỳ tàn ác với nhân dân nên nhân dân sợ hãi, tuyệt vọng, không ai còn có tinh thần chống đối, dù chỉ là chống đối tiêu cực, như đi trốn. Alexandre Solzhenytsin viết trong The Gulag Archipelago, Quần đảo Ngục Tù:
    “Cộng Sản làm nhân dân tuyệt vọng đến nỗi không ai nghĩ đến bỏ trốn – sợ trốn không thoát, không biết trốn ở đâu, trước sau cũng bị bắt. Dù biết mình sắp bị bắt, người ta cứ ngồi chờ bị bắt. Nhưng công an Cộng Sản không phải thần thánh gì, vẫn có những người họ bắt không được. Tôi biết một sinh viên đã nhẩy qua cửa sổ chạy luôn khi bọn mật vụ đến bắt anh. Anh trốn và sống tương đối tự do mấy chục năm cho đến năm nay tôi gập lại anh. Có sao đâu!”
    Solzhenytsin còn nói:
    “Nhân dân tuyệt vọng nên trở thành ù lì, không ai nghĩ đến chuyện chống đối. Như thời bọn Mật Vụ mở chiến dịch bắt người ở Leningrad. Chúng chuyên bắt người ban đêm, bỏ xe ngoài đường phố vắng. Chỉ cần nhân dân lén ra phá xe của chúng, cho chúng không dùng được xe, cũng có thể làm cho nhiều người không bị chúng bắt trong chiến dịch ấy”.
    Mai Thảo đã trốn và đã thoát.
    Trước 30 tháng Tư anh ở một phòng trong nhà Chiều Tím, cạnh Phở 79 đường Võ Tánh. Ông anh của anh đi được trước 30 tháng Tư, để lại căn nhà đường Phan Đình Phùng, đoạn trước cửa trường Anh Văn Nguyễn Ngọc Linh. Sau 30 Tháng Tư, một ông anh của Mai Thảo (anh Nguyễn Đăng Viên) về sống trong căn nhà ở Phan Đình Phùng. Bỏ căn phòng ở nhà Chiều Tím, Mai Thảo về sống một phòng trong căn nhà đường Phan Đình Phùng. Có đêm tôi về đấy ngủ với Mai Thảo.
    Không vợ con nên Mai Thảo không có gì để quyến luyến. Công an Thành Hồ thiếu kinh nghiệm trong chiến dịch bắt bớ này. Lẽ ra họ phải đến bắt Mai Thảo trước tiên. Nhưng trong đêm thứ nhất tung quân đi bắt người họ đã không bắt ngay Mai Thảo. Sáng hôm sau được tin dữ, Mai Thảo lững thững ra khỏi nhà, anh không cần mang theo cả quần áo. Công an Thành Hồ mất dấu anh luôn. Anh vẫn sống ở Sài Gòn, vẫn đi đây, đi đó, đến gần hai năm sau anh mới vượt biên, anh đi khỏi nước khoảng Tháng Hai, Tháng Ba năm 1978.
    Tôi gặp Mai Thảo lần đầu năm 1956 khi tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong ra đời. Mai Thảo giữ mục Điểm Thơ trong VNTP những số đầu. Tôi viết Vũ Nữ Sài Gòn và Tạ Quang Khôi viết truyện dài Mưa Gió Miền Nam cũng trên VNTP từ số 1.
    Đêm cuối năm 1975, đừơng Phan Đình Phùng tắt điện tối om. Ba chúng tôi, Mai Thảo, Hoài Bắc và tôi, trên ba xe đạp, tình cờ gập nhau, tụm lại bên vỉa hè nói chuyện. Bỗng có tiếng người la:
    – Mai Thảo, Hoài Bắc, Hoàng Hải Thủy…
    Đoàn Khê, tức Khê Vinh, Thăng Long Xích Thố, kêu tên ba chúng tôi. Anh đến trên chiếc xe đạp mini. Chúng tôi hỏi anh những người đá banh Hà Nội vào có đến thăm anh không. Khê Vinh nói bô bô:
    – Chúng nó phải đến gập tôi chứ! Về bóng tròn tôi là Hồ Chí Minh của chúng nó…
    Những mùa thu lá bay không cùng nhau ăn gà xé phay qua đi… Hôm nay ba anh Mai Thảo, Hoài Bắc, Đoàn Khê đều không còn ở cõi đời này. Qua bao nhiêu tai họa, hôm nay tôi ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, Tháng Sáu hè về, nắng vàng rực rỡ, tưởng nhớ những ngày xưa và những bạn hữu thân sơ đã cùng tôi sống những ngày…
    Tháng Ba 1976 một số văn nghệ sĩ Sài Gòn bị bắt, tôi ở trong số những văn nghệ sĩ chưa bị bắt. Tháng Năm 1976 tôi đi dự cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Văn Nghệ Sĩ. Những ngày, những đêm mòn mỏi kéo dài. Tôi nhớ một lần gập nhau, Mai Thảo nói:
    – Tao chỉ mong tối đến để tao được ngủ cho quên…
    Cuối 1976 có người đến căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi:
    – Tôi là cháu ông Mai Thảo. Ông cậu tôi có thư gửi ông.
    Mai Thảo viết cho tôi: “Tao tưởng mày bị đi cải tạo nên hôm nay mới liên lạc với mày. Người đưa thư là cháu tao. Mày có thể tin được hắn. Cho tao mượn tiểu thuyết. Tao là kẻ thù của mặt trời… Ở trong nhà kín suốt tháng… Chỉ đọc truyện thôi”.
    Tôi có nhiều truyện detective tiếng Pháp. Mỗi lần tôi đưa anh cháu của Mai Thảo cả hai chục quyển. Sau chừng hai ba lần đến nhà lấy sách, tôi hỏi thăm Mai Thảo sống ra sao, anh cháu nói thỉnh thoảng anh vẫn chở ông cậu anh trên xe Vespa đi chơi đây đó trong thành phố. Tôi nói vợ chồng tôi muốn hôm nào anh đưa Mai Thảo đến ở chơi với chúng tôi một ngày.
    Một sáng, Mai Thảo đến nhà tôi, anh để râu, đội mũ phớt. Hai cậu cháu anh ăn với vợ chồng tôi bữa cơm trưa. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp Mai Thảo ở Sài Gòn. Chừng ba tháng sau công an Thành Hồ đưa xe bông đến nhà rước tôi đi. Đây là lần đầu tôi bị bắt. Người thẩm vấn tôi ở Số 4 Phan đăng Lưu là Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung, tức họa sĩ Ớt nhật báo Điện Tín, Việt Cộng nằm vùng. Ba Trung biết Mai Thảo có đến nhà tôi nên muốn tôi khai ra chỗ ở của Mai Thảo, tôi nói với anh:
    – Tôi không biết Mai Thảo ở đâu. Nó không nói nơi nó ở mà tôi cũng không hỏi. Tôi không hỏi là bởi vì tôi sợ nếu tôi biết chỗ nó ở, khi tôi bị bắt, các anh sẽ đòi tôi phải khai ra. Khi đó nếu tôi khai ra, nó sẽ khổ, tôi sẽ ân hận, mà nếu tôi không khai thì tôi sợ tôi khổ. Nhưng đó là ý nghĩ của tôi trước khi tôi bị bắt kia. Nay tôi đã bị bắt vào đây rồi tôi nghĩ khác. Chỉ khi nào tôi không bị bắt mà tôi khai để Mai Thảo bị bắt tôi mới ân hận, còn khi tôi đã bị bắt rồi tôi thấy nếu tôi biết, tôi khai cũng chẳng sao. Mai Thảo có bị bắt thì cũng chỉ khổ như tôi mà thôi.
    Ba Trung biết Mai Thảo có liên lạc với Hoài Bắc. Trong một cuộc thẩm vấn tôi, Ba Trung xé cái bao giấy thuốc lá Mai, bảo tôi:
    – Anh viết cái thư gửi Hoài Bắc. Anh viết như thế này: “Người ta biết chỗ ở của MT, bạn ta rồi. Bảo nó đi nơi khác ngay…”
    Tôi biết thủ đoạn của Ba Trung. Trong tù đôi khi có những người tù được thả mang lén những lá thư viết vội kiểu này ra ngoài. Ba Trung sẽ cho một tên đàn em giả làm tù mới được tha (bọn trẻ mới vào ngành công an có tên chung là trinh sát) mang thư tôi đến đưa cho Hoài Bắc, với lời nói:
    – Tôi mới ở trong tù ra. Tôi ở chung phòng với ông Hát Hát Tê. Ông ấy nhờ tôi mang ra thư này gửi ông…
    Nhận thư tôi Hoài Bắc sẽ lật đật lên ngựa sắt phi đến chỗ Mai Thảo ở để báo tin, bọn công an rình bên ngoài nhà Hoài Bắc sẽ đi theo, chúng sẽ ập vào nhà đó bắt Mai Thảo. Tôi nghĩ là Hoài Bắc cũng không biết chỗ ở của Mai Thảo như tôi. Mẹo lừa này của Ba Trung sẽ vô ích. Trước khi cầm bút viết tôi đọc ba Kinh Kính Mừng, xin Đức Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp làm cho lá thư của tôi không gây tai họa cho các bạn tôi. Rồi tôi viết:
    “HB. Người ta biết chỗ ở của MT rồi. Mày đến bảo nó đi nơi khác ngay. Tao. HHOÀNG TRỌNG”.
    Tôi cố ý viết “mày tao” với Hoài Bắc. Anh không “mày tao” với tôi. Tôi hy vọng nhận được thư này Hoài Bắc sẽ nghi thư không phải do tôi viết.
    Rồi lại những đêm dài dằng dặc trong xà-lim u tối… Mười hai tháng hai ngày nằm xà-lim tôi mới được sang phòng tập thể. Cuối năm 1978 gặp người bạn mới bị bắt vào phòng, cho biết sau ngày tôi bị bắt, Mai Thảo, Hoài Bắc, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu… đều đã đi thoát. Tôi nhẹ người.
    Ngày 10 tháng 11 năm 1994, đôi cánh sắt United Airlines đưa vợ chồng tôi đến Virginia. Cùng ngày hôm ấy Mai Thảo và Kiều Chinh cũng đến Virginia. Mai Thảo đến chơi, Kiều Chinh đến đọc diễn văn ờ Đài Tưởng Niệm Việt Nam. Tôi gặp lại Mai Thảo.
    Rồi tôi lại gặp Mai Thảo khi vợ chồng tôi sang thăm Quận Cam, Cali tháng 12, 1994. Tôi đến phòng Mai Thảo ở sau tiệm ăn Song Long. Căn phòng nhỏ, một bàn, một ghế, một giường. Đấy là lần cuối tôi gập Mai Thảo. Khi tôi đến Hoa Kỳ, Hoài Bắc đã qua đời, tôi không có dịp hỏi anh: “Năm 77, tôi ở Phan Đăng Lưu, có gửi ông cái thư, ông có nhận được không?”

    Gần ba mươi năm sau buổi chiều tôi ngồi trong phòng thẩm vấn Nhà Tù số 4 Phan Đăng Lưu, viết thư cho Hoài Bắc, hôm nay viết lại chuyện xưa tôi thấy cái gọi là tính cách vô lý của bức thư. Không cần phải là người có nhận xét tinh tế gì cho lắm, người nhận thư tất phải nghĩ đến chuyện một thằng đang nằm trong tù làm sao biết được chuyện ngoài đời, nhất là nếu công an Việt Cộng đã biết chỗ ở của kẻ họ tìm bắt, họ đã đến đó lâu rồi, ở đó mà phi báo cho nhau đổi chỗ.
    Hoài Bắc, Mai Thảo, Nguyên Sa, Đoàn Khê Vinh… nay đều không còn nữa. Chỉ còn tôi tưởng nhớ hình ảnh, nét mặt, tiếng cười, giọng nói của các anh.
    Đây là Thơ Mai Thảo:

    Đợi Bạn
    Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
    Cửa mở cầu thang để sáng đèn
    Bạn tới lúc nào không biết nữa
    Mưa thả đều trên giấc ngủ đen.

    Thằng Viết Mướn
    Những trang đời viết còn dang dở
    Sẽ có bàn tay ấy viết giùm
    Ngón cái sang trang và ngón út
    Viết dòng vuốt mắt lúc lâm chung

    Không Hiểu
    Thế giới có triệu điều không hiểu
    Càng hiểu không ra lúc cuối đời
    Chẳng sao khi đã nằm trong đất
    Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

    Và tôi hỏi Mai Thảo:

    Cuộc sống có triệu điều không hiểu
    Càng hiểu không ra lúc cuối đời
    Ngàn năm nay đã về trong đất
    Đọc ở sao trời chắc hiểu rồi?

    (*) GHI CHÚ: Hồi ký “Sống Và Chết Ở Sài Gòn” được viết năm 2002. Nhà thơ Thái Thủy từ trần ngày 13-4-2011 tại Quận Cam, California, hưởng thọ 74 tuổi.

    Sống Và Chết Ở Sài Gòn – Hoàng Hải Thủy (13)





    Bước một mình qua ngưỡng cửa năm
    Nhân gian tịch tịch tiếng mưa thầm
    Chợt đâu vẳng tiếng gà lai kiếp
    Báo vẫn đêm dầy ở cõi âm.
    (Trừ Tịch – Mai Thảo)

    Những ngày cuối năm tuyết trắng đến trên Rừng Phong, tôi tìm trong thơ Thanh Nam, Duyên Anh, Mai Thảo những ý thơ về Tết, về xuân. Đến những ngày này khi bánh xe lãng tử đã đưa tôi đến Virginia Đất Tình Nhân được bốn mùa lá rụng tôi mới có được đủ ba tập thơ của ba người đã khuất: Thanh Nam, Duyên Anh, Mai Thảo.
    Hàn Dũ viết “Vật bất đắc kỳ bình tắc minh”.
    Nhiều người viết tiểu thuyết thời trẻ có làm thơ nhưng rồi gần như tất cả đều bỏ làm thơ khi họ qua số tuổi hai mươi, khi họ bước hẳn vào nghề viết truyện, làm báo. Một trong những nguyên nhân làm cho tuyệt đại đa số những người viết truyện từng làm thơ thời họ chưa hai mươi tuổi và qua tuổi đó không làm thơ nữa là vì có tâm sự gì họ đều có thể diễn đạt trong những truyện họ viết. Nếu có gì bất bình họ kêu lên trong truyện, họ không cần kêu lên bằng Thơ. Và vì họ không phải là thi sĩ nên qua tuổi hai mươi họ không làm thơ nữa.
    Trong ba người tôi đọc thơ những đêm cuối năm này chỉ có Thanh Nam là người vẫn làm thơ sau năm anh hai mươi tuổi, nhưng anh chỉ làm thơ lai rai, làm thơ rất ít. Năm 1972 Thanh Nam làm “Bài Hành đón Tuổi Bốn Mươi”. Năm ấy chiến tranh đang sôi động trên khắp nước ta, tôi thấy lời thơ Thanh Nam đầy cảm khái nhưng cũng chỉ đọc qua một lần. Rồi quên đi.
    Hai mươi hai năm sau, qua cuộc biển dâu, bẩy nổi, mười chìm, hai mươi mấy cái lênh đênh, những đêm buồn đèn vàng, nằm bình yên trong căn hộ Housing ấm áp ở Virginia Đất Tình Nhân, đọc lại “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi” của Thanh Nam, tôi ngất ngư đi một đường cảm khái: “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi” là bản tình ca ghi lại cuộc sống và tâm tư của những chàng trai Bắc kỳ di cư chưa vợ sống ở Sài Gòn những năm 60. Nói rõ hơn: những chàng trai ba mươi tưổi, văn nghệ sĩ, sống độc thân trong Bin-đinh Cửu Long, đường Hai Bà Trưng, Sài Gòn Đẹp lắm, Sài Gòn ơi những năm 1960 thanh bình xa xưa…

    Én nhạn về Nam, xuân rồi đây
    Chợt thèm ly rượu, chút mưa bay
    Gọi về trong đáy hồn lưu lạc
    Những bước chân xưa nhạt dấu giày…

    Thanh Nam làm “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi” nhân những ngày Tết Nguyên Đán. Năm 1970 anh vừa bốn mươi tuổi. Những lời thơ thật đẹp:

    Gió nổi mười phương trời buổi đó
    Với ngày như lá, tháng như mây
    Lầu sương từng buổi đùa nhan sắc
    Giấc ngủ thềm khuya rộn tiếng hài…

    Ơi… Trong số các bạn đọc những dòng này, chắc có dăm bẩy bạn từng lên xuống ba tầng thang lầu Bin-đinh Cửu Long, Sài Gòn những năm 1960. thời các bạn ba mươi tuổi. Tôi chắc các bạn cũng cảm thấy như tôi: Thơ Thanh Nam gợi lên trong tim ta tiếng giày cao gót của những em ca-ve, tiếng guốc e lệ của những em nữ sinh con nhà lành gõ vui, gõ nhẹ, gõ lách cách trên các hành lang Bin-đinh Cửu Long trong những đêm xanh xưa ấy, khi chúng ta còn trẻ, khi chúng ta mới ba mươi tuổi…

    Chiều xuống đã nghe lòng rộn rã
    Gió lên, hồn ngỏ, phố vui mời
    Ca trường, hý viện, xuân như hạ
    Đời thả trôi vào nhịp phách lơi…

    Sài Gòn mùa mưa không nói làm gì, mùa nắng dù nắng nóng đến chừng nào cứ đến khoảng bốn giờ chiều là có gió mát. Gió từ sông đến, mưa từ biển. Những năm 60 bình yên ấy chúng ta biết người yêu của chúng ta đang ở đâu… Chiều xuống chúng ta thấy lòng ta rộn rã. Trên đường đi làm về ta thấy Sài Gòn nắng đã dịu, gió chiều rào rào trên những hàng cây sao đường Duy Tân, đường Hai Mươi, ta nhớ đến người yêu: Tối nay đưa nàng đi ăn, đi chơi ở đâu? Ngân Đình hay La Plage Biên Hòa, Rex, hay ngồi bên nhau trên thảm cỏ ngắm trăng, hôn nhau đã đời dưới những hàng dừa xa lộ?
    Thanh Nam là nhân viên Đài Phát Thanh Mẹ Việt Nam của Mỹ. Đài này cho nhân viên ra đảo Phú Quốc trước ngày 30 Tháng Tư. Người Mỹ sắp cuốn cờ bỏ của chạy lấy người nhưng vẫn còn muốn tránh cái tiếng đưa người Việt làm với họ chạy ra khỏi nước. Họ đưa nhân viên Đài Mẹ Việt Nam ra Phú Quốc để có thể nói Phú Quốc vẫn là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ vậy Thanh Nam và vợ con sang Hoa Kỳ tương đối nhẹ nhàng. Nghe nói có thời Thanh Nam sống ở miền đông Hoa Kỳ, thành phố New Jersey, rồi lên Seattle ở miền Tây cho đến ngày anh mất.
    Những năm 1980 ở Sài Gòn, tôi đã được nghe vài câu trong bài “Thơ Xuân Đất Khách” của Thanh Nam. Năm 1994 khi sang đến Hoa Kỳ, tôi mới được đọc toàn bài. Từ đó tôi cho đây là bài thơ tả tâm trạng người Việt tha hương hay nhất.

    Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
    Mới hay năm tháng đã thay mùa
    Ra đi từ thưở làm ly khách
    Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
    Trôi dạt từ đông sang cõi bắc
    Hành trình trơ một gánh ưu tư
    Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
    Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
    Thức ngủ một mình trong tủi nhục
    Dặm dài, chân mỏi, bước bơ vơ
    Giống như người lính vừa thua trận
    Nằm giữa sa trường nát gió mưa
    Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
    Làm thân cây cỏ gục ven bờ
    Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
    Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa…

    Những câu thơ như: “Chợt nghe từ đáy hồn thương tích… Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa” không cần và không thể nói gì thêm theo kiểu phụ đề Việt ngữ. Tôi đến Hoa Kỳ muộn màng nên không gặp lại Thanh Nam. Tháng Giêng 1995 tôi đến Seattle, gặp lại Nhất Tuấn, Hà Huyền Chi, Huy Quang Vũ Đức Vinh. Riêng Thanh Nam Trần Đại Việt không còn ở thành phố mưa gần như quanh năm đó nữa.
    Đến Rừng Phong bốn mùa lá rụng tôi mới có tập “Em, Tôi, Sài Gòn và Paris” của Duyên Anh. Có hai bài thơ Xuân, thơ Tết – đúng hơn là một bài thơ “Khai Bút”, một bài thơ viết về mười hai tháng – trong tập thơ này:

    Hình như trên mỗi nụ đào
    Nỗi ta phảng phát chiêm bao cuối đời.
    Nghe trong hiu hắt mù khơi
    Tiếng em thoảng gọi hụt hơi nửa chừng
    Ngựa về vết chém ngang lưng
    Ủ ê chiến tích rưng rưng chiến bào
    Tài hoa mối gậm hư hao
    Tủi thân nhan sắc, nghẹn ngào phấn son
    Đường xa rêu lấp xanh buồn
    Hồ ly rình rập hớp hồn tinh anh
    Rượu xuân mừng chén lênh đênh
    Nghìn năm sau vẫn một mình mình thôi.


    Sau ngày ta mất nước Thơ trong nước, Thơ ngoài nước, Thơ nào cũng sầu buồn. Phải vậy thôi. Nhục bại trận, nhục mất nước, nhục tha hương! Mang ba cái nhục ấy trên vai, trong tim, trong hồn, ta không buồn sao được. Là người ta phải buồn, phải nhục. Những tháng đen hơn mõm chó mực, đen hơn cái lá đa trong ca dao ở Sài Gòn sau ngày 30 Tháng Tư 75, chỉ có những thằng Việt Gian, mặt mũi mới phớn phở, người ngợm mới béo tốt… Chỉ thấy buồn nhớ trong thơ Thanh Nam, Mai Thảo, Duyên Anh. Đó là chuyện tự nhiên.
    Mời bạn đọc thơ Duyên Anh:

    Niên thiếu
    Thuở ấy mây non gió rất mềm
    Nắng vừa ấm đủ mọng môi em
    Nụ hôn mừng tuổi ngon mùi Tết
    Anh bảo Em rằng mới tháng giêng
    Tiếng trống đình vang tự sớm mai
    Xuân em còn hứa hẹn lâu dài
    Hồn nhiên thức trắng canh tam cúc
    Anh bảo em rằng sang tháng hai
    Gánh hát chèo đêm tận xóm xa
    Đưa em đi dưới ánh trăng ngà
    Khi về hoa bưởi thơm mùi nhớ
    Anh bảo em rằng qua tháng ba
    Chân sáo đường quê vẽ hẹn hò
    Bồi hồi ngọn cỏ ngậm sương mơ
    Vô tình tay nắm tay khăng khít
    Anh bảo em rằng đang tháng tư
    Ít quá mỗi ngày một bận thăm
    Thật gần mà vẫn cứ xa xăm
    Chửa chiều đã ngỡ sao quên mọc
    Anh bảo em rằng sắp tháng năm
    Anh bảo em nhiều, đếm hết không
    Những lời tháng sáu có mưa giông
    Những câu tháng bẩy heo may lượn
    Tháng tám tình xanh, tháng chín hồng
    Anh vỡ lòng yêu cuối tháng mười
    Đóa hôn tháng một cháy bùng môi
    Tháng mười hai gọn vòng tay ấm
    Ấy lúc hồn anh biết rã rời.

    Bài thơ dễ thương, không một lời gì trong thơ cho ta thấy thấp thoáng hình ảnh Thương Sinh một thời Con Ong châm chích.
    Ngày tháng ghi dưới bài là năm 1974.
    Năm ấy chiến tranh đã tàn phá đất nước ta ròng rã hai mươi năm nhưng chúng ta chưa bại trận, chưa mất nước, chưa đầu hàng, chưa nhục nhã bỏ chạy, chưa có nỗi buồn vong quốc trong thơ của những văn nghệ sĩ Việt Nam.
    Không có nhiều ý thơ Xuân, thơ Tết trong tập “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” của Mai Thảo. Bạn đã đọc bài thơ Trừ tịch, đây là mấy bài thơ khác của Mai Thảo:
    Mừng tuổi
    Em vẫn trăm xuân mừng tuổi mới
    Tuổi của thềm sương tuổi chúng mình
    Cùng lăn không tiếng về nơi ấy
    Tăm cá không còn cả bóng chim
    Cuối năm
    Tận ngữ tìm lung một tĩnh từ
    Tưởng còn sót lọt ở phần thư
    Đập tay điếu thuốc tàn không rụng
    Đã lượng đời vơi tới đáy ư?
    Tin xuân
    Những bầy chim én báo tin xuân
    Không tới. Đài Xuân vẫn trắng ngần
    Sao phải đợi chờ chim én bảo
    Một đóa vui người đủ tuyết tan.

    Trong ba người, Thanh Nam có nhiều thơ về Tết, về Xuân nhất, Thơ Thanh Nam làm tôi xúc động, cảm khái nhất, như những câu:

    Đất khách năm tàn vẫn gió mưa
    Ngồi bên ly rượu đón giao thừa
    Nhìn qua khung cửa mờ hơi nước
    Chợt nhớ mưa phùn đất Bắc xưa…
    …Ôi cố hương xa nửa địa cầu
    Ngàn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau
    Đâu đây trong khói trầm thơm ngát
    Hiện rõ trời xuân một thuở nào…

    Tôi quen biết Thanh Nam năm 1952 ở Sài Gòn. Thanh Nam, Nguyễn Minh Lang, Trọng Khương (Bánh Xe Lãng Tử), Hoàng Giác (Ngày Về)… năm ấy là nhân viên Phòng Năm, Cục Tâm Lý Chiến, Bộ Tổng Tham Mưu. Thanh Nam có thời làm thư ký tòa soạn tuần báo Thẩm Mỹ. Tôi quen biết Mai Thảo năm 1956 khi tờ tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong ra đời, Mai Thảo giữ mục Điểm Thơ cho Văn Nghệ Tiền Phong những số đầu. Tôi quen biết Duyên Anh năm 1964 khi anh đã có tên Thương Sinh và có tác phẩm “Dấu Chân Sỏi Đá“.
    Cả ba đều là bạn mày tao với tôi. Tôi có một số kỷ niệm với ba người bạn ấy. Hôm nay ba bạn tôi cùng giống nhau một điểm là họ đã ra khỏi cõi đời này.

    Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái
    Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
    Thôi thế anh về yên xóm cỏ
    Cây đời đã cỗi gốc yêu đương
    Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió
    Cho đống xương tàn được nở hương…

    Tôi thường kể những lời thơ trên đây mỗi khi trái tim tôi ngất ngư đi một đường cảm khái. Tôi nhớ tôi đọc được những câu thơ ấy trên đầu một truyện ngắn nào đó của Lê Văn Trương – truyện ngắn tôi đọc những năm 40 khi tôi mới vừa mười tuổi. Cuối năm nay tôi làm một chuyến tiếu ngạo giang hồ qua Cali; được tặng một số sách trong đó có tập Thơ Trần Huyền Trân, tôi mới biết đó là những câu thơ trong bài Lưu Biệt, Trần Huyền Trân viết tặng Lê Văn Trương:

    Thôi thế anh về yên xóm cỏ
    Xứ nghèo đã cỗi gốc yêu đương
    Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió
    Cho đống xương đời được nở hương…

    Sáu, bẩy giờ tối mùa mưa, hai chúng tôi trên hai xe đạp song song bên nhau đi trên đường Duy Tân, con đường cây dài, bóng mát nhiều người yêu mến ở Sài Gòn. Có tôi trong số những người yêu đường Duy Tân, nhất là khoảng đường từ sau Nhà Thờ Đức Bà đến Hồ Con Rùa. Một đêm Noel xa xưa – những năm 54, 55 – tôi nằm mơ thấy tôi đi trên đoạn đường Duy Tân đó, đường đầy hoa, những bông hoa lên đến hai đầu gối tôi.
    Chúng tôi ghếch, khóa hai xe vào nhau, vào ngồi một quán cà phê vỉa hè. Tối xuống, những quán cà phê nghèo lèo tèo ba bốn cái bàn gỗ nhỏ như quán này mọc lên thật nhiều. Cà phê vỉa hè nhưng vẫn là cà phê phin cái nồi ngồi trên cái cốc. Hai chúng tôi cùng hút thuốc lá dây chuyền. Duyên Anh nói:
    – Đi chơi với mày lần cuối. Tao đi mấy lần rồi mà đều không xong. Những lần trước tao đi không chia tay với mày. Lần này chia tay xem sao… Tao nhớ có lần mày nói Lan Đài đi mà không nói lời chia tay với mày, nó đi không lọt.
    Tôi bùi ngùi nhớ chuyện Lan Đài.
    Năm 1981, hay 82… một chiều tôi đạp xe đến nhà Lê Trọng Nguyễn, đường Nguyễn Huỳnh Đức, rủ Nguyễn đi chơi. Đến cửa nhà Nguyễn, tôi gặp Lan Đài và con gái anh trong nhà Nguyễn vừa ra. Hai bố con đi một xe đạp, Lan Đài đứng lại nói chuyện vài câu với tôi. Rồi chia tay. Vào nhà gặp Nguyễn, tôi nói:
    – Tao vừa gặp Lan Đài với con gái nó ngoài đường. Nó như có chuyện gì muốn nói với tao rồi lại thôi…
    Nguyễn gật đầu:
    – Mày hay đấy. Nó với con gái nó sắp đi chui. Nó đến từ giã tao. Chắc nó muốn nói với mày là nó sắp đi…
    Năm, bẩy ngày sau gặp lại nhau, Nguyễn muốn khóc:
    – Lan Đài nó chết rồi. Ban đêm lên tầu lớn nó rớt xuống sông. Tìm được xác nó rồi, con gái nó cũng ở lại luôn…
    Nhạc sĩ Lan Đài, Chiều Tưởng Nhớ, từng phụ trách một chương trình nhạc trên TiVi Việt Nam những năm 70. Dường như tên chương trình là Tiếng Thời Gian. Lan Đài hiền lành, dễ thương, không bê bối kiểu nghệ sĩ bất cần đời, không ăn tục, nói phét, không sài tiếng Ai Cập như tôi, không ăn chơi. Biết Duyên Anh sắp đi tôi kể chuyện Lan Đài. Không ngờ Duyên Anh bị chuyện đó làm cho théc méc.
    Chúng tôi chia tay nhau ở đường Hai Bà Trưng. Tôi về Ngã Ba Ông Tạ, Duyên Anh về đâu tôi không biết. Căn nhà kiểu vi-la của Duyên Anh ở đường Công Lý, phía bên chùa Vĩnh Nghiêm, gần ngay ngã tư Công Lý – Yên Đổ, đã được bán đi và giao cho chủ mới ngay trong ngày vợ con Duyên Anh lên Air France sang Pháp. Vợ con Duyên Anh ra khỏi nhà lúc 11 giờ trưa, bốn giờ chiều Duyên Anh kéo Dương Hùng Cường, tôi và một hai anh em nữa đến nhà uống bia thoải mái. Năm ấy (năm 1983) căn nhà chỉ được bán với giá có 27 cây vàng. Năm nay (2000) nhà đó phải trị giá đến cả ngàn cây.
    Duyên Anh đi và đi thoát luôn. Tối mưa ấy, cuối năm 1983, là lần cuối cùng chúng tôi gập nhau, nhìn mặt nhau. Nếu lúc ấy Duyên Anh đi không thoát thì chưa biết cuộc đời anh sau đó và bây giờ ra sao! Một chuyện tôi chắc hơn bắp là nếu cuối 1983 Duyên Anh đi không thoát thì qua năm 1984 Duyên Anh cũng nằm trong một phòng giam nào đó trong Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu như Dương Hùng Cường và tôi. Chúng tôi bị tó đêm mùng 2 tháng 5, 1984.
    Duyên Anh bị bắt trong đợt Việt Cộng khủng bố văn nghệ sĩ Sài Gòn tháng 3, tháng 4 năm 1976. Từ Trại Lao Cải Xuyên Mộc trở về năm 1981, Duyên Anh viết truyện “Đồi Fanta”. Bản thảo được đánh máy làm nhiều bản. Duyên Anh nhờ một người bạn trẻ giữ dùm một bản. Gia đình anh bạn này có nhiều người rất ái mộ Duyên Anh. Anh bạn trẻ nguyên là một tu sĩ Công giáo. Anh đã học xong nhưng Việt Cộng không cho anh được trở thành linh mục. Anh bị bắt vì can tội cùng một nhóm tu sĩ in ronéo những bài giảng, in lịch đạo cũng bằng ronéo cung cấp cho giáo dân đang đói khát lời Chúa “Các ngươi sẽ đói lời Ta từ bờ biển này sang đến bờ biển kia”. Tôi vào chung phòng tập thể với anh ở Khu C Một Số 4 Phan Đăng Lưu. Anh kể:
    – Khi xét nhà tôi, nó bắt được tập “Đồi Fanta” của ông Duyên Anh. Trong tập ấy có cái thư ông Trần Tam Tiệp ở Paris viết cho ông Duyên Anh, trong thư có nhắc đến ông và ông Dương Hùng Cường.
    Anh bạn trẻ và tôi trở thành thân thiết nhau. Tôi nhờ anh thật nhiều. Nhờ cả tinh thần và vật chất. Chúng tôi nằm cạnh nhau, ăn chung, anh được gia đình gửi đồ nuôi khá nhiều – trước 75 ta gọi là “tiếp tế” – nhờ nhà có tiền chịu chi cho bọn cai tù nên anh được ra gặp thân nhân luôn. Nhờ anh, tôi nhắn được tin về nhà cho vợ tôi. Ở chung với nhau khoảng sáu tháng, một sáng anh rời Phan Đăng Lưu để sang Chí Hòa. Người bạn trẻ đi rồi, tôi ứa nước mắt vì thấy mình cô đơn quá đỗi.
    Hai tháng sau đến lượt tôi lên xe cây sang Thánh thất Chí Hòa. Tôi được đưa vào Phòng 10 Khu ED. Thật phúc cho tôi: anh bạn trẻ ở trong Phòng 10. Tôi lại ăn chung, nằm cạnh anh. Tại đây anh đã kết thân với tu sĩ Phật giáo Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Anh rất mê Trí Siêu. Năm 1986 anh ra tòa. Hai tu sĩ Thiên Chúa giáo cùng vụ với anh lãnh án 3 năm tù, anh bị 8 năm. Thêm 5 năm tù chỉ vì tội giữ truyện “Đồi Fanta” của Duyên Anh
    .
    Vợ con Duyên Anh sang Pháp bằng đường bảo lãnh chính thức. Chừng bẩy, tám tháng sau Duyên Anh vượt biên sang đảo rồi sang Pháp. Truyện “Đồi Fanta” được Pháp quay thành phim. Duyên Anh viết thật nhiều, có sách xuất bản thật nhiều kể từ 1983.
    Tôi bị bắt lần hai năm 1984.
    Tháng Giêng 1990 tôi trở về mái nhà xưa ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ lần thứ hai.
    Tháng 11 năm 1994 bánh xe lãng tử đưa Alice và tôi đến Rừng Phong, Virginia Đất Tình Nhân. Đầu năm 1995, Duyên Anh từ Pháp sang Texas. Anh hay đến Wichita, Kansas với Lê Hồng Long, chủ nhiệm tạp chí Thế Giới Ngày Nay. Chúng tôi nói chuyện vài lần qua điện thoại, hẹn gặp nhau nhưng tôi không có dịp nào gặp lại Duyên Anh. Trong những ngày trước hay sau Tết Con Hổ, Duyên Anh từ trần ở Paris.
    Những mùa tuyết trắng đến trên đồng đất Virginia, hôm nay trong Tàng Kinh Các nghèo nàn ở Rừng Phong mới có ba tập thơ của ba người bạn tôi: Thanh Nam, Mai Thảo, Duyên Anh. Ba anh đều đã qua đời. Thanh Nam, Mai Thảo hơn tôi vài tuổi, Duyên Anh kém tôi vài tuổi. Cả ba đều là bạn mày tao với tôi.
    Kể từ năm 1956, tôi viết tiểu thuyết đều đều cho các nhật báo, tuần báo. Mỗi năm cứ đến những ngày gần Tết, các thợ viết chuyên nghiệp như tôi lại bận rộn với việc viết những bài gọi là bài Xuân, bài Tết để đăng báo Xuân, báo Tết. Việc làm ấy của tôi đột ngột ngừng năm 1975. Hai mươi năm trời sống ở quê hương – trong số có tám năm mòn mỏi trong tù – tôi đã tưởng đời tôi không còn bao giờ được hưởng lại hạnh phúc cuối năm viết bài Xuân, hạnh phúc đọc những bài Xuân của mình đăng trên báo Xuân. Nhưng rồi một sáng cuối thu bánh xe lãng tử đưa vợ chồng tôi đến Rừng Phong, Thành Hoa, Xứ Kỳ Hoa, Tây Vực. Năm năm cứ đến những ngày gần Tết tôi lại được hưởng hạnh phúc viết bài Xuân.

    Năm năm cứ đến ngày gần Tết
    Lại viết bài Xuân đăng báo Xuân .
    Chẳng thấy Xuân đâu, chưa thấy Tết
    Đã rộn bài Xuân, loạn báo Xuân!
    Tha hương cóc có ba ngày Tết
    Mít vẫn hè nhau Tết với Xuân!
    Mấy chục mùa Xuân, mấy chục Tết
    Đời chẳng còn Xuân vẫn phải Xuân.
    Hoài niệm quê hương thời có Tết
    Ngậm ngùi tưởng nhớ viết thương Xuân…

    Như đã nói, bốn năm sau ngày đến Mỹ hôm nay tôi mới có ba tập Thơ Thanh Nam “Đất Khách“, Thơ Mai Thảo “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền“, Thơ Duyên Anh “Em Tôi Saigon Và Paris“. Tôi tìm hình ảnh xuân, tình xuân trong những tập thơ ấy…
    Thông lệ: nhiều người viết tiểu thuyết khi còn trẻ – những năm hai mươi tuổi – khi mới viết, có làm thơ. Vì không phải là thi sĩ những người viết này sau đó bỏ làm thơ hoặc chỉ làm thơ những lúc trái tim họ rung động nhất. Trong số những người viết này có Duyên Anh, Mai Thảo, Thanh Nam. Trước năm 1954 Thanh Nam có làm một số bài thơ, từ 1954 đến 1975 dường như Thanh Nam chỉ làm có “Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi”.
    Cũng theo công thức Hàn Dũ “bất bình tắc minh” sau Ngày Oan Nghiệt 30 Tháng Tư 75 rất nhiều người Việt làm thơ. Trong số những người làm thơ này có Thanh Nam, Mai Thảo, Duyên Anh.
    Đây là bài “Ai tín”, Duyên Anh làm ở Paris năm 1983, khi mới đến nước Pháp:

    Em
    Anh đã đến Paris
    Mùa thu đầy xác lá
    Như lòng anh buồn bã thuyền nhân
    Sài Gòn tuy xa nhưng vẫn rất gần
    Paris trước mặt mà trăm năm hiu quạnh
    Cái gì lửng lơ trên míếng đời mỏng dính
    Đó hồn anh giá lạnh quê người
    Anh đi giữa trưa thương nhớ mặt trời
    Anh đi giữa đường tương tư cơn gió
    Mặt trời ấm vừa má em hây đỏ
    Cơn gió hiền đủ sợi tóc em bay
    Anh đi giữa người thương nhớ ai đây
    Anh đi giữa đời cát mù sa mạc
    Anh đi tội tình lưu vong ngơ ngác
    Anh đi dại khờ trẻ lạc quê hương
    Anh đi không nhớ phố nhớ phường
    Anh đi chẳng cần giờ cần giấc
    Anh đi nghe đìu hiu lau lách
    Với tuổi anh hạnh phúc quá tầm tay
    Với tuổi anh hạnh phúc tiếng rên dài
    Khi cúi xuống nhìn dấu giầy lữ thứ
    Còn trong anh một hồi chuông quá khứ
    Chưa kịp rung đã cáo phó tương lai
    Anh đi ngẩn ngơ quên tháng quên ngày
    Anh đi hững hờ quên trời, quên đất
    Anh đi miệt mài xác xơ hành khất
    Mà thiên đường thiếu phép lạ thi ân
    Thượng đế kiêu căng, Thượng đế nghèo nàn
    Không thể bố thí cho anh tổ quốc
    Cái gì rét run lặng câm đau buốt
    Đó hồn anh lìa nước bơ vơ
    Tổ quốc anh đâu, tổ quốc nghìn xưa
    Tiếng anh gọi đã sương mù vĩnh quyết
    Tiếng anh gọi đã nghĩa trang đào huyệt
    Nghĩa là anh mất hết tự đêm nào
    Giòng sông đưa anh ra biển ngập sao
    Giòng sông không dẫn anh về quê hương anh nữa
    Em,
    Anh đã đến Paris
    Mùa thu đầy xác lá
    Xác lá mùa thu, xác lá duyên anh.

    Tập Thơ “Em Tôi Saigon Và Paris” 52 bài, chấm dứt với bài “Mùa Riêng”, ghi ngày 10-87. Khi Duyên Anh gập tai họa tôi đang nằm trong Lầu Bát Giác Chí Hòa. Từ đó nhiều lần tôi nghĩ: nếu Duyên Anh không đi thoát chắc chắn trong tháng 5-1984, Duyên Anh cũng bị bắt như Dương Hùng Cường, như tôi. Chắc chắn thứ hai là Duyên Anh sẽ bị công an Thành Hồ ghép cùng vào bọn văn nghệ sĩ phản động làm “gián điệp” và sau khi thấy gán tội “gián điệp” là không được và lố bịch, đổi sang là “Bọn Biệt kích cầm bút”, bọn tám anh chị em tôi, thì chắc chắn giòng đời Duyên Anh không như đã xẩy ra. Duyên Anh sẽ ở tù ít nhất tám năm như Doãn Quốc Sĩ, sẽ ra khỏi tù khoảng 1992, sẽ sang Pháp hay Mỹ chậm lắm là năm 1994. Và nếu như thế giờ đây Duyên Anh đang ngồi bình an ở một nơi nào đó viết bài Xuân như tôi đang viết.
    Duyên Anh đi thoát ra xứ người, bị đánh ở Cali, liệt bại nửa người. Minh Đăng Khánh, Minh Vồ ở trong nước không bị ai đánh cả cũng nửa người liệt bại. Cùng anh em vào tù trong một đêm, Dương Hùng Cường không trở về mái nhà xưa với vợ con. Đôi khi tôi théc méc tại sao tôi không – nên nói là chưa cho chắc ăn chăng? – bị ung thư cuống họng như Thanh Nam? Tôi hút thuốc lá nặng hơn Thanh Nam. Tại sao tôi không chết trong tù mà lại là Dương Hùng Cường? Thể xác, tinh thần tôi yếu hơn Cường nhiều lắm!
    Tôi đi tù cùng thời gian nhưng không tù cùng một chỗ với anh Nguyễn Mạnh Côn và Duyên Anh nên tôi không thể nói chắc trăm phần trăm, song theo kinh nghiệm tù đầy của tôi, qua những chuyện nghe được, tôi có thể nói chắc đến tám phần mười Duyên Anh không can dự gì trong cái chết của anh Côn.
    Hai mươi mấy mùa xuân đã đến, đã đi kể từ ngày oan nghiệt ấy, tôi có vài thắc mắc nhỏ, những thắc mắc không đáng gì nhưng là thắc mắc của tôi. Tôi thắc mắc muốn biết:
    – Ai là người cho nổ mìn ở Hồ Con Rùa làm chết oan một số dân Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976?
    – Ai là tác giả Thông cáo “Ra đi ồ ạt” phổ biến ở Thành Hồ năm 1981 hay 1982?
    Ai là người đánh Duyên Anh ở Cali? Đánh vì thù riêng hay vì nguyên nhân nào?
    Người nổ mìn ở Hồ Con Rùa, người viết bản thông cáo “Ra đi ồ ạt” có thể không đi ra nước ngoài, nhưng người đánh Duyên Anh là người Việt ở Mỹ. Tôi rất mong ai đó lên tiếng về động cơ đã làm cho Duyên Anh bại liệt.

    (Còn tiếp)

Similar Threads

  1. Tìm hiểu lịch sử cái chết của nhà ái quốc tạ thu thâu
    By phusinh in forum Diễn Đàn Bạn Đọc
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 05-20-2019, 08:28 PM
  2. Sống và chết
    By dnchau in forum Diễn Đàn Bạn Đọc
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 05-06-2019, 09:44 PM
  3. Lỡ Mai Anh Chết.(Karaoke)_Hai Hùng SG
    By Hai Hùng SG in forum Hát Cho Nhau Nghe
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-06-2019, 02:49 AM
  4. Cái chết của Người tù cải tạo
    By ducquany in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 03-15-2019, 11:16 PM
  5. Niềm tin vào thể chế & Thế hệ thứ ba
    By Nguyen Huu Thien in forum Nhận Định Thời Cuộc
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-29-2018, 03:16 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •