Chắc Má Tao Mừng Lắm...

Chiều trên đảo Galang. Nắng chưa tắt và hơi gió biển từ xa thổi vào
lành lạnh, dường như có mùi muối mặn. Chúng tôi trong phái đoàn Văn
Khố Thuyền Nhân, mỗi người mang một tâm trạng riêng nhưng cùng chung
một tâm nguyện, âm thầm thắp nhang cắm trên các mộ bia hoang tàn.
Nhiều mộ bia đã bị đập phá, gạch đá nằm lăn lóc, cỏ cháy vàng khô.
Nhiều tấm bia đã phai mờ chữ khắc, nhiều tấm bia không có năm sinh,
chỉ ghi ngày chết. Tất cả, tất cả đều im lặng, hoang vu, ngậm ngùi.
Trên bục đá cao còn sót lại một cột cổng bằng xi-măng vào nghĩa trang,
màu sơn trắng đã thành rong rêu loang lổ, ai đã sơn thêm ba sọc màu
đen từ trên xuống dưới, thành lá cờ tang của Tổ Quốc, bơ vơ nơi xứ
người. Trông thật ảm đạm, đìu hiu, tôi nghĩ đến những dòng nước mắt
màu đen của Dân Tộc hôm qua và hôm nay. Tôi cúi đầu khấn nguyện, cắm
nhang trên những nấm mộ vô danh, và tôi đang khóc trong lòng. Vì tuổi
già leo dốc cao, và vì quá xúc động trước cảnh tượng điêu tàn hoang sơ
này, tôi chợt cảm thấy mình ngộp thở, vội trao lại bó nhang đang bùng
khói cho người bạn đồng hành trong đoàn, từ Mỹ qua. “Anh cắm nhang
tiếp giùm tôi đi, tôi chóng mặt quá!” Tôi đến ngồi bên cạnh một mộ bia
đã bị đập vụn, nghĩ về thảm trạng của cả một trời quê hương, bên kia
bờ biển Đông, và nghĩ đến những người đã chết bên này đại dương.

Dưới chân nghĩa trang, dọc theo con đường mòn, có một khu rừng. Một
tấm bảng chỉ đường ghi bằng tiếng Anh: “Body Tree”. Trong lùm cây, có
một cây đa già buông nhánh và rễ xuống tận đất. Có người nói đấy là
cây bồ đề, và bảng chỉ đường “Body Tree” có nghĩa là khu cây bồ đề.
Nhưng sự thật không phải như vậy. Dưới gốc cây có dựng ba kệ bàn thờ
nhỏ có mái che như cái “trang” bằng gỗ sơn màu đỏ. Thuyền nhân trên
đảo trước đây và dân làng địa phương gọi là “Miếu Ba Cô”. Vài anh em
trong phái đoàn, đã từng sống trên đảo này, kể lại cho tôi nghe là có
ba cô gái trên đường vượt biển đã bị hải tặc hãm hiếp, khi đến được
trại tỵ nạn trên đảo đã quá tủi nhục và uất hận, ra treo cổ tự tử trên
cành cây đa vào ban đêm. Trong ba người, có hai chị em ruột tuổi còn
nhỏ. Đồng bào tỵ nạn trên đảo đã lập miếu thờ và dân làng địa phương
cho đến nay vẫn còn gìn giữ nơi này, tin tưởng là chốn linh thiêng.
Tôi nghĩ đến tấm bảng chỉ đường “Body Tree”, có lẽ là nơi “Cây treo
xác người” chứ không có nghĩa là cây bồ đề. Tôi lặng người, đứng nhìn
khu miếu hoang vu này, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người
con gái Việt Nam, vào lứa tuổi con-em của tôi, đã theo gia đình vượt
biển tìm Tự Do, để rồi phải chết trong cảnh oan khiên. Hương lạnh
hoang tàn, cô đơn nghiệt ngã. Không biết thân nhân của những người con
gái đau thương này, đã được định cư tại một nơi nào đó trên thế giới
tự do, có bao giờ trở lại để thắp một nén nhang cầu nguyện? Anh em
trong Văn Khố Thuyền Nhân có ghi lại chi tiết về những cái chết tận
cùng khổ nhục này của các cô gái Việt Nam, nhưng tôi chỉ viết lại cảm
xúc của riêng tôi vể cảnh tượng. Tôi lại nhìn ra biển khơi và thấy
hiện ra căn nhà nghỉ mát đồ sộ nguy nga của con gái tên Thủ Tướng Việt
Cộng Nguyễn Tấn Dũng trên bờ biển Nha Trang mà tôi đã thấy hình đăng
trên báo chí hải ngoại mới đây. Căn nhà nghỉ mát của “Con Gái Siêu Đại
Gia Tư Bản Đỏ” này, ở Nha Trang, và cái “Miếu Ba Cô” hoang vu trên đảo
Galang chiều nay, là nghịch cảnh có thực trong cõi đời này. Nghịch
cảnh giữa những người con gái Việt Nam, đang sống và đã chết bên bờ
Biển Đông, trong hàng triệu nghịch cảnh giữa lòng Dân Tộc. Những người
nào còn chút lương tâm, luôn cả nhân loại nếu còn lương tri, sẽ tự tìm
ra câu trả lời vì sao? Trong thời đại này, theo thời gian và theo vị
kỷ của con người, có lẽ hai chữ “lương tâm” đang nằm im trên trang
giấy trong tự điển.

Ngồi trên xe rời xa đảo trên đường về lại thị trấn quận hạt Batam, tôi
nghĩ thêm được những câu kết trong bài trường thi “Hồn Ca Trên Biển
Đông” mà tôi đang “viết” trong đầu về linh hồn những người đã chết với
những nấm mô điêu tàn:

Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi --sá gì tên với tuổi!
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn --Hồn mãi sống thiên thu!

Năm 2005, Hà Nội đã làm áp lực với các chính phủ Mã Lai và Nam Dương
để đập phá các tấm bia tưởng niệm Thuyền Nhân đã chết trên biển Đông,
và bây giờ, năm 2009, khi chúng tôi đến đây, Hà Nội vẫn tiếp tục yêu
cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tích, xóa bỏ tất cả dấu
vết Thuyền Nhân trên các đảo! Bạo lực và hận thù của một chế độ từ bên
kia bờ đại dương đang vói tay qua sóng nước trùng khơi để hủy bỏ chứng
tích tội ác của họ, trên những ngọn đồi xứ lạ, nghĩ rằng rồi đây nhân
loại sẽ không còn thấy những di tích tang thương này của Dân Tộc Việt
Nam. Rồi đây, những bia mộ hoang tàn còn sót lại này, rồi đây “Miếu Ba
Cô” tịch liêu này, có còn không? Tôi nhìn lên trời cao, gió chiều thổi
đám mây trắng bay về cõi mênh mông vô định. Lòng tôi đang quấn khăn
tang như màu mây trắng. Tôi nghĩ đến thân phận Dân Tộc của tôi, vong
linh những thuyền nhân đã chết, và hình ảnh các cô gái Việt Nam treo
cổ trên cành cây đa nơi xứ người! Một trang sử màu đen loang lổ những
vệt máu khô.

Chiều nơi khu Geylang. Sau những ngày làm việc tại Indonesia, chúng
tôi đi phà từ đảo Pinang về lại Singapore để chờ máy bay “hồi hương”!
Không phải bị “cưỡng bức hồi hương” như một số thuyền nhân trên các
đảo trước đây. Vì anh em chúng tôi trong phái đoàn phải tự túc mọi chi
phí, và đây không phải là chuyến đi du lịch vui chơi, cho nên chúng
tôi phải tìm nhà trọ tại một khu xa thành phố để tiết kiệm tối đa. Khu
Geylang hổn tạp, xô bồ, đa số là dân lao động tứ xứ với đủ sắc dân,
Tàu, Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, luôn cả du khách ba-lô từ các nước
Phương Tây dồn về. Ban ngày dường như ai cũng ngái ngủ, quán xá phần
đông đóng cửa, nhưng từ 3-4 giờ chiều cho đến sáng hôm sau thì tấp nập
dòng người chen chân qua các khu phố. Bàn ghế ăn uống nhậu nhẹt đặt
sát lề đường, không còn một chỗ ngồi. Các quán ăn rộn rịp, om sòm đủ
mọi thứ tiếng. Xe cộ dập dìu, mạnh ai nấy băng qua đường, xe phải
tránh người. Từ nhà trọ, tôi lang thang bách bộ đi qua các con hẻm để
quan sát cảnh sống ban đêm nơi xứ người. Tại nhiều góc hẻm, dân chúng
tụ tập quanh các bàn cờ bạc đủ loại, tài xiu, sóc dĩa, quay số...
không thấy bóng một cảnh sát viên nào. Ở đâu tôi cũng thấy các cô gái
phấn son, ăn mặc hở hang khiêu gợi nhưng có vẻ nghèo nàn. Toàn là gái
trẻ, có nhiều cô chỉ vào lứa tuổi 14-15. Có cô đứng ngay bên lề đường
để đón khách, có cô thì ngại ngùng nép mình bên vách tường phố, đưa
tay nhẹ vẫy, với nụ cười chập chờn qua ánh đèn màu lòe loẹt. Mỗi lần
tôi đi ngang các cô gái này, cô nào cũng bập bẹ nói tiếng Anh “You go
- Me good!”. Linh cảm cho tôi biết đa số là những cô gái Việt Nam.
Lòng tôi se thắt lại. Đây là khu ăn chơi bình dân, giang hồ tứ chiếng,
và tôi chợt nhìn thấy nhiều thanh niên bụi đời đang đứng trong bóng
tối rình rập, canh chừng các cô gái. Ma-cô đầu gấu. Thỉnh thoảng các
cô lại đến thì thầm gì đó, móc túi đưa tiền cho các gã, hoặc đi theo
khách vào các nhà trọ trong khu vực. Tại nơi chúng tôi tạm trú, tôi
thấy có tấm bảng ghi $10 đô la Singapore 1 giờ thuê phòng. Các cô gái
trẻ đi với khách đủ loại và mất hút vào cầu thang, có cô thản nhiên,
có cô rụt rè. Đi qua chỗ mấy sạp bán trái cây, đặc biệt là sầu riêng
thơm lừng, trước cửa một khu “disco” đèn chớp sáng, tôi thấy các cô
gái ăn mặc rất khêu gợi và tôi cũng được mời “You go - Me good”. Tôi
lắc đầu bước đi và thoáng nghe sau lưng mấy cô nói chuyện với nhau
bằng tiếng Việt.
Bước vào một tiệm đổi và chuyển tiền để đổi một ít tiền Singapore
(thường được gọi là đô la Sin) để đi ăn tối, tôi thấy hai cô gái đang
đứng trước quày. Tôi sắp hàng đứng sau lưng. Hai cô cũng mặc quần
ngắn, áo mỏng manh, tuổi nhỏ khoảng 16-17, son môi đỏ chói. Chợt tôi
nghe một trong hai cô, sau khi chuyển xong tiền, buộc miệng nói tiếng
Việt: “Kỳ này tao gửi về được 50 đô. Chắc má tao mừng lắm!” Cô kia
thở dài: “Tao chưa gom đủ tiền, cuối tháng mới gửi được về nhà”. Rồi
cả hai bước ra cửa. Tôi vội đổi một ít tiền, chạy theo hai cô gái, vào
một quán ăn bên đường. Tôi đến đứng bên cạnh bàn hai cô đang ngồi,
định bắt chuyện thì một trong hai cô đã hỏi ngay: “You go – Me good”!
– Tôi ngồi xuống bàn và nói nhỏ: “Tôi là người Việt mà. Mời hai cô ăn
uống gì với tôi cho vui”. Cả hai cô đều nhìn tôi ngạc nhiên rồi hỏi
nhỏ, bằng tiếng Việt: “Bác ở đây hay là người nước ngoài tới chơi?
Bác “đi” không? “Đi” một đứa hay cả hai cũng được, “xâu” luôn nha!”.
Tôi mĩm cười: “Hai cô ăn uống gì không, tôi mời đó. Tôi ở xa mới tới
đây, ngày mai đi rồi”. Tôi gọi ba tô mì và nước dừa tươi. Sau một vài
phút thì thầm gợi chuyện, có lẽ thấy tôi là một “ông già” không có
tình ý gì xấu, hai cô bắt đầu cởi mở hơn, gọi tôi bằng ông và tự xưng
là cháu, và vừa nói chuyện vừa nhìn quanh. Thông thường, các cô gái
làm nghề này lâu năm thì trường đời đã dạy thêm chua ngoa, lừa lọc,
phịa chuyện đau thương để làm động lòng khách, nhưng riêng với hai cô
gái này, tôi nhận thấy vẫn còn chất đồng quê chân thật. Hơn nữa, tôi
chỉ gợi chuyện hỏi về những điều không đi sâu vào đời sống riêng tư và
đường dây chuyển người. Tôi được biết: - Hai cô gái này đều 18 tuổi,
quê ở Vỉnh Long, sang đây được gần một tháng nay. Cuối tháng sẽ đi phà
qua quận Batam ở Nam Dương rồi về lại Singapore, ở thêm mỗi lần như
vậy được một tháng như là khách du lịch, nhưng chỉ tối đa được ba lần
mà thôi. Tôi được biết thêm là tại khu vực này đa số đều là gái từ
Miền Nam qua, gọi là đi du lịch hoặc xin học nghề, có người bảo lãnh
lo mọi thủ tục. Có luôn cả người đi theo canh chừng. Các cô lén chỉ
cho tôi mấy gã thanh niên đang ngồi ăn ở góc quán. Không được ngồi
chơi với khách, phải dẫn khách đi ngay vào nhà trọ thuê phòng, hoặc
qua giờ hoặc qua đêm. Nếu ngồi nói chuyện lâu thì phải trả tiền như là
“bao trọn”, với sự đồng ý của mấy gã “đầu gấu”, cũng toàn là người
Việt, hoặc là phải “báo cáo” với má-mì. Phần đông các cô đều là gái
miền quê, muốn đi tìm chồng ở Singapore hoặc được cam kết cho đi học
nghề, nhưng thực ra là qua đây bị ép buộc phải “đi khách”. Trước khi
đi phải đóng tiền thế chân khoảng 2.000 mỹ kim cho môi giới, và mỗi
tháng phải đóng tại đây 700 tiền đô la Sin. Còn lại bao nhiêu thì được
tiêu xài hoặc gửi về gia đình. Trung bình mỗi cô “làm” được khoảng
1000 đô Sin mỗi tháng nếu đắt khách, nhưng những cô lớn tuổi, từ 25
trở lên đều bị chê là già, không ai gọi đi. Càng trẻ càng có giá, tôi
được biết thêm là có nhiều cô chỉ mới 15 tuổi cũng đi “học nghề” và
được khách ở Singapore ưa chuộng “tuổi trẻ” lắm. Ở Singapore có một
khu riêng chỉ toàn gái dưới 15 tuổi, cũng từ Việt Nam qua. Tôi im lặng
ngồi nghe, rợn người, thỉnh thoảng gợi thêm chuyện để tìm hiểu. Các cô
được đưa qua đây, 10 cô ở chung một phòng, ăn uống tự túc, ban ngày
ngủ, ban đêm ra phố “làm việc”, có đầu gấu đi theo để thu tiền và bảo
vệ. Gia đình ở quê nhà chỉ biết lo chạy tiền, vay nợ, để gửi con gái
mình đi học nghề ở nước ngoài. Đang ngồi nói chuyện, có má-mì cũng
người Việt đến bàn hỏi hai cô là tôi có “đi” không? Tôi vội trả lời
thay, là tôi chỉ ngồi ăn uống cho vui thôi. Má-mì giục hai cô ra xe
taxi chờ sẵn vì có khách bao đi đêm, tôi phải trả 10 đô Sin cho buổi
nói chuyện ngắn ngủi này, coi như là tiền “tiếp khách chay”. Hai cô
chào tôi rồi chạy ra xe, taxi lách qua dòng người mất hút vào đám
đông.

Tôi thẩn thờ quay về nhà trọ, đi giữa đám đông xa lạ, chợt thấy mình
lạc lõng bơ vơ. Tôi nghe nói là Singapore gần đây đã nới lỏng việc
phục vụ khách du lịch về mọi phương diện, kể cả mại dâm trá hình, để
tăng trưởng kinh tế và nhất là để đáp ứng nhu cầu cho dân số nam nhiều
hơn nữ. Riêng về ma túy thì kiểm soát rất gắt gao, vẫn còn thực thi án
tử hình. Ở Singapore hiện nay, tìm được một người vợ vừa ý và làm đám
cưới là một điều ảo tưởng, đa số đàn ông không thể thực hiện được. Các
cô gái Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu đó, qua nhiều đường dây môi giới.
Lịch sử Dân Tộc chúng ta trước đây chưa bao giờ xảy ra hiện tượng buôn
người ra nước ngoài như hiện nay.

Tôi bước đi giữa dòng người nơi xứ lạ, tại một khu vực nghèo nàn, hổn
tạp, mà lòng tôi xốn xang. Thương nước, thương cho các thế hệ tuổi trẻ
cùng chung dòng máu phải tìm mọi cách qua xứ người để bán thân nuôi
mình và gia đình, và luôn cả thương mình đang lưu vong. Hình ảnh căn
nhà nghỉ mát nguy nga của cô con gái Thủ Tướng Việt Cộng tai bờ biển
Nha Trang, hình ảnh “Miếu Ba Cô” trên đảo Galang, hình ảnh chiếc xe
taxi chở hai cô gái Vỉnh Long bằng tuổi con-cháu tôi chạy vù trong
bóng đêm tai khu Geylang, đi về đâu và sẽ bị dày vò trong vòng tay
ai... đang âm thầm bước theo tôi, sẽ đồng hành cho đến cuối hành trình
còn lại trong đời. Và câu nói của cô gái bán thân gửi về cho mẹ 50 đô
la Sin “Chắc má tao mừng lắm”, mãi còn văng vẳng bên tai tôi. Dân Tộc
tôi dưới chế độ Cộng Sản thực sự là một khổ nạn đến tận cùng! Mong
rằng hai chữ “lương tâm” của con người sẽ không còn nằm im trên trang
giấy trong tự điển.

Võ Đại Tôn Chiều Geyland, Singapore 16/10/2009