Ngày tháng
Đi như ngày tháng xin thong thả
Bùi Kỷ
Ví thử không có khắc canh đã giục nam lâu, không có giọt rồng xuân điểm ngày thâu chìm chìm, không làm cuốn lịch bốc từng ngày, không kẻ giờ trên mặt đồng hồ cho kim chạy quanh, dễ thường ta khó nhận ra thời gian là thế nào.
Có nhà triết nhân nói rằng: Thời gian phải hình dung bằng tình cảm và những việc xảy ra, mới nhận thấy được rõ.
Thì tình cảm và việc xảy ra, ai giống ai đâu! Nếu dõi theo triết nhân, âu ta có thể luận rằng: quan niệm về thời gian, do đó, ở mỗi người lại mỗi khác đi. Lúc ta yêu không giống lúc ta thương, lúc uống thuốc đắng không như lúc ăn kẹo ngọt. Đời có lúc một phút đằng đãng bằng ba thu, như lúc ta mong bạn; lại có lúc ba thu chỉ thu vào một phút, như lúc ta… thua bài!
Tản Đà cất chén ca rằng:
Cuộc đời thử ngẫm mà hay:
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Thời gian hiểu theo tâm trạng khác nhau như thế, có lẽ ta cũng chẳng nên coi là quái dị, mỗi khi thấy có người sống giữa bây giờ mà tưởng như còn lạc lõng trong thời cổ, nhất nhất đều muốn theo vào lề cũ thói xưa; hoặc có người sống trong nước nam buổi này, mà vẫn nghĩ như mình ở một nước miền ôn đới, đã hoàn toàn hóa theo văn minh cơ khí…
Henry Murger* đã trách người phát minh ra đồng hồ, là tuy có công hình dung ra được thời gian đấy, nhưng đổi lại, cũng chuốc cho người đời biết bao lo lắng: hai chiếc kim sắc nhọn, lúc nào cũng đon đả đua nhau thái nhỏ đời ta làm trăm nghìn mảnh vụn. Mỗi tiếng tích tắc nghe như tiếng nhấm, tiếng gặm, thủng thẳng, lạnh lẽo, tựa hồ điềm nhiên nhắc vào tai ta rằng: đây là một giây, một phút của đời ta đã tách ra và rơi tõm vào khoảng không vô tận.
Tiếc cái thời trôi đi như nước chảy dưới cầu, thi sĩ mới đuổi theo mà van vỉ:
Đi như ngày tháng, xin thong thả:
Ở với non sông trót nợ nần!**
Nợ non sông ngày thêm chồng chất, cái ngày giờ còn sót lại, liệu có đủ cho ai trang trải lấy đôi phần? Ôi, tấm lòng ưu mẫn, thời gian kia đã thắt buộc, làm cho thắc mắc biết chừng nào!
Oscar Wilde nói: Cái bi kịch của người ta lúc về già, là tuổi già rồi mà lại thấy mình còn trẻ. Còn gì bực bõ cho bằng thấy cả thể phách lẫn tâm hồn hãy như còn thủa trẻ, còn có thể làm nên điều hữu dụng, mà số năm tháng trải qua bắt buộc mình phải tự xếp hàng vào phái già nua!
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ? Yên Đổ giật mình…
Nguyễn Công Trứ khi cưới thêm người vợ bé cuối cùng, chợt nhớ rằng tuổi mình đã bảy mươi ba, cũng phải gượng cười mà ngâm rỡn:
Tuổi tớ, cô mình như muốn hỏi,
Năm mươi năm trước mới hăm ba!***
Gượng cười, vì dù là người phóng khoáng mặc lòng, Uy Viễn tướng công không khỏi băn khoăn về cái bóng quang âm vi vút, nên vẫn có ý nằn nì:
Nhắn con tạo hóa xoay trời lại,
Để khách tang bồng rộng đất chơi!
Ngày xưa, mấy ông chúa Tàu than phiền rằng chán mùi phú quý, muốn bỏ ngai vàng mà tha thẩn vào rừng kiếm thuốc tràng sinh. Phải chăng họ chỉ muốn tràng sinh mà không màng gì phú quý? Tràng sinh trong lúc nghèo khổ, dám tin rằng chẳng mấy ai ham. Có lẽ lại chính vì ham phú quý nên mới muốn kéo dài đời, cho nó đừng thấm thoát phí phao. Khác nào đời nay, những kẻ sang giàu, nửa đường thấy da mồi tóc đã hoa râm, lập cập tìm đến bàn tiếp hạch của bác sĩ Voronoff.
Lòng tham muốn này, sự vật nài kia, vì đâu mà có? Há chẳng phải vì họ đã lấy hạn ngắn ra đọ với hạn dài, lấy hạn dài những hòng so với cái vô hạn: đem tấc gang ra mà cố ướm cho được với cao dầy!
Ham phú quý nên tiếc đời cũng phải. Có nhiều người khác, đời thật không hứng thú gì mà vẫn ham sống. Thường thì ai cũng không đành cái chết, mà đến lúc thấy không đành không được thì lại tự dối mình rằng chết đi sẽ bước vào một thế giới sung sướng hơn. Lạ thay, không ai chịu nghĩ rằng chết là được an nghỉ! Nghĩ như thế có phải được ngay niềm an ủi chắc chắn hơn không. Hay là ta tự nhủ: nếu trời công bằng thì mình đã sống cõi đời ô trọc này rồi, ắt khi sang cõi khác – trong trường hợp chết không phải là hết - phải được đền bù bằng một phần thanh cao?
Nhà Phật có thuyết luân hồi, đời tu là gồm bao nhiêu kiếp trước và kiếp sau. Ngàn đời người gian nan buồn tẻ như thế. Nguyễn Công Trứ ao ước:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Anatole France lấy làm lạ rằng người ta chỉ nghĩ đến kiếp sau, mà không ai bận tâm tự hỏi những kiếp trước mình đã từng là những giống gì!
Vì chia ra ngày tháng, thầy Trang Chu mới ngồi tính nhẩm rằng trong một tháng thầy cười được có năm sáu ngày, còn dư lại đều là những ngày đau khổ. Cho nên, tiêu dao chốn non xanh nước biếc, thầy những mong thoát khỏi cuộc đời ngày vui ngắn chẳng tày gang!
Thật ra một ngày chỉ là một ngày. Cuộc đời chỉ là một chuỗi ngày, giống nhau: hoàng hôn rồi lại hôn hoàng. Tại sao ta cứ muốn ngày nọ khác ngày kia: Sao không nghĩ rằng thế hệ này đến thế hệ khác, thế hệ nào cũng hùng hục đem gân óc ra mà tranh đấu, chỉ để thỏa mãn những nhu cầu hoặc huy hoàng hoặc thô sơ: ăn rồi lại ngủ…
Đời chia năm tháng, do đó lại phân hai độ trẻ già, khiến nên xã hội tách ra hai phái trẻ với già, quyền lợi và tư tưởng trái ngược hẳn nhau.
Phái già tự cho là trải đời, khôn hơn phái trẻ. Phái trẻ lại nghĩ mình có nhiều quả quyết và hăng hái, làm nên việc hơn các ông già. Còn những người trong tuổi trẻ đã qua già chưa đến, thì hay cái lối nói lưỡng: có kẻ niên thiếu mà già khọm, có người lão thành mà trẻ măng…
Ta tạm đem đời người so vào đời thế giới.
Đời thế giới, ta hiểu là gồm hết những đời người đã sống từ khi có thế giới đến giờ. Nếu kể đời thế giới tựa như đời một người, có lúc trai tráng, lúc đứng bóng, lúc già yếu… và nếu lại coi cả nhân loại cũng như một người, thì ắt là lúc thế giới trẻ, nhân loại ngây thơ, lúc thế giới đứng tuổi, nhân loại chín chắn, lúc thế giới già cỗi, nhân loại cũng bóng xế ngàn dâu…
Giả sử suy luận được như thế, thì chẳng hoá ra các cụ khi xưa ở vào thời đại trẻ, mà chúng ta nay mới là sống trong cõi già! Ngay từ thế kỷ trước Musset đã tha: "Chúng ta đến quá chậm trong một thế giới đã quá già nua!” trong khi Nguyễn Trường Tộ**** lại cho rằng nước ta trước triều Trần ở thời kỳ ấu trĩ, từ Trần đến Lê, ở giai đoạn niên thiếu, đến Nguyễn mới là lúc tuổi trọng sức cường có cơ hội làm được nhiều việc! Làm được những việc gì, đến nay nhà nho tiến bộ ấy có sống lại, chắc không khỏi thắc mắc!
Tuy nhiên, ta phải nhận rằng đến lúc không phải vì ốm đau mà sức lực thấy như suy giảm, ấy là bước vào cõi già của cơ thể.
Già đi không phải vì thất vọng nhận thấy tà tà bóng ngả về tây, mà chính là vì ngắm kỹ trong gương thấy nếy nhăn mỗi ngày mỗi nhiều ở đuôi mắt, làm tóc mỗi ngày một thưa ở đỉnh đầu. Thân xác mình sẽ báo động, và nhắc nhở mỗi ngày, một sự chấm dứt sắp tới.
Bấy giờ ta có một nỗi buồn mênh mang, vì bao nhiêu buồn vui, bao nhiêu xúc cảm, bao nhiêu khát vọng, bao nhiêu kỷ niệm, đều tan như mây khói, không còn nhắc lại được với ai để an ủi mình; nhân chứng đã mất đi rồi, mang theo với họ hình ảnh của ta trong lúc thơ ấu, trong lúc tráng niên, những hình ảnh mà chính ta cũng không còn mường tượng được nữa.
Nhưng làm sao mà tránh được, không già? Huống chi có già mới biết được thế nào là sống lâu, thế nào là đêm dài.
Đêm dài, giọt rồng sắp cạn, thì quên cái đã qua, không mơ hồ gì về cái sắp tới, ấy là tiêu khiển bằng cái hiện có…
Bước vào cõi già, nhìn non sông cảnh vật không còn tinh tường như trước, nhưng cảm thấy rõ ràng chan chứa hơn trước, vì đã lọc qua một lần kinh nghiệm. Kinh nghiệm, cho nên trông cuộc đời biến đổi mở mang, ông già có thái độ trầm ngâm hơn lúc trẻ.
Có ông già thấy điều gì mới lạ, cũng nhất thiết cho là không hay, chỉ khu khu bó mình trong khuôn sáo cũ. Thì, dù là người rất thông minh, rất uyên bác mặc lòng, đã không chịu nhận rằng biến thiên là luật chung vũ trụ, ấy là không còn tiến nữa, không còn sinh sống nữa.
Có ông già hiểu rằng cần phải đổi thay cho hợp thời, hiểu thế đấy, nhưng lại ngấm ngầm thương tiếc buổi xưa mà đem lòng ghét ghen đời mới, chỉ vì đời mới có những hoan lạc riêng của tuổi trẻ, là tuổi các ông không còn mong gì trở lại.
Có ông già đủ năng lực theo hẳn vào luồng sóng trẻ, tuy không hăng hái như thanh niên, nhưng biết đem hơn thiệt ra mà sửa chữa, tỏ mình là bậc tiền bối dễ thương.
Những ông này tuy không nói cùng một giọng, không viết cùng một lối, không suy nghĩ cùng một phương pháp, song cũng là nhắm ý mình mà đi tới, muốn làm sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại.
Song các ông khó mà thành công. Cạo râu nhuộm tóc để vào hùa với trẻ, rút lại vẫn thấy gượng gạo thế nào. Sự chuyển tiếp của hai giai đoạn trẻ già thật khó khăn vì dù sao ông già vẫn không dễ từ bỏ được sự luyến tiếc buổi đương niên của mình. Lột xác để trẻ lại, nhiều lúc cũng băn khoăn tự hỏi không biết những người trẻ có cảm tưởng ra sao, đối với mình, và đặt mình vào hạng người nào.
Những thắc mắc ấy của tuổi già, bạn trẻ có mấy khi nghĩ đến!
Bạn trẻ khi bước chân vào đời, đã phải ra sức ganh đua, mà nào có bao lần được thắng: cái thất bại lại thường là phần thuởng cay đắng cho sự ganh đua. Trong khi bực thân giận đời, nhìn lên phía các ông già, thấy ông này đứng trên mỏm năm tháng ra chiều hơm hĩnh, ông kia ưa lên điệu thống thiết như trong tuồng cổ, vai trung bị kẻ nịnh hãm hại, ông khác lại ngạo nghễ trong cảnh thừa thãi giàu sang. Bọn trẻ thấy thế, rất có thể nghĩ rằng thông minh và từng trải không tất nhiên phải mọc ra cùng với làn tóc trắng. Họ lại không tưởng gì đến sức ganh đua mà các ông đã từng trổ, số thất bại không phải ít mà các ông đã từng qua, họ chỉ thấy riêng có mình:
Xin việc hôm qua bảy tám nhà
Đường khuya, cơm đói vẫn chưa tha!*****
Họ cho ông già là tiêu biểu của sự bất công ở đời, họ ghen ghét, họ thù hằn, họ hục hặc…
Họ không đến nỗi như dân mọi kia, bắt người già trèo lên cây, rồi rung cây cho rớt xuống để đem làm thịt. Họ không nhẫn tâm quá như thế, nhưng mỗi khi có ông già qua đời, họ đi đưa đám, thực tình không lấy làm thương; mỗi khi thết tiệc tiễn một viên chức về hưu, họ ngồi uống rượu, thực tình không lấy làm buồn. Cuộc ganh đua càng mệt nhọc khó khăn, bạn trẻ thấy như càng thêm tức tối.
Lòng tức tối này diễn ra bằng những lời gay gắt, gay gắt đến thô lỗ:
Xin việc hôm qua bảy tám nhà
Đường khuya, cơm đói vẫn chưa tha!
Thanh lâu vài cửa đèn chong đỏ
Son phấn đàn em học bóp xoa
Dăm chiếc xe hơi, hè phố đợi
Mấy thằng râu bạc ở trong ra
Nghĩ mình trai trẻ giường không vợ
Luống hỏi bao năm hết tụi già!
Song le, nào ai trẻ mãi được đâu!
Già mà trẻ được lại có chăng là khi, như Vigny nói: giấc mơ của tuổi trẻ được thực hiện trong tuổi xế chiều.
Đến lúc già rồi, thấy đàn trẻ sau cũng lại khunh bỉ thù oán mình như rứa, bây giờ mới rõ lẽ tuần hoàn “trời đất có san đi mà sẻ lại” và tỉnh ra rằng mỗi tuổi lại phạm vào một điều bất công.
Nên già ư? Nên trẻ ư?
Khốn thay, thời gian đâu có để cho ta được quyền chọn lựa!
Tính sao cho phải đường?
Sao cho được như cây đại thụ kia, khi còn non thì chắc chắn, khỏe mạnh, mà tiến lên cõi già, đến khi già cỗi, mỗi xuân lại nẩy ra nhiều lá lộc xanh tươi...
Thời gian lặng lẽ trôi đi, cuộc vận hành của vũ trụ cũng im lìm mà xoay chuyển.
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân.
Cuộc đời tóm lại chỉ là hai lời than phiền: Lâu quá! Chóng ghê! Trẻ thấy thời gian đi lâu, vì nóng lòng đợi thời gian sắp tới với hi vọng hỏng việc này còn làm việc khác; già lại than thời gian đi chóng, chưa làm được việc gì mà đã hết ngày rồi!
Nay đem cuộc nhân sinh đã ngắn, chia ra năm tháng ngày giờ, người đi đường có cảm tưởng như được nhiều dịp đứng lại ngắm trông, không dè đến cái hiểm tượng mỗi bước dừng chân này lại làm tăng sức mau quên là bản tính con người, khiến cho làm giờ trước quên giờ sau, việc định hôm nay đến mai không nhớ nữa…
Bước đường đáng lẽ cứ thẳng thắn mà đi, lắm khi chỉ vì năm tháng ngày giờ nhủ ta dừng lại, mà hóa ra chậm chạp, có khi thành ra chệch ra phía khác, không chừng. Vì thế mà năm tháng ngày giờ có thể gây cho ta cái họa, là khiến ta dễ xao lãng cái lẽ duy nhất của cuộc đời.
Cuộc đời đã đến lúc không duy nhất, tưởng không còn có nghĩa gì nữa. Tuy nhiên, ta nên nhận rõ: duy nhất không phải là nhất chí. Duy nhất, ta hiểu là như một bản đàn hay, tiếng bổng tiếng trầm điều hòa với nhau thành một nhạc điệu hoặc du dương, hoặc hùng tráng tùy theo ý ta đã định. Còn gọi nhất chí, tức như một tiếng cứ thế ngân dài mãi ra, không đổi thay, không lên xuống.
Như vậy, nhất chí có chăng chỉ là sản phẩm của lý tưởng vì nó… phi lý!
Vũ trụ có gì là nhất chí? Điện truyền đi có nhịp, tiếng vang ánh sáng lan ra có luồng, bão đánh vào cánh cửa theo sức mạnh của từng cơn gió. Ngay trong cơ thể mình đây, máu chảy cũng không liền một mạch, phải theo từng tiếng đập của trái tim; không khí hút vào phổi, theo từng hơi thở.
Đời người cũng thế, không nhất chí được, mà cũng chẳng mong gì nhất chí: một bãi sa mạc lặng lẽ mênh mông!
Nhưng trong khoảng vơi đầy, cùng đuổi thông, thông lại theo cùng, điều ta có thể làm được, - và phải làm cho được – là lúc nào cũng hướng vào duy nhất: có duy nhất, đời mới linh hoạt, mới ý nhị, mới cao cả, đáng sống cho ra đời…
Tối nhất trong ban đêm, là lúc vầng đông sắp rạng; bí nhất trong đời người, là lúc sắp nhấc chân bước sang cõi thái. Há nên vì một lúc bí mà quên bẵng cái nghĩa lớn cuốc đời, vì một ngày chán nản mà quên cả công việc trăm năm!
Hãi hùng khủng khiếp thay, cái đêm đầu tiên của nhân loại! Ánh lửa hồng từ từ khuất sau rặng núi, màn đen cũng từ từ buông xuống, bao nhiêu cảnh sắc huy hoàng biến mất, mọi vật chìm đắm vào trong cõi âm u rùng rợn. Bấy giờ hẳn ai cũng lo, cũng sợ, cũng mong được thấy lại cái ánh tưng bừng của mặt trời. Mặt trời hôm sau quả đã trở lại, gieo trong lòng mọi người một niền hớn hở vô biên.
Từ cái đêm đầu tiên ấy đến nay, trải bao thỏ lặn ác tà, chúng ta đã qua bao lần tăm tối, rồi lại trở lại bao lần vinh quang! Cuộc phiêu lưu bốn ngàn năm đến nay chưa chấm dứt, chiến tranh vẫn bùng nổ không chỗ nọ thì nơi kia, ta vẫn còn mãi mãi tìm tòi trong lo lắng, thất vọng trong yêu thương, mặc dù bao nhiêu hứa hẹn đã thành suông, bao nhiêu sáng kiến đã bị thời gian làm sụp đổ, bao nhiêu trở lực luôn luôn ngấp nghé phá hoại cái vui mừng, cái ngạo nghễ của nhân sinh. Vậy mà ta vẫn không sờn lòng, không nản chí, chỉ vì lúc nào ta cũng vẫn có một câu tin tưởng:
- Mai đây trời lại sáng!
Đời lúc nào cũng phải hướng vào duy nhất. Lẽ duy nhất làm nền cho cái phương châm nhất định mà ta đặt cho cuộc sống. Phương châm ấy là gì?
Thiết tưởng thánh hiền xưa nay không dạy gì hơn là sống làm sao cho đến khi sắp bỏ cõi này sang cõi khác, ta đoái nhìn lại mà có thể tự hào rằng: dù đứng trên bậc thang nào trong xã hội, dù gặp trường hợp nào trong nhân sinh, thấp hay cao, thăng hay trầm, cách xử trí của ta đối với bản thân, với gia đình, với thế nhân, đã không hề đi chệch ra ngoài tấm lòng nhân ái, và phong độ quân tử nó là cái hãnh diện làm người.
Còn ngoài ra, sá gì những thỏa mãn cỏn con về vật chất, những khoái lạc nhỏ nhoi về tinh thần! Những công cuộc nhất thời, những thắng lợi chốc lát, chắng khác những vinh dự vang rền, những cảm tình bồng bột, phút chốc nổi lên như cồn, rồi lại vụt biến ngay đi như bóng con bạch câu: thời gian đâu có nể nang gì những công trình làm lấy gấp rút, để mong tranh thủ lại thời gian!
Vẻ đẹp của ngôi chùa cổ, không phải là nét đẹp riêng từng góc mái uốn cong, từng khuôn cửa chạm nuột. Mảnh vàng róc đi, hay cánh tay gãy mất, không đem theo mất cả cái tinh thần toàn bích của pho tượng tuyệt mỹ.
Cái khó của ta đứng trước thời gian vô tận, là tạo sao cho nên một bản ngã đầy đủ, có thể đem tãi trên năm tháng mà không đổi chất, không thay màu, rút lại là sống thế nào cho bao nhiêu ngày giờ của con tim khối óc kết lại thành một chuỗi, chứ không rã rời.
Nhất dĩ quán chi vẫn là lời nhủ muôn đời nên ngẫm…
Lãng Nhân
(Trước đèn)
* Henry Murger: Scènes de la vie de Bohème.
** Bùi Kỷ: Ưu thiên đồ mặc.
*** Nguyên văn: Tân nhân dục vấn lang niên kỷ, Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam.
**** Nguyễn trường Tộ: Tế cấp bát điều.
***** Nguyễn Giang: Trời xanh thẳm