Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 17

Tựa Đề: Bí mật hai thùng đồ cổ

  1. #7
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    BÔNG HOA GIỮA BUÔN THƯỢNG XA XÔI


    Cầm bầu rượu rót vào hai cái ly, nhìn cái vỏ bên ngoài lên nước đen bóng, Ba Du sực nhớ tới buôn thượng trong rừng liền nói:

    - À, lần trước khi gặp Điểu Sơn có hẹn vô thăm buôn, khi nào thu hoạch xong bắp, đậu tui với chú Nam vô trong đó một bửa

    Nam nghe Ba Du dẩn vào buôn thượng chơi thấy háo hức, nên lập tức gật đầu đồng ý. Từ lúc còn nhỏ đến lớn, thỉnh thoảng anh có đọc các câu chuyện về những người dân ở các buôn làng xa xôi trong rừng núi, chứ chưa có dịp đặt chân đến nơi họ sinh sống bao giờ. Mấy lần lên Đà-lạt nghỉ mát, đôi lúc Nam thấy đàn ông, đàn bà và trẻ con người Thượng đi bên đường hay xuống phố với cái gùi và xà gạc trên vai, họ thường đóng khố hay mặc quần áo có hoa văn và màu sắc lạ, rất khác với người Việt.

    - Người Thượng sống ở đó từ trước chiến tranh đến bây giờ hay sao – Nam hỏi

    Ba Du nhấm rượu, rồi gắp khúc cá nướng vào chén, tỏ vẻ trầm ngâm:

    - Khi người Mỹ đến Việt Nam, buôn làng họ đã ở đó lâu đời rồi, họ giỏi đi rừng vì đã quen sống ở núi cao, rừng rậm, sau này khi người Mỹ rút đi, tất cả lính biệt kích người S’tiêng gia nhập biệt động quân và chiến đấu cho đến năm 75 … sau chiến tranh họ giải ngũ, và phần nào đó cũng bị phân biệt đối xử như những người lính miền nam khác

    Nam đưa ly cụng với Ba Du, hồi tưởng lại khi chiến tranh kết thúc anh vừa mới mười sáu, mười bẩy tuổi, nên không hiểu biết nhiều về cuộc chiến này, ngoài hình ảnh những người lính VNCH, lính Mỹ và xe nhà binh chạy trên đường phố.

    Nhiều năm sau này, anh nghe nhiều người nói chuyện, rồi có dịp đọc sách và các tài liệu về chiến tranh, nên hiểu nước Mỹ dính dáng sâu xa và có vai trò quan trọng trong cuộc chiến ở Việt Nam. Miền Nam đứng vững được một thời gian dài cũng nhờ người Mỹ giúp đỡ. Nhưng rồi sau đó, tình hình thay đổi nhanh chóng, phong trào phản chiến bùng lên, dân Mỹ chán nản vì thấy người Mỹ chết quá nhiều … Nước Mỹ ra đi, và kết quả miền nam sau một thời gian chiến đấu lẻ loi đành chịu sụp đổ, thất trận. Những người lính như Ba Du, Điểu Sơn có lẻ rất buồn vì mang mặc cảm bại trận và bị bỏ rơi.

    Nam nhớ có lần đến nhà Huy, nó rủ lên cái gác nhỏ ngồi chơi, thấy trên cái kệ trong góc có cuốn sách đang đọc dở, anh hỏi Huy thì nó nói đang đọc, lật ra ngoài bìa xem tựa sách, thấy cuốn sách có tên là lạ “Nổi buồn nhược tiểu” của một nhà văn người Mỹ.

    Huy cho anh mượn về nhà, và khi bắt đầu đọc, Nam dần hiểu câu truyện viết về cuộc chiến phân chia bắc - nam ở Triều Tiên sau thế chiến II, giữa cộng sản và tự do.

    Đọc xong cuốn sách, anh thấy thân phận người Triều Tiên cũng đau khổ và buồn bả như người Việt Nam, làm thân phận nhược tiểu một nước nhỏ, họ cũng bị các nước lớn chia thành nam – bắc, nhưng may mắn hơn miền nam giữ được tự do với sự giúp sức của người Mỹ.

    Còn thân phận và cuộc đời của những người lính, người dân miền nam Việt Nam, sau năm 75 thì chịu nhiều đau thương cho đến tận bây giờ.

    Vì vậy sau chiến tranh, Nam càng hiểu nhiều hơn vì sao những người dân miền nam lại sống chết vượt biên bỏ nước ra đi, anh chắc là những người lính có nổi buồn sâu đậm như Ba Du cũng nuôi trong lòng khát khao đó …

    Ba Du đang hút điếu thuốc và nhìn ra phía xa ngoài hồ nước, con Ki nằm im trong góc nhà, chắc nó đang nhớ con Đốm, bạn nhỏ của nó bửa nay đi đâu mất, anh kêu nó và bỏ vào cái tô một miếng cá, nó lẳng lặng đến ăn.

    - Chút nửa chú Nam bắt con cá lăng và cá mè đem về nghe – Ba Du nói

    Nam gật đầu và chợt hỏi qua chuyện khác:

    - Mấy hôm nay không thấy Tư Có và tụi du kích đi vào đây hả anh Ba!
    - Ừ, mà lâu rồi cũng không thấy bọn họ đi tuần trong này và lên trên kia khu rừng, nhưng gần Tết và mấy ngày lể lớn, bên du kích xã thường kết hợp với công an đi tuần xuyên qua rừng đến tận buôn của Điểu Sơn

    Nghe Ba Du nói chuyện về chiến tranh, Nam nhớ lại hôm về Saigon vừa rồi, băng rôn ca ngợi chiến thắng Khmer đỏ treo đầy đường, rồi lúc chiều tối khi đến nhà Huy, cái loa phường léo nhéo đe dọa những thanh niên đến tuổi phải đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự, không được trốn tránh.

    Lại thêm chiến tranh, cuộc chiến biên giới với Khmer đỏ nổ ra năm 78 – 79 đến nay đã ba, bốn năm, báo chí lúc đó cũng nói nhiều về các trận đánh với lính Pôn Pốt dọc các tỉnh biên giới, anh thắc mắc nên hỏi:

    - Lúc Pôn Pốt đánh qua đây, lính Khmer đỏ có vào đến nông trường cao su này không?
    - Xã này nằm khá xa biên giới, nên lính Khmer đỏ không đánh đến đây, lúc tụi nó tấn công vô, trong này huyện, xã đề phòng nên đưa du kích, công an vào đóng trong các buôn làng, có vài lần vì lo sợ đạn pháo kích từ bên kia biên giới rơi trúng, Điểu Sơn, Điểu Rút đưa người nhà chạy ra đây ở mấy tuần, rồi sau đó tình hình yên tĩnh trở lại, họ mới trở về buôn.

    Vùng rừng núi tây – nam này đã tiêu điều sau cuộc chiến năm 75, rồi khi chính quyền cộng sản vào miền nam, đời sống mọi người rơi vào cảnh đói khổ, sợ sệt, thiếu ăn, thiếu mặc.

    Do đó, khi cuộc chiến khốc liệt với Pôn Pốt và Trung quốc nổ ra, dân Saigon càng hoảng sợ, làn sóng vượt biên lại càng dồn dập, mọi người già , trẻ đều muốn ra đi khỏi đất nước khốn cùng này. Người dân trong các buôn làng xa xôi như ở đây nghèo khổ, ít học nên không trốn chạy đi đâu xa được, họ phải ở lại và chịu đựng bom đạn, giết chóc, chiến tranh sao nghe buồn thảm.

    Ba Du nhìn Nam có vẻ đang tư lự suy nghĩ:

    - Uống chú Nam, mồi còn nhiều lắm!

    Cả hai đưa ly lên uống cạn, Ba Du gắp cho anh một khúc cá to, thịt cá lăng nướng than rất ngon. Ở cái nơi khỉ ho này, ban ngày thì quanh quẩn việc ngoài rẩy, tối về ăn xuống xong rồi thì không biết làm gì, vì đèn dầu tối mù mù, riêng ở cuối cái làng kinh tế mới hoang vắng này, người dân bỏ đi gần hết, chỉ còn lại có anh với Ba Du và vài người khác. Nam nghĩ, không lai rai thì cũng ngồi không, hay đi ngủ sớm, nên thỉnh thoảng có bửa nhậu cho khuây khỏa giữa rừng núi, cũng khó từ chối lời mời của Ba Du.

    Rượu của miền rừng núi hoang dã làm Nam thấy đầu óc lâng lâng, anh hỏi:

    - Vào buôn thì cũng đi như hôm mình lên câu gần trên đó, rồi bỏ xuồng lại và lội bộ đi xuyên qua rừng bao xa?

    Nghe anh hỏi, Ba Du gật đầu:

    - Sáng phải đi sớm, tới chỗ hôm mình thả lưới, kéo xuồng lên bờ giấu vô trong bụi cây, rồi từ đó đi bộ qua cánh rừng vô buôn …

    Chợt như có tiếng ai kêu tên Ba Du từ phía con đường nhỏ chạy từ trong rừng cao su xuống rẩy, Nam và Ba Du im lặng nghe ngóng, lát sau nhận tiếng người quen, Ba Du vui vẻ cười:

    - Năm Bình ở ngoài nông trường vô chơi

    Ba Du bước ra trước nhà đứng chờ, Nam cũng ngoái nhìn qua cửa sổ thấy Năm Bình đang chạy xe đạp trên đường mòn giữa các luống đậu và giơ tay chào.

    Dựng chiếc xe đạp vào vách, Năm Bình bắt tay Ba Du và bước vào nhà, Nam cũng chào:

    - Anh Năm khỏe không?

    Thấy Nam, ông ta cười nói:

    - À, có chú Nam ở đây lai rai hả, hôm nay không hái bắp, đậu gì sao?

    Ba Du lấy thêm chén đũa và cái ly:

    - Anh Năm ngồi nhậu lai rai, thu hoạch cũng gần xong rồi, sáng nay tui với chú Nam đi câu được con cá lăng về làm món nướng lai rai với rượu trong buôn thượng cho

    Năm Bình cầm cái bầu rượu lên nhìn Ba Du:

    - Rượu này đây hả?

    Ba Du gật đầu, rót rượu vào ly của Năm Bình:

    - Mời anh Năm!

    Năm Bình cạn ly, gật đầu khen ngon và gắp miếng cá nướng thưởng thức rồi hỏi:

    - Trong đây lúc này có gì lạ không?

    Ba Du lắc đầu:

    - Không, vẩn như vậy, lâu lâu Tư Có với du kích đi qua rồi về
    - Mùa rẩy này bắp, đậu thu hoạch khá hơn mùa rồi không anh Ba?
    - Thấy được hơn mùa rồi, nếu có đủ phân thì chắc khá hơn

    Năm Bình nhìn Nam:

    - Bên chú Nam chắc cũng khá chứ hả?
    - Dạ, cũng xuống giống đậu, bắp như anh Ba, nhưng làm ít hơn
    - Giá cả thu mua ngoài đó năm nay có tăng lên không anh Năm – Ba Du hỏi
    - Có, giá đậu xanh lên, bắp ít hơn, nếu gần tết anh và chú Nam có bán kêu tôi nhé, tôi sẽ thu cao hơn giá của mấy bà đi buôn, chỗ anh em quen lâu năm rồi
    Nam nghe Năm Bình nói thấy có lý, chỉ xin giấy phép xã đem một ít về Saigon, còn lại bán theo giá chợ đen trên này lấy tiền khỏe hơn. Từ hôm bắt đầu thu hoạch đến nay anh không nghe Ba Du nói Năm Bình ngoài xã có thu mua nông sản, chắc vì tính cẩn thận, không muốn làm Nam hiểu lầm.

    Ba Du ra phía sau bắt thêm con cá trê, nhanh tay làm và nổi lửa lên nướng trên chỗ than cũ, Nam đứng dậy ra sân đi lại cho thoải mái đôi chút.

    Dọn món mới lên, có thêm Năm Bình vừa vào, nhưng Nam đã hơi say nên uống ít, ngồi nghe hai ông bạn “già” nói chuyện.

    Năm Bình kể chuyện buôn hàng lậu về Saigon, và than lúc này phải chi nhiều hơn cho đám tài xế nông trường mới chịu giấu hàng trên xe chở về Bình Dương giao ở đó, sau đó chờ mối lái từ Saigon cho người lên lấy, tình hình kiểm soát của công an, du kích dọc đường cũng còn “ác liệt” lắm, nên cũng vất vả hơn trước. Tuy nhiên giới con buôn thì vô vàn mánh khóe, nên ở Saigon có tiền vẩn mua được mọi thứ, chỉ có giá cả thì mắc mỏ hơn thôi.

    Nam thắc mắc hỏi Năm Bình về đường đi vì có lần thấy Tư Có vào đây từ hướng ông ta mới vô:

    - Đường đi từ lô cao su vào đây thì xa hay gần hơn con đường quanh bờ hồ vậy anh Năm?
    - Xa hơn vì phải chạy qua các lô cao su, nhưng lại dể đi hơn ngoài bờ hồ … chú Nam hôm từ Saigon lên xe chạy mấy giờ mới về đến đây?
    - Cũng đầu giờ chiều mới tới ngã ba ngoài quốc lộ và quá giang xe vào trong này
    - Chú Nam là dân Saigon mà lội bộ cũng đâu thua gì dân ở đây, thôi mai mốt kiếm vợ ở đây luôn nhé – Năm Bình cười nói
    - Cũng đâu có xa lắm đâu anh Năm – anh trả lời

    Ba Du nghe khen cũng cười, tiếng cười của ba người đàn ông vang lên trong căn nhà nhỏ.
    Buổi chiều dần xuống, mặt trời chìm về hướng tây, vài đàn chim bay ngang qua mặt hồ lặng gió về phía cánh rừng già ở dãy đồi xa xa.

    * * *

    Mấy hôm nay từ sáng sớm, Nam qua phụ một tay với Ba Du hái đậu, bắp đem về nhà treo lên cái giàn phơi dưới mái. Nhìn từ xa, bóng dáng hai người đàn ông làm việc miệt mài không ngơi nghỉ bên những luống đậu, bắp trên cánh đồng vắng trông thật lẻ loi giữa núi rừng trùng điệp.

    Công việc này mới mẻ và khá nặng nhọc đối với Nam, anh cũng không hỏi Ba Du nhiều về cách thu hoạch để có thể làm một mình vào mùa sau, vì mục đích của anh vào đây thì khác, nên cứ lằng lặng làm cho xong công việc.

    Lâu dài, Nam cũng không có ý định ở lại đây làm nghề nông nếu việc kia thất bại, một người trẻ và có máu mạo hiểm như anh không thể sống lâu ở chỗ này,vì nó quá buồn tẻ, heo hút.

    Đa số những thằng bạn thân của anh ở Saigon, mỗi khi gặp mặt nhau cũng hay tâm sự không biết định hướng tương lai ra sao, vì sự phân chia, quản lý con người theo lý lịch của chính quyền mới làm nản chí và bóp chết tương lai của nhiều người.

    Sự thay đổi sau năm 75 quá lớn lao, nó làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu triệu người dân miền Nam, những người trẻ ở Saigon như Nam cảm thấy lạc lỏng, chán nản như đang sống trong cỏi tạm nào đó, xã hội trở nên điên đảo, mọi người đâm ra ngờ vực lẩn nhau vì đói khổ, vì sợ sệt. Ai cũng mong có cơ hội vượt biên để thoát khỏi cảnh bị đầy ải bởi đói rách, bệnh tật …

    Tuy nhiên ở đây Nam cũng học được sự nhẫn nại, chịu đựng và tài xoay sở của Ba Du. Cuộc sống của người lính trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt vừa qua khiến anh phải nể phục họ.


    Phần có lẻ cũng do duyên tao ngộ, nên anh gặp Ba Du ở chốn núi rừng này, nếu tin là như vậy.

    Năm, sáu ngày làm việc miệt mài từ sáng sớm đến chiều tối, phần thu hoạch ở rẩy Ba Du cũng xong.

    Hai con chó Đốm và Ki có dịp này cũng chạy theo ra rẩy, tụi nó lăng xăng khắp nơi, khi con Ki đánh hơi tìm thấy ổ chuột, nghe nó sủa con Đốm cũng chạy nhào đến sục xạo chung quanh, cả hai săn đuổi bọn chuột chui rúc dưới các đống cỏ khô, tiếng sủa của tụi nó vang vọng ngoài đồng trống.

    Sáng nay, Nam và Ba Du sửa lại giàn phơi dưới gác mái bên nhà anh, cả hai vác rựa ra sau vườn nhà Ba Du chỗ mấy bụi tre lớn, lựa vài cây to, thẳng rồi chặt xuống và khiêng về thay mấy cây tre cũ, mục. Sau đó chất các bao đựng đậu và treo bắp lên cao trên giàn, vậy là xong rồi, chỉ còn tách hạt đậu và bắp ra, việc này chắc phải nhờ Hai Tuất kiếm thêm người của xã bên đó qua phụ vài ngày.

    Xong công việc Nam và Ba Du thấy phấn chấn chút đỉnh vì dù sao mùa này cũng khá, giá cả cũng tăng, hy vọng Tết này có đỡ hơn.

    Ba Du hẹn Nam sáng mai vào buôn thăm Điểu Sơn, vì đường đi qua khu rừng già nên dặn anh cầm theo rựa, thêm chai nước uống vì thời tiết mùa này đi bộ trong rừng rất mau khát, và dắt con Đốm qua gửi bên nhà Ba Du.

    Sáng dậy sớm, vốn đã quen với việc này, nên chiều qua Nam luộc thêm khoai để mang theo ăn dọc đường. Anh nhanh chóng lấy cây rựa và chai nước rồi cẩn thận khép cửa nhà, dẩn theo con Đốm đi ra.

    Thấy Ba Du đang ngồi kế bên cái gùi chờ anh đến, cũng mang theo rựa, nước và thêm vài trái chuối chín, Ba Du chỉ cho Nam cái lọ nhỏ có nước màu nâu đen bên trong, anh thắc mắc:

    - Cái chai đó đựng cái gì anh Ba?
    - Hôm qua tui lấy mấy điếu thuốc lá ra ngâm để khi vô rừng xoa lên tay chân chống muỗi và vắt

    Nam nghe vậy hơi sợ, đọc truyện đi rừng thỉnh thoảng có đoạn những con vắt bò ra đeo bám vào tay, chân người để hút máu. Như đoán được ý nghĩ của anh, Ba Du mỉm cười nói:

    - Mấy con vắt đó cũng không ghê gớm lắm đâu, hút no rồi nó sẽ tự rơi ra, hơi đau chút xíu, khi có mùi thuốc lá nó sẽ tránh xa

    Nghe Ba Du nói vậy anh cũng cười, đã đi thì không sợ, dù sao thì người Thượng ở trong các buôn làng cũng bị nó cắn lâu nay mà họ vẩn mạnh khỏe, từ đời này qua đời khác, có sao đâu.

    Nam bỏ chai nước và cây rựa vào cái gùi, vác nó lên đi ra bờ hồ, buổi sáng sớm còn đọng chút hơi sương, không khí mát lạnh, dể chịu.
    Ba Du tới sau, tháo dây xuồng và ngồi ra phía lái, họ từ từ chèo lên phía thượng lưu, mùa này nước chảy chầm chậm về phía cửa đập nên bơi ngược dòng hơi tốn sức, Ba Du nói:

    - Phải bơi nhanh đến chỗ giấu xuồng để đi bộ xuyên rừng vào trong buôn, tới chiều mới ra kịp và về nhà trước buổi tối

    Cả hai yên lặng chèo, chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt hồ, khung cảnh hai bên bờ còn mờ mờ dưới những tàng cây cao im vắng không một bóng người. Tiếng sóng nước đều đặn vổ vào chiếc xuồng, Ba Du từ phía sau nói bắt đầu bơi ngang qua bên kia hồ, thỉnh thoảng mái chèo chạm vào thân xuồng vang thành tiếng lộp cộp trong không gian yên tĩnh của buổi sáng sớm.

    Khoảng nửa giờ sau, đến chỗ lần trước giăng lưới, Ba Du nói:

    - Lên phía trên chút xíu nửa, nỗi bước đi. Con đường mòn từ từ hiện ra rỏ hơn, Ba Du bước đi có vẻ thoải mái và nhanh nhẹ, Nam đi sát phía sau, vừa đi vừa quan sát khu rừng thưa trơ trụi. Anh nhớ cách đây gần một tháng, khi vào đây đánh cá, cành lá còn xanh tốt, nay đã rụng gần hết, những đám lá vàng khô nằm phơi đầy trên mặt đất và các tảng đá ở rải rác khắp nơi.

    Con dốc lên cao dần khi đến gần cửa rừng già, Ba Du đến gần một tảng đá to, phẳng và bỏ cái gùi xuống, rồi lấy cái lọ nước đen đen ra và nói:

    - Chú Nam bôi nước thuốc lá vào tay chân để chống muỗi, vắt cắn

    Nam bỏ rựa xuống, lấy cái lọ đổ chút nước ra bàn tay và gửi thấy mùi hăng hăng của thuốc lá, rồi cẩn thận xoa lên vùng da tay, chân.

    Xong xuôi, cả hai đi thêm một đoạn đường mòn nửa, rồi bắt đầu leo lên con dốc, bước qua thân cây đổ nằm chắn ngang đường, và đi vào dưới vòm lá âm u. Mặt trời nhô lên ở phía đông đang chiếu những tia nắng đầu tiên xuyên qua vòm lá trên cao, làm khu rừng sáng lên đôi chút.

    Con đường mòn này đã có từ lâu và người qua lại thường xuyên cho nên dù cây rừng và bụi rậm mọc dầy hai bên, nhưng Nam vẩn thấy rỏ và cũng dể đi lại.

    Sáng sớm, trong không gian vắng lặng, tiếng kêu thành từng tràng rất lạ tai của những con chim vang lên từ bên trên các cành cây cao, trong các bụi rậm bên dưới, những con gà rừng cất tiếng gáy dọc hai bên đường mòn khi trời bắt đầu sáng, tiếng gáy của nó giữa rừng hoang vu làm Nam thấy thích thú.

    Ba Du đi đằng trước, thỉnh thoảng vung cây rựa phạt đứt những dây leo và nhánh cây mọc che lối mòn để dể đi qua, quay lại hỏi:

    - Chú Nam lần đầu tiên đi rừng có thấy mệt không?
    - Chưa thấy gì anh Ba

    Kinh nghiệm đi rừng của anh không có bao nhiêu, chỉ nhớ trước năm 75, lúc lên Đà-lạt vào những khu rừng thông rất đẹp trên các ngọn đồi dạo chơi, rừng ở đó toàn cây lớn, thưa thớt, ít có bụi rậm và dây leo nên du khách rất dể đi qua. Còn rừng già ở đây thì rậm rạp, nhiều chỗ tre gai đan chằng chịt vào nhau như một bức tường.

    Càng vào sâu, lớp lá rừng rơi xuống và mục nát qua nhiều năm tạo thành lớp đất mùn xốp dưới bước chân người, các tầng lá của những cây to, cao mà anh chưa hề thấy bao giờ, che kín bên trên làm cho không khí ngột ngạt và khó chịu.

    Lối mòn bắt đầu đi lên, Nam dùng rựa phạt tiếp những bụi cây ở sát con đường, anh cảm thấy cơ thể nóng dần lên vì cố gắng đi qua con dốc, mồ hôi bắt đầu đổ ra trên trán và thấm ướt cái áo kaki cũ.

    Phía trước Ba Du đeo cái gùi trên vai bước đi không mấy khó nhọc, đang đứng lại chờ Nam ở giữa lưng chừng dốc, thấy anh mặt mủi đỏ bừng, một tay chống cây rựa xuống đất để lấy đà bước lên phía trước, Ba Du cười nói:

    - Qua hết cái dốc này đến bên kia có con suối thì dừng chân uống nước, chú Nam ráng thêm một đọan nửa nhé

    Anh gật đầu, cố hít thở sâu và bước theo Ba Du lên đỉnh đồi, tự hỏi trong đầu không biết là từ lúc đi đến bây đã được bao xa.

    Qua được triền đồi bên kia, con đường chạy lài lài xuống thung lũng làm Nam thấy dể thở hơn, anh bỏ cái nón ra cho đỡ nóng, cũng may là từ lúc vào rừng đến bây giờ chưa bị con vắt nào cắn, anh mỉm cười nghĩ, không biết Ba Du có dọa cho anh sợ không.

    Đến nơi đã thấy Ba Du ngồi trên hòn đá bên con suối lớn và đang uống nước, Nam đưa tay lấy chai trong gùi ra, ngửa cổ tu liền mấy ngụm nước, ôi cha, chưa bao giờ anh thấy nước ngon như vậy, cơn khát đang hừng hực từ từ hạ xuống. Ra ngồi nghỉ trên hòn đá sát bên dòng nước, Ba Du nhìn anh nói:

    - Đến suối này mới được gần nửa đường, còn đi qua hai con suối nửa rồi mới đến buôn

    Nam cười khi nghe Ba Du nói vì thấy có vẻ còn xa, anh bước lên các hòn đá tròn nằm bên bờ suối và cúi xuống lấy tay vốc nước rửa mặt, những giọt nước mát lạnh làm anh thấy dể chịu và tĩnh táo, quay lại ngồi trên tảng đá và hỏi Ba Du:

    - Anh Ba vào trong buôn này nhiều lần nên quen đường đi và có vẻ không mệt
    - Ừ, tui cũng vào đây nhiều lần, lúc đầu đi thấy xa, đi hoài rồi quen … mùa mưa khó đi hơn vì lầy lội, và nước của các con suối sẽ dâng lên tràn bờ

    Ba Du đeo cái gùi lên rồi cầm cây rựa nói:

    - Qua suối đi chú Nam

    Anh còn muốn ngồi nghỉ thêm vài phút, nhưng vì biết đường còn xa nên đứng dậy theo Ba Du băng ngang con suối qua bờ bên kia.

    Hai người tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi qua rừng cây đi về hướng tây – bắc, đi thêm độ nửa giờ vượt qua khoảnh rừng thưa, Ba Du và Nam đến một trảng cỏ rộng, ánh nắng tràn ngập trên thảm cỏ xanh mướt làm Nam ngạc nhiên, thích thú, vài con chim và gà rừng thấy có người đến gần hoảng hốt bay vọt lên các cành cây.

    Mặt trời đã lên cao, hai người đàn ông nhanh chóng vượt qua trảng cỏ, và đi vào dưới những tán rừng xanh che kín trên cao, rồi vượt qua hai con suối nhỏ và cuối cùng xuôi về một thung lũng bằng phẳng, từ xa Nam đã thấy khoảng hơn chục mái nhà sàn mang vẻ thanh bình bên những nương rẩy màu xanh chạy dài vào sát chân đồi, Ba Du đưa tay chỉ về hướng đó nói:

    - Tới buôn thượng rồi đó chú Nam

    Dọc đường dẩn vào buôn, xa xa vài người phụ nữ đang còng lưng làm việc trên các ruộng lúa nước , nhiều rẩy bắp, khoai đã được thu hái xong, chỉ còn lại khúc thân và lá vàng khô, nằm xen với những luống khoai mì, khoai lang khác còn xanh tươi bạt ngàn …

    Ba Du dẩn Nam tới ngôi nhà sàn dài ở gần giữa buôn, leo lên cái thang gổ ngắn lên sàn và gọi:

    - Điểu Sơn khỏe không?

    Chủ nhà Điểu Sơn đang ngồi đan rổ, vừa thấy Ba Du xuất hiện trước hiên nhà liền đứng lên chào:

    - A, Ba Du mới vô buôn hả, tui khỏe – rồi nhìn Nam
    - Đây là chú Nam, lần trước có gặp Điểu Sơn ngoài hồ chỗ đánh cá

    Nam cười và gật đầu chào, Điều Sơn nhận ra anh nên nói:

    - Nhớ rồi, Ba Du và chú Nam vô nhà chơi

    Ba Du bỏ cái gùi xuống gần chỗ mấy cái rổ mây đan dở dang, Nam cởi bỏ cái nón và ngồi nghỉ trên sàn nhà bằng phên tre, Điểu Sơn hỏi chuyện Ba Du về thu hoạch mùa màng ở nhà.

    Bây giờ Nam mới có cơ hội nhìn kỹ hơn vẻ bên ngoài của ông ta, tầm thước như Ba Du, tóc hơi quăn, khuôn mặt có nụ cười rất tự nhiên, thân thiện và đặc biệt là một cơ thể rắn chắc.

    Ba Du hỏi thăm Điểu Rút, Điểu Chắc … và mùa màng năm nay trong buôn có đủ ăn không, Điểu Sơn gật đầu nói:

    - Hy vọng không bị đói, còn không thì vô rừng đào củ, bẩy thú … chờ mùa mưa tới cấy lúa để buôn có gạo ăn, khỏi chờ chính quyền
    - Bà xã Điểu Sơn đâu? – Ba Du hỏi
    - Đang ở ngoài rẩy rồi, hai đứa nhỏ đi học làng kế bên, Ba Du và chú Nam ở lại nhà tui trưa nay nghe, lấy ché rượu cần ngon ra uống, bây giờ tui dẩn hai anh qua nhà già làng Điểu K’mốt thăm ổng một chút.
    - Ừ, tụi tui ở lại tới chiều mới về - Ba Du trả lời

    Nam và Ba Du theo Điểu Sơn tới cái nhà sàn lớn nằm giữa buôn, ba người lên thang gổ và bước vào nhà. Một người đàn ông Thượng lớn tuổi, khuôn mặt nhăn nheo, móm mém, ông ta mặc y phục thổ cẩm đang ngồi gần cây cột chính giữa nhà, Điểu Sơn và hai người khách ngồi xuống, rồi nói lớn:

    - Già làng ơi, có Ba Du vô thăm buôn
    - A, Ba Du vô hả, rẩy ngoài đó năm nay có đủ ăn không?
    - Cám ơn già làng, trời cho thì chắc đủ - Ba Du cười đáp và nói tiếp – đây là chú Nam cũng làm cái rẩy ở ngoài đó, dưới thành phố lên

    Nam gật đầu chào già làng Điểu K’mốt, ông ta chắc phải hơn 80 tuổi, tóc bạc và da mồi nhăn nheo, làm trưởng làng ở cái buôn này chắc đã rất lâu năm rồi. Từ giả già làng, Điểu Sơn dẩn Ba Du và Nam qua kiếm Điểu Rút và rủ trưa nay đến nhà uống rượu cần. Nhà Điều Rút ở tận cuối buôn, nhìn ra xung quanh thấy màu xanh nương rẩy và rừng nối tiếp nhau. Cả ba người bước lên thang, Điều Sơn đứng trước hiên lớn tiếng gọi:

    - Điểu Rút có ở nhà không?

    Có tiếng một cô gái từ trong vọng ra:

    - Dạ, cậu Điểu Rút đi rừng rồi, chiều mới về

    Nam nghe cách trả lời thấy giống như một cô gái Việt, nên thấy lạ và hơi tò mò về cô gái Thượng này, anh theo Điểu Sơn và Ba Du vào bên trong. Ở gần cái vách giữa nhà, một cô gái trẻ đang ngồi tẻ hạt bắp bên cái nia to, kế bên là một đống trái chưa bóc vỏ, Nam ngạc nhiên vì thấy cô gái không giống như một người S’tiêng, cô có nét đẹp tự nhiên và duyên dáng giống một cô gái Việt, mặc y phục bà ba đen, mái tóc thả dài xuống vai, từ cô toát ra nét khỏe mạnh của một thiếu nữ miền sơn cước, Điểu Sơn thấy cô gái liền nói:

    - Ngọc Minh ở nhà tẽ bắp hả, chừng nào Điểu Rút về cháu nhớ nói là có Ba Du vô buôn thăm nhé

    Cô gái gật đầu và nhìn Nam với đôi mắt hơi ngây thơ, đọng chút u buồn, anh nghe trái tim trong lồng ngực đập theo nhịp điệu rất lạ, nó cũng giống như lần đầu tiên khi anh thầm yêu cô bạn gái cũ.

    Nam mong Điểu Sơn ở nán lại nói chuyện lâu hơn, nhưng câu chuyện ngắn ngủi kết thúc ở đó, Điểu Sơn cùng Ba Du đang bước xuống thang, Nam ngoái lại nhìn cô gái một lần nửa, cô vẩn lặng lẻ ngồi tẻ bắp bên cái nia và hơi mỉm cười với anh.

    Nam chậm rải xuống từng bậc thang, anh nhìn màu nắng vàng buổi trưa trải rộng khắp buôn, theo chân hai người kia về nhà Điểu Sơn.
    Dặn Ba Du và Nam lên nhà ngồi chơi, Điểu Sơn cầm ná ra bắt con gà ngoài rẩy về làm thịt.

    Buổi trưa trên căn nhà sàn giữa vùng đồi núi hoang vu, chóe rượu cần được Điểu Sơn đem ra đãi khách. Lần đầu tiên uống rượu này, Nam hơi lúng túng vì chưa biết cách uống, nhưng thấy Ba Du và Điểu Sơn cắm cái cần trúc vào bình uống tự nhiên, anh tò mò làm theo, thấy nó có vị cay là lạ và thơm mùi hương của cây lá rừng khi giọt rượu vào miệng và đi qua cổ họng.

    Món gà luộc chấm muối ớt được Nam và Ba Du thưởng thức tận tình vì cái bụng trống rổng sau nhiều giờ lội bộ trong rừng buổi sáng. Nhưng đầu óc anh lúc này lại lan man khi nghĩ đến cô gái tên Ngọc Minh, đâu ngờ ở cái buôn trong miền rừng núi xa xôi này lại có một cô gái duyên dáng như vậy, anh bạo dạn hỏi về người đàn ông tên Điểu Sơn mà cô gọi là cậu:

    - Điểu Rút ngày xưa có trong lính cùng với Điểu Sơn và anh Ba Du không?

    Nghe anh hỏi hơi đột ngột, Điểu Sơn nhìn anh cười nói:

    - Có, nhưng Điểu Rút bị thương nặng nên giải ngũ trước năm 75, tui với Ba Du còn ở lại đến ngày cuối cùng, ờ … mà chú Nam uống thử rượu cần trong buôn làm đi, nó say đằm lắm, không nhức đầu đâu

    Điểu Sơn tiếp xúc với người Mỹ và Việt sớm nên cách nói chuyện và cử chỉ cũng không khác người miền xuôi bao nhiêu, nhưng vẩn còn giữ nét chân thật của người Thượng, có lẻ điều đó làm cho hai người người đồng đội cũ vẩn quí mến nhau sau chiến tranh.

    Rượu cần uống vào rất nhẹ và dể chịu nơi cổ họng, khi trong bình vừa gần hết, Điểu Sơn lại lấy nước đổ thêm vào, chờ dăm phút sau, Nam vít cần uống thử, kỳ lạ là chất rượu vẩn không nhạt đi bao nhiêu, và cái say len lén tựa như giấc ngủ đến lúc nào không hay.

    Không khí ban trưa trong buôn rất vắng vẻ và mang nét cô tịch của rừng núi xung quanh, Nam nhớ lại đôi mắt Ngọc Minh, đôi mắt đó cũng mang vẻ u buồn như vậy khi nhìn anh, như có điều gì đó thôi thúc mạnh mẽ, Nam nghĩ chắc anh sẽ quay trở lại buôn Bù Đon này.

    Hết chóe rượu, và phần sợ về trể, Ba Du cùng uống với Điểu Sơn lần cuối và đứng dậy chia tay, hẹn Điểu Sơn lúc nào có đi đặt bẩy gần ngoài đó, ghé vô rẩy anh và Nam chơi.

    Mặt trời đã qua khỏi đỉnh đầu khi anh và Ba Du ra khỏi buôn theo lối mòn vào rừng.

    Nam vác cái gùi trên lưng thay Ba Du, theo con đường cũ qua khu rừng già dưới những tia nắng chiều lấp lánh chiếu xuyên qua vòm lá trên cao, trời mới ngã về phía tây nên không khí vẩn còn nóng bức và ngột ngạt.

    Nhưng hai người đàn ông hình như được men rượu tăng thêm sức mạnh và sự phấn chấn nên nhanh chóng qua đỉnh dốc rồi vượt qua hai con suối, Nam hỏi Ba Du đang chăm chú nhìn lối mòn phía trước:

    - Nhà Ngọc Minh ở đâu sao lại ở nhà Điểu Rút anh Ba?

    Ba Du bước chậm lại và trả lời:

    - Ngọc Minh mồ côi cha, mẹ, là bà con của Điểu Rút, cha Ngọc Minh là người Việt đi lính VNCH đóng ở tiểu khu An Lộc, trước năm 75, Ngọc Minh học trường Việt, nên nói rành tiếng Việt, sau khi cha tử trận năm 74, Ngọc Minh theo mẹ trở về sống trong buôn, cách đây hai năm mẹ của Ngọc Minh cũng chết vì bịnh

    Nam chợt hiểu ra vì sao nhìn Ngọc Minh nhìn không giống dân thượng, cô còn trẻ lắm, anh nghĩ tuổi Ngọc Minh vào khoảng 18 - 20 …
    Còn Ba Du thì đã từng trải, bắt đầu hiểu vì sao khi từ nhà Điểu Rút đi ra, rồi về nhà Điểu Sơn ngồi uống rượu, đôi lúc thấy Nam ngồi suy nghĩ thơ thẩn như người mất hồn.

    Kinh nghiệm sống và từng trải làm Ba Du tinh ý nhận ra và đồng cảm với chàng trai hàng xóm đến từ Saigon, Ba Du biết Nam đang rung động trước nét đẹp mộc mạc của Ngọc Minh.

    Nếu Nam thật sự yêu Ngọc Minh, thì đó là điều kỳ diệu, một mối tình đẹp và có lẻ lãng mạn giữa một chàng trai Saigon với một cô gái Việt – S’tiêng ở chốn thâm sơn, cùng cốc. Ba Du mỉm cười không để Nam thấy, và trong lòng thì thật sự mong muốn chuyện tình đẹp này trở thành sự thực.

    Mặt trời lặn xuống hướng tây phía sau lưng hai người đàn ông đang im lặng đi dưới cánh rừng, đến con suối lớn cuối cùng, Ba Du và Nam dừng lại nghỉ chân, lấy nước ra uống vài ngụm và khom xuống vốc nước suối rửa mặt.

    Thấy Nam không tỏ vẻ bị mệt mỏi nhiều như lúc vào buôn buổi sáng, trái lại trên khuôn mặt anh ẩn hiện niềm vui nhẹ nhàng, ngồi nghỉ thêm dăm phút, Ba Du nói:

    - Đi nhé chú Nam, từ đây ra đến bờ hồ cũng không còn xa bao nhiêu

    Nam gật đầu, nhanh nhẹn mang gùi và cầm rựa theo Ba Du đi vào lối mòn nhỏ chìm giữa ngàn xanh trong nắng chiều yếu ớt.

    Ra đến bờ hồ, đẩy chiếc xuồng xuống nước, Nam chủ động ra ngồi phía sau, thấy vậy Ba Du ra phía trước và bơi về hướng hạ lưu. Thỉnh thoảng Ba Du chỉ cho anh cách chèo lái chiếc xuồng theo ý muốn, vì ở phía sau dể điều khiển hơn, rồi hỏi Nam về chuyến đi:

    - Chú Nam thấy đường đi vô buôn có xa lắm không?
    - Cũng không xa lắm, lúc trước anh Ba có hay vào buôn không?
    - Chừng mười, hay mười lăm ngày, có khi cả tháng mới vô một lần, có vô đó mới thấy họ rất khổ, có năm mất mùa dân trong buôn phải vô rừng đào củ … ăn cho qua cơn đói, mấy lúc đó họ rất cần sự giúp đỡ

    Nam nghĩ đến Ngọc Minh, những lúc như vậy, cô và gia đình chắc cũng phải chịu đói như dân trong buôn, trái tim anh bổng thấy thương cảm, nếu còn tiếp tục sống ở trong cái buôn đó, không biết cuộc đời Ngọc Minh sau này sẽ ra sao.

    Chiếc xuồng bơi về hạ lưu, những tia nắng cuối cùng tắt lịm trên rừng núi trùng điệp phía tây, hoàng hôn đang dần xuống, vài con cá quẩy đuôi trên mặt hồ, làm vang lên những tiếng bỏm ngắn.

    * * *

    Chỉ còn khoảng hơn mười ngày nửa là đến Tết âm lịch 1981, Ba Du qua nhà Hai Tuất nhờ kiếm vài người quen bên đó qua phụ tẻ bắp, đậu cho cả Nam.
    Sau khi xong công việc, Ba Du ra ngoài xã gặp Năm Bình kêu vào bán bắp, đậu của cả hai như đã đồng ý trước đây, và sẵn đó nhờ Năm Bình quen cán bộ trong nông trường xin một số thuốc trị sốt rét của cho Điểu Sơn.

    Nam chỉ để lại dành lại một số bắp và đậu xanh để mang về thành phố cho gia đình, số còn lại dùng làm giống và ăn mấy tháng sắp tới. Số tiền bán đậu, bắp Nam và Ba Du còn gửi ở nhà Năm Bình, tuần sau Nam ghé lấy cùng lúc với giấy phép đi đường của xã cấp để tiện thể về Saigon. Phần của Ba Du sẽ đem về ăn Tết với gia đình, còn Nam sẽ lên trước Tết như ý anh mong muốn.

    Sắp xếp công việc xong xuôi, Ba Du nhận được thuốc sốt rét của Năm Bình xin từ y tế nông trường và đem vào tận nhà, Ba Du rất tinh tế trong việc này và hẹn Nam ngày mai đem thuốc vào buôn cho Điểu Sơn.

    Sáng hôm sau, Nam dậy sớm lúc trời còn tờ mờ, dắt con Đốm qua nhà Ba Du gửi, cả hai nhanh chóng ra bờ hồ và chèo xuống về hướng thượng lưu.
    Mùa rẩy năm nay tốt, nên Ba Du kiếm được món tiền kha khá, còn Nam thí ít hơn, nhưng cũng đủ bù đắp và dư dã chút ít, Nam vui vẻ nói với Ba Du:

    - Vài ngày nửa tôi sẽ về nhà ở Saigon khoảng hai ngày rồi lên lại, Tết này anh Ba về dưới thành phố ăn Tết với gia đình, gửi nhà và con Ki cho tôi

    Ba Du gật đầu:

    - Tôi về ăn Tết khoảng vài ngày với gia đình và mồng 5, 6 sẽ lên lại, Tết này vô buôn thăm rồi có thể ở lại chơi một, hai ngày

    Trong bụng Nam thấy kế hoạch của Ba Du hay và cũng hợp ý của mình. Tuần rồi vừa vào buôn Bù Đon và duyên số hôm đó cho anh gặp Ngọc Minh, hôm nay Ba Du và anh quay lại buôn đưa thuốc cho Điểu Sơn, sẵn dịp chắc Ba Du và anh sẽ vào thăm Điểu Rút.

    Chiếc xuồng cập vào bờ, Nam nhanh chân bước xuống và kéo nó vào giấu dưới những tàn lá um tùm ven bờ. Cả hai đi theo hướng đường mòn, Nam và Ba Du vượt qua con suối lớn và tiếp tục đi đến trảng cỏ mới nghĩ chân. Không khí gần mùa xuân mát mẽ, nhiều loài hoa dại nhỏ tim tím không tên đua nở khắp nơi, làm Nam nhớ đến những cô gái người Thượng sống trong các buôn làng nơi miền sơn cước hoang vu.

    Cầm cái chai uống thêm ngụm nước, Nam hăng hái vác gùi lên vai và cầm rựa đi trước, Ba Du vẩn nhanh nhẹn như mọi khi, lần nay đi sau để cho Nam dẩn đường.

    Ba Du nghĩ thầm trong đầu và nhớ lại lúc mình còn trẻ, có chàng trai nào mà không thích gặp người mình yêu, trước năm 75, là người lính nên thường phải đóng quân ở nơi xa xôi, những lúc được về phép ở Saigon luôn là những ngày tuyệt vời khi được đi với người yêu dạo chơi đó dây trên đường phố, rồi bây giờ là nhớ về người vợ yêu dấu đã khuất vài năm trước, Ba Du thoáng ngậm ngùi.

    Băng qua hai con suối, và xuống đoạn đường dốc về thung lũng, hai người đàn ông đi thẳng đến nhà Điểu Sơn, Ba Du dặn Nam:

    - Nếu vào buôn có gặp tay công an xã tên Tạn, thấy chú Nam lạ nó sẽ hỏi, cứ trả lời đi vô buôn trao đổi hàng hóa với dân trong này, còn tui nó đã biết mặt rồi …

    Hai người bước lên nhà sàn ngồi nói chuyện và Ba Du chỉ dẩn lại cho Điểu Sơn cách dùng thuốc, rồi nói:

    - Tui với chú Nam chút nửa về sớm, mình qua nhà Điểu Rút thăm chút đi, lâu quá chưa gặp
    - Ừ, để tui dẩn Ba Du và chú Nam qua bên đó

    Cả ba cùng đi về cuối buôn, Nam lót tót phía sau cùng, anh mong có Điểu Rút ở nhà và nhất là Ngọc Minh hôm nay không phải ra rẩy. Cũng thật may mắn, Điểu Rút sửa soạn đi ra thăm rẩy, thấy ba người đàn ông đứng dưới chân cầu thang, ông ta cười và nói lớn:

    - Ba Du, lâu rồi không gặp, lên nhà ngồi chơi đi

    Ba Du cười và đưa tay lên ra dấu chào, theo Điểu Sơn lên thang gổ trước căn nhà sàn, Điểu Rút thấy Nam lạ vì chưa gặp anh lần nào, Ba Du giới thiệu:

    - Đây là chú Nam, ở Saigon lên làm rẩy gần nhà tui ngoài đó

    Nam gật đầu chào, Điểu Rút nhìn anh khá kỹ, bốn người ngồi thành vòng tròn trên sàn, Ba Du lấy thuốc lá ra mời.

    Điểu Rút cao lớn, có nước da sáng hơn Điểu Sơn, bộ râu quai nón rất đàn ông, và nói chuyên cởi mở. Ba Du hỏi thăm sức khỏe và vết thương cũ, Điểu Rút nói cũng ổn, trừ khi nào làm việc nhiều thì hơi đau, Ba Du quay sang nói với Nam:

    - Ở Tống Lê Chân, Điếu Rút và Điểu Sơn rất gan dạ, khi tiểu đoàn được lịnh rút ra khỏi căn cứ, cả hai tình nguyện đi sau cùng, vừa đánh vừa rút lui an toàn về đến An Lộc

    Hai người đàn ông S’tiêng nghe Ba Du nói thì cười lớn, Điểu Rút nói:

    - Ba Du khiêm nhường quá, anh cũng đi sau cùng với anh em lúc đó, nhanh nhẹ và gan lì lắm

    Ba Du mỉm cười và hỏi Điểu Rút:

    -Ngọc Minh hôm nay đi ra rẩy hay sao Điểu Rút?

    Nam nghe hỏi xong liền hiểu ý Ba Du, một vài phút lắng xuống, có vẻ những ý nghĩ đã gặp nhau, Điểu Rút trả lời:

    - Ờ, không Ba Du, đang trong nhà may đồ, Ngọc Minh ơi, chú Ba Du hỏi thăm cháu đó

    Nam nghe Ngọc Minh dạ và tiếng bước chân đi ra, khuôn mặt cô hơi ửng đỏ, gật đầu chào mọi người và đưa mắt nhìn Nam.
    Ba người đàn ông hình như cùng có chung suy nghĩ, riêng Nam thấy khuôn mặt mình bừng nóng nhè nhẹ. Ngọc Minh hiểu ý của người cậu nên vào trong rót mấy ly nước bê ra mời khách, Điều Rút nói với cô:

    - Cháu dẩn cậu Nam ra vườn gần nhà hái trái cây đi

    Ngọc Minh lấy cái nón lá và đeo cái gùi xuống thang, Nam đi theo về phía khu vườn, đến nơi anh nói:

    - Ngọc Minh để tôi giữ gùi cho


    (còn tiếp)

  2. #8
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default


    Ngọc Minh dạ nhỏ và đưa cái gùi cho Nam, tay cô cầm cây rựa chặt quầy chuối già chín bỏ nằm dưới đất, cả hai đi vài vòng quanh những cây mít xum xuê hái vài trái chín, vỏ gai căng tròn, tỏa mùi thơm.

    Thấy Nam bỏ hai trái mít vào gùi rồi khoác lên vai, rồi còn cố gắng cầm hai quầy chuối và trái mít còn lại, Ngọc Minh bụm miệng cười nói:

    - Anh Nam xách nhiều thứ quá, để Ngọc Minh phụ cho
    - Ờ, không sao …tôi khiêng được

    Nam vừa mang gùi trên vai, tay chuối, tay mít khệ nệ đi về nhà, Ngọc Minh đi kế bên hỏi:

    - Có nặng không anh Nam?

    Nam cười trả lời:

    - Không nặng lắm đâu, tôi xách được, ở trong buôn chỉ có mình Ngọc Minh mặc áo bà ba giống mấy cô gái Việt Nam phải không?
    - Ừ, nhưng mà bây giờ cũng có nhiều người mặc đồ giống người Kinh rồi, mà ba Ngọc Minh là người Việt mà
    - Ờ, tôi quên, cứ nghĩ Ngọc Minh là người S’tiêng không đó … - Nam nhìn cô gái cười

    Hai người yên lặng về đến gần nhà, anh bất chợt hỏi:

    -Tết sắp tới Ngọc Minh ăn Tết trong buôn hay về thành phố?

    Nghe Nam hỏi, cô có vẻ ngạc nhiên:

    - Ngọc Minh ăn Tết trong này với gia đình
    - Vậy mấy ngày Tết tôi vào thăm Ngọc Minh nhé

    Cô cười và gật đầu, mặt hơi ửng đỏ, câu trả lời của cô làm Nam thấy nhẹ nhỏm. Anh nhanh nhẹ lên thang vào nhà, Ngọc Minh xẻ trái mít chín mời khách,

    Ba Du ăn múi đầu tiên rồi khen:

    - Mít này ngọt, thơm quá, trái nhỏ nhỏ giống mít tố nữ quá

    Thấy Ba Du khen, Nam và Điều Sơn cũng ăn thử và thấy ngon

    - Đi rừng thấy trái nó chín, hái ăn thử thấy ngon, ăn xong tui lấy hột trồng đó Ba Du – Điểu Rút trả lời

    Rồi ông ta nhìn anh cười:

    - Cậu Nam làm rẩy mà cũng mạnh đó chứ, vừa gùi, vừa xách chuối lên thang …

    Điểu Sơn và Ba Du cùng cười, Nam biết Điểu Rút muốn khen anh nên mỉm cười trả lời:

    - Dạ, cũng không nặng lắm đâu Điểu Rút

    Hai người đàn ông S’tiêng cũng như Ba Du hiểu ý chàng trai người Việt này, họ cùng tin Nam là người tốt. Ngồi nói chuyện thêm năm, mười phút, Ba Du và Nam chào Điểu Rút và Điểu Sơn ra về, bỏ hai trái mít còn lại vào gùi của Ba Du, Điểu Rút nói:

    - Hai trái này để Ba Du và cậu Nam đem về nhà

    Nam cám ơn và đeo gùi lên vai, anh nhìn Ngọc Minh đứng gần phía sau Điều Rút và nói:

    - Tôi về nghe Ngọc Minh, cám ơn hai trái mít nhé
    - Tết anh Nam vô thăm buôn nhé – cô cười nói

    Nam gật đầu theo chân ba người đàn ông kia bước xuống thang, Điểu Rút tiễn chân anh và Ba Du thêm một đoạn ra đến đầu buôn, đưa tay chào Ba Du xong liền nói:

    - Cậu Nam mấy ngày Tết vô buôn chơi nhé, uống rượu cần với dân trong này

    Nam cười gật đầu đồng ý và cùng Ba Du theo lối mòn vượt cánh rừng trở ra bờ hồ.

    * * *

    Còn một tuần nửa là Tết, Nam sửa soạn số đậu và bắp cho vào hai túi vải, sau đó ra ngoài xã nhờ Năm Bình xin giấy phép của xã chở nó về Saigon cho gia đình.

    Sáng hôm sau như đã hẹn, Ba Du lấy xuồng chở anh và hai cái túi vải ra xã sớm, Nam ghé vào nhà Năm Bình lấy tiền bán nông sản, và nhờ xin quá giang tài xế nông trường ra quốc lộ, đón xe đò về thành phố.

    Sau mùa rẩy đầu, Nam cầm số tiền trả lại một phần cho gia đình để sắm sửa mấy ngày tết.

    Chiều ăn cơm nhà xong, anh chạy xe đạp qua nhà Huy, xuống chợ Ba Chiểu rủ thêm Ý nhà trong khu lò heo cũ gần đó tìm quán lai rai.

    Ý rất rành khu này vì là thổ địa ở đây, hắn rủ Nam và Huy đến quán cháo lòng lề đường có bán rượu cây lý nhậu với lòng heo luộc, theo hắn thì rất tuyệt vì đã từng đến đây nhiều lần.

    Bạn bè lâu ngày mới gặp lại, thêm có nó hay cười đùa vui tính nên cả hai cùng gật đầu. Cả ba ngồi ở cái bàn nhỏ kê ra sát vỉa hè, Ý nói giờ này chắc tay công an khu vực về nhà với vợ con rồi, không bị dẹp đâu mà lo.

    Ống chủ quán thấy có khách quen liền chạy ra, Ý gọi:

    - Chú Sáu cho ba xị và đĩa lòng lớn nghe

    Con đường Vũ Tùng chạy từ trong xóm lò heo thẳng ra chở Bà Chiểu mới hơn 8 giờ tối đã thấy vằng lặng, mù mù, vì đèn đường chỗ sáng, chỗ không, trong quán vài ba khách lớn tuổi đang lai rai.

    Nam nhìn Ý hỏi:

    - Lúc này khỏe không, lâu quá tao mới gặp
    - Ờ, cũng bình thường, tao thỉnh thoảng gặp Huy uống cà- phê, làm rẩy trên đó ra sao, thấy có khá hơn lúc đi buôn không?
    - Cũng tàm tạm, cách đây mấy tuần có về gặp Huy rồi đi liền nên không kịp qua nhà mày

    Chủ quán đem rượu và dĩa lòng heo đầy ra và ba cái ly để trên bàn, Huy rót rượu vào ly rồi nói:

    - Lâu quá mới gặp, vô lai rai đi rồi nói chuyện mới hay

    Cả ba cạn ly, Nam vừa uống hết ly rượu đã thấy hơi nóng chạy từ cổ họng xuống dạ dầy, anh cười hỏi Ý:

    - Rượu quán này “nặng đô” dử, uống nhiều say xỉn có bị nhức đầu không?

    Ý và Huy cùng cười, Ý nói:

    - Quán quen chắc không sao!


    - Trong nhà có ai vượt biên không?
    - Ông già định cho tao và ông anh đi, đang kiếm chỗ quen cho chắc ăn, chắc qua Tết , còn mày lúc này ngoài đó buôn bán được không, có mấy hôm tao chạy xe ngang Hàm Nghi không thấy đâu hết – Ý nói nhỏ

    Huy đang nhai miếng lòng to, cười lát sau nói:

    - Nhiều lúc tao cũng chạy lòng vòng kiếm khách, ở một chỗ hoài chắc đói

    Nam và Ý nghe nói cùng cười lớn, anh nói:

    - Tao thấy dân chợ trời nhanh như chớp, mấy tay bộ đội ngoài đó vô hỏi mua hay bán cái gì cũng được tiếp đón, ê Huy, tao hỏi thiệt, mấy cái đồng hồ đeo tay Seiko lấy ở đâu ra mà ai mua mày cũng có, mà toàn là hàng “ô-ri-gin” không, sao hay vậy !?

    Cả ba cùng cười, Huy làm ra vẻ bí mật:

    - Không nói cho mày nghe được, chợ trời hay là ở chỗ đó, cũng giống dân buôn đường dài như mày, lúc nào gặp trạm kiểm soát cũng qua được, mày nói bí quyết đó ra thử xem …

    Không khí cái bàn nhậu nhỏ khá ồn ào, Ý gọi chủ quán mang ra thêm ba xị nửa, Nam lắc đầu, lấy bao thuốc lá ra hút:

    - Tao hết xị đầu rồi, mày với Huy thoải mái đi
    - Ừ, mày không uống nửa thì để tao … ừ mà không thấy thằng nào lấy vợ hỉ - Ý cười nói theo âm người Huế
    - Mày làm công nhân nhà nước có tiêu chuẩn gạo, nước hàng tháng, cưới em nào cũng công nhân là êm, không sợ đói, mày làm trước đi, tao hay thằng

    Nam làm rể phụ cho xôm tụ

    - Mẹ, cho chết nhăn răng hả, giai cấp công-nông lãnh đạo cái bánh vẻ!?

    Huy và Ý cùng cười ha hả, rồi hắn nói tiếp:

    - Làm nhà nước thằng nào mà không chôm chỉa mánh mung có mà là thánh
    - Ê, Ý nhà máy chỗ mày làm cuốc, xẻng … thì có cái gì mánh mung được – Nam cố ý hỏi trêu nó
    - Làm cái gì, ăn cái nấy, sắt thép, đũa hàn … hoặc lấy lưỡi cuốc, xẻng đem ra chợ trời bán, lương bổng nhà nước sao đủ sống, bây giờ ở Saigon mọi người đều buôn lậu, mánh mung … chứ đâu phải mình tao!

    Nghe Ý nói, cả Nam và Huy cùng cười, ba thằng hút thuốc lá, im lặng nhìn ra con đường trước quán vắng tênh, nhìn về phía chợ Bà Chiểu tối om om, dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt, vài người lượm rác áo quần vá chằng, vá đụp, vác cái túi trên vai đang lang thang trong bóng đêm.

    Quán dần dần thưa khách, một người đàn ông tóc dài, râu ria, ngoại hình mang vẻ nghệ sĩ chống nạng, với cái chân giả đi cà nhắc bước vào quán, vai khoác cây đàn gui-ta, vừa đánh đàn, vừa hát. Ông ta qua cái bàn kế bên có hai người đàn ông đang ngồi nhậu, và bắt đầu hát một bài Nam nghe thấy quen quen, nhưng anh không nhớ nổi tên, Ý bổng nhìn Huy hỏi:

    - Cô bạn mày quen ngoài đó đâu rồi?

    Huy ngồi lặng lẽ hút thuốc chầm chậm trả lời:

    - Đi mất tiêu rồi, có lẻ vượt biên với gia đình rồi, lần cuối ra bán cái ra-điô cũ … cả tháng nay tao không gặp, có thể em về quê ở miền tây, tao cóc biết nửa!

    Nam nói nhỏ với Ý:

    - Ngày mốt tao lên lại trên đó, Tết này chắc không về, mày đi nhớ cho Huy biết, ráng trót lọt nhé!
    - Ừ, tao cũng hy vọng, mong trời phật … ừ, mày lên đó mấy tháng có quen được em nào không – Ý cười và hỏi
    - Cái xứ khỉ ho, cò gáy đó làm gì có ai đẹp đâu mà yêu, mai mốt nhờ mày hay Huy giới thiệu cô nào giàu giàu ở dưới đây để tao còn vượt biên chứ – Nam cười tiếu lâm

    Cả hai thằng bạn cùng nhìn anh, gật đầu rồi cười hiểu ý.

    Ở bàn kế bên hai người đàn ông trung niên mời người đàn ông mang chân giả ngồi, họ lặng lẽ nghe ông ta hát, cái nạng gổ gác lên ghế và cái nón cũ nằm ngửa trên bàn. Cầm gui-ta hát xong một bài, bây giờ ông ta hát một bản nhạc xưa lắc “Tiếng còi trong sương đêm”, tiếng ông ta nghe ấm và buồn hiu hắt trong cái quán rượu nhỏ thiếu ánh đèn, nghe như có tiếng chân của những người lính lên con tàu ra đi chinh chiến không hẹn ngày về trong một đêm lạnh lẻo.

    Chiến tranh đau khổ, chia ly, nước mắt, mấy ai có được may mắn quay về, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai mà biết trước được số phận của mình.

    Trời dần khuya, con đường vào xóm lò heo hầu như không còn bóng người qua lại, trong quán chỉ còn bàn của anh với hai thằng bạn và ba người đàn ông bàn bên kia, chủ quán đã quen với cảnh đệ tử lưu linh chưa say, chưa về nên nhẫn nại ra sau quầy ngồi nghỉ.

    Ý tửu lượng khá mạnh nên một mình nốc hết hai xị chủ quán đem ra sau, bây giờ ngồi hút thuốc trầm tư nhìn ra bóng tối hun hút, Huy lắng tai nghe người đàn ông nghệ sĩ tàn phế ở bàn bên kia hát một bài tiền chiến với vẽ thích thú.

    Sau vài câu chuyện hỏi han nhau giữa ba người đàn ông, Nam loáng thoáng nghe được và biết họ là những người lính VNCH, người đàn ông cụt chân bị thương nặng trong một trận đánh ở Kontum, bây giờ hằng đêm ra đường với cây đàn ca hát kiếm sống, hai người đàn ông kia im lặng ngồi nghe với vẻ day dứt, khuôn mặt mang nét buồn bả. Những ly rượu cay xé cổ họng trong cái quán nhỏ đêm nay làm họ thấy ấm áp, khi ngồi nói chuyện thân tình bên nhau như những người đồng đội cũ sau một thời gian dài gặp lại.

    Gần tết trời về khuya lành lạnh, Huy nói đi về, Ý gật đầu và gọi ông chủ quán tính tiền, Nam nói:

    - Ý, hôm nay để tao trả

    Tính tiền xong, cả ba đứng dậy, Ý đến gần người đàn ông cụt chân, lấy tay vổ nhẹ lên vai, hắn cầm cuộn tiền quấn tròn, trân trọng đưa cho ông ta, ba người đàn ông nhìn hắn, Nam và Huy với vẻ biết ơn. Huy, Nam dắt xe đạp ra và nói:

    - Ý, tao chở mày về
    - Thôi khỏi, tao đi bộ về được rồi, tụi mày về đi

    Đạp xe ra đường Bùi Hữu Nghĩa, Nam nhớ chơi với Ý từ khi học lớp 11, nó thông minh nhưng lười. Hết lớp 12 cả đám bạn không đứa nào thi đậu vào đại học vì sơ yếu lý lịch bị đánh dấu thuộc thành phần không tốt. Gia đình Ý là người Huế, hắn có lối nói chuyện mạnh bạo kiểu quan quyền, sau ngày giải phóng vào Saigon, hắn lại có thêm cái tật hay xài tiếng “Đan Mạch” mỗi khi tức giận, làm người nghe lầm tưởng Ý là một tay võ biền vô học. Nhưng Nam biết Ý có tâm hồn sâu sắc, đọc nhiều và rất biết ơn những người lính miền nam, Ý hay nói dân Huế nợ những người lính đó rất nhiều, cho dù họ đã không thành công trong việc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền nam.

    Huy và Nam đạp xe song song trên con đường nhỏ vắng teo, đèn vàng lờ mờ, những căn nhà phố hai bên đã chìm vào màn đêm, Huy hỏi:

    - Mày đi lên đó lần này đến tháng mấy về Saigon?
    - Chưa biết, chắc phải tháng 5 hay tháng 6 … ngày mốt tao đi nhé

    Huy gật đầu và quẹo vào con hẻm nhỏ, Nam nhấn bàn đạp chạy xe lên cầu, vừa đổ dốc qua bên kia, đột ngột một cô gái mặc đồ bộ đứng sau cột đèn đường trong bóng tối đưa tay ra ngoắc ngoắc. Đầu óc Nam đang lan man vì có chút hơi men, thấy có bóng người chắn ngang liền rà thắng xe.

    Mặt cô gái trang điểm sơ sài và nhìn còn khá trẻ, đôi mắt lộ ra nét mệt mỏi như người thiếu ngủ lâu ngày. Nam dừng xe bên lề đường, lấy thuốc lá ra hút và chìa nó về phía cô gái, nhưng cô cười và lắc đầu:

    - Em không biết hút, đi đâu về trễ vậy anh?

    Mấy lần uống cà- phê với mấy thằng bạn, tụi nó nói bây giờ Saigon ban đêm “bò lạc” nhiều lắm, chữ đó tụi nó ám chỉ mấy cô gái từ các tỉnh hay từ các vùng kinh tế mới đói khổ quá chạy về Saigon bán thân kiếm sống, đêm đêm đi loanh quanh bắt mối ở các khu vực gần sở thú, vườn Tao đàn, đường Nguyễn Văn Chiêm, dinh Thống nhất … Đêm nào bị công an bố, mấy cô gái đó chạy tán loạn ra những con đường khác, nhìn cô gái vừa gặp bên dốc cầu,
    Nam đoán chắc là vậy nên nổi tính chọc phá:

    - Còn em, sao giờ này còn ngoài đường, không sợ công an nó hốt đi cải tạo hay sao?

    Cô gái lắc đầu, cười với Nam và nói:

    - Công an đâu sợ bằng chết đói, đi chơi không anh?

    Nam hút thuốc lá, giả bộ tảng lờ hỏi:

    - Giờ này đi đâu, với ai đây?
    - Anh còn làm bộ nửa, băng qua bên kia đường Mai Thị Lựu gần đây nè, em lấy hữu nghị cho …
    - Nhà em ở đâu?

    Nghe Nam hỏi, cô gái cười nói:

    - Ngộ quá, không đi chơi thì thôi, tự nhiên hỏi nhà làm gì – cô gái đổi giọng hơi cáu kỉnh

    Nam thấy vui vui nên chọc tiếp:

    - Thấy em hiền, dể thương nên anh tội nghiệp, nói nhà đi, chút anh chở về nhà xin má cho em qua nhà anh phụ nấu cơm, giặt quần áo …
    - Thôi mà, anh chọc hoài, ai mà thèm lấy em … nghèo thấy mồ, mà còn làm nghề này nửa ...

    Nam nghe cô gái nói đến đây tự nhiên cảm thấy hơi xấu hổ, nhìn màn đêm cô tịch giăng giăng, anh thấy chút xót xa, nên gạt ngang không để cô gái nói tiếp:

    - Ờ, rồi nào đi! bây giờ em nói bao nhiêu đi, chút nửa khỏi lộn xộn

    Cô gái lộ nét buồn, đứng xụi lơ và tựa vào cột đèn đường, nhìn Nam nói:

    - Anh cho bao nhiêu cũng được …

    Nam chỉ lên yên sau, kêu cô gái lên ngồi, anh hỏi nhỏ:

    - Bây giờ đi đường nào?

    Cô gái đưa tay chỉ qua Mai Thị Lựu và Nguyễn Văn Thủ, anh hỏi cô gái:

    - Em biết bây giờ khoảng mấy giờ không?
    - Chắc khoảng hơn 10 giờ, anh quẹo qua đường Nguyễn Văn Thủ nhe

    Anh rẽ xe qua hướng đó, cô gái chỉ Nam chạy vào một hẻm cụt âm u và kêu dừng lại, cô gái xuống xe và chờ anh trong góc tối, anh làm ngơ ngồi trên xe hút thuốc, cô gái bước ra:

    - Ủa, sao không dắt xe vô đi anh?

    Nam dựng xe vào tường rào, rồi ra ngồi bên lề đường, tay cầm điếu thuốc lá nhìn mông lung lên trời đêm, anh nói:

    - Ngồi đây nói chuyện chút rồi về đi em …

    Cô gái có lẻ đôi lúc cũng đã gặp những ông khách có hơi rượu và tính khí kỳ lạ, dở dở, ương ương, đoán Nam cũng giống như vậy, nên ra ngồi hai tay tựa như bó gối kế bên.

    - Hút xong điếu thuốc, anh đưa em về

    Nói xong Nam móc túi lấy tiền cho cô gái đang ngồi mỉm cười, cô cầm tiền cẩn thận bỏ vào túi quần bên trong.

    - Nhà em ở đâu?

    Cô gái ngập ngừng trả lời:

    - Gần ngã tư Xóm Gà, xa lắm, chút em về một mình được rồi …
    - Ừ, không sao, anh chở em về một bửa, từ đó về nhà anh cũng gần …

    Cô gái ngồi im lặng nhìn Nam trong bóng tối, hút xong điếu thuốc, anh dụi tàn, đứng dậy lấy xe ra đường chờ:

    - Lên đi

    Cô gái ngồi lên yên sau, chiếc xe đạp chạy ra đường Đinh Tiên Hoàng và băng qua dốc cầu Bông về Bình Thạnh, bên đường vài tay công an và phường đội đang đi tuần tra dọc trên các vỉa hè lạnh lẻo, tối om.

    Chạy xe ngang qua Lăng Ông nằm lặng im dưới bóng tối những cổ thụ, Nam nói đùa:

    - Hôm nào em vào trong Lăng Ông xin săm đi, mấy người gặp anh rồi họ nói số anh hên lắm
    - Thiệt không đó, anh nói dóc … - cô gái lấy tay nhéo mạnh hông của Nam

    Nam cười nhỏ và nói:

    - Ui cha! mà em tên gì đó?

    Cô gái im lặng một lúc rồi trả lời:

    - Ly

    Anh chạy qua Phan Đăng Lưu và rẽ vào Hòang Hoa Thám, cuối con đường quẹo sang Nguyễn Văn Đậu tối om om, phía sau Ly nói:

    - Anh chạy tới chút xíu nửa rồi ngừng bên phải cho em xuống

    Tới đầu con hẻm vào nhà Ly, Nam dừng xe lại:

    - Thôi Ly vào đi

    Cô gái cám ơn và nhìn anh với đôi mắt như có vài giọt sương đêm vừa rơi vào đó, cái bóng nhỏ nhắn bước sâu vào màn đêm tăm tối bao trùm lên những mái nhà tôn lụp xụp ẩn sâu bên trong con hẻm.

    Về đến nhà đã gần 11 giờ, mẹ anh chờ cửa lo lắng hỏi có chuyện gì mà sao về khuya quá, Nam ừ hử, đổ tội cho mấy thằng bạn lâu ngày gặp nhau nên ra quán ngồi uống tụi nó không cho về sớm. Anh phóng lên căn gác, thay vội quần áo, tắt đèn và lăn ra nằm trên sàn gổ.

    Nam cố dỗ giấc ngủ trong sự tĩnh mịch của màn đêm, anh nhớ lại cuộc gặp gở với Ly sau chầu nhậu lai rai với hai thằng bạn ở xóm lò heo. Men rượu hay khơi dậy bản năng của người đàn ông khi gặp đàn bà, con gái mời mọc như vậy, ít ai mà làm ngơ được như thần thánh, nhưng nhìn vào đôi mắt Ly lúc nảy, anh thấy như có một bể khổ sâu thẳm đầy những cơn sóng dữ, cuộc sống khốn cùng này đã đẩy cô ra đường kiếm tiền trong bóng tối lẻ loi hàng đêm của Saigon.

    Sáng nay anh dậy trễ và thấy cơ thể mệt mỏi, có lẻ vì tối hôm qua thức quá khuya và suy nghĩ nhiều. Nam ăn sáng xong, ra nằm nghĩ và lấy vài cuốn sách cũ ra đọc, nhưng đầu óc lại cứ suy nghỉ lung tung. Anh ngồi dậy, mặc quần áo xong, lấy xe chạy xuống Thảo Cầm viên, mua vé, rồi vào phòng trưng bày xem lại các món đồ cổ sành sứ thời nhà Nguyễn, và những món được ghi là của Tầu, Nhật Bản.

    Nam từng nghe nhiều người nói, nghề sưu tầm đồ cổ này lắm công phu và kiến thức, trước năm 75, nhiều người giàu có bỏ ra một số tiền lớn để mua những cái lọ, dĩa, bình … từ thời nhà Minh, Thanh hay của các triều đại vua chúa Việt Nam, sau đó họ nhờ những tay chơi đồ cổ chuyên nghiệp hay những người chuyên nghiên cứu nổi tiếng đến xem, cuối cùng phát hiện ra đó là đồ giả, coi như người mua mất trắng.

    Đi hết một vòng khu trưng bày, Nam bước ra ngoài thấy còn sớm, hôm nay trời đẹp nên cao hứng quyết định đi một vòng khuôn viên cho thoải mái đầu óc rồi về nhà. Lang thang trên những lối đi vắng vẻ, anh cũng không nhớ là hôm nay thứ mấy, từ ngày lên trên đó làm rẩy, anh quen với tính người dân ở trong xó xỉnh rừng núi nên đâu cần nhớ ngày, vì ngày nào cần thì ra làm việc, khi nào thấy mỏi mệt thì nằm nhà nghỉ. Nhìn những cây cổ thụ tỏa bóng mát khắp nơi, làm Nam nhớ đến con đường mòn vào buôn thượng trong khu rừng già âm u, những mái nhà sàn trong thung lũng heo hút và cô gái mới quen tên Ngọc Minh.

    Anh suy tính, lần này trở lên đó khi Ba Du về nhà ăn Tết ở Saigon, trong thời gian chỉ có một mình, anh sẽ dùng dây dù vừa mua, buộc thêm cục đá nặng vào một đầu thả xuống thăm dò chiều sâu gần chỗ con suối chảy ra hồ trước, nơi mà theo anh đoán có thể là điểm chôn dấu hai cái thùng, sau đó sẽ lặn xuống xem bên dưới, nếu không đủ gan dạ làm việc đó một mình, thì việc ở lại trong khu hồ heo hút đó để tìm kiếm hai cái thùng đổ cổ cũng chả đi đến đâu.

    Lần này có thể là thời điểm quyết định xem có nên ở lại để tiếp tục tìm kiếm hay bỏ tất cả mọi thứ ở đây để trở lại thành phố, tiếp tục nghề cũ.
    Nam ra bãi lấy xe chạy về nhà, anh dành hết buổi chiều và tối loanh quanh ở nhà chơi với gia đình và ra đầu hẻm ngồi uống cà phê, nói chuyện với ông già vá xe trong xóm.

    Sáng anh ra bến xe sớm và mua vé lên chuyến đầu tiên về Bình Long. Trên quốc lộ vẩn vắng vẻ như mọi ngày, cho dù chỉ còn khỏang hơn một tuần nửa là đến Tết. Đầu giờ trưa, chiếc xe đò chạy đến nơi rẽ vào nông trường, anh quá giang được chiếc máy kéo Liên Xô màu đỏ cũ kỹ chạy lộc xộc vào đến bãi xe trước văn phòng nông trường thì trời cũng đã bắt đầu ngã về chiều.

    Đi ngang ngôi nhà gổ nằm kế bên trụ sở ủy ban xã, Nam hơi ngạc nhiên vì thấy Tư Có đang đứng nói chuyện với một tay công an mặt xương xẩu, lưng hơi còng, đeo khẩu súng ngắn bên hông và nhóm khoảng mười tay du kích trang bị súng ống đầy đủ. Anh suy nghĩ trong đầu, không biết có việc gì mà họ tập hợp cả đội, trên con đường đất đỏ tung bụi mờ mờ, lác đác vài công nhân cạo mủ lội bộ chậm rải trên đường.

    Đi thêm một đoạn, Nam sực nhớ ra Ba Du có nói với anh là vào những dịp lể lớn, bên du kích và công an hay phối hợp tuần tra khắp xã để giữ trật tự, an ninh, nhất là những khu vực hẻo lánh như ở chỗ anh và Ba Du.

    Đến khúc quanh ra bờ hồ, thấy Năm Bình đang chạy xe ra từ phía trạm gác, Nam gật đầu chào, Năm Bình dừng xe lại và cười hỏi:

    - Chú Nam mới từ thành phố lên hả, tết có ở trên này không hay về dưới đó?
    - Dạ, mới về hôm nay rồi anh Năm, ăn tết ở đây và trông nhà giùm anh Ba Du luôn, anh mới đi làm về?

    Năm Bình gật đầu:

    - Ừ, tôi vừa mới xong công việc trong trạm gác, tết này ở trong đó không làm gì ra nhà tôi lai rai nhé chú Nam

    Nam cười gật đầu và rảo bước đi nhanh ra con đường bờ hồ để về nhà vì thấy chiều đã xế bóng.

    Về đến nơi trời đã chạng vạng tối, anh đi nhanh qua nhà Ba Du để dẩn con Đốm về. Lội bộ qua đến gần hết con dốc, con Ki đánh hơi từ xa đã chạy ra sân, con Đốm cũng chạy theo vẩy đuôi mừng rở, sủa vang một góc bờ hồ, vào nhà thấy Ba Du đang ăn cơm chiều và mời Nam:

    - Chú Nam vô ăn luôn, chút về nhà khỏi nấu
    - Dạ, mấy hôm nay trên này cũng bình thường hả anh Ba?
    - Bình thường, chú Nam đi đường về Saigon có bị xét hỏi gì không?
    - Đến trạm, thấy hai bao đậu, bắp nên bị trạm chận lại, nhưng có giấy phép của xã nên mấy tay du kích cho đi

    Chiều nay Ba Du làm món gà luộc và gà kho gừng, sau chuyến lội bộ từ ngoài xã về đến nhà, cái bụng Nam trống rổng nên buổi cơm chiều nay anh thấy quá ngon, hình như Ba Du biết khi về đến đây, Nam sẽ ghé qua nhà đón con Đốm về, nên làm con gà “đãi” anh một bửa.

    Xong cơm tối, hai người ra sân ngồi trên mấy hòn đá, Ba Du vào nhà cầm ra trái đu đủ chín vàng, xẻ ra làm đôi, đưa cho Nam phân nửa trái và nói:

    - Cây đu đủ phía sau vườn chín nhiều, chút nửa chú Nam cầm một trái về nhà ăn

    Nam gật đầu, anh cắn miếng đu đủ thấy ngọt lịm trên đầu lưỡi, chất đường làm đầu óc anh thấy khoan khoái. Thanh toán xong món tráng miệng từ vườn nhà, anh lấy thuốc lá ra mời Ba Du. Con Đốm lớn nhanh, nó đang lăng xăng chạy theo con Ki khắp nơi, hai con chó có vẻ thân thiết nhau, Ba Du rít xong một hơi thuốc lá rồi hỏi Nam:

    - Nghỉ Tết xong, mùa tới chú Nam có trồng lại bắp không?
    - Ừ, chắc có, bên rẩy anh Ba trồng thì chắc tôi cũng vậy - anh trả lời vì đâu có biết trồng cái gì khác
    - Tui cũng trồng lại bắp, sau Tết mùa khô không có mưa nên phải xách nước từ hồ hay giếng để tưới, hơi cực chút

    Nam ngồi nghe và gật gù cái đầu, thì cứ theo như vậy đi, rồi tùy tình hình tính sau, và quay sang hỏi:

    - Anh Ba về Saigon trước Tết một hai ngày?
    - Trước Tết hai ngày, xong mùng ba hay mùng bốn tui sẽ lên lại, ở Saigon lâu quá cũng không biết đi đâu

    Nam nghe Ba Du nói như vậy thì thấy có nhiều thời gian để làm công việc kia, và còn có được một hai ngày vào buôn thăm Ngọc Minh nửa.

    Sau mùa vụ và gần Tết nên rảnh rổi, Nam lấy cần đi câu kiếm thêm cá và chọn nơi để sắp tới bắt đầu đo độ sâu thăm dò đáy hồ. Buổi sáng ngồi câu phía dưới đám rừng chồi, buổi chiều anh đi ra nơi con suối chảy vào hồ. Tuy đã là mùa khô, nhưng mực nước chỉ mới giảm xuống đôi chút so với cách đây vài tháng, anh nhớ lại mấy cửa đập ngoài xã, nếu mở được ba cái cửa đó lên cao hơn, trong vài ngày nước hồ sẽ xuống rất nhanh. Chỗ đó có cái trạm và nhân viên nông trường có mặt thường xuyên ở đó, ai đến gần đó, họ đều thấy, còn Năm Bình không biết làm gì trong trạm, có muốn thì đâu có dể dàng gì nhờ ông ta làm công việc dể ở tù này.

    Chiều nay, trước khi về Saigon, Ba Du ra chỗ Nam ngồi câu, hôm nay Nam đổi vị trí qua phần rẩy bên nhà Ba Du, chắc muốn dặn dò anh vài việc để sáng mai yên tâm đi về thành phố, Ba Du ngồi xuống trên tảng đá kế bên:

    - Câu được mấy con rồi chú Nam?
    - Hai con cá chép, sáng mai tôi chèo xuống đưa anh Ba ra xã nhé

    Ba Du lấy thuốc lá ra hút, sau vài hơi chậm rải nói tiếp:

    - Ừ, sáng mai đi sớm, Tết chú Nam rảnh có vô buôn thượng không?

    Nam cười tươi:

    - Chắc có, ngoài này lâu không có gì làm cũng chán, sáng vào rồi chiều đi về
    - Ừ, đi một mình thì cẩn thận nhé, mang theo nhiều nước uống, đồ ăn, đi theo đường cũ, nếu có gặp bên du kích hay công an đi tuần, thì nói vào buôn trao đổi, và đem theo bật lửa vì nếu phải ở lại trong rừng ban đêm, nhớ đốt lửa lên, có thể chú Nam gặp người mấy xã khác đi săn trong rừng hay nghe tiếng súng thì phải cẩn thận, vì ở nơi vắng vẻ, họ dể hành động bất ngờ … nhưng chắc không có gì nguy hiểm lắm, có thể Điểu Sơn hay Điểu Rút sẽ ra ngòai này chơi đó!
    - Cám ơn anh Ba … à, hôm chiều tôi về đến ngoài xã, gặp Năm Bình chạy xe ra từ cái trạm gần đập, ảnh làm ở đó hay sao?

    Ba Du gật đầu:

    - Năm Bình quản lý công nhân kỹ thuật của nông trường nên thỉnh thoảng ra trạm để coi hai người công nhân ở đó, à … còn hàng ngày chú Nam qua nhà chăm sóc con Ki dùm tui chút, cho nó ăn chút đỉnh được rồi

    Anh gật đầu, Ba Du ngồi chơi thêm một lát rồi quay lên con dốc về nhà, Nam ở lại câu thêm vài giờ cho đến gần tối được thêm vài con cá mè.

    Sáng dậy thật sớm chờ Ba Du gọi ra hồ, Nam nhớ lại xem có cần hỏi thêm những gì cần thiết mà anh chưa biết, nhất là lúc đi lại trong rừng, nhưng thấy chiều hôm qua những gì Ba Du nói cũng đã đầy đủ.

    Có tiếng gọi, anh khép cửa nhà và theo lối mòn ra bờ hồ, hành lý Ba Du cũng đơn giản, chỉ có cái túi vải nhỏ đựng quần áo, đồ đạc.

    Hai người bơi nhanh về hướng hạ lưu, Tết gần đến mà trong vùng đồi núi hoang vu này không khí thật buồn bả, những căn nhà mái lá xiêu vẹo nằm im lặng sau hàng cây mít, hàng điều … trồng ven đường, tất cả gần như không biết đến Tết đang đến.

    Ra đến gần trạm gác, Nam tấp xuồng vào sát bờ cho Ba Du lên và nói:

    - Ăn Tết với gia đình vui vẻ nhé anh Ba!
    - Ừ, chú Nam vô buôn chơi vui nhé – Ba Du mỉm cười

    Ba Du lên bờ đi về phía trung tâm xã, Nam ngồi trên xuồng quan sát chỗ dòng nước chảy qua ba cửa đập được mở hé ra, vài phút sau anh cho xuồng quay về.

    Chèo đến nhà, anh buộc chặt dây chiếc xuống vào bụi cây và bắt đầu công việc như đã dự tính.

    Lấy cuộn dây dù mua ở Saigon treo trong cái túi vải trên vách nhà xuống, Nam thắt gút sợi dây thành từng đoạn một, cách nhau chừng một mét, thành những cục tròn rất để dể nắm khi lên xuống đáy hồ.

    Xong phần dây, Nam lấy con rựa bén cắt đầu thanh thép mỏng thành vạt xéo nhọn, và ra con suối tìm một hòn đá khá to, bằng phẳng về mài nó làm thành lưỡi dao bén ngót, rồi ngồi cả buổi cắt gọt hai mảnh gổ cứng thành chuôi dao, sau đó dùng dây ruột cao su quấn lại thành cái cán cho dể cầm.

    Nghi ngờ về tính hữu dụng của nó, anh ra bụi chuối phía sau nhà cầm con dao phạt thử vài tàu lá, con dao chặt qua như nước, đến gần một thân chuối non, Nam lia mạnh lưỡi qua gần phần ngọn làm nó văng xuống đất, anh rất hài lòng vì tay bán hàng người Hoa đã không gạt mình.

    Nam dự định chiều sẽ ra bờ hồ, nên ăn bửa trưa xong, anh cố gắng nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức.

    Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, anh xách cái túi vải đi về phía nhà Ba Du, đến gần chỗ cột chiếc xuồng, nơi đó chỉ có lác đác vài bụi cây mọc bên bờ hồ.
    Nam tìm một hòn đá buộc vào đầu dây và từ từ thả xuống nước thăm dò, xem số nút thắt còn lại cho thấy phần đáy nơi đó độ sâu hơn bốn mét. Anh cột chặt đầu còn lại vào một thân cây cứng cáp mọc gần bờ, nghĩ trong đầu bây giờ là phần công việc khó khăn nhất đây, rảo mắt nhìn kỹ xung quanh xem có ai xuất hiện gần đó không, nhưng khung cảnh tuyệt nhiên im lặng, cẩn thận nhất là phải để ý Tư Có và mấy tay du kích. Buổi chiều thỉnh thoảng họ mới đi, tuy nhiên đã sắp tết, lịch đi tuần có thể tay đổi đột xuất và dầy đặc hơn ngày bình thường.

    Chỉ mặc độc chiếc quần cụt trên người, Nam nắm sợi dây kéo thật mạnh để thử độ chắc chắn của mối buộc vào thân cây, rồi từ từ tụt xuống hồ.

    Buổi trưa có nắng, nhưng nước vẩn khá lạnh, miệng cắn ngang lưỡi dao, anh lần theo dây lặn xuống, đến gần đáy, làn nước bên dưới đục hơn, Nam cố nhoài người đến chỗ cục đá ở đầu sợi dây, tay vừa chạm vào đáy cát, thì thấy hết hơi nên phải trồi lên thở.

    Lên bờ nghỉ mệt vài phút, cẩn thận nhìn quanh thấy mặt hồ vẩn lặng im, lần này để lặn xuống nhanh hơn, Nam kéo cục đá lên và lấy một hơi dài rồi ôm nó để cùng chìm dần xuống, khi đã chạm đáy anh đưa tay sờ soạng vào lớp cát ở dưới đáy và cố mở to mắt nhìn xung quanh, gần đó có vài thân cây mục phủ đầy rong rêu nằm im trong làn nước lờ mờ.

    Cố gắng sục sạo trong đống rong rêu, vài con cá đang trú trong đó, bị đánh động phóng vụt ra và biến mất vào làn nước đang bị khuấy đục lên mờ mờ. Chưa quen với công việc này, anh nhanh chóng cảm thấy buồng phổi hết dưỡng khí và ngộp thở, nên buông cục đá ra, phóng trở lên mặt nước và bơi vào bờ.

    Bị thấm lạnh vì nước sâu dưới đáy hồ, Nam lấy thuốc lá ra hút, và ngồi nghỉ vài phút để lấy lại sức, anh quyết định sẽ lặn xuống tại chỗ này thêm vài lần nửa trước khi di chuyển qua nỡi dao ngang miệng và bắt đầu lặn, xuống đến đáy hồ, anh chỉ thấy lờ mờ bên dưới nhiều lớp đá cuội, được vài phút sau đã thấy đuối hơi và khó thở, Nam vội trồi lên vào bờ tạm nghỉ, và mặc cái áo kaki vào cho đỡ lạnh.

    Chợt nghe tiếng con Đốm và con Ki sủa sau đám cây bên bờ suối, thì ra con Đốm đang loanh quanh gần nhà, nó đánh hơi biết con Ki vượt suối qua bên này nên chạy ra, anh đứng lên ra tìm, thấy hai con đang ve vẩy đuôi, đưa mủi ngửi chào nhau bên bụi cây, Nam kêu:

    - Đốm lại đây!

    Hai con cùng hăng hái tranh nhau chạy đến gần anh, rồi bổng cả hai lại quay ngang, chạy ra các bụi rậm ngoài rẩy lùng sục tìm chuột, chim cu gáy để anh đứng nhìn theo.

    Nam quay lại bờ hồ, quyết lặn thêm vài lần nửa, một tay nắm đầu dây buộc cục đá, anh bơi ra và từ từ chìm xuống dưới đáy hồ lổn nhổn đá cuội và cát bùn, lấy lưỡi dao xăm xuống nền cát thăm dò bên dưới, nhưng nó lại chạm phải đá bị chìm lấp ở dưới đó. Anh nghĩ trong đầu, nếu hai cái thùng chôn gần nơi này, thì bây giờ nó đang nằm sâu bên dưới lớp cát, đá từ con suối cuốn ra trong mùa lũ hằng năm, như vậy thì không còn hi vọng gì để tìm thấy.

    Nam hết hơi nên trồi lên mặt nước, vừa ngoi đầu lên gần đến bên trên, đã nghe tiếng hai con chó sủa dử dội, đoán có người sắp tới, anh nhanh chóng dấu con dao vào bụi cỏ gần bờ, chưa kịp leo lên bờ đã thấy Tư Có và ba tay du kích xuất hiện và đang đi về chổ anh.

    Anh bình tỉnh bước lên, Tư Có đến gần nhìn xuống mặt nước đùng đục và thấy sợi dây, tay du kích nhỏ con kéo nó lên, khi thấy có cục đá buộc ở đầu dây,
    Tư Có hỏi:

    - Chú làm gì mà lặn xuống dưới?

    Nam suy nghĩ chớp nhoáng trong đầu rồi trả lời:

    - Lúc nảy tôi ra phát cây ngòai này và làm rớt cây rựa xuống nước nên xuống mò tìm lại

    Mấy tay du kích nghe câu trả lời của anh có vẻ ngố ngố, nên cả đám cười cười, tay du kích ốm o, xương xẩu nhìn anh hỏi mỉa mai:
    - Tìm được chưa, nước hồ sâu thấy mẹ, sao mà mò lại được!

    Nam giả bộ lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, con Ki và con Đốm đứng xa xa tiếp tục sủa Tư Có và mấy tay du kích. Tư Có tò mò nhìn anh và mấy bụi cây cỏ xung quanh, không thấy có gì lạ, ông ta quay đi về phía nhà Ba Du. Nam thở phào, dù sao thì anh cũng giấu được ý định của mình, nếu Tư Có thấy anh có con dao bén ngót đang lặn hụp dưới hồ sẽ làm ông ta nghi ngờ, Nam thầm cám ơn hai con chó đã làm tốt vai trò canh gác, xứng đáng được thưởng.

    Chờ cho bóng dáng Tư Có và đám du kích khuất xa, Nam cầm cuộn dây và con dao về nhà. Anh ra sau vườn đào một số trùng làm mồi, và xách cần ra gần khu rừng chồi ngồi câu. Nhớ đến vụ đụng đầu bất ngờ vừa rồi với Tư Có, Nam tự nhủ từ bây giờ phải thật cẩn thận, không thể xem thường, bọn họ rất rành địa hình, đường xá ở đây nên xuất hiện rất bất ngờ.

    Gần hết buổi chiều, mặt trời đã lặn về hướng rừng núi xanh thẩm phía tây, Nam xách mấy con cá rô, mè vừa câu được về nhà. Con Đốm và Ki lót tót chạy theo, anh nhìn hai con chó mỉm cười, tụi nó là hai người bạn thân thiết của anh ở nơi heo hút này.

    Hết ngày mai nửa là Tết rồi, cơm tối xong Nam ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ trước sân, hai con chó được cho ăn một bửa có cá ngon lành, con Ki nằm nhìn về hướng nhà Ba Du, nó khôn lắm, dù đi qua đây nhưng cũng còn nhớ canh chừng nhà, con Đốm nằm kế bên, thỉnh thoảng nó khua chân trước về phía con Ki như muốn tiếp tục mời gọi đùa giỡn với nó.

    Trời tối dần, côn trùng trong các bụi cây cỏ cất tiếng kêu rền rỉ trong bóng đêm tịch mịch, anh vào nhà lấy cái đèn pin tự chế và cây rựa, rồi ngoắc hai con chó đi theo về phía nhà Ba Du.

    Nam muốn qua xem nhà cửa bên đó, nhất là buổi chiều du kích xã mới vừa đi tuần qua. Anh đi một vòng quanh căn nhà, cửa trước và cửa sau vẩn đóng kín, mọi thứ vẩn như cũ, lấy đèn soi vào chuồng, thấy lũ gà nằm im trên tấm phên được Ba Du sửa chửa lại trước khi về thành phố. Con Ki chui qua lổ hổng quen thuộc bên cái vách gần chái bếp vào trong nhà, chợt nghe nó sủa dử dội như sắp sửa mở cuộc tấn công, con Đốm bên ngoài cũng sủa râm ran, Nam lia ánh sáng của ngọn đèn pin về chỗ cái lổ, tay cầm rựa đề phòng rồi gọi:

    - Ki, cái gì đó?

    Nó vẩn tiếp tục sủa không ngớt, bổng một con rắn dài đen trũi nhanh nhẹn bò thoát qua lổ hổng rồi phóng vụt vào mấy bụi cây, con Đốm làm gan đuổi theo, nhưng con rắn đã nhanh nhẹ trườn mất hút vào bóng tối. Lát sau con Ki chui ra và còn hậm hực, nó chạy đến gầm gừ và đánh hơi quanh bụi cây nơi con rắn chạy trốn vào đó.

    Nam quay trở về nhà, con chó của Ba Du ra nằm phía trước sân, con Đốm đứng ngoái đầu nhìn nó như muốn kêu gọi nó đi theo, nhưng con Ki thì vẩn nằm im lìm, nó ở lại để canh chừng nhà, cuối cùng con Đốm chạy theo anh đi về trên lối mòn mờ mờ dưới ánh sáng của cái đèn pin.

    Ngày mai đã là ba mươi tết, Nam nhớ còn chỗ bờ hồ có đám rừng chồi rậm rạp mà anh định dò độ sâu chiều nay, nhưng bị Tư Có và mấy tay du kích xuất hiện đột ngột làm cản trở. Anh dự tính sáng mai sẽ tiếp tục công việc tại nơi đó, nếu lặn vào buổi sáng thì chắc nước hồ sẽ lạnh hơn.

    Anh suy nghĩ và đổi lại kế hoạch, sáng mai ra chỗ vũng nước cạn bắt cá con về làm mồi và ra hồ câu cá lăng, đến gần trưa có ánh nắng mặt trời ấm áp hơn sẽ quay vào làm công việc kia.

    Sáng dậy kiếm cơm nguội và củ khoai bỏ bụng, thêm vài trái chuối cho có thêm chút sức lực. Nhìn ra mấy cây mít trước nhà, Nam nhớ chiều hôm qua khi ra đứng gần đó, anh nghe thoang thoảng mùi mít chín , hôm nay lúc nào rảnh ra hái xuống, hình như mít trồng trong vùng này đều ngọt và thơm, bên đất nhà Ba Du và Hai Tuất cũng vậy.

    Anh ra chỗ vũng nước cạn, lấy cái gùi xúc vào đám rong rêu, bông súng được gần chục con cá rô, cá mè nhỏ, thấy đã đủ mồi câu, anh quay về lấy xuồng bơi ra hồ. Nhớ lại có một việc cũng cần thiết, chiều qua lúc lặn xuống với lưỡi dao trần anh thấy hơi bất tiện, Nam lấy hai mảnh gổ từ một đoạn tre già, ngồi bỏ công đẽo gọt làm thành cái vỏ ngoài cho con dao, rồi cột thêm sợi dây dù nhỏ để đeo vào cổ, trông nó an toàn và tiện lợi khi lặn.


    (còn tiếp)

  3. #9
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    Bơi xuồng ra gần giữa hồ, anh móc mồi quăng xuống nước, rồi lấy thuốc lá ra hút. Ngồi chăm chú theo dõi cái phao, chú cá đầu tiên cắn câu lại là một con cá chép to. Nam nghĩ, thôi cũng được, không được cá lăng, thì có cá chép và gỡ nó bỏ vào dưới đống lưới cũ trong khoang xuồng, rồi móc mồi mới và nhẹ nhàng thả xuống hồ.
    Chiếc xuồng trôi chầm chậm trên mặt nước, anh nhớ đến lần hẹn với Ngọc Minh lần vào buôn vừa rồi, nên sắp xếp kế hoạch trong đầu, nếu hôm nay xong công việc thì mai sẽ đem bao đậu xanh và vài con cá vào biếu gia đình Ngọc Minh và Điểu Sơn.
    Cái phao động đậy và chìm nhanh xuống dưới, Nam nhanh tay giật mạnh cần, một con cá lăng to vùng vẩy mạnh khi bị kéo lên khỏi mặt nước, nhấc nó bỏ vào khoang xuồng, anh thấy hào hứng và định tiếp tục thả câu, nhưng vì nắng cũng đã lên cao, nên đành quay vào bờ.
    Cột kỹ dây xuồng vào bụi cây, Nam xách hai con cá to về nhà, rồi lấy con dao đeo vào cổ và mang cuộn dây cùng cây rựa đi ra trở lại khu rừng chồi bên bờ hồ, không quên kêu con Đốm đi theo.
    Quan sát xung quanh thấy vắng lặng, anh cầm rựa vào theo lối cũ, phạt bớt những cành lá rậm rạp chắn ngang đường, và bước tránh những cái tổ kiến đen mà lần trước Nam đã bị nó cắn. Đến dưới một tàn cây cao rậm, khung cảnh trong này âm u, ngột ngạt, con Đốm lần đầu vào tận đây nên có vẻ lạ lẩm, nó dí thấp mủi đanh hơi lùng sục mấy hang đá và mấy con rắn mối đang hoảng sợ bỏ chạy.
    Anh buộc cục đá vào đầu sợi dây và thả xuống thăm dò đáy trước, nó chạm bên dưới và Nam đếm số nút dây còn lại và đoán nó sâu độ ở đây khoảng bốn, năm mét. Anh kéo lên và di chuyển lên phía trên vài mét, rồi thả xuống lần nửa, độ sâu đáy hồ bên dưới vẩn không thay đổi.
    Kéo cục đá lên, lần này anh sẽ bám theo nó và từ từ lặn xuống hồ, bên dưới có nhiều thân cây nằm ngổn ngang trên lớp bùn, nước lạnh và tối vì ánh nắng mặt trời bên trên bị nhiều tàn cây che mất. Thấy ngộp hơi, Nam buông cục đá và trồi lên, bên trong đám cây này rất kín đáo, nếu không gây ra tiếng động, bên ngoài không thể nhìn thấy, nên phần nào làm anh cảm thấy an toàn hơn.
    Lấy cái áo trùm qua vai cho đỡ lạnh, anh nhìn quanh tìm con Đốm, nó đang lùng sục các bụi rậm, không biết tìm thấy con gì, thỉnh thoảng lại sủa ngắt đoạn từng chập.
    Thấy đỡ mệt, Nam kéo cục đá lên và lại lặn xuống nơi cũ, khi đến đáy anh chậm chạp dùng mủi dao xăm mạnh xuống lớp bùn, con dao xuyên sâu tận cán, dò dẫm thêm ra phía trước cho đến lúc hết hơi Nam mới trồi trở lên, lần này đã thấy mệt hơn, anh ngồi bệt lên tảng đá, hút điếu thuốc để chống lại cái lạnh đang dần thấm sâu vào cơ thể.
    Lát sau Nam lại tiếp tục công việc, anh lên đoạn trên ở gần bìa khu rừng chồi. Nam tìm thân cây to để cột dây và từ từ lặn theo cục đá chìm xuống, ở đây các thân cây mục cũng nằm ngang dọc, có lẻ trước đây có ai đó chặt hạ cây cối trong khu rừng rồi bỏ lại đây, khi dòng suối bị con đập ngăn lại, dòng nước nhấn chìm tất cả. Nam lấy tay cố đẩy và xê dịch thử vài thân cây bám đầy rong rêu trơn trợt, nhưng các cành cây bị vướng víu vào nhau nên chúng cứ ì ra một chỗ, mấy con cá nhỏ ẩn bên dưới thấy có động, hoảng hốt phóng ra ngoài mất dạng.
    Anh trồi lên để thở và bước lên bờ, ngồi hút thuốc lá, suy nghĩ sẽ cố lặn xuống xem bên dưới lần nửa dù bây giờ anh đã mệt đứt hơi sau những lần lặn vừa rồi. Nam thấy phải cố gắng vì giá trị của hai thùng đồ cổ đó rất xứng đáng để bản thân phải chấp nhận mạo hiểm.
    Chuẩn bị sẵn sàng, Nam lấy hơi và để cho cục đá nặng từ từ kéo chìm xuống đáy, anh bơi lên phía trên một đoạn, đáy hồ bên dưới vẩn là những thân cây nằm rải rác và những cụm rong mọc dầy, không thể nhìn thấy rõ mọi vật. Anh định quay đầu về chỗ cũ để trồi lên, thoáng nhìn thấy trong làn nước tối mờ phía trước một con cá có thân mình màu đen, to dài như lươn nhưng vì ở quá xa, nên không biết nó lớn cỡ bao nhiêu, con vật bơi rất nhanh và mất hút vào làn nước đục mờ mờ.
    Lên được trên bờ, nhìn qua khe lá, thấy mặt trời đã ở gần giữa đỉnh đầu, Nam ngồi nghỉ một lát lấy lại sức, rồi cầm cuộn dây đi về nhà nấu cơm trưa. Nam kêu hai con chó, nhưng không thấy con nào chạy đến, bình thường khi nghe anh gọi, con Đốm và con Ki chạy lại ngay.
    Anh bước ra tìm, thấy cả hai đang sục sạo trong đám lá rậm rạp cách đó không xa, Nam bước đến gần, lấy tay kéo mấy nhánh cây ra, cả hai con đang đưa mủi đánh hơi bên ngoài một cái hang bị đá và cành cây che kín, thấy lạ anh cẩn thận đưa cây rựa gạt những cành cây sang một bên, và lật cục đá ra nôi khác, cửa hang khá to, nó trông giống như cái hang cáo và ăn sâu xuống đất ra hướng bờ hồ.
    Nam kêu hai con chó và ra khỏi rừng chồi đi về nhà, cả người thấy đói cồn cào, mệt phờ vì lặn hụp xuống đáy hồ nhiều lần, và thêm cái lạnh của nước bên dưới thấm vào người.
    Xong bửa trưa, anh lăn ra ngủ say sưa trên tấm phản tre. Khi giật mình tỉnh dậy nhìn trời thấy mặt trời đã ngã nhiều về hướng tây, anh đoán giờ này chắc cũng tầm 3 – 4 giờ chiều, cũng còn thời giờ cho một buổi đi câu, sáng mai sớm vào buôn thăm Ngọc Minh sẽ mất hết cả ngày.
    Ra phía sau nhà lấy cần câu và cái lon đựng mấy con cá mồi nhỏ, Nam đi ra bờ hồ và lấy xuồng chèo ra giữa dòng nước trong xanh, móc một con cá con vào lưỡi câu, rồi thả nhẹ cho nó chìm nhanh xuống hồ.
    Sau giấc ngủ dài, anh thấy khỏe khoắn, tỉnh táo hơn nhiều, nghĩ đến ngày mai được gặp lại Ngọc Minh làm anh thấy vui vẻ, phấn chấn. Nam ước cuộc sống sau này có Ngọc Minh bên cạnh, nếu được như vậy thì thật hạnh phúc vì cô đẹp và hiền dịu. Nhưng rồi chợt nhớ lại cuộc sống hiện tại, nó như cơn ác mộng luôn ám ảnh Nam vì nghèo đói và nổi sợ hải … đang dày vò mọi người, muốn tìm kiếm tương lai tốt đẹp ở xứ sở thật là xa vời, gần như không tưởng, chỉ có bỏ nước ra đi mới thoát khỏi màn đêm u tối, thất vọng đang bủa vây Saigon.
    Thấy cái phao động đậy và chìm xuống mặt nước, anh giật mạnh cái cần, một chú cá mè vào cuối giờ chiều, không được cá lăng, nên làm Nam thất vọng. Móc mồi thả tiếp xuống hồ và chăm chút nhìn cái phao, cá lại cắn câu, anh giật cần lên, lại một con cá mè, móc mồi lần nửa và thả xuống, dăm phút sau lại dính một con cá mè khác, Nam mỉm cười và tự hỏi, cá mè đâu ra nhiều quá, mấy con cá lăng trốn đâu hết rồi?
    Còn lại vài con cá nho nhỏ trong lon, anh móc mồi thả câu cho hết rồi mới về, mặc cho chiếc xuồng trôi lênh đênh xuôi gió chiều từ đông bắc thổi về, mang theo hơi lạnh của dãy Trường Sơn ngút ngàn, mặt trời đang lẩn trốn về phía tây, tối nay và sáng mai Tết, mùng một chắc thời tiết sẽ se lạnh.
    Một cú đớp giật mạnh làm cái cần đang gác lên be xuồng bị lôi xuống nước làm anh không kịp phản ứng, Nam nhổm dậy vói theo nó làm chiếc xuống tròng trành mất thăng bằng, vài giây sau kịp trấn tỉnh lại, Nam lấy mái chèo bơi nhanh theo cái cần đang bị con cá lôi đi vùn vụt trên mặt nước, nhiều lúc nó định kéo xuống dưới sâu, nhưng vì cần dài và nặng nên sau đó nó lại nổi lên trở lại. Thích thú với trò rượt đuổi bất ngờ này, anh đoán chắc là cá to đây, nên quyết hạ nó, không để chạy thoát, được một lúc con cá chừng như đã đuối sức, Nam bơi nhanh đến, với tay chụp cái cần và từ từ thu sợi dây cước ngắn lại, con cá kháng cự dử dội bên dưới, quấn một đoạn dây vào đầu cây đinh đóng ở be xuồng, anh nhanh tay bơi vào bờ, rồi cầm chắc cần câu từ từ kéo nó vào bên trong, con cá càng tiếp tục vùng vẩy, đứng trên bờ thấy thân mình trắng bạc của nó phóng lên khỏi mặt nước, Nam nhận ra đó là con cá chép “cụ” rất to, hèn chi nó quá khỏe.
    Sau vài phút vật lộn, anh kéo nó được lên bờ, nhìn cái lưng dầy cộm và chiều dài từ cái đầu to đến cái đuôi cũng to đang quật lên xuống trên cỏ, chắc nó phải nặng gần chục ký.
    Nam mỉm cười thưởng thức chiến thắng của mình, câu được cá chép có lẻ là điềm may, không biết phải vậy không, anh nghe nhiều người nói như vậy!
    Sau buổi cơm tối, anh ra trước sân, lấy củi ngoài rẩy đốt đống lửa to cho sáng sủa và có chút hơi ấm, con Ki qua đây từ lúc chiều, nó và con Đốm được cho mỗi con một khúc cá to nên bây giờ năm lim dim dưới chân anh nhìn ngọn lửa.
    Nam định ngày mai sáng sớm mùng một vào buôn thăm Ngọc Minh và ở tới chiều, nếu có đà thuận lợi, mùng hai vào thêm ngày nửa, ở ngoài này cũng loanh quanh chưa biết làm gì, còn thăm Hai Tuất và Năm Bình thì chờ sau mùng ba, khi Ba Du lên rồi cùng đi thì hay hơn, tửu lượng của anh yếu nên không dám đơn thân, độc mã đến thăm Tết hai ông bạn thân này của Ba Du.
    Đêm 30 trong vùng rừng núi bên hồ, khung cảnh lại càng tịch mịch hơn mọi ngày, Nam nhớ về gia đình, bạn bè ở Saigon và thấp thoáng hình ảnh người bạn gái đã ở nơi xa, không biết về phương trời nào, nổi niềm cô liêu càng sâu đậm khi nghe tiếng gió thổi vi vu qua mái tranh. Anh ngửng đầu lên nhìn bầu trời đêm tối thẳm, chỉ thấy một ánh sao nhỏ xíu nằm lẻ loi ở một góc, có lẻ nó ở xa lắm, văn chương sách vở hay viết mỗi người khi sinh ra đều có một ngôi sao chiếu mệnh, ngôi sao nhỏ đó xuất hiện một mình trong đêm nên trông nó thật cô đơn.
    Hai con chó đang nằm sưởi ấm gần đống lửa bổng chồm dậy sủa về hướng con đường mòn đi xuống từ rừng cao su, biết rỏ tính khí của con Ki, anh đoán chắc sắp có người lạ đến gần, có lẻ đó là du kích xã đi tuần. Lát sau qua ánh lửa cháy sáng, Nam nhìn ra xa phía trước nhà thấy có khoảng năm, sáu người đàn ông vai mang súng M-16 im lặng đi về phía bờ hồ, không có Tư Có đi theo. Thỉnh thoảng ánh đèn pin của họ lóe lên soi đường rồi vụt tắt, con Ki và con Đốm sủa một lúc lâu mới chịu quay trở lại nằm gần đống lửa.
    Nam muốn thức thêm vài tiếng nửa, cho đến giao thừa rồi mới đi ngủ, nhìn sang bên kia bờ hồ nơi có ngôi nhà của Hai Tuất trên đồi và cái xóm nhỏ, chỉ thấy vài đốm sáng nhỏ chập chờn trong đêm tối, chắc không mấy ai trong ngôi làng xa xôi cô tịch này còn thức để đón năm mới.
    Bỏ thêm vài khúc củi to vào cho ngọn lửa cháy lớn thêm, rồi vào nhà lấy cái đèn pin và cây rựa, hai con chó hiểu ý anh liền chồm dậy theo ra lối mòn đi qua nhà Ba Du. Con Ki biết hướng trong đêm tối nên chạy lên phía trước dẩn đường, tới cái sân Nam nhìn xung quanh, thấy cửa nẻo mọi thứ đều nguyên vẹn nên dẩn con Đốm quay về, còn con Ki chui vào nhà qua cái lổ của nó ở vách chái bếp.
    Ngồi nghỉ một lát trên khúc cây trước sân, những hạt sương đêm nay rơi nhiều làm ẩm ướt mái tóc của anh và thấm lạnh qua lớp áo kaki, ngọn lửa đang dần tàn, chỉ còn những cục than hồng thỉnh thoảng cháy rực lên khi có những cơn gió thổi qua …

    * * *

    Sáng mùng một, trời se se lạnh làm Nam thức giấc, ăn sáng xong anh lấy cái gùi bỏ vào đó chai nước, củ khoai, mấy trái chuối chín và túi đậu xanh, rồi ra sau nhà lấy dây xỏ mang con cá chép to và con cá lăng đem vào buôn biếu Điểu Rút và Điểu Sơn, sờ vào túi áo thấy đã có hộp quẹt, gói thuốc lá, không quên dặn con Đốm không chạy ra ngoài rừng, anh cầm theo cây rựa ra khép cửa nhà và nhanh chóng xuống bờ hồ.
    Mặt nước hồ sáng nay phủ một lớp sương mỏng mờ mờ đang trôi dạt nhè nhẹ theo những cơn gió thổi về từ đồi núi phía bắc. Bỏ hai con cá vào khoang xuồng xấp nước dưới tấm lưới, Nam tháo dây buộc, hướng mủi xuống về phía thượng lưu và bắt đầu bơi ra giữa hồ.
    Một mình một mái chèo khiến anh phải gắng sức bơi nhiều hơn khi không có Ba Du, những cơn gió từ tây bắc thổi ngược về làm chiếc xuống tiến lên chậm chạp.
    Vài cây mai già nằm sâu bên trong trên các triền dốc nở hoa vàng rực một góc rừng, trông thật đẹp, ở Saigon ngày Tết mà có được gốc mai to, đẹp như vậy rất hiếm.
    Mặt trời vừa chiếu những tia sáng mỏng manh ở góc rừng phía đông, trên cao vài đàn chim bay ngang đầu anh về phương nam di trú, thỉnh thoảng buông ra những tiếng kêu văng vẳng trong không gian yên lặng của buổi sớm mai.
    Nam tiếp tục bơi đều đặn không nghỉ tay, lát sau nhìn khung cảnh quen thuộc ven hồ, anh nghĩ mới được gần nửa đường. Vài giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán, bỏ cái nón ra khỏi đầu, cơn gió lành lạnh xua bớt cái nóng và mệt làm anh thấy dể chịu, mổi lần đi ngang qua khúc hồ này, Nam thích thú vì nét đẹp hoang dả của cây cỏ bên bờ, trên mặt hồ thì có nhiều bầy cá dạn dĩ nổi lên, bơi chậm rải gần chiếc xuống như chốn không người, Ba Du nói những con cá ở chỗ này sống lâu năm nên thường rất to.
    Khoảng nửa tiếng sau, mấy bụi cây rậm quen thuộc trên bờ hiện ra, Nam cập xuồng gần sát vào trong và cầm sợi dây kéo chiếc xuồng vào bên dưới tàng cây.
    Lấy chai nước ra uống vài ngụm và ăn mấy trái chuối dằn bụng cho chắc, anh xách hai con cá và cái gùi trên vai ra bờ hồ cạn cắt vài lá bông súng to, lót vào đáy gùi rồi bỏ cá vào và phủ vài lá khác lên trên để cá tươi lâu, túi đậu xanh cho lên trên cùng.
    Nam nhấc lên thử thấy khá nặng, nhưng tự nhủ dù sao thì cũng phải cố gắng vì lần này vào buôn chỉ có một mình, và đem biếu họ vào dịp Tết như vậy mới có nhiều ý nghĩa.
    Nhìn con đường đi về phía cửa rừng, Nam xốc cái gùi trên vai và đi qua trảng cỏ nhỏ, lặng lẻ theo lối mòn vào dưới những tàng cây cao.
    Tay cầm rựa phạt những nhánh chìa ra bên ngoài che khuất lối đi, anh cố gắng bước theo dấu vết con đường để khỏi bị lạc, mấy con vắt và muỗi bây giờ không còn làm anh sợ như hai lần đầu.
    Vừa bước đi vừa lắng nghe tiếng chim rừng hót trên các cành cao, thỉnh thoảng Nam nhìn lên xem mặt trời qua các khe hở giữa vòm lá, vượt qua mấy con dốc quen thuộc qua bên kia sườn đồi, đã đến chỗ nghỉ chân, anh bỏ gùi xuống tảng đá to và ngồi nghỉ chân cạnh bờ suối lớn, cúi xuống vốc nước rửa mặt, và sau đó trở lên chỗ cũ lấy thuốc lá ra hút. Thời gian này đang mùa khô nên những con đường rừng vào buôn còn dể đi, Ba Du nói vào mùa mưa, mấy cái dốc trơn trợt và con suối này đôi khi nước lũ tràn về biến nó trở thành một dòng thác lớn.
    Dốc thêm ngụm nước qua cổ họng, Nam khoác cái gùi nặng lên vai băng qua suối và tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi dưới rừng già, qua hết cánh rừng âm u này và một đoạn rừng thưa nửa, anh đã thấy trảng cỏ xanh thấp thoáng hiện ra qua những thân cây phía trước.
    Nhanh chân rút ngắn đoạn đường còn lại và khi đến bìa trảng, anh bỏ cái gùi xuống, ngồi nghỉ thêm vài phút dưới bóng mát của cây bằng lăng nở hoa tím, mùa xuân nhiều loại hoa dại màu vàng, trắng, tím cùng đua nhau nở rải rác khắp nơi xen lẩn với màu xanh của thảm cỏ trông rất lạ mắt, cây cỏ quanh trảng vẩn xanh vào mùa khô, trong khi cây trong rừng bắt đầu rụng lá.
    Đã gần đến buôn, đoạn đường còn lại không còn xa bao nhiêu, Nam thấy phấn chấn, xem lại quà biếu trong gùi thấy hai con cá vẩn con nguyện vẹn trong lớp lá bông súng xanh dầy, nhưng chắc cũng cần phải nhanh chân đến buôn để chúng còn tươi.
    Lên hết con dốc sau cùng để xuống thung lũng, từ trên đỉnh đồi Nam dã nhìn thấy những căn nhà sàn bao quanh bởi màu xanh trùng điệp và bề ngoài vẩn lặng lẻ như ngày thường, không có hơi hướng gì của ngày Tết.
    Nam từ từ đi vào buôn, vài người đàn bà mang gùi trên lưng, cầm xà gạc đi ngược hướng tò mò nhìn anh đi qua, đang lưỡng lự suy nghi không biết đến nhà ai trước, rồi quyết định nhanh chóng, anh rẽ phải đến căn nhà sàn của Điểu Sơn, bước lên thang gổ và gọi:
    -Điểu Sơn có ở nhà không, Nam đây?
    Nghe tiếng gọi, một người phụ nữ S’tiêng trạc 35 – 40 tuổi đi ra nhìn anh với vẻ ngạc nhiên, Nam gật đầu chào:
    -Anh Điểu Sơn có nhà không?
    Bà ta gật đầu bước xuống thang, ra dấu cho anh đi theo và nói ngắn gọn:
    -Ở ngoài vườn
    Theo chân bà ta ra gần cuối buôn, trên đường làng vài con gà và lợn ỉn đang lang thang kiếm ăn dưới các ngôi nhà sàn, hình ảnh quen thuộc của một làng thượng, đến gần khu vườn có nhiều cây ăn trái, một con chó sủa inh ỏi khi thấy có người lạ đến gần. Người phụ nữ cất tiếng gọi, Điểu Sơn đang ở trong giữa vườn cây nghe có người gọi tên mình nên đi ra, thấy Nam đang đứng, Điểu Sơn liền vui vẻ chào:
    -Chú Nam mới vô tới hả?
    -Dạ, Tết nghỉ mấy ngày, anh Ba Du về Saigon rồi, tôi vào buôn thăm, chiều về
    Nói xong anh bỏ cái gùi xuống đất, lấy lá sen đặt con cá lăng lên trên và cầm nó đưa cho Điểu Sơn:
    -Tôi đi câu được cá ngoài hồ, con này tôi để dành biếu Điểu Sơn
    Cầm con cá to từ tay anh rồi đưa lại cho người phụ nữ, Điểu Sơn nói:
    -Cám ơn chú Nam nhiều lắm, về nhà tui uống nước, à còn đây là bà xã tui
    Ba người quay trở lại nhà sàn, bà vợ Điểu Sơn vào trong cầm ra hai cái ly và cái ấm nước ám khói đen, rồi rót từ trong đó ra nước nâu nhạt như nước trà:
    -Chú Nam uống thử đi, cái này nấu từ lá thuốc hái trong rừng, uống thay trà rất tốt cho sức khỏe
    Nam uống thử, nó có vị chát và mùi thơm nhẹ, thấy Tết đến mà không khí trong buôn vắng vẻ, anh nhìn người đàn ông S’tiêng và hỏi:
    -Mồng một Tết sao thấy trong làng cũng như ngày thường?
    -Năm nay mùa màng kém, lúa, bắp thu hoạch không được nhiều nên ai cũng không vui, chú Nam ở đây ăn cơm trưa với gia đình tui nhé?
    Anh lấy thuốc lá ra mời Điểu Sơn và trả lời:
    -Cám ơn Điểu Sơn, chắc nhờ Điều Sơn dẩn qua nhà thăm Điểu Rút để biếu con cá
    -Ừ, chú Nam uống nước đi, rồi tui dẩn qua bên đó, Điểu Rút hôm nay ở nhà – Điểu Sơn trả lời với vẻ tự nhiên
    Mặt trời đã lên cao ngang đỉnh đầu, Nam uống cạn ly nước và xuống thang theo Điểu Sơn về phía cuối làng, vừa đến nơi thấy Ngọc Minh đang định bước xuống thang, cô có vẻ vui khi thấy Nam, Điểu Sơn hỏi:
    -Điểu Rút có ở nhà không Ngọc Minh?
    -Dạ có
    Cô quay lại dẩn Nam và Điểu Sơn vào nhà đúng lúc Điểu Rút xuất hiện ngay cửa, anh gật đầu chào, thấy có Nam và Điểu Sơn đến, ông ta vẻ vui nói:
    -À, có Điểu Sơn và cậu Nam đến, vào trong nhà đi
    Ngọc Minh đi vào nhà trong đem ly và ấm nước rót ra mời khách, đôi mắt của cô nhìn Nam cười, anh cầm túi đậu xanh và con cá chép to trên hai tay đưa cho Điểu Rút:
    -Cái này biếu Điểu Rút và gia đình
    -Cá lớn quá, cảm ơn cậu Nam nhiều, Ngọc Minh con đem túi đậu và cá vô trong
    -Anh Nam cho nhiều quá, ngoài đó còn gì để ăn Tết không – Ngọc Minh hai tay cầm hai món lên, cười nói
    Hai người đàn ông S’tiêng cùng mỉm cười khi nghe Ngọc Minh hỏi, họ hiểu tình ý của chàng trai người Việt này, Nam nở nụ cười:
    -À, cũng còn Ngọc Minh đừng ngại, ngoài đó ngày nào đi câu cũng có ít nhiều
    Hai người đàn ông S’tiêng có vẻ hào hứng, Điểu Rút vui vẻ nói:
    -Điều Sơn và cậu Nam trưa nay ở đây lai rai đi, thiếu Ba Du, năm nào cũng về Saigon ăn Tết, năm nay khác mọi năm, có cậu Nam vô thăm buôn, chiều mới được về nghe
    Ngọc Minh từ nhà trong cũng chạy ra:
    -Ừ, anh Nam ở chơi chiều về nghe, hôm nay rảnh Ngọc Minh dẩn đi một vòng quanh làng cho biết, bây giờ Ngọc Minh đi làm bếp
    Nghe cô nói, anh gật đầu cười, Điểu Rút đi xuống thang cùng với Điểu Sơn, Ngọc Minh đã vào phía trong gian bếp.
    Còn một mình Nam ngồi quan sát căn nhà được dựng trên những cột gổ to vững chải, mái dốc lợp tranh dầy, nó được chia ra làm hai phần, phía ngoài dùng làm nơi tiếp khách, nghỉ ngơi hay ngủ , phần trong là gian bếp dùng nấu nướng và cất các loại dụng cụ làm ruộng, rẩy. Ở gần vách giữa nhà có hai cái rương gổ to mầu nâu, nằm sát cái vách đan bằng tre, ngăn thành một phòng riêng nhỏ, Nam nghĩ chắc đó là phòng của Ngọc Minh, phía trên vách treo một cái ná gổ mun đen bóng, kế bên là bốn cặp gạc nai lớn, chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà là tay săn bắn có hạng.
    Từ ngày mẹ mất, Ngọc Minh về sống với cậu và dì ở ngôi nhà này, cả hai có vẻ rất thương yêu, đùm bọc cô cháu gái của mình, nghĩ đến sự côi cút đó, trong lòng Nam trổi dậy nổi niềm thương cảm dành cho Ngọc Minh, anh lớn tiếng gọi vào phía trong:
    -Ngọc Minh ơi, có cần tôi giúp gì không?
    -Ừ, không anh Nam ngồi nghỉ đi, chút xíu nửa cậu và chú Điểu Sơn về, Ngọc Minh làm một mình được rồi – tiếng cô vọng ra từ gian bếp
    -Mợ Tranh hôm nay không có ở nhà?
    -Sáng nay mợ qua thăm người bà con xã kế bên, chiều mới về
    Có tiếng Điểu Sơn nói chuyện với Điểu Rút, hai người đàn ông xuất hiện trên cầu thang, Điểu Rút cầm trong tay hai con gà rừng:
    -Người quen trong buôn bẩy được chiều hôm qua, hôm nay lai rai món gà nướng và món cá của chú Nam mới cho
    Nói xong Điểu Rút cầm nó đi vào bên trong, Điểu Sơn nhìn Nam nói:
    -Chú Nam ở đây nghỉ đi nhé, tui về nhà chút xíu nửa qua
    Anh lấy thuốc lá ra hút, nhìn trời đoán mới hơn 9 giờ sáng, Ngọc Minh từ trong đi ra, chắc là có Điểu Rút về nên rảnh việc nấu nướng, cô nói:
    - Anh Nam đi một vòng trong buôn với Ngọc Minh cho biết
    Nam gật đầu theo cô xuống thang, Ngọc Minh cùng anh đi về phía bên phải theo con đường dọc bên vườn cây, rồi đến nơi rẻ vào một ngôi nhà sàn nhỏ khác nằm tương đối cách xa làng, cô nhìn Nam và chỉ tay về ngôi nhà nói:
    -Lúc mẹ còn sống, Ngọc Minh và mẹ ở nhà này
    Cô dẩn Nam lên cái thang gổ và đầy nhẹ liếp tre cho ánh sáng và không khí tràn vào bên trong, ngôi nhà cũng có hàng cột tròn to, chắc chắn và cái sàn được lát từ những tám ván dầy, phẳng phiu. Ngôi nhà có hai ngăn riêng biệt và cái chái bếp nằm ở góc cuối, anh giúp Ngọc Minh dùng hai đoạn tre chống cái liếp cửa lên khiến ngôi nhà đang tối mờ mờ bổng sáng lên.
    Nam nhìn quanh, thấy các ngóc ngách đều sạch sẽ, ngăn nắp, từ khung cửa sổ nhìn hơi xa về chân dãy đồi, có một dòng suối lách mình chảy qua đá cuội và cây cỏ mọc xanh ven bờ.
    -Cậu Điểu Rút, Điểu Sơn và mấy người bạn của cậu trong xóm làm nhà cho mẹ Ngọc Minh đó
    -Nhà Ngọc Minh đẹp hơn mấy cái nhà kia – Nam khen và cười
    Ngọc Minh nghe nói cũng cười, nhưng Nam thấy trên khuôn mặt của cô thấp thoáng nổi buồn, anh đưa mắt nhìn xa hơn về hướng dãy núi mờ tít hướng tây, có lẻ là vùng biên giới Việt - Miên, Ngọc Minh bổng nói:
    -Mình ra xem suối đi anh Nam
    Cả hai đi theo lối mòn nhỏ chạy qua khu vườn ngày xưa là nơi trồng rau, nay cỏ mọc xanh khắp nơi, Nam nhìn cô hỏi:
    -Hồi trước ở đây là vườn rau phải không, sao bây giờ không trồng nửa?
    -Ừ, lúc trước mẹ và Ngọc Minh trồng rau ở đây, bây giờ qua ở nhà cậu xa nên lười, chỉ trồng vào mùa mưa thôi – cô cười và trả lời
    Nam theo chân cô đi dưới bóng những cái cây ăn trái xanh mát, trong vườn cỏ mọc khá cao, cô đưa tay chỉ mấy trái ổi, khế trên cao nói:
    -Cậu Điểu Rút và mẹ trồng nhiều loại cây lắm, còn Ngọc Minh thích mấy trái này, ăn ngọt lắm đó anh Nam
    -Vậy hả, chút nửa lúc đi ra, tôi hái cho Ngọc Minh nhé
    Câu trả lời của anh làm cô có vẻ vui và cười:
    -Ừ, chút nửa anh Nam nhớ hái cho Ngọc Minh mấy trái chín về nhà ăn
    Ra đến bên bờ suối, cả hai đứng dưới bóng mát của khóm tre mọc dầy, mùa này dòng nước cạn chảy róc rách qua các tảng đá tròn nhỏ, có nơi nó bị chận lại đọng thành vũng nước trong khe, cô chỉ một tảng đá to nằm trên bờ:
    -Anh Nam ngồi đó đi, Ngọc Minh ngồi bên này
    Nam ngồi xuống, còn cô ngồi hòn đá kế bên, hôm nay Ninh Minh mặc áo bà ba màu xanh dương đậm điểm những chấm trắng nhỏ như sao trời trên bầu trời đêm và cái quần vải thô đen, Nam nhìn cô thấy đẹp, nét đẹp mộc mạc, giản dị và khỏe mạnh, anh hỏi:
    -Mùa mưa chắc suối lên cao hả Ngọc Minh?
    -Ừ, mùa mưa nhiều lúc nước tràn lên vườn cây, lúc đó tiếng suối chảy nghe lớn lắm, ngồi ở nhà còn nghe đó anh Nam
    -Lúc còn nhỏ ở ngoài thị xã, Ngọc Minh có xuống Saigon bao giờ chưa?
    Cô cười trả lời:
    -Có lần ba dẩn Ngọc Minh và mẹ xuống Saigon chơi, mà lúc đó còn nhỏ lắm, nên không nhớ nhiều đâu
    Nhớ lại Ba Du nói về người cha đã tử trận và người mẹ vừa qua đời cách đây hai năm của cô, anh không muốn hỏi tiếp câu chuyện, vì biết mình vừa vô tình làm cho Ngọc Minh buồn, Nam hỏi qua chuyện khác:
    -Làng của Ngọc Minh tên gì?
    -Làng tên Bù Đon, Ngọc Minh nghe mẹ và cậu nói làng này có từ lâu lắm rồi, trước thời người Pháp đến đây, nó cùng huyện nhưng lại khác với xã anh Nam ngoài đó, còn nhà anh Nam ở quận mấy dưới Saigon?
    Nam nhìn cô mỉm cười:
    -Nhà tôi ở quận Phú Nhuận, gần cầu Kiệu mà cũng gần quận 1, 3, gia đình di cư vào và ở đó từ năm 54, còn Ngọc Minh sau năm 75, hết chiến tranh mới về ở trong này, vậy Ngọc Minh có biết nói tiếng S’tiêng không?
    Hai má cô hơi ửng đỏ mỉm cười nhìn Nam:
    -Lúc mẹ còn sống có dạy cho Ngọc Minh, bây giờ cũng quên nhiều rồi, nhưng trong buôn này nói tiếng Việt ai cũng hiểu, nên bây giờ cũng không cần nói tiếng S’tiêng đâu, chỉ có mấy người già là không biết tiếng Việt thôi, lúc sáng nay, anh Nam đi vô buôn một mình có sợ bị lạc không?
    -Ừ, anh Ba Du có chỉ cách đi đường rừng rồi nên không sợ lắm, mùa này đi dể hơn mùa mưa
    -Anh Nam giỏi và gan ghê luôn, mới đi rừng hai lần với chú Ba Du mà đã dám đi một mình, ừ mà tháng mưa trong rừng nhiều vắt lắm đó …
    Nghe nói đến vắt, mặt anh hơi ngẩn ra, Ngọc Minh đoán biết Nam sợ mấy con đó vật nhỏ chuyên hút máu đó, nên cô cười làm anh hơi đỏ mặt, bối rối, anh cười cười tảng lờ nói:
    -Ngọc Minh có thích về thăm Saigon vài ba ngày không?
    Cô gật đầu và ngập ngừng nói:
    -Ừ, lâu rồi Ngọc Minh chưa xuống đó, đi với chú Ba Du và anh Nam hả?
    Nam mỉm cười gục gật cái đầu:
    -Ừ, qua Tết đi, xin cậu Điểu Rút về thành phố Saigon chơi nhé, ở nhà chú Ba Du, bây giờ ra vườn cây hái ổi và khế về ăn
    Hai người ra chỗ vườn cây, có vài cây lêkima, mít, điều … ở phía trong, đến gần mấy trái khế ở trên cành cao, Nam cố gắng vươn tay lên hái nhưng không tới, Ngọc Minh nhặt một thanh tre, cô lấy dây chuối cột với đoạn nhỏ thành cù móc đưa cho anh, thò cái cây giật năm, sáu trái khế chín vàng rơi xuống, sang cây ổi có nhiều trái chín thơm nhưng bị chim và sóc đến ăn nên chỉ hái được vài trái còn nguyên, Ngọc Minh nhìn mấy trái ổi bị ăn còn phân nửa lộ phần ruột màu hồng và có mùi thơm thoang thoảng nói:
    -Trái cây chín không kịp hái hay bị chim về ăn, có lúc vô đây Ngọc Minh gặp cả đàn chim nhiều lắm, rồi gặp cả nhím, đôi khi cả heo rừng …
    Nam nghe kể, cười chọc:
    -Vậy lúc gặp mấy con đó Ngọc Minh có sợ không?
    Biết Nam muốn chọc mình, cô cũng cười rồi trả lời:
    -Ừ, quen rồi không sợ đâu, vô đây lần nào Ngọc Minh cũng có đem theo rựa mà
    Nam cười có vẻ thích thú với câu trả lời tự tin của cô, anh cầm giúp cô mấy trái ổi, cả hai nhìn trời thấy đã trưa, cô thúc Nam đi về.
    Lên thang vào nhà thấy Điểu Rút và Điểu Sơn đang ngồi, cái chóe rượu cần nằm ngay giữa gian nhà trước, thấy Ngọc Minh và Nam về, Điểu Rút cười nói:
    -Cháu dẩn Nam đi về vườn cũ hái trái cây hả, có ra ngoài suối không?
    -Dạ có cậu, ra ngồi ngòai đó chơi, anh Nam khen nhà cháu đẹp đó
    -Ờ, thôi! Ngọc Minh dọn mấy món trong bếp ra đi, đầu năm cậu mời Điểu Sơn và cậu Nam lai rai
    -Dạ
    Điểu Rút bê cái chóe đặt nằm giữa ba người, lần trước ở nhà Điểu Sơn, anh đã uống thử loại rượu này, Điểu Sơn chỉ cái chóe nói:
    -Rượu cần của Điểu Rút làm ngon và say nhẹ lắm, chú Nam không lo đâu
    -Lần trước uống rượu cần ở nhà Điểu Sơn có anh Ba, hôm đó rượu cũng ngon – Nam đáp
    Ngọc Minh bê dĩa thịt gà nướng kiểu miền núi ra, và quay vào trong đem ra một phần đầu con cá chép nướng trui trông rất ngon lành, sau đó bày thêm rau và các loại gia vị.
    Cắm ba cái cần trúc dài vào chóe, Điểu Rút cầm một ống trúc rồi mời Nam và Điểu Sơn uống, vít cần đưa vào miệng, Nam thấy đầu lưỡi tê, nóng khi chất rượu qua cổ họng và có mùi thơm của cây lá rừng.
    -Mời cậu Nam và Điểu Sơn thử món cá nướng
    Nam đưa đôi đũa gắp miếng thịt gần phần bụng của con cá, chỗ này béo ngậy vì có lớp mở, hai người đàn ông S’tiêng vẩn đang cầm cần trúc uống rượu từ trong chóe, Điểu Sơn chờ vài phút cho rượu thấm vào vị giác rồi buông cần ra gật gù khen:
    -Chóe rượu này ngon, Điều Rút ủ nó từ bắp được bao lâu?
    -Khoảng 30 ngày, để dành Tết đãi khách quí tới nhà thăm
    -Ba Du về ăn Tết ở Saigon khi nào lên đây cậu Nam – Điểu Rút hỏi anh
    -Chắc khoảng mùng năm, nhưng anh Ba nói có thể sẽ lên sớm hơn
    Nam lấy bao thuốc lá mời hai người đàn ông S’tiêng và châm cho mình một điếu, không khí buổi trưa trong buôn vắng lặng, vài tiếng gà gáy đột ngột vang lên trong buổi trưa ấm áp ngày đầu xuân, anh hỏi Điểu Rút:
    -Từ trong buôn ra xã bên này có xa không?
    -Khoảng ba cây số, cũng phải băng đường rừng qua đồi mới đến trung tâm xã, ở đó có trạm xá, trường học … dân trong buôn cũng ít khi ra đó, chú Nam từ ngoài bờ hồ vô trong này cũng xa bốn, năm cây số, đi cũng cực quá
    Nam cười nói:
    -Lần đầu thấy xa, mấy lần sau thì quen rồi, thấy không xa lắm
    Điều Sơn ăn uống rượu rất khỏe, ông ta gắp cho Nam miếng thịt gà nướng và khen:
    - Điểu Rút và Ba Du biết cách nướng gà ngon lắm, tui ăn thử ở nhà Ba Du thấy cũng giống nhau
    Điểu Rút mỉm cười:
    -Lúc đi lính biệt kích, lính Mỹ cho ăn toàn đồ hộp, sau này qua biệt động quân, lính con nhà nghèo, gặp Ba Du khi đi hành quân cũng hay nấu nướng từ từ rồi quen
    Nghe kể lại chuyện lính tráng xưa, Điểu Sơn hồi tưởng lại:
    -Nhiều lúc đóng trong rừng cả tháng trời, ăn toàn gạo sấy, thịt hộp, lúc tụi tui ra đóng chốt gần suối thấy mễn, cheo ra uống nước cũng không dám bắn vì cấp chỉ huy nói im lặng không được làm gì khi chưa có lịnh.
    -Chỗ rừng Ba Du và chú Nam đi ngang qua còn nhiều thú lắm, hết tiếng súng nên thú rừng từ bên Miên và rừng Phước Long, Ban Mê Thuộc về đây nhiều, mấy buôn khác ở gần đây hay vô săn ở đây, họ săn bằng súng của lính trước 75, vô trong đó có gặp họ thì cậu Nam nên cẩn thận
    -Trong buôn này đi săn bằng súng hay bằng tên – Nam hỏi
    -Có người dùng ná, cũng có người dùng súng, chính quyền thì cấm xài súng, nên họ giấu trong rừng, lúc nào đi săn thì vô đó lấy ra, súng đạn trong đó còn nhiều lắm, tui với Điểu Sơn đi rừng lượm được M-16, AK, đạn …
    Điểu Sơn chỉ tay chếch về hướng tây-bắc nói:
    -Đồn Tống Lê Chân cách buôn này bẩy, tám cây số, lúc đó tiểu đoàn tụi tui bị bao vây trong đó lâu lắm, tui với Điểu Rút, Ba Du ở chung đại đội, căn cứ được máy bay thả dù tiếp tế súng đạn, lương thực, thuốc men … nhưng bị súng ở dưới bắn lên, nên dù bay lạc ra bên ngoài nhiều, mấy năm sau đi vô rừng vẩn còn lượm được nhiều thứ, Ba Du có lúc cũng đi với tui đi săn, đặt bẩy trong đó, lượm được nhiều đồ của quân đội, có cái bị sét rỉ, cái còn tốt đem về xài …
    Nam nhớ tới cái đèn pin Ba Du cho anh làm từ mấy cục pin, anh hỏi:
    -Ở ngoài đó anh Ba Du có mấy cái đèn pin, chắc cũng lượm từ trong rừng ra phải không Điểu Sơn?
    -Đúng rồi, thứ pin đó xài cho máy truyền tin, bây giờ chế lại làm đèn đi săn ban đêm
    Hai người đàn ông S’tiêng kể chuyện cũ, có lẻ họ nhớ lại những ngày chinh chiến, hành quân trong rừng núi hiểm hóc, cheo leo, những trận đánh sinh tử vang danh như trận Tống Lê Chân, Điểu Rút có vẻ khiêm nhường ít nói về mình.
    -Uống đi Điểu Sơn, cậu Nam, hôm nay ngày tết đầu năm mới – ông ta vít cái cần trúc xuống mời
    Cả ba người nảy giờ ngồi nói chuyện, dĩa thịt gà và cá nướng còn nhiều, rượu trong chóe chắc cũng vậy, Nam không thấy Ngọc Minh đâu, đoán chắc cô trong gian bếp, không biết đang làm gì. Món thịt gà rừng thơm giòn, rất hấp dẩn, anh ăn thấy không ngán, nhìn trời thấy nắng chiều đã ngã về hướng tây, như hiểu ý anh, Điểu Rút nói:
    -Không bị trễ đâu, chừng một chút nửa về cũng kịp, có cần tui đưa cậu Nam ra tới bờ hồ
    -Tôi đi về một mình được rồi Điểu Rút, quen đường đi rồi – anh nói
    Ngọc Minh từ trong bê ra cái dĩa khế, ổi cắt thành miếng nhỏ và để lên sàn tre:
    -Cậu với chú Điều Sơn và anh Nam ăn giải rượu, chua chua ngọt ngọt dể ăn
    Rồi cô nhìn Nam cười và nói với Điểu Rút:
    -Cậu với chú Điểu Sơn uống nhiều đi để anh Nam về sớm, về tối quá lạc đường
    Thấy Ngọc Minh bênh mình lộ liễu quá, anh cười nói:
    -Chắc không bị trễ đâu Ngọc Minh, trời còn sớm, tôi về cũng còn kịp
    Vào trong bếp, cô cầm ra mấy trái mít, đu đủ và ổi bỏ vào cái gùi của anh, Điểu Rút hiểu ý khi thấy cô cháu của mình không chịu vào nhà trong, mà vẩn còn đứng vách ngăn nhìn ra nên nói:
    -Mình uống lần nửa cho cạn chóe rồi đưa chú Nam về
    Nam hiểu ý nên mỉm cười, nhìn Ngọc Minh với vẻ cám ơn, anh ăn mấy miếng khế và ổi của cô vừa đem ra, vị chua ngọt của trái chín cây trộn lẩn vào nhau thấy lạ miệng, anh chào hai người đàn ông S’tiêng rồi mang gùi lên vai, bước xuống thang, Ngọc Minh đi theo nói:
    -Để Ngọc Minh đưa anh Nam ra đến đầu buôn
    Anh gật đầu, hai người xuống thang và ra con đường nhỏ trước nhà đi bộ chầm chậm trong ánh nắng chiều chiếu lên hàng cây trên con dốc thoai thoải trước mặt, nơi có con đường mòn đưa Nam xuyên qua cánh rừng già ra bờ hồ.
    -Anh đi về cẩn thận nghe, để Ngọc Minh xem con nước uống không?
    Nam đi chậm lại và nghiêng vai để cô nhìn chai nước trong gùi, Ngọc Minh nói nhỏ:
    -Còn phân nửa, lúc nảy anh Nam không đưa lấy thêm
    -Không sao, về buổi chiều không có nắng đỡ khát hơn
    Tới chân con dốc đầu buôn, anh dừng lại nhìn Ngọc Minh, cô mỉm cười có chút e lệ
    -Ừ, tới đây được rồi, Ngọc Minh về đi
    -Còn mấy ngày Tết nửa, anh Nam không làm gì ngoài đó vô buôn chơi nghe
    -Ừ, chắc đợi anh Ba Du mồng 5 lên rồi cùng vào luôn nhé, thôi Ngọc Minh trở vào buôn đi
    Cô gật đầu rồi quay về, Nam sợ bị kẹt lại trong rừng buổi tối nên nhanh chân đi qua hai con dốc, băng qua lòng suối nhỏ chảy trên nền đá cuội bám rêu xanh, gặp hai đứa nhỏ S’tiêng da nâu đen cháy nắng đang dò dẫm đi theo dòng nước lật những tảng đá tìm bắt những con ốc, cua lẩn trốn bên dưới, thấy Nam đi tới, tụi nó tò mò đứng nhìn, anh hỏi:
    -Bắt được nhiều không?
    Đứa lớn hơn, độ 12 – 13 tuổi, có lẻ là anh đứa kia lắc đầu, Nam ngoắc tay kêu hai anh em nó lại, cầm cái rọ tre nhìn vào bên trong thấy chỉ có vài con ốc và ba, bốn con cua bò tới lui, anh cười xoa đầu thằng em và bỏ cái gùi xuống bờ suối, lấy trái đu đủ chín ra cho:
    -Chú cho trái đu đủ đem về nhà ăn nhe, tối rồi về nhà đi
    Hai anh em nó gật đầu, cười, Nam nói vui:
    -Nhớ cám ơn cô Ngọc Minh trong buôn nhé, của cô Ngọc Minh cho chú đó
    Rồi nhớ lại đường xa, anh khoác gùi lên lưng, tay cầm rựa theo lối mòn lên con dốc vào cánh rừng, trời chiều miền rừng núi mang vẻ vắng lặng, buồn tẻ, tiếng những đàn chim ríu rít bay về tổ vang lên trong tầng lá trên cao, tiếng nai, hoẵng tác vọng ra từ trong cánh rừng sâu âm u.
    Quen đường đi nên Nam nhìn theo dấu con đường uốn lượn qua lại trên đám lá khô, thỉnh thoảng tưởng như mất dấu nó vì các bụi cây rậm rạp che lấp, anh vung rựa phạt bớt các cành cây để nhìn rỏ hơn, và tiếp tục đi cho đến khi thấy bờ hồ thấp thoáng ngoài xa.
    Hít thở một hơi dài khoan khoái, Nam cố gắng rút ngắn quảng đường còn lại qua trảng cỏ, đến chỗ bụi cây quen thuộc, anh lấy sức đẩy chiếc xuồng xuống nước, nhanh chóng nhảy lên bơi về nhà, đến lúc này, anh mới thấy cơn khát đang làm khô cổ họng và hun nóng cả người, lấy cái chai dốc hết nước vào khoang miệng và để dòng nước mát mẻ chạy khắp châu thân.


    (còn tiếp)

  4. #10
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    RỪNG GIÀ NỔI SÓNG VÀ ĐÊM ĐEN TRINH SÁT CON ĐẬP

    Sáng nay thức dậy trong người khoan khoái và hưng phấn, Nam mỉm cười và suy nghĩ trong đầu, không biết là do chóe rượu cần của Điểu Rút ủ với các loại cây, lá thuốc bí truyền trong rừng, hay do buổi gặp gở thú vị với Ngọc Minh ở vườn cây trong buôn, anh nghĩ có lẻ do cả hai thứ.
    Nhớ hôm qua về đến nhà thì trời đã tối, chỉ kịp buộc chiếc xuồng vào bụi cây bên bờ hồ, rồi về nhà nấu bửa tối ăn qua loa, sau đó mệt mỏi vì chuyến đi rừng nên anh đi ngủ sớm, chưa qua xem nhà Ba Du và con Ki ra sao.
    Hôm nay là mùng hai Tết, cũng chỉ có một mình anh đón xuân với ngôi nhà giữa núi rừng và hồ nước mênh mông. Nam muốn thay đổi qua món nào khác ngoài mấy con cá, sẵn ở nhà có bầy gà, nên để cho đúng hương vị ngày tết một chút, anh ra phía sau nhà bắt một con cắt cổ rồi để đó.
    Anh gọi con Đốm và dẩn nó đi qua nhà Ba Du, vừa mới đến cái hàng rào thấp trước sân, con Ki chạy ra vẩy đuôi mừng rở và sủa lớn, rồi hai con chạy nhảy vờn nhau với khắp nơi. Nam bước đến trước căn nhà và đầy cửa vào bên trong, đồ đạc vẩn ngăn nắp như cũ, anh quay ra phía sau vườn, bầy gà đang thư thả bới đất kiếm ăn bên các giồng khoai lang, khoai mì xanh mướt ngoài rẩy.
    Nam bước sâu vào lối đi nhỏ giữa những cây chuối, mùa nắng đến làm các tàu lá bắt đầu khô héo, nhiều cây nghiêng ngã vì sức nặng của những buồng trái to, Ba Du phải dùng hai thanh tre chống lên cho nó khỏi đổ xuống, vài buồng đã có màu vàng, chắc ba, bốn ngày nửa là chín, anh đi luồn qua những tàu lá héo khô đến chỗ những cây đu đủ, hái một quả to vỏ lốm đốm vàng mang về trưa nay làm món canh.
    Nhìn mấy cây mít và ổi xum xuê màu xanh nằm ở cuối vườn gần bên bụi tre cao vút, Nam nhớ lại hôm qua mùng một Tết, ở trong buôn đi hái ổi, khế trong vườn nhà Ngọc Minh, những giây phút đó thật thơ mộng và đẹp, làm Nam vẩn nhớ đến tận hôm nay. Anh thích Ngọc Minh vì những đức tính giản dị, chân tình và thêm đôi chút hài hước, không biết có phải do duyên may đã đưa anh đến đây và gặp gở Ngọc Minh, chứ như tự nhiên thì có lẻ Nam và cô khó bao giờ gặp được nhau, vì hai người ở hai nơi quá xa nhau, nên điều này cũng thật là lạ lùng.
    Khi biết Ngọc Minh có cuộc sống không may mắn, vì cha mẹ cô đều mất sớm, lủi thủi chỉ có một mình và sống nhờ ở nhà người cậu, làm Nam thêm cảm động. Cuộc chiến tuy đã qua nhiều năm, nhưng hậu quả khốc liệt của nó và cái nghèo đói đi theo sau khi hòa bình lặp lại, đang tàn nhẫn dập tắt mơ ước của bao trái tim trẻ trung.
    Nam tuy còn trẻ nên không có nhiều kinh nghiệm, nhưng cũng đủ am hiểu về việc cai trị của nhà cầm quyền mới sau năm 75, nên trong đầu anh đã nhìn thấy viển cảnh tối tăm, đói khổ sẽ còn tiếp tục kéo dài ở đất nước này…
    Đóng cửa nhà Ba Du lại cẩn thận, anh cầm trái đu đủ và dẩn hai con chó đi về nhà, cả hai đang chạy tung tăng, đánh hơi sục sạo trong các bụi rậm, có lúc mò trúng chỗ những con chim đang trú ẩn làm cả đàn hốt hoảng bay ra, hai con đuổi theo một đoạn xa rồi ngẩn ngơ nhìn đàn chim bay về phía cánh rừng cao su ở tận bên trong.
    Về làm thịt con gà xong, nhớ lại trong cái bình còn lại khoảng nửa lít rượu hôm trước anh mua lai rai với Ba Du, nhưng chợt nhớ lại là anh chưa ngồi uống rượu một mình bao giờ.
    Ở Saigon mà vào quán nhậu, nếu Nam không đi với thằng bạn này, thì cũng phải có thằng bạn kia, với anh có người để uống hình như quan trọng hơn hàng quán và rượu ngon hay dở, ngồi uống một mình làm Nam thấy lẻ loi và cô độc. Nhưng hàng xóm gần đây nhất là Hai Tuất ở bên kia hồ, thêm nửa mấy ngày Tết người có gia đình hay bận bịu với bà con, hàng xóm, đâu còn ai.
    Anh đang ước có thằng bạn nào đó đến thăm anh vào lúc này thì thật là đúng ý, đúng lúc, nhưng nhìn quanh thì chẳng có ma nào, chỉ có rừng núi, hồ nước vây quanh.
    Nam nghĩ thôi cứ đem rượu ra rồi tới đâu hay tới đó, không có ai đối ẩm thì uống một mình cũng chả sao.
    Nhìn trời mới khoảng mười đến mười một giờ trưa, anh bê cả con gà luộc trên cái dĩa sành thô và mấy cái dĩa rau xanh, ớt … lên phản tre, trong bình chỉ còn lại khoảng nửa lít rượu đế.
    Anh ngồi ăn uống một mình, cứ thích khúc nào của con gà thì lấy tay bốc hay dao cắt thoải mái, còn rượu thì cứ từ từ mà uống, không bị ai thúc ép, kể ra đó cũng có cái sướng riêng của độc ẩm. Con Ki và con Đốm thì bình thản nằm chờ, Nam xử công bằng với cả hai, cho con này một miếng, thì con kia được một cục, nên hai con không phải tranh giành nhau, con Ki nhà Ba Du thì ngoan hơn, nó ăn chậm rải, từ tốn.
    Uống một mình không phải lắng nghe hay nói chuyện với ai, cứ uống một ly rồi nhìn trời đất mông lung, hồ nước rồi rừng núi vây quanh, cơn say thường cũng đến nhanh.
    Nam ngồi hồi tưởng lại những kỹ niệm cũ, bạn bè, người bạn gái mà anh đã từng yêu, rồi chia tay, những người bạn thân theo những con tầu vượt biển ra đi … Mỗi khi uống rượu với hai thằng bạn thân, Huy hay Ý cao hứng lại đọc vài câu thơ, hay nói về những bài hát mà tụi nó yêu thích, Ý có hàng đống thơ trong bụng, dân Huế nên tâm hồn lãng mạn như sông Hương của đất thần kinh, nó hay nói với Nam và Huy đó là con là sông đẹp nhất miền trung, văn nhân thi sĩ ai cũng say mê, còn Huy lúc đã say la đà thì thích có người hát cho nghe những bài tiền chiến thật xưa.
    Nhớ đến cái buôn nhỏ trong rừng, Nam nghĩ nếu Ngọc Minh có mặt ở đây thì chắc cũng vui, cô không biết uống rượu nhưng ngồi nói những câu chuyện mới, cũ thì cũng rất thú vị trong mấy ngày Tết.
    Hồ nước mùa này phẳng lặng ngã màu xanh lơ, trong không khí oi bức mùa khô, Nam bổng thèm được nhào xuống hồ vùng vẫy tắm cho thỏa thích, có lẻ rượu vào nên làm cho con người cởi mở, hăng hái. Anh tự nhủ chiều nay ngủ dậy, lấy cần ra hồ câu vài tiếng, xong rồi nhảy xuống tắm một trận. Ngày Tết mà xuống tắm hồ nghe có vẻ lạ lùng khôi hài hay giống một chàng lãng tử, nhưng ở nơi hoang vắng này thì chả có gì để làm hay đi rong, tiêu khiển như ở Saigon.
    Còn chương trình mùng ba Tết, anh lại vào buôn thăm Ngọc Minh, vào đó có người quen nói chuyện còn hơn ở ngoài này lủi thủi đi ra, đi vô một mình.
    Đầu óc anh lại quay về với hai thùng đồ cổ, Nam thấy câu chuyện còn mông lung quá, mọi thứ anh biết cho đến lúc này là nó được chôn giấu trong vùng hồ của khu đồn điền cao su cũ, còn địa điểm thì sau mấy ngày vừa rồi lặn xuống dưới đáy hồ gần khu rừng chồi, Nam chưa tìm ra một dấu hiệu nào, chưa kể đến bom đạn rơi xuống khắp nơi trong chiến tranh, không biết là những món đồ sứ mỏng manh đó có còn nguyên vẹn không.
    Có một điều Nam chắc chắn là nếu hết mùa nắng này anh không tìm ra hai cái thùng đó, thì sẽ phải quay về Saigon và trở lại với nghề đi buôn cũ, chứ không thể ở lại đây.
    Thêm vào đó từ ngày gặp Ba Du, nhiều lần Nam hay tự hỏi là có nên tiết lộ điều anh biết về bí mật này cho Ba Du không, anh lo sợ là tin đó có bị lộ ra bên ngòai hoặc Ba Du sẽ không tin anh. Nhưng sau lần qua nhà Hai Tuất uống rượu, Ba Du cũng đã được nghe kể về các món đồ sành sứ cổ quí giá của ông chủ đồn điên Tây, nếu được nghe anh kể thêm câu chuyện từ người quản gia cũ, một người từng trải như Ba Du chắc sẽ tin là có bí mật của hai cái thùng này.
    Thật là khó khi quay lưng bỏ đi trước những món đồ quí giá như vậy, nó sẽ nằm im tại đó vĩnh viển hay vào một ngày nào đó có người may mắn sẽ tìm thấy nó, vì vậy Nam thấy không đành bỏ cuộc.
    Nam uống cạn ly rượu, thấy đầu óc đã hơi chếch choáng, trong bình chỉ còn lại ít rượu, cơn buồn ngủ bị men rượu lôi kéo đang chập chờn bay đến, anh dọn mấy cái dĩa lên kệ bếp, khép cánh cửa nhà rồi lên tấm phản tre ngả lưng đánh một giấc ngon lành.
    Bên ngoài những tia nắng mùa xuân trải ra trên cây cỏ, hai con chó ra nằm dài trước hiên nhà, đôi mắt lim dim nhìn xuống con đường ra bờ hồ. Những con cò trắng nhỏ nhắn, thơ thẩn vỗ cánh bay dọc bờ nước trong ngày đầu xuân, một ngày lặn lội kiếm ăn của tụi nó chỉ kết thúc khi trời đã về chiều.
    Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, vốc nước lạnh lên rửa mặt để xua đi cơn say ban trưa còn lởn vởn trong đầu, anh xách cái gùi ra chỗ vũng cạn kiếm cá con về làm mồi câu, mực nước hồ bắt đã giảm xuống từ từ qua hai tháng mùa khô, nên vũng nước cũng đã nông hơn, bọn cá nhỏ vì vậy cũng ít tìm vào để trú ẩn, sau gần chục lần xúc tìm trong đám lá sen và rong, Nam chỉ tóm được năm con cá rô nhỏ, vậy cũng đủ số mồi cho chiều nay.
    Bỏ cần câu và lon mồi vào xuồng, anh bơi ra giữa hồ, hai con chó chạy ra ngóng theo, anh móc con cá nhỏ vào lưỡi câu và thả nhẹ xuống nước, thong thả lấy trái ổi từ cái túi áo nhà binh ra rửa qua loa dưới hồ và dùng con dao cắt một miếng ăn thử, anh cắn phần ruột mầu hồng nhạt, thấy có vị vừa ngọt, vừa chua, khá ngon.
    Đôi mắt theo dõi cái phao trôi qua lại trên mặt nước, còn tâm trí của Nam thì đang thơ thẩn lang thang khắp nơi, lúc thì hình dung ra mẹ anh, bà chị và hai đứa em ăn Tết trong căn nhà nhỏ ở Saigon, lúc lại nhớ Ngọc Minh trong buôn, không biết giờ này cô đang làm gì, còn mấy thằng bạn ở Saigon có tụ họp nhậu nhẹt lai rai mấy ngày Tết không, nhìn khung cảnh hồ nước hoang vu rồi thở dài …
    Buổi chiều mùng hai Tết ở nơi đồi núi xa xôi này buồn kinh khủng, Nam đi câu cũng là để giết thời gian, chứ trong cái thùng sau nhà cũng còn vài con cá trong đó đủ ăn vài ngày.
    Nhìn về phía xa trên mặt hồ gần nhà Ba Du về thượng lưu, anh thấy có chiếc xuồng đang bơi xuống và từ từ hiện rỏ dần, hai con chó bắt đầu sủa, lát sau Nam nhìn ra đó là mấy tay du kích và công an xã đi tuần tra mấy ngày Tết, không biết chiếc xuồng đi ngang qua lúc nào mà anh không nghe hai con Ki và Đốm sủa như mọi khi, hay vì ngủ quá say nên chẳng hay biết gì. Khi đến gần, không thấy có mặt Tư Có trên xuồng, mấy tay du kích bơi ngang qua nhìn anh rồi xa dần và mất hút về phía con đập ở hạ lưu.
    Chiều nay cá không chịu cắn câu, Nam lấy cái chèo bơi qua khúc hồ phía trên, chỗ đất rẩy của Ba Du giáp với rừng thưa và núi đá nhìn ra, nhìn cái phao trôi chầm chậm theo hướng gió thổi. Nam ngồi chờ một lúc sau cá bắt đầu cắn câu, cái phao bị giật giật vài cái và bị lôi xuống, anh kéo mạnh cái cần và nhấc con cá trê bỏ vào xuồng, chiều nay mấy con cá lăng đi đâu mất hết rồi, mấy con cá chép cũng về trời ăn Tết hay sao đó, Nam tự hỏi rồi cười một mình, móc lại mồi khác và thả câu tiếp tục thôi, nghề này phải kiên nhẫn. Chừng năm, mười phút sau, thêm một con cá mè đen trũi dính câu. Nhìn trời chiều bắt đầu chạng vạng, Nam quyết định móc mồi lần cuối rồi về nghỉ, cột xuồng lại và xuống hồ tắm.
    Ngày mai mùng ba, lội bộ vào thăm Ngọc Minh và đi một vòng buôn cho hết ngày, chiều lại đi về.
    Con Ki và Đốm lúc nảy ra tận bờ hồ ngóng mỏm sủa tụi du kích, bây giờ không thấy đâu, con Ki thì không biết có nhớ ông chủ nó đã về ăn Tết ở Saigon.
    Cái phao lại bị kéo chìm sâu xuống, anh nhanh tay giật mạnh cái cần lên, một con cá trạch với thân mình trơn bóng và những đốm tròn đen, loài này thường sống trong các dòng suối, con này ra sống vùng nước sâu lâu rồi nên kích thước của nó to dài.
    Nam bỏ nó chung với hai con cá nằm dưới cái lưới trong khoang sấp nước và bơi vào bờ, cởi bỏ cái áo nhà binh cũ, anh nhảy xuống làn nước trong xanh, hai con chó nghe có tiếng động ngoài hồ liền chạy ra khỏi đám cây gần khu rừng chồi, anh gọi lớn tiếng:
    -Đốm, Ki lại đây!
    Hai con thấy Nam đang bơi cách xa bờ nên chỉ đứng nhìn theo, thỉnh thoảng lại sủa, anh muốn đùa giỡn và thử xem hai con chó, có con nào dám lội xuống nước không, nên vào gần bờ lấy tay ngoắc và chờ tụi nó nhảy xuống hồ, sau một hồi lưỡng lự, con Ki tỏ ra dạn dĩ, nó phóng thẳng xuống nước và bơi đến gần Nam, con Đốm chỉ còn lại một mình trên bờ, nó lăng quăng chạy tới lui, đưa mủi xuống ngửi ngửi mặt nước rồi lại chạy ra xa, cuối cùng đành ngồi yên một góc nhìn Nam và con Ki vẩy vùng trong làn nước mát lạnh.
    Sau khi ăn tối xong, Nam lại đốt đống lửa to trước sân rồi ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ nhìn lửa cháy bập bùng, trời đêm tối mênh mông chỉ có tiếng côn trùng như một dàn đồng ca đang kêu rên rỉ khắp nơi, thỉnh thoảng tiếng những con chim ăn đêm kêu dáo dác ngoài hồ hay trong rừng chồi vang lên vài ba giây ngắn ngủi rồi mọi thứ im lặng trở lại như cũ. Chiều đêm mùng hai Tết tối thui, Nam cứ ngồi hút thuốc lá bên ánh sáng đống lửa, nhìn mông lung lên trời và màn đêm tối đen xa xa xung quanh, cho đến lúc thấy buồn ngủ, anh đứng lên nhè nhẹ vươn vai và đóng cửa đi vào nhà.
    Buổi sáng sớm, trên mặt hồ tỏa ra làn sương mỏng và cảnh vật lặng yên như tờ, sau khi thức dậy điểm tâm với vài trái chuối và mít chín mang về từ buôn thượng, Nam ra nơi cột chiếc xuồng, bỏ cái gùi có chai nước, cây rựa bên trong vào khoang và ngồi lên xuồng, rồi bắt đầu bơi về phía trên thượng lưu hồ.
    Hôm nay mùng ba Tết rồi, Nam thấy không cần phải gấp gáp lắm vì đã đi vào buôn vài lần rồi, nên đã quen với con đường mòn chạy xuyên qua rừng. Đến chỗ đám cây rậm ven bờ, Nam kéo chiếc xuồng giấu vào trong đó và chậm rải đi theo lối mòn, cái gùi hôm nay nhẹ tênh vì chỉ có chai nước, hai ba trái chuối và cây rựa.
    Khu rừng bây giờ dần trở nên quen thuộc với anh, đến con suối lớn đầu tiên, Nam định nghỉ chân ở đó, ngồi hút thuốc khoảng mươi phút, rồi sau đó băng ngang con suối đi tiếp.
    Vừa đi vào bên trong cánh rừng khoảng cây số, bổng nhiên sự yên tĩnh lâu nay của khu rừng bị phá vở bởi tiếng âm thanh ầm ầm quen thuộc của mấy chiếc xe máy cày hay chạy trong nông trường. Nam cố gắng lắng nghe, hình như tiếng ồn ào đó phát ra từ phía trong cánh rừng, xa về bên phải của con đường mòn, anh đi chậm lại và chăm chú nhìn triền dốc trước mặt, nhưng nó bị che khuất bởi những thân cây cao xen lẩn với các bụi rậm ở bên dưới nên không thấy được phía đó.
    Bị sự tò mò thúc đẩy, Nam rời con đường mòn và đi cắt ngang qua khu rừng vào sâu bên trong, anh nhẹ nhàng lách mình qua các nhánh cây, dây leo đeo bám rậm rạp từ gốc đến ngọn, tiếng máy nổ giòn tan mỗi lúc càng lớn. Anh đến núp sau một thân cây to, cố nhìn xuyên qua khe lá, thấy có hai người đàn ông lạ, một tay mặc áo xanh bộ đội và tay kia mặc đồ rằn ri đang đứng nhìn chiếc xe máy cày kéo hai lóng gổ to ra phía ngòai, gần bên chỗ họ đứng, có cả cưa máy và súng M-16 để dựa vào một gốc cây cụt, có thể cái cây này đã bị họ đã hạ xuống ngày hôm trước.
    Nhìn cách ăn mặc, Nam không biết họ là người của lâm trường hay là mấy tay lâm tặc chuyên đốn gổ lậu, nhưng nghe ba người đàn ông này nói chuyện, anh đoán họ lợi dụng mấy ngày Tết, bên kiểm lâm lơ là canh gác hoặc hai bên đã móc ngoặc với nhau, họ vào chặt hạ gổ quí trong rừng để buôn lậu, mấy tay "phá sơn lâm" này cũng rất nguy hiểm, họ có thể tấn công nếu ai đó xuất hiện trong khu vực họ đang trộm gổ.
    Nam thắc mắc là sao họ có thể kiếm được xe máy cày của nông trường để đưa vào tận đây để kéo gổ ra đường, thường thì lâm tặc hay dùng trâu để tránh gây ồn ào khi làm công việc bất hợp pháp và nặng nhọc này.
    Thấy việc này không liên quan gì đến mình, nên Nam cẩn thận cúi thấp người đi trở ra lối mòn để tiếp tục vào buôn, khi gần đến chỗ cũ, nghĩ là đã đi xa khỏi nơi ba người đàn ông lạ, Nam đứng thẳng người và bước nhanh ra ngoài. Vội vàng không để ý, nên anh bị vấp chân vào một nhánh rể cây trồi lên trong đám cỏ và té ngã, đúng lúc đó có tiếng bước chân đi nhanh về chỗ anh, hoảng hốt Nam trườn người núp sau một thân cây to phủ đầy dây leo, và im lặng nghe ngóng. Tiếng chân người đàn ông đến gần nơi anh đang ngồi dựa lưng trong hốc cây rồi dừng lại, Nam âm thầm nhìn qua khe lá, ông ta mặc áo bộ đội màu vàng ngà, khuôn mặt gân guốc, mang đôi dép râu, tay cầm cây rựa bản to, có vẻ ông ta đang tìm lối đi đến chỗ chiếc xe máy cày đang gầm rú, nhưng lại bị lạc đường. Nhìn kỹ khuôn mặt ông ta, Nam nhớ lại có một lần nhìn thấy ông ta đi với Tư Có và mấy tay du kích ngang qua nhà, bất thình lình ông ta vung rựa phạt mạnh nhiều nhát vào bụi cây rậm Nam đang ẩn nấp để lấy lối đi qua, lưỡi rựa bén ngót xẹt qua hạ gục mấy nhánh cây bên ngoài, anh hết hồn thu thân mình sát vào trong cái hốc giữa các nhánh rể to và nín thở chờ cho ông ta đi xa.
    Khoảng năm phút sau, đoán chắc là đã an toàn, Nam nhổm dậy từ từ đi ra, bổng cái tay ở gần hốc cây bên trong chạm vào một vật cứng bằng kim loại, tò mò anh lôi nó ra ngoài sáng và thấy rỏ đó là phần còn lại của một cây súng M-16, bị mưa gió nhiều năm làm rỉ sét và phá hủy gần hết, chỉ còn lại nòng dài và phần thép với cái bá súng bằng nhựa đen bị gãy đôi, nhìn xung quanh không thấy có động tỉnh nào, anh quyết định chui lại vào bụi cây và tìm xem có còn lại thứ gì khác không. Nam đưa tay gạt lớp lá mục phủ bên trên, nhớ tới trong gùi có con dao, Nam dùng nó xới lớp đất đen, lộ ra đầu tiên là cái xương sọ chỉ còn một nửa, những đốt xương sống và những xương lớn khác nằm lẩn lộn bên những viên đạn đồng bị sét rỉ dính chặt vào nhau thành một khối tựa như cục đất to. Anh dùng con dao đào bới thêm một hồi lâu, tìm thêm được một mảnh kim loại có hàng chữ vẩn còn đọc được, đó là tấm thẻ bài, anh lấy chai nước rửa cho trôi bớt đất, và đọc lờ mờ tên người lính là Mai Trí Long, có thêm một hàng số nằm ở bên dưới và loại máu O.
    Nam cẩn thận để mọi thứ vào chỗ cũ, cố gắng ghi nhớ trong đầu vị trí cái cây cao và khung cảnh quanh nó, anh lấy cái thẻ bài bỏ vào túi quần sau để khỏi bị rơi mất khi đi đường, rồi đưa mắt quan sát xung quanh lần nửa và đi ra lối mòn tiếp tục đi vào buôn.
    Hình như mấy tay đàn ông lạ đó đã xong công việc kéo gổ, nên không còn nghe tiếng xe máy cày gầm rú nửa, tuy nhiên Nam vẩn thận trọng đi nhẹ nhàng qua khu rừng già, nhìn lên cao thấy ánh mặt trời chiếu lấp lánh qua khe lá, đến trảng cỏ lớn anh không nghỉ chân như mọi khi vì muốn tránh đụng độ mấy tay đốn gổ kia, nên nhanh chân đi thẳng.
    Vừa băng nhanh qua lối mòn lên con dốc, anh suy nghĩ chuyện vừa tìm được xương cốt và tấm thẻ bài của người lính chết bên gốc cây, có lẻ nên đợi khi gặp lại nhau vào mùng năm sẽ nói cho Ba Du biết chuyện này, tuy không còn quan trọng lắm vì người chết đã lâu, có thể trước cả năm 75 vì xương cốt, vũ khí gần như mục nát gần hết, nhưng để xem Ba Du có ý kiến gì không.
    Nam thấy lòng mình chùng xuống, không biết người lính đó bao nhiêu tuổi, vì sao anh ở đó, anh đoán chắc bị thương, rồi đi lạc đơn vị nên vĩnh viển nằm lại bên dưới gốc cây. Khi Ba Du quay lên đây sau Tết, anh muốn cả hai quay trở lại chỗ đó, và đắp một nấm mộ cho người lính bạc phước, dù sao anh cũng xứng đáng được chôn cất đàng hoàng, tử tế.
    Mùng ba Tết mà gặp mấy tay đốn gổ lậu trong rừng và người lính VNCH chết bên đường rừng làm anh không thấy vui và hưng phấn như buổi sáng lúc bắt đầu ra đi, Nam cố xua đuổi những hình ảnh buồn bả đang chập chờn đó ra khỏi đầu và nghĩ đến Ngọc Minh với nụ cười dễ mến.
    Đi qua hai con suối và thêm cái dốc nửa, đã thấy buôn thượng từ phía xa xa, anh cảm thấy nhẹ nhỏm, sải chân bước trên con đường ngang qua ruộng lúa và rẩy khoai, bắp … trải dài hai bên.
    Nam đi thẳng đến nhà Ngọc Minh, gặp một người phụ nữ S’tiêng mặc váy đang xuống thang, vẻ mặt hiền lành, anh đứng chờ bà ta bước xuống, gật đầu chào và hỏi:
    -Cậu Điều Rút và Ngọc Minh có nhà không dì?
    -Cậu Nam ở ngoài rẩy Ba Du phải không, Ngọc Minh đang ở nhà, đang ở trong kia … – giọng nói của bà ta không được sỏi và lấy tay chỉ về hướng căn nhà cũ
    Nam gật đầu trả lời:
    -Dạ, tôi biết chỗ rồi, cám ơn
    Nhưng bà ta tỏ quá mến khách và chân tình nên vẩn đi trước dẩn đường cho anh, Nam đoán bà ta là vợ của Điểu Rút, đến gàn căn nhà, đứng dưới chân cầu thang bà ta gọi lớn:
    -Ngọc Minh ơi, có cậu Nam vô tìm con nè
    Không thấy có tiếng trả lời, Nam đi ra phía vườn cây và nhìn qua các khe lá xem cô có ở đó không, anh nói với bà ta:
    -Cám ơn dì, để tôi tìm Ngọc Minh một mình được rồi
    -Cậu ra suối đi, Ngọc Minh cũng hay ra ngồi chơi ngoài đó – và chỉ đường cho Nam, xong bà ta đi về
    Anh theo lối đi bên vườn cây, vừa đi vừa nghe ngóng tiếng động phía bên trong, chỉ có tiếng kêu chít chít êm tai của mấy con chim sâu nhỏ nhắn đang chuyền cành bắt mồi, ra đến gần bờ suối, Nam đi nhẹ nhàng để nhìn xem Ngọc Minh ra đây làm gì một mình và cũng muốn làm cho cô bị bất ngờ. Đến nơi anh đứng sau bụi cây có những cái lá to xanh mướt, nhìn thấy Ngọc Minh hôm nay mặc váy truyền thống có nhiều hoa văn và màu sắc như một cô gái S’tiêng, nhưng đẹp và duyên dáng hơn .
    Cô đang đi dọc bờ suối, đến những vũng nước bị đọng lại thò tay xuống tìm bắt mấy con cá, cua nhỏ trú ẩn dưới mấy tảng đá, nhìn cô một mình lẻ loi trong dòng con suối nước trong veo thật hồn nhiên thanh thản, Nam bước ra khỏi bụi cây và gọi:
    -Ngọc Minh làm gì một mình đó?
    Cô hơi giật mình ngửng đầu lên, mặt ửng đỏ nhìn anh cười:
    -Anh Nam mời vô hả, làm Ngọc Minh giật mình …
    Anh hỏi về người phụ nữ vừa rồi để xem có phải là vợ của Điểu Rút không:
    -Ừ, vừa rồi có một bà người S’tiêng từ trong nhà dẩn tôi ra đây, bà đó là ai vậy Ngọc Minh?
    -Bà mợ Tranh của Ngọc Minh, vợ của cậu Điểu Rút đó … Ngọc Minh đang lội bắt mấy con cá nhỏ, anh Nam có xuống coi không?
    -Ừ có, xuống coi bắt cá chứ, mấy con cá này ăn được không?
    -Nó nhỏ lắm, chỉ bằng ngón tay thôi, phải bắt được nhiều về nấu canh mới đủ
    Nam xăng ống quần lên và lội đến gần chỗ cô đang thò tay chỉ cho anh, dưới cục đá có một con cá có lốm đốm nâu vàng trên lưng, Ngọc Minh vừa đưa tay đến gần định tóm nó, vụt một phát như viên đạn nhỏ, nó chạy trốn qua khe đá bên kia, cô lại lần mò tìm nó và vừa đưa tay đến gần là con cá nhỏ lại phóng qua ẩn náo dưới hòn đá khác, mỗi lần như vậy, cô ngẩng lên nhìn anh cười và có vẻ thích thú với trò chơi này. Nam cũng thử làm như Ngọc Minh, nhưng lần nào cũng hụt, vì con cá phóng vụt đi, cuối cùng nó lách mình qua khe hẹp giữa hai hòn đá và bơi đi mất.
    Anh và Ngọc Minh đi dọc theo lòng suối, mực nước mùa này chỉ cao hơn mắt cá chân đôi chút, có nơi con suối bị dòng nước lũ mùa mưa xoáy thành vũng lớn sâu đến đầu gối, cô theo Nam lội xuống nhằm chỗ sâu, bị hụt chân nên đứng không vững, anh đưa tay ra cho Ngọc Minh vịn và cười, mặt cô bổng đỏ ửng lên.
    Lúc sau Ngọc Minh đến ngồi nghỉ bên một hòn đá phẳng dưới bóng mát bụi tre, Nam cũng bước lên bờ và qua ngồi lên hòn đá ở gần bên, lúc này anh cảm thấy lưng bên phải bị ngứa ngáy như bị một con bọ nào đó chui vào cắn, Nam đưa tay trái ra gãi bên ngoài cái áo kaki và tỏ vẻ khó chịu vì nó, anh nghĩ là vì trời nóng nên mồ hôi đổ ra dính bụi đất làm ngứa rát, Ngọc Minh thấy anh cứ loay hoay với chỗ cái lưng đó, cô nắm vai Nam và nói:
    -Anh Nam xoay lại cho Ngọc Minh coi chỗ đó cho
    Anh xoay người lại và kéo cái vạt áo bên đó lên cho cô xem, hai mắt mở lớn với vẻ kinh ngạc:
    -Một con vắt, để Ngọc Minh bắt nó ra cho
    Nam hơi ghê người khi nghe cô la lớn, anh cúi khom xuống và gồng cứng một bên lưng, Ngọc Minh lấy một lá cỏ dài và sắc kéo sát da để con vắt rơi khỏi chỗ nó đang bám, bây giờ nó phồng lên thành một cục tròn rớt xuống hòn đá và lăn xuống suối.
    Anh nhớ lại lúc nằm ẩn mình khá lâu trong hốc cây ẩm ướt, nên con vắt mới có cơ hội bám vào lưng để hút máu, Nam nghe cô cười nho nhỏ và nói:
    -Lấy cho Ngọc Minh chút ít thuốc lá để cầm máu
    Anh lấy bao thuốc lá đưa cho cô, Ngọc Minh bẻ một mẫu nhỏ vò cho sợi thuốc mềm ra và rịt nó vào nơi có dấu cắn của con vắt đang còn rỉ máu.
    -Trả lại thuốc lá cho anh Nam đây, bây giờ biết bị vắt cắn ra sao rồi đó nhe, còn sợ nửa hông – cô vừa hỏi vừa cười
    Nam cũng phì cười, anh quay ra phía sau nhìn:
    -Cám ơn Ngọc Minh, vắt cắn mùng ba chắc năm nay hên
    Anh kéo hai tay áo và ống quần lên cao để xem có còn con nào đang lẩn lút đeo bám không, Ngọc Minh ngồi xem và tự nhiên nhắc:
    -Anh Nam coi chưa kỹ, lở còn con nào ở phía trên nửa sao, cởi bỏ cái quần dài ra mới thấy
    Nam thấy bất tiện nên cười tỏ vẻ hài hước:
    -Chắc không còn đâu, da chỗ đó dầy lắm, nó không bám được đâu
    Nghe anh nói, Ngọc Minh cũng cười đỏ mặt, trời bắt đầu nóng, từ phía dưới con suối hai đứa nhỏ da đen cháy đang đi ngược dòng nước tìm bắt cua, cá trong các vũng sâu, Nam nhận ra là đã gặp hai thằng nhóc này chiều hôm mùng hai Tết trên đường về ở ngoài buôn, đi gần tới thấy Ngọc Minh, hai đứa lể phép cung tay chào:
    -Thưa cô Minh
    -Ừ, hai đứa đi bắt cá hả, đưa cô coi cái giỏ, được mấy con rồi?
    Thằng em tóc xoăn, hai mắt tròn xoe đưa cái giỏ đan bắng tre vót cho cô, nhìn vào bên trong có năm, sáu con cá nhỏ và ba con cua quýnh quáng bò ngang dọc, thằng anh cao nhòng, có lẻ nhận ra Nam, nó và thằng em cùng cười rồi nói:
    -Hôm trước con gặp chú này ngoài buôn, chú cho tụi con đu đủ đó cô Minh, nói của cô Minh cho chú
    Ngọc Minh nghe hai đứa nhỏ nói tỏ ra hơi bất ngờ nhìn anh cười:
    -À, vậy hả!
    Nam giả bộ tỉnh bơ cười hỏi:
    -Về nhà có giành nhau ăn rồi đánh lộn không, ừ mà hai đứa có cám ơn cô Minh chưa?
    Hai anh em nó mỉm cười lắc đầu, thằng em lanh lẹ nhìn Ngọc Minh:
    -Tụi con cám ơn cô Minh
    -Ừ, hai đứa phải nói cám ơn chú Nam nửa nghe, mấy trái đó là cô Minh cho chú Nam rồi
    Nghe cô nói, hai anh em nó lại cười, thằng anh cung tay nhìn Nam:
    -Con cám ơn chú Nam
    -Ừ, K’Chin, K’Lâm hôm nào ghé nhà cô Minh có mít hay ổi chín cô hái cho nghe
    Hai đứa nhỏ dạ rồi dẩn nhau đi dọc bờ suối lên phía trên, anh hỏi Ngọc Minh:
    -Tên tụi nó nghe lạ quá hả, hai đứa nhỏ cũng ở trong buôn này hả Ngọc Minh?
    -Ừ, ba má nó là người Châu Mạ, nhà nghèo lắm, tụi nó hiền, lể phép, thỉnh thoảng hai đứa qua bên nhà nhờ Ngọc Minh chỉ làm toán và đọc chính tả, một đứa học lớp 5, đứa em học lớp 4 ở làng kế bên
    Nhìn mặt trời lên cao, cô bước xuống lòng suối và nói:
    -Mình về đi anh Nam, nắng nóng quá!
    Anh và Ngọc Minh bước xuống lòng suối và đi ngược lên phía trên, Nam đi sau nhìn đôi chân trắng của cô nổi bật giữa cát, đá màu nâu trên nền suối.
    Về ngang qua vườn cây, cô rẻ vào và dừng lại gần mấy cây mận trái đeo đầy các nhánh thấp, Ngọc Minh hái một trái chín đỏ nhìn rất ngon mắt đưa cho anh:
    -Anh Nam ăn đi, mận ngọt lắm, Ngọc Minh hái nhiều nhiều để chiều anh Nam đem về nhà ăn
    Nam cắn thử thấy ngọt lịm, anh lấy cái nón để đựng, cô đi tiếp sâu vào bên trong qua hàng mít, đến chỗ những cây lêkima, vài trái chín rục rơi xuống bị thú rừng ăn phân nửa nằm lăn lóc trên mặt đất, những trái chín còn lại thì cao hơn tầm tay, anh bỏ cái nón xuống nền cỏ và nhìn lên cây, Nam cười nói:
    -Để trèo lên hái mấy trái chín gần bên dưới này
    Ngọc Minh cười nhìn anh trèo lên cái nhánh cây to và đưa tay cố gắng với tới hai trái màu vàng ngoài xa, nhích thân mình lên cao thêm một đoạn, Nam nắm cái nhánh nhỏ, vặt ngang và thả nó vào tay Ngọc Minh bên dưới, rồi chuyển qua cành kế bên hái thêm vài trái, cô nói:
    -Lêkima được nhiều rồi đó anh Nam xuống đi
    Nam tụt xuống cái nhánh to, thả người đu tòn ten và buông tay nhảy xuống đất, bỏ mấy trái lêkima và mận chín vào trong gùi, Ngọc Minh chưa chịu nghỉ, cô chỉ tay về phía vườn điều dầy đặc trái đỏ, vàng:
    -Ngọc Minh hái hột điều về nướng ăn ngon lắm – nói xong nhìn Nam cười
    Anh và Ngọc Minh đi dưới tàng cây có những chiếc lá xanh, to mát mắt, cô nhanh tay vặn những cái hột nằm trơ trọi bên ngoài được hơn một chục, chất nhựa chảy ra dính lấm lem hai bàn tay.
    Ngang qua chỗ cây mít, cô còn muốn hái thêm trái mít chín, nhưng sợ anh vừa gùi, vừa khiêng không hết nên cả hai đi luôn về nhà.
    Vừa bước lên nhà, Điều Rút thấy Ngọc Minh và Nam lỉnh kỉnh với mớ trái cây vừa hái bỏ đầy trong cái gùi, liền cười nói:
    -Ái cha, nhiều quá ăn sau hết Ngọc Minh
    -Dạ, để chiều anh Nam ăn dọc đường và đem về ngòai đó cậu
    Bà vợ Điểu Rút bên trong gian bếp cũng chạy ra:
    -Gần trưa rồi, để cậu Nam ngồi nghỉ, chút nữa ăn cơm rồi buổi chiều còn đi về, nhà cậu ấy ở xa mà
    Nam ngồi phía trước nói chuyện với Điểu Rút, còn Ngọc Minh đi vào gian trong làm bếp, nấu nướng với bà dì, Điểu Rút đưa tay nhón lấy trái mận Nam và Ngọc Minh vừa hái về ăn và khen:
    -Mấy cây mận đó lấy giống từ ngoài đồn điền đem vô đây trồng đó cậu Nam, mẹ của Ngọc Minh thích nó lắm
    -Lúc còn chiến tranh, Ngọc Minh với gia đình có hay vào trong này không cậu Điểu Rút?
    -Tui nhớ chỉ có ba, mẹ Ngọc Minh vô một, hai lần thăm gia đình, bà con trong này vì đường đi không được an ninh, lúc đó tui cũng ở trong trại, ít về buôn … lâu lâu có công việc hay được nghỉ phép, tui ra thăm ba, mẹ Ngọc Minh ngoài thị xã An Lộc
    -Xã này có nông trường cao su không cậu Điểu Rút?
    -Xã Minh Biên này phần nhiều là đất rừng, độ dốc lớn nên người Pháp không khai phá làm đồn điền cao su như bên Minh Thạnh, nghe nói sắp tới trên tỉnh lấy đất rừng ở đây mở thêm vùng trồng cao su để xuất khẩu … lúc sáng vô đây chú Nam có gặp Điểu Sơn không?
    -Dạ, sáng nay không ghé qua nhà Điểu Sơn
    -Điểu Sơn là bà con xa với tui và mẹ Ngọc Minh, có người em tên Điểu Chắc đi lính cùng đơn vị, nên thân nhau như anh em, Điểu Sơn cũng biết rành về cây cỏ dùng làm thuốc trong rừng, có khi rủ tui băng rừng suốt bốn, năm ngày lên tận Phước Long, Ban Mê Thuột tìm cây thuốc quí, Điểu Sơn đi rừng và săn bắn giỏi lắm
    -Lúc cậu chuyển qua lính biệt động quân với Ba Du rồi mới biết anh Ba và thân với nhau?
    -Ừ, tụi tui qua đó ở chung đại đội, thân với Ba Du vì tính ảnh dể mến, thân tình với anh em, lúc nghỉ phép hay rủ tui và Điểu Sơn về thăm nhà và xuống Saigon chơi mấy lần
    Ngọc Minh từ trong gian bếp chạy ra nhìn Nam cười nói:
    -Cậu với anh Nam vô ăm cơm luôn, mợ và cháu làm xong rồi
    Điểu Rút đứng dậy kêu Nam đi vào nhà trong, mấy ống cơm lam trong ống tre to bị nấu trên lửa cháy sém đen vỏ bên ngoài, thịt heo xiên nướng tỏa mùi thơm khắp gian bếp và mấy trái bắp cuối mùa nướng chín được bày ra trên sàn tre.
    Ngọc Minh lấy dao rọc vỏ ống tre, cắt cơm nếp thành từng khúc nhỏ bỏ trên dĩa, đang đói bụng, Nam ăn thử với muối ớt, nó có vị rất lạ và ngon, cảm thấy hai vợ chồng người S’tiêng chăm lo cho mình kỹ càng quá, Nam tỏ ra áy náy:
    -Để cháu tự nhiên mới ăn được nhiều hơn
    Cả Điều Rút và bà vợ với Ngọc Minh nghe anh nói đều cười, cô lém lỉnh chọc Nam:
    -Anh Nam ăn bù cho lúc sáng bị vắt cắn không thôi chiều lội rừng về không nổi
    -Ừ, không về nổi thì xin cậu Điểu Rút vào nhà trong của Ngọc Minh ngủ lại mai về - anh giả bộ cười trả lời
    -Ngủ một mình chỗ lạ anh Nam không sợ sao?
    Nam cười nhìn cô lắc đầu:
    -Ngủ say rồi đâu biết gì nửa mà sợ …
    Vợ chồng Điểu Rút ngồi ăn, nghe Nam và Ngọc Minh nói chuyện cũng cười, cô thò cây tre vào đống than còn nóng trong bếp khều ra mấy hạt điều nướng cháy đen vỏ bên ngoài:
    -Ừ, ăn xong còn hạt điều nướng nửa nè, mùa tới này mình để lại một ít rang ăn nghe cậu
    Điểu Rút nghe cô cháu nói gật đầu, hai vợ chồng ông ta có vẻ thương yêu Ngọc Minh nhiều, Nam nghĩ ngợi, ít ra cô cũng còn có niềm vui và hạnh phúc ở nhà người cậu để cuộc sống côi cút của cô trong cái buôn lẻ loi này bớt đi buồn tủi.
    Riêng hôm nay trong bụng Điểu Rút rất vui vì thấy ngày Tết mà Nam vào thăm cô cháu gái của mình, nhận thấy cách chàng trai người Việt đổi cách xưng hô gọi mình bằng cậu, nên ông hiểu tình cảm sâu đậm mà anh dành cho Ngọc Minh.
    Điểu Rút mong một ngày nào đó điều mình ước muốn trở thành sự thật, vì biết Ngọc Minh không thể sống hoài trong cái buôn hẻo lánh này, cô sẽ phí phạm cuộc đời nếu còn ở đây.
    Điểu Rút nghĩ sẽ sẵn sàng làm mọi việc để đứa con gái duy nhất của người chị ruột có cuộc sống hạnh phúc trong những năm về sau, ông cầu trời ban phước cho Ngọc Minh, còn bà Tranh vợ của ông cũng tỏ ra yêu mến chàng trai này nên chăm sóc Nam rất kỹ.
    Mọi người chiếu cố tận tình món cơm lam và thịt heo nướng xiên, ăn xong Nam thấy mấy trái lêkima chín ngon mắt quá, vì đã được ăn lêkima nhà Hai Tuất cho, thấy nó rất ngon và bùi, anh thò tay lấy lêkima vừa hái lúc sáng bẻ làm hai, đưa nửa trái cho Ngọc Minh:
    -Cho Ngọc Minh nửa trái vì là chủ vườn nè
    Trái lêkima ở trồng ở trong này dầy cơm và ngọt, Nam lấy thêm trái nửa ăn ngon lành, Ngọc Minh cười nhìn anh nói:
    -Anh Nam ăn nhiều quá coi chừng bị say đó, đầu bị quay như mấy ông uống rượu
    -Ừ, vậy hả, lêkima ăn nhiều tốt đỡ tốn cơm – anh nói đùa rồi cười
    Vừa lúc đó Điểu Sơn bước vào nhà, thấy Nam đang ngồi ăn trưa với nhà Điểu Rút, đến ngồi gần bên hỏi:
    -Có chú Nam ở ngoài rẩy, khi nào anh Ba Du lên chú Nam nhắn vô trong này chơi nghe
    -Dạ, mùng năm anh Ba lên, tui sẽ nhắn lại cho anh Điểu Sơn
    -Điều Sơn ăn cơm chưa, còn nhiều cơm và thịt heo nướng bà xã tui và Ngọc Minh nấu nướng đây
    -Tui có ăn ở nhà rồi, sáng nay bên nhà có làm thịt con gà
    Trả lời xong, Điểu Sơn lấy trái mận ăn rồi nhìn Điểu Rút nói:
    -Tui nghe mấy tay trên xã nói sắp tới huyện sẽ giao cái hồ nước cho nông trường cao su bên xã Minh Thạnh quản lý, có thể giữa năm nay …không biết có đúng không?
    Mọi người lắng nghe với vẻ chăm chú, bất ngờ nhất là Nam, Điểu Rút nhìn Điểu Sơn nói chậm rải:
    -Để gặp và nhờ Ba Du ra hỏi mấy ông trong nông trường coi có phải vậy không … hồ rộng lắm nông trường quản lý sao hết … chắc nó dính dáng chuyện trên tỉnh sắp tới cho phá rừng lấy thêm đất để trồng cao su thôi
    Nam hơi lo lắng trong đầu, nếu điều hai người đàn ông S’tiêng nói là sự thật, thì chỗ đất rẩy của anh và Ba Du có thể bị xã lấy lại, họ sẽ buộc anh và Ba Du chuyển đến một khu rừng nằm ở nơi xa tít tắp nào đó, và quan trọng nhất là phải bỏ lở việc tìm kiếm hai cái thùng đồ cổ, như vậy thì thật uổng phí công sức lâu nay. Nam bắt đầu thấy lo lắng và tiếc, qua Tết này phải tìm cách làm cho nhanh … còn nếu kéo dài thì nguy cơ bị chính quyền cho xe ủi vào phá rừng để trồng thêm cao su, và nếu chuyện họ giao cho nông trường quản lý hồ nước xảy ra thật, mọi việc coi như thất bại.
    Ngọc Minh có vẻ quan tâm và nét mặt tỏ ra lo lắng, cô lờ mờ hiểu chuyện đó sẽ ảnh hưởng đến khu đất rẩy và chỗ ở của Nam, còn rừng bị khai phá dần dần sẽ biến mất và người dân trong buôn không còn chỗ để săn bắn, đào củ … để sinh sống.

    (còn tiếp)

  5. #11
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    Không khí đầu năm bị phủ một làn mây xám mỏng vì những tin tức không hay mà Điểu Sơn vừa cho biết, Điểu Rút nhìn Điểu Sơn hỏi:
    -Có tin gì về chuyện dời mấy buôn đi qua chỗ này hay chỗ kia không?
    Điểu Sơn lắc đầu và nhíu mày trả lời:
    -Không nghe gì về việc buôn làng phải đi, nhưng mấy hôm nay vô rừng thấy có xe máy cày của nông trường đang kéo cây lớn bị đốn ra ngoài đường vào buổi chiều tối, không biết mấy ông này là người của nông trường hay huyện?
    Nghe nói, anh nhớ lại lúc gặp ba tay đàn ông lạ và chiếc máy cày đỏ đang kéo hai súc cây to, trong đó có một tay Nam nghi là công an xã, họ đánh hơi được những tin tức này trước, nên nhanh tay đốn lậu gổ trong lúc tranh tối, tranh sáng này, Nam im lặng vì biết có nói ra cũng không được ích lợi gì.
    Như vậy sắp tới có thể có nhiều biến động lớn xung quanh vùng hồ, những buôn thượng nằm ở nơi xa xôi như buôn này chưa chắc họ để yên.
    Dân Saigon như anh vẩn còn nhớ sau năm 75, chính quyền mới dùng chính sách cải tạo thương nghiệp để xóa sổ các gia đình buôn bán lớn nhỏ ở miền nam, và sau đó ép họ phải đi về các vùng kinh tế mới khỉ ho, cò gáy, gây nên thảm trạng cho hàng triệu người. Vì vậy với những buôn làng ở nơi rừng núi hẻo lánh này, dân số chỉ vài trăm người, khi cần họ sẽ không ngần ngại ra tay.
    Điều Rút và Điểu Sơn ngồi với vẻ trầm ngâm, Nam biết họ đang lo lắng cho tương lai gia đình, buôn làng nơi mà từ xa xưa người S’tiêng, Mạ … đã sinh sống bao đời, anh nhìn qua Ngọc Minh, thấy cô ngồi tựa cằm lên hai gối chăm chú nhìn về phía vườn cây gần con suối, Nam lấy một trái mận chín đưa cho cô, Ngọc Minh cười lắc đầu:
    -Anh Nam ăn đi
    Cô thò tay bốc mấy hột điều nướng trong bếp đưa cho anh, Nam bóc bỏ lớp vỏ cháy đen bên ngoài, ăn hột chín vàng bên trong thấy rất bùi, thơm ngon, chợt Điểu Sơn hỏi anh:
    -Ngoài nhà chú Nam và Ba Du có nghe xã thông báo gì không?
    -À, chưa nghe xã nói gì anh Điểu Sơn, chắc họ con giử kín tin này, mấy người quen với anh Ba Du ngoài nông trường có thể biết …
    Nhìn ra trời bên ngoài, Nam đoán khoảng hai, ba giờ chiều, Điểu Sơn đứng dậy đi về, chủ nhà Điểu Rút cũng đứng lên, cả hai bước theo từng bậc của cái thang xuống đất và đi về phía nhà già làng.
    -Tôi đi về nhé Ngọc Minh, chiều rồi – anh nói
    -Ừ, anh Nam đi qua rừng để ý cẩn thận nhe, có gặp mấy ông đốn cây trong đó thì tránh hoặc đi qua thật nhanh, khi nào chú Ba Du ở Saigon lên, thì anh Nam đi cùng với chú Ba vô buôn
    Anh nhìn cô cười gật đầu:
    -Cũng không sao, tôi chỉ đi ngang qua chổ họ thôi
    -Để Ngọc Minh bỏ mận, lêkima vô gùi, tối về nhà ăn, ừ… thêm nước vô chai để uống dọc đường nửa
    Bà Tranh đã vào ngủ trưa trong cái phòng nhỏ, Nam đứng dậy đeo gùi lên vai và ra cửa xuống thang, Ngọc Minh đi theo sau và theo đưa chân anh ra đến đầu buôn.
    Đi được một đoạn, Nam và Ngọc Minh gặp bốn, năm đứa nhỏ, có đứa ở trần, chỉ mặc cái quần đùi cũ, tóc cháy sém, đen đúa đang chơi đánh khăng ở miếng đất trống gần bải cỏ. Lần đầu tiên vào buôn anh mới thấy mấy đứa nhỏ vui chơi trên đường làng, thấy Ngọc Minh đi tới, bọn nhóc la lớn:
    -Cô Minh!
    Ngọc Minh và Nam đi chậm lại, cô nhìn tụi nó cười nói:
    -Ừa, mấy đứa chơi vui quá há
    Hai anh em K' Chin, K' Lâm cười mím, nhìn Nam và Ngọc Minh rồi nói với mấy đứa kia:
    -Chú Nam bạn cô Minh đó, hôm kia cho tao trái đu đủ đó
    Mấy đứa nhóc nhau nhau lên:
    -Hôm nào có trái cây cho tụi con nghe cô Minh
    -Ừ, hôm nào qua nhà cô học, có trái cây cô Minh sẽ cho
    Hai đứa con gái nhỏ mặc y phục S’tiêng sặc sở, trên môi nở nụ cười rất hồn nhiên, dể thương, chạy tới nắm tay Ngọc Minh đi theo ra tới đầu buôn, Nam đưa tay lên chào, mỉm cười:
    -Ngọc Minh đưa đến đây được rồi, đi về với tụi nhỏ nhé
    Cô đưa tay vẩy nhẹ và đứng nhìn anh đi xa dần lên phía con dốc, lên gần đến đỉnh đối, Nam dừng lại và đưa tay chào từ biệt một lần nửa và ra dấu cho Ngọc Minh đi về nhà, và bước nhanh qua bên kia theo đường mòn đi vào dưới tán rừng.
    Chiều nay Nam ra về hơi sớm hơn, đã vào mùa khô nên bầu không khí trong rừng dưới tàng lá dầy ngột ngạt, oi bức, tiếng đàn vẹt kêu ồn ào trên các cành cây cao làm cho anh thấy yên tâm, tuy vậy Nam vẩn cẩn thận vừa đi vừa nghe ngóng xem có tiếng động nào khác thường.
    Anh đi tiếp, dù mồ hôi đổ ra làm ướt lưng áo, vượt qua con suối nhỏ đầu tiên, Nam chỉ dừng lại trong chốc lát, vốc nước suối rửa mặt cho đỡ nóng và nhúng cái nón vải xuống nước, vắt nhẹ cho khô và đội nó lên đầu, cách giải nhiệt này khá hiệu quả, làm anh thấy dể chịu.
    Xốc lại cái gùi trên lưng Nam đi theo lối mòn chạy ngoằn ngoèo lên dốc qua khu rừng thưa. Những tảng đá lớn nằm rải rác đó đây bị nung dưới ánh năng mặt trời từ buổi sáng đến chiều, đang tỏa ra hơi nóng, Nam sờ tay vào thấy nó âm ỉ như cục than trong bếp.
    Đi thêm một đoạn đường dài sắp đến nơi đổ dốc xuống con suối kế tiếp, vừa bước vòng qua khỏi một tảng đá, bất ngờ anh chạm mặt với một người đàn ông Thượng trạc tuổi Điểu Sơn, ông ta cởi trần, đóng váy, lưng đeo gùi và tay cầm rựa, đang đi ngược lên về phía anh. Khoảng cách giữa hai người chỉ khỏang ba, bốn mét, Nam nhìn người đàn ông gật đầu chào và tiếp tục đi tới, lúc đi ngang qua nhau, ông ta nhíu mày nhìn anh rồi lại lầm lủi bước đi. Nam ngoái cổ lại nhìn, dáng đi và bước chân ông ta nhanh nhẹ đi trên lối mòn nhỏ qua rừng, cuộc sống của họ đã gắn chặt vào rừng từ bao trăm năm nay, những khu rừng này lâu nay cũng là nhà của họ.
    Xuống dốc qua khỏi con suối, Nam đi chậm lại và lấy chai nước ra uống vài ngụm cho bớt khô cổ họng, vừa đi vừa suy nghĩ về những cái tin anh mới nghe trong buôn, nếu Ba Du ra ngoài xã dò hỏi thêm Năm Bình thì sẽ biết chắc chắn là tin đó có thật không.
    Nếu chính quyền trên tỉnh bắt đầu cho phá rừng từ giữa năm nay, thì thời gian chỉ còn được gần ba, bốn tháng nửa thôi, theo Ba Du nói thì mực nước hồ thấp nhất là vào tháng 5, cuối mùa khô, vậy làm sao cho nó xuống sớm hơn vào tháng 3 hay tháng 4 là tốt nhất.
    Suy nghĩ đến đây, Nam chợt nhớ có lần Ba Du nói với anh, Năm Bình cũng là nhân viên trong nông trường theo dõi việc xã nước từ hồ xuống phía dưới con đập, nếu Ba Du tham gia và thuyết phục Năm Bình làm việc này thì không biết có trót lọt không, vì trước nhất Năm Bình sẽ muốn biết lý do vì sao Ba Du nhờ mở cửa xả nước. Nhưng Nam biết nó nguy hiểm vì Năm Bình không thể tự ý làm một mình, mà phải có lệnh của xã, huyện hay từ ban nông nghiệp mấy xã phía dưới kia.
    Nhìn mặt trời nắng gay gắt ở phía tây, Nam nghĩ biết đâu, ông trời ra tay, mùa khô năm nay đến sớm và dử dội hơn tất cả mọi năm, dân thiếu nước làm ruộng, làm rẩy bắt buộc phải mở cửa đập sớm và kéo dài hơn. Đầu óc Nam mải miên man suy nghĩ, anh đi qua trảng cỏ và đến con suối lớn mới dừng lại nghỉ chân một lúc, lấy bao thuốc lá ra châm điếu cuối cùng, rồi đeo gùi lên vai.
    Bước theo con đường mòn đi vào khu rừng già thấp thoáng trong bóng chiều tà, nhớ lại lúc gặp mấy tay đàn ông vào buổi sáng nay, Nam bước nhanh nhưng đôi tai vẩn cẩn thận lắng nghe xung quanh, đi ngang qua chỗ gặp chiếc xe máy cày kéo gổ, khu rừng vẩn yên tĩnh, tiếng con chim lạ kêu trong rừng chiều âm u nghe buồn bả, thê lương vọng ra từ những thân cây cao nằm sâu bên trong. Nam đi ngang qua và nhìn về phía cái cây to, bị dây leo quấn rậm rịt, nơi có xương cốt người lính tử trận, anh đưa tay sờ vào túi quần sau, cái thẻ bài vẫn còn nằm ở đó, Nam cầu mong cho linh hồn anh được siêu thóat và hứa sẽ quay lại để chôn cất anh đàng hoàng. Ra khỏi khu rừng vắng, anh đến bờ hồ, nhìn cây cỏ xung quanh bờ, thấy khung cảnh yên tĩnh, anh kéo chiếc xuồng xuống nước và nhảy lên bơi về phía hạ lưu.
    Về đến nhà, Nam cột xuồng vào bụi cây, nhìn mực nước rồi so sánh nó với hồi anh mới vào đây lúc tháng mười năm rồi, mực nước hồ mới giảm xuống một ít. Anh cởi cái áo và cái quần dài bỏ lên bờ rồi nhảy xuống tắm, nước hồ mát lạnh cuốn trôi lớp bụi bặm và cái nóng ngột ngạt đeo bám theo anh về đến đây từ trong rừng già, Nam lấy tay sờ vào chỗ con vắt cắn hồi sáng ở sau lưng, nó hơi sưng, rát một tí và làm ngứa ngáy.
    Nhớ lại nụ cười của Ngọc Minh, Nam cảm thấy mỗi lúc một yêu mến cô hơn, anh suy nghĩ, dù công việc tìm hai thùng đồ cổ không thành, anh ước mơ Ngọc Minh sẽ đồng ý về sống với anh ở Saigon, hy vọng cô sẽ gật đầu.
    Con Đốm nằm trong sân, biết anh đã về nên chạy xuống bờ hồ sủa văng vẳng, lát sau con Ki cũng chạy băng qua ngang qua khu rừng chồi, đến chổ Nam đang tắm, nó phóng mình xuống mặt nước bơi ra, còn con Đốm vẩn sợ hãi, nên ngồi trên bờ nhìn anh và con Ki sủa ỏm tỏi.
    Buổi chiều những cơn gió lạnh âm thầm thổi qua rừng cây, Nam cầm quần áo bỏ vào cái gùi và theo con đường về nhà, bên kia hồ mấy ngôi nhà nhỏ trong xóm Hai Tuất ẩn hiện lờ mờ qua sương chiều trông thật ảm đạm, tiêu điều.
    Nam đến chỗ cái thùng rộng cá ở sau nhà, bắt một con cá và nhanh tay làm thịt, nhóm bếp lửa rồi bỏ vào chảo rán, nấu thêm nồi cơm nhỏ độn bắp, và một ít đậu, bỏ thêm vài củ khoai lang vào than nóng cho chín để bửa sáng mai ăn.
    Ăn tối xong, anh ra sân lôi mấy cái gốc cây cháy dở còn lại chất vào một góc, rồi đốt thành đống lửa sáng rực trong đêm tối.
    Quay vào nhà tìm bao thuốc lá, anh sực nhớ buổi chiều, lúc trên đường về đã hút hết điếu cuối cùng, tối nay đành nhịn, nếu ngày mai Ba Du lên sớm, thì khỏi phải ra xã mua, vì lúc nào Ba Du cũng có sẵn, còn không sáng mai, chịu khó lội bộ ra mấy quán tạp hóa ngòai đó mua một, hai bao, sẵn mùng bốn Tết ghé thăm Năm Bình.
    Đống lửa ngoài sân gặp cơn gió thổi thốc qua bùng lên nổ tí tách, làm bắn ra những tàn lửa đỏ như đám pháo bông nhỏ, thỉnh thoảng một đoạn tre khô bị nung cháy nổ vang thành một tiếng to như pháo đại, làm con Đốm đang nằm dưới chân Nam giật mình, nó sủa tóang lên và hoảng hốt bỏ chạy ra trốn sau khúc gổ anh đang ngồi.
    Đang ngồi nghĩ ngợi về mớ tin tức nghe lúc chiều và công việc sắp tới, xung quanh bóng tối đang xuống dần, con Ki đột nhiên gầm gừ vài tiếng, rồi chạy ra con đường xuống bờ hồ, con Đốm cũng chạy ra kế bên, hếch cái mỏm về hướng đó rồi sủa. Nam nhổm người dậy nhìn ra, hình như có ai vừa cập xuồng vào gần chiếc xuồng của Ba Du, bán tín, bán nghi, Nam cầm thanh tre đang cháy dợm bước xuống đó xem có chuyện gì. Nhìn qua màn đêm mờ mờ tối, hình như Hai Tuất đang đi tới, hai con chó thấy người lạ nên sủa dử, có tiếng gọi tên anh:
    -Chú Nam ơi, Hai Tuất đây, lửa củi gì mà sáng rực như pháo vui quá vậy
    Anh mỉm cười, Tết mình chưa sang thăm, thì ổng đã qua đây rồi, Nam đứng dậy ra hàng mít chờ, Hai Tuất chân phải hơi khập khiểng đi tới, nhìn anh cười tươi tỉnh, tay cầm cái bình nhựa nhỏ, Nam đoán chắc là qua đây rủ anh lai rai đây
    -Dạ, cơm tối rồi không làm gì ra đây đốt lửa ngồi cho sáng sủa, anh Hai Tuất chắc cũng cơm tối xong rồi?
    -Ừ, xong rồi, Ba Du chưa lên phải không, đang ngồi bên nhà lai rai nhìn qua đây thấy đốt lửa cháy sáng rực, biết chú có một mình nên bơi qua rủ lai rai nói chuyện cho hết mùng ba đây – Hai Tuất nói xong cười thỏai mái
    Hai người đến ngồi trên khúc gổ, Hai Tuất chắc cũng đã uống chút đỉnh ở nhà, Nam vào nhà lấy ra hai cái ly, Hai Tuất lôi ra từ túi quần một gói giấy và nhìn anh cười:
    -Có mồi đậu phụng bà xã hay rang sẵn bỏ trong hũ, mình lai rai đi chú Nam
    Ông ta rót rượu đế vào hai cái ly, hai người cùng cầm ly lên, Hai Tuất nói:
    -Chúc mừng năm mới, vạn sự như ý nhé chú Nam!
    -Chúc gia đình anh vui vẻ, nhiều may mắn!
    -Hôm mùng một, mùng hai tôi và bà xã đi thăm bà con đến xẩm tối mới về đến nhà, nhìn qua bên này thấy lửa cháy sáng, nhưng đi đường mệt mỏi, đến chiều tối nay rảnh rỗi mới lấy xuống bơi qua đây, Ba Du có nói khi nào lên trở lại không, mọi năm chừng mùng ba, mùng bốn là ổng lên rồi!
    -Anh Ba Du nói mùng năm, nhưng có thể ngày mai, mùng bốn
    -Mấy ngày Tết chú Nam có đi ra xã hay đi đâu chơi không?
    -Dạ, có đi vào buôn bên xã Minh Biên chơi đến chiều về
    Nam đang suy nghỉ có nên hỏi Hai Tuất về vụ cái hồ và tỉnh sẽ cho phá rừng lấy đất trồng thêm cao su, nhưng Hai Tuất đã hỏi anh trước:
    -Chú Nam có nghe trong đó biết tin về vụ tỉnh lấy thêm đất rừng để trông cao su, và huyện giao cho nông trường quản lý cái hồ không?
    -Có nghe Điểu Sơn nói xã trong đó cũng đã biết, trong buôn có vẻ lo lắng lắm, còn xã bên anh Hai có biết chuyện này không?
    -Cũng vậy, nếu tỉnh phá rừng lấy thêm đất để trồng cao su, dân của hai xã nằm dọc bờ hồ cũng sẽ bị thu hồi đất rẩy đang trồng trọt, còn khi xã vào quản lý cái hồ này thì dân nghèo cũng hết đường sống, rồi cũng phải ra đi thôi …
    Hai Tuất nhắm mấy hạt đậu, cầm ly lên:
    -Thôi uống chú Nam, bây giờ tới đâu hay tới đó …
    Nam dốc cạn ly rượu đế, những giọt rượu cay nóng chạy xuống đến tận dạ dày, anh nhìn Hai Tuất:
    -Nghe nói đến khoảng tháng 6, tỉnh sẽ cho xe ủi vào làm đường, chặt dọn cây rừng … đúng không?
    -Có lẻ vậy, mấy tay cán bộ ở huyện và xã đã biết trước tin này, nên nghe dân đi rừng nói tụi nó đã cho người vào rừng chọn cây gổ tốt đốn hết rồi, chứ đâu để yên … còn dân thì mai mốt không biết về đâu, làm gì để sống …
    Anh ngồi suy nghĩ, vậy là tin này đã đồn ra khắp ba cái xã quanh hồ này rồi, sau Tết tình hình hư thực ra sao, chắc sẽ rỏ ràng. Hai Tuất dốc hết rượu trong cái bình nhựa ra hai cái ly và nói:
    -Ngày nào Ba Du lên, chú Nam nói tôi mời hai anh em qua bên nhà nhé, kỳ này có món đặc biệt, dân trong làng bẩy được con nhím họ đem đến cho, tui còn nhốt trong lồng tre, Tết có món thịt rừng đổi khẩu vị cho là lạ một chút
    -Dạ, anh Ba mùng năm lên tôi sẽ nói
    -Thôi cũng tối tối rồi, tôi đi về đây …
    -Anh Hai chờ một chút, tôi châm gốc tre làm đuốc cho sáng để thấy đường dể đi…
    Nam lấy hai đoạn tre khô mồi lửa cháy thành đuốc và đi trước dẩn đường với hai con chó, Hai Tuất chầm chậm theo sau, tới bờ hồ anh kéo chiếc xuồng xuống nước, cắm cây đuốc vào phía đầu xuồng, Hai Tuất lên ngồi phía sau và chèo chậm rải ngang qua hồ, ngọn lửa từ đuốc tre cháy sáng lung linh trên mặt hồ và từ từ xa dần, Nam và hai con chó đứng nhìn cho đến khi nó chỉ còn là đốm sáng nhỏ mới quay về nhà.
    Sáng mùng bốn bầu trời khá âm u, có vẻ như sắp có đợt gió đông cuối mùa từ các cao nguyên ở phía bắc muộn màng thổi qua đây, Nam đi qua nhà Ba Du xem xét một vòng cửa nhà trước sau, rồi vào vườn cây xem có trái cây chín thì hái, còn không thì thú rừng và dơi, chuột cũng vào ăn cắn phá, đi ngang cây mít thấy có một trái chín trên cành thấp nứt toát, bị ăn mất một góc nhỏ, anh quay vào lấy dao ra cắt nó đem về nhà.
    Nam vào nhà lấy cái nón, khép cửa sau và cửa trước rồi lấy xuồng bơi ra ngoài xã, khu làng của anh và Ba Du ngày tết cũng như ngày thường, không khí vắng lặng, thỉnh thoảng mới gặp một người đi trên đường, hay chiếc xuồng bơi lẻ loi trên mặt hồ.
    Đến gần cây me tây, anh tìm chỗ cặp chiếc xuống vào bờ và cột dây vào mấy nhánh rể của, đi ngang qua trạm gác, mấy cái cửa lớn, nhỏ đóng kín mít, ba cái cửa sắt của con đập đang được đóng lại để chặn dòng tích nước cho mùa khô sắp tới.
    Anh đi về phía mấy cái quán tạp hóa gần trung tâm xã, vừa qua khỏi ngôi nhà dùng làm văn phòng ủy ban, đến ngang trụ sở của đội du kích và công an, hai tay du kích trạc 18 – 20 tuổi đeo hai cây súng trường CKC, đang đứng gác bên đường nhìn Nam vừa đi tới, liền đưa tay ra chận và ngoắc anh lại, tay thấp người, to con, mặt hơi dữ nói:
    -Anh cho tôi kiểm soát giấy tờ!
    Nam hơi bất ngờ, vì từ lúc về đây đến bây giờ, anh chưa bị ai xét hỏi giấy tờ lần nào, đưa vào túi quần sau, móc cái bóp da cũ kỹ, tơi tã mà tuổi đời của nó cũng đã năm, sáu năm, anh lấy chứng minh nhân dân đưa cho hắn ta, hai tên cầm xem tên tuổi và cái hình nhỏ, lật qua lại rồi nhìn anh hỏi:
    -Ở đâu, còn giấy tờ nào khác không?
    Nam gật đầu, anh lục bóp lấy giấy chứng nhận sang nhượng đất với người chủ cũ có đóng dấu của ủy ban và bên nông nghiệp xã, xem xong tay du kích kia có vẻ muốn trả lại giấy tờ và để anh đi, nhưng tay to con nhíu mày nhìn lướt qua anh như dó xét và hỏi:
    -Anh có giấy tờ gì cấp chứng nhận miển đi bộ đội không?
    Vì cũng quen với nhiều lần qua các trạm bị hỏi kiều này nên anh gật đầu, lục bóp lấy ra tờ giấy của quận Phú Nhuận xác nhận được miển thi hành nghĩa vụ do bị thương tật nặng, đọc xong hắn vẩn bán tín, bán nghi vì thấy vóc dáng Nam khỏe mạnh, bình thường, có lẻ hắn định bắt anh vào trụ sở bỏ cái quần dài ra để xem cái vết sẹo ở chân phải, nhưng lần lữa chưa kịp “o ép” anh, thì Tư Có và một tay công an đeo sắc cốt từ trong trụ sở bước ra, tay du kích tỏ ra hơi khớp vì nảy giờ hỏi han giấy tờ Nam quá kỹ, hắn trả lại giấy tờ cho anh, và bước lui vào trong đứng với tay kia.
    Nam bỏ cái bóp vào túi quần rồi đi tiếp đến cái quán tạp hóa gần đó mua hai gói thuốc lá, bà chủ quán trung niên nhìn anh mỉm cười nói nhỏ:
    -Cái thằng cha đó khó chịu ghê, mới mùng bốn Tết mà xét hỏi giấy tờ gần cả tiếng, dân trong xã này ghét nó lắm … đồ 30 !
    Anh trả tiền rồi cười mỉm và đi ngược về quán cà-phê của Năm Bình, sực nhớ tới tay công an vừa gặp lúc nảy đi với Tư Có, đúng là ông ta trong nhóm đốn gổ lậu anh gặp trong rừng hôm qua, may mà Nam không bị phát hiện, nếu không thì anh khó có thể sống yên trong xã này.
    Quán Năm Bình chưa bán, nhưng thấy cánh cửa hé mở, làm anh hơi lưỡng lự, nhìn trời đoán chắc đã hơn 8 giờ sáng, Nam đẩy nhẹ cửa, nghiêng đầu nhìn vào trong quán gọi:
    -Anh Năm ơi!
    Chờ vài phút không thấy ai ra, anh gọi thêm lần nửa, có tiếng chân người bước ra, Năm Bình thấy Nam liền nói lớn:
    -Ai cha, chú Nam hả, vào đây uống cà-phê đi, lúc nảy mở cửa xong tôi lại bận công việc bên trong …
    -Dạ, Tết ghé qua thăm anh, nông trường cho nghỉ Tết đến chừng nào đi làm lại anh Năm?
    -Thường thì hết mùng năm, nhưng nói vậy thôi, công nhân họ nghỉ hết mùng mười mới chịu vô làm … Tết nên mấy ổng cho co giản một chút, chú Nam chờ chút xíu nhé, tôi vào pha cà-phê mang ra đây uống nhé
    Ngồi một mình Nam lấy thuốc ra hút, anh dự tính sáng nay nếu có dịp sẽ hỏi về mấy cái tin tức đang âm ỉ trong mấy cái làng, buôn quanh hồ. Mùi cà-phê thơm lừng bay trong không gian, Năm Bình bê hai cái ly đen đi ra và để lên cái bàn sát góc quán chỗ anh ngồi, anh lấy bao thuốc mời ông ta.
    -Mấy ngày Tết vừa rồi chú Nam ở trong rẩy hay có đi đâu chơi không – Năm Bình hỏi
    -Có vào buôn chơi hai ngày, còn lại thì ở nhà, loanh quanh ra câu cá ngoài hồ …
    -Hôm Ba Du về Saigon có nói mùng năm là ngay mai mới lên, năm nay có chú Nam ở trên này, nên Tết này Ba Du về nhà lâu hơn mấy năm trước
    Bổng Năm Bình nhìn ra phía cửa, một người đàn ông má hóp trạc 40 tuổi có bộ ria mép mọc dầy tua tủa, mặc bộ quần áo công nhân xanh đậm của nông trường bước vào quán, Năm Bình chào hỏi:
    -Hôm nay trực hả ông Tỵ, làm ly cà- phê nhé?
    Người đàn ông gật đầu và ngồi vào bàn cạnh Năm Bình, nhìn Nam rồi nói:
    -Ừ, hôm nay đến ca tui trực, thằng Sung trực hôm qua rồi!
    Năm Bình vào trong pha thêm ly cà- phê và bê ra, anh mời ông ta điếu thuốc, Năm Bình đưa tay về phía Nam nói:
    -Đây là chú Nam làm rẩy trong hồ gần nhà Ba Du, ông Tỵ cũng có biết anh Ba chút đỉnh
    -Anh Năm Bình chiều nay có đi đâu không?
    -Ngày mai mới lên thị xã Bình Long, có mồi đặc biệt hay sao ông Tỵ - Năm Bình cười
    -Ừ, tụi nó cho con chồn vừa dính bẩy hôm qua, định rủ ông với thằng Sung, Tám Coi chiều nay lai rai …
    -Ừ, vậy chiều nay chừng bốn, năm giờ ông đem ra quán đi, làm hai, ba món lai rai được rồi, chú Nam ở lại chơi không?
    Nam thấy không quen biết mấy người kia nên không hào hứng, anh lắc đầu từ chối:
    -Chắc không ở lại được đến chiều được anh Năm, cà-phê xong thì chút nửa về trong đó có việc
    Năm Bình cũng không thuyết phục anh thêm, ông ta vào bên trong bê ra cái ấm trà nóng đặt giữa bàn. Con đường chạy qua trước quán bắt đầu nhộn nhịp người qua lại, vài đứa nhỏ đốt những viên pháo chuột nổ đì đẹt bên kia đường làm khói thuốc súng hăng hăng bay khắp nơi, Nam thấy vui hơn không khí Tết quá lặng lẻ trong khu hồ.
    Một người đàn ông tóc hoa râm, cao ốm, mặc cái áo kaki vàng nhạt và quần tây bước vào quán, Năm Bình đứng dậy, cười với ông ta và hỏi:
    -Anh Sáu mấy ngày Tết có đi đâu không, uống cà- phê nhé …
    -Ừ, cho ly đen, Tết có ra thăm mấy ông trên huyện, rồi ghé vô thăm mấy ông bên nông trường, ông Tỵ trực hôm nay hả?
    -Hôm nay tui trực cả ngày, sắp tới mùa khô bên nông nghiệp huyện có thông báo chi về tình hình xả nước cho mấy xã phía dưới làm mùa không anh Sáu – ông già tên Tỵ hỏi
    -Chưa thấy bên đó nói gì, hai tháng rồi không mưa, mùa khô năm nay đến sớm, sắp tới ở dưới thiếu nước, chắc mình cũng phải mở cửa đập sớm
    Năm Bình bê ly cà- phê ra để trên bàn, rồi quay lại ngồi bàn cũ, Nam đoán ông ta là cán bộ ở xã, có thể đang phụ trách về nông nghiệp, châm điếu thuốc lá hút, nhìn qua Năm Bình và ông già Tỵ, ông ta nói:
    -Có thể huyện giao cho nông trường quản lý cả cái hồ, có điều giám đốc nông trường thì chưa nhận vì sợ coi không xuể, phải cử thêm người vô ở trong đó …
    -Còn mấy chuyện khác mấy ông trên huyện có nói gì không anh Sáu – Năm Bình hỏi
    Ông ta thấy có Nam lạ nên không tiện nói, lướt nhanh qua câu hỏi đó của Năm Bình:
    -Mấy ổng chắc không biết gì kế hoạch của tỉnh đâu …
    Nam cố ngồi lại nghe ngóng thêm xem có tin tức quan trọng nào khác, nhưng chỉ thấy họ nói chuyện về cây cao su, tiêu chuẩn mua hàng của công nhân … Một lát sau, ông cán bộ tên Sáu trả tiền, đứng dậy ra khỏi quán, Nam cũng chào Năm Bình và ông già gác đập rồi ra về.
    Vừa bơi xuồng, vừa suy nghĩ về những tin tức anh vừa nghe được ở quán, vậy là chuyện giao hồ nước cho nông trường và tỉnh đồng ý cho phá rừng trồng thêm cao su là gần như sẽ thành sự thật. Thêm nửa, một việc quan trọng không kém là làm sao nhân dịp thời gian sắp tới, sau khi nông trường được lệnh mở ba cái cửa sắt đó để xả nước, anh phải bí mật lên trên đập nơi có trục cáp quay, kéo cái cửa lên cao hơn để nước hồ xuống nhanh, và nhất là không để mấy ông gác trong trạm phát hiện ra sự thay đổi này.
    Việc này Nam thấy tưởng chừng khó thực hiện, vì mỗi lần nâng hay hạ ba cánh cửa đó, công nhân trực dùng một cái tay quay dài giống ma-ni-ven ở đầu có khóa như cờ- lê sửa xe nhưng to, rồi đưa vào đầu trục cáp để nâng hay hạ cửa xuống. Còn muốn lên trên thân đập dò xét thì chỉ có thể làm vào ban đêm trời tối, lúc đó người trực gác đã đóng cửa trạm và đi ngủ.
    Trong đầu Nam nảy ra ý tưởng khá mạo hiểm, đêm nay đợi đến gần nửa đêm, anh sẽ bơi xuồng quay lại, neo chiếc xuồng thật kín đáo, và cũng đủ gần đập để quan sát thử xem ban đêm họ trực gác ra sao, sau đó về có kế hoạch thực hiện.
    Chiều tối cơm nước xong, Nam thấy khá căng thẳng, anh ra khúc gổ trước nhà ngồi hút thuốc nhìn màn đêm đang dần xuống, tối nay anh không đốt lửa để giữ không khí yên tỉnh.
    Ngồi một nơi thấy bồn chồn, Nam qua nhà Ba Du đi một vòng để thư thái chút đỉnh, cái anh sợ nhất là bị mấy tay du kích và công an đi tuần đêm phát hiện, giờ giấc khuya khoắc như vậy thì không thể biện hộ chi được, chỉ có nước vào tù cải tạo.
    Anh quay về nhà chuẩn bị, thấy trời có lẻ đã hơn 10 giờ, may mắn mấy hôm nay không có chút xíu trăng sao nào, đêm tối mịch. Nam ra hồ lấy xuồng âm thầm bơi về phía xã, bóng tối âm u bao phủ lên mọi nơi, anh bơi chầm chậm cho mắt quen với đêm tối, trên bờ tiếng côn trùng kêu rĩ rã, thỉnh thoảng vài con dơi bay săn tìm mồi vụt qua trên đầu anh nghe như tiếng gió thổi lướt qua, tiếng chim cú mèo vang từng lên chập nghe thê lương, chết chóc trong đêm vắng, Nam nhớ lại, mình chẳng mang theo dao hay rựa ngoài mái chèo.
    Trong đêm tối, anh chẳng biết mình đã bơi đến đâu, chỉ biết là đã khá lâu, cập nhẹ xuồng vào gần bờ để xem cảnh vật xung quanh, chỉ có bóng cây và lờ mờ dấu con đường đất đi ra xã.
    Nam đẩy nhẹ chiếc xuồng ra xa và bơi tiếp về phía dưới, kia rồi bóng cây me tây cao to lờ mờ trong màn đêm, đã đến gần chỗ cái trạm, nơi anh hay cột xuồng vào những cái rể xù xì của nó, bơi nhẹ nhàng chậm rải và dừng lại phía sau trạm gác ở cách khoảng an tòan và đủ quan sát.
    Cột dây vào một cái rể gần bờ, xung quanh cũng có cái xuồng nhỏ trôi lờ đờ qua lại, anh kín đáo nằm xuống lòng xuồng, con đường đi về trung tâm xã và những căn nhà gổ ở hai bên chìm trong bóng đêm tối mịch.
    Trong trạm không thấy ánh đèn hay động tỉnh nào, ông già Tỵ trực tối nay có thể đã say ngủ vì chầu nhậu lúc chiều ở nhà Năm Bình, Nam mỉm cười cám ơn con chồn, nó được vợ Năm Bình ra tay nấu nướng khiến mấy tay nhậu không thể không uống hết mình.
    Nắm quan sát hồi lâu, thấy đêm dần xuống sâu hơn, hơi lạnh từ mặt hồ phả lên thấm lạnh qua quần áo, lúc chiều Nam chỉ định đến gần để quan sát cái đập, nhưng thấy mọi việc quá im ắng thuận lợi, anh tính lên bờ đi vòng từ phía sau trạm ra bên hông và đi lên con đập xem thử ra sao, vì đường lên đập phía bên kia, xã cho giăng hàng rào kẽm gai để dân không đi qua lối đó.
    Nam nhổm dậy ra đầu xuồng và khom lưng bước lên núp sau thân cây me, vừa tính băng qua khoảng trống trước mặt để chạy ra phía sau cái trạm, anh thấy ánh đèn pin quét loáng qua trên đường và tiếng chó sủa, hoảng hồn Nam ép mình xuống sát đất sau cái rể cây nổi vồng lên trên, ba bóng người đeo súng nhẹ nhàng đi về phía văn phòng ủy ban xã, tim anh đập thình thịch.
    Nằm chờ thêm rất lâu xem mấy tay du kích đi tuần có trở lại không, thấy có vẻ đã ổn, Nam khom người lẹ làng chạy núp sau trạm, quan sát nghe ngóng thêm hồi lâu, xung quanh vẩn yên tĩnh tối đen, anh cúi thật thấp đi lên cái dốc xi-măng ngắn và đi thật nhanh tới chỗ có mấy trụ bê-tông lớn có treo ròng rọc cáp từ ba cái cửa thép to đen thui, Nam lấy tay sờ vào đầu trục nơi đưa cái tay quay vào để nâng, hạ cửa, thấy kích cỡ nó khá to.
    Thấy đã tạm đạt mục đích, anh nhanh nhẹn quay về phía sau trạm, quan sát nghe ngóng kỹ âm thanh xung quanh, rồi lẹ làng chạy ra gốc cây, tháo dây cột, lấy mái chèo bơi nhè nhè ra ngoài xa, năm phút sau thấy đã an toàn, Nam ra sức bơi nhanh về nhà.
    Đêm qua về, Nam ngủ một giấc sâu sau chuyến đi căng thẳng, mệt mỏi, sáng thức dậy rửa mặt và nhìn ra hồ, ánh nắng rập rờn trên làn nước trong xanh, con Đốm tối qua thấy anh về nhà lúc sau nửa đêm, nó tò mò lại gần đánh hơi rồi ngẩng đầu nhìn như muốn hỏi anh đi đâu mà về vào giờ khuya khoắc này.
    Hôm nay mùng 5, theo như đã hẹn, thì chiều nay Ba Du sẽ lên đến đây, tối nay anh sẽ qua gặp Ba Du nói chuyện về các tin tức “sốt dẻo” trong mấy ngày qua. Nhớ lại hài cốt của người lính ở gốc cây trong rừng, Nam muốn nhân chuyến đi vào buôn sắp tới có Ba Du, sẽ dành khỏang một tiếng để đắp cho anh một cái mộ và thắp nén hương trước khi đi tiếp, anh đi tìm vài miếng ván để đóng cái hộp nhỏ để bỏ xương cốt còn lại vào đó, rồi mới bỏ xuống mộ.
    Nhìn quanh nhà không thấy có tấm ván nào, đi ngang hai cái kệ gổ đóng trên vách, nơi để các lọ muối, nước mắm, hành tỏi, dầu mỡ … cái kệ kia để chén, dĩa, vài cái nồi nhôm, chảo. Nam tháo cả hai xuống, tính toán sẽ cắt ra thành từng tấm ván ngắn, rồi đóng lại thành cái hộp, thấy thiếu đồ làm mộc như cưa tay, búa anh chạy qua nhà Ba Du lục lạo khắp nơi cũng chẳng thấy có cái nào, suy nghĩ quanh quất, may ra Hai Tuất có, vì anh nhớ Ba Du có lần qua bên đó sửa nhà, Nam chạy ra chỗ chiếc xuồng, nhảy lên bơi qua nhà Hai Tuất, cũng may sao cả hai vợ chồng ông ta hôm nay mùng năm không đi đâu. Thấy mới đầu năm mà Nam hỏi mượn cưa, Hai Tuất gật đầu nói:
    -Ừ, có chú Nam, đầu năm mà chú Nam bận rộn làm việc chi sớm vậy
    -Dạ, rãnh nên sửa chửa linh tinh vài thứ cho gọn ghẽ nhà cửa
    Hai Tuất còn cho mượn kềm, búa và mớ đinh, Nam cám ơn rồi xuống bờ hồ lên xuồng bơi về nhà.
    Đo đạc tính toán và hì hục gần hết buổi sáng, anh cũng đóng xong cái hộp gổ nhỏ có nắp đậy, tuy không được đẹp vì là thợ mộc tay ngang, nhưng có còn hơn không.
    Nhìn chai lọ lỉnh kỉnh và mấy cái nồi, chảo xếp đống dưới đất ở góc bếp, Nam nghĩ phải kiếm chỗ để mấy món này lên cho gọn ghẻ, nhớ đến mấy bụi tre sau vườn nhà Ba Du, anh vác rựa qua chặt những cây thẳng, đem về nhà, lấy rựa chẻ mỗi cây ra làm đôi, đóng lại thành hai cái kệ tre treo vào chỗ vách cũ, rồi dọn dẹp mấy chai lọ đựng mắm, muối, ớt, tiêu và nồi niêu, xoong chảo lên đó, Nam mỉm cười, nhìn cũng khá tươm tất.
    Sớm lắm cũng phải đầu giờ chiều Ba Du mới lên tới, nhìn trời cũng đã trưa, nên anh tìm coi có món nào ăn uống qua loa, khỏi nấu cơm trưa, Nam lấy cái gùi xuống, thấy còn lêkima hái ở vườn nhà Ngọc Minh, trái đu đủ nhỏ, đi ra cây mít phía sau nhà, hôm qua anh nghe mùi thơm của mít chín phảng phất theo gió bay vào gian bếp, hôm nay trái mít nứt toác lộ màu vàng bên trong, Nam cắt nó mang vào nhà, buổi trưa có ba, bốn thứ trái cây vậy cũng đủ no.
    Chiều Nam mang đồ nghề ra hồ câu cá, suy nghĩ về việc tối hôm qua bơi xuồng ra con đập, nhớ tới chuyện nâng hạ ba cái cánh cửa sắt của nó, mấy công nhân trực ở trạm thì có cái tay quay, còn người ngoài muốn tự làm việc này, thì cũng phải có dụng cụ tương tự. Anh nghĩ như vậy, chỉ còn cách là làm một cái tay quay khác, và chi tiết quan trọng là phần đầu trục phải khớp với trục thép lục giác của cuộn dây cáp, do đó làm sao phải có đựơc kích cỡ của nó, rồi về Saigon nhờ mấy ông thợ trong Chợ Lớn chế tạo lại.
    Đương nhiên không thể hỏi ai hay ban ngày tự tiện mà lên chỗ đó đo đạc chi tiết, vì quanh đó, lúc nào cũng có người trực, Nam suy nghĩ do đó lại phải làm vào ban đêm, nhưng đêm tối như vậy thì không nhìn thấy rỏ mọi vật, có cách nào khác để làm việc này?
    Anh ngồi nhìn ra mặt hồ suy nghĩ, thấy phao đang trôi bị chìm xuống, Nam giật mạnh, một chú cá mè tầm tầm ở đầu dây, gở bỏ nó lên bờ cỏ, anh móc mồi khác và thả xuống nước.
    Nhơ hồi xưa làm chìa mới cho ổ khóa, thường nếu không tiện cầm cái chìa cũ theo, người ta hay ấn mạnh nó lên miếng xà-bông cục lấy dấu rồi đưa cho thợ khóa làm. Bây giờ không có xà-bông, phải tìm vật gì để thay thế nó, ngồi vắt óc suy nghĩ, nhìn cỏ mọc trên bờ đất sét sát mép nước, trong đầu anh lóe lên một ý tưởng, có thể lấy đất sét dẻo thay xà-bông, vậy là có thể tạm giải quyết vấn đề đó được rồi.
    Ngồi câu gần cuối giờ chiều, thêm được vài con cá rô và chép, hai con chó đang chạy loanh quanh trong rẩy, chợt sủa vang lên, Nam đứng lên nhìn về phía con đường từ ngoài xã đi vào, Ba Du đang lội bộ với cái túi vải khoác trên vai, thấy anh đang câu ngoài bờ hồ, Ba Du đi thẳng ra đó, con Ki thấy ông chủ của nó về nên chạy cuống quít theo chân Ba Du, chưa ba giờ Nam thấy nó vui như vậy, con Đốm cũng nhận ra người quen nên lăng xăng chẳng kém.
    -Đi đường khỏe không anh Ba – Nam cười hỏi
    -Bửa nay gặp chiếc xe đò chạy hơi chậm, về đến ngã ba vô nông trường, ít xe ra vô nên chờ hơi lâu, mấy ngày Tết trên này khỏe không chú Nam, có vào buôn thăm Điểu Rút và Điểu Sơn chớ hả, gặp Ngọc Minh không?
    Anh cười gật đầu nói:
    -Có vào buôn chơi vài lần, anh Ba về ngang xã có gặp Năm Bình không, có tin tức không hay lắm từ tỉnh và xã dính dáng đến mình
    Ba Du cùng Nam ra ngồi bên bờ hồ, và lấy thuốc ra hút, nhíu mày hỏi anh:
    -Đi ngang qua quán nhưng không gặp Năm Bình, nên tui đi về trong này luôn, có tin gì không chú Nam?
    Anh thuật lại cho Ba Du nghe những tin tức về vụ tỉnh sắp cho phá rừng trồng thêm cao su, còn bên nông trường sẽ vào quản lý cái hồ này, bên xã Hai Tuất cũng biết chuyện này rồi. Nam kể lại chuyện hôm qua ra quán Năm Bình gặp tay cán bộ tên Sáu, tóc hoa râm, cao ốm có hé lộ các tin tức như vậy, anh hỏi Ba Du:
    -Anh Ba có biết tay cán bộ này không?
    -Biết, ông ta tên Sáu Cao, trưởng ban nông nghiệp xã, có thể ông ta biết nhiều nhưng còn giấu giếm …
    Ba Du mở cái túi vải, cho Nam ba bao thuốc lá, bịch đường, kẹo, mứt, anh hỏi:
    -Gia đình ở Saigon ăn Tết vui vẻ hả anh Ba, về nghỉ chút, tối nay mình lai rai nói chuyện mấy ngày Tết, tôi câu thêm chừng nửa tiếng rồi xách cá qua nhà
    Ba Du nghe anh nói ngồi gật gù, mắt nhìn ra ngoài hồ, rồi đứng lên nói:
    -Tui đi về nhà, rồi quay ra liền, hôm nay trời nóng, ra đây tắm hồ cho mát …
    Hai con chó chạy theo Ba Du khuất sau đám cây, Nam ngồi lại theo dõi cái phao, lát sau, Ba Du trở ra hỏi anh thêm tin tức trong buôn, anh rủ Ba Du ngày mai vào buôn chơi như hai người đàn S’tiêng nhắn nhủ, luôn cả chuyện vô tình anh tìm thấy hài cốt người lính khi ẩn núp trong hốc cây, tay phó chỉ huy công an xã và ba người đàn ông lạ đốn gổ lậu, Ba Du gật đầu đồng ý, nhưng tỏ ra suy nghỉ rồi nói:
    -Chút nửa qua nhà tui lai rai mình tính tiếp… bây giờ xuống hồ tắm cho mát mẻ, tỉnh táo cái đã
    Anh dời cần câu xích lên phía trên, rồi nhảy xuống làn nước mát lạnh, con Ki thì mạnh dạn, nó phóng xuống ngay theo Ba Du và bơi tới lui với vẻ thích thú. Sau chầu bơi dưới hồ, Nam gửi mấy con cá câu được cho Ba Du đem về trước, anh về nhà thay quần áo khô rồi theo lối mòn đi qua nhà bên đó.
    Ba Du nhanh chóng nấu nướng gần xong, trên cái phản tre dọn ra sẵn dĩa bánh tét đem từ Saigon lên, cá rô chiên giòn, bầu rượu, bỏ thêm mớ rau, ớt vào dĩa, Nam rót rượu vào hai cái ly, anh lắc nhẹ cái bầu, rượu bên trong gần cạn, Ba Du mời:
    -Uống chú Nam, mới mùng năm, vẩn còn Tết, thử bánh tét Gò Vấp xem có ngon không!
    Cạn ly rượu, Ba Du nhìn anh nói:
    -Sáng mai đi sớm, dừng lại nơi cái cây có hài cốt, lấy hết vô cái hộp gổ rồi mang vào buôn chôn, vì tui sợ sau này tụi nó phá rừng thì sẽ xóa mất dấu tích ngôi mộ, tội nghiệp người chết
    -Anh Ba tính đúng, nhưng còn Điểu Rút, Điểu Sơn và dân trong buôn có chịu không?
    -Tui sẽ nói với Điểu Rút, Điểu Sơn dù sao họ cũng từng là lính VNCH, chôn cất đồng đội là nhiệm vụ, là đạo đức …
    Nam lấy cái thẻ bài ra đưa cho Ba Du xem kỹ lưỡng và cất nó lên cái kệ gổ cao trên vách, anh nói:
    -Ngày mai vào rừng có thể sẽ gặp mấy tay đốn gổ lậu như hôm trước
    -Ừ, mai khi bắt đầu đi vô rừng, phải cẩn thận, tui sẽ đi phía trước, nếu có đụng với bọn họ mà không né tránh kịp, cứ đi bình thường như vào trao đổi mua bán với dân trong buôn, khi có ai hỏi, chú Nam để tôi trả lời, còn buổi chiều nếu về sớm, mình sẽ qua bên Hai Tuất coi bên đó có thêm tin tức gì không … nông trường mà quản lý cái hồ, tui với chú Nam cũng khó mà sống ở đây, viện cớ đó, đất đai họ sẽ lấy lại, thường như vậy họ sẽ chuyển người dân vô sâu bên trong, khó mà làm ăn gì được …
    Lần đầu tiên anh thấy Ba Du tỏ ra hơi căng thẳng, có lẻ đã nhìn thấy trước viển cảnh u ám của chuyện thay đổi sắp tới này.
    Anh gắp khoanh bánh tét ăn thử, đây là món Tết đầu tiên anh ăn kể từ ngày đầu năm, có lẻ vì vậy mà thấy nó rất ngon, Nam ăn thêm miếng nửa và nhớ lại mấy năm trước ăn tết ở nhà có nhiều người thân, bạn bè, tuy thế cũng chẳng vui và có gì nhiều so với những năm còn chiến tranh, mà còn nghèo nàn, thiếu thốn hơn, chỉ có vài món được mua từ hợp tác xã phường, nồi thịt kho nhỏ, mấy gói bánh, kẹo, mứt như Ba Du mới cho anh lúc chiều.
    Không khí chiều tối nay như khô cứng lại, Ba Du trầm ngâm ít nói hơn mọi khi lai rai với anh, tìm ý gợi chuyện với Ba Du về ngày Tết ở Saigon cho đỡ căng thẳng, Nam hỏi:
    -Anh Ba, Tết này ở dưới có đi thăm bạn bè, đồng đội cũ ngày xưa không?
    -Có chú Nam, qua quận 4, Nhà Bè thăm lại mấy thằng bạn cũ cùng tiểu đoàn, anh em gặp nhau lai rai nói chuyện đời lính, thấy vui, nhưng phần nhiều thấy bạn bè cũ sống khó khăn quá, nhất là mấy ông thương phế binh, sống lây lất làm đủ nghề …
    Thấy câu chuyện mang vẻ u buồn, Nam im lặng không hỏi tiếp, nhìn ra ngoài bóng tối bao trùm con đường xuống bờ hồ, niềm hy vọng còn lại của anh là hai thùng đồ cổ nằm nguyên vẹn dưới đó, thời gian cũng không còn nhiều để anh dò tìm, chỉ mong là thần may mắn đến trước khi quá trễ.
    Ba Du dốc rượu trong bình ra hai cái ly, rồi chậm rải uống, Nam cũng cạn ly, ăn thêm vài miếng bánh, mứt và nói trước khi ra về:
    -Sáng mai tôi sẽ qua sớm, anh Ba trên này khi nghe gọi dưới bờ hồ thì xuống nhé
    Ba Du im lặng gật đầu, anh ra kêu con Đốm đang nằm ở ngoài sân, rồi dẩn nó đi tắt ngang qua những luống khoai để về nhà cho nhanh.
    Sáng sớm trời còn mờ mờ, Nam cập chiếc xuồng vào gần nhà Ba Du và gọi lớn tiếng, vài phút sau Ba Du vai đeo cái gùi và con Ki đi ra, chờ Ba Du lên ngồi xong xuôi ở phía trước, anh bắt đầu hướng mủi xuồng bơi về phía trên. Vượt qua hơn nửa đoạn đường trên hồ, Ba Du tinh mắt kêu Nam và lấy tay chỉ về bốn, năm người đàn ông vác rựa đang đi phía bờ hồ bên kia, họ đi về hướng khu rừng già, anh thắc mắc:
    -Đâu phải dân trong mấy buôn hả anh Ba?
    Ba Du lắc đầu nói:
    -Không phải, nhìn giống mấy tay thợ đốn gổ trong rừng
    Nam vừa bơi, vừa chăm chú nhìn theo nhóm mấy tay thợ rừng từ từ mất hút dưới tàn lá rậm tối. Đến nơi giấu xuồng cũ, Ba Du và Nam cẩn thận quan sát xung quanh và nhanh nhẹn đẩy chiếc xuồng vào sâu bên trong bụi cây hơn mọi khi, Ba Du còn cẩn thận bẻ thêm vài nhánh cây để che cho kín đáo. Mấy ngày hôm nay vì tin tức từ tỉnh, huyện và xã làm chi phối, Nam cũng ít có thời gian nhớ đến Ngọc Minh.

    (còn tiếp)

  6. #12
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    Hai người nhanh chóng tiến vào dưới bóng rừng cây, anh và Ba Du giữ im lặng đi theo lối mòn cũ, được khoảng cây số, Nam nói với Ba Du đi chậm lại để anh tìm dấu vết của cái cây, vài phút sau ra hiệu cho Ba Du theo anh rẽ vào bên phải, đến gần chỗ bụi rậm và dây leo mọc kín gần thân cây cao. Nam và Ba Du lách người đến chỗ cái hốc, anh gạt nhẹ lớp đất bên trên, hài cốt còn nằm ở vị trí cũ, Ba Du ra dấu cho anh đưa cái hộp gổ, rồi nhẹ nhàng lượm tất cả bỏ vào bên trong và đậy nắp lại, đặt nó lại vào trong gùi.
    Cả hai nhanh chóng trở lại con đường đi vào buôn, khi qua một vài đoạn đường, từ trong sâu vọng ra tiếng cưa máy, chen lẩn tiếng rìu, rựa chặt hạ cây, Ba Du và Nam dừng lại vài giây nghe ngóng rồi lại đi tiếp.
    Vừa qua khỏi trảng cỏ, gặp hai người đàn ông S’tiêng từ xa đang đi đến, lát sau nhận ra hai anh em Điểu Sơn, Điểu Chắc mới đi thăm bẩy về, trong gùi có con nhím, gà rừng và thỏ, hai người đàn ông S’tiêng vui vẻ chào:
    -Ba Du mới lên hả, ăn Tết thành phố vui không?
    -Tui mới lên chiều hôm qua, ăn Tết ở nhà thì vui hơn, hai anh đi thăm bẩy sớm hả, Điểu Chắc lúc này khỏe không?
    -Cũng khỏe anh Ba, làm rẩy bái như mọi năm, lúc rảnh thì vô rừng đặt bẩy với Điểu Sơn
    Ba Du giới thiệu anh với Điểu Chắc:
    -Đây là chú Nam, hàng xóm của tui ngoài đó, ở Saigon lên làm rẩy
    Nam gật đầu chào người em của Điểu Sơn, hai anh em họ có vẻ bề ngoài khá giống nhau, Điểu Chắc có nét mặt vui vẻ, hồn hậu, cả bốn cùng nhau đi về buôn, Điểu Chắc cười nói:
    -Trưa nay Ba Du và chú em này ở lại uống rượu cần nhé, chưa hết Tết mà
    -Ừ, tụi tui ở lại buôn tới chiều mới về
    Trên đường đi về, câu chuyện giữa Ba Du và hai người đàn ông S’tiêng xoay quanh tin tức nóng hổi về việc sắp tới tỉnh phá rừng trồng cao su và nông trường sẽ quản lý cái hồ, gần về đến buôn, Ba Du nói với Điểu Sơn về hài cốt của người lính tìm được trong rừng, Điểu Sơn gật đầu nói:
    -Đem về chôn trong nghĩa địa nhỏ ở bên trong gần chân đồi, chôn ngoài rừng bây giờ không chắc sau này tìm được đâu
    Vào đến buôn, Điểu Chắc mang gùi đựng thú rừng bẩy được về nhà, Nam theo Điểu Sơn, Ba Du đến nhà Điểu Rút, mọi người bước lên sàn. Nghe có người gọi, Điểu Rút từ gian trong đi ra, Ngọc Minh đoán hôm nay Nam sẽ vào nên cô cũng ra chào, nhìn anh cười rất tươi tắn, Ba Du bỏ cái gùi ra, đưa hai gói quà Tết cho hai người đàn ông S’tiêng:
    -Có chút bánh mứt ở Saigon biếu cho Điểu Rút, Điểu Sơn và gia đình
    Họ vui vẻ cám ơn, Ba Du kêu Nam đưa cái hộp gổ, hai người đàn ông S’tiêng chưa biết chuyện gì, nên có vẻ thắc mắc, Ba Du nhìn Điểu Rút nói:
    - Trong này là hài cốt của một người lính VNCH chú Nam tìm được trong rừng, vẩn còn thẻ bài, lúc đầu tính chôn trong đó, nhưng thấy chôn ở đây thì giữ được mộ, về sau này biết đâu may mắn tìm ra thân nhân cho anh
    Điểu Rút gật đầu, đưa hai tay đỡ cái hộp gổ từ tay Ba Du và nói:
    -Tui nói với già làng sau, bây giờ chuẩn bị đi ra nghĩa địa luôn, Ngọc Minh vô lấy cho cậu bó nhang và cuốc xẻng
    Cô vào bên trong lấy bó nhang nhỏ đưa Nam và cây cuốc làm vườn, Điểu Rút, Điểu Sơn dẩn Ba Du và Nam theo con đường đi ngang qua vườn cây nhà Ngọc Minh, rồi qua con suối đi thẳng đến miếng đất nhỏ lác đác đá cuội, anh thấy ở đó có vài ngôi mộ được đắp cao lên bằng các hòn đá, hai người đàn ông S’tiêng cho biết những ngôi mộ kia cũng là của những người lính VNCH chết gần quanh buôn và trong rừng, được người dân đưa về chôn ở đây.
    Điểu Sơn chọn chỗ đất bằng phẳng rồi lấy cuốc đào sâu xuống, vị trí này gần chân đồi nên cao ráo, yên tĩnh, khi thấy đã đủ sâu, Điểu Rút và Ba Du cẩn thận bỏ cái hộp gổ xuống lòng đất, cả bốn người đàn ông rải những nắm đất nhỏ xuống để tiễn biệt người chết, Nam phụ Điểu Sơn lấp đất và lấy các hòn đá, cuội xếp lên thành ngôi mộ gọn ghẽ.
    Ba Du và hai người đàn ông S’tiêng đứng thẳng người, nghiêm trang đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh, Nam cũng thấy xúc động, bất giác anh cũng đưa tay lên chào như ba người cựu chiến binh biệt động quân, mỗi người cắm lên ngôi mộ vài nén nhang, Nam thầm nghĩ, từ đây anh sẽ ấm áp phần nào khi nằm yên nghỉ bên những người đồng đội cũ và buôn làng hiền hòa này.
    Điểu Rút nói với Điểu Sơn:
    -Lúc nào rảnh, kiếm miếng gổ tốt khắc tên để làm bia mộ nhé
    Điều Sơn dẩn Ba Du và Điểu Rút về nhà, Nam rẽ vào nói chuyện với Ngọc Minh, sáng nay cô ở nhà một mình, bà mợ đi công việc qua làng kế bên, anh mang cây cuốc bỏ vào góc nhà, Ngọc Minh nhìn anh hỏi:
    -Chú Ba Du có biết hết tin tức của mấy xã chưa anh Nam?
    Anh gật đầu nhìn cô:
    -Tôi có nói cho anh Ba nghe rồi, mọi người trong buôn này chắc lo lắng nhiều hả Ngọc Minh?
    -Ừ, lo lắng vì sợ buôn phải dời đi nơi khác, mà phá hết rừng thì cũng không còn nơi để dân làng vô săn bắn hay đặt bẩy, đào củ lúc mất mùa, còn Ngọc Minh nghe nói chỗ đất anh Nam và chú Ba có thể bị xã thu hồi đúng vậy không?
    Nam gật đầu nói với cô:
    -Nếu xã quản lý cái hồ, thì họ có lý do để lấy lại đất đai của người dân đang sống xung quanh đó
    -Nếu vậy anh và chú Ba đi đâu, về lại thành phố hay sao?
    Anh thấy tội nghiệp Ngọc Minh vì cô tỏ ra lo lắng anh, Nam suy nghĩ, không tự nhiên mà một người con gái lo lắng cho mình, chắc cũng đã đến lúc anh phải nói thật cho cô biết về tình yêu lâu nay trong trái tim của mình, Nam nhè nhẹ gật đầu nói:
    -Có thể, vì đâu biết đi đâu nửa … ừ, thôi mình ra suối ngồi chơi chút đi Ngọc Minh
    Ngọc Minh hơi bất ngờ với lời đề nghị của Nam, nhưng cô gật đầu và hai người đi ra suối. Nắng chiếu nhẹ nhàng lên mái tóc đen tuyền của cô làm tỏa mùi hương lạ như cây cỏ núi rừng trong ánh ban mai, dòng nước trong veo từ dảy đồi cao chảy róc rách qua lớp đá cuội nghe êm tai.
    Ngọc Minh thích ngồi dưới tàng lá của bụi tre xanh, hôm nay cô thấy Nam tự nhiên đến ngồi gần kế bên chứ không ngồi ở tảng đá khác, làm cô hơi đỏ mặt cúi xuống, mấy ngón tay xoay tròn cái lá, Nam nhìn cô rồi chợt hỏi:
    -Nếu sau này anh về Saigon, Ngọc Minh có thích về sống với anh ở dưới đó không?
    Ngọc Minh e thẹn và như muốn dấu khuôn mặt sau vai anh, Nam hơi mỉm cười hỏi tiếp:
    -Ngọc Minh đi cùng anh về dưới thành phố không?
    Lần này cô gật đầu và nhìn Nam mỉm cười, anh nhẹ nhàng cầm bàn tay cô rồi nói:
    -Vậy là Ngọc Minh hứa với anh rồi đó, mai mốt không được ăn gian nhé
    Rồi chờ một lát sau cho cô bình tỉnh lại, anh hỏi thêm:
    -Còn gia đình cậu Điểu Rút có đồng ý không?
    -Có chứ anh Nam, gia đình cậu và chú Điểu Sơn cũng thích anh lắm đó
    -Tình hình sắp tới có thể họ chỉ phá rừng để trồng thêm cao su, còn buôn không phải dời đi chỗ khác, nhưng anh nghĩ xã sẽ vào quản lý cái hồ nước, sẵn lý do đó, đất đai xung quanh cũng sẽ bị họ thu hồi để mở rộng nông trường cao su
    Ngọc Minh lộ vẻ buồn khi nghe anh nói, cô hỏi:
    -Anh Nam chịu vô ở trong buôn không?
    -Ơ… không, vì anh ở thành phố quen rồi, trong buôn thì không quen lắm, xa thành phố Saigon
    Bị hỏi bất ngờ suýt nửa thì Nam thố lộ với cô về mục đích làm nông dân ở đây, anh mỉm cười nhìn Ngọc Minh nói tiếp:
    -Về Saigon dù sao thì có nhiều thuận lợi về sau, ở dưới cũng có nhiều việc làm hơn, Ngọc Minh đừng quá lo, đi làm cô giáo dạy học như trên này cũng được
    Biết Nam chọc mình, cô mỉm cười và cũng thấy yên tâm, vì từ lúc còn chiến tranh, cô sinh ra và lớn lên với gia đình ở thị xã An Lộc, sau đó khi chiến tranh chấm dứt, cô về buôn này ở đến bây giờ, chưa bao giờ cô ra sống ở một thành phố lớn, nhưng về Saigon đã có Nam, Ngọc Minh thấy vững tin hơn.
    -Mình vào hái trái cây đi, trưa về nhà ăn – Nam cười đề nghị
    Cô mỉm cười gật đầu đồng ý, anh cầm tay Ngọc Minh đi theo con đường rẻ về vườn cây, không khí thanh vắng bao trùm lên hàng cây lá xum xuê, tiếng những con chim rừng dạn dĩ kêu vang khắp nơi, Ngọc Minh chỉ tay về một chú chim có màu lông đen trắng đang bay nhảy trên cành cao, tiếng hót của nó nghe rất hay nói:
    -Đố anh Nam con chim đó tên gì?
    -Không biết, tên nó là gì vậy Ngọc Minh – anh đoán đó là con chào mào nhưng giả lơ
    Cô vừa nhìn theo con chim vừa trả lời:
    -Chim chào mào đó anh Nam, Ngọc Minh rất thích nghe nó hót
    Đến bên dưới bóng cây mít ở giữa vườn, tiếng mấy con chim cu gáy kêu từ đâu đó nghe thật xa vắng, những con chim này đã lìa bỏ cánh rừng sâu về làm tổ trên các cành cây cao trong vườn cây quanh buôn, Nam cười nhìn cô hỏi đùa:
    -Gà rừng gáy phải không Ngọc Minh?
    -Ý, đâu phải, anh Nam biết rồi mà còn làm bộ, chim cu rừng đó, nó giống gà rừng là làm rô-ti thì rất ngon …
    -Ừ, vậy hả - anh giả bộ cười ngạc nhiên
    Thấy vậy cô cũng cười, nổi buồn ngoài bờ suối lúc nảy cũng biến mất. Xách hai trái mít chín đem về nhà Điểu Rút, nhìn trời đã trưa nên Nam đi luôn qua nhà Điểu Sơn, Ngọc Minh theo đưa anh đến đó rồi quay về.
    Anh bước lên nhà, bốn người đàn ông ngồi quanh choé rượu cần với món nhím xào lăng, thỏ rừng nướng, mấy món này chắc có bàn tay tài hoa của Ba Du tham gia. Nam đến ngồi gần Điểu Chắc và Ba Du, có vẻ mọi người cũng đang bàn luận về các tin tức đang được đồn đãi và bàn tán khắp nơi, Điểu Chắc cắm thêm cái cần trúc khác vào trong chóe cho anh, Điểu Sơn tiếp tục nói về chuyện mấy người lạ đốn gổ trong rừng:
    -Dân trong buôn vô rừng thì gặp mấy người lạ mặt này, họ chọn cây to chặt hạ xuống, sau đó máy cày hay trâu vô kéo ra đường, mấy tháng trước đây thì trong rừng yên lắm, lâu lâu mới có người dám đốn gổ lậu tuốt trong sâu
    -Chỗ đó giáp ranh ba xã, đâu ai biết là dân xã nào hay người ở ngoài vô đây … - Điểu Chắc nói
    -Nhưng phải có kiểm lâm hay công an cho phép hay thuê mướn thì họ mới dám làm, nếu không tụi nó sách súng vô bắt liền, đâu để cho đốn gần cả tuần nay rồi – Điểu Rút giải thích
    Điểu Sơn vít cái cần xuống uống và gắp miếng nhím xào lăng rồi khen:
    -Ba Du làm món này rất ngon, làm tui nhớ hồi lúc đóng đồn, lâu lâu anh em đi kích, tình cờ hạ được con mễn, mang về Ba Du lúc đó cũng làm hai, ba món nhưng không có rượu, tiếc hết sức
    Mọi người đều cười khi nghe Điểu Sơn kể chuyện xưa, Nam thử thỏ nướng thấy thịt thơm và chắc, Ba Du đang hút thuốc, nhớ lại mấy kỹ niệm cũ trong biệt động quân nên kể thêm:
    -Mấy anh chắc còn nhớ ông San đen, hôm Tết tui có qua quận 4 thăm ổng, bị cụt chân nhưng bây giờ hàng ngày vẩn ra chợ phụ vợ bán hàng rong, nhớ lúc đi gác căn cứ có ổng là hay kể chuyện ma rừng, mấy thằng lính trẻ mới về nghe kể cứ tưởng là có thiệt, còn mấy ông kia cứ ngồi cười hoài, ổng có tài thiện xạ, gặp thú rừng là lấy M-16 bắn phát đầu trúng liền, lại khoái uống rượu với thịt rừng.
    Ba người đồng đội cũ nghe Ba Du kể lại chuyện ngày xưa, ngồi gật gù cười, Điểu Sơn nhớ lại:
    -Lúc đi hành quân với đại đội bên ngoài, ổng đạp trúng mìn gài bên đường, phải đưa lên trực thăng chuyển về bịnh viện tiểu khu, bác sĩ cắt bỏ cái chân mới còn sống
    -Lúc đó đang đóng quân ở đâu anh Ba – Nam hỏi
    -Đang ở căn cứ Tống Lê Chân, thời gian đó căn cứ chưa bị bao vây, các đại đội luân phiên ra hành quân bên ngoài quanh vùng để theo dõi tình hình hoạt động của địch quân, ờ … hôm nay tui và chú Nam về sớm để chiều ghé qua nhà Hai Tuất thăm gia đình ảnh chúc Tết
    Ăn uống xong, mặt trời cũng bắt đầu ngả về phía tây, Điểu Rút nói:
    -Ba Du chờ tui về nhà chút rồi qua lại
    Điểu Chắc vào nhà trong và cầm bầu rượu nâu bóng đem ra đưa Ba Du:
    -Rượu ở nhà ngâm cây thuốc, anh Ba và chú Nam uống vô sẽ thấy khỏe, ngủ ngon
    -Cám ơn nhiều nghe, hai bầu rượu trước uống rất ngon – Ba Du nói và bỏ nó vào gùi
    Lát sau Điểu Rút cầm bầu rượu bước lên sàn, Nam nhìn xuống thấy Ngọc Minh đi theo nhưng đứng ở dưới, anh đi xuống các bậc thang gổ, cô đưa anh trái mít:
    -Ngọc Minh lựa trái này chín tới rồi, về nhà là ăn được liền
    -Ừ, cám ơn Ngọc Minh, chắc phải tuần sau anh mới vào thăm lại, về ngoài đó để xem tình hình ra sau, đừng đi xa khỏi buôn một mình nhé, bây giờ có nhiều người lạ vào trong này lắm
    Sực nhớ còn việc quan trọng, anh nói tiếp:
    -À, Ngọc Minh tìm cho anh một cục sáp gần bằng nửa nắm tay được không, hôm nào rảnh anh sẽ vào lấy?
    Cô có vẻ thắc mắc, nhưng nhìn Nam gật đầu và quay về nhà, hôm nay có Ba Du nên Ngọc Minh không đưa anh ra đến đầu buôn, anh quay lên, Ba Du đang cám ơn Điểu Rút vì bầu rượu thuốc cũng được ngâm với các loại cây lá quí trong rừng và đứng dậy chào tất cả ra về.
    Đeo cái gùi lên vai, anh xuống thang và cùng ba người đàn ông đang tiếp tục vừa đi, vừa nói chuyện, ra gần đến đầu buôn, gặp tay công an viên đeo sắc cốt và súng ngắn của xã đi tới, hắn ta nhìn Ba Du và Nam khi hai bên lướt qua nhau, hai người S’tiêng và hắn cùng gật đầu như chào nhau. Khi ra tận đầu buôn, Ba Du và anh chào và cám ơn thêm lần nửa, hai người đàn ông S’tiêng đưa tay vẩy chào lại và quay bước trở vào buôn.
    Nhìn ráng chiều màu vàng thẩm nằm giăng mắc ở góc trời tây, Nam và Ba Du dồn bước vượt qua khoảng đường rừng còn dài để ra bờ hồ, vì còn có ý định sang nhà Hai Tuất thăm Tết.
    Vượt qua con suối cuối, ranh giới của khu rừng già, Ba Du vẩn nhanh nhẹn đi đầu, Nam im lặng theo sau, anh cố lắng tai nghe những âm thanh của cưa máy, rìu đốn gổ, nhưng chiều nay dưới tàn lá rậm rạp chỉ có tiếng chim chóc gọi đàn trên cành cao.
    Đi hết con đường mòn ngoằn ngoèo, anh và Ba Du ra khỏi khu rừng già âm u, nhìn trời vẩn còn sáng, Nam hy vọng khi về đến gần ngoài đến đó, vẩn còn đủ thời gian sang nhà Hai Tuất.
    Lôi con thuyền giấu kỹ dưới bụi cây ra bờ hồ, hai người đàn ông bơi về phía hạ nguồn, tiếng sóng nước vổ nhẹ đều đều vào lườn gổ, mới đi được khoảng một phần ba quảng đường trên hồ, bầu trời chợt tối sầm lại, những đám mây màu đen cuồn cuộn từ góc tây – bắc kéo về vùng rừng núi quanh hồ. Ba Du ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đang sáng sủa bổng tối đen như mực, những cơn gió giật bắt đầu thổi ào ạt qua rừng cây ven bờ làm phát những tiếng reo hú và tiếng cây vặn mình kêu răng rắc đầy vẻ đe dọa, Ba Du có vẻ đã có kinh nghiệm về những cơn giông nhiệt bất chợt này và thừa biết sự nguy hiểm của nó khi còn đi trên hồ, nên nói lớn:
    -Cố gắng bơi nhanh vào gần bờ để tránh cơn giông chú Nam
    Nhưng chiếc xuống không kịp với tốc độ của những cơn gió cuốn nhanh ào ạt như vó ngựa, cơn dông quét qua mặt hồ với sức mạnh kinh khiếp, những hạt mưa dử dội cũng quật xuống chiếc xuồng đang dập dềnh trên những cơn sóng cuồn cuộn làm cho Nam sợ kinh hồn. Phía trước mủi, Ba Du vẩn bình tỉnh chèo mạnh hướng chiếc xuồng vào bờ, khuôn mặt hơi lầm lì dưới bóng tối của vành nón vải, dùng mái chèo đảo mạnh chiếc xuồng để đổi vị trí, Nam ra phía mủi, Ba Du ra sau lái, cả hai cúi mọp người ra sức bơi vào trong bờ, mặt hồ vẩn dậy sóng đùng đùng, trong bóng tối mịt mù, nhìn những cơn sóng dữ dội vây bủa khắp nơi làm Nam nghỉ mình và Ba Du đang bị lạc vào cơn bão trên biển, Nam nghĩ thầm trong đầu:
    -Ông bà xưa nói đúng, vàng gió, đỏ mưa
    Anh vừa bơi, vừa phải nhanh tay tát nước trong lòng xuồng, vào được gần bờ, Ba Du ra hiệu bơi luôn về nhà, cả hai tung hết sức ra bơi cật lực.
    Sau gần nửa tiếng vất vả với gió giật, mưa to, chiếc xuồng cập sát bến cũ, Nam lấy dây cột thật chặt vào bụi cây bên hồ, rồi xách gùi chạy về nhà Ba Du.
    Con Ki nhìn thấy chủ nó và anh vào nhà với áo quần ướt đẫm nước, nó lăng xăng đi tới lui đưa cái mủi ngửi cái quần đang nhỏ từng giọt nước xuống nền đất. Ba Du lấy quần áo của mình ra thảy cho Nam:
    -Chú Nam thay đồ khô, coi chừng cảm lạnh
    Còn Ba Du nhanh tay đốt đống lửa to trong bếp, ánh sáng và hơi nóng làm không khí căn nhà dể chịu, Nam đến góc nhà lấy vài củ khoai lang to bỏ vào đống than hồng, Ba Du lấy cái nồi đổ vào chút gạo, bắp, đậu xanh và đặt lên bếp rồi nói:
    -Chú Nam tối nay ở lại đây ăn cơm tối luôn
    Bỏ hai cái bầu rượu trong gùi ra phản, Ba Du tới cái kệ gổ lấy hai cai ly, rót rượu vào rồi đưa cho anh:
    -Uống một ly cho nóng người chú Nam
    Cơn lạnh thấu xương nảy giờ làm anh ngồi co ro, uống nửa ly rượu thuốc vào, máu trong các mạch chảy mạnh, cảm giác nóng, ấm áp dể chịu lan ra khắp người.
    Ngoài trời côn dông đã lắng xuống, những giọt mưa vẩn rơi tí tách rơi xuống từ mái tranh, bóng đêm đến nhanh hơn mọi khi. Mùi khoai nướng bay lên thơm lừng, anh lấy cây khều ra khỏi than cháy đỏ, đang đói và lạnh ăn khoai nóng thì tuyệt cú mèo. Ba Du đến gần vách bếp lấy xuống con cá khô đưa cho anh bỏ lên nướng, mấy lúc câu được nhiều cá ăn không hết, Ba Du mổ ra, tẩm ướp rồi phơi khô làm món dự trữ.
    Buổi cơm tối đạm bạc nhưng rất ngon miệng vì cơn lạnh và đói, thêm vài ly rượu thuốc làm ấm bụng, Ba Du nhìn anh cười nói:
    -Cơn dông hồi chiều ít khi xảy ra, thường là thời gian giao mùa do không khí nóng và lạnh gặp nhau ở vùng rừng núi tạo nên lốc xoáy, mỗi năm chừng vài lần
    Nam gật đầu, nhưng nhớ lại lúc chiếc thuyền bị gió lớn, sóng cuộn lên làm chao đảo, kinh hồn, nhớ Hai Tuất hẹn qua nhà chơi nên hỏi:
    -Sáng mai qua thăm anh Hai Tuất chứ hả anh Ba?
    -Ừ, chú Nam ở bên đó, nghe tui kêu thì ra bờ hồ rồi cùng đi
    Ăn xong, anh và Ba Du ngồi hút thuốc lá nhìn mông lung ra bên ngoài, lúc sáng Nam dự tính tối khuya hôm nay lại lấy xuống của Ba Du bơi ra gần con đập để quan sát, dò la việc canh gác vào ban đêm ở đó, nhìn làn mưa vẩn còn lất phất bên ngoài, thêm ướt lạnh vì cơn dông trên hồ, không biết có đủ sức thức chờ đến giữa đêm hay không.
    Thấy cơn mưa còn kéo dài dai dẳng, anh mượn tấm ni-lông cũ làm áo che mưa và cái đèn pin tự chế của Ba Du rồi cầm bộ quần áo ướt đi về.
    Bây giờ đã quen đường, quen lối, Nam nhắm hướng đi tắt qua rẩy khoai lang cho nhanh, cơn mưa lớn lúc chiều tối làm cho đất đai lâu nay khô ráo, trở nên xốp, mềm dưới các bước chân, đi ngang qua mấy bụi rậm bên ngoài rìa khu rừng chồi, cây lá vẩn còn nghiêng ngửa vì gió lốc của cơn dông, bổng có tiếng sột soạt như có một con vật to lớn đang bỏ chạy trong đó, Nam chiếu ánh sánh mơ mờ của cái đèn về hướng đó, chỉ thấy tàn lá bên trên rung rinh theo hướng chuyển động của con vật vào sâu bên trong, và sau đó mọi thứ lại yên lặng dưới làn mưa bay lất phất.
    Nam đi nhanh về nhà, con Đốm thấy anh về mừng cuống quít, lấy quẹt thắp ngọn đèn dầu trên kệ cho sáng, anh chất vài thanh củi vào bếp lò đốt thêm cho đỡ lạnh lẻo, thấy nhà cửa vẩn còn nguyên vẹn sau cơn dông, anh cho con Đốm miếng cá khô và khoai nướng từ nhà Ba Du, nó ăn ngon lành, chắc đang đói lắm.
    Gác cây sào tre lên cao trên cái bếp, rồi phơi cái nón và bộ quần áo ẩm ướt lên đó, trái mít của Ngọc Minh cho còn trong gùi, mùi thơm của nó tỏa ra khắp căn nhà nhỏ.
    Anh khép cửa lại, trời cũng đã khuya, đi ngủ sớm một chút, gần khuya thức dậy nếu hết mưa sẽ lấy xuồng bơi ra đập.
    Tuy mệt mỏi, nhưng Nam chỉ nằm ngủ lơ mơ, ngọn lửa vẩn cháy âm ỉ trong bếp, anh lắng nghe bên ngoài tiếng gió thổi nhẹ luồn qua mái tranh, đêm nay không gian bên ngoài im ắng quá, không có tiếng của những con chim cú hay săn mồi về đêm và hay kêu trong những đêm tịch mịch, có thể cơn dông lớn buổi chiều làm cho cuộc sống hằng ngày của các con vật này bị xáo trộn, thay đổi …
    Anh thức dậy, mở hé cửa sổ nhìn ra bên ngoài, cơn mưa đã tạnh, chỉ còn những cơn gió nhẹ mang hơi lạnh thổi qua, không biết mấy giờ, Nam đóan cũng gần nửa đêm, anh mở cửa lách người đi ra theo lối tắt đến nơi cột xuồng, giờ này chắc Ba Du ngủ rồi, nhưng cũng phải cẩn thận.
    Tháo dây chiếc xuồng xong, Nam ngồi lên từ từ bơi ra ngoài xa và về phía con đập, lúc này nguy hiểm nhất là chạm trán du kích đi tuần, nên anh chèo nhẹ nhàng và không bơi gần bờ. Khi mắt đã quen với màn đêm, anh và chiếc xuồng bơi một đoạn đường dài trong không gian im vắng, và bóng cây me tây hiện ra mờ mờ, Nam cẩn thận bơi chậm, cành lá của nó vẩn vươn ra phủ kín một góc, căn nhà nhỏ nằm kế bên gốc cây và trạm gác tối thui không ánh đèn, anh cột dây vào một cái rể to chìa ra bên ngoài, hai cái xuồng nhỏ nằm sát bên nhau. Nam nắm ép mình xuống để khỏi bị nhìn thấy, vài tiếng chó sủa từ những căn nhà nằm dọc con đường bên trong, anh đưa mắt cố nhìn qua bóng tối, có thể du kích và công an sắp đi tuần qua, nhưng trên đường vẩn im lặng như tờ.
    Nằm quan sát thêm một lúc nữa, thấy trạm gác vẩn tối thui và im lặng, không một tiếng động trong màn đêm âm u, tay công nhân trực chắc đang ngủ say như chết. Anh tháo dây và bắt đầu bơi về, cẩn thận như lúc đi, Nam cho xuồng tách xa khỏi bờ và bơi nhẹ nhàng đề phòng gặp du kích và công an đi tuần. Tối nay đã mệt mỏi vì đi bộ vào buôn và gặp cơn dông, nên Nam thấy bắt đầu đuối sức, anh cố bơi mà không tiến lên được bao nhiêu, muốn tấp vào bờ nghỉ một chút, nhưng sợ nên ra sức bơi tiếp, đường về đêm nay quá dài, kiệt sức và thêm cơn buồn ngủ rình rập, nhiều lúc Nam bơi một cách vô thức, chiếc xuồng xiên xẹo âm thầm tiến về phía thượng lưu, cuối cùng sự lì lợm cùng với kiên trì của anh đã đưa chiếc xuồng về bến cũ. Vừa cột dây vào bụi cây, con Ki từ đâu xuất hiện, nó chạy đến bên anh ngoắc đuôi, may mà nó không sủa, anh vuốt đầu nó rồi lội bộ nhanh về nhà, con Ki đi theo phía sau.
    Đẩy cửa vào nhà, Nam nằm lăn lên chiếc phản và chìm ngay vào giấc ngủ sâu, con Đốm đang nằm ở góc nhà thấy con Ki xuất hiện giữa đêm khuya, nó chạy đến ngoắc đuôi và đánh hơi chào hỏi.
    Mặt trời lên cao và sáng rực rở, Nam giật mình tỉnh giấc, nhìn xung quanh cửa nẻo vẩn đóng kín, không thấy con Đốm đâu. Nhìn lên đầu hồi mái nhà, bây giờ anh mới thấy cơn dông mạnh chiều qua thổi tốc hàng tranh gần đỉnh mái, làm lộ ra bầu trời bên trên.
    Bụng đói cồn cào, anh lấy trái mít xẻ ra ăn, múi nó giòn, thơm và rất ngọt, chất đường làm Nam thấy tươi tỉnh. Có tiếng Ba Du gọi ngoài bờ hồ, anh ra phía sau khoác nước lên rửa mặt cho tỉnh táo, cầm theo một góc trái mít, Nam khép của nhà rồi theo con đường đi xuống bến, vừa đi, vừa ăn, ngạc nhiên vì ít khi thấy Nam vội vã như vậy, Ba Du cười hỏi:
    -Chú Nam chưa ăn sáng hả?
    -Sáng nay dậy trể nên chưa ăn
    Rồi lên xuống cùng bơi qua bên kia hồ, Ba Du nhìn anh có vẻ thắc mắc nói:
    - Sáng nay dậy sớm, tui không thấy con Ki ở trong nhà, tối hôm qua giữa khuya hình như nó chạy ra bờ hồ không biết có chuyện gì, rồi không thấy về, mà cũng không thấy nó sủa …
    Nam súyt bật cười khi nghe nói, nhưng anh tảng lờ như không biết:
    -Vậy hả anh Ba, tối hôm qua về mệt quá tôi ngủ đến tận sáng, nên cũng không nghe tiếng sủa nào, chiều hôm qua mái nhà bị dông gió làm bay mất một số tranh, hôm nay nhờ anh Ba sửa lại giùm
    -Ừ, chút nửa về tui sửa nó lại cho chú Nam
    Cập chiếc xuồng vào gần xuống của chủ nhà ở gần đó, hai người lên nhà Hai Tuất, ba bốn con chó chạy ra sủa ồn ào, Hai Tuất chân bước khập khiễng ra đứng đón dưới hàng cây lêkima, chờ Ba Du và anh đến gần, ông ta vui vẻ nói:
    -Hai vị khách quí chờ gần hết Tết rồi mới qua thăm
    -Xin lỗi anh Hai, tui cũng mới lên ngày mùng năm, hôm qua sáng vô trong buôn, tính chiều về sớm qua thăm anh, nhưng bị cơn dông quá lớn nên sáng nay mới qua đây, xin tạ lỗi
    -À, tôi nói cho vui thôi mà, có chi đâu mà phải tạ lỗi anh Ba, hôm nay lai rai tới trưa mới về nhé
    Còn khá sớm nên Hai Tuất mời Ba Du và Nam vào nhà uống trà, Hai Tuất nhìn Ba Du hỏi:
    -Chiều qua lúc cơn dông tới chắc còn đang kẹt trên hồ hả?
    -Ừ, tui với chú Nam cố bơi về nhà, lâu lắm mới có cơn dông lớn và dử dội như vậy, bên anh có bị tốc mái bay tranh không?
    -À không, lần rồi sửa lại chắc chắn nên không sao, ừ, vào trong buôn chắc cũng nghe nói vụ tỉnh cho phá rừng và nông trường quản lý cái hồ chứ hả Ba Du?
    -Trong đó Điểu Sơn, Điểu Rút cũng đã biết rồi, dân trong đó rất lo buôn phải di dời đi nơi khác … khó sống hơn chỗ hiện nay – Ba Du trả lời
    Hai Tuất nghe xong gật gù, khuôn mặt không dấu được vẻ âu lo, nhìn Ba Du và Nam nói:
    -Tôi cũng đang sợ là nếu xã quản lý hồ nước, họ sẽ thu hồi đất đai của dân sống quanh hồ …
    -Ở bên này Hai Tuất có nghe vụ người lạ vô đốn cây trong rừng không, sáng hôm qua vô đó, tui với chú Nam nghe tiếng cưa máy, trong buôn cũng biết mấy vụ đốn gổ lậu này …
    -Dân bên làng này vào rừng kiếm mật ong, đặt bẩy thấy nhiều người lạ làm vụ này lắm, nhưng tôi chắc là có móc ngoặc với bên kiểm lâm, hoặc công an xã, huyện chứ họ không làm một mình đâu
    Nam trả lại mấy món búa, kềm … mà Hai Tuất cho anh mượn lần trước, bà xã Hai Tuất từ bên trong gian bếp đi lên, cười hỏi một tràng dài:
    -Về nhà ăn Tết với gia đình mới lên hả anh Ba, ở dưới vui không, gia đình vẩn khỏe chứ hả, nấu nướng xong rồi đây, chuẩn bị dọn lên nghe, hôm nay có anh Ba và chú Nam qua nên tôi làm món cá hấp đãi một bửa, mình uống cho đã Tết này, chưa biết năm tới có còn ở đây không!
    Ba người đàn ông nghe xong ai cũng cười, Nam và Ba Du xuống bếp phụ dọn các món lên bàn, Hai Tuất mang hai chai rượu đế trong veo ra để kế bên. Anh nhìn con cá chép to hấp để đấy cái dĩa, hai cái dĩa rau xanh ngồn ngộn, rồi khế và chuối thái mỏng, những lát ớt đỏ rực trong tô nước mắm pha với chanh, tỏi, bà xã Hai Tuất đúng là đầu bếp có tay nghề giỏi.
    Món cá chép hấp sả gừng cuốn với rau sống quá tuyệt, đã lâu rồi Nam mới được thưởng thức nó. Hai Tuất để cho Ba Du và Nam thay nhau rót rượu, chỉ tay vào rượu đế trong chai nói:
    -Rượu này mấy người quen trong làng nấu, chia lại vài lít để Tết lai rai với bà con, bạn bè, nó uống đằm, không bị nhức đầu
    -Tình hình vậy có tính gì không anh Hai? – Ba Du hỏi
    -Cũng chưa biết đi đâu, cũng có thể về Saigon kiếm nghề gì đó để làm vì có nhà bà ngọai mấy nhỏ ở dưới đó, cũng có thể ở lại tiếp tục làm rẩy … Ba Du với chú Nam chắc về lại thành phố hả, chứ trên này cứ vài ba năm, mấy ống lại bắt di dời ra vô hoài, sao sống nổi …
    Nam và Ba Du nghe nói gật gù, Ba Du chậm rải nói:
    -Không biết đi đâu thì cuối cùng cũng về lại Saigon kiếm sống thôi …
    -Dân Saigon đi kinh tế mới lên đây mấy năm trước bây giờ đi tứ tán gần hết, đa số là quay về thành phố, một số xin vào làm công nhân trong nông trường cao su
    -Tôi thấy dân đi kinh tế mới về Saigon làm đủ thứ nghề, khuân vác hàng ở bến xe, ngoài chợ, bán hàng rong, rồi ăn xin, tội nghiệp lắm, có người xấu thì đi ăn trộm, ăn cướp … - Nam nói
    Im lặng một lát, Hai Tuất nhìn anh hỏi:
    -Chú Nam không đi vượt biên hả, còn trẻ mà kẹt lại ở Việt Nam thì chắc sau này chẳng có tương lai đâu
    Bà xã Hai Tuất xong công việc bếp núc, ra ngồi trên tấm phản nhìn ba người đàn ông góp chuyện:
    -Bộ ông tưởng vượt biên dể dàng hả, vàng không có cây nào thì ai cho đi, chưa kể là đi không lọt còn bị công an bắt giam, học tập, cải tạo, rồi ra được ngoài biển thì còn cướp biển, mưa bão … nữa, ai may mắn thì mới sống sót tới được trại tỵ nạn
    -Ừ, thì tôi có nói gì đâu, chỉ hỏi chú Nam cho biết thôi – Hai Tuất cười nhìn vợ
    Ba Du và Nam cũng mỉm cười vì sự lanh lợi của bà xã Hai Tuất, Ba Du bổng khen:
    -Chị Hai làm món này ngon quá, mai mốt về Saigon mở quán ăn sống được rồi
    -Mấy ông này có cho mở tiệm, mở quán buôn bán gì đâu, bây giờ còn ngăn sông, cấm chợ thì biết khi nào dân mới hết đói khổ
    Hai Tuất rót rượu ra ba cái ly rồi cầm lên:
    -Ba Du, chú Nam cạn ly nhé, mồi còn nhiều lắm, nghe Ba Du nói chú Nam trước đây có đi buôn nông sản trong vùng này hả?
    -Dạ, thường lên chợ Bình Long mua đậu, bắp, tiêu … mang về thành phố, cũng có vài lần mua lại của con buôn trong Minh Thạnh
    -Đàn ông mà đi buôn bán chắc dọc đường có nhiều cô mê lắm – bà xã Hai Tuất cười nói
    Cả ba người đàn ông cùng cười, Nam vui vẻ trả lời:
    -Nghề đó cũng cực lắm, chở hàng về thành phố qua trạm hồi hộp lắm, có lúc qua được, có lúc sạt hàng xuống tịch thu, vốn liếng sạch sẽ, trắng tay, có cô nào dám mê đâu
    Nghe anh nói, mọi người cất tiếng cười sảng khoái, Ba Du góp chuyện:
    -Ở Saigon bây giờ mà làm công nhân viên nhà nước cũng khó sống, lương ba cọc, ba đồng, cuối tháng cho lãnh thêm một mớ nhu yếu phẩm, vì vậy có nhiều người chân trong, chân ngoài, vừa đi làm, vừa ra đứng ngoài chợ trời sống qua ngày, ai cũng chăm chăm tìm đường vượt biên …
    -Khổ quá dân ai mà chịu nổi, ăn bo bo, khoai mì tối ngày, ai cũng nói, cột đèn mà có chân thì nó cũng vượt biên rồi – bà xã Hai Tuất làm nóng câu chuyện
    -Sắp tới nếu về dưới, vợ chồng tôi ở bên nhà bà ngoại mấy đưa nhỏ ở quận 8, qua cầu Nhị Thiên Đường, lúc đó anh Ba và chú Nam ghé qua chơi cho biết nhà – Hai Tuất nhìn Ba Du nói
    -Ừ, khi nào anh chị có về dưới đó, tui và chú Nam sẽ qua thăm, rồi anh em coi có việc gì làm sẽ giúp nhau
    -Bên đó nhiều ghe đi buôn từ miền tây theo kinh rạch chở hàng về Saigon, đậu dọc các bờ kinh, mua hàng của họ về các chợ bán lại cũng kiếm lời được – Nam nói
    Mặt trời lên cao gần đến đỉnh, dĩa cá hấp sả gừng được chiếu cố sạch sẽ, bà xã Hai Tuất chạy ra phía sau nhà thái rau cho mấy con lợn trong chuồng ăn.
    Gần hết chai rượu thứ nhất, Ba Du và Nam xin phép về vì buổi chiều còn phải sửa lại mái nhà của anh bị cơn dông chiều hôm qua làm tốc bay một góc, Hai Tuất rót thêm lần nửa vào ly của Ba Du và Nam, rồi cùng nhau uống cạn, bà xã Hai Tuất từ chái bếp đi lên, tay cầm mấy trái lêkima chín vàng đưa cho Nam.
    -Có tin gì mới cho vợ chồng tôi biết với nhé – Hai Tuất đứng lên bước theo hai vị khách ra cửa và dặn dò
    Ba Du gật đầu:
    -Ừ, có chuyện gì quan trọng sẽ qua cho anh biết liền, tụi tui về nhé
    Về đến bờ hồ, Nam đang cột dây xuồng, chợt nghe con Ki sủa dử dội ở phía trên nhà Ba Du, nghe tiếng nó sủa, anh và Ba Du đoán là có du kích đi tuần hay người lạ đang đến.
    Khoảng vài phút sau, một nhóm năm người đàn ông, vài người cầm rựa đi từ trong rừng cao su ngang qua rẩy dọc theo bờ hồ lên phía thượng lưu, Nam và Ba Du đang theo lối mòn lên con dốc, nhìn thoáng qua anh không nhận ra có khuôn mặt nào quen trong đó, Ba Du nhìn theo hướng họ vừa đi qua rồi nói:
    -Đường đi dọc bờ hồ bên này rừng cây và dốc đồi lởm chởm đá khó đi qua lắm mà họ vẩn đi
    Chờ cho họ đi khuất vào rừng chồi và đồi đá, Ba Du nhìn Nam:
    -Có một tay trong nhóm này nhìn quen lắm, hắn mặc đồ xanh xám, hình như trong đội kiểm lâm, mấy ông trong ủy ban xã, lảnh đạo nông trường chắc thừa cơ hội này ra tay đốn gổ rừng, … chiều nay tui qua sửa lại cái mái nhà nhé chú Nam
    -Tôi sẽ chờ, chắc phải có thang để lên mái hả anh Ba?
    -Ừ, tui làm cái thang ngắn rồi vác qua, chỗ tranh bị tốc đó làm lại chút xíu là xong
    Nam băng ngang rẩy và con suối đi về nhà, bửa trưa bên nhà Hai Tuất đãi anh và Ba Du thịnh soạn quá, thêm chai rượu đế ngon đưa cay, anh mỉm cười, thôi lên cái phản tre đánh một giấc ngủ sâu, bù lại cho tối hôm qua.
    Chiều Ba Du vác cái thang và một bó dây lạt dài, mảnh chẻ ra từ thân tre, Ba Du leo lên mái, sốc lại chỗ tranh bị xộc xệch cho thẳng hàng và dùng dây cột chặt lại, sẵn dịp này, Ba Du chịu khó buộc lại phần tranh ở đỉnh mái bị nghiêng ngã rồi mới đi xuống.
    Anh và Ba Du ra ngồi trên khúc gổ trên sân hút thuốc, còn nghĩ được vài ngày nửa là bắt đầu cầy cuốc trồng vụ mùa mới, thấy trời con sớm, Ba Du rủ Nam lấy xuồng đi đánh cá, cả hai bơi xuồng lên phía trên hồ, gần địa điểm lần trước. Đến nơi, Nam lấy lưới thả dọc cách bờ một khoảng xa, sau đó bơi vào gần bên trong cho Ba Du xuống chỗ bải cạn, cầm xiên lội vào đám lau lách, bông súng dò dẩm từng bước để bắt rắn nước, lươn …
    Nam ngồi lại trên xuồng, thấy Ba Du vài lần phóng cây xiên thép xuống nước, nhưng chưa được con nào, chiều nay thời tiết tốt, trên bầu trời không một gợn mây, khác với hôm gặp cơn dông nhiệt bất ngờ và dử dội. Ba Du lội đi xa hơn vào nơi nước hồ sâu qua đầu gối, ngay đám lá bông súng che gần kín mặt nước, đôi mắt chăm chú quan sát rồi nhanh như chớp phóng cây xiên và ghìm nó xuống bên dưới, nhìn từ xa, Nam đoán chắc đã bắt được cá, lát sau Ba Du thò tay xuống nhấc đầu cây xiên lên, một con lươn dài đang cong mình, vung vẩy khúc đuôi trên không.
    Nam quay lại bơi dọc theo hàng phao trên lưới, anh nhấc chỗ phao bị chìm lên và gở hai con cá mè bỏ vào lòng xuồng, đi thăm xong hết chiều dài tay lưới, anh ngồi nghỉ và lấy thuốc lá ra hút. Ba Du bắt thêm được con cá lóc, bây giờ đang trầm người xuống nước hái mấy cọng bông súng, chắc định dùng nó làm món canh chua chiều nay. Anh bơi ngược lên hàng phao lần nửa, gở thêm hai con cá chép và cá rô bỏ vào xuồng.
    Bổng nhiên nhiều tiếng súng nổ từ hướng bên trong khu rừng vọng ra bờ hồ, Nam và Ba Du cùng nhìn về phía con đường chạy sâu vào bên trong, tiếng súng vẩn nổ kéo dài không ngớt và mỗi lúc hình như nghe rỏ và lớn hơn, nhớ đến mấy người đàn ông lạ có mang súng anh đã gặp và nhóm người lạ sáng nay đi ngang qua rẩy, đoán có chuyện bất thường xảy ra, anh bơi nhanh tới chỗ Ba Du lúc đó cũng đang chăm chú đưa mắt nhìn về phía bìa rừng, đề phòng bắt trắc Nam kêu:
    -Anh Ba lên xuống đi
    Ba Du bỏ cái thùng và bó bông súng vào khoang, bình tỉnh nhảy lên, lấy mái chèo cùng Nam vội vàng bơi lui ra xa phía bên ngoài, nhiều tiếng súng vẩn nổ từng tràng dài, vài lần Nam nghe như có những viên đạn rít ngang trên đầu, Ba Du ra dấu cho anh ngồi thấp xuống khoang, một lúc lâu sau tiếng súng ngơi bớt, và không gian xung quanh hồ từ từ yên tĩnh trở lại. Ba Du và Nam nhìn về phía bìa rừng xa xa bên trong, bốn, năm người đàn ông với dáng vẻ sợ hãi, tất tả lội bộ rất nhanh đi về phía xã Minh Tân, hướng làng của Hai Tuất.

    (còn tiếp)

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •