Ngọc Minh dạ nhỏ và đưa cái gùi cho Nam, tay cô cầm cây rựa chặt quầy chuối già chín bỏ nằm dưới đất, cả hai đi vài vòng quanh những cây mít xum xuê hái vài trái chín, vỏ gai căng tròn, tỏa mùi thơm.
Thấy Nam bỏ hai trái mít vào gùi rồi khoác lên vai, rồi còn cố gắng cầm hai quầy chuối và trái mít còn lại, Ngọc Minh bụm miệng cười nói:
- Anh Nam xách nhiều thứ quá, để Ngọc Minh phụ cho
- Ờ, không sao …tôi khiêng được
Nam vừa mang gùi trên vai, tay chuối, tay mít khệ nệ đi về nhà, Ngọc Minh đi kế bên hỏi:
- Có nặng không anh Nam?
Nam cười trả lời:
- Không nặng lắm đâu, tôi xách được, ở trong buôn chỉ có mình Ngọc Minh mặc áo bà ba giống mấy cô gái Việt Nam phải không?
- Ừ, nhưng mà bây giờ cũng có nhiều người mặc đồ giống người Kinh rồi, mà ba Ngọc Minh là người Việt mà
- Ờ, tôi quên, cứ nghĩ Ngọc Minh là người S’tiêng không đó … - Nam nhìn cô gái cười
Hai người yên lặng về đến gần nhà, anh bất chợt hỏi:
-Tết sắp tới Ngọc Minh ăn Tết trong buôn hay về thành phố?
Nghe Nam hỏi, cô có vẻ ngạc nhiên:
- Ngọc Minh ăn Tết trong này với gia đình
- Vậy mấy ngày Tết tôi vào thăm Ngọc Minh nhé
Cô cười và gật đầu, mặt hơi ửng đỏ, câu trả lời của cô làm Nam thấy nhẹ nhỏm. Anh nhanh nhẹ lên thang vào nhà, Ngọc Minh xẻ trái mít chín mời khách,
Ba Du ăn múi đầu tiên rồi khen:
- Mít này ngọt, thơm quá, trái nhỏ nhỏ giống mít tố nữ quá
Thấy Ba Du khen, Nam và Điều Sơn cũng ăn thử và thấy ngon
- Đi rừng thấy trái nó chín, hái ăn thử thấy ngon, ăn xong tui lấy hột trồng đó Ba Du – Điểu Rút trả lời
Rồi ông ta nhìn anh cười:
- Cậu Nam làm rẩy mà cũng mạnh đó chứ, vừa gùi, vừa xách chuối lên thang …
Điểu Sơn và Ba Du cùng cười, Nam biết Điểu Rút muốn khen anh nên mỉm cười trả lời:
- Dạ, cũng không nặng lắm đâu Điểu Rút
Hai người đàn ông S’tiêng cũng như Ba Du hiểu ý chàng trai người Việt này, họ cùng tin Nam là người tốt. Ngồi nói chuyện thêm năm, mười phút, Ba Du và Nam chào Điểu Rút và Điểu Sơn ra về, bỏ hai trái mít còn lại vào gùi của Ba Du, Điểu Rút nói:
- Hai trái này để Ba Du và cậu Nam đem về nhà
Nam cám ơn và đeo gùi lên vai, anh nhìn Ngọc Minh đứng gần phía sau Điều Rút và nói:
- Tôi về nghe Ngọc Minh, cám ơn hai trái mít nhé
- Tết anh Nam vô thăm buôn nhé – cô cười nói
Nam gật đầu theo chân ba người đàn ông kia bước xuống thang, Điểu Rút tiễn chân anh và Ba Du thêm một đoạn ra đến đầu buôn, đưa tay chào Ba Du xong liền nói:
- Cậu Nam mấy ngày Tết vô buôn chơi nhé, uống rượu cần với dân trong này
Nam cười gật đầu đồng ý và cùng Ba Du theo lối mòn vượt cánh rừng trở ra bờ hồ.
* * *
Còn một tuần nửa là Tết, Nam sửa soạn số đậu và bắp cho vào hai túi vải, sau đó ra ngoài xã nhờ Năm Bình xin giấy phép của xã chở nó về Saigon cho gia đình.
Sáng hôm sau như đã hẹn, Ba Du lấy xuồng chở anh và hai cái túi vải ra xã sớm, Nam ghé vào nhà Năm Bình lấy tiền bán nông sản, và nhờ xin quá giang tài xế nông trường ra quốc lộ, đón xe đò về thành phố.
Sau mùa rẩy đầu, Nam cầm số tiền trả lại một phần cho gia đình để sắm sửa mấy ngày tết.
Chiều ăn cơm nhà xong, anh chạy xe đạp qua nhà Huy, xuống chợ Ba Chiểu rủ thêm Ý nhà trong khu lò heo cũ gần đó tìm quán lai rai.
Ý rất rành khu này vì là thổ địa ở đây, hắn rủ Nam và Huy đến quán cháo lòng lề đường có bán rượu cây lý nhậu với lòng heo luộc, theo hắn thì rất tuyệt vì đã từng đến đây nhiều lần.
Bạn bè lâu ngày mới gặp lại, thêm có nó hay cười đùa vui tính nên cả hai cùng gật đầu. Cả ba ngồi ở cái bàn nhỏ kê ra sát vỉa hè, Ý nói giờ này chắc tay công an khu vực về nhà với vợ con rồi, không bị dẹp đâu mà lo.
Ống chủ quán thấy có khách quen liền chạy ra, Ý gọi:
- Chú Sáu cho ba xị và đĩa lòng lớn nghe
Con đường Vũ Tùng chạy từ trong xóm lò heo thẳng ra chở Bà Chiểu mới hơn 8 giờ tối đã thấy vằng lặng, mù mù, vì đèn đường chỗ sáng, chỗ không, trong quán vài ba khách lớn tuổi đang lai rai.
Nam nhìn Ý hỏi:
- Lúc này khỏe không, lâu quá tao mới gặp
- Ờ, cũng bình thường, tao thỉnh thoảng gặp Huy uống cà- phê, làm rẩy trên đó ra sao, thấy có khá hơn lúc đi buôn không?
- Cũng tàm tạm, cách đây mấy tuần có về gặp Huy rồi đi liền nên không kịp qua nhà mày
Chủ quán đem rượu và dĩa lòng heo đầy ra và ba cái ly để trên bàn, Huy rót rượu vào ly rồi nói:
- Lâu quá mới gặp, vô lai rai đi rồi nói chuyện mới hay
Cả ba cạn ly, Nam vừa uống hết ly rượu đã thấy hơi nóng chạy từ cổ họng xuống dạ dầy, anh cười hỏi Ý:
- Rượu quán này “nặng đô” dử, uống nhiều say xỉn có bị nhức đầu không?
Ý và Huy cùng cười, Ý nói:
- Quán quen chắc không sao!
- Trong nhà có ai vượt biên không?
- Ông già định cho tao và ông anh đi, đang kiếm chỗ quen cho chắc ăn, chắc qua Tết , còn mày lúc này ngoài đó buôn bán được không, có mấy hôm tao chạy xe ngang Hàm Nghi không thấy đâu hết – Ý nói nhỏ
Huy đang nhai miếng lòng to, cười lát sau nói:
- Nhiều lúc tao cũng chạy lòng vòng kiếm khách, ở một chỗ hoài chắc đói
Nam và Ý nghe nói cùng cười lớn, anh nói:
- Tao thấy dân chợ trời nhanh như chớp, mấy tay bộ đội ngoài đó vô hỏi mua hay bán cái gì cũng được tiếp đón, ê Huy, tao hỏi thiệt, mấy cái đồng hồ đeo tay Seiko lấy ở đâu ra mà ai mua mày cũng có, mà toàn là hàng “ô-ri-gin” không, sao hay vậy !?
Cả ba cùng cười, Huy làm ra vẻ bí mật:
- Không nói cho mày nghe được, chợ trời hay là ở chỗ đó, cũng giống dân buôn đường dài như mày, lúc nào gặp trạm kiểm soát cũng qua được, mày nói bí quyết đó ra thử xem …
Không khí cái bàn nhậu nhỏ khá ồn ào, Ý gọi chủ quán mang ra thêm ba xị nửa, Nam lắc đầu, lấy bao thuốc lá ra hút:
- Tao hết xị đầu rồi, mày với Huy thoải mái đi
- Ừ, mày không uống nửa thì để tao … ừ mà không thấy thằng nào lấy vợ hỉ - Ý cười nói theo âm người Huế
- Mày làm công nhân nhà nước có tiêu chuẩn gạo, nước hàng tháng, cưới em nào cũng công nhân là êm, không sợ đói, mày làm trước đi, tao hay thằng
Nam làm rể phụ cho xôm tụ
- Mẹ, cho chết nhăn răng hả, giai cấp công-nông lãnh đạo cái bánh vẻ!?
Huy và Ý cùng cười ha hả, rồi hắn nói tiếp:
- Làm nhà nước thằng nào mà không chôm chỉa mánh mung có mà là thánh
- Ê, Ý nhà máy chỗ mày làm cuốc, xẻng … thì có cái gì mánh mung được – Nam cố ý hỏi trêu nó
- Làm cái gì, ăn cái nấy, sắt thép, đũa hàn … hoặc lấy lưỡi cuốc, xẻng đem ra chợ trời bán, lương bổng nhà nước sao đủ sống, bây giờ ở Saigon mọi người đều buôn lậu, mánh mung … chứ đâu phải mình tao!
Nghe Ý nói, cả Nam và Huy cùng cười, ba thằng hút thuốc lá, im lặng nhìn ra con đường trước quán vắng tênh, nhìn về phía chợ Bà Chiểu tối om om, dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt, vài người lượm rác áo quần vá chằng, vá đụp, vác cái túi trên vai đang lang thang trong bóng đêm.
Quán dần dần thưa khách, một người đàn ông tóc dài, râu ria, ngoại hình mang vẻ nghệ sĩ chống nạng, với cái chân giả đi cà nhắc bước vào quán, vai khoác cây đàn gui-ta, vừa đánh đàn, vừa hát. Ông ta qua cái bàn kế bên có hai người đàn ông đang ngồi nhậu, và bắt đầu hát một bài Nam nghe thấy quen quen, nhưng anh không nhớ nổi tên, Ý bổng nhìn Huy hỏi:
- Cô bạn mày quen ngoài đó đâu rồi?
Huy ngồi lặng lẽ hút thuốc chầm chậm trả lời:
- Đi mất tiêu rồi, có lẻ vượt biên với gia đình rồi, lần cuối ra bán cái ra-điô cũ … cả tháng nay tao không gặp, có thể em về quê ở miền tây, tao cóc biết nửa!
Nam nói nhỏ với Ý:
- Ngày mốt tao lên lại trên đó, Tết này chắc không về, mày đi nhớ cho Huy biết, ráng trót lọt nhé!
- Ừ, tao cũng hy vọng, mong trời phật … ừ, mày lên đó mấy tháng có quen được em nào không – Ý cười và hỏi
- Cái xứ khỉ ho, cò gáy đó làm gì có ai đẹp đâu mà yêu, mai mốt nhờ mày hay Huy giới thiệu cô nào giàu giàu ở dưới đây để tao còn vượt biên chứ – Nam cười tiếu lâm
Cả hai thằng bạn cùng nhìn anh, gật đầu rồi cười hiểu ý.
Ở bàn kế bên hai người đàn ông trung niên mời người đàn ông mang chân giả ngồi, họ lặng lẽ nghe ông ta hát, cái nạng gổ gác lên ghế và cái nón cũ nằm ngửa trên bàn. Cầm gui-ta hát xong một bài, bây giờ ông ta hát một bản nhạc xưa lắc “Tiếng còi trong sương đêm”, tiếng ông ta nghe ấm và buồn hiu hắt trong cái quán rượu nhỏ thiếu ánh đèn, nghe như có tiếng chân của những người lính lên con tàu ra đi chinh chiến không hẹn ngày về trong một đêm lạnh lẻo.
Chiến tranh đau khổ, chia ly, nước mắt, mấy ai có được may mắn quay về, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai mà biết trước được số phận của mình.
Trời dần khuya, con đường vào xóm lò heo hầu như không còn bóng người qua lại, trong quán chỉ còn bàn của anh với hai thằng bạn và ba người đàn ông bàn bên kia, chủ quán đã quen với cảnh đệ tử lưu linh chưa say, chưa về nên nhẫn nại ra sau quầy ngồi nghỉ.
Ý tửu lượng khá mạnh nên một mình nốc hết hai xị chủ quán đem ra sau, bây giờ ngồi hút thuốc trầm tư nhìn ra bóng tối hun hút, Huy lắng tai nghe người đàn ông nghệ sĩ tàn phế ở bàn bên kia hát một bài tiền chiến với vẽ thích thú.
Sau vài câu chuyện hỏi han nhau giữa ba người đàn ông, Nam loáng thoáng nghe được và biết họ là những người lính VNCH, người đàn ông cụt chân bị thương nặng trong một trận đánh ở Kontum, bây giờ hằng đêm ra đường với cây đàn ca hát kiếm sống, hai người đàn ông kia im lặng ngồi nghe với vẻ day dứt, khuôn mặt mang nét buồn bả. Những ly rượu cay xé cổ họng trong cái quán nhỏ đêm nay làm họ thấy ấm áp, khi ngồi nói chuyện thân tình bên nhau như những người đồng đội cũ sau một thời gian dài gặp lại.
Gần tết trời về khuya lành lạnh, Huy nói đi về, Ý gật đầu và gọi ông chủ quán tính tiền, Nam nói:
- Ý, hôm nay để tao trả
Tính tiền xong, cả ba đứng dậy, Ý đến gần người đàn ông cụt chân, lấy tay vổ nhẹ lên vai, hắn cầm cuộn tiền quấn tròn, trân trọng đưa cho ông ta, ba người đàn ông nhìn hắn, Nam và Huy với vẻ biết ơn. Huy, Nam dắt xe đạp ra và nói:
- Ý, tao chở mày về
- Thôi khỏi, tao đi bộ về được rồi, tụi mày về đi
Đạp xe ra đường Bùi Hữu Nghĩa, Nam nhớ chơi với Ý từ khi học lớp 11, nó thông minh nhưng lười. Hết lớp 12 cả đám bạn không đứa nào thi đậu vào đại học vì sơ yếu lý lịch bị đánh dấu thuộc thành phần không tốt. Gia đình Ý là người Huế, hắn có lối nói chuyện mạnh bạo kiểu quan quyền, sau ngày giải phóng vào Saigon, hắn lại có thêm cái tật hay xài tiếng “Đan Mạch” mỗi khi tức giận, làm người nghe lầm tưởng Ý là một tay võ biền vô học. Nhưng Nam biết Ý có tâm hồn sâu sắc, đọc nhiều và rất biết ơn những người lính miền nam, Ý hay nói dân Huế nợ những người lính đó rất nhiều, cho dù họ đã không thành công trong việc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền nam.
Huy và Nam đạp xe song song trên con đường nhỏ vắng teo, đèn vàng lờ mờ, những căn nhà phố hai bên đã chìm vào màn đêm, Huy hỏi:
- Mày đi lên đó lần này đến tháng mấy về Saigon?
- Chưa biết, chắc phải tháng 5 hay tháng 6 … ngày mốt tao đi nhé
Huy gật đầu và quẹo vào con hẻm nhỏ, Nam nhấn bàn đạp chạy xe lên cầu, vừa đổ dốc qua bên kia, đột ngột một cô gái mặc đồ bộ đứng sau cột đèn đường trong bóng tối đưa tay ra ngoắc ngoắc. Đầu óc Nam đang lan man vì có chút hơi men, thấy có bóng người chắn ngang liền rà thắng xe.
Mặt cô gái trang điểm sơ sài và nhìn còn khá trẻ, đôi mắt lộ ra nét mệt mỏi như người thiếu ngủ lâu ngày. Nam dừng xe bên lề đường, lấy thuốc lá ra hút và chìa nó về phía cô gái, nhưng cô cười và lắc đầu:
- Em không biết hút, đi đâu về trễ vậy anh?
Mấy lần uống cà- phê với mấy thằng bạn, tụi nó nói bây giờ Saigon ban đêm “bò lạc” nhiều lắm, chữ đó tụi nó ám chỉ mấy cô gái từ các tỉnh hay từ các vùng kinh tế mới đói khổ quá chạy về Saigon bán thân kiếm sống, đêm đêm đi loanh quanh bắt mối ở các khu vực gần sở thú, vườn Tao đàn, đường Nguyễn Văn Chiêm, dinh Thống nhất … Đêm nào bị công an bố, mấy cô gái đó chạy tán loạn ra những con đường khác, nhìn cô gái vừa gặp bên dốc cầu,
Nam đoán chắc là vậy nên nổi tính chọc phá:
- Còn em, sao giờ này còn ngoài đường, không sợ công an nó hốt đi cải tạo hay sao?
Cô gái lắc đầu, cười với Nam và nói:
- Công an đâu sợ bằng chết đói, đi chơi không anh?
Nam hút thuốc lá, giả bộ tảng lờ hỏi:
- Giờ này đi đâu, với ai đây?
- Anh còn làm bộ nửa, băng qua bên kia đường Mai Thị Lựu gần đây nè, em lấy hữu nghị cho …
- Nhà em ở đâu?
Nghe Nam hỏi, cô gái cười nói:
- Ngộ quá, không đi chơi thì thôi, tự nhiên hỏi nhà làm gì – cô gái đổi giọng hơi cáu kỉnh
Nam thấy vui vui nên chọc tiếp:
- Thấy em hiền, dể thương nên anh tội nghiệp, nói nhà đi, chút anh chở về nhà xin má cho em qua nhà anh phụ nấu cơm, giặt quần áo …
- Thôi mà, anh chọc hoài, ai mà thèm lấy em … nghèo thấy mồ, mà còn làm nghề này nửa ...
Nam nghe cô gái nói đến đây tự nhiên cảm thấy hơi xấu hổ, nhìn màn đêm cô tịch giăng giăng, anh thấy chút xót xa, nên gạt ngang không để cô gái nói tiếp:
- Ờ, rồi nào đi! bây giờ em nói bao nhiêu đi, chút nửa khỏi lộn xộn
Cô gái lộ nét buồn, đứng xụi lơ và tựa vào cột đèn đường, nhìn Nam nói:
- Anh cho bao nhiêu cũng được …
Nam chỉ lên yên sau, kêu cô gái lên ngồi, anh hỏi nhỏ:
- Bây giờ đi đường nào?
Cô gái đưa tay chỉ qua Mai Thị Lựu và Nguyễn Văn Thủ, anh hỏi cô gái:
- Em biết bây giờ khoảng mấy giờ không?
- Chắc khoảng hơn 10 giờ, anh quẹo qua đường Nguyễn Văn Thủ nhe
Anh rẽ xe qua hướng đó, cô gái chỉ Nam chạy vào một hẻm cụt âm u và kêu dừng lại, cô gái xuống xe và chờ anh trong góc tối, anh làm ngơ ngồi trên xe hút thuốc, cô gái bước ra:
- Ủa, sao không dắt xe vô đi anh?
Nam dựng xe vào tường rào, rồi ra ngồi bên lề đường, tay cầm điếu thuốc lá nhìn mông lung lên trời đêm, anh nói:
- Ngồi đây nói chuyện chút rồi về đi em …
Cô gái có lẻ đôi lúc cũng đã gặp những ông khách có hơi rượu và tính khí kỳ lạ, dở dở, ương ương, đoán Nam cũng giống như vậy, nên ra ngồi hai tay tựa như bó gối kế bên.
- Hút xong điếu thuốc, anh đưa em về
Nói xong Nam móc túi lấy tiền cho cô gái đang ngồi mỉm cười, cô cầm tiền cẩn thận bỏ vào túi quần bên trong.
- Nhà em ở đâu?
Cô gái ngập ngừng trả lời:
- Gần ngã tư Xóm Gà, xa lắm, chút em về một mình được rồi …
- Ừ, không sao, anh chở em về một bửa, từ đó về nhà anh cũng gần …
Cô gái ngồi im lặng nhìn Nam trong bóng tối, hút xong điếu thuốc, anh dụi tàn, đứng dậy lấy xe ra đường chờ:
- Lên đi
Cô gái ngồi lên yên sau, chiếc xe đạp chạy ra đường Đinh Tiên Hoàng và băng qua dốc cầu Bông về Bình Thạnh, bên đường vài tay công an và phường đội đang đi tuần tra dọc trên các vỉa hè lạnh lẻo, tối om.
Chạy xe ngang qua Lăng Ông nằm lặng im dưới bóng tối những cổ thụ, Nam nói đùa:
- Hôm nào em vào trong Lăng Ông xin săm đi, mấy người gặp anh rồi họ nói số anh hên lắm
- Thiệt không đó, anh nói dóc … - cô gái lấy tay nhéo mạnh hông của Nam
Nam cười nhỏ và nói:
- Ui cha! mà em tên gì đó?
Cô gái im lặng một lúc rồi trả lời:
- Ly
Anh chạy qua Phan Đăng Lưu và rẽ vào Hòang Hoa Thám, cuối con đường quẹo sang Nguyễn Văn Đậu tối om om, phía sau Ly nói:
- Anh chạy tới chút xíu nửa rồi ngừng bên phải cho em xuống
Tới đầu con hẻm vào nhà Ly, Nam dừng xe lại:
- Thôi Ly vào đi
Cô gái cám ơn và nhìn anh với đôi mắt như có vài giọt sương đêm vừa rơi vào đó, cái bóng nhỏ nhắn bước sâu vào màn đêm tăm tối bao trùm lên những mái nhà tôn lụp xụp ẩn sâu bên trong con hẻm.
Về đến nhà đã gần 11 giờ, mẹ anh chờ cửa lo lắng hỏi có chuyện gì mà sao về khuya quá, Nam ừ hử, đổ tội cho mấy thằng bạn lâu ngày gặp nhau nên ra quán ngồi uống tụi nó không cho về sớm. Anh phóng lên căn gác, thay vội quần áo, tắt đèn và lăn ra nằm trên sàn gổ.
Nam cố dỗ giấc ngủ trong sự tĩnh mịch của màn đêm, anh nhớ lại cuộc gặp gở với Ly sau chầu nhậu lai rai với hai thằng bạn ở xóm lò heo. Men rượu hay khơi dậy bản năng của người đàn ông khi gặp đàn bà, con gái mời mọc như vậy, ít ai mà làm ngơ được như thần thánh, nhưng nhìn vào đôi mắt Ly lúc nảy, anh thấy như có một bể khổ sâu thẳm đầy những cơn sóng dữ, cuộc sống khốn cùng này đã đẩy cô ra đường kiếm tiền trong bóng tối lẻ loi hàng đêm của Saigon.
Sáng nay anh dậy trễ và thấy cơ thể mệt mỏi, có lẻ vì tối hôm qua thức quá khuya và suy nghĩ nhiều. Nam ăn sáng xong, ra nằm nghĩ và lấy vài cuốn sách cũ ra đọc, nhưng đầu óc lại cứ suy nghỉ lung tung. Anh ngồi dậy, mặc quần áo xong, lấy xe chạy xuống Thảo Cầm viên, mua vé, rồi vào phòng trưng bày xem lại các món đồ cổ sành sứ thời nhà Nguyễn, và những món được ghi là của Tầu, Nhật Bản.
Nam từng nghe nhiều người nói, nghề sưu tầm đồ cổ này lắm công phu và kiến thức, trước năm 75, nhiều người giàu có bỏ ra một số tiền lớn để mua những cái lọ, dĩa, bình … từ thời nhà Minh, Thanh hay của các triều đại vua chúa Việt Nam, sau đó họ nhờ những tay chơi đồ cổ chuyên nghiệp hay những người chuyên nghiên cứu nổi tiếng đến xem, cuối cùng phát hiện ra đó là đồ giả, coi như người mua mất trắng.
Đi hết một vòng khu trưng bày, Nam bước ra ngoài thấy còn sớm, hôm nay trời đẹp nên cao hứng quyết định đi một vòng khuôn viên cho thoải mái đầu óc rồi về nhà. Lang thang trên những lối đi vắng vẻ, anh cũng không nhớ là hôm nay thứ mấy, từ ngày lên trên đó làm rẩy, anh quen với tính người dân ở trong xó xỉnh rừng núi nên đâu cần nhớ ngày, vì ngày nào cần thì ra làm việc, khi nào thấy mỏi mệt thì nằm nhà nghỉ. Nhìn những cây cổ thụ tỏa bóng mát khắp nơi, làm Nam nhớ đến con đường mòn vào buôn thượng trong khu rừng già âm u, những mái nhà sàn trong thung lũng heo hút và cô gái mới quen tên Ngọc Minh.
Anh suy tính, lần này trở lên đó khi Ba Du về nhà ăn Tết ở Saigon, trong thời gian chỉ có một mình, anh sẽ dùng dây dù vừa mua, buộc thêm cục đá nặng vào một đầu thả xuống thăm dò chiều sâu gần chỗ con suối chảy ra hồ trước, nơi mà theo anh đoán có thể là điểm chôn dấu hai cái thùng, sau đó sẽ lặn xuống xem bên dưới, nếu không đủ gan dạ làm việc đó một mình, thì việc ở lại trong khu hồ heo hút đó để tìm kiếm hai cái thùng đổ cổ cũng chả đi đến đâu.
Lần này có thể là thời điểm quyết định xem có nên ở lại để tiếp tục tìm kiếm hay bỏ tất cả mọi thứ ở đây để trở lại thành phố, tiếp tục nghề cũ.
Nam ra bãi lấy xe chạy về nhà, anh dành hết buổi chiều và tối loanh quanh ở nhà chơi với gia đình và ra đầu hẻm ngồi uống cà phê, nói chuyện với ông già vá xe trong xóm.
Sáng anh ra bến xe sớm và mua vé lên chuyến đầu tiên về Bình Long. Trên quốc lộ vẩn vắng vẻ như mọi ngày, cho dù chỉ còn khỏang hơn một tuần nửa là đến Tết. Đầu giờ trưa, chiếc xe đò chạy đến nơi rẽ vào nông trường, anh quá giang được chiếc máy kéo Liên Xô màu đỏ cũ kỹ chạy lộc xộc vào đến bãi xe trước văn phòng nông trường thì trời cũng đã bắt đầu ngã về chiều.
Đi ngang ngôi nhà gổ nằm kế bên trụ sở ủy ban xã, Nam hơi ngạc nhiên vì thấy Tư Có đang đứng nói chuyện với một tay công an mặt xương xẩu, lưng hơi còng, đeo khẩu súng ngắn bên hông và nhóm khoảng mười tay du kích trang bị súng ống đầy đủ. Anh suy nghĩ trong đầu, không biết có việc gì mà họ tập hợp cả đội, trên con đường đất đỏ tung bụi mờ mờ, lác đác vài công nhân cạo mủ lội bộ chậm rải trên đường.
Đi thêm một đoạn, Nam sực nhớ ra Ba Du có nói với anh là vào những dịp lể lớn, bên du kích và công an hay phối hợp tuần tra khắp xã để giữ trật tự, an ninh, nhất là những khu vực hẻo lánh như ở chỗ anh và Ba Du.
Đến khúc quanh ra bờ hồ, thấy Năm Bình đang chạy xe ra từ phía trạm gác, Nam gật đầu chào, Năm Bình dừng xe lại và cười hỏi:
- Chú Nam mới từ thành phố lên hả, tết có ở trên này không hay về dưới đó?
- Dạ, mới về hôm nay rồi anh Năm, ăn tết ở đây và trông nhà giùm anh Ba Du luôn, anh mới đi làm về?
Năm Bình gật đầu:
- Ừ, tôi vừa mới xong công việc trong trạm gác, tết này ở trong đó không làm gì ra nhà tôi lai rai nhé chú Nam
Nam cười gật đầu và rảo bước đi nhanh ra con đường bờ hồ để về nhà vì thấy chiều đã xế bóng.
Về đến nơi trời đã chạng vạng tối, anh đi nhanh qua nhà Ba Du để dẩn con Đốm về. Lội bộ qua đến gần hết con dốc, con Ki đánh hơi từ xa đã chạy ra sân, con Đốm cũng chạy theo vẩy đuôi mừng rở, sủa vang một góc bờ hồ, vào nhà thấy Ba Du đang ăn cơm chiều và mời Nam:
- Chú Nam vô ăn luôn, chút về nhà khỏi nấu
- Dạ, mấy hôm nay trên này cũng bình thường hả anh Ba?
- Bình thường, chú Nam đi đường về Saigon có bị xét hỏi gì không?
- Đến trạm, thấy hai bao đậu, bắp nên bị trạm chận lại, nhưng có giấy phép của xã nên mấy tay du kích cho đi
Chiều nay Ba Du làm món gà luộc và gà kho gừng, sau chuyến lội bộ từ ngoài xã về đến nhà, cái bụng Nam trống rổng nên buổi cơm chiều nay anh thấy quá ngon, hình như Ba Du biết khi về đến đây, Nam sẽ ghé qua nhà đón con Đốm về, nên làm con gà “đãi” anh một bửa.
Xong cơm tối, hai người ra sân ngồi trên mấy hòn đá, Ba Du vào nhà cầm ra trái đu đủ chín vàng, xẻ ra làm đôi, đưa cho Nam phân nửa trái và nói:
- Cây đu đủ phía sau vườn chín nhiều, chút nửa chú Nam cầm một trái về nhà ăn
Nam gật đầu, anh cắn miếng đu đủ thấy ngọt lịm trên đầu lưỡi, chất đường làm đầu óc anh thấy khoan khoái. Thanh toán xong món tráng miệng từ vườn nhà, anh lấy thuốc lá ra mời Ba Du. Con Đốm lớn nhanh, nó đang lăng xăng chạy theo con Ki khắp nơi, hai con chó có vẻ thân thiết nhau, Ba Du rít xong một hơi thuốc lá rồi hỏi Nam:
- Nghỉ Tết xong, mùa tới chú Nam có trồng lại bắp không?
- Ừ, chắc có, bên rẩy anh Ba trồng thì chắc tôi cũng vậy - anh trả lời vì đâu có biết trồng cái gì khác
- Tui cũng trồng lại bắp, sau Tết mùa khô không có mưa nên phải xách nước từ hồ hay giếng để tưới, hơi cực chút
Nam ngồi nghe và gật gù cái đầu, thì cứ theo như vậy đi, rồi tùy tình hình tính sau, và quay sang hỏi:
- Anh Ba về Saigon trước Tết một hai ngày?
- Trước Tết hai ngày, xong mùng ba hay mùng bốn tui sẽ lên lại, ở Saigon lâu quá cũng không biết đi đâu
Nam nghe Ba Du nói như vậy thì thấy có nhiều thời gian để làm công việc kia, và còn có được một hai ngày vào buôn thăm Ngọc Minh nửa.
Sau mùa vụ và gần Tết nên rảnh rổi, Nam lấy cần đi câu kiếm thêm cá và chọn nơi để sắp tới bắt đầu đo độ sâu thăm dò đáy hồ. Buổi sáng ngồi câu phía dưới đám rừng chồi, buổi chiều anh đi ra nơi con suối chảy vào hồ. Tuy đã là mùa khô, nhưng mực nước chỉ mới giảm xuống đôi chút so với cách đây vài tháng, anh nhớ lại mấy cửa đập ngoài xã, nếu mở được ba cái cửa đó lên cao hơn, trong vài ngày nước hồ sẽ xuống rất nhanh. Chỗ đó có cái trạm và nhân viên nông trường có mặt thường xuyên ở đó, ai đến gần đó, họ đều thấy, còn Năm Bình không biết làm gì trong trạm, có muốn thì đâu có dể dàng gì nhờ ông ta làm công việc dể ở tù này.
Chiều nay, trước khi về Saigon, Ba Du ra chỗ Nam ngồi câu, hôm nay Nam đổi vị trí qua phần rẩy bên nhà Ba Du, chắc muốn dặn dò anh vài việc để sáng mai yên tâm đi về thành phố, Ba Du ngồi xuống trên tảng đá kế bên:
- Câu được mấy con rồi chú Nam?
- Hai con cá chép, sáng mai tôi chèo xuống đưa anh Ba ra xã nhé
Ba Du lấy thuốc lá ra hút, sau vài hơi chậm rải nói tiếp:
- Ừ, sáng mai đi sớm, Tết chú Nam rảnh có vô buôn thượng không?
Nam cười tươi:
- Chắc có, ngoài này lâu không có gì làm cũng chán, sáng vào rồi chiều đi về
- Ừ, đi một mình thì cẩn thận nhé, mang theo nhiều nước uống, đồ ăn, đi theo đường cũ, nếu có gặp bên du kích hay công an đi tuần, thì nói vào buôn trao đổi, và đem theo bật lửa vì nếu phải ở lại trong rừng ban đêm, nhớ đốt lửa lên, có thể chú Nam gặp người mấy xã khác đi săn trong rừng hay nghe tiếng súng thì phải cẩn thận, vì ở nơi vắng vẻ, họ dể hành động bất ngờ … nhưng chắc không có gì nguy hiểm lắm, có thể Điểu Sơn hay Điểu Rút sẽ ra ngòai này chơi đó!
- Cám ơn anh Ba … à, hôm chiều tôi về đến ngoài xã, gặp Năm Bình chạy xe ra từ cái trạm gần đập, ảnh làm ở đó hay sao?
Ba Du gật đầu:
- Năm Bình quản lý công nhân kỹ thuật của nông trường nên thỉnh thoảng ra trạm để coi hai người công nhân ở đó, à … còn hàng ngày chú Nam qua nhà chăm sóc con Ki dùm tui chút, cho nó ăn chút đỉnh được rồi
Anh gật đầu, Ba Du ngồi chơi thêm một lát rồi quay lên con dốc về nhà, Nam ở lại câu thêm vài giờ cho đến gần tối được thêm vài con cá mè.
Sáng dậy thật sớm chờ Ba Du gọi ra hồ, Nam nhớ lại xem có cần hỏi thêm những gì cần thiết mà anh chưa biết, nhất là lúc đi lại trong rừng, nhưng thấy chiều hôm qua những gì Ba Du nói cũng đã đầy đủ.
Có tiếng gọi, anh khép cửa nhà và theo lối mòn ra bờ hồ, hành lý Ba Du cũng đơn giản, chỉ có cái túi vải nhỏ đựng quần áo, đồ đạc.
Hai người bơi nhanh về hướng hạ lưu, Tết gần đến mà trong vùng đồi núi hoang vu này không khí thật buồn bả, những căn nhà mái lá xiêu vẹo nằm im lặng sau hàng cây mít, hàng điều … trồng ven đường, tất cả gần như không biết đến Tết đang đến.
Ra đến gần trạm gác, Nam tấp xuồng vào sát bờ cho Ba Du lên và nói:
- Ăn Tết với gia đình vui vẻ nhé anh Ba!
- Ừ, chú Nam vô buôn chơi vui nhé – Ba Du mỉm cười
Ba Du lên bờ đi về phía trung tâm xã, Nam ngồi trên xuồng quan sát chỗ dòng nước chảy qua ba cửa đập được mở hé ra, vài phút sau anh cho xuồng quay về.
Chèo đến nhà, anh buộc chặt dây chiếc xuống vào bụi cây và bắt đầu công việc như đã dự tính.
Lấy cuộn dây dù mua ở Saigon treo trong cái túi vải trên vách nhà xuống, Nam thắt gút sợi dây thành từng đoạn một, cách nhau chừng một mét, thành những cục tròn rất để dể nắm khi lên xuống đáy hồ.
Xong phần dây, Nam lấy con rựa bén cắt đầu thanh thép mỏng thành vạt xéo nhọn, và ra con suối tìm một hòn đá khá to, bằng phẳng về mài nó làm thành lưỡi dao bén ngót, rồi ngồi cả buổi cắt gọt hai mảnh gổ cứng thành chuôi dao, sau đó dùng dây ruột cao su quấn lại thành cái cán cho dể cầm.
Nghi ngờ về tính hữu dụng của nó, anh ra bụi chuối phía sau nhà cầm con dao phạt thử vài tàu lá, con dao chặt qua như nước, đến gần một thân chuối non, Nam lia mạnh lưỡi qua gần phần ngọn làm nó văng xuống đất, anh rất hài lòng vì tay bán hàng người Hoa đã không gạt mình.
Nam dự định chiều sẽ ra bờ hồ, nên ăn bửa trưa xong, anh cố gắng nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức.
Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, anh xách cái túi vải đi về phía nhà Ba Du, đến gần chỗ cột chiếc xuồng, nơi đó chỉ có lác đác vài bụi cây mọc bên bờ hồ.
Nam tìm một hòn đá buộc vào đầu dây và từ từ thả xuống nước thăm dò, xem số nút thắt còn lại cho thấy phần đáy nơi đó độ sâu hơn bốn mét. Anh cột chặt đầu còn lại vào một thân cây cứng cáp mọc gần bờ, nghĩ trong đầu bây giờ là phần công việc khó khăn nhất đây, rảo mắt nhìn kỹ xung quanh xem có ai xuất hiện gần đó không, nhưng khung cảnh tuyệt nhiên im lặng, cẩn thận nhất là phải để ý Tư Có và mấy tay du kích. Buổi chiều thỉnh thoảng họ mới đi, tuy nhiên đã sắp tết, lịch đi tuần có thể tay đổi đột xuất và dầy đặc hơn ngày bình thường.
Chỉ mặc độc chiếc quần cụt trên người, Nam nắm sợi dây kéo thật mạnh để thử độ chắc chắn của mối buộc vào thân cây, rồi từ từ tụt xuống hồ.
Buổi trưa có nắng, nhưng nước vẩn khá lạnh, miệng cắn ngang lưỡi dao, anh lần theo dây lặn xuống, đến gần đáy, làn nước bên dưới đục hơn, Nam cố nhoài người đến chỗ cục đá ở đầu sợi dây, tay vừa chạm vào đáy cát, thì thấy hết hơi nên phải trồi lên thở.
Lên bờ nghỉ mệt vài phút, cẩn thận nhìn quanh thấy mặt hồ vẩn lặng im, lần này để lặn xuống nhanh hơn, Nam kéo cục đá lên và lấy một hơi dài rồi ôm nó để cùng chìm dần xuống, khi đã chạm đáy anh đưa tay sờ soạng vào lớp cát ở dưới đáy và cố mở to mắt nhìn xung quanh, gần đó có vài thân cây mục phủ đầy rong rêu nằm im trong làn nước lờ mờ.
Cố gắng sục sạo trong đống rong rêu, vài con cá đang trú trong đó, bị đánh động phóng vụt ra và biến mất vào làn nước đang bị khuấy đục lên mờ mờ. Chưa quen với công việc này, anh nhanh chóng cảm thấy buồng phổi hết dưỡng khí và ngộp thở, nên buông cục đá ra, phóng trở lên mặt nước và bơi vào bờ.
Bị thấm lạnh vì nước sâu dưới đáy hồ, Nam lấy thuốc lá ra hút, và ngồi nghỉ vài phút để lấy lại sức, anh quyết định sẽ lặn xuống tại chỗ này thêm vài lần nửa trước khi di chuyển qua nỡi dao ngang miệng và bắt đầu lặn, xuống đến đáy hồ, anh chỉ thấy lờ mờ bên dưới nhiều lớp đá cuội, được vài phút sau đã thấy đuối hơi và khó thở, Nam vội trồi lên vào bờ tạm nghỉ, và mặc cái áo kaki vào cho đỡ lạnh.
Chợt nghe tiếng con Đốm và con Ki sủa sau đám cây bên bờ suối, thì ra con Đốm đang loanh quanh gần nhà, nó đánh hơi biết con Ki vượt suối qua bên này nên chạy ra, anh đứng lên ra tìm, thấy hai con đang ve vẩy đuôi, đưa mủi ngửi chào nhau bên bụi cây, Nam kêu:
- Đốm lại đây!
Hai con cùng hăng hái tranh nhau chạy đến gần anh, rồi bổng cả hai lại quay ngang, chạy ra các bụi rậm ngoài rẩy lùng sục tìm chuột, chim cu gáy để anh đứng nhìn theo.
Nam quay lại bờ hồ, quyết lặn thêm vài lần nửa, một tay nắm đầu dây buộc cục đá, anh bơi ra và từ từ chìm xuống dưới đáy hồ lổn nhổn đá cuội và cát bùn, lấy lưỡi dao xăm xuống nền cát thăm dò bên dưới, nhưng nó lại chạm phải đá bị chìm lấp ở dưới đó. Anh nghĩ trong đầu, nếu hai cái thùng chôn gần nơi này, thì bây giờ nó đang nằm sâu bên dưới lớp cát, đá từ con suối cuốn ra trong mùa lũ hằng năm, như vậy thì không còn hi vọng gì để tìm thấy.
Nam hết hơi nên trồi lên mặt nước, vừa ngoi đầu lên gần đến bên trên, đã nghe tiếng hai con chó sủa dử dội, đoán có người sắp tới, anh nhanh chóng dấu con dao vào bụi cỏ gần bờ, chưa kịp leo lên bờ đã thấy Tư Có và ba tay du kích xuất hiện và đang đi về chổ anh.
Anh bình tỉnh bước lên, Tư Có đến gần nhìn xuống mặt nước đùng đục và thấy sợi dây, tay du kích nhỏ con kéo nó lên, khi thấy có cục đá buộc ở đầu dây,
Tư Có hỏi:
- Chú làm gì mà lặn xuống dưới?
Nam suy nghĩ chớp nhoáng trong đầu rồi trả lời:
- Lúc nảy tôi ra phát cây ngòai này và làm rớt cây rựa xuống nước nên xuống mò tìm lại
Mấy tay du kích nghe câu trả lời của anh có vẻ ngố ngố, nên cả đám cười cười, tay du kích ốm o, xương xẩu nhìn anh hỏi mỉa mai:
- Tìm được chưa, nước hồ sâu thấy mẹ, sao mà mò lại được!
Nam giả bộ lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, con Ki và con Đốm đứng xa xa tiếp tục sủa Tư Có và mấy tay du kích. Tư Có tò mò nhìn anh và mấy bụi cây cỏ xung quanh, không thấy có gì lạ, ông ta quay đi về phía nhà Ba Du. Nam thở phào, dù sao thì anh cũng giấu được ý định của mình, nếu Tư Có thấy anh có con dao bén ngót đang lặn hụp dưới hồ sẽ làm ông ta nghi ngờ, Nam thầm cám ơn hai con chó đã làm tốt vai trò canh gác, xứng đáng được thưởng.
Chờ cho bóng dáng Tư Có và đám du kích khuất xa, Nam cầm cuộn dây và con dao về nhà. Anh ra sau vườn đào một số trùng làm mồi, và xách cần ra gần khu rừng chồi ngồi câu. Nhớ đến vụ đụng đầu bất ngờ vừa rồi với Tư Có, Nam tự nhủ từ bây giờ phải thật cẩn thận, không thể xem thường, bọn họ rất rành địa hình, đường xá ở đây nên xuất hiện rất bất ngờ.
Gần hết buổi chiều, mặt trời đã lặn về hướng rừng núi xanh thẩm phía tây, Nam xách mấy con cá rô, mè vừa câu được về nhà. Con Đốm và Ki lót tót chạy theo, anh nhìn hai con chó mỉm cười, tụi nó là hai người bạn thân thiết của anh ở nơi heo hút này.
Hết ngày mai nửa là Tết rồi, cơm tối xong Nam ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ trước sân, hai con chó được cho ăn một bửa có cá ngon lành, con Ki nằm nhìn về hướng nhà Ba Du, nó khôn lắm, dù đi qua đây nhưng cũng còn nhớ canh chừng nhà, con Đốm nằm kế bên, thỉnh thoảng nó khua chân trước về phía con Ki như muốn tiếp tục mời gọi đùa giỡn với nó.
Trời tối dần, côn trùng trong các bụi cây cỏ cất tiếng kêu rền rỉ trong bóng đêm tịch mịch, anh vào nhà lấy cái đèn pin tự chế và cây rựa, rồi ngoắc hai con chó đi theo về phía nhà Ba Du.
Nam muốn qua xem nhà cửa bên đó, nhất là buổi chiều du kích xã mới vừa đi tuần qua. Anh đi một vòng quanh căn nhà, cửa trước và cửa sau vẩn đóng kín, mọi thứ vẩn như cũ, lấy đèn soi vào chuồng, thấy lũ gà nằm im trên tấm phên được Ba Du sửa chửa lại trước khi về thành phố. Con Ki chui qua lổ hổng quen thuộc bên cái vách gần chái bếp vào trong nhà, chợt nghe nó sủa dử dội như sắp sửa mở cuộc tấn công, con Đốm bên ngoài cũng sủa râm ran, Nam lia ánh sáng của ngọn đèn pin về chỗ cái lổ, tay cầm rựa đề phòng rồi gọi:
- Ki, cái gì đó?
Nó vẩn tiếp tục sủa không ngớt, bổng một con rắn dài đen trũi nhanh nhẹn bò thoát qua lổ hổng rồi phóng vụt vào mấy bụi cây, con Đốm làm gan đuổi theo, nhưng con rắn đã nhanh nhẹ trườn mất hút vào bóng tối. Lát sau con Ki chui ra và còn hậm hực, nó chạy đến gầm gừ và đánh hơi quanh bụi cây nơi con rắn chạy trốn vào đó.
Nam quay trở về nhà, con chó của Ba Du ra nằm phía trước sân, con Đốm đứng ngoái đầu nhìn nó như muốn kêu gọi nó đi theo, nhưng con Ki thì vẩn nằm im lìm, nó ở lại để canh chừng nhà, cuối cùng con Đốm chạy theo anh đi về trên lối mòn mờ mờ dưới ánh sáng của cái đèn pin.
Ngày mai đã là ba mươi tết, Nam nhớ còn chỗ bờ hồ có đám rừng chồi rậm rạp mà anh định dò độ sâu chiều nay, nhưng bị Tư Có và mấy tay du kích xuất hiện đột ngột làm cản trở. Anh dự tính sáng mai sẽ tiếp tục công việc tại nơi đó, nếu lặn vào buổi sáng thì chắc nước hồ sẽ lạnh hơn.
Anh suy nghĩ và đổi lại kế hoạch, sáng mai ra chỗ vũng nước cạn bắt cá con về làm mồi và ra hồ câu cá lăng, đến gần trưa có ánh nắng mặt trời ấm áp hơn sẽ quay vào làm công việc kia.
Sáng dậy kiếm cơm nguội và củ khoai bỏ bụng, thêm vài trái chuối cho có thêm chút sức lực. Nhìn ra mấy cây mít trước nhà, Nam nhớ chiều hôm qua khi ra đứng gần đó, anh nghe thoang thoảng mùi mít chín , hôm nay lúc nào rảnh ra hái xuống, hình như mít trồng trong vùng này đều ngọt và thơm, bên đất nhà Ba Du và Hai Tuất cũng vậy.
Anh ra chỗ vũng nước cạn, lấy cái gùi xúc vào đám rong rêu, bông súng được gần chục con cá rô, cá mè nhỏ, thấy đã đủ mồi câu, anh quay về lấy xuồng bơi ra hồ. Nhớ lại có một việc cũng cần thiết, chiều qua lúc lặn xuống với lưỡi dao trần anh thấy hơi bất tiện, Nam lấy hai mảnh gổ từ một đoạn tre già, ngồi bỏ công đẽo gọt làm thành cái vỏ ngoài cho con dao, rồi cột thêm sợi dây dù nhỏ để đeo vào cổ, trông nó an toàn và tiện lợi khi lặn.
(còn tiếp)