BẤT NGỜ DƯỚI HANG TRĂN VÀ ĐÊM VƯỢT TRÙNG DƯƠNG

Về đến trong rẩy, Nam cởi bỏ bộ quần áo đi đường rồi ra hồ tắm, anh nhìn ra ngoài sân và quanh nhà tìm con Đốm, nhưng không thấy bóng nó đâu. Đi tắm lên, Nam sang nhà Ba Du, thấy Ba Du đang dọn cỏ gần vườn cây, thấy Nam đi tới liền hỏi:
-Lên thị xã có gì lạ không chú Nam?
-Tới nhà thăm bà cô Ngọc Minh, ăn cơm trưa rồi về, ngoài ra cũng không đi đâu, anh Ba có thấy con Đốm qua đây không?
-Hồi sáng nó chạy qua đây với con Ki, lúc chiều tui ra gần con suối thấy nó sục sạo mấy bụi cây gần đó, nó không có bên nhà sao?
Nam lắc đầu, anh mượn cây rựa và quay trở lại khu rừng chồi gần chổ Ba Du gặp nó lúc chiều, đứng bên ngoài lớn tiếng kêu nó gần chục lần, nhưng vẩn không thấy có động tỉnh nào. Anh đi vào bên trong những bụi cây và dây leo để tìm con chó, nhớ lại mấy con kiến đen ở đây cắn rất đau, Nam vừa đi, vừa tránh né mấy cái tổ của nó.
Lùng sục khắp các gốc cây, tảng đá trong khu rừng, những bước chân anh giẫm lên cành khô kêu răng rắc, làm vài con chim đậu trên cây hoảng hốt bay vụt ra ngoài. Nam vào đến trung tâm của đám rừng chồi, mặc cho dây leo giăng mắc, quấn quít các thân cây như mạng nhện che lối, anh dùng rựa phát quang để đi qua, mồ hôi đổ ra thấm ướt áo, sau đó Nam ra bờ hồ và đi dọc rặng cây ven bờ, nhưng cũng không tìm thấy dấu vết của con Đốm.
Thấy trời bắt đầu tối, Nam đi trở ra ngoài vì thấy không thể mò mẩm trong bóng đêm. Ra bờ hồ rửa sạch bụi bậm bám trên người, anh đem cây rựa trả lại cho Ba Du, thấy Nam vào nhà mà không có con chó, dáng điệu buồn bả, Ba Du hỏi:
-Không tìm thấy nó hả chú Nam?
Anh lắc đầu:
-Trong đó tối quá, không thấy rỏ, nên tôi đi ra … không biết nó có chạy vào rừng cao su rồi quên đường về không?
-Lúc chiều nó cũng ở loanh quanh gần khu rừng chồi, chắc không đi quá xa, thôi tui với chú Nam chịu khó đi lên phía rừng cao su tìm thử xem, để tui cầm theo cái đèn
Thấy Ba Du nhiệt tình, lo lắng giúp anh tìm con Đốm, anh gật đầu và cả hai lội qua rẩy khoai đến ranh lô cao su, bóng tối lan ra che phủ những thân cây, tiếng côn trùng bắt đầu kêu rả rích. Ba Du chiếu ngọn đèn pin cũ về phía những bụi cỏ, Nam vừa đi vừa kêu thật lớn, nhưng không có động tĩnh nào đáp lại.Trời tối hẳn, cả hai quay về, Ba Du kêu Nam ở lại ăn cơm tối, anh lắc đầu đi cắt ngang qua rẩy và con suối về nhà.
Nấu bửa tối và ngồi ăn một mình, Nam suy nghĩ không biết con Đốm chạy đi đâu, buồi chiều nó còn quanh đó rồi đột nhiên biến mất, chắc chắn là nó không bao giờ bỏ đi, còn mấy tay du kích thì cả ngày hôm nay đâu có đi tuần trong này … vậy mà tìm cả buổi chiều vẩn không thấy nó.
Bửa tối ăn xong, Nam đang ngồi trên khúc gổ trước sân thì Ba Du và con Ki qua, anh ra đốt đống lửa trên sân, hi vọng con Đốm nhận ra ánh sáng để tìm đường về nhà, Nam nói với Ba Du:
-Chắc nó không đi đâu xa, nếu sáng mai anh Ba không bận công việc, mình đi tìm con chó thêm một buổi sáng nửa
-Lúc này tui đang rảnh, nên ngày mai tui với chú Nam đi xung quanh khu này để tìm nó về, còn hai ngày tới, mình sẽ ra đập mở ba cửa lớn thêm cho nước mau hạ xuống, cố gắng làm thật nhanh chóng
Nam gật đầu, và phần nào câu chuyện của Hai Tuất kể về người đàn ông hỏi mua cái chén cũ ở nhà ông ta với giá cao, làm anh và Ba Du thấy vững tâm, ngồi hút xong điếu thuốc lá, Ba Du dẩn con Ki đi về nhà, ngồi nghĩ ngợi thêm một lúc, anh ra dập tắt đống lửa và vào nhà.
Buổi sáng Nam và Ba Du trở lại rừng cao su để tìm con Đốm, có cả con Ki đi theo nhưng nó thì thích chạy lùng sục tìm bắt mấy con rắn mối, thằn lằn khắp nơi. Sau độ nửa tiếng, không thấy có dấu hiệu gì của con Đốm ở đây, nên quay về.
Cả hai quay về tìm ở phía sau khu vườn cây nhà Ba Du, ra sục sạo tận mấy bụi tre nằm tận trong cùng giáp với khu vực đồi đá lởm chởm, nơi mà con chó của anh và Ba Du cũng khó vượt qua.
Nam tỏ ra thất vọng, mặt trời lên cao đang phả ra hơi nóng oi bức, cả hai quay về nhà uống nước và ngồi hút thuốc trước sân, anh thấy buồn vì coi như đã mất nó.
Anh cầm cây rựa đi về nhà, còn Ba Du chuẩn bị xách thùng ra tưới cho đám bắp non mới nhú lên.
Đi ngang qua đám rừng chồi, như có linh tính thúc giục, anh lại vào đó lần nửa để tìm con chó, vì nghĩ nó chỉ có thể mất tích ở đâu đó gần nhà, mà rừng chồi là chỗ Nam nghĩ đến đầu tiên.
Dùng rựa gạt những nhánh cây che phía trước, Nam đi chầm chậm dưới tàng lá và quan sát tìm dấu vết, ban ngày ánh nắng chiếu xuyên qua vòm cây giúp anh nhìn quanh các tảng đá, gốc cây rỏ hơn buổi chiều hôm qua. Những con kiến đen bị đánh động hung hăng bò ra khỏi tổ, vài con bám được lên bàn chân và cắn đau nhói, Nam cố chịu đựng cơn đau và đi tới, dùng rựa chặt những cành cây rậm che kín mặt đất bên dưới.
Ra gần đến bớ hồ, anh chú ý dưới một bụi cây có vài nhánh bị gảy, mặt đất có dấu vết xáo trộn, Nam ngồi xổm trên mấy tảng đá, thấy có những đốm màu nâu đen dính trên đó, nó giống như vết máu khô, trên một nhánh gãy còn dính một miếng vảy nhỏ như da rắn. Anh lần theo dấu vết trên đám lá khô, và cúi xuống thấy bên dưới hốc đá có một hang khá to, cái hang mà lần trước hai con chó thò mủi vô đánh hơi, cẩn thận Nam lấy rựa chọc vào đó hai, ba lần để xem có rắn hay con vật nào trong đó, không thấy có động tỉnh gì, anh dùng tay lật hai phiến đá ra hai bên, miệng hang bây giờ hiện ra to hơn và có lốm đốm dấu máu khô đen và vài túm lông nhỏ.
Đầu óc Nam tỉnh hẳn, anh đưa cây rựa vào thử, có vẻ cái hang rất sâu, vậy là có thể con Đốm bị con vật nào đó tấn công và giết chết ở đây. Anh nhanh chóng chạy ra ngoài, thấy Ba Du đang còn giẫy cỏ gần đó, Nam kêu lớn:
-Anh Ba, anh Ba lại đây xem!
Ba Du bỏ cuốc đi tới chỗ Nam, anh đưa miếng da nhỏ cho Ba Du xem và nói:
-Tôi thấy có vết máu khô, cái này và một cái hang trong đám bụi rậm
Anh dẩn Ba Du vào đến nơi có cái hang, quan sát mấy vết máu ở rải rác xung quanh, Ba Du gật đầu nói:
-Có lẻ con Đốm bị trăn giết và ăn thịt ở chỗ này, cái hang của nó đó
Nam nghe Ba Du nói con Đốm bị trăng ăn thịt, anh nhìn Ba Du và cái hang sâu hun hút bán tín, bán nghi, ở trong này cả mấy tháng rồi, đi ra đi vào rừng chồi này vài lần rồi mà có thấy con trăn nào đâu. Nhưng anh cũng không đưa ra được câu giải thích nào cho sự mất tích của con Đốm, Ba Du ngồi xuống nhìn kỹ các dấu vết còn lại bên trên mặt đất, và cửa hang rộng, rồi nhìn Nam nói:
-Con trăng nuốt con Đốm và nó đang ở trong cái hang này
Nam nghe Ba Du nói một cách quyết đoán nên anh tin chắc là đúng như vậy, vì Ba Du rất cẩn thận, không hay nói nếu không thấy chắc chắn.
Cả hai đi về nhà Ba Du bàn cách bắt và giết con trăn này vì cái hang của nó nằm ngay trên khu vực chôn giấu cái hai thùng và riêng Ba Du thì lo sợ là sau con chó Đốm, đến lúc con Ki sẽ có lúc bị nó ăn thịt, việc này cấp bách, Ba Du đưa ra ý kiến:
-Con trăn này chắc lớn, làm hang gần sông, hồ thường là trăn gấm, nó mới vừa ăn con Đốm, chắc phải gần nửa tháng mới tiêu hết, nhưng nếu nhử mối sống gần hang, có thể nó sẽ bò ra để bắt mồi …
-Đặt mồi trong bẫy bằng gà sống được không anh Ba?
-Ừ, phải đóng cái bẫy tre, cột con gà trong đó, khi nó bò vô đó, cửa sẽ sập xuống, nhưng để chắc ăn, vì gặp con trăn lớn nó có thể phá bẫy để thoát ra, mình gài thêm dây thòng lòng để không cho nó xổng
Nam nghĩ Ba Du biết về cách đặt bẫy thú, rồi thêm phần tức giận con trăn nên nói:
-Bửa nay làm cái bẫy luôn, tôi sẵn có dây dù lớn mình hay xài hôm trước được không?
-Ừ, chắc được, bây giờ đi chặt tre sau nhà làm luôn chú Nam
Ba Du lựa những cây tre già, thẳng đốn xuống cho Nam vác ra bên ngoài, rồi chặt ra thành từng đoạn ngắn hơn theo sự chỉ dẩn của Ba Du. Cả hai làm việc không ngơi tay, chỉ dừng lại uống nước hoặc ăn cũ khoai, cây trái hái trong vườn nhà … mục tiêu là đến cuối ngày hôm nay làm xong cái bẫy.
Ba Du khéo léo dùng dây lạt dẻo và các thanh tre nhỏ đóng chốt, và cột chắc các đoạn tre lại với nhau. Đến gần cuối buổi, cái bẫy tre dài gần thước, cao và ngang cỡ 5 - 6 tấc đã xong, Ba Du thử độ nhạy của cái cửa, thấy nó đóng sập xuống khá trơn tru khi con mồi bị lôi đi và nói:
-Chú Nam về đem sợi dây qua đây
Đem sợi dây qua cho Ba Du, thấy cái bẫy chưa được chắc chắn lắm, Ba Du chỉ cho anh làm thêm một hàng tre nằm ngang có khe trống ở giữa và chia cái bẫy ra làm hai phần, dây thòng lòng sẽ đặt ở đó, khi con trăn bò qua bắt mồi, thòng lọng sẽ siết lại và làm nó nghẹt thở, Nam gật đầu nói:
-Sáng mai tôi bắt con gà qua
-Sẵn bây giờ trời sắp tối, chút nửa tui với chú Nam khiêng nó ra đám rừng để trong đó, tránh ngày mai du kích đi tuần tra bất ngờ ngang qua đây
Khiêng cái bẫy vừa làm xong bỏ vào giữa đám cây, thấy hưng phấn, cả hai rủ nhau ra hồ tắm, nhưng chiều nay dạt lên phía bờ gần nhà Ba Du, tránh đến gần khu rừng chồi.
Sáng sớm, Nam ra cái chuồng sau nhà bắt một con gà trống lớn, và cầm theo cuộn dây dù to qua bên Ba Du. Đang ngồi hút thuốc chờ trước sân, thấy Nam mang qua đầy đủ dây và mồi sống, Ba Du cầm rựa cùng anh đi về khu rừng.
Đến gần cái hang, Ba Du xem xét chọn nơi thuận lợi đặt lồng bẩy gần một cây khá cao, gốc to cở hơn bắp chân, dùng rựa chặt bớt những cành, lá vướng víu. Đứng lên trên cái bẫy, Ba Du ngoắc Nam đến gần, cả hai kéo ngọn nó cong xuống như cánh cung rồi buông ra để thử độ dẻo dai, Ba Du gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Sau đó chỉ Nam cách buộc con gà ở ngăn bên trong và chọn vài cục đá nặng để trên nóc bẫy làm vật dằn, Ba Du cắt cuộn dây ra làm đôi, cột thành nút thòng lọng gài bằng mấy chốt tre nằm ở ngay giữa bẫy, đầu còn lại cột chặt vào ngọn cây bị kéo cong xuống để làm cần vọt, thấy lực kéo của nó quá mạnh, Ba Du bỏ thêm hai cục đá to lên nóc, rồi lấy cành cây phủ kín xung quanh, thấy có vẻ đã ổn, cả hai vạch cây cối rậm rạp đi ra bên ngoài.
Nam quay về lấy thùng ra tưới cho đám bắp non mới trỉa hạt tuần trước, nhưng đầu óc anh cứ tập trung nghe ngóng về phía khu rừng. Gần bên con suối, Ba Du đang dọn đống đá cuội bị lũ cuốn trôi xuống từ mùa mưa năm rồi, mỗi lúc con Ki chạy ra gần đó, Ba Du lại đuổi nó về nhà.
Một ngày yên tỉnh trôi qua, cuối buổi chiều Nam đi vào khu rừng xem tình hình, mọi thứ vẩn còn nguyên vẹn như buổi sáng, con gà trống nghe có tiếng động, dáo dác đứng lên kêu lục cục vài tiếng. Anh trở ra qua nhà Ba Du, nhìn Nam là biết con trăn vẩn chưa bò ra nên nói:
-Nó mới bắt con Đốm, nên chắc chưa đói … chờ thêm vài ngày nữa xem sao
Nam lủi thủi đi về, không có con Đốm, căn nhà vắng teo như những ngày đầu mới lên, quanh quẩn ra vào, anh lại nhớ Ngọc Minh. Hẹn với cô cuối tuần này rảnh sẽ vào thăm, nhưng có nhiều bất ngờ xảy ra, sắp tới cũng khó mà biết trước còn bất ngờ nào ở phía trước hay không, Nam hy vọng đó là may mắn chứ không phải rủi ro.
Đi loanh quanh góc rẩy phía gần rừng cao su, thấy đám cỏ mọc lên cao gần đến ngực tạo thành bức tường màu xanh rậm rạp bít bùng, Nam dùng rựa phạt quang một khoảng trống nhìn qua lô cao su bên kia, trong rừng cao su hoàn toàn vắng vẻ và chẳng có người công nhân nào, anh nghĩ nếu có ai núp ở đây để theo dõi anh và Ba Du thì rất kín đáo, khó mà bị phát hiện.
Vòng qua nhà Ba Du, con Ki thấy Nam từ từ chạy đến ve vẩy đuôi, đứng trước hiên nhìn ra hồ thấy Ba Du kéo chiếc xuồng lên bờ và đang coi mấy chỗ bị rò rỉ nước, anh ra sau vườn hái ổi, xoài chín ra ngồi ăn trên tảng đá to trước nhà, lặng lẻ nhìn màu nắng vàng đang lung linh trải rộng khắp nơi, khu rừng chồi vẩn yên tỉnh lạ thường.
Buổi chiều anh đào một mớ trùng đất và ra bờ hồ ngồi câu, thỉnh thoảng Nam lại nhìn chổ mặt nước có tàng lá mọc che bên trên, trên mặt hồ phẳng phiu không có động tĩnh nào. Xa xa ở phía gần nhà, Ba Du có lẻ đã trám xong mấy nơi thấm nước, đang ngồi trên chiếc xuồng bơi thử ra ngoài hồ.
Giật cái cần lên vài lần, chỉ thấy toàn cá rô, lũ cá này hay đi từng đàn tranh nhau ăn mồi, mấy con khác khó mà đến gần, cá rô chiên giòn cũng ngon lắm, thêm chút rượu là đưa cay ngon lành. Khúc phía trên Ba Du cột xuồng vào bụi cây trên bờ, đang xuống hồ tắm và bơi ra xa bên ngoài, chút nắng chiều còn vương lại chiếu lấp lánh trên sóng nước lô xô.
Có tiếng con chó Ki sủa vang lên bên phía bên kia đám rừng, Nam dỏng tai lắng nghe tiếng nó sủa mỗi lúc một dữ dội, anh bỏ cái cần và đi lên bờ, chạy vòng ra gần phía con suối, con Ki đứng bên ngoài đang nhe răng gầm gừ. Nam nhìn vào phía trong thấy cành lá rung chuyển và có tiếng cành khô bị gãy kêu răng rắc, anh liền xông qua đám bụi rậm, càng đến gần chỗ cái bẫy, tiếng động nghe càng lớn, vào đến bên trong dưới bóng tối lờ mờ của tàng lá rậm rạp, mắt anh mở lớn và kinh hoàng nhìn thấy con trăn to dài bị dây thòng lọng thít chặt bên dưới cổ đang cuộn chặt con gà và phá tan nát cái lồng tre, thân mình to lớn của nó bị sợi dây dù cột trên ngọn cây cong vòng xuống kéo trì lại, cây lá, đất cát bắn tung ra tứ phía, con Ki chỉ dám đứng sủa từ xa, hai con mắt của nó cũng lộ rỏ nét kinh sợ con trăn. Nam vội vả chạy ra ngoài bờ hồ kêu lớn:
-Anh Ba, vào trong này nhanh lên, nhanh lên, nó dính bẫy rồi …
Ba Du đang bơi ra nghe Nam gọi thất thanh và tiếng con Ki sủa dai dẳng nên đoán ra chắc có chuyện, liền nhanh chóng bơi vào, anh đưa tay kéo Ba Du lên bờ và nói:
-Nó dính bẫy rồi, to ghê lắm, nó đang tìm cách thoát ra
Nhìn quanh không có vũ khí nào, Ba Du và Nam cầm hai cái mái chèo chạy nhanh vào đám rừng, bên trong tiếng động của cành lá bị con trăn quật gảy nghe răng rắc.
Xông vào đến nơi, thấy mấy đoạn tre của cái bẫy văng ra tứ tung, sức mạnh kinh hồn của con trăn kéo gảy ngang thân cây gần bên trên, bây giờ nó đang cố bò xuống hang, chỉ còn phân nửa khúc thân dài ở bên ngòai. Nam và Ba Du vung mái chèo đập mạnh xuống thân mình màu xám đen loang lổ, to như cột nhà, con Ki lao vào cắn nhưng bị cái đuôi dài của nó quật một phát văng ra bên kia, nó bị đau nên kêu ăng ẳng chạy lui ra ngoài. Con trăn bị đánh đau nên mau chóng bò thoát xuống hang, anh và Ba Du nắm sợi dây kéo ngược lại, nhưng không địch lại sức mạnh của nó, bây giờ con trăn bị sợi thòng lọng cột trên thân cây gẫy làm mắc kẹt ở cửa hang. Nam và Ba Du ra sức kéo con trăn ra lần nửa, sợi dây căng cứng, không nhút nhích, Ba Du lắc đầu nói:
-Nó mạnh lắm, không kéo lại nó đâu, hy vọng là thòng lọng không bị đứt, bây giờ cũng tối rồi, sáng mai mình vô lại xem sau.
Sáng sớm trời còn tờ mờ Ba Du đã qua đến, cả hai cẩn thận nhìn xung quanh rồi đi vào khu rừng chồi. Sợi dây thòng lọng căng cứng, con trăn vẩn đang bị kẹt dưới hang, Nam quay về nhà cầm theo cái cuốc và xẻng, anh và Ba Du ra sức đào mở rộng cửa hang, càng đào xuống sâu, bị đá cuội nằm bên dưới lớp đất chận lại, khiến kế hoạch phá hang của nó không thành công. Xác con gà bị nó xiết chết, xương cốt vở vụn chiêu hôm qua nằm rải rác trên đất đang bốc mùi.
Trở ra bên ngoài, Ba Du và Nam quay về nhà, ngồi hút thuốc trước sân, bàn cách triệt hạ con trăn càng sớm, càng tốt, Ba Du rủ anh ra bờ hồ nơi con suối chảy qua:
-Mình lấy xuồng bơi dọc mé khu rừng xem sao chú Nam
Ngồi trên xuồng bơi chầm chậm dưới những tàn cây che bên trên, đến gần khoảng giữa, Nam chú ý thấy có vùng nước đùng đục nổi lên giữa làn nước trong xanh xung quanh, anh kêu Ba Du và lấy tay chỉ:
-Bên dưới chỗ này bùn đất đang bị khuấy lên … nên nước bị đục
Ba Du chăm chăm nhìn xuống gật đầu:
-Để tui lặn xuống bên dưới …
Cởi bỏ cái áo kaki, Ba Du nhảy xuống mặt nước và từ từ chìm xuống, Nam bên trên chú ý theo dõi, vài phút sau Ba Du trồi lên, rồi lấy hơi và lặn xuống lần nửa, và lại trồi lên, không thấy ba Du nói gì, Nam ngồi chờ đợi, lấy thêm hơi, Ba Du buông tay khỏi be xuồng và chìm xuống, lần này kéo dài gần năm phút, rồi một đám bọt khí nổi lên mặt nước theo Ba Du, lên xuồng sau vài giây thở ra nặng nề, Ba Du gật đầu nhìn Nam:
-Cái hang của nó có chỗ thông ra hồ, nó đang giẫy giụa trong đó nên làm đục nước
Nam cởi bỏ áo, lấy hơi thật sâu rồi lặn xuống tìm chỗ nước đang bị khuấy đục lên, xuống đến đáy anh lờ mờ thấy dòng nước đùng đục thoát ra từ dưới một thân cây, anh kéo nó qua một bên nhưng không lay chuyển vì nó quá to, dùng tay thò lòn qua bên dưới thấy có khỏang trống, biết đó là cửa ra, anh nhanh chóng trồi lên vì hết hơi.
Cả hai bơi vào bờ, vì biết bây giờ không thể làm gì nó, đành phải chờ đợi thêm vài ngày cho nó đuối sức hoặc dây thòng lọng làm nó nghẹt thở, nhìn xuống mặt nước nơi đó, màu nước đục mỗi lúc một dầy đặc, con trăn đang dùng sức mạnh của nó chiến đấu và cố thoát khỏi sợi dây. Ai tinh ý bơi ngang qua gần đó sẽ thấy sự khác thường của màu nước, Nam đang còn suy nghỉ, thì con Ki nhìn ra hồ sủa, Ba Du đang ngồi hút thuốc chú ý nhìn ra. Nam nghĩ ngay đến Tư Có và mấy tay du kích sắp đi tuần qua hồ, anh chạy xuống lòng suối, lấy cái xẻng nhanh tay đào xúc cát, sỏi làm đục ngầu dòng nước chảy ra hồ và lan rộng ra vùng nước xung quanh, chiếc xuồng chở Tư Có và hai tay du kích lướt qua, ông ta nhìn Ba Du và Nam đang đứng dưới lòng suối xúc cát bùn thẩy lên bờ, và dòng nước đục ngầu chảy ra hòa tan với nước hồ thành vệt vàng nâu lớn. Chờ cho chiếc xuồng đi khuất, Ba Du gọi anh đến gần:
-Mình còn phải canh chừng lúc mấy tay đó quay về, bây giờ chú Nam đem cần qua đây ngồi câu, tui về nhà kiếm cái gì để ăn chiều nay
-Anh Ba chờ một chút xách cá về luôn
Nam chạy về chỗ cũ, đem cần qua và đưa mấy con cá rô cho Ba Du, anh nhìn trời, đoán chắc mới khoảng ba, bốn giờ chiều, hơn một tiếng nửa Tư Có mới quay trở về.
Ngồi thủng thỉnh vừa câu, vừa quan sát phía trên thượng lưu, mấy con cá dưới hồ bây giờ không còn làm Nam bận tâm, anh suy nghĩ không biết làm cách nào để giải quyết con trăn cho nhanh, nhớ lại lúc nó vùng vẩy phá tan cái bẩy, cành cây xung quanh gãy đổ như bị cơn bão quét qua, Nam vẩn còn cảm giác kinh sợ. Chắc hang ổ của nó ở đó đã lâu, nên không thấy bọn chồn cáo, chuột, sóc, chim chóc … sinh sống trong rừng chồi, con nào vào trong đó cũng bị nó giết chết, có thể cả mấy con cá dưới hồ cũng không thoát khỏi hàm răng sắc như dao của nó.
Ba Du trở ra mang theo chai nước và mớ trái cây vừa hái ngoài vườn, Nam cắt miếng đu đủ ăn và uống ngụm nước cho đỡ gắt cổ họng, Ba Du nói:
-Tối mai mình ra ngoài đập mở cửa lớn thêm
-Lúc này mình phải che giấu công việc cho thật kín, ở phía giáp ranh rừng cao su bên đất của tôi, có nhiều bụi cây cao rậm lắm, nếu có ai ngồi ở đó quan sát về phía nhà tôi và nhà anh Ba, rất khó để phát hiện ra họ
Ba Du gật đầu:
-Mọi ngày ra rẩy làm việc bình thường, buổi tối cũng phải cẩn thận
Nhìn thấp thoáng phía xa trên hồ, anh thấy bóng dáng chiếc xuồng đang bơi về, Nam và Ba Du ra con suối vét cát, sỏi thảy lên bờ và làm khuấy đục dòng nước. Lát sau chiếc xuồng bơi qua, Tư Có và mấy tay du kích đi thẳng về ngoài xã.
Quay vào trong đám bụi cây lần nửa, Nam và Ba Du nắm đoạn cây dây thòng lọng kéo mạnh nhiều lần, con trăn dưới hang vẩn kháng cự lại rất mạnh mẽ.
Trong bửa com tối, Ba Du hé lộ cho Nam biết là có cảm giác bị theo dõi từ xa, ban ngày cũng như ban đêm, điều đó không biết thật sự có đúng không, hay chỉ là vì nhạy cảm, và lo âu của Ba Du. Điều này khó biết, vì xung quanh nhà Ba Du và anh là rừng chồi, lô cao su, đồi trống, hồ nước … có nhiều nơi để ẩn nấp, cho đến bây giờ thì ít có ai lui tới khu này nhiều như du kích và công an xã.
Mực nước hồ đang hạ thấp, còn vài ngày nửa qua tháng ba, là mùa nắng khô khốc của miền đất đỏ bazan. Ba Du vào trong rừng chồi xem tình hình con trăn sống, chết dưới hang, rồi cầm rựa ra chỗ rẩy giáp ranh với lô cao su dọn bớt những bụi cây cỏ mọc um tùm quanh đó.
Nam cuốc đất trong vườn sau nhà, anh đoán chắc tình hình con trăn vẩn không thay đổi, có lẽ do dây thòng lọng siết chặt phía dưới cổ, nên không đủ làm nó ngạt thở chết, nhưng nó cũng không đủ sức làm đứt sợi dây dù to. Trăn và rắn có thể nhịn ăn nhiều ngày nhưng vẩn sống, huống chi con trăn này vừa có bửa ăn khá to là con Đốm.
Như đã hẹn trước buổi tối, Nam xuống bờ hồ chờ Ba Du bơi xuồng tới, thiếu tai mắt canh chừng của con Đốm và những nghi ngờ mà Ba Du vừa nói làm anh cẩn thận hơn.
Ba Du và chiếc xuồng trờ tới trong bóng đêm, Nam nhảy lên bơi ra ngoài hồ và đi về phía cái đập.
Đến chỗ cập xuồng dưới gốc cây me tây, Nam cầm cái tay quay và ra dấu anh sẽ lên quay trục cáp, còn Ba Du ở lại canh chừng. Đã hơn mười hai giờ khuya, xung quanh trạm mọi vật thật yên tĩnh, trong tàng lá tối đen trên ngọn cây me cao, vài tiếng chim cú mèo rúc lên nghe thê lương.
Nam khom người thật thấp đi đến phía sau trạm, dừng lại nghe ngóng một lát rồi lom khom chạy lên mặt đập tới chỗ những trụ bê-tông, sau khi tìm được vị trí đầu trục, anh đưa tay quay vào, và lấy hết sức quay cái cửa lên vài vòng, bất chợt trong khoảng tối, thấy có người đang ngồi ngủ dựa vào phía bên kia cái cột, rồi một khuôn mặt quay qua nhìn anh nhe rằng cười, làm Nam kinh ngạc và súyt nửa thì anh làm rơi cái tay quay xuống nền bê-tông. Định thần nhìn kỹ lại, Nam nhận ra đó là người đàn bà mất trí anh gặp đứng trước quán Năm Bình, anh đưa tay lên miệng ra dấu im lặng, bà ta lại cười và vẩn ngồi im trong bóng tối giữa hai cây cột bê-tông.
Anh nhanh tay quay cái cửa thứ nhất lên, đến cái cửa thứ hai, hơi bị vướng vì hai cái chân của bà ta duỗi dài ra, nên Nam phải bước tránh qua một bên, và đưa tay quay vào thao tác, sau cùng đến cái cửa thứ ba.
Xong công việc, Nam đưa tay lên miệng ra dấu cho bà ta giữ im lặng, trong bóng tối chỉ thấy hai con mắt của bà ta mở to nhìn anh như cười, quan sát động tĩnh xung quanh, không nghe tiếng Ba Du báo động, biết là an toàn, anh nhanh chóng chạy xuống và ra phía gốc cây me rồi lên xuồng, phụ Ba Du đẩy chiếc xuồng ra xa và bơi về.
Về đến nhà, Nam mới nói cho Ba Du nghe lúc lên đập gặp người đàn bà mất trí ở quán Năm Bình, Ba Du hơi sững người và lộ vẻ lo lắng, nhưng không hỏi gì thêm, cả hai rẽ đi theo hai hướng về nhà trong đêm tối âm u.
Buổi sáng ra bờ hồ gần khu rừng chồi nhìn xuống, vẩn thấy vùng nước đùng đục cuộn lên trên mặt hồ, hôm nay là ngày thứ ba, con trăn vẩn chưa chết, Ba Du gặp Nam nói:
-Mình vô trong đó kéo dây thòng lọng thật mạnh để nó siết con trăn chặt hơn bên dưới hang hy vọng làm nó chết sớm hơn
Đi vào trong đám rừng chồi, cả hai dùng hết sức kéo sợi dây căng cứng thật lâu, đến lúc thấy cả hai bắp tay căng lên và người mệt lử, Nam và Ba Du gần như thấy bất lực vì không làm gì được con trăn đang ở dưới hang sâu, ngồi nghỉ một lát sau cả hai đi trở ra bên ngoài.
Buổi chiều dặn Nam ở nhà, Ba Du chèo xuồng ra ngoài xã để dò xét tình hình sau bửa tối hôm qua Nam lên đập gặp người đàn bà mất trí ngủ ở đó, còn Nam thì nghĩ, nếu sáng hôm sau bà ta mà nói cho mọi người biết anh lên đập tối qua, chừng đó cũng đủ cho hôm nay công an và du kích vào đây bắt anh rồi.
Nhớ tới đợt bắp mới đang lên xanh, anh cầm thùng ra và xách nước từ cái giếng ra tưới,vừa làm việc, vừa theo dỏi trên hồ, vì sợ mấy tay du kích, công an lại bất ngờ đi tuần tra, nhưng trong bụng thì vẩn chờ đợi Ba Du ra xã về xem tình hình ra sao. Đến gần giữa trưa, Ba Du về đến nơi, Nam ra hồ chờ Ba Du tấp vào bờ và hỏi ngay:
-Tình hình ra sao anh Ba?
Ba Du mỉm cười:
-Không có gì, đến quán Năm Bình uống cà phê, đang ngồi nói chuyện, thấy bà ta đi qua đi lại trước quán vài lần, chắc bà ta mất trí rồi, không nhớ gì vụ tối hôm qua đâu …
Nghe Ba Du nói, anh thấy nhẹ người rồi mỉm cười nhớ lại lúc gặp bà ta tóc tai bù xù như đám rể tre và nhe hàm răng cười trong bóng tối, ai mà yếu bóng vía, chắc phải la lên và bỏ chạy …
Buổi tối Nam ngủ mơ thấy người đàn bà mất trí đi lang thang một mình lạc vào trong rẩy, một tay cắp cái giỏ mây, vừa đi vừa hát, thấy Nam đi ngang qua, bà ta đưa tay vẩy chào và sau đó quay ra đuổi theo những con chuồn chuồn bay lờ lững khắp nơi và rồi bà ta biến đi đâu mất, lúc đó anh thấy mình cũng đi lang thang tìm con Đốm trong đám mây sương mù bao phủ khu rừng chồi, nhưng chỉ nghe tiếng nó sủa văng vẳng từ nơi nào đó rất xa vọng về.
Sáng dậy, anh cố nhớ lại giấc mơ kỳ lạ đó, và nghĩ có lẻ do bị ám ảnh vì chuyện mất con Đốm và đêm đó gặp bà ta trên con đập.
Hôm nay ngày thứ tư, mực nước hạ xuống thấp hơn, vùng nước đục lại càng thấy rỏ, Nam lo sợ nên lấy xẻng ra suối xúc cát, đá cuội quăng lên bờ, mùa khô nên dòng nước bắt đầu cạn kiệt, nên không còn bao nhiêu nước chảy ra hồ.
Con trăn quái này dai dẳng quá, tình trạng vài ngày nửa mấy tay du kích đi tuần ngang qua hồ sẽ nhận ra sự khác biệt của hai vùng nước đục và trong này, và nếu tò mò tìm hiểu thì có nguy cơ bị lộ, nếu không kịp ra suối làm cho đục dòng nước chảy ra hồ.
Ba Du vẩn lặng lẻ làm việc ngoài rẩy sáng chiều, buổi tối lại qua ngồi nói chuyện với Nam, cũng trong tâm trạng chờ đợi cho con trăng chết ngạt dưới hồ, hút xong điếu thuốc rồi là đi về.
Đến ngày thứ năm, buổi chiều anh ra xem, vùng nước tại nơi đó đang dần trong trẻo lại, Nam lấy xuồng của Ba Du và cần câu bơi đến gần, cố quan sát cho kỹ hơn, đúng là nước đã trong xanh trở lại, chắc nó đuối sức rồi, sau nhiều ngày bị sợi dây siết chặc làm nó không bò đi đâu được, rồi từ từ làm nó ngộp thở.
Chờ cho trời tối hẳn, anh xách hai con cá vừa câu được qua cho Ba Du rồi cười nói:
-Chắc nó ngộp thở chết rồi, tôi thấy nước ở chổ đó đang trong xanh trở lại
Nét mặt Ba Du vui hẳn lên:
-Ngày mai mình vào trong đó xem lại, sau đó tui sẽ lặn xuống hồ xem cho chắc ăn …
-Sáng mai nếu con trăn đã chết, mình bắt đầu lại công việc tìm hai cái thùng nhé anh Ba, mực nước đã bắt đầu xuống nhiều, lặn xuống xem cái hang đó ra sao, hồi sáng tôi ngồi so sánh lại với vị trí nơi anh và Ba Du, nhiều khả năng chỉ có thể là Tư Có.
Sáng dậy, ăn uống xong rồi, Nam vác cuốc ra làm việc như mọi ngày, nhìn sang đất Ba Du, không thấy bóng dáng người nào. Mặt trời lên khá cao, anh nghỉ tay rồi ra chỗ cột chiếc xuồng, Ba Du đang đứng nhìn mặt hồ, mực nước sáng nay xuống nhiều, làm lộ ra những bờ đất đỏ xung quanh hồ, ai thường xuyên qua lại bằng xuồng sẽ dể nhận ra điều này, Ba Du chỉ tay về khu rừng nói:
-Tui vừa vô đó xem, có lẻ nó chết thật rồi, kéo sợi dây không thấy căng cứng như mấy ngày trước, gần đến trưa vắng mình lặn xuống xem bên dưới
Anh và Ba Du tản ra đi làm việc, tay thì làm, nhưng đầu óc Nam cứ nghĩ đến lúc lặn xuống cái chỗ cửa hang thông ra bên ngoài, có thể đó là tâm điểm làm thay đổi tình hình việc tìm kiếm, đang giẫy cỏ chợt nghe tiếng Ba Du gọi từ xa, Nam nhìn trời thấy đã gần trưa, anh đi ra bờ hồ. Lấy xuồng bơi đến nơi có tàng lá rậm rạp, không khí bờ hồ vắng lặng dưới ánh nắng trưa chói chang, anh cột xuồng vào nhánh cây cho nó khỏi trôi, Ba Du mặc quần ngắn lặn xuống trước, Nam xuống tiếp theo sau, mực nước không còn sâu, nên anh thấy lặn xuống dể dàng hơn. Bên dưới Ba Du xuống chạm đáy, đưa tay ra hiệu cho anh đến gần, và chỉ vào thân cây to nằm chắn lối ra cửa hang, Nam hiểu ý, cả hai dùng tay lăn nó khỏi vị trí cũ, nhưng một phần thân của nó bị lấp dưới bùn, cát nên vẩn nằm im tại chỗ. Cả hai trồi lên để thở, rồi lặn lại xuống và thử lay chuyển nó, nhưng như lần trước vần không thành công, Ba Du nói:
-Chú Nam lên bờ ngồi chờ, tui lên xuồng về lấy xẻng
Độ mười phút sau, chiếc thuyền quay lại, Ba Du cầm xẻng đưa cho anh, rồi nhanh chóng lặn xuống, đến nơi thân cây bị lấp, cả hai ra sức gạt, xúc lớp bùn đất ra hai bên, nhưng dưới nước, không làm được lâu, cứ ai hết hơi thì trồi lên nghỉ, rồi trở xuống và tiếp tục công việc.
Cuối cùng sau gần nửa tiếng, lớp đất bùn đã được xúc, gạt ra hai bên, và trong lần cố gắng cuối cùng, thân cây bị anh và Ba Du đẩy bật sang một bên, làm dòng nước bị khuấy lên đục ngầu.
Trồi lên để thở vài phút, vì tò mò và phấn khởi nên Nam và Ba Du lại nhanh chóng lặn xuống, đến nơi thấy cửa hang đã mở lớn ra, mấy ngày vừa qua, có lẻ do sức mạnh của con trăn lúc nó vùng vẩy, giẫy chết trong đó làm đất, cát sụp xuống thêm. Ba Du đưa tay thử vào bên trong và kéo mạnh làm những tảng đất đá khác rơi ra, nên cái hang rộng thêm, rồi thò cả nửa người vào bên trong, Nam hết hơi nên lên trước, lát sau Ba Du trồi lên thở hổn hển nói:
-Nó chết ở trong đó, tay tui sờ trúng thân mình nó rồi!
Anh phấn khích, nhanh chóng lặn xuống và nhoài thân người vào cửa hang, rồi đưa tay sờ soạng cái khối đen mờ mờ trong làn nước, mấy ngón tay anh cảm nhận được lớp da sần sùi bên ngoài, Nam thấy khiếp sợ vì thân mình to lớn của nó, cũng may là nó chết rồi.
Buổi trưa ăn xong, Nam lăn ra ngủ vì quá mệt, đến chiều khi Ba Du qua kêu thì mới tỉnh lại, nhìn Nam còn đang say ngủ, Ba Du cười nói:
-Tui cắt dây phía trên, lôi nó ra khỏi hang, và cột thân mình của nó luôn vào cái cây dưới đó, con trăn này dài cỡ năm thước, thân hình nó rất to, vào sâu bên trong, hang rộng ra và có không khí vì nó thông lên trên rừng chồi
Nam nghe xong tỉnh ngủ, bên trong hang sao giống với chỗ vòm đá mà anh đã nghe kể, nếu đúng là như vậy, thì đây là sự ngẩu nhiên hiếm hoi và may mắn lớn, Ba Du chắc cũng đang suy nghĩ tương tự, mỉm cười nói:
-Mực nước trong đó còn hơi cao, chờ một, hai ngày nửa thì lặn xuống để coi có đúng là nơi chôn hai cái thùng gổ không
Còn Nam nóng lòng muốn xuống đó nên nói:
-Bây giờ tôi xuống lần nửa để xem cái hang, anh Ba khỏi xuống theo
Để khỏi bị ai chú ý, anh luồn vào khu rừng chồi và vạch cành lá đi ra bờ hồ, mặc quần ngắn lặn xuống, Ba Du lấy cần ra ngồi câu chỗ gần đó. Nam xuống đến cửa hang và lặn sâu vào bên trong, đúng như Ba Du nói, nó mở rộng ra và có khoảng trống trên vòm hang ăn thông lên trên, trước khi chết, con trăn vùng vẩy cố thoát khỏi sợi dây làm một phần hang bị lở xuống, dưới đáy hang tối om có lớp bùn đất dầy, không biết có cái gì bên dưới. Anh bơi ra và trồi lên, đến ngồi bên chỗ Ba Du đang câu cá, Nam gật đầu xác nhận:
-Rất giống nơi chôn hai cái thùng, nước xuống thấp thêm nửa thì dể tìm hơn …
Ba Du cười rất tươi và vổ vai anh:
-Nếu đúng như vậy thì mình rất may mắn đó chú Nam
Hai ngày nay, anh và Ba Du hay ra hồ nhìn mực nước, ai cũng tỏ vẻ hưng phấn và hồi hộp, Nam nghĩ trong đầu, nếu không tìm thấy hai cái thùng đồ cổ ở đó thì chắc là nổi thất vọng rất lớn, và cả hai có thể chấm dứt luôn việc tìm kiếm.
Đến ngày thứ ba, mực nước đã hạ xuống nhiều, để cho chắc ăn, và tránh không để bị mấy tay du kích, công an đi xuồng tuần tra đột ngột phát hiện, Nam và Ba Du chờ đến buổi chiều gần tối là lúc mà ít ai ra vào trong vùng hồ, cả hai cầm theo xẻng đi xuyên rừng chồi ra bờ hồ và lặn xuống.
Chui qua cửa hang, Ba Du lấy trong túi nhựa ra đoạn đèn cầy và bật quẹt đốt, vách hang lộ ra dưới ánh sáng, bề rộng mổi chiều khoảng hơn một thước, nhiều tảng đá nằm bên trên tạo thành cái vòm, mực nước còn cao ngang bụng. Nam lấy cái xẻng xúc sâu xuống lớp bùn, cát bên dưới, lưỡi cái xẻng đụng vào những vật cứng, anh thò tay xuống thăm dò, nhưng thường gặp phải lớp đá do trần hang bị ngập nước lâu ngày và con trăn làm sụp xuống. Cái hang nhờ có đường thông lên trên mặt đất nên không bị ngột ngạt lắm, Ba Du dò phía bên kia cũng đụng phải nền đá, cuội, Nam cầm cái xẻng ra góc còn lại bên trái, phía này đất đá lở xuống nhiều, anh xúc lớp đất bùn trong góc qua một bên, được một lúc, lại thêm cát đất trên vách lở thêm xuống, anh kiên nhẩn xúc đổ nó qua chỗ khác. Nhìn lên trần, thấy bị hỏm rộng vào bên trong, anh đoán đất, đá ở đó đã lở xuống phủ lấp nền hang, nên anh từ từ xúc cho hết lớp đất, bùn, Ba Du im lặng soi đèn cho Nam hì hục làm.
Còn nơi này thôi, anh cắm mủi xẻng xuống và di chuyên nó qua lại, có vẻ bên dưới cũng chỉ là lớp đá, cuội, đưa cái xẻng vào sát góc còn lại và ấn mạnh xuống, lần này có tiếng va chạm với lớp ván gổ, Nam xúc lớp đất ở nơi đó ra và ngồi xuống thăm dò, lát sau anh moi lên miếng vải bố dưới ánh nến chập chờn, và gật đầu nhìn Ba Du, đưa tay sờ kỹ lại lần nửa, Nam nhận ra lớp gổ bên trên, liền nói:
-Chắc đúng là nắp thùng gổ rồi anh Ba
Ba Du nghe anh nói, hai mắt mở to, đưa Nam cầm đèn cầy và lặn hẳn xuống rồi đưa hai tay sờ rộng ra, lát lâu sau ngóc đầu lên và đưa cho Nam xem mảnh vải bố lớn, anh gật đầu cười và hỏi:
-Lớp bạt phủ trên nắp thùng gổ phải không anh Ba?
Ba Du cười gật mạnh cái đầu:
-Đúng vậy chú Nam, hai cái thùng ở dưới đó
Nam muốn hét lên thật lớn, anh bắt tay Ba Du thật chặt, rồi để yên tâm hơn, anh lặn xuống sờ vào hai cái thùng lần nửa. Ba Du chỉ tay ra ngoài, cả hai trồi lên và đi ra khỏi khu rừng, Nam đi lảo đảo một phần vì bị ngột ngạt vì ở lâu trong hang, và vì tâm trạng quá vui sướng, còn Ba Du thì liên tục vào vổ vai anh và cười:
-Thôi, về nhà tui nhé chú Nam, mình làm vài ly ăn mừng đi!
Lúc ngồi lai rai buổi tối, Nam và Ba Du bàn cách lấy các món đồ trong hai cái thùng lên một cách an toàn, Ba Du và anh đều đồng ý nên làm vào buổi tối , và trước nhất phải đào sẳn cái hầm nhỏ sau vườn nhà Ba Du để cất giấu ở đó vì xung quanh có nhiều cây cối rậm rạp che khuất, ít ai lai vãng đến gần mà không bị con Ki phát hiện. Bàn thêm chuyện xa hơn sau khi đã đem hết đồ cổ trong hai cái thùng lên, Ba Du nói với Nam tìm cách vận chuyển về Saigon:
-Không thể một lần đem vài ba món lên xe về thành phố, rất mất công và đi lại qua trạm nhiều lần có thể bị để ý
-Có thể giấu các món đồ trong giữa mấy bao đậu, bắp rồi móc ngoặc với mấy tay lái xe chở từng chuyến về dưới, nhưng cũng rất hên, xui may rủi khi qua trạm, nếu họ tình nghi bắt dừng lại để khám và phát hiện ra, thì tôi với anh Ba bị nguy hiểm, các món đồ sành sứ thì lại rất dể bể
Ba Du gật đầu và ngồi suy nghĩ, lát sau nói:
-Mai chú Nam ra xã mua thêm đèn cầy để khi cần sử dụng, rồi ghé vô quán Năm Bình uống cà phê nghe ngóng tình hình xem sao, còn tui vào trong buôn có việc cần gặp Điểu Rút, Điểu Sơn, có cần nhắn gì cho Ngọc Minh thì lấy giấy viết thư, sáng mai tui cầm theo đưa cho Ngọc Minh …
-Có chuyện cần họ trong đó giúp đỡ hay sao, anh Ba có định nói cho họ biết về hai cái thùng?
-Chắc việc này phải nhờ trong đó giúp một tay, chú Nam yên tâm, hai người đó có thể tin được Nam ngồi viết vài dòng lên mặt sau tờ lịch nhỏ cho Ngọc Minh, anh nói vì bận một số công việc nên chưa thể vào buôn thăm, nhưng hứa sẽ vào đó khi mọi việc xong xuôi, nếu cố có nghe được chuyện lạ từ Ba Du hay Điều Rút, Điểu Sơn, thì giữ im lặng. Uống thêm vài ly rượu, Nam bắt tay Ba Du ra về, tối nay anh quá sung sướng vì thành công đang ngấp nghé ngoài của nhà, anh đoán chắc Ba Du đã nghĩ ra cách vận chuyển các món sành sứ cổ an toàn về Saigon.
Sáng dậy, chuẩn bị ra xã, Nam ra bờ hồ thì Ba Du đã chèo xuồng đi từ rất sớm, anh đóng cửa nhà lại và lội bộ theo con đường ngoằn ngoèo, vắng vẻ ra xã. Đến nơi anh vào một tiệm bách hóa mua vài cây đèn cầy và diêm quẹt, gói thuốc lá.
Mới chín giờ sáng, chợ xã đang nhóm họp, kẻ mua, người bán toàn là dân sống trong vùng, trên đường khá vắng, lưa thưa vài người và vài chiếc xe đạp qua lại.
Anh đến quán Năm Bình, cái bàn phía bên ngoài có hai người đàn ông có vẻ là nông dân ngồi uống cà phê, hút thuốc nói chuyện. Năm Bình đã vào xưởng trong nông trường nên không có ở nhà, thấy Nam vào quán, bà xã ông ta nói:
-Cậu Nam uống đen hả?
Anh gật đầu, lát sau bà ta bê ly cà- phê ra để trên bàn và hỏi:
-Hôm nay anh Ba Du đâu không thấy ra đây?
-Anh Ba bận công việc trong đó chị Năm
Ngồi uống gần hết ly cà phê, tính về nhà sớm, bổng người đàn bà mất trí xuất hiện ngay cửa quán, bà ta đứng bên hàng hiên nhìn Nam cười, rồi đột nhiên đưa hai tay lên làm động tác như đang quay gầu giếng nước. Hai ông nông dân thấy lạ nên ngưng nói chuyện và chăm chú nhìn bà ta, một ông cười nói:
-Bà này chắc khùng
Người đàn bà cứ nhìn Nam cười và hai tay cứ quay đều, anh hơi khớp vì nghĩ bà ta đang diễn tả lại cách anh quay tay trục ở trên đập. Bà xã Năm Bình từ trong đi ra, thấy bà ta đứng ngay trước quán và làm hoài một động tác kỳ cục kia nên cũng bật cười nói:
-Bà khùng này trên thị xã vô đây, hôm kia bị công an bắt về đồn vì thấy bã ngủ ở trên đập nước, nên bắt nhốt mấy ngày để điều tra, mấy ông trong trạm nghi ngờ bã phá mấy cánh cửa, sau đó biết bã bị điên thiệt nên mới thả ra chiều hôm qua đó
Nam uống hết ly trà, gọi bà xã Năm Bình đến trả tiền, ra khỏi quán, anh cầm ít tiền lẻ cho người đàn bà đó, vẩn giữ nụ cười đó trên môi, bà ta cầm tiền rồi bỏ đi về phía chợ, anh suy nghĩ, tội nghiệp quá, sau năm 75, nhiều người tâm trí đang bình thường bổng trở nên điên loạn, cuộc đời họ sao nhiều xót xa quá.
Đến gần trụ sở ủy ban xã, Tư Có và một tay công an từ bên trong vừa đi ra, ông ta nhíu mắt nhìn anh đi bên đường. Nam đi thẳng ra và rẽ ngang qua trạm gác, thấy cửa nẻo đóng kín, ba cái cửa hình như đã được đóng bớt lại, vì nghe tiếng nước không còn chảy mạnh ào ạt.
Nam theo con đường cũ đi về, anh nghĩ có lẻ mấy tay công nhân trực bắt gặp người đàn bà mất trí ban đêm ở đó, và sau đó phát hiện ba cánh cửa đã được kéo lên quá cao, nên họ đóng lại để chận bớt lượng nước xả ra, và báo cho bên công an, nên bà ta bị bắt oan hết mấy ngày, có thể bên công an đang âm thầm điều tra về vụ này.
Về đến nhà, anh ra bờ hồ, không thấy chiếc xuồng, Ba Du vẩn chưa về đến. Nam qua nhà Ba Du, ra sau vườn cây tìm nơi kín đáo để chôn giấu hai cái thùng, đi qua mấy bụi chuối, chổ mấy cây ăn trái và sau cùng đến hàng tre rậm rạp, và phía sau nó là chân dảy đồi lởm chởm đá và cây rừng. Anh đào thử, lưỡi xẻng bị vấp phải nền đất cứng, nên rất khó đào sâu xuống bên dưới, anh quay trở lại khu vườn, thấy mặt đất gần mấy cây mít khô ráo, cầm xẻng đào thử thấy nó cứng, chắc nhưng vẩn đào xuống được. Nam quyết định làm cái hầm tại đó, nên hì hục một mình làm đến giữa trưa, nghe tiếng con Ki sủa, đoán Ba Du về tới, anh nghĩ tay và đi ra bờ hồ,
Ba Du cột chiếc xuồng vào cành cây, rồi nói vắn tắt:
-Điểu Sơn và Điểu Rút sẽ giúp mình vụ này, tui có đưa tờ giấy cho Ngọc Minh, đọc xong sau đó có nhắn chú Nam giử sức khỏe và cẩn thận, còn ra ngoài xã có tin gì không chú Nam?
-Công nhân của trạm gác bắt gặp cái bà mất trí ngủ ở trên đập, họ nghi bà ta phá mấy cánh cửa, bửa nay họ đã đóng bớt lại rồi, bà xã Năm Bình nói công an bắt nhốt bà ta để điều tra, sau đó thấy bà ta bị mất trí nên thả ra
Ba Du lắng nghe Nam nói rồi nhận xét:
-Mình phải cẩn thận nhiều, có thể bên công an và du kích vẩn còn đang điều tra
Lên đến nhà, anh dẩn Ba Du ra sau vườn, chỉ cái hố đang đào dở, Ba Du nhìn kỹ bên dưới rồi gật đầu. Chiều anh qua đào tiếp cho xong cái hầm, mỗi cạnh gần một thước, sâu gần thước rưởi, Ba Du chặt tre làm vách chèn bốn bên để đất không bị sụp xuống và nắp che bên trên rồi nói:
-Tối nay khoảng 10 giờ, mình bắt đầu lấy mấy món đồ cổ lên, chắc cũng phải hết ba, bốn ngày mới xong, tối khi ra khu rừng chồi, nhớ mang theo cái gùi, dây, gom theo nhiều cỏ khô để lót cho đồ không bị bể
Ngừng một chút, Ba Du giải thích cho Nam tại sao lại nhờ hai người S’tiêng giúp:
-Vì nghi ngờ bị theo dõi, nên tui nhờ Điểu Sơn âm thầm ẩn trên đồi phía sau nhà để quan sát và phòng ngừa chuyện bắt trắc xảy ra, trưa nay Điểu Sơn bắt đầu băng rừng ra đây, có lẽ chiều tối mới ra đến, mỗi ngày mình đem đồ ăn, nước uống ra phiá sau vườn tiếp tế cho Điểu Sơn, ban ngày tui và chú Nam cứ ra rẩy làm việc như thường …
-Còn chuyện chở mấy món đồ cổ này về Saigon bằng cách nào?
Ba Du hơi suy nghĩ rồi trả lời:
-Cũng có cách, sẽ bàn sau
Nam thấy khá yên tâm vì sự cẩn thận phòng xa của Ba Du, buổi chiều gần tối, anh qua bên nhà Ba Du lần nửa, Ba Du đang quăng cho bầy gà nắm bắp và nhìn tụi nó tranh giành nhau ăn kêu quang quác.
-Điểu Sơn đã ra tới, tui mới đem nước, thức ăn ra ngoài sau vườn, không có gì thay đổi, khoảng 10 giờ tối mình ra đó, tui sẽ báo hiệu bằng ba tiếng cú kêu – Ba Du nói
Nam gật đầu nhìn ra sau vườn nhà Ba Du, tiếng côn trùng bắt đầu kêu rả rích trong bóng tối dưới tàng lá và bụi cỏ.
Màn đêm đã buông xuống, trong căn nhà Nam nằm lắng nghe bên ngoài, chờ có tíếng cú kêu làm ám hiệu ra khu rừng chồi của Ba Du, xung quanh ngôi nhà tranh mọi thứ thật tĩnh lặng, anh nghe rõ tiếng bọn thằn lằn tặc lưỡi cắn nhau trên mái lá, đám chuột rượt đuổi trong các bụi cỏ.
Ba tiếng cú kêu từ rừng chồi vọng lên, Nam đeo gùi lên lưng, cầm rựa ra cửa sau đi xuống đó. Vào bên trong đã thấy ánh đèn pin tự chế sáng mờ mờ, Ba Du ra dấu cho Nam đưa cuộn dây, ra gần bờ hồ, tìm một cái cây to và cột một đầu vào đó, rồi chỉ vào cái bình nhỏ gần đó nói:
-Chú Nam uống nước nấu với lá cây trong buôn cho tỉnh táo, bây giờ mình xuống đó
Cả hai lặn xuống không khó khăn, vì hôm nay mực nước xuống đã nhiều, vào bên trong hang, Nam đốt hai cây đèn cầy lên, Ba Du đưa tay sờ nắp cái thùng nằm dưới khoảng tấc nước, rồi cẩn thận lấy rựa bẩy nó lên, cái thùng được đóng bằng gổ dầy, tốt nên Ba Du loay hoay một lúc lâu mà vẩn không mở ra được. Nam đến gần đưa bàn tay mò xuống xung quanh nắp, thấy nó được đóng đinh quá chắc chắn, suy nghĩ một lúc, anh nói:
-Chắc phải đào đất, cát quanh cái thùng rồi kéo nó xích lên bên trên để mở cho dể hơn
Thấy không còn cách nào khác, Ba Du gật đầu. Nam lấy xẻng, Ba Du dùng rựa cẩn thận xúc, đào hơn một giờ, cái thùng mới lộ ra một phần, Ba Du ra dấu cho anh cùng thử nhấc lên, nó vẩn không nhúc nhích, Nam lại đào tiếp tục dưới ánh đèn cầy, mồ hôi bắt đầu túa ra.
Sau khi thêm độ nửa giờ vất vả, Nam ra dấu ngưng tay, rồi cả hai lại thử lôi nó lên, lần này cái thùng chuyển động và từ từ được đưa lên khỏi mặt nước. Ba Du nhẹ nhàng lấy cái rựa mở từng góc và sau cùng nắp thùng cũng bật lên, Nam cầm bỏ nó ra một bên, đưa cây đền cầy đến gần, bên trong còn phủ lớp vải bạt dầy, Ba Du lật bỏ nó ra, những cái chén màu trắng, hoa văn xanh dương được chèn bằng vải dạ bóng lên dưới ánh sáng lung linh của hai ngọn nến.
Nam lấy từng cái chén xếp vào gùi và chèn bằng cỏ khô, được khoảng mười cái, thấy gần đầy gùi, Ba Du xếp mười cái chén khác vào gùi kia, ra dấu đi lên và tắt hai cây đèn. Cả hai theo cửa hang ra bên ngoài và trồi lên mặt nước, Nam nắm sợi dây từ từ lên bờ, Ba Du bám theo sau. Ngồi im trong bóng đêm dưới những tàng cây, dừng lại sau vài phút nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, Ba Du vạch lá thận trọng đi ra, quan sát bốn bề thấy yên tĩnh, quay lại ra dấu cho Nam, rồi cả hai nhanh chóng đi về nhà.
Ra sau khu vườn, nghe hai tiếng cắc kè kêu, báo hiệu an toàn của Điểu Sơn, Nam và Ba Du đi đến gần cái hố bên dưới gốc cây mít, Ba Du mở đèn pin, rồi lấy tất cã những cái chén trong hai cái gùi cẩn thận bỏ xuống bên dưới. Điểu Sơn xuất hiện từ sau bóng tối dầy đặc của bụi tre, Nam đưa tay ra bắt bàn tay ông ta và gật đầu, cho biết mọi việc yên ổn, Ba Du nhìn Điểu Sơn nói nhỏ:
-Đêm nay xong rồi, tối mai làm tiếp
Cả ba đi vào nhà, con Ki đến gần đánh hơi người đàn ông S’tiêng, nhưng Ba Du nhắc nó:
-Ki, người quen đó, mày đi ra ngoài
Nó nhìn Ba Du rồi ngoan ngoản chui qua cái lổ bên hông nhà ra ngoài sân, Nam âm thầm lẻn ra cửa sau đi về, trời đêm khuya gió thổi nhẹ từng cơn, anh thấy thấm lạnh nhưng trong đầu vui khắp khởi khi băng ngang qua rẩy về nhà.
Công việc tối qua làm người mệt mỏi, sáng nay Nam dậy muộn, tìm đôi dép nhựa dưới phản để xỏ chân vào, nhìn lại hai bàn chân còn lấm lem dấu đất bùn đỏ.
Nhớ lại tối hôm qua, lúc mở cái nắp thùng đầu tiên ra và lấy những cái chén quí giá ra bên ngoài, Nam có cảm giác như đang ở trong một giấc mơ, tinh thần anh hết sức khoan khoái, xong công việc này rồi, phải cho Ngọc Minh biết để cùng ăn mừng. Mở cửa ra ngoài sân, Nam nhìn về phía rẩy bên kia con suối, Ba Du đang tưới cho hàng bắp như chưa hề có chuyện gì xảy ra vào tối qua.
Ăn xong bửa sáng, anh cũng xách thùng ra tưới cho những hàng bắp lên xanh mướt. Công việc kéo dài qua gần hết buổi chiều, Nam ra sau vườn cắt quầy chuối chín, rồi qua chổ mấy cây điều, từ ngày vào đây, anh ít chú ý chăm sóc cho những cây điều đã được chủ cũ trồng từ nhiều năm trước, nên cũng không có được bao nhiêu trái, thỉnh thoảng lúc ra vào trong vườn, thấy những trái chín, Nam hái lấy hột, để khi rảnh nướng ăn. Anh ra đào trùng làm mồi sau khi xong mấy công việc kia , rồi xách cần qua gần chổ buộc chiếc xuồng ngồi câu cá.
Mực nước hồ hạ thấp, người đi câu bây giờ phải quăng cần ra ngoài xa, xung quanh bờ hồ lộ ra màu đất đỏ xen lẩn các tảng đá, nên chổ anh và Ba Du lên xuống hồ tối hôm qua để lại một số dấu vết, cũng may là chỗ đó ở dưới tàng lá và cây bụi mọc rậm rạp chìa ra mặt nước nên từ xa khó nhận ra, lát sau Ba Du ra hồ tắm, và nói với Nam:
-Cố gắng kết thúc công việc trong tối nay và ngày mai nghe chú Nam
Anh gật đầu, cầm hai con cá đưa cho Ba Du đem về, rồi đem số còn lại và cần câu đi ngang lòng suối rồi lội tắt ngang qua rẩy về nhà.
Tối nay Nam ra đến bờ hồ sớm, kín đáo lấy thuốc lá ra hút trong lúc chờ Ba Du tới. Gần giữa khuya, nghe tiếng sột soạt nhẹ và Ba Du xuất hiện, ngạc nhiên thấy anh ngồi đợi sẵn, đưa cho anh chai nước, Nam cầm lấy uống vài ngụm cho tỉnh táo, xong rồi cả hai nắm sợi dây lặn xuống hồ.
Vào được bên trong hang, Ba Du đốt hai cây đèn cầy lên, lấy xẻng xúc đất cát xung quanh cái thùng còn lại, anh cũng xúc trong góc nơi lớp đất đá trên vách rơi xuống chèn cứng, dùng tay dọn từng hòn đá ra chỗ khác, rồi dùng xẻng đào xung quanh cái thùng. Lát sau Ba Du ra dấu cho Nam thử khiêng nó lên, cố gắng hết mình sau vài phút, cả hai đưa được nó lên trên, hai cái thùng chiếm gần hết chỗ trong hang nhỏ chật chội, nên Ba Du lấy hết các món đồ còn lại trong thùng đầu tiên gồm vài chục cái dĩa sứ lớn nhỏ bỏ vào gùi, đeo nó lên vai và mang lên bờ.
Còn lại một mình, Nam lấy rựa mở nắp thùng, loay hoay khá lâu đến lúc Ba Du lặn trở xuống mới mở nó ra được, Ba Du dở lớp vài bạt phủ bên trên ra, dưới ánh hai ngọn nến là những cái bình, lọ, ấm trà rất đẹp, Nam đem hết ra bên ngoài để xem lớp bên dưới, anh lấy lớp vải lót dầy ra, bên dưới những cái tô, thố, bát xếp thành hai lớp nằm ở đáy thùng.
Ba Du xếp những cái lọ, bình xen kẽ với từng lớp cỏ khô vào cái gùi của mình, rồi kế tiếp là những cái tô lớn nhỏ và ba ấm trà được chèn kỹ càng bằng lớp vải, sau đó đeo gùi lên vai và lên bờ, số còn lại để tối mai.
Ba Du phải đi trở ra khu rừng thêm một lần nửa để mang hết số dĩa còn ngoài đó về, trong lúc Nam bỏ các món kia lần lượt xuống hầm, Điểu Sơn ngồi gần đó giúp soi ngọn đèn pin mờ mờ xuống bên dưới, Ba Du quay lại, cùng Nam bỏ những cái dĩa xuống và đậy cái nắp lên trên hầm, xong xuôi Điểu Sơn lấp đất lại và rải lớp lá khô lên trên để che giấu. Xong công việc, Nam ra dấu chào Ba Du và Điểu Sơn đi về.
Sáng sớm anh ra bắt hai con gà, cầm một con qua cho Ba Du và nói:
-Anh Ba và Điểu Sơn thịt con này, tôi còn một con ở bên nhà
Quay về nhà, anh lấy cơm nguội hôm qua ra ăn với cá trê kho ớt, mùi cay, nóng làm mồ hôi đổ lấm tấm. Xong bửa sáng, Nam sách cuốc ra đào khoai lang mấy nơi còn xót lại, đến hôm nay chắc số này cũng đã quá ngày thu hoạch, anh gùi về nhà xem số nào còn tốt xắc ra luộc phơi khô, vừa ăn, vừa đem vào cho trong buôn.
Tối nay là ngày cuối kết thúc công việc mang số đồ sanh sứ còn lại trong cái thùng gổ về cất giấu sau nhà Ba Du, rồi kế đến là lúc tìm cách vận chuyển tất cả về Saigon. Nên ban ngày tuy phải làm việc như một ông nông dân cần cù, siêng năng, nhưng tâm trí Nam lại luôn nghĩ về những món đồ cổ đã lấy lên khỏi đáy hồ, và kế hoạch sắp tới của riêng anh và Ngọc Minh, còn với Ba Du thì anh phải chờ hỏi lại sau.
Buổi chiều xuống chầm chậm, món gà kho gừng giúp bửa cơm chiều thêm ngon miệng, anh ăn thêm luôn vài trái chuối chín để có sức làm việc tối nay.
Nam háo hức đến sớm ngồi dựa gốc cây chờ Ba Du, nhớ lại con Đốm và thấy thương nó, nhờ nó hy sinh mạng sống mà anh và Ba Du mới tìm ra chổ chôn giấu hai thùng đồ cổ. Anh nghĩ sau này nếu có về Saigon sống, anh sẽ nuôi một con chó khác và cũng đặt tên là Đốm để tưởng nhớ lại sự hy sinh của nó.
Ba Du vào đến, bửa cuối nên có vẻ phấn chấn, cả hai nhanh nhẹn lặn xuống hang và mang hết những món quí giá còn lại và xẻng, rựa đem về. Lên trên bờ, Nam tháo sợi dây đang cột vào cái cây ra và cùng Ba Du đi về, định bụng ngày mai sẽ trở lại để dọn dẹp các thứ còn lại và xóa hết các dấu tích của mấy ngày vừa qua.
Cả hai ra phía sau và đi sâu vào bên trong vườn, Điểu Sơn đang chờ sẵn bên cái hầm đã mở nắp, Nam cẩn thận bỏ những cái bình, lọ xuống và phủ lớp vải bố lên trên, rồi đậy nắp hầm lại, Ba Du và Điểu Sơn dùng xẻng phủ lớp đất lên và ngụy trang trên cùng với lớp lá khô mục, rồi cả ba đi về nhà.
Giữa buổi sáng, Nam trở lại khu rừng chồi, len lỏi qua các bụi cây ra bờ hồ, dọn dẹp và xóa sạch các vết đất bùn trên bờ thật kỹ lưỡng, rồi quay ra ngoài. Đến nhà Ba Du, trời đang nắng gắt nhưng nhìn ra ngoài rẩy, Ba Du đang đi rải phân tro cho từng luống bắp, thấy Nam đứng chờ dưới bóng mát hàng mít, Ba Du nghỉ tay đi vào
-Điểu Sơn hôm nay còn ở đây không? – anh hỏi
-Tui nói Điểu Sơn ở lại thêm một, hai ngày rồi cùng vô trong đó với chú Nam và tui luôn
Cả hai ra sau vườn và đến hàng tre, Ba Du húyt sáo hai tiếng và len lỏi qua giữa các thân cây đến chân đồi, Điểu Sơn mắc võng dưới vòm tre rậm đang bước ra, ông ta bắt tay Ba Du và Nam:
-Chiều nay nhờ Ba Du hay chú Nam đưa tui về buôn được rồi
Thấy Điểu Sơn muốn về sớm, Ba Du đành gật đầu:
-Ừ, tui sẽ đưa Điểu Sơn về, tụi tui cám ơn anh nhiều lắm, kế hoạch kế tiếp như tui đã bàn với Điểu Sơn và Điểu Rút, chắc sẽ làm vào tuần sau
Điểu Sơn hơi suy nghĩ, nhưng rồi gật đầu nói:
-Ba Du tính đem đồ về Saigon bằng cách đó khá khó khăn, nguy hiểm, nhưng tui nghĩ chắc được, Điểu Rút cũng sẽ đồng ý
-Nếu cách đó được, tui sẽ giải thích cho chú Nam biết
Buổi chiều Nam lại qua nhà Ba Du để chào Điểu Sơn trước khi ông ta trở về trong buôn, những tia nắng cuối cùng làm ửng hồng góc chân trời phía tây khu rừng già, dưới các tàn cây bóng tối chập choạng xuống dần.
Ba Du và Nam đến mở cái nắp hầm lấy vài món cho Điểu Sơn va Điểu Rút làm kỹ niệm, Nam lấy cái xẻng gạt lớp lá, đất bên trên ra ngoài, Ba Du cúi xuống nhấc nắp tre bỏ lên trên, rồi lựa ba, bốn món đồ sành sứ lấy ra, thì có tiếng quát lớn từ phía sau lưng:
-Mẹ đứng im, đưa hai tay lên cao cho tao thấy, đứa nào nhúc nhích tao bắn vở sọ!
Nam kinh ngạc đứng im bất động và hai tay dơ cao, Ba Du cũng trong tình thế đó, anh nghe giọng nói này khá quen, còn Ba Du đã đoán ra là ai, ông ta gằn gằn nói tiếp:
-Mẹ tụi mày tổ chức phá hoại đập nước, rồi lén lút ăn cắp mấy món đồ cổ về giấu ở đây, tao nghi ngờ và theo dõi tụi mày cho đến hôm nay thì …
Nam im lặng đứng nghe Tư Có nói, đầu óc đang rối bời, rồi bổng nhiên đang nói đến đó thì nghe Tư Có thở mạnh ra một tiếng, có tiếng thân người ngã đánh huỵch trên mặt đất, anh nhìn qua vai thấy Ba Du đã nhanh nhẹn xoay người ra phía sau, anh cũng vội vã xoay lại để nhìn, Tư Có đang nằm sóng soài trên mặt đất trong bóng tối của hàng mít, vùng cổ bị cắm một mủi tên đen nhỏ, khẩu súng K-54 ngắn văng ra bên cạnh. Nam thấy như trút khỏi vai cục đá nặng ngàn cân, bóng Điểu Sơn bước ra sau bụi tre rậm, trên tay còn cầm một ống trúc dài đen bóng dùng để thổi tên độc khi đi săn trong rừng, Ba Du bước đến gần Điểu Sơn xúc động nói:
-Điều Sơn đã cứu mạng tui và chú Nam, cám ơn anh rất nhiều …bây giờ thì Tư Có đã biết rồi
-Ông ta chỉ bị tên độc làm bất tỉnh chừng nửa tiếng thôi, chưa chết đâu Ba Du
Ca ba đứng suy nghĩ về tình huống bất ngờ này, không thể giết chết và thủ tiêu Tư Có, cũng không thể thả ông ta ra được, làm gì với tay đội trưởng du kích xã đây, giữa lúc Nam và Ba Du thấy bí, Điều Sơn lên tiếng:
-Chút nửa tui dẩn Tư Có vô rừng, nhốt vô hang kín rồi sẽ tính sau, bây giờ trói và bịt mắt ông ta lại, khi trời đã tối Ba Du lấy xuồng chở tui và ông ta về bờ hồ gần rừng nhé
Anh và Ba Du thấy tạm ổn và nhẹ người, Nam cắt dây dù và miếng vải kaki đưa cho Ba Du, rồi phụ trói Tư Có và bịt mắt lại, Điểu Sơn rút mủi tên tre nhỏ sau gáy của ông ta ra, lấy khẩu súng K-54 và cái ống nhòm đang đeo trên cổ bỏ vào gùi. Ba Du lấy hai cái chén và hai cái dĩa rất đẹp cho Điểu Sơn, trịnh trọng nói:
-Cám ơn Điêu Sơn rất nhiều, cái này xin tặng trước cho Điểu Sơn và Điểu Rút làm kỹ niệm
Nam ra bờ hồ lấy xuồng chèo xích lên phía trên gần bờ đá lởm chởm, nơi này khuất, từ phía sau vườn nhà Ba Du ra đến đây cây cối rất um tùm, anh trở lại chỗ cũ, Tư Có nhúc nhích cục cựa, la ú ớ, chờ cho ông ta tỉnh hẳn, Ba Du và Điểu Sơn xốc nách Tư Có ra phía bờ hồ nơi chiếc xuồng đang chờ sẵn. Tư Có có vẻ muốn chống cự, nhưng còn yếu nên bị dìu đi và đưa lên xuồng, Ba Du cột hai chân Tư Có lại phòng bắt trắc, hai người đàn ông chèo về phía thượng lưu.
Quay lại trong vườn, Nam xóa kỹ mọi dấu vết xung quanh cái hầm vì biết chắc chắn ngày mai, xã sẽ cho người tìm kiếm Tư Có khắp nơi, rồi nhớ lại từ cuối buổi chiều đên bây giờ không thấy con Ki đâu hết, có lẻ vì vậy mà Tư Có mới vào đến trong này mà vẩn không bị phát hiện.
Nam vừa đi quanh nhà Ba Du, vừa kêu tên nó, nhưng bóng tối xung quanh vẩn im lìm, anh cầm cái đèn pin đi xa hơn về phía gần rừng cao su, đến giữa hai luống khoai mì, Nam thấy con Ki đang nằm ngay ở đó, anh chạy nhanh tới, nó nằm im lặng như chết, sờ tay vào thân mình nó thấy còn ấm, nhanh chóng bế về nhà, đốt cái đèn lên, đặt nó nằm lên tấm phản, quanh miệng con Ki sùi lớp bọt mép trắng, anh đoán nó bị Tư Có đánh bã làm cho nó mê man, có lẻ vì vậy mà nó chưa chết, Nam bắt đầu thấy ghét ông ta.
Để nó nằm đó chờ tỉnh lại, anh chạy về khu rừng chồi, lấy cái tay quay rồi ra bờ hồ quăng thật mạnh ra xa phía giữa hồ, về nhà xem mọi ngóc ngách còn thứ nào dính dáng đến chuyện này, anh đốt lửa lên và bỏ vào cho cháy tiêu, không để lại dấu vết nào.
Quay qua nhà Ba Du, Nam nhóm bếp lửa, lấy vài củ khoai to bỏ vào than nướng, con Ki sau một lúc nằm bất động bay giờ nhúc nhích mấy cái chân, năm phút sau nó mới ngóc đầu dậy và muốn đứng lên, nhưng còn bị ảnh hưởng bã mê, nên lại loạng choạng nằm xuống.
Chờ đến tối khuya, Ba Du và chiếc xuồng mới về tới, con Ki thấy chủ về nó ngóc dậy kêu ư ứ, Ba Du ngạc nhiên trố mắt nhìn, Nam giải thích:
-Tui tìm thấy nó nằm ngoài rẩy gần rừng cao su, có lẻ bị Tư Có đánh bã, mang nó về hơn cả tiếng bây giờ mới tĩnh lại
Ba Du tới gần nó vuốt ve và vỗ vỗ cái đầu, rồi quay qua nói với Nam:
-Chắc chắn du kích, công an ngày mai sẽ đi tìm Tư Có, khi họ hỏi chú Nam cứ bình tình trả lời không thấy, không biết, mình phải kiên nhẩn chờ rất lâu để họ thôi tìm kiếm Tư Có, lúc đó mọi việc sẽ trở lại như bình thường rồi tìm cách mang mấy món đồ cổ về Saigon.

(còn tiếp)