Bỗng Nam nghe có tiếng nói chuyện của hai người đàn ông, từ phía bên phải của khu rừng vọng đến chỗ anh đang đứng quan sát dòng suối. Anh quay về hướng đó, và tự hỏi có ai lại vào đây lúc sáng sớm, nghe tiếng nói chuyện thì không phải Ba Du.
Một lúc sau, Nam thấy hai người đàn ông, một người trung niên độ khoảng 35 – 40 tuổi, nét mặt xương xương, nước da xanh tái, đầu đội nón vải xám và mặc cái áo bộ đội cũ, cái quần tây bằng vải ni-lông đen, mà mấy ông du kích miền nam hay mặc khi ra làm việc ở trụ sở các địa phương sau ngày "giải phóng". Tay thanh niên còn trẻ, khoảng trên dưới 20 tuổi, hắn ta đeo cây M-16 trên vai, cách ăn mặc làm Nam nhận ngay ra đó là du kích địa phương .
Anh nhìn người đàn ông thấy hơi quen quen, nhớ lại lúc lên trụ sở xã lúc làm giấy tờ sang nhượng đất, có gặp ông ta một vài lần, lúc đó đang nói chuyện với tay chủ tịch xã, đeo sắc cốt chéo qua vai, chân mang đôi dép râu. Nam nghe ông chủ tịch xã gọi ông ta là Tư Có, có lẻ người đàn ông là đội trưởng du kích ở xã này.
Hai người kia vừa bước qua khỏi đám rừng cây cũng thấy anh, tay đàn ông trung niên bước đến chỗ Nam đang đứng, tay du kích lẽo đẽo theo sau. Cả hai ngừng nói chuyện, ông ta đi qua đám cỏ cao ngang gối, nhìn Nam với vẻ soi mói:
- Anh là người mới tháng trước tui gặp lên xã làm giấy tờ chuyển nhượng lại đất này của ông Năm Lọ phải không?
Nam nhìn thoáng khuôn mặt và đôi mắt nhỏ hơi đục của ông ta:
- Dạ đúng, lúc đó tôi lên xã để làm xác nhận giấy tờ với ông Năm cho đúng thủ tục và đăng ký với địa phương, có phải anh là xã đội trưởng Tư Có phải không?
Ông ta gật đầu, nhìn cây rựa Nam đang cầm trong tay:
- Anh tên gì, đi thăm rẫy hay sao sớm vậy, đậu, bắp… năm nay tốt không?
- Tôi tên Nam, thấy cũng không tốt lắm!
Nam không dám nói rẫy bái tốt, làm dân thời buổi bây giờ phải khôn, không thì cũng mệt với mấy ông chính quyền xã vụ thuế má, hay kiếm chuyện bắt đóng góp này nọ cho xã. Tay du kích đứng nhìn Nam lom lom, thỉnh thoảng hắn rít điếu thuốc lá, nhả từng bụm khói khét lẹt và nhìn bâng quơ qua bên kia bờ hồ.
Tư Có đưa tay xốc lại cái sắc cốt màu nâu đen, anh đoán trong đó có khẩu súng ngắn mà mấy tay đội trưởng du kích hay xài. Ông ta im lặng bước ngang qua mặt Nam và đi ngược về phía căn nhà của anh, tay du kích theo Tư Có đi dọc bờ hồ rồi khuất dần.
Hôm nay, anh định vào bên trong đám rừng chồi để tìm dấu vết hai thùng đồ cổ của chủ đồn điền Tây chôn giấu, nên Nam rất đề phòng, do đó khi Tư Có và tay du kích xuất hiện ở khu vực này, làm anh thấy thắc mắc.
Anh suy nghĩ, không biết Tư Có và tay du kích chỉ đi tuần như mọi khi, hay họ đi qua ngọn đồi bên kia để săn bắn, phía bên đó đi thêm khoảng 5 - 10 cây số nửa là đến vùng rừng già rậm rạp ngày xưa thuộc mật khu cũ chạy dài lên tận biên giới Campuchia, còn khu vực này chỉ còn rừng chồi, đâu còn thú rừng mà săn bắn.
Anh tính khi gặp Ba Du sẽ dọ hỏi về tay đội trưởng này để biết rõ thêm, dù sao Ba Du cũng đã ở đây gần năm, sáu năm, chắc hiểu rõ về Tư Có hơn anh.
Thấy họ đã đi xa, Nam tiếp tục tìm kiếm quanh khu rừng chồi, ở đây các nhánh cây, tầng lá rậm rạp và dây leo quấn quanh thân cây xù xì, làm đám rừng thêm âm u tối tăm, nó như một bức tường thành màu xanh chắn ngang lối đi từ hướng rẩy của Nam ngược lên phía đất của Ba Du.
Cách đây gần một tuần, Nam cũng đã lội vào đám rừng, nhưng hôm đó không mang theo rựa, nên anh không vào được bên trong vì đám dây leo và các bụi cây gai góc chằng chịt bên dưới.
Lần này, anh đi sâu vào giữa khu rừng để tìm kiếm manh mối chỗ chôn giấu hai cái thùng, vì chỗ này không quá xa nơi dòng suối đổ ra hồ nước. Dùng rựa dọn lối đi qua đám dây leo và bụi rậm, Nam thận trọng tiến vào, không khí càng vào sâu bên trong càng im vắng. Nghe tiếng động của chân người dẫm lên cành khô và lá bên dưới, vài con chim nhỏ nhanh nhẹ phóng vọt lên các cành cây cao, rồi tò mò thò đầu xuống quan sát và vung vẩy cái đuôi ngắn ngủn qua lại như thách thức kẻ đang xâm nhập vào lãnh địa của nó.
Không khí âm u trong khu rừng làm Nam thấy nặng nề, khó thở, anh cầm cây rựa phạt mạnh, chặt đứt những sợi dây leo thòng xuống che khuất lối đi, có lúc phải chặt thêm vài ba nhát nữa, mới dọn được cành lá đế lấy lối đi. Tiến lên thêm một đoạn vào gần bên trong, các bụi cây thưa dần, chỉ còn những thân cây to và các loại dây leo bò quấn quanh từ gốc lên tận bên trên các nhánh.
Nền đất bên dưới phủ một lớp lá vàng khô, những cái rể cây sần sùi nổi lên trên mặt đất giống những con rắn lớn, lan tỏa trong không khí là mùi ẩm mốc của lá mục, các nhánh cây chết lâu năm đang phân hủy.
Ở đây không thấy có dấu hiệu của những con thú như mễn, nhím, sóc … Nam bước lên lớp lá khô mục, từ từ quan sát xung quanh và đi ra gần bờ hồ. Trên đầu, các tầng lá giao nhau che kín, thỉnh thoảng mới lộ ra vài khoảng hở với màu trời xanh bên trên.
Nam cố gắng quan sát để tìm các dấu hiệu khác thường, nhưng ngoài dây leo, bụi rậm mọc trùm lên thân cây, các tảng đá nằm chồng chất khắp nơi, anh không tìm thấy được dấu hiệu nào lạ.
Nam trở ra theo lối cũ của lúc đi vào, bên trong đó bít bùng và độ ẩm cao làm anh thấy ngột ngạt nên mồ hôi ra ướt đẫm áo. Dùng rựa phạt đứt cành lá, dây leo lòng thòng đang cản lối, Nam cố bước nhanh ra ngoài, bầy kiến rừng đen làm tổ bên dưới những gốc cây và các tảng đá bị đánh động vì có người dẫm lên khu vực sinh sống của tụi nó, liền xông ra và bám vào chân tay Nam để đốt, gây ra những cơn ngứa ngáy, bỏng rát rất khó chịu.
Anh bước ra như chạy cho đến khi thoát ra được bên ngoài, không khí mát mẻ từ hồ nước theo gió thổi qua thật dể chịu. Hít vài hơi thật sâu vào buồng phổi, Nam lấy tay phủi mạnh những con kiến đang hung hăng đang tìm cách cắn, đốt hai cánh tay và hai bàn chân. Ra đến bờ hồ, Nam lấy tay vốc nước rửa sạch lớp bụi bặm dính trên khuôn mặt và thò tay chân xuống ngâm dưới hồ nước, làm dịu bớt những vết đốt của lũ kiến và côn trùng trong đám rừng.
*
* *
Mặt trời đã lên khá cao, thời tiết tháng chạp vùng bán sơn địa Bình Long vào mùa đông tương đối dễ chịu, tuy nhiên về ban đêm, nhiệt độ cũng xuống thấp nên khá lạnh.
Mấy hôm nay anh loay hoay nhổ cỏ, chăm sóc, bón thêm phân cho đám đậu xanh đã bắt đầu lên cao, rồi xoay qua làm cỏ, tưới nước cho đám bắp. Nhiều đám đậu và bắp bị bọn cào cào, dế, chuột … tràn ra cắn phá, chưa có kinh nghiệm với mấy vụ này, Nam chưa biết cách phòng trừ đám côn trùng này ra sao.
Anh mỉm cười và suy nghỉ trong bụng, đi tìm đồ cổ đâu không thấy, biết đâu chừng anh lại trở thành một tay nông dân chính cống. Thành phần mà mấy ông chính quyền cộng sản sau năm 75 hay ca tụng là giai cấp công – nông ưu tú lãnh đạo đất nước, được mạnh mẽ tuyên truyền trên báo chí và ra-điô.
Chắc phải qua gặp Ba Du để hỏi kinh nghiệm xem cách phòng chống mấy con cào cào, dế … này ra sao, Ba Du đã làm rẫy cũng ba, bốn năm rồi thì chắc biết rành vụ này, còn không thì đến lúc thu hoạch chẳng sót lại bao nhiêu.
Mang cái đèn tự chế mượn hôm trước qua trả lại Ba Du, Nam đi vòng khu rừng, băng ngang con suối qua phía trên. Những cây bắp trên rẫy Ba Du xanh tốt, và đã có trái to vì được trỉa hạt sớm hơn, đám khoai lang thì Ba Du trồng trên diện tích lớn, đến hôm nay các nhánh của nó bò xanh um trên mặt đất, gần khoảnh đất bên hông nhà, Ba Du trồng đậu xanh, nay cũng đã lên cao ngang đầu gối, đám đậu xanh tốt lắc lư mấy cái ngọn nhỏ theo luồng gió thổi lên từ hồ nước.
Phía trước căn nhà tranh im lìm, cánh cửa tre đóng kín. Trong sân đàn gà năm, sáu con, cả trống lễn mái đang nhủi đầu bươi dưới gốc mấy cây mít và điều, khi Nam đến gần, cả đàn bỏ chạy ra xa và nghểnh đầu lên kêu táo tác.
Con chó Ki không nhớ hơi Nam, nó nằm bên trong sủa văng vẳng. Hôm anh đến nhậu với Ba Du chủ nó, lúc đầu nó hậm hực nhưng bị Ba Du la, nên chạy lui ra góc nhà nằm ở đó, thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn anh và Ba Du xem có bỏ cho nó miếng xương cá nào không. Ba Du có vẻ thương nó, vì trong cái hóc bò tó này, nó là bạn chí cốt của Ba Du trước khi anh đến, chứ xung quanh đây có ai nửa đâu, lâu lâu Ba Du lại gắp miếng xương bỏ xuống, nó chạy đến ăn ngon lành lắm.
Lúc sau nó có vẻ nhận ra người quen, nên nó bớt sủa, và chỉ đứng gườm qua khe vách thưa. Đi theo lối mòn nhỏ ra bờ hồ nơi Ba Du hay cột chiếc xuồng ở đó, Nam dừng lại dưới gốc cây, nhìn ra mặt hồ mênh mông, nhưng không thấy Ba Du và chiếc xuồng đâu, anh đoán chắc Ba Du đã đi đánh bắt cá rồi, nhìn hồ nước mênh mông và rừng cây mọc xanh ven bờ, Nam thấy nếu có dịp chèo lui tới trên cái hồ rộng này để đánh bắt cá như Ba Du cũng thích thú. Anh nghĩ hôm nào rảnh rỗi, qua hẹn trước và xin Ba Du đi theo đánh bắt vài chuyến, sẵn đó quan sát cho biết hết địa thế của bờ hồ quanh khu này.
Nghe người dân ở đây kể lại, hồ này lớn và dài, phần cuối của nó giáp với những cánh rừng già ngày xưa là chiến khu, từ đó có thể đi theo các con đường mòn xe be vào khai thác gỗ, và của người thượng đi lên tận biên giới Miên.
Thêm nữa Nam cũng thuộc loại ưa phiêu lưu, xưa nay sống ở thành phố lớn, đã quen với không khí đô thị tiện nghi, đường xá, nhà cửa rộng rãi, nay vào đây, máu thanh niên trẻ nhìn cảnh rừng núi bạt ngàn, sông hồ bát ngát, hoang vắng nên cuồng chân muốn đi đây, đi đó để khám phá.
Đang mông lung nghĩ ngợi, bỗng Nam chú ý đến dáng một người đàn ông đang đi dọc bờ hồ khá xa ở phía trên, ông ta vừa đi vừa quan sát cây cối, bụi rậm chen lẫn với những tảng đá nằm rải rác khắp nơi, rồi đi một đoạn nữa về phía nhà Ba Du. Nam bắt đầu thấy rõ hơn dáng đi của ông ta, cái sắc cốt đen đeo trên vai và bộ quần áo làm anh nhận ra đó là Tư Có, tay đội trưởng mà mới cách đây vài ngày, ông ta cùng với tay du kích đi lòng vòng trong khu này. Nam ngồi thấp xuống phía sau một thân cây, xung quanh có vài bụi rậm mọc cao quá đầu gối, kín đáo nhìn xem Tư Có làm gì vào đây mà chỉ có một mình.
Mấy ông du kích ở vùng sâu, vùng xa này có thể hét ra lửa chứ chẳng kém ai đâu, dân thành phố bị đưa lên vùng kinh tế mới trên này, kể cả nông dân cũ có gốc tích ở đây từ ngày xửa ngày xưa cũng sợ, cũng không dám đụng đến.
Lúc còn chiến tranh, mấy ông du kích này ở trong rừng sâu thiếu thốn đủ thứ, họ sống và tồn tại nhờ vào sự che giấu, giúp đỡ của những người nông dân chân đất ở đây và trong đồn điền cao su. Thế nhưng sau chiến tranh, nhiều nông dân thất vọng vì sự giúp đỡ của họ bị lãng quên, hơn thế, nhiều nơi họ cũng bị đối xử tệ bạc như những người dân khác của chế độ cũ.
Nam quan sát Tư Có đi từ phía bên hông trái ra cái sân nhỏ trước nhà Ba Du, ông ta gần như cố nhìn vào trong căn nhà. Con Ki im lặng sau khi Nam bỏ đi ra bờ hồ, bây giờ đánh hơi có người lạ đến gần, nó sủa không ngớt, tiếng nó vang vọng trong căn nhà vắng. Tư Có bước đến gần vách tre thưa để nhìn vào phía bên trong, sau một hồi quan sát ông ta cầm khúc cây trên tay đập mạnh vào tấm phên cửa sổ làm con Ki càng sủa dữ hơn. Quay bước ra góc sân trái, Tư Có đứng nhìn đám bắp và đậu xanh đang lên xanh tốt, nét mặt lạnh lẻo như đang suy nghĩ chuyện gì.
Trước khi rời khỏi sân nhà Ba Du, ông ta nhìn xung quanh bờ hồ, và phía căn nhà của Nam, rồi lội ngang qua rẫy đi về phía rừng cao su của nông trường.
Đợi bóng Tư Có khuất hẳn, Nam thận trọng đứng dậy quan sát, vì biết đâu còn tay du kích nào đó đi lọt lại phía sau.
Nam tò mò muốn tìm hiểu xem Tư Có tìm kiếm thứ gì khi ông ta đi qua mấy chỗ đó, anh bước theo lối mòn nhỏ bên bờ hồ, rồi đi dọc hàng cây trước sân nhà Ba Du, con Ki đứng ở phía bên kia gầm gừ nhìn qua, nhưng không sủa, chắc là cái vách phía sau có lỗ hổng nên nó chui ra được. Khi Nam kêu nó, tiếng gầm gừ im bặt, nó quay trở về nằm trước sân nhà, anh đi ngược về hướng Tư Có lúc nảy vừa đi qua, đất chỗ này dần lên cao thoai thoải đến sát dãy đồi. Vừa đi vừa quan sát dấu chân ông đội trưởng còn lưu lại trên đám cỏ bị ngã rạp xuống, ông ta có lúc đi men bờ hồ, lúc lại đi sâu vào bên trong, khó biết ông ta đang tìm cái gì.
Càng đi sâu về phía trên này, cây cối mọc xen lẩn các tảng đá tạo nên khu rừng chồi nằm giáp với rừng cao su của nông trường, có lẻ ranh đất của Ba Du cũng ra đến chỗ này, nơi có hàng tre mọc dầy kín, nhìn những dấu chân của Tư Có vừa đi qua những bụi cỏ thành một vệt kéo dài từ rừng cao su, Nam đoán ông ta đi ra từ nơi đó.
Nam đi lên tận nơi cao nhất của dãy đồi, và nhìn về phía sau, thấy căn nhà của Ba Du nằm lẻ loi trên chân dốc chạy thấp dần xuống hồ, phía trước là hàng rào cây xanh che chắn. Xa hơn nữa là con suối chảy ra hồ nước, bây giờ nó như một đường chỉ ngoằn ngoèo cạnh khu rừng chồi rậm, còn căn nhà của anh thì nằm xa hơn về phía dưới.
Thấy đã đi quá xa, Nam quay trở lại, anh đi ngang đất Ba Du, lội xuống con suối, qua rẫy khoai mì về nhà.
Nhìn những cụm mấy xám vần vũ trên cao, và những hạt mưa lất phất bay, gió mùa đông bắc đang thổi về, đêm nay và sáng mai chắc trời trở lạnh.
Về nhà ăn trưa xong, anh nằm ngủ một giấc lấy sức, không gian yên tĩnh của rừng núi và cơn gió dịu mát dẩn anh vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Nam mơ thấy mình câu được một con cá rất lớn, cái cần câu bị cong oằn lại dưới sức nặng của nó, mỗi lần anh cố kéo nó lên khỏi mặt nước, nó liền vùng vẩy chống cự rất mạnh, cái thân to dài màu đen với cái đuôi quẩy mạnh đập xuống làm nước văng tung tóe. Từ nhỏ đến lớn, anh chưa từng gặp con cá nào khỏe và dữ tợn như vậy. Dồn hết sức mạnh của thân người vào hai cánh tay, Nam cố lôi nó vào sát bờ, con cá quấy cái đuôi to của nó và lặn sâu xuống làm nước hồ ở chỗ đó sôi lên sùng sục, con cá tiếp tục vẫy vùng hết sức dũng mãnh, còn Nam thì quyết tâm bắt nó chứ không để sổng. Cứ mỗi lần anh lôi con cá lên gần mặt hồ thì nó lại vùng vẫy cái thân mình đen dài và cái đuôi lớn thật dữ dội chứ không chịu khuất phục. Bất ngờ từ dưới đáy hồ có bóng một con vật bơi lên, cái hàm của nó đớp thẳng vào thân mình đen dài của con cá với một sức mạnh kinh khủng và lôi con mồi sâu xuống mặt nước, đồng thời kéo luôn Nam và cái cần câu xuống hồ làm anh chơi với trong làn nước lạnh mờ tối, cảm giác bị ngộp thở dưới vùng nước mịt mùng đó làm anh choàng tỉnh.
Vẫn còn bị giấc mơ kinh khủng đó ám ảnh đầu óc, Nam ngồi bật dậy và ra phía sau lấy nước rửa mặt cho tỉnh táo lại đôi chút. Mặt trời đã xuống lưng lửng ngang bầu trời xám xịt, anh đoán chắc khoảng hai, ba giờ chiều.
Ra khoảnh đất sau nhà gần chỗ cái chuồng gà cũ, Nam lấy xẻng đào lớp đất gần những bụi cỏ kiếm trùng đất làm mồi. Sau một hồi thấy đã đủ, anh lấy miếng lá chuối to bỏ đám trùng vào đó với nắm đất để bọn nó rúc vào và nằm yên trong đó, không bò đi lung tung.
Ra đến chỗ bờ hồ ngồi câu lần trước, anh móc mồi và quăng xuống, cái phao nhỏ nổi trên mặt hồ và trôi nhẹ ra xa.
Nhớ lại giấc mơ lúc nằm ngủ trưa, anh cố nhớ lại lúc con cá đen trũi và to mắc vào lưỡi câu, nó vùng vẩy ở đầu dây và lặn sâu xuống hồ, rồi bị một con vật to kỳ lạ, mà anh không kịp nhận ra hình dáng, tấn công rồi lôi nó và cả anh xuống dưới sâu, đúng là một giấc mơ kỳ quái.
Nam nhìn chăm chú cái phao đang trôi lờ đờ, chiều nay mặt hồ bị những đám mây xám trên bầu trời phản chiếu xuống, nên cả một vùng nước hồ mênh mông mang một màu tối nhờ nhờ.
Cái phao bị giật giật nhẹ vài cái rồi lại nằm im, Nam chú ý quan sát và đưa tay cầm hờ cần câu, lần này nó bị kéo sâu xuống và cái cần bị lôi theo, anh ghì lại, sức mạnh của con cá làm đoạn trúc trên cùng cong vòng rồi bật lên xuống vài ba lần. Bật đứng dậy, Nam bước lui về phía sau vài bước, nhấc con cá lên khỏi mặt nước và kéo nó vào bờ, con cá chép to với những cái vảy xám bạc trên lưng và đuôi màu đen, nó phải nặng hơn hai ký, đang giãy giụa trên đám cỏ xanh. Lấy sợi dây ni-lon xỏ qua mang nó và thả xuống nước để giữ nó sống, đầu dây còn lại anh buộc vào cây nhỏ sát bờ, phòng khi nó vùng vẫy tẩu thoát.
Nam móc lại mồi rồi quăng xuống hồ, cả ngày hôm nay anh không thấy bóng dáng Ba Du đâu. Bên kia bờ hồ là khung cảnh tịch mịch, vắng vẻ của ngôi làng nhỏ, mặt trời đang từ từ lặn về phía tây trên cây rừng ở phía xa xa. Lại có cá cắn câu, anh giật mạnh cái cần và lôi con cá lên bờ cỏ, con cá mè to nằm dẫy đành đạch, nắm chặt cái đầu của nó, Nam gỡ cái lưỡi câu ra khỏi mép và xỏ sợi dây qua mang, thả xuống hồ cùng con kia, giống cá chép và mè ở đây to lớn và háu ăn, cái hồ này giống như một vương quốc riêng biệt của tụi nó.
Từ ngày dòng suối bị ngăn lại thành hồ nước tràn ngập cái thung lũng nhỏ với vô số hang hóc khúc khuỷu dọc hai bên bờ, tạo thành nơi trú ẩn lý tưởng và nguồn thức ăn dồi dào cho bọn cá từ những nhánh suối nhỏ khác trong rừng đổ ra. Do có các điều kiện thuận lợi như vậy, nhiều giống cá có sẵn trong các dòng suối như chép, mè, rô … sinh sản nhanh và đạt kích thước to lớn trong lòng hồ mênh mông.
Thấy còn nhiều trùng, Nam móc lại mồi, quăng dây câu ra xa và lấy thuốc lá ra hút. Buổi chiều thanh vắng trong cảnh cô tịch dể lay động lòng người. Nhìn căn nhà tranh nhỏ đơn sơ nằm chơ vơ giữa đồi núi, màu xanh bát ngát của rẫy bắp, đậu, khoai chạy dài đến tận rừng cao su chập chùng bên trong làm Nam thấy trống trải, cô đơn.
Anh lại nhớ về Saigon, nơi anh có một tuổi thơ tuyệt vời trước ngày chiến tranh chấm dứt, ở đó có những thằng bạn sôi nổi, vui vẻ, hay phá phách nhưng học hành rất giỏi, và những cô bạn gái hiền lành, dể thương. Rồi những con đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi về chợ Bến Thành … cùng nhiều nơi khác mang đầy những kỷ niệm thời học trò của anh và tụi bạn.
Tuổi trẻ của anh đi rong chơi trên các con đường tuyệt đẹp đó của Saigon hoa lệ, mặc dù những năm, tháng đó miền nam đâu đã có hòa bình, anh nhớ nhiều về những ngày yêu dấu đó, nhớ cô bạn gái rất dễ thương đã bỏ Saigon ra đi, Nam lặng lẽ cúi đầu và muốn rơi nước mắt.
Mặt hồ chiều nay yên tĩnh quá, chỉ có những cơn gió lành lạnh cuối năm phảng phất thổi qua ngàn cây ngọn cỏ. Làn nước xanh trong gợn sóng lăn tăn, đàn cò trắng dăm con chen lẫn vài con lông nâu đang lặn lội dọc phía bên kia bờ hồ, cố vớt vát thêm vài con cá, con tôm… bỏ vào bụng trước khi bay về tổ, nằm xa tít tắp đâu đó phía cánh rừng già ở khu vực thượng lưu của hồ nước.
Chiếc phao nhỏ lại động đậy và chầm chậm trôi ngang làm Nam chú ý, anh đặt hờ tay lên cần câu phòng con cá nào đó ăn mồi rồi bất ngờ lôi mạnh.
Chiếc phao bị kéo vụt sâu xuống khỏi mặt nước, anh giật cái cần câu về phía sau và đứng dậy nhấc nó lên. Lần này Nam không cảm thấy có sự vùng vẫy, chống cự như hai lần trước khi cá dính câu, nhưng anh cảm thấy nó trì nặng nặng xuống. Nhìn dây câu căng lên và đầu cần cong chúc xuống, sợ kéo mạnh làm đứt sợi dây, Nam lựa thế lôi con cá từ từ vào bờ, khi thấy nặng tay và căng quá, anh lại lơi nhẹ đôi chút rồi tiếp tục kéo mạnh. Một lúc sau nó có vẻ mệt mỏi, nên không trì lại mạnh như lúc đầu, Nam nhắm thấy đã gần bờ, nên hai tay nắm cái cần câu dồn lực kéo con cá vào. Khi vừa lên khỏi mặt nước, ở đầu dây không phải là một chú cá to như anh chờ đợi, đó là một con ba ba suối màu đen. Nó đang bị lật ngửa trên cỏ, bốn cái chân với các móng vuốt quơ quào trên không, cái đầu nhỏ có cái mũi dài, nó đang cong cái cổ lên như muốn tìm cách lật thân mình trở lại. Nam biết loài này, bình thường thì nó rất nhút nhát, hay tìm nơi vắng vẻ để trốn tránh, nhưng khi bị bắt thì nó rất dữ tợn và tìm cách cắn lại.
Rất khóai chí, anh nghĩ đến Ba Du, con này mà làm mồi nhậu thì rất đã vì thịt nó rất ngon.
Nam vẫn để nó dính trên lưỡi câu, rồi vác cần câu lên vai và xách nó cùng hai con cá tòn teng trên sợi dây nhỏ đi về nhà.
Về đến nơi, anh cẩn thận gỡ con ba ba khỏi dây câu, rồi bỏ vào cái thùng phuy nhỏ có ít nước dưới đáy, chiều nay chiên con cá mè cho bữa tối, còn con kia Nam bỏ luôn vào trong cái thùng nước. Thịt hai con cùng một lúc thì quá dư, để nó với con ba ba sống thêm một, hai hôm nữa, khi nào hẹn Ba Du qua nhậu lai rai để giao hữu, sẽ chiêu đãi cùng một lúc vừa có cá chép, vừa ba ba một bữa cho xôm tụ một chút.
Nam thấy vui vẻ trở lại, cơn buồn phiền buổi chiều khi ngồi câu cá bên bờ hồ dường như biến mất. Anh thấy khoan khoái vì không ngờ cái hồ nước này có nhiều cá như vậy, bửa ăn thiếu thốn hằng ngày có thêm cá tươi ngon, lại có chỗ để giải trí khi rảnh rổi.
Anh định sáng sớm mai qua Ba Du hẹn trước, rồi về xem qua bắp và đậu xanh vì đã sắp đến lúc chăm sóc và bón thêm phân, qua khoảng một tháng nữa là đến mùa thu hoạch.
Còn thiếu món rượu, dù đường đi từ trong này ra ngoài xã cũng xa, nhưng Nam vẫn tính vác gùi lội bộ ra đó đong vài lít đế về để sẵn và nhân tiện mua thêm một số món cần thiết như xà bông cục, diêm quẹt, dầu hôi nếu ngoài đó họ có bán.
Từ ngày cách mạng vào giải phóng miền nam, nền kinh tế gần như sụp đổ, đâu còn nhiều hàng hóa như trước năm 75 để mua, cuộc sống của người dân hết sức thiếu thốn, cùng cực, nhất là mấy vùng thôn quê.
Xong bữa ăn tối “thịnh soạn”với món cá rán và rau muống luộc mọc gần bờ hồ, Nam thấy khỏe khoắn. Cuối tháng chạp nên trời trở lạnh về đêm, anh khoác thêm cái áo lính cũ màu xanh lên vai và ra ngồi trên khúc gổ phía trước hút thuốc, ánh đèn dầu mờ mờ từ trong nhà không đủ sáng đến ngoài sân, trời tối nhưng Nam đoán chừng mới khoảng hơn bảy giờ.
Không hiểu ngày hôm nay Ba Du đi đánh cá hay đi đâu mà không thấy tăm hơi. Những lúc nói chuyện với nhau, anh để ý thấy Ba Du rất ý tứ và giữ lời, không phải chuyện nào cũng nói hết cho Nam nghe. Dù sao thì anh cũng chỉ là người mới quen mà thôi, làm sao có thể biết được tất cả mọi nơi mà Ba Du thường lui tơi, hi vọng sau này khi thân tình hơn, may ra lúc đó Ba Du mới kể cho nghe.
Đang mơ màng suy nghĩ vẩn vơ, Nam nghe như có tiếng chó sủa vọng đến từ phía nhà Ba Du, tiếng con Ki sủa rất lớn trong không gian vắng vẻ về đêm. Anh nghĩ hay là có ai đến gần rình mò để trộm cắp đồ đạc, dụng cụ làm rẩy và mấy con gà. Nam cố nghe ngóng, rồi nghĩ đến hồi sáng nay, lúc gặp Tư Có đi ngang qua nhà Ba Du với thái độ dò la, tìm hiểu. Ngày mai nếu gặp Ba Du, anh sẽ nói chuyện về việc này để xem Ba Du phản ứng ra sao ….
Sáng nay trời mờ mờ sương, gió heo may thổi nhè nhẹ mang theo hơi lạnh từ hồ nước tỏa lan khắp vùng. Ăn sáng xong Nam cầm rựa ra khỏi nhà và đi về phía nhà Ba Du.
Mặt trời bị che lấp trong những đám mây bàng bạc ở phía đông, trên bầu trời thỉnh thoảng những đàn chim giang cánh bay về phương nam, anh nhìn lên, có lẽ đó là những con chim di trú, hằng năm bay về đó để tìm chỗ trú đông.
Anh lội bộ vòng qua rừng chồi, băng ngang con suối ở ranh giới giữa hai khu rẫy, dòng nước buổi sáng sớm thấm ướt hai bàn chân làm Nam thấy lạnh, anh bước nhanh lên những hòn đá trong lòng suối qua bên kia bờ.
Khi đi ngang qua chỗ Ba Du hay buộc chiếc xuồng, không thấy nó ở đó, anh đoán Ba Du chắc tối qua chưa về hay sáng nay lại đi sớm.
Cửa nhà Ba Du vẩn đóng im lìm, con Ki đang nằm bên trong nghe tiếng bước chân Nam đến gần, nó gầm gừ định sủa. Anh kêu tên nó vài lần và đi vòng ra phía sau để xem đêm qua có bọn trộm đạo nào cạy vách nhà vào khua khoắng đồ đạc, hay bắt đàn gà không. Mọi thứ vẩn yên ổn, mấy con gà còn đậu ở trên những cây tre dài gác ngang trong chuồng, để tránh rắn rít và chồn cáo vào buổi tối.
Nam để ý thấy có cái áo lính cũ Ba Du hay mặc khi đi đánh cá phơi trên cây sào tre khác với hôm qua, vậy là tối qua khi con Ki sủa, Ba Du có về rồi sáng nay lại đi sớm. Có chuyện gì mà Ba Du có vẻ tất bật, anh thử đẩy nhẹ cái phên cửa, nó đã bị gài chốt bên trong.
Suy nghĩ chốc lát, Nam quay về nhà và đeo cái gùi mây cũ lên vai, bỏ vào đó bình nước nhỏ và cây rựa để phòng khi đi đường rồi lấy cái nón vải đội lên đầu.
Anh đi dọc theo con đường ven hồ, từ trong này ra đến trung tâm xã nơi có ủy ban, chợ và hàng quán cũng gần bốn, năm cây số, vì vậy dân trong này ít khi muốn ra ngoài đó, trừ khi bị bệnh hoạn hay có dịp nào có xe máy cày hay xe chở hàng của nông trường đi ngang qua đây thì xin quá giang.
Nam đi ngang qua nhiều khu rẫy trồng đậu, bắp, khoai lang, mì … trên các triền đồi dốc của mấy ông nông dân trong vùng. Lúa rẫy ở đây chỉ trồng được vào mùa mưa, và dựa vào nước trời như của người thượng, nên mỗi năm chỉ trồng có một mùa và cho năng suất rất thấp. Nhìn những căn chòi của họ nằm chơi vơi giữa núi rừng, cũng giống như căn nhà của anh và Ba Du, xung quanh nhà trồng vài cây mít, xoài, điều ăn trái và lấy bóng mát, tàn lá lên xanh tốt.
Thỉnh thoảng vài đứa trẻ con quần áo sốc xếch, vá víu đang ngồi chơi trước sân nhà với mấy con chó ốm sủa inh ỏi khi thấy có người lạ đi ngang. Ngoài rẫy một vài người đang lui cui cuốc đất, nhổ cỏ bên những luống bắp, đậu, khoai mì … họ còn chẳng buồn nhìn ra con đường nơi Nam vừa đi qua. Không khí thêm thê lương, tiêu điều vì cảnh mùa đông ảm đạm và sự nghèo nàn, buồn bả của những khu kinh tế mới.
Nam cũng thấy chạnh lòng, nếu không vì máu mạo hiểm đi truy tìm hai thùng đồ cổ, chắc anh cũng không muốn đến sống nơi khỉ ho, cò gáy này.
Nghe ba anh và những người lớn quen biết trong gia đình nói trứơc năm 75, ở nông thôn, người dân đâu đến nổi đói khổ và thiếu thốn như bây giờ, đến thời này, thì thiếu thốn đủ mọi thứ, dân Saigon và toàn thể dân miền nam nếm mùi đau khổ. Chịu đựng không thấu, nên dân chúng ồ ạt vượt biên tìm tự do, dù họ biết cái chết đang rình rập họ ngoài biển khơi.
Nghĩ đến đó anh càng quyết tâm hơn, mong mỏi Trời Phật phù hộ cho mọi việc thành công để có cơ hội ra đi tìm cuộc sống mới ở nước ngoài.
Qua hết ngọn đồi thấp, Nam đã thấy con lộ đất đỏ lớn đi ra từ rừng cao su chạy về trung tâm xã. Tinh thần phấn chấn, anh bước nhanh hơn vì chỉ còn non cây số nữa là đến nơi. Lác đác có vài chiếc máy cày đỏ của Liên Xô kéo theo rơ-móc chạy trên đường, một hai chiếc xe đạp của công nhân cạo mủ trong nông trường lạch cạch chạy qua mặt anh.
Bên kia đường một tay du kích xã đang đứng dưới bóng cây điệp to nhìn Nam lom lom, có lẽ hắn thấy Nam là người lạ, nhưng khi thấy cái gùi trên lưng anh, hắn không muốn chặn anh lại để hỏi giấy tờ. Nam đi tiếp về phía chợ, tiếng loa rè rè của nông trường đang đọc thông báo phát lương thực cho công nhân.
Anh đi ngang qua con đập xi-măng lớn được xây chận ngang dòng suối để tích nước trong lòng hồ, gần đó có một căn nhà nhỏ của đội quản lý-bảo vệ, có nhiệm vụ theo dõi việc đóng, mở cửa cống để điều chỉnh mực nước hồ, trong mùa khô thì xả nước tưới tiêu cho dân mấy xã phía dưới trồng trọt. Nam nhìn thoáng qua đó, cửa ra vào và hai cánh cửa sổ mở toang hoang, phía trước có treo một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ đã phai màu. Giờ này buổi sáng mà không thấy ai làm việc trong đó, căn nhà trống không, chỉ có trơ trọi một cái bàn, hai cái ghế gổ và một số các ống tuýp, thanh sắt dài nằm dài trong góc nhà, có lẽ người ta dùng nó để đóng mở các cửa của con đập.
Anh rẽ phải theo con đường đất đỏ về cái chợ nhỏ, và mấy quán bách hóa nằm cách ủy ban xã khoảng hơn 100 mét. Dọc đường nhiều công nhân nông trường trong bộ áo quần đồng phục xanh đang vác những bao nhỏ đựng lương thực phát theo tiêu chuẩn, khuôn mặt họ đa số gầy gò, khắc khổ.
Vài đứa trẻ ôm sách và tập vở trên tay, lếch thếch dắt díu nhau đến ngôi trường nhỏ của đồn điền còn sót lại sau chiến tranh.
Anh đi ngang văn phòng của ủy ban xã ở trong một ngôi nhà tường gạch, mái ngói trên nền xi-măng khá cao lót gạch tàu, nó cũng là nhà kho cũ của đồn điền cao su nhưng chưa bị tàn phá nhiều, nên được sửa chửa lại để có chỗ làm việc với dân.
Tháng trước khi làm giấy tờ sang nhượng miếng đất rẫy, Nam phải từ Saigon lên đây nhiều lần để làm cho xong mớ thủ tục rắc rối, vì trình độ của mấy ông trong ủy ban quá yếu kém và quan liêu. Hầu như phần đông họ xuất thân từ du kích và cán bộ nằm vùng ở đây, riêng ông bí thư xã là bộ đội phục viên người Nghệ An, tiếng ông ta trọ trẹ, khó nghe.
Vừa qua khỏi ủy ban, Tư Có chợt xuất hiện từ ngôi nhà gạch nhỏ kế bên, phía trước mái hiên có vài tay du kích đang ngồi trên cái bàn dài quay ra đường, mấy cây súng M-16 dựng vào bức tường vôi vàng ố kế bên. Tư Có đeo sắc cốt và mặc bộ quần áo cũ nhầu nhầu, chân đi dép râu như hôm vào trong chỗ nhà Ba Du.
Khi hai người đi ngang qua nhau, Tư Có hướng đôi mắt lạnh lẽo nhìn Nam, anh hơi gật đầu và bước thẳng xuống con dốc về phía chợ.
Ghé vào tiệm tạp hóa nhỏ mua mấy món cần dùng, và hỏi bà chủ quán có bán rượu đế không, bà ta lắc đầu chỉ tay về phía mấy cái quán nhỏ bán cà phê nằm hơi xa ở bên kia đường. Quảy cái gùi lên vai và băng qua con đường đất, thỉnh thoảng mặt đường bốc lên những đám bụi mù theo bánh những chiếc xe vừa chạy qua, hay theo các cơn gió thổi ngang qua rừng cao su về đây.
Nam vào cái quán đầu, không khí vắng vẻ, trong quán có ba cái bàn và mấy băng ghế gổ bầy sơ sài, sát vách trong là cái bàn dài để mấy cái ly thủy tinh nhỏ, một cái cốc nhựa đựng muỗng cà-phê, vài cái ấm trà, cái ấm nước móp méo, đen kịt trên bếp than đang cháy.
Một người đàn bà trung niên, có lẽ là chủ quán mặc bộ bà ba nâu ngồi bỏ một chân lên băng ghế ở góc nhà, thấy có người vào quán, bà ta hỏi:
- Cà phê hay mua gì cậu hai?
- Quán có rượu đế không dì?
Bà ta liền đứng dậy, đi về phía cửa vào phòng trong, vừa đi vừa hỏi:
- Cậu mua mấy lít?
- Dì cho hai lít!
- Cậu có đem đồ đựng theo không?
- Không có, dì cho vô bình nhựa nhỏ rồi tính tiền chung luôn dùm …
Lát sau bà ta trở ra đưa Nam cái bình nhựa màu đen, tính tiền hai lít rượu và luôn cả cái bình, anh trả tiền rồi bỏ bình vào gùi và ra khỏi quán.
Thấy đã mua đủ mọi thứ như dự định, anh tính đi về nhà vì sợ cái nắng ban trưa. Vừa bước ra hàng hiên và tính băng qua bên kia đường, anh nhìn thoáng qua cái quán cà-phê kế bên, có hai người đàn ông đang ngồi ở cái bàn kê gần cửa sổ, thấy lưng áo người đàn ông ngồi xoay ra đường có vẻ quen quen, trên đầu ông ta đội cái nón màu xanh, vành nón rách te tua. Nam nhìn kỹ hơn và nhận ra là Ba Du, anh bước qua đường, tiến đến gần chỗ Ba Du và người đàn ông trung niên:
- Hôm nay anh Ba cũng ra ngoài này hả?
Ba Du nghe tiếng người quen liền quay qua:
- Ủa chú Nam, ra xã mua đồ hay đi đâu?
- Dà, ra mua thêm mấy món đồ dùng còn thiếu, anh Ba ra đây lúc sáng sớm?
- Ừ! giới thiệu anh Năm đây là chú Nam ở trong rẫy gần nhà tui!
Nói xong Ba Du quay sang phía Nam nói:
- Đây là anh Năm Bình làm bên nông trường cao su, còn đây là quán nhà của anh Năm!
Nam gật đầu chào và quan sát người đàn ông đối diện. Ông ta cũng trạc tuổi Ba Du, nước da hơi tái, con mắt bên trái hình như bị tật, mái tóc dài phủ hai tai và sau gáy điểm những sợi bạc, nét mặt mang vẻ hiền lành.
Ba Du nhìn Năm Bình và Nam nói tiếp:
- Trước chiến tranh gia đình anh Năm làm cho đồn điền cao su Tây, cho đến bây giờ thì làm công nhân trong nông trường, chú Nam uống cà-phê nhé?
Nam gật đầu rồi đảo mắt nhìn xung quanh quán, bàn ghế cũng bày trí tương tự quán kia. Riêng chủ quán bên này là một cô gái trẻ, nghe Ba Du gọi thêm ly cà-phê, cô liền ra sau cái bàn, rót nước sôi từ cái ấm trên bếp vào cái vợt vải màu nâu cho vào ly thủy tinh nhỏ có chút đường trắng ở dưới đáy, và bê nó ra bàn cho khách.
Nam nhấp một miếng cà-phê đen còn bốc khói, mùi thơm từ trong ly đưa thẳng lên mủi làm tinh thần khoan khoái.
Chợt Năm Bình nhìn Nam và nói:
- Cà-phê trồng trong vườn nhà tôi đó, mỗi năm thu hoạch được vài chục ký nên chỉ dùng để uống và đãi bạn bè, vẩn còn dư nên mở quán bán phục vụ bà con công nhân trong này thôi.
Tiếng Năm Bình có giọng Bắc nhẹ và dễ nghe, cách nói chuyện cũng thân tình, Nam đoán có lẽ gia đình họ di cư từ ngoài Bắc vào trong Nam và làm cho các đồn điền cao su Tây đã nhiều đời. Anh thấy lạ về việc trồng cây cà-phê ở đây nên hỏi Năm Bình:
- Trong nông trường cũng có trồng cà- phê sao anh Năm?
Như hiểu được ý của Nam, Năm Bình nói:
- Trước năm 75, có mấy người bà con ở cùng làng quê ngoài bắc, khi vào trong này họ định cư trên Ban Mê Thuộc, mỗi mùa nó ra quả đều đặn và gia đình hái chế biến ra cà- phê dùng trong nhà. Sau khi bố tôi mất, tôi tiếp tục lấy hạt trồng thêm, nên hiện nay cũng được vài chục cây!
Nam nghĩ hèn chi mùi của nó thơm quá, rất khác với ly cà- phê ở Saigon, chợt Ba Du nhìn Nam nói:
- Chú Nam vừa lội bộ ra đây phải không, vậy chút nữa lên xuồng về với tui luôn nghe!
Anh nhìn Ba Du tỏ vẻ cám ơn và gật đầu, bây giờ anh mới hiểu tại sao sáng sớm hôm nay qua nhà Ba Du mà không thấy chiếc xuồng. Năm Bình nhìn Ba Du mỉm cười nói đùa:
- Ông này siêng năng và giỏi giang lắm, biết làm đủ thứ, tôi mà có em gái là làm mai cho ổng liền!
Ba Du cũng cười, đôi mắt hơi nhíu lại dưới vành nón vải rách tua rua:
- Anh Năm “ca” tui quá, không quen biết anh ở đây thì tui khó sống đến bây giờ!
Cả hai cùng cười và có vẻ hiểu nhau nhiều, từ lúc biết Ba Du anh chưa nghe Ba Du nói về mấy người quen ở vùng này, còn nhìn qua cách nói chuyện vui vẻ, cởi mở của Năm Bình, anh đoán ông ta là người giao du rộng rãi, quen biết nhiều người trong nông trường và ngoài xã. Nhìn trời đã gần trưa, Ba Du đứng dậy:
- Cám ơn nhiều nghe anh Năm, tui đi về với chú Nam đây, hôm nào gặp lại!
Rồi cả hai đứng dậy bắt tay, Năm Bình quay vào trong nhà gọi:
- Hạ ơi, con đem cái túi của chú Ba ra đây!
- Dạ!
Cô gái có lẽ là con Năm Bình, nhanh lẹ đi vào nhà trong và cầm cái túi vải bằng bao cát màu xanh ra đưa cho Ba Du.
Nam chào chủ quán xong cùng với Ba Du rảo bước về phía bờ hồ, chiếc xuồng của Ba Du gửi một nhà người quen gần đó, đang nằm im dưới bóng mát của cây me tây, cành lá xum xuê của nó vươn ra xa trên mặt nước.
Ba Du bỏ cái túi vải xuống xuống và ngồi vào phía sau, Nam cũng hạ cái gùi xuống, tháo sợi dây đang cột vào một nhánh me lớn, anh lấy cái mái chèo nhỏ, ngồi vào phía trước xuồng và chèo phụ Ba Du. Chiếc xuồng nhỏ lúc đầu hơi tròng trành làm anh mất thăng bằng, không dám mạnh tay bơi, dăm ba phút sau ở phía lái, Ba Du chèo mạnh và chắc tay nên con thuyền bắt đầu lao nhanh về phía thượng lưu.
Thời tiết đã gần trưa nhưng trời dịu mát, Nam bỏ cái nón vải xanh ra khỏi đầu cho đỡ nóng. Anh lấy tay vốc nước mát lạnh từ dưới hồ lên rửa mặt, anh quay ra phía sau hỏi:
- Hôm qua đi đâu cả ngày mà không thấy anh Ba?
Ba Du ngập ngừng:
- Tui chèo xuồng qua xã bên kia sửa nhà dùm người quen bên đó, về hơi tối.
Nhớ lại Tư Có vào trong rẫy đi lần quần xung quanh nhà Ba Du, anh nghĩ nên cho Ba Du biết:
- Sáng hôm qua tôi tính qua nhà rủ anh chiều xong công việc rồi, thì qua lai rai vì tui có câu được con ba ba, gần tới nơi chợt thấy Tư Có đang từ phía trên đi xuống và dừng lại phía trước nhà anh Ba, rồi vòng ra phía sau, lát sau ông ta bỏ đi về lô cao su.
- Tư Có đi một mình hay với tụi du kích?
- Ông ta đi một mình, quan sát trước, sau có vẻ cẩn thận lắm!
Ba Du lặng lẽ chèo, vừa dỏng tai nghe Nam kể lại chuyện gặp Tư Có ngày hôm qua, và không tỏ ra lo lắng hay sợ sệt, dường như Ba Du đã biết hoặc đã nghe người khác kể về việc này.
Cả hai chèo mạnh tay nên chiếc xuống lướt nhanh trên mặt hồ vắng, phía sau có tiếng Ba Du hỏi:
- Hồi nãy chú Nam đi ra ngoài xã có thấy Tư Có ở đó không?
- Có, thấy ông ta từ đội du kích xã đi ra
- Sau này chú Nam phải cẩn thận khi gặp Tư Có và đám du kích
Nam thắc mắc không hiểu tại sao Ba Du nói anh phải cẩn thận khi gặp Tư Có và đám du kích xã, nhưng chắc phải có lý do nào đó.
Anh mạnh tay chèo, đàng sau Ba Du cũng im lặng nên câu chuyện chấm dứt và tiếp tục bơi, đôi tay rắn chắc của Ba Du nhịp nhàng lèo lái chiếc xuồng lướt nhanh dọc ven bờ.
Thoáng chốc sau, Nam nhận ra khung cảnh quen thuộc của cây cối, đồi núi dọc bờ, chắc sắp về đến nhà, anh ngoái cổ ra phía sau mời Ba Du lần nữa:
- Anh Ba, hôm qua tôi câu được con ba ba, hồi nãy ra xã mua hai lít đế rồi, trưa nay anh qua bên này lai rai nhé, có bận bịu việc gì chiều nay không?
Ba Du đang vui vẻ, tươi tỉnh, nghe có mồi ngon, mỉm cười gật đầu.
Cho chiếc xuồng cập vào bờ gần nhà của anh chàng hàng xóm trẻ tuổi, Ba Du cột chặt dây xuồng vào bụi cây cho nó khỏi trôi, và cầm cái túi vải lên đi sau. Còn Nam khoác cái gùi trên vai bước nhanh theo lối mòn lên con dốc, anh đảo mắt quan sát xung quanh căn nhà và hàng cây mít trước sân, mọi thứ vẩn nguyên vẹn như lúc sáng sớm anh đi.
Đẩy mạnh liếp cửa tre bước vào bên trong, anh bỏ cái gùi lên phản, lấy cây chống cái liếp cửa lên để gió và ánh sáng ùa vào, cái bình nhựa đựng rượu để lên kệ bếp, và bỏ cây rựa vào góc nhà.
Ba Du bước vào sau, leo lên tấm phản ngồi, bỏ cái nón và túi vải ra kế bên, rồi lấy thuốc lá ra châm lửa hút. Nam đi ra phía sau múc nước vốc lên mặt và hai cánh tay xối mạnh rửa sạch bụi đường.
Mở tấm gỗ đậy trên cái thùng nhốt con ba ba bên trong, anh thò tay định nắm lấy cái mai bắt nó ra làm thịt, con ba ba nhanh nhẹn xoay cái đầu để đớp về phía mấy ngón tay đang huơ bên trên, làm Nam phải rụt tay lại.
Đang lóng ngóng chưa biết cách nào bắt con thủy quái nhỏ mà hung dữ này, anh nghe tiếng chân Ba Du bước đến cửa, tay cầm một khúc tre ngắn:
- Để tui bắt nó làm thịt cho!
Đưa khúc tre ngay cái đầu của con ba ba đang hung hăng chờ cắn bất cứ cái gì đến gần, thấy đầu đoạn tre đưa tới, nó phập mạnh và cắn thật chặt, Ba Du nhấc nó ra ngoài và nói Nam đưa con dao, rồi kê cái cổ của con ba ba lên khúc gỗ chặt mạnh xuống, một dòng máu đỏ phun ra từ cái cổ nhỏ, còn cái đầu nó vẫn cắn chặt vào khúc tre.
(còn tiếp)