Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 17

Tựa Đề: Bí mật hai thùng đồ cổ

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default


    - Ừ, cũng còn nhớ mang máng, đôi lúc thấy tụi tui đi hành quân hay công tác ngang qua, ông ta đứng từ xa nhìn lại, anh em lính có khi cũng lấy tay chào, nhưng có vẻ ông ta không có thiện cảm lắm…

    Nghe Ba Du nói, Hai Tuất chậm rải giải thích:

    - Thật ra ông ta là người chủ tốt, trong thời kỳ chiến tranh mà đồn điền đang nằm trong vùng ban ngày là quốc gia, ban đêm thỉnh thoảng việt cộng mò ra, nên ông ta khôn ngoan không tỏ ra có cảm tình với bên nào vì sợ bị tụi việt cộng về hăm dọa công nhân và đốt phá nhà cửa … thỉnh thoảng khi còn lại một mình ba tôi ở lại dọn bửa tối, ông ta nói là biết một số công nhân trong đồn điền làm nằm vùng của tụi du kích trong rừng, nên không muốn rắc rối với tụi đó.

    Lấy bao thuốc lá của Ba Du để trên bàn mời Nam, rút một điếu Hai Tuất lấy quẹt châm hút và nói tiếp:

    - Đời sống công nhân cao su thời đó khá hơn bây giờ nhiều, dù bị mang tiếng là bóc lột nhưng được trả lương đầy đủ, con cái được đi học, bệnh hoạn có thuốc men hoặc đưa vào bệnh viện.

    - Ông ta về Pháp luôn hay có trở lại Việt Nam lần nào sau năm 75 không – Nam hỏi

    - Nghe mấy ông bên nông trường nói là vào năm 78, ông ta có trở qua Việt Nam và nhờ tòa đại sứ Pháp can thiệp về cái đồn điền cao su này, họ có đến ủy ban tỉnh hay sao đó, nhưng có lẻ thấy chuyện đòi lại đồn điền không dể dàng gì nên về bên kia luôn, không thấy trở lại nửa!

    Ba Du vừa uống xong ly rượu liền hỏi:

    - Nghe ba anh và công nhân nói tài sản ông chủ Tây rất lớn phải không?

    - Ừ, họ rất giàu có, tài sản rất nhiều, nhà cửa ở Saigon, Vũng Tầu, Đà lạt … và nhiều nơi khác, đặc biệt là ông ta mê sưu tầm đồ cổ Trung hoa, Việt Nam, Miên, Lào … nhưng quí giá nhất là các món đồ cổ Trung hoa và Việt Nam, khi ba tôi còn làm đầu bếp, đôi lúc ổng cho người làm chạy đến nhà kêu tôi vào ông nhờ chút việc, gặp ông chủ cũng đang ở nhà bếp, thấy tôi vào, ông ta vui vẻ cười, bắt tay và dẩn lên nhà trên giới thiệu với bà vợ, và cho rất nhiều bánh kẹo, đồ chơi, đồ đạc trong nhà sang trọng và đẹp lắm, tôi thấy có hai cái tủ gổ kính trong có trưng bày nhiều chén, dĩa, bình, lọ cổ … Sau đó không biết ông ta đem đi đâu, có người đồn là ông ta không đem về Saigon mà chôn giấu đâu đó trong khu đồn điền này …

    Nghe Hai Tuất kể đến đó Nam chợt tỉnh táo lại như người vừa bị luồng điện chạy qua, anh hút vài hơi thuốc lá cho đầu óc bình tỉnh, vậy là hai thùng đồ cổ ông quản gia kể lại với ba anh là có thật, nhưng nơi chôn giấu thì Hai Tuất cũng không biết, có chắc là nó ở dưới bờ hồ đó không hay ở đâu?

    Hai con chó lớn đang nằm im lìm dưới tấm phản đột nhiên nhổm dậy chạy ra sân sủa vang, mấy con chó nhỏ đang nằm ngủ chen chúc bên nhau, cũng lồm cồm bò dậy chạy ra cửa ngoắc đuôi sủa theo. Hai Tuất và Ba Du ngưng câu chuyện đang nói về chiến tranh và ông chủ Tây, cả hai cùng lắng nghe và nhìn về phía con đường chạy ra từ bên trong xóm.

    Một người phụ nữ trung niên đội nón lá, mặc bộ bà ba đen chạy xe đạp trên con đường nhỏ về phía căn nhà, Hai Tuất nhìn qua khung cửa sổ và nói:

    - Bà xã tôi về, chắc việc xin giấy tờ ở ngoài xã xong rồi.

    Dựng chiếc xe đạp phía sau có chở cái bao vải vào trong sân, người phụ nữ vừa bước qua cửa nhà, thấy có khách quen là Ba Du và Nam đang ngồi nhậu với chồng, bà xã Hai Tuất cười chào và hỏi bằng tiếng nam:

    - Anh Ba Du qua chơi hay có công việc gì đây?

    - Qua chơi thôi chị, sẵn xin con chó nhỏ cho chú Nam ở gần rẩy tui bên đó về nuôi giữ nhà.

    Bà xã Hai Tuất nhìn Nam cười gật đầu:

    - Chú Nam ở dưới thành phố lên đây lâu chưa, làm rẩy cực lắm, dân Saigon có chịu nổi không?

    Nam hơi bối rối nhìn Ba Du và Hai Tuất đang ngồi cười cười bên kia bàn:

    - Dạ chắc rồi cũng quen chị Hai, có anh Ba Du giúp đỡ mấy tháng đầu nên cũng chịu được

    - Ở đây vắng vẻ, cực khổ, dân thành phố đi kinh tế mới lên một thời gian sau bỏ về gần hết, chỉ còn Ba Du là ở lại chịu cực, giỏi thiệt đó.

    Ba Du nghe bà xã Hai Tuất khen liền cười:

    - Giỏi sao bằng anh chị, từ trước 75 đến giờ vẩn sống ở đồn điền và trong cái làng xa xôi này

    - Mùa này năm nay bên đó bắp, đậu xanh tốt không?

    - Cũng tàm tạm, đợt này trong nông trường thiếu phân bón, nên tui cũng không xuống thêm được chút giống nào, đành chịu

    - Ra ngoài xã nghe nói nhu yếu phẩm cung cấp cho công nhân trong nông trường càng lúc càng thiếu, dân than thở quá trời, nhiều người bỏ làm công nhân quay về thành phố buôn bán chợ trời sống qua ngày, không biết sắp tới gạo, bo bo ra sao đây?

    Hai Tuất đang ngồi nghe bổng hỏi vợ:

    - Em xin giấy chứng nhận cho hai đứa nhỏ được không?

    - Ừ, được rồi, xã chịu xác nhận để hai đứa nhỏ về thành phố ở với bà ngoại và xin học dưới đó

    Ba Du nhìn Hai Tuất đang ngồi và thở ra nhẹ nhỏm:

    - Anh chị cho hai đứa nhỏ về Saigon ở với bà ngoại luôn hả?

    - Kỳ này gửi về Saigon ở nên hộ khẩu tạm chuyển về dưới đó, trên này thấy ăn uống thiếu thốn, bệnh hoạn không có thuốc men khổ cực quá, vụ này nhờ có quen biết mấy ông làm việc ngoài ủy ban nên xin cũng dễ.

    Hai Tuất phấn chấn rót rượu đầy vào ba cái ly:

    - Nào mời anh Ba và chú Nam.

    Bà xã Hai Tuất nói:

    -Anh Ba và chú Nam ngồi lai rai với ông xã tui nhe, đi nấu bếp đây.

    Ra chỗ xe đạp dựng trước sân, bà ta tháo sợi dây rồi cầm cái bao vải xanh đựng gạo ra chái bếp sau nhà. Những tia nắng chiều yếu ớt còn đang vương vấn trên rừng núi phía tây, ba người đàn ông ngồi uống rượu trong căn nhà nhỏ bên bờ hồ, khói bếp tỏa ra bay lãng đãng trong không gian lặng yên của cái xóm nhỏ một buổi chiều tháng giêng.

    * * *

    Con chó xin bên nhà Hai Tuất về được hơn tuần lể, Nam đặt tên cho nó là Đốm.

    Mấy ngày đầu thấy có vẻ nó hơi buồn vì nhớ nhà cũ và mấy con kia, nên hay đến nằm dưới tấm phản tre với vẻ ủ dột. Nam thấy tội nghiệp nó quá, vì vậy anh cho ăn uống và chăm sóc nó một cách trìu mến. Mấy ngày sau, con Đốm từ từ quen nhà và chủ mới nên tỏ ra dạn dĩ hơn và bắt đầu ra ngoài sân chạy tới, chạy lui.

    Mấy lúc từ ngoài rẩy về, anh hay đến gần chỗ nó nằm, kêu tên Đốm cho nó quen và đưa tay vuốt ve cái đầu nhỏ có màu lông đen, trắng rất mượt. Những lúc được ông chủ mới quan tâm như vậy, nó nhanh nhẹ chồm dậy hướng đôi mắt nhìn anh một cách thân thiết và nhè nhẹ vẩy đuôi.

    Đốm là giống chó ta nên nó không kén ăn, những bửa cơm nào có cá nó đều chén sạch và còn liếm cái lưỡi nhỏ tỏ ra thèm thuồng, vì vậy nó mau lớn, rất khỏe và hay chạy nhảy xung quanh nhà, thích đuổi theo mấy con gà ra vườn rồi đứng lại gầm gừ, sủa vang.

    Khi nhìn nó cúi thấp cái đầu xuống lăng xăng đánh hơi trong mấy bụi cỏ và cây trước sân, Nam nghĩ chắc sau này, nó cũng có thể săn được mấy con thú nhỏ trong rẩy, trong rừng như con chó Ki nhà Ba Du.

    Từ hôm thấy cái chén lạ và nghe Hai Tuất kể chuyện cũ, anh biết chắc là ông chủ đồn điền cao su trước năm 75 có bộ sưu tập nhiều món đồ cổ quí giá.

    Hôm nhậu bên đó, Nam đã cố quan sát nó rất kỹ và ghi nhớ lại các đường nét và hoa văn trang trí, còn mấy ký tự Trung Hoa thì anh không tài nào nhớ hết vì quá phức tạp, nhiều chi tiết.

    Chợt nhớ đến bảo tàng trưng bày đồ cổ nằm trong vườn thú ở Saigon, ngày xưa thỉnh thoảng anh vào trong đó chơi với gia đình hay bạn bè, Nam có xem các món đồ cổ Việt Nam và nhiều nước được sưu tập từ thời Pháp, đó là thời VNCH, và sau năm 75, anh cũng vào đó một vài lần.

    Anh nảy ra ý định về dưới đó một hoặc hai ngày để vào trong bảo tàng, tìm xem những cái chén tương tự như ở nhà Hai Tuất là của nước nào, tuổi của món đồ cổ như vậy thì được bao nhiêu năm?

    Quyết định xong nhanh chóng, Nam qua nhà Ba Du đề nhờ trông coi nhà giùm anh và gửi con Đốm ít hôm, Ba Du thấy anh về Saigon có vẻ vội vả nên hỏi:

    - Chú Nam có chuyện gì mà phải về dưới thành phố sang sớm mai vậy?

    - Cũng không có chuyện chi gấp gáp anh Ba, từ ngày lên đây cũng chưa về dưới thăm nhà lần nào nên lần này về thăm gia đình vài ngày rồi lên.

    Ba Du nghe nói tưởng anh nhớ nhà thật nên cười:

    - Ừ, để tui coi nhà và rẩy giùm cho, còn con Đốm thì cho nó qua đây ở đây với con chó bên này.

    - Anh Ba có gửi mua gì không?

    Ba Du chậm rải suy nghĩ rồi nói:

    - Chú Nam có rảnh ghé qua thăm bà già và gia đình tui giùm một chút được không?

    Anh liền gật đầu:

    - Dạ, được vì có thời gian mà anh Ba.

    Ba Du ghi cho anh địa chỉ và vài dòng vào một tờ giấy, và chỉ Nam cách tìm con hẻm nhỏ từ ngoài đường lớn vô đến căn nhà, và căn dặn Nam một số câu trả lời nếu có ai trong nhà hỏi han về tình hình trên này.

    Sực nhớ ra điều gì, Ba Du hỏi:

    - Ngày mai chú Nam khoảng mấy giờ đi ra ngoài xã, để tui lấy xuồng đi cho khỏe, xin giấy đi đường về thành phố chưa chú Nam?

    - Mai tính ra ngoài đó sớm rồi đi nhờ xe nông trường ra đường lộ đón xe ngoài đi cho nhanh, chắc khỏi xin giấy của xã vì cũng không có đem theo đậu, bắp gì về dưới thành phố.

    - Vậy sáng mai nghe tui kêu ngoài bờ hồ chú Nam chạy ra nghe.

    Nam gật đầu và chào Ba Du ra về, anh nhìn con Đốm đang nằm ở góc nhà gần chỗ con Ki. Nó hướng đôi mắt lên nhìn Nam với vẻ ngơ ngác như hỏi anh tại sao nó phải ở đây, Nam cười và nói:

    -Đốm ở đây với con Ki nghe, mày đừng chạy đi ra ngoài một mình, coi chừng bị lạc!

    Tối đó Nam đi ngủ sớm hơn mọi khi, nằm trên tấm phản suy nghĩ nhiều thứ nên trằn trọc, khó nhắm mắt.

    Anh cố sắp xếp lại các sự kiện về hai thùng đồ cổ mà anh biết thêm được từ lúc lên đây, đến lúc qua nhà Hai Tuất về, thấy bí mật này dần dần sáng tỏ và có lý.

    Vì ngoài người quản gia cũ của đồn điền, một số người làm khác cũng biết về chuyện này, nhưng họ không biết chắc là bây giờ nó ở đâu.

    Địa điểm chôn dấu thì chỉ có hai người biết chính xác, ông chủ Tây thì không bao giờ quay lại đây nửa, có lẻ ông ta biết là không thể làm gì để lấy lại cái đồn điền này, nên chấp nhận mất luôn hai thùng đồ cổ quý giá. Còn người quản gia ở dưới thành phố vì biết đồn điền bị chiến tranh và bom đạn tàn phá khốc liệt, thiêu rụi hầu như toàn bộ cơ ngơi xưởng máy, kho bãi, nhà cửa … nên ông cũng không hy vọng gì tìm lại được.

    Bây giờ anh là người biết nhiều nhất, nhưng thật ra không dể dàng gì để tìm hai thùng đồ cổ đó. Nếu tin vào lời nói của người quản gia là sự thật, thì hiện nay nó đang nằm đâu đó gần khu rẩy của anh và Ba Du, sâu dưới lòng hồ nước.

    Chưa kể đến chính quyền địa phương, tụi du kích và Tư Có hay bất ngờ đi tuần ngang qua đây, Tư Có và du kích xã cũng rất nguy hiểm, để họ biết anh có tin tức về hai thùng đồ cổ này, chắc họ không để cho anh yên.

    Nam nằm thiu thiu ngủ trong bóng tối của căn nhà nhỏ, anh nghe lơ mơ tiếng những con chim ăn đêm kêu xáo xác ngoài bờ hồ. Những cơn gió thổi lành lạnh qua khe vách căn nhà tạo thành những tiếng vi vu nho nhỏ bên tai.

    Sáng sớm trời con tờ mờ đã nghe tiếng gọi của Ba Du lẩn trong màn sương khói đang bao trùm lên cây cỏ và hồ nước, Nam nhanh nhẹ khép cửa căn nhà nhỏ và đi theo lối mòn ra chỗ Ba Du và chiếc xuồng đang chờ. Anh lên ngồi phía mủi, cả hai đã quen với việc này nên bốn cánh tay cùng nhịp nhàng bơi làm chiếc xuồng lướt nhẹ nhàng trên sóng nước nhấp nhô.

    Hai bên bờ cảnh vật cảnh vật ruộng rẩy, núi rừng vẩn còn ngái ngủ trong cơn gió lành lạnh cuối đông. Thỉnh thỏang từ trong các cánh rừng chồi nằm sâu bên trong, những tiếng kêu vang thành từng tràng dài của các loài thú ăn đêm nghe lạc lỏng và pha chút ghê rợn giữa miền đất rừng hoang vu.

    Ra đến gần xã Ba Du nói:

    -Để nhờ Năm Bình kiếm xe trong này cho chú Nam quá giang ra quốc lộ đón xe đò

    Rồi cho chiếc xuồng cập nhẹ nhàng vào chỗ cũ dưới cây me, Nam nhảy lên bờ tìm chỗ cột dây xuồng và chờ Ba Du.

    Hai người đi về hướng quán cà- phê của Năm Bình, trên con đường đất đỏ chạy qua trung tâm xã, vài chiếc xe máy cày kéo rờ-móc chạy ngang qua, lác đác từng tốp công nhân của đang đi ra bãi tập trung trước căn nhà gổ dùng làm trụ sở nông trường để xe chở ra lô cạo mủ cao su.

    Trời còn sớm nên quán chưa mở cửa, Ba Du lấy tay gõ vào cánh cửa gổ kêu Năm Bình, có tiếng chân trong nhà và tiếng hỏi vọng ra:

    - Ba Du hả, hôm nay đi đâu mà ra ngoài này sớm vậy?

    Một bên cánh cửa quán mở ra, Năm Bình thấy hai người đàn ông đang đứng chờ liền mỉm cười, Ba Du vổ nhẹ vai Nam:

    - Chú Nam hôm nay có công việc đi về thành phố, nhờ anh Năm kiếm giùm xe quá giang ra lộ đón xe đò về dưới cho sớm

    - Ừ, được! anh Ba và chú Nam vào quán ngồi chơi chút đi, tôi ra bãi xem có xe nào ra đó liền không, làm ly cà-phê nhe, tôi kêu bà xã pha

    - Chú Nam muốn đi gấp, chút nửa anh Năm về làm sau cũng được

    Năm Bình vào trong nhà dắt chiếc xe đạp ra đường và chạy về phía trụ sở nông trường. Khoảng năm phút sau, có tiếng xe quay về, Năm Bình dựng xe trước mái hiên nhìn Nam nói:

    - Chú Nam ra đây tôi dẩn đi, có chiếc xe sắp chạy ra ngoài lộ chở hàng sớm về cho trong này

    Anh gật đầu chào Ba Du và theo Năm Bình ra bãi tập trung đoàn xe của nông trường. Chiếc xe máy cày có rờ-móc phía sau chở Nam ra đến quốc lộ và bỏ anh xuống bên lề đường.

    Nam đứng luôn tại chỗ đón những chiếc xe đò hiếm hoi từ thị xã Bình Long – An Lộc chạy ngang qua đây, hàng ngày chỉ có năm, sáu chuyến chạy về thành phố nên phải ra đón sớm.

    Thấy có chiếc xe từ trên con dốc đang chạy tới, Nam đưa tay ra dấu, chiếc xe đò có màu sơn xanh xám cũ kỷ và tốc độ chậm rì đang bò trên con đường nhựa làm tăng thêm cái vẻ thảm hại bên ngoài của nó.

    Chờ cho chiếc xe dừng hẳn lại, anh hỏi tay lơ xe đen ốm ngồi băng ghế đầu bên phải:

    - Về Saigon?

    Hắn ta nhìn Nam gật đầu và mở chốt cửa bên hông cho anh bước lên, trên xe mới chỉ có sáu, bẩy hành khách, nên còn khá trống trải. Anh ngồi vào ghế ngay phía sau lưng tay lơ , chiếc xe mệt mỏi rướn mình chạy tiếp trên con đường nhựa dài hun hút uốn lượn qua lại trên các dãy đồi đất đỏ.

    Từ sau năm 75, do tình trạng xăng nhớt thiếu thốn, nên những chiếc xe đò được chế lại và gắn thêm một cái thùng tròn đốt than phía sau, để giúp nó chạy được quảng đường dài hơn, nếu hành khách phải ngồi gần chỗ cái thùng thì rất khó chịu vì hơi nóng từ cái lò tỏa ra trên suốt chặng đường đi. Do vậy mỗi lần phải đi đâu trên những chiếc xe cổ lổ đó, anh cố tìm chỗ ngồi trên các băng ghế ở xa nó cho thoải mái hơn.

    May mắn, hôm nay chiếc xe chạy một mạch qua các trạm dọc đường một cách suông sẻ, một vài nơi, mấy tay du kích ra xét hỏi giấy tờ và hàng hóa rồi cho xe chạy qua luôn, khi qua khỏi cầu Bình Triệu vào đến thành phố thì đã hơn hai giờ chiều.

    Nam thấy vẩn còn thời gian nên quyết định đến nhà Ba Du ở khu đường rầy Gò Vấp trước, để ngày mai còn rảnh rổi vào bảo tàng viện trong Thảo Cầm Viên.

    Anh xuống bến gần ngả năm Thanh Đa và kêu xe đạp ôm chở về khu vực gần ga Gò Vấp. Nhìn lại địa chỉ nhà Ba Du có đến hai cái “xẹc”, Nam đoán chắc là nó nằm trong một hẻm nhỏ ở gần đây.

    Rồi nhớ lại sự chỉ dẩn của Ba Du lúc còn trên rẩy, anh đi theo con đường đất lởm chởm vào sâu bên trong khu xóm nhà cũ kỹ. Gặp một phụ nữ trung niên đang đứng trước cái cổng nhỏ, anh dừng lại hỏi thêm:

    - Dì cho hỏi nhà anh Ba Du ?

    Bà ta liền đưa tay chỉ về cuối hẻm và nói rẽ trái, đi thêm một đoạn nửa là đến, Nam bước theo hướng người phụ nữ chỉ, đến gần cuối đường anh quẹo vào cái hẻm nhỏ.

    Đứng trước căn nhà bằng gổ có mái tôn rỉ sét màu nâu, rồi nhìn vào cái bảng số, thấy đã đúng địa chỉ, phía trước có cái sân nhỏ tráng bằng xi-măng và vài chậu cây kiểng, cổng rào đang khép hờ.

    Cửa nhà đóng kín, không khí xóm nhỏ ở ngoại ô im lìm trong ánh nắng chiều. Nam lên tiếng gọi chủ nhà hai, ba lần mà vẩn không thấy ai ra, chờ khoảng vài phút anh định mở cái cổng để vào bên trong. Chợt nhà kế bên có một chú bé cỡ độ mười hai, mười ba tuổi chạy ra, Nam hỏi nó:

    - Bên này có phải nhà bà Sáu má chú Ba Du không?

    - Dạ phải chú, để con gọi bà Sáu cho chú!

    Rồi nó cười và chạy qua sân nhà Ba Du, vừa đẩy cửa vô nhà vừa gọi lớn tiếng:

    - Bà Sáu ơi, có người tìm cậu Ba nè!

    Lát sau một người phụ nữ trạc ba mươi, ba lăm, có vẻ lớn hơn Ba Du đi ra, phía sau một bà cụ tóc bạc nhìn rất hiền từ, có lẻ là má Ba Du. Cả hai nhìn vị khách lạ xuất hiện bất ngờ tại căn nhà của mình và cố đoán xem anh là ai.

    Nam lên tiếng chào và giải thích là người quen của Ba Du trên rẩy, hôm nay có công việc về Saigon và Ba Du có nhờ ghé vô nhà thăm và báo gia đình biết trên đó ảnh vẩn khỏe, rồi anh đưa tờ giấy nhỏ có ghi địa chỉ nhà và vài dòng chữ của Ba Du viết cho người phụ nữ trẻ.

    Nghe vậy, bà Sáu và cô chị của Ba Du mau mắn mời anh vào nhà, và rót cốc nước để lên cái bàn nhỏ mời anh uống.

    Nam ngồi nhìn phòng khách đơn sơ nhưng gọn ghẽ, gần cửa sổ là tấm phản gổ cũ lên nước nâu bóng. Gần trên mái là căn gác, trần nhà bên dưới đóng bằng các tấm giấy dầu các-tông lấy từ các thùng hàng của Mỹ, căn nhà mang vẻ ấm cúng.

    Bà má của Ba Du hỏi thăm về công việc rẩy bái và đời sống trên đó của Ba Du và anh rất lâu, bà cụ cũng tốt bụng hỏi thăm cả Nam và cuộc sống gia đình ở thành phố, còn người chị thỉnh thoảng chạy ra đứng nghe rồi lại đi vào trong nhà.

    Nam nhớ Ba Du có cậu con trai nhỏ, anh hỏi thăm:

    - Thưa bác, con trai của anh Ba Du đi học có gần nhà không?

    - Cháu tui nó học cũng gần xóm, chiều dì nó ra đón về, nó hay hỏi ba nó sao lâu quá không thấy về!

    Anh nghe xong cùng bật cười với bà cụ, trên nét mặt của bà lộ vẽ trìu mến khi nhắc đứa cháu trai của mình, anh vui vẽ nói:

    - Cháu sẽ nói lại cho anh Ba nghe khi về trên đó

    Uống thêm chút nước mát lạnh từ cái cốc, Nam đứng dậy chào cả hai và xin phép ra về.

    Từ nhà Ba Du ra, Nam đi theo hướng về ngả năm chuồng chó, vừa đi ngóng xem có chiếc xe đạp ôm nào chạy qua để ngoắc lại và leo lên ngồi cho đỡ phải cuốc bộ.

    Dừng lại hỏi người đàn ông đang đứng dưới hàng tre nghiêng ngã bên con đường lộ nhỏ, hướng đi ra đường lớn, nơi có xe búyt về cầu Kiệu. Ông ta gật đầu và chỉ tay nói cứ đi theo con hẻm sẽ ra đến Nguyễn Kiệm, ở đó có chỗ đón xe về chợ Phú Nhuận, cầu Kiệu và qua quận 3.

    Không khí trong các xóm nhỏ ngoại ô nơi Nam đi qua mang vẻ đìu hiu, nghèo khổ. Chợt nhớ đến thân phận mình và những người dân Saigon còn kẹt lại đây sau năm 75, anh có cảm giác buồn chán về những năm, tháng còn lại dài lê thê, kiếp người sẽ tiếp tục đen đủi, mịt mùng.

    Bây giờ mong ước của anh là thoát ra khỏi cái chốn này, thành phố Saigon nơi anh sinh ra và lớn lên giờ đây như một người già nua mất hết sinh lực, đang trong cơn bệnh nặng không có thuốc chửa.

    Ra đến đường lớn, Nam đứng chờ dưới tấm bảng nhỏ sơn hai màu xanh, trắng ghi tuyến đường xe chạy qua, nó được treo lỏng lẻo trên cột điện rỉ sét bên vỉa hè và khua long cong theo từng cơn gió thổi qua.

    Vài ba người đàn ông, đàn bà xách hay mang những cái túi vải kaki cũng đang túm tụm lại đứng đợi xe quanh đó. Nhìn vẻ bề ngoài và nét mặt mệt mỏi, anh đoán họ là công nhân của các nhà máy quốc doanh ở khu sân bay và nhà máy quân đội cũ gần đây.

    Chiếc xe buýt từ hướng chợ Gò Vấp đang chậm rải chạy đến, trên xe chật ních người, Nam bước lên và định kiếm một chỗ đứng cho thoải mái, nhưng giờ này các bà đi buôn theo xe lửa về ga Gò vấp xuống hàng ở đây và công nhân nhà nước tan ca, đón xe về nhà đã nêm chặc lối đi ở giữa xe.

    Thôi đành phải chịu cảnh chen chúc cực khổ một chút, dù sao thì đứng ngắm đường phố từ trên xe còn thú vị hơn là cuốc bộ về nhà, Nam nghĩ trong đầu và mỉm cười.

    Chiếc xe buýt như bị thiếu hơi, nó chạy khật khưỡng lóc xóc trên con đường trống trải, hành khách hầu như im lặng, chỉ có mấy bà con buôn thỉnh thoảng rù rì nho nhỏ với nhau chuyện giá cả, mua bán trên tuyến xe lửa từ miền trung về đây, mấy ông công nhân trung niên hỏi han về số hàng nhu yếu phẩm ít oi vừa được mua theo tiêu chuẩn, nét mặt trầm ngâm nhìn xuống những căn nhà phố im lìm bên đường.

    Nam cố hít thở mạnh vì hơi nóng ngột ngạt của đám đông tỏa ra, nhớ lại những lần đi xe buýt trước năm 75, mọi người lên xe đều có ghế ngồi. Xe chạy êm ru, gặp lúc đông khách mà có mấy ông, bà cụ lớn tuổi hay bà bầu và mấy em nhỏ lên sau, ai cũng đứng lên nhường ghế trông thật lịch sự. Ôi Saigon ơi, đã xa xôi lắm rồi ngày đó, Nam thầm tiếc trong đầu.

    Vừa chạy qua ngã tư, cũng gần về đến nhà, bổng một tiếng nổ vang trời, hành khách dáo dác chưa hiểu có chuyện gì xảy ra. Chiếc xe bị nổ bánh xe phía trước, nó nghiêng hẳn về bên phải và như một con voi hoang dã nó lao nhanh như chớp lên lề đường theo đà xe đang chạy tới.
    Anh bị dòng người đứng ở giữa dồn đẩy mạnh về phía cửa trước, Nam chỉ kịp nắm chắc thanh sắt treo trên trần để khỏi bị đẩy đi, vài người ở phía sau ngã đè lên nhau. Mấy bà con buôn la hét, hoảng hốt khắp nơi, ông tài xế già nhanh tay lái lủi cái đầu xe cũ kỷ vào chân cột điện bê-tông ven đường tạo nên âm thanh va chạm điếc tai.

    Chiếc xe dừng ngay trên đường phố, hành khách hồn phi phách tán túa ra cửa nhảy xuống, Nam cũng nhanh chân theo mấy ông công nhân đứng gần phía trước, đang tức giận chửi thề đ.m dăm ba câu rồi mới chịu bước ra ngoài. Vài người dân đang đi gần đó lót tót chạy tới đứng nhìn cái vỏ xe bị nổ lòi cả ruột cao su ra ngoài.

    Nam dừng lại vài phút nhìn cảnh tượng móp méo thảm hại của cái đầu xe, còn tay phụ xế ốm, cao nhòng đứng kế bên lấy chân đá vài cái vào cái vỏ xe xẹp lép, rồi lắc đầu tỏ vẻ ngao ngán và đưa mắt nhìn những mảnh kính bể vướng vải khắp nơi. Từ ngày giải phóng vào, Saigon mới có mấy vụ xe buýt đang chạy nhanh bị nổ vỏ, hoặc bánh xe bị sút ốc, bù-lông văng ra đường tông chết người.

    Dân Saigon cũ hay hài hước, nổi máu chế giểu những cái chết từ trên trời rơi xuống đó, ai cũng thấy sợ hãi nó, nhưng rồi cũng phải mò ra đường kiếm sống. Hằng ngày dù có sợ, nhưng họ vẩn phải leo lên những chuyến xe chở hồn ma, bóng quế này để đi đi, về về với tâm trạng lo lắng may rủi. Hú hồn, cũng may là hôm nay nó không lủi trúng, hay gây chết chóc và làm bị thương cho người dân nào trên đường.

    Nam nghĩ, nếu để chết vì chuyện những chiếc xe buýt bị bể bánh vào lúc này thì vô duyên và uổng công quá, phải còn sống để truy tìm hai thùng đồ cổ đó và nếu thành công thì mới có cơ hội thực hiện giấc mơ từ lâu nay. Anh mong trời, phật phù hộ cho mình tai qua, nạn khỏi trong thời buổi đói khát, nhiều tai ương này.

    Nhìn quảng đường về cầu Kiệu thấy cũng không còn xa, Nam bước lên vỉa hè và đành cuốc bộ về nhà. Xa thành phố đã ba, bốn tháng nay, nên có dịp nhìn lại nhà cửa, người, xe … anh thấy vui lên đôi chút so với cảnh núi rừng hoang vu.

    Hai bên đường giăng đầy những khẩu hiệu màu đỏ ca ngợi cách mạng và cuộc chiến tranh chống lại quân Khmer đỏ và Tầu ở biên giới phía bắc, kêu gọi toàn dân tiến nhanh, tiến mạnh lên xây dựng XHCN.

    Nam chợt nhớ đến mấy thằng bạn thân học ở trường, cùng độ tuổi bị bắt đi bộ đội đánh nhau với bọn Pôn Pốt ở Campuchia, đứa thì mất tích không về, đứa thì thương tật, tàn phế, mấy đứa gia đình khá giả thì trốn khỏi các đơn vị, lén lút về Saigon vượt biên …

    Anh may mắn nhờ có ông cậu làm bên ngành y tế phịa ra tờ giấy chứng nhận cái chân bị thương tật nặng nên không phải đi bộ đội. Vì mấy năm trước, lúc về quê chơi anh trèo lên cây, và bị té vào cành cụt nhọn đâm vào đùi bên phải tạo nên cái thẹo rách da phải khâu rất nhiều mủi, ai nhìn thấy cũng “hết hồn”.

    Mỗi lần phường kêu lên khám sức khỏe nghĩa vụ, gia đình anh lo sợ lắm, tuy nhiên lúc vào khám, mấy ông “bác sĩ” bộ đội xem thấy cái sẹo dài, rồi nhìn tờ giấy chứng thương cũng của ông bác sĩ cách mạng dưới tỉnh, cộng với tướng đi có vẻ khó khăn và “dặt dẹo” của Nam, họ liền gạt tên anh ra. Đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự về đến nhà, ai cũng lo lắng hỏi nhỏ, thấy anh cười cười, mọi người mới yên tâm cười theo.

    Nhiều gia đình giàu có ở Saigon, có con trai tới tuổi đi bộ đội cũng xài mánh không đủ sức khỏe này để trốn tránh đi nghĩa vụ.

    Nam bước vào nhà, ai cũng ngạc nhiên nhìn vẻ phong sương của anh, rồi mẹ và bà chị hỏi thăm lăng xăng đủ mọi chuyện. Anh nói về có công việc chừng một, hai ngày, khi nào xong thì trở lại trên đó.

    Buổi tối ở nhà cơm nước xong, thấy cảnh trong xóm tối mò vì cúp điện, nhà ai cũng đèn dầu, đèn cầy loe loét, Nam lên gác nằm lấy vài cuốn truyện cũ ra đọc thư giản. Càng về khuya, cái xóm nhỏ gần chân cầu Kiệu chìm sâu vào màn đêm u tịch bên dòng kinh cạn, màu nước đen ngòm dưới ánh sao lấp lánh trên vòm trời cao.

    Sáng nay anh thức dậy trễ vì chuyến đi khá mệt mỏi hôm qua, sau khi ăn sáng theo kiểu “khoái ăn sang” xong, Nam mượn chiếc xe đạp ở nhà, chạy qua cầu và rẻ qua Tân Định , rồi đến chợ Đa-kao xuống đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đi thẳng đến cổng chính Thảo Cầm Viên.

    Gửi chiếc xe đạp vào bãi, anh đến chỗ mua vé vào cổng. Bà phụ nữ trung niên ngồi trong phòng bán vé thấy có người đến hơi sớm, nên tò mò đưa mắt nhìn ra. Nam thò tay trả tiền rồi lấy cái vé, anh muốn biết về giờ giấc mở cửa của phòng trưng bày đồ cổ nên hỏi:

    - Mấy giờ thì bên viện bảo tàng sẽ mở cửa?

    - Chín giờ !

    Và bà ta càng tỏ ra ngạc nhiên hơn, đăm đăm nhìn vẻ bên ngoài của anh, một chàng trai mặc bộ quần áo cũ, lượm thượm giống ông nông dân miền quê, mới sáng sớm đã mua vé vào cửa, và còn lại muốn vào coi phòng trưng bày cổ vật. Dân Saigon thời này đang đói ăn, rách mặc gần chết, còn hơi sức đâu mà đi coi thú, rồi nghiên với cứu mấy món đồ cổ đó!

    Nam chẳng để ý đến ánh mắt mang vẻ soi mói của bà ta, anh tà tà đi vào bên trong, quang cảnh còn vắng vẻ, im lìm, có lẻ anh là người khách đầu tiên trong ngày.

    Vài ba công nhân đang làm công việc quét dọn trên các lối đi ngẩng đầu lên nhìn khi thấy có người vào đây lúc sáng sớm.
    Nam đi về phía viện bảo tàng, hai cánh cửa gổ của ngôi nhà đồ sộ có mái ngói nâu đỏ còn đóng kín im lìm. Anh đến băng ghế đá cũ gần khu vườn thực vật ngồi nghỉ chân.

    Thỉnh thỏang nghe tiếng gầm như thở dài của mấy con sư tử, mấy con hổ vừa thức dậy từ chuồng sắt ở sâu bên trong. Vài con sáo bay sà xuống mặt cỏ, lò dò tìm bắt bọn côn trùng hay nhá nhá mấy đọt lá cỏ non bỏ vào bụng cho bửa sáng, gần đó đám chim sẻ lông nâu sồng líu ríu bay đuổi nhau qua các tàng cây thấp. Bọn nó được trời đất sinh ra với đôi cánh bay để nhảy khắp nơi, chằng phải bận tâm đến đói khổ, giàu nghèo hay các khẩu hiệu hô hào này nọ đang giăng mắc khắp thành phố, được sống như mấy con chim đó, anh nghĩ cũng sướng thật.

    Thấy cũng còn sớm, Nam đứng lên theo con đường lát xi-măng đi ngang chuồng đàn voi ra phía bờ rạch Thị nghè. Thủy triều đang lên, dòng nước lé đé ngập đến gốc hàng cây cao mọc gần bờ, mặt nước vắng lặng bên dưới tán lá xanh vươn ra xa bên ngoài, làm anh nhớ đến hàng cây rậm rạp đứng ven hồ nước trong khu rừng chồi trên rẩy.

    Không khí những buổi sáng ở đó thật vắng lặng và thật thơ mộng, nhưng ít ai ngờ, nếu đúng như người quản gia nói, ẩn chứa dưới đáy hồ là những món đồ cổ quí giá có thể làm thay đổi cuộc đời của nhiều người.

    Nam hy vọng là nó vẩn còn đang nằm ở ngay dưới đó, cho dù bom đạn trong các trận đánh nhau rơi xuống, đào sâu vào trong lòng đất đá, đồi núi và tàn phá khắp nơi.

    Thấy đã có nhiều người khách, và mấy nhóm học sinh tiểu học đi tham quan lao xao dừng lại bên chuồng mấy con voi, anh quay lại ngồi ở ghế đá cũ chờ đợỉ.

    Lát sau, hai cánh cửa của bảo tàng mở toang, chờ vài phút, anh đi qua khoảng sân trống phía trước, bước lên các bậc tam cấp vào bên trong.
    Đến xem cái bảng hướng dẩn dành cho khách vào tham quan khu đồ cổ, Nam đi về khu trưng bày các món đồ sành sứ thời các vua chúa Việt Nam, xa hơn nửa về bên kia là các món đồ cổ của Trung hoa, Chiêm thành, Miên, Ai Lao …

    Anh đi chậm rải và chú ý tìm những cái chén cổ có hình dáng và màu sắc như cái anh thấy ở nhà Hai Tuất, số lượng cổ vật được trưng bày ở đây rất nhiều, lần lượt dưới mắt anh là lọ, dĩa, bát, bình to, nhỏ và nhiều kiểu ký tự , hoa văn trang trí khác nhau …

    Thật rắc rối với một người không có chút chuyên môn hay kinh nghiệm nào về công việc tinh tế và phức tạp này, mà cũng thật hấp dẩn với một người đang bị mê hoặc bởi hai thùng đồ cổ mất tích của ông chủ đồn điền như anh.

    Nam rảo tới rảo lui vài lần bên những cái chén, dĩa, lọ, bình … ám màu thời gian có trên trăm năm, vẩn không thấy có món đồ cổ nào tương tự cái ở nhà Hai Tuất. Mặt trời buổi sáng đã lên cao, anh thấy nóng nực khó chịu trong cái áo kaki công nhân cũ có mấy miếng vá sau vai.
    Đi ngang qua chỗ mấy tượng nữ thần bằng đá thô của các triều đại vua Chiêm thành, anh đưa tay sờ vào thân tượng, cảm giác mát lạnh truyền vào người làm dể chịu. Đầu óc bổng nhiên suy nghĩ vẩn vơ, Nam nhớ về lịch sử của nước này và các ông vua Chiêm một thời rực rở với các công trình xây dựng đền đài, tháp cao đồ sộ kéo dài cả trăm năm, đến nay thì chẳng còn thấy đâu, chỉ còn lại những tàn tích đổ nát dọc dải đất miền trung Việt Nam, và một số những tượng cổ, những món đồ sành sứ trưng bày trong các bảo tàng, kinh đô Chiêm thành uy nghi ngày xưa nay còn lại chỉ là cát bụi thời gian …

    Anh đi qua hàng tủ kính sát trong góc, hàng chữ nhỏ trên bảng ghi chú đây là những món đồ sành sứ dùng trong các bửa ăn của vua, chúa nhà Nguyễn thời cực thịnh.

    Đưa mắt chăm chú quan sát từng cái chén, dĩa, tô … Nam chợt thót tim khi nhận ra một cái chén kiểu có hình dáng bên ngoài, cũng như họa tiết xanh lam như cái ở nhà Hai Tuất, còn các nét ký tự chữ Hán thì không tài nào nhớ và phân biệt nổi.

    Anh say mê đứng nhìn nó đang nằm im dưới lớp kính dầy, xếp cùng dãy với những cái chén, dĩa cổ khác, trong đó có cái vẽ hình rồng ẩn hiện, Nam đoán chắc là của vua dùng trong các bửa ăn.

    Sờ vào bao thuốc lá nằm trong túi áo, anh thầm nghĩ, có giấy để viết và vẽ lại rồi.

    Quyết ghi lại các ký tự chữ Hán khó nhớ, anh nhìn quanh xem có ai đang ở gần đó để mượn bút họa lại, nhưng chỉ có mình anh trong không gian vắng lặng của căn phòng.

    Đi một vòng ra ngoài, nhìn thấy một đám học sinh tiểu học đang được mấy cô giáo trẻ hướng dẩn các trò chơi và ca hát dưới bóng cây râm mát gần đó, Nam bước đến gần cô giáo và cười, gật đầu chào, anh nói muốn mượn cây bút để ghi lại một số công việc rồi sẽ trả lại. Cô giáo trẻ ngần ngừ nhìn chàng trai có vẻ ngoài nông dân, vừa đi ra từ hướng bảo tàng với nét mặt ngạc nhiên trong giây phút, rồi mở cái túi vải lấy ra cây bút chì đưa cho anh.

    Bước nhanh trở lại vào nơi trưng bày cái chén, Nam cố ghi lại chính xác các ký tự và một số đặc điểm trang trí khác của mấy cái chén, dĩa đó lên mặt trong của bao thuốc lá, và quay ra ngoài trả lại bút chì cho cô giáo trẻ đang cùng mấy đứa học trò nhỏ ca hát.

    Anh hăng hái ra bãi lấy xe đạp chạy về nhà, những gì mà anh biết dần dần được sắp xếp lại và tạo nên một bức tranh rõ ràng hơn.

    Bây giờ phải đến nhà thằng bạn cũ trước đã, nhờ ba nó là người biết chữ Hán, Nôm dịch mấy ký tự này xem nghĩa là gì. Anh mau chóng chạy xe qua cầu sắt Đa-kao, và quẹo vào con hẻm nhỏ đến nhà nó.

    Không có Huy ở nhà, anh cẩn thận xin cô em nó một tờ giấy khác viết lại những ký tự và gửi lại, hẹn tối nay sẽ ghé qua và rủ nó đi uống cà- phê, rồi đạp xe về nhà.

    Cả nhà thấy Nam về sau những tháng đầu tiên làm rẩy trên Bình Long, đầu óc anh có vẻ đang suy nghĩ chuyện xa xôi, khó hiểu nào đó. Vì ai hỏi gì anh cũng ừ ừ cho xong, nét mặt đăm chiêu, suy tư rồi lại đi tới đi lui, hay lên cái gác nhỏ nằm lì rất lâu trên đó, đến giờ cơm có ai gọi mới xuống.

    Riêng Nam không muốn cho gia đình hay biết ý định của anh, vì nói ra bây giờ thì chưa phải lúc và rồi không biết mẹ anh và cả bà chị có dám tin vào chuyện hai thùng đồ cổ đó hay không?

    Nếu ba anh còn sống thì có thể ông sẽ hiểu được, vì dù sao thì ông đã tận tai nghe câu chuyện đó từ người quản gia.

    Sáng nay sau khi vào bảo tàng xem gốc tích cái chén cổ và từ nhà thằng bạn về, ăn cơm trưa xong, Nam nghĩ ngơi một lát cho tỉnh táo lại.
    Buổi chiều anh hỏi mượn ở nhà thêm chút tiền và lấy xe đạp chạy vào Chợ Lớn, đến khu bán đồ linh tinh của quân đội cũ ngày xưa như ba-lô, quần áo, dây nịch, xẻng … ở dọc bến Hàm Tử, gần cầu Chà Và kiếm mua một vài thứ.

    Lúc còn đi buôn bán, một đôi khi anh đến đây để tìm mua các túi vải, dây cột … về đựng nông sản, dùng khi vận chuyển đi đường không bị rách, bể làm hao hụt.

    Đến chỗ quầy hàng quen của một người tầu tên A Chí, anh hỏi mua độ mười mét dây dù loại to. Lâu ngày gặp mối quen trở lại mua hàng, A Chí vui vẻ hỏi thăm:

    - Lâu quá mới thấy anh Nam, dạo này làm ăn có được không?

    Nam cười cười lắc đầu:

    - Lúc này đi buôn khó lắm ông chủ ơi, mấy trạm dọc đường dưới tỉnh xét kỹ lắm, tính nghĩ về làm nghề khác kiếm sống

    Ông ta vừa hỏi chuyện vừa nhanh nhẹ lấy cuộn dây dù cho anh xem và nói giá, kỳ kèo qua lại đôi chút, rồi cũng là mối quen nên chịu bớt. Nam móc bóp ra định trả tiền, chợt nhớ là còn một thứ cũng cần thiết, anh hỏi:

    - Ông có thanh thép từ khung ba-lô lính không?

    - Của ba-lô lính Mỹ hả?

    - Ừ, đúng rồi, cái đó dân thợ mộc, thợ làm giầy da hay chế thành dao xài bén lắm

    - À, cái đó có, nị chờ chút đi


    (còn tiếp)

  2. #2
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default


    Rồi quay qua nhờ ông già ở kế bên coi chừng giùm cái quầy, ông ta bước qua bên kia đường vào con hẻm độ dăm ba phút và trở lại chỗ Nam đang đứng đợi với thanh thép trên tay:

    - Đồ thiệt đó anh Nam khỏi lo, tui không bán đồ giả cho nị đâu, cái này mài thành dao xài lâu lắm mới hư, mệt nghỉ luôn!

    Anh hỏi giá, A Chí gục gặc trả lời:

    - Rồi bớt thêm luôn, nị có cần mài thành dao về xài luôn hông, tụi nó tính thêm tiền chút đỉnh?

    Nam muốn tránh rắc rối khi đi đường về trên Bình Long lúc qua trạm bị xét hỏi, tụi du kích thấy dao sắc, nhọn hay vặn vẹo, anh lắc đầu:

    - Cho thêm nị mấy cuộn dây ruột xe cao su về quấn làm cán luôn

    Anh trả thêm tiền, cười cám ơn ông ta, rồi cầm gói hàng quấn bằng giấy báo cũ bên ngoài, cột lên ghi đông xe và chạy về hướng Saigon.

    Trên đường về, anh suy tính sẽ dùng sợi dây thắt nút cách khoảng từng mét và một đầu buộc vào cục đá nặng, thả xuống hồ để thăm dò độ sâu, mỗi khi lặn sẽ bám theo nó để lên, xuống nước sẽ an toàn hơn. Còn thanh thép sẽ mài và cắt xéo phần đầu làm mủi dao rồi quấn cán cho dể cầm, nó rất hữu ích khi lặn xuống, lúc dây bị vướng hay rối cuộn vào cành cây, dùng nó nhanh chóng cắt chỗ rối, sau nửa là vũ khí phòng thân hữu hiệu vì con dao rất sắc bén và dẻo.

    Chiều tối, cơm nhà xong, khoảng 7 giờ 30 giờ anh dắt chiếc xe đạp ra định qua nhà Huy. Ôi, thôi chết, bánh sau xẹp từ lúc nào, Nam vào hỏi bà chị xem giờ này ông già vá xe đầu hẻm còn làm không, bà chị lắc cái đầu nói:

    - Năm, sáu giờ là ổng đi về rồi, mày chịu khó lội bộ đi, sáng mai đem ra vá
    - Sáng mai tôi lên đó sớm rồi, tính nhờ chị chở ra bến xe mà lại bị xì bánh sau rồi, thôi để nhờ thằng Huy

    Anh lót tót đi ra đường, lội bộ qua nhà nó để xem ý nghĩa của mấy chữ Hán vẽ trên cái chén vừa gửi cho ba nó dịch ra giùm. Ở trong rẩy lâu ngày, anh cũng quen dần với việc dùng đôi chân đi đây đó, nên quảng đường từ cầu Kiệu xuống nhà thằng bạn, đối với Nam bây giờ cũng không khó khăn lắm.

    Mới hơn bẩy rưỡi mà đường phố đã tối thui, một phần có lẻ do tháng giêng, phần đèn đường cái có, cái không. Lèo tèo vài chiếc xe đạp chậm chạp đi qua, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy với một ông áo xanh bộ đội, thân mình cứng còng trên yên, đầu đội nón cối chạy qua.

    Ngồi trong góc tối vỉa hè dưới các mái hiên nhà, những người dân bỏ vùng kinh tế mới ở các vùng rừng núi xa xôi, lang thang về Saigon kiếm sống qua ngày.

    Không khí thật buồn bả, ảm đạm, Nam nhớ con đường này trước năm 75 buôn bán tấp nập, đông đúc lắm, bây giờ nó lặng lẻ u buồn như con đường dẩn vào cái nghĩa địa nào đó.

    Ngang qua chợ nhỏ Đa-kao đang chìm trong bóng tối, anh băng qua cái cầu sắt cũ màu đen đường Bùi Hữu Nghĩa, xuống khỏi con dốc và quẹo vào cái hẻm nhỏ.

    Cái loa phường treo trên cột điện giờ này vẩn còn léo nhéo kêu gọi thanh niên đang tuổi nghĩa vụ quân sự ra phường khám sức khỏe đúng giờ vào sáng mai, tay đàn ông đang đọc thông báo trên loa với giọng khô khốc, lành lạnh cũng hăm dọa những ai trốn tránh sẽ bị bắt và cưỡng bức đưa đi cải tạo, học tập …

    Vừa đến nhà Huy, thấy nó đang đứng trước cửa nhà, Nam cười hỏi:
    - Mày khỏe không, ăn cơm tối rồi chưa?

    Huy cũng cười vì cả mấy tháng rồi mới gặp lại nhau:

    - Rồi, vô nhà đi, mày nhìn đen và phong sương quá
    - Ừ, chút nửa kiếm quán ngồi cà- phê nói chuyện, lâu quá …

    Nam ngồi chờ trên băng ghế nhỏ dưới hiên nhà, Huy vào trong mặc cái quần tây cũ và chút sau đi ra, tay cầm tờ giấy của anh đưa cho cô em nó ban sáng.

    - Đi Nam, qua bên Đa-kao uống cà- phê
    - Ông bà già đâu, chắc trong nhà hả?

    Thằng bạn gật đầu, cả hai đi bộ ra ngoài đường băng qua cầu, đến phía sau chợ vẩn còn một bà cụ kê vài cái ghế nhỏ bán nước và thuốc lá ở vỉa hè. Cả hai lấy ghế ngồi và cái khác làm bàn, Nam gọi hai ly đen, Huy hỏi:

    - Lên đó làm rẩy mày thấy ra sao?
    - Mới năm đầu chưa biết có làm được gì không, thu hoạch rồi mới biết, còn mày dạo này ngoài chợ trời khá không?
    - Kiếm sống qua ngày thôi, ở nhà không biết làm gì … ông già sắp tới bị cho nghỉ dạy, thấy bà già cũng lo lắng tao tội nghiệp quá …
    -Thằng An vượt biên mấy tháng trước có nghe tin tức gì không?
    - Ghé nhà nó hỏi thăm, em nó lắc đầu nói ở nhà không biết nó còn sống hay chết …
    - Có gặp tụi thằng Can và Ý không?
    - Lâu rồi không thấy hai đưa nó ghé chơi - Huy lắc đầu

    Nam lấy bao thuốc lá ra đưa Huy, anh châm lửa, khói điếu thuốc lá quốc doanh nằng nặng bay trong không gian hờ hững của đêm tháng giêng se se lạnh.
    Huy cầm tờ giấy buổi sáng của anh đưa, ra xem dưới ánh sáng lờ mờ của đèn đường và căn nhà phố kế bên rồi nói:

    - Ông già tao giải thích đây là mấy chữ Hán, thường dùng cho các món đồ sành sứ của triều Nguyễn, có lẻ là thời vua Gia Long hay sau này một chút … à, mà Nam, sao ở đâu ra có mấy chữ này, của nhà hả?

    Thằng bạn nhìn như dò hỏi, anh lắc đầu:

    - Ở nhà làm gì có mấy món đồ quí giá này, tao hỏi giùm một người bà con xa dưới quê bà già ở Mỹ Tho, họ nói có mấy món đồ gia bảo cũ có chữ Tàu không hiểu là gì, nên nhờ tao trên Saigon có quen ai biết tiếng dịch ra giùm họ, chắc bây giờ túng thiếu quá nên định bán kiếm tiền …

    Nam cầm tờ giấy bỏ túi, thấy vui trong bụng và biết ơn Huy rất nhiều, bây giờ chưa thể nói gì cho nó nghe, còn sớm lắm, anh nhấp ly cà-phê và hỏi nhỏ:

    - Ở nhà có cho ai vượt biên không?
    - Có nhiều vàng đâu mà đi, mấy chỗ quen đòi gần chục cây một người – Huy trả lời
    - Ừ, nhà tao mấy tháng trước, lúc ông già còn sống cũng vậy, ở dưới Mỹ Tho lên rủ đi mà họ lấy nhiều quá nên thôi … sáng mai tao lên lại trên đó mà xe đạp ở nhà lúc chiều lại xì bánh, mày qua sớm chở tao ra bến xe giùm nhé Huy!
    - Ừ, sáng mai tao qua sớm, tí có cần tao chở về không?
    - Thôi khỏi, tí nửa tao đi tà tà về được rồi

    Nam uống hết cà-phê, lấy bình trà rót vào ly và trầm ngâm hỏi:

    - Mày có tính tìm nghề khác hay đi làm cho nhà nước không?

    Huy im lặng một lúc rồi nói:

    - Xin vào chỗ ngon thì không dể đâu, lý lịch của tao cũng giống như mày, dân bắc kỳ năm 54, ông già là giáo sư văn chương, ông anh sĩ quan bị học tập cải tạo, nhà tao cũng đâu có bà con hay quen biết mấy ông cán bộ, còn không thì phải chi tiền … khó lắm

    Cả hai không biết nói gì, đành im lặng nhìn ra đường, mới hơn chín giờ mà các căn nhà phố dọc hai bên vỉa hè hầu như đã đóng cửa tối om, đường phố trơ trọi vắng bóng người qua lại.

    Vài người ăn xin nằm ngủ co ro dưới mái hiên căn nhà kế chỗ anh và Huy ngồi, thân hình tiều tụy, quần áo rách tả tơi, bên kia đường cũng vật vưởng hai bóng người lớn và hai đứa nhỏ nằm sát vào nhau trên vỉa hè trong bóng đêm.

    Thấy bà cụ lục đục dọn hàng để nghỉ, Nam hỏi tiền hai ly cà- phê hết bao nhiêu, rồi móc túi ra trả và cùng Huy đứng dậy.

    Anh vổ vai thằng bạn thân, hẹn sáng mai nhớ qua chở anh ra bến xe sớm.

    Mới 5 giờ sáng, Huy đã chạy xe qua chở Nam ra bến xe miền đông, anh mua được vé chuyến xe sớm nhất sắp chạy. Cám ơn Huy và hẹn thu hoạch xong mùa màng trên đó, sẽ về Saigon ăn Tết với gia đình và bạn bè cho vui.

    Cầm cái túi vải đựng mấy món đồ vừa mua hôm qua và chai nước để uống dọc đường, Nam bước lên xe tìm chỗ ngồi thoải mái gần tài xế, phía sau ghế tay lơ và chờ chiếc xe xuất bến.

    Xe chỉ còn vài ghế trống, mấy hành khách vẩn còn ngái ngủ, không ai buồn nói chuyện với ai.

    Thêm vài bà phụ nữ đội nón lá, quần áo bà ba nâu đen, tay xách những cái túi vải cuộn và cột lại thành khúc tròn gọn ghẻ như đòn bánh tét lên xe.

    Nhìn cách họ ăn mặc, nói chuyện và đi những chuyến xe vào sáng sớm thường là con buôn. Tuyến đường này họ mua các loại nông sản đậu, bắp, đường, khoai … ở Bình Dương, Bình Long về bán lại cho các chợ ở thành phố, dĩ nhiên là chợ đen.

    Thấy đã đủ người, tài xế bắt đầu nổ máy, tay lơ xe ra phía sau cầm khúc cây to gõ gõ vào cái thùng đốt than nóng rực như để đánh thức nó dậy, chiếc xe như ông cụ già bị bệnh phổi kêu lên khù khụ vài tiếng và rùng mình rồi từ từ lăn bánh ra khỏi bến.

    Vượt qua cầu Bình Triệu, chiếc xe khách cũ kỹ chạy ra quốc lộ 13 còn vắng vẻ, hai bên đường những mảnh vườn và ruộng lúa hoang vắng tiêu điều, buồn bả như chốn không người.

    Nam dựa vào thành xe chợp mắt, cái túi vải để sát bên chân, anh không muốn để mất nó.

    Xe chạy với tốc độ đều đều, có lẻ đã quá quen với những chuyến xe chạy tuyến đường này, mấy bà đi buôn lấy nón lá úp lên mặt, dựa vai nhau ngủ ngon lành. Hàng ghế trong góc bên trái, cặp vợ chồng trung niên mặt mủi gầy gò, hiền lành giống nông dân lấy mấy củ khoai luộc ra ăn.

    Không khí trên xe lặng im như tờ, chỉ có âm thanh gầm gừ phát ra từ cái đầu máy xe cũ dưới nắp ca-pốt mỗi khi lái xe tăng tốc.

    Nam cũng chợp mắt vì không biết làm gì, trời còn quá sớm, chắc mới khoảng hơn 5 giờ rưởi.

    Chiếc xe đang chạy bon bon, thấy có khách đưa tay đứng đón bên đường, tay lơ đập vài cái vào thành xe ra hiệu cho lái xe dừng lại, tiếng động ầm ầm làm Nam giật mình tỉnh táo lại đôi chút.

    Hành khách vừa bước lên là chàng thanh niên trẻ mặc quần áo xanh bộ đội, đầu đội nón cối được nhét ngồi chung ở băng ghế sau cùng gần thùng đốt than.
    Chiếc xe tiếp tục lăn bánh qua đoạn đường dài lên Bến Cát, rồi đến thị trấn Lai Khê, giờ này có lẻ còn hơi sớm, nên các trạm kiểm soát dọc đường lơ là chuyện xét hỏi giấy tờ. Mỗi khi xe chạy đến một cái trạm nào đó, nằm gần mấy thị trấn, thị xã, lái xe giảm tốc độ và nhìn vào lề đường coi có tay du kích, công an nào ra ngoắt chận lại hay không, nếu không không có ai, ông ta nhấn ga cho chiếc xe chạy nhanh qua luôn.

    Mặt trời đã lên khá cao, chiếc xe bắt đầu chạy qua những cái dốc mỗi lúc lại dài và cao hơn.

    Đôi khi gặp cái dốc quá cao, chiếc xe đò củ kỹ như tay cua-rơ đường trường bị đuối hơi, nó khựng khựng lại, tay lơ liền đi len lỏi qua các hàng ghế sau, đến gần cái thùng đốt than, chỉ tay bộ đội trẻ ngồi ép về bên kia tránh chỗ. Hắn ta lấy khúc gổ chèn bánh xe đập mạnh vào cái thùng mấy cái để than trong đó rớt xuống và cháy mạnh hơn, nhằm tiếp hơi cho chiếc xe vượt lên con dốc.

    Nam thì mong nó chạy nhanh hơn và không bị sự cố nào phải nằm dọc đường, sớm đến chỗ rẻ vào nông trường cao su, rồi đón xe quá giang vào đến trong đó khoảng hai, ba giờ chiều, từ đó lội bộ về nhà cùng phải thêm gần tiếng nửa. Chạy thêm được một quảng xa, thấy địa thế bên lề đường khá bằng phẳng trên con dốc, lái xe từ từ dừng lại gần một lô cao su.

    Mọi người như hiểu ý, lục tục đi xuống để xả “xú bắp”. Nam đi tà tà theo tay lơ vào khuất sau mấy gốc cây cao su, các bà con buôn tản ra và cẩn thận đi sâu hơn vào bên trong. Trên xe chỉ còn lại đôi vợ chồng trung niên lặng lẻ ngồi chờ trên con đường vắng vẻ.

    Lát sau mọi người xong công việc từ từ ra xe với vẻ tươi tỉnh hơn, Nam tính chỉ còn qua trạm kiểm soát tại Chơn Thành và chạy thêm khoảng tiếng nửa là đến ngã rẻ vào nông trường.

    Chợt có tiếng la thất thanh của cặp vợ chồng còn ở trên xe, Nam giật mình nhìn ra , chiếc xe đang từ từ tụt xuống con dốc phía sau, mọi người cùng la lên và bất lực nhìn nó càng lúc càng chạy lùi xa hơn.
    Tay lái xe chửi thề một tiếng lớn, ông ta lúng túng cài khuy quần và chạy nhanh xuống dốc đuổi theo chiếc xe, phía sau là tay lơ cũng đang phóng theo như bay.

    Cảnh tượng rượt đuổi giữa người và xe trông thật ngoạn mục, độ vài phút sau, lái xe kịp chạy đến gần, rồi bám vào cửa bên trái và nhảy lên cabin, ông ta nắm vô-lăng và đạp thắng cho chiếc xe đổ dốc chậm lại, cũng may lúc đó trên quốc lộ còn đang vắng vẻ.

    Nhìn tay lơ với bộ dạng ốm o cố chạy đuổi theo chiếc xe thật khôi hài như trong phim, Nam và mấy bà con buôn không thể nhịn cười được. Cuối cùng thì hắn ta cũng nhảy lên được phía sau, rồi dùng khúc gổ vuông chèn vào bánh xe đang nằm im bên đường. Chiếc xe nổ máy và từ từ leo lên lại con dốc nhỏ, hành khách nói chuyện, bàn tán lao xao và đứng đợi.

    Tay lái xe có vẻ tức giận, dừng lại cho mọi người bước lên, ông ta nhìn tay lơ mặt còn xanh xám như chàm, chửi thề một tràng dài:

    - Đ.m, biểu mày mấy lần dừng xe là nhớ lấy khúc gổ chèn bánh liền đi, … không biết mày lo nhớ nhung mấy con nhỏ nào dưới đó!

    Mấy bà con buôn lúc nảy còn la hét hoảng hốt, bây giờ nhìn nhau mỉm cười khi nghe ông tài xế chửi tay lơ xe chuyện bồ bịch của hắn ta ở Saigon, cặp vợ chồng kia thì khuôn mặt vẩn còn hiện rỏ nét thất thần, Nam leo lên xe ngồi vào chỗ cũ, chiếc xe chầm chậm lăn bánh.

    Tay lơ như biết thân phận bọt bèo của mình, hắn ta leo lên mui, mở nắp cái thùng lấy cây sắt dài chọc vào bên trong để than cháy mạnh hơn, từng bụm than vụn còn cháy đỏ và tro nóng rớt qua đáy thùng, rơi xuống thành vệt dài trên đường.

    Dọc hai bên đường rừng cây cao su rụng hết lá chỉ còn lại cành trơ trụi, thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe đò hay xe bộ đội màu xanh xám chạy nhanh qua. Gần đến trạm Chơn Thành, mặt trời đã lên cao tới đỉnh đầu.

    Nam nhìn về phía trước, từ xa đã thấy mấy tay du kích và công an đang đứng. Tài xế cho xe chạy chậm lại và ép vào lề, dừng cách trạm khoảng vài mét, mọi người ngồi im trên xe.

    Tay lơ nhảy xuống chờ, một tay du kích đeo cây CKC đứng bên lề nhìn lên các ô cửa. Hắn ngoắc hết mấy bà con buôn, Nam và tay bộ đội trẻ xuống xe.
    Anh nhảy xuống và đi vào trạm, người bộ đội trẻ bị mấy ông kiểm soát quân sự mang băng đỏ hỏi giấy tờ ở phòng kế bên, còn Nam bị tay du kích mặt tái tái như bị sốt rét kinh niên yêu cầu xuất trình giấy tờ.

    Móc bóp lấy tất cả mọi thứ liên quan đưa cho hắn ta, cầm tờ giấy chứng thương được miễn nghĩa vụ của Nam, hắn đọc đi, đọc lại với vẻ hoài nghi. Cuối cùng hắn yêu cầu anh tụt một bên quần ra cho xem, Nam miễn cưỡng phải làm theo ý hắn vì biết không thể nào từ chối được.

    Vài bà con buôn thấy sao lâu lắc nên tò mò đưa cái đầu thụt vô, thụt ra xem có chuyện gì làm Nam thấy hơi nóng bốc lên mặt.

    Khi nhìn thấy cái sẹo quá to và dài trên đùi, hắn ta cho anh đi ra và tiếp tục kêu mấy bà con buôn đang đứng ngoài kia vào tra hỏi giấy phép đi đường.

    Sau vài phút, mấy bà con buôn cũng lục tục đi ra khỏi trạm, tỉnh táo như vừa ghé vào thăm một chỗ nghỉ chân quen ở ven đường. Dân đi buôn đường dài mấy năm gần đây quá quen với việc này, ai cũng chìa ra tờ giấy có đóng mộc xác nhận ở phường cấp. Mấy tờ giấy đó bây giờ họ có thể móc ngoặc hay mua từ công an các phường dưới thành phố và dùng nó đi buôn đi tứ xứ, Nam cũng quá quen với việc luồn lách này.

    Lái xe và lơ cũng đã quen với nếp xét hỏi hàng ngày trên tuyến đường nên bình thản ngồi đợi sau vô-lăng. Nhìn ra sau hàng ghế và nghe tay lơ đập hai cái vào thành xe, ông ta nổ máy.

    Chiếc xe băng ngang thị trấn và lao qua những cánh rừng cao su chạy dài nối tiếp hai bên đường. Nam dặn tay lơ cho xuống chồ ngã ba rẽ vào nông trường cao su, rồi miên man suy nghĩ về công việc sắp tới.

    Anh muốn cho Ba Du biết về bí mật của hai thùng đồ cổ, nhưng còn ngần ngại vì lo lắng là bí mật này sau đó có được giữ kín hay không? Nhiều người cũ trong đồn điền còn sống ở đây, và nếu tin tức vô tình bị tiết lộ cho chính quyền xã, chắc chắn là Nam sẽ bị công an hoặc Tư Có bắt giam và tra hỏi ngay lập tức. Nhưng nếu có Ba Du tham gia việc tìm kiếm, đó cũng là điều hay và có thể rất thuận lợi.

    Sau lần đến thăm nhà Ba Du ở Gò vấp, nhìn gia cảnh và bà mẹ già có nét mặt hiền lành, chân thật, Nam thấy có thể tin Ba Du là người có tư cách, sống rất tình cảm với mọi người.

    Những câu chuyện kể của những người quen cũ của Ba Du ở đồn điền làm anh tin khá chắc chắn về điều này, Ba Du còn là người tháo vát, biết xoay trở trong nhiều tình huống khác nhau và gan dạ, trầm tỉnh. Nếu câu chuyện này thuyết phục và làm Ba Du tin tưởng, khả năng thành công sẽ lớn hơn khi Nam chỉ có một mình.

    Kỳ thực cho đến bây giờ anh cũng chưa biết sẽ làm gì nếu tìm ra nơi chôn giấu hai cái thùng này, lấy lên rồi đem đi tất cả các món đồ này, nếu về Saigon thì bằng cách nào, nhiều câu hỏi còn bỏ trống.

    Đã gần đến ngả ba rẽ vào nông trường, tay lơ ngồi phía sau lại đập mạnh vào thùng xe, chiếc xe đò chạy chậm và tấp vào bên lề, mọi người trên xe còn đang vật vờ trong giấc ngủ trưa.

    Nam cầm cái túi đồ bước qua hàng ghế ra cửa sau, tay lơ lần này cẩn thận nhảy xuống đường, tay cầm sẵn khúc gổ chèn bánh đề phòng xe chết máy và tụt xuống dốc.

    Anh đi bộ một đoạn ngắn rẽ vào đầu con đường đất đỏ và đứng chờ xe quá giang dưới cây cao su già. Trưa giờ này ít xe ra vào trong đó, chắc phải chờ khá lâu. Nam thấy hơi đói, dù hồi sáng ở nhà anh đã cố nhồi vào bụng với các món bánh mì, khoai luộc nhiều hơn mọi ngày vì biết còn lâu mới đến bửa trưa, anh lấy chai nước đã vơi phân nửa ra uống.

    Chọn nơi đất có ít lá khô, dưới một gốc cây có bóng râm để ngồi nghỉ, anh lột bỏ cái nón ra khỏi đầu cho mát.

    Nhìn ra quốc lộ 13 vắng vẻ chạy tiếp về phía tây – bắc đến An Lộc, Lộc Ninh và biên giới Miên, nơi có các trận đánh lớn với lính Pôn Pốt những năm 78 -79, bây giờ nó là tuyến đường tiếp tế cho các đơn vị bộ đội đóng bên kia đất Miên nên xe qua lại khá nhiều.

    Từ xa có chiếc xe tải màu xám chạy đến ngã ba và sắp rẽ vào con đường đất đỏ, Nam đứng dậy đưa tay vẩy xin đi nhờ, lái xe chạy chậm lại và chỉ tay ra phía sau. Anh quăng cái túi lên trước và trèo lên thùng xe, chiếc xe tăng tốc và phóng xuyên qua các con đường trong lô cao su cuốn theo từng đám bụi mịt mù.

    Gần đến trung tâm xã, tay lái xe dừng lại cho Nam xuống. Anh đưa tay ra dấu cám ơn ông ta, vác túi đi qua cái chợ và hàng quán kiếm xem còn ai bán món gì đó để bỏ vào bụng cho đỡ đói.

    Đã xế chiều, ngôi chợ nhỏ nhóm vào sáng sớm giờ đã vắng teo, cũng may còn một bà cụ ngồi trên cái sạp tre đang bầy bán vài nải chuối chín và mít. Anh hỏi mua một nải, bà cụ da nhăn nheo, hàm răng móm mém, mỉm cười nhìn đầu tóc anh bị phủ lớp bụi đỏ mờ mờ và hỏi:

    - Cậu ở thành phố mới lên hả?

    Nam cười gật đầu, rồi trả tiền và vừa đi vừa ăn. Từ ngoài xã mà lội bộ vào trong rẩy cũng phải hơn một tiếng, Nam ăn thêm vài trái chuối chín, chất đường ngọt làm anh thấy dịu cơn đói, lấy chai nước ra uống thêm vài ngụm và nhanh chân đi theo con đường dọc bờ hồ.

    Khung cảnh thật vắng lặng, những luống bắp, đậu dọc đường … đeo đầy trái nhưng không thấy ai ra hái. Những cơn gió mát thổi lên từ mặt nước làm không khí dể chịu, Nam dừng lại dưới bóng cái cây, để túi xuống đất và lấy tay vốc nước hồ trong xanh lên rửa mặt cho sạch sẻ và tỉnh táo, rồi lấy bao thuốc lá ra, châm điếu cuối cùng hút rồi vác túi lên vai đi tiếp.

    Nhà anh và Ba Du gần như nằm ở cuối xã, nên càng đi vào sâu trong đó, phong cảnh đìu hiu, vắng vẻ hơn. Nhiều người dân Saigon bị ép buộc lên ở trong các khu kinh tế mới trên này, sau một thời gian chịu không nổi lại bỏ trốn về thành phố, nhiều chỗ cây cỏ mọc um tùm trở lại, vì vậy Nam thấy khâm phục Ba Du, cũng là dân Saigon mà ở được bốn, năm năm rồi, còn mấy ông trong xã thấy anh sang nhượng lại miếng đất ở chỗ khỉ ho, cò gáy cũng lấy làm lạ. Nhưng chính sách của nhà nước bây giờ là khuyến khích mọi thành phần dân chúng ở các thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất để có thêm lương thực, nên việc anh xin đất canh tác vì vậy mà được dể dàng.

    Về gần đến nhà, Nam thấy phấn chấn hơn, anh nhanh chân vượt mấy con dốc còn lại và bước vào dưới bóng mát của mấy cây mít trồng trước sân.

    Tháo sợi dây cột phên cửa và đẩy vào bên trong, không khí mát mẻ làm anh thấy hạ bớt nhiệt vả dể chịu nhiều. Treo cẩn thận cái túi vải lên vách, cởi bộ quần áo thấm mồ hôi, rồi ra ngồi nghỉ trên khúc gổ to trước sân.

    Nam định nghỉ ngơi một chút rồi qua Ba Du hỏi thăm xem mấy ngày vừa rồi, có gì lạ và dẩn con Đốm về, đi vắng vài ba ngày, Nam thấy mọi thứ vẩn như bình thường.

    Đàn gà đang dẩn nhau đi kiếm ăn trong các bụi cỏ, gà miền cao cũng thích ứng với cách sống ở vùng rừng núi, sáng nhảy xuống khỏi chỗ ngủ trên tấm phên tre trên cao để tránh chồn, cáo vào ban đêm và ra ngoài kiếm ăn, chiều tối về chuồng lại nhảy lên đó, người nuôi thỉnh thoảng chỉ rải thêm nắm bắp, đậu, lúa.

    Nhìn ra luống bắp và đậu đã đến lúc thu hoạch, lớp vỏ bên ngoài những trái đậu nhỏ đã héo khô và ngã sang màu nâu, chiều nay gặp Ba Du, Nam sẽ nhờ chỉ dẩn cách thu hái ra sao, vì đây là mùa vụ đầu tiên, cần biết cách làm sao cho ít bị hao hụt. Phần thu hoạch đậu, bắp, khoai cũng là thành quả từ công sức anh đã bỏ ra, và sau khi “đóng góp” một phần cho xã, Nam có thể xin giấp phép đem về thành phố làm lương thực cho gia đình. Thật ra thì anh có thể dùng để buôn bán, trao đổi tại chợ đen.

    Thấy buổi chiều đang dần xuống, anh vội vàng qua nhà Ba Du. Vừa lên khỏi con dốc trước nhà, con Ki và con Đốm chạy ra sủa ầm ỉ quanh chân anh. Ba Du đang hái bắp, đoán Nam đã về tới và vừa qua đây nên đi ra khỏi các luống bắp cao, trên vai đeo cái gùi đựng đầy trái. Thấy Nam đang đứng ở trước sân, Ba Du cười hỏi:

    - Mới về hả chú Nam, có tìm được nhà tui không?
    - Có, gặp bà già và bà chị anh Ba, mọi người đều khỏe, con trai anh đi học đều … anh Ba đang hái bắp hả?

    Ba Du cười vui vẻ khi nghe anh nói, rồi hỏi về tình hình công việc ở nhà, anh gật đầu nói đã xong.

    Hai người ra ngồi trên mấy tảng đá to ở góc sân, Nam hỏi Ba Du có gì lạ không trong mấy ngày anh đi, Ba Du lắc đầu cho biết mọi thứ đều bình thường.
    Nhớ lại mùa đậu, bắp trồng trong khu rẩy ở nhà, anh hỏi về thời gian và cách thu hoạch, Ba Du chỉ cặn kẻ và hứa ngày mai sẽ qua giúp, khiến anh thấy không còn lo lắng nhiều. Nhưng để cho thuận lợi và kịp thời, Nam và Ba Du sẽ cùng vần công, đổi qua rẩy của mỗi bên một ngày cho đến khi kết thúc công việc.

    Sáng hôm sau, cả hai vác gùi ra thu hoạch đậu và sau buổi trưa thì đến rẩy bắp. Công việc tiếp tục đến hơn nửa tháng, anh và Ba Du tạm nghĩ một vài ngày xả hơi. Phần thu hoạch hoa màu của Nam đã gần xong, phần của Ba Du chắc còn phải làm thêm năm, mười ngày nửa vì diện tích gieo trồng nhiều hơn.

    Có thời gian rảnh, Ba Du rủ Nam đi câu cá lăng, cả hai đem theo cái gùi và xô nhỏ đến chỗ ao cạn nơi Tư Có và hai tay du kích ném lựu đạn xuống hô để kiếm cá con làm mồi. Ba Du rất rành việc này, liền lội xuống dùng cái gùi xúc vào dưới đám lá sen, rau muống mọc ven bờ nơi bọn cá rô, chép, mè non thường hay vào trú ẩn trong đó, độ chừng mười lăm phút sau, trong cái xô nhỏ đã có khoảng chục con cá nho nhỏ.

    Thấy đã có đủ mồi cho buổi đi câu, Ba Du và Nam đi về, ra lấy xuồng và bắt đầu chèo ra ngoài xa gần giữa hồ. Móc hai con cá nhỏ vào lưỡi câu và thả xuống, Ba Du và anh ngồi lấy thuốc lá ra hút và theo dõi cái phao nổi dập dềnh trên mặt nước, chiếc xuồng theo những cơn gió thổi từ đông bắc trôi chậm về phía nam.

    Anh nhớ lại điều cần biết về nước hồ trong mùa khô nên hỏi:

    - Trong mùa khô mực nước hồ có giảm xuống nhiều không anh Ba?

    Nghe Nam hỏi, Ba Du nói:

    - Có, nhưng tùy năm, năm nào ít mưa thì nước xuống nhiều, như năm nay mưa ít, có lẻ mực nước sẽ xuống thấp hơn …
    - Ngoài xã lúc nào thì cho mở mấy cái cửa đập để xả nước?

    Ba Du chăm chú nhìn cái phao đang trôi rồi trả lời:

    - Ừ, có ! khi nào mấy xã phía dưới thiếu nước làm ruộng rẩy, mấy ổng sẽ cho xả nhiều hơn, nên thường cuối mùa khô, mực nước còn rất thấp
    Nghe Ba Du nói, Nam thấy tình hình điều tiết nước hồ qua con đập đúng như anh nghĩ, điều quan trọng ở đây là mực nước xuống càng thấp, càng dể dàng cho công việc truy tìm. Cả hai quay lại chú ý cái phao đang trôi, câu cá lăng cũng không dể như mấy con cá kia, nó là loại cá lớn thường ở dưới sâu, nên người câu phải kiên nhẫn nhiều hơn, chưa kể là phải có tay nghề nửa chứ.

    Trên mặt hồ vắng chỉ có xuồng Ba Du và Nam đang trôi lờ đờ, mặt trời lên cao, ánh nắng khá gay gắt, đã qua tháng hai, mùa khô bắt đầu đến trên vùng bán sơn địa phía nam dãy Trường Sơn. Tết cũng đã gần đến, Nam nói:

    - Tết năm rồi anh Ba có về Saigon không?

    Nghe hỏi về Tết, Ba Du trả lới:

    - Có, năm nào cũng về vài ba ngày với gia đình rồi lên trở lại, Tết này chú Nam có tính về không?
    - Chưa biết anh Ba, tôi mới về mấy ngày trước rồi – Nam cười

    Bổng Ba Du giật mạnh cần tre, làm mặt nước giao động mạnh, đầu cần là chú cá lăng to vùng vẩy quyết liệt khi bị kéo lên cho vào lòng xuồng, gở xong con cá, Ba Du lại móc mồi khác và thả xuống, rồi nhìn Nam nói:

    - Chú Nam thu hoạch và nộp thuế xong, xin xã giấy phép để chở đậu, bắp về dưới cho gia đình hay sao?
    - Ừ, vậy chắc phải về, nhưng trước Tết, còn Tết này tôi sẽ ở lại, anh Ba cứ đi về

    Ba Du cười đồng ý khi nghe anh nói, Nam thấy cái phao bị động, hai mắt anh chăm chú theo dõi, khi nó vừa chìm sâu xuống, anh giật mạnh cái cần lên, một chú cá lăng khác đang dính vào lưỡi câu, gở bỏ vào khoang xuồng, khoan khoái nhìn nó vùng vẩy cạnh con kia trong, rồi chui vào nằm im dưới đống lưới cũ.

    Hai người tiếp tục buông câu, chiếc xuồng trôi dạt ngang qua hồ về gần phía bờ xã bên kia, Nam nhìn thấy rỏ ngôi nhà Hai Tuất nhưng khoảng cách còn khá xa. Khúc hồ này có vẻ nhiều cá, Ba Du và Nam liên tục giật câu và dính thêm cá lăng và trê to.

    Hai Tuất đang ở ngoài bờ hồ nhìn thấy chiếc xuồng, nên đứng lên đưa tay và kêu lớn, Ba Du và Nam cũng hào hứng vẩy tay chào, thấy có chiếc xuồng nằm gần bờ, Ba Du nói:

    - Khỏe không Hai Tuất, ra lấy cá về nghe!

    Bơi xuồng chầm chậm về phía bờ chờ đợi, bên trong Hai Tuất nhanh nhẹ chèo đến gần:

    - Đang ra bờ hồ thấy anh Ba và chú Nam ngồi câu nhàn hạ quá, được nhiều chưa?
    - Hôm nay ra ngoài hồ câu cá lăng, anh lấy một, hai con về ăn, được cũng khá

    Ba Du cười và cầm bỏ con cá lăng và mè to vào xuồng Hai Tuất, hai bên nói chuyện về thu hoạch vụ mùa này, Hai Tuất nhìn Nam hỏi:

    - Con chó hôm đó chú Nam bắt về ra sao?
    - Dạ, nó quen nhà mới rồi nên nuôi mau lớn – Nam cười

    Hai Tuất cám ơn, hẹn hôm nào anh và Ba Du rảnh qua chơi, rồi chèo xuồng vào bờ bên kia.

    Thấy mặt trời lên cao và nắng nóng, Ba Du và Nam chậm rải bơi ngang qua hồ đi về, gần vào đến bờ, cần câu Nam dính thêm một con cá lăng, anh cười nói với Ba Du:

    - Hôm nay là ngày tận số của nó

    Bước lên bờ kiếm chỗ cột dây xuồng, còn Ba Du đang lấy dây xỏ mang mấy con cá xách về nhà.

    Ba Du bắt con cá lăng to nhất ra làm món nướng muối ớt và rủ Nam ở lại lai rai, mấy con còn lại rộng trong cái thùng nhỏ sau vườn, chiều nay Nam cũng xách một vài con về bên nhà.Trong lúc làm món cá, Ba Du chỉ Nam lấy mấy khúc củi cháy dở ra nhóm lại để bếp mau có than.

    Lát sau đã thấy Ba Du xiên từng khúc cá thấm mắm ớt, hành, xả, riềng … qua thanh tre dài và đưa lên nướng, tiếng mở cá nhỏ xuống than đỏ cháy xèo xèo và mùi thơm bay khắp gian bếp.

    Nam ra sau vườn hái thêm rau, ớt … khi anh quay vào nhà thi thấy món cá lăng nướng và hai cái ly đã được bày trên phản. Ba Du lấy bầu rượu có cái vỏ đen bóng từ kệ gổ trên cao xuống, đây là rượu của những người S’tiêng trong buôn Bù Đon cho Ba Du.

    Bên ngoài màu nắng vàng khô khốc rải ra trên khắp cây cỏ và mặt hồ, không khí ban trưa giửa vùng đồi núi thật yên tĩnh và nóng nực. Tiếng những con chim sâu gọi nhau ríu rít trên cành cây mít và điều trước sân nhà Ba Du, có lẻ bọn chim làm tổ trên đó lâu rồi. Ba Du và con Ki ở trong căn nhà tranh, còn tụi nó thì tha hồ bay nhảy trên đó, ai cũng có công việc để lo, không ai để ý ai, sống gần những hàng xóm nhỏ bé hiền lành này, chắc Ba Du và con Ki không phải bận tâm hay phiền toái chút nào.

    Mùa thu hoạch trước Tết như vậy là khá tốt, chỉ cần thêm vài ngày nửa là xong, nên cả Ba Du và Nam thấy yên tâm, thoãi mái. Ba Du rót rượu vào ly và mời:

    - Vô đi chú Nam, thưởng thức món cá nướng xem sao?

    Nam gật đầu cụng ly, ăn thử khúc cá, Ba Du chế biến và nướng rất khéo. Món này ở Saigon bây giờ cũng khó kiếm, thời buổi “ngăn sống, cấm chợ” nên việc chuyên chở gạo, mắm, cá, thịt … từ những vùng nông thôn ở các tỉnh lên thành phố bị cấm và kiểm soát chặt chẻ, gạo lúa, nông sản dư ra không đem đi đâu tiêu thụ được vì chính sách “kỳ dị” này. Người dân ai cũng biết miền nam có đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, kinh rạch nhiều tôm cá, sau 75 nông dân cả nước bị bắt ép vào hợp tác xã, mọi người làm nhiều mà không được hưởng bao nhiêu, họ chán nản bỏ mặc đồng ruộng hoang vu, từ đó chuyện thiếu thốn lương thực xảy ra khắp cả nước, bây giờ thì mọi người đang phải ăn độn và đói kém, thiếu thốn.

    Ba Du có vẻ vui nói:

    - Ngày mai, nhờ chú Nam qua phụ thêm vài ngày nửa để thu hoạch cho xong
    - Dạ, được anh Ba, bên rẩy tôi cũng xong rồi, số còn lại hái từ từ
    - Ngày mốt tui qua bên đó coi lại cái giàn gác gần mái, có chỗ để phơi bắp và đậu cho mau khô, không bị chuột bọ ăn, chắc là phải thay một số cây tre cũ để treo bắp, đậu lên cho chắc chắn.

    Thấy Ba Du nhớ tới vụ làm giàn để phơi và trữ lại sau khi thu hoạch, chút xíu nửa thì anh quên, Nam gật đầu và cụng ly tỏ vẻ cám ơn Ba Du.


    (còn tiếp)

  3. #3
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    BÔNG HOA GIỮA BUÔN THƯỢNG XA XÔI


    Cầm bầu rượu rót vào hai cái ly, nhìn cái vỏ bên ngoài lên nước đen bóng, Ba Du sực nhớ tới buôn thượng trong rừng liền nói:

    - À, lần trước khi gặp Điểu Sơn có hẹn vô thăm buôn, khi nào thu hoạch xong bắp, đậu tui với chú Nam vô trong đó một bửa

    Nam nghe Ba Du dẩn vào buôn thượng chơi thấy háo hức, nên lập tức gật đầu đồng ý. Từ lúc còn nhỏ đến lớn, thỉnh thoảng anh có đọc các câu chuyện về những người dân ở các buôn làng xa xôi trong rừng núi, chứ chưa có dịp đặt chân đến nơi họ sinh sống bao giờ. Mấy lần lên Đà-lạt nghỉ mát, đôi lúc Nam thấy đàn ông, đàn bà và trẻ con người Thượng đi bên đường hay xuống phố với cái gùi và xà gạc trên vai, họ thường đóng khố hay mặc quần áo có hoa văn và màu sắc lạ, rất khác với người Việt.

    - Người Thượng sống ở đó từ trước chiến tranh đến bây giờ hay sao – Nam hỏi

    Ba Du nhấm rượu, rồi gắp khúc cá nướng vào chén, tỏ vẻ trầm ngâm:

    - Khi người Mỹ đến Việt Nam, buôn làng họ đã ở đó lâu đời rồi, họ giỏi đi rừng vì đã quen sống ở núi cao, rừng rậm, sau này khi người Mỹ rút đi, tất cả lính biệt kích người S’tiêng gia nhập biệt động quân và chiến đấu cho đến năm 75 … sau chiến tranh họ giải ngũ, và phần nào đó cũng bị phân biệt đối xử như những người lính miền nam khác

    Nam đưa ly cụng với Ba Du, hồi tưởng lại khi chiến tranh kết thúc anh vừa mới mười sáu, mười bẩy tuổi, nên không hiểu biết nhiều về cuộc chiến này, ngoài hình ảnh những người lính VNCH, lính Mỹ và xe nhà binh chạy trên đường phố.

    Nhiều năm sau này, anh nghe nhiều người nói chuyện, rồi có dịp đọc sách và các tài liệu về chiến tranh, nên hiểu nước Mỹ dính dáng sâu xa và có vai trò quan trọng trong cuộc chiến ở Việt Nam. Miền Nam đứng vững được một thời gian dài cũng nhờ người Mỹ giúp đỡ. Nhưng rồi sau đó, tình hình thay đổi nhanh chóng, phong trào phản chiến bùng lên, dân Mỹ chán nản vì thấy người Mỹ chết quá nhiều … Nước Mỹ ra đi, và kết quả miền nam sau một thời gian chiến đấu lẻ loi đành chịu sụp đổ, thất trận. Những người lính như Ba Du, Điểu Sơn có lẻ rất buồn vì mang mặc cảm bại trận và bị bỏ rơi.

    Nam nhớ có lần đến nhà Huy, nó rủ lên cái gác nhỏ ngồi chơi, thấy trên cái kệ trong góc có cuốn sách đang đọc dở, anh hỏi Huy thì nó nói đang đọc, lật ra ngoài bìa xem tựa sách, thấy cuốn sách có tên là lạ “Nổi buồn nhược tiểu” của một nhà văn người Mỹ.

    Huy cho anh mượn về nhà, và khi bắt đầu đọc, Nam dần hiểu câu truyện viết về cuộc chiến phân chia bắc - nam ở Triều Tiên sau thế chiến II, giữa cộng sản và tự do.

    Đọc xong cuốn sách, anh thấy thân phận người Triều Tiên cũng đau khổ và buồn bả như người Việt Nam, làm thân phận nhược tiểu một nước nhỏ, họ cũng bị các nước lớn chia thành nam – bắc, nhưng may mắn hơn miền nam giữ được tự do với sự giúp sức của người Mỹ.

    Còn thân phận và cuộc đời của những người lính, người dân miền nam Việt Nam, sau năm 75 thì chịu nhiều đau thương cho đến tận bây giờ.

    Vì vậy sau chiến tranh, Nam càng hiểu nhiều hơn vì sao những người dân miền nam lại sống chết vượt biên bỏ nước ra đi, anh chắc là những người lính có nổi buồn sâu đậm như Ba Du cũng nuôi trong lòng khát khao đó …

    Ba Du đang hút điếu thuốc và nhìn ra phía xa ngoài hồ nước, con Ki nằm im trong góc nhà, chắc nó đang nhớ con Đốm, bạn nhỏ của nó bửa nay đi đâu mất, anh kêu nó và bỏ vào cái tô một miếng cá, nó lẳng lặng đến ăn.

    - Chút nửa chú Nam bắt con cá lăng và cá mè đem về nghe – Ba Du nói

    Nam gật đầu và chợt hỏi qua chuyện khác:

    - Mấy hôm nay không thấy Tư Có và tụi du kích đi vào đây hả anh Ba!
    - Ừ, mà lâu rồi cũng không thấy bọn họ đi tuần trong này và lên trên kia khu rừng, nhưng gần Tết và mấy ngày lể lớn, bên du kích xã thường kết hợp với công an đi tuần xuyên qua rừng đến tận buôn của Điểu Sơn

    Nghe Ba Du nói chuyện về chiến tranh, Nam nhớ lại hôm về Saigon vừa rồi, băng rôn ca ngợi chiến thắng Khmer đỏ treo đầy đường, rồi lúc chiều tối khi đến nhà Huy, cái loa phường léo nhéo đe dọa những thanh niên đến tuổi phải đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự, không được trốn tránh.

    Lại thêm chiến tranh, cuộc chiến biên giới với Khmer đỏ nổ ra năm 78 – 79 đến nay đã ba, bốn năm, báo chí lúc đó cũng nói nhiều về các trận đánh với lính Pôn Pốt dọc các tỉnh biên giới, anh thắc mắc nên hỏi:

    - Lúc Pôn Pốt đánh qua đây, lính Khmer đỏ có vào đến nông trường cao su này không?
    - Xã này nằm khá xa biên giới, nên lính Khmer đỏ không đánh đến đây, lúc tụi nó tấn công vô, trong này huyện, xã đề phòng nên đưa du kích, công an vào đóng trong các buôn làng, có vài lần vì lo sợ đạn pháo kích từ bên kia biên giới rơi trúng, Điểu Sơn, Điểu Rút đưa người nhà chạy ra đây ở mấy tuần, rồi sau đó tình hình yên tĩnh trở lại, họ mới trở về buôn.

    Vùng rừng núi tây – nam này đã tiêu điều sau cuộc chiến năm 75, rồi khi chính quyền cộng sản vào miền nam, đời sống mọi người rơi vào cảnh đói khổ, sợ sệt, thiếu ăn, thiếu mặc.

    Do đó, khi cuộc chiến khốc liệt với Pôn Pốt và Trung quốc nổ ra, dân Saigon càng hoảng sợ, làn sóng vượt biên lại càng dồn dập, mọi người già , trẻ đều muốn ra đi khỏi đất nước khốn cùng này. Người dân trong các buôn làng xa xôi như ở đây nghèo khổ, ít học nên không trốn chạy đi đâu xa được, họ phải ở lại và chịu đựng bom đạn, giết chóc, chiến tranh sao nghe buồn thảm.

    Ba Du nhìn Nam có vẻ đang tư lự suy nghĩ:

    - Uống chú Nam, mồi còn nhiều lắm!

    Cả hai đưa ly lên uống cạn, Ba Du gắp cho anh một khúc cá to, thịt cá lăng nướng than rất ngon. Ở cái nơi khỉ ho này, ban ngày thì quanh quẩn việc ngoài rẩy, tối về ăn xuống xong rồi thì không biết làm gì, vì đèn dầu tối mù mù, riêng ở cuối cái làng kinh tế mới hoang vắng này, người dân bỏ đi gần hết, chỉ còn lại có anh với Ba Du và vài người khác. Nam nghĩ, không lai rai thì cũng ngồi không, hay đi ngủ sớm, nên thỉnh thoảng có bửa nhậu cho khuây khỏa giữa rừng núi, cũng khó từ chối lời mời của Ba Du.

    Rượu của miền rừng núi hoang dã làm Nam thấy đầu óc lâng lâng, anh hỏi:

    - Vào buôn thì cũng đi như hôm mình lên câu gần trên đó, rồi bỏ xuồng lại và lội bộ đi xuyên qua rừng bao xa?

    Nghe anh hỏi, Ba Du gật đầu:

    - Sáng phải đi sớm, tới chỗ hôm mình thả lưới, kéo xuồng lên bờ giấu vô trong bụi cây, rồi từ đó đi bộ qua cánh rừng vô buôn …

    Chợt như có tiếng ai kêu tên Ba Du từ phía con đường nhỏ chạy từ trong rừng cao su xuống rẩy, Nam và Ba Du im lặng nghe ngóng, lát sau nhận tiếng người quen, Ba Du vui vẻ cười:

    - Năm Bình ở ngoài nông trường vô chơi

    Ba Du bước ra trước nhà đứng chờ, Nam cũng ngoái nhìn qua cửa sổ thấy Năm Bình đang chạy xe đạp trên đường mòn giữa các luống đậu và giơ tay chào.

    Dựng chiếc xe đạp vào vách, Năm Bình bắt tay Ba Du và bước vào nhà, Nam cũng chào:

    - Anh Năm khỏe không?

    Thấy Nam, ông ta cười nói:

    - À, có chú Nam ở đây lai rai hả, hôm nay không hái bắp, đậu gì sao?

    Ba Du lấy thêm chén đũa và cái ly:

    - Anh Năm ngồi nhậu lai rai, thu hoạch cũng gần xong rồi, sáng nay tui với chú Nam đi câu được con cá lăng về làm món nướng lai rai với rượu trong buôn thượng cho

    Năm Bình cầm cái bầu rượu lên nhìn Ba Du:

    - Rượu này đây hả?

    Ba Du gật đầu, rót rượu vào ly của Năm Bình:

    - Mời anh Năm!

    Năm Bình cạn ly, gật đầu khen ngon và gắp miếng cá nướng thưởng thức rồi hỏi:

    - Trong đây lúc này có gì lạ không?

    Ba Du lắc đầu:

    - Không, vẩn như vậy, lâu lâu Tư Có với du kích đi qua rồi về
    - Mùa rẩy này bắp, đậu thu hoạch khá hơn mùa rồi không anh Ba?
    - Thấy được hơn mùa rồi, nếu có đủ phân thì chắc khá hơn

    Năm Bình nhìn Nam:

    - Bên chú Nam chắc cũng khá chứ hả?
    - Dạ, cũng xuống giống đậu, bắp như anh Ba, nhưng làm ít hơn
    - Giá cả thu mua ngoài đó năm nay có tăng lên không anh Năm – Ba Du hỏi
    - Có, giá đậu xanh lên, bắp ít hơn, nếu gần tết anh và chú Nam có bán kêu tôi nhé, tôi sẽ thu cao hơn giá của mấy bà đi buôn, chỗ anh em quen lâu năm rồi
    Nam nghe Năm Bình nói thấy có lý, chỉ xin giấy phép xã đem một ít về Saigon, còn lại bán theo giá chợ đen trên này lấy tiền khỏe hơn. Từ hôm bắt đầu thu hoạch đến nay anh không nghe Ba Du nói Năm Bình ngoài xã có thu mua nông sản, chắc vì tính cẩn thận, không muốn làm Nam hiểu lầm.

    Ba Du ra phía sau bắt thêm con cá trê, nhanh tay làm và nổi lửa lên nướng trên chỗ than cũ, Nam đứng dậy ra sân đi lại cho thoải mái đôi chút.

    Dọn món mới lên, có thêm Năm Bình vừa vào, nhưng Nam đã hơi say nên uống ít, ngồi nghe hai ông bạn “già” nói chuyện.

    Năm Bình kể chuyện buôn hàng lậu về Saigon, và than lúc này phải chi nhiều hơn cho đám tài xế nông trường mới chịu giấu hàng trên xe chở về Bình Dương giao ở đó, sau đó chờ mối lái từ Saigon cho người lên lấy, tình hình kiểm soát của công an, du kích dọc đường cũng còn “ác liệt” lắm, nên cũng vất vả hơn trước. Tuy nhiên giới con buôn thì vô vàn mánh khóe, nên ở Saigon có tiền vẩn mua được mọi thứ, chỉ có giá cả thì mắc mỏ hơn thôi.

    Nam thắc mắc hỏi Năm Bình về đường đi vì có lần thấy Tư Có vào đây từ hướng ông ta mới vô:

    - Đường đi từ lô cao su vào đây thì xa hay gần hơn con đường quanh bờ hồ vậy anh Năm?
    - Xa hơn vì phải chạy qua các lô cao su, nhưng lại dể đi hơn ngoài bờ hồ … chú Nam hôm từ Saigon lên xe chạy mấy giờ mới về đến đây?
    - Cũng đầu giờ chiều mới tới ngã ba ngoài quốc lộ và quá giang xe vào trong này
    - Chú Nam là dân Saigon mà lội bộ cũng đâu thua gì dân ở đây, thôi mai mốt kiếm vợ ở đây luôn nhé – Năm Bình cười nói
    - Cũng đâu có xa lắm đâu anh Năm – anh trả lời

    Ba Du nghe khen cũng cười, tiếng cười của ba người đàn ông vang lên trong căn nhà nhỏ.
    Buổi chiều dần xuống, mặt trời chìm về hướng tây, vài đàn chim bay ngang qua mặt hồ lặng gió về phía cánh rừng già ở dãy đồi xa xa.

    * * *

    Mấy hôm nay từ sáng sớm, Nam qua phụ một tay với Ba Du hái đậu, bắp đem về nhà treo lên cái giàn phơi dưới mái. Nhìn từ xa, bóng dáng hai người đàn ông làm việc miệt mài không ngơi nghỉ bên những luống đậu, bắp trên cánh đồng vắng trông thật lẻ loi giữa núi rừng trùng điệp.

    Công việc này mới mẻ và khá nặng nhọc đối với Nam, anh cũng không hỏi Ba Du nhiều về cách thu hoạch để có thể làm một mình vào mùa sau, vì mục đích của anh vào đây thì khác, nên cứ lằng lặng làm cho xong công việc.

    Lâu dài, Nam cũng không có ý định ở lại đây làm nghề nông nếu việc kia thất bại, một người trẻ và có máu mạo hiểm như anh không thể sống lâu ở chỗ này,vì nó quá buồn tẻ, heo hút.

    Đa số những thằng bạn thân của anh ở Saigon, mỗi khi gặp mặt nhau cũng hay tâm sự không biết định hướng tương lai ra sao, vì sự phân chia, quản lý con người theo lý lịch của chính quyền mới làm nản chí và bóp chết tương lai của nhiều người.

    Sự thay đổi sau năm 75 quá lớn lao, nó làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu triệu người dân miền Nam, những người trẻ ở Saigon như Nam cảm thấy lạc lỏng, chán nản như đang sống trong cỏi tạm nào đó, xã hội trở nên điên đảo, mọi người đâm ra ngờ vực lẩn nhau vì đói khổ, vì sợ sệt. Ai cũng mong có cơ hội vượt biên để thoát khỏi cảnh bị đầy ải bởi đói rách, bệnh tật …

    Tuy nhiên ở đây Nam cũng học được sự nhẫn nại, chịu đựng và tài xoay sở của Ba Du. Cuộc sống của người lính trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt vừa qua khiến anh phải nể phục họ.


    Phần có lẻ cũng do duyên tao ngộ, nên anh gặp Ba Du ở chốn núi rừng này, nếu tin là như vậy.

    Năm, sáu ngày làm việc miệt mài từ sáng sớm đến chiều tối, phần thu hoạch ở rẩy Ba Du cũng xong.

    Hai con chó Đốm và Ki có dịp này cũng chạy theo ra rẩy, tụi nó lăng xăng khắp nơi, khi con Ki đánh hơi tìm thấy ổ chuột, nghe nó sủa con Đốm cũng chạy nhào đến sục xạo chung quanh, cả hai săn đuổi bọn chuột chui rúc dưới các đống cỏ khô, tiếng sủa của tụi nó vang vọng ngoài đồng trống.

    Sáng nay, Nam và Ba Du sửa lại giàn phơi dưới gác mái bên nhà anh, cả hai vác rựa ra sau vườn nhà Ba Du chỗ mấy bụi tre lớn, lựa vài cây to, thẳng rồi chặt xuống và khiêng về thay mấy cây tre cũ, mục. Sau đó chất các bao đựng đậu và treo bắp lên cao trên giàn, vậy là xong rồi, chỉ còn tách hạt đậu và bắp ra, việc này chắc phải nhờ Hai Tuất kiếm thêm người của xã bên đó qua phụ vài ngày.

    Xong công việc Nam và Ba Du thấy phấn chấn chút đỉnh vì dù sao mùa này cũng khá, giá cả cũng tăng, hy vọng Tết này có đỡ hơn.

    Ba Du hẹn Nam sáng mai vào buôn thăm Điểu Sơn, vì đường đi qua khu rừng già nên dặn anh cầm theo rựa, thêm chai nước uống vì thời tiết mùa này đi bộ trong rừng rất mau khát, và dắt con Đốm qua gửi bên nhà Ba Du.

    Sáng dậy sớm, vốn đã quen với việc này, nên chiều qua Nam luộc thêm khoai để mang theo ăn dọc đường. Anh nhanh chóng lấy cây rựa và chai nước rồi cẩn thận khép cửa nhà, dẩn theo con Đốm đi ra.

    Thấy Ba Du đang ngồi kế bên cái gùi chờ anh đến, cũng mang theo rựa, nước và thêm vài trái chuối chín, Ba Du chỉ cho Nam cái lọ nhỏ có nước màu nâu đen bên trong, anh thắc mắc:

    - Cái chai đó đựng cái gì anh Ba?
    - Hôm qua tui lấy mấy điếu thuốc lá ra ngâm để khi vô rừng xoa lên tay chân chống muỗi và vắt

    Nam nghe vậy hơi sợ, đọc truyện đi rừng thỉnh thoảng có đoạn những con vắt bò ra đeo bám vào tay, chân người để hút máu. Như đoán được ý nghĩ của anh, Ba Du mỉm cười nói:

    - Mấy con vắt đó cũng không ghê gớm lắm đâu, hút no rồi nó sẽ tự rơi ra, hơi đau chút xíu, khi có mùi thuốc lá nó sẽ tránh xa

    Nghe Ba Du nói vậy anh cũng cười, đã đi thì không sợ, dù sao thì người Thượng ở trong các buôn làng cũng bị nó cắn lâu nay mà họ vẩn mạnh khỏe, từ đời này qua đời khác, có sao đâu.

    Nam bỏ chai nước và cây rựa vào cái gùi, vác nó lên đi ra bờ hồ, buổi sáng sớm còn đọng chút hơi sương, không khí mát lạnh, dể chịu.
    Ba Du tới sau, tháo dây xuồng và ngồi ra phía lái, họ từ từ chèo lên phía thượng lưu, mùa này nước chảy chầm chậm về phía cửa đập nên bơi ngược dòng hơi tốn sức, Ba Du nói:

    - Phải bơi nhanh đến chỗ giấu xuồng để đi bộ xuyên rừng vào trong buôn, tới chiều mới ra kịp và về nhà trước buổi tối

    Cả hai yên lặng chèo, chiếc xuồng lướt nhanh trên mặt hồ, khung cảnh hai bên bờ còn mờ mờ dưới những tàng cây cao im vắng không một bóng người. Tiếng sóng nước đều đặn vổ vào chiếc xuồng, Ba Du từ phía sau nói bắt đầu bơi ngang qua bên kia hồ, thỉnh thoảng mái chèo chạm vào thân xuồng vang thành tiếng lộp cộp trong không gian yên tĩnh của buổi sáng sớm.

    Khoảng nửa giờ sau, đến chỗ lần trước giăng lưới, Ba Du nói:

    - Lên phía trên chút xíu nửa, nỗi bước đi. Con đường mòn từ từ hiện ra rỏ hơn, Ba Du bước đi có vẻ thoải mái và nhanh nhẹ, Nam đi sát phía sau, vừa đi vừa quan sát khu rừng thưa trơ trụi. Anh nhớ cách đây gần một tháng, khi vào đây đánh cá, cành lá còn xanh tốt, nay đã rụng gần hết, những đám lá vàng khô nằm phơi đầy trên mặt đất và các tảng đá ở rải rác khắp nơi.

    Con dốc lên cao dần khi đến gần cửa rừng già, Ba Du đến gần một tảng đá to, phẳng và bỏ cái gùi xuống, rồi lấy cái lọ nước đen đen ra và nói:

    - Chú Nam bôi nước thuốc lá vào tay chân để chống muỗi, vắt cắn

    Nam bỏ rựa xuống, lấy cái lọ đổ chút nước ra bàn tay và gửi thấy mùi hăng hăng của thuốc lá, rồi cẩn thận xoa lên vùng da tay, chân.

    Xong xuôi, cả hai đi thêm một đoạn đường mòn nửa, rồi bắt đầu leo lên con dốc, bước qua thân cây đổ nằm chắn ngang đường, và đi vào dưới vòm lá âm u. Mặt trời nhô lên ở phía đông đang chiếu những tia nắng đầu tiên xuyên qua vòm lá trên cao, làm khu rừng sáng lên đôi chút.

    Con đường mòn này đã có từ lâu và người qua lại thường xuyên cho nên dù cây rừng và bụi rậm mọc dầy hai bên, nhưng Nam vẩn thấy rỏ và cũng dể đi lại.

    Sáng sớm, trong không gian vắng lặng, tiếng kêu thành từng tràng rất lạ tai của những con chim vang lên từ bên trên các cành cây cao, trong các bụi rậm bên dưới, những con gà rừng cất tiếng gáy dọc hai bên đường mòn khi trời bắt đầu sáng, tiếng gáy của nó giữa rừng hoang vu làm Nam thấy thích thú.

    Ba Du đi đằng trước, thỉnh thoảng vung cây rựa phạt đứt những dây leo và nhánh cây mọc che lối mòn để dể đi qua, quay lại hỏi:

    - Chú Nam lần đầu tiên đi rừng có thấy mệt không?
    - Chưa thấy gì anh Ba

    Kinh nghiệm đi rừng của anh không có bao nhiêu, chỉ nhớ trước năm 75, lúc lên Đà-lạt vào những khu rừng thông rất đẹp trên các ngọn đồi dạo chơi, rừng ở đó toàn cây lớn, thưa thớt, ít có bụi rậm và dây leo nên du khách rất dể đi qua. Còn rừng già ở đây thì rậm rạp, nhiều chỗ tre gai đan chằng chịt vào nhau như một bức tường.

    Càng vào sâu, lớp lá rừng rơi xuống và mục nát qua nhiều năm tạo thành lớp đất mùn xốp dưới bước chân người, các tầng lá của những cây to, cao mà anh chưa hề thấy bao giờ, che kín bên trên làm cho không khí ngột ngạt và khó chịu.

    Lối mòn bắt đầu đi lên, Nam dùng rựa phạt tiếp những bụi cây ở sát con đường, anh cảm thấy cơ thể nóng dần lên vì cố gắng đi qua con dốc, mồ hôi bắt đầu đổ ra trên trán và thấm ướt cái áo kaki cũ.

    Phía trước Ba Du đeo cái gùi trên vai bước đi không mấy khó nhọc, đang đứng lại chờ Nam ở giữa lưng chừng dốc, thấy anh mặt mủi đỏ bừng, một tay chống cây rựa xuống đất để lấy đà bước lên phía trước, Ba Du cười nói:

    - Qua hết cái dốc này đến bên kia có con suối thì dừng chân uống nước, chú Nam ráng thêm một đọan nửa nhé

    Anh gật đầu, cố hít thở sâu và bước theo Ba Du lên đỉnh đồi, tự hỏi trong đầu không biết là từ lúc đi đến bây đã được bao xa.

    Qua được triền đồi bên kia, con đường chạy lài lài xuống thung lũng làm Nam thấy dể thở hơn, anh bỏ cái nón ra cho đỡ nóng, cũng may là từ lúc vào rừng đến bây giờ chưa bị con vắt nào cắn, anh mỉm cười nghĩ, không biết Ba Du có dọa cho anh sợ không.

    Đến nơi đã thấy Ba Du ngồi trên hòn đá bên con suối lớn và đang uống nước, Nam đưa tay lấy chai trong gùi ra, ngửa cổ tu liền mấy ngụm nước, ôi cha, chưa bao giờ anh thấy nước ngon như vậy, cơn khát đang hừng hực từ từ hạ xuống. Ra ngồi nghỉ trên hòn đá sát bên dòng nước, Ba Du nhìn anh nói:

    - Đến suối này mới được gần nửa đường, còn đi qua hai con suối nửa rồi mới đến buôn

    Nam cười khi nghe Ba Du nói vì thấy có vẻ còn xa, anh bước lên các hòn đá tròn nằm bên bờ suối và cúi xuống lấy tay vốc nước rửa mặt, những giọt nước mát lạnh làm anh thấy dể chịu và tĩnh táo, quay lại ngồi trên tảng đá và hỏi Ba Du:

    - Anh Ba vào trong buôn này nhiều lần nên quen đường đi và có vẻ không mệt
    - Ừ, tui cũng vào đây nhiều lần, lúc đầu đi thấy xa, đi hoài rồi quen … mùa mưa khó đi hơn vì lầy lội, và nước của các con suối sẽ dâng lên tràn bờ

    Ba Du đeo cái gùi lên rồi cầm cây rựa nói:

    - Qua suối đi chú Nam

    Anh còn muốn ngồi nghỉ thêm vài phút, nhưng vì biết đường còn xa nên đứng dậy theo Ba Du băng ngang con suối qua bờ bên kia.

    Hai người tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi qua rừng cây đi về hướng tây – bắc, đi thêm độ nửa giờ vượt qua khoảnh rừng thưa, Ba Du và Nam đến một trảng cỏ rộng, ánh nắng tràn ngập trên thảm cỏ xanh mướt làm Nam ngạc nhiên, thích thú, vài con chim và gà rừng thấy có người đến gần hoảng hốt bay vọt lên các cành cây.

    Mặt trời đã lên cao, hai người đàn ông nhanh chóng vượt qua trảng cỏ, và đi vào dưới những tán rừng xanh che kín trên cao, rồi vượt qua hai con suối nhỏ và cuối cùng xuôi về một thung lũng bằng phẳng, từ xa Nam đã thấy khoảng hơn chục mái nhà sàn mang vẻ thanh bình bên những nương rẩy màu xanh chạy dài vào sát chân đồi, Ba Du đưa tay chỉ về hướng đó nói:

    - Tới buôn thượng rồi đó chú Nam

    Dọc đường dẩn vào buôn, xa xa vài người phụ nữ đang còng lưng làm việc trên các ruộng lúa nước , nhiều rẩy bắp, khoai đã được thu hái xong, chỉ còn lại khúc thân và lá vàng khô, nằm xen với những luống khoai mì, khoai lang khác còn xanh tươi bạt ngàn …

    Ba Du dẩn Nam tới ngôi nhà sàn dài ở gần giữa buôn, leo lên cái thang gổ ngắn lên sàn và gọi:

    - Điểu Sơn khỏe không?

    Chủ nhà Điểu Sơn đang ngồi đan rổ, vừa thấy Ba Du xuất hiện trước hiên nhà liền đứng lên chào:

    - A, Ba Du mới vô buôn hả, tui khỏe – rồi nhìn Nam
    - Đây là chú Nam, lần trước có gặp Điểu Sơn ngoài hồ chỗ đánh cá

    Nam cười và gật đầu chào, Điều Sơn nhận ra anh nên nói:

    - Nhớ rồi, Ba Du và chú Nam vô nhà chơi

    Ba Du bỏ cái gùi xuống gần chỗ mấy cái rổ mây đan dở dang, Nam cởi bỏ cái nón và ngồi nghỉ trên sàn nhà bằng phên tre, Điểu Sơn hỏi chuyện Ba Du về thu hoạch mùa màng ở nhà.

    Bây giờ Nam mới có cơ hội nhìn kỹ hơn vẻ bên ngoài của ông ta, tầm thước như Ba Du, tóc hơi quăn, khuôn mặt có nụ cười rất tự nhiên, thân thiện và đặc biệt là một cơ thể rắn chắc.

    Ba Du hỏi thăm Điểu Rút, Điểu Chắc … và mùa màng năm nay trong buôn có đủ ăn không, Điểu Sơn gật đầu nói:

    - Hy vọng không bị đói, còn không thì vô rừng đào củ, bẩy thú … chờ mùa mưa tới cấy lúa để buôn có gạo ăn, khỏi chờ chính quyền
    - Bà xã Điểu Sơn đâu? – Ba Du hỏi
    - Đang ở ngoài rẩy rồi, hai đứa nhỏ đi học làng kế bên, Ba Du và chú Nam ở lại nhà tui trưa nay nghe, lấy ché rượu cần ngon ra uống, bây giờ tui dẩn hai anh qua nhà già làng Điểu K’mốt thăm ổng một chút.
    - Ừ, tụi tui ở lại tới chiều mới về - Ba Du trả lời

    Nam và Ba Du theo Điểu Sơn tới cái nhà sàn lớn nằm giữa buôn, ba người lên thang gổ và bước vào nhà. Một người đàn ông Thượng lớn tuổi, khuôn mặt nhăn nheo, móm mém, ông ta mặc y phục thổ cẩm đang ngồi gần cây cột chính giữa nhà, Điểu Sơn và hai người khách ngồi xuống, rồi nói lớn:

    - Già làng ơi, có Ba Du vô thăm buôn
    - A, Ba Du vô hả, rẩy ngoài đó năm nay có đủ ăn không?
    - Cám ơn già làng, trời cho thì chắc đủ - Ba Du cười đáp và nói tiếp – đây là chú Nam cũng làm cái rẩy ở ngoài đó, dưới thành phố lên

    Nam gật đầu chào già làng Điểu K’mốt, ông ta chắc phải hơn 80 tuổi, tóc bạc và da mồi nhăn nheo, làm trưởng làng ở cái buôn này chắc đã rất lâu năm rồi. Từ giả già làng, Điểu Sơn dẩn Ba Du và Nam qua kiếm Điểu Rút và rủ trưa nay đến nhà uống rượu cần. Nhà Điều Rút ở tận cuối buôn, nhìn ra xung quanh thấy màu xanh nương rẩy và rừng nối tiếp nhau. Cả ba người bước lên thang, Điều Sơn đứng trước hiên lớn tiếng gọi:

    - Điểu Rút có ở nhà không?

    Có tiếng một cô gái từ trong vọng ra:

    - Dạ, cậu Điểu Rút đi rừng rồi, chiều mới về

    Nam nghe cách trả lời thấy giống như một cô gái Việt, nên thấy lạ và hơi tò mò về cô gái Thượng này, anh theo Điểu Sơn và Ba Du vào bên trong. Ở gần cái vách giữa nhà, một cô gái trẻ đang ngồi tẻ hạt bắp bên cái nia to, kế bên là một đống trái chưa bóc vỏ, Nam ngạc nhiên vì thấy cô gái không giống như một người S’tiêng, cô có nét đẹp tự nhiên và duyên dáng giống một cô gái Việt, mặc y phục bà ba đen, mái tóc thả dài xuống vai, từ cô toát ra nét khỏe mạnh của một thiếu nữ miền sơn cước, Điểu Sơn thấy cô gái liền nói:

    - Ngọc Minh ở nhà tẽ bắp hả, chừng nào Điểu Rút về cháu nhớ nói là có Ba Du vô buôn thăm nhé

    Cô gái gật đầu và nhìn Nam với đôi mắt hơi ngây thơ, đọng chút u buồn, anh nghe trái tim trong lồng ngực đập theo nhịp điệu rất lạ, nó cũng giống như lần đầu tiên khi anh thầm yêu cô bạn gái cũ.

    Nam mong Điểu Sơn ở nán lại nói chuyện lâu hơn, nhưng câu chuyện ngắn ngủi kết thúc ở đó, Điểu Sơn cùng Ba Du đang bước xuống thang, Nam ngoái lại nhìn cô gái một lần nửa, cô vẩn lặng lẻ ngồi tẻ bắp bên cái nia và hơi mỉm cười với anh.

    Nam chậm rải xuống từng bậc thang, anh nhìn màu nắng vàng buổi trưa trải rộng khắp buôn, theo chân hai người kia về nhà Điểu Sơn.
    Dặn Ba Du và Nam lên nhà ngồi chơi, Điểu Sơn cầm ná ra bắt con gà ngoài rẩy về làm thịt.

    Buổi trưa trên căn nhà sàn giữa vùng đồi núi hoang vu, chóe rượu cần được Điểu Sơn đem ra đãi khách. Lần đầu tiên uống rượu này, Nam hơi lúng túng vì chưa biết cách uống, nhưng thấy Ba Du và Điểu Sơn cắm cái cần trúc vào bình uống tự nhiên, anh tò mò làm theo, thấy nó có vị cay là lạ và thơm mùi hương của cây lá rừng khi giọt rượu vào miệng và đi qua cổ họng.

    Món gà luộc chấm muối ớt được Nam và Ba Du thưởng thức tận tình vì cái bụng trống rổng sau nhiều giờ lội bộ trong rừng buổi sáng. Nhưng đầu óc anh lúc này lại lan man khi nghĩ đến cô gái tên Ngọc Minh, đâu ngờ ở cái buôn trong miền rừng núi xa xôi này lại có một cô gái duyên dáng như vậy, anh bạo dạn hỏi về người đàn ông tên Điểu Sơn mà cô gọi là cậu:

    - Điểu Rút ngày xưa có trong lính cùng với Điểu Sơn và anh Ba Du không?

    Nghe anh hỏi hơi đột ngột, Điểu Sơn nhìn anh cười nói:

    - Có, nhưng Điểu Rút bị thương nặng nên giải ngũ trước năm 75, tui với Ba Du còn ở lại đến ngày cuối cùng, ờ … mà chú Nam uống thử rượu cần trong buôn làm đi, nó say đằm lắm, không nhức đầu đâu

    Điểu Sơn tiếp xúc với người Mỹ và Việt sớm nên cách nói chuyện và cử chỉ cũng không khác người miền xuôi bao nhiêu, nhưng vẩn còn giữ nét chân thật của người Thượng, có lẻ điều đó làm cho hai người người đồng đội cũ vẩn quí mến nhau sau chiến tranh.

    Rượu cần uống vào rất nhẹ và dể chịu nơi cổ họng, khi trong bình vừa gần hết, Điểu Sơn lại lấy nước đổ thêm vào, chờ dăm phút sau, Nam vít cần uống thử, kỳ lạ là chất rượu vẩn không nhạt đi bao nhiêu, và cái say len lén tựa như giấc ngủ đến lúc nào không hay.

    Không khí ban trưa trong buôn rất vắng vẻ và mang nét cô tịch của rừng núi xung quanh, Nam nhớ lại đôi mắt Ngọc Minh, đôi mắt đó cũng mang vẻ u buồn như vậy khi nhìn anh, như có điều gì đó thôi thúc mạnh mẽ, Nam nghĩ chắc anh sẽ quay trở lại buôn Bù Đon này.

    Hết chóe rượu, và phần sợ về trể, Ba Du cùng uống với Điểu Sơn lần cuối và đứng dậy chia tay, hẹn Điểu Sơn lúc nào có đi đặt bẩy gần ngoài đó, ghé vô rẩy anh và Nam chơi.

    Mặt trời đã qua khỏi đỉnh đầu khi anh và Ba Du ra khỏi buôn theo lối mòn vào rừng.

    Nam vác cái gùi trên lưng thay Ba Du, theo con đường cũ qua khu rừng già dưới những tia nắng chiều lấp lánh chiếu xuyên qua vòm lá trên cao, trời mới ngã về phía tây nên không khí vẩn còn nóng bức và ngột ngạt.

    Nhưng hai người đàn ông hình như được men rượu tăng thêm sức mạnh và sự phấn chấn nên nhanh chóng qua đỉnh dốc rồi vượt qua hai con suối, Nam hỏi Ba Du đang chăm chú nhìn lối mòn phía trước:

    - Nhà Ngọc Minh ở đâu sao lại ở nhà Điểu Rút anh Ba?

    Ba Du bước chậm lại và trả lời:

    - Ngọc Minh mồ côi cha, mẹ, là bà con của Điểu Rút, cha Ngọc Minh là người Việt đi lính VNCH đóng ở tiểu khu An Lộc, trước năm 75, Ngọc Minh học trường Việt, nên nói rành tiếng Việt, sau khi cha tử trận năm 74, Ngọc Minh theo mẹ trở về sống trong buôn, cách đây hai năm mẹ của Ngọc Minh cũng chết vì bịnh

    Nam chợt hiểu ra vì sao nhìn Ngọc Minh nhìn không giống dân thượng, cô còn trẻ lắm, anh nghĩ tuổi Ngọc Minh vào khoảng 18 - 20 …
    Còn Ba Du thì đã từng trải, bắt đầu hiểu vì sao khi từ nhà Điểu Rút đi ra, rồi về nhà Điểu Sơn ngồi uống rượu, đôi lúc thấy Nam ngồi suy nghĩ thơ thẩn như người mất hồn.

    Kinh nghiệm sống và từng trải làm Ba Du tinh ý nhận ra và đồng cảm với chàng trai hàng xóm đến từ Saigon, Ba Du biết Nam đang rung động trước nét đẹp mộc mạc của Ngọc Minh.

    Nếu Nam thật sự yêu Ngọc Minh, thì đó là điều kỳ diệu, một mối tình đẹp và có lẻ lãng mạn giữa một chàng trai Saigon với một cô gái Việt – S’tiêng ở chốn thâm sơn, cùng cốc. Ba Du mỉm cười không để Nam thấy, và trong lòng thì thật sự mong muốn chuyện tình đẹp này trở thành sự thực.

    Mặt trời lặn xuống hướng tây phía sau lưng hai người đàn ông đang im lặng đi dưới cánh rừng, đến con suối lớn cuối cùng, Ba Du và Nam dừng lại nghỉ chân, lấy nước ra uống vài ngụm và khom xuống vốc nước suối rửa mặt.

    Thấy Nam không tỏ vẻ bị mệt mỏi nhiều như lúc vào buôn buổi sáng, trái lại trên khuôn mặt anh ẩn hiện niềm vui nhẹ nhàng, ngồi nghỉ thêm dăm phút, Ba Du nói:

    - Đi nhé chú Nam, từ đây ra đến bờ hồ cũng không còn xa bao nhiêu

    Nam gật đầu, nhanh nhẹn mang gùi và cầm rựa theo Ba Du đi vào lối mòn nhỏ chìm giữa ngàn xanh trong nắng chiều yếu ớt.

    Ra đến bờ hồ, đẩy chiếc xuồng xuống nước, Nam chủ động ra ngồi phía sau, thấy vậy Ba Du ra phía trước và bơi về hướng hạ lưu. Thỉnh thoảng Ba Du chỉ cho anh cách chèo lái chiếc xuồng theo ý muốn, vì ở phía sau dể điều khiển hơn, rồi hỏi Nam về chuyến đi:

    - Chú Nam thấy đường đi vô buôn có xa lắm không?
    - Cũng không xa lắm, lúc trước anh Ba có hay vào buôn không?
    - Chừng mười, hay mười lăm ngày, có khi cả tháng mới vô một lần, có vô đó mới thấy họ rất khổ, có năm mất mùa dân trong buôn phải vô rừng đào củ … ăn cho qua cơn đói, mấy lúc đó họ rất cần sự giúp đỡ

    Nam nghĩ đến Ngọc Minh, những lúc như vậy, cô và gia đình chắc cũng phải chịu đói như dân trong buôn, trái tim anh bổng thấy thương cảm, nếu còn tiếp tục sống ở trong cái buôn đó, không biết cuộc đời Ngọc Minh sau này sẽ ra sao.

    Chiếc xuồng bơi về hạ lưu, những tia nắng cuối cùng tắt lịm trên rừng núi trùng điệp phía tây, hoàng hôn đang dần xuống, vài con cá quẩy đuôi trên mặt hồ, làm vang lên những tiếng bỏm ngắn.

    * * *

    Chỉ còn khoảng hơn mười ngày nửa là đến Tết âm lịch 1981, Ba Du qua nhà Hai Tuất nhờ kiếm vài người quen bên đó qua phụ tẻ bắp, đậu cho cả Nam.
    Sau khi xong công việc, Ba Du ra ngoài xã gặp Năm Bình kêu vào bán bắp, đậu của cả hai như đã đồng ý trước đây, và sẵn đó nhờ Năm Bình quen cán bộ trong nông trường xin một số thuốc trị sốt rét của cho Điểu Sơn.

    Nam chỉ để lại dành lại một số bắp và đậu xanh để mang về thành phố cho gia đình, số còn lại dùng làm giống và ăn mấy tháng sắp tới. Số tiền bán đậu, bắp Nam và Ba Du còn gửi ở nhà Năm Bình, tuần sau Nam ghé lấy cùng lúc với giấy phép đi đường của xã cấp để tiện thể về Saigon. Phần của Ba Du sẽ đem về ăn Tết với gia đình, còn Nam sẽ lên trước Tết như ý anh mong muốn.

    Sắp xếp công việc xong xuôi, Ba Du nhận được thuốc sốt rét của Năm Bình xin từ y tế nông trường và đem vào tận nhà, Ba Du rất tinh tế trong việc này và hẹn Nam ngày mai đem thuốc vào buôn cho Điểu Sơn.

    Sáng hôm sau, Nam dậy sớm lúc trời còn tờ mờ, dắt con Đốm qua nhà Ba Du gửi, cả hai nhanh chóng ra bờ hồ và chèo xuống về hướng thượng lưu.
    Mùa rẩy năm nay tốt, nên Ba Du kiếm được món tiền kha khá, còn Nam thí ít hơn, nhưng cũng đủ bù đắp và dư dã chút ít, Nam vui vẻ nói với Ba Du:

    - Vài ngày nửa tôi sẽ về nhà ở Saigon khoảng hai ngày rồi lên lại, Tết này anh Ba về dưới thành phố ăn Tết với gia đình, gửi nhà và con Ki cho tôi

    Ba Du gật đầu:

    - Tôi về ăn Tết khoảng vài ngày với gia đình và mồng 5, 6 sẽ lên lại, Tết này vô buôn thăm rồi có thể ở lại chơi một, hai ngày

    Trong bụng Nam thấy kế hoạch của Ba Du hay và cũng hợp ý của mình. Tuần rồi vừa vào buôn Bù Đon và duyên số hôm đó cho anh gặp Ngọc Minh, hôm nay Ba Du và anh quay lại buôn đưa thuốc cho Điểu Sơn, sẵn dịp chắc Ba Du và anh sẽ vào thăm Điểu Rút.

    Chiếc xuồng cập vào bờ, Nam nhanh chân bước xuống và kéo nó vào giấu dưới những tàn lá um tùm ven bờ. Cả hai đi theo hướng đường mòn, Nam và Ba Du vượt qua con suối lớn và tiếp tục đi đến trảng cỏ mới nghĩ chân. Không khí gần mùa xuân mát mẽ, nhiều loài hoa dại nhỏ tim tím không tên đua nở khắp nơi, làm Nam nhớ đến những cô gái người Thượng sống trong các buôn làng nơi miền sơn cước hoang vu.

    Cầm cái chai uống thêm ngụm nước, Nam hăng hái vác gùi lên vai và cầm rựa đi trước, Ba Du vẩn nhanh nhẹn như mọi khi, lần nay đi sau để cho Nam dẩn đường.

    Ba Du nghĩ thầm trong đầu và nhớ lại lúc mình còn trẻ, có chàng trai nào mà không thích gặp người mình yêu, trước năm 75, là người lính nên thường phải đóng quân ở nơi xa xôi, những lúc được về phép ở Saigon luôn là những ngày tuyệt vời khi được đi với người yêu dạo chơi đó dây trên đường phố, rồi bây giờ là nhớ về người vợ yêu dấu đã khuất vài năm trước, Ba Du thoáng ngậm ngùi.

    Băng qua hai con suối, và xuống đoạn đường dốc về thung lũng, hai người đàn ông đi thẳng đến nhà Điểu Sơn, Ba Du dặn Nam:

    - Nếu vào buôn có gặp tay công an xã tên Tạn, thấy chú Nam lạ nó sẽ hỏi, cứ trả lời đi vô buôn trao đổi hàng hóa với dân trong này, còn tui nó đã biết mặt rồi …

    Hai người bước lên nhà sàn ngồi nói chuyện và Ba Du chỉ dẩn lại cho Điểu Sơn cách dùng thuốc, rồi nói:

    - Tui với chú Nam chút nửa về sớm, mình qua nhà Điểu Rút thăm chút đi, lâu quá chưa gặp
    - Ừ, để tui dẩn Ba Du và chú Nam qua bên đó

    Cả ba cùng đi về cuối buôn, Nam lót tót phía sau cùng, anh mong có Điểu Rút ở nhà và nhất là Ngọc Minh hôm nay không phải ra rẩy. Cũng thật may mắn, Điểu Rút sửa soạn đi ra thăm rẩy, thấy ba người đàn ông đứng dưới chân cầu thang, ông ta cười và nói lớn:

    - Ba Du, lâu rồi không gặp, lên nhà ngồi chơi đi

    Ba Du cười và đưa tay lên ra dấu chào, theo Điểu Sơn lên thang gổ trước căn nhà sàn, Điểu Rút thấy Nam lạ vì chưa gặp anh lần nào, Ba Du giới thiệu:

    - Đây là chú Nam, ở Saigon lên làm rẩy gần nhà tui ngoài đó

    Nam gật đầu chào, Điểu Rút nhìn anh khá kỹ, bốn người ngồi thành vòng tròn trên sàn, Ba Du lấy thuốc lá ra mời.

    Điểu Rút cao lớn, có nước da sáng hơn Điểu Sơn, bộ râu quai nón rất đàn ông, và nói chuyên cởi mở. Ba Du hỏi thăm sức khỏe và vết thương cũ, Điểu Rút nói cũng ổn, trừ khi nào làm việc nhiều thì hơi đau, Ba Du quay sang nói với Nam:

    - Ở Tống Lê Chân, Điếu Rút và Điểu Sơn rất gan dạ, khi tiểu đoàn được lịnh rút ra khỏi căn cứ, cả hai tình nguyện đi sau cùng, vừa đánh vừa rút lui an toàn về đến An Lộc

    Hai người đàn ông S’tiêng nghe Ba Du nói thì cười lớn, Điểu Rút nói:

    - Ba Du khiêm nhường quá, anh cũng đi sau cùng với anh em lúc đó, nhanh nhẹ và gan lì lắm

    Ba Du mỉm cười và hỏi Điểu Rút:

    -Ngọc Minh hôm nay đi ra rẩy hay sao Điểu Rút?

    Nam nghe hỏi xong liền hiểu ý Ba Du, một vài phút lắng xuống, có vẻ những ý nghĩ đã gặp nhau, Điểu Rút trả lời:

    - Ờ, không Ba Du, đang trong nhà may đồ, Ngọc Minh ơi, chú Ba Du hỏi thăm cháu đó

    Nam nghe Ngọc Minh dạ và tiếng bước chân đi ra, khuôn mặt cô hơi ửng đỏ, gật đầu chào mọi người và đưa mắt nhìn Nam.
    Ba người đàn ông hình như cùng có chung suy nghĩ, riêng Nam thấy khuôn mặt mình bừng nóng nhè nhẹ. Ngọc Minh hiểu ý của người cậu nên vào trong rót mấy ly nước bê ra mời khách, Điều Rút nói với cô:

    - Cháu dẩn cậu Nam ra vườn gần nhà hái trái cây đi

    Ngọc Minh lấy cái nón lá và đeo cái gùi xuống thang, Nam đi theo về phía khu vườn, đến nơi anh nói:

    - Ngọc Minh để tôi giữ gùi cho


    (còn tiếp)

  4. #4
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default


    Ngọc Minh dạ nhỏ và đưa cái gùi cho Nam, tay cô cầm cây rựa chặt quầy chuối già chín bỏ nằm dưới đất, cả hai đi vài vòng quanh những cây mít xum xuê hái vài trái chín, vỏ gai căng tròn, tỏa mùi thơm.

    Thấy Nam bỏ hai trái mít vào gùi rồi khoác lên vai, rồi còn cố gắng cầm hai quầy chuối và trái mít còn lại, Ngọc Minh bụm miệng cười nói:

    - Anh Nam xách nhiều thứ quá, để Ngọc Minh phụ cho
    - Ờ, không sao …tôi khiêng được

    Nam vừa mang gùi trên vai, tay chuối, tay mít khệ nệ đi về nhà, Ngọc Minh đi kế bên hỏi:

    - Có nặng không anh Nam?

    Nam cười trả lời:

    - Không nặng lắm đâu, tôi xách được, ở trong buôn chỉ có mình Ngọc Minh mặc áo bà ba giống mấy cô gái Việt Nam phải không?
    - Ừ, nhưng mà bây giờ cũng có nhiều người mặc đồ giống người Kinh rồi, mà ba Ngọc Minh là người Việt mà
    - Ờ, tôi quên, cứ nghĩ Ngọc Minh là người S’tiêng không đó … - Nam nhìn cô gái cười

    Hai người yên lặng về đến gần nhà, anh bất chợt hỏi:

    -Tết sắp tới Ngọc Minh ăn Tết trong buôn hay về thành phố?

    Nghe Nam hỏi, cô có vẻ ngạc nhiên:

    - Ngọc Minh ăn Tết trong này với gia đình
    - Vậy mấy ngày Tết tôi vào thăm Ngọc Minh nhé

    Cô cười và gật đầu, mặt hơi ửng đỏ, câu trả lời của cô làm Nam thấy nhẹ nhỏm. Anh nhanh nhẹ lên thang vào nhà, Ngọc Minh xẻ trái mít chín mời khách,

    Ba Du ăn múi đầu tiên rồi khen:

    - Mít này ngọt, thơm quá, trái nhỏ nhỏ giống mít tố nữ quá

    Thấy Ba Du khen, Nam và Điều Sơn cũng ăn thử và thấy ngon

    - Đi rừng thấy trái nó chín, hái ăn thử thấy ngon, ăn xong tui lấy hột trồng đó Ba Du – Điểu Rút trả lời

    Rồi ông ta nhìn anh cười:

    - Cậu Nam làm rẩy mà cũng mạnh đó chứ, vừa gùi, vừa xách chuối lên thang …

    Điểu Sơn và Ba Du cùng cười, Nam biết Điểu Rút muốn khen anh nên mỉm cười trả lời:

    - Dạ, cũng không nặng lắm đâu Điểu Rút

    Hai người đàn ông S’tiêng cũng như Ba Du hiểu ý chàng trai người Việt này, họ cùng tin Nam là người tốt. Ngồi nói chuyện thêm năm, mười phút, Ba Du và Nam chào Điểu Rút và Điểu Sơn ra về, bỏ hai trái mít còn lại vào gùi của Ba Du, Điểu Rút nói:

    - Hai trái này để Ba Du và cậu Nam đem về nhà

    Nam cám ơn và đeo gùi lên vai, anh nhìn Ngọc Minh đứng gần phía sau Điều Rút và nói:

    - Tôi về nghe Ngọc Minh, cám ơn hai trái mít nhé
    - Tết anh Nam vô thăm buôn nhé – cô cười nói

    Nam gật đầu theo chân ba người đàn ông kia bước xuống thang, Điểu Rút tiễn chân anh và Ba Du thêm một đoạn ra đến đầu buôn, đưa tay chào Ba Du xong liền nói:

    - Cậu Nam mấy ngày Tết vô buôn chơi nhé, uống rượu cần với dân trong này

    Nam cười gật đầu đồng ý và cùng Ba Du theo lối mòn vượt cánh rừng trở ra bờ hồ.

    * * *

    Còn một tuần nửa là Tết, Nam sửa soạn số đậu và bắp cho vào hai túi vải, sau đó ra ngoài xã nhờ Năm Bình xin giấy phép của xã chở nó về Saigon cho gia đình.

    Sáng hôm sau như đã hẹn, Ba Du lấy xuồng chở anh và hai cái túi vải ra xã sớm, Nam ghé vào nhà Năm Bình lấy tiền bán nông sản, và nhờ xin quá giang tài xế nông trường ra quốc lộ, đón xe đò về thành phố.

    Sau mùa rẩy đầu, Nam cầm số tiền trả lại một phần cho gia đình để sắm sửa mấy ngày tết.

    Chiều ăn cơm nhà xong, anh chạy xe đạp qua nhà Huy, xuống chợ Ba Chiểu rủ thêm Ý nhà trong khu lò heo cũ gần đó tìm quán lai rai.

    Ý rất rành khu này vì là thổ địa ở đây, hắn rủ Nam và Huy đến quán cháo lòng lề đường có bán rượu cây lý nhậu với lòng heo luộc, theo hắn thì rất tuyệt vì đã từng đến đây nhiều lần.

    Bạn bè lâu ngày mới gặp lại, thêm có nó hay cười đùa vui tính nên cả hai cùng gật đầu. Cả ba ngồi ở cái bàn nhỏ kê ra sát vỉa hè, Ý nói giờ này chắc tay công an khu vực về nhà với vợ con rồi, không bị dẹp đâu mà lo.

    Ống chủ quán thấy có khách quen liền chạy ra, Ý gọi:

    - Chú Sáu cho ba xị và đĩa lòng lớn nghe

    Con đường Vũ Tùng chạy từ trong xóm lò heo thẳng ra chở Bà Chiểu mới hơn 8 giờ tối đã thấy vằng lặng, mù mù, vì đèn đường chỗ sáng, chỗ không, trong quán vài ba khách lớn tuổi đang lai rai.

    Nam nhìn Ý hỏi:

    - Lúc này khỏe không, lâu quá tao mới gặp
    - Ờ, cũng bình thường, tao thỉnh thoảng gặp Huy uống cà- phê, làm rẩy trên đó ra sao, thấy có khá hơn lúc đi buôn không?
    - Cũng tàm tạm, cách đây mấy tuần có về gặp Huy rồi đi liền nên không kịp qua nhà mày

    Chủ quán đem rượu và dĩa lòng heo đầy ra và ba cái ly để trên bàn, Huy rót rượu vào ly rồi nói:

    - Lâu quá mới gặp, vô lai rai đi rồi nói chuyện mới hay

    Cả ba cạn ly, Nam vừa uống hết ly rượu đã thấy hơi nóng chạy từ cổ họng xuống dạ dầy, anh cười hỏi Ý:

    - Rượu quán này “nặng đô” dử, uống nhiều say xỉn có bị nhức đầu không?

    Ý và Huy cùng cười, Ý nói:

    - Quán quen chắc không sao!


    - Trong nhà có ai vượt biên không?
    - Ông già định cho tao và ông anh đi, đang kiếm chỗ quen cho chắc ăn, chắc qua Tết , còn mày lúc này ngoài đó buôn bán được không, có mấy hôm tao chạy xe ngang Hàm Nghi không thấy đâu hết – Ý nói nhỏ

    Huy đang nhai miếng lòng to, cười lát sau nói:

    - Nhiều lúc tao cũng chạy lòng vòng kiếm khách, ở một chỗ hoài chắc đói

    Nam và Ý nghe nói cùng cười lớn, anh nói:

    - Tao thấy dân chợ trời nhanh như chớp, mấy tay bộ đội ngoài đó vô hỏi mua hay bán cái gì cũng được tiếp đón, ê Huy, tao hỏi thiệt, mấy cái đồng hồ đeo tay Seiko lấy ở đâu ra mà ai mua mày cũng có, mà toàn là hàng “ô-ri-gin” không, sao hay vậy !?

    Cả ba cùng cười, Huy làm ra vẻ bí mật:

    - Không nói cho mày nghe được, chợ trời hay là ở chỗ đó, cũng giống dân buôn đường dài như mày, lúc nào gặp trạm kiểm soát cũng qua được, mày nói bí quyết đó ra thử xem …

    Không khí cái bàn nhậu nhỏ khá ồn ào, Ý gọi chủ quán mang ra thêm ba xị nửa, Nam lắc đầu, lấy bao thuốc lá ra hút:

    - Tao hết xị đầu rồi, mày với Huy thoải mái đi
    - Ừ, mày không uống nửa thì để tao … ừ mà không thấy thằng nào lấy vợ hỉ - Ý cười nói theo âm người Huế
    - Mày làm công nhân nhà nước có tiêu chuẩn gạo, nước hàng tháng, cưới em nào cũng công nhân là êm, không sợ đói, mày làm trước đi, tao hay thằng

    Nam làm rể phụ cho xôm tụ

    - Mẹ, cho chết nhăn răng hả, giai cấp công-nông lãnh đạo cái bánh vẻ!?

    Huy và Ý cùng cười ha hả, rồi hắn nói tiếp:

    - Làm nhà nước thằng nào mà không chôm chỉa mánh mung có mà là thánh
    - Ê, Ý nhà máy chỗ mày làm cuốc, xẻng … thì có cái gì mánh mung được – Nam cố ý hỏi trêu nó
    - Làm cái gì, ăn cái nấy, sắt thép, đũa hàn … hoặc lấy lưỡi cuốc, xẻng đem ra chợ trời bán, lương bổng nhà nước sao đủ sống, bây giờ ở Saigon mọi người đều buôn lậu, mánh mung … chứ đâu phải mình tao!

    Nghe Ý nói, cả Nam và Huy cùng cười, ba thằng hút thuốc lá, im lặng nhìn ra con đường trước quán vắng tênh, nhìn về phía chợ Bà Chiểu tối om om, dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt, vài người lượm rác áo quần vá chằng, vá đụp, vác cái túi trên vai đang lang thang trong bóng đêm.

    Quán dần dần thưa khách, một người đàn ông tóc dài, râu ria, ngoại hình mang vẻ nghệ sĩ chống nạng, với cái chân giả đi cà nhắc bước vào quán, vai khoác cây đàn gui-ta, vừa đánh đàn, vừa hát. Ông ta qua cái bàn kế bên có hai người đàn ông đang ngồi nhậu, và bắt đầu hát một bài Nam nghe thấy quen quen, nhưng anh không nhớ nổi tên, Ý bổng nhìn Huy hỏi:

    - Cô bạn mày quen ngoài đó đâu rồi?

    Huy ngồi lặng lẽ hút thuốc chầm chậm trả lời:

    - Đi mất tiêu rồi, có lẻ vượt biên với gia đình rồi, lần cuối ra bán cái ra-điô cũ … cả tháng nay tao không gặp, có thể em về quê ở miền tây, tao cóc biết nửa!

    Nam nói nhỏ với Ý:

    - Ngày mốt tao lên lại trên đó, Tết này chắc không về, mày đi nhớ cho Huy biết, ráng trót lọt nhé!
    - Ừ, tao cũng hy vọng, mong trời phật … ừ, mày lên đó mấy tháng có quen được em nào không – Ý cười và hỏi
    - Cái xứ khỉ ho, cò gáy đó làm gì có ai đẹp đâu mà yêu, mai mốt nhờ mày hay Huy giới thiệu cô nào giàu giàu ở dưới đây để tao còn vượt biên chứ – Nam cười tiếu lâm

    Cả hai thằng bạn cùng nhìn anh, gật đầu rồi cười hiểu ý.

    Ở bàn kế bên hai người đàn ông trung niên mời người đàn ông mang chân giả ngồi, họ lặng lẽ nghe ông ta hát, cái nạng gổ gác lên ghế và cái nón cũ nằm ngửa trên bàn. Cầm gui-ta hát xong một bài, bây giờ ông ta hát một bản nhạc xưa lắc “Tiếng còi trong sương đêm”, tiếng ông ta nghe ấm và buồn hiu hắt trong cái quán rượu nhỏ thiếu ánh đèn, nghe như có tiếng chân của những người lính lên con tàu ra đi chinh chiến không hẹn ngày về trong một đêm lạnh lẻo.

    Chiến tranh đau khổ, chia ly, nước mắt, mấy ai có được may mắn quay về, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi, ai mà biết trước được số phận của mình.

    Trời dần khuya, con đường vào xóm lò heo hầu như không còn bóng người qua lại, trong quán chỉ còn bàn của anh với hai thằng bạn và ba người đàn ông bàn bên kia, chủ quán đã quen với cảnh đệ tử lưu linh chưa say, chưa về nên nhẫn nại ra sau quầy ngồi nghỉ.

    Ý tửu lượng khá mạnh nên một mình nốc hết hai xị chủ quán đem ra sau, bây giờ ngồi hút thuốc trầm tư nhìn ra bóng tối hun hút, Huy lắng tai nghe người đàn ông nghệ sĩ tàn phế ở bàn bên kia hát một bài tiền chiến với vẽ thích thú.

    Sau vài câu chuyện hỏi han nhau giữa ba người đàn ông, Nam loáng thoáng nghe được và biết họ là những người lính VNCH, người đàn ông cụt chân bị thương nặng trong một trận đánh ở Kontum, bây giờ hằng đêm ra đường với cây đàn ca hát kiếm sống, hai người đàn ông kia im lặng ngồi nghe với vẻ day dứt, khuôn mặt mang nét buồn bả. Những ly rượu cay xé cổ họng trong cái quán nhỏ đêm nay làm họ thấy ấm áp, khi ngồi nói chuyện thân tình bên nhau như những người đồng đội cũ sau một thời gian dài gặp lại.

    Gần tết trời về khuya lành lạnh, Huy nói đi về, Ý gật đầu và gọi ông chủ quán tính tiền, Nam nói:

    - Ý, hôm nay để tao trả

    Tính tiền xong, cả ba đứng dậy, Ý đến gần người đàn ông cụt chân, lấy tay vổ nhẹ lên vai, hắn cầm cuộn tiền quấn tròn, trân trọng đưa cho ông ta, ba người đàn ông nhìn hắn, Nam và Huy với vẻ biết ơn. Huy, Nam dắt xe đạp ra và nói:

    - Ý, tao chở mày về
    - Thôi khỏi, tao đi bộ về được rồi, tụi mày về đi

    Đạp xe ra đường Bùi Hữu Nghĩa, Nam nhớ chơi với Ý từ khi học lớp 11, nó thông minh nhưng lười. Hết lớp 12 cả đám bạn không đứa nào thi đậu vào đại học vì sơ yếu lý lịch bị đánh dấu thuộc thành phần không tốt. Gia đình Ý là người Huế, hắn có lối nói chuyện mạnh bạo kiểu quan quyền, sau ngày giải phóng vào Saigon, hắn lại có thêm cái tật hay xài tiếng “Đan Mạch” mỗi khi tức giận, làm người nghe lầm tưởng Ý là một tay võ biền vô học. Nhưng Nam biết Ý có tâm hồn sâu sắc, đọc nhiều và rất biết ơn những người lính miền nam, Ý hay nói dân Huế nợ những người lính đó rất nhiều, cho dù họ đã không thành công trong việc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền nam.

    Huy và Nam đạp xe song song trên con đường nhỏ vắng teo, đèn vàng lờ mờ, những căn nhà phố hai bên đã chìm vào màn đêm, Huy hỏi:

    - Mày đi lên đó lần này đến tháng mấy về Saigon?
    - Chưa biết, chắc phải tháng 5 hay tháng 6 … ngày mốt tao đi nhé

    Huy gật đầu và quẹo vào con hẻm nhỏ, Nam nhấn bàn đạp chạy xe lên cầu, vừa đổ dốc qua bên kia, đột ngột một cô gái mặc đồ bộ đứng sau cột đèn đường trong bóng tối đưa tay ra ngoắc ngoắc. Đầu óc Nam đang lan man vì có chút hơi men, thấy có bóng người chắn ngang liền rà thắng xe.

    Mặt cô gái trang điểm sơ sài và nhìn còn khá trẻ, đôi mắt lộ ra nét mệt mỏi như người thiếu ngủ lâu ngày. Nam dừng xe bên lề đường, lấy thuốc lá ra hút và chìa nó về phía cô gái, nhưng cô cười và lắc đầu:

    - Em không biết hút, đi đâu về trễ vậy anh?

    Mấy lần uống cà- phê với mấy thằng bạn, tụi nó nói bây giờ Saigon ban đêm “bò lạc” nhiều lắm, chữ đó tụi nó ám chỉ mấy cô gái từ các tỉnh hay từ các vùng kinh tế mới đói khổ quá chạy về Saigon bán thân kiếm sống, đêm đêm đi loanh quanh bắt mối ở các khu vực gần sở thú, vườn Tao đàn, đường Nguyễn Văn Chiêm, dinh Thống nhất … Đêm nào bị công an bố, mấy cô gái đó chạy tán loạn ra những con đường khác, nhìn cô gái vừa gặp bên dốc cầu,
    Nam đoán chắc là vậy nên nổi tính chọc phá:

    - Còn em, sao giờ này còn ngoài đường, không sợ công an nó hốt đi cải tạo hay sao?

    Cô gái lắc đầu, cười với Nam và nói:

    - Công an đâu sợ bằng chết đói, đi chơi không anh?

    Nam hút thuốc lá, giả bộ tảng lờ hỏi:

    - Giờ này đi đâu, với ai đây?
    - Anh còn làm bộ nửa, băng qua bên kia đường Mai Thị Lựu gần đây nè, em lấy hữu nghị cho …
    - Nhà em ở đâu?

    Nghe Nam hỏi, cô gái cười nói:

    - Ngộ quá, không đi chơi thì thôi, tự nhiên hỏi nhà làm gì – cô gái đổi giọng hơi cáu kỉnh

    Nam thấy vui vui nên chọc tiếp:

    - Thấy em hiền, dể thương nên anh tội nghiệp, nói nhà đi, chút anh chở về nhà xin má cho em qua nhà anh phụ nấu cơm, giặt quần áo …
    - Thôi mà, anh chọc hoài, ai mà thèm lấy em … nghèo thấy mồ, mà còn làm nghề này nửa ...

    Nam nghe cô gái nói đến đây tự nhiên cảm thấy hơi xấu hổ, nhìn màn đêm cô tịch giăng giăng, anh thấy chút xót xa, nên gạt ngang không để cô gái nói tiếp:

    - Ờ, rồi nào đi! bây giờ em nói bao nhiêu đi, chút nửa khỏi lộn xộn

    Cô gái lộ nét buồn, đứng xụi lơ và tựa vào cột đèn đường, nhìn Nam nói:

    - Anh cho bao nhiêu cũng được …

    Nam chỉ lên yên sau, kêu cô gái lên ngồi, anh hỏi nhỏ:

    - Bây giờ đi đường nào?

    Cô gái đưa tay chỉ qua Mai Thị Lựu và Nguyễn Văn Thủ, anh hỏi cô gái:

    - Em biết bây giờ khoảng mấy giờ không?
    - Chắc khoảng hơn 10 giờ, anh quẹo qua đường Nguyễn Văn Thủ nhe

    Anh rẽ xe qua hướng đó, cô gái chỉ Nam chạy vào một hẻm cụt âm u và kêu dừng lại, cô gái xuống xe và chờ anh trong góc tối, anh làm ngơ ngồi trên xe hút thuốc, cô gái bước ra:

    - Ủa, sao không dắt xe vô đi anh?

    Nam dựng xe vào tường rào, rồi ra ngồi bên lề đường, tay cầm điếu thuốc lá nhìn mông lung lên trời đêm, anh nói:

    - Ngồi đây nói chuyện chút rồi về đi em …

    Cô gái có lẻ đôi lúc cũng đã gặp những ông khách có hơi rượu và tính khí kỳ lạ, dở dở, ương ương, đoán Nam cũng giống như vậy, nên ra ngồi hai tay tựa như bó gối kế bên.

    - Hút xong điếu thuốc, anh đưa em về

    Nói xong Nam móc túi lấy tiền cho cô gái đang ngồi mỉm cười, cô cầm tiền cẩn thận bỏ vào túi quần bên trong.

    - Nhà em ở đâu?

    Cô gái ngập ngừng trả lời:

    - Gần ngã tư Xóm Gà, xa lắm, chút em về một mình được rồi …
    - Ừ, không sao, anh chở em về một bửa, từ đó về nhà anh cũng gần …

    Cô gái ngồi im lặng nhìn Nam trong bóng tối, hút xong điếu thuốc, anh dụi tàn, đứng dậy lấy xe ra đường chờ:

    - Lên đi

    Cô gái ngồi lên yên sau, chiếc xe đạp chạy ra đường Đinh Tiên Hoàng và băng qua dốc cầu Bông về Bình Thạnh, bên đường vài tay công an và phường đội đang đi tuần tra dọc trên các vỉa hè lạnh lẻo, tối om.

    Chạy xe ngang qua Lăng Ông nằm lặng im dưới bóng tối những cổ thụ, Nam nói đùa:

    - Hôm nào em vào trong Lăng Ông xin săm đi, mấy người gặp anh rồi họ nói số anh hên lắm
    - Thiệt không đó, anh nói dóc … - cô gái lấy tay nhéo mạnh hông của Nam

    Nam cười nhỏ và nói:

    - Ui cha! mà em tên gì đó?

    Cô gái im lặng một lúc rồi trả lời:

    - Ly

    Anh chạy qua Phan Đăng Lưu và rẽ vào Hòang Hoa Thám, cuối con đường quẹo sang Nguyễn Văn Đậu tối om om, phía sau Ly nói:

    - Anh chạy tới chút xíu nửa rồi ngừng bên phải cho em xuống

    Tới đầu con hẻm vào nhà Ly, Nam dừng xe lại:

    - Thôi Ly vào đi

    Cô gái cám ơn và nhìn anh với đôi mắt như có vài giọt sương đêm vừa rơi vào đó, cái bóng nhỏ nhắn bước sâu vào màn đêm tăm tối bao trùm lên những mái nhà tôn lụp xụp ẩn sâu bên trong con hẻm.

    Về đến nhà đã gần 11 giờ, mẹ anh chờ cửa lo lắng hỏi có chuyện gì mà sao về khuya quá, Nam ừ hử, đổ tội cho mấy thằng bạn lâu ngày gặp nhau nên ra quán ngồi uống tụi nó không cho về sớm. Anh phóng lên căn gác, thay vội quần áo, tắt đèn và lăn ra nằm trên sàn gổ.

    Nam cố dỗ giấc ngủ trong sự tĩnh mịch của màn đêm, anh nhớ lại cuộc gặp gở với Ly sau chầu nhậu lai rai với hai thằng bạn ở xóm lò heo. Men rượu hay khơi dậy bản năng của người đàn ông khi gặp đàn bà, con gái mời mọc như vậy, ít ai mà làm ngơ được như thần thánh, nhưng nhìn vào đôi mắt Ly lúc nảy, anh thấy như có một bể khổ sâu thẳm đầy những cơn sóng dữ, cuộc sống khốn cùng này đã đẩy cô ra đường kiếm tiền trong bóng tối lẻ loi hàng đêm của Saigon.

    Sáng nay anh dậy trễ và thấy cơ thể mệt mỏi, có lẻ vì tối hôm qua thức quá khuya và suy nghĩ nhiều. Nam ăn sáng xong, ra nằm nghĩ và lấy vài cuốn sách cũ ra đọc, nhưng đầu óc lại cứ suy nghỉ lung tung. Anh ngồi dậy, mặc quần áo xong, lấy xe chạy xuống Thảo Cầm viên, mua vé, rồi vào phòng trưng bày xem lại các món đồ cổ sành sứ thời nhà Nguyễn, và những món được ghi là của Tầu, Nhật Bản.

    Nam từng nghe nhiều người nói, nghề sưu tầm đồ cổ này lắm công phu và kiến thức, trước năm 75, nhiều người giàu có bỏ ra một số tiền lớn để mua những cái lọ, dĩa, bình … từ thời nhà Minh, Thanh hay của các triều đại vua chúa Việt Nam, sau đó họ nhờ những tay chơi đồ cổ chuyên nghiệp hay những người chuyên nghiên cứu nổi tiếng đến xem, cuối cùng phát hiện ra đó là đồ giả, coi như người mua mất trắng.

    Đi hết một vòng khu trưng bày, Nam bước ra ngoài thấy còn sớm, hôm nay trời đẹp nên cao hứng quyết định đi một vòng khuôn viên cho thoải mái đầu óc rồi về nhà. Lang thang trên những lối đi vắng vẻ, anh cũng không nhớ là hôm nay thứ mấy, từ ngày lên trên đó làm rẩy, anh quen với tính người dân ở trong xó xỉnh rừng núi nên đâu cần nhớ ngày, vì ngày nào cần thì ra làm việc, khi nào thấy mỏi mệt thì nằm nhà nghỉ. Nhìn những cây cổ thụ tỏa bóng mát khắp nơi, làm Nam nhớ đến con đường mòn vào buôn thượng trong khu rừng già âm u, những mái nhà sàn trong thung lũng heo hút và cô gái mới quen tên Ngọc Minh.

    Anh suy tính, lần này trở lên đó khi Ba Du về nhà ăn Tết ở Saigon, trong thời gian chỉ có một mình, anh sẽ dùng dây dù vừa mua, buộc thêm cục đá nặng vào một đầu thả xuống thăm dò chiều sâu gần chỗ con suối chảy ra hồ trước, nơi mà theo anh đoán có thể là điểm chôn dấu hai cái thùng, sau đó sẽ lặn xuống xem bên dưới, nếu không đủ gan dạ làm việc đó một mình, thì việc ở lại trong khu hồ heo hút đó để tìm kiếm hai cái thùng đổ cổ cũng chả đi đến đâu.

    Lần này có thể là thời điểm quyết định xem có nên ở lại để tiếp tục tìm kiếm hay bỏ tất cả mọi thứ ở đây để trở lại thành phố, tiếp tục nghề cũ.
    Nam ra bãi lấy xe chạy về nhà, anh dành hết buổi chiều và tối loanh quanh ở nhà chơi với gia đình và ra đầu hẻm ngồi uống cà phê, nói chuyện với ông già vá xe trong xóm.

    Sáng anh ra bến xe sớm và mua vé lên chuyến đầu tiên về Bình Long. Trên quốc lộ vẩn vắng vẻ như mọi ngày, cho dù chỉ còn khỏang hơn một tuần nửa là đến Tết. Đầu giờ trưa, chiếc xe đò chạy đến nơi rẽ vào nông trường, anh quá giang được chiếc máy kéo Liên Xô màu đỏ cũ kỹ chạy lộc xộc vào đến bãi xe trước văn phòng nông trường thì trời cũng đã bắt đầu ngã về chiều.

    Đi ngang ngôi nhà gổ nằm kế bên trụ sở ủy ban xã, Nam hơi ngạc nhiên vì thấy Tư Có đang đứng nói chuyện với một tay công an mặt xương xẩu, lưng hơi còng, đeo khẩu súng ngắn bên hông và nhóm khoảng mười tay du kích trang bị súng ống đầy đủ. Anh suy nghĩ trong đầu, không biết có việc gì mà họ tập hợp cả đội, trên con đường đất đỏ tung bụi mờ mờ, lác đác vài công nhân cạo mủ lội bộ chậm rải trên đường.

    Đi thêm một đoạn, Nam sực nhớ ra Ba Du có nói với anh là vào những dịp lể lớn, bên du kích và công an hay phối hợp tuần tra khắp xã để giữ trật tự, an ninh, nhất là những khu vực hẻo lánh như ở chỗ anh và Ba Du.

    Đến khúc quanh ra bờ hồ, thấy Năm Bình đang chạy xe ra từ phía trạm gác, Nam gật đầu chào, Năm Bình dừng xe lại và cười hỏi:

    - Chú Nam mới từ thành phố lên hả, tết có ở trên này không hay về dưới đó?
    - Dạ, mới về hôm nay rồi anh Năm, ăn tết ở đây và trông nhà giùm anh Ba Du luôn, anh mới đi làm về?

    Năm Bình gật đầu:

    - Ừ, tôi vừa mới xong công việc trong trạm gác, tết này ở trong đó không làm gì ra nhà tôi lai rai nhé chú Nam

    Nam cười gật đầu và rảo bước đi nhanh ra con đường bờ hồ để về nhà vì thấy chiều đã xế bóng.

    Về đến nơi trời đã chạng vạng tối, anh đi nhanh qua nhà Ba Du để dẩn con Đốm về. Lội bộ qua đến gần hết con dốc, con Ki đánh hơi từ xa đã chạy ra sân, con Đốm cũng chạy theo vẩy đuôi mừng rở, sủa vang một góc bờ hồ, vào nhà thấy Ba Du đang ăn cơm chiều và mời Nam:

    - Chú Nam vô ăn luôn, chút về nhà khỏi nấu
    - Dạ, mấy hôm nay trên này cũng bình thường hả anh Ba?
    - Bình thường, chú Nam đi đường về Saigon có bị xét hỏi gì không?
    - Đến trạm, thấy hai bao đậu, bắp nên bị trạm chận lại, nhưng có giấy phép của xã nên mấy tay du kích cho đi

    Chiều nay Ba Du làm món gà luộc và gà kho gừng, sau chuyến lội bộ từ ngoài xã về đến nhà, cái bụng Nam trống rổng nên buổi cơm chiều nay anh thấy quá ngon, hình như Ba Du biết khi về đến đây, Nam sẽ ghé qua nhà đón con Đốm về, nên làm con gà “đãi” anh một bửa.

    Xong cơm tối, hai người ra sân ngồi trên mấy hòn đá, Ba Du vào nhà cầm ra trái đu đủ chín vàng, xẻ ra làm đôi, đưa cho Nam phân nửa trái và nói:

    - Cây đu đủ phía sau vườn chín nhiều, chút nửa chú Nam cầm một trái về nhà ăn

    Nam gật đầu, anh cắn miếng đu đủ thấy ngọt lịm trên đầu lưỡi, chất đường làm đầu óc anh thấy khoan khoái. Thanh toán xong món tráng miệng từ vườn nhà, anh lấy thuốc lá ra mời Ba Du. Con Đốm lớn nhanh, nó đang lăng xăng chạy theo con Ki khắp nơi, hai con chó có vẻ thân thiết nhau, Ba Du rít xong một hơi thuốc lá rồi hỏi Nam:

    - Nghỉ Tết xong, mùa tới chú Nam có trồng lại bắp không?
    - Ừ, chắc có, bên rẩy anh Ba trồng thì chắc tôi cũng vậy - anh trả lời vì đâu có biết trồng cái gì khác
    - Tui cũng trồng lại bắp, sau Tết mùa khô không có mưa nên phải xách nước từ hồ hay giếng để tưới, hơi cực chút

    Nam ngồi nghe và gật gù cái đầu, thì cứ theo như vậy đi, rồi tùy tình hình tính sau, và quay sang hỏi:

    - Anh Ba về Saigon trước Tết một hai ngày?
    - Trước Tết hai ngày, xong mùng ba hay mùng bốn tui sẽ lên lại, ở Saigon lâu quá cũng không biết đi đâu

    Nam nghe Ba Du nói như vậy thì thấy có nhiều thời gian để làm công việc kia, và còn có được một hai ngày vào buôn thăm Ngọc Minh nửa.

    Sau mùa vụ và gần Tết nên rảnh rổi, Nam lấy cần đi câu kiếm thêm cá và chọn nơi để sắp tới bắt đầu đo độ sâu thăm dò đáy hồ. Buổi sáng ngồi câu phía dưới đám rừng chồi, buổi chiều anh đi ra nơi con suối chảy vào hồ. Tuy đã là mùa khô, nhưng mực nước chỉ mới giảm xuống đôi chút so với cách đây vài tháng, anh nhớ lại mấy cửa đập ngoài xã, nếu mở được ba cái cửa đó lên cao hơn, trong vài ngày nước hồ sẽ xuống rất nhanh. Chỗ đó có cái trạm và nhân viên nông trường có mặt thường xuyên ở đó, ai đến gần đó, họ đều thấy, còn Năm Bình không biết làm gì trong trạm, có muốn thì đâu có dể dàng gì nhờ ông ta làm công việc dể ở tù này.

    Chiều nay, trước khi về Saigon, Ba Du ra chỗ Nam ngồi câu, hôm nay Nam đổi vị trí qua phần rẩy bên nhà Ba Du, chắc muốn dặn dò anh vài việc để sáng mai yên tâm đi về thành phố, Ba Du ngồi xuống trên tảng đá kế bên:

    - Câu được mấy con rồi chú Nam?
    - Hai con cá chép, sáng mai tôi chèo xuống đưa anh Ba ra xã nhé

    Ba Du lấy thuốc lá ra hút, sau vài hơi chậm rải nói tiếp:

    - Ừ, sáng mai đi sớm, Tết chú Nam rảnh có vô buôn thượng không?

    Nam cười tươi:

    - Chắc có, ngoài này lâu không có gì làm cũng chán, sáng vào rồi chiều đi về
    - Ừ, đi một mình thì cẩn thận nhé, mang theo nhiều nước uống, đồ ăn, đi theo đường cũ, nếu có gặp bên du kích hay công an đi tuần, thì nói vào buôn trao đổi, và đem theo bật lửa vì nếu phải ở lại trong rừng ban đêm, nhớ đốt lửa lên, có thể chú Nam gặp người mấy xã khác đi săn trong rừng hay nghe tiếng súng thì phải cẩn thận, vì ở nơi vắng vẻ, họ dể hành động bất ngờ … nhưng chắc không có gì nguy hiểm lắm, có thể Điểu Sơn hay Điểu Rút sẽ ra ngòai này chơi đó!
    - Cám ơn anh Ba … à, hôm chiều tôi về đến ngoài xã, gặp Năm Bình chạy xe ra từ cái trạm gần đập, ảnh làm ở đó hay sao?

    Ba Du gật đầu:

    - Năm Bình quản lý công nhân kỹ thuật của nông trường nên thỉnh thoảng ra trạm để coi hai người công nhân ở đó, à … còn hàng ngày chú Nam qua nhà chăm sóc con Ki dùm tui chút, cho nó ăn chút đỉnh được rồi

    Anh gật đầu, Ba Du ngồi chơi thêm một lát rồi quay lên con dốc về nhà, Nam ở lại câu thêm vài giờ cho đến gần tối được thêm vài con cá mè.

    Sáng dậy thật sớm chờ Ba Du gọi ra hồ, Nam nhớ lại xem có cần hỏi thêm những gì cần thiết mà anh chưa biết, nhất là lúc đi lại trong rừng, nhưng thấy chiều hôm qua những gì Ba Du nói cũng đã đầy đủ.

    Có tiếng gọi, anh khép cửa nhà và theo lối mòn ra bờ hồ, hành lý Ba Du cũng đơn giản, chỉ có cái túi vải nhỏ đựng quần áo, đồ đạc.

    Hai người bơi nhanh về hướng hạ lưu, Tết gần đến mà trong vùng đồi núi hoang vu này không khí thật buồn bả, những căn nhà mái lá xiêu vẹo nằm im lặng sau hàng cây mít, hàng điều … trồng ven đường, tất cả gần như không biết đến Tết đang đến.

    Ra đến gần trạm gác, Nam tấp xuồng vào sát bờ cho Ba Du lên và nói:

    - Ăn Tết với gia đình vui vẻ nhé anh Ba!
    - Ừ, chú Nam vô buôn chơi vui nhé – Ba Du mỉm cười

    Ba Du lên bờ đi về phía trung tâm xã, Nam ngồi trên xuồng quan sát chỗ dòng nước chảy qua ba cửa đập được mở hé ra, vài phút sau anh cho xuồng quay về.

    Chèo đến nhà, anh buộc chặt dây chiếc xuống vào bụi cây và bắt đầu công việc như đã dự tính.

    Lấy cuộn dây dù mua ở Saigon treo trong cái túi vải trên vách nhà xuống, Nam thắt gút sợi dây thành từng đoạn một, cách nhau chừng một mét, thành những cục tròn rất để dể nắm khi lên xuống đáy hồ.

    Xong phần dây, Nam lấy con rựa bén cắt đầu thanh thép mỏng thành vạt xéo nhọn, và ra con suối tìm một hòn đá khá to, bằng phẳng về mài nó làm thành lưỡi dao bén ngót, rồi ngồi cả buổi cắt gọt hai mảnh gổ cứng thành chuôi dao, sau đó dùng dây ruột cao su quấn lại thành cái cán cho dể cầm.

    Nghi ngờ về tính hữu dụng của nó, anh ra bụi chuối phía sau nhà cầm con dao phạt thử vài tàu lá, con dao chặt qua như nước, đến gần một thân chuối non, Nam lia mạnh lưỡi qua gần phần ngọn làm nó văng xuống đất, anh rất hài lòng vì tay bán hàng người Hoa đã không gạt mình.

    Nam dự định chiều sẽ ra bờ hồ, nên ăn bửa trưa xong, anh cố gắng nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức.

    Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, anh xách cái túi vải đi về phía nhà Ba Du, đến gần chỗ cột chiếc xuồng, nơi đó chỉ có lác đác vài bụi cây mọc bên bờ hồ.
    Nam tìm một hòn đá buộc vào đầu dây và từ từ thả xuống nước thăm dò, xem số nút thắt còn lại cho thấy phần đáy nơi đó độ sâu hơn bốn mét. Anh cột chặt đầu còn lại vào một thân cây cứng cáp mọc gần bờ, nghĩ trong đầu bây giờ là phần công việc khó khăn nhất đây, rảo mắt nhìn kỹ xung quanh xem có ai xuất hiện gần đó không, nhưng khung cảnh tuyệt nhiên im lặng, cẩn thận nhất là phải để ý Tư Có và mấy tay du kích. Buổi chiều thỉnh thoảng họ mới đi, tuy nhiên đã sắp tết, lịch đi tuần có thể tay đổi đột xuất và dầy đặc hơn ngày bình thường.

    Chỉ mặc độc chiếc quần cụt trên người, Nam nắm sợi dây kéo thật mạnh để thử độ chắc chắn của mối buộc vào thân cây, rồi từ từ tụt xuống hồ.

    Buổi trưa có nắng, nhưng nước vẩn khá lạnh, miệng cắn ngang lưỡi dao, anh lần theo dây lặn xuống, đến gần đáy, làn nước bên dưới đục hơn, Nam cố nhoài người đến chỗ cục đá ở đầu sợi dây, tay vừa chạm vào đáy cát, thì thấy hết hơi nên phải trồi lên thở.

    Lên bờ nghỉ mệt vài phút, cẩn thận nhìn quanh thấy mặt hồ vẩn lặng im, lần này để lặn xuống nhanh hơn, Nam kéo cục đá lên và lấy một hơi dài rồi ôm nó để cùng chìm dần xuống, khi đã chạm đáy anh đưa tay sờ soạng vào lớp cát ở dưới đáy và cố mở to mắt nhìn xung quanh, gần đó có vài thân cây mục phủ đầy rong rêu nằm im trong làn nước lờ mờ.

    Cố gắng sục sạo trong đống rong rêu, vài con cá đang trú trong đó, bị đánh động phóng vụt ra và biến mất vào làn nước đang bị khuấy đục lên mờ mờ. Chưa quen với công việc này, anh nhanh chóng cảm thấy buồng phổi hết dưỡng khí và ngộp thở, nên buông cục đá ra, phóng trở lên mặt nước và bơi vào bờ.

    Bị thấm lạnh vì nước sâu dưới đáy hồ, Nam lấy thuốc lá ra hút, và ngồi nghỉ vài phút để lấy lại sức, anh quyết định sẽ lặn xuống tại chỗ này thêm vài lần nửa trước khi di chuyển qua nỡi dao ngang miệng và bắt đầu lặn, xuống đến đáy hồ, anh chỉ thấy lờ mờ bên dưới nhiều lớp đá cuội, được vài phút sau đã thấy đuối hơi và khó thở, Nam vội trồi lên vào bờ tạm nghỉ, và mặc cái áo kaki vào cho đỡ lạnh.

    Chợt nghe tiếng con Đốm và con Ki sủa sau đám cây bên bờ suối, thì ra con Đốm đang loanh quanh gần nhà, nó đánh hơi biết con Ki vượt suối qua bên này nên chạy ra, anh đứng lên ra tìm, thấy hai con đang ve vẩy đuôi, đưa mủi ngửi chào nhau bên bụi cây, Nam kêu:

    - Đốm lại đây!

    Hai con cùng hăng hái tranh nhau chạy đến gần anh, rồi bổng cả hai lại quay ngang, chạy ra các bụi rậm ngoài rẩy lùng sục tìm chuột, chim cu gáy để anh đứng nhìn theo.

    Nam quay lại bờ hồ, quyết lặn thêm vài lần nửa, một tay nắm đầu dây buộc cục đá, anh bơi ra và từ từ chìm xuống dưới đáy hồ lổn nhổn đá cuội và cát bùn, lấy lưỡi dao xăm xuống nền cát thăm dò bên dưới, nhưng nó lại chạm phải đá bị chìm lấp ở dưới đó. Anh nghĩ trong đầu, nếu hai cái thùng chôn gần nơi này, thì bây giờ nó đang nằm sâu bên dưới lớp cát, đá từ con suối cuốn ra trong mùa lũ hằng năm, như vậy thì không còn hi vọng gì để tìm thấy.

    Nam hết hơi nên trồi lên mặt nước, vừa ngoi đầu lên gần đến bên trên, đã nghe tiếng hai con chó sủa dử dội, đoán có người sắp tới, anh nhanh chóng dấu con dao vào bụi cỏ gần bờ, chưa kịp leo lên bờ đã thấy Tư Có và ba tay du kích xuất hiện và đang đi về chổ anh.

    Anh bình tỉnh bước lên, Tư Có đến gần nhìn xuống mặt nước đùng đục và thấy sợi dây, tay du kích nhỏ con kéo nó lên, khi thấy có cục đá buộc ở đầu dây,
    Tư Có hỏi:

    - Chú làm gì mà lặn xuống dưới?

    Nam suy nghĩ chớp nhoáng trong đầu rồi trả lời:

    - Lúc nảy tôi ra phát cây ngòai này và làm rớt cây rựa xuống nước nên xuống mò tìm lại

    Mấy tay du kích nghe câu trả lời của anh có vẻ ngố ngố, nên cả đám cười cười, tay du kích ốm o, xương xẩu nhìn anh hỏi mỉa mai:
    - Tìm được chưa, nước hồ sâu thấy mẹ, sao mà mò lại được!

    Nam giả bộ lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, con Ki và con Đốm đứng xa xa tiếp tục sủa Tư Có và mấy tay du kích. Tư Có tò mò nhìn anh và mấy bụi cây cỏ xung quanh, không thấy có gì lạ, ông ta quay đi về phía nhà Ba Du. Nam thở phào, dù sao thì anh cũng giấu được ý định của mình, nếu Tư Có thấy anh có con dao bén ngót đang lặn hụp dưới hồ sẽ làm ông ta nghi ngờ, Nam thầm cám ơn hai con chó đã làm tốt vai trò canh gác, xứng đáng được thưởng.

    Chờ cho bóng dáng Tư Có và đám du kích khuất xa, Nam cầm cuộn dây và con dao về nhà. Anh ra sau vườn đào một số trùng làm mồi, và xách cần ra gần khu rừng chồi ngồi câu. Nhớ đến vụ đụng đầu bất ngờ vừa rồi với Tư Có, Nam tự nhủ từ bây giờ phải thật cẩn thận, không thể xem thường, bọn họ rất rành địa hình, đường xá ở đây nên xuất hiện rất bất ngờ.

    Gần hết buổi chiều, mặt trời đã lặn về hướng rừng núi xanh thẩm phía tây, Nam xách mấy con cá rô, mè vừa câu được về nhà. Con Đốm và Ki lót tót chạy theo, anh nhìn hai con chó mỉm cười, tụi nó là hai người bạn thân thiết của anh ở nơi heo hút này.

    Hết ngày mai nửa là Tết rồi, cơm tối xong Nam ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ trước sân, hai con chó được cho ăn một bửa có cá ngon lành, con Ki nằm nhìn về hướng nhà Ba Du, nó khôn lắm, dù đi qua đây nhưng cũng còn nhớ canh chừng nhà, con Đốm nằm kế bên, thỉnh thoảng nó khua chân trước về phía con Ki như muốn tiếp tục mời gọi đùa giỡn với nó.

    Trời tối dần, côn trùng trong các bụi cây cỏ cất tiếng kêu rền rỉ trong bóng đêm tịch mịch, anh vào nhà lấy cái đèn pin tự chế và cây rựa, rồi ngoắc hai con chó đi theo về phía nhà Ba Du.

    Nam muốn qua xem nhà cửa bên đó, nhất là buổi chiều du kích xã mới vừa đi tuần qua. Anh đi một vòng quanh căn nhà, cửa trước và cửa sau vẩn đóng kín, mọi thứ vẩn như cũ, lấy đèn soi vào chuồng, thấy lũ gà nằm im trên tấm phên được Ba Du sửa chửa lại trước khi về thành phố. Con Ki chui qua lổ hổng quen thuộc bên cái vách gần chái bếp vào trong nhà, chợt nghe nó sủa dử dội như sắp sửa mở cuộc tấn công, con Đốm bên ngoài cũng sủa râm ran, Nam lia ánh sáng của ngọn đèn pin về chỗ cái lổ, tay cầm rựa đề phòng rồi gọi:

    - Ki, cái gì đó?

    Nó vẩn tiếp tục sủa không ngớt, bổng một con rắn dài đen trũi nhanh nhẹn bò thoát qua lổ hổng rồi phóng vụt vào mấy bụi cây, con Đốm làm gan đuổi theo, nhưng con rắn đã nhanh nhẹ trườn mất hút vào bóng tối. Lát sau con Ki chui ra và còn hậm hực, nó chạy đến gầm gừ và đánh hơi quanh bụi cây nơi con rắn chạy trốn vào đó.

    Nam quay trở về nhà, con chó của Ba Du ra nằm phía trước sân, con Đốm đứng ngoái đầu nhìn nó như muốn kêu gọi nó đi theo, nhưng con Ki thì vẩn nằm im lìm, nó ở lại để canh chừng nhà, cuối cùng con Đốm chạy theo anh đi về trên lối mòn mờ mờ dưới ánh sáng của cái đèn pin.

    Ngày mai đã là ba mươi tết, Nam nhớ còn chỗ bờ hồ có đám rừng chồi rậm rạp mà anh định dò độ sâu chiều nay, nhưng bị Tư Có và mấy tay du kích xuất hiện đột ngột làm cản trở. Anh dự tính sáng mai sẽ tiếp tục công việc tại nơi đó, nếu lặn vào buổi sáng thì chắc nước hồ sẽ lạnh hơn.

    Anh suy nghĩ và đổi lại kế hoạch, sáng mai ra chỗ vũng nước cạn bắt cá con về làm mồi và ra hồ câu cá lăng, đến gần trưa có ánh nắng mặt trời ấm áp hơn sẽ quay vào làm công việc kia.

    Sáng dậy kiếm cơm nguội và củ khoai bỏ bụng, thêm vài trái chuối cho có thêm chút sức lực. Nhìn ra mấy cây mít trước nhà, Nam nhớ chiều hôm qua khi ra đứng gần đó, anh nghe thoang thoảng mùi mít chín , hôm nay lúc nào rảnh ra hái xuống, hình như mít trồng trong vùng này đều ngọt và thơm, bên đất nhà Ba Du và Hai Tuất cũng vậy.

    Anh ra chỗ vũng nước cạn, lấy cái gùi xúc vào đám rong rêu, bông súng được gần chục con cá rô, cá mè nhỏ, thấy đã đủ mồi câu, anh quay về lấy xuồng bơi ra hồ. Nhớ lại có một việc cũng cần thiết, chiều qua lúc lặn xuống với lưỡi dao trần anh thấy hơi bất tiện, Nam lấy hai mảnh gổ từ một đoạn tre già, ngồi bỏ công đẽo gọt làm thành cái vỏ ngoài cho con dao, rồi cột thêm sợi dây dù nhỏ để đeo vào cổ, trông nó an toàn và tiện lợi khi lặn.


    (còn tiếp)

  5. #5
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    Bơi xuồng ra gần giữa hồ, anh móc mồi quăng xuống nước, rồi lấy thuốc lá ra hút. Ngồi chăm chú theo dõi cái phao, chú cá đầu tiên cắn câu lại là một con cá chép to. Nam nghĩ, thôi cũng được, không được cá lăng, thì có cá chép và gỡ nó bỏ vào dưới đống lưới cũ trong khoang xuồng, rồi móc mồi mới và nhẹ nhàng thả xuống hồ.
    Chiếc xuồng trôi chầm chậm trên mặt nước, anh nhớ đến lần hẹn với Ngọc Minh lần vào buôn vừa rồi, nên sắp xếp kế hoạch trong đầu, nếu hôm nay xong công việc thì mai sẽ đem bao đậu xanh và vài con cá vào biếu gia đình Ngọc Minh và Điểu Sơn.
    Cái phao động đậy và chìm nhanh xuống dưới, Nam nhanh tay giật mạnh cần, một con cá lăng to vùng vẩy mạnh khi bị kéo lên khỏi mặt nước, nhấc nó bỏ vào khoang xuồng, anh thấy hào hứng và định tiếp tục thả câu, nhưng vì nắng cũng đã lên cao, nên đành quay vào bờ.
    Cột kỹ dây xuồng vào bụi cây, Nam xách hai con cá to về nhà, rồi lấy con dao đeo vào cổ và mang cuộn dây cùng cây rựa đi ra trở lại khu rừng chồi bên bờ hồ, không quên kêu con Đốm đi theo.
    Quan sát xung quanh thấy vắng lặng, anh cầm rựa vào theo lối cũ, phạt bớt những cành lá rậm rạp chắn ngang đường, và bước tránh những cái tổ kiến đen mà lần trước Nam đã bị nó cắn. Đến dưới một tàn cây cao rậm, khung cảnh trong này âm u, ngột ngạt, con Đốm lần đầu vào tận đây nên có vẻ lạ lẩm, nó dí thấp mủi đanh hơi lùng sục mấy hang đá và mấy con rắn mối đang hoảng sợ bỏ chạy.
    Anh buộc cục đá vào đầu sợi dây và thả xuống thăm dò đáy trước, nó chạm bên dưới và Nam đếm số nút dây còn lại và đoán nó sâu độ ở đây khoảng bốn, năm mét. Anh kéo lên và di chuyển lên phía trên vài mét, rồi thả xuống lần nửa, độ sâu đáy hồ bên dưới vẩn không thay đổi.
    Kéo cục đá lên, lần này anh sẽ bám theo nó và từ từ lặn xuống hồ, bên dưới có nhiều thân cây nằm ngổn ngang trên lớp bùn, nước lạnh và tối vì ánh nắng mặt trời bên trên bị nhiều tàn cây che mất. Thấy ngộp hơi, Nam buông cục đá và trồi lên, bên trong đám cây này rất kín đáo, nếu không gây ra tiếng động, bên ngoài không thể nhìn thấy, nên phần nào làm anh cảm thấy an toàn hơn.
    Lấy cái áo trùm qua vai cho đỡ lạnh, anh nhìn quanh tìm con Đốm, nó đang lùng sục các bụi rậm, không biết tìm thấy con gì, thỉnh thoảng lại sủa ngắt đoạn từng chập.
    Thấy đỡ mệt, Nam kéo cục đá lên và lại lặn xuống nơi cũ, khi đến đáy anh chậm chạp dùng mủi dao xăm mạnh xuống lớp bùn, con dao xuyên sâu tận cán, dò dẫm thêm ra phía trước cho đến lúc hết hơi Nam mới trồi trở lên, lần này đã thấy mệt hơn, anh ngồi bệt lên tảng đá, hút điếu thuốc để chống lại cái lạnh đang dần thấm sâu vào cơ thể.
    Lát sau Nam lại tiếp tục công việc, anh lên đoạn trên ở gần bìa khu rừng chồi. Nam tìm thân cây to để cột dây và từ từ lặn theo cục đá chìm xuống, ở đây các thân cây mục cũng nằm ngang dọc, có lẻ trước đây có ai đó chặt hạ cây cối trong khu rừng rồi bỏ lại đây, khi dòng suối bị con đập ngăn lại, dòng nước nhấn chìm tất cả. Nam lấy tay cố đẩy và xê dịch thử vài thân cây bám đầy rong rêu trơn trợt, nhưng các cành cây bị vướng víu vào nhau nên chúng cứ ì ra một chỗ, mấy con cá nhỏ ẩn bên dưới thấy có động, hoảng hốt phóng ra ngoài mất dạng.
    Anh trồi lên để thở và bước lên bờ, ngồi hút thuốc lá, suy nghĩ sẽ cố lặn xuống xem bên dưới lần nửa dù bây giờ anh đã mệt đứt hơi sau những lần lặn vừa rồi. Nam thấy phải cố gắng vì giá trị của hai thùng đồ cổ đó rất xứng đáng để bản thân phải chấp nhận mạo hiểm.
    Chuẩn bị sẵn sàng, Nam lấy hơi và để cho cục đá nặng từ từ kéo chìm xuống đáy, anh bơi lên phía trên một đoạn, đáy hồ bên dưới vẩn là những thân cây nằm rải rác và những cụm rong mọc dầy, không thể nhìn thấy rõ mọi vật. Anh định quay đầu về chỗ cũ để trồi lên, thoáng nhìn thấy trong làn nước tối mờ phía trước một con cá có thân mình màu đen, to dài như lươn nhưng vì ở quá xa, nên không biết nó lớn cỡ bao nhiêu, con vật bơi rất nhanh và mất hút vào làn nước đục mờ mờ.
    Lên được trên bờ, nhìn qua khe lá, thấy mặt trời đã ở gần giữa đỉnh đầu, Nam ngồi nghỉ một lát lấy lại sức, rồi cầm cuộn dây đi về nhà nấu cơm trưa. Nam kêu hai con chó, nhưng không thấy con nào chạy đến, bình thường khi nghe anh gọi, con Đốm và con Ki chạy lại ngay.
    Anh bước ra tìm, thấy cả hai đang sục sạo trong đám lá rậm rạp cách đó không xa, Nam bước đến gần, lấy tay kéo mấy nhánh cây ra, cả hai con đang đưa mủi đánh hơi bên ngoài một cái hang bị đá và cành cây che kín, thấy lạ anh cẩn thận đưa cây rựa gạt những cành cây sang một bên, và lật cục đá ra nôi khác, cửa hang khá to, nó trông giống như cái hang cáo và ăn sâu xuống đất ra hướng bờ hồ.
    Nam kêu hai con chó và ra khỏi rừng chồi đi về nhà, cả người thấy đói cồn cào, mệt phờ vì lặn hụp xuống đáy hồ nhiều lần, và thêm cái lạnh của nước bên dưới thấm vào người.
    Xong bửa trưa, anh lăn ra ngủ say sưa trên tấm phản tre. Khi giật mình tỉnh dậy nhìn trời thấy mặt trời đã ngã nhiều về hướng tây, anh đoán giờ này chắc cũng tầm 3 – 4 giờ chiều, cũng còn thời giờ cho một buổi đi câu, sáng mai sớm vào buôn thăm Ngọc Minh sẽ mất hết cả ngày.
    Ra phía sau nhà lấy cần câu và cái lon đựng mấy con cá mồi nhỏ, Nam đi ra bờ hồ và lấy xuồng chèo ra giữa dòng nước trong xanh, móc một con cá con vào lưỡi câu, rồi thả nhẹ cho nó chìm nhanh xuống hồ.
    Sau giấc ngủ dài, anh thấy khỏe khoắn, tỉnh táo hơn nhiều, nghĩ đến ngày mai được gặp lại Ngọc Minh làm anh thấy vui vẻ, phấn chấn. Nam ước cuộc sống sau này có Ngọc Minh bên cạnh, nếu được như vậy thì thật hạnh phúc vì cô đẹp và hiền dịu. Nhưng rồi chợt nhớ lại cuộc sống hiện tại, nó như cơn ác mộng luôn ám ảnh Nam vì nghèo đói và nổi sợ hải … đang dày vò mọi người, muốn tìm kiếm tương lai tốt đẹp ở xứ sở thật là xa vời, gần như không tưởng, chỉ có bỏ nước ra đi mới thoát khỏi màn đêm u tối, thất vọng đang bủa vây Saigon.
    Thấy cái phao động đậy và chìm xuống mặt nước, anh giật mạnh cái cần, một chú cá mè vào cuối giờ chiều, không được cá lăng, nên làm Nam thất vọng. Móc mồi thả tiếp xuống hồ và chăm chút nhìn cái phao, cá lại cắn câu, anh giật cần lên, lại một con cá mè, móc mồi lần nửa và thả xuống, dăm phút sau lại dính một con cá mè khác, Nam mỉm cười và tự hỏi, cá mè đâu ra nhiều quá, mấy con cá lăng trốn đâu hết rồi?
    Còn lại vài con cá nho nhỏ trong lon, anh móc mồi thả câu cho hết rồi mới về, mặc cho chiếc xuồng trôi lênh đênh xuôi gió chiều từ đông bắc thổi về, mang theo hơi lạnh của dãy Trường Sơn ngút ngàn, mặt trời đang lẩn trốn về phía tây, tối nay và sáng mai Tết, mùng một chắc thời tiết sẽ se lạnh.
    Một cú đớp giật mạnh làm cái cần đang gác lên be xuồng bị lôi xuống nước làm anh không kịp phản ứng, Nam nhổm dậy vói theo nó làm chiếc xuống tròng trành mất thăng bằng, vài giây sau kịp trấn tỉnh lại, Nam lấy mái chèo bơi nhanh theo cái cần đang bị con cá lôi đi vùn vụt trên mặt nước, nhiều lúc nó định kéo xuống dưới sâu, nhưng vì cần dài và nặng nên sau đó nó lại nổi lên trở lại. Thích thú với trò rượt đuổi bất ngờ này, anh đoán chắc là cá to đây, nên quyết hạ nó, không để chạy thoát, được một lúc con cá chừng như đã đuối sức, Nam bơi nhanh đến, với tay chụp cái cần và từ từ thu sợi dây cước ngắn lại, con cá kháng cự dử dội bên dưới, quấn một đoạn dây vào đầu cây đinh đóng ở be xuồng, anh nhanh tay bơi vào bờ, rồi cầm chắc cần câu từ từ kéo nó vào bên trong, con cá càng tiếp tục vùng vẩy, đứng trên bờ thấy thân mình trắng bạc của nó phóng lên khỏi mặt nước, Nam nhận ra đó là con cá chép “cụ” rất to, hèn chi nó quá khỏe.
    Sau vài phút vật lộn, anh kéo nó được lên bờ, nhìn cái lưng dầy cộm và chiều dài từ cái đầu to đến cái đuôi cũng to đang quật lên xuống trên cỏ, chắc nó phải nặng gần chục ký.
    Nam mỉm cười thưởng thức chiến thắng của mình, câu được cá chép có lẻ là điềm may, không biết phải vậy không, anh nghe nhiều người nói như vậy!
    Sau buổi cơm tối, anh ra trước sân, lấy củi ngoài rẩy đốt đống lửa to cho sáng sủa và có chút hơi ấm, con Ki qua đây từ lúc chiều, nó và con Đốm được cho mỗi con một khúc cá to nên bây giờ năm lim dim dưới chân anh nhìn ngọn lửa.
    Nam định ngày mai sáng sớm mùng một vào buôn thăm Ngọc Minh và ở tới chiều, nếu có đà thuận lợi, mùng hai vào thêm ngày nửa, ở ngoài này cũng loanh quanh chưa biết làm gì, còn thăm Hai Tuất và Năm Bình thì chờ sau mùng ba, khi Ba Du lên rồi cùng đi thì hay hơn, tửu lượng của anh yếu nên không dám đơn thân, độc mã đến thăm Tết hai ông bạn thân này của Ba Du.
    Đêm 30 trong vùng rừng núi bên hồ, khung cảnh lại càng tịch mịch hơn mọi ngày, Nam nhớ về gia đình, bạn bè ở Saigon và thấp thoáng hình ảnh người bạn gái đã ở nơi xa, không biết về phương trời nào, nổi niềm cô liêu càng sâu đậm khi nghe tiếng gió thổi vi vu qua mái tranh. Anh ngửng đầu lên nhìn bầu trời đêm tối thẳm, chỉ thấy một ánh sao nhỏ xíu nằm lẻ loi ở một góc, có lẻ nó ở xa lắm, văn chương sách vở hay viết mỗi người khi sinh ra đều có một ngôi sao chiếu mệnh, ngôi sao nhỏ đó xuất hiện một mình trong đêm nên trông nó thật cô đơn.
    Hai con chó đang nằm sưởi ấm gần đống lửa bổng chồm dậy sủa về hướng con đường mòn đi xuống từ rừng cao su, biết rỏ tính khí của con Ki, anh đoán chắc sắp có người lạ đến gần, có lẻ đó là du kích xã đi tuần. Lát sau qua ánh lửa cháy sáng, Nam nhìn ra xa phía trước nhà thấy có khoảng năm, sáu người đàn ông vai mang súng M-16 im lặng đi về phía bờ hồ, không có Tư Có đi theo. Thỉnh thoảng ánh đèn pin của họ lóe lên soi đường rồi vụt tắt, con Ki và con Đốm sủa một lúc lâu mới chịu quay trở lại nằm gần đống lửa.
    Nam muốn thức thêm vài tiếng nửa, cho đến giao thừa rồi mới đi ngủ, nhìn sang bên kia bờ hồ nơi có ngôi nhà của Hai Tuất trên đồi và cái xóm nhỏ, chỉ thấy vài đốm sáng nhỏ chập chờn trong đêm tối, chắc không mấy ai trong ngôi làng xa xôi cô tịch này còn thức để đón năm mới.
    Bỏ thêm vài khúc củi to vào cho ngọn lửa cháy lớn thêm, rồi vào nhà lấy cái đèn pin và cây rựa, hai con chó hiểu ý anh liền chồm dậy theo ra lối mòn đi qua nhà Ba Du. Con Ki biết hướng trong đêm tối nên chạy lên phía trước dẩn đường, tới cái sân Nam nhìn xung quanh, thấy cửa nẻo mọi thứ đều nguyên vẹn nên dẩn con Đốm quay về, còn con Ki chui vào nhà qua cái lổ của nó ở vách chái bếp.
    Ngồi nghỉ một lát trên khúc cây trước sân, những hạt sương đêm nay rơi nhiều làm ẩm ướt mái tóc của anh và thấm lạnh qua lớp áo kaki, ngọn lửa đang dần tàn, chỉ còn những cục than hồng thỉnh thoảng cháy rực lên khi có những cơn gió thổi qua …

    * * *

    Sáng mùng một, trời se se lạnh làm Nam thức giấc, ăn sáng xong anh lấy cái gùi bỏ vào đó chai nước, củ khoai, mấy trái chuối chín và túi đậu xanh, rồi ra sau nhà lấy dây xỏ mang con cá chép to và con cá lăng đem vào buôn biếu Điểu Rút và Điểu Sơn, sờ vào túi áo thấy đã có hộp quẹt, gói thuốc lá, không quên dặn con Đốm không chạy ra ngoài rừng, anh cầm theo cây rựa ra khép cửa nhà và nhanh chóng xuống bờ hồ.
    Mặt nước hồ sáng nay phủ một lớp sương mỏng mờ mờ đang trôi dạt nhè nhẹ theo những cơn gió thổi về từ đồi núi phía bắc. Bỏ hai con cá vào khoang xuồng xấp nước dưới tấm lưới, Nam tháo dây buộc, hướng mủi xuống về phía thượng lưu và bắt đầu bơi ra giữa hồ.
    Một mình một mái chèo khiến anh phải gắng sức bơi nhiều hơn khi không có Ba Du, những cơn gió từ tây bắc thổi ngược về làm chiếc xuống tiến lên chậm chạp.
    Vài cây mai già nằm sâu bên trong trên các triền dốc nở hoa vàng rực một góc rừng, trông thật đẹp, ở Saigon ngày Tết mà có được gốc mai to, đẹp như vậy rất hiếm.
    Mặt trời vừa chiếu những tia sáng mỏng manh ở góc rừng phía đông, trên cao vài đàn chim bay ngang đầu anh về phương nam di trú, thỉnh thoảng buông ra những tiếng kêu văng vẳng trong không gian yên lặng của buổi sớm mai.
    Nam tiếp tục bơi đều đặn không nghỉ tay, lát sau nhìn khung cảnh quen thuộc ven hồ, anh nghĩ mới được gần nửa đường. Vài giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán, bỏ cái nón ra khỏi đầu, cơn gió lành lạnh xua bớt cái nóng và mệt làm anh thấy dể chịu, mổi lần đi ngang qua khúc hồ này, Nam thích thú vì nét đẹp hoang dả của cây cỏ bên bờ, trên mặt hồ thì có nhiều bầy cá dạn dĩ nổi lên, bơi chậm rải gần chiếc xuống như chốn không người, Ba Du nói những con cá ở chỗ này sống lâu năm nên thường rất to.
    Khoảng nửa tiếng sau, mấy bụi cây rậm quen thuộc trên bờ hiện ra, Nam cập xuồng gần sát vào trong và cầm sợi dây kéo chiếc xuồng vào bên dưới tàng cây.
    Lấy chai nước ra uống vài ngụm và ăn mấy trái chuối dằn bụng cho chắc, anh xách hai con cá và cái gùi trên vai ra bờ hồ cạn cắt vài lá bông súng to, lót vào đáy gùi rồi bỏ cá vào và phủ vài lá khác lên trên để cá tươi lâu, túi đậu xanh cho lên trên cùng.
    Nam nhấc lên thử thấy khá nặng, nhưng tự nhủ dù sao thì cũng phải cố gắng vì lần này vào buôn chỉ có một mình, và đem biếu họ vào dịp Tết như vậy mới có nhiều ý nghĩa.
    Nhìn con đường đi về phía cửa rừng, Nam xốc cái gùi trên vai và đi qua trảng cỏ nhỏ, lặng lẻ theo lối mòn vào dưới những tàng cây cao.
    Tay cầm rựa phạt những nhánh chìa ra bên ngoài che khuất lối đi, anh cố gắng bước theo dấu vết con đường để khỏi bị lạc, mấy con vắt và muỗi bây giờ không còn làm anh sợ như hai lần đầu.
    Vừa bước đi vừa lắng nghe tiếng chim rừng hót trên các cành cao, thỉnh thoảng Nam nhìn lên xem mặt trời qua các khe hở giữa vòm lá, vượt qua mấy con dốc quen thuộc qua bên kia sườn đồi, đã đến chỗ nghỉ chân, anh bỏ gùi xuống tảng đá to và ngồi nghỉ chân cạnh bờ suối lớn, cúi xuống vốc nước rửa mặt, và sau đó trở lên chỗ cũ lấy thuốc lá ra hút. Thời gian này đang mùa khô nên những con đường rừng vào buôn còn dể đi, Ba Du nói vào mùa mưa, mấy cái dốc trơn trợt và con suối này đôi khi nước lũ tràn về biến nó trở thành một dòng thác lớn.
    Dốc thêm ngụm nước qua cổ họng, Nam khoác cái gùi nặng lên vai băng qua suối và tiếp tục đi theo lối mòn len lỏi dưới rừng già, qua hết cánh rừng âm u này và một đoạn rừng thưa nửa, anh đã thấy trảng cỏ xanh thấp thoáng hiện ra qua những thân cây phía trước.
    Nhanh chân rút ngắn đoạn đường còn lại và khi đến bìa trảng, anh bỏ cái gùi xuống, ngồi nghỉ thêm vài phút dưới bóng mát của cây bằng lăng nở hoa tím, mùa xuân nhiều loại hoa dại màu vàng, trắng, tím cùng đua nhau nở rải rác khắp nơi xen lẩn với màu xanh của thảm cỏ trông rất lạ mắt, cây cỏ quanh trảng vẩn xanh vào mùa khô, trong khi cây trong rừng bắt đầu rụng lá.
    Đã gần đến buôn, đoạn đường còn lại không còn xa bao nhiêu, Nam thấy phấn chấn, xem lại quà biếu trong gùi thấy hai con cá vẩn con nguyện vẹn trong lớp lá bông súng xanh dầy, nhưng chắc cũng cần phải nhanh chân đến buôn để chúng còn tươi.
    Lên hết con dốc sau cùng để xuống thung lũng, từ trên đỉnh đồi Nam dã nhìn thấy những căn nhà sàn bao quanh bởi màu xanh trùng điệp và bề ngoài vẩn lặng lẻ như ngày thường, không có hơi hướng gì của ngày Tết.
    Nam từ từ đi vào buôn, vài người đàn bà mang gùi trên lưng, cầm xà gạc đi ngược hướng tò mò nhìn anh đi qua, đang lưỡng lự suy nghi không biết đến nhà ai trước, rồi quyết định nhanh chóng, anh rẽ phải đến căn nhà sàn của Điểu Sơn, bước lên thang gổ và gọi:
    -Điểu Sơn có ở nhà không, Nam đây?
    Nghe tiếng gọi, một người phụ nữ S’tiêng trạc 35 – 40 tuổi đi ra nhìn anh với vẻ ngạc nhiên, Nam gật đầu chào:
    -Anh Điểu Sơn có nhà không?
    Bà ta gật đầu bước xuống thang, ra dấu cho anh đi theo và nói ngắn gọn:
    -Ở ngoài vườn
    Theo chân bà ta ra gần cuối buôn, trên đường làng vài con gà và lợn ỉn đang lang thang kiếm ăn dưới các ngôi nhà sàn, hình ảnh quen thuộc của một làng thượng, đến gần khu vườn có nhiều cây ăn trái, một con chó sủa inh ỏi khi thấy có người lạ đến gần. Người phụ nữ cất tiếng gọi, Điểu Sơn đang ở trong giữa vườn cây nghe có người gọi tên mình nên đi ra, thấy Nam đang đứng, Điểu Sơn liền vui vẻ chào:
    -Chú Nam mới vô tới hả?
    -Dạ, Tết nghỉ mấy ngày, anh Ba Du về Saigon rồi, tôi vào buôn thăm, chiều về
    Nói xong anh bỏ cái gùi xuống đất, lấy lá sen đặt con cá lăng lên trên và cầm nó đưa cho Điểu Sơn:
    -Tôi đi câu được cá ngoài hồ, con này tôi để dành biếu Điểu Sơn
    Cầm con cá to từ tay anh rồi đưa lại cho người phụ nữ, Điểu Sơn nói:
    -Cám ơn chú Nam nhiều lắm, về nhà tui uống nước, à còn đây là bà xã tui
    Ba người quay trở lại nhà sàn, bà vợ Điểu Sơn vào trong cầm ra hai cái ly và cái ấm nước ám khói đen, rồi rót từ trong đó ra nước nâu nhạt như nước trà:
    -Chú Nam uống thử đi, cái này nấu từ lá thuốc hái trong rừng, uống thay trà rất tốt cho sức khỏe
    Nam uống thử, nó có vị chát và mùi thơm nhẹ, thấy Tết đến mà không khí trong buôn vắng vẻ, anh nhìn người đàn ông S’tiêng và hỏi:
    -Mồng một Tết sao thấy trong làng cũng như ngày thường?
    -Năm nay mùa màng kém, lúa, bắp thu hoạch không được nhiều nên ai cũng không vui, chú Nam ở đây ăn cơm trưa với gia đình tui nhé?
    Anh lấy thuốc lá ra mời Điểu Sơn và trả lời:
    -Cám ơn Điểu Sơn, chắc nhờ Điều Sơn dẩn qua nhà thăm Điểu Rút để biếu con cá
    -Ừ, chú Nam uống nước đi, rồi tui dẩn qua bên đó, Điểu Rút hôm nay ở nhà – Điểu Sơn trả lời với vẻ tự nhiên
    Mặt trời đã lên cao ngang đỉnh đầu, Nam uống cạn ly nước và xuống thang theo Điểu Sơn về phía cuối làng, vừa đến nơi thấy Ngọc Minh đang định bước xuống thang, cô có vẻ vui khi thấy Nam, Điểu Sơn hỏi:
    -Điểu Rút có ở nhà không Ngọc Minh?
    -Dạ có
    Cô quay lại dẩn Nam và Điểu Sơn vào nhà đúng lúc Điểu Rút xuất hiện ngay cửa, anh gật đầu chào, thấy có Nam và Điểu Sơn đến, ông ta vẻ vui nói:
    -À, có Điểu Sơn và cậu Nam đến, vào trong nhà đi
    Ngọc Minh đi vào nhà trong đem ly và ấm nước rót ra mời khách, đôi mắt của cô nhìn Nam cười, anh cầm túi đậu xanh và con cá chép to trên hai tay đưa cho Điểu Rút:
    -Cái này biếu Điểu Rút và gia đình
    -Cá lớn quá, cảm ơn cậu Nam nhiều, Ngọc Minh con đem túi đậu và cá vô trong
    -Anh Nam cho nhiều quá, ngoài đó còn gì để ăn Tết không – Ngọc Minh hai tay cầm hai món lên, cười nói
    Hai người đàn ông S’tiêng cùng mỉm cười khi nghe Ngọc Minh hỏi, họ hiểu tình ý của chàng trai người Việt này, Nam nở nụ cười:
    -À, cũng còn Ngọc Minh đừng ngại, ngoài đó ngày nào đi câu cũng có ít nhiều
    Hai người đàn ông S’tiêng có vẻ hào hứng, Điểu Rút vui vẻ nói:
    -Điều Sơn và cậu Nam trưa nay ở đây lai rai đi, thiếu Ba Du, năm nào cũng về Saigon ăn Tết, năm nay khác mọi năm, có cậu Nam vô thăm buôn, chiều mới được về nghe
    Ngọc Minh từ nhà trong cũng chạy ra:
    -Ừ, anh Nam ở chơi chiều về nghe, hôm nay rảnh Ngọc Minh dẩn đi một vòng quanh làng cho biết, bây giờ Ngọc Minh đi làm bếp
    Nghe cô nói, anh gật đầu cười, Điểu Rút đi xuống thang cùng với Điểu Sơn, Ngọc Minh đã vào phía trong gian bếp.
    Còn một mình Nam ngồi quan sát căn nhà được dựng trên những cột gổ to vững chải, mái dốc lợp tranh dầy, nó được chia ra làm hai phần, phía ngoài dùng làm nơi tiếp khách, nghỉ ngơi hay ngủ , phần trong là gian bếp dùng nấu nướng và cất các loại dụng cụ làm ruộng, rẩy. Ở gần vách giữa nhà có hai cái rương gổ to mầu nâu, nằm sát cái vách đan bằng tre, ngăn thành một phòng riêng nhỏ, Nam nghĩ chắc đó là phòng của Ngọc Minh, phía trên vách treo một cái ná gổ mun đen bóng, kế bên là bốn cặp gạc nai lớn, chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà là tay săn bắn có hạng.
    Từ ngày mẹ mất, Ngọc Minh về sống với cậu và dì ở ngôi nhà này, cả hai có vẻ rất thương yêu, đùm bọc cô cháu gái của mình, nghĩ đến sự côi cút đó, trong lòng Nam trổi dậy nổi niềm thương cảm dành cho Ngọc Minh, anh lớn tiếng gọi vào phía trong:
    -Ngọc Minh ơi, có cần tôi giúp gì không?
    -Ừ, không anh Nam ngồi nghỉ đi, chút xíu nửa cậu và chú Điểu Sơn về, Ngọc Minh làm một mình được rồi – tiếng cô vọng ra từ gian bếp
    -Mợ Tranh hôm nay không có ở nhà?
    -Sáng nay mợ qua thăm người bà con xã kế bên, chiều mới về
    Có tiếng Điểu Sơn nói chuyện với Điểu Rút, hai người đàn ông xuất hiện trên cầu thang, Điểu Rút cầm trong tay hai con gà rừng:
    -Người quen trong buôn bẩy được chiều hôm qua, hôm nay lai rai món gà nướng và món cá của chú Nam mới cho
    Nói xong Điểu Rút cầm nó đi vào bên trong, Điểu Sơn nhìn Nam nói:
    -Chú Nam ở đây nghỉ đi nhé, tui về nhà chút xíu nửa qua
    Anh lấy thuốc lá ra hút, nhìn trời đoán mới hơn 9 giờ sáng, Ngọc Minh từ trong đi ra, chắc là có Điểu Rút về nên rảnh việc nấu nướng, cô nói:
    - Anh Nam đi một vòng trong buôn với Ngọc Minh cho biết
    Nam gật đầu theo cô xuống thang, Ngọc Minh cùng anh đi về phía bên phải theo con đường dọc bên vườn cây, rồi đến nơi rẻ vào một ngôi nhà sàn nhỏ khác nằm tương đối cách xa làng, cô nhìn Nam và chỉ tay về ngôi nhà nói:
    -Lúc mẹ còn sống, Ngọc Minh và mẹ ở nhà này
    Cô dẩn Nam lên cái thang gổ và đầy nhẹ liếp tre cho ánh sáng và không khí tràn vào bên trong, ngôi nhà cũng có hàng cột tròn to, chắc chắn và cái sàn được lát từ những tám ván dầy, phẳng phiu. Ngôi nhà có hai ngăn riêng biệt và cái chái bếp nằm ở góc cuối, anh giúp Ngọc Minh dùng hai đoạn tre chống cái liếp cửa lên khiến ngôi nhà đang tối mờ mờ bổng sáng lên.
    Nam nhìn quanh, thấy các ngóc ngách đều sạch sẽ, ngăn nắp, từ khung cửa sổ nhìn hơi xa về chân dãy đồi, có một dòng suối lách mình chảy qua đá cuội và cây cỏ mọc xanh ven bờ.
    -Cậu Điểu Rút, Điểu Sơn và mấy người bạn của cậu trong xóm làm nhà cho mẹ Ngọc Minh đó
    -Nhà Ngọc Minh đẹp hơn mấy cái nhà kia – Nam khen và cười
    Ngọc Minh nghe nói cũng cười, nhưng Nam thấy trên khuôn mặt của cô thấp thoáng nổi buồn, anh đưa mắt nhìn xa hơn về hướng dãy núi mờ tít hướng tây, có lẻ là vùng biên giới Việt - Miên, Ngọc Minh bổng nói:
    -Mình ra xem suối đi anh Nam
    Cả hai đi theo lối mòn nhỏ chạy qua khu vườn ngày xưa là nơi trồng rau, nay cỏ mọc xanh khắp nơi, Nam nhìn cô hỏi:
    -Hồi trước ở đây là vườn rau phải không, sao bây giờ không trồng nửa?
    -Ừ, lúc trước mẹ và Ngọc Minh trồng rau ở đây, bây giờ qua ở nhà cậu xa nên lười, chỉ trồng vào mùa mưa thôi – cô cười và trả lời
    Nam theo chân cô đi dưới bóng những cái cây ăn trái xanh mát, trong vườn cỏ mọc khá cao, cô đưa tay chỉ mấy trái ổi, khế trên cao nói:
    -Cậu Điểu Rút và mẹ trồng nhiều loại cây lắm, còn Ngọc Minh thích mấy trái này, ăn ngọt lắm đó anh Nam
    -Vậy hả, chút nửa lúc đi ra, tôi hái cho Ngọc Minh nhé
    Câu trả lời của anh làm cô có vẻ vui và cười:
    -Ừ, chút nửa anh Nam nhớ hái cho Ngọc Minh mấy trái chín về nhà ăn
    Ra đến bên bờ suối, cả hai đứng dưới bóng mát của khóm tre mọc dầy, mùa này dòng nước cạn chảy róc rách qua các tảng đá tròn nhỏ, có nơi nó bị chận lại đọng thành vũng nước trong khe, cô chỉ một tảng đá to nằm trên bờ:
    -Anh Nam ngồi đó đi, Ngọc Minh ngồi bên này
    Nam ngồi xuống, còn cô ngồi hòn đá kế bên, hôm nay Ninh Minh mặc áo bà ba màu xanh dương đậm điểm những chấm trắng nhỏ như sao trời trên bầu trời đêm và cái quần vải thô đen, Nam nhìn cô thấy đẹp, nét đẹp mộc mạc, giản dị và khỏe mạnh, anh hỏi:
    -Mùa mưa chắc suối lên cao hả Ngọc Minh?
    -Ừ, mùa mưa nhiều lúc nước tràn lên vườn cây, lúc đó tiếng suối chảy nghe lớn lắm, ngồi ở nhà còn nghe đó anh Nam
    -Lúc còn nhỏ ở ngoài thị xã, Ngọc Minh có xuống Saigon bao giờ chưa?
    Cô cười trả lời:
    -Có lần ba dẩn Ngọc Minh và mẹ xuống Saigon chơi, mà lúc đó còn nhỏ lắm, nên không nhớ nhiều đâu
    Nhớ lại Ba Du nói về người cha đã tử trận và người mẹ vừa qua đời cách đây hai năm của cô, anh không muốn hỏi tiếp câu chuyện, vì biết mình vừa vô tình làm cho Ngọc Minh buồn, Nam hỏi qua chuyện khác:
    -Làng của Ngọc Minh tên gì?
    -Làng tên Bù Đon, Ngọc Minh nghe mẹ và cậu nói làng này có từ lâu lắm rồi, trước thời người Pháp đến đây, nó cùng huyện nhưng lại khác với xã anh Nam ngoài đó, còn nhà anh Nam ở quận mấy dưới Saigon?
    Nam nhìn cô mỉm cười:
    -Nhà tôi ở quận Phú Nhuận, gần cầu Kiệu mà cũng gần quận 1, 3, gia đình di cư vào và ở đó từ năm 54, còn Ngọc Minh sau năm 75, hết chiến tranh mới về ở trong này, vậy Ngọc Minh có biết nói tiếng S’tiêng không?
    Hai má cô hơi ửng đỏ mỉm cười nhìn Nam:
    -Lúc mẹ còn sống có dạy cho Ngọc Minh, bây giờ cũng quên nhiều rồi, nhưng trong buôn này nói tiếng Việt ai cũng hiểu, nên bây giờ cũng không cần nói tiếng S’tiêng đâu, chỉ có mấy người già là không biết tiếng Việt thôi, lúc sáng nay, anh Nam đi vô buôn một mình có sợ bị lạc không?
    -Ừ, anh Ba Du có chỉ cách đi đường rừng rồi nên không sợ lắm, mùa này đi dể hơn mùa mưa
    -Anh Nam giỏi và gan ghê luôn, mới đi rừng hai lần với chú Ba Du mà đã dám đi một mình, ừ mà tháng mưa trong rừng nhiều vắt lắm đó …
    Nghe nói đến vắt, mặt anh hơi ngẩn ra, Ngọc Minh đoán biết Nam sợ mấy con đó vật nhỏ chuyên hút máu đó, nên cô cười làm anh hơi đỏ mặt, bối rối, anh cười cười tảng lờ nói:
    -Ngọc Minh có thích về thăm Saigon vài ba ngày không?
    Cô gật đầu và ngập ngừng nói:
    -Ừ, lâu rồi Ngọc Minh chưa xuống đó, đi với chú Ba Du và anh Nam hả?
    Nam mỉm cười gục gật cái đầu:
    -Ừ, qua Tết đi, xin cậu Điểu Rút về thành phố Saigon chơi nhé, ở nhà chú Ba Du, bây giờ ra vườn cây hái ổi và khế về ăn
    Hai người ra chỗ vườn cây, có vài cây lêkima, mít, điều … ở phía trong, đến gần mấy trái khế ở trên cành cao, Nam cố gắng vươn tay lên hái nhưng không tới, Ngọc Minh nhặt một thanh tre, cô lấy dây chuối cột với đoạn nhỏ thành cù móc đưa cho anh, thò cái cây giật năm, sáu trái khế chín vàng rơi xuống, sang cây ổi có nhiều trái chín thơm nhưng bị chim và sóc đến ăn nên chỉ hái được vài trái còn nguyên, Ngọc Minh nhìn mấy trái ổi bị ăn còn phân nửa lộ phần ruột màu hồng và có mùi thơm thoang thoảng nói:
    -Trái cây chín không kịp hái hay bị chim về ăn, có lúc vô đây Ngọc Minh gặp cả đàn chim nhiều lắm, rồi gặp cả nhím, đôi khi cả heo rừng …
    Nam nghe kể, cười chọc:
    -Vậy lúc gặp mấy con đó Ngọc Minh có sợ không?
    Biết Nam muốn chọc mình, cô cũng cười rồi trả lời:
    -Ừ, quen rồi không sợ đâu, vô đây lần nào Ngọc Minh cũng có đem theo rựa mà
    Nam cười có vẻ thích thú với câu trả lời tự tin của cô, anh cầm giúp cô mấy trái ổi, cả hai nhìn trời thấy đã trưa, cô thúc Nam đi về.
    Lên thang vào nhà thấy Điểu Rút và Điểu Sơn đang ngồi, cái chóe rượu cần nằm ngay giữa gian nhà trước, thấy Ngọc Minh và Nam về, Điểu Rút cười nói:
    -Cháu dẩn Nam đi về vườn cũ hái trái cây hả, có ra ngoài suối không?
    -Dạ có cậu, ra ngồi ngòai đó chơi, anh Nam khen nhà cháu đẹp đó
    -Ờ, thôi! Ngọc Minh dọn mấy món trong bếp ra đi, đầu năm cậu mời Điểu Sơn và cậu Nam lai rai
    -Dạ
    Điểu Rút bê cái chóe đặt nằm giữa ba người, lần trước ở nhà Điểu Sơn, anh đã uống thử loại rượu này, Điểu Sơn chỉ cái chóe nói:
    -Rượu cần của Điểu Rút làm ngon và say nhẹ lắm, chú Nam không lo đâu
    -Lần trước uống rượu cần ở nhà Điểu Sơn có anh Ba, hôm đó rượu cũng ngon – Nam đáp
    Ngọc Minh bê dĩa thịt gà nướng kiểu miền núi ra, và quay vào trong đem ra một phần đầu con cá chép nướng trui trông rất ngon lành, sau đó bày thêm rau và các loại gia vị.
    Cắm ba cái cần trúc dài vào chóe, Điểu Rút cầm một ống trúc rồi mời Nam và Điểu Sơn uống, vít cần đưa vào miệng, Nam thấy đầu lưỡi tê, nóng khi chất rượu qua cổ họng và có mùi thơm của cây lá rừng.
    -Mời cậu Nam và Điểu Sơn thử món cá nướng
    Nam đưa đôi đũa gắp miếng thịt gần phần bụng của con cá, chỗ này béo ngậy vì có lớp mở, hai người đàn ông S’tiêng vẩn đang cầm cần trúc uống rượu từ trong chóe, Điểu Sơn chờ vài phút cho rượu thấm vào vị giác rồi buông cần ra gật gù khen:
    -Chóe rượu này ngon, Điều Rút ủ nó từ bắp được bao lâu?
    -Khoảng 30 ngày, để dành Tết đãi khách quí tới nhà thăm
    -Ba Du về ăn Tết ở Saigon khi nào lên đây cậu Nam – Điểu Rút hỏi anh
    -Chắc khoảng mùng năm, nhưng anh Ba nói có thể sẽ lên sớm hơn
    Nam lấy bao thuốc lá mời hai người đàn ông S’tiêng và châm cho mình một điếu, không khí buổi trưa trong buôn vắng lặng, vài tiếng gà gáy đột ngột vang lên trong buổi trưa ấm áp ngày đầu xuân, anh hỏi Điểu Rút:
    -Từ trong buôn ra xã bên này có xa không?
    -Khoảng ba cây số, cũng phải băng đường rừng qua đồi mới đến trung tâm xã, ở đó có trạm xá, trường học … dân trong buôn cũng ít khi ra đó, chú Nam từ ngoài bờ hồ vô trong này cũng xa bốn, năm cây số, đi cũng cực quá
    Nam cười nói:
    -Lần đầu thấy xa, mấy lần sau thì quen rồi, thấy không xa lắm
    Điều Sơn ăn uống rượu rất khỏe, ông ta gắp cho Nam miếng thịt gà nướng và khen:
    - Điểu Rút và Ba Du biết cách nướng gà ngon lắm, tui ăn thử ở nhà Ba Du thấy cũng giống nhau
    Điểu Rút mỉm cười:
    -Lúc đi lính biệt kích, lính Mỹ cho ăn toàn đồ hộp, sau này qua biệt động quân, lính con nhà nghèo, gặp Ba Du khi đi hành quân cũng hay nấu nướng từ từ rồi quen
    Nghe kể lại chuyện lính tráng xưa, Điểu Sơn hồi tưởng lại:
    -Nhiều lúc đóng trong rừng cả tháng trời, ăn toàn gạo sấy, thịt hộp, lúc tụi tui ra đóng chốt gần suối thấy mễn, cheo ra uống nước cũng không dám bắn vì cấp chỉ huy nói im lặng không được làm gì khi chưa có lịnh.
    -Chỗ rừng Ba Du và chú Nam đi ngang qua còn nhiều thú lắm, hết tiếng súng nên thú rừng từ bên Miên và rừng Phước Long, Ban Mê Thuộc về đây nhiều, mấy buôn khác ở gần đây hay vô săn ở đây, họ săn bằng súng của lính trước 75, vô trong đó có gặp họ thì cậu Nam nên cẩn thận
    -Trong buôn này đi săn bằng súng hay bằng tên – Nam hỏi
    -Có người dùng ná, cũng có người dùng súng, chính quyền thì cấm xài súng, nên họ giấu trong rừng, lúc nào đi săn thì vô đó lấy ra, súng đạn trong đó còn nhiều lắm, tui với Điểu Sơn đi rừng lượm được M-16, AK, đạn …
    Điểu Sơn chỉ tay chếch về hướng tây-bắc nói:
    -Đồn Tống Lê Chân cách buôn này bẩy, tám cây số, lúc đó tiểu đoàn tụi tui bị bao vây trong đó lâu lắm, tui với Điểu Rút, Ba Du ở chung đại đội, căn cứ được máy bay thả dù tiếp tế súng đạn, lương thực, thuốc men … nhưng bị súng ở dưới bắn lên, nên dù bay lạc ra bên ngoài nhiều, mấy năm sau đi vô rừng vẩn còn lượm được nhiều thứ, Ba Du có lúc cũng đi với tui đi săn, đặt bẩy trong đó, lượm được nhiều đồ của quân đội, có cái bị sét rỉ, cái còn tốt đem về xài …
    Nam nhớ tới cái đèn pin Ba Du cho anh làm từ mấy cục pin, anh hỏi:
    -Ở ngoài đó anh Ba Du có mấy cái đèn pin, chắc cũng lượm từ trong rừng ra phải không Điểu Sơn?
    -Đúng rồi, thứ pin đó xài cho máy truyền tin, bây giờ chế lại làm đèn đi săn ban đêm
    Hai người đàn ông S’tiêng kể chuyện cũ, có lẻ họ nhớ lại những ngày chinh chiến, hành quân trong rừng núi hiểm hóc, cheo leo, những trận đánh sinh tử vang danh như trận Tống Lê Chân, Điểu Rút có vẻ khiêm nhường ít nói về mình.
    -Uống đi Điểu Sơn, cậu Nam, hôm nay ngày tết đầu năm mới – ông ta vít cái cần trúc xuống mời
    Cả ba người nảy giờ ngồi nói chuyện, dĩa thịt gà và cá nướng còn nhiều, rượu trong chóe chắc cũng vậy, Nam không thấy Ngọc Minh đâu, đoán chắc cô trong gian bếp, không biết đang làm gì. Món thịt gà rừng thơm giòn, rất hấp dẩn, anh ăn thấy không ngán, nhìn trời thấy nắng chiều đã ngã về hướng tây, như hiểu ý anh, Điểu Rút nói:
    -Không bị trễ đâu, chừng một chút nửa về cũng kịp, có cần tui đưa cậu Nam ra tới bờ hồ
    -Tôi đi về một mình được rồi Điểu Rút, quen đường đi rồi – anh nói
    Ngọc Minh từ trong bê ra cái dĩa khế, ổi cắt thành miếng nhỏ và để lên sàn tre:
    -Cậu với chú Điều Sơn và anh Nam ăn giải rượu, chua chua ngọt ngọt dể ăn
    Rồi cô nhìn Nam cười và nói với Điểu Rút:
    -Cậu với chú Điểu Sơn uống nhiều đi để anh Nam về sớm, về tối quá lạc đường
    Thấy Ngọc Minh bênh mình lộ liễu quá, anh cười nói:
    -Chắc không bị trễ đâu Ngọc Minh, trời còn sớm, tôi về cũng còn kịp
    Vào trong bếp, cô cầm ra mấy trái mít, đu đủ và ổi bỏ vào cái gùi của anh, Điểu Rút hiểu ý khi thấy cô cháu của mình không chịu vào nhà trong, mà vẩn còn đứng vách ngăn nhìn ra nên nói:
    -Mình uống lần nửa cho cạn chóe rồi đưa chú Nam về
    Nam hiểu ý nên mỉm cười, nhìn Ngọc Minh với vẻ cám ơn, anh ăn mấy miếng khế và ổi của cô vừa đem ra, vị chua ngọt của trái chín cây trộn lẩn vào nhau thấy lạ miệng, anh chào hai người đàn ông S’tiêng rồi mang gùi lên vai, bước xuống thang, Ngọc Minh đi theo nói:
    -Để Ngọc Minh đưa anh Nam ra đến đầu buôn
    Anh gật đầu, hai người xuống thang và ra con đường nhỏ trước nhà đi bộ chầm chậm trong ánh nắng chiều chiếu lên hàng cây trên con dốc thoai thoải trước mặt, nơi có con đường mòn đưa Nam xuyên qua cánh rừng già ra bờ hồ.
    -Anh đi về cẩn thận nghe, để Ngọc Minh xem con nước uống không?
    Nam đi chậm lại và nghiêng vai để cô nhìn chai nước trong gùi, Ngọc Minh nói nhỏ:
    -Còn phân nửa, lúc nảy anh Nam không đưa lấy thêm
    -Không sao, về buổi chiều không có nắng đỡ khát hơn
    Tới chân con dốc đầu buôn, anh dừng lại nhìn Ngọc Minh, cô mỉm cười có chút e lệ
    -Ừ, tới đây được rồi, Ngọc Minh về đi
    -Còn mấy ngày Tết nửa, anh Nam không làm gì ngoài đó vô buôn chơi nghe
    -Ừ, chắc đợi anh Ba Du mồng 5 lên rồi cùng vào luôn nhé, thôi Ngọc Minh trở vào buôn đi
    Cô gật đầu rồi quay về, Nam sợ bị kẹt lại trong rừng buổi tối nên nhanh chân đi qua hai con dốc, băng qua lòng suối nhỏ chảy trên nền đá cuội bám rêu xanh, gặp hai đứa nhỏ S’tiêng da nâu đen cháy nắng đang dò dẫm đi theo dòng nước lật những tảng đá tìm bắt những con ốc, cua lẩn trốn bên dưới, thấy Nam đi tới, tụi nó tò mò đứng nhìn, anh hỏi:
    -Bắt được nhiều không?
    Đứa lớn hơn, độ 12 – 13 tuổi, có lẻ là anh đứa kia lắc đầu, Nam ngoắc tay kêu hai anh em nó lại, cầm cái rọ tre nhìn vào bên trong thấy chỉ có vài con ốc và ba, bốn con cua bò tới lui, anh cười xoa đầu thằng em và bỏ cái gùi xuống bờ suối, lấy trái đu đủ chín ra cho:
    -Chú cho trái đu đủ đem về nhà ăn nhe, tối rồi về nhà đi
    Hai anh em nó gật đầu, cười, Nam nói vui:
    -Nhớ cám ơn cô Ngọc Minh trong buôn nhé, của cô Ngọc Minh cho chú đó
    Rồi nhớ lại đường xa, anh khoác gùi lên lưng, tay cầm rựa theo lối mòn lên con dốc vào cánh rừng, trời chiều miền rừng núi mang vẻ vắng lặng, buồn tẻ, tiếng những đàn chim ríu rít bay về tổ vang lên trong tầng lá trên cao, tiếng nai, hoẵng tác vọng ra từ trong cánh rừng sâu âm u.
    Quen đường đi nên Nam nhìn theo dấu con đường uốn lượn qua lại trên đám lá khô, thỉnh thoảng tưởng như mất dấu nó vì các bụi cây rậm rạp che lấp, anh vung rựa phạt bớt các cành cây để nhìn rỏ hơn, và tiếp tục đi cho đến khi thấy bờ hồ thấp thoáng ngoài xa.
    Hít thở một hơi dài khoan khoái, Nam cố gắng rút ngắn quảng đường còn lại qua trảng cỏ, đến chỗ bụi cây quen thuộc, anh lấy sức đẩy chiếc xuồng xuống nước, nhanh chóng nhảy lên bơi về nhà, đến lúc này, anh mới thấy cơn khát đang làm khô cổ họng và hun nóng cả người, lấy cái chai dốc hết nước vào khoang miệng và để dòng nước mát mẻ chạy khắp châu thân.


    (còn tiếp)

  6. #6
    Vũ Phan's Avatar
    Status : Vũ Phan v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2016
    Nguyên quán: Saigon
    Posts: 81
    Thanks: 7
    Thanked 2 Times in 1 Post

    Default

    RỪNG GIÀ NỔI SÓNG VÀ ĐÊM ĐEN TRINH SÁT CON ĐẬP

    Sáng nay thức dậy trong người khoan khoái và hưng phấn, Nam mỉm cười và suy nghĩ trong đầu, không biết là do chóe rượu cần của Điểu Rút ủ với các loại cây, lá thuốc bí truyền trong rừng, hay do buổi gặp gở thú vị với Ngọc Minh ở vườn cây trong buôn, anh nghĩ có lẻ do cả hai thứ.
    Nhớ hôm qua về đến nhà thì trời đã tối, chỉ kịp buộc chiếc xuồng vào bụi cây bên bờ hồ, rồi về nhà nấu bửa tối ăn qua loa, sau đó mệt mỏi vì chuyến đi rừng nên anh đi ngủ sớm, chưa qua xem nhà Ba Du và con Ki ra sao.
    Hôm nay là mùng hai Tết, cũng chỉ có một mình anh đón xuân với ngôi nhà giữa núi rừng và hồ nước mênh mông. Nam muốn thay đổi qua món nào khác ngoài mấy con cá, sẵn ở nhà có bầy gà, nên để cho đúng hương vị ngày tết một chút, anh ra phía sau nhà bắt một con cắt cổ rồi để đó.
    Anh gọi con Đốm và dẩn nó đi qua nhà Ba Du, vừa mới đến cái hàng rào thấp trước sân, con Ki chạy ra vẩy đuôi mừng rở và sủa lớn, rồi hai con chạy nhảy vờn nhau với khắp nơi. Nam bước đến trước căn nhà và đầy cửa vào bên trong, đồ đạc vẩn ngăn nắp như cũ, anh quay ra phía sau vườn, bầy gà đang thư thả bới đất kiếm ăn bên các giồng khoai lang, khoai mì xanh mướt ngoài rẩy.
    Nam bước sâu vào lối đi nhỏ giữa những cây chuối, mùa nắng đến làm các tàu lá bắt đầu khô héo, nhiều cây nghiêng ngã vì sức nặng của những buồng trái to, Ba Du phải dùng hai thanh tre chống lên cho nó khỏi đổ xuống, vài buồng đã có màu vàng, chắc ba, bốn ngày nửa là chín, anh đi luồn qua những tàu lá héo khô đến chỗ những cây đu đủ, hái một quả to vỏ lốm đốm vàng mang về trưa nay làm món canh.
    Nhìn mấy cây mít và ổi xum xuê màu xanh nằm ở cuối vườn gần bên bụi tre cao vút, Nam nhớ lại hôm qua mùng một Tết, ở trong buôn đi hái ổi, khế trong vườn nhà Ngọc Minh, những giây phút đó thật thơ mộng và đẹp, làm Nam vẩn nhớ đến tận hôm nay. Anh thích Ngọc Minh vì những đức tính giản dị, chân tình và thêm đôi chút hài hước, không biết có phải do duyên may đã đưa anh đến đây và gặp gở Ngọc Minh, chứ như tự nhiên thì có lẻ Nam và cô khó bao giờ gặp được nhau, vì hai người ở hai nơi quá xa nhau, nên điều này cũng thật là lạ lùng.
    Khi biết Ngọc Minh có cuộc sống không may mắn, vì cha mẹ cô đều mất sớm, lủi thủi chỉ có một mình và sống nhờ ở nhà người cậu, làm Nam thêm cảm động. Cuộc chiến tuy đã qua nhiều năm, nhưng hậu quả khốc liệt của nó và cái nghèo đói đi theo sau khi hòa bình lặp lại, đang tàn nhẫn dập tắt mơ ước của bao trái tim trẻ trung.
    Nam tuy còn trẻ nên không có nhiều kinh nghiệm, nhưng cũng đủ am hiểu về việc cai trị của nhà cầm quyền mới sau năm 75, nên trong đầu anh đã nhìn thấy viển cảnh tối tăm, đói khổ sẽ còn tiếp tục kéo dài ở đất nước này…
    Đóng cửa nhà Ba Du lại cẩn thận, anh cầm trái đu đủ và dẩn hai con chó đi về nhà, cả hai đang chạy tung tăng, đánh hơi sục sạo trong các bụi rậm, có lúc mò trúng chỗ những con chim đang trú ẩn làm cả đàn hốt hoảng bay ra, hai con đuổi theo một đoạn xa rồi ngẩn ngơ nhìn đàn chim bay về phía cánh rừng cao su ở tận bên trong.
    Về làm thịt con gà xong, nhớ lại trong cái bình còn lại khoảng nửa lít rượu hôm trước anh mua lai rai với Ba Du, nhưng chợt nhớ lại là anh chưa ngồi uống rượu một mình bao giờ.
    Ở Saigon mà vào quán nhậu, nếu Nam không đi với thằng bạn này, thì cũng phải có thằng bạn kia, với anh có người để uống hình như quan trọng hơn hàng quán và rượu ngon hay dở, ngồi uống một mình làm Nam thấy lẻ loi và cô độc. Nhưng hàng xóm gần đây nhất là Hai Tuất ở bên kia hồ, thêm nửa mấy ngày Tết người có gia đình hay bận bịu với bà con, hàng xóm, đâu còn ai.
    Anh đang ước có thằng bạn nào đó đến thăm anh vào lúc này thì thật là đúng ý, đúng lúc, nhưng nhìn quanh thì chẳng có ma nào, chỉ có rừng núi, hồ nước vây quanh.
    Nam nghĩ thôi cứ đem rượu ra rồi tới đâu hay tới đó, không có ai đối ẩm thì uống một mình cũng chả sao.
    Nhìn trời mới khoảng mười đến mười một giờ trưa, anh bê cả con gà luộc trên cái dĩa sành thô và mấy cái dĩa rau xanh, ớt … lên phản tre, trong bình chỉ còn lại khoảng nửa lít rượu đế.
    Anh ngồi ăn uống một mình, cứ thích khúc nào của con gà thì lấy tay bốc hay dao cắt thoải mái, còn rượu thì cứ từ từ mà uống, không bị ai thúc ép, kể ra đó cũng có cái sướng riêng của độc ẩm. Con Ki và con Đốm thì bình thản nằm chờ, Nam xử công bằng với cả hai, cho con này một miếng, thì con kia được một cục, nên hai con không phải tranh giành nhau, con Ki nhà Ba Du thì ngoan hơn, nó ăn chậm rải, từ tốn.
    Uống một mình không phải lắng nghe hay nói chuyện với ai, cứ uống một ly rồi nhìn trời đất mông lung, hồ nước rồi rừng núi vây quanh, cơn say thường cũng đến nhanh.
    Nam ngồi hồi tưởng lại những kỹ niệm cũ, bạn bè, người bạn gái mà anh đã từng yêu, rồi chia tay, những người bạn thân theo những con tầu vượt biển ra đi … Mỗi khi uống rượu với hai thằng bạn thân, Huy hay Ý cao hứng lại đọc vài câu thơ, hay nói về những bài hát mà tụi nó yêu thích, Ý có hàng đống thơ trong bụng, dân Huế nên tâm hồn lãng mạn như sông Hương của đất thần kinh, nó hay nói với Nam và Huy đó là con là sông đẹp nhất miền trung, văn nhân thi sĩ ai cũng say mê, còn Huy lúc đã say la đà thì thích có người hát cho nghe những bài tiền chiến thật xưa.
    Nhớ đến cái buôn nhỏ trong rừng, Nam nghĩ nếu Ngọc Minh có mặt ở đây thì chắc cũng vui, cô không biết uống rượu nhưng ngồi nói những câu chuyện mới, cũ thì cũng rất thú vị trong mấy ngày Tết.
    Hồ nước mùa này phẳng lặng ngã màu xanh lơ, trong không khí oi bức mùa khô, Nam bổng thèm được nhào xuống hồ vùng vẫy tắm cho thỏa thích, có lẻ rượu vào nên làm cho con người cởi mở, hăng hái. Anh tự nhủ chiều nay ngủ dậy, lấy cần ra hồ câu vài tiếng, xong rồi nhảy xuống tắm một trận. Ngày Tết mà xuống tắm hồ nghe có vẻ lạ lùng khôi hài hay giống một chàng lãng tử, nhưng ở nơi hoang vắng này thì chả có gì để làm hay đi rong, tiêu khiển như ở Saigon.
    Còn chương trình mùng ba Tết, anh lại vào buôn thăm Ngọc Minh, vào đó có người quen nói chuyện còn hơn ở ngoài này lủi thủi đi ra, đi vô một mình.
    Đầu óc anh lại quay về với hai thùng đồ cổ, Nam thấy câu chuyện còn mông lung quá, mọi thứ anh biết cho đến lúc này là nó được chôn giấu trong vùng hồ của khu đồn điền cao su cũ, còn địa điểm thì sau mấy ngày vừa rồi lặn xuống dưới đáy hồ gần khu rừng chồi, Nam chưa tìm ra một dấu hiệu nào, chưa kể đến bom đạn rơi xuống khắp nơi trong chiến tranh, không biết là những món đồ sứ mỏng manh đó có còn nguyên vẹn không.
    Có một điều Nam chắc chắn là nếu hết mùa nắng này anh không tìm ra hai cái thùng đó, thì sẽ phải quay về Saigon và trở lại với nghề đi buôn cũ, chứ không thể ở lại đây.
    Thêm vào đó từ ngày gặp Ba Du, nhiều lần Nam hay tự hỏi là có nên tiết lộ điều anh biết về bí mật này cho Ba Du không, anh lo sợ là tin đó có bị lộ ra bên ngòai hoặc Ba Du sẽ không tin anh. Nhưng sau lần qua nhà Hai Tuất uống rượu, Ba Du cũng đã được nghe kể về các món đồ sành sứ cổ quí giá của ông chủ đồn điên Tây, nếu được nghe anh kể thêm câu chuyện từ người quản gia cũ, một người từng trải như Ba Du chắc sẽ tin là có bí mật của hai cái thùng này.
    Thật là khó khi quay lưng bỏ đi trước những món đồ quí giá như vậy, nó sẽ nằm im tại đó vĩnh viển hay vào một ngày nào đó có người may mắn sẽ tìm thấy nó, vì vậy Nam thấy không đành bỏ cuộc.
    Nam uống cạn ly rượu, thấy đầu óc đã hơi chếch choáng, trong bình chỉ còn lại ít rượu, cơn buồn ngủ bị men rượu lôi kéo đang chập chờn bay đến, anh dọn mấy cái dĩa lên kệ bếp, khép cánh cửa nhà rồi lên tấm phản tre ngả lưng đánh một giấc ngon lành.
    Bên ngoài những tia nắng mùa xuân trải ra trên cây cỏ, hai con chó ra nằm dài trước hiên nhà, đôi mắt lim dim nhìn xuống con đường ra bờ hồ. Những con cò trắng nhỏ nhắn, thơ thẩn vỗ cánh bay dọc bờ nước trong ngày đầu xuân, một ngày lặn lội kiếm ăn của tụi nó chỉ kết thúc khi trời đã về chiều.
    Tỉnh táo dậy sau giấc ngủ trưa, vốc nước lạnh lên rửa mặt để xua đi cơn say ban trưa còn lởn vởn trong đầu, anh xách cái gùi ra chỗ vũng cạn kiếm cá con về làm mồi câu, mực nước hồ bắt đã giảm xuống từ từ qua hai tháng mùa khô, nên vũng nước cũng đã nông hơn, bọn cá nhỏ vì vậy cũng ít tìm vào để trú ẩn, sau gần chục lần xúc tìm trong đám lá sen và rong, Nam chỉ tóm được năm con cá rô nhỏ, vậy cũng đủ số mồi cho chiều nay.
    Bỏ cần câu và lon mồi vào xuồng, anh bơi ra giữa hồ, hai con chó chạy ra ngóng theo, anh móc con cá nhỏ vào lưỡi câu và thả nhẹ xuống nước, thong thả lấy trái ổi từ cái túi áo nhà binh ra rửa qua loa dưới hồ và dùng con dao cắt một miếng ăn thử, anh cắn phần ruột mầu hồng nhạt, thấy có vị vừa ngọt, vừa chua, khá ngon.
    Đôi mắt theo dõi cái phao trôi qua lại trên mặt nước, còn tâm trí của Nam thì đang thơ thẩn lang thang khắp nơi, lúc thì hình dung ra mẹ anh, bà chị và hai đứa em ăn Tết trong căn nhà nhỏ ở Saigon, lúc lại nhớ Ngọc Minh trong buôn, không biết giờ này cô đang làm gì, còn mấy thằng bạn ở Saigon có tụ họp nhậu nhẹt lai rai mấy ngày Tết không, nhìn khung cảnh hồ nước hoang vu rồi thở dài …
    Buổi chiều mùng hai Tết ở nơi đồi núi xa xôi này buồn kinh khủng, Nam đi câu cũng là để giết thời gian, chứ trong cái thùng sau nhà cũng còn vài con cá trong đó đủ ăn vài ngày.
    Nhìn về phía xa trên mặt hồ gần nhà Ba Du về thượng lưu, anh thấy có chiếc xuồng đang bơi xuống và từ từ hiện rỏ dần, hai con chó bắt đầu sủa, lát sau Nam nhìn ra đó là mấy tay du kích và công an xã đi tuần tra mấy ngày Tết, không biết chiếc xuồng đi ngang qua lúc nào mà anh không nghe hai con Ki và Đốm sủa như mọi khi, hay vì ngủ quá say nên chẳng hay biết gì. Khi đến gần, không thấy có mặt Tư Có trên xuồng, mấy tay du kích bơi ngang qua nhìn anh rồi xa dần và mất hút về phía con đập ở hạ lưu.
    Chiều nay cá không chịu cắn câu, Nam lấy cái chèo bơi qua khúc hồ phía trên, chỗ đất rẩy của Ba Du giáp với rừng thưa và núi đá nhìn ra, nhìn cái phao trôi chầm chậm theo hướng gió thổi. Nam ngồi chờ một lúc sau cá bắt đầu cắn câu, cái phao bị giật giật vài cái và bị lôi xuống, anh kéo mạnh cái cần và nhấc con cá trê bỏ vào xuồng, chiều nay mấy con cá lăng đi đâu mất hết rồi, mấy con cá chép cũng về trời ăn Tết hay sao đó, Nam tự hỏi rồi cười một mình, móc lại mồi khác và thả câu tiếp tục thôi, nghề này phải kiên nhẫn. Chừng năm, mười phút sau, thêm một con cá mè đen trũi dính câu. Nhìn trời chiều bắt đầu chạng vạng, Nam quyết định móc mồi lần cuối rồi về nghỉ, cột xuồng lại và xuống hồ tắm.
    Ngày mai mùng ba, lội bộ vào thăm Ngọc Minh và đi một vòng buôn cho hết ngày, chiều lại đi về.
    Con Ki và Đốm lúc nảy ra tận bờ hồ ngóng mỏm sủa tụi du kích, bây giờ không thấy đâu, con Ki thì không biết có nhớ ông chủ nó đã về ăn Tết ở Saigon.
    Cái phao lại bị kéo chìm sâu xuống, anh nhanh tay giật mạnh cái cần lên, một con cá trạch với thân mình trơn bóng và những đốm tròn đen, loài này thường sống trong các dòng suối, con này ra sống vùng nước sâu lâu rồi nên kích thước của nó to dài.
    Nam bỏ nó chung với hai con cá nằm dưới cái lưới trong khoang sấp nước và bơi vào bờ, cởi bỏ cái áo nhà binh cũ, anh nhảy xuống làn nước trong xanh, hai con chó nghe có tiếng động ngoài hồ liền chạy ra khỏi đám cây gần khu rừng chồi, anh gọi lớn tiếng:
    -Đốm, Ki lại đây!
    Hai con thấy Nam đang bơi cách xa bờ nên chỉ đứng nhìn theo, thỉnh thoảng lại sủa, anh muốn đùa giỡn và thử xem hai con chó, có con nào dám lội xuống nước không, nên vào gần bờ lấy tay ngoắc và chờ tụi nó nhảy xuống hồ, sau một hồi lưỡng lự, con Ki tỏ ra dạn dĩ, nó phóng thẳng xuống nước và bơi đến gần Nam, con Đốm chỉ còn lại một mình trên bờ, nó lăng quăng chạy tới lui, đưa mủi xuống ngửi ngửi mặt nước rồi lại chạy ra xa, cuối cùng đành ngồi yên một góc nhìn Nam và con Ki vẩy vùng trong làn nước mát lạnh.
    Sau khi ăn tối xong, Nam lại đốt đống lửa to trước sân rồi ra ngồi hút thuốc trên khúc gổ nhìn lửa cháy bập bùng, trời đêm tối mênh mông chỉ có tiếng côn trùng như một dàn đồng ca đang kêu rên rỉ khắp nơi, thỉnh thoảng tiếng những con chim ăn đêm kêu dáo dác ngoài hồ hay trong rừng chồi vang lên vài ba giây ngắn ngủi rồi mọi thứ im lặng trở lại như cũ. Chiều đêm mùng hai Tết tối thui, Nam cứ ngồi hút thuốc lá bên ánh sáng đống lửa, nhìn mông lung lên trời và màn đêm tối đen xa xa xung quanh, cho đến lúc thấy buồn ngủ, anh đứng lên nhè nhẹ vươn vai và đóng cửa đi vào nhà.
    Buổi sáng sớm, trên mặt hồ tỏa ra làn sương mỏng và cảnh vật lặng yên như tờ, sau khi thức dậy điểm tâm với vài trái chuối và mít chín mang về từ buôn thượng, Nam ra nơi cột chiếc xuồng, bỏ cái gùi có chai nước, cây rựa bên trong vào khoang và ngồi lên xuồng, rồi bắt đầu bơi về phía trên thượng lưu hồ.
    Hôm nay mùng ba Tết rồi, Nam thấy không cần phải gấp gáp lắm vì đã đi vào buôn vài lần rồi, nên đã quen với con đường mòn chạy xuyên qua rừng. Đến chỗ đám cây rậm ven bờ, Nam kéo chiếc xuồng giấu vào trong đó và chậm rải đi theo lối mòn, cái gùi hôm nay nhẹ tênh vì chỉ có chai nước, hai ba trái chuối và cây rựa.
    Khu rừng bây giờ dần trở nên quen thuộc với anh, đến con suối lớn đầu tiên, Nam định nghỉ chân ở đó, ngồi hút thuốc khoảng mươi phút, rồi sau đó băng ngang con suối đi tiếp.
    Vừa đi vào bên trong cánh rừng khoảng cây số, bổng nhiên sự yên tĩnh lâu nay của khu rừng bị phá vở bởi tiếng âm thanh ầm ầm quen thuộc của mấy chiếc xe máy cày hay chạy trong nông trường. Nam cố gắng lắng nghe, hình như tiếng ồn ào đó phát ra từ phía trong cánh rừng, xa về bên phải của con đường mòn, anh đi chậm lại và chăm chú nhìn triền dốc trước mặt, nhưng nó bị che khuất bởi những thân cây cao xen lẩn với các bụi rậm ở bên dưới nên không thấy được phía đó.
    Bị sự tò mò thúc đẩy, Nam rời con đường mòn và đi cắt ngang qua khu rừng vào sâu bên trong, anh nhẹ nhàng lách mình qua các nhánh cây, dây leo đeo bám rậm rạp từ gốc đến ngọn, tiếng máy nổ giòn tan mỗi lúc càng lớn. Anh đến núp sau một thân cây to, cố nhìn xuyên qua khe lá, thấy có hai người đàn ông lạ, một tay mặc áo xanh bộ đội và tay kia mặc đồ rằn ri đang đứng nhìn chiếc xe máy cày kéo hai lóng gổ to ra phía ngòai, gần bên chỗ họ đứng, có cả cưa máy và súng M-16 để dựa vào một gốc cây cụt, có thể cái cây này đã bị họ đã hạ xuống ngày hôm trước.
    Nhìn cách ăn mặc, Nam không biết họ là người của lâm trường hay là mấy tay lâm tặc chuyên đốn gổ lậu, nhưng nghe ba người đàn ông này nói chuyện, anh đoán họ lợi dụng mấy ngày Tết, bên kiểm lâm lơ là canh gác hoặc hai bên đã móc ngoặc với nhau, họ vào chặt hạ gổ quí trong rừng để buôn lậu, mấy tay "phá sơn lâm" này cũng rất nguy hiểm, họ có thể tấn công nếu ai đó xuất hiện trong khu vực họ đang trộm gổ.
    Nam thắc mắc là sao họ có thể kiếm được xe máy cày của nông trường để đưa vào tận đây để kéo gổ ra đường, thường thì lâm tặc hay dùng trâu để tránh gây ồn ào khi làm công việc bất hợp pháp và nặng nhọc này.
    Thấy việc này không liên quan gì đến mình, nên Nam cẩn thận cúi thấp người đi trở ra lối mòn để tiếp tục vào buôn, khi gần đến chỗ cũ, nghĩ là đã đi xa khỏi nơi ba người đàn ông lạ, Nam đứng thẳng người và bước nhanh ra ngoài. Vội vàng không để ý, nên anh bị vấp chân vào một nhánh rể cây trồi lên trong đám cỏ và té ngã, đúng lúc đó có tiếng bước chân đi nhanh về chỗ anh, hoảng hốt Nam trườn người núp sau một thân cây to phủ đầy dây leo, và im lặng nghe ngóng. Tiếng chân người đàn ông đến gần nơi anh đang ngồi dựa lưng trong hốc cây rồi dừng lại, Nam âm thầm nhìn qua khe lá, ông ta mặc áo bộ đội màu vàng ngà, khuôn mặt gân guốc, mang đôi dép râu, tay cầm cây rựa bản to, có vẻ ông ta đang tìm lối đi đến chỗ chiếc xe máy cày đang gầm rú, nhưng lại bị lạc đường. Nhìn kỹ khuôn mặt ông ta, Nam nhớ lại có một lần nhìn thấy ông ta đi với Tư Có và mấy tay du kích ngang qua nhà, bất thình lình ông ta vung rựa phạt mạnh nhiều nhát vào bụi cây rậm Nam đang ẩn nấp để lấy lối đi qua, lưỡi rựa bén ngót xẹt qua hạ gục mấy nhánh cây bên ngoài, anh hết hồn thu thân mình sát vào trong cái hốc giữa các nhánh rể to và nín thở chờ cho ông ta đi xa.
    Khoảng năm phút sau, đoán chắc là đã an toàn, Nam nhổm dậy từ từ đi ra, bổng cái tay ở gần hốc cây bên trong chạm vào một vật cứng bằng kim loại, tò mò anh lôi nó ra ngoài sáng và thấy rỏ đó là phần còn lại của một cây súng M-16, bị mưa gió nhiều năm làm rỉ sét và phá hủy gần hết, chỉ còn lại nòng dài và phần thép với cái bá súng bằng nhựa đen bị gãy đôi, nhìn xung quanh không thấy có động tỉnh nào, anh quyết định chui lại vào bụi cây và tìm xem có còn lại thứ gì khác không. Nam đưa tay gạt lớp lá mục phủ bên trên, nhớ tới trong gùi có con dao, Nam dùng nó xới lớp đất đen, lộ ra đầu tiên là cái xương sọ chỉ còn một nửa, những đốt xương sống và những xương lớn khác nằm lẩn lộn bên những viên đạn đồng bị sét rỉ dính chặt vào nhau thành một khối tựa như cục đất to. Anh dùng con dao đào bới thêm một hồi lâu, tìm thêm được một mảnh kim loại có hàng chữ vẩn còn đọc được, đó là tấm thẻ bài, anh lấy chai nước rửa cho trôi bớt đất, và đọc lờ mờ tên người lính là Mai Trí Long, có thêm một hàng số nằm ở bên dưới và loại máu O.
    Nam cẩn thận để mọi thứ vào chỗ cũ, cố gắng ghi nhớ trong đầu vị trí cái cây cao và khung cảnh quanh nó, anh lấy cái thẻ bài bỏ vào túi quần sau để khỏi bị rơi mất khi đi đường, rồi đưa mắt quan sát xung quanh lần nửa và đi ra lối mòn tiếp tục đi vào buôn.
    Hình như mấy tay đàn ông lạ đó đã xong công việc kéo gổ, nên không còn nghe tiếng xe máy cày gầm rú nửa, tuy nhiên Nam vẩn thận trọng đi nhẹ nhàng qua khu rừng già, nhìn lên cao thấy ánh mặt trời chiếu lấp lánh qua khe lá, đến trảng cỏ lớn anh không nghỉ chân như mọi khi vì muốn tránh đụng độ mấy tay đốn gổ kia, nên nhanh chân đi thẳng.
    Vừa băng nhanh qua lối mòn lên con dốc, anh suy nghĩ chuyện vừa tìm được xương cốt và tấm thẻ bài của người lính chết bên gốc cây, có lẻ nên đợi khi gặp lại nhau vào mùng năm sẽ nói cho Ba Du biết chuyện này, tuy không còn quan trọng lắm vì người chết đã lâu, có thể trước cả năm 75 vì xương cốt, vũ khí gần như mục nát gần hết, nhưng để xem Ba Du có ý kiến gì không.
    Nam thấy lòng mình chùng xuống, không biết người lính đó bao nhiêu tuổi, vì sao anh ở đó, anh đoán chắc bị thương, rồi đi lạc đơn vị nên vĩnh viển nằm lại bên dưới gốc cây. Khi Ba Du quay lên đây sau Tết, anh muốn cả hai quay trở lại chỗ đó, và đắp một nấm mộ cho người lính bạc phước, dù sao anh cũng xứng đáng được chôn cất đàng hoàng, tử tế.
    Mùng ba Tết mà gặp mấy tay đốn gổ lậu trong rừng và người lính VNCH chết bên đường rừng làm anh không thấy vui và hưng phấn như buổi sáng lúc bắt đầu ra đi, Nam cố xua đuổi những hình ảnh buồn bả đang chập chờn đó ra khỏi đầu và nghĩ đến Ngọc Minh với nụ cười dễ mến.
    Đi qua hai con suối và thêm cái dốc nửa, đã thấy buôn thượng từ phía xa xa, anh cảm thấy nhẹ nhỏm, sải chân bước trên con đường ngang qua ruộng lúa và rẩy khoai, bắp … trải dài hai bên.
    Nam đi thẳng đến nhà Ngọc Minh, gặp một người phụ nữ S’tiêng mặc váy đang xuống thang, vẻ mặt hiền lành, anh đứng chờ bà ta bước xuống, gật đầu chào và hỏi:
    -Cậu Điều Rút và Ngọc Minh có nhà không dì?
    -Cậu Nam ở ngoài rẩy Ba Du phải không, Ngọc Minh đang ở nhà, đang ở trong kia … – giọng nói của bà ta không được sỏi và lấy tay chỉ về hướng căn nhà cũ
    Nam gật đầu trả lời:
    -Dạ, tôi biết chỗ rồi, cám ơn
    Nhưng bà ta tỏ quá mến khách và chân tình nên vẩn đi trước dẩn đường cho anh, Nam đoán bà ta là vợ của Điểu Rút, đến gàn căn nhà, đứng dưới chân cầu thang bà ta gọi lớn:
    -Ngọc Minh ơi, có cậu Nam vô tìm con nè
    Không thấy có tiếng trả lời, Nam đi ra phía vườn cây và nhìn qua các khe lá xem cô có ở đó không, anh nói với bà ta:
    -Cám ơn dì, để tôi tìm Ngọc Minh một mình được rồi
    -Cậu ra suối đi, Ngọc Minh cũng hay ra ngồi chơi ngoài đó – và chỉ đường cho Nam, xong bà ta đi về
    Anh theo lối đi bên vườn cây, vừa đi vừa nghe ngóng tiếng động phía bên trong, chỉ có tiếng kêu chít chít êm tai của mấy con chim sâu nhỏ nhắn đang chuyền cành bắt mồi, ra đến gần bờ suối, Nam đi nhẹ nhàng để nhìn xem Ngọc Minh ra đây làm gì một mình và cũng muốn làm cho cô bị bất ngờ. Đến nơi anh đứng sau bụi cây có những cái lá to xanh mướt, nhìn thấy Ngọc Minh hôm nay mặc váy truyền thống có nhiều hoa văn và màu sắc như một cô gái S’tiêng, nhưng đẹp và duyên dáng hơn .
    Cô đang đi dọc bờ suối, đến những vũng nước bị đọng lại thò tay xuống tìm bắt mấy con cá, cua nhỏ trú ẩn dưới mấy tảng đá, nhìn cô một mình lẻ loi trong dòng con suối nước trong veo thật hồn nhiên thanh thản, Nam bước ra khỏi bụi cây và gọi:
    -Ngọc Minh làm gì một mình đó?
    Cô hơi giật mình ngửng đầu lên, mặt ửng đỏ nhìn anh cười:
    -Anh Nam mời vô hả, làm Ngọc Minh giật mình …
    Anh hỏi về người phụ nữ vừa rồi để xem có phải là vợ của Điểu Rút không:
    -Ừ, vừa rồi có một bà người S’tiêng từ trong nhà dẩn tôi ra đây, bà đó là ai vậy Ngọc Minh?
    -Bà mợ Tranh của Ngọc Minh, vợ của cậu Điểu Rút đó … Ngọc Minh đang lội bắt mấy con cá nhỏ, anh Nam có xuống coi không?
    -Ừ có, xuống coi bắt cá chứ, mấy con cá này ăn được không?
    -Nó nhỏ lắm, chỉ bằng ngón tay thôi, phải bắt được nhiều về nấu canh mới đủ
    Nam xăng ống quần lên và lội đến gần chỗ cô đang thò tay chỉ cho anh, dưới cục đá có một con cá có lốm đốm nâu vàng trên lưng, Ngọc Minh vừa đưa tay đến gần định tóm nó, vụt một phát như viên đạn nhỏ, nó chạy trốn qua khe đá bên kia, cô lại lần mò tìm nó và vừa đưa tay đến gần là con cá nhỏ lại phóng qua ẩn náo dưới hòn đá khác, mỗi lần như vậy, cô ngẩng lên nhìn anh cười và có vẻ thích thú với trò chơi này. Nam cũng thử làm như Ngọc Minh, nhưng lần nào cũng hụt, vì con cá phóng vụt đi, cuối cùng nó lách mình qua khe hẹp giữa hai hòn đá và bơi đi mất.
    Anh và Ngọc Minh đi dọc theo lòng suối, mực nước mùa này chỉ cao hơn mắt cá chân đôi chút, có nơi con suối bị dòng nước lũ mùa mưa xoáy thành vũng lớn sâu đến đầu gối, cô theo Nam lội xuống nhằm chỗ sâu, bị hụt chân nên đứng không vững, anh đưa tay ra cho Ngọc Minh vịn và cười, mặt cô bổng đỏ ửng lên.
    Lúc sau Ngọc Minh đến ngồi nghỉ bên một hòn đá phẳng dưới bóng mát bụi tre, Nam cũng bước lên bờ và qua ngồi lên hòn đá ở gần bên, lúc này anh cảm thấy lưng bên phải bị ngứa ngáy như bị một con bọ nào đó chui vào cắn, Nam đưa tay trái ra gãi bên ngoài cái áo kaki và tỏ vẻ khó chịu vì nó, anh nghĩ là vì trời nóng nên mồ hôi đổ ra dính bụi đất làm ngứa rát, Ngọc Minh thấy anh cứ loay hoay với chỗ cái lưng đó, cô nắm vai Nam và nói:
    -Anh Nam xoay lại cho Ngọc Minh coi chỗ đó cho
    Anh xoay người lại và kéo cái vạt áo bên đó lên cho cô xem, hai mắt mở lớn với vẻ kinh ngạc:
    -Một con vắt, để Ngọc Minh bắt nó ra cho
    Nam hơi ghê người khi nghe cô la lớn, anh cúi khom xuống và gồng cứng một bên lưng, Ngọc Minh lấy một lá cỏ dài và sắc kéo sát da để con vắt rơi khỏi chỗ nó đang bám, bây giờ nó phồng lên thành một cục tròn rớt xuống hòn đá và lăn xuống suối.
    Anh nhớ lại lúc nằm ẩn mình khá lâu trong hốc cây ẩm ướt, nên con vắt mới có cơ hội bám vào lưng để hút máu, Nam nghe cô cười nho nhỏ và nói:
    -Lấy cho Ngọc Minh chút ít thuốc lá để cầm máu
    Anh lấy bao thuốc lá đưa cho cô, Ngọc Minh bẻ một mẫu nhỏ vò cho sợi thuốc mềm ra và rịt nó vào nơi có dấu cắn của con vắt đang còn rỉ máu.
    -Trả lại thuốc lá cho anh Nam đây, bây giờ biết bị vắt cắn ra sao rồi đó nhe, còn sợ nửa hông – cô vừa hỏi vừa cười
    Nam cũng phì cười, anh quay ra phía sau nhìn:
    -Cám ơn Ngọc Minh, vắt cắn mùng ba chắc năm nay hên
    Anh kéo hai tay áo và ống quần lên cao để xem có còn con nào đang lẩn lút đeo bám không, Ngọc Minh ngồi xem và tự nhiên nhắc:
    -Anh Nam coi chưa kỹ, lở còn con nào ở phía trên nửa sao, cởi bỏ cái quần dài ra mới thấy
    Nam thấy bất tiện nên cười tỏ vẻ hài hước:
    -Chắc không còn đâu, da chỗ đó dầy lắm, nó không bám được đâu
    Nghe anh nói, Ngọc Minh cũng cười đỏ mặt, trời bắt đầu nóng, từ phía dưới con suối hai đứa nhỏ da đen cháy đang đi ngược dòng nước tìm bắt cua, cá trong các vũng sâu, Nam nhận ra là đã gặp hai thằng nhóc này chiều hôm mùng hai Tết trên đường về ở ngoài buôn, đi gần tới thấy Ngọc Minh, hai đứa lể phép cung tay chào:
    -Thưa cô Minh
    -Ừ, hai đứa đi bắt cá hả, đưa cô coi cái giỏ, được mấy con rồi?
    Thằng em tóc xoăn, hai mắt tròn xoe đưa cái giỏ đan bắng tre vót cho cô, nhìn vào bên trong có năm, sáu con cá nhỏ và ba con cua quýnh quáng bò ngang dọc, thằng anh cao nhòng, có lẻ nhận ra Nam, nó và thằng em cùng cười rồi nói:
    -Hôm trước con gặp chú này ngoài buôn, chú cho tụi con đu đủ đó cô Minh, nói của cô Minh cho chú
    Ngọc Minh nghe hai đứa nhỏ nói tỏ ra hơi bất ngờ nhìn anh cười:
    -À, vậy hả!
    Nam giả bộ tỉnh bơ cười hỏi:
    -Về nhà có giành nhau ăn rồi đánh lộn không, ừ mà hai đứa có cám ơn cô Minh chưa?
    Hai anh em nó mỉm cười lắc đầu, thằng em lanh lẹ nhìn Ngọc Minh:
    -Tụi con cám ơn cô Minh
    -Ừ, hai đứa phải nói cám ơn chú Nam nửa nghe, mấy trái đó là cô Minh cho chú Nam rồi
    Nghe cô nói, hai anh em nó lại cười, thằng anh cung tay nhìn Nam:
    -Con cám ơn chú Nam
    -Ừ, K’Chin, K’Lâm hôm nào ghé nhà cô Minh có mít hay ổi chín cô hái cho nghe
    Hai đứa nhỏ dạ rồi dẩn nhau đi dọc bờ suối lên phía trên, anh hỏi Ngọc Minh:
    -Tên tụi nó nghe lạ quá hả, hai đứa nhỏ cũng ở trong buôn này hả Ngọc Minh?
    -Ừ, ba má nó là người Châu Mạ, nhà nghèo lắm, tụi nó hiền, lể phép, thỉnh thoảng hai đứa qua bên nhà nhờ Ngọc Minh chỉ làm toán và đọc chính tả, một đứa học lớp 5, đứa em học lớp 4 ở làng kế bên
    Nhìn mặt trời lên cao, cô bước xuống lòng suối và nói:
    -Mình về đi anh Nam, nắng nóng quá!
    Anh và Ngọc Minh bước xuống lòng suối và đi ngược lên phía trên, Nam đi sau nhìn đôi chân trắng của cô nổi bật giữa cát, đá màu nâu trên nền suối.
    Về ngang qua vườn cây, cô rẻ vào và dừng lại gần mấy cây mận trái đeo đầy các nhánh thấp, Ngọc Minh hái một trái chín đỏ nhìn rất ngon mắt đưa cho anh:
    -Anh Nam ăn đi, mận ngọt lắm, Ngọc Minh hái nhiều nhiều để chiều anh Nam đem về nhà ăn
    Nam cắn thử thấy ngọt lịm, anh lấy cái nón để đựng, cô đi tiếp sâu vào bên trong qua hàng mít, đến chỗ những cây lêkima, vài trái chín rục rơi xuống bị thú rừng ăn phân nửa nằm lăn lóc trên mặt đất, những trái chín còn lại thì cao hơn tầm tay, anh bỏ cái nón xuống nền cỏ và nhìn lên cây, Nam cười nói:
    -Để trèo lên hái mấy trái chín gần bên dưới này
    Ngọc Minh cười nhìn anh trèo lên cái nhánh cây to và đưa tay cố gắng với tới hai trái màu vàng ngoài xa, nhích thân mình lên cao thêm một đoạn, Nam nắm cái nhánh nhỏ, vặt ngang và thả nó vào tay Ngọc Minh bên dưới, rồi chuyển qua cành kế bên hái thêm vài trái, cô nói:
    -Lêkima được nhiều rồi đó anh Nam xuống đi
    Nam tụt xuống cái nhánh to, thả người đu tòn ten và buông tay nhảy xuống đất, bỏ mấy trái lêkima và mận chín vào trong gùi, Ngọc Minh chưa chịu nghỉ, cô chỉ tay về phía vườn điều dầy đặc trái đỏ, vàng:
    -Ngọc Minh hái hột điều về nướng ăn ngon lắm – nói xong nhìn Nam cười
    Anh và Ngọc Minh đi dưới tàng cây có những chiếc lá xanh, to mát mắt, cô nhanh tay vặn những cái hột nằm trơ trọi bên ngoài được hơn một chục, chất nhựa chảy ra dính lấm lem hai bàn tay.
    Ngang qua chỗ cây mít, cô còn muốn hái thêm trái mít chín, nhưng sợ anh vừa gùi, vừa khiêng không hết nên cả hai đi luôn về nhà.
    Vừa bước lên nhà, Điều Rút thấy Ngọc Minh và Nam lỉnh kỉnh với mớ trái cây vừa hái bỏ đầy trong cái gùi, liền cười nói:
    -Ái cha, nhiều quá ăn sau hết Ngọc Minh
    -Dạ, để chiều anh Nam ăn dọc đường và đem về ngòai đó cậu
    Bà vợ Điểu Rút bên trong gian bếp cũng chạy ra:
    -Gần trưa rồi, để cậu Nam ngồi nghỉ, chút nữa ăn cơm rồi buổi chiều còn đi về, nhà cậu ấy ở xa mà
    Nam ngồi phía trước nói chuyện với Điểu Rút, còn Ngọc Minh đi vào gian trong làm bếp, nấu nướng với bà dì, Điểu Rút đưa tay nhón lấy trái mận Nam và Ngọc Minh vừa hái về ăn và khen:
    -Mấy cây mận đó lấy giống từ ngoài đồn điền đem vô đây trồng đó cậu Nam, mẹ của Ngọc Minh thích nó lắm
    -Lúc còn chiến tranh, Ngọc Minh với gia đình có hay vào trong này không cậu Điểu Rút?
    -Tui nhớ chỉ có ba, mẹ Ngọc Minh vô một, hai lần thăm gia đình, bà con trong này vì đường đi không được an ninh, lúc đó tui cũng ở trong trại, ít về buôn … lâu lâu có công việc hay được nghỉ phép, tui ra thăm ba, mẹ Ngọc Minh ngoài thị xã An Lộc
    -Xã này có nông trường cao su không cậu Điểu Rút?
    -Xã Minh Biên này phần nhiều là đất rừng, độ dốc lớn nên người Pháp không khai phá làm đồn điền cao su như bên Minh Thạnh, nghe nói sắp tới trên tỉnh lấy đất rừng ở đây mở thêm vùng trồng cao su để xuất khẩu … lúc sáng vô đây chú Nam có gặp Điểu Sơn không?
    -Dạ, sáng nay không ghé qua nhà Điểu Sơn
    -Điểu Sơn là bà con xa với tui và mẹ Ngọc Minh, có người em tên Điểu Chắc đi lính cùng đơn vị, nên thân nhau như anh em, Điểu Sơn cũng biết rành về cây cỏ dùng làm thuốc trong rừng, có khi rủ tui băng rừng suốt bốn, năm ngày lên tận Phước Long, Ban Mê Thuột tìm cây thuốc quí, Điểu Sơn đi rừng và săn bắn giỏi lắm
    -Lúc cậu chuyển qua lính biệt động quân với Ba Du rồi mới biết anh Ba và thân với nhau?
    -Ừ, tụi tui qua đó ở chung đại đội, thân với Ba Du vì tính ảnh dể mến, thân tình với anh em, lúc nghỉ phép hay rủ tui và Điểu Sơn về thăm nhà và xuống Saigon chơi mấy lần
    Ngọc Minh từ trong gian bếp chạy ra nhìn Nam cười nói:
    -Cậu với anh Nam vô ăm cơm luôn, mợ và cháu làm xong rồi
    Điểu Rút đứng dậy kêu Nam đi vào nhà trong, mấy ống cơm lam trong ống tre to bị nấu trên lửa cháy sém đen vỏ bên ngoài, thịt heo xiên nướng tỏa mùi thơm khắp gian bếp và mấy trái bắp cuối mùa nướng chín được bày ra trên sàn tre.
    Ngọc Minh lấy dao rọc vỏ ống tre, cắt cơm nếp thành từng khúc nhỏ bỏ trên dĩa, đang đói bụng, Nam ăn thử với muối ớt, nó có vị rất lạ và ngon, cảm thấy hai vợ chồng người S’tiêng chăm lo cho mình kỹ càng quá, Nam tỏ ra áy náy:
    -Để cháu tự nhiên mới ăn được nhiều hơn
    Cả Điều Rút và bà vợ với Ngọc Minh nghe anh nói đều cười, cô lém lỉnh chọc Nam:
    -Anh Nam ăn bù cho lúc sáng bị vắt cắn không thôi chiều lội rừng về không nổi
    -Ừ, không về nổi thì xin cậu Điểu Rút vào nhà trong của Ngọc Minh ngủ lại mai về - anh giả bộ cười trả lời
    -Ngủ một mình chỗ lạ anh Nam không sợ sao?
    Nam cười nhìn cô lắc đầu:
    -Ngủ say rồi đâu biết gì nửa mà sợ …
    Vợ chồng Điểu Rút ngồi ăn, nghe Nam và Ngọc Minh nói chuyện cũng cười, cô thò cây tre vào đống than còn nóng trong bếp khều ra mấy hạt điều nướng cháy đen vỏ bên ngoài:
    -Ừ, ăn xong còn hạt điều nướng nửa nè, mùa tới này mình để lại một ít rang ăn nghe cậu
    Điểu Rút nghe cô cháu nói gật đầu, hai vợ chồng ông ta có vẻ thương yêu Ngọc Minh nhiều, Nam nghĩ ngợi, ít ra cô cũng còn có niềm vui và hạnh phúc ở nhà người cậu để cuộc sống côi cút của cô trong cái buôn lẻ loi này bớt đi buồn tủi.
    Riêng hôm nay trong bụng Điểu Rút rất vui vì thấy ngày Tết mà Nam vào thăm cô cháu gái của mình, nhận thấy cách chàng trai người Việt đổi cách xưng hô gọi mình bằng cậu, nên ông hiểu tình cảm sâu đậm mà anh dành cho Ngọc Minh.
    Điểu Rút mong một ngày nào đó điều mình ước muốn trở thành sự thật, vì biết Ngọc Minh không thể sống hoài trong cái buôn hẻo lánh này, cô sẽ phí phạm cuộc đời nếu còn ở đây.
    Điểu Rút nghĩ sẽ sẵn sàng làm mọi việc để đứa con gái duy nhất của người chị ruột có cuộc sống hạnh phúc trong những năm về sau, ông cầu trời ban phước cho Ngọc Minh, còn bà Tranh vợ của ông cũng tỏ ra yêu mến chàng trai này nên chăm sóc Nam rất kỹ.
    Mọi người chiếu cố tận tình món cơm lam và thịt heo nướng xiên, ăn xong Nam thấy mấy trái lêkima chín ngon mắt quá, vì đã được ăn lêkima nhà Hai Tuất cho, thấy nó rất ngon và bùi, anh thò tay lấy lêkima vừa hái lúc sáng bẻ làm hai, đưa nửa trái cho Ngọc Minh:
    -Cho Ngọc Minh nửa trái vì là chủ vườn nè
    Trái lêkima ở trồng ở trong này dầy cơm và ngọt, Nam lấy thêm trái nửa ăn ngon lành, Ngọc Minh cười nhìn anh nói:
    -Anh Nam ăn nhiều quá coi chừng bị say đó, đầu bị quay như mấy ông uống rượu
    -Ừ, vậy hả, lêkima ăn nhiều tốt đỡ tốn cơm – anh nói đùa rồi cười
    Vừa lúc đó Điểu Sơn bước vào nhà, thấy Nam đang ngồi ăn trưa với nhà Điểu Rút, đến ngồi gần bên hỏi:
    -Có chú Nam ở ngoài rẩy, khi nào anh Ba Du lên chú Nam nhắn vô trong này chơi nghe
    -Dạ, mùng năm anh Ba lên, tui sẽ nhắn lại cho anh Điểu Sơn
    -Điều Sơn ăn cơm chưa, còn nhiều cơm và thịt heo nướng bà xã tui và Ngọc Minh nấu nướng đây
    -Tui có ăn ở nhà rồi, sáng nay bên nhà có làm thịt con gà
    Trả lời xong, Điểu Sơn lấy trái mận ăn rồi nhìn Điểu Rút nói:
    -Tui nghe mấy tay trên xã nói sắp tới huyện sẽ giao cái hồ nước cho nông trường cao su bên xã Minh Thạnh quản lý, có thể giữa năm nay …không biết có đúng không?
    Mọi người lắng nghe với vẻ chăm chú, bất ngờ nhất là Nam, Điểu Rút nhìn Điểu Sơn nói chậm rải:
    -Để gặp và nhờ Ba Du ra hỏi mấy ông trong nông trường coi có phải vậy không … hồ rộng lắm nông trường quản lý sao hết … chắc nó dính dáng chuyện trên tỉnh sắp tới cho phá rừng lấy thêm đất để trồng cao su thôi
    Nam hơi lo lắng trong đầu, nếu điều hai người đàn ông S’tiêng nói là sự thật, thì chỗ đất rẩy của anh và Ba Du có thể bị xã lấy lại, họ sẽ buộc anh và Ba Du chuyển đến một khu rừng nằm ở nơi xa tít tắp nào đó, và quan trọng nhất là phải bỏ lở việc tìm kiếm hai cái thùng đồ cổ, như vậy thì thật uổng phí công sức lâu nay. Nam bắt đầu thấy lo lắng và tiếc, qua Tết này phải tìm cách làm cho nhanh … còn nếu kéo dài thì nguy cơ bị chính quyền cho xe ủi vào phá rừng để trồng thêm cao su, và nếu chuyện họ giao cho nông trường quản lý hồ nước xảy ra thật, mọi việc coi như thất bại.
    Ngọc Minh có vẻ quan tâm và nét mặt tỏ ra lo lắng, cô lờ mờ hiểu chuyện đó sẽ ảnh hưởng đến khu đất rẩy và chỗ ở của Nam, còn rừng bị khai phá dần dần sẽ biến mất và người dân trong buôn không còn chỗ để săn bắn, đào củ … để sinh sống.

    (còn tiếp)

Trang 1/2 12 cuốicuối

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •