Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 10 trên 10

Tựa Đề: Tạp Ghi Sau 40 Năm

  1. #7
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 8

    Ngày thứ 36: 14-4-1975
    Trận chiến Long Khánh (CBU 55)

    Ngày 14-4, Chiến đoàn 52 và địa phương quân đã bị thiệt hại và mệt mỏi vì giao tranh liên tục với quân số đông đảo của Bắc quân. Tại ngã ba Dầu Giây trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, Bắc quân tung thêm nhiều sư đoàn có xe tăng yểm trợ cùng với pháo binh để chọc thủng phòng tuyến của ta tại ngã ba Dầu Giây do Chiến đoàn 52 bảo vệ. Trong trận đánh cuối cùng này các chiến sĩ ta phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp mười lần.
    (Trọng Đạt)

    Ngày thứ 37 : 15-4-1975
    Trận chiến Long Khánh (BLU 82)

    Ngày 15-4, trận chiến rất ác liệt tàn khốc ngay từ lúc mới giao tranh, Những đợt xung phong biển người của Bắc quân đã tràn ngập các vị trí chiến đấu của VNCH, địch chọc thủng phòng tuyến và chia cắt các lực lượng ta, 4 xe tăng M48 của ta bị trúng pháo kích, trời tối nên máy bay cũng không yểm trợ được. Chiến đoàn 52 gồm một trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 và các lực lượng tăng phái đã bị địch quân đánh tan đêm 15-4, chỉ có hai đại đội thoát được.

    Phòng tuyến của Chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây bị vỡ đêm 15-4-1975,
    (Trọng Đạt)

    Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo - BLU 82 & CBU 55

    Mặc Lâm: Vâng thưa Thiếu Tướng cho tới nay vẫn còn một câu hỏi đặt ra trước việc nhiều người cho là có hai trái bom CBU 55 đã thả trong trận Xuân Lộc. Nhưng cũng có người nói là chuyện này không có. Xin Thiếu Tướng cho biết vấn đề này như thế nào trong ngày 16-4-1975.

    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo: CBU 55 thì nó hút hết tất cả không khí oxygen làm người ta chết chứ còn hai trái bom mà đánh ở đó là BLU 82 đó nặng 14 ngàn pound nói theo kilogram thì nó chừng 7 tấn. Trái bom đó Hoa Kỳ họ đem qua Việt Nam họ dùng trong khi họ còn ở đây. Quả bom đó để tại Việt Nam nhưng không có ngòi nổ vì họ đã đem ngòi nổ về Mỹ.

    Và khi có phái bộ của ông Đại tướng Frederick Weyand, ông qua duyệt xét tình hình, mang hai chiếc tank M48 trên phi cơ Galaxy để làm quà viện trợ cho quân lực VNCH đồng thời chở các em mồ côi về Mỹ. Chiếc phi cơ này bị rớt ở Tân Sơn Nhất. Phái bộ này họ đem mấy cái ngòi nổ cho mấy quả bom BLU 82 qua bởi họ thấy cộng sản nó đi lẹ quá, họ cho VNCH cái đó (BLU 82) để cản bước tiến của cộng sản. Trong mặt trận Xuân Lộc của tôi được họ cho 2 trái.



    Xuân Lộc tháng Tư(…tiếp với BĐQ ở Xuân Lộc)
    Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?), pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?). Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.

    Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều ngày 20-4-1975, đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,

    – Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long Khánh rút về Bà Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.

    Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long Khánh là từ tổng thống Thiệu. Địch không vây Long Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên Hòa và thủ đô Sài Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân Lộc, về bảo vệ Sài Gòn. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng tổng thống và tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ82 BĐQ về ngã ba Tân Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh.

    Tiểu đoàn 82 Biệt động Quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi.

    Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh thì Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Đại tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt động Quân đi với đoàn quân của tiểu khu Long Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui.

    Tôi từ chối với lý do: Đại Tá có cả một Tiểu khu, Đại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Đại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy, Đại tá Hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại tá Phúc trong trại cải tạo Nam Hà A ngoài Bắc.

    Trong cuộc rút binh, Đại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân Lộc, Bà Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó.
    (Vương Mộng Long)

    (?!) Xem Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm của Trần Văn Trà ở tiết mục Ngày thứ 42: 20-4-1975 – Xuân Lộc triệt thoái.

    Ngày thứ 38 : 16-4-1975
    Trận Dầu Giây

    Trung tướng Nguyễn Văn Toàn xin lệnh bộ Tổng Tham Mưu cho ném bom Daisy Cutter, hồi đó còn gọi là bom CBU để ngăn sức tiến của Bắc quân.

    Hôm sau 16-4 vào lúc 11 giờ sáng hai trái bom khổng lồ CBU đã được thả xuống vị trí đóng quân của Bắc quân cùng với một đoàn xe dài đầy những xe tăng đại bác trên Quốc lộ 20 từ Định Quán trở xuống.
    (Trọng Đạt)



    Bên lề trận chiến
    Ngày 17-4-1975 đang kịch chiến tại khu vườn của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Thì đồng thời trong hai ngày 17 và 18-4 Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn thuận dự chi 327 triệu cho phép Tổng thống Gerald Ford được quyền sử dụng quân lực di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.

    Ngày 19-4, tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với Sư đoàn 18. Thì cũng cùng ngày 19-4, Đô đốc Noel A. Gayler, tư lệnh quân lực Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương đến Sài Gòn, trực tiếp thẩm định tình hình và lượng giá các khả năng di tản. Tại Washington, ủy ban đặc nhiệm di tản WSAG (Washington Special Assignment Group)được thiết lập do Dean Brown thuộc bộ ngoại giao cầm đầu.

    Ngày thứ 39 : 17-4-1975
    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Ngày 17-4, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 341, 6 và 7 Bắc quân tiếp tục mở các đợt tấn công vào phòng tuyến phía nam thị xã Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa Nhảy Dù và Bắc quân đã diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không Quân đã thực hiện nhiều phi tuần F5 và A37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Bắc quân trong khu vườn này.

    Góp nhặt…ghi chép…
    Ngày 17-4, ông Martin đề nghị với Kissinger trong một công điện tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức:

    Nếu Quốc Hội bỏ phiếu chống viện trợ cho VNCH thì địa vị ông Thiệu hết rồi. Vì vậy tôi sẽ thuyết phục ông Thiệu từ chức với tính cách là người bạn. Nếu ông ta không chịu, tôi sẽ đi đến một kết luận vô tư là các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm chuyện này.

    Kissinger đồng ý và cho hay: Tôi và Tổng thống Ford đã chấp thuận từ trước rồi.
    (Nguyễn Tiến Hưng)

    – : 10 giờ sáng, Đại sứ Graham Martin vào gặp Tổng thống Thiệu và cuộc gặp kéo dài trong tiếng rưỡi đồng hồ về nhận định của tòa đại sứ Hoa Kỳ đối với tình hình quân sự hiện tại.

    Xuân Lộc tháng Tư
    Ra tới QL1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính Bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long An.

    Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau. Tôi chờ khoảng mười phút thì Đại tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chọn TĐ82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ bộ Tư lệnh di chuyển. Không lâu sau đó, một chiếc jeep trờ tới, Chuẩn tướng Đảo cùng bốn quân cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.
    Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường.
    (…)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Thực ra thì bản nhận định này đã được Frank Nepp, một chuyên viên phân tích tình báo (intelligence analyst) của CIA soạn thảo. Trong cuốn Decent Interval, Frank Nepp tiết lộ rằng ông đã được Polga, giám đốc CIA tại Sài Gòn ra chỉ thị phải:

    Soạn thảo bản nhận định càng đen tối càng tốt chừng đó. Vì đại sứ Martin sẽ dùng bản nhận định này để thuyết phục ông Thiệu rằng đã đến lúc ông ta phải ra đi.
    (Frank Snepp)

    Ngày thứ 40: 18-4-1975
    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Sáng 18-4, tổng kết tình hình 3 phần 4 quân số của Trung đoàn 52 BB bị thương. Về Thiết Giáp, 9 chiến xa và M113 bị tiêu hủy, hơn một phần tư quân số bị loại ra khỏi vòng chiến đấu.

    Chiều 18-4, pháo 130 đã bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên Hòa không cho Không Quân của ta yểm trợ Xuân Lộc.
    (Trần Hiếu Đức)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Ngày 18-4, bộ tư lệnh Quân đòan III chuẩn bị di chuyển từ Biên Hòa về Gò Vấp. Trong khi đó các hoạt động phối hợp yểm trợ chiến thuật của Sư đoàn 3 KQ cũng bắt đầu suy giảm mạnh. Những kho dự trử bom đạn tại Biên Hòa, Long Bình, Gò Vấp và thành Tuy Hạ đều cạn kiệt những loại bom 500, 750, 1.000 lbs, chỉ còn loại bom nhỏ MK81 cở 250 lbs.
    Các phi đoàn máy bay của Sư đoàn 3 KQ phân tán về Tân Sơn Nhất và Cần Thơ.
    (Trần Hiếu Đức)

    Long Khánh triệt thoái

    Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.

    Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng với tình hình mà Thiếu tướng vừa diễn tả khiến ông phải rút quân ồ ạt vào ngày 20-4. Có những chi tiết gì quan trọng trong cuộc rút quân thưa Thiếu tướng?

    Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Mặt trận Xuân Lộc nó ác liệt đẫm máu ngay vào ngày đầu tiên 8-4-1975 và kéo dài cho tới ngày Sư đoàn 18 rút ra khỏi trận địa vào ngày 21-4. Tình hình bắt đầu thay đổi khi ngày 16-3 thì mặt trận Phan Rang bắt đầu bể, một quân đoàn gọi là Quân đoàn 2 Hương Giang của họ đi ở Quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Họ đi vô Bình Tuy ngang Xuyên Mộc về Bà Rịa để tấn công Biên Hòa, vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ đi ngõ đó. Đồng thời Trần Văn Trà thay đổi kế hoạch đánh phá rất mạnh vào phi trường Biên Hòa vì họ biết phi trường còn thì sẽ yễm trợ cho chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi có chừng 50 phi xuất của Biên Hòa yễm trợ cho chúng tôi, anh em đó đánh rất là ngoạn mục, đánh rất hay, rót bom lên địch thành ra họ bị thiệt hại rất nhiều vì phi pháo của chúng tôi.

    Chiến đoàn 52 của tôi ở tại ngã ba Dầu Giây họ đánh nhiều ngày hết đạn dược rồi nên phải xuyên rừng đi thẳng vào rừng, đi xuyên rừng Bình Sơn để về Biên Hòa. Trước sự uy hiếp trên quân đoàn sợ rằng mặt trận của tôi nằm ở phía trên mà nó đã lọt được vào bên dưới do Quân đoàn Hương Giang đi từ bên kia nó vòng ngõ tắt về Biên Hòa cho nên ông Trung tướng Toàn ra lệnh phải thay đổi chiến thuật, xin tổng thống Thiệu và tổng thống chấp nhận là đưa Sư đoàn 18 về giữ Trảng Bom, giữ Quốc lộ 1 về Biên Hòa. Mặt trận này hồi nào đến giờ do Chuẩn tướng Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Thiết Giáp, đem chiến đoàn lên giữ mặt trận đó mà không lên tiếp cứu được cho Sư đoàn 18 vì tụi nó chận ông và ông phải cầm cự ở đó. Thật ra thì ông Toàn cũng muốn giữ lực lượng này để bảo vệ cho Quân đoàn III nếu cái đoạn này mà Lữ đoàn 3 dính vào mà nó đánh vô thì ông không có đường mà đỡ, ông ra lệnh cho tôi rút càng sớm càng tốt.

    Góp nhặt…ghi chép…
    Trước khi cuộc lui binh khỏi Xuân Lộc bắt đầu, ngày 18-4, Uỷ ban quốc phòng thượng viện Hoa Kỳ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Mỹ, họ chỉ cho tiền cứu trợ di tản.
    Hai hôm sau cuộc lui binh (ngày 21-4), ngày 23-4 tại Đại học Tulane, New Orléans, Tổng thống Ford tuyên bố: Đối với Hoa Kỳ chiến tranh VN đã kết thúc…
    (Trần Hiếu Đức)

    Ngày thứ 41 : 19-4-1975
    12 ngày trận chiến Xuân Lộc

    Ngày 19-4, tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với quân ta. Mất Dầu Giây và Quốc lộ 20, Biên Hòa trở thành mục tiêu và Xuân Lộc bị cô lập.

    Tư lệnh Quân đoàn III bay trực thăng xuống Long Khánh, và tất cả nhận được lệnh rút khỏi Xuân Lộc 12 giờ đêm 19-4 theo con đường mòn qua Long Giao-Bình Giả về Phước Tuy để trở về phòng thủ Biên Hoà. Đội hình lui quân được dự trù như sau:

    BTL/SĐ18 BB và BCH/TK/LK đi trên đường mòn qua Long Giao. Hai bên sườn được bảo vệ bởi lữ đoàn Dù, liên đoàn BĐQ, và liên đoàn ĐPQ. Đến Bình Gỉa, BCK/TK bị phục kích. Đại Tá Phạm Văn Phúc, TKT Long Khánh bị bắt.
    (Trần Hiếu Đức)

    Long Khánh triệt thoái
    Muốn rút trên con đường này tôi lại ra lệnh lần nữa là không rút ban ngày, rút ban ngày địch nó biết nên tôi rút ban đêm. Bắt đầu 8 giờ tối, tôi cho rút quân vì tôi biết họ không bao giờ có thể nghĩ rằng một đại đơn vị của Quân lực VNCH mà rút quân vào ban đêm như thế này hết, họ không bao giờ ngờ! Sáng hôm ông Toàn ra lệnh tìm cách rút quân thì tôi đã cho lệnh tất cả Lữ đoàn Dù và một tiểu đoàn của tôi ở trên núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để làm cho họ thấy rằng chúng tôi bắt đầu phản công để tiêu diệt họ thì họ lo chống đỡ và nghĩ rằng chúng tôi đánh họ chứ họ không biết khi đó tôi chuẩn bị rút đi.

    Rút quân trong cuộc hành quân này thì rất táo bạo nhưng phải bình tĩnh tối đa, rút từng đơn vị. Trước hết tôi cho trung đoàn của tôi đi đầu, trung đoàn đó được một đơn vị pháo lớn tại căn cứ Long Giao của Trung đoàn 48 nằm đó nó yễm trợ. Khi họ rút được êm rồi thì đơn vị pháo đó rút sâu dưới kia họ bắn ngược lên. Sau đó là lực lượng cơ giới do ông Đại tá Tham mưu Trưởng Hành quân Hứa Yến Lến của tôi ổng dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe xác chết của binh sĩ mình trong ngày hôm đó không đi được bỏ lên xe chở về hết tất cả.

    Tôi chỉ biết là mỗi một ngày tôi chấm tọa độ. Tối tôi chấm tọa độ nơi nào họ đóng quân, chẳng hạn chỗ này sư đoàn đóng chỗ này trung đoàn đóng, chỗ này là điểm tập trung quân của quân đoàn còn chỗ này là điểm của một đơn vị sắp sửa xuất phát. Tại sao tôi biết? Bởi vì trong cuộc chiến thì tới giờ này tôi nói luôn cho biết về vấn đề gọi là mật mã. Tháo ra hết tất cả mật mã của họ thì chúng tôi có phòng 7 họ gửi bao nhiêu chúng ta mở ra hết tất cả. Buổi chiều khi họ truyền tin thì chúng tôi bắt được hết. Họ báo tất cả bức điện của họ bằng chữ, ví dụ một lô chữ azkd…nhưng trong số chữ đó chúng tôi biết đọc ra mật mã, chính chỗ đó nên tôi đánh trúng họ và họ thiệt hại rất nhiều. Trung tâm phối hợp hỏa lực của tôi chiều nào cũng kiểm tra cái này hết. Những mục tiêu xa tập trung những đơn vị của họ ở gần trên Định Quán thì tôi xin quân đoàn cho tôi đánh mục tiêu này.

    Tôi xin đánh vào mục tiêu đó nhưng tôi không biết rõ là Quân đoàn đánh bằng quả bom BLU 82. Sự thiệt hại của địch quân rất cao. Còn một quả nữa thì tôi thấy nó không ép-phê gì trong trận địa của tôi, trái thứ hai không kết quả bao nhiêu.
    (Mặc Lâm-Lê Minh Đảo)

    Ngày thứ 42: 20-4-1975
    Xuân Lộc triệt thoái


    Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường Long Khánh.
    Rạng sáng ngày 20-4, hai trung đoàn Bắc quân từ hướng Đông-Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 và bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh. Bắc quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.

    10 giờ sáng cùng ngày 20-4, theo lệnh của bộ Tư lệnh Quân đoàn III, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 đã có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và Tiểu khu Trưởng Long Khánh. Trong vòng 1 giờ, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 phổ biến lệnh mới của bộ Tư lệnh Quân đoàn III là toàn bộ lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Xuân Lộc.
    (SQTB K10B/72)

    Giã từ vũ khí …
    Trong cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, lộ trình rút quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số đường rừng ven theo liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Long Lễ về Bà Rịa…

    Nhưng có một điều đã làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang chờ đợi tải thương. Trong một tình thế bất khả kháng, tất cả những người lính dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của mình đang bị trọng thương ở các chiến hào.

    Trước phút lên đường, nhiều người lính Dù đã òa lên khóc, ôm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo mình, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường…Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi các Quân y Sĩ, Y tá Quân y chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh.

    Như một thước phim bi tráng trong điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường.
    (Vương Hồng Anh)

    Bên lề trận chiến
    Henry Kissinger qua trung gian của Anatoly Dobrynin, đại sứ Liên Xô tại Washington, gửi một công điện tối khẩn cho tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev. Theo Kissinger, vì quyền lợi lâu dài Xô–Mỹ, vì nguyên tắc tự chế (principle of restraint), đồng thời để tránh hậu quả rất tai hại có thể xảy ra cho miền Bắc Việt Nam, Moscow nên hợp tác, giúp sắp xếp với Hà Nội một thỏa thuận ngầm về ngừng bắn ngắn hạn cho công tác di tản công dân Hoa Kỳ, cùng một số người Việt Nam có liên hệ đặc biệt với Hoa Kỳ. Đề nghị được Liên Xô chấp nhận mau lẹ và Hà Nội cũng bắn tiếng không có ý định ngăn cản việc di tản, hay muốn làm tổn thương thêm danh dự của Hoa Kỳ (Biên bản cuộc họp ngày 24-4 của Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ, Thư viện Tổng thống Gerald Ford giải mật năm 2004).

    Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cử Đại tá Harry Summer làm thông tín viên con thoi thường trực với Hà Nội. Chỉ có Đại sứ Graham Martin và Phó Đại sứ Wolf Lehmann biết mối liên hệ tay ba Hà Nội, Moscow và Washington. Điều thỏa thuận căn bản đã đạt được là Hà Nội đồng ý sẽ chờ bên ngoài Sài Gòn cho Hoa Kỳ rút đi trong yên ổn, chỉ với điều kiện mọi chiến cụ và phương tiện chiến tranh đều phải được để lại toàn bộ nguyên vẹn.

    Tuy nhiên trong một bức thư trao tay trực tiếp cho Hà Nội, Hoa Kỳ nhấn mạnh đến các pháo đài bay B52 ở Thái Lan và lực lượng Không Quân của Hạm đội 7, đã và đang được đặt trong tình trạng báo động. Bất kỳ một sự khinh suất nhỏ nào của Hà Nội cũng đều có thể đưa đến một hành độngtrả đủa khốc liệt (1). (Larry Engelmann, sđd, Hoàng Đức Nhã, cố vấn Tổng thống VNCH, dẩn theo Pièrre Darcourt, Vietnam: Qu’as – tu fait de tes fils, 1977).

    (1) Để cụ thể hóa áp lực, ngày 21-4, Hoa Kỳ giúp Sư đoàn 5 KQ thả tiếp hai quả hai bom CBU 55, xuống vùng Bảo Vinh, Bình Lộc,
    (Nguyễn Hiệp)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Chủ Nhật 20-4-1975

    Đại sứ Martin đã đưa cho ông Thiệu bản nhận định do Frank Nepp viết nguyên văn như sau:

    (…) Với cuộc sụp đổ của các cuộc phòng thủ của quân đội của chính phủ quanh tỉnh lỵ Xuân Lộc và sự tiếp tục gia tăng tập trung quân đội của Bắc quân trong Vùng 3 chiến thuật cán cân lực lượng trong vùng chung quanh Sài Gòn hiện nay đã nghiêng về phía Bắc Việt. Mặc dù chính phủ vẫn còn có thể tăng viện cho một trong những mục tiêu có thể sẽ bị tấn công như Biên Hòa, Long Bình ở về phía đông Sài Gòn, các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa ở về phía tây hay tỉnh Bình Dương ở về phía bắc, tuy nhiên lực lượng của chính phủ sẽ không đủ sức mạnh để phòng thủ tất cả các mục tiêu nầy một cách hữu hiệu. Mặt khác về phía Bắc Việt chỉ trong vòng ba hay bốn ngày nữa, họ lại có đủ khả năng phóng ra những cuộc hành quân mức nhiều sư đoàn vào tất cả những mục tiêu này. Như vậy thì chính phủ VNCH sẽ phải đối phó tình trạng Sài Gòn sẽ bị cô lập và sẽ không còn liên lạc được với bên ngoài chỉ trong vòng vài tuần lễ và có thể rơi vào tay của các lực lượng Bắc Việt trong vòng 3 hay 4 tuần lễ. (…)

    ***

    Frank Nepp nói rằng ông muốn viết “chỉ vài tuần lễ” thế nhưng Polgar không muốn như vậy. Frank Nepp cho biết thêm rằng sau khi ra đi, ông Thiệu vẫn còn để bản nhận định nầy trên bàn giấy của ông trong dinh Độc Lập. Khi Bắc quân chiếm Sài Gòn, tướng Văn Tiến Dũng đã lấy được bản nhận định này và đã cho đăng nguyên văn không sót một chữ trong cuốn sách Đại thắng mùa Xuân của ông ta (*** Frank Nepp: sđd, trang 382).
    (Trần Đông Phong)

    Quân sử ngoại truyện
    (qua “Xuân Lộc tháng Tư” của VMLong với…Họ án binh chờ lệnh? có thể vì lý do dưới đây).

    Theo Thượng tướng Trần Văn Trà, tình hình lúc đó khiến cho đồng chí Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ hết sức lo lắng. Vì Quân đoàn 1 đang được điều động từ miền Bắc vào. Quân đoàn 2 (Lê Trọng Tấn) vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết:
    “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, pháo chỉ còn hai viên. Có xe tăng đến nơi nhưngxăng dầu hết, hậu cần vùi đầu vơi công việc. (*** Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 258)

    Ngày 18-4-1075, trong Điện sô 07, ông Lê Duẩn viết: Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn 3 và Quân đoàn 1 đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn. Chưa nên làm ngay bây giờ. (*** Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 261)

    Thế nhưng rạng sáng ngày 21-4 (1a). các tuyến phòng thủ của Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ. Vì Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo …”triệt thoái” khỏi thành phố.
    (Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm – Trần Văn Trà)

    Ngày thứ 43 : 21-4-1975
    Sài Gòn thay đổi nhân sự (2)

    Sáng ngày 21-4, trong khi cuộc rút quân của lực lượng VNCH đang triệt thoái khỏi Xuân Lộc trên Quốc lộ 2, thì tại Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia với sự tham dự của Phó Tổng thống Trần Văn Hương, v…v…

    Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo quyết định từ chức và trao quyền lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
    7 giờ 30 ngày 21-4 (1a), lễ bàn giao chức vụ Tổng thống đã diễn ra tại dinh Độc Lập.
    (SQTB K10B/72)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Ngày 29-4-1975, mặc dù rất bận rộn trong việc di tản, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin cũng đến tư dinh đường Công Lý với một Tham vụ Sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại sứ nói:
    "Thưa Tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng thống cho đến ngày trăm tuổi già."

    Cụ Trần Văn Hương mỉm cười trả lời :
    "Thưa ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến nỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng thăm tôi."

    Khi nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités” (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), Đại sứ Martin giật mình nhìn trân trân cụ Trần Văn Hương.
    (Trần Đông Phong)

    – : Trước đó vào tháng 4-1975 khi Nam Vang sụp đổ, Thủ tướng Sirik Matak cũng được Đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean mời di tản nhưng ông Sirik Matak đã từ chối qua một lá thư trách Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi dân tộc Cao Miên. Ông viết: Tôi chỉ ân hận một điều vì quá tin vào người Hoa Kỳ… Thủ tướng Sirik Matak chọn ở lại vì ông quan niệm đã sinh ra thì sẽ chết một ngày nào đó. Ngày 17-4-1975, ông đã chết vì vì bàn tay đẫm máu của Khờ Me đỏ.

    – : Thủ tướng Sirik Matak bị Khờ Me đỏ chặt đầu tại vận động trường Nam Vang ngay ngày đầu tiên Cao Miên bị sụp đổ. Tuy nhiên theo Henry Kissinger thì ông bị bắn vào bụng. Sau đó ông bị bỏ mặc cho máu chảy, bị bỏ mặc đến chết ròng rã trong 3 ngày.

    – : Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27-1-1982 tại Sài Gòn.
    (Wikipedia)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Hai 21-04.1975

    Sau đêm suy nghĩ, trưa ngày hôm sau, thứ hai 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời Phó tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng, đến dinh Độc Lập và thông báo với họ rằng ông sẽ từ chức. Tổng thống Thiệu kể lại cho hai nhân vật này cuộc hội kiến với đại sứ Pháp và đại sứ Hoa Kỳ ngày hôm trước và nhấn mạnh rằng cả hai ông đại sứ đều không chính thức khuyến cáo ông từ chức, tuy nhiên vì tình hình quân sự đã trở nên vô vọng và ông cảm thấy rằng ông không còn có thể phục vụ đất nước hữu hiệu được nữa nên ông phải từ chức. tổng thống Thiệu nói với cụ Trần Văn Hương và ông Trần Thiện Khiêm rằng ông muốn bảo tồn tính hợp pháp của chế độ VNCH và do đó ông yêu cầu Phó Tổng thống Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng thống VNCH để cứu vãn tình thế.
    (…)

    Di tản
    Ngày 21-4, trong khi lực lượng VNCH đang triệt thoái khỏi Xuân Lộc thì từ ngày 21 đến 28-4-1975, Mỹ đã bốc ra khỏi Sài Gòn qua 170 chuyến bay bằng phi cơ vận tải C130, C134 và C141 đưa tới căn cứ Không Quân Clark ở Phi Luật Tân, một số nhỏ được đưa thẳng tới Guam. Nhân viên của các đài phát thanh bí mật, được chở ra đảo Phú Quốc, rồi ít ngày sau được bốc đi.

    Trong Chiến dịch Frequent Wind ngày 29-4 trực thăng vận, từ toà đại sứ bốc 978 người Mỹ, 1.120 người Việt cùng công dân các nước khác. Từ DAO bốc 395 người Mỹ và 4.475 người tị nạn. Ngoài những chuyến trực thăng do Mỹ bốc, còn rất nhiều phi công đã đi một mình hoặc chở người thân bay thẳng ra Đệ Thất Hạm Đội.

    Trong 4 ngày cuối tháng 4, Mỹ đã xử dụng 45 tầu Hải quân, từ mẫu hạm, chiến hạm, tầu vận tải vớt tổng cộng 40,000 người. Tổng cộng cả tháng 4, Đệ Thất Hạm Đội vớt khoảng 130,000 người. Lúc đầu, họ được cho tạm trú tại đảo Grande Island ở Subic Bay.

    Ngày 28-4, Quốc Hội Mỹ chính thức cho phép người tị nạn vào Mỹ tại 3 nơi:
    Camp Pendleton, California; Eglin Air Force Base, Florida; Fort Chaffee, Arkansas. Sau mở thêm Camp Indiantown Gap, PA. vào đầu tháng 6.
    (Đinh Từ Thức)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Frank Snepp, tiết lộ rằng khi ông Thiệu nói chuyện với Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm (hay Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn) tại dinh Độc Lập thì bộ phận nghe lén của CIA ở tòa đại sứ Mỹ nghe hết không sót một lời nào.

    Trùm CIA tại Sài Gòn là Thomas Polga sau đó đã ra lệnh cho Phụ tá của ông là Thiếu tướng Charles Timmes đến gặp Đại tướng Dương Văn Minh ngay chiều hôm đó và hỏi thẳng ông Dương Văn Minh rằng nếu người Mỹ có cách loại ông Hương ra khỏi ghế tổng thống thì ông Minh có sẵn lòng đảm nhận chức vụ này để điều đình với Việt cộng hay không? Đại Tướng Minh nhận lời, và tin tưởng rằng ông có thể thuyết phục “phe bên kia”. Ông nói với tướng Timmes ông cần gởi ngay một đại diện của ông sang Paris để thương thuyết với phe bên kia.

    Nghe ông Minh nói như vậy, tướng Timmes liến mở cặp lấy ngay một ngàn đô la (1) tiền mặt trao cho ông Minh để mua vé máy bay cho người đại diện này.
    (…)

    (1) Frank Snepp chú thích là ông Minh không hề gửi người nào sang Paris, không dùng đến số tiền này và cũng không trả lại cho người Mỹ. Frank Snepp cũng cho biết thêm là đại sứ Martin không hề hay biết gì về việc CIA cho người tiếp xúc với Dương Văn Minh trước khi ông Thiệu từ chức. (*** Frank Snepp: sđd, trang 395)

    Những ngày cuối VNCH
    Theo hồi ký của ông Trần Văn Đôn, tòa Đại sứ Pháp đã nhẩy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của Sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp ông Đôn cho biết Sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh: Nếu có thương thuyết thì Hà Nội chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi. 10 giờ tối ngày 22-4, ông Đôn gặp ông Minh cho hay Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết.

    Ông Minh chưa tiếp xúc với ông Trần Văn Hương vì vị Tân Tổng thống không thích ông Minh.

    Ông Minh đề nghị ông Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục ông Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong đêm 22-4, ông Đôn đã đến tư gia Đại sứ Martin dù đã gần 12 giờ khuya. Sau đó, ông Đôn trao đổi với ông Martin về ý kiến của ông Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị ông Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết với Hà Nội.
    (Vương Hồng Anh)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Hai 21-04-1975

    Lễ bàn giao đang diễn ra tại dinh Độc Lập, các đơn vị còn lại của Sư đoàn 18 bắt đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đã chiến đấu vô cùng anh dũng chống lại một lực lượng chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần lễ. Khi cụ Trần Văn Hương nhậm chức Tổng thống thì Bắc quân đã tiến về tới gần Biên Hòa và bộ máy của cơ quan tình báo Mỹ CIA cùng tình báo của Pháp, cũng như Đại sứ là ông Jean-Marie Mérillon đã bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa ông Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần Văn Hương nhằm thương thuyết với Hà Nội.

    Trong khi đó thì từ Hà Nội, ban bí thư đảng đã gửi điện văn số 316-TT/TW ngày 21-4-1975 cho tất cả các chi bộ đảng chỉ thị về việc chọn lựa cán bộ để tiếp thu Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Chỉ thị nầy nói rằng ưu tiên dành cho các cán bộ quê ở miến Nam, nếu trường hợp thiếu thì mới dùng cán bộ miền Bắc. Chỉ thị nầy do Lê Văn Lương, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức đảng ký tên.
    (*** Văn kiện đảng: trang 291-293)
    (…)

    Ngày thứ 44 : 22-4-1975
    Long Khánh hoàn tất cuộc triệt thoái

    Ngày 22-4, lực lượng VNCH tại Long Khánh đã triệt thoái về Phước Tuy:
    Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục giao chiến và đánh bật Bắc quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xã và là lực lượng đoạn hậu sẽ rút đi sau cùng. Cánh quân của Sư đoàn 18 rút đi tương đối an toàn. Còn cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh chỉ
    huy đã bị Bắc quân chận đánh ở Liên tỉnh Lộ 2.
    (Phạm Huấn)


    – : Trong hồi ký: Cuộc hành trình 10 ngàn ngày của Hoàng Cầm, tướng chỉ huy trận tấn công Xuân Lộc viết: “…sau 3 ngày chiến đấu, Sư 341 thương vong 1.200 chiến sĩ, Sư 7 thương vong 300 chiến sĩ…”

    Nhân ngày 30-4-2010, BBC phỏng vấn Nguyễn Văn Thái, trung tướng, nguyên phó chính ủy Sư đoàn 7. Về trận Xuân Lộc, ông ta đưa ra con số lính Bắc Việt tử thương là 4.000 người. Sau 35 năm thì tay tướng này có vẻ thành thật hơn trong những con số. Và, “… trận Xuân Lộc diễn ra 12 ngày đêm ta đã tiêu diệt 2.056 tên địch” (Chiến thắng Xuân Lộc- Long Khánh). Đó là con số tử vong của binh sĩ thuộc VNCH.
    (Nhớ lại trận chiến Xuân Lộc – Hoàng Định Nam)


    – : Xuân Lộc thất thủ sau 2 tuần lễ chống trọi với Bắc quân, chiến trận này đã làm trì hoãn Chiến dịch Hồ Chí Minh của quân Bắc Việt ít nhất 2 tuần.

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Ba 22-04-1975

    Tổng thống Trần Văn Hương cho phép thả bom CBU ở Xuân Lộc.

    Ngay sau khi cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng thống VNCH, trong ngày 22-4, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III đã yêu cầu Đại tướng Cao Văn Viên xin Hoa Kỳ yểm trợ một phi vụ B52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối.

    Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại tướng Federick Weyand và Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU. Bộ Tổng tham Mưu đề nghị lên Tổng thống Trần Văn Hương xin xử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của Bắc Việt và chính Tổng thống Trần Văn Hương đã chấp thuận cho phép Không Quân VNCH thả những trái bom này.

    12 ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của Bắc Việt, Sư đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã “được hoạch định và thi hành rất hay” và các đơn vị nầy về đến Biên Hòa chỉ bị thiệt hại chừng 30% quân số.
    (Trần Đông Phong)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Cuộc họp tại Bộ Tổng tham Mưu 6 giờ chiều ngày 22-4-1975, với chức danh là Tổng trưởng Quốc Phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã họp các Tướng lĩnh tại văn phòng Tổng Tham mưu Trưởng. Tại buổi họp này, Tướng Đôn nói: Dù có thương thuyết để đình chiến, chúng ta cũng cố giữ những gì chúng ta có. Vị Tổng trưởng Quốc Phòng yêu cầu Đại tướng Viên, Trung tướng Toàn sắp xếp lại tuyến phòng thủ để bảo vệ Sài Gòn. Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng Viên đã báo cáo tình hình chiến sự và khả năng phòng ngự của quân lực VNCH tại khu vực vòng đai thủ đô và khu vực các tỉnh lân cận.
    (Mường Giang)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Ba 22-04-1975

    Trái bom CBU được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh Sư đoàn 341 của quân Bắc Việt lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía Tây-Bắc thành phố Xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đã xử dụng loại vũ khí hóa vi quang.

    Theo Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không Quân Hoa Kỳ cũng còn trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Bắc quân kiểm soát quanh thị trấn Xuân Lộc bom Daisy Cutters, gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho Bắc quân. (Sau 1975, họ tìm được 3 trái bom BLU 82 chưa xử dụng và cho triển lãm tại Sài Gòn).
    Mặc dù có bom CBU nhưng một sư đoàn không thể nào chống cự được với một lực lượng địch đông gấp bội, các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc.
    (…)


    SàiGòn thất thủ
    Sau khi rút quân từ miền Trung, quân đội VNCH sẽ tập trung để tạo thành tuyến phòng thủ Sài Gòn. Trước đó, Hà Nội đã dốc hết toàn lực để sớm đánh chiếm Sài Gòn bằng cách đưa thêm quân số của Quân đoàn 2 vượt qua Vĩ tuyến 17 để đột nhập Quảng Trị và Huế. Nói chung là Hà Nội đã rót hết lực lượng chiến đấu vào miền Nam với tổng cộng 20 sư đoàn lúc đó đang trên đường Nam tiến. Kết quả là phía miền Nam đã từ từ mất Ban Mê Thuột, Đà Nẵng và các khu vực chung quanh SàiGòn cũng lần lượt bị rơi vào vòng kiểm soát của quân Bắc Việt.

    Lúc này, Tổng tham Mưu chỉ huy quân Bắc Việt là Tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả 5 Quân đoàn gồm 15 Sư đoàn với quân số khoảng gần 200 ngàn để chọc thủng những tuyến phòng thủ vòng đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn.

    Dọc theo Quốc lộ 13, cách Sài Gòn khoảng 50 km về hướng bắc là căn cứ Lai Khê do Sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây là một trong năm sư đoàn được phối trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn. Sư đoàn 5 tan vỡ và vị Tư lệnh Sư đoàn là Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất khuất. Mặt khác, tại cứ địa Củ Chi cách Sài Gòn khoảng 30 km về hướng Tây Bắc, Sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn công dữ dội và ngã gục trước Quân đoàn 3 Bắc Việt. Tư lệnh Sư đoàn là Tướng Lý Tòng Bá vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù binh.

    Ngày 30-4-1975, Sài Gòn đã phải hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của 4 quân đoàn Bắc quân, lực lượng lại quá ít so với quân số hùng hậu của quân Bắc Việt,
    (The Fall Of SaiGon – Komori Yoshihisa)

    Quân đoàn 1 và 4 tại Vùng 3 Chiến Thuật
    Sài Gòn lập tuyến phòng thủ vì:

    Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) đang trên đường kéo tới Sài Gòn:
    Các Sư đoàn bộ binh 312, 390, Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn 202 tăng thiết giáp, Trung đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin.

    Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) đang từ Xuân Lộc kéo xuống:
    Các Sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, các Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn công binh 25, Trung đoàn 26 tăng thiết giáp.
    – : Quân đoàn này trước khi đánh Xuân Lộc có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số trực tiếp chiến đấu 29.034 người.
    – : Tổng số lực lương chính qui Bắc Việt bao vây Sai Gòn gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).
    – : Với 5 quân đoàn, số đại pháo 130 ly khoảng 400 khẩu. Không kể xe kéo pháo, cối từ 61 đến 120 ly, pháo cao xạ nòng dài, nòng ngắn từ 37 đến 57 ly, hỏa tiễn H12, hoả tiễn Sam.

    Ngày thứ 45 : 23-4-1975
    Sài Gòn lập tuyến phòng thủ

    Ngày 23-4, Sư đoàn 18 sau khi rút về được bộ Tư lệnh Quân đoàn III cho nghỉ dưỡng quân hai ngày tại Long Bình, sau đó các đơn vị được điều động tăng cường phòng thủ khu vực Đông-Nam Biên Hòa và mặt Đông Sài Gòn, kéo dài từ kho đạn Long Bình đến kho đạn thành Tuy Hạ.



    Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa, là lực lượng tiếp ứng Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công. Với kế hoạch phối trí của bộ Tư lệnh Quân đoàn III để bảo vệ Sài Gòn, kể từ sáng 22-4, phòng tuyến án ngữ phía Bắc và phía Đông được thành hình với tuyến Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại phòng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ và Lữ đoàn 468, 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến là lực lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Hòa.
    (Phạm Bá Hoa)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Tư 23-04-1975

    Tổng thống Trần Văn Hương cử Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp đi Hà Nội.

    Trong Decent Interval, Frank Snepp kể lại….
    Trong khi quân đội Bắc Việt đang chuẩn bị tấn công Sài Gòn thì ông Tổng Thống già Trần Văn Hương cũng tìm cách tiếp xúc kín với phái đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất và ông đề nghị gửi một người trung gian đi Hà Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ.
    (*** 141: Frank Snepp: sách trang 433)

    Tác giả của bộ The Vietnam Experience cũng có đề cập đến chuyện này như sau:
    Ông Hương không tin việc Hà Nội sẵn sàng chịu thương thuyết với Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi chỉ tin vào việc đó sau khi tôi có đủ bằng chứng. Ông Huơng đưa ra một đề nghị hoà bình của ông, đó là đề nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội đồng Quốc gia Hoà giải, loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trong 9 ngày và đề nghị gửi Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, Tổng trưởng Thông Tin trong nội các Nguyễn Bá Cẩn làm đặc sứ đại diện cho miền Nam đi Hà Nội. Bắc Việt bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemptuously), nhất là đề nghị về ngưng bắn.
    (*** 143: Thevietnam Experence. sđd, trang 142)

    Trong một cuộc tiếp xúc với Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp (cũng là cựu Trưởng phái đoàn VNCH trong Uỷ ban Liên hợp Bốn Bên năm 1973), Tướng Hiệp đã cho người viết biết một vài chi tiết khá lý thú về chuyện này. Tướng Hiệp nói rằng vào khoảng hai ngày sau khi Tổng thống Hương nhậm chức (23-4), ông trở về nhà vào lúc đã khuya và được bà Hiệp cho biết văn phòng Tổng thống gọi điện thoại nhiều lần vì Tổng thống muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến Phủ Tổng thống nói chuyện với Tổng thống Trần Văn Hương…
    (Trần Đông Phong)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Chiếc HQ 802 nhổ neo lúc 6 giờ chiều 30-3-75, nhưng vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8 giờ tối mới rời quân cảng Cam Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4,000 tàn binh của SĐ/TQLC, như vậy chỉ có 1/3 quân số của sư đoàn thoát được về Cam Ranh, gần 8,000 TQLC còn lại thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng.

    LĐ468 TQLC khi lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ. Cuộc lui binh của LĐ258 và LĐ147 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được tàu. HQ 802 về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31-3-75.
    (Phạm Vũ Bằng)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Tư 23-04-1975

    Tổng thống Trần Văn Hương nói với tướng Hiệp cụ muốn tìm một đường dây đề nghị thẳng với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Chuyện thương thuyết này cần phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua phái đoàn Bắc Việt trong Ủy ban Liên hợp Bốn bên, do đó cụ chỉ thị cho Tướng Hiệp liên lạc với phái đoàn Bắc Việt nếu họ chấp thuận thì Tướng Hiệp có thể ra Hà Nội mở đầu cho sự thương thuyết.

    Tướng Hiệp nói rằng ông liên lạc với phái đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm sau, 24-4-1975, sẽ có một chuyến phi cơ C130 đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài Gòn để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về Sài Gòn vào buổi tối hôm đó.

    Tướng Hiệp vào phi trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt. Đại diện của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên…Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhất vào buổi tối thì cho ông biết kết quả.

    Chiều hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trở về cho ông biết Hà Nội bác bỏ đề nghị thương thuyết của Tổng thống Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội còn nói thêm rằng Hà Nội đòi chính quyền miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện.
    (Mạn đàm với cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp tại Anaheim, Califomia, ngày 4 tháng 1 năm 2003).

    Đó là nổ lực duy nhất mà chính phủ VNCH cố gắng tìm cách gửi đại diện ra Hà Nội để thăm dò nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này là tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cũng cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn còn có thể giàn xếp để cho hai phe Sài Gòn và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào đó.

    Tuy nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là Đại sứ Martin cũng không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker) cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ý định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói chuyện với nhau, dù lúc đó đã là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.
    (…)

    Ngày thứ 46 : 24-4-1975
    Bà Rịa

    Ngày 24-4, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SĐ3/BB (Vùng 1 CT) nhận trách nhiệm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa bảo vệ thị xã này.

    Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được cử làm Tổng Trấn thị xã Vũng Tàu, tái phối trí lực lượng tại các phòng tuyến quanh Sài Gòn.
    (SQTB K10B/72)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Năm 24-04-1975

    Theo các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt Nam nhân chứng, Frank Snepp trong Decent Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril thì hồi 10 giờ sáng ngày 24-4-75, qua sự trung gian của cựu Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng thống Trần Văn Hương đã đến gặp cựu Đại tướng Dương Văn Minh tại tư gia của Đại tướng Khiêm trong cư xá sĩ quan tại bộ Tổng Tham Mưu gần phi trường Tân Sơn Nhất. Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, Tùy viên của Tổng thống Trân Văn Hương thuật lại cho người viết biết rằng cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở dinh Độc Lập cũng như tại phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia ở đường Hồng Thập Tự như ông Minh muốn, do đó cụ nhờ ông Khiêm sắp đặt cuộc gặp gỡ này.

    Trong cuộc tiếp xúc, Tổng thống Trần Văn Hương đã yêu cầu Tướng Minh nhận chức thủ tướng toàn quyền để thương thuyết với phe bên kia theo đề nghị của Đại sứ Pháp. Tổng thống Trần Văn Hương đã nói với Lưỡng viện Quốc Hội về việc gặp gỡ Tướng Dương Văn Minh rằng:
    "Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm đã qua, mọi sự không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia."

    Tuy nhiên tướng Minh đã cương quyết từ chối và ngược lại ông đã yêu cầu Tổng thống Hương từ chức, nhường chức vụ Tổng thống VNCH lại cho ông Minh để được toàn quyền nói chuyện với phe bên kia.
    (Phỏng vấn Đại úy Nguyễn Văn Nhựt)
    (Trần Đông Phong)


    Xuân Lộc tháng Tư
    (…tiếp Xuân Lộc tháng Tư của Vương Mộng Long di tản từ mặt trận Long Khánh về đến Bà Rịa)
    Đường Liên tỉnh Lộ Long Khánh, Bà Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân Phong một đỗi, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người. Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!

    Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban Mê Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng 3-1975. Gia đình tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng Đức.

    Đoạn đường vài chục cây số từ Tân Phong đi Bình Ba, Bà Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với những người lính TĐ82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư lệnh Hành Quân đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng. Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ. Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư lệnh (Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo) quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,

    – Quân của Long đâu sao qua không thấy?

    Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội hình, nên Tư lệnh không thấy rõ họ. Nghe tôi giải thích có lý, Tướng Tư lệnh gật đầu,

    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn
    Ði lính hơn ba năm, hắn khoe hắn đã bắn chết đúng tám tên địch. Sang Mỹ, mỗi lần nhậu ngà ngà, hắn lại khoe khoang thành tích ấy. Bạn bè hắn không tin. Hắn cởi áo và xắn quần lên khoe: Trên lưng và dưới chân hắn còn thấy rõ tám vết sẹo. Bạn bè hắn cười: Ông bị tám vết thương đâu có nghĩa là ông giết được tám tên địch.
    Hắn vẫn khăng khăng: Thì có gì khác nhau đâu?
    (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

    Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư lệnh và Đại tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.
    (Vương Mộng Long)

    Ngày thứ 47 : 25-4-1975
    Bình Dương, Long An
    Giao tranh ở phòng tuyến Bình Dương.

    Ngày 25-4, Bắc quân điều động sư đoàn có bí số CT-7 (1) và 2 trung đoàn cơ động áp sát tại tuyến phòng thủ của Sư đoàn 5 BB. Bắc quân muốn chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa để tiến về Sài Gòn.

    Tuyến phòng thủ Long An
    Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 BB được giao nhiệm vụ phòng thủ vòng đai thị xã Long An và khu vực từ Tân An về Sài Gòn. Các đơn vị của Sư đoàn 22 được đặt thuộc quyền điều động của Biệt Khu Thủ Đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư lệnh.
    (SQTB K10B/72)
    (1) CT là tên gọi một sư đoàn. CT-7 là Công trường 7.


    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Sáu 25-04-1975

    Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21-4, tuy nhiên ông vẫn còn trú ngụ trong dinh Độc Lập cho đến ngày 25-4. Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp kể lại vào hồi 5 giờ 30 chiều ngày 25-4-75, trùm CIA Thomas Polgar gọi Tướng Charles Timmes và Frank Snepp vào văn phòng của ông ta và ra lệnh cho họ phải giúp cho ông ta đưa ông Thiệu và ông Khiêm đi Đài Loan vào tối hôm đó.

    Khoảng 8 giờ rưỡi tối, Tướng Timmes, Frank Snepp cùng 2 nhân viên CIA khác lái ba chiếc xe đến tư gia của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ tổng tham m­ưu và khoảng 9 giờ tối thì trùm Polgar cũng đến nơi. Ít lâu sau thì một chiếc xe Mercedes (1a) chạy đến đậu ngay trước nhà ông Khiêm và ông Thiệu vội vã bước vào nhà.

    Frank Snepp kể rằng ông Thiệu có mái tóc bạc chải bóng loáng, quần áo ủi thẳng nếp và trong lúc trời còn tranh tối tranh sáng: Ông ta có vẻ giống như là “Một người mẫu trong tạp chí Gentleman’s Quartery” hơn là một vị cựu Tổng thống đi tỵ nạn.

    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện di tản

    Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
    Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày


    Đoàn tuỳ tùng của ông Thiệu người nào người nấy đều to con vạm vỡ tay xách những chiếc va-li quá khổ đến những chiếc xe của toà đại sứ Mỹ và họ đòi phải để cho họ đích thân đặt những chiếc va-li đó vào thùng sau xe. Frank Snepp nói ông ta không biết trong những va-li đó đựng gì, tuy nhiên có vẻ rất nặng vì khi những hành lý đó được đặt xuống xe thì nghe như có tiếng kim loại chạm vào kim loại.

    Theo Frank Snepp thì sau khi đưa hành lý vào thùng xe, Polgar, tướng Timmes cùng nhiều nhân viên người Việt ra khỏi nhà và bước lên xe. Ông Thiệu lên ngồi đằng sau xe của Frank Snepp, ông ta ngồi giữa tướng Timmes và một nhân viên người Việt. Trên xe, tướng Timmes nói với ông Thiệu: Xin Tổng thống cúi đầu xuống. Khi xe đi vào cổng phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta lại vội vã nhắc ông Thiệu cúi đầu xuống nữa vì lính gác có thể nhìn mặt người trong xe, nhất là lúc đó đã sau giờ giới nghiêm. May thay, khi thấy xe mang bảng số Ngoại Giao Đoàn, lính gác vẫy tay cho đoàn xe chạy thẳng.
    (…)

    Góp nhặt sỏi đá
    Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái Samsonite vào, (lúc ông Polgar đang viết gì đó, tôi bỏ thêm cây K54 vào Samsonite) hai khẩu súng chạm nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
    (Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

    Nguyễn Tấn Phận, Thiếu Tá Tuỳ viên đi theo Tổng thống Thiệu qua Đài Bắc.

    Lạc đạn
    Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một xe Mercedes mầu xanh đen đã đậu sẵn. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình thò tay vào túi áo. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác.

    Ông Thiệu và ông Điền vội vã bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chính thức của Tổng thống và chịu làm Lê Lai cứu chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi:
    – Có mấy cây súng?
    Đại tá Điền đáp:
    – Có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.
    (Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

    Lạc đạn
    Ngày 2-9-1975, chiếc xe Mercedes được sử dụng để chở Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ duyệt binh ở Ba Đình, Hà Nội nhân dịp quốc khánh ngày Việt Nam thống nhất. Trong khi tiếp quản dinh Độc Lập, một đơn vị bộ đội phát hiện một chiếc xe nhãn hiệu Mercedes 4 chỗ, biển số 72 M-0217 màu xanh đen, số khung 100248, số máy 027150. Chiếc xe này có kính chống đạn, sườn sắt chống mìn đã được cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt mua năm 1970.
    (Wikipedia)

    Ngộ Không

  2. #8
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 9

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Sáu 25-04-1975

    Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn phòng của hãng hàng không Air America, người lái xe trước tắt đèn, Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội vã tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bỗng Frank Snepp chợt nhìn thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước, tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích gì. Polgar mở cửa xe và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lời cám ơn rồi bước vội đến phi cơ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại sứ Graham Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc phi cơ vận tải C118 bốn động cơ của không lực Hoa Kỳ, ông đại sứ cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn lên phi cơ rồi sau đó phi cơ cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất bay đi Đài Bắc.(…)

    Bên lề trận chiến
    Một thời gian sau đó, bà Anna Chennault tuân hành lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford từ Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc để gặp Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Khiêm. Bà Anna Chennault là vợ của vị Tướng anh hùng thời Đệ nhị thế chiến, Trung tướng Claire Lee Chennault, Tư lệnh Không đoàn 14 của Không Lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa. Bà Anna Chennault sau nầy là một nhân vật quan trọng trong bộ Tham Mưu tranh cử của ông Richard Nixon, bà là người trung gian trong sự liên hệ mật thiết giữa Tổng Thống Nixon và Tổng Thống Thiệu trong thời gian đó. Nhiệm vụ trong chuyến đi này của bà Anna Chennault là chuyển lời Tổng thống Hoa Kỳ yêu cầu cựu Tổng Thống Thiệu và cựu Thủ Tướng Khiêm đừng vào nước Mỹ.
    (Những ngày cuối của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn – Nguyễn Tấn Phận)

    – : Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu từ Anh sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, và mất tại Boston.
    Góp nhặt…ghi chép…(..trích lục lại)

    Ngày 29 là ngày có nhiều góp nhặt…để ghi chép…như ngày 29-9-2001, ông Thiệu nằm xuống.Ngày 29-3-1975, ngoài Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm tử trận, còn chuyện Đà Nẵng di tản với Tướng Trưởng, Tướng Khánh, Tướng Thoại, Tướng Lân, và Tướng Hình…
    Tháng Ba buồn … hiu!
    (…tiếp ở bãi biển dưới chân núi Sơn Trà)

    Mặt trời khuất bóng về hướng Tây, cái váng vàng úa của buổi chiều tàn phản chiếu lại lên bầu trời một mầu ảm đạm thê lương! Hay tại tôi “lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”! Màn đêm bắt đầu bao phủ cũng là lúc Tư lệnh TQLC đến rồi lần lượt các vị Tư Lệnh quân binh chủng khác đáp trực thăng về đây mở cuộc họp ngay tại TOC/HQ (Trung Tâm Hành Quân Hải Quân). Ngồi ở cửa hầm TOC với Tr/úy Tạ Hạnh, chúng tôi nhận diện được quý tướng lãnh vào họp trong TOC là Trung Tướng Tư Lệnh QĐ1 Ngô Quang Trưởng, Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 Lâm Quang Thi, Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh SĐ3 BB, Tướng Tư Lệnh.HQ Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi không biết rõ cấp bậc Hải Quân nên cứ gọi là…ông tướng cho chắc ăn.

    Cũng cần nói thêm là trong các vị Tướng Tư lệnh đến họp, tôi không thấy 2 vị Tư lệnh “Không Quân”, (nói lại cho rõ là tôi không thấy chứ chưa hẳn là nhị vị này vắng mặt), Đó là Tướng “Không Quân”Tư lệnh SĐ1 BB (1), đại đơn vị của ông đã bị cái “cầu phao” lừa, còn Tướng Khánh, Tư Lệnh Không Quân Vùng 1 chả nhẽ cũng…“Không Quân” nên không cần đến dự? Có cũng như không chăng? Vì mấy ngày này chẳng thấy phản lực bỏ bom đâu cả mà bỏ đi đâu! Chằng thấy chuồn chuồn chuyển quân, tiếp tế, tải thương đâu cả! Chẳng lẽ “mắng mí phí táy, thiểm zường tú lọoc tài zi?”, có nghĩa là chuồn chuồn bay mất thì mưa ngập bờ ao!

    Trong khi các vị Tướng lãnh đang họp trong TOC thì bộ đội nón cối bắt đầu pháo kích vào BTL/HQ, cường độ tăng dần, lúc đầu có những trái rớt ngoài vòng đai nhưng rồi tiền sát viên của chúng nằm gần đâu đây để điều chỉnh dần vào mục tiêu, nhiều trái nổ gần chỗ chúng tôi. Tài xế Ngọc báo cho biết xe jeep của Tư lệnh bị pháo không còn sử dụng được nữa.

    Cuộc họp chấm dứt, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đi ra trực thăng trước, Thiếu Tướng Tư lệnh TQLC ngoắc tôi và bảo mang máy theo Trung Tướng TL/QĐ1. A-lê-hấp, tôi quảy máy PRC25 lên lưng và tức tốc chạy theo, ra đến nơi trực thăng đậu, còn đang chờ một vị Thiếu Tá lên trước rồi tôi mới lên. Ngồi trên trực thăng ngó xuống, thấy tôi Trung Tướng hỏi:
    – Chú đi đâu đây?
    – Thưa Trung tướng, Thiếu Tướng Tư Lệnh tôi bảo tôi mang máy theo Trung Tướng.

    Suy nghĩ trong giây lát rồi ông Tướng khoác tay bảo:
    – Thôi, không cần, chú trở lại với Tư lệnh đi, cho tôi gửi lời cám ơn ông.

    Rồi tất cả mọi người trong phòng họp lần lượt bước ra và rời BTL/HQ, lúc đó vào khoảng gần 10 giờ đêm, bộ đội nón cối vẫn còn pháo lai rai vào sân cờ.

    Thiếu Tướng Tư Lệnh bước tới chỗ tôi và Tr/úy Hạnh, gương mặt tư lệnh đăm chiêu, suy nghĩ, Tr/úy Hạnh vội trình với Tư Lệnh:
    – Thưa Thiếu Tướng, mình phải bám theo Tư Lệnh HQ thôi, vì tất cả phương tiện không còn nữa, xe trúng pháo hư rồi, trực thăng cũng hư…

    Tư Lệnh suy nghĩ đôi phút rồi gật đầu, Tr/úy Hạnh quay sang tôi:
    – Tiểu Cần, chạy sang gọi tất cả anh em lên đường.

    Đi vòng dưới chân núi Sơn Trà chừng 2 tiếng thì chúng tôi ngồi nghỉ, Tư Lệnh HQ làm tín hiệu bằng đèn pin cho tàu vào rước, có lẽ đến hơn 30 phút sau mà cá lớn cá nhỏ vẫn lặn mất tiêu, không có tàu nào vào đón cả nên Tư Lệnh HQ Hồ Văn Kỳ Thoại nhờ tôi liên lạc bằng hệ thống TT. Trời đất! Một giới chức đứng đầu Vùng 1 Duyên Hải mà không có một ATV hay hệ thống LL/TT đi theo? Cũng may là trưa nay, trong lúc rỗi rảnh chờ lệnh mới, và qua nhiều năm tháng trong nghề đã dạy cho tôi những kinh nghiệm và lanh lợi nên tôi đã xin được tần số nội bộ của HQ nên bây giờ tôi vô tình lại kiêm nhiệm thêm vai trò một ATV của Tư Lệnh HQ nữa, một ATV, hai Tư Lệnh! Chuyện hi hữu như các Tướng lãnh họp hành quân mà không có (2) Tướng KQ, như Tư lệnh HQ mà phải hành quân bộ trong đêm bên bờ biển!

    Sau khi liên lạc được với HQ, họ gửi vào 2 tàu chiến, không phải để chở quân, hình như là giang tốc đỉnh. Vì có nhiều đá ngầm và sóng biển nên tàu chỉ đậu cách xa bờ chừng 10 m nên chúng tôi phải bơi ra. Muốn giữ cho máy PRC25 khỏi ướt, tôi phải đội máy lên đầu, vì vậy chuyện bơi ra tàu khá vất vả và mệt nhọc, và tư lệnh cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng an vị trên boong tàu. Thiếu Tướng Tư lệnh, Tr/úy Hạnh và tôi ngồi trên boong, cuối đuôi tàu, bộ quân phục ướt sũng, gió thổi mạnh, hơi nước biển, sương đêm phủ trùm càng làm tăng thêm cái lạnh suốt một đêm dài, ba thầy trò bó gối nhìn nhau. Người ta thường nói “bụng đói cật rét” nhưng chúng tôi bụng đói thì có, nhưng không phải cật rét, rét bên ngoài mà là rét từ trong, tự đáy lòng. Hai hàm răng lập cập vào nhau, cố mím môi cắn lợi để kềm lại mà không được, vậy mà tư lệnh luôn nhắc tôi phải cố giữ liên lạc với hải quân, với HQ 802, Tư Lệnh nói:
    – Chú cố gắng giữ liên lạc với HQ 802, không có tôi họ không vào bốc anh em mình đâu.

    Nhắc lại điều này chắc hẳn một số bạn lính biển không vui, nhưng sự thật nó là vậy mà. Điển hình là khi Phó Đề đốc TL/HQ phải nói rõ tên thì “tàu trưởng” mới tin và cho tàu vào đón. Điển hình là sau khi họp xong, tại sao phó đề đốc không đi ra hướng cầu tầu ngay trong BTL/HQ mà lại phải đi bộ, mò mẫm trong đêm dưới chân núi Sơn Trà? Vì cầu thì có mà tàu thì không!

    Theo lời yêu cầu của TL/TQLC, chiếc tàu chở Tư lệnh và anh em chúng tôi cứ ngược xuôi ngoài khơi trước cửa bãi biển Non Nước. Mãi tới 8 giờ sáng ngày 29-3-75, sau khi được biết đã có 2 tàu vào đón TQLC tại bãi biển Non Nước thì giang tốc đỉnh mới chuyển chúng tôi sang tàu lớn HQ 802, đậu ở ngoài khơi để đón các TQLC chuyển đến. Tới xế chiều không còn thấy tàu thuyền nào từ trong bờ chuyển quân ra nữa thì HQ 802 nhổ neo, trực chỉ hướng Nam, nối đuôi nhau vượt trùng dương! Vĩnh biệt vùng đất địa đầu giới tuyến! Vĩnh biệt anh em LĐ147/TQLC nằm lại hay bị bắt trên bãi cát Thuận An!

    Để chấm dứt ở đây những gì tôi chứng kiến, tôi xin được mượn lời của Đại tướng Cao Văn Viên khi được báo chí phỏng vấn:
    – Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, 100 chứng nhân có 100 sự thật (hoặc sai sự thật). Định kiến làm cho lịch sử sai lệch.

    Vì thế tôi đã hết sức cố gắng loại bớt những chi tiết không cần thiết để tránh suy diễn bàn cãi mất thì giờ, nhưng cũng sẽ không thể tránh được một số sự kiện khác với cái nhìn của người khác. Nhưng cái chính xác không thể phản bác được mà ai cũng phải công nhận là SĐ1/BB đã bị tan hàng bất dắc dĩ một cách đau khổ. LĐ147 TQLC với hơn 3,000 quân đã bị lùa vào bước đường cùng, đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Và cuộc lui binh này nếu dựa theo trục chính là QL1 thì hẳn sẽ tránh được những thảm họa và không có thảm họa tiếp theo ở Đà Nẵng.

    Tiểu Cần tôi ước mong được đọc những sự thật về “Hell on Thuận An Beach” của Lâm Tướng quân (3) trước khi (tôi) nhắm mắt…!
    (MX Tiểu Cần)

    MX Tiểu Cần tên thật: Nguyễn Thế Thủy. Tác giả là Hạ sĩ quan Truyền Tin cho Thiếu tướng tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân. (…trích lục lại)

    (1) Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm bay đi Quảng Ngãi, một ngày sau đó tử nạn máy bay.
    (2) Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 1 KQ Nguyễn Đức Khánh, vì trực thăng hết xăng phải đáp xuống bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu HQ 404 cùng Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn.
    (3) Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 Lâm Quang Thi.

    Góp nhặt sỏi đá
    Tướng Kỳ cho đáp trực thăng xuống bộ Tổng Tham Mưu, không thấy Tướng lãnh nào ngoài Tướng Trưởng đang…trầm ngâm nhìn bản đồ và…hút thuốc lá. Tướng Trưởng nhờ Tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau buổi trưa ngày 29-4.

    Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
    – Nhờ Tướng Kỳ nhà tôi mới đi được.
    (Nguyễn Tường Tâm)

    Quân sử ngoại truyện
    26-4-1975, Quân đoàn 2 có mặt trước cửa ngõ Sài Gòn ở một địa danh có tên là Rừng Lá.
    5 giờ chiều 26-4, quân đoàn xin được nổ súng (sớm 1 ngày so với toàn mặt trận) trên hướng Đông Nam của Sài Gòn. Từ các hướng F304 đánh Nước Trong, Long Bình, Thủ Đức… F325 tiến công Long Thành, Nhân Trạch… F3 nổ súng ở Bà Rịa, Vũng Tàu.

    Vị Tướng già tóc bạc hơi nghiêm nét mặt nói:
    “Hiện nay có ý kiến sai trái cho rằng lúc này địch đã như trái sung chín rụng, không cần đánh cũng phải đầu hàng. Hoàn toàn sai. Sáng 30-4, chúng còn cố thủ quyết liệt tại cầu Sài Gòn và bắn cháy của chúng tôi 2 chiếc xe tăng… Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đến phút chót”.
    (Hồi ký “Đời chiến đấu” - Nguyễn Công Trang)

    – Ký hiệu phân cấp của quân đội Bắc Việt
    A: tiểu đội B: trung đội C: đại đội.
    D: tiểu đoàn E: trung đoàn F: sư đoàn.

    Góp nhặt…ghi chép…
    Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân đoàn 3 từ Pleiku bôn tập xuống phối hợp với 2 trung đoàn của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 từ Đà Nẵng kéo xuống dọc ven biển và hợp lực đánh Phan Rang. Xong, hợp quân này theo Quốc Lộ 1 xuyên qua Phan Thiết qua ngả Bình Tuy ngang Xuyên Mộc để đánh Biên Hòa và Sài Gòn. Vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ phải đi đường vòng về hướng đông của Sài Gòn bọc qua Vũng Tàu và Bà Rịa.

    Ngày thứ 48 : 26-4-1975
    Bà Rịa

    Ngày 26-4, khoảng 6 giờ Bắc quân pháo kích kéo dài 3 tiếng vào thị xã Bà Rịa, bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh Tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.

    Khoảng 10 giờ đêm, Bắc quân (1) tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp phối hợp đánh vào Trung tâm Tiếp vận Tiểu khu và tư dinh Tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xã Bà Rịa. Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Băc quân ra khỏi trung tâm thị xã. Tiểu đoàn Dù đã bắn cháy 5 chiến xa Bắc quân ngay trong đêm 26-4.

    – Tại Bà Rịa, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3/BB từ Quảng Ngải vào đụng trận với Sư đoàn 3 Sao Vàng (1) thuộc Quân đoàn 2 của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo. Trung đoàn 141 của sư đoàn này và Đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa chiều ngày 27-4-1975.

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Bảy 26-04-1975

    Ngày 22-4-1975, Bộ chính trị của đảng cộng sản đã quyết định chấp thuận kế hoạch cuối cùng của cuộc tổng tấn công, và ngày 14-4-1975, “Chiến dịch 275” được chính thức cải danh là “Chiến dịch Hồ chí Minh”, tức là chiến dịch đánh chiếm thủ đô Sài Gòn.


    Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ chí minh đặt ở Lộc Ninh soạn thảo kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn - Khởi sự tấn công vào ngày 27/4/1975

    Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu sau đó đã soạn thảo kế hoạch (1) hành quân chớp nhoáng sử dụng các đơn vị chiến xa và cơ giới tiến chiếm 5 mục tiêu trong thành phố Sài Gòn: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, bộ Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và phi trường Tân Sơn Nhất.

    Tướng Văn Tiến Dũng trình kế hoạch hành quân này cho 2 uỷ viên Bộ chính trị là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, nhân vật số 2 và số 4 trong bộ chính trị của đảng cộng sản. Cả hai nhân vật này chấp thuận kế hoạch và ra lệnh các cuộc tấn công vào vùng ven biên sẽ khởi sự vào ngày 27-4 và giai đoạn cuối cùng tấn công vào Sài Gòn sẽ khởi sự vào ngày 29-4-1975. Trong các kế hoạch của Bắc Việt cũng như chỉ thị của Bộ chính trị, không hề có một điều nào, một câu nào nói đến việc “có thể thương thuyết với chính quyền mới của Dương Văn Minh (2)”.
    (Trần Đông Phong)

    (1) Kế hoạch hành quân trên đã có từ trước ở Hà Nội do tướng Võ Nguyên Giáp soạn thảo.
    (Xem Thâm u bí sử ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975)

    (2) Cựu Đại tướng Cao Văn Viên sau này cho biết:
    Tồng Thống Dương Văn Minh thú nhận ông bị Cộng sản lừa. Ông khuyên những cố vấn thân cận và con rể là Đại tá Nguyễn Hồng Đài nên rời Việt Nam. (*** Cao Văn Viên, trang 225).

    – Sau này ông Dương Văn Minh cũng qua Mỹ, ông sống chung với vợ chồng con rể Nguyễn Hồng Đài ở miên nam California và mất tại Rose Hill.

    Góp nhặt…ghi chép…
    Ngày 26-4, Bắc quân bao vây Sài Gòn bằng 5 cánh quân do 4 quân đoàn và Đoàn 232.
    Đoàn 232 quân số tương đương với một quân đoàn gồm: 3 sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và Sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng 16 sư đoàn. Ngoài ra Bắc quân còn có vào khoảng 15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn, toàn bộ chủ lực quân chính qui của Bắc quân vào khoảng 20 hoặc 21 sư đoàn bộ binh với trên 100 nghìn người chưa kể 20 trung đoàn pháo binh, thiết giáp và phòng không, v…v…

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Bảy 26-04-1975

    Sáng ngày 26-4-1975, Văn Tiến Dũng cùng đoàn tùy tùng của ông rời Lộc Ninh di chuyển bằng quân xa về Bến Cát khoảng gần 50 cây số ở phía tây-bắc Sài Gòn, tại đó ông ta thảo luận với tướng MTGPMN Trần Văn Trà về những chuẩn bị cuối cùng cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Cấp chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng là Lê Đức Thọ và Phạm Hùng, hai ủy viên Bộ chính trị không đi theo bộ tư lệnh tiền phương của Văn Tiến Dũng mà ở lại Lộc Ninh để phối hợp mọi hoạt động cả chính trị lẫn quân sự trong giai đoạn cuối của chiến dịch.

    Tại trại Davis trong phi trường Tân Sơn Nhất, tối 25-4, phái đoàn MTGPMN trong Ủy ban liên hợp bốn bên đã nhận được mật điện của Văn Tiến Dũng cho biết quân đội Bắc Việt sẽ khởi sự tấn công Sài Gòn, do đó Đại tá MTGPMN Võ Đông Giang đã ra lệnh cho tất cả các nhân viên trong phái đoàn Việt cộng phải đào hầm để tránh pháo kích. Bức mật điện của Văn Tiến Dũng kết thúc bằng câu“chúc các đồng chí may mắn. Hẹn gặp các đồng chí tại Sài Gòn“.

    Đúng 5 giờ chiều ngày 26-4, được lệnh của Lê Đức Thọ (1) qua Văn Tiến Dũng (1), tướng Bắc Việt Lê Trọng Tấn ra lệnh cho 6 sư đoàn dưới quyền chỉ huy của ông ta tấn công vào quận Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hoà cùng các vùng nằm về phía đông Sài Gòn.(…)

    Xuân Lộc tháng Tư
    (…tiếp tục với TĐ82 BĐQ từ Long Khánh về Bà Rịa)
    Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy, cánh quân của TĐ82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ chuẩn tướng tư lệnh trên đường di chuyển. Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay bay đi. Không rõ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với những pháo thủ dù, họ quay sang tiến về phía TĐ82 BĐQ. Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, tướng Toàn đi một vòng, bắt tay từng người lính trong hàng. Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng,
    – Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát căn cứ Mây Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào.

    Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo trong hội đồng xã Bình Ba, ông cho biết Lữ đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình Ba. Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng Đảo để ra Bà Rịa, vào trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì cả.

    Khi tôi về lại hội đồng xã Bình Ba thì Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngã ba Xà Bang, Đại Tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) Tỉnh trưởng Long Khánh bị địch bắt ở địa điểm này.

    Ngày hôm đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Đó là ngày 21-4-1975.
    (Vương Mộng Long)

    Góp nhặt sỏi đá
    Chuẩn tướng Lê Minh Đảo được giao nhiệm vụ trấn giữ Xuân Lộc, với hy vọng có thể chặn được đà tiến quân như vũ bão của quân đội Bắc Việt. Ở Xuân Lộc, Tướng Đảo có 12,000 quân chọi lại 40,000 quân của tướng Hoàng Cầm. Cũng may cho Tướng Đảo, tướng Hoàng Cầm của Hà Nội là một vị tướng xoàng, nên ông Đảo có thể đối phó không khó lắm.

    Dựa theo nhận xét của Hà Nội về tướng Hoàng Cầm:
    (…) Nếu Hà Nội cứ tiếp tục để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của ta bị cầm chân ở Xuân Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay đổi lớn. (…) – (…trích lục lại: Chiến tranh Việt Nam toàn tập).

    Lạc đạn
    Nhưng “bếp Hoàng Cầm” thì không…xòang! Năm 1951-1952 khi trận Điện Biên Phủ đang tiếp diễn, có anh “bộ đội” ở Sư đoàn 308 sáng tạo ra bếp không có khói. Chuyện là bộ đội phải đào hầm trú ẩn, công sự chiến đấu, trong hầm phải nấu nướng nếu có khói thì lộ mục tiêu. Vì vậy trên bếp, anh bộ đội phủ cành cây trải một lớp đất mỏng rồi tưới nước để giảm độ khói của bếp nấu nướng. Khói len lỏi qua các rãnh cây ẩm ướt chỉ là một dải nước tan nhanh khi rời mặt đất. Vì bộ đội là “anh nuôi” tên Hoàng Cầm nên được gọi là…bếp Hoàng Cầm.

    Còn “anh nuôi Hoàng Cầm” 1951-1952 có phải là tướng Hòang Cầm 1975 chăng thì không thấy….quân sử ngoại truyện nói tới?! Nhưng chỉ biết rằng với chuyện bếp núc, “bộ đội” học theo Hồng quân Trung Hoa thì tiểu táo: 1 hay 2 người ăn và đại táo: ăn tập thể.

    Xuân Lộc tháng Tư
    Tháng 3-1979 tôi được đưa từ trại cải tạo Phú Sơn 4, Thái Nguyên về trại Nam Hà A, Phủ Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên tay. Khi chúng tôi nhập trại, anh em tù cải tạo chào đón những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng. Hôm sau có người nhắn với tôi rằng chủ nhật tới Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở buồng số 1. Trưa chủ nhật đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng tướng Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 KQ, và đại tá Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh.
    Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất vui khi bắt tay Tư lệnh.(…)

    Tàn cuộc binh đao
    Đa số các tướng lãnh VNCH bị giam giữ ở trại Hà Tây (Hà Nội-Sơn Tây), cách Hà Nội 25 km về phía Tây, Sau các Tướng Nguyễn Hữu Có, Lê Minh Đảo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Nam Định-Hà Nam) nằm về phía Tây Phủ Lý 30 km.

    *****

    30 tháng 4! Ký ức của một người chưa cầm súng
    Từ ngày mấy ngày nay, lính Nhảy Dù đã có mặt nhiều trên các tuyến đường vùng Hố Nai, Biên Hòa. Vùng đất mấy tháng trước chỉ có mặt các đơn vị Biệt Động Quân và Sư đoàn 18. Hai ngôi làng quê tôi vốn là hai giáo xứ Công Giáo. Giáo xứ Lộ Ðức, qui tụ đa số là dân Công Giáo di cư gốc gác từ tỉnh Hòa Bình, Bắc Phần. Giáo xứ Ðông Hải, tên làng từ thủa xa xưa còn giữ lại vốn là một ngôi làng từ tình Bắc Ninh, Kiến An, Hải Phòng và Kẻ Sặt, Hải Dương.

    Chiến cuộc đã ập đến sát với chúng tôi. Ngoài Quốc lộ 1, đoạn cây số 9 tính từ thị xã Biên Hòa ra hướng bắc, từ chiến khu D đã có đạn pháo cối ùng ục dội vào phi trường Biên Hòa, đường đạn bay qua làng tôi những buổi mờ sáng khét lẹt. Loại đạn cối này cho chúng tôi hiểu là thế thượng phong của lính chính qui miền Bắc đã hiện lên rõ rệt. Vì thông thường từ mấy năm nay, pháo kích từ chiến khu D rót vào phi trường Biên Hòa bằng hỏa tiễn, loại pháo giàn, phóng hàng loạt vài chục quả hỏa tiễn trong chỉ phút đồng hồ. Sau đó là trực thăng từ phi trường Biên Hòa lên quần thảo nhưng đương nhiên là không còn dấu tích gì nơi vách rừng chiến khu D, cách làng tôi chừng 4, 5 km. Nghe tiếng pháo cối dội vào làng, nhìn hàng đoàn lính rằn ri màu xanh đóng các chốt quanh làng, Thầy tôi nói với cả nhà:
    – Thu gom gọn nhẹ những thứ cần thiết để chạy loạn.

    U tôi hỏi lại.
    – Giờ chạy đi đâu bây giờ? Ðây chỉ cách Sài Gòn có hai giờ xe máy. Sau Sài Gòn là bể rồi, đi làm sao được?
    – Cứ thu xếp để đi. Ðến đâu biết đến đấy. Ra bể cũng đi …

    Thầy tôi vừa nói vừa lẩm nhẩm đọc kinh. Tôi dáo dác nhìn mẹ. U tôi lật đật thu gom mớ quần áo. Bà lọng cọng nhấc cái này bỏ cái kia, cuối cùng cũng xong ba cái bao vải lính của quân đội Pháp mà thầy tôi còn giữ lại từ 1954. Có tin lính chính quy Bắc Việt làm chủ tính từ bên này sông Sài Gòn, tức cầu Sài Gòn sẽ là điểm phân ranh. Thầy tôi bảo chị tôi thuê một xe tải để chở hết thóc gạo chạy loạn. Thuê xe tải lúc này là điều vạn nan nhưng chị tôi có quen biết một gia đình có xe tải và cũng cần chạy loạn vào Sài Gòn nên ý định của thầy tôi đã được thực hiện ngay. Chiều 27, các dàn pháo hỏa tiễn và pháo cối của lính chính quy Bắc Việt nã đạn vào phi trường Biên Hòa cực kỳ ác liệt. Làng tôi mịt mù khói pháo của hai phía bắn qua bắn lại. Trực thăng đã có vẻ rất e dè, bay thường là hai ba chiếc cặp kè nhưng không còn chúi sát xuống rừng nữa. Mẹ tôi cùng xe thóc lúa đã ra ngoài quốc lộ, đậu gần nhà thờ Kẻ Sặt đoạn cây số 7 Quốc lộ 1. Hàng xóm đã di tản hết. Thầy tôi quyết định ở lại cố thủ sau khi linh mục Nhật đi một vòng làng tới nhà tôi.
    – Ði đâu bây giờ! Phải giữ làng chứ. Còn đi đâu được nữa mà đi.
    – Thế thì con cũng ở lại.
    – Ừ, cha cũng ở lại đây. Ðào xong “tăng-xê” rồi.

    Thế là thầy tôi quyết định không đi. Tôi vơ nhanh cái xẻng chạy ra hiên nhà đào cái hố cá nhân hình chữ L, ba con chó lăng xăng cào cào bơí bới khi thấy tôi đào cật lực. Thầy tôi đào một hầm phía sau nhà, có chận nắp bằng những bao cát và gỗ vuông chắc chắn. Hố đào sắp xong thì một ông lính đến bên cạnh sân nhà tôi, hỏi vọng vào.
    – Bộ muốn tử thủ hả?

    Tôi đáp “Dạ”, vừa đáp vừa lúi húi đào. Người hạ sĩ quan này thường ngồi trước sân nhà tôi mỗi tối vừa đàn vừa hát. Ông hỏi thêm khi thấy thái độ của tôi là thái độ muốn “chơi tớí cùng”.
    – Súng ống gì không thằng em?
    – Dạ, “Cặc bin”.

    Ông ta phá ra cười ngặt nghẽo rồi hỏi.
    – Biết chơi M16 không?
    – Dạ biết.
    – Vậy để lát tụi anh đưa cho, còn ba cây,…cặc bin chơi sao nổi.

    Ðúng lúc ấy, trên đường có bốn năm người lính Nhảy Dù thúc súng đẩy một bóng người đàn ông bước sâm sấp trên đường cái dẫn về phía cuối làng. Tôi chợt dưng sởn tóc gáy. Năm Trình! Ông Năm Trình tay bị trói giật khuỷu, chiếc áo đen đẫm máu. Chắc chắn kiểu này là ông Năm sẽ bị bắn! Tôi bỏ xẻng bỏ cuốc, lặng lẽ bước theo sau bốn năm người lính và ông Năm Trình. Ông bước thấp bước cao đi theo hướng mũi súng của mấy người quân nhân mặc đồ rằn ri. Khoảng chừng 500 mét tính từ cổng cuối làng, những người lính nhảy dù nơí dây trói rồi bảo ông Năm Trình tự bắn mình sau khi đưa cho ông khẩu súng M16 chỉ có một viên đạn. Ông lắc đầu, quỳ hai gối xuống bờ ruộng. Hoàn toàn không thấy ông nói một lời nào, mắt nhìn về hướng ngọn núi Chùa phía gần bờ sông Trị An. Mấy ngưới lính lùi lại cách ông chừng 5 mét. Hai ngươì cầm súng cúi gập mình như chào ông Năm Trình. Khi hai cái đầu hất thẳng lên là đồng thời với một tiếng nổ chát chúa. Thân thể ông Năm giật lên rồi té sấp. Hai người lính cúi mình một lần nữa rồi quay lui, không xem xét xem ông Năm đã chết hẳn hay chưa. Thấy tôi còn đứng lần khân gần đó, một ngườì bảo.
    – Về thôi thằng em. Nó pháo bá thở bây giờ!

    Tôi tần ngần, rất muốn đến xem ông Năm đã chết thật chưa. Cái dáng té sấp mặt của ông xuống mặt ruộng làm tôi xao xuyến lạ lùng. Bỗng tiếng quát sau như dựng cả hồn vía tôi dậy.
    – Nằm xuống! Thằng nhóc!

    Tôi còn đang quờ quạng thì một bóng người nhào đến tôi, một tay ôm ngang lưng vật tôi xuống bờ ruộng, đúng lúc hàng ngàn tiếng rít đinh tai nhức óc xẹt ngang qua đầu. Chưa bao giờ tôi ngửi thấy mùi thuốc đạn gần và nhiều đến như vậy! Một dàn pháo hỏa tiễn vừa bắn đi sát ngay phía đồi chuối bên bìa làng, tầm đạn bay qua đầu chúng tôi nhắm lên đồi Pháo Binh. Ðường đạn đi vun vút muốn rách màng tang. Người lính vật tôi xuống chính là người hạ sĩ quan ban nãy bảo đưa cho tôi cây M16. Dưới làn khói pháo mù đặc, ông túm áo tôi kéo chạy về đầu làng, vừa chạy vừa gào bên tai tôi.
    – Coi chi ba chuyện giết người vậy thằng em!
    – Em biết ông ấy!
    – Quên đi! Chiến tranh là vậy! Sống nay chết mai. Ta không giết người thì người giết ta!
    – Mà sao bắn ông ấy. Sao không nhốt lại?
    – Giờ này, đến tụi mình còn không biết sống hay chết đêm nay, nói chi đến ổng. Số chả phải chết trước thôi …

    Tôi và người lính Dù về đến nhà, ông bỏ đi về phía nhà thờ, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của lính dù. Trên gờ hố cá nhân một cây M16 bốn băng đạn, ba trái lựu đạn mini móc ở một dây ba chạc. Tôi ráp đạn kéo chốt cho bật ra ba bốn viên rồi lại tháo băng xếp lại đạn, cài chốt an toàn, ngồi vật ra, đầu đầy ắp hình ảnh ông Năm Trình với khuôn mặt úp sấp lên mặt ruộng. Mặt ruộng tháng tư khô nứt nẻ!

    Ông bị bắt đâu hồi 11 giờ trưa. Hai cái làng này, ai cũng biết là ông hoạt động cho Mặt trận Giải phóng miền Nam, nôm na gọi là Việt cộng nằm vùng. Ông không tỏ ra ác ôn bao giờ. Ông dữ hay ông hiền, chẳng ai biết được vì ông không sống trong làng. Ông cất một cái chòi sát chân núi, nơi được coi là cửa ngõ để giao liên với trong bưng, lâu lâu đi vào làng mua dăm thứ lặt vặt hoặc đi qua làng ra vùng Hố Nai. Trưa nay, từ vọng canh rất cao, những người lính Ðịa Phương Quân đã nghi ngờ khi ông từ lối núi Chùa đi thẳng vào đường làng. Những bước đi mang nhiều sự tần ngần. Từ rừng đi vào làng rồi đi qua khu trung tâm bộ chỉ huy Tiểu đoàn Tiền Phương của sư đoàn Dù, hướng ra Quốc lộ 1. Có lẽ người ta sẽ để cho ông đi ra phía Quốc lộ nếu như ông giữ con đường bình thường ấy. Ðàng này ông lại quay trở lại bằng một ngõ xóm khác, sau khi đi qua bộ chỉ huy tiểu đoàn chừng 300 mét. Ông bị bắt. Bộ chỉ huy tiểu đoàn Dù gọi trưởng ấp tên là Thái. Ngoài việc hỏi ông Thái, bên bộ chỉ huy tiểu đoàn còn hỏi bốn năm người khác. Ai cũng nói là ông Năm Trình từng được biết là một cán binh Vệt Cộng nằm vùng. Với kinh nghiệm trận mạc, bên bộ chỉ huy kết luận dứt khoát ông Năm Trình là một “đề–lô” chấm tọa độ cho đơn vị pháo! Thời cuộc đang nóng lên từng phút! Mặt trận Xuân Lộc thất thủ, Biên Hòa Sài Gòn nghìn cân treo sợi tóc! Số ông Năm Trình rơi vào tuyệt lộ ngay khi ngày chiến thắng của những người bên phía ông chỉ còn hơn 48 giờ đồng hồ!!!

    ***

    Tiếng xe Honda cua rất gấp từ mặt đường quặt vào trong sân xi măng. Mùi khét của cao su từ lốp xe bốc lên hòa với khói pháo thật khó chịu. Ðó là xe của anh tôi. Tôi chưa thấy ông chạy như thế này bao giờ. Vừa chống càng xe anh tôi quát ngay.
    – Thầy đâu?
    – Thầy ở sau nhà – Tôi luống cuống.
    – Sau nhà làm gì?
    – Ðào hầm!
    – Ðào cái con khỉ gì mà đào!

    Quay nhìn tôi, nhìn mớ súng đạn lỉnh kỉnh. Ông gắt.
    – Ðồ dở hơi! Mặc ngay quần áo vào. Ði!

    Bố tôi rất nể anh tôi, nên đang lấm lem, anh tôi nói tắm rửa để chạy là bố tôi kéo nước giếng tắm ngay. Chừng chưa đến 5 phút, ba cha con tôi đã trên chiếc xe Honda 67. Anh tôi mặc đồ bay, mũ ca-nô nghiêm chỉnh, cũng là lần đầu tiên ông đeo súng tòn ten bên hông.

    Chiếc Honda nhấc đầu phóng đi với ba con chó chạy theo sau. Bàu trời kĩu kịt khói pháo. Ðàng sau là những những người lính Dù đang tất bật với những hố công sự chiến đấu. Ðâu đó, những bàn tay giơ lên đầu, có lẽ để chào anh tôi, người phi công lạc lõng nơi chiến địa trong những giờ phút dầu sôi lửa bỏng gần như cuối cùng của một trận chiến đang ở những phút khởi đầu tràn ngập sát khí.

    ***

    Quốc Lộ 1 cơ man nào là người! Ðủ mọi thứ xe. Từ máy cày máy kéo bám đầy bụi đất đỏ của vùng Gia Kiệm, Long Khánh đến xe lam xa ba gác! Từ người đi bộ đến người thồ xe đạp. Từ những khuôn mặt cháy nắng đến những đôi môi nứt nẻ. Tất cả đều xốc xếch! Tất cả đều thảm thương! Tất cả như một đoàn người ma đi tìm thiên đường nơi xa lắc! Tuyệt không một tiếng cười trong đoàn người mênh mông ấy.

    Anh tôi lạng lách, lúc đâm ngang, lúc xiên dọc, lúc leo bờ lúc thúc xe. Tôi nhìn đoàn người chung quanh, chỉ sợ những con chó của tôi bị thất lạc. Nhưng không. Có lẽ chúng cũng đã bị cộng hưởng với hoàn cảnh hoang mang cực độ của hàng trăm con người đang trong giờ cùng quẫn bi thảm. Chúng bám sát bên hông xe, miệng thè lưỡi nhọc mệt vừa chạy vừa nhìn bố con tôi. Ánh mắt chúng như nói lên sự van xin đừng bỏ chúng, lại như khuyến khích bố con tôi đừng sợ hãi. Thấy tôi có vẻ nhì nhằng với mấy con chó, anh tôi bắt đầu bực.
    – Mày làm ơn ngồi cho ngay ngắn. Chó nó tự biết theo.

    Tôi ngồi trên bình xăng vì Thầy tôi ôm nguyên một cái túi lính Tây chứa toàn những ảnh tượng chúa. Tôi biết anh tôi rất khó lái vì tôi 15 tuổi nhưng là dạng cao lớn hơn bình thường, ngồi lại quay trước quay sau vơi mấy con chó nên ông quạu cũng là phải. Dù bị ông quát nhưng lòng tôi rất biết ơn ông, vì ông biết tôi rất thương chó nên lúc bắt đầu rời nhà, tôi gọi chó theo mà ông không nói gì. Ông biết tôi rất khó thể xa chúng … Chỉ có 2 km Quốc lộ từ nhà thờ giáo xứ Hòa Bình đến nhà thờ giáo xứ Hà Nội mà bố con tôi vật lộn hơn tiếng đồng hồ với rất nhiều lần phải đâm vào những đường ngang ngõ tắt. Ðến nhà thờ Ðại Lộ là leo lên xe tải đã thuê khởi hành nhằm vượt cầu Sài Gòn ngay.

    Trên xe, ba con chó và tôi nằm gọn ngay góc cửa đóng phía cuối xe. Anh tôi rồ máy chiếc Honda 67 phóng ngược về phía phi trường Biên Hòa. Dáng áo bay nổi bật lên trong dòng người hỗn độn. Nhìn theo anh, tôi không cầm được nước mắt. Ra là anh đã rời phi trường cấp tốc, áo bay, súng ống còn vắt cả trên người khi nghe bảo rằng bố con tôi tử thủ nơi căn nhà đầy kỷ niệm. Anh tôi vượt ngược dòng người đang như thác lũ, phóng xe vào vùng đất đã báo động chiến sự sắp xảy ra trong gang tấc giữa bầu trời mịt mù khói pháo ven rừng chiến khu D. Giờ này anh lại phóng đi với những chuyến bay bất định, chơi vơi lời ca của đời phi công ra đi không tìm xác rơi.

    Cực kỳ vất vả chiếc xe tải mới bò đến được cầu Sài Gòn. Xe nhích từng bước một. Lính trên cầu đủ mọi thứ binh chủng. Không khí sắt máu sát rạt. Anh rể tôi mặc quân phục với giấy chứng thực đặc biệt của Căn cứ Long Bình, xin đường để qua cầu. Một người lính mặc đồ đen đeo khẩu súng rất lạ yêu cầu mở cửa xe tải. Cửa mở, tôi và ba con chó ôm nhau sát ngay cửa, bên cạnh là u tôi và chị tôi. Người lính nhìn vào khoang xe rồi nhìn tôi, cuối cùng là nhìn ba con chó. Ông lấy tay cầm lấy tai của con chó bé nhất. Con chó không hề sợ cũng không hề làm dữ, ngẩng mặt lên liếm láp bàn tay xương xẩu đen đủi đầy mồ hôi của người lính đặc biệt này. Tôi im lặng không nói gì, phó mặc số phận đưa đẩy theo gia đình. Bỗng một loạt đạn bắn chiu chíu từ phía mặt sông thốc lên vọt qua sát mí nóc xe. Người lính lạ nhảy xuống hô kéo bửng cửa rồi chạy trước xe nhà tôi, tay vẫy vẫy cho xe vượt lên trước hàng trăm xe khác.

    Xe nhà tôi qua cầu Sài Gòn. Cầu Sài Gòn như một nút thắt cổ chai kinh khủng, chỉ cần qua hết cầu là có thể dễ dàng đi lại. Xe chúng tôi nhắm về phía Hóc Môn, Trung Lương.

    Sáng 28-4 (1975) gia đình tôi vào tới sát căn cứ Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tá túc tại một xứ đạo qui tụ rất nhiều người cộng giáo gốc Kiến An, Hải Phòng. Xứ đạo có tên Chợ Cầu. Tôi sống quen với không gian rộng từ ngày bé tí nên không thể nào chợp mắt được trong hoàn cảnh này. Ba con chó từng bước không rời cậu chủ nhỏ. Ðời sống tỵ nạn chiến tranh đây là lần đầu tôi phải chịu đựng. Tuổi 15 nội tâm sớm, vơí tôi, đây là cú sốc rất nặng. Ngay đêm đầu tiên, tôi khóc thầm và trách sao mình đã bỏ nhà, bỏ làng mà đi.

    Ðêm 29. Các đơn vị tăng của lính chính quy Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngang qua căn cứ huấn luyện. Cơ man nào là các lằn đạn bắn ra từ trung tâm huấn luyện, đặc biệt là M72, một lọai hỏa tiễn cầm tay chống tăng. Rất nhiều phát đạn bắn hụt xe tăng và bay sát các nóc nhà ở xứ đạo này. Tôi vốn đã quen với pháo kích từ ngày nhỏ nên không cảm thấy nao núng, nhưng những người chung quanh thì mặt cắt không còn giọt máu.

    30. 4. Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Người hàng xóm mở radio khá lớn và ra bờ giếng sau nhà ngồi một mình. Tôi từ trong khoảng tối của căn buồng hẹp chăm chú quan sát ông. Mấy hôm nay tôi không thấy ông này, tuổi khoảng 60 mặt rắn rỏi tóc húi cua. Ông ngồi bên gờ bờ giếng, mặt cúi xuống, hai vai gồ cao. Tôi thấy vai ông rung lên. Tôi thật sự cô độc.

    Chiều 30-4. Tôi đi một mình ra doanh trại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Trên đường vài ba chiếc tăng T54 cháy rụi nằm bổ ngửa. La liệt quần áo lính vứt ngổn ngang. Tôi đến sát cổng quân trường, mấy người bộ đội áo quần xanh lụng thụng dép râu, mình còn cài lá ngụy trang, răng mặt vàng lườm… bắt tôi đứng lại, không được đến sát cổng vì đoàn phim đang quay. Tôi nhìn theo hướng tay chỉ và thấy một đoàn khóa sinh tân binh từ trong trung tâm đi ra. Tất cả đều phải đứng lại trước các máy quay phim, khi được lệnh từ phía sau máy thì từng người cúi xuống lột hết giày và quần áo lính, chỉ mặc độc mỗi quần lót. Những đoàn lính bộ đội đứng cười cợt khoái chí, một số ít thay vì cười cợt sảng khoái thì quay sang nói chuyện với những người dân hai bên đường. Có những câu hỏi và trả lời khắc mãi trong lòng tôi mà sau này nhiều người lấy đó làm giai thoại.
    Với tôi, ngay lúc bấy giờ, tôi không thể cười được. Có cô hỏi:
    – Sao anh trẻ thế?
    – Trẻ gì nữa. Mười sáu mà còn trẻ.

    Cô đang cầm que kem, hỏi anh bộ đội:
    – Anh thích ăn cà-rem không?
    – Không?
    – Thế Hà Nội có cà-rem không?
    – Có. Khối gì. Còn phơi để dành nữa.
    – Hà Nội có Ti-vi không?
    – Khối gì. Tivi chạy đầy đường.
    (Phạm Văn Thành)

    – : Tác giả Phạm Văn Thành không ở Hố Nai nữa mà đang ở…Paris.

    Một cơn gió bụi
    Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Chỉ huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chết trong tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.

    Ngày thứ 49 : 27-4-1975
    Tân Cảng - Sài Gòn

    Ngày 27-4, Sài Gòn sôi động khi Bắc quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng Biệt khu thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch.

    Đến chiều ngày 27-4, Bắc quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
    (SQTB K10B/72)

    – : Ngày 27-4 là ngày Bắc quân dự định 5 quân đoàn tấn công cùng một lúc và dự trù đánh chiếm Sài Gòn ngày 29-4-1975.

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Chủ Nhật 27-04-1975

    Rạng sáng ngày Chủ Nhật 27-4, vào lúc 3 giờ rưỡi, Bắc Việt pháo kích 5 trái hỏa tiễn vào Sài Gòn gây cho 6 người chết và 22 người bị thương, tuy nhiên tình hình vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối loạn. Theo ông Trần Văn Đôn thì vào lúc 3 giờ chiều, đại sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông và báo tin cho biết rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi thì quân cộng sản sẽ pháo kích vào Sài Gòn bằng đại bác 130 ly.

    Theo Jean Lartéguy trong cuốn L’Adieu à Saigon thì sau ngày 30-4, một sĩ quan Bắc Việt đã tiết lộ với ông Vũ Văn Mẫu rằng các đơn vị họ được lệnh bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu vào lúc 11 giờ tối 30-4 nếu Sài Gòn tiếp tục chống cự và họ dự tính rằng họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7-5 tức là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ của họ 21 năm về trước.

    Theo Frank Snepp vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm đã chống lại việc Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh. Người đầu tiên là Thương tọa Thích Trí Quang, kế tiếp là cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Linh mục Trần Hữu Thanh. cựu Phó Tổng Thống Kỳ lên án những kẻ hèn nhát đã bỏ nước di tản theo người Mỹ và hô hào tử thủ bảo vệ Sài Gòn. Ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu chứ không đi đâu cả, không di tản ra ngoại quốcvì ở bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm mà ăn?

    8 giờ 45 tối ngày 27-4, Dân biểu và Nghị sĩ bỏ phiếu thuận Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đuờng vãn hồi hòa bình cho Việt Nam?
    (Trần Đông Phong)

    – Theo Frank Snepp, đại sứ Martin chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân. Trong số những hành khách trên chuyến bay này có cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã và cựu Thiếu tướng Tư lệnh Cảnh sát Nguyễn Khắc Bình. (*** Frank Snepp, Sđd, trang 448).

    Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
    Ngày 21-4, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía Ðông. Tiếng “womp-womp-womp” của Pháo Binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng tiếng “dit-dit-dit” của súng cá nhân, ngoại trừ vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết Mậu Thân 1968, đã dung tha cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh, cái mà bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy. Về quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, Tổng Thống Thiệu và bộ Tham Mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.

    Chỉ còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn. Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những tháng trước đó. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu, rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người. Phần lớn người dân trong phần còn lại của miền Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh Sài Gòn và các tỉnh trong vùng Ðồng Bằng sông Cửu Long, hy vọng vào một điều kỳ diệu: Hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm lặng pháo binh Bắc Viêt đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và nhà ngoại giao. Rằng Phnom Penh đã bị Khmer đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa.

    Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng
    Đội ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến gần tới mức có thể nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng của khách sạn cao tầng Caravelle. Thay cho các thông tin về chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị “mật” cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng. Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách sạn lớn Caravelle, Continental và Majestic. Tín hiệu, các nhà báo được thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn cấp, đài Phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức “every hour on the hour”, sẽ thêm vào câu: “The temperature is 105 degrees and rising”, tiếp theo sau đó là bài “I am dreaming of a White Christmas” của Bing Crosby. Người ta sẽ chờ nhà báo tại địa điểm tập trung với nhiều nhất là một món hành lý.

    Chính sếp CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một “Giải pháp Lào”, để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn. “Giải pháp Lào”, đó là: Một chính phủ trung lập, bao gồm các nhân vật của “lực lượng thứ ba”, phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.

    Nguồn thứ hai, dường như xác nhận các thông tin của CIA, bắt nguồn từ sứ quán Pháp mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của De Gaulle, đã tự mình tin rằng “Grande Nation” thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng Bắc Việt thông qua tiếp xúc với người Pháp đã đưa ra “Giải pháp Lào”: tước quyền “bè lũ Thiệu”, thành lập một chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền “Big Minh” và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị mới ở Nam Việt Nam.

    Vòng vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26-4, buổi chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Đài phát thanh của Mặt trận giải phóng từ chối lời đề nghị ngừng bắn của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Hương đại diện cho một “chế độ Thiệu không có Thiệu”. Vào ngày 26-4, thứ bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, Quốc hội đã họp biểu quyết yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương nhượng quyền lại cho tướng Dương Văn Minh. Đại sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để cho “Big Minh” bước ra hoạt động.

    Vào tối ngày Chủ Nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng thống được bổ nhiệm,không cương quyết yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện Bắc Việt, sau hiệp định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt, để tự mình thăm dò cơ hội của một “chính phủ hòa bình Big Minh” qua sếp của phái đoàn, Đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như một cái máy nói không có xúc cảm. Tuy vậy, viên đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết định: Liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như là đối tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.

    Mặc dù không có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và những người đi theo “Big Minh” vẫn bắt đầu làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều kiện.

    Xe tăng Bắc Việt đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, lúc này phần lớn các quốc gia phương Tây đã di tản các sứ quán của họ và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá vứt đi. Người Mỹ, dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar, vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường hàng không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn của một cuộc chạy trốn.

    Sáng chủ nhật, 2 giờ trước khi mặt trời mọc, Bắc quân bắn vài hỏa tiển vào thành phố, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.

    Chỉ các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong Ðại sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những dấu hiệu đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình chính trị. Bắc Việt, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ “mất thể diện”, nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ Bắc Việt.

    Sài Gòn, 21-4-1975. Lần bắn hỏa tiển đầu tiên là vào lúc 4 giờ 30 sáng, đánh vào trung tâm Sài Gòn và đốt cháy 150 căn nhà bằng gỗ. 14 người chết và hơn 40 người bị thương.

    Các chính trị gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm đều nghe được tiếng “womp-womp-womp” của đạn pháo. Bây giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ có chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.

    Khi một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì “Giải pháp Lào” cho phép ông bay về quê hương để hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành phố, và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi (?). Đó là “tuyên truyền của CIA”, người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.

    Công việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28-4, buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh được bật lên khi những người của “lực lượng thứ ba”, nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được phép vào trong dinh Tổng Thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai. Hàng ghế đầu dành cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và các Bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.

    Chống gậy khập khiễng, Phó Tổng Thống Hương bước vào gian sảnh, có “Big Minh” đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì, những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về chuyên môn có nhiệm vụ bổ sung cho Big Minh, Thượng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư xã hội chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang.

    Cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu Tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Nhiều câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà không giao quyền lực thật sự cho ông. Còn lại là một sự cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.

    Ông diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ “Big Minh”, chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa bình mà người cộng sản muốn chấp nhận. Hương khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới “Big Minh”. Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.

    Rồi cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính, đeo thắt lưng trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống VNCH ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.

    Giới chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng. Ông đã tạo khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.

    Đối với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500,000 lính Mỹ đã được gởi tới đây để củng cố cho Nam Việt Nam mà 50,000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.
    Hàng triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch sử.

    Người lính quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu Tổng Thống mới trên hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của Tổng Thống “Big Minh” vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.

    Chỉ sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, “Big Minh” đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra. Như đã thỏa thuận với Đại Sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về “những người cộng sản” nữa, mà là về “những người bạn của chúng ta ở phía bên kia…Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn…Tôi không hứa hẹn nhiều.”

    Lúc đó, tôi không nghe bài diễn văn của “Big Minh” cho tới khi kết thúc. Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: Nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.

    Để đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một “dự thảo văn bản” cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng 6 giờ chiều, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều. Tới khách sạn Continental có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh Tổng Thống. Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp lần nhậm chức của “Big Minh” trước các màn hình. Những chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước Continental như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.
    Sau hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A37 bay ở phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A37 bị Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét Đông Bắc Sài Gòn, và được gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào ngũ.

    Hiệu ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của (nhà đạo diễn) Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu. Lần bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới nghiêm bắt đầu sau đó. VNCH đã chấm dứt tồn tại trước khi bị xâm chiếm. Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.

    Các cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29-4, vào trong trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của “người da trắng” ở Châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo của người Nhật trong “chuyến bộ hành tử thần Bataan” để đi tới các trại tù binh; và “Cầu sông Kwai” đã quan tâm tới sự tưởng tượng của phương Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaysia và Singapore.

    Thật sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà “Big Minh” đã đứng tại tâm điểm của nó, được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm lý và chính trị. Ngay sau bài diễn văn của “Big Minh”, đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một yêu cầu dứt khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài Phát Thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy “nổi dậy”.

    Qua đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. “Giải pháp Lào” giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết cuộc. Lần ném bom phi trường vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển. Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ Ba: lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa Đại sứ Quán Mỹ. Bốn giờ sáng ngày thứ Tư, 30 tháng Tư, Đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính Thủy Quân Lục Chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh Tổng Thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ của “chính phủ cách mạng lâm thời” lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu hiệu của chiến thắng.

    Lá cờ cũ đã được lấy ra từ lâu rồi.
    (Những ngày cuối cùng của Sài Gòn - Winfried Scharlau)

    – Winfried Scharlau là một nhà báo, sử gia người Đức. Ông là phóng viên chiến trường đã từng bị thương ở gần Vĩ tuyến 17 vì chiếc trực thăng chở ông đáp trúng mìn.

    Ngộ Không

  3. #9
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 10


    Ngày thứ 50 : 28-4-1975
    Sài Gòn thay đổi nhân sự

    Ngày 28-4, Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28-4.

    Trong buổi lễ này, quân lực VNCH cử Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Quân và Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Tham Mưu Trưởng Liên Quân thay mặt Đại Tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng Thống Trần Văn Hương đã công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại Tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng (theo nguyện vọng của Đại tướng Viên).

    Cũng trong ngày 28-4, căn cứ Không Quân Biên Hòa bị pháo kích dữ dội. Tất cả các phi cơ được dời qua phi trường Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường Trà Nóc ở miền Tây. Sư đoàn 3 Không Quân bắt đầu phá hủy những phương tiện còn lại trong căn cứ Biên Hòa.

    Ngay sau lễ trao quyền, khoảng 6 giờ chiều, 5 (?) máy bay phản lực chiến đấu A37 Bắc quân lấy được từ VNCH khi chiếm miền Trung, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt.
    (SQTB K10B/72 – Đinh Từ Thức)

    “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
    Cuộc oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất chiều 28-4-75 của năm chiếc phi cơ A37, đã được Hà Nội tuyên dương như một chiến tích anh hùng.

    Bài tường thuật đăng trên tờ Lao Động ở Hà Nội xuất bản ngày 2-5-96 cho biết “Phi đội quyết thắng” do Nguyễn Thành Trung bay ở vị trí số một, vừa là chỉ huy “biên đội” (phi đội), vừa là người dẫn đường. Bay số hai là Từ Đễ. Bay số ba là Nguyễn Văn Lục. Bay số bốn là Hán Văn Quảng. Máy bay số năm có hai người: Mai Vượng và Trung úy phi công “Ngụy” Trần Văn On. (On và Xanh là hai phi công VNCH, tù binh bị bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành công tác huấn luyện cấp tốc cho giặc lái MIG).

    Bọn giặc lái Vi-Xi (Lục, Đễ, Quảng, Vượng) từ trước chỉ quen với máy bay MIG17 của Nga, chưa từng biết tới A37 của Mỹ bao giờ. Giặc lái Vi-Xi vào Đà Nẵng từ ngày 22-4-75 để học lái A37 cấp tốc trong vòng năm ngày. “Nhân viên lái” Nguyễn Văn Lục cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến trong năm ngày đó, ngày đầu tập ở buồng máy nhìn không ra những đồng hồ bay to nhỏ với tiếng Mỳ viết tắt nên có người định bỏ cuộc. Lục nói: Các bộ phận điều khiển của máy bay A37 toàn là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy dán đè lên tiếng Anh để biết mà xử dụng… Y khoe, sau chiến thắng trở về, đồng chí Đinh Đức Thiện gặp chúng tôi, nói rất vui: "Chúng mày rất giỏi. Lính tao chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống gì là máy bay của chúng mày…Giỏi, giỏi lắm!"

    Cái “giỏi lắm” của bọn giặc lái là cái giỏi… “nói phét!”. Cái này phải hỏi cậu Trác “Thuốc lào”, tự nhà văn KQ Trác Vũ. Theo lời cậu Trác “Thuốc lào” phi công C130 kẹt lại, cậu đã từng bay chở cán bộ, bộ đội từ Bắc vào Nam công tác. Sau cậu còn được trưng dụng dạy bay và dạy Địa huấn cho bọn giặc lái trước khi “thầy” bị cho đi tù cải tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu một lần chịu không nổi những quả…ngu của lũ giặc lái con cháu lão Hồ, đã buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội mũ vì lỡ “hỗn”, lỡ coi thường các đấng đỉnh cao trí tuệ. Cậu Trác kể…
    (Chuyến bay cuối cùng – Đào Vũ Anh Hùng)
    – : Cậu Trác “Thuốc lào” tên thật Bùi Văn Trác SVSQKQ 64D (Phạm Hy Oánh)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Dương Văn Minh vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ dội bom Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ tối, chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sài Gòn ban đêm chẳng có gì khác để làm.

    Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong phòng truyền tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện đài. Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh.

    Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu. Ông nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.
    (Tears Before The Rain – Larry Engelmann)

    “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
    Cậu Trác kể: Phi công Vi-Xi, chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến 6, 7 năm mà khi về nước vưỡn đếch biết nói tiếng Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có thông dịch viên đi kèm theo để theo dõi, kiểm soát. Trong lớp thầy dạy gì, kệ bố thầy, vì khi về phòng có thằng thông dịch lại. Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy chúng nó hoàn toàn bằng tiếng Việt. Thế mà mình đọc, chúng không hiểu. Đánh vần đi, đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít, chúng nó vẫn không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như chúa tàu nghe kèn, mặt đần độn trông phát giận. Một lần, nhịn không được, tớ buột miệng chửi thề: ĐM, sao các anh ăn gì mà ngu quá vậy?. Mình quen mồm như trước đây đùa rỡn với bạn bè…Chúng nó sừng sộ hỏi tội làm tớ xanh mặt.

    Cậu Trác “Thuốc lào” tiếp: Mẹ kiếp! Mà học chỉ vài ngày thì bay thế chó nào được A37. Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland trụ trì ít nhất vài tháng học Anh ngữ chứ đâu có đùa. “Nhân viên lái” Nguyễn Văn Lục sau đó kể rằng y và đồng bọn được hai “nhân viên lái” mới được lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học Anh văn và học bay. Cả hai đều gầy nhom. Người cao để râu tên là Xanh, người Quảng Bình, theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On, quê ở Gò Công. Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không hỏi đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử trí trong trường hợp máy móc có sự cố, mà hỏi ngay vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay… Mẹ kiếp! Chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát rét. Huống hồ bọn giặc lái tiếng Anh tiếng u không biết một mẩu, ngoài ba tiếng “oẳn tù tì” thì làm thế nào hiểu chó được hết những tiếng Anh trong buồng lái để khỏi phải nhớ các công-tắc, vị trí các đồng hồ? Cái này phải xét lại ạ! “Những vấn đề cơ bản” nghĩa là cần điều khiển phi cơ, là những nút bấm, nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều khiển bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, v…v…Các con không cần hỏi tới thì bay cái củ gì?

    “Người lái” kiêm nhà văn Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Gia Lâm vào Đà Nẵng đêm đó lo cóc ngủ nghê gì được. Phần vì cấp trên giao phó cho nhiệm vụ học bay A37 chỉ trong vài ngày. Tuy nhiên Hữu Mai dẹp tự ái “đỉnh cao trí tuệ”, ao ước: Giá có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để yêu cầu họ ghi lại cho những hàng chữ Anh ở trong buồng lái thì hay quá…(…)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Ngày 28-4, Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống, việc đầu tiên là gửi điện văn cho đại sứ Martin vào sáng sớm 29-4, yêu cầu các nhân viên của cơ quan tùy viên quốc phòng DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975.

    Thời điểm yêu cầu của Dương Văn Minh trùng hợp với lịch trình rút lui đã được định trước của Hoa Kỳ. Theo Kissinger, lời yêu cầu này của ông Dương Văn Minh đã tránh tiếng dùm cho Hoa Kỳ là đãbỏ rơi miền Nam Việt Nam. (Tears Before The Rain – Larry Engelmann)

    “Chúng mày giỏi. Lính tao chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày…”
    Để biết rõ cái “giỏi lắm” của những chiến sĩ “người lái anh hùng” Vi-Xi thế nào, mời bạn đọc hãy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn “Trận đánh cuối cùng” của văn hữu…Hữu Mai viết ca tụng “anh hùng” Nguyễn Thành Trung và các đồng chí giặc lái Vi-Xi một cách vô duyên trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 25, năm 82, để thấy trình độ nói phét của Vi-Xi nó “siêu” đến chừng nào mà cười đau khóc hận cho vận số hẩm hiu đất nước…

    Cứ như trong xi-nê-ma! Cảnh 5 chiếc A37 đánh phá Tân Sơn Nhất được mô tả y hệt trong phim “Bla Bla Black Ship” vừa bay bỏ bom, bắn cà nông, vừa cười vui vẻ. Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom không ra, làm vòng tiếp. Đại đội phó Từ Đễ theo sau Trung, nhắm hangar A37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C130 vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này bãi đậu Whiskey Five (W-5). Rồi đại đội trưởng Lục thả bốn trái nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng và On, theo tớ Vượng chỉ là… “thợ vịn”! Ngoài Bắc chúng gọi bằng danh từ rất kêu, là “tháp tùng tử” nhắm vào hangar A37 nhưng đều trật lất! Đến lúc đó mới nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
    – Tân Sơn Nhất bị pháo kích…!

    Một giọng nói khác bằng tiếng Anh, chắc là của một tên Mỹ:
    – A37 của phi đoàn nào?

    Giọng hách dịch của tên Mỹ làm cho đại đội phó Từ Đễ nổi nóng. Anh quát to:
    – Phi đoàn A-Mê-Ri-Ca đây!

    Mẹ kiếp, thối không ngửi được. Đang bay trên trời, trong phòng lái kín mít, lo bỏ bom, nhắm bắn mục tiêu mà có “thiên lý nhĩ”, nghe được cả “tiếng tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên…” thì quả là Tề thiên đại thánh! Rồi đang từ một thằng “người lái” mới vài hôm trước không biết tiếng Anh và “làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái…” vậy mà hôm sau đã nghe rành rọt “giọng một tên Mỹ” mới ly kỳ!

    Bây giờ từ sân bay mới vang lên những tiếng hoảng hốt:
    – Bốn A37 ném bom Tân Sơn Nhất…Đề nghị các máy bay hãy tránh xa!

    Cái vụ “nghe thấy tên trực sân bay” ở đoạn trên có thể tạm hiểu là đương sự nghe trên tần số hành quân của bọn Ngụy cũng được đi. Nhưng việc “từ sân bay bấy giờ mới vang lên những tiếng hoảng hốt” thì đúng là…“bu-siệt”! Không quân miền Nam đâu có lối nói lịch sự kiểu Vi-Xi “đề nghị”? Người miền Nam nói “yêu cầu tránh xa” chứ trong trường hợp bấn xúc xích đó, làm quái gì có mục…“đề nghị tránh xa”?

    Văn hữu Hữu Mai vớt vát thể diện cho biên đội trưởng Nguyễn Thành Trung và bọn thợ gắn bom mà bom không nhả (có thể lính của ta bị ép buộc trang bị bom đạn cho Vi-Xi đã cố tình chơi đểu (?)… Chiếc máy bay của biên đội trưởng đã giận dữ lao xuống lần thứ ba. Lần này, bốn trái bom của anh cùng rơi một lúc. Một đám cháy mới bùng lên tại khu vực tập trung máy bay tiêm kích F5… Xạo ke! Tân Sơn Nhất làm chó gì có khu vực nào tập trung F5?
    (Chuyến bay cuối cùng – Đào Vũ Anh Hùng)

    – : Tất cả đài kiểm soát hạ và cất cánh phi trường cũng như đài không lưu đều là người Việt, không có cố vấn Mỹ làm việc trên vô tuyến. (Phạm Hy Oánh)
    – : Nguyễn Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong Không quân VNCH.

    Góp nhặt…ghi chép…
    Tướng Trần Văn Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28-4-1975:
    Vào 6 giờ chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đã về đến nhà, lại nghe tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ tổng tham mưu và Bộ Tư Lệnh Không Quân thì được báo cáo có 3 phi cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và họ đã sử dụng để bay vào Sài Gòn dội bom. Hai phản lực cơ F5 của Không quân từ Biên Hoà đã bay lên nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này.

    – : Tài liệu của Đại Tướng Cao Văn Viên cũng cho biết chỉ có 3 phi cơ trong cuộc dội bom.
    – : Trong Những ngày cuối cùng của Sài Gòn, Winfried Scharlau viết: 4 chiếc máy bay.
    – : Hãng thông tấn Reuter đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành Trung, phi công A37 của không lực VNCH đã lấy máy bay xạ kích dinh Độc Lập. Và hướng dẫn 3 chiếc A37 khác đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 28-4-75, ngày hấp hối của miền Nam Việt Nam.

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Hai 28-04-1975

    Ông Trần Văn Đôn kể lại trong Việt Nam nhân chứng rằng tối hôm trước ông nói với ông Dương Văn Minh là nên “nhận liền nhiệm vụ để bắt tay vào việc” thì ông Minh nói rằng: 5 giờ chiều mai. Ông Đôn nhận xét rằng sở dĩ ông Minh muốn đợi đến 5 giờ chiều hôm sau là vì “ông coi ngày giờ tốt trước khi nhận việc”. Ông Trần Văn Lắm kể lại tối 27-4, ông Lắm đến gặp ông Minh và đề nghị nên làm lễ bàn giao vào 9 giờ sáng ngày hôm sau 28-4. Ông Minh đi qua phòng bên cạnh để bàn luận với Trung tướng Mai Hữu Xuân là người rất tin bói toán, sau đó ông Minh ra nói rằng: 9 giờ sáng không được tốt, bàn giao lúc 5 giờ rưỡi’ chiều đi.

    Theo Tiziano Terzani tác giả cuốn sách Giải phóng! (The Fall and Liberation of Saigon), người ký giả Ý bị trực xuất ra khỏi Việt Nam trước đó ít lâu và vừa mới trở lại Sài Gòn sau khi ông Thiệu từ chức. Tiziano Terzani, một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi lễ giao quyền 5 giờ chiều 28-4 tại dinh Độc Lập, đã tả lại như sau:

    Sau khi cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một người lính tiến vào tháo gỡ lá Quốc kỳ sau bục diễn đàn rồi gỡ quốc huy của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế bằng huy hiệu mới của Dương Van Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa, tượng trưng cho hai yếu tố đối nghịch tạo thành sự đồng nhất trong vũ trụ”. (*** Tiziano Terzani, Sđd, trang 40-41).

    Nhiều nhân chứng dự buổi lễ trao quyền hôm đó đã xác nhận rằng ông Dương Văn Minh chỉ đọc diễn văn mà không hề tuyên thệ “trung thành với Hiến pháp VNCH”, điều đó có nghĩa là tân Tổng thống Dương Văn Minh không còn công nhận bản Hiến Pháp l967 của nền đệ nhị cộng hòa. Như vậy, cho tháo gỡ lá quốc kỳ trước khi đọc diễn văn và không tuyên thệ khi nhậm chức tổng thống VNCH, phải chăng ông Dương Văn Minh muốn gián tiếp nói với phe bên kia rằng không còn liên hệ gì đến đệ nhất và đệ nhị cộng hòa mà tượng trưng là lá cờ vàng ba sọc đỏ vừa được ông cho gỡ xuống cất đi?
    (Trần Đông Phong)

    Góp nhặt sỏi đá
    Tướng Cao Văn Viên làm đơn từ chức tổng tham mưu trưởng, trong khi chờ đợi Tổng Thống Trần Văn Hương ký sắc lệnh. Tướng Cao Văn Viên chỉ định Trung Tướng Đổng Văn Khuyên, Tổng cục Trưởng Tiếp Vận, xử lý thường vụ tham mưu trưởng.
    Rồi Tướng Cao Văn Viên di tản ra Hạm đội 7 vào trưa thứ Hai ngày 28-4-1975.

    Quân sử ngoại truyện
    Mấy ngày sau tôi (sau buổi duyệt binh ngày 2-9-1975) và anh Ba (Lê Duẩn) vào Nam, tôi đã đến quan sát bộ Tổng tham Mưu quân đội Nguỵ. Tại phòng làm việc của Tổng tham mưu Trưởng, tôi chú ý đến tờ lịch ngày 28 tháng 4 còn bóc dở.
    Trong phòng trang trí vũ khí, nhiều loại vũ khí hiện đại đều được trưng bày. Trên một tấm bản đồ Đông Dương chi chít những dấu chấm xanh, đỏ, đánh dấu những nơi mà vũ khí mà trang bị điện tử phát hiện các căn cứ của ta, nhất là trên đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Cảm tưởng sâu sắc nhất của tôi là: Vũ khí kỹ thuật Mĩ dù hiện đại vậy đấy mà vẫn thất bại.
    (Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng – Võ Nguyên Giáp)

    Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
    Sáng hôm sau chúng tôi rút về Long Bình. Ngày 28-4-1975, Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân có nhiệm vụ hỗ trợ cho một đơn vị bạn tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành.

    Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của Bắc quân đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân. Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ là người chết đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm poncho. Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí phòng ngự thì bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong”. Chúng tôi phải dùng lựu đạn M26 để chặn bước tiến của địch. Những trái M72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi đã khiến cho chiến xa địch thoái lui.

    Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T54 tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi, xe đè nát thân thể những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông Thượng sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M67 xuống chân đồi. Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh địch loạng choạng ngã chúi xuống đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen.

    Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những nòng M72 đã sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu M60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ phòng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền đồi, xạ thủ 12.8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa.
    (Vương Mộng Long)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Sau khi Trung tướng Đồng Văn Khuyên, rời bộ tổng tham mưu trưa ngày 29-4. Tiếp đến là Trung tướng Nguyễn Văn Minh. quân lực VNCH coi như không còn cấp chỉ huy.

    3 giờ chiều 29-4, tân Tổng thống Dương Văn Minh cử một số cựu tướng lãnh đã về hưu giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng, phụ tá là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Chiều 30-4, tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp với các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”.

    Sáng 30-4, Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng tổng cục chiến tranh chính trị đến bộ tư lệnh hải quân tìm phương tiện di tản. Chuẩn tướng Hạnh “đương nhiên” là tổng tham mưu trưởng của tân Tổng thống Dương Văn Minh.

    Giây phút hấp hối của VNCH
    Big Minh nhận chức vụ vào trưa ngày 28-4 với phó tổng thống là Thương nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, cựu khoa trưởng luật khoa giữ chức vụ thủ tướng. Khoảng 2 giờ trưa ngày 28-4, Lý Quý Chung điện thoại yêu cầu hệ thống trưởng hệ thống truyền thanh sang họp. Tôi điện thoại về nhà thiếu tá Thăng, không có ai bốc điện thoại. Buộc lòng tôi phải đại diện ông sang họp. Buổi họp kéo dài khoảng 15 phút. Chỉ thị duy nhất của ông Chung vắn tắt có bấy nhiêu lời: Tình hình nghiệm trọng, có nhiều phần trăm chúng ta phải đầu hàng, nhưng nhiệm vụ của truyền thanh và truyền hình là phải túc trực để nhận chỉ thị. Còn nước còn tát.

    Sau đó ông Chung ra lệnh phải bỏ tất cả nhạc quân hành của cục chính huấn. Có thể nói tình thế tuyệt vọng được phản ảnh qua hiện tình của “Tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hòa, phát thanh từ thủ đô Saigon” vào lúc đó. Chúng tôi còn khá đủ biên tập viên, phóng viên, kiểm thính viên và kỹ thuật viên teletype cần thiết để làm việc. Bộ phận quan trọng nhất về kỹ thuật và đài dự phòng tại trung tâm phát tuyến Quán Tre ở Quang Trung. Nhưng các phóng viên tại hai mặt trận Long Khánh và Long An thì không còn phương tiện gởi bản tường trình nào nữa kể từ 5 giờ chiều ngày 28-4. Trước đó, Tổng thống Dương Văn Minh đích thân gọi điện thoại vào đài phát thanh. Vẫn giọng hiền lành và dùng chữ “qua” làm ngôi thứ nhất, ông cho biết đã cử tướng Lâm Văn Phát làm tổng tham mưu trưởng quân đội và yêu cầu tôi loan báo trước khi văn thư chính thức đến đài được gởi tới đài vào sáng hôm sau.

    Xong, Big Minh hỏi tên và tuổi: Em còn trẻ, sao không tìm cách đi đi?
    Tôi trả lời vắn tắt: Thưa tổng thống chẳng còn đường, tôi lại quen biết ít.

    Ông lại hỏi tiếp: Qua thấy tình hình không hy vọng gì. Cụ Huyền đang ở Tân Sơn Nhất để thương lượng với họ (Cộng sản), mặt trận Long Khánh tan rồi, họ đưa xe tăng và hỏa tiễn vào sát Sài Gòn. Em liệu giữ được tiếng nói quốc gia trong bao lâu nữa.
    Tôi đáp: Chừng nào tôi còn được bảo vệ, chừng đó làn sóng phát thanh vẫn còn duy trì được tiếng nói quốc gia, thưa Tổng thống.
    (Vũ Ánh)

    Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
    Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Dưới ánh đèn xe, những cán binh Bắc quân trong đợt xung phong này hình như không còn hăng hái như hai đợt trước, họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá nhấp nhô. Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ “Ùm!” thì những anh bộ đội cũng quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng rừng. Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng tôi. Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương, miệng la, “Biệt Động!…Sát!” tay bóp cò M16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp. Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không còn biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những con quái vật T54 để đánh quả lựu đạn sau cùng.

    Tôi đã leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini thì một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc!

    Chuyện thời hậu chiến
    Thường, sau khi chết, linh hồn người ta còn lại nhưng thân xác thì mục rữa. Riêng hắn, sau khi tử trận vào ngày 30-4-75, linh hồn đã tan mất nhưng thân xác thì vẫn còn. Hiện hắn đang ở Mỹ, trông rất hồng hào. Mỗi lần hắn đi khám bệnh, các bác sĩ đều bảo: “OK”.
    (Website Tiền Vệ – Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

    Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù, một biệt động quân đã bỏ được một trái M26 vào trong lòng chiếc T54 hướng ĐĐ4/TĐ82 khiến nó quýnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn tên nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu họng M16 đã nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than tiếng nào. Có vài biệt động quân còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chúi mũi M16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng. Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ.
    Đoàn xe biến dạng trong đêm.(…)

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Hai 28-04-1975

    Trong Decent Interval, Frank Snepp cho biết cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn Tiến Dũng nói: Chiều 28-4, bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh phân tích tình hình toàn bộ ở Sài Gòn và thấy rằng phe địch rất hoang mang, bộ chỉ huy mất trật tự trong hai ngay đầu của chiến dịch, các mũi tiến quân của ta vẫn hoạt động theo đúng kế hoạch. Do đó Văn Tiến Dũng ra lệnh cho cuộc tổng tấn công phải được khởi sự vào sáng ngày 29-4 để tiến về Sài Gòn. Lệnh này đã được gởi đến mọi đơn vị cũng như thông báo cho Hà Nội. Tối hôm đó Lữ đoàn chiến xa 203 của Bắc Việt với nhiệm vụ tiến thẳng vào Sài Gòn đã được lệnh xuất từ Biên Hòa, tắt đèn tiến theo Quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn”. (*** Frank Snepp, sđd, trang 470)

    Trong khi Dương Văn Minh đang chuẩn bị tổ chức lễ trao quyền tại dinh Độc Lập thì Bắc Việt đã lấy phi cơ A37 của VNCH vào hồi đầu tháng 4 từ Nha Trang bay vào oanh tạc dinh Độc Lập. Việc này có nghĩa là tuy đã được biết Dương Văn Minh nhận chức tổng thống để thương thuyết theo sự đòi hỏi của họ như ông ta đã rêu rao, những “người anh em bên kia” của ông vẫn ra lệnh cho phi cơ bay vào oanh tạc Sài Gòn. Trong cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn Tiến Dũng đã nói rằng: Đó là một cuộc phối hợp một cách tuyệt vời.(…)

    Giây phút hấp hối của VNCH
    Buổi chiều 28 là buổi chiều có khá nhiều biến chuyển. Khoảng 6 giờ 30 chiều, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu chúng tôi có mặt tại đài truyền hình THVN9 ở ngã tư Hồng Thập Tự-Cường Ðể để thu hình và thu thanh lời yêu cầu của ông đòi chính phủ Hoa Kỳ rút hết lực lượng bảo vệ sứ quán Mỹ, các nhân viên và chuyên viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ đồng hồ.

    Ðó là lần cuối cùng tôi gặp Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Từ phòng thu hình ra, ông Mẫu không nói năng gì thêm ngoại trừ trả lời một câu hỏi của tôi về hiện tình. Ông nói thẳng: "Tình hình tuyệt vọng. Họ (những nhà lãnh đạo trước) đã làm nát bấy đất nước trước khi quá muộn để phía bên kia thương lượng với chúng ta. Việc yêu cầu Mỹ rút hết những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam chỉ để thành phố này không thành biển máu vô ích mà thôi".

    Tôi không nhớ hết những điểm giải thích của thủ tướng Mẫu nhưng những điểm chính trong lời lẽ của ông thì không thể nào quên được. Vì đài truyền hình và đài phát thanh chỉ cách nhau sân vận động Hoa Lư nên chúng tôi lội bộ về đài. Gặp Vũ Thành An vào tăng cường, tôi giao cuốn băng ghi âm cho anh yêu cầu hoàn chỉnh với nhạc hiệu và cho phát thanh cứ 15 phút một lần.

    Sau khi tắm rửa xong, tôi ghé qua phòng tin tức. Ðủ tám biên tập viên và chủ bút cho ca chiều. Ông H.C đưa tôi một bản tin của AP nói đến việc di chuyển của hàng không mẫu hạm chở trực thăng Midway ra khỏi Vịnh Thái Lan hướng về Việt Nam. Ông HC là một chủ bút rất giỏi và nhạy bén với tình hình. Lúc tôi còn học lớp huấn luyện phóng viên vô tuyến truyền thanh, ông là một người thầy tận tụy chỉ dẫn cho chúng tôi cách viết một bản tin, cách chuyển một bản tin từ tiếng Anh qua Việt ngữ, cách phỏng vấn và làm sao khi dự một cuộc họp báo xong chỉ 10 phút sau có một bản tin ngắn. Ông nói: Muốn được như vậy cần có kiến thức thời sự và nắm bắt được điểm chính trong những lời tuyên bố tràng giang đại hải của người chủ trì họp báo.

    Khi tôi vừa xem xong bản tin AP, ông HC nói: Chắc mất rồi bạn ơi. Nhưng thôi kệ mẹ nó. Hút một điếu thuốc lào không. Tao có trà nóng ngon lắm. Hồi chiều trước khi đi làm, vợ mới mua cho một ít bánh bía nhân hạt sen mới sang chứ.(…)

    Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
    Đêm ấy tôi đã sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ.

    Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi quyết định cho đơn vị rút lui. Một trái mìn cóc nổ dưới chân chuẩn úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều sập của đại úy Hoàn, xác đại úy tiểu đoàn phó đã bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng một ngả. Chúng tôi xuống đồi tuần tự, các đại đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi, tất cả đã ra đi êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm 28-4-1975 máu chúng tôi, máu những người biệt động còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương.

    Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia.

    Đêm 28-4, chợ chiều rồi! Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu đội hình trong bãi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông.

    Gió ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng…
    (Vũ Mộng Long)

    – : Sư đoàn 325 (F325) đánh chi khu Long Thành, ngoài đụng độ với biệt động quân ở trên còn đụng trận với thủy quân lục chiến ở khu vực này. Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3-1075.

    Giây phút hấp hối của VNCH
    Tôi áp dụng phương thức khẩn cấp: Loại bỏ tất cả những tin nào có thể gây hoang mang trong dân chúng khiến họ đổ vào sứ quán Mỹ trên đường Thống Nhất vì những vụ đạp lên nhau và những vụ người di tản cố gắng trèo lên tường sứ quán bị TQLC Hoa Kỳ đánh trọng thương đã xảy ra. Trong những ngày cuối cùng, phải nói rằng các hãng thông tấn AP, UPI. Reuters làm việc rất hữu hiệu. Những bản tin họ phát đi giúp tôi nhận ra ngay chiều hướng của tình thế: “Kế hoạch dùng TQLC bảo vệ hành lang Saigon-Vũng Tầu để di tản những nhân viên cao cấp của chính phủ VNCH mà tính mạng sẽ nguy hiểm nếu lọt vào tay Bắc Việt không thể nào thực hiện được sau khi có lời tuyên bố của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đòi Hoa Thịnh Ðốn rút toàn bộ nhân viên Mỹ ra khỏi Việt Nam".

    Khoảng chín giờ tối 28, chủ bút H.C đưa tôi bản phân tích của hãng thông tấn AP và nói:
    "Bọn Mỹ có thể sẽ phải áp dụng kế hoạch di tản khẩn cấp nhân viên Mỹ bằng trực thăng vào ngày mai ra tầu Midway lúc đó đậu cách Vũng Tầu có 40 hải lý và hai hàng không mẫu hạm và các khu trục hạm của Ðệ thất hạm đội cũng đang tiến sát Vũng Tầu".

    Ông còn cho tôi xem một bản tin khác nói đến việc mất tuyến Long Khánh và bộ chỉ huy của tướng Lê Minh Ðảo rút về tới Biên Hòa. Bản tin cũng còn nói Sư đoàn 18 là sư đoàn duy nhất của VNCH còn chống trả khá mãnh liệt trên đường rút. Văn phòng trưởng của hãng thông tấn AP lúc đó là George Esper cũng gởi trên máy một bản tin rất dài về việc rút lui có trật tự của Liên đoàn 81 Biệt kích dù và các sinh viên sĩ quan các khóa cuối cùng của trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.

    Ông hỏi tôi: Lo chứ?. Tôi nói: Có gì mà không lo nhưng sẽ phải viết rất khéo, tránh gây xúc động cho gia đình những đơn vị nào chưa biết số phận chồng con họ ra sao. Vị chủ bút đầy kinh nghiệm này cười và nói: Ðược cậu khỏi lo, đó là nghề của tao.

    Sở dĩ tôi nhắc lại chi tiết này để cho thấy rằng cho tới giờ phút hấp hối của chế độ đài phát thanh Saigon vẫn là tiếng nói VNCH, tuy có người bỏ chạy nhưng không phải là tất cả. Những người được giao phó làm công việc của mình vẫn làm việc với một thái độ bình tĩnh… Chứ không đã tan hoang như Văn Tiến Dũng viết trong cuốn Ðại thắng mùa xuân, một cuốn sách viết hết sức cẩu thả và dựng đứng nhiều chi tiết.(…)

    Tháng Tư đen - A
    Vào đúng dịp kỷ niệm 37 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam, một cuốn sách về những ngày cuối của xung đột kéo dài hai thập niên với sự thiệt mạng của hàng triệu người đã ra mắt mang tênTháng Tư đen, sách dày gần 600 trang của tác giả George J. Veith vẽ lại bức tranh hãi hùng của những trận chiến cuối cùng với sự thiệt mạng của 100.000 lính Nam Việt Nam.

    Bản thân Hà Nội ước tính họ mất 6.000 bộ đội chỉ trong vài ngày cuối tháng Tư năm 1975, theo điểm sách Tháng Tư đen trên báo Wall Street Journal của chuyên gia tư vấn quốc phòng Mark

    Moyar, người cũng là tác giả cuốn Thắng lợi bỏ lỡ: Cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965.
    Moyar đánh giá Tháng Tư đen đã “điền vào khoảng trống lịch sử” của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và cuộc chiến Việt Nam không còn là mối quan tâm hàng đầu của các phóng viên Hoa Kỳ, khiến các tài liệu tham chiếu bằng tiếng Anh để viết về giai đoạn này không có nhiều. Ông Veith nhận xét thất bại trong tháng 4-1975 không phải do sự lúng túng của chính quyền miền Nam và càng không phải do sự yếu kém trên chiến trường của lực lượng VNCH. Theo ông, lực lượng Nam Việt Nam bao gồm nhiều chỉ huy từng đẩy lùi cuộc tấn công của miền Bắc hồi năm 1972 và đã có những trận đánh thành công nhưng ít được biết tới trong giai đoạn 1973-1975. Theo bài điểm sách của chuyên gia Moyar nói: Ông Veith đã minh chứng rằng lý do gốc rễ của sự thất bại ở miền Nam là việc cắt giảm trợ giúp của quốc hội Hoa Kỳ trong năm 1974. Ngoài ra nguyên nhân khiến VNCH bị sụp đổ để rộng đường dư luân. Đồng thời qua tuyên bố của tướng Westmoreland (tại Nam Cali vào tháng 9, 1995), vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM(!).

    Ông Veith nói sự thiếu hụt Không Quân cũng làm cho miền Nam không thể cho máy bay ném bom lực lượng miền Bắc ngay cả khi họ biết những nơi đối thủ tập trung đông quân (1). Theo các con số từ sách Tháng Tư đen được cây viết Moyar trích dẫn, Nam Việt Nam có tới hơn 760,000 binh sĩ nhưng chỉ tập hợp được 110,000 ở Sài Gòn trong trận đánh cuối cùng.

    Thêm nữa việc dân thường di tản với số lượng lớn cũng ảnh hưởng đến khả năng triển khai và di chuyển quân của Nam Việt Nam. Ông Veith nói việc Bắc Việt Nam giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường khi quân miền Nam rút đi. Việc tắc nghẽn đường và cầu khi dân thường di tản làm cho một số đơn vị chiến đấu của VNCH không rút kịp và bị lực lượng miền Bắc tiêu diệt. Một trong những ví dụ ông Veith đưa ra và được chuyên gia Moyar dẫn lại là đợt rút quân của Nam Việt Nam để cố thủ ở Đà Nẵng.

    Phần kết thúc bài điểm sách cuốn Tháng Tư đen, chuyên gia quốc phòng Moyar nói cuốn sách là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái giá phải trả bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh. Ông nói 100.000 lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại “cải tạo”. Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng đã bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản. (Alan Dawson)

    (1) Xem “Rules Of Engagement” của Mark Berent ở trang dưới.
    – : George J. Veith là nhà văn đồng thời cũng là sử gia.
    – : Tháng Tư đen, dịch giả Nguyễn Ngọc Anh.
    Nguyên tác Black April: The Fall of South Viet Nam, tác giả George J. Veith.
    – : Khác với cùng tựa đề Tháng Tư đen của dịch giả Nguyễn Kim Vinh.
    Nguyên tác Cruel April (The Fall Of Sai Gon), tác giả Ouvier Todd).


    Tháng Tư đen - B
    Cú lừa đảo lớn nhất thế kỷ 20 do Cộng sản Việt Nam thực hiện, đã hoàn toàn thành công bằng “Cái chết của Sài Gòn” ngày 30-4-1975, khi quân đội chính quy Bắc Việt dưới là cờ ngụy trang hai màu xanh đỏ với ngôi sao vàng của Mặt trận giải phóng miền Nam, tiến vào thủ đô Sài Gòn. Hàng triệu người miền Nam, và hàng triệu người miền Bắc cùng rơi lệ trong ngày đó.

    Người ta không chỉ khóc vì đau khổ mà còn khóc vì sung sướng nữa. Không chỉ ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghiã, ngay ở các nước phương Tây, và ngay chính ở Mỹ người ta cũng ăn mừng ngày 30-4-1975. Để thoả mãn cái mặc cảm tự ti thua kém chăng? Ngày 30-4-1975, ở Paris, London, Washington, những người phản chiến và thiên tả mở champagne ăn mừng, rồi tràn ra đường reo hò cho chiến thắng của người cộng sản miền Bắc với những đoá hoa cẩm chướng màu đỏ đeo trên áo hay cài trên tóc. Nhưng cuộc vui đã không kéo dài.

    Phải mất “20 năm đánh giết” mới có được “một ngày” vui toàn thắng, thế mà niềm vui chiến thắng lại vội sớm ra đi. Nhất là đối với những người cộng sản miền Nam trong Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (1973), tiền thân là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập ngày 20-12-1960 ở Tân Lập, một xã trong vùng “giải phóng” Tây Ninh theo nghị quyết của miền Bắc năm 1959, với nhiệm vụ kết hợp các lực lượng võ trang ở miền Nam.

    Mặc dù là con đẻ của người miền Bắc, nhưng mặt trận giải phóng luôn tuyên truyền và xuất hiện trong mắt của thế giới, như một phong trào võ trang của nhân dân miền Nam tự đứng lên để giải phóng miền Nam. Và họ đã được 70 quốc gia (1) trên thế giới công nhận sau đó.

    Cuộc vui không kéo dài cho những người cộng sản miền Nam, vì ngày 15-11-1975, chỉ 7 tháng sau ngày chiến thắng 30-4. Tại dinh Độc Lập cũ, và người miền Bắc tuyên bố: ”Thống nhất đất nước, nước Việt Nam là một”. Mặt trận giải phóng miền Nam đã bị các “đồng chí lãnh đạo miền Bắc” khai tử như VNCH đã bị khai tử với “Cái chết của Sài Gòn” 7 tháng trước.

    Những người miền Nam ngỡ ngàng nhớ lại lời Phạm Văn Đồng tuyên bố năm 1968 tại Hà Nội: Miền Nam sẽ có chính phủ và chế độ theo sự chọn lựa riêng. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bộ trưởng y tế chính phủ cách mạng lâm thời là người đầu tiên trả lại thẻ đảng cùng với…”niềm tin cách mạng”. Phạm Văn Đồng chấp thuận đơn xin ra khỏi đảng của bà với điều kiện chỉ được công bố 10 năm sau đó. Bộ trưởng tư pháp chính phủ cách mạng lâm thời Trương Như Tảng sau đó đã xuống thuyền vượt biên qua Pháp. Và ngay cả tướng Trần Văn Trà, chủ tịch ủy ban quân quản Sài Gòn ngày nào cũng được về hưu non dưới hình thức quản thúc tại gia.

    Thật ra mặt trận giải phóng đã không còn lực lượng võ trang của mình từ năm 1968. Trong cuộc Tổng tấn công Tết Mâu Thân năm 1968, những nhà lãnh đạo miền Bắc sau khi vi phạm “Thoả thuận ngưng bắn đón Tết Mâu Thân” giữa hai chính phủ, đã mượn tay người Mỹ và quân đội VNCH giết chết gần 80% lực lượng võ trang của mặt trận giải phóng (2), khi đưa những “người đồng chí miền Nam” ra làm lực lượng xung kích, dẫn đường cho quân chính quy Bắc Việt đi sau, trong cuộc tấn công vào các thành phố miền Nam để ngăn trừ hậu hoạn sau này.

    Thế giới bắt đầu hoài nghi với những cái nhìn quan ngại về Việt Nam, nhưng 70 quốc gia đã từng công nhận Mặt trận giải phóng miền Nam vẫn không lên tiếng sau ngày Chính phủ cách mạng lâm thời bị khai tử. Trong thế giới ngày càng có mấy ai đủ can đảm để thú nhận những lỗi lầm của mình? Phải mất 40 năm người ta mới hiểu rõ điều gì đang xẩy ra ở Liên Xô. Phải mất 30 năm người ta mới hiểu rõ điều gì đang xẩy ra ở Trung Quốc. Nhưng chỉ cần 3 năm người ta hiểu ngay điều gì đang xẩy ra ở Việt Nam. Lương tâm của thế giới bắt đầu rúng động trước thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam, với những con người liều chết bỏ nước ra đi ngày càng đông. Người Mỹ đã rút quân từ năm 1973, chính quyền Sài Gòn đã chết từ năm 1975. ”Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào” rồi, vậy điều gì đã khiến người dân Việt Nam liều chết rời bỏ đất nước ra đi, trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé được chế tạo không phải để vượt biển.

    Những trí thức thiên tả, những người phản chiến đã từng ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội và Mặt trận giải phóng, những người đã đeo những bông hoa cẩm chướng màu đỏ trên áo và cài bên tai, những người đã thức suốt đêm uống champagne ờ Paris, London, Washington ăn mừng ngày 30-4-1975 năm xưa bỗng thấy lương tâm mình chao đảo. Lại những cuộc xuống đường ở Washington do Joan Baez chủ xướng, nhưng lần này không phải để ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội, mà là để lên án chính phủ miền Bắc. Và với những giọt nước mắt muộn màng, những trí thức thiên tả phương Tây đã thú tội với người Việt Nam bằng cách quyên góp tiền mua tàu cứu vớt người Việt Nam vượt biển.

    Nhưng lịch sử đã sang trang rồi.

    Những giọt nước mắt hối hận muộn màng của thế giới, và cả của những người chiến binh miền Bắc tiến vào Sài Gòn ngày 30-4 năm xưa, không thể làm sống lại VNCH.

    VNCH đã chết 40 năm rồi. Nhưng cái chết của VNCH đã không trở thành vô ích. VNCH đã đóng góp phần mình vào công cuộc chống lại sự phát triển của chủ nghiã cộng sản cho nhân loại, đã giúp thế giới phá vỡ huyền thoại “cách mạng và giải phóng” để nhận diện rõ ràng chân tướng của người cộng sản. Nhưng bất hạnh thay, VNCH đã hy sinh mà không giúp được chính mình trước cú lừa đảo lớn nhất trong thế kỷ 20, hay còn có thể là cú lừa đảo lớn nhất trong lịch sử nhân loại, mà đảng Cộng sản Việt Nam đã biên kịch, đạo diễn và thủ vai chính.

    Bằng cái chết của Sài Gòn ngày 30-4-1975, Việt Nam là đất nước bất hạnh cuối cùng trên thế giới, rơi vào tay người cộng sản sau cái chết của Nam Vang 18 ngày trước đó.
    (The Fall Of Sai Gon – Olivier Todd)

    Olivier Todd là nhà văn, nhà báo thiên tả Pháp. Thiên tả và là chuyên gia về chiến tranh VN đã viết nhiều bài báo gây bất lợi cho VNCH. Đến năm 1973, sau Hiệp định Paris mới có cơ hội nhìn thấy sự thật nên đã nhận sai lầm và viết tác phẩm nổi tiếng Cái chết của Sài Gòn.

    (1) Chỉ có 23 nước công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước đã đặt quan hệ ngoại giao. Những nước này là các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa và một số nước thuộc Thế giới thứ ba.
    (2) Trận Mậu Thân, xem Thâm u bí sử 1 với Võ Văn Kiệt, Thâm u bí sử 2 với Trần Văn Trà, nằm ở tiết mục Ngày thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.


    Quân sử ngoại truyện
    Tháng 9 năm 1975, tại Hà Nội, Hội nghị trung ương lần thứ 24 của Đảng lao động Việt Nam xác định mục tiêu thống nhất đất nước về mọi mặt. Đại diện đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, do ông Trường Chinh đứng đầu, và đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, do ông Phạm Hùng đứng đầu. Thống nhất đất nước về mọi mặt:

    Xóa bỏ khu phi quân sự theo vĩ tuyến 17.
    Quốc kỳ, quốc huy là cờ đỏ sao vàng.
    Lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Quốc ca là bài Tiến quân ca.
    Thủ đô là Hà Nội.
    Đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành…thành phố Hồ Chí Minh.

    Những quy tắc giao chiến
    Thiếu tá phi công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam có thể đã chiến thắng tại chiến trường vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ ngưng ném bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp cho Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng 4-1975. Hãy nghe Mark Berent tâm sự:
    "Lần đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực lượng không kiểm tiền phương (Forward Air Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà tổng thống Johnson ra lệnh ngưng ném bom. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném bom, có lúc phi vụ không được chấp thuận. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai biết.
    Trong giai đoạn đó chúng tôi bay trên lãnh thổ Bắc Việt. nhưng vì “Những quy tắc giao chiến” (Rules Of Engagement): Chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang bi đã bị cắt giảm. Trước kia tôi vẫn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Mỹ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này! chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái nguyên tắc giao chiến oái oăm này!?. Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng…Tất cả những gì Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam mới phải?
    Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng!"

    (To Bear Any Burden – Al Santoli)

    – : Trần Văn Trà, tư lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời …”. (…trích lục lại)

    Lạc đạn
    Lịch sử xuất phát đường Hồ Chí Minh, hay đúng ra là một hệ thống đường dùng để tiếp viện cho các phong trào võ trang của cộng sản ở miền Nam, bắt đầu sau khi Nghị quyết 15 ra đời vào tháng 5-1959. Trong quyết nghị này, nói một cách tổng quát, bí thư thứ nhất Lê Duẩn biểu quyết là phải dùng bạo lực võ trang để chiếm miền Nam và thống nhất đất nước. Muốn thực hiện mục đích đó, miền Bắc phải tìm cách du nhập vũ khí, cán bộ khung (cán bộ nồng cốt) vào Nam để chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kỳ.

    Từ nghị quyết đó, cộng cản Việt Nam cho thành lập một tổ chức có tên là “Đoàn 559” để tìm và thành lập một con đường tiếp vận vào Nam. Về giai đoạn thành hình đường Hồ Chí Minh, tác phẩm cho một cái nhìn tổng quát và khá chi tiết là Mở đường Trường Sơn – đường mang tên bác, của Thiếu tướng Võ Bẩm, lúc đó mang quân hàm thượng tá. (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)

    Những quy tắc giao chiến
    Các phi công của không quân Hoa kỳ khẳng định rằng, tăng cường ném bom Bắc Việt ngay từ đầu chứ không phải leo thang dần dần theo kiểu Johnson hẳn đã có thể nghiền nát Bắc Việt trước khi Liên Xô, Trung Quốc kịp giúp họ xây dựng các đơn vị phòng không hết sức hữu hiệu.

    Đại tá Harry G. Summers Jr., một nhà phân tích xuất sắc, tỏ ra ít cay cú với báo chí và chính trị gia hơn là nhiều sĩ quan đồng sự của ông. Nhưng ông phê phán các nhà kế hoạch quân sự Mỹ về việc truy lùng quân du kích, những người được bố trí để quấy rối quân Mỹ cho đến khi các sư đoàn Bắc Việt có thể tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn. Nói tóm lại, người Mỹ đã tự làm cho mình kiệt sức vì những nỗ lực vô ích để chống nổi dậy: Giống như một con bò mộng chỉ tấn công tấm choàng màu đỏ của người giác đấu hơn là tấn công chính người giác đấu.
    (“Vietnam – A History” – Stanley Karnow)

    Stanley Karnow là phóng viên có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh. Tác phẩmVietnam – A History của ông là một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại từ khi tiếp xúc với phương Tây, trọng tâm là cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam-Bắc.

    Lạc đạn
    Để sửa soạn cho đường Hồ Chí Minh, tướng Trà đã đích thân đến nhà của bí thư Lê Duẫn, để xin cho một số cán bộ nồng cốt, đa số là các cán bộ tập kết ra bắc năm 1955 như Trà xâm nhập trở lại miền Nam. Tướng Trà nói ông xin 100 người nhưng Lê Duẫn chỉ cấp cho trước 25 người như một thử nghiệm đầu tiên. Sách của tướng Trà chỉ nói sơ qua đường Hồ Chí Minh, và những chi tiết tổng quát đều giống như những gì tướng Võ Bẩm viết. Nhưng qua sách của tướng Trà chúng ta biết được thêm cộng cản Việt Nam có hai kế hoạch song song: nhiệm vụ dọn đường, tuyển mộ cán bộ cấp dưới là nhiệm vụ của tướng Bẩm, tuyển chọn một số cán bộ “khung,” cán bộ có kinh nghiệm quân sự gởi vào B để thành lập và chỉ huy các đơn vị chủ lực Miền (các trung đoàn cơ hữu của Trung ương cục miền Nam), là nhiệm vụ của tướng Trà. Theo hai sách này, toán phụ trách chuyển vận đầu tiên được gọi là Tiểu đoàn 301. Cấp số quân khoảng 470 người, được tuyển chọn từ Sư đoàn 305, một đơn vị được thành lập từ các đoàn quân từ miền Trung (Liên khu 5, trong thời chiến tranh Việt-Pháp) tập kết ra Bắc.

    Trên đường di chuyển bị oanh tạc, bị dội bom phá hủy, tổng số thiệt hại về nhân mạnh trên đường Hồ Chí Minh là 12.487 người chết và 21.802 bị thương.
    (Binh đoàn, binh Trạm, và đường đi B – Nguyễn Kỳ Phong)

    Góp nhặt…ghi chép…
    Alan Dawson nói 100.000 lính miền Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại cải tạo. Hơn nửa triệu người miền Nam cũng đã bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản.

    Melvin R. Laird cũng nói vào thời điểm này, miền Bắc đã tổn thất 1,1 triệu binh sĩ và thường dân. Ông thêm: Bắc Viêt chiếm đoạt được miền Nam bằng võ lực nhưng đã không chiếm được lòng dân. Chính sách xã hội hoá miền Nam và củng cố xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã thất bại hoàn toàn. Cộng sản Việt Nam đã theo đuổi một cuộc chiến mà không có kẻ chiến thắng. Chỉ có nhân dân ở cả hai miền Bắc và Nam là những kẻ thua cuộc vì phải trả một giá rất đắt bằng hàng triệu sinh mạng và đổ vỡ thê thảm về vật chất và tinh thần. Biết bao gia đình bị ly tán và đạo đức suy đồi, mà ảnh hưởng tai hại sẽ còn kéo dài qua nhiều thế hệ.

    – : Con số lính miền Nam tử trận 220.350 người được dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 315.000.
    – : Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975):
    1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chết trận mất xác).


    Cuộc chiến tranh không có người chiến thắng

    Tác phẩm VietNam – A History của Stanley Karnow,
    (trích đoạn ở dưới có tựa đề: “The War Nobody Won”).


    Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có người chiến thắng, ít ra là theo ngôn ngữ nhân văn, đó là cuộc chiến tranh giữa các nạn nhân. Nguồn gốc của nó cực kỳ phức tạp, những bài học của nó luôn được tranh cãi và hậu quả của nó các thế hệ mai sau nhận định. Nhưng cho dù đó là một cuộc dấn thân hợp lý hay một nỗ lực sai lầm, nó cũng là một bi kịch mang tầm vóc sử thi và văn học sử.

    Tháng giêng năm 1989, tại thành phố Hồ chí Minh, tên trước kia là Sài Gòn, một cựu thương binh du kích Việt Cộng tên là Trần Văn Lê đã đưa cho người phóng viên truyền hình Mỹ Morley.

    Safer một bài thơ mà ông ta viết để vinh danh sự trở lại của những “lính Mỹ”.

    Bao nhiêu lính Mỹ
    Chết ở đất này?
    Bao nhiêu người Việt
    Vùi dưới cỏ cây?
    Hòa bình gặp lại,
    Bên ly rượu đầy
    Nào cùng nâng chén
    Nước mắt tràn xuống tay.(…)


    Hơn bốn triệu binh lính và thường dân VN ở cả hai bên, tức là khoảng 10 phần trăm dân số bị chết hoặc bị thương. Đa số những người Nam Việt Nam chết được chôn cất trong những nghĩa trang gia đình hoặc dòng tộc. Đi thăm miền Bắc đất nước sau cuộc chiến, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp những bia mộ trắng trong mỗi nghĩa trang làng xã, mỗi tấm bia mang dòng chữ liệt sĩ. Nhưng những ngôi mộ ấy đều là mộ gió, thi hài của những người đã khuất đã bị xe ủi đẩy xuống những hố chôn chung trong những nấm mồ tập thể ở miền Nam, nơi họ ngã xuống.
    (The War Nobody Won – Stanley Karnow)

    (1) Mộ gió là ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết đuối, chết trận không tìm được xác. Thân nhân làm hình nhân bằng rơm rạ và làm lễ an táng như lễ an táng thông thường.

    Chuyện kể thời hậu chiến
    Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình hắn định mang hài cốt của hắn từ nghĩa trang liệt sĩ về quê. Nhưng đào mãi, đào mãi, cái huyệt vẫn trống trơn, không hề có vết tích gì cả. Có người nói: Anh ấy hiển thánh rồi! Lại có người đề nghị: Thôi thì mang tấm bia có tên tuổi của anh ấy về quê cũng được. Nhưng tấm bia bằng đá ấy lại quá nặng.
    Cuối cùng, bố mẹ hắn quyết định chỉ đục tấm bia, lấy hai chữ “liệt sĩ” mang về nhà.

    Biên Hoà không bị thất thủ
    Theo Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi: Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Hòa không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược của miền Nam, phi trường Biên Hòa còn là bản doanh BTL/Quân đoàn III. Để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam VN.

    Theo hồi ký Hoàng Cầm:
    (,,) Đã sang ngày 28-4, như bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, hầu hết các hướng phát triển thuận lợi, các binh đoàn chủ lực đã tới trước cửa ngõ Sài Gòn, địch lập tại đây một tuyến phòng thủ và cũng tại đây “lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông Dương”, địch cấu trúc các tuyến hào chống tăng để chặn đối phương. Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ binh ở các căn cứ, đồn bót sẵn có từ trước, địch đã thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống tăng, đưa các xe tăng M41, M48 nằm sâu dưới các ụ đất, các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các dãy phố thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát thành lô cốt, hoả điểm, thành những ổ đề kháng lợi hại. Chúng đặt súng M72 hoả tiễn chống tăng, súng máy 12.7 ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta (…).

    Vì vậy sáng ngày 30-4-1975, quân đội Bắc Việt đi đường vòng qua Biên Hòa để đánh vào Sài Gòn.Đến khi Chuẩn tướng Trần Quang Khôi được tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ sau 17 năm tù đày trong trại cải tạo, có một số người mới biết sự thật rằng Biên Hòa không hề thất thủ.

    Quân sử ngoại truyện
    Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn 4 của Thượng tướng Hoàng Cầm bỏ Biên Hòa, đi đường vòng hợp quân với Quân đoàn 2 tấn công Sài Gòn vì địch ở căn cứ Biên Hoà, khu vực phòng thủ mạnh nhất của địch trước cửa ngõ Sài Gòn vẫn tiếp tục chống trả. Các đơn vị quân đoàn chưa vượt được sang sông Đồng Nai. Bốn giờ sáng, phân đội đi đầu của Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) tiến đến cầu sắt xe lửa Biên Hoà nhưng tăng không qua được vì cầu này yếu, trọng tải chỉ cho xe 12 tấn. Cầu Mới bị địch phá. (Chiến tranh Việt Nam toàn tập – Nguyễn Đức Phương)

    Ngộ Không

  4. #10
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 11

    Bốn mươi năm Sài Gòn thất thủ: Chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc
    (Bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian)

    Ngày tiếp theo sau khi Bắc Việt lấy được Sài Gòn, người ta đã nghe thấy từ lúc tinh mơ bài hát mừng chiến thắng. Trong đêm các “kỹ sư” của đội quân chiến thắng đã dựng loa phóng thanh lên và từ khoảng 5 giờ sáng phát không ngừng điệu nhạc giải phóng khô khốc. Đó là ngày 1-5- 1975, khi ánh mặt trời chiếu xuống phố phường gần như trống rỗng của Sài Gòn mà thời khắc đó trước kia đã bắt đầu xe cộ rộn rịp và đường phố huyên náo dần lên. Nhưng nay hầu như chẳng ai biết phải làm gì, đi làm hay không, còn chợ búa cò bày bán không, hay có khi một cuộc đọ súng khác sẽ vẫn có thể bùng nổ ra nữa. Qua bao năm tháng chiến tranh, chiến cuộc chẳng mấy khi dính tới Sài Gòn, ngoài thỉnh thoảng có vài cuộc pháo kích bằng hỏa tiễn, một số vụ đánh bom nhà hàng, hay vụ xâm nhập nhỏ gây sửng sốt vào thành phố, thậm chí vào ngay khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ trong trận tấn công vào dịp Tết 1968. Trong cơn khiếp hãi qua đi Saigon cảm thấy như đã thoát khỏi điều tồi tệ nhất. Thực tế với điệu nhạc giải phóng vang vọng đường phố, một lần nữa Sài Gòn đã thoát dẫu ít người biết rằng Bắc Việt đã chuẩn bị sẵn sàng bắn nát thành phố với pháo binh hạng nặng và chiến đấu theo cách vốn dĩ của họ “theo từng khối” nếu gặp phải hàng phòng thủ và sức đối kháng mạnh hơn. Nếu tổng thống cuối cùng của Nam Việt Nam, tướng Dương Văn Minh không ban lệnh cho quân đội hạ vũ khí, Sài Gòn có thể lâm vào tình trạng xấu thực sự. Người Việt đã nói tếu rằng Hà Nội lấy Sài Gòn “mà không chạm tới một cái bóng đèn” hay nói sái đi: Thương vong nặng nề cho cả đôi bên, nhưng giao tranh vừa đến thành phố thì dừng.

    Ở trong thành phố, mọi người lo lắng tình trạng vô luật pháp và nạn cướp bóc. Stewart Dalby của tờ Financial Times và tôi đang đi bộ dọc đường Tự Do, một trong những con phố chính của Sài Gòn, thì một người đàn ông mặc áo bỏ ngoài quần đứng chắn lối chúng tôi. Anh ta đưa tay vào dây thắt lưng để lộ ra một khẩu súng, và liền đó thản nhiên nhấc chiếc máy ảnh đắt tiền ra khỏi cổ Dalby. Sự thể như thế đủ để thuyết phục mọi người rằng thà để họ nắm quyền kiểm soát càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Với một số khác như chúng tôi chẳng hạn, chẳng có lý gì phải lo như vậy, những lo âu vốn bắt nhịp với những xung động của thời thế đó. “Nỗi sợ Cộng sản đã làm Sài Gòn mất hết vẻ thông thái vốn có”, một phóng viên đã viết thế. Nhiều người tìm cách ra đi trên những chuyến không vận đầu tiên bằng máy bay trực thăng, mọi người sẽ được đưa đi hết vào phút cuối cùng. Đây là một lời hứa mà họ đã không giữ được. “Tiếng hét hoảng loạn của người di tản trên sóng vô tuyến CIA vào ngày cuối cùng giờ đây vẫn còn lay động lương tâm tôi”. Frank Snepp, một nhân viên của chi nhánh CIA tại Sài Gòn, đã viết kể lại vài năm sau đó. Trước phút cuối một ngày, từ một chỗ ngồi thuận lợi dưới mái vòm của Caravelle, một trong hai khách sạn sang trọng của thành phố, tôi và các phóng viên khác chứng kiến cảnh hàng người ngày càng dài thêm, đang chờ đợi trong tuyệt vọng tại một điểm rước đi trên nóc của một tòa nhà gần đó. Như một vở bi kịch câm không lời, trong vòng quay đập nhòe đi của cánh quạt máy bay, chúng tôi chợt dần hiểu rõ ra rằng không thể nào có được nhiều máy bay trực thăng Mỹ hơn nữa. Tại tòa đại sứ Mỹ, sự tuyệt vọng như thể chết lặng đi. Đám đông khóc lóc bao vây nơi này, trong lúc thủy quân lục chiến cố kéo vào một người có quyền thế, một khuôn mặt trắng bệch cầu cứu và đẩy ra khỏi những người không được chọn.

    Ngày hôm sau, đoàn xe tăng tiến vào trước, chiếc nào chiếc nấy nòng súng chĩa dài ra như cái mũi của Pinocchio, hướng đến trung tâm của thành phố và dinh tổng thống. Chiến tranh thì có cái gì là quy củ và có một số chiếc tăng bị lạc đường. Chúng tôi đã nhìn thấy một chiếc tăng quay đầu lui lại, bánh xích của nó rít lên ghê tai, sau đó tiến vào một bệnh viện Việt Pháp cũ (Grall), một nơi khó có vẻ gì là một mục tiêu quân sự được. Nhưng rồi đoàn tăng cũng tập hợp đủ tại cổng dinh và sau đó băng qua cổng, chiếc đi đầu mang theo James Fenton vừa có vẻ hân hoan vừa bồn chồn, ông ta là một thi sĩ cũng là một ký giả, người có thể được xem như là thông tín viên cuối cùng của tờ Washington Post còn ở lại Sài Gòn. Khi đoàn quân mới tiến vào thì những người lính cũ của quân đội VNCH tản mác đi dần, có khi họ phất tay với vẻ thất vọng cay đắng lần chót. Chúng tôi thấy có một đơn vị binh lính cố tình bắn ra tất cả các trái hỏa châu đỏ, trắng lên trời, trước khi giải tán.

    Những người lính mới, mà người ta đã sớm nhận ra cách gọi họ bằng chữ “bo doi” (người lính đi bộ), mặc một thứ đồng phục màu xanh lá cây trơn hơi mềm và đội mũ giống như mũ Tây thuộc địa cũ. Họ trông có vẻ nhẹ nhõm, chiến tranh đã kết thúc, họ đã không chết, và đã góp một phần làm nên chiến thắng này. Vài ngày sau có một cuộc diễn binh để rồi sau đó nhiều người trong số họ rời bỏ Sài Gòn. Những người ở lại có vẻ nhã nhặn và gần như có cái gì đó ngập ngừng do dự. Họ cho rằng hễ cứ người ngoại quốc da trắng thì là người Nga. Một số có vẻ như được mở mắt trước sự thịnh vượng của Sài Gòn, họ bị cuốn hút bởi đồng hồ vốn chỉ các cấp tá quân đội Bắc Việt mới có được và thích nhất là các đồng hồ có ngày tháng.

    Họ gọi chúng là những “đồng hồ có cửa sổ”
    Nhưng họ cũng đã chứng tỏ đã được huấn luyện kỹ. Khi một vài tay súng còn kháng cự bắn vào một đơn vị quân đội Bắc Việt gần công viên giữa dinh Tổng Thống và nhà thờ gạch đỏ của Sài Gòn (nhà thờ Đức Bà), các phóng viên đã nhìn thấy sự sắp xếp đội ngũ gần như tức thì. Những người lính một phút trước đó còn cười nói, hút thuốc liền nằm sấp xuống vừa thận trọng bắn lại vừa tổ chức đội ngũ tiến gần đến những kẻ tấn công. Điều đó nhắc ta nhớ tới một thời chiến tranh dài ngày. Bắc Việt đổ vào Sài Gòn mọi thứ mà một quân đội hiện đại muốn có. Họ có dồi dào lượng xe bọc thép và pháo binh tất cả mọi thứ ngoại trừ Không lực. Trong khi đó Nam Việt Nam đã hầu như đã chẳng để lại tí nào.

    Việt Nam là một đấu trường quân sự trong nhiều năm qua. Cuộc chiến đã choán quá nhiều trong tâm khảm của mọi người đến nỗi đôi khi ta có thể nói tất cả những gì không đúng ở nơi khác thì lại thành đúng ở đây. Thực tế rõ ràng là cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là một sai lầm vì nó có tính cách hời hợt, theo đuổi một cách hung hăng và rồi bỏ rơi một cách phũ phàng. Đó là những nét hiện rõ của cuộc chiến này. Chuyện miền Nam Việt Nam sụp đổ đã là một “Biên niên sử” của một thất bại được báo trước.

    Richard Nixon và Henry Kissinger biết cuộc chiến đã hết đường nên đồng tình rút quân theo Hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Họ biết điều đó có nghĩa là miền Bắc sẽ giành chiến thắng, nhưng họ muốn thế, theo như lời của Kissinger: Đó là một “khoảng lặng vừa đủ” (nguyên văn: “decent interval”) độn vào giữa đủ cho họ rút lui rồi miền Nam Việt Nam mới thua trận.

    Các phóng viên báo chí quyết định ở lại Sài Gòn là người Pháp và Nhật Bản, cộng với một vài người Anh và ước chừng một hoặc hai người Mỹ giả vờ làm người Canada. Dù không chắc gì không gặp nguy hiểm, nhưng trong vai trò nhà báo chúng tôi mới tường trình cuộc chiến được dễ dàng hơn. Trước kia chúng tôi dễ được ưu tiên chở đi khắp nơi bằng máy bay Mỹ và máy bay trực thăng, được lo chỗ ăn, chỗ ở và được lính Mỹ cũng như được binh sĩ Nam Việt Nam bảo vệ. Bạn có thể tới mép rìa của cuộc chiến ở phía Bắc, gần một nơi có tên mỉa mai là Khu Phi quân Sự rồi trở lại Sài Gòn cùng ngày tắm mát dưới vòi sen và uống trà vào buổi chiều…

    Bây giờ đột nhiên chúng tôi thấy mình trong một tình trạng lửng lơ. Nguyên một hệ thống hỗ trợ sống còn cho chúng tôi với những phi công, những người giúp đỡ, các nhân viên phân tích tin người Mỹ. Tùy viên quân sự sứ quán Úc bỗng biến đâu mất. Nhiều mối liên hệ người Việt đã bỏ đi hoặc ẩn mặt. Các tài xế và người thông dịch cũng thế (có một số người nằm vùng, hay là đặc công thì họ vẫn còn đó, bây giờ họ lộ diện ra, nghĩ cũng phải thôi). Bắc Việt cũng có một ít nhân viên nói thạo tiếng Anh và Pháp lắm lúc thật cần nhưng rất hiếm. Có một tình thế cần thiết như vậy, ngay sau khi thành phố thất thủ, đó là lúc một đơn vị làm phim của quân đội Bắc Việt xông vào văn phòng của CBS và yêu cầu thực hiện cho họ một cảnh quay trận đánh cuối cùng tại cầu Tân Cảng ngay bên ngoài thành phố. Họ vã mồ hôi và giận dữ, dường như họ đã đến cây cầu quá muộn để có được những thước phim riêng cho họ, vì vậy họ muốn thu đoạt hết những gì đoàn làm phim truyền hình Mỹ đã quay. Tôi đã chứng kiến cuộc đối đầu đó và bước ra gặp một đại tá Bắc Việt ôn hòa hơn mà chúng tôi đã có gặp trước rồi. Ông ta làm dịu tình hình và ra lệnh cho đồng đội ông bỏ đi. Trưởng văn phòng nhẹ nhõm và mời ông uống chút gì. Ông nhã nhặn từ chối một cách duyên dáng và nói thêm, với nụ cười gượng: Để sau, chúng ta sẽ còn nhiều thời gian vui vẻ. Có lẽ chẳng ngạc nhiên gì là chúng tôi chẳng còn gặp ông ta để mà vui vẻ, và vội cuốn đi bỏ lại đó các vật dụng chả đáng gì.

    Như một sự an bài không hiểu nổi, về phía Nam Việt Nam, cấp số đạn dược, lượng các phi vụ và các phụ tùng cũng như quân trang quân dụng cứ bị cắt giảm từng tháng. Vào cuối tháng 8 năm 1974, Thiếu tướng John E Murray người có trọng trách giữ nguồn cung cấp cần thiết cho quân đội Nam Việt Nam duy trì chiến đấu, đã viết thẳng ra rằng: Nếu không còn nguồn hỗ trợ đích thực, QLVNCH sẽ thua, nếu không tuần tới, tháng tới, thì sẽ là vào năm tới. Nhưng nếu Nam Việt ở trong một tình trạng bấp bênh, thì Bắc Việt cũng có những âu lo sâu xa của riêng họ. Dù đảng và chính phủ lúc nào cũng đóng một vai diễn sặc mùi tuyên truyền rằng họ tin chắc chiến thắng sẽ đến và thống nhất được đất nước, nhưng trong thâm tâm họ lại không chắc như vậy. Họ cũng gặp vấn đề về nguồn viện trợ vũ khí khi Nga và Trung Quốc cũng đã cắt giảm nguồn cung cấp sau Hiệp định hòa bình Paris. Và, giống hệt như Nam Việt Nam, họ rất lo về độ tin cậy của các đồng minh của họ. Như George J Veith đã viết trong một cuốn sách lịch sử quân sự của ông về những năm cuối cùng của cuộc chiến: Tháng Tư đen, rằng Hà Nội đã cảm thấy rằng họ chỉ có một cơ hội quá mong manh để giành chiến thắng.

    Một kế hoạch của miền Bắc đã hình thành cho một chiến-dịch-hai-năm dự trù sẽ mang lại chiến thắng vào năm 1976. Tuy nhiên, những cuộc triệt thoái bỏ trống trận địa ở Tây Nguyên đã quá thuận lợi khiến họ đã dẹp bỏ ý định ban đầu, vào năm 1975. Mọi việc đã đi đến kết thúc trong vòng có hai tháng. Chiến thuật sai lầm của ông Thiệu đã gây ra bao điều tồi tệ, nhưng miền Nam bại trận quá sớm sự thực vẫn do thiếu nguồn dự trữ và bị cắt giảm hỏa lực. Rồi quân Bắc Việt tiến gần về Sài Gòn. Ở cao nguyên, Huế, Đà Nẵng và những nơi khác nữa đã xảy ra những cảnh hoảng loạn và rối loạn khủng khiếp, dù nhiều trường hợp bất tuân thượng lệnh và đào ngũ, nhưng vẫn có nhiều đội quân còn chiến đấu dũng cảm và nhiều gương anh hùng. Nhưng Nam Việt Nam, hoặc là một con thực thể bù nhìn, hoặc là bất cứ điều gì đi nữa, đã biến mất trong làn khói tan của chiến trận. Cả thế giới vô cùng kinh ngạc.

    Trên đường đi, chúng tôi có đi ngang qua sứ quán Anh, và tôi nhận thấy một đội lính canh gác đã hạ lá quốc kỳ Anh xuống và dùng nó làm một tấm bạt để che nắng. Nghẹn ngào và ngạc nhiên, một cơn giận dữ đột ngột thôi thúc, tôi bước ra khỏi xe, sải bước qua họ, và nhấn mạnh rằng họ nên trả nó trở lại vào cột cờ. Giả như tôi là người Nga hoặc Đông Đức và tưởng tượng tôi có tí quyền, ít nhất tôi cũng gấp lại nó lại. “Cái gì vậy?”, tôi chợt tự hỏi. Nói cho cùng, nó chỉ là một mảnh vải. Nhưng sự thật là tất cả chúng ta, trong một mức độ nào đó hay vì một cái gì khác đi nữa, vẫn còn đọng lại trong tâm khảm cuộc chiến vừa qua nên sự kiện này đã biểu hiện trái ngược tinh thần đó và gây cảm xúc quá mạnh.

    Quả là như vậy, mặc dù một vài trong chúng tôi đã từng ủng hộ mạnh mẽ chiến tranh. Trước khi Saigon thất thủ, Philip Caputo, một nhà báo Mỹ, người đã từng là một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến tại Việt Nam và đã viết một cuốn sách rất hay về những kinh nghiệm của mình, đã mạnh miệng tự hỏi liệu những gì đang xảy ra có na ná như việc đoàn quân Lê Dương rút ra khỏi vòng ngoài của đế chế La Mã hay không. Mà Mỹ là một hiện thân cuối cùng, có phải sắp kết thúc? Một cái gì đó đã bị hạ bệ và cái khác không phải thuộc về “chúng ta” sẽ điền thế?
    Phác họa ra 2 hình ảnh song song như thế thì sáo mòn, một thứ tự huyễn lãng mạn có vẻ khó chịu khi ngoái nhìn lại quá khứ. Người Việt, Bắc và Nam, đang trong khoảnh khắc lịch sử đặc biệt của họ, còn chúng tôi thì ngồi vòng ngoài và trưng dẫn Edward Gibbon. (1)
    (Martin Woollacott)
    (1) Edward Gibbon là một sử gia người Anh với tác phẩm: The History of the Decline and Fall of the Roman Empire (“Lịch sử suy tàn và sụp đổ của đế chế La Mã”).


    Ngày thứ 51 : 29-4-1975
    Sài Gòn di tản

    Sáng ngày 29-4, Bắc quân pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly vào phi trường Tân Sơn Nhất.
    Chiều 29-4, toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1.000 người Mỹ và khoảng 6.000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
    (Phạm Bá Hoa)

    Những ngày cuối VNCH
    Ngày 29-4-1975 Bắc quân điều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 để chiếm Bến Sắn, từ đó chọc thủng mặt Đông của tỉnh Bình Dương và mặt Tây của tỉnh Biên Hòa.

    Lực lượng phòng thủ vòng đai xa của Sài Gòn, có 3 sư đoàn: Sư đoàn 18BB do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, trấn giữ phía bắc Biên Hoà và Sài Gòn. Sư đoàn 25BB do Tướng Lý Tòng Bá chỉ huy, tại phòng tuyến, Hậu Nghĩa, Long An. Sư đoàn 5BB do Tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách phòng tuyến Bình Dương. Quanh vòng đai Sài Gòn, chiến trận khốc liệt đã diễn ra tại Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Tại Long An, các đơn vị Sư đoàn 22 BB đã giao chiến quyết liệt với hai trung đoàn Bắc quân muốn chọc thủng phòng tuyến thị xã Tân An.
    (Vương Hồng Anh)

    – : 29-4, 10 giờ sáng, Quân đoàn III báo cáo Bộ Tham mưu Tiểu khu Hậu Nghĩa thất thủ.

    10 ngày cuối cùng của VNCH
    Thứ Ba 29-04-1975

    11 giờ 30 phút trưa ngày 29-4-1975, ông Vũ Văn Mẫu chính thức nhận chức Thủ Tướng. Ngay sau đó ông lên đài phát thanh tuyên bố, yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ…5 giờ sáng ngày 29-4-1975.

    Sáng ngày 29-4, trong khi bản thông cáo của Chính phủ Dương Văn Minh đòi người Mỹ phải triệt thoái nhân viên của DAO được Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc đi đọc lại nhiều lần trên đài phát thanh thì trên đài Phát thanh của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam được gọi tắt là AFRS, vào buổi trưa một ngày cuối tháng 4 nóng bức, người xướng ngôn viên đọc đi đọc lại nhiều lần lời nhắn: “Mother wants you to call home” (Mẹ muốn con gọi về nhà) và người dân Sài Gòn được nghe bản nhạc I’m Dreaming of a White Christmas (Tôi mơ một Giáng Sinh đầy tuyết trắng) phát đi phát lại liên tục trong ngày hôm đó.

    Lời nhắn và bản nhạc này là mật hiệu báo cho tất cả mọi người Mỹ và các phóng viên ngoại quốc tại Sài Gòn biết rằng Chiến dịch Frequent Operation IV đã khởi đầu và tất cả mọi người phải đến những điểm hẹn đã ấn định sẵn từ trước để được di tản ra khỏi Việt Nam.
    (Trần Đông Phong)

    Những ngày cuối VNCH
    Tại phòng tuyến Củ Chi cách Sài Gòn 60 km, Bắc quân tung 1 sư đoàn chính quy có 1 trung đoàn chiến xa yểm trợ tấn công ồ ạt vào các vị trí của quân trú phòng thuộc Sư đoàn 25BB. Từ hầm chỉ huy, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trực tiếp điều động các tuyến chống trả các đợt xung phong biển người của địch quân.

    Đêm 29-4, bộ Tư Lệnh Sư đoàn 25 phải bỏ phòng tuyến Củ Chi rút về Hóc Môn. Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, và một thượng sĩ cận vệ đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Bắc quân. Cuối cùng vị Tư lệnh Sư đoàn 25 bị lọt vào tay địch (1) khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
    (1) Người bắt Tướng Lý Tòng Bá là tướng Hoàng Minh Thảo, tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột. Tướng Thảo là người mang Sư đoàn 316 bí mật xuất phát từ Nghệ An vào Vùng 2 Chiến Thuật để tăng cường cho Quân đoàn 3 đánh Ban Mê Thuột. (…)

    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện súng đạn
    Anh đi chiến dịch Ban Mê Thuột xong vài bữa rồi về với em

    Quân sử ngoại truyện
    – Tấm hình quen thuộc chụp hàng người leo thang lên chiếc trực thăng mà theo nguồn ở ngoài nước ghi chú là ở…trường đua Phú Thọ.
    – Sách Đại thắng mùa Xuân 1975 trang 153 in ảnh chú thích:

    Cuộc tháo chạy trên nóc tòa đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn.
    – Theo Don Southerland, ảnh được chính ông chụp vào buổi chiều ngày 29-4 tại một trạm CIA ở sô 22 đường Gia Long. Đài RFA phỏng vấn nhà báo Mỹ Don Southerland trong đó ông lý giải chuyện Phạm Xuân Ẩn cứu bác si Trần Kim Tuyến. Dan Southerland là người chứng kiến phút giây đó:

    Đêm 29-4 trước khi các trực thăng chuẩn bị rời Việt Nam, tôi đang liên lạc với các trụ sở truyền thông nước ngoài thì Ẩn nói có một vấn đề hệ trọng là cần tìm cách cho bác sỹ Tuyến ra đi. Tôi sau khi liên lạc với một giới chức cao cấp của tòa đại sứ Mỹ và được bảo là hãy nói cho ông Tuyến hay rằng có thể đến 22 Gia Long để được bốc đi khỏi Sài Gòn.

    Những ngày cuối VNCH
    Tại tuyến phòng thủ Trảng Bom do một đơn vị thuộc Sư đoàn 18BB phụ trách, vào 7 giờ 30 sáng ngày 29-4, nhiều vị trí bị Bắc quân chọc thủng và đến 10 giờ phòng tuyến này hoàn toàn bị tràn ngập. Một số đơn vị của Sư đoàn 18BB rút về phía Nam căn cứ Long Bình.

    Lữ đoàn 257 Thủy Quân Lục Chiến án ngữ mặt Bắc Long Bình cũng bị tấn công. 11 giờ sáng Bắc quân tấn công vào phòng tuyến Nam Long Bình, Sư đoàn 18BB đã đẩy lùi được nhiều đợt xung phong của các trung đoàn Bắc quân. (…)

    (Nhà số 28 đường Gia Long là 1 trong 13 bãi đáp tại nhiều nơi ở Sài Gòn-Chợ Lớn).
    Theo Bob Caron, một trong hai phi công cho biết trong số 12 người trong trực thăng có 3 người đi đầu bước lên trực thăng là người Việt Nam: Trung tướng Trần Văn Đôn (1), Bác sĩ Trần Kim Tuyến (2) và Bác sĩ Quân y Huỳnh Minh Tòng.

    Vào năm 1992 khi tôi bắt đầu viết cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời, tôi đã phỏng vấn ông về ngày 30-4 ở Sài Gòn vì sao ông lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta là người đứng đầu bảng danh sách số người mà Mỹ phải đưa đi?

    Phạm Xuân Ẩn tả lại: Người cháu ông Tuyến, một viên Thiếu tá, chở ông Tuyến đến nhà tôi bằng xe Honda. Ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo (Hubert van Es). Nhờ thế ông biết còn chuyến di tản cuối cùng của CIA tại ngôi nhà số 28 của CIA ở đường Gia Long.

    Khi xe Renault của ông tới nơi, cánh cửa tòa nhà đã đóng lại. “Đề nghị cho gọi ông Polgar” (3). Ẩn yêu cầu được gặp người sếp của ông. Nếu gặp được Polgar chắc chắn ông ta biết được chuyện của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Vừa may lúc người lính gác mua đồ ăn về, cánh cửa hé ra. Thế là ông Ẩn một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy thật mạnh bạn mình vào lọt.

    Sự thể diễn ra đúng như báo chí đã nói rồi. Chi tiết này sau tôi biết thêm được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình minh chứng phút cuối cùng đó của phóng viên hãng UPI Hubert van Es được sử dụng 20 năm, gần đây tác giả mới lấy bản quyền.
    (Nguyễn Thị Ngọc Hải)

    (1) Ông Trần Văn Đôn không sao đi được mấy chuyến trước. May nhờ cô bí thư của Polgar tên Hà Hiếu Lang nhường chỗ cho gông Đôn.

    (2) Tối 1-4, Bác sỹ Trương Khuê Quang, Giám đốc Trường Quốc gia Nghĩa tử, người trung gian của ông Tuyến đưa ông Tuyến đến gặp Thượng tọa Thích Trí Quang. Đêm mùng 3 rạng mùng 4, ông Thiệu bắt nhốt hết những phần tử “âm mưu đảo chính”, trong đó có ông Tuyến… Ông Tuyến nghĩ rằng Thiệu bỏ chạy sớm, những người thân cận ông Thiệu sẽ thả ông ra. Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi, ngày 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí CIA phải đưa mình đi.

    (3) Thomas Polgar, Chỉ huy Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cuối cùng còn ở Sài Gòn trong những ngày cuối của chiến tranh Việt Nam năm 1975. Polgar đã chỉ huy việc đưa công dân Mỹ và nhân sự của chính quyền VNCH lên máy bay để đi Mỹ. Chỉ ít phút trước khi Polgar hủy chiếc máy điện tín mà CIA sử dụng để liên lạc với Washington, trước khi lên trực thăng rời Sài Gòn, Polgar dừng lại một chút để làm nhiệm vụ cuối, đánh bức điện với nội dung:


    Đây là thông điệp cuối cùng từ văn phòng Sài Gòn.

    – : Ngày 30-4-1975, từ nóc sân tòa đại sứ Hoa Kỳ:
    Lúc 4 giờ sáng, Đại sứ Graham Martin rời Sài gòn sau khi đã di tản 1.373 nhân viên Hoa Kỳ, 5.595 người Việt Nam và 815 người các nước khác ra hạm đội đậu ngoài khơi.

    – : Có giả thuyết cho rằng sở dĩ ông Đại sứ G. Martin nhiệt tâm trong vấn đề di tản này vì ông có một người con trai là binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã tử trận tại Khe Sanh vào năm 1968 trong cuộc đụng độ với quân Bắc Việt. (The Fall Of Sai Gon – Komori Yoshihisa)

    Tái chiếm trường Bộ Binh Long Thành
    Sáng 29-4-1975 tôi nhìn về hướng căn cứ Long Bình, có vài cột khói đen bốc lên. Tôi lấy cái PRC25 rà những tần số quen. Tôi bắt được giọng nói của Đại Tá Hiếu, Sư đoàn 18BB đang lún càng tại Trảng Bom! Đại Tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 căn cứ Long Bình.

    Muốn về Long Bình tôi phải tạt qua ngã Hố Nai. Pháo hai bên đều tập trung trên vùng này.Vậy là, đội pháo ta đi! Chúng tôi đi như những cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn nổ chụp trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế mà đi, hướng Long Bình, Tôi vào tới vòng rào căn cứ Long Bình vào lúc buổi chiều. Tôi là dân vùng 2 không biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm cái cổng số 10 thì biết nó ở đâu? Tôi thấy một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ huy Liên đoàn 32 Biệt động Quân bỏ trống, vậy là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi ngủ như chết.

    Đến ba giờ sáng 30-4-1975, truyền tin dựng tôi dậy…
    – Có tin từ liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút về Sài-Gòn!
    Tôi uể oải ngồi dậy,
    – Mẹ kiếp! Về Sài Gòn! Về Sài Gòn làm cái con mẹ gì đây!

    Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng Sài Gòn. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn chuẩn bị lên đường.Cầu xa lộ đã bị xe tank chận đường, chúng tôi rẽ vào thành phố Biên Hòa. Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho đơn vị đi dọc theo đường xe lửa, ngang qua những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn mặt buôn phấn bán hương thò ra, ánh đèn vàng hiu hắt..... Chúng tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang, tôi cho đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ trống bên đường. Từng đoàn quân xa, chiến xa có biệt động quân và lính dù tùng thiết đi qua mặt chúng tôi, hướng về Sài Gòn.

    Tôi cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn cách Thủ Đức chừng vài cây số, người lính có radio loan tin Tổng thống Dương Văn Minh đang kêu gọi đầu hàng!
    (Vương Mộng Long)

    Gia Kiệm - Hố Nai
    Xe tăng lính bộ đôi ông Hồ từ Long Khánh qua Gia Kiệm, Hố Nai định ra xa lộ Biên Hòa đã bị chặn đánh tại Tam Hiệp trước khi có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. “Chiến lũy Tam Hiệp”, phải coi như thế, bởi những người Bắc di cư đã chạy một lần rồi, bây giờ họ không còn nơi nào để chạy nữa, bởi một số lính nhẩy dù mà đơn vị đã tan hàng từ đêm 29-4 và họ cũng chạy lạc về đây. Họ phối hợp cùng nhân dân tự vệ và dân chúng Tam Hiệp, dùng máy cầy ủi đất đắp mô ụ nghênh địch vì tất cả đang ở cuối đường.

    Mẩu chuyện này, được xem những thước phim của đài truyền hình Pháp ghi lại..
    Trận chiến thật ngắn ngủi nhưng rất anh dũng. Đài Truyền hình Pháp công bình ghi nhận rằng, chỉ còn quân dân miền Nam chiến đấu với lính bộ đôi ông Hồ từ Bắc kéo vào. Xe tăng chúng phải dừng lại. Chúng bắn thẳng vào chiến lũy. Đạn T54 khạc tới tấp, khạc không thương xót.

    Quân dân ta chống trả kịch liệt. Những em nhỏ cỡ 10 tuổi bám sát các anh lính Dù để được sai bảo. Một em trúng đạn. Hai anh lính dìu em vào chỗ an toàn, băng bó cho em. Em bé khóc. Khuôn mặt hai anh lính ưu tư. Một hình ảnh đẹp nhất, nhân bản nhất của người lính Quốc Gia. Cuộc chiến vẫn tiếp tục. Những người lính Dù phóng lên phía trước. Đạn thù bắn như mưa. Lính Dù của ta gục ngã trên những vũng máu. Trận chiến kết thúc mau lẹ. Họ chết hết.

    Xe tăng chúng nghiến lên xác lính của ta, san bằng mô ụ. Chúng ngạo nghễ bò ra xa lộ và tiến vào Sài Gòn. Bất ngờ, đến cây cầu nhỏ gần nhà máy xi măng Hà Tiên, xe tăng bị lính Chi khu Thủ Đức chặn đánh. Súng phóng lựu bắn cháy một T54. Chiến trận cũng không thể kéo dài. Bộ đôi ông Hồ làm chủ tình hình và kết thúc lẹ. Chúng khẩn trương chạy vào thành phố.

    Những người lính Nhẩy Dù và Chi khu Thủ Đức đã hy sinh vào buổi sáng 30-4. Họ không cần ai mạc mặt, gọi hồn cả…(Duyên Anh)

    Những ngày cuối VNCH
    Trong khi căn cứ Long Bình đã bị pháo kích liên tục. Tại căn cứ kho đạn Thành Tuy Hạ, nhiều vựa chứa đạn trong kho đã bị pháo kích và vòng đai phòng thủ kho đạn đã bị khoảng 2 tiểu đoàn Bắc (1) quân bao vây. (…)
    (1) Sư đoàn 304 thuộc Quân đoàn 2 từ Vùng 1 Chiến Thuật (VNCH) kéo về đánh Long Bình.

    Cầu Đồng Nai Xa lộ Biên Hòa
    Những người lính thủy được giao cho sứ mạng đánh sập cầu Đồng Nai trên xa lộ Biên Hòa để ngăn chặn xe tăng lính bộ đội ông Hồ tiến vào Sài Gòn. Những người lính thủy đã hoàn tất nhiệm vụ lúc 9 giờ ngày 30-4-1975. Cả tấn TNT gài kín gầm cầu, bọc kín chân cầu. Xe tăng bộ đội ông Hồ từ Long Khánh bò vào, đã bị quân dân Tam Hiệp đón đánh. Trận chiến hào hùng và lãng mạn này kết thúc mau lẹ nhưng đã làm chậm bước tiến của địch. Xa lộ lúc ấy, hai bên cầu Đồng Nai, nườm nượp dân chúng chạy giặc và đông đầy binh sĩ tan hàng. Dân chúng Sài Gòn chạy xuôi. Dân chúng Biên Hòa chạy ngược. Cầu Đồng Nai nghẹt người và xe cộ. Cùng với ông già, bà lão, phụ nữ, nhi đồng. Những anh lính thủy giữ trọng trách đánh sập cầu còn nhìn rõ xe tăng bộ đội miền Bắc. Sức công phá của TNT gài dưới cầu sẽ làm tung bay cốt sắt xi-măng, phạm vi cả mấy trăm thước. Nếu thế dân sẽ bị chết, bị thương vô kể.

    Những người lính thủy quay giang đỉnh về lại căn cứ. Cầu Đồng Nai không bị đánh sập. Nếu là Mỹ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Nếu là bộ đội ông Hồ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng với người lính miền Nam, cây cầu không bị đánh sập. Hình như ít ai biết chuyện này. Chúng ta thua trận, còn vì tình thương và lòng nhân đạo nữa.
    (Duyên Anh)

    Lạc đạn
    4 giờ sáng ngày 29-4, Bắc quân pháo kích nhiều trái đạn đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly vào khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt. Cuộc pháo kích này đã gây tử thương 2 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Hạ sĩ Darwin Judge và Hạ sĩ Charles McMahon, vừa mới được đưa đến Sài Gòn cách đó 10 ngày để phụ trách về an ninh cho chiến dịch di tản. Hai binh sĩ này là 2 người Mỹ cuối cùng bị thiệt mạng trong lịch sử Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

    Một điều đáng chú ý là dường như “McMahon” là một cái tên định mệnh:
    Người Mỹ đầu tiên bị chết tại Việt Nam là Trung tá Peter Dewey, nhân viên của cơ quan tình báo OSS, ông ta đã nhiều lần lên tiếng phản đối người Pháp và tiếp xúc trực tiếp với các đại diện của Việt Minh, do đó đã bị người Pháp yêu cầu phải rời khỏi Sài Gòn. Vào ngày 26-9-1945, Trung tá Dewey phải trở về Ấn Độ, tuy nhiên vì máy bay bị trục trặc, ông từ phi trường Tân Sơn Nhất lái xe trở về Sài Gòn ăn trưa và đã bị tự vệ của Việt Minh tưởng lầm là người Pháp cho nên bắn chết tại cầu McMahon, (sau này là cầu “Mạc-má-Hồng” hay câu Công Lý).

    Đúng 30 năm sau, người Mỹ cuối cùng bị chết tại phi trường Tân Sơn Nhất vì pháo kích của Bắc Việt vào sáng ngày 29-4-1975 là một hạ sĩ quan Mỹ cũng mang tên là…McMahon.
    (Trần Đông Phong)

    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (1)
    Mặc áo lính ăn cơm chính phủ, không giữ được bờ cõi, phải bỏ nước mà chạy thì thật chẳng có gì hay ho để kể lại, cho nên, đã nhiều lần, tôi tính viết lại chuyện bỏ chạy của tôi, nhưng nghĩ lại, đành bỏ luôn. Bây giờ, tuổi đã gần 60, tôi đành viết lại một lần cho…bõ ghét.

    Trước đó một tháng, Phi đoàn 114 tôi từ Nha Trang được lệnh bỏ thành phố bay về Phan Rang. Thành thật mà nói, Thành phố Nha Trang lúc ấy chưa hề có một thằng nón cối dép râu, chưa hề bị một trái pháo của giặc. Nhưng kinh nghiệm những ngày máu lửa vừa qua cho tôi biết là cái thành phố thân yêu của mình đang giẫy chết. Chết như thế nào thì tôi không biết, vấn đề chỉ còn là thời gian. Lúc ấy, dân quân di tản từ Tuy Hòa, Quy Nhơn, Pleiku đã tràn ngập thành phố. Lính không còn cấp chỉ huy, lại có súng ống trong người cho nên Nha Trang chẳng bao lâu biến thành một thành phố vô trật tự, coi như bỏ ngỏ và gần như hỗn loạn. Hàng quán đóng cửa, trường học biến thành chỗ tạm trú cho dân tị nạn, dân chúng ít có ai dám ra đường.

    Quân Cảnh ngày thường thì đầy dẫy khắp nơi, nhưng những lúc ấy không hiểu bận chuyện gì lại thấy mất biệt (chuyện này dễ hiểu). Ngay cả anh em lính tráng chúng tôi đi đâu cũng phải đi thành nhóm để đề phòng bất trắc…

    Một vài ngày sau, một sáng cuối tháng 3, chúng tôi vừa vào phi trường thì không trở ra được nữa. Một đơn vị Biệt động Quân (không rõ số quân) từ Vùng 2 rút về đòi vào phi trường Nha Trang nhưng bị ngăn lại bên ngoài cổng. Thế là hai bên gườm nhau. 8 giờ sáng, chúng tôi được lệnh quyền Phi đoàn Trưởng là Thiếu Tá Oanh cho cất cánh đem tàu về Phan Rang.

    Chúng tôi vừa taxi ra phi đạo thì trực thăng cũng cất cánh ào ào. Lên trời, không hiểu sao tôi có cảm giác đây là lần cuối cùng mình còn thấy thành phố Nha Trang thân yêu, nên tôi bay thấp, lượn nhiều vòng trên thành phố…Ở dưới, thiên hạ hốt hoảng chạy tới chạy lui trong thành phố bằng đủ thứ phương tiện, từ xe gắn máy đến xe Lambretta, đến xe nhà binh lớn nhỏ đủ cỡ. Tôi không biết thiên hạ chạy đi đâu và để làm gì nhưng tôi thông cảm. Nếu tôi là họ, tôi cũng chỉ biết làm như thế thôi.

    Trưa đó, chúng tôi đáp Phan Rang, ai nấy lo để chuẩn bị tử thủ căn cứ này. Nhưng không hiểu sao, Sư đoàn 2 Không Quân lại được lệnh di tản, đem tàu về Sài Gòn, Sư đoàn 6 Không Quân sẽ chịu trách nhiệm phòng thủ căn cứ. (Trường Sơn Lê Xuân Nhị)

    Tôi…đào ngũ (1)
    Hùng mỗi ngày hỏi tôi mấy bận: Chừng nào mình tái chiếm lại Nha Trang? mà tôi đâu phải là Ban 3 Bộ tổng tham mưu. Mỗi sáng Hùng lên Tân Sơn Nhất trình diện, mặc xi-vin ra đường ôm theo cái túi đựng quân phục, vào đến căn cứ an toàn rồi mới chịu thay vào. Những ngày chót ở Nha Trang, lính không quân ưa bị lính các đơn vị khác gây. Tôi đeo ba lô chạy bộ còn Hùng không những chạy lén trước mà còn gầm thét ồn ào mấy trăm cây số giờ ở phía trên đầu. Tôi nói: Ở Sài Gòn, máy bay lên chưa có ai bắn với theo đâu. Hùng nói: Thì cũng phải. Tụi nó ác thật, đi không chở người, tôi thấy nguyên một tàu tụi nó chở toàn những gì đâu! Cái đêm Hùng vào trại ngủ, đã định ôm theo đứa con trai nhỏ nhưng sợ cô vợ mè nheo bèn vào có một mình. Sáng ra, đơn vị chạy, Hùng lên tàu theo, nhặt được một khẩu P38 si kền nhưng bỏ lại cả vợ lẫn con. Được mấy bữa, đài vẫn nói Nha Trang Việt cộng chưa vào đến, đang còn bỏ ngỏ, Hùng ngẩn ngơ đòi tình nguyện,…trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu để trở về.

    ***

    Về đến Sài Gòn, ông dượng trao cho tôi một cái radio và nhiệm vụ phải nghe đài tiếng Anh của quân lực Mỹ 16/24. Khi nào đài phát Bing Crosby hát bài I’m dreaming of a white Christmas, sau đó có dự báo thời tiết, câu: “Nhiệt độ Sài Gòn đang 105 Fahrenheit và vẫn còn tiếp tục gia tăng” thì phải gọi cả nhà. Tôi bị ông dượng tôi làm khó, đã không đi đâu xa được mà còn lúc nào cũng phải ôm một cái đài. Sài Gòn vào tháng 4 thì lúc nào nhiệt độ cũng quanh quẩn 100 Fahrenheit, không 104 thì 106 cho nên lại cũng phiền. Ngồi quán nước thì nhạc ầm ĩ, ra xe hủ tíu thì xe cộ lại ồn ào. Nhưng trong khi chờ đợi chiến dịch Frequent Wind mở màn để di tản những người có sẵn trên danh sách Mỹ thì vỡ tuyến Phan Rang, tướng Nghi bị bắt sống.

    Tôi mới nói với bố: Con có đường ra nước ngoài. Trúng ngay ý. Ông bảo bố đã lo rồi, đợi có chuyến chở người Hoa trốn lính (!) từ Vũng Tàu ra biển gặp tàu lớn chở thẳng đến Hồng Kông.
    Thì tôi cũng đang…đào ngũ hay trốn lính đây. (Đỗ Kh)

    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (2)
    Về Sài-Gòn, sáng chúng tôi vào trình diện rồi nhận tờ giấy phép 24 tiếng về nhà, hôm sau lại trở lại, bổn cũ soạn tiếp…Cứ như bình thường thì đây là một dịp cho tôi được ăn nhậu thả dàn nhưng hoàn cảnh đất nước lúc ấy, tôi chẳng còn lòng dạ nào. Hàng ngày đi vào phi trường, thấy người di tản ở đầy khắp mọi nơi, phi trường, toà đại sứ v…v… Gặp nhau ai cũng nói đến chuyện đi Mỹ, chẳng ai nói đến chuyện gì khác.

    Một buổi trưa, sau khi đi trình diện ở phi trường Tân Sơn Nhất, vừa về đến nhà thì tôi nghe nhiều tiếng nổ to lớn lạ thường và rất gần, đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đang ở trọ một người quen ở Gia Định, cũng gần phi trường Tân Sơn Nhất nên hoảng hốt leo lên sân thượng quan sát. Lúc ấy tôi cũng chưa biết việc tụi nón cối dép râu lái A37 của ta tấn công dinh Độc Lập nên thấy mấy chiếc A37 bay thấp gần đó, tôi nghĩ là phi cơ ta lên tìm pháo. Lại nghe tiếng đại liên phòng không bắn khắp nơi, tôi hốt hoảng đưa mắt tìm. Nhìn về phía bến Bạch Đằng, tôi giật mình kinh hãi khi nhận ra đại liên phòng không tứ hướng bến Bạch Đằng đang bắn lên cả máy bay C130 Mỹ đang chở người di tản. May mà chiếc máy bay không hề hấn gì nhưng tôi biết anh phi công chắc phải teo chim cả tháng sau mới trở lại bình thường được.

    Mò chiếc Honda, xe bị xì lốp. Phóng ra ngoài đường, nhìn thấy thiên hạ ào ạt chạy lên chạy xuống càng làm tôi rối ren thêm. Tôi cảm thấy yên tâm khi còn nhìn thấy hình bóng lính mình và cảnh sát ở nhiều chỗ. Mẹ, như thế là tốt rồi, nón cối dép râu có thể về bến Bạch Đằng nhưng ở đây còn yên. Tôi đứng ở một góc đường và bắt đầu thò tay đón xe Lam và gặp ngay được, nhưng một điều ngạc nhiên khác mà tôi không hề nghĩ tới. Không hiểu vì một lý do… kỳ thị nào đó, tất cả những chiếc xe Lam chạy qua đều làm ngơ, không chịu dừng lại để đón tôi. Có thể họ sợ bộ đồ lính tôi đang mặc, cũng có thể vì giờ phút ấy không còn ai muốn đón khách nữa.

    Tôi đứng chưng hửng chừng một phút đồng hồ rồi quyết định rằng, bằng mọi giá, tôi phải vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi muốn đón xe để đi nhưng không ai chịu ngừng thì tôi đành phải… cướp xe vậy. Thành thật mà nói, từ thuở sinh ra và lớn lên, tôi chưa hề làm một việc phạm pháp, chưa hề ăn cướp ăn giật của ai một đồng bạc, nhưng trong hoàn cảnh này, tôi không còn một sự lựa chọn nào khác hơn. Tôi sẽ làm bất cứ chuyện gì để thoát khỏi Sài Gòn. Quyết định đến với tôi thật dễ dàng, dễ dàng như hút thuốc ăn cơm. (…)

    Tôi…đào ngũ (2)
    Ông cậu, trước giờ trong họ nổi tiếng là sát cộng, công tác với tình báo Mỹ trong chương trình Phượng Hoàng, gọi tôi ra một chỗ và trao thêm cho một trọng trách khác. Ông đưa tôi khẩu súng ngắn, bảo: Khi mình đã lên tàu rồi, thì chỉ có đi, không đi là bắn. Lần này là tàu biển, đang đổ dầu ở cảng Sài Gòn. Tôi cũng “OK” (sau mấy ngày liền phải nghe đài Mỹ 16/24) tuy không biết là phải bắn ai. Khẩu súng này lại bảnh, của Tây Đức, là loại tôi chưa từng thấy, hàng hiếm CIA 9mm chứ không phải hàng thông dụng của Cảnh sát Smith &Wesson38, quân đội Colt45. Tôi mang về phòng tháo gỡ ra và lau chùi, cây súng lạ như đã nói nên đỏ cả mặt mãi tôi mới ráp lại được, may mà không có ai chứng kiến. Giờ thì tôi đã có đài, lại có súng.

    Ông cậu đi ngã DAO bằng máy bay chẳng ai hay và chẳng phải ra lệnh ra hiệu cho tôi bắn ai hết. Bố con tôi sang nhà một người bạn ông ở Đa Kao. Bố tôi thì thận trọng, nhà của ông bạn này chính là điểm hẹn của chương trình di tản và có đường dây điện thoại riêng đến thẳng sứ quán, ở ngay đó thì khỏi phải đi đâu và không sợ bị mất liên lạc với… Hoa Kỳ.

    Giới nghiêm được ban hành vào 8 giờ tối. Sài Gòn khoá cửa lại, lính tan hàng không còn vào được. Tôi ăn cơm xong thì súng nổ đì đoẹt cạnh ngay nhà. Tôi leo lên sân thượng xem, có người cháu của gia chủ vội vã vác cây Garand lên nạp đạn. Anh này sinh viên Võ Bị, mấy hôm trước về cùng với quân trường từ Đà Lạt, còn mang theo cả khẩu súng. Giờ anh ở phía bên trong “tuyến”, còn ngoài kia họ đang bắn với Quân Cảnh đang gác chốt, họ là những người đi lạc, không còn đơn vị và chạy hụt hơi về Sài Gòn lại bị ngăn. Tôi đứng ở tầng 4, xem màn ciné dưới đường này thích thú, bắn qua bắn lại chẳng biết phải trái phía bên nào.

    Tôi chịu khó dậy sớm, đang ăn sáng ở quán trước nhà và mơ màng Photomic chứ không phải
    mơ màng nhà thổ thì Khang xuống tới.
    – Ông già mới gọi điện thoại về. Mình đi.

    Tôi nhìn cái đài vẫn còn chịu khó mang theo và đặt ở trên bàn. Chẳng lẽ tôi lỡ mất dịp chính tai tôi được nghe bài hát và câu mật hiệu.
    – Không phải đi với Mỹ mà mình đi đường khác. Bố nói bố về đến là đi. (…)

    Những chuyến “bay đen” (black airlift)
    Ngày 16-4, Đại sứ Graham Martin ra lệnh cho một nhân viên thân tín của mình là John Hogan bí mật dàn xếp với CBS những chuyến “bay đen” (black airlift) bằng máy bay của Air America, trong mấy ngày kế tiếp để di tản những phóng viên ngoại quốc trong trường hợp khẩn cấp.
    (Đinh Từ Thức)

    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (3)
    Thế là tôi mở quai đeo súng, thò tay nắm chặt cán cây P38. Một chiếc xe Lam khác chạy tới, tôi bất ngờ phóng ra chận trước đầu chiếc xe, tay kia rút súng chỉa thẳng vào mặt người tài xế. Cha tài xế xe Lam hốt hoảng thắng gấp chiếc xe. Tôi vòng sang phía bên hông, phóng lên ngồi bên cạnh tài xế. Tôi chỉa họng cây súng P.38 còn mới toanh vào mặt người tài xế, gằn giọng :
    – Ông chở tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất, giá bao nhiêu tôi cũng trả. Ông không chở, tôi bắn chết ông liền tại chỗ rồi lấy xe này đi vào…

    Cha tài xế bị một vố bất ngờ, miệng ú ớ không nói lên lời, tay run cầm cập, không có được một phản ứng. Cho rằng thằng này muốn làm khó, tôi gõ mũi cây súng vào thái dương thằng chả nghe đến đốp một phát, đổi liền cách xưng hô:
    – Đm mày không chở tao nổ một phát mày chết liền tại chỗ rồi lấy xe mày đi cũng vậy thôi.

    Tôi nói thế và tôi sẽ làm thật, và làm mà không hề do dự. Trong hoàn cảnh tôi lúc ấy, tôi không có thì giờ để đi hù dọa ai cả. Lần này thì cha tài xế gật đầu lia lịa, rồ ga sang số. Tay thằng chả run quá làm chiếc xe Lam nhào lên ụp xuống, xém ủi cả vào lề. Tôi ngồi xích ra ngoài một chút, một tay giữ vững thành xe, tay kia vẫn hườm hườm cây súng, để ngay trên vai cha tài xế…

    Chạy được một lúc, tôi ôn tồn cắt nghĩa cho cha hiểu tại sao tôi phải có những hành động như thế. Chả cũng nói chuyện với tôi và lần lần, 2 người trở nên thông cảm. Tôi xin lỗi cha tài xế và bảo tôi sẽ “bồi thường” cho chả 2 ngàn đồng. Cha tài xế chở tôi vào ngay trước phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đưa tiền, vỗ vai chả cười cười… Khi tôi tới phi trường thì mọi nơi trở lại yên tĩnh. Lúc ấy tôi mới được biết là chẳng có nón cối dép râu nào chiếm thành phố cả và những tiếng nổ vừa rồi là kết quả của một cuộc dội bom của tụi nó dùng A37 của mình. Vào trong phi trường, tôi đi lang thang, ngồi nhậu vớ vẩn… (…)

    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến ở quán nhậu
    Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
    Bastos : Bộ anh sợ tôi ói sao.

    (…) với đám bạn bè trong câu lạc bộ chừng vài tiếng đồng hồ thì pháo lại ào ào rớt xuống phi trường. Lần này cường độ nghe kinh khiếp hơn cả những lần trước. Kinh nghiệm cho tôi biết tối nay Tân Sơn Nhất sẽ ăn pháo nặng. Thế là tôi lại dọt về nhà. Việc đầu tiên tôi làm là giắt cái xe Honda đi vá vì để lâu nên bị xẹp lốp. Tối hôm đó, quả đúng như tôi nghĩ, phi trường bị ăn pháo nặng. Tôi ngồi trên sân thượng nhà mình nhìn từng quả đạn bay về phi trường mà lòng đau như cắt. Đó là buổi tối cuối cùng của tôi nơi thành phố thân yêu. (…)

    Tôi…đào ngũ (3)
    Sứ quán Đại Hàn đã có vài ba trăm người đợi sẵn, dân sự và đàn bà con nít cả Hàn lẫn Việt. Bố tôi dẫn anh em tôi vào bàn giấy ông Đại sứ, ông khép cửa lại, chính tay ông lấy ảnh dán vào giấy thông hành của sứ quán, tự tay đóng mộc và ký tên. Tôi thấy ông liều thật, làm giấy không phải giả nhưng mà bất hợp pháp tuy ông chỉ mới biết bố tôi qua loa, sau mới có vài tháng nhậm chức. Ông gia ân này vì sự gửi gấm của ông Đại sứ tiền nhiệm, một vị mà bố tôi đã có giao du khá thân tình. Hạm đội Đại Hàn đang có mặt ở Tân Cảng, mang muối gạo viện trợ gì sang và di tản Hàn kiều về nước, anh em tôi cầm giấy trên tay là giả thuộc dạng này. Nhưng trước tiên, họ phải chở dân từ miền Trung ty nạn đến Phú Quốc định cư và bố tôi quyết định: Chưa rõ ra sao, cứ lên tàu trước đã, đến Phú Quốc hãy hay.

    Đoàn năm bảy cái xe buýt Mỹ được toà Đại sứ Đại Hàn mượn. Đây là cổng vào Tân Cảng, cửa xe buýt mở, một anh quân cảnh trang phục tề chỉnh leo vào. Bằng ấy người trên xe đứng ngồi, anh nhìn ngay vào tôi mà hỏi giấy. Tôi đẫn người ra không có phản ứng. Tưởng là xe sứ quán bảng quân đội Mỹ đã an toàn, tôi còn đang ú ớ chưa ra một chữ tiếng Anh thì ông nhân viên sứ quán đi kèm đã nhanh trí…ngoại giao. Ông lôi từ đâu ra một nắm tiền, giấy 500 Trần Hưng Đạo dúi vào tay anh quân cảnh. Anh này một tay còn cầm súng, một tay không đủ để cầm tiền, cả tập rơi ra sàn vương vãi, anh lom khom nhặt nhét vào túi trên, túi dưới, túi quần ngang. Cả đời anh có lẽ chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, nghệch cả mặt mày. Anh lùi ra khỏi cửa phất súng ra hiệu với các bạn gác ở bên dưới.

    Đoàn xe vào cảng có tiền mở đường máu qua khỏi trạm 2, trạm 3, đỗ trước bến, anh quân cảnh còn đứng đó nhìn trước nhìn sau bảo vệ cho mọi người xuống. Ở cầu tàu, cặp sẵn chiếc Dương vận Hạm, cả một trung đội Thuỷ Quân Lục Chiến Triều Tiên chắn hàng ngang. Mấy anh này dang chân đứng tấn, súng gác trên hông, mắt nhìn thẳng, dây quai nón sắt ở dưới cầm như là duyệt binh lên truyền hình vào ngày Quốc Khánh.
    Suốt mấy tháng trời…đào ngũ không có giấy tờ hợp pháp, tôi đã len lén đi qua bao nhiêu là trạm kiểm soát ngày đêm. Nay qua trạm gác có Quân Cảnh hướng dẫn nên sướng tê…

    Kế hoạch di tản
    Kế hoạch di tản được dự trù: đầu tiên bằng máy bay thương mại, tiếp là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là trực thăng bốc người ra Hạm đội 7. Kế hoạch (Operation Frequent Wind) đầu không thực hiện được. Kế hoạch thứ nhì, chuyên chở bằng phi cơ vận tải quân sự C130, bắt đầu từ ngày 21-4, người di tản được đưa tới tập trung tại trụ sở DAO ở Tân Sơn Nhất, rồi lên máy bay ra đi, cứ nửa tiếng một chuyến. Chỉ có thể hoạt động ban ngày, ban đêm giới nghiêm. Để có sẵn người đi cho những chuyến bay sớm, mỗi tối có khoảng từ 200 đến 600 người dự trù cho hôm sau, ngủ tại các văn phòng ở DAO.

    Về kế hoạch ba, có mấy tầu vận tải và xà lan đậu sẵn ở bến Tân Cảng, gần cầu xa lộ Sài Gòn - Biên Hoà. Kế hoạch này chỉ thi hành được một nửa. Cho đến 26-4, có hai chiếc chở nhân viên toà đại sứ cùng với thân nhân và những người quen thuộc, ra đi suông sẻ. Phần còn lại không thực hiện được trọn vẹn, vì ngày 29-4, khu Tân Cảng không còn đủ an ninh.

    Kế hoạch cuối cùng, trực thăng vận, bắt đầu chuẩn bị vào lúc Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức, tối 21-4: Xếp đặt 13 bãi đáp trên nóc nhà tại nhiều nơi ở Sài Gòn-Chợ Lớn.

    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (4)
    Sáng hôm sau, tôi thức giấc sớm, phóng Honda vào lại phi trường. Vào trong phi trường thì pháo địch bắt đầu rớt ào ạt, càng lúc càng mãnh liệt. Pháo rớt khắp nơi và quan trọng hơn cả là rớt rất là chính xác. Tôi biết tiền sát viên của giặc nhất định phải nằm đâu đó trong phi trường cho nên chúng nó mới bắn như để như thế. Cứ trong một tình trạng bình thường thì kiếm thằng chó đẻ này không khó, nhưng trong hoàn cảnh này thì tiền sát viên giặc có thể là bất cứ ai, từ anh lính mang cái băng đen với hai chữ “QC” đang đứng gác ngay cổng, cho đến ông thiếu tá không quân đang lái xe jeep chạy vòng vòng trong phi trường.

    Và thiên hạ bắt đầu tháo chạy. Tôi dùng chữ thiên hạ đây nghĩa là từ lính cho đến quan, từ dân bay cho đến dân không phi hành, chẳng còn ai làm việc nữa mà chỉ lo chạy. Tôi vào phi đoàn, phòng làm việc bỏ ngỏ, không còn một cảnh tượng nào đau lòng hơn. Đi lang thang, tôi tình cờ đụng đầu đại úy Hưởng. Hai anh em gặp nhau mừng quýnh. Chúng tôi bàn nhau một lúc rồi quyết định ra phi đạo tìm một chiếc tàu bay cất cánh. Cất cánh đi đâu thì chưa biết nhưng phải thoát ra khỏi cái phi trường Tân Sơn Nhất này cái đã. Tôi phóng lên chiếc xe Honda rồ máy, Đại úy Hưởng ngồi sau. Tôi phóng Honda chạy giữa những trái pháo rớt, giữa giòng xe cộ, giòng người chạy tới chạy lui khắp nơi. Đang chạy, tôi nhìn thấy một người mặc áo bay, tướng lùn lùn mập mập đang vừa chạy vừa thở, vai ôm một cái túi nhà binh lớn. Tôi tới gần và nhận ra đó là Thiếu Tá Lý Bửng, Trưởng phòng Hành quân của phi đoàn tôi. Thế là tôi rà tới, thắng xe sát bên ông thầy, la lớn:
    – Thầy chạy đi đâu, lên xe đi với tôi.

    Nhìn thấy chúng tôi, Thiếu Tá Bửng mừng quýnh người, liền phóng lên xe. Nhưng vì ông thầy phóng quá nhanh làm chiếc xe Honda bị đổ nghiêng sang một bên. Tôi dựng xe lên đạp máy nhưng không sang số được vì cần đạp chân bị quẹo cong. Chuyện nhỏ. Tôi bảo mọi người ngồi yên trên xe rồi bước xuống, móc cây P38 ra, trở ngược, giộng báng súng xuống cái cần để chân. Chuyện này tôi làm hoài mỗi khi đi nhậu bị té xe nên chỉ sau chừng vài cú đập, cái cần để chân lại thẳng xuống như cũ. Tôi lại lên xe, đạp máy, lần này sang số ngon lành. (…)

    Tôi…đào ngũ (4)
    Vào lúc 5 giờ, khi đi ngang bến Sài Gòn vào thứ bảy vẫn ngàn hoa trên đường, một người lính trẻ đào ngũ rời xa quê hương. Người lính chiến…đào ngũ ấy là tôi! Lần đi khi nắng lưng đôi, chiều 26 tháng 4, chúng tôi là những người ra đi đầu tiên.

    Hạm đội Hàn Quốc gồm chiếc LST 810 chở tị nạn miền Trung đi trước, tàu tôi LST 815 cũng là soái hạm đi nhì. Chiếc thứ ba, tàu yểm trợ kỹ thuật, còn đang ở Tân Cảng thì bị pháo. Đạn trúng tàu sơ sài, không chết anh Đại Hàn nào. Dấu hiệu pháo địch đã về đến vòng đai, đã cách mấy giờ tàu, tôi không được chứng kiến, chỉ thấy trên tàu tôi nhốn nháo, đại đội Thuỷ Quân Lục Chiến từ trong khoang chui lên vào vị trí tác chiến, thuỷ thủ đoàn lăm lăm quay Bofor và 12 ly7 hướng bờ. Đêm như mực thì thầm nhưng hành lang ra Vũng Tàu vô sự.

    2 ngày hôm sau khi Nguyễn Thành Trung dắt A37 vào ném bom Tân Sơn Nhất thì chúng tôi đã bập bềnh ngoài khơi ngang Côn Sơn. Biển lặng lờ nên mọi người ngủ ngay ở trên boong đón gió là ngay đêm đầu tiên căng thẳng trên sông, ông đại đức với bà ni cô vẫn trùm mền thực thi bài tập của bí quyết phòng the bất kể các thí chủ nằm bên. Cặp này đã lớn nhưng nhìn nhau mặn nồng như trai gái dậy thì, bà vãi thì mỗi lần di chuyển hai tay phải ôm đầu chỉ sợ mái tóc giả bị gió cuốn. Có lẽ trên đất liền họ chưa từng có cơ hội gần gũi, lên đến tàu họ là 2 người nếu không được cách mạng giải phóng, thì cũng đã được hoàn cảnh giải phóng.

    ***

    Tối ngày 29, vào lúc phần lớn những lời đồn này đã có căn cứ hẳn hòi thì tàu tôi đến Phú Quốc. Tôi ngủ say dậy trễ, nên cái giờ trọng đại của lịch sử tôi chỉ mở được có một mắt. Mọi người lao xao tụ tập quanh mấy cái đài mở to khọt khẹt. “Ông Minh tuyên bố đầu hàng rồi!” .

    Người ta nhắc nhau, nhắc đi nhắc lại. Tưởng ông tuyên bố tử thủ Sài Gòn, tái chiếm…Quảng Trị, di tản xuống Quân khu 4 lập phòng tuyến mới, dời chính phủ kháng chiến về Phú Quốc… thì mới lạ chứ đầu hàng thì ai cũng đã chờ đợi. Mấy nhà quân sự nghiệp dư ở trên tàu tính kế hộ Tướng Nam, đánh Kampuchia hướng Tây và giữ phà Mỹ Thuận ở miệt Bắc. Tôi chấp hành nghiêm chỉnh quân lệnh cuối cùng của Tổng Tư Lịnh Quân Lực là giữ nguyên vị trí… đang nằm. (…)

    Những ngày cuối VNCH
    Tại Vũng Tàu, ngay từ đêm 28-4, bộ chỉ huy hành quân của Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Vũng Tàu (?!), đã phải làm việc tại Duyên đoàn 33 Hải Quân để điều động các cánh quân.

    4 giờ sáng ngày 29-4, Tướng Hinh được biết Đại Tướng Viên và Chuẩn Tướng Thọ, Trưởng Phòng 3 BTTM, đã ra đi từ chiều ngày 28-4. (Vương Hồng Anh)

    (?!) Thiếu Tướng Bùi Thế Lân mới là Tư Lệnh Mặt trận Vũng Tàu.

    Cuộc vượt thoát trước ngày 30-4-1975 (5)
    Vào tới khu bãi đậu máy bay của phi đoàn, tôi mới biết là trong thiên hạ không phải chỉ có mình ba người chúng tôi tìm đường đi. Tôi nhìn thấy một lô phi công đang leo lên cánh máy bay để kiểm soát bình xăng những chiếc phi cơ. Dựng xe sang một bên, chúng tôi liền chia ba đi coi cánh tàu bay. Nghĩ rằng tất cả những máy bay tốt và bánh căng đầy đều đã có người kiếm, tôi chỉ chọn những chiếc máy bay cũ, lại có bánh hơi xẹp là những chiếc mà theo tôi là đã bị thiên hạ chê. Quả nhiên, chỉ không lâu, tôi tìm thấy một chiếc L19 với 2 cánh còn đầy xăng. Tôi leo lên vặn cọc bình vào rồi nhấn thử công tác, tạ ơn trời đất, chong chóng quay mấy vòng thật nhanh, đầy hứa hẹn.

    Đáng lẽ tôi là người lái chiếc đó vì tôi là người tìm ra máy bay, nhưng nể tình thầy trò, tôi nhường tay lái cho Lý Bửng, tôi và anh Hưởng ra ngồi phía sau. Ông Bửng cất cánh tại taxiway. Không hiểu lúng túng lạng quạng thế nào không biết, khi tống ga, tàu bay quay sang một bên, xém tí nữa thì lật mẹ nó con tàu. Nhưng số chúng tôi còn may nên chúng tôi bay lên được. Tôi ngồi sau không đội nón bay nên không biết ông Bửng liên lạc với ai. Sau chừng hơn một tiếng hay hai tiếng đồng hồ gì đó, tôi nhìn thấy hòn đảo Côn Sơn…
    Lúc ấy là vào khoảng 11 giờ sáng ngày 29-4-1975…

    Một tháng sau, tôi chính thức đặt chân lên đất Hoa kỳ, trại tị nạn Fort Chaffee, Arkansas.
    (Trường Sơn Lê Xuân Nhị)

    Trường Sơn Lê Xuân Nhị tên thật là Lê Xuân Nhị. Tác giả là phi công lái máy bay L19 thuộc Phi đoàn 114, Không đoàn 62 Chiến Thuật, Sư đoàn 2 KQ tại Nha Trang.

    Tôi…đào ngũ (5)
    Cho tới lúc này thì nhốn nháo, tiếng chân thình thịch, thuỷ thủ đoàn nai nịt áo phao, gỡ vỏ khỏi đại liên, đại bác, hạ nòng. Đại Tá chỉ huy hạm đội xuất hiện, áo giáp súng ngắn đường đường. Ông cho biết những người một giờ trước còn là quân đội Đồng Minh của ông, các đơn vị VNCH Phú Quốc, và giờ là tàn quân ô hợp, đang đòi lên tàu này. Tôi nhìn ra mé tàu, bên dưới vài cái tiểu đỉnh chập chờn trên sóng, phần lớn là lính tráng đang ngóng cổ nhìn lên tràn trề hy vọng. Tôi cứ tưởng thả thang cho họ rồi lên tàu tước vũ khí, đại đội Thuỷ Quân Lục Chiến trên tàu thừa sức giữ an ninh cho việc nhân đạo này. Nhưng ông Đại Tá tuyên bố, quý vị an tâm, giờ nào tôi còn sống, không có quân quan lính lạ nào leo được lên. Có lẽ kinh nghiệm di tản người ty nạn từ miền Trung vào khiến ông quyết liệt như vậy mặc dù hoàn cảnh lần này có khác. Tàu đã hết chỗ chứa, họ chỉ việc chịu khó chạy ra vài mươi hải lý nữa, đã có hạm đội Mỹ, đến 4 chiếc Hàng Không Mẫu Hạm và cả trăm tàu đủ loại đợi sẵn, hộ tống họ về đến Subic Bay. Biển Nam Hải đang nườm nượp như là Ngã Tư Bảy Hiền vào giấc sáng, việc gì mà sợ lạc.

    Ở trên bờ, phi trường Dương Đông tấp nập không kém, trực thăng là đà bốc thẳng, phi cơ quân sự hết chiếc này đến chiếc khác ra đường băng. Tôi thấy rõ nhiều xe máy nhỏ, chở cả gia đình đuổi ra đến tận nơi, vất xe cái bẹt để bồng bế nhau lên tàu. Từ vị trí đã an toàn trên biển tôi điềm nhiên theo dõi, nhưng nếu tôi đang ở trên bờ và không có phương tiện ra đi thì tôi cũng vẫn hai tay thọc túi mà nhìn. Ở lại thì ở, chết thì chết tại chỗ cho đỡ… tốn sức chứ tôi không chen lấn. Tôi chẳng có nghĩ ngợi, tôi nhìn, nom những hàng cây xanh lơi lả mát bên trong mà bỗng dưng thèm một cốc dừa.

    Tàu lầm lì từ từ quay ra hướng biển, mấy cái tiểu đỉnh vây quanh dãn ra nhường kiểu ngập ngừng vẫn còn tiếc nuối, theo như ông Đại tá nói, hạm đội 2.300 hải lý nữa sẽ đến cảng Busan, Nam Triều Tiên.
    (Đỗ Khiêm)

    Tác giả tên thật là Đỗ Khiêm, sinh năm 1954. Trước 75, đi lính Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, 6 tháng sau…đào ngũ tới Đại Hàn. Qua Pháp học trường Cao đẳng Sư phạm Ulm tại Paris. Nay là nhà văn thành danh. Bài viết trên có tên nguyên thủy: “Ngày 30 tháng Tư của tôi”.

    Ngồi ở quán nhậu kể chuyện di tản

    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    Canh khuya thao thức mạn thuyền
    Biết người quân tử vượt biên chốn nào?


    Camp Orote Point - Guam
    Ngày 17-4, Lữ đoàn 9 Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, căn cứ ở đảo Okinawa (Nhật) được lệnh thành lập Lực lượng Thuỷ bộ An ninh di tản. Lực lượng này được lệnh lên đường ngay, tới vịnh Subic (Phi), tập hợp nhân sự cùng phương tiện cần thiết. Nhân sự gồm 720 TQLC, chia thành 14 toán, mỗi toán 54 người, phân chia đi các tầu vớt người ty nạn. Họ được huấn luyện rất kỹ, từ bí quyết nấu cơm cho hàng ngàn người ăn trong chốc lát bằng cách cho gạo vào những bồn chứa lớn, rồi xịt hơi cực nóng từ hệ thống ống dẫn hơi nóng trên tầu để có cơm ngay trong mấy giây đồng hồ đến những câu chào hỏi bằng tiếng Việt, cùng những điều nên và không nên trong cách giao tiếp với người tị nạn và thông dịch viên được chú trọng hàng đầu.

    Giây phút hấp hối của VNCH
    4 giờ sáng ngày 29-4 vừa mới chợp mắt một chút. Người thư ký trực với tôi, anh Bào báo cho biết có điện thoại của Tổng thống Dương Văn Minh. Bên đầu dây bên kia tiếng Big Minh:

    – Qua là Minh đây. Trong đài ai là người cao cấp nhất vào lúc này?
    – Thưa Tổng Thống, không có ai ngoại trừ tôi, một số phóng viên, và nhân viên kỹ thuật.
    – Qua hỏi để là hỏi thôi, giờ này họ bỏ đi hết rồi. Có tin tức gì mới liên quan đến tòa đại sứ Hoa Kỳ không trên những bản tin viễn ấn?

    Tôi đáp không, ngoại trừ một bản tin rất ngắn của hãng Thông tấn UPI cho biết mọi liên lạc giữa tòa Đại sứ Mỹ và chính phủ Vũ Văn Mẫu bị cắt đứt. Hãng thông tấn AFP nói đến vai trò trung gian cuối cùng của Đại sứ Pháp Merillon và cựu Tướng Vanuxem để tránh cho Saigon một cuộc đổ máu. Bắc quân đã kéo hỏa tiễn SAM vào tới Tân Uyên và sẵn sang mở cuộc tấn công. Tôi đặt một vài câu hỏi liên quan đến khả năng tử thủ của những tướng lãnh dưới vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tổng Thống Minh chỉ nói:
    – Khả năng thì có đấy, nhưng giữ được trong bao lâu và sẽ chết bao nhiêu người.

    Sau đó ông nhờ tôi chuyển lời cám ơn đến tất cả anh em trong đài đã cố gắng làm việc với ông
    trong giờ phút nghiêm trọng này.

    Sáng 29-4, tôi vào phòng hệ thống trưởng để tắm vì phòng vệ sinh cho nhân viên dưới lầu bị nghẹt. Nước lạnh làm giúp tôi tỉnh táo. Bước ra lan can, hút một điều thuốc lá.

    Chữ nghĩa của một thời chinh chiến ở quán cà phê
    Trước 75, miền Nam có những câu “thành ngữ” về thuốc lá xuất xứ từ quán cà phê, như:
    Pallmall : Phòng anh lạnh lẽo, mình anh lạnh lùng.

    Hoài An thò đầu ra cửa cười toe toét:
    – Ê sao không về thăm nhà, tôi thấy ông ở đây hoài.
    – Còn ông, sao không về?

    Hoài An hỏi:
    – Ê, ngoài cái tớ biết rồi, còn tin gì cậu biết mà tớ đếch biết không. Nghe nói bọn nó pháo kích vào Tân Sơn Nhất dữ dằn lắm, mẹ kiếp, coi chừng đây cũng dám lãnh quả lắm ạ.

    Khoảng 11 giờ, một phóng viên chót của đài phải rút chạy theo Sư đoàn 18BB về đến đài. Anh cho biết bộ Chỉ huy của sư đoàn này đã về đến nhà máy xi măng Hà Tiên và đang củng cố các tuyến phòng thủ mới. Hải trước là Quản đốc đài Ban Mê Thuột. Sau khi Ban Mê Thuột mất, anh trốn được theo dân di tản. Tháng Ba, Hải đã về trình diện và tôi tạm sắp xếp cho anh công việc của một phóng viên. Trung tuần tháng Tư, Hải xin vào mặt trận Long Khánh của Sư đoàn 18. (Vũ Ánh)

    Ngộ Không

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 09-03-2016, 05:46 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •