Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 10

Tựa Đề: Sài Gòn Ngày Dài Nhất - Duyên Anh

  1. #1
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Sài Gòn Ngày Dài Nhất - Duyên Anh

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT ( CHƯƠNG 1)

    Tôi nhìn đồng hồ: 0 giờ 1 phút. Ngày mới của nhân gian đã sang được 60 giây. Hoàng hôn của đời tôi khởi sự. Từ đốm lửa ở đầu điếu thuốc loé lên mỗi hơi rít đẫy đà, tôi mơ hồ thấy nỗi chết gần kề. Đao phủ và hình cụ của nó đang chờ tôi bên bờ biển máu. Tôi linh cảm tôi sẽ là một trong cả triệu nạn nhân bị đẩy vào cuộc tàn sát tuyết hận ghê gớm của cộng sản như người Mỹ khẳng định và như Soljenitsyne quả quyết. Tôi sợ hãi. Tôi sợ hãi vô cùng: Vì tôi chưa hiểu cộng sản sẽ dành cho những nhà văn chống đối họ cách chết nào, lối chết nào, kiểu chết nào. Khái Hưng đã bị dìm dẫy sặc dưới nước. Lan Khai đã bị nhét vô rọ liệng xuống sông. Sắp đến lượt chúng tôi. Sắp đến lượt Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Như Phong… Chẳng biết những người này có nhanh chân và may mắn hơn tôi? Chẳng biết anh em nào đã ra đi, anh em nào còn kẹt lại? Riêng tôi, tôi tuyệt vọng di tản từ lúc cổng sắt của Phòng thông tin Mỹ góc đường Lê Quý Đôn – Phan Đình Phùng mở tung, dân Sài gòn ùa vào đập phá cho hả giận bị đánh lừa và hôi đồ cho bõ tức. Với tôi, định mệnh an bài hồi 14 giờ, ngày 29-4-1975. Sứ thần Lan Carter không trở lại thực thi lời tâm huyết của tổng thống Gerald Ford: “Phải dành ưu tiên di tản những nhà văn, những nhà báo, những chủ bút”… Tôi nhớ Phạm Duy, trước phút chạy thục mạng, đã cố gọi giây nói khuyên tôi: “Tìm lối thoát lẹ đừng tin Mỹ, bọn Mỹ chó đẻ lắm”? Bọn Mỹ chó đẻ thật. Nó năn nỉ chúng tôi đến Usis ghi tên di tản. Nó lập danh sách, ghi rõ tên tuổi, bút hiệu, địa chỉ của chúng tôi. Nó đem danh dự của dân tộc nó quả quyết sẽ không bao giờ để chúng tôi lọt vào tay cộng sản. Chúng tôi tin nó. Và chúng tôi đã không kiếm đường khác. Bấy giờ, ông đại sứ John Dan chưa công bố thư riêng của hoàng thân Sirit Matak sau khi cuốn cờ sao xọc rời Phnom Penh: “Sống chết đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng là tôi đã trót tin người Mỹ”? Sirit Matak khước từ di tản. Nếu tôi không lưỡng lự giữa hợp pháp và bất hợp pháp, chỉ cần xỉa cho chị me Mỹ đen dưới chợ Xóm Lách mỗi đầu người ba trăm đô-la, tôi đã leo máy bay Mỹ ở phi trường Tân Sơn Nhất. Mới hay, me Mỹ giá trị hơn lời của tổng thống Gerald Ford và danh dự Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Khi tôi quán triệt tâm huyết Mỹ, đó là lúc tôi chờ đợi cái chết. Tôi đã chưa hề tin Mỹ. Lần đầu tôi tin Mỹ và tôi e rằng không còn dịp để nói là lần cuối cùng. Mỹ giống hệt cộng sản. Nó bảo trắng thì là đen. Nó bảo thắng thì là bại. Nó bảo đồng minh thì là đầy tớ. Nó bảo chung thủy thì là phản phúc. Nó dọa biển máu, biển máu. Nó vẽ ra những cảnh tượng hãi hùng. Nó sáng tạo sự khiếp đảm. Nó bắt thần kinh con người phải căng thẳng. Nó khiến con người gần như mất hết phẩm cách vì sợ chết, ôm lấy nó để nó giáng những báng súng thô bạo lên thân thể, nó đấm, nó đạp mà vẫn cam đành nhục nhã, ê chề, đau đớn cho sự sống hèn mọn ngoài biển máu quyết đoán của nó. Rồi nó thản nhiên vất cả một dân tộc lại, thoi thóp từng giây với ác mộng biển máu. Từ khai thiên lập địa, từ có loài người, chưa có giống người nào dã man, độc ác, lạnh lùng hơn giống tư bản. Cái giống tư bản đã viện trợ thêm cho chúng tôi cảm giác rụng rời của tưởng tượng nỗi chết, cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim. Tư bản làm tê liệt tâm hồn con người để cộng sản kết thúc cuộc sống của con người. Hai kẻ tội đồ của nhân loại đã thông đồng một trò chơi khốn kiếp ở nhiều nước nhỏ trên trái đất. Hôm nay, ở nước tôi.
    Để quên nỗi chết, tôi chỉ còn biết hồi tưởng.

    Tín hiệu của ngày dài nhất trên quê hương Việt Nam khốn khổ đã phóng lên vùng trời Ban mê thuột hôm 12-3-1975. Nhưng Sài gòn không treo cờ rũ như đã treo để tang Phước Long thất thủ hồi đầu tháng 1-1975. Thành phố ấy vẫn ăn chơi trong mọi khắc khoải, vẫn nhẩy nhót trên mọi ưu phiền, vẫn cửng cổ quyền bính và âm mưu truất phế quyền bính. Những xác chết của quân dân chất đống, những dòng máu của quân dân chẩy dài, ở Darlac, còn tươi rói, chẳng làm lay động nổi cái bóng.. tối phủ kín lương tri mê sảng của giai cấp thống trị và bọn đối lập tổ quốc Người ta lạy lục xin viện trợ chống giặc. Người ta lạy lục cúp viện trợ chống giặc. Phong trào bài trừ tham nhũng chuẩn bị cuộc xuống đường vĩ đại. Cảnh sát chuẩn bi cuộc đàn áp ngoạn mục. Lần này, thầy tu Trần Hữu Thanh hạ quyết tâm phá nát con rùa tại công trường Duy Tân vì Nguyễn văn Thiệu dấu bùa yểm sự nghiệp bảo vệ đất nước dưới mu rùa! Lịch sử đã quá xa thời đại thầy tăng dựng triều đại nhà Lý vẻ vang. Bây giờ là giai đoạn tôn giáo thay thế sự ươn hèn của đảng phái. Để múa may ít và để bị giật giây múa may nhiều. Và vô tích sự. Hoàn toàn vô tích sự. ông Trần Hữu Thanh chống ông Nguyễn văn Thiệu bằng sở nguyện của ông Trần Thiện Khiêm, bằng tài liệu của ông Trần Thiện Khiêm, bằng hậu thuẫn của ông Trần Thiện Khiêm, tham nhũng ngang cơ ông Nguyễn văn Thiệu. Nhân danh một điều ác loại trừ một điều ác. Đó là tư tưởng tranh đẩu của một số thầy tu. Và, dĩ nhiên, không có hồi chuông cáo phó nào rung lên cho Ban mê thuột, ở nhà thờ, ở nhà chùa…
    Ngày Nông Dân 1975 định tổ chức thật vĩ đại ở Sài gòn tạm hoãn. Những công trình xây cất tại Sở Thú cho ngày “Người cầy có ruộng” đang ồn ào, bỗng im lặng. Một triệu số giai phẩm Cách mạng xanh ấn loát xong xuôi đành nằm vô duyên ở Bộ Canh Nông, ở Sài gòn ấn quán, không còn dịp tặng nông dân tham dự đại hội. Bài ca cách mạng xanh của Phạm Duy do Thái Thanh hát chẳng kịp vang vọng những lời nhân bản: “Ruộng vườn chia nhau mà không cần đổ máu”… Tuy nhiên, sóng ngầm chỉ mới dấy lên ở đáy lòng giai cấp thống trị bù nhìn và tham vọng của bọn đã bị tước đoạt quyền bính bù nhìn cũ. Sóng nổi rõ rệt, không, không phải là sóng mà là những cọng rác bắt đầu nhô lên dòng thế sự, là đám Nguyên văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung… Binh ôm chặt thầy tu Trần Hữu Thanh, khuynh loát nhóm dân biểu Quốc Gia, xúi dục tạo những xáo trộn. Chung theo sát gót Dương văn Minh, chờ đợi phất cờ.” Nguyễn văn Binh, cháu Tổng giám mục Sài gòn Nguyễn văn Bình, như cái nhân cộng sản cấy vào nhóm dân biểu đối lập Quốc Gia của những tay chống cộng sản khét tiếng Nguyễn Trọng Nho, Trần văn ân, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Văn Cung… Chính Binh đã qua mặt nhóm Quốc Gia viết thông cáo và nhân danh nhóm Quốc Gia -. Binh là chủ tich của nhóm – công khai đối lập… tổ quốc, nghĩa là xúi Mỹ cúp viện trợ cho Việt Nam. Nhóm Quốc Gia, vì cảm tình đã không tỏ thái độ gì cả. Những kẻ gọi là đối lập Nguyễn văn Thiệu đã quên việc lớn, chỉ nghĩ đến việc nhỏ. Đất nước mới vĩnh cửu, Nguyễn văn Thiệu nhất thời. Chỉ nghĩ tới cái nhất thời mà quên cái vĩnh cửu nên người ta hăm hở săn đuổi Nguyên văn Thiệu, người ta không thích đưa ra một đề nghị tạm xóa bỏ hận thù riêng để đối phó hận thù chung. Dễ hiểu thôi, chính trường của miền Nam, đúng hệt lời nhận xét của Nguyễn Trọng Nho: “Không có đối lập, chẳng có thân chính quyền, chỉ rặt gà què ăn quẩn”. Cần nối tiếp: “… và gia nô”? Cái chính trường đê tiện ấy, thực sự, không có đối lập đúng nghĩa. Chỉ là đối lập tổ quốc và đối lập người nguyên thủ quốc gia như đối phó kẻ thù. Bọn đối lập tổ quốc, ai cũng rõ chân tướng của chúng, là bọn cộng sản nằm vùng, là bọn thân cộng sản, là bọn đầy tự ti mặc cảm. Bọn gia nô miễn đếm xỉa. Một vài chính khách, dân cử đối lập chân chính thì lại thiếu thái độ chính trị. Nghĩa là chỉ biết chê sai mà không dám khen đúng, chỉ thích xa cách lấy danh mà không thích gần gũi hứng nhục vì quyền lợi của dân tộc, vì sự sống còn của tổ quốc Họ còn ngây thơ nữa. Muốn Nguyễn văn Thiệu té nhào nhưng họ không đủ tài năng cù nách Godfather của Thiệu. Khi bố già Sam còn yêu Thiệu, đối lập là trò hề rẻ tiền, hơn cả trò hề, là sự làm dáng dân chủ cho Thiệu vững vàng thêm. Nguyễn văn Thiệu trở thành kẻ tồi tệ do Godfather Sam khích lệ, do gia nô sùng bái, một phần do đối lập chỉ mưu đồ hất ông ta mà không chịu đóng góp xây dựng cho ông ta. Bởi vậy, với riêng Thiệu, đối lập và đối nghịch nguy hiểm hơn cộng sản; với đối lập và đối nghịch, Nguyễn văn Thiệu nguy hiểm hơn cộng sản. Cái chính trường ngu xuẩn ấy khoán trắng việc đánh giặc bảo vệ tổ quốc cho quân đội. Để làm những trò khỉ đối lập Để làm xáo động hậu phương cả trong lúc hậu phương và tiền tuyến đều bàng hoàng chuyện mất đất.
    Không một hồi chuông cáo phó nào rung lên cho Ban mê thuột, ở nhà thờ, ở nhà chùa và ở cả lòng những kẻ đối lập phiêu lưu mà, đáng lẽ, cần phải rung lên. Cuộc chiến hai mươi năm, chưa lần nào lãnh thổ nước Việt Nam cộng hòa bị cộng sản ngoạm một miếng to thế, mầu mỡ thế. Ban mê thuột là vùng kinh tể trù mật của Cao nguyên. Một nhà phát hành sách báo ở Sài gòn cho biết, số sách báo bán riêng tại Ban mê thuột bằng cả miền Trung cộng lại. Nhưng Ban mê thuột đã thất thủ. Và Sài gòn không treo cờ rũ. Và Sài gòn đã quên cả Phước Long, đã chẳng cần đặt câu hỏi: Trước thời gian Phước Long mất, có một căn cứ, một đồn bót nào bị mất?Không, mất sáng thì quân đội ta chiếm lại chiều, mất đêm thì quân đội ta chiếm lại ngày. Nửa tấc đất cũng không để lọt vào tay cộng sản. Ngay Quảng Trị khó tái chiếm mà vẫn tái chiếm. Căn cứ Tống Lê Chân heo hút biên giới mà vẫn tử thủ. Tại sao bỏ rơi Phước Long? Niềm u uẩn Phước Long tại sao không bày tỏ? Mục đích bẩn thỉu nào đã cống hiến xương máu quân dân Phước Long làm quà tặng cho “giải phóng miền Nam”? Tất cả đều ngậm miệng, gia nô và đối lập; tướng hùng và tướng hèn. Rồi Ban mê thuột? Tiếng nói của lương tri nào kịp thời an ủi những cái chết tội nghiệp của dân, những cái chết bi phẫn của lính? Im lặng và lạnh lùng. Sài gòn vẫn nhẩy đầm, vẫn rượu gái, vẫn tham nhũng, vẫn làm tiền, vẫn củng cổ quyền bính, vẫn âm mưu cướp đoạt quyền bính… Phải đợi đến ngày 17-3-1 975, ngày khởi sự “300 cây số đường máu” dọc liên tỉnh lộ số 7 về đất hứa Tuy Hòa, nghĩa là ngày vĩnh biệt Cao Châu*, Sài gòn mới hơi hơi xao xuyến!

    0 giờ 15 phút. Trực thăng Mỹ vẫn vần vũ một góc trời Sài gòn. Nó tiếp tục hạ cánh, cất cánh chở những người Việt Nam hạnh phúc leo lên được nóc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Nghĩ cũng tội nghiệp cái hạnh phúc đó. Tư bản Mỹ đem chiến tranh sang Việt Nam và cần leo thang đúng chỉ tiêu của chính sách khai phóng tự do, dân chủ giả hiệu made in USA, họ đã nhỏ những giọt nước mắt cá sấu xuống xác chết anh em ông Ngô Đình Diệm, đã dẵm những gót giầy đinh thô bỉ lên những năm bình yên của miền Nam. Bằng đô-la, họ đã làm đảo tung trật tự xã hội Việt Nam, đã gây ô nhiễm đạo lý Việt Nam, đã tạo dâu biển tình nghĩa Việt Nam, đã dựng một giai cấp thống trị mới điếm đàng, tồi tệ, gian manh nhất trong lịch sử thực dân. Giai cấp giá trị mới này được phép làm giàu trong chiến tranh để phục vụ guồng máy chiến tranh tư bản Mỹ. Chúng ta có các ông vua chở dầu chiến lược, vua kẽm gai, vua xây bin-đinh cho Mỹ mướn, vua giặt áo quần Mỹ… Bằng quyền bính tôi mọi, họ đã bầy ra thế trận để tướng lãnh thù hận tướng lãnh, đảng phái thù hận đảng phái, tôn giáo thù hận tôn giáo, con người xa lánh con người. Và họ gọi là chống cộng sản. Và họ gọi là khai phóng dân chủ, tự do. Và họ gọi là chính sách tán biên cương xuất cảng chân thiện mỹ hai trăm năm Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Sự cao quý, sự lương thiện của đất nước, của dân tộc Lincoln đã chỉ thể hiện ở Việt Nam, ở các nước nhỏ trên thế giới qua chính sách bần tiện và gian dối của Hoa Kỳ. Suy diễn chính xác danh ngôn Fulbright: “Sài gòn là một ổ điếm,” thì ổ điếm ấy tập trung đủ mặt Tú Bà, Sở Khanh, Khuyển Ung, Khuyển Phệ tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và lũ điếm thối thống trị bù nhìn tập trung ở Dinh Độc Lập. Cái ổ điếm Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã đánh đĩ dân chủ, tự do Mỹ để bành trướng chân lý kiểm tục của cộng sản. Hai chi nhánh điếm của hai đại công ty điếm Hoa Kỳ và Liên Sô khuếch trương kỹ nghệ đĩ dân chủ, đĩ cách mạng ở nước Việt Nam dưới hai bảng hiệu Chống cộng sản bảo vệ tự do, dân chủ và Chống Mỹ cứu nước. Vi trùng tư bản và vi trùng cộng sản làm mòn teo dân tộc Việt Nam. Vi trùng này ghê gớm hơn vi trùng giang mai, vì là vi trùng chiến tranh tư bản chống chiến tranh cộng sản và vi trùng chiến tranh cộng sản chống chiến tranh tư bản. Dân tộc Việt Nam, một dân tộc phi cộng sản, phi tư bản, bị nhiễm cả hai thứ vi trùng chủ nghĩa. Vi trùng cộng sản gây bệnh cách mạng giải phóng rồi biến chứng thành các bịnh khát máu, ngu dốt, nghèo khổ, thù hận, ngục tù… Vi trùng tư bản gây bịnh dân chủ tự do giả hiệu rồi biến chứng thành các bịnh độc tài, tham nhũng, vọng ngoại, chia rẽ, tham quyền cố vị. Nhưng sự biến chứng nguy hiểm nhất của bịnh dân chủ tự do giả hiệu là hạnh phúc hứng bom đạn, hạnh phúc chết chóc, hạnh phúc hưởng thuốc khai quang và hạnh phúc di tản. Hạnh phúc di tản, thứ hạnh phúc cuối cùng của người Mỹ ban phát cho “đồng minh chống cộng”Õ Việt Nam, được tính thêm bằng những báng súng, những cái đạp, những cú đấm tối tăm mặt mũi. Lịch sử Hoa Kỳ sẽ không ghi những báng súng, những cái đạp, những cú đấm biểu tượng văn minh và văn hóa hai trăm năm Hiệp chủng quốc Mỹ giáng xuống thân phận Việt Nam sợ hãi cái biển máu do Mỹ tưởng tượng. Nhưng dân tộc Việt Nam sẽ nhớ mãi. Rằng, có hai cách trốn tránh biển máu thêu dệt kiểu Mỹ, một là chịu đòn mềm xác để leo lên được nóc Tòa Đại Sứ Mỹ, hai là chi cho me Mỹ, bất kể đen hay trắng, 300 đô-la một đầu người?
    Cùng với tiếng trực thăng vần vũ, tôi còn nghe cả tiếng súng nổ ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Cộng sản đã pháo kích vào phi trường quân sự từ mấy hôm nay. Họ chưa ngừng pháo kích. Họ muốn tấn chiếm yếu khu Tân Sơn Nhất. Lính của chúng ta vẫn chống cự. Vào giờ này, bọn tướng lãnh hèn mạt, bọn đại tá nham nhở đang tranh giành nhau chỗ ngủ, phần ăn tại đảo Guam. Có thể, nhiều đứa đang thức bảo vệ đồ tế nhuyễn, công lao ăn cắp xương máu lính của chúng, mà chúng không quên di tản theo để làm rạng rỡ thêm sự nghiệp đào ngũ. Bọn tướng lãnh đốn mạt đã vất lại Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Nhưng lính thì không, lính còn nguyên phẩm cách làm người, còn nguyên danh dự làm lính. Dù tướng đã đào ngũ chạy trốn, dù chỉ huy đã đào ngũ chạy trốn, lính vẫn hiên ngang bảo vệ tổ quốc, bảo vệ danh dự, và duy trì trách nhiệm của lính. Không còn ngôn ngữ nào khốn kiếp hơn để miệt thị bọn tướng lãnh đào ngũ. Cũng chẳng còn ngôn ngữ nào cao quý hơn đề vinh danh những người lính Việt Nam cộng hòa biết ý nghĩa sống, ý nghĩa chiến đấu và ý nghĩa chết. Hơn cả hào hùng, lính của chúng ta lãng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cô đơn và gục ngã âm thầm.
    Súng nổ ròn, nổ đẹp ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Và ở những nơi nào nữa trên quê hương tôi vào lúc bi thảm của lịch sử, vào lúc mà người lính có quyền đứng thẳng, ngẩng mặt, vất vũ khí, giã từ trận mạc? Họ lại khước từ cái quyền đó, họ đứng thẳng, ngẩng mặt phóng nhiệt tình và niềm kiêu hãnh của họ về hướng kẻ thù. Những người lính Việt Nam cộng hòa đã trả lời cho thế giới một cuộc chiến bảo vệ tự do đích thực, cuộc chiến không còn Mỹ và tay sai của Mỹ. Cuộc chiến đấu chống cộng sản của dân tộc Việt Nam chỉ khởi sự từ những ngày cuối tháng 4-1975. Từ những ngày này, lính đã thắp sáng chính nghĩa quốc gia. Trước đó, chính nghĩa của chiến đấu bị lu mờ, bị ô nhiễm, bị ngộ nhận bởi Mỹ và đầy tớ thống trị bù nhìn của Mỹ.
    Nghe súng nổ, tôi liên tưởng người lính, nhân vật bất hủ của nhà văn James Jones trong tác phẩm From here to eternity. Anh ta tạm bỏ đơn vị vì lý do giết gã cai ngục quân lao trả thù cho bạn. Anh ta bị thương, tá túc tại nhà một vũ nữ. Biết tin quân thù xuất hiện và đồng đội anh hăng say chiến đấu, anh ta trở về đơn vị.
    – Quân đội bạc đãi anh, anh trình diện làm gì nhỉ?
    – Vì tôi là lính.
    Vì tôi là lính. Câu nói đầy cảm xúc và cảm khái. Lính của chúng ta đã nói thế, nếu có ai hỏi tại sao các anh còn chiến đấu khi bọn tướng lãnh, bọn đại tá tham mưu đã đào ngũ. Tôi lại nhớ chập tối hôm qua…

    Lúc ấy, trên màn ảnh nhỏ của đài Truyền Hình Việt Nam, băng tần số 9, ông tướng Vĩnh Lộc, mà có thời chúng tôi âu yếm gọi là “vua xứ mọi” đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại. Tướng Vĩnh Lộc thay thế “đại tướng” Cao văn Viên đã đào ngũ, nắm quyền Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng hòa. Tướng Vĩnh Lộc còn ở lại với lính, với dân. Vào phút giây “sauve qui peut” này, vẫn thấy tướng Vĩnh Lộc chưa chạy, tưởng rằng ông ta xứng đáng con nhà tướng. Tôi không có kiến thức quân sự như Phạm Huấn đề thẩm định giá trị trận mạc và tài năng chỉ huy của tướng lãnh, vậy xin có vài hàng thật trung thực về “vua xứ mọi”, ông vua đã đối xử với tôi như một ông “vua” đối với một kiêu sĩ.
    Hồi ấy, thời điểm Nguyễn văn Thiệu ra tranh cử tổng thống lần đầu, tôi đang ồn ào trên nhật báo Sống. Nhật báo này bảo trợ ấp Tân Lợi ở Rạch Giá, muốn tổ chức hai đêm đại nhạc hội tại Nha Trang và Quy Nhơn và rất muốn “vua xứ mọi” giúp đỡ tận tình. Chu Tử định cử Nguyễn văn Đông lên Pleiku “yết kiến” ông “vua xứ mọi”, Tư lệnh vùng 2. “Trì phủ Nguyễn Hoàng Đạt, tùy viên báo chí của tướng Vĩnh Lộc ngăn cản, bảo rằng, chỉ có tôi, tướng Vĩnh Lộc mới dành cho mọi dễ dàng. Chu Tử bèn phong tôi chức “đại sứ” của “vương quốc” Sống. Tôi hơi ngỡ ngàng vì tôi chưa hề gặp gỡ, chuyện trò riêng tư với tướng Vĩnh Lộc. Thế thì tôi cầm “quốc thư” ra đi. Đến Pleiku buổi chiều, chuẩn úy Nguyễn Trọng Nho ra phi trường đón tôi. Nho lái tôi về tư thất của quan năm Nguyễn văn Tự, hỗn danh Năm Mù, Tham mưu phó chiến tranh chính trị quân đoàn 2. Các quan đang xoa mã tước còm. Chỉ có Diên Nghị và Nguyễn Hoàng Đạt niềm nở thăm hỏi tôi. Quan năm chiến tranh chính trị, qua cặp kính đen của ông ta, đã nhìn tôi như nhìn một phóng viên hạng bét mà ông ta thường tiếp xúc. Kệ ông ta. Qua một đêm ở Pleiku, sáng hôm sau tôi yết kiến “vua xứ mọi”. Vua có công tác khẩn phải đi Lâm Đồng, chở tôi ra phi trường, dặn dò: “Đừng về, đợi tôi nhé, chiều nay chúng ta mạn đàm.” Buổi chiều, tướng Vĩnh Lộc cho người mời tôi lên quân đoàn. ông tướng vừa bay nhiều giờ trên vùng trời Lâm Đồng, chưa kịp về tư thất tắm gội, thay quần áo. ông ta tiếp tôi tại văn phòng. Có quan năm chiến tranh chính trị dự kiến. Tôi tặng ông tướng cuốn tiểu thuyết mới nhất của tôi. ông ta nói: “ông Duyên Anh lật chương thứ năm, tôi đọc cho ông nghe.” Ông tướng bảo, yêu tôi nhất ở Hoa thiên lý. ông tướng thao thao chuyện văn chương của tôi. Rồi chúng tôi luận về Đông chu Tam quốc… Gần 9 giờ tối, ông tướng “xin lỗi về nghe tin tức Sài gòn, vì dân sự nhất định phải đuổi liên danh quân sự ra khỏi chính trường.” ông tướng chỉ thị chiêu đãi tôi tại Phượng Hoàng.
    Bất cứ một nhà văn nào được bất cứ một độc giả nào hiểu văn chương của mình, yêu văn chương của mình thì cũng đều thích thú cả. Tôi có cảm tình với tướng Vĩnh Lộc từ đó. Và từ đó, ông Năm Mù yêu dấu của tôi khoái tôi ông ta mắng yêu: “Tại cậu, tớ lại phải đọc tiều thuyết của cậu để đấu với ông tướng.” Vì chống đối cố vấn Mỹ ngu xuẩn, tướng Vĩnh Lộc mất chức Tư lệnh vùng 2. ông ta sai Nguyễn Hoàng Đạt về Sài gòn gọi tôi lên Pleiku đề cho tôi nguyên cơ sở ấn loát tuần báo Cao Châu. “sợ rằng Lữ Lan sẽ phá nát” và tặng tôi 9 trăm 98 ngàn là tiền quỹ của tuần báo Cao Châu. ông tướng muốn giúp tôi xuất bản nhật báo như đã muốn giúp tôi đắc cử dân biểu thị xã Nghĩa Trang sau vụ án trò giết thày. Cả hai lần, tôi đều từ chối. Tôi còn từ chối thêm lần thứ ba là lần ông ta nắm Tổng cục Quân huấn, loay hoay tìm giải pháp hợp lệ tình trạng quân dịch cho tôi. ông ta bảo tôi cầm bút hữu hiệu hơn cầm súng. ít có ông tướng nào đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn Sài gòn và hiểu được sức mạnh của văn nghệ như tướng Vĩnh Lộc. Gọi ông ta là tướng trí thức, có lẽ không sợ lộng ngôn. Rất tiếc, giai cấp tướng lãnh khá hiếm những Vĩnh Lộc. Khi ông bị biếm về trường Cao đẵng quốc phòng, tôi có ghé thăm ông một lần.
    Bây giờ, ông xuất hiện trên ti vi, nắm quyền Tổng tham mưu trưởng vào giờ thứ hai mươi lăm. ông ta có vẻ bối rối trong Nhật lệnh đọc từng câu rời rã. Sự thung dung cần thiết lúc này để gây lại phấn khởi, để lấy lại niềm tin đã thiếu hẳn ở người hùng Pleiku. Cái vẻ phẫn nộ pha lẫn chán nản của tướng Vĩnh Lộc đã làm tôi buồn bã thêm. Tôi bỏ ra sân. Nghe tiếng xích xe tăng nghiến trên mặt đường, tôi mở cổng ra xem. Một đoàn xe tăng của ta từ hướng Tân Sơn Nhất chạy vào Sài gòn. Bất chợt, một chiếc dừng ngay trước cổng nhà tôi. Những chiếc tăng phía trước và phía sau dừng lại hết. Ngã tư Công Lý – Yên Đổ đủ một chỗ trống cho xe hơi qua lọt. Người lính xe tăng mở nắp, cầm cái búa lớn nhẩy xuống đường. Chiếc tăng bị trục trặc. Bình tĩnh, người lính giáng những nhát búa. Chắc chắn, anh ta không nghe tướng Vĩnh Lộc hài tội tập đoàn Nguyễn văn Thiệu và kêu gọi tiếp tục chiến đấu. Người lính ấy, biểu tượng rực rỡ và đích thực của quân đội, còn nguyên vẹn danh dự và trách nhiệm. Anh ta thừa hiểu bọn tướng lãnh đầu sỏ đã chạy trốn hết. Bọn thống trị bù nhìn đã chạy trốn hết. Nhưng anh ta là lính, dù thoi thóp một phút chiến đấu, anh ta vẫn bảo vệ danh dự quân đội, anh ta vẫn chứng tỏ trách nhiệm của anh ta với tổ quốc, dân tộc. Người lính im lặng làm công việc của anh ta. Hẳn nhiên, anh ta không hò hét. Nên, anh ta vẫn còn đây, trước cổng nhà tôi số 225 Bis đường Công Lý, sửa xích xe tăng một cách thản nhiên. Sự thản nhiên của người lính tôi đã không tìm thấy ở tướng Vĩnh Lộc trên vô tuyến truyền hình. Nếu “cái dũng của thánh nhân” đã biểu hiện rõ nét ở các ông tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Phạm văn Phú, chắc chắn, những cái chết của các ông ấy đã phục sinh một ý nghĩa chiến đấu tuyệt vời. Chỉ tiếc các ông ấy tự sát quá vội vàng, tự sát chưa đúng lúc. Cần một tướng Nguyễn Khoa Nam có đủ cái thung dung tự tại phút nguy cơ, vùng 4 đã là những chiến khu lý tưởng dẫu thất thế sau 30-4. Tuy nhiên, các ông tướng tự sát vẫn xứng đáng con nhà tướng, vẫn để lại những dấu ấn khó phai nhòa trong quân sử và trong lịch sử. ông tướng Vĩnh Lộc quên cái dũng, vì ông pha trộn sự phẫn nộ Nguyễn văn Thiệu, Cao văn Viên và bọn tướng đào ngũ, vào sự đối phó tình hình khẩn trương. Người lính xe tăng đang sửa xe đã biết dằn sự phẫn nộ. Danh dự của anh soi sáng trách nhiệm của anh. Danh dự ấy, có soi sáng những khuôn mặt tướng tá đào ngũ trong những cái lều ở đảo Guam?
    Người lính đã sửa xong xích tăng. Anh ta leo lên xe, chui xuống, đậy nắp. Đoàn xe tiếp tục chạy. Về đâu? Tôi không biết. Trở vô nhà, ông tướng Vĩnh Lộc đã đọc xong Nhật lệnh. Màn ảnh vô tuyến truyền hình, bây giờ, chỉ còn cái dấu chỉnh hình tưởng chừng cái hình bát quái và giọng hát buồn nôn của mấy cậu sinh viên tranh đấu nhai đi, gặm lại ca khúc Nối vòng tay lớn, thỉnh thoảng bị đứt khúc bởi tiếng nói đắc thời của Lý Quý Chung, Tổng trưởng Thông tin nội các Vũ văn Mẫu? Tôi vội tắt ti vi.

    0 giờ 45 phút. Súng nổ ở phi trường Tân Sơn Nhất vọng vào lấn át tiếng máy bay trực thăng lên xuống nóc Tòa Đại Sứ Mỹ. Tôi ngồi dựa lưng ghế bành, để cả hai chân trên mặt bàn xa-lông, hút thuốc gạt tàn bừa bãi. Lúc này, tôi thèm nghe nhạc Schubert. Tôi thèm nghe hồ cầm độc tấu La Jeune Fille ét la Mort của Schubert. Vợ con tôi đã ngủ. Các con tôi mệt nhoài di tản thất bại hôm qua, ngủ say sưa. Vợ tôi ngủ chập chờn. Tôi nghe rõ tiếng thở dài của vợ tôi. Trong đời sống, có những lúc vợ chồng không dám an ủi nhau. Vợ tôi đã không dám dục tôi đi ngủ, để mặc tôi đốt thuốc thâu đêm. Tôi thèm nghe Schubert diễn tả sự chết, chẳng tại vì can đảm. Mà vì nuôi hy vọng được chết cuống quít, chết hạnh phúc, chết gắn bó với âm thanh. Khó lắm. Cộng sản thích con người sống mòn và, đồng thời, thích con người chết mòn. Chúng tôi sắp chết sặc sụa trong biển máu. Có phải cái nỗi “chết đuối người trên cạn,” Nguyễn Gia Thiều đã tiên liệu cho dân tộc chúng ta? Con người của thời đại chúng ta đã mắc lưới ý thức hệ và đã thay phiên nhau “chết đuối trên cạn.” Nghĩ mà ghê tởm ý thức hệ, chủ nghĩa. Dân tộc chúng ta chẳng đã một lần Thập nhị sứ quân, một lần sông Gianh đấy ư? Không thấy lịch sử viết về biển máu sau Đinh Bộ Lĩnh, sau Nguyễn Huệ thống nhất đất nước. Khi cuộc đời thôi chiến trường, con người trở về bình yên để xây dựng lại cái vĩnh cửu của con người. Con người quên oán hờn, con người không sợ hãi hình phạt trả thù của thù hận. Con người bằng lòng cái đã chết và hoan hỉ cái đang sống. Thi sĩ Hoàng Cầm đã diễn tả chính xác cái còn lại của người Việt Nam sau chiến tranh:
    Ai cũng chết cả rồi
    Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam…
    Những cái chết cho cái tồn tại vĩnh cửu của dân tộc chẳng làm thăng hoa cái sống sót nữa. Chủ nghĩa và ý thức hệ ngoại lai khốn kiếp đã phủ lên tình tự đích thực của Việt Nam cái bóng tối đen đặc hãi hùng. Từ đó, cuộc đời thôi chiến trường bên ngoài là để khởi sự chiến trường bên trong, thứ chiến trường phủ nhận mọi cái đã chết và đe dọa mọi cái sống sót. Và đó, chiến trường hủy diệt “cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam”. Đã thấy rồi, 1 triệu 500 ngàn người Việt Nam sống sót sau chiến tranh mười năm, chưa kịp dứt nụ cười đã bị tàn sát bởi cuồng phong chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam bị học tập thù hận rồi say sưa thù hận để giết người Việt Nam bằng ý thức hệ mà người Việt Nam không hiểu nó là cái gì? Người Việt Nam đã chết thảm trong Cải Cách Ruộng Đất 1 triệu 500 ngàn mạng, trong sửa sai thêm 500 ngàn mạng. Hình tưởng máu của hai triệu con người? Có làm nên một dòng sông? Và dòng sông oan nghiệt ấy bắt nguồn từ đâu, chẩy đến một mục đích nào? “Máu người dân Việt còn cầy cho luống cầy,” Phạm Duy đã van xin máu Việt Nam chỉ đổ cho tương lai Việt Nam. Rốt cuộc, nó đã đổ cho thắm màu cờ Mác-xít, cho tham vọng đầy đoạ dân tộc, đầy đọa con người của bọn lãnh tụ đê tiện. Giấc mơ bình dị của Việt Nam được diễn tả:
    Em đã mơ gì em ơi?
    Lúa chín hai mùa no ấm
    Chồng giết giặc về em vui…
    đã bị hủy diệt. Và riêng tôi, tôi ngồi đợi chết sặc sụa trong biển máu của hòa bình sau chiến tranh hai mươi năm. Chưa hề thấy một dân tộc nào bất hạnh như dân tộc Việt Nam, một dân tộc sợ hãi chiến tranh, sợ hãi luôn cả hòa bình. Sợ hãi mà vẫn phải chấp nhận cả hai. Còn bất hạnh thêm là người Việt Nam không nhìn rõ trái đau khổ chín vàng trên thân phận mình để hái, đề nuốt ngon chất đắng mà Thượng Đế đã ban ân sủng và phó thác cho sứ mạng tạo dựng lại loài người sống trọn vẹn tình nghĩa con người lý tưởng mà Thượng Đê mong muốn. Nạn nhân của chủ nghĩa, của ý thức hệ ngoại lai, xa rời tình tự dân tộc vì ngu muội phiêu lưu, không chịu khôn lớn bằng thống khổ vàng mười để về nguồn, để sống như con người Việt Nam nguyên thủy, để cống hiến cho nhân loại ý nghĩa phục sinh của nỗi chết, lại tiếp tục phiêu lưu, lại chạy theo chủ nghĩa mới, ý thức hệ mới vá víu, vay mượn và rồi tranh giành khắp nơi, gấu ó khắp nơi, bé nhỏ dần mà vẫn quên truy nã bản thân mình.
    Không có La Jeune Fille et la Mort, tôi lại nhớ…

    Mai Thảo dặn tôi rằng:
    – Tôi ngồi nhà chờ ông, hễ Usis gọi, ông ghé đón tôi, chúng ta cùng đi.
    Lúc này Mai Thảo đã rời Chiều Tím ở đường Võ Tánh, về 101 Phan Đình Phùng. Trọn buổi sáng hôm qua, tôi canh điện thoại. Usis không gọi. Gần trưa, Đặng Xuân Côn dục tôi:
    – Cứ lên Usis xem sao. Thiên hạ chạy ầm ầm.
    Tôi đồng ý. Côn chở vợ con từ Phú Nhuận lên. Chúng tôi đến đón Mai Thảo. Nhà văn lừng khừng nhất nước của tôi đã biến. Tôi nghĩ Mai Thảo ham vui đâu đó, nên quên hẹn. Về sau, do Mai Thảo kể, tôi mới biết anh ta “tìm đường cứu nước” qua ngả Nguyễn Cao Kỳ. ông Kỳ đóng vai Mạnh Thường Quân đi tản. Tân khách của ông hầu hết là văn nghệ sĩ. Mặc dù đã tuyên bố nẩy lửa tại Tân Sa Châu rằng nhất định không đi, nhưng ông ta vẫn âm mưu đi và kết nạp Giới Tứ Thôi, Ngụy Thù, Triệu Thuẫn, Hiền Điệt toan tính chuyện Trùng Nhĩ. “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn.” ông Kỳ theo triết lý sống này. Tân khách di tản tụ tập cả bầy trong tư thất Trùng Nhĩ ở Tân Sơn Nhất. Bà Kỳ đi trước. Đài phát thanh ngoại quốc loan tin. Họ bình luận thêm: Tới Guam lần này không có thảm trải, và bà Kỳ bị xịt thuốc sát trùng như mọi người tỵ nạn? Bà Kỳ đi, để lại mấy cái tủ lạnh đầy nhóc thực phẩm. Tân khách vừa tiêu thụ cạn láng thì ông Kỳ lặng lẽ ra đi. Tân khách ở lại chịu pháo kích tơi bời. May mà ống nước không trúng đạn cộng sản nên tân khách uống đỡ cầm hơi trên đường về nhà mình, vừa lê bước vừa chửi rủa Trùng Nhĩ. Có lẽ tại ông Kỳ bỏ rơi Giới Tử Thôi, Ngụy Thù nên sự nghiệp phục quốc của ông nó lận đận. Thành thật chia buồn cùng ông. Mã Viện nói: “Thời loạn, bầy tôi tìm vua hiền mà phò chứ vua khỏi cần tìm bầy tôi.” Mã Viện tìm Lưu Tú, giúp Lưu Tú diệt Vương Mãng mà mở thời Đông Hán. Các tân khách tìm ông Kỳ phò, noi gương đám tòng vong của Trùng Nhĩ, ông Kỳ bỏ rơi, thành thử, ông Kỳ cứ đòi ôm cờ phục quốc mà mãi không được ôm. Do đó, đất nước vĩnh viễn không có tướng quốc ký văn thư trên bàn mã tước và trong cuộc chọi gà!
    Không gặp Mai Thảo, chúng tôi lái xe đến Usis. Trịnh Viết Thành chở vợ con vừa ép lề:
    -Đi nổi không, Duyên Anh?
    -Nổi..
    Tôi méo xệch miệng:
    – Nổi lềnh bềnh…
    Trịnh Viết Thành, Đặng Xuân Côn và tôi len vào sát cổng Usis khóa chặt. Đàn bà, con nít ngồi lại trong xe. Nguyễn Ngọc Bích nhận ra tôi, lớn tiếng:
    -Yên chí. Đợi ông Alan Carter về.
    – Ổng đâu?
    – Bên tòa Đại Sứ.
    Chúng tôi lách ra, đứng chờ. Rất yên tâm, vì nhân viên Usis còn nguyên con, và hai chiếc buýt vẫn đậu trong sân. Nửa tiếng đồng hồ sau, cổng Usis bị dân di tản ké đạp tung. Sứ thần Lan Carter, giám đốc Usis không bao giờ trở lại nữa. Thiên hạ đập phá và hôi đồ. Hoàng Hải Thủy dắt vợ con đến giữa cơn hỗn loạn. Bẽ bàng nhất là Nguyễn văn Liên, trưởng phòng nhân viên của Usis. Mấy hôm trước, anh ta đã dẫn vợ con ra đi. Vì lệnh của ông già Hương cấm chỉ thanh niên trong tình trạng quân dịch di tản nên Liên đành bỏ một đứa con lại. Vô phi trường, anh ta thấy lên tàu bay quá dễ dàng, bèn xui vợ đóng kịch băng huyết mà trở về cứu nốt con. Bây giờ kẹt lại cả chùm.
    Tôi chia tay Trịnh Viết Thành, cùng Đặng Xuân Côn phóng tìm Nguyễn Tuấn Anh ở đường Hai Bà Trưng. Tuấn Anh cho vé tàu phước thiện. Chúng tôi theo Tuấn Anh vào Chợ Lớn. Nhưng tôi đã không xuống tàu. Cả Côn luôn. Chúng tôi chào vĩnh biệt Nguyễn Tuấn Anh, trở về Sài gòn. Tôi lái xe qua Tòa Đại Sứ Mỹ, ngắm thảm cảnh “lính thủy đánh bộ” Hoa Kỳ đấm đá, xô đạp “đồng minh” di tản. Cay mắt quá, tôi ra bờ sông Sài gòn nhìn mấy con tàu sắt đầy nhóc người chạy trốn cộng sản đến nỗi tàu nghiêng hẳn về một bên. Tôi đã nghĩ những con tàu này khó ra nổi cửa biển. Rồi tôi quyết định lái xe về nhà tôi. Mở cửa xe cho các con xuống, tôi mệt mỏi:
    -Thôi, đành ở lại sống với cộng sản!
    Nhà tôi chớp mắt, buồn bã:
    – Không còn cách nào hả, bố?
    – Còn hai cách.
    -Sao bố không tính?
    -Khó tính.
    -Sao?
    Tôi cù không trúng nách nhà tôi:
    – Thứ nhất, anh không phải là bố tổng thống Mỹ. Thứ hai, em không phải là mẹ tổng thống Mỹ?
    Nhà tôi nín thinh. Các con tôi thay quần áo xong là chạy ra vỉa hè chơi. Tôi ngồi ngả lưng dài trên ghế bành hút thuốc và thở dài. Một thoáng kỷ niệm chập chờn theo khói thuốc. Năm 19 tuổi, đất nước vào Dương lịch 1954, tôi đã di cư. Thuở ấy, di cư dễ dàng, muốn vô Sài gòn ngày nào thì vô. Tôi rong chơi Hà Nội đến tháng 9 mới tính chuyện giang hồ. Nhờ thuộc thơ Nguyễn Bính và có chút “nhan sắc”, tôi tán được vài em nữ sinh mà gia đình nhất định ở lại chờ cụ Hờ về. Thế là tôi bèn thêu dệt những cuộc chia ly não nùng. Tôi tìm em thứ nhất, đau đớn báo tin cho em biết rằng tôi sẽ vào Sài gòn lập sự nghiệp, “ngày về xa quá người ơi”, và mong mỏi “đường đời anh muốn em còn mơ”… Dạo đó, chưa có những bài hát lấp sông Bến Hải, trở về quê hương diệt tan giặc cộng, gặp lại em gái năm xưa nối giây tình tứ đứt đoạn nên tôi chi nhạc và lời Lê Trạch Lựu. Tôi vi vút: “Bao giờ anh về gần em cùng đếm này trăng này sao chia nhé em”… Em gái cảm động lắm. Tôi chi thêm thơ Hoàng Công Khanh, ví mình như tráng sĩ Lê Liêm:
    Thuở ấy lên đường có một thân
    đường sang Hời mấy ngả phân vân
    nàng mơ Đát Kỷ xô hung Trụ
    ta mộng Kinh Kha diệt bạo Tần
    nửa nụ cười xuân muôn tráng sĩ
    ba nghìn tân khách một giai nhân
    thiếu bao đưa đón lòng không thiếu
    chỉ thiếu một người đi tiễn chân*
    Em gái mủi lòng, xin đi tiễn chân cho tôi khỏi thiếu thốn. Chúng tôi hẹn hò. Đưa em lên Cổ Ngư ăn bánh tôm. Dạo quanh hồ Gươm. Chui vào rạp xi-nê-ma. Rồi dìu em về gác trọ của tôi, nhờ em thu xếp hành lý lên đường. Em tiễn chân tôi đến Tòa thị chính. Tôi nằm đây cô quạnh chờ sáng sớm ngày mai xe GMC của lính Tây đến bốc tôi sang phi trường Gia Lâm. Em gái không thể nằm bên tôi tâm sự trắng đêm. Em phải về trước chín giờ tối kẻo mẹ mắng. Lúc em gần về, tôi cảm khái:
    Cầm tay anh sẽ nói
    Khóc lóc mà làm chi
    Hôn nhau một lần cuối
    Em về đi. anh đi…
    Cám ơn thi sĩ Nguyễn Bính, em gái khóc. Và tôi cầm gỡ tay em, ôm gỡ em, hôn gỡ em. Tôi lớn rồi, tôi hết “ngày xưa còn bé.” Tôi biết yêu, biết gian dối. Em gái buồn bã ra về. Sợ em trở lại thì vỡ nợ, tôi phải nán nằm, đốt cháy mười điếu Cotab rồi mới xách hành lý rút êm về gác trọ. Tôi chưa… lên đường. Vài hôm sau, tôi lại “bổn cũ soạn lại”, gạ em thứ hai chia ly. Cho đến khi hết sạch em, không thể muối mặt “tái bản” chia ly em thứ nhất, và túi rỗng tuếch rồi, tôi mới âm thầm ra đi.
    Than ôi, năm 39 tuổi, đất nước vào Dương lịch 1975, tôi phải cõng vợ con di tản và không di tản được. Bây giờ, thơ tình là thơ cù nhầy Phan Khôi khi vợ tôi hỏi tôi “ở với việt Cộng có làm sao không”?
    Làm sao cũng chẳng làm sao
    Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
    Làm chi cũng chẳng làm chi
    Dẫu có việc gì cũng chẳng làm sao…
    Đang ở cái thế “mã cùng đồ” thì ông luật sư Dzu và vợ là ca sĩ Đan Thanh tới, hỏi chuyện ra đi ngả Usis. Tôi não nề đáp: “Hỏng rồi, hỏng rồi”? Và tôi ra vỉa hè xem “nhân dân chống Mỹ cứu nước”. Chiến dịch Hôi Đồ đồng khởi ngoạn mục. Các trụ sở của cơ quan thiện nguyện Mỹ, của Hội cha mẹ nuôi quốc tế, của các nhà cho Mỹ mướn, của các gia đình di tản không còn ai trông giữ bị tấn công ào ạt. Người người, lớp lớp, dân Xóm Lách phóng lên đường Công Lý. Thoạt đầu, nhân dân “giải phóng” sữa đặc, sữa bột, đồ hộp. Rồi mùng mền, ri-đô. Rồi tủ, giường, bàn ghế. Rồi máy lạnh, tủ lạnh, bếp ga. Rồi cửa sổ, cửa kính. Trẻ già, trai gái, bô lão, nhi đồng tham dự chiến dịch một cách quyết liệt. Rất may không xảy ra giết nhau vì thù hận cá nhân. Tôi chứng kiến “nhân dân anh hùng” làm thịt gọn một chiếc buýt chuyên chở lính Mỹ. Chiến dịch Hôi Đồ và sự lưu thông bất chấp đèn đường chiều 29-4 là dấu hiệu rõ nét nhất của sự sụp đổ miền Nam. Kể từ 16 giờ ngày 29-4-75, Sài gòn sống trong tình trạng vô chính phủ. Có một điều để tôi suy nghĩ, để tôi còn yêu mến dân Sài gòn và thành phố Sài gòn là dân nghèo Sài gòn chỉ hôi đồ của Mỹ và những vi-la do Mỹ mướn bỏ trống. Ý thức đấu tranh giai cấp chưa thấm vào lương tri dân nghèo Sài gòn và không bao giờ thấm nổi cả Tất cả những gia đình quyền quý, giầu sang đều bình yên. Ngay cả những gia đình tướng tá, bộ trưởng, cảnh sát hống hách cũng bình yên. Tinh thần dân tộc cao quý thể hiện rõ rệt ở Sài gòn chiều 29-4. Con người, nhất là con người nghèo khổ triền miên bị áp bức, bóc lột được quyền phẫn nộ lúc này, lúc mà luật pháp quốc gia dưới chân họ. Người ta tự do trả thù, đốt nhà, cướp của, hãm hiếp, sát nhân; tự do đối với những đối tượng thù nghịch. Nhưng không một ai thèm hưởng cái tự do đó. Người ta vẫn ăm ắp lương tri và nhân tính. Và tôi nghĩ đó là bài học cho toàn thể người Việt Nam trên trái đất. Và tôi hãnh diện là người Sài gòn của chiều 29-4-1975 và mãi mãi. Tôi ra đi, mang theo lương tri và nhân tính của người Sài gòn chiều 29-4. Vì nó mà tôi còn khao khát chiến đấu. Vì nó mà tôi biết can đảm và kiên nhẫn chịu đựng mọi nghịch cảnh oan khiên.
    Nhà thơ Huy Tưởng chống nạng đến thăm tôi xem tôi đi được hay kẹt lại. Tôi bỏ cảnh tượng hôi đồ, mời Huy Tưởng vô nhà. Mở chai Rémy Martin cuối cùng, Huy Tưởng và tôi cụng ly:
    – Anh có sợ không?
    -Sợ gì?
    -Anh có nhiều điều để sợ. Tôi nhắc anh nghe một điều thôi. Anh đã thách Võ Nguyên Giáp cho T-54 xâm nhập chiến tuyến Hải Lăng và bảo hạ sĩ Sứt đang chờ T-54 để phóng hỏa tiễn TOW. Anh nhớ chứ? Anh đã tuyên bố trên vô tuyến truyền hình Huế được phát lại ở Sài gòn. Anh nhớ chứ? Chuyến bay trên phá Tam Giang của anh với Phạm Duy, Tô Thùy Yên, Trần văn Ân, Nguyễn Trọng Nho…
    -Uống đi, bằng hữu. Có thể là cuộc rượu cuối cùng đấy!
    Tôi bốc máu Kiều Phong:
    -“Sống bằng không mà chết cũng bằng không”?
    Sống có thể bằng không nhưng chết khó thể bằng không. Tôi đâu phải nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Alain Delon đã diễn xuất một vai thật người trong phim Deux hommes dans la ville với Jean Gabin. Khi lên máy chém, người không sợ chết đã thú nhận, thành khẩn thú nhận “Tôi sợ”! Tôi đã biết Lan Khai chết cách nào, Khái Hưng chết cách nào, làm sao tôi không sợ? Tôi sợ lắm, sợ lắm, sợ lắm…

    DUYÊN ANH

  2. #2
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT ( CHƯƠNG 2)


    Tôi vụt thức khi thấy cổ họng mình khô rang. Ngó dạ quang của đồng hồ: 2 giờ 48 phút. Thì ra tôi đã chợp mắt trong cơn sợ hãi. Thuốc lá làm họng tôi khô, lưỡi tôi khô, môi tôi khô nhưng rượu đã không làm tôi say. Rượu đủ. Đó là tên truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Rượu chưa đủ, không đủ khả năng trấn áp nỗi sợ biển máu của tôi. Có lẽ, thuốc phiện đủ khả năng ấy. Tôi thèm được nằm bàn đèn với Nguyễn Mạnh Côn – với Hoàng Hải Thủy thì nhất – hút vài cặp. Thuốc phiện sẽ bắt tan loãng mọi sợ hãi. Nếu ta say, thuốc phiện giúp ta thoát thực tại ưu phiền, đưa ta lên cõi phiêu bồng lâng lâng. Thuốc phiện lâu say mà say lâu. Và hễ say, dao kề cổ vẫn tỉnh bơ, bởi chẳng còn ý thức nổi không gian, thời gian, nói chi sự việc quanh mình. Dẫu mắt vẫn mở. Mắt mở không phải là thức. Dù mắt nhắm. Mắt nhắm không phải là ngủ. Tai vẫn nghe người nói song không biết trả lời Lý Bạch mới say rượu mà đã trở thành thi bá và chết đẹp vì say. Thời nhà Đường, Trung Hoa chưa “sáng tạo” được dọc tẩu, đèn dầu lạc và cung cách nằm hít tô phe, nên Lý Bạch đã chưa phiêu diêu trong cõi say phù dung. Do đó, nhân loại vẫn thiếu những bài thơ trác tuyệt của thi sĩ thịnh Đường. Giá tôi được chết say thuốc phiện, tôi sẽ hoan hỉ vô cùng. Tôi sẽ vượt khỏi sợ hãi chờ chết. Hạnh phúc cho những nhà văn nào bị cộng sản đánh dấu, bị thất bại di tản, đang chong ngọn đèn dầu lạc soi tâm sự và thả tâm sự ấy theo khói thuốc phiện vào giây phút mà cái thòng lọng thù hận đang xiết chặt dần cổ mình.
    Không có thuốc phiện, tôi đành đem hồi tưởng và ý nghĩ vẩn vơ ra thay thế và coi như những lời giăng dối gửi cho hư vô. Trăm năm trước tôi, Từ Diễn Đồng đã chờ sáng:
    Đêm sao đêm mãi tối mò mò
    Đêm đến bao giờ mới sáng cho
    Con trẻ u ơ chừng muốn dậy
    Ông già húng hắng ngại thèm ho
    Ngọn đèn giữ trộm khêu còn nhỏ
    Tiếng chó nghi người cắn vẫn to
    Làng nước ai ai đà thúc dậy
    Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho
    Dân tộc bất hạnh của chúng ta chờ sáng dài dài, chờ sáng đều đều. Đêm tối không chỉ một đời người mà từng thế kỷ. Trăm năm sau Từ Diễn Đồng, Nguyễn Sĩ Tể lại Chờ sáng. Tôi không chờ sáng. Tôi muốn đêm tối vô cùng, đừng bao giờ sáng nữa. Vì bóng tối vỡ, tôi sẽ nhìn rõ hình cụ của đao phủ. Tôi đang chờ chết. Làm sao anh có cảm giác đích thực của kẻ chờ chết? Người ta hằng nói về nỗi thống khổ, về nỗi sợ hãi đã kinh qua. Kinh qua chưa đủ. Cần thể nghiệm. Cho nên, có nhiều nhà văn của chúng ta ôm trái ngọt thống khổ mà không dám nuốt. Rốt cuộc, sự kinh qua thống khổ chỉ thể hiện trên những trang giấy kể khổ, tố khổ mà không soi sáng cho đời sống một ý nghĩa nào. Đây là một thiếu sót lớn trong văn nghệ của chúng ta. Sự thiếu sót đã khiến tác phẩm văn chương của chúng ta thiếu kích thước, vắng cái chiều sâu thăm thẳm. Hình như, chúng ta cũng bằng lòng sự thiếu sót đó. Và chúng ta đánh giá đại tác phẩm của chúng ta bằng cuốn sách nào nhiều sổ trang nhất, dầy nhất, cầm nặng tay nhất? Thế thì lại thêm một vấn đề đặt ra. Kinh qua nỗi khổ, thể nghiệm trọn vẹn nỗi khổ mà nhiều tài năng phô diễn, xem chừng cũng vô tích sự. Tôi là kẻ thiếu tài năng phô diễn nên tôi đã không phô diễn trọn vẹn cảm giác sợ hãi chờ chết của tôi. Và tôi bắt chước Thanh Tịnh để khỏa lấp một sự bất tài: Bấy giờ tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Tôi bắt chước câu văn của Thanh Tịnh thôi. Trường hợp hồi tưởng buổi học đầu đời của Thanh Tịnh và trường hợp của tôi khác hẳn. Rõ rệt tôi là kẻ bất tài.
    Súng vẫn nổ ròn ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Trực thăng Hoa Kỳ vẫn vần vũ một góc trời Sài gòn. Ở những nơi nào nữa, trên quê hương miền Nam, những người lính Cộng Hòa đang trả lời chính quyền Mỹ, dân tộc Mỹ và thế giới rằng, họ không phải là tên bù nhìn Nguyễn văn Thiệu. Khẩu khí Nguyễn văn Thiệu là, khẩu khí một tên lính đánh mướn. Thiệu không chống cộng, Thiệu nhả ngôi vị tổng thống vì Mỹ cúp viện trợ. Lính và sĩ quan liêm sỉ của nước Việt Nam cộng hòa tiếp tục chiến đấu chiến đấu vào lúc “đại tướng” Cao văn Viên đã đào ngũ chạy trốn sang đảo Guam. Bây giờ tôi mới thấy tôi hèn nhát. Nếu tôi đã là lính, lúc này, tôi được chiến đấu, được chết anh dũng, chết xứng đáng. Dẫu không có quan tài, không có quốc kỳ phủ trên quan tài, không cả da ngựa bọc thây, vẫn còn giọt nước mắt tiếc thương của chiến hữu. Vì tôi trót hèn nhát nên tôi phải ngồi chờ chết, chờ chết nhục, chết thảm. Chợt nhớ đoàn xe tăng tối hôm qua, tôi băn khoăn không hiểu xe tăng của ta đi về đâu chặn giặc cứ điểm nào. Bên kia biên giới của tuyệt vọng là hy vọng. Câu này áng trong tôi một đốm sáng. Tôi kiếm cái radio nhỏ mở nghe tin tức xem Tân tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng hòa, trung tướng Vĩnh Lộc, còn tuyên bố gì thêm không.
    Đài phát thanh Quân Đội im bặt. Đài Sài gòn chỉ léo nhéo Nối vòng tay lớn và giọng nói no đầy đắc thời của tên dân biểu ngu dốt chủ trương giữa Lý Quý Chung. Hắn đã là Tổng trưởng Thông tin của nội các Vũ văn Mẫu. Tướng Vĩnh Lộc không còn tiếng nói. Ông ta đang ở đâu? Xướng ngôn viên quen thuộc của đài Sài gòn loan tin giới nghiêm 24 trên 24 kể từ hôm nay, 30-4-1975. Giới nghiêm 24 trên 24. Tình trạng cực kỳ nghiêm trọng rồi. Sài gòn sẽ biến thành một Stalingrad chăng? Tôi mong thế. Để được chiến đấu và được chết đúng nghĩa một cái chết. Tắt radio. Tôi ngồi hút thuốc chờ sáng. Tôi không chờ chết nữa…

    Những chuyện vừa xảy ra từ đầu tháng 4 mà tưởng chừng xa lắm rồi. Lịch sử nào cũng có những trang buồn bã và những trang chó đẻ. Những trang chó đẻ nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại tính từ ngày 12-3-1975. Và những trang này không chứa chất u ẩn cần các sử gia đời sau soi sáng. Nó phơi ra thỗn thện như những miếng thịt bầy nhầy, như xác chết muông thú nhung nhúc ròi bọ. Hiện nguyên hình, hiện rõ chân tướng trên những trang sử chó đẻ là bọn thống trị tôi mọi chiếu nhất, chiếu nhì của cái chế độ bệ rạc đệ nhị cộng hòa. Khi máu của dân, của lính chẩy dài dọc 300 cây số liên tỉnh lộ số 7, con trâu Nguyễn văn Thiệu và con bò Trần Thiện Khiêm vẫn húc nhau. Đứa tham nhũng đòi lật đổ đứa tham nhũng. Và thầy tu Trần Hữu Thanh và “chiến hữu” đã nhân danh cái Thiện chống cái ác vì cái ác khác. Cuộc chiến đấu của thầy tu Trần Hữu Thanh không có tên để đặt. Có vẻ, cuộc chiến đấu ấy như thể là cuộc khiêu vũ trên xác chết. Cao nguyên đã mất. Vùng đất chiến lược đã mất. Con trâu hận chủ nó và hận con bò đã nộp dân, dâng đất cho cộng sản. Trâu bò không có lòng trắc ẩn, nên cảnh tượng hãi hùng diễn ra dọc 300 cây số đường máu chỉ là hoạt cảnh tương tự chương trình tạp lục của Tùng Lâm. Và tất cả đồng ý với trâu bò, sự nghiệp nộp dân, dâng đất cho cộng sản của Nguyễn văn Thiệu là… di tản chiến thuật?
    Người ta bỗng nhớ những cuộc rút lui chiến thuật theo “Thông cáo của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp” vào những ngày trước 20-7-1954 và sau thất bại Điện Biên Phủ. Thoạt đầu, những tỉnh thượng du “rút lui chiến thuật” rồi các tỉnh trung du “rút lui chiến thuật” rồi các tỉnh đồng bằng “rút lui chiến thuật.” Rồi mất miền Bắc. Dĩ vãng đã không lay động cơn mê sảng hiện tại. Và cơn mê sảng biến chứng thành lú lấp. “Rút lui chiến thuật” 1954 không phải, không bao giờ phải là “di tản chiến thuật” 1975. Cái chính trường của Sài gòn hoàng hôn chỉ đủ khả năng găm vào Nguyễn văn Thiệu và triều đình cầy cáo của Thiệu. Và, thê thảm lắm, sự mong muốn của Thiệu, từ chức, người ta quả quyết, là ý Mỹ. Đó là sự thật đau lòng. Mỹ muốn Ngô Đình Diệm thay thế Bảo Đại, thay thế ảnh hưởng thực dân cũ bằng thực dân mới. Bảo Đại bị truất phế. Mỹ muốn thay thế Ngô Đình Diệm bằng đám tướng lãnh vai u thịt bắp, vô học và ngoan ngoãn. Ngô Đình Diệm bị hạ sát. Ngô Đình Diệm trưng cầu dân ý để phản bội Bảo Đại và tự biên tự diễn cách mạng nhân vị. Cách mạng nhân vị đã tiêu diệt quốc trưởng Bảo Đại và toàn ban Hội tề ấm ớ. Đám tướng lãnh thoán nghịch cũng nhân danh cách mạng tháng 11 tiêu diệt nhà Ngô và cách mạng nhân vị. Mỹ muốn thế. Mỹ muốn hết. Mỹ chỉ cần tay sai một giai đoạn nào đó, cho một mục đích nào đó. Nhưng Mỹ khoái chơi trò chơi dân chủ. Mỹ mở võ đài đánh đấm độc tài. Mỹ cổ võ. Cả nước Việt Nam chống độc tài Ngô Đình Diệm. Cả nước Việt Nam tưởng mình làm cách mạng, tưởng mình hạ bệ Ngô Đình Diệm. Nẩy sinh một số kiêu tăng mà Thích Trí Quang là biểu tượng rõ nét. Ông thầy tu này coi miền Nam giống cái sân chùa Từ Đàm của ông. ông đã thật “thiêng liêng” những giai đoạn chống Diệm, chống Hương, chống Kỳ. ông thật sự hết thiêng khi chống Thiệu. Tòa Đại Sứ Mỹ đã ngó lơ, mặc ông tuyệt thực đủ 100 ngày trước Dinh Độc Lập rồi ông âm thầm về dưỡng sức tại Dưỡng đường “đỡ đẻ” của bác sĩ Nguyễn Duy Tài? Thích Trí Quang cháy từ đó. ông ta không hiểu Mỹ chỉ cần ông ta cho một mục đích nào đó, trong một giai đoạn nào đó. Nhiều kẻ đối lập Thiệu và đối lập tổ quốc cũng không hiểu, không chịu hiểu và không biết hiểu như ông thầy tu Thích Trí Quang. Mỹ xử dụng ông Trí Quang, thỏa mãn tự ái của Phật tử quá khích, giải tỏa niềm tự ti lép vế 100 năm, đồng thời, hâm nóng tự ái Chúa tử, réo gọi cái lép vế hiện thời. Giữa Trí Quang và Hoàng Quỳnh giàn trận. Hai đêm mù mịt con Phật, con Chúa giao tranh giữa Sài gòn, thời Nguyễn Khảnh, là kết quả đẹp của Tòa Đại Sứ Mỹ. Đến lượt Thiên chúa giáo quá khích biểu dương lực lượng “kick-out” Cabot Lodge và “chiếm đóng” Dinh Gia Long. Tôn giáo thay thế đảng phái. Đảng phái hoàn toàn tê liệt. Mỹ lại phân tán mỏng tôn giáo. Phật Giáo chia ra hai hệ phái kình địch nhau: ấn Quang và Việt Nam quốc tự. Giấc mộng hóa đạo (hóa các đạo khác thành đạo Phật) mà văn gia Nguyễn Đức Quỳnh mớm cho ông Thích Tâm Châu bị vỡ. Thiên chúa giáo chia ra hai lực lượng chống đối nhau: Lực lượng đại đoàn kết và Mặt trận công dân công giáo. Trò chơi của Mỹ đã xong. Nguyễn văn Thiệu yên ổn đóng vai bù nhìn. Và Mỹ tự do toan tính những âm mưu của Mỹ.
    Những kẻ thèm quyền bính và những kẻ chống đối ảo tưởng không quán triệt cái thủ thuật dùng tay sai cho mục đích nào, trong giai đoạn nào của Mỹ nên đã đối lập hư vô, đã câu sao in mặt nước, đã cù trên mũ sắt. Khi Mỹ còn cần Thiệu như một đầy tớ đắc dụng, chống đối Thiệu chỉ là sự làm dáng dân chủ giả hiệu của Mỹ ở nước nhỏ. Nhưng khi Mỹ không cần Thiệu và không cần bất cứ một tay sai nào thay thế Thiệu nữa, Mỹ muốn bỏ rơi Nam Việt Nam – vì đến giai đoạn bỏ, bởi mục đích đã đạt – thì người ta lại chỉ có thể hiểu rằng Mỹ sẽ bỏ Thiệu vì… ý dân bản xứ là ý trời. Ý ấy thể hiện ở công cuộc bài trừ tham nhũng Nguyễn văn Thiệu của thầy tu Trần Hữu Thanh. Có lẽ, ông thầy tu Trần Hữu Thanh ngây thơ, ông tưởng Trần Thiện Khiêm trong sạch như “con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”, hoặc Trần Thiện Khiêm như cánh sen, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Ông ta “trụ trì” ở Dòng Chúa Cứu Thế, đâu biết những cánh rừng thông non của tổ quốc, Trần Thiện Khiêm đã bán hết, bán rẻ cho tư bản Nhật. Riêng vụ chặt thông non, Trần Thiện Khiêm đã đáng đem ra xử tử Nếu có dịp – trước 1975, dĩ nhiên – ra Cam Ranh, thấy gốc và ngọn thông xếp núi vất lại, lái buôn Nhật chỉ mua khúc thân giữa thật ngắn, mới đếm được tội ác của Trần Thiện Khiêm. Và người tê liệt lòng yêu nước cũng bỗng dậy lòng yêu nước. Thầy tu Trần Hữu Thanh không nhìn thấy gì, nghe thấy gì cả. Thầy nhắm mắt bài trừ tham nhũng Nguyễn văn Thiệu nhân danh tham nhũng Trần Thiện Khiêm. Và, như những kẻ bị Thiệu loại ra khỏi chính trường, tước đoạt quyền bính, thầy tu Trần Hữu Thanh hồ hởi phấn khởi chờ đợi ngày Nguyễn văn Thiệu gửi lời “cám ơn” đồng bào* . Tất cả đã chỉ vì Thiệu, chỉ nhằm Thiệu mà quên suy diễn: Hàng tỉ đô-la tung sang Việt Nam, không tiếc sao lại tiếc 200 triệu?
    Nhưng cái chính trường vét đĩa ấy đã không suy diễn sự kiện Mỹ cúp viện trợ, đã không nhớ lại sự “rút lui chiến thuật” 1954. Nó bung ra tứ phía và tưởng cò sẽ béo khi nước đục. Nó rộn ràng đó đây. Nó hân hoan Mỹ cúp viện trợ cho Thiệu. Nó tưởng Mỹ cúp viện trợ cho Thiệu là đuổi Thiệu đi. Nó hy vọng tràn trề, kế vị Thiệu sẽ được Mỹ tiếp tục viện trợ và viện trợ nhiều hơn. Những người đủ tư cách trả lời những kẻ ôm ảo tưởng Mỹ viện trợ nhiều hơn là các ông tướng quân đoàn, tướng sư đoàn thì đều im lặng. Chỉ cần một ông tướng pháo binh nói sự thật về sự giới hạn đến thê thảm đạn phản pháo. Đã đủ thức tỉnh mọi người cái thế kết đoàn tự lực ngăn giặc. Buồn thay, đã chẳng hề ai có thẩm quyền lên tiếng về những phi vụ Mỹ yểm trợ hành quân càng ngày càng thưa từ sau hòa ước Paris và mất hẳn và chiến cụ viện trợ nhỏ giọt bó tay quân lực Việt Nam cộng hòa. Bầy hạc gỗ nín khe. Đám cầy cáo hưởng thụ no nê thì hóa đui, điếc, câm. Bởi thế, thay vì rộn ràng một hội nghị Diên Hồng không cần Thiệu và quần thần đê tiện của Thiệu, người ta tấp nập, vội vàng chiếm thế thượng phong vào… Dinh Độc Lập ngồi lên cái ghế nô dịch của Thiệu. Ba trăm cây số đường máu oan nghiệt của quân dân “di tản chiến thuật” không làm xúc động ai. Hình như ruồi nhặng chỉ thích đậu trên máu quánh, và kên kên chỉ thèm xác chết rữa…
    Đó đây, từng nhóm thống trị bù nhìn phế thải họp bàn mưu đồ lợi dụng thời cơ phục hồi quyền bính cũ. Những khuôn mặt cá ươn của chính trường bay ra cái chợ chiều dân tộc. Và những giọng nói cú vọ lại phát ngôn lời sắt son yêu nước. ông Nguyễn Cao Kỳ là người cay cú Nguyễn văn Thiệu nhất và thèm quyền bính nhất trong đám tôm tép chợ chiều. Thuở nắm quyền bính “độc lập, tự do” trên: không có kỳ đà tổng thống cản mũi, dưới: không có gà què quốc hội làm phiền, ông ta thường hay phát ngôn nhảm nhí bất xứng với cương vị thủ tướng. Trong chợ chiều, ông ta buông một câu chính khí:
    – “Tôi không đi đâu cả. Tôi nhất định ở lại Việt Nam. Tôi đã quen ăn tương cà, canh mắm rồi. Sang Mỹ ăn bơ sữa dễ bị ỉa té re. Đứa nào sang Mỹ, đàn ông làm cu-ly đàn bà làm đĩ “!
    Nhiều người rất cảm động khẩu khí Nguyễn Cao Kỳ, đinh ninh rằng ông ở lại chiến đấu, quyết xin được da ngựa bọc thây, dẫu chẳng lật lại thời thế, bảo vệ miền Nam dân chủ tự do, thì cũng đem thân báo đền nợ nước để khỏi thẹn với tiền nhân dưới suối vàng. Xin mở một ngoặc đơn. (Rất tiếc ông Nguyễn Cao Kỳ đã ra đi. Người ta sẽ thông cảm ông, sẽ chia xẻ với ông lời nói của cổ nhân “chấp kinh tòng quyền”, nếu ông biết ẩn thân, diện bích mà suy nghĩ một câu ngắn trong Cựu ước: “Có một thời im lặng và một thời lên tiếng”. Tại ông ham lên tiếng và lại lên tiếng nhảm, lên tiếng không đúng thời nên ông mắc khẩu nghiệp. Và bị công kích. Khi viết cuốn sách này và từ dòng này, tôi đã thiền, nên xin ông hiểu giùm rằng, tôi không thích công kích ông nữa). Khép ngoặc đơn. Dù ghét ông Kỳ hay dù chẳng ghét ông Kỳ, rất nhiều người đã vì khẩu khí Tân Sa Châu của Nguyễn Cao Kỳ mà ở lại, hy vọng được cùng ông Kỳ chiên đấu. Rốt cuộc thì đa số vào tù nghĩ là ông Nguyễn Cao Kỳ sáng giá nhất chợ chiều tôm tép, một ông tướng đã vội hạ quyết tâm:
    – Lần này ông nắm quyền bính, thằng nào trình văn thư cho ông ký ở bàn mạt chược, xin phép ông, tôi bắn bỏ hết!
    Đó mới là sinh hoạt một cụm. Những cụm khác ra sao? Quý vị mót làm Tổng trưởng lăng xăng như gà mót đẻ. Thiệu đổ sẽ có nội các mới. Nội các nào? Người ta đi tìm chỗ cư ngụ của Thủ tướng tương lai. Thầy tu Trần Hữu Thanh quên Chúa, nhất định phá bùa ếm dấu trong bụng con rùa đồng đen làm chân tượng đài tri ân các nước viện trợ cho Việt Nam cộng hòa. Đất nước bất hạnh của chúng ta đã có Tổng thống tin bói toán, tử vi, lại còn thêm những kẻ đối lập Tổng thống tin tử vi, bói toán, ngải và bùa ếm! Phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh quả quyết rằng, chỉ cho chất nổ phá tung con rùa đồng đen là Nguyễn văn Thiệu… băng hà. Sự tham quyền cố vị của Thiệu nằm ở chỗ nào đó trong bụng con rùa. Một cái bùa của cụ Diễn, chắc chán. Tôi chợt nhớ một chuyện tương tự đã xảy ra cách đây 20 năm. Một số các ông Đại Việt quan lại đã gài mìn giật sập Chùa Một Cột* . Các ông ngu si này lý luận:
    – Long mạch của cố đô nằm dưới Chùa Một Cột. Phải đánh sập chùa, bít long mạch thì cộng sản bất yên mà quốc gia mới có cơ hội Bắc tiến giải phóng quê hương.
    Cộng sản có bất yên, Bắc tiến có thực hiện nổi không, chúng ta đã được trả lời. Cái ngu hôm qua lại vẫn là cái ngu hôm nay. Dễ hiểu thôi, vì trong phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh có vài ông Đại Việt? Người ta đòi phế bỏ một ông Tổng thống bằng cách đi phá bùa ếm!

    Tôi cảm giác thời gian ngừng lại. Khi tôi mong trời vỡ sáng thì trời không muốn vỡ sáng. Mới 4 giờ. Tiếng súng từ phi trường Tân Sơn Nhất vọng vào đã thưa thớt, nhưng tiếng phi cơ trực thăng vẫn ầm ĩ một góc trời thành phố. Tôi bật ti-vi. Màn ảnh nhỏ trắng xóa. Không có cái bất ngờ như tôi tưởng tượng. Tôi đâm ra tương tư người lính sửa xe tăng trước cửa nhà mình tối qua và ông tướng Vĩnh Lộc. Tôi mở radio. Giới nghiêm 24 trên 24 kể tử 0 giờ ngày 30-4-1975. Lệnh giới nghiêm không thay đổi. Tôi tắt ngay radio để khỏi bị nghe Nối vòng tay lớn và giọng tanh tưởi của Lý Quý Chung luận về tình nghĩa Trung Nam Bắc. Có vẻ như thằng ở giữa đần độn này muốn mở đường chào đón “anh em Việt cộng” của nó. Tôi nghĩ rằng đã có sự phân chia trong chế độ phù du Dương văn Minh. Quân sự chủ chiến. Dân sự chủ hòa. Thật sự, tôi không thiết nhớ lại cái chính trường vỏ tôm Sài gòn những ngày tháng tư. Mà tôi cứ bị nhớ. Con người khó thoát khỏi sự chi phối của chính trị, dù là chính trị cà chớn của những thằng cà chớn.
    Tháng tư 1975 quả là tháng chó đẻ của 5000 năm văn hiến, là tháng chó đẻ của 1975 năm sau Công nguyên, ghi niên biểu vào lịch sử Việt Nam và cả lịch sử Hoa Kỳ. Thành quả khai phóng tự do, dân chủ của Mỹ và thành tích 7 năm chấp chính của Nguyễn văn Thiệu nằm trong tháng 4-1975. Sự nghiệp vẻ vang của Thiệu nổi bật ở bài diễn văn từ chức và bài diễn văn từ chức rạng rỡ có một câu: “Bảo chúng tôi chống cộng sản mà không viện trợ thì làm sao chúng tôi chống cộng được?”
    Rõ là khẩu khí của tên vô lại, của thằng đánh mướn đê tiện. Nhân sinh quan của Nguyễn văn Thiệu in nổi trên xú ngôn quốc sỉ này. Lý tưởng chiến đấu của Nguyễn văn Thiệu in nổi trên xú ngôn quốc sỉ này. Chính vì xú ngôn quốc sỉ này mà Việt cộng dám thóa mạ quân đội Việt Nam cộng hòa anh dũng của chúng ta là lính Ngụy là bọn đánh mướn. (Tôi xin, một lần nữa, xác nhận ở đây, quân đội là của tổ quốc, của dân tộc, vì tổ quốc, vì dân tộc mà chiến đấu. Quân đội việt Nam cộng hòa không phải là công cụ của bất cứ một chế độ nào, kể từ chế độ Ngô Đình Diệm trở đi. Quân đội đứng trên các chế độ). Lại mở ngoặc đơn. (Kẻ vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu cũng đòi học đòi danh sĩ Nhất Linh tuyên bố: Đời tôi để cho lịch sử xử? Thêm một kẻ vô liêm sỉ, thứ tiến sĩ cơm thừa canh cặn ở Dinh Độc Lập, đã bình giảng xú ngôn Nguyễn văn Thiệu thành một pho xú thư dầy cộm bêu riếu dân tộc). Khép ngoặc đơn. Thiệu từ chức chỉ vì thầy Mỹ cúp tiền. Nhưng Thiệu không biết xấu hổ khi phát xú ngôn, ông ta dùng câu đó để diễu cợt những kẻ chống đối ông ta với thâm ý: Mỹ cúp tiền tao mới chịu từ chức chứ không phải tao từ chức vì áp lực chống đối của chúng mày? Chúng ta đành ngậm ngùi đã có một vị Tổng thống nằm trong một trang nào đó của những trang lịch sử chó đẻ tháng 4-1975.
    Nguyễn văn Thiệu từ chức “đột xuất” khiến Phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh cụt hứng. Bùa yếm của Thiệu còn nguyên vẹn và con rùa đen cũng còn nguyên. Nhưng thầy tu Trần Hữu Thanh hét đối tượng… bài trừ Nguyễn văn Thiệu nhường ngôi cho ông già gân Trần văn Hương. Nội các Nguyễn Bá Cẩn thành lập thật nhanh, nhanh đến nỗi không ai biết tên một vị Tổng trưởng nào. Nội các này cần lập nhanh để chạy trốn hợp pháp lẹ. Tổng thống Trần văn Hương đòi chết như một chiến sĩ, nhưng ông hạ sĩ danh dự đã không toại nguyện, ông chỉ gây khó khăn cho những người di tản với cái sắc lệnh cấm công chức, sĩ quan và thanh niên trong tình trạng quân dịch chạy loạn cộng sản. Dược sĩ La Thành Nghệ là nạn nhân của tổng thống Trần văn Hương. Ông ta vượt biển quá sớm, bị hải quân bắt đem về đất liền, bị ở lại và bị đi học tập cải tạo.
    Vào những ngày cuối tháng 4, ông chủ Hoa Kỳ không còn thiết làm chủ bọn thống trị bù nhìn nữa. Ông ta… giải phóng nô lệ, thế nhưng cái chính trường Sài gòn hèn mạt vẫn nơm nớp sợ hãi ông chủ và tưởng rằng ông chủ Hoa Kỳ thích Dương văn Minh thay thế Trần văn Hương để thực thi hòa giải dân tộc. Lưỡng viện Quốc Hội họp. Tất cả quay về sau lưng, thấy mấy ông Mỹ ở Tòa Đại Sứ đến dự kiến, ngỡ rằng Mỹ gây áp lực. Bèn đồng ý Dương văn Minh cái rụp. Thế là chúng ta có Tổng thống Dương văn Minh.

    Tôi mở cổng ra vỉa hè, nhìn xuống cầu Công Lý, nhìn lên Dinh Độc Lập. Đường phố vắng hoe. Trời lất phất mưa. Không phải sương rây. Sẽ xảy ra chuyện gì những giờ sắp tới? 4 giờ 30 rồi. Tôi trở vào nhà, rất mong những người lính Sài gòn, những sĩ quan quả cảm, những tướng lãnh đầy trách nhiệm làm Sài gòn thành một Stalingrad. Chúng ta đã có những ngày Hà Nội dân chúng đốt cháy phố phường, đục tường nhà này xuyên qua tường nhà nọ, sống với thủ đô, chết với thủ đô để trả lời kẻ thù và thế giới lòng yêu tự do, dân chủ và ý chí chiến đấu của chúng ta. Tôi mong được chết bởi đạn quân thù khi đang chiến đấu. Tôi sẽ tình nguyện vác đạn. “Xin làm đôi giầy của dũng sĩ” thôi.
    Tự nhiên, lòng tôi dạt dào cảm xúc. Tôi bỗng thấy cái bài hát tôi ghét nhất trở thành hay nhất:
    … Nhân dân tự vệ
    Vang lên lời thề
    Không để quân thù giầy xéo quê nhà ta
    Từng khu phố đứng lên…
    Cảm xúc, bây giờ, khiến tôi nhớ những bài báo của Trần Việt Sơn, đăng mỗi ngày, trang 2, báo Chính Luận. Những bài báo của anh Trần Việt Sơn đã bắt cả Sài gòn lạc quan trước khí thế tiến công của cộng sản. Ngòi bút của Trần Việt Sơn thật giá trị. Anh đã trấn an Sài gòn khi Huế mất, Đà Nẵng mất, Quy Nhơn mất. Anh quả quyết chúng ta sắp phản công và cộng sản phải ngừng lại ở bên kia đèo Cả. Cùng với những bài báo của Trần Việt Sơn – than ôi, chỉ có một con én quả cảm và bình tĩnh Trần Việt Sơn và chỉ có một nhật báo Chính Luận – Nguyễn Trọng Nho bay trên vùng trời Long Khánh quan sát mặt trận với các chuyên viên quân sự, tuyên bố cùng báo chí sự bạc nhược của bộ đội miền Bắc sau hai trái bom CBU. Sài gòn tin tưởng lại. Chúng ta còn võ khí xử dụng vào phút chót. Bom CBU. Bom CBU sẽ đẩy lui tham vọng điên cuồng của cộng sản. Chính tôi cũng được kích thích mạnh bởi báo cáo của Nguyễn Trọng Nho. Tôi đã đến Cục tâm lý chiến, tìm gặp ông đại tá Cao Tiêu, đề nghị ông can thiệp với không quân chở một số nhà văn, nhà báo danh tiếng đi quan sát các mặt trận gần để về, viết báo, nói trên các đài phát thanh, truyền hình gây lại niềm tin tưởng. Đại tá Cao Tiêu đồng ý* . Nhưng ông đã không thực hiện. Tôi còn nhớ cả cái sĩ khí của một số anh em văn nghệ ở những ngày cận kề 30-4. Họ đã họp nhau tại một căn nhà ở đường Tự Do, quyết định xuất bản một tờ báo lửa. Nếu tôi nhớ lầm, xin được tha thứ: Trong số anh em văn nghệ đó có anh đang ở đây và một số còn kẹt lại quê hương, không tiện nêu tên. Người ta sẽ nghĩ gì về thái độ của kẻ sĩ lúc tổ quốc lâm nguy, và sẽ nghĩ gì về bọn tướng lãnh đào ngũ trước buổi họp của kẻ sĩ đòi xuất bản báo lửa?
    Trong những phút giây mà mạng sống như sợi chỉ treo mành, rất hiếm những con người còn dám ngẩng mặt. Những người này chung thân im lặng, đôi khi còn xấu hổ nếu có ai nhắc đến thái độ sống của mình, dẫu để vinh tôn. Chắc chắn, thái độ sống của những người dám ngẩng mặt khi những người khác chạy trốn hay chuẩn bị cúi mặt cần phải được thắp sáng bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. ít nhất thì cũng để kẻ thù của chúng ta không dám mở miệng khinh bỉ chúng ta hèn mạt. Vì khan hiếm những con người dám ngẩng mặt nên chúng ta thừa những con người mê muội thèm khát quyền bính đến quên cả thế lẫn thời. Lời thóa mạ nào dành cho những kẻ trí thức bám quanh Vũ Văn Mẫu bon chen danh vọng giờ thứ 25? Những tên Tổng trưởng đê tiện của Vũ văn Mẫu rồi cũng vào tù. Và cũng muối mặt nhận mình là tù nhân tư tưởng!
    Tôi muốn quên hết, quên hết, quên cả những thảm cảnh đồng bào tôi di tản về đất hứa Phú Yên và bị ở lại với cộng sản; đồng bào tôi nhục nhã xuống tàu từ Đà Nẵng vào Phú Quốc, từ Đà Lạt xuống Phan Thiết. Quên để mường tượng một Sài gòn sắp biến thành Stalingrad vài giờ nữa. Tôi chợt thấy mình còn hạnh phúc. Hạnh phúc ước mơ chết ngon lành.

    5 giờ. Tôi đã trải qua 300 phút của ngày dài nhất. Ngẫu nhiên, tôi trở thành chứng nhân của thời đại tôi, một chứng nhân không thích rườm rà chi tiết, một chứng nhân chỉ khoái vắn tắt từng sự kiện và suy diễn những sự kiện theo kiến thức hữu hạn của mình. Nhưng luôn luôn sáng tạo, cố gắng sáng tạo. Rất nhiều khi chứng-nhân-tôi quên hẳn những sự kiện quan trọng mà chỉ nhớ những sự kiện vớ vẩn. Người viết tiểu thuyết khác người viết lịch sử ở chỗ đó. Người viết tiểu thuyết thường khám phá ra ở sự kiện vớ vẩn cái vóc dáng đẫy đà và quan trọng hơn cả sự kiện quan trọng dưới mắt sử gia. Tôi mê huyền sử, dã sử nặng gấp bội chính sử, ngoại sử. Giản dị lắm, huyền sử và dã sử không thèm quan tâm tới niên biểu. Thế mà tôi lại quan tâm tới niên biểu của một ngày dài nhất đầu tiên trong đời tôi đã trôi mút mít 20 năm.
    10 tháng 7 năm 1954, là ngày dài nhất ấy, là ngày quân đội liên hiệp Pháp rút khỏi thị xã Thái Bình, là ngày dân chúng di tản. Thực sự, những người có máu mặt và hiểu thời cuộc đã “rút lui chiến thuật” trước 10-7. Ngày dài nhất ấy, với tuổi 19 của tôi, thật phũ phàng. Tôi nhớ lại. Như thế này…
    Hàng năm, tôi đều từ Hà Nội về Thái Bình nghỉ hè. Hè 1954 xảy ra vụ “rút lui chiến thuật” trước khi tôi lên Hà Nội. Sự hãi hùng bắt đầu từ 12 giờ ngày 10-7. Lính Hổ xám, lính pạc-ti-dăng và cả lính Bảo chính đoàn nữa, xông vào các nhà buôn bán lớn tống tiền, cướp của và hãm hiếp đàn bà, con gái. Y hệt những thảm cảnh đã diễn ra tại vài thành phố miền Trung trước 30-4-1975. Hàng phố vội vàng đóng cửa kín mít. Bố mẹ tôi tìm chỗ nấp nếu cửa bị xô mở. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi những bước giầy đinh rằm rập trên vỉa hè trước nhà mình. Tim tôi muốn vỡ ra. Tình trạng nín thở kéo dài đến tối. May mắn, bố mẹ tôi buôn bán nhỏ nên đã thoát cảnh tống tiền, cướp của, hãm hiếp. Tuy nhiên, chúng tôi đã có một đêm không ngủ, một đêm không ngủ đợi chờ bất hạnh. Đêm im lặng. Máy điện chạy nghe rõ. Và máy bay bà già lượn suốt đêm trên vùng trời thị xã. Gần sáng, một tiếng nổ lớn ở phía cầu Bo. Rồi hoàn toàn vắng lặng. Máy bay bà già đã hết lượn. Chỉ còn vang vang động cơ của máy phát điện. Mãi 12 giờ hôm sau, 1 1-7, dân thị xã mới biết Pháp đã rút lui. Người ta tự động di tản về nông thôn. Thị xã bỏ trống* . Tôi chờ hiệp định Genève ký kết xong mới lên Hà Nội. Và Hà Nội trước những ngày cộng sản vào tiếp thu rất bình yên. Như Sài gòn chiều ngày 29-4-1975. Không hề có tống tiền, cướp của, hãm hiếp do một số lính vô kỷ luật tạo ra. Cũng không hề có “đấu tranh” giành lại “xương máu bị bóc lột” của dân nghèo.
    Hai mươi năm sau, 1975, tôi 40 tuổi, lại thêm một ngày dài nhất và một đêm không ngủ trong đời mình. Đêm không ngủ, tôi vừa trải qua. Ngày dài nhất, tôi mới đếm được 5 giờ. Với một nhà văn tài năng, 5 giờ đồng hồ đợi chết, ông ta sẽ cống hiến chúng ta những trang sách rụng rời về cảm giác sắp chết. Và ông ta sẽ soi sáng ý nghĩa sống của sự chết. Có thể, ông ta sẽ cho chúng ta biết chính xác nơi chốn ngự trị của linh hồn. Chúng ta cần hiểu điều đó, thèm hiểu điều đó. Rằng, những người công chính, sau khi chết, về đâu; những kẻ giả hình về đâu; những người chịu đựng oan khiên ngộ nhận về đâu; những kẻ điêu ngoa, dối trá về đâu; những người suốt đời cặm cụi ngậm cô đơn và thống khổ để làm đẹp cho con người cho cuộc đời về đâu; những kẻ phì nọc rắn, phun nọc rết, nhẩy múa trên cay đắng đồng bào chúng nó, của đồng loại chúng nó về đâu ông ta còn có thể mặc khải một niềm sống tuyệt vời nếu con người vượt lên được trên nỗi sợ hãi chết, nếu con người thản nhiên chờ chết. Tôi chợt nhớ sự thản nhiên sống và thản nhiên chờ chết của cổ nhân Đông phương. Đến một tuổi nào đó, con người Đông phương, con người cũ Việt Nam, con người nguyên thủy Việt Nam thừa ngạo nghễ rung đùi ngâm thơ nhìn quan tài mua sẵn cho mình hay ngồi trên nắp quan tài mà say sưa cuộc cờ Khi con người nhìn rõ cái phù ảo của cuộc sống thì nó không thèm lý tới sự chết. Và, vì đã quán triệt cái lẽ phù ảo của cuộc sống, con người sẽ cố sống cho ra con người, cố làm cái gì đó thật ý nghĩa cho những cuộc sống nổi tiếp. Hẳn nhiên, ý nghĩa của sự sống khi con người thấu hiểu lẽ phù ảo của nó chẳng bao giờ là tiện nghi vật chất thừa mứa, là tiền bạc phủ phê, là hư danh hão huyền đến nỗi phải kèn cựa nhau, tranh giành nhau đến xầy da, sứt trán, đến chém giết nhau, đến thù hận nhau làm phôi pha tình người và mất ý nghĩa của sự sống, mất lạc thú của cuộc sống. Ca dao chẳng đã luận về sự bình đẳng của sự chết đó ư!
    Vua Ngô đi bốn tàng vàng
    Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì
    Chúa Chổm nốc rượu tì tì
    Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô
    Nếu Chúa Chổm là Lý Bạch, là Tản Đà, là Tề Xương, là Hà Huyền Chi, là Baudelaire, là Hoàng Anh Tuấn, là Nguyễn Bính…, Chúa Chổm hơn vua Ngô triệu triệu lần. Vì Chúa Chổm có thơ để lại cõi thế mà vua Ngô chả có gì. Vua Ngô chết là mục xác. Chúa Chổm sống mãi, Chúa Chổm bất tử, Chúa Chổm phục sinh nhờ thơ của Chúa Chổm. Cái thứ sống mãi trong hòm kính là thứ sống mãi bệ rạc không hứa hẹn hòm kính sẽ bị đập vỡ tan tành.
    Tôi không phải là nhà văn tài năng nên tôi đã sợ chết ngâm rọ dưới sông, sợ chết sặc sụa trong biển máu. Và tôi không thể có những trang sách tuyệt vời về cảm giác chờ chết. Tôi đã sợ hãi chết, sợ hãi trời chóng sáng, đã muốn bóng tối mênh mang vô cùng để khỏi nhìn rõ đao phủ và hình cụ của nó. Bây giờ, tôi chờ sáng, tôi hết sợ chết nếu tôi được chết bởi đạn quân thù găm trong tim giữa lúc tôi đang chiến đấu. Không một kẻ chiến bại nào được da ngựa bọc thây cả. Da ngựa biết chê thây chiến bại.
    Tôi mở radio. Lệnh giới nghiêm nhắc đi nhắc lại. Không còn Nối vòng tay lớn. Không còn cả giọng nói bầy nhầy đón gió trúng mối của biểu tượng Lý Quý Chung. Tâm hồn tôi rạng rỡ khi hình tưởng người lính sửa xe tăng tối qua và nhật lệnh quyết chiến của tướng Vĩnh Lộc, người hùng Pleime năm xưa, “vua xứ mọi” của tôi. Ông đang ở đâu, ông Vĩnh Lộc? ở đâu cũng được, ông còn ở màn ảnh nhỏ của Truyền Hình Việt Nam, băng tần số 9, tối hôm qua là đủ rồi. ít nhất, với tôi. Lập tức tôi có ý nghĩ mới: Bằng hữu tôi, đồng bào tôi di tản thoát, đã mất dịp làm Người Sài gòn. Sài gòn sắp thành Stalingrad, nơi đó phẩm cách nguyên khối của người Việt Nam được chứng tỏ cùng thế giới: Rằng người Việt Nam chiến đấu chống cộng sản cô đơn và lãng mạn không cần cố vấn Mỹ và viện trợ Mỹ.
    Tôi cảm khái, khe khẽ hát:
    Từng bờ tường mái hiên
    Từng mô đất
    Từng khu phố
    Từng khe cống
    Sài gòn vùng đứng lên…
    Hãy đứng lên, hãy ngẩng mặt, Sài gòn! Có tôi làm giầy dũng sĩ ngăn giặc xâm lăng. Có tôi làm công dân tải đạn…

  3. #3
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT ( CHƯƠNG 3)



    Ông Từ Diễn Đồng mâu thuẫn với chính ông. Đã hỏi:
    Lòng nước ai ai đà thức dậy
    Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho…
    Ông lại chép miệng:
    Thiên hạ có khi đang ngủ cả
    Tội gì mà thức một mình ta
    Không ai ngủ. Tất cả đều thức. Và thức trắng đêm qua. Và cùng đợi chờ. Có ba tâm trạng đợi chờ trong một đêm bắt buộc không ngủ. Kẻ đợi chờ cộng sản mang hạnh phúc cho mình. Kẻ đợi chờ cộng sản mang bất hạnh cho mình. Kẻ đợi chờ cộng sản vùi xác giữa một thành phố bất khuất. Tôi đang ở tâm trạng thứ ba sau khi thoát khỏi tâm trạng thứ hai. 6 giờ thiếu 10 phút. Thường lệ, vào giờ này, sinh hoạt chợ Xóm Lách đã ồn ào. Hôm nay im vắng. Chẳng phải vì giới nghiêm đâu, mà vì cuộc hôi đồ chiều hôm qua đã diễn sâu tới khuya, đã diễn xa lên Sài gòn, đã diễn rộng khắp khu vực nên dân chúng ngồi nhà ngắm “chiến lợi phẩm”. Tôi lại mở cổng ra đường. Bước sát cột đèn lưu thông, tôi đứng ở ngã tư Công Lý – Yên Đổ. Lần đầu tiên, từ hai mươi năm khôn lớn tại Sài gòn, tôi được nhìn Sài gòn buồn bã. Như thể Sài gòn choàng khăn tang và hồi chuông cáo phó đã đọng trên đầu cỏ, ngọn lá. Con phố Công Lý, con đường của VIP, nườm nượp xe cộ từ tan giới nghiêm đến vô giới nghiêm, hôm nay, vắng ngắt. Tôi mơ hồ thấy, trong hiu quạnh khôn cùng của ban mai Sài gòn 30-4, những lời giối giăng đứt khúc. Chắc chắn không có sóng ngầm. Chắc chắn không có Stalingrad ở Sài gòn. Không có một dấu hiệu nào chứng tỏ thành phố chuẩn bị nghênh giặc. Tôi đã thất vọng. Tôi đã tuyệt vọng. Não nề hơn, tôi đã thất tình với cuộc chiên đấu mơ ước. Với Dương văn Minh và đám cầy cáo đui què, không bao giờ có chiến đấu, dù chiến đấu để chết đẹp, chết xứng đáng làm người. Tôi tự trách tôi ngu xuẩn đã không chịu suy diễn sự dọn đường quỳ mọp của Lý Quý Chung, phát ngôn viên chính thức của Dương văn Minh. Tôi ngu xuẩn hay tôi giống người sắp chết đuối với được cái phao Giới Nghiêm 24 trên 24? Sài gòn của tôi, Sài gòn của chúng ta đã lần nào chịu khuất phục trước bạo lực xâm lăng? Từ thành phố này mang tên Sài gòn, ít nhất, đã hai phen nó phóng nhiệt tình và lòng tự phụ vào mặt kẻ thù xâm lược. Còn nhớ Tiếng súng Nam Bộ của tháng ngày 1946 chứ:
    Tiếng súng vang sông núi miền Nam
    ầm đất nước Việt Nam
    Tiếng súng vang lùng khắp non sông
    dục ta ra tranh đấu
    Tiếng súng vang sông núi miền Nam
    vì mưu chiếm miền Nam
    Ta muốn băng mình xuống phương Nam
    xé xác quân tham tàn…
    Còn nhớ nghĩa sĩ Bình Xuyên* thuở ấy chứ?
    Bình Xuyên…
    Bình Xuyên oai hùng ngàn năm
    đoàn dũng sĩ máu sôi lòng hờn căm
    Khi quân ta tiến ra
    vung gươm lên chói lòa
    muôn đầu rơi sát khí
    ầm vang hát
    chốn sa trường không tiếc thân…
    Bình Xuyên…
    Gò Công hai lần diệt Tây…
    Còn nhớ tuổi trẻ Sài gòn thuở ấy chứ? Những gậy tầm vông của thanh niên đã làm khiếp đảm súng liên thanh của liên quân Anh-ấn-pháp. Những địa danh Cầu Quay, Cầu Mống, Rạch Đỉa, Thị Nghè đã làm nản lòng quân xâm lược. Và đã làm Sài gòn ngạo nghễ, đã làm người Sài gòn bất hủ. Đó là lần Sài gòn đứng dậy, đứng hết dậy viết những trang lịch sử mới sau 100 năm nô lệ. Lần thứ hai, còn nhớ chứ, tháng ngày mùa hè 1955. Tuổi trẻ Sài gòn lại đứng dậy, kẻ sĩ Sài gòn lại đứng dậy biểu dương nhiệt tình và lòng tự phụ cho bạo lực cộng sản mở mắt. Những khẩu hiệu chiến đấu ăm ắp sáng tạo: Chặt cổ Hồ Chí Minh. chém ngang thây Trường Chinh… Những bước chân săn đuổi Văn Tiến Dũng khiến nức lòng đường phố. Nhiệt tình của tuổi trẻ bốc cháy Majestic, Galliéni. Gươm dáo Bảo Tàng Viện cũng rung rinh nhạc võ Kẻ thù phương Bắc rụng rời… Nhưng hôm nay… Đứa thoán nghịch đã học đòi Mạc Đăng Dung sẽ học đòi Mạc Đăng Dung thôi…
    Tôi nhìn ngang con đường Công Lý. Tôi nhìn dọc con đường Yên Đổ. Tôi hình tưởng những con phố khác. Tôi hình tưởng cái toàn thể Sài gòn và những vùng thân yêu Đakao, Tân Định, Phú Nhuận, Chí Hòa… Tất cả chìm vào mù khơi hiu hắt. Tất cả rơi xuống hụt hẫng thinh không.
    Sài gòn.
    Em đã cho anh hai mươi năm sung sướng
    Anh phải van lơn để hứng chịu cơ cầu
    Tôi chôn chân cạnh trụ đèn lưu thông, ngã tư CôngLý – Yên Đổ. Tôi thèm được chết đứng ở đây. Tôi thèm được chết đứng cơ hồ Từ Hải, cái chết đứng bị phản bội nhục nhã. “Thiên hạ có khi đang ngủ cả,” mình tôi, một mình tôi thức, mình tôi chới với trong quạnh hiu ứa máu của Sài gòn đợi chờ khuất phục. Và tôi, tôi lại đợi chết. Mơ ước cuối cùng của tôi đã tàn tạ khi chưa kịp nở. Tôi mơ hồ nghe tiếng bước chân thù dẫm trên đường phố, tiếng rên xiết của đất đá, tiếng chuông cáo phó rung lên cho Sài gòn chết oan. Tôi không chết đứng nổi. Tội nghiệp tôi. Tôi trở về, đẩy cổng, vào nhà.
    ***
    Đạn nổ phía phi trường Tân Sơn Nhất đã thưa thớt. Trực thăng Mỹ vần vũ mạnh hơn ở góc trời đó, góc trời ân huệ của những người Việt Nam đã ăn no đấm đá của lính Mỹ để leo lên nóc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ; góc trời thảm não của những người Việt Nam không được ăn no đấm đá của lính Mỹ để bị ngồi bó gối trước cống Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.
    Trời đầy sương mù. Tại sao sương mù mùa xuân, mùa khô của miền Nam? Bỗng chuông điện thoại reo:
    – Alô, bố Tí hả?
    -Ừ.
    – Tao lên được không?
    -Giới nghiêm 24 trên 24 mà.
    -Ở đây, thiên hạ đi lại ầm ầm.
    – Thì ông lên đi?
    Đặng Xuân Côn từ Phú Nhuận gọi cho tôi. Chuông điện thoại reo làm các con tôi thức. Nhà tôi, vì uống thuốc an thần quá trễ nên vẫn còn ngủ mê man. Thằng con lớn của tôi chạy ra phòng khách. Nó bật đèn. Thấy tàn thuốc lá bừa bãi, chai Rémy Martin đã cạn nằm nghiêng, nó hỏi:
    -Bố không ngủ à?
    Tôi gật đầu.
    -Bố sợ cộng sản à?
    Tôi lắc đầu.
    -Tại sao bố không ngủ?
    Tôi đáp:
    -Rất nhiều người không ngủ đêm qua.
    Không để con nít biết chuyện nước non buồn thảm, tôi dục con tôi:
    -Cu Tí pha cà-phê cho bố.
    Đặng Xuân Côn đã lái xe lên Sài gòn. Chúng tôi uống cà-phê, đàm luận. Con nít bị đuổi hết vô phòng ngủ:
    – Có gì lạ ở Phú Nhuận?
    – Thiên hạ đợi Việt cộng vào.
    -Hân hoan đợi?
    – Một nửa sợ hãi, một nửa vui mừng. Chắc chắn, không có đánh đấm gì đâu. Dương văn Minh là cái xác chết. Bọn tướng lãnh đầu xỏ cút hết rồi. Đào ngũ hết rồi. Ông Vĩnh Lộc ví như chiếc lá cuối cùng. Gió cũng cuốn ông ta bay…
    – Tôi hiểu. Tôi đã mơ mộng Sài gòn sẽ là Stalingrad thứ hai. Rốt cuộc, nó sẽ là Hochiminhgrad, đúng như tiên đoán trước của lãnh tụ văn nghệ Nguyễn Đức Quỳnh mười tám năm cũ.
    – Mày tính sao?
    -Tính gì?
    – Chuồn.
    – Chuồn đâu? Mã cùng đồ rồi!
    -Về Long Xuyên ẩn thân.
    – Mai danh ẩn tích hả? Kệ mẹ nó. Đến đâu hay đến đó.
    Đặng Xuân Côn có thể đưa vợ con di tản dễ dàng. Cứ bám lấy tôi vào những ngày tôi bối rối nhất. Rồi tôi biến thành cái đầu tầu di tản, kéo các toa em vợ. Nhà tôi không thèm nghĩ đến con mình, chỉ nghĩ vợ con của đứa em trai mình, bắt tôi kéo bằng được vợ con đùm đề của cậu em trai du học bên Mỹ.
    Rốt cuộc, kéo nặng quá, đầu máy chết. Phạm Duy, trước khi chạy, cho tôi hay rằng anh đã phải vất vài đứa con lại. Anh khuyên tôi lo thoát lấy thân mình. Tôi còn bận bịu lo thoát thân vợ con của em vợ. Than ôi!
    -Thả một vòng Sài gòn chơi chăng?
    Đặng Xuân Côn đề nghị.
    – Thì đi.
    Tôi trả lời. Lúc ấy đã 7 giờ, đường phố không còn hoang vắng như cách đây một tiếng đồng hồ. Xe cộ xuôi ngược, bớt cảnh nườm nượp hàng ngày. Đèn lưu thông chớp nháy tự động ở các ngã tư. Lệnh giới nghiêm của Dương văn Minh vô hiệu quả. Luật pháp quốc gia đã bị coi thường. Người ta có thể tự do thanh toán nhau vì thù hận riêng tư hôm nay. Người ta có thể cướp bóc, hãm hiếp hôm nay. Cảnh sát vắng bóng. Quân cảnh vắng bóng. Nhưng cao quý thay là ngày Sài gòn thả nổi, ngày Sài gòn có chính phủ như vô chính phủ, tất cả bình yên nhờ chân lý mất gì không mất tình người Việt Nam. Tôi muốn vinh tôn dân tộc tôi bằng vàng son chói lọi. Tôi muốn vinh tôn Sài gòn bằng gấm vóc kiêu sa. Thành phố thân yêu của tôi, có trái tim của mấy triệu trái tim. Thành phố ấy không hề khích lệ, đốc xúi trả thù, tuyết hận trong cơ hội tha hồ trả thù, tuyết hận và tha hồ nhân danh đủ thứ chính nghĩa. Sài gòn, thành phố nhân bản, thành phố biểu tượng của tình nghĩa Việt Nam, của tình người Việt Nam. Như thế, Sài gòn vĩnh cửu, Sài gòn tồn tại như dân tộc Việt Nam. Tôi yêu Sài gòn.
    Sài gòn,
    tên em trên những vệt môi son
    trong ánh mắt
    và trong hơi thở
    trong hạnh phúc
    và trong đau khổ
    ở tuổi non và ở tuổi già
    ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua
    ở hôm nay anh sống và ngày mai anh chết
    Trước hết, Đặng Xuân Côn lái xe ngang qua căn nhà số 101 Phan Đình Phùng. Tôi thấy Mai Thảo đang nói chuyện với cô bé Nicole, (cháu của ông Nguyễn Đình Vượng, chủ nhiệm tạp chí Văn). Tôi ấm lòng. Mai Thảo còn ở lại Sài gòn. Chúng tôi sẽ cùng bơi trong biển máu. Đặng Xuân Côn cư ngụ tại cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Hắn cho tôi biết Văn Quang, Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành còn ở lại. Anh em văn nghệ còn ở lại, tôi mới rõ bốn người. Những ai nữa, và những ai đã đi thoát,. không ai hiểu. Một ngày dài nhất còn là một ngày xa cách nhất. Vẫy tay chào Mai Thảo, chúng tôi vòng lại đại lộ Hai Bà Trưng, đến nhà thờ Tân Định. Gặp Nguyễn Tuấn Anh, ngỡ ngàng tưởng chừng gặp người trong mộng. Tuấn Anh và gia đình đã xuống tầu chiều qua. Tôi đã bắt tay vĩnh biệt anh. Thế mà anh trở lại, đang khuân “hành lý di tản” vào nhà. Con tầu đã đi. Người bạn của tôi không đi nữa. Vài câu đối thoại nhanh, chúng tôi tạm biệt Tuấn Anh lên Sài gòn. Tôi nghĩ Nguyễn Tuấn Anh sẽ chung số phận với tôi. Anh ta là bác sĩ, đã phục vụ quân đội, đã là dân biểu đối lập trong nhóm Quốc Gia, đã bày tỏ thái độ chống cộng quyết liệt như Nguyễn văn Cử, Nguyễn Trọng Nho, Đặng văn Tiếp, Nguyễn văn Cung, Trần văn Ân. Anh ta sẽ bơi trong biển máu.
    Chúng tôi đậu xe sát lề đại lộ Thống Nhất, ngay cửa tư thất của ông Đại Sứ Pháp tại Sài gòn, thả bộ lên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Trực thăng lên xuống đều đặn. Trên nóc tòa nhà biểu tượng cho quyền uy Hiệp chủng quốc ở Việt Nam, vẫn đông nghẹt người di tản. Chung quanh tường Toà Đại Sứ, Thủy quân lục chiến Mỹ mặc áo giáp, tay trần, kè kè M-16 gắn lưỡi lê sẵn sàng đàn áp những người Việt Nam sợ biển máu, nhất định đáp lời kêu gọi di tản của tổng thống Ford. Thủy quân lục chiến Mỹ, binh chủng vẻ vang của quân lực Hoa Kỳ, được thần thánh hóa trong phim ảnh do Hồ ly vọng sản xuất, đã và đang diễn nghĩa cái nắm tay thân hữu của Mỹ với các nước đồng minh. Năm 1954, lính thủy Mỹ thân ái cầm tay người Việt Nam di cư bỏ trốn cộng sản. Năm 1975, “lính thủy đánh bộ” Mỹ giáng báng súng xuống thân phận Việt Nam di tản bỏ trốn cộng sản. Hẳn nhiên, lý luận theo cộng sản, đó là hiện tượng. không phải là bản chất. Bản chất tốt đẹp là dân tộc Mỹ, là đất nước Mỹ. Hiện tượng xấu xa là chính phủ Mỹ, chính sách Mỹ đối với nước nhỏ. Thế thì cái hiện tượng Hoa Kỳ đang lạnh lùng đề phòng những người Việt Nam di tản xếp hàng đông đặc trên vỉa hè phía trước Tòa Đại Sứ chỉ rình cơ hội là tông cửa xô vào, leo lên nóc Tòa Đại Sứ. Dân tộc Việt Nam chưa được hưởng tí gì về sự nghiệp khai phóng dân chủ, tự do của Mỹ ở Việt Nam ròng rã hai mươi năm. Dân tộc bất hạnh này chỉ hưởng dùi cui, báng súng, lựu đạn khói, phi tiễn vì áp dụng bài học tự do, dân chủ. Và hôm nay, dân tộc ấy có định nghĩa chính xác về tự do trước cổng Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ.
    Chúng tôi lái xe ra bến Bạch Đằng. Những con tàu nghiêng lệch về một bên đã đi cả rồi. Cái phà qua Thủ Thiêm còn sang ngang. Và trên sông, những chiếc ghe chèo, ghe máy đuôi tôm vẫn thản nhiên xuôi ngược. Chúng tôi sang Khánh Hội. ở kho 5, thiên hạ di tản ùn ùn kéo nhau vô. Có lẽ còn tàu. Chúng tôi trở lại Sài gòn. Các cửa hiệu khu phố Lê Lợi, Tự Do, Nguyễn Huệ đóng cửa. Ở những căn nhà lầu, cửa sổ mở tung và những khuôn mặt ngó xuống nhìn Sài gòn dáo dác. Khác với Sài gòn ngày 11 tháng 11 năm 1960, khác với Sài gòn buổi chiều trước 1-11-1963, khác với Sài gòn ngày chỉnh lý, ngày biểu dương lực lượng, ngày đảo chính cục bộ, Sài gòn sáng 30-4-1975 là ngày hân hoan dấu kỹ, là ngày ngơ ngác phô ra, là ngày sợ hãi hiện rõ. Trời u ám. Người ủ ê. Hơn tám giờ mà mặt trời còn ẩn kỹ. Không một sợi nắng. Có ba ngày lạ lùng trong tháng 4. Hôm tên phi công phản phúc oanh tạc Dinh Độc Lập, trời lất phất mưa. Hôm Dương văn Minh “lên ngôi” tổng thống, trời lất phất mưa. Và hôm nay, trời u ám lạ thường. “Khí trời u uất hận chia ly”. Câu thơ này đã diễn tả chính xác Sài gòn buổi sáng 30-4-1975.
    Tôi bảo Đặng Xuân Côn đậu xe. Chúng tôi lang thang trên hè phố. Tôi nhìn vào Garden (Givral cũ) vắng hoe. Bên kia, Continental cũng thế. Mới hôm nào, ngày Sài gòn hốt hoảng tin cộng sản tấn chiếm Đà Nẵng, tôi còn ngồi chung bàn với Cao Dao, Đỗ Bá Thế luận bàn thế cuộc. Cao Dao, người biết quá nhiều, cộng tác viên của vài tờ báo Mỹ lớn. Anh viết tiếng Việt và Phùng thị Hạnh dịch sang Anh Ngữ. Sau này, sang Bỉ, viết báo Đức, anh lại viết bằng tiếng Pháp. Đỗ Bá Thể, tác giả Thím Bẩy Giỏi. Ngã tư quốc tế* , tiểu thuyết gia, báo gia, điện ảnh gia, kẻ lãng du tình ái không hề mỏi gối long chân. Cả hai, Cao Dao và Đỗ Bá Thế đều bình thản trước cơn hấp hối của Sài gòn. Tôi hỏi Cao Dao:
    – Cả nước lo di tản, ông còn ngồi đây tán phét à?
    Cao Dao cười tít mắt:
    – Để thiên hạ đi vợi, tớ chạy sau chót.
    Tôi nói:
    – Ông ơi, không có chuyến tầu vét Hải Phòng 1955 đâu
    Cao Dao hít đẫy hơi thuốc, nhả khói:
    -Thì ở lại. Di tản sớm mất giá. Chạy trốn sau có giá. Cậu là nhà văn, cần buôn kinh nghiệm mà bán.
    Tôi cười:
    – Nhỡ vào biển máu, cạn láng?
    Đỗ Bá Thế vỗ vai tôi:
    – Tao đã đi mòn chân Âu Châu rồi, tao không viết được chữ nào thời gian dài tao ở Pháp. Về Việt Nam tao mới biết viết! Mày muốn tác yêu tác quái xứ người, mày cần ở lại. Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ?
    Nghe hai ông già này nói chuyện câu trăng, câu sao trên mặt nước, tôi chợt nhớ hai câu thơ của Hoàng Cầm trong kịch bản Lên đường:
    Đêm ba mươi còn đi cầu danh lợi
    Vận nhà ta đến lúc hỏng mất rồi
    Đó là ý nghĩ của tôi mấy hôm trước. Bây giờ, nhìn vào Garden qua cửa kính, tôi nhớ Cao Dao, Đỗ Bá Thề, và trong tâm hồn tôi vừa nẩy mầm hy vọng mới. Ừ nhỉ, nếu không dám tình nguyện đi buôn thì bất đắc dĩ đi buôn vậy “Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ?” Thoát chết, bung ra được… Di tản sớm mất giá. Tôi đã có niềm an ủi bị ở lại. Bước nhanh qua La Pagode. Cũng vắng hoe. Các nhà văn nghệ chiếu nhất, hàng đầu, chiếu ba hàng cuối, bằng hữu của tôi nơi mô? Sông chưa lấp mà tưởng chừng đã lấp. Biển dâu tự lúc nào vậy? Tôi đọc khẽ Trần Tế Xương:
    Sông kia rầy đã nên đồng
    Nơi thì nhà cửa nơi trồng ngô khoai
    Đêm nghe tiếng ếch bên vai
    giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…
    Và đọc khẽ Vũ Đình Liên:
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ…
    Quay lại, tôi đã đứng trước cửa Phòng Triển Lãm. Nhìn sang Caravelle, tôi thấy vài anh phóng viên ngoại quốc đeo súng! Phóng viên nhiếp ảnh, quay phim, thông tín viên, ký giả ngoại quốc ví như lũ đỉa đói đã hút máu cuộc chiến của chúng ta bằng những tin bẩn, phim bẩn, bình luận bẩn của họ. Chính họ đã tiếp tay cộng sản tạo ra hôm nay. Sự hiểu biết thiển cận của họ, sự làm dáng tiến bộ của họ, sự phản chiến một chiều của họ, sự xuyên tạc, bêu nhục cuộc chiến đấu của chúng ta đầy ác ý và giúp cộng sản thắng lợi ngoài nước trước khi thắng lợi trong nước. Phóng viên, ký giả ngoại quốc, đỉa đói và kên kên gớm ghiếc, nhiều kẻ lãnh lương của Việt cộng, nhiều kẻ đần độn, nhiều kẻ tự nhận lương tâm của mình là lương tâm nhân loại để phán xét chiến tranh Việt Nam. Họ còn ở lại Sài gòn. Họ chưa muốn… di tản. Họ cần thiết có những thước phim, những tấm ảnh, những bài báo ngưỡng mộ cộng sản. Họ chờ đợi cộng sản tiến vào sài gòn. Họ đeo súng* . Không phải để đối phó với cộng sản mà để bắn chết bất cứ một người lính vô kỷ luật, một người Việt Nam nào đe dọa mạng sống của họ. Nhà báo đeo súng, thứ nhà báo vô liêm sỉ. Chắc chắn, nghĩa vụ luận báo chí của nước họ không có điều khoản đeo súng hành nghề. Nhà báo đeo súng và nhà báo đeo súng đã miệt thị ông Nguyễn Ngọc Loan bắn bỏ tù binh?
    Nhìn những tên phóng viên ngoại quốc đeo súng nghênh ngang trước cửa khách sạn Caravelle, tôi lấy làm ghê tởm. Làng báo Việt Nam cũng có ít nhất, năm đứa đeo súng hành nghề. Đứa lõa lồ nhất, vô lại nhất là Như văn Uy. Thằng này đem súng cả vào Hạ Viện, bắn loạn xà ngầu. Nhưng khi bị Đặng văn Tiếp thách “bắn chậm thì chết”, nó co vòi. Bẩn mắt vì ngó những thằng phóng viên ngoại quốc đeo súng, tôi ngắm Hạ Viện. Hạ Viện đã giống chùa Quán Sứ của bà Hồ Xuân Hương:
    Hạ Viện sao mà cảnh vắng teo
    Hỏi thăm dân biểu đáo nơi neo
    Nghị sĩ chạy cả rồi. Dân biểu chạy cả rồi. Chiến hay hòa không có tiếng vang rung chuyển nơi đây. Cho nên, những trang lịch sử chó đẻ nhất của dân tộc phải tính từ ngày 12-3-1975. Và những trang này không chứa chất u ẩn cần các sử gia đời sau soi sáng. Nó phơi ra thỗn thện như những miếng thịt bầy nhầy, như xác chết muông thú nhung nhúc ròi bọ.
    Chẳng còn gì hấp dẫn ở trung tâm thành phố, cũng chẳng có gì lạ lùng ở bất cứ một khu vực nào của Sài gòn. Câu thơ sau đây của Trần Tế Xương diễn tả đúng cảnh tượng Sài gòn buổi sáng 30-4-1975:
    Kẻ đi người lại dáng bơ vơ…
    ***
    Chúng tôi trở lại tòa Đại Sứ Mỹ. 8 giờ 15 phút. Lính Mỹ vẫn lạnh lùng canh gác. Con nít ngủ la liệt trên vỉa hè. Cụ già dựa lưng vào tường, nửa thức nửa ngủ và nửa mơ màng thiên đường Mỹ. Chúng ta tìm về đất hứa không có Moise hướng dẫn, không có Moise bênh vực, không có Moise bảo vệ và không có Moise đầy phép tích nên chúng ta bệ rạc nằm, ngồi ngổn ngang trước Toà Đại Sứ Mỹ, chúng ta ăn báng súng, ăn xô, ăn đạp. Quân dữ ở không gian và thời gian nào cũng thế. Quân dữ ở thời đại của chúng ta hơi khác một tí là nó đã từng bảo nó là bạn của chúng ta. Người ta cần nhớ bài học cay đắng di tản những ngày cuối tháng 4-1975 ở phi trường Tân Sơn Nhất, ở tòa Đại Sứ Hoa Kỳ nằm trên đại lộ Thống Nhất mà định mức hào hiệp của người Mỹ thống trị. Và người ta sẽ quán triệt chân lý: Chỉ người Việt Nam mới giải thoát nổi thân phận Việt Nam khỏi ách thống trị của cộng sản. Người Việt Nam phải làm chủ vận mệnh của dân tộc mình. Mọi hậu thuẫn, trợ giúp tinh thần, vật chất là phụ. Chấp nhận viện trợ và khước từ chỉ huy, lãnh đạo. Để không còn vết nhục quốc sỉ Nguyễn văn Thiệu: “Bảo chúng tôi chống cộng sản mà không viện trợ thì làm sao chúng tôi chống cộng được”?
    8 giờ 17 phút, bất thần, Thủy quân lục chiến Mỹ rút hết một lượt vào bên trong Tòa Đại Sứ. Dân di tản nhất loạt đứng dậy. Cụ già tỉnh táo. Con nít thức giấc. Mọi người chờ đợi một “biến cố” như một quyết định ban ân huệ vào phút chót. 8 giờ 25 phút, không thể chờ đợi lâu hơn, nóng ruột lắm rồi. Dân di tản leo tường vào, xô cổng vào. Chiếc trực thăng bay lên đúng 8 giờ 30 phút. Dân di tản đã ùa vô đầy sân Tòa Đại Sứ. không có chiếc trực thăng nào xuống, không còn chiếc trực thăng nào xuống nữa. Năm phút, mười phút, rồi ba mươi phút. Trực thăng hết vần vũ trên một góc trời Sài gòn. Chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài gòn hồi 8 giờ 30 phút. Có thể, chuyến đó mang ông đại sứ Martin, các nhân vật của Tòa Đại Sứ, và lính Thủy quân lục chiến Mỹ ra khơi. Dĩ nhiên, ông đại sứ Martin đã không quên gấp lá cờ sao xọc vuông vắn, bê theo, bước lên tàu bay. Thế giới có thể mường tượng cảnh cuốn cờ bỏ chạy của đại sứ Martin qua hình ảnh đại sứ John Dean. Hình ảnh đại sứ John Dean cuốn cờ bỏ chạy khỏi Nam Vang đã đăng trên báo chí.
    Những người hụt di tản đau nhất, đau đến mất trí, là những người đã chịu đựng “gian khổ” leo lên nóc Tòa Đại Sứ Đã ngồi trước cổng Thiên Đàng mà lại bị xuống Địa Ngục, còn gì nghẹn ngào hơn? Tuyệt vọng vì người Mỹ hào hiệp không trở lại, họ dắt díu nhau, tìm lối, mò mẫm xuống. Di tản trong gặp gỡ di tản ngoài. Di tản trên gặp gỡ di tản dưới. Chỉ Picasso mới đủ khả năng vẽ những khuôn mặt méo mó của người di tản hụt từ nóc Toà Đại Sứ xuống sân, bước ra đường. Thảm cảnh này rất nên ghi vào những trang lịch sử chó đẻ.
    Ông Hồ Chí Minh không có tham vọng đánh tan giặc Mỹ. Hơn bất cứ ai, ông hiểu thấu binh pháp Tôn Vũ: “Tri kỷ tri bỉ.” Cho nên châm ngôn chống Mỹ của ông là”Đánh cho Mỹ cút”, không đánh cho Mỹ thua. ông ta đã thành công. Mỹ không thua mà Mỹ cút. Mỹ không bao giờ thua trận cả. Mỹ càng không bao giờ thua Việt cộng. Mỹ mở chiến tranh như mở cuộc chơi. Chơi lấy thắng mãi đâm ra nhàm chán, Mỹ chơi lấy… không thắng. Không thắng và thua khác nhau. Cút và thua khác nhau xa tít tắp. Như ăn uống và tiêu hóa vậy. Người ta có thể bắt bẻ: Không ăn lấy gì tiêu hóa, không thua tại sao cút? Bắt bẻ thế là sai. Mỹ muốn thắng Việt cộng thì bố Việt cộng cũng chẳng đỡ nổi. Đằng này, Mỹ không thèm thắng, dù Mỹ thí lính Mỹ chết thảm, què quặt, tàn phế như con nít đốt kiến. Do đó, thế giới thân cộng mới bảo chiến tranh Việt Nam là chiến tranh bẩn thỉu. Mỹ giao đấu với Việt cộng móc ngón tay: “Tao không đập mày chết đâu.” Việt cộng lạy lục: “Cám ơn ông, tôi chỉ mong ông cút.” Và Mỹ bèn cút…
    ***
    Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh giai đoạn cho một mục đích*. Sự nghiệp chống cộng sản bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ của chúng ta chỉ là cái cớ để Mỹ khỏa lấp cái tham vọng hèn hạ của họ. Hai trái bom CBU thả thử xuống chiến trường Long Khánh tiêu diệt dưỡng khí trong một chu vi rộng lớn đã làm “chết sạch” gần hai sư đoàn Việt cộng và cả quân dân ta luôn. Sự tiến công của cộng sản phải dừng lại. Mục đích thử bom CBU của Mỹ đã đạt. Không có thèm trái thứ ba như đã không có ngày thứ mười ba trải thảm bom B-52 ở Hà Nội. Mỹ hoàn toàn yên ổn lương tâm. Phi-la- tồ American rửa tay, mặc xác cho Việt cộng với biển máu của nó. Người Mỹ thực sự hết trách nhiệm khai phóng dân chủ tự do và bảo vệ dân chủ tự do ở Nam Việt Nam vào hồi 8 giờ 30 ngày 30-4-1975. Một nửa dân tộc bị bán đứng cho cộng sản. Một biển máu hứa hẹn dâng tràn. Và tổng thống Gerald Ford thản nhiên tuyên bố: “Lịch sử đã sang trang!”
    Nếu có một sư đoàn bộ binh “phản loạn” bao vây Tòa Đại Sứ Mỹ, nghênh súng phòng không hạ trực thăng Mỹ, không cho đáp xuống, liệu lịch sử có sang trang dễ dàng?
    TRUYỆN NGHE KỂ SAU 30-4-1975
    Lịch sử thường làm nên bằng những bất ngờ. Lịch sử còn đãi ngộ những kẻ có duyên và hờ hững với những kẻ vô duyên. Người vô duyên nhất trong lịch sử hiện đại là cụ Nguyễn Hải Thần. ông Lý Thành Cầu, đại tá tình báo của quân đoàn Lư Hán, người đã theo tướng Tiêu Văn sang Việt Nam tước võ khí Nhật ở miền Bắc, người đã dẫn dắt Hồ Chí Minh gặp Tiêu Văn để hối lộ vàng cho Tiêu Văn rút Tầu phù về nước, khi vào tù cộng sản* , kể cho Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Mạnh Hùng và tôi nghe rằng:
    – Cụ Nguyễn Hải Thần làm thơ chữ Hán trác tuyệt, hay gấp bội thơ chữ Hán của cụ Hồ Chí Minh. Cụ mê thơ quên đại sự. Thống chế Tưởng Giới Thạch kính trọng cụ Nguyễn lắm, nhưng bận việc nước non, rất hiếm dịp tiếp cụ Nguyễn và nếu có dịp, chỉ tiếp được 15 phút. Cụ Nguyễn gặp Tưởng không bàn chuyện cứu nước, mà cứ khoe thơ, bình thơ mãi hết thì giờ.
    Đó là nỗi vô duyên thứ nhất của cụ Nguyễn Hải Thần. Nỗi vô duyên thứ hai được nhà văn Trúc Sĩ, tác giả Kẽm trống khá hay, người đã tham dự ngày tổng khởi nghĩa 19-8-1945 tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội kể lại trong trường thiên tiểu thuyết Thét hận* . Theo Trúc Sĩ, cụ Nguyễn Hải Thần bôn ba sang Tầu trước Lý Đông A có vài năm mà cụ nói tiếng Việt không sõi nữa. Vì cụ ấp úng “tồng pào thân mến” nên Trần Huy Liệu mới dám vỗ vai cụ, mời cụ xuống đểà thao túng diễn đàn. Và quốc gia bị cộng sản chế ngự. Cộng sản cướp luôn công lao chiến đấu giành độc lập của các đảng phái quốc gia. Nỗi vô duyên thứ hai của cụ Nguyễn Hải Thần xứng đáng là bài học quý giá cho những ai mưu đo chuyện phục quốc, cho thế hệ trẻ trưởng thành tại quê người.
    Vì vô duyên với lịch sử, cụ Nguyễn còn bị cộng sản ghép vào bộ ba bán nước Tam Thần Sâm (Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn văn Sâm) và nhục mạ cụ bằng bài hát:
    Nguyễn Hải Thần.
    Nguyễn Hải Thần ông ơi,
    ông ra đi từ 21. 22
    ông ra đi sang nước Tầu buôn sái
    vì sái thơm ông hy sinh cả một đời…
    Và nhái ca dao Thằng Bờm:
    Thằng Thần có cái Việt Nam
    thực dân gạ đổi ngai vàng nhà vua
    Thần rằng Thần chung lấy vua
    thực dân gạ đổi ba cô nàng hầu…
    ……..
    thực dân gạ đổi cơm đen Thần cười…
    Người có duyên, dù thù hận cách mấy, dù không ưa một tí ti ông lão nào cả, người ta vẫn phải công nhận ông ta có duyên với lịch sử, là Hồ Chí Minh. Bất ngờ, về nước năm 1945, ông Hồ Chí Minh lơ thơ vài sợi râu. Và ông ta được suy tôn là “cha già dân tộc”, một cách lãng xẹt. Nguyễn Thanh Trịnh, nhà văn trẻ của tuần báo Tuổi Ngọc kể với tôi rằng, đã gặp Nguyễn Đình Thi, đã chất vấn bộ râu của “Bác Hồ” và được trả lời:
    – Râu của Bác là cái may và còn là cái không may. Nếu 54 tuổi, cằm bác nhẵn thín, lịch sử đã có khúc rẽ:
    Nguyễn Đình Thi không dám “diễn nghĩa”… cụ thể về mấy sợi râu lơ thơ tơ liễu buông mành của ông Hồ Chí Minh năm 1945. Cái may của ông Hồ nhờ râu. Cái không may của dân tộc vì râu của ông ta. ông Hồ Chí Minh khôn lỏi. Bí danh cuối cùng của ông chọn làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chứng tỏ ông ta toan tính kỹ lưỡng. âm nhạc có bảy nốt. Hồ Chí Minh chiếm ba nốt êm ái. Hồ Chí Minh muôn năm thì ông ta chiếm 4 nốt. Mà Bác Hồ Chí Minh muôn năm là 5 nốt. Tình tính tinh: Hồ Chí Minh. ông Hồ Chí Minh đã đi giép râu, mặc quần áo đại cán, cầm que điều khiển giàn nhạc đại hòa tấu chơi bài Kết đoàn, có vẻ như ông ta rành âm nhạc. Ông ta gây dễ dàng cho các nhạc nô suy tôn ông và gây khó khăn cho các nhạc nô muốn suy tôn lãnh tụ kế nghiệp và lãnh tụ đối nghịch. Thí dụ: Tôn Đức Thắng, Đặng Xuân Khu, Lê Đức Thọ, Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu… Ti tì tị: Ngô Đình Diệm. Nghe không du dương. Tí ti tị: Nguyễn văn Thiệu. Càng chói lỗ tai. Tì tí ti: Hồ Chí Minh. Mê ly như hờ ly rút tinh tủy? Thế là ông Hồ Chí Minh có hàng trăm bài suy tôn công đức và sự nghiệp. ông ta xứng biệt danh Cáo Già.
    Vì khôn lỏi, ông ta cố tình cấy râu ớ có râu lơ thơ. Nhờ râu lơ thơ, ông ta tự nhận mình là “cha già dân tộc,” là “Bác Hồ,” là “Cụ Hồ”. Cả nước gọi ông bằng Bác, bằng Cụ. ông ta, chó ngáp phải… râu, trở thành bác của nam phụ lão ấu? Nếu 1945 về nước “cướp chính quyền”, ông Hồ Chí Minh không có râu, ông ta sẽ bị miệt thị:
    Đàn ông không râu bất nghì
    Đàn bà không vú lấy gì nuôi con…
    Ông ta chẳng bao giờ dám trơ trẽn để cho văn nô, thi nô, nhạc nô ví mình như “cha già dân tộc,” như Bác của nam phụ lão ấu, như Cụ… trong dân! Lịch sử đã có khúc rẽ. Ôi, vì vài sợi râu lơ thơ mà ông Hồ Chí Minh có duyên với lịch sử. Sự có duyên của ông ta đã khiến dân tộc đói khổ, ngu dốt, lạc hậu, thù hận, tù đầy. Và đó là trớ trêu của lịch sử. “Với một chữ nếu, người ta có thể bỏ Paris vào trong cái chai.” Nếu cụ Nguyễn Hải Thần nói giỏi tiếng Việt, Việt Minh đi về đâu từ 1 945? Nếu ông Hồ Chí Minh vô tù, dân tộc Việt Nam đi về đâu? Chắc chắn, không đi vào quỹ đạo cộng sản.
    Đừng tưởng lịch sử sáng suốt. Lịch sử đã mù lòa chọn kẻ có duyên Hồ Chí Minh mà đãi ngộ. Nói cho hợp lý, muốn lịch sử mù lòa, những kẻ âm mưu lãnh tụ cần tua tủa thủ đoạn và biết hóa trang. Hồ Chí Minh chính là một trong những kẻ đó. Nhưng lịch sử không chỉ đãi ngộ những kẻ có duyên mà còn đãi ngộ những kẻ liều lĩnh đúng thời. Nguyễn Nhạc là biểu tượng của những kẻ liều lĩnh đúng thời. Kẻ phóng đãng đất Bình Khê, nhờ liều lĩnh mà dẫn lối cách mạng Tây Sơn để Nguyễn Huệ* mở đường đi tuyệt vời cho dân tộc. Nếu Nguyễn Nhạc không liều lĩnh, có nhà Tây Sơn không? Và nếu Nguyễn Nhạc không phóng đãng, Nguyễn Nhạc là Biện Nhạc hiền lành, có nhà Tây Sơn không?
    ***
    Ông Đinh Xuân Cầu, tác giả Bên kia Bến Hải và Đôi kính, kể với tôi rằng:
    -Lịch sử có thể thay đổi bằng một cú chơi bạo cuối cùng. Những người chống cộng quyết liệt đã vận động xong một sự hợp tác với một tiều đoàn nhẩy dù. Tiểu đoàn dù sẽ bao vây Toà Đại Sứ Mỹ, sẽ nhắm trực thăng mà hạ. Trực thăng không đáp xuống được đểà cứu ông đại sứ thì thủy quân lục chiến Mỹ phải đổ bộ vào cứu. Chúng ta lợi dụng cơ hội này hô hào chiến đấu vì Mỹ lại can thiệp thì quân đội sẽ lên tinh thần. Kế hoạch định vào sáng 30-4. Bất ngờ, 30-4, Dương văn Minh ban lịnh giới nghiêm. Quý vị đầu não của kế hoạch nản lòng, nằm nhà thở dài. Thế là lịch sử sang trang!
    Cú chơi bạo cuối cùng sẽ ngoạn mục lắm. Người ta có thể mường tượng ra phản ứng của Mỹ. Nhất định, Thủy quân lục chiên Mỹ sẽ can thiệp. Chúng ta bắt Mỹ phải chơi trò chơi do chúng ta bầy ra. Chúng ta không cho “Mỹ cút”. “Mỹ đã trở lại.” Chỉ cần bốn tiếng đó cho một khoảnh khắc thế sự. Là có thay đổi lòng người. Là sẽ thay đổi mọi mặt. Nhưng vì thiếu liều lĩnh cần thiết, vì hèn nhát, những kẻ định níu kéo lịch sử đã nản lòng. Và lịch sử lạnh lùng sang trang như sự lạnh lùng của tuyên bố Ford. Và chúng ta có những khuôn mặt méo mó di tản hụt, từ nóc Tòa Đại Sứ Mỹ mò mẫm xuống sân, lếch thếch trên đường về…

    (còn tiếp ....)

  4. #4
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT ( CHƯƠNG 4)



    9 giờ. Tôi bảo Đặng Xuân Côn thả tôi xuống trước rạp Kinh Thành. Côn chạy về Phú Nhuận. Mình tôi đứng bên dãy phố Hai Bà Trưng nhìn sang vỉa hè bên kia, buổi sáng Tân Định. Chỗ đó, vài hôm trước, tôi vừa gặp anh Trần Kim Tuyến, sơ-mi bỏ ngoài, giép Nhật Bản, thất thểu đi.
    -Anh đi đâu đấy, anh Tuyến?
    – Đi đâu?
    Ông Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị, “tên trùm mật vụ ác ôn thời Diệm” – cộng sản nó gọi thế – thở dài.
    – Chúng ta đã chống cộng. Riêng tôi thì cứ ngoác miệng đòi “chống cộng đến chiều.” Và rồi chúng ta hỏi nhau đi đâu. Anh sẽ đi đâu, anh Tuyến?
    -Chẳng hiểu.
    -Mỹ nó không đón anh à?
    -Không. Còn cậu?
    -Có lẽ cũng không. Người Mỹ dành ưu tiên số một cho me Mỹ, cho bọn tham nhũng, thối nát, cho đám làm giầu bằng chiến tranh.
    -Cậu định đi đâu?
    -Chẳng hiểu, anh ạ!
    Không có lối chạy cho người chống cộng. Những kẻ chống cộng tự nguyện rất kiêu hãnh nhưng luôn luôn thiệt thòi. Tôi là một trong những kẻ ấy. Vì chống cộng tự nguyện, tôi không bị xếp vào hàng ngũ đầy tớ Mỹ. Đó là một thiệt thòi. Sự thiệt thòi nhìn rõ: Có cả chục ngàn chỗ cho những người chưa hề chống cộng trên máy bay di tản của Mỹ mà lại không có chỗ nào cho Doãn Quốc sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền… Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng* , ở “Lời giới thiệu”, cộng sản viết: “… Một số người khác như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ. Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa cộng sản. Họ cho văn nghệ làm sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện đểà đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là “viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ.” Doãn Quốc Sĩ coi mình như một “viên kim cương, răng cộng sản không sao nhá được.” Thêm một thiệt thòi. Và cái thiệt thòi cay đắng là bị cộng sản chụp cái mũ khả ố “chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới”. Như thế, vẫn chưa đủ nghẹn ngào. Kẻ chống cộng tự nguyện còn bị những người tập sự chống cộng, bập bẹ chống cộng, vỡ lòng chống cộng, ngớ ngẩn chống cộng phán xét một cách dễ chửi thề. Hẳn nhiên, những kẻ chống cộng tự nguyện thường xuyên bị vây hãm, bị bêu nhục bởi bòn đầy tớ Mỹ chống cộng ở bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Nhưng mà những kẻ chống cộng tự nguyện phải chấp nhận, hiên ngang chấp nhận và can đảm chống luôn cả bọn đầy tớ ngoại bang chống cộng, bọn làm thui chột niềm tin chống cộng, bọn giúp cộng sản đánh bóng chính nghĩa của nó, bọn ảo tưởng và thù vặt vì bất đồng quan điểm. Những kẻ chống cộng tự nguyện ngổn ngang kẻ thù. Ngoài cộng sản, họ còn bị đánh dấu tuyết hận bởi bè lũ thống trị tôi mọi, tập đoàn ăn cắp, thảo khẩu chính trị, lũ thời cơ chủ nghĩa, đám buôn bán Phật Chúa… Song cần chi, hai tiếng tự nguyện mà kẻ thù cộng sản khoác hoa quanh cổ họ cơ hồ hào quang đốt cháy mọi rác rưởi, bèo bọt thế thời. Và họ vẫn ngồi lên tất cả như đã ngồi lên tất cả những khuôn mặt sa-đích chính trị rẻ tiền.
    – Anh có lối nào khác lối Mỹ không?
    Tôi hỏi. Bác sĩ Trần Kim Tuyến lắc đầu buồn bã:
    -Không.
    Không. Chúng ta đã chống cộng sản hai mươi năm và chúng ta không có lối chạy trốn cộng sản! Tại sao tổ tiên chúng ta đã không tìm đường chạy trốn mà chỉ tìm chỗ tạm lui về chờ đợi tiến lên? Chắc chắn, tổ tiên chúng ta chống giặc nước một mình. Còn chúng ta, chúng ta chống giặc nước với người Mỹ. Chúng ta đã đổ xương máu cho KHÔNG. Và cái không ủ ê nhất là cái không lối chạy trốn giặc. Liệu chúng ta đã học được một điều gì trong bài học chống cộng sản với Mỹ rồi không còn lối chạy trốn cộng sản? Chỗ đó, vài hôm trước… Chỗ đó, hôm nay…
    Tôi đã thất thểu bước tới ngã tư Hai Bà Trưng – Yên Đổ – Trần Quang Khải. Nỗi chết không còn ám ảnh mà nỗi chết hiện dần. Tự nhiên, tôi thèm sống vô cùng. “Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh a! Đỗ Bá Thế đã phán vậy. Sự thèm sống khiến tôi quên sợ chết. Lạ quá, lúc đó, tôi chẳng hiểu nổi tôi. Phải nói, tôi chẳng hiểu nổi sự chuyển dịch tâm hồn tôi. Nếu tôi đã chưa biết cái cảm giác lênh đênh của tâm hồn thì, bây giờ, tôi biết. Biết rõ. Tâm hồn tôi lênh đênh theo bóng ngã hoàng hôn của cuộc chiến đấu hai mươi năm hư ảo. Lênh đênh chạy trốn. Lênh đênh bất bình chạy trốn. Lênh đênh sợ chết. Lênh đênh chờ chiến đấu. Lênh đênh thèm sống. Lênh đênh ước mơ.
    Đi ngược đường Yên Đổ, tôi về nhà tôi.
    ***
    Thành phố Sài gòn bất chấp lệnh giới nghiêm 24 trên 24 của Dương văn Minh. Thành phố này, hình như, cũng bất chấp cả nỗi ngậm ngùi sắp đến. Sài gòn thản nhiên chờ đợi niềm bất hạnh. Mặt trời vẫn chưa mọc. Có vẻ mặt trời không thích mọc hôm nay. Tôi buồn bã đứng trước cổng nhà mình ngó ngang, nhìn dọc. Bà bán thuốc lá sát cổng nhà tôi hớt hơ hớt hải từ dưới Xóm Lách chạy tới chỗ tôi:
    -Cậu không đi được à?
    – Không.
    -Liệu người ta có để cậu yên không?
    – Ai?
    – Thì… Việt cộng?
    Bà ta nói nhỏ:
    – Cậu ạ, người ta vây kín Sài gòn rồi!
    Tôi thở hắt ra:
    – Thế à?
    Nhìn bà bán thuốc lá, tôi hỏi:
    – Sao bữa nay bà không bán?
    – Tôi tưởng giới nghiêm.
    – Chứ không phải mệt vì đêm qua lo hôi đồ à?
    – Tôi thề với cậu, không quen làm việc ấy.
    – Làm thì đã sao, của Mỹ chứ bộ.
    – Mà không quen.
    Tôi nhìn thẳng vào mặt bà ta:
    – Việt cộng vào, bà có để tôi yên không?
    Bà ta chớp mắt lia lịa:
    -Tôi mong cậu đi lọt mà.
    Từ người vô sản bán thuốc lá, tôi quan sát những người vô sản Xóm Lách quanh tôi. Tất cả đều còn cho tôi những nụ cười, những ánh mắt chứa chan tình cảm. Tôi yên tâm. Đã quá hiểu những bài học căm thù của cộng sản, tôi sợ rằng những nụ cười, những ánh mắt chứa chan tình cảm của người vô sản Xóm Lách sẽ biến mất. Chưa biết bao giờ. Có thể lát nữa. Có thể trưa nay. Có thể chiều nay. Có thể tối nay.
    -Bà Tẹo.
    -Dạ.
    – Tôi đã làm phiền bà điều gì chưa?
    – Sao cậu hỏi vậy?
    – Bởi vì sẽ thay đổi nhiều đấy.
    – Không có gì thay đổi đâu cậu ạ? Tôi vẫn bán thuốc lá trước cổng nhà cậu, vẫn xin được bán thiếu cho cậu để cuối tháng có món tiền để dành lớn.
    -Cám ơn bà.
    Tôi bấm chuông. Nhà tôi ra mở cổng:
    – Thế nào, bố?
    -Thế nào là thế nào?
    – Còn nước tát không?
    – Cạn rồi. Mỹ thật sự cút rồi. Nhưng em yên tâm. Bằng hữu của chúng ta còn ở lại khá đông. Anh đã gặp Mai Thảo, Nguyễn Tuấn Anh…
    Nhà tôi nín thinh. Tôi vào, gieo người xuống ghế bành, gác chân lên bàn xa-lông. Tôi cảm giác căn nhà của gia đình tôi đã trở thành cái nghĩa địa hoang vắng. Nỗi hiu quạnh đùn lên, đùn lên, dâng ngập trắng xóa. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn rõ cái lẽ phù ảo của đời sống. Nhờ vậy, tôi thanh thản dọn chết. Và tôi còn dọn thêm cả sự “thoát chết, bung ra.” Nếu lúc này có Mai Thảo ngồi đấu hót? Tôi trách tôi đã quên rủ Mai Thảo đi nhìn Sài gòn hấp hối và rủ Mai Thảo về nhà tôi uống rượu. Tôi vẫn còn vài chai Table du roi. Tôi nhớ, mới đây thôi, Mai Thảo tâm sự với tôi:
    – Tôi ở một nơi chốn nào là lòng gửi nơi chốn đó nên xa một nơi chốn là nhớ vô cùng, dẫu nơi chốn cũ chẳng xa gì nơi chốn mới. Thật sự, tôi không thích di tản. Xa quá, xa quá…
    Và Mai Thảo rất lừng khừng chuyện ra đi- Anh ta cứ ra, theo triết lý cù nhầy của Nguyễn Bính “ngày mai ra sao rồi hãy hay.” Mai Thảo tâm sự tiếp:
    – Tôi có ông thày học khá lạ lùng. ông ta đã nói với tôi rằng, người ta chỉ cần sống đến 50 tuổi. Là đủ rồi. Tôi đã 50 tuổi. Sống thêm có lẽ thừa thãi.
    Mai Thảo đã 50 tuổi. Tôi mới 40. Cho nên, dù đã vỡ lẽ phù ảo của cuộc đời, Cứ thèm thuồng “thoát chết, bung ra” trong những giờ phút dọn chết.
    ***
    10 giờ thiếu 10 phút. Chuông điện thoại reo vang:
    -Long hả?
    – Ừ!
    – Chúng nó xuất hiện ở Xóm Gà, Gò Vấp rồi. Trên ấy ra sao?
    -Im lặng.
    -Mày nghĩ xem có nên chở gia đình lên bà Nguyễn Đình Vượng tránh né cảnh tranh tối tranh sáng không?
    -Không cần.
    -Tại sao không cần?
    – Vì bà Vượng cũng bị ném vào biển máu! Nếu ông muốn cùng chết với tôi thì lên đây.
    Đặng Xuân Côn, Thằng Côn, người bạn ấu thời của tôi, người bạn đã, cơ hồ cái bóng, theo sát tôi 30 năm ròng rã, đã chia xẻ vinh nhục với tôi, đã đau khổ vì tôi, đã ôm đau khổ của tôi làm đau khổ của mình. Chúng tôi học tiểu học ở trường Monguillot thị xã Thái Bình. Côn là cháu đích tôn của cụ Đặng Đình Điền, tự Hào Điển, một trong những lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng. Năm 1951, sau khi cộng sản quy định thành phần, giai cấp, mặc dù đã mù lòa, bệnh hoạn, cộng sản vẫn bắt cụ Hào Điển, bỏ cụ vào cái rổ xề, khiêng cụ ra giữa cánh đồng hoang vắng và để cụ chết đói chết khát ở đó. Qua mấy năm tao loạn, chúng tôi lại gặp nhau ở thị xã Thái Bình đổ nát vì tiêu thổ kháng chiến. Tình bạn vẫn khắng khít. Chúng tôi học trung học tại trường Trần Lãm và không ngớt tương tư thị xã đềm êm cũ với những hàng hồi thơm hăng hắc dọc vỉa hè đường phố. Rồi chúng tôi lên Hà Nội trọ học. Mùa hè 1954, tôi về Thái bị kẹt vì Pháp “di tản chiến thuật”. Tôi ở lại chứng kiến quân cách mạng tiếp thu Thái Bình. Rồi hội nhập đời sống mới.
    Cuối tháng 7-1954, Côn trở lại Thái với nhiều ưu tư. Nó không hé miệng nói cho tôi nghe những ưu tư của nó. Chúng tôi thường lên cầu Bo ngắm dòng sông Trà Lý đỏ ngầu phù sa mùa nước lũ. Cầu Bo. cây cầu kỷ niệm của chúng tôi, bị quân Pháp đánh sập nhịp giữa trước đêm rút lui. Người ta bắc cầu giây đi tạm. Côn ở Thái hai tuần lễ và lỉnh tránh mọi công tác… cách mạng. Một buổi sáng nó tìm tôi khi tôi đang bận kê bàn ghế cho lớp học dạy “công nhân” vỡ lòng quốc ngữ. Côn rủ tôi sang Nam Định chơi. Tôi từ chối, vì… công tác khẩn trương. Tôi bảo Côn đợi vài hôm nữa. Nó bỏ về. Rồi nó sang Nam Định lúc nào tôi không rõ. Cuối tháng 8-1954, Nguyễn Thịnh từ Hà Nội về Thái. Tôi hỏi thăm Côn. Thịnh nói Côn đã vào Sài gòn..
    Tôi choáng váng. Côn đã nghi ngờ tôi theo… cách mạng, không dám tâm sự với tôi. Tôi vội vàng chuồn lên Hà Nội, kiếm nhà Vũ Thượng Văn ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, hỏi thăm đia chỉ Côn tại Sài gòn. Tiêu pha hết đồng bạc cuối cùng ở Hà Nội, cuối tháng 9-1954 tôi mới vào Sài gòn, đến phố Heurtaux bên Khánh Hội tìm Côn. Thế là chúng tôi có tháng ngày nhà hát Tây ba đào, có tình yêu lẩm cẩm, có Đỗ Tiến Đức, Hà Huyền Chi… Chúng tôi thêm những kỷ niệm cay đắng vào đời. Sự nghiệp văn chương của tôi, phần lớn, là do Thằng Côn đóng góp. Bằng khích lệ. Bằng cả những đồng tiền mồ hôi của nó. Tập truyện Hoa thiên I)” của tôi, Côn bỏ tiền xuất bản. Nếu có lần nào đền ơn Thằng Côn thì chỉ một lần Thằng Vũ nghiến răng chịu nhục, chịu hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn để ngậm miệng cho Thằng Côn bình yên ngoài nhà tù mà tìm cách đưa vợ con trốn khỏi Việt Nam. Đáng lẽ, Côn ra đi bình yên trước 30-4-75, nó cứ bám sát tôi Cho đến phút chót, nó vẫn lo tôi bị tàn sát trước nhất.
    – Tao nghĩ mày nên đưa vợ con lỉnh chỗ khác.
    -Chỗ nào? Không còn chỗ nào cho tôi ẩn thân cả. Mà tôi cũng cóc cần ẩn thân nữa.
    – Mày đừng chướng.
    -Cúp điện thoại đi!
    Tôi cúp trước, khỏi cần đợi Côn.
    ***
    10 giờ 20 phút. Chuông điện thoại lại reo:
    – Long hả?
    – Ừ!
    – Chúng nó đã lảng vảng khu nhà anh Hoàng văn Đức rồi. Tao lên mày nhé?
    – Hỏi chi nữa!
    Tôi cúp điện thoại ngay. Và, thật sự, kể từ phút này, tôi đã té nhào khói lãng du lênh đênh trên ước mơ, tôi hết dám thèm “thoát chết, bung ra.” Tôi sợ hãi. Tôi trở về với sự sợ hãi 0 giờ 1 phút. Nỗi chết gần kề. Đao phủ và hình cụ của nó đang chờ tôi bên bờ biển máu. Làm thế nào đểà con người được chết ngon lành? Tôi chợt nhớ một truyện ngắn của Jack London, nhan đề Mất mặt. viết về sự dọn chết tuyệt vời của một người không thích chết đau đớn, sợ hãi chết khắc khoải. Câu chuyện như thế này: Một gã phiêu lưu da trắng lạc vào một bộ lạc hung dữ nhất của một vùng Bắc cực. Các bộ lạc ở đây đánh giá trị vĩ đại nhất bằng sự tàn ác nhất. Bộ lạc nào giết kẻ thù chết từng giây, chết đếm nỗi chết từng giây, chết quằn quại, rên la lâu nhất, bộ lạc ấy được tôn vinh và công nhận là minh chủ. Thế thì gã phiêu lưu của Jack London đã rơi vào tay bộ lạc minh chủ. Gã hiểu gã sẽ bị chết co rút mỗi tế bào. Gã cũng hiểu những kẻ tàn ác nhất đều là những kẻ thèm sống “muôn năm”, thèm bất tử, nên gã xin được kéo dài ngày chịu tội để kiếm lá luyện thuốc bất tử. Môn thuốc này bôi khắp mình mẩy, tên bắn vào văng ra, búa bổ xuống nẩy tung, lao phóng trúng cong oằn… Tù trưởng của bộ lạc minh chủ sướng quá, bèn cho gã phiêu lưu đi tìm lá. Gã khôn ngoan, luyện thuốc bất tử thật lâu. Khi đã luyện xong, gã yêu cầu vị tù trưởng thử. Vị tù trưởng sợ, không dám thử. Không ai trong bộ lạc dám thử cả. Tất cả những kẻ hung ác đều sợ chết thảm và đều thích người khác chết thảm. Cuối cùng, gã phiêu lưu tình nguyện thí nghiệm thuốc bất tử của mình. Bộ lạc đồng ý. Gã yêu cầu kê cổ gã trên một 1 húc gỗ tròn và chắc và phải dùng một cái búa sắc như nước do tay lực lưỡng xử dụng. Gã bôi thuốc đầy cổ. Rồi gã dục hạ búa. Nhát búa vung lên, bổ mạnh xuống. Gã phiêu lưu bay đầu. Gã được chết ngon lành. Bộ lạc minh chủ mất mặt, mất ngôi minh chủ và bị các bộ hạ khác khinh bỉ, vì đã để kẻ thù chết sung sướng, chết thanh, chết gọn…
    Cộng sản ác hơn và khôn ngoan hơn bộ lạc minh chủ bị mất mặt trong truyện ngắn của Jack London. Và tôi, tôi không có can đảm dọn cho mình cái chết ngon lành. Tôi sợ luôn cả cái chết ngon lành, cái chết của chiến sĩ, cái chết của liệt sĩ, cái chết của thánh tử đạo. Rốt cuộc, tôi thèm sống, sợ chết. Bởi tôi vừa nhận ra tôi đích thực rằng tôi chỉ là nghệ sĩ. Tôi cần sống sót. “Cậu là nhà văn, cần buôn kinh nghiệm mà bán.” Cao Dao khuyên tôi thế. Tôi cần sống sót. “Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ”? Đỗ Bá Thế dạy tôi thé. Nhà văn không cần thiết tử vì đạo. Vì y vô đạo. Nhà văn không cần thiết tuẫn tiết. Vì y tuẫn tiết sẽ chẳng còn ai sống để viết về những cái chết đẹp trong cõi đời. Nhà văn cần thiết có tác phẩm, và phải là tác phẩm rực rỡ kinh qua mọi sợ hãi, mọi thống khổ mỏi mòn. Nhà văn là người viết về sự sống ngoạn mục, nỗi chết phi thường của người khác, không bao giờ là kẻ trông đợi người khác viết về cái chết, nỗi chết của mình. Do đó, nhà văn bất chấp những kẻ bỉ thử mình, lăng mạ mình đủ điều về sự sống của mình. Rất tự hào và đủ quyền kiêu hãnh để nói, những kẻ bỉ thử, lăng nhục nhà văn là những kẻ không biết viết hay viết chẳng ra gì. Những kẻ này không bao giờ được phục sinh, bởi vì họ không hề có một cái gì đểà lại cho đời sống kế tiếp. Tôi là nhà văn, tôi chẳng lấy gì làm xấu hổ mà công khai nhận mình thèm sống sợ chết. Tôi đã bày tỏ thái độ của tôi rõ rệt trong bài Chút tâm sự của người làm thơ trong tù. Theo tôi, sự tồn tại khác hẳn với sự sống. Tôi chưa thấy một nhà văn chuyên nghiệp nào – nhà văn nuôi mình, nuôi vợ con mình bằng hàng tỉ chữ thao thức viết – khi chết được vinh tôn như một anh hùng, liệt sĩ. Người ta đã chỉ vinh tôn tác phẩm của nhà văn. Tôi cũng chưa thấy ai nhận trách nhiệm nuôi vợ con nhà văn, nuôi nhà văn cả, nhưng người ta cứ bắt nhà văn phải có đủ thứ trách nhiệm, đủ thứ đạo đức, đủ thứ can đảm. Người ta còn bắt nhà văn dấn thân, nhà văn tranh đấu cho đủ thứ quyền của con người, nhưng, mỉa mai thay, cái quyền lợi thiết thực của nhà văn là tác phẩm mồ hôi, tim óc của họ bị đạo tặc công khai tước đoạt, không ai tranh đấu cho nhà văn cả Tôi đã thấy chính xác nhà văn tạo hào quang rực rỡ cho anh hùng, liệt sĩ, thần thánh. Nhân loại đã thờ phụng hình chúa Giêsu vẽ theo trí tưởng tượng của Michel Ange mà không thờ Michel Ange. Những bức tượng, những tranh vẽ trong giáo đường của Léonard de Vinci, của Raphael về Đức Mẹ, về thiên thần đều được kính cẩn thờ phụng cả đấy. Ai đã nói cho nhân loại biết tài năng của Michel Ange, Léonard de Vinci, Raphael? Nhà văn. Nhà văn viết về Thượng Đế. Nhà văn làm ra Thượng Đế. Thượng Đế không làm ra nhà văn. Gần gũi chúng ta nhất, người Tầu và cả người Việt Nam đều đèn nhang, trầm hương xì xụp vái lạy ba anh Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi mà quên nhà văn La Quán Trung đã phong thánh cho ba anh rất lơ mơ trong lịch sử Trung Hoa. Tài năng của nhà văn La Quán Trung đã biến nhân vật tiểu thuyết thành thánh. Không ai thờ La Quán Trung cả. Người ta hằng luận về hào khí Võ Tòng, Lâm Xung mà quên Thị Nại Am; ngợi ca Kiều Phong, Lệnh Hồ Xung, Dương Quá, Quách Tĩnh mà quên Kim Dung. Vân vân… ở thời đại của tôi và ở đất nước tôi, nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc đã phong thánh cho Hồ Chí Minh. Khi đất sét được nặn hóa thánh, thánh tưởng mình thiêng đã bỏ tù những kẻ phong thánh cho mình. Nhân Văn giai phẩm là thí dụ điển hình. Nguyễn Bính có câu thơ mà tôi rất thích: Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ. Cái đám thế nhân mắt trắng có thánh để thờ, có thần tượng để chiêm ngưỡng, có lãnh tụ để suy tôn, có ước mơ để mơ ước, đã không đem gạo nuôi nhà văn, đã không biết ơn nhà văn, lại còn ong óng lời chó dại, lại còn phun phì nọc rắn rết lên án nhà văn, thống trách nhà văn. Vậy thì nhà văn, anh đã sáng suốt nhận ra anh chưa? (Tôi đã nhận ra tôi. Và tôi cho rằng tôi chỉ có trách nhiệm với những thống khổ tôi đã kinh qua, đã thể nghiệm. Tôi không được phép phản bội những oan khiên, những cay đắng, những cô đơn đã soi sáng cuộc đời tôi. Và tôi hiểu rằng nhà văn có quyền phép ghê gớm. Nhà văn đưa thằng bán chiếu Lưu Bị lên ngôi anh hùng và bắt kẻ anh hùng Tào Tháo làm đứa gian hùng. Thế nhân mắt trắng, cái đám ưa hạch sách nhà văn, vấn nạn nhà văn, thị phi nhà văn, chụp mũ nhà văn, sống nghìn đời vẫn không đủ tư cách và khả năng hủy diệt nổi tác phẩm của nhà văn. Nhưng, nhà văn chỉ cần cuốn sách mỏng, viết bằng chân trái, cũng đủ nhốt cái đám gian dối lương tâm vào ngục tù muôn thuở. Đừng có đùa với văn chương Và đừng có rỡn mặt nhà văn. Chưa quán triệt sức mạnh của văn nghệ, học đòi làm lãnh tụ, học đòi mưu đồ quốc sự, đã không biết kính trọng nhà văn còn xúi dục tiểu yêu bôi bẩn nhà văn, quả là bọn cắn hạt gạo chưa vỡ đôi Người ta chỉ đố kỵ niềm vinh quang của nhà văn mà không chịu cảm thông nỗi nhục nhằn nhà văn phải kiên nhẫn chịu đựng, chịu đựng không ngừng. Và nhà văn làm việc cho ai, tác phẩm của nhà văn để lại cho ai, người ta cứ giả vờ không thèm biết. Rồi mỗi năm bao nhiêu tiến sĩ tốt nghiệp và bao nhiêu năm mới nẩy sinh một danh sĩ, người ta cũng cứ giả vờ không biết. Và nhà văn chờ đợi cái chết vì tác phẩm của mình thì không ai biết. Nhưng cần gì ai biết mình sống ra sao, viết trong những hoàn cảnh nào, nhà văn, có vẻ như kiêu ngạo để không lý tới cái hôm nay. Mà đúng thế, nhà văn đã không lý tới cái hôm nay, cũng chẳng thèm lý tới những phán xét ngu xuẩn của thời nay. Trên sầu đạo và ngược dòng nghịch lũ oan khiên, nhà văn mang tâm sự của con gọng vó, âm thầm bước, âm thầm lội. Và âm thầm đợi chết. Như tôi. Không ai chia xẻ với tôi nỗi sợ hãi cả. Ngày nào đó “thoát chết, bung ra”, tôi viết những trang sách ghi lại cảm giác rụng rời của tưởng tượng nỗi chết, cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào, tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim, chắc chắn, tôi vẫn được chiếu cố tận tình bởi soi mói của cú vọ, bởi phẩm bình của quạ diều. Có phải đó là sự trả nghiệp, theo nhà Phật?
    ***
    Đặng Xuân Côn chở vợ con lên. Tôi cũng tính xong sổ đời. Thấy chẳng để lại vết tích nào dơ bẩn trên 200 số báo Tuổi Ngọc và suốt 1 5 năm viết văn, làm báo, tôi cam đành đợi chết. Nói cam đành vì tôi thèm sống, sợ chết. Để cực tả, phải viết: Tôi thèm sống vô cùng. Lúc này tôi mới cảm Tư Mã Thiên và phục Tư Mã Thiên. Than ôi, Tư Mã Thiên chịu nhục hình, cố bám lấy cái sống hèn chỉ vì chưa lo xong Sử ký. “Ta hồ văn chương chi sự thốn tâm thiên cổ Nếu Tư Mã Thiên không chấp nhận hình phạt thiến, không vượt lên sự khinh bỉ của thể nhân mắt trắng, không cô đơn những ngày tháng còn lại, sẽ muôn đời không có Sử ký của Tư Mã Thiên. Kẻ làm việc cho muôn đời chấp nê chi cái lẽ sống hèn, sống hùng. Những đứa chê bai Tư Mã Thiên đều đã chết như cây cỏ. Chúng nó sống hùng lắm, sống hùng miệng lưỡi mà chẳng có gì để lại: Chúng nó chê Tư Mã Thiên sống hèn, sống nhục nhã tội bị thiến, không dám chết giữa pháp trường, nhưng nhờ biết sống hèn, sống nhục, Tư Mã Thiên có Sử ký. Tư Mã Thiên được phục sinh bằng Sử ký. Và bằng Sử ký, Tư Mã Thiên bất tử.
    Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn
    Từ đó, cung giương một mũi tên
    Theo hồn tài tử. tên bay vút
    Ngạo nghễ hành tinh Tư Mã Thiên
    Những đứa chê ông chết cả rồi
    Nhưng ông sống mãi như mây trôi
    Hai nghìn năm ngỡ chùng gang tấc
    Mảnh đất oan này lại có tôi…
    Sử ký và Tư Mã Thiên đã đủ soi sáng thân phận nhà văn và tác phẩm hoàn thành bất chấp nghịch cảnh, bất chấp mọi hoàn cảnh, bất chấp cung cách sống, bất chấp cảnh ngộ sống chưa? Có lẽ, với ngự sử vô học, với “sa đích phê bình văn nghệ rẻ tiền”, cần được giáo dục thêm nữa. Tôi không thừa thì giờ nói với hai hạng người vừa kể. Tôi tâm sự với nhà văn. Nhà văn có sức mạnh tuyệt luân. Nhà văn là con người như mọi con người. Y cũng phải chết thôi. Có thểà, y sẽ bị chết theo cung cách Gandhi đã bị chết. Nhưng tác phẩm của y không bao giờ chết. Y có thể chịu hình phạt nhục, chịu phán xét ngu xuẩn như Tư Mã Thiên, như Gheorghiu. Chính sự chịu nhục sống hèn (hiểu theo nghĩa bần tiện của thế nhân mặt trắng) của nhà văn đã làm tác phẩm của y rực rỡ và tác phẩm của y phục sinh y sau cái chết. Nhà văn, có thể, chết thảm như Khái Hưng và Lan Khai. Cộng sản đã nhận chìm Khái Hưng, Lan Khai dưới nước mà không thể nhận chìm tác phẩm của tác giả Hồn bướm mơ tiên, Dọc đường gió bụi, của tác giả Cái hột mận, Lầm than… dưới nước. Cộng sản kiêu ngạo nhất loài người, đầy đủ quyền uy và biết chơi bạo lực mà vẫn ngậm ngùi sợ hãi văn chương – tư tưởng: “Cơ sở giai cấp của bọn phá hoại còn tồn tại lâu dài trong xã hội ta. Khi đã hết giai cấp, thù địch vẫn còn. Vì tư tưởng của giai cấp có sức sống dai hơn giai cấp tính ra nó”* . Nghĩ cũng tội nghiệp cho đám lãnh tụ ễnh ương của quyền uy ảo tưởng và đồ đệ cứ hăm hở đòi hủy diệt nhà văn và tư tưởng của nhà văn. Phải nói rõ rệt là nhà văn cố gắng soi sáng những mê muội của thời đại mình. Thời đại mê sảng, cố tình mê sảng thì người đời sau sẽ làm công việc thương người đời xưa. Nguyễn Du còn ngờ vực, 300 năm sau, có ai hiểu ta chăng, thì nhà văn xá chi những hạch hỏi vô lý, vô nghĩa, vô học, vô ơn của cóc nhái thời thượng. Song, cần thiết, nhà văn phải nhận ra mình, phải nhận ra sức mạnh tuyệt luân của mình và phải biết xử dụng, dám xử dụng sức mạnh đó để chế ngự bạo lực đến từ bất cứ phía nào, ở bất cứ nơi đâu, dẫu sự chế ngự có mang tới những cay đắng nghiệt ngã, những oan khiên ứa máu, những ngộ nhận nứt tim. Và cả nỗi chết. Và luôn sự thèm sống hèn đểà thoát chết. Tôi nghĩ rằng cái cứu cánh biện minh cho cung cách sống chết của nhà văn là tác phẩm y để lại cho đời sống. Trong bộ cassette tưởng mộ Victor Hugo, một vị viện sĩ của Viện Hàn Lâm Pháp quốc đã múa một tuyệt chiêu: “Nước Pháp không được phép nói tha thứ những bê bối trong cuộc đời của Victor Hugo mà phải có bổn phận chấp nhận những bê bối ấy. Vì sự nghiệp văn chương của Hugo đã làm rạng rỡ cho đất nước Pháp và dân tộc Pháp.”
    Tôi không ở nước Pháp, không là nhà văn Pháp. Georges Simenon viết nhiều, viết khỏe, chẳng cần phải quan tâm văn chương, tư tưởng của Simenon, Jean-paul Sartre đã vinh tôn khả năng sáng tạo của Simenon. Tôi cũng viết nhiều, viết khỏe, thì chỉ nghe Sài gòn dè bỉu và đợi Hà Nội vào tàn sát. Và tôi thèm sống hèn. Để hy vọng có một Sử ký như Tư Mã Thiên.
    ***
    10 giờ 30. Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đặng Xuân Côn mở radio thật lớn. Tôi lặng người trong giọng nói cơm nguội của Big Minh. Tôi mất miền Nam từ giây phút này.
    – Tắt radio đi, Côn?
    – Đểà nghe xem còn tin tức gì nữa.
    – Hết rồi.
    – Chưa.
    -Tôi bảo hết rồi. Tắt đi?
    Tôi nhìn Côn:
    – Có thể ông thoát biển máu. Vợ con tôi cũng có thể thoát biển máu. Tôi thì khó thoát.
    Côn an ủi tôi:
    – Mày sẽ thoát.
    Tôi lắc đầu:
    – Khó lắm. Tôi biết tôi. Cộng sản biết tôi. Những kẻ muốn làm tốt đẹp cho xã hội miền Nam sẽ bị quăng xuống biển máu. Nếu ông thoát…
    Côn chớp mắt:
    – Tao hiểu tao sẽ phải làm gì cho mày.
    – Cho vợ con tôi thôi.
    -Mày muốn tao sẽ làm gì?
    – Đưa vợ con tôi rời khỏi Việt Nam.
    Im lặng. Hai chúng tôi nhìn nhau, nước mắt ứa ra. Trong phòng ngủ, hai người đàn bà và những đứa trẻ con khóc nức nở. Tôi biết, cả Sài gòn đang khóc….
    NẾU CUỘN BĂNG NHỰA GHI LỆNH ĐẦU HÀNG CỦA DƯƠNG VĂN MINH THẤT LẠC
    Mỗi biến cổ lịch sử xảy ra thường kèm theo những chuyện ngoài lề. Và những chuyện ngoài lề được truyền kể, được thêu dệt thành huyền thoại. Một trong những chuyện ngoài lề dưới đây không phải là huyền thoại. Mà là chuyện ở quán cà-phê vỉa hè sau ngày 30-4-1975. Người ta thuật cho nhau nghe, người ta luận bàn và người ta không thèm quan tâm đến cái vô lý của câu chuyện.
    ***
    10 giờ, Phủ tổng thống gọi cho Đài phát thanh sài gòn, yêu cầu gửi gấp sang một chuyên viên ghi âm. Anh chuyên viên đem máy móc, băng nhựa đến trình diện ông Giám Đốc Nha báo chí Phủ tổng thống. Anh vào phủ bằng lối góc ngã tư Nguyễn Du – Thủ Khoa Huân – Huyền Trân Công Chúa. Giám đốc Nha báo chí hướng dẫn anh chuyên viên tới phòng họp của Tổng thống. Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng cộng sản tại đây. Kẻ viết lệnh đầu hàng là Lý Quý Chung, Tổng trưởng Thông tin của nội các Vũ văn Mẫu, “danh sĩ” của môn phái Hoa Lan. Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng xong, anh chuyên viên Đài phát thanh đem băng về đài. Anh ta lái chiếc Honda 50. Cuốn băng lịch sử được giao cho phòng phát thanh và được ra lệnh phát vào đúng 10 giờ 30 phút.
    ***
    Câu chuyện vắn tắt trên đây ví như Kinh Xuân Thu của Khổng Tử. Các vị Đông Lai, các Mao Tôn Cương “phản động” đã “bác nghị”, đã “lời bàn” sôi nối.
    – Tôi không tin đại sự lại giản dị thế.
    -Dương văn Minh hiểu gì đại sự? ông thử nhìn kỹ coi, bọn Minh sún có thằng nào ra cái giống người?
    -Tôi nghĩ lệnh đầu hàng trực tiếp truyền thanh.
    -Trực tiếp con khỉ! Chúng nó quýnh hét, đâu kịp chuẩn bị. Phải tin tôi, thằng chuyên viên Đài Sài gòn là bạn tôi.
    -Là bạn ông à?
    -Ừ! Nó lái Honda “chở” lệnh đầu hàng. Tôi tự hỏi, nếu nó bị đụng xe, chết ngỏm, lịch sử sẽ ra sao? Hoặc nó phẫn nộ, vất cha nó cuốn băng ghi lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, về ngủ với vợ, lịch sử sẽ ra sao?
    -Chắc chắn Sài gòn nổ lớn.
    -Nổ lớn, tôi đã mong mỏi. Rốt cuộc, chỉ tại thằng chuyên viên mẫn cán, ngu đần, sợ lệnh lạc mà cộng sản vào Sài gòn ngon ơ. Tức muốn hộc máu mồm.
    – Tôi nghe nói cộng sản đã vô Dinh Độc Lập từ đêm trước, chúng dí súng sau ót Dương văn Minh, bắt Minh đọc lệnh đầu hàng.
    – Không có vụ ấy.
    ***
    Nếu câu chuyện kể trên đúng 80%, nếu anh chuyên viên của Đài phát thanh Sài gòn bị đụng xe chết giữa đường Thống Nhất, nếu anh chuyên viên quên Dương văn Minh, quên lệnh đầu hàng về ngủ với vợ, tôi tin chắc rằng lịch sử khác đi một chút. Nó cũng sẽ bị sang trang nhưng không đến nỗi sang trong buồn tủi. Sẽ có máu, nhiều máu của Sài gòn 30-4-1975. Và đó là những dòng máu cần thiết cho Sài gòn ngày mai…

  5. #5
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (CHƯƠNG 5)



    10 giờ 40, mười phút sau lệnh đầu hàng cộng sản của Dương văn Minh, Đặng Xuân Côn và tôi ra vỉa hè trước cửa nhìn Sài gòn chờ đợi cộng sản vào. Tại sao chưa đánh đã đầu hàng? Tôi nghe rõ câu hỏi nghẹn ngào đó trong những ánh mắt ngơ ngác của người Sài gòn quanh tôi. Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ. Dân Xóm Lách kéo lên. Lề đường Công Lý, gần nhà tôi đông nghẹt. Dẫu lòng ngổn ngang bối rối, tôi còn chút hạnh phúc trên những khuôn mặt buồn bã của đám dân “vô sản” Xóm Lách. Không một nụ cười. Khó tìm ra niềm hân hoan. Ngay cả những người đã truy nã kỹ thân phận mình, sự nghiệp của mình ròng rã hai mươi năm Việt Nam cộng hòa, thấy chẳng dính líu gì tới “nợ máu” với cộng sản, cũng hồi hộp vì “biển máu.” Chưa bao giờ tôi thấy, kể từ nhận Sài gòn làm quê hương, một cảnh tượng Sài gòn não nề đến thế. Tôi có cảm tưởng Sài gòn đang sợ hãi cơ hồ tôi đang sợ hãi, cơ hồ mọi người đang sợ hãi. Xe cộ ngưng chạy. Những gia đình có “máu mặt” rút hết vào nhà. Cổng đóng kín mít. Cửa sổ gác cao he hé mở. Ai đã nhìn tôi qua ô cửa kính mắt lệ mờ?
    Tôi sinh ra ở miền Bắc, thị xã nhỏ bé, êm đềm Thái Bình. ấu thơ của tôi, trải dọc theo hàng cây hồi thấp và vương vấn cùng khắp cầu Bo. Niên thiếu của tôi lãng đãng vùng trời Hà Nội. Tôi khôn lớn ở Sài gòn. Sài gòn cho tôi những bước xuống đời cay đắng để tôi làm cuộc đời tôi Sài gòn cho tôi tình yêu, cho tôi thi ca, cho tôi tiểu thuyết. Công sinh không nặng bằng công dưỡng. Sài gòn đã nuôi dưỡng tôi. Sài gòn là mẹ tôi. Mẹ Sài gòn săn sóc tôi hai mươi năm. Tôi đã làm gì cho Sài gòn? Đã làm gì, vẫn chưa đủ, vẫn chỉ mới là cái hữu hạn trong cái vô hạn. Bây giờ, đứa con phóng đãng ôm ghì mẹ mình bằng đôi tay rời rã, nước mắt ròng ròng. Đứa con bất lực, đứa con hèn hạ, đứa con khiếp nhược, đứa con mải rong chơi nỡ để mẹ mình lạc vào tay thù. Mà chỉ biết khóc. Mà chỉ rên rỉ Mà chỉ luyến tiếc hàng me xanh, ghế đá công viên và những cuộc tình phù phiếm. Tôi hiểu những giọt nước mắt của tôi vô nghĩa, chẳng dám khóc, chẳng thiết khóc, mà mắt tôi cứ căng mọng và lệ cứ rơi. Tôi đã biết khóc vì Sài gòn, vì một thành phố kỷ niệm.
    Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm: 19 người. Mười chín người lính, mười chín người chiến sĩ, đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gầm, lầm lũi bước. Tối hôm qua, tôi đã thấy quân ta ngang qua đây. Quân ta và xe tăng. Hình ảnh người lính sửa xích tăng đã in vào tiềm thức tôi. Tối hôm qua, tôi đã thấy tướng Vĩnh Lộc chủ chiến. 10 giờ 30 hôm nay, tôi nghe Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Và, sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, tôi lặng người ngắm toán quân chiến bại. Cảm giác đầu tiên của tôi là ngậm ngùi. Tôi nhớ một câu thơ của Corneille: “ô cruel souvenir de ma gloire passée” mà Thế Lữ cảm hứng viết: “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu? Thời oanh liệt đâu? Những chiến tích rực rỡ dội vang sông núi của quân lực Việt Nam cộng hòa, những chiến tích làm bàng hoàng thế giới, làm vỡ mộng xâm lược của cộng sản, nay còn đâu? Tôi không bao giờ quên người Do Thái đã bầy tỏ công khai với nhân loại rằng, họ mơ thành người An Lộc. Tôi vốn không ưa các chế độ, các nhà lãnh đạo, một số tướng lãnh bất tài vô học, tham nhũng của miền Nam sau 1963, nhưng, luôn luôn, tôi yêu mến và cảm phục quân đội. Chế độ đã xóa bỏ chế độ, lãnh đạo đã hạ bệ lãnh đạo, quân đội tồn tại như quê hương. Bởi vì quân đội bảo vệ quê hương. Quân đội không phải là công cụ riêng của chế độ, của lãnh tụ. Một số tướng lãnh hèn mạt, vì quyền lợi cá nhân, vì địa vị khốn kiếp, đã bán mình cho chế độ, cho lãnh tụ để bán xương máu của quân đội và làm nhạt nhòa cái kiêu sa của người lính. Kẻ bán xương máu của lính nhiều nhất, kẻ dùng quân đội làm thang lưng leo lên danh vọng là Nguyễn văn Thiệu.
    Bây giờ, Thiệu đã bỏ đi. Cao văn Viên đã bỏ đi. Vô số tướng lãnh đã đào ngũ chạy trốn. Dương văn Minh đã đầu hàng. Quân đội tiếp tục chiến đấu. Quân đội sẽ tiếp tục chiến đấu, nếu Dương văn Minh không hám cái hư vị “tổng thống miền Nam trung lập” đến nỗi thỏa hiệp với cộng sản. Tham vọng bằn tiện của Dương văn Minh còn là tham vọng của vài ông tướng, vài ông nghi sĩ, vài ông dân biểu “nhất định” ở lại làm Tổng trưởng. Bùi Tường Huân là một thí dụ. Những người khác đã đi học tập cải tạo, đã vượt biên sang âu châu, Mỹ châu thì xin miễn kể tên, sợ mất ép-phê chống cộng của quý vị ấy.
    Thế giới đã thiếu sự công bình tối thiểu để khắc nghiệt lên án sự tan hàng bệ rạc của quân đội ta. Họ không thèm quan tâm tới sự tôn trọng kỷ luật tối đa của quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân đội không tuân lệnh đầu hàng của Dương văn Minh mà tuân lệnh đầu hàng của vị Tổng thống nước Việt Nam cộng hòa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân đội nước nào cũng thế cả, trừ trường hợp người ta làm cách mạng, làm đảo chính lật đổ Tổng thống. Tôi yêu quân đội của đất nước tôi. Tôi không xuẩn ngốc phán xét quân đội. Tôi có bổn phận ngưỡng mộ quân đội quốc gia. Và tôi đau đớn nhìn quân đội của tôi đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gằm, lầm lùi bước. ông Nguyễn văn Thiệu không chứng kiến thảm cảnh này. Các ông tướng đào ngũ không chứng kiến thảm cảnh này. Tôi nghĩ các ông ấy chẳng nên nói về quân đội, nhắc đến quân đội nữa.
    Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ Xóm Lách, chạy lên đuổi theo toán quân, (tôi quả quyết quân đội ta không thua trận. Quân đội ta mãi mãi chiến thắng, mãi mãi anh dũng. Chế độ Nguyễn văn Thiệu thua trận, các ông tướng đào ngũ thua trận và chính sách Mỹ ở Việt Nam thua trận). Bà mẹ già ôm chặt lấy một người lính:
    – Mày đi đâu nữa con? Sao không về nhà? Hết chiến tranh rồi, hòa bình rồi. Về thôi, con?
    Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ mình ra:
    – Con không thể về được. ‘
    Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:
    – Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.
    Người lính lắc đầu:
    – Con không thể về được.
    Toán quân đã băng qua ngã tư Công Lý – Yên Đổ. Bà mẹ vẫn níu chặt người con chiến sĩ lại:
    – Mày đã đi đánh nhau bao lâu nay, có được hưởng gì đâu?
    Người lính nghẹn ngào:
    -Con không thể nào bỏ các bạn con.
    Bà mẹ rên rỉ:
    -Bỏ hết, bỏ hết đi con, về với má, không sao đâu.
    Người lính gỡ mạnh tay mẹ mình ra:
    – Má về đi, con phải theo các bạn con.
    Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến hữu. Bà mẹ đứng bên đường mắt đẫm lệ, nhìn theo con mình…
    ***
    – Rồi người lính có về không?
    Đó là câu hỏi của ký giả Patrick Sabatier của nhật báo La libération đã đến tận nhà tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số báo đặc biệt cho ngày 30-4-1985. Tôi đã kể câu chuyện trên nhằm trả lời câu hỏi “Điều gì còn làm ông nhớ Sài gòn nhất”?
    – Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm tù đầy trở về, tôi hỏi thăm người Xóm Lách, được rõ là bà mẹ còn sống, và người con vẫn biệt tăm…
    – Anh ta đi đâu?
    – Tôi nghĩ rằng anh ta đi làm cuộc chiến đấu mới, không cần viện trợ Mỹ, cố vấn Mỹ và lính Mỹ. Dân tộc tôi cần thiết cuộc chiến đấu mới mẻ này.
    – Tại sao?
    – Nó mới đích thực là cuộc chiến đấu của dân tộc tôi nhằm tiêu diệt chế độ cộng sản, chủ nghĩa cộng sản để giành lại tự do, dân chủ, độc lập cho Việt Nam. Cuộc chiến đấu mới của dân tộc tôi loại bỏ hết tay sai của Mỹ, của ngoại bang. Như thể, chúng tôi gọi là một cuộc chiến đấu có chính nghĩa, tuy cô đơn, lãng mạn nhưng tổ tiên chúng tôi đã lãng mạn, cô đơn chiến đấu.
    -Rất đẹp, rất cao quý.
    – Ông ủng hộ cuộc chiến đấu mới của chúng tôi chứ?
    -Vâng, tôi hết lòng.
    Số báo đặc biệt của La libération, một tờ báo khuynh tả, xuất bản ngày 30-4-1985 viết về Việt Nam đã như gáo nước lạnh hắt vào mặt đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Số báo này có đăng thêm một đoạn trong bài thơ Sài gòn ra đường của tôi trên trang nhất.
    ***
    19 người lính đi tới đâu, đi về đâu, tôi không biết. Hình ảnh bi thảm của họ khiến lòng tôi se lại nhưng cũng sưởi ấm tâm hồn tôi. ít ra, tôi còn được tự hào là người Sài gòn, người miền Nam. 19 người lính quốc gia đã anh dũng chiến đấu cho tới phút giây nghe lệnh đầu hàng. Vẫn 19 người lính này, biểu tượng của quân lực Việt Nam cộng hòa bất khuất, tháo bỏ quần áo Mỹ, giầy nón Mỹ, tiếp tục chiến đấu sau lệnh đầu hàng. Tôi đã thèm sống hèn, càng thèm sống hèn hơn. Để nói lên được cái hào hùng của người lính, cái tâm sự não nề của người lính, những con người không được phép chiến thắng, những con người bị tước đoạt quyền chiến thắng cộng sản. Thế giới đã không có hân hạnh nhìn 19 chiến sĩ Việt Nam. Thế giới đã không có hân hạnh nghe người lính giã từ mẹ mình lên đường nhập cuộc chiến đấu mới. Thế giới, cái thế giới mù lòa, điếc, ngọng đã bảo chúng ta thua trận đã miệt thị quân đội chúng ta tan hàng bệ rạc. Tôi đợi, tôi đã đợi, tôi đang đợi những kẻ tự nhận mình sống hùng viết những trang tâm sự của người lính sau 30-4-1975.
    Thú thật, tôi đã chai lỳ từ dạo cắm sừng nhọn vào đầu đề đương đầu với cuộc đời và người đời. Thế mà tôi còn khóc được hôm nay, khóc như kẻ mau nước mắt nhất. Giống hệt người mẹ anh lính, tôi cũng mắt đẫm lệ nhìn theo anh ta.
    – Buồn quá hả, Long? Côn hỏi.
    -Buồn hơn một chuyện tình buồn trong tiểu thuyết. Tôi nói.
    -Nếu mày còn sống và có cơ hội viết nhỉ?
    – Ở đâu?
    -Mỹ.
    – Ông mơ mộng hơn cả tôi rồi.
    – Sống phút nào mơ mộng phút ấy.
    11 giờ, đường Công Lý nườm nượp những người đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun cắm cúi rảo bước. Nhiều người chạy. Đó là lính, là sĩ quan của chúng ta. Họ đã liệng súng đạn. Họ về nhà mình, nhà thân nhân của mình. Khuôn mặt họ, sự sợ hãi pha trộn sự phẫn nộ. Dân chúng hai bên đường im lặng. Không một nụ cười rè bỉu. Không một ánh mắt khinh khi. Người ta đã thù ghét chế độ, thù ghét Nguyễn văn Thiệu và tập đoàn thống tri tôi mọi cùng đám tướng lãnh dốt nát, hống hách nhưng chẳng bao giờ người ta thù ghét quân đội* . Chỉ thiếu những tiếng hoan hô nồng nhiệt, những tràng pháo tay bất tận như những lần quân ta chiến thắng sau mỗi chiến dịch trở về thành phố. Tiếng nhạc quân hành, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay, lúc này, là tiếng vỡ của trái tim, tiếng nứt của mạch máu, tiếng rơi của nước mắt. Lúc này, cả thành phố thấy mình chiến bại, cả thành phố chia xẻ nỗi đau chiến bại, bởi vì, những kẻ đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun là anh, là chồng, là cháu, là em của người Sài gòn. Của Sài gòn. Có phải khi người ta đã quá sợ chết thì người ta hết biết mình sợ chết? Tôi bỗng quên nỗi sợ chết của tôi. Hoặc là tôi đã chết rồi, linh hồn tôi đậu trên chân đất của người lính tìm về nhà mình. Người lính ấy, hai mươi năm ròng rã đứng giữa biên giới sống chết, hai mươi năm chưa một lần cúi đầu, nửa tiếng đồng hồ trước vẫn ngẩng mặt và, lúc này… Tôi hết biết mình sợ chết. Hơn cả thế, tôi biết mình nên sống hèn, không nên sống hùng để cùng bị chết hèn lãng nhách.
    -Côn!
    -Hả?
    -Ông nhớ sau hôm đảo chính 1945 chứ?
    -Nhớ.
    -Thực dân Pháp đã chạy dài, đã lột bỏ quần áo, giày vớ, đã chân đất, đội nón mê cắm cúi bước. Đã bị phát xít Nhật truy lùng.
    – Chúng ta đứng bên kia cầu Bo nhìn các ông Tây kéo xe bò chở đất, các bà Đầm khóc sướt mướt và phát-xít Nhật cười hoan hỉ.
    -A, chúng ta đã vỡ lẽ chiến bại và chiến thắng từ năm mười tuổi.
    Chúng tôi trở vào nhà, đóng cổng kỹ lưỡng. Chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc máy.
    – Alô, alô, tôi muốn nói chuyện với Duyên Anh.
    -Chính tôi.
    -Phạm Lê Phan đây…
    Phạm Lê Phan, nhà văn, nhà thơ, tác giả nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các tạp chí Bách Khoa. Chi Đạo từ 1960 là bút hiệu của thượng sĩ Phạm văn Kiệm, phục vụ tại Cục tâm lý chiến. Anh ta đã viết thi phẩm Chiến ca mùa hè mà Phạm Duy phổ nhạc. Chiến ca mùa hè như những trang quân sử bằng thơ ghi lại mùa hè đỏ lửa.
    – Mày chạy không thoát à?
    -Ừ.
    – Tao gọi bạn bè, chẳng còn thằng nào. May quá, còn mày.
    – May cái con c…? Mày chưa về nhà ư?
    -Về hả? Tao là thượng sĩ nhưng là chiến sĩ, hơn cả, tao là kẻ sĩ. Tao đại diện quân lực Việt Nam cộng hòa chuẩn bi tiếp xúc với Việt cộng.
    -Cục mày hết người… lớn rồi à?
    – Còn mỗi mình tao. Tao là tân Cục trưởng. Cục trưởng cút lâu rồi. Cục phó Phan Trọng Thiện vừa về… nhà.
    – Mày cũng nên về đi.
    -Tại sao tao lại phải về? Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè. Tao thủ trái lựu đạn, ngồi tại văn phòng Cục trưởng Tâm lý chiến thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị của quân lực Việt Nam cộng hòa. Chai whisky trên bàn vơi quá nửa rồi. ông tu chất cay. Bọn nó vào mà tử tế, ông giao Cục, dở trò hỗn láo, ông cho lựu đạn nổ… Tao sẽ gọi mày sau. Thôi nhé!
    Người lính văn nghệ, thượng sĩ Phạm Lê Phan không muốn cộng sản vào Cục tâm lý chiến như vào nhà hoang. Anh ta ngồi đợi kẻ thù tới tiếp thu. Không còn cấp bậc và huy chương nào tưởng thưởng anh ta cả. Anh ta có quyền về nhà, được phép về nhà mình mà không ai dám kết tội anh ta đào ngũ hèn nhát. Nhưng mà “lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè.” Anh ta kiêu hãnh nói “tại sao tao phải trở về”? Sẽ chẳng một ai đủ liêm sỉ bắt chước Phạm Lê Phan tự vấn lòng mình “Tại sao tôi lại đào ngũ”. Tôi ngồi hút thuốc, chờ điện thoại của Cục trưởng Tâm lý chiến: Thượng sĩ Phạm văn Kiệm.
    XÁC T-54 BÊN KIA CẦU THỊ NGHÈ
    “Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè”. Tôi biết rõ những người lính ấy. Họ là nhà báo vô danh, là kép cải lương thứ yếu, là ca sĩ tân nhạc hạng xoàng. Họ còn là thanh niên Chợ Lớn, thanh niên con nhà giàu sợ hãi chiến trường, được ẩn thân ở Cục Tâm lý chiến dưới sự “bảo trợ” của tướng bà Cao văn Viên. Hai hạng người dưới, lương quân đội lĩnh xong phải cộng thêm tiền gia đình nộp cho người bảo trợ hàng tháng, chưa kể khoản tiền nặng ra mắt và được chấp thuận bảo trợ. Lính văn nghệ cơ hữu của Cục tâm lý chiến chỉ có bổn phận canh gác giữ an ninh cho Cục ngày và đêm. Sự canh gác mang tính cách trình diễn, dù đã học 9 tuần quân sự ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Vòng đai an ninh của Cục bé nhỏ. Đã có lực lượng bảo vệ an ninh của Cục an ninh quân đội, của Đài phát thanh Sài gòn lo giùm hết. Vậy bên đây cầu Thị Nghè, kế sát Cục, là nơi lính văn nghệ canh gác ban đêm để bảo vệ Đài phát thanh quân đội, tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến, văn phòng của các quan văn nghệ… Nói ra hơi buồn, lính văn nghệ gác cầu, chỉ nhằm trình diễn tinh thần kiểng và tạo oai phong cho các quan tâm lý chiến chơi xì-phé, mạt chược những đêm trực.
    Truyện kể về những người lính văn nghệ gác cầu Thị Nghè sáng 30-4-1975 như sau: Xe tăng cộng sản vào thành phố Sài gòn để vô Dinh Độc Lập bằng hai ngả. Ngả thứ nhất: Từ ngã tư xa lộ Hàng Xanh, T-54 của cộng sản chia đôi. Không nhiều gì đâu. Có 10 chiếc thôi. 5 chiếc rẽ phải vô Hàng Xanh, qua đường Bạch Đằng, qua đường Chi Lăng, Võ Tánh Phú Nhuận, bọc lên đường Cách Mạng, Công Lý. 5 chiếc rẽ trái vô Thị Nghè, qua cầu, qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua đường Thống Nhất. Chiếc thứ nhất bị lính văn nghệ chặn đánh ở bên kia cầu. Với súng M- 16, lính văn nghệ đã nhắm T-54 mà khạc đạn. Lúc ấy, 10 giờ 45 phút, sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh 15 phút. Lính văn nghệ đã gây cảm hứng cho quần chúng. Sự phẫn nộ nổi lửa, nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Thị Nghè bốc phừng phừng. Bất chấp cái chết, thanh niên Thi Nghè đã viết những trang sử đấu tranh mới bằng những chai xăng châm lửa ném tới tấp vào T-54 của kẻ thù. Lửa cháy trên nóc T-54. Lửa cháy dưới T-54. Lửa cháy xích T-54. Lửa cháy đàng trước T-54. Lửa cháy đàng sau T-54. Lửa Thị Nghè bất khuất. Lửa Thị Nghè của Sài gòn. Ngọn lửa tiên phong của cuộc chiến đấu mới. Chiếc T-54 dẫn đầu đứng khựng. Nó bất động. Năm người bộ đội xe tăng, công cụ tội nghiệp của cộng sản, đã chết thảm dính chùm trong một sợi xích khốn kiếp. Đã chết mà không biết mình bị mê hoặc:
    Năm ngón tay trên một bàn tay
    Như năm người con cùng một mẹ
    Năm ngón tay trên một bàn tay
    Không xa rời nhau
    Như năm người con cùng một mẹ
    Năm người bộ đội trong xe tăng
    Như năm ngón tay trên một bàn tay
    Như năm người con cùng một mẹ
    Không xa rời nhau
    Sống bên nhau và chết bên nhau*
    Một chiếc T-54 bị bốc cháy. Là thừa thắp sáng cuộc chiến đấu mới. Là thừa mở mắt thế giới đui mù. Bốn chiếc sau phải dừng lại, ngơ ngác. Kẻ thù hoảng sợ. Nó hung hãn khạc đạn. Nó trấn áp. Nó vất vả qua cầu Thị Nghè. Hà Nội phải hiểu họ không có đại thắng. Bởi vì, theo Ngô Khởi, chiếm được đất mà không chiếm nổi lòng người thì không bao giờ chiến thắng cả. Xác chiếc T-54 nằm nhục nhã bên kia cầu Thị Nghè trọn ngày 30-4 và những ngày kế tiếp là biểu tượng bất hủ của lịch sử nòi giống và của quân sử Việt Nam cộng hòa.
    Tôi nhớ đã xem một phim, hình như tên phim là El Alamein do Frederick Stafford thủ vai đại úy quân đội ý, diễn tả một trận đánh tuyệt vọng giữa đám quân đồn trú ở sa mạc Phi Châu với đạo quân xe tăng của tướng Montgomery lừng danh Anh Quốc. Tăng của tướng Montgomery đã phơi xác lớp lớp. Và rồi, kẻ chiến thắng đã nghiêng mình kính cẩn chào tinh thần chiến đấu quả cảm tới phút chót của kẻ chiến bại. Người cộng sản, chắc chắn, thiếu sự hào sảng đó. Và, tôi còn thấy, thiếu cả những trang sách vinh tôn những người lính văn nghệ đã chết hay vẫn sống đã hạ chiếc T-54 của cộng sản bên kia cầu Thị Nghè buổi trưa ngày 30-4-1975 của những ông quan văn nghệ tự cho mình sống hùng trong ngục tù cộng sản rồi thoát ra ngoại quốc. Tôi cố tìm ở hồi ký dầy cộm của họ. Chẳng thấy gì ngoài sự kể khổ, lên án cộng sản man rợ và phô diễn cung cách sống bần tiện của mình.

  6. #6
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    SÀI GÒN NGÀY DÀI NHẤT (CHƯƠNG 6)



    Chuông điện thoại reo. 11 giờ 40 phút. Tôi nhấc máy:
    – Phạm Lê Phan đây.
    – Sao?
    – Xong rồi. Tao đã giao Cục cho họ. Tốt đẹp cả. Tự nghĩ mình chỉ là thượng sĩ nên tao không đủ tư cách làm Hoàng Diệu. Tao về. Thôi nhé!
    Phạm Lê Phan đã về. Tôi rủ Côn ra đường. Vỉa hè nhà tôi, vỉa hè bên kia phố đã ngổn ngang mũ sắt, mũ vải, giầy vớ, ba lô, súng đạn. Không ai thèm lượm nhặt. Không ai nỡ lượm nhặt. Vợ tôi và ba đứa con cũng mở cổng ra đường. Khi nhìn quân trang, quân dụng, võ khí của quân đội ta xép lớp trên vỉa hè, vợ tôi òa lên khóc. Các con tôi khóc theo. Những tiếng khóc, những giọt nước mắt muộn màng. Tại sao người ta chỉ biết khóc vào hoàng hôn? Cảnh tượng bây giờ, đã thay đổi chút chút. Tôi thấy có nhiều người đeo băng vải đỏ ở cánh tay phải. A, những người này tôi đều biết. Họ ở dưới chợ Xóm Lách. Họ đã là nhân dân tự vệ chọc chó, hái trộm khế nhà tôi và gây phiền nhiễu cho dân lương thiện. Họ đã là những tên sống cù bơ, cù bất ngoài vòng pháp luật. Họ đã là ông thợ may hiền lành, bà chạp phô dễ tính. Họ đeo băng đỏ chờ đợi hoan hô cách mạng, hoan hô quân giải phóng. Họ thuộc sư đoàn 304 tân lập* . 11 giờ 45 phút, xe tăng cộng sản thị uy trên đường Công Lý. Nó tiến vào thành phố theo ngả Hàng Xanh, Bạch Đằng, Chi Lăng, Võ Tánh, rồi rẽ sang Cách Mạng, qua cầu Công Lý. Nó ngang qua nhà tôi. Năm chiếc. T-54 treo hoa ny-lông phía trước. Nóc xe đầy nhóc lính 304 phất lia lịa cờ đỏ sao vàng và cờ trên đỏ, dưới xanh, giữa sao vàng. Bên hông xe đeo tòng teng lồng gà, lồng vịt. Hẳn là tăng cộng sản đã dừng lại để nhận quà của “nhân dân” và để lính 304 leo lên… giải phóng Sài gòn. Gà và vịt cũng hãnh diện tham dự chiến dịch Hồ Chí Minh!
    Những người đeo băng đỏ dơ cao tay, hét lớn “Hoan hô bộ đội giải phóng”. Tôi có thể làm chứng nhân rất trung thực cái phút giây buồn bã này. “Nhân dân” đã không hoan hô theo. “Nhân dân” đứng trố mắt nhìn. “Nhân dân” suy nghĩ gì khi họ gặp xe tăng cộng sản, tôi không biết. Nhưng tôi đọc từ trong ánh mắt của họ một nỗi bẽ bàng. Chính nỗi bẽ bàng đó đã giữ tình nghĩa Việt Nam nguyên vẹn. Và Sài gòn không hề có đấu tranh giai cấp Xe tăng đi qua một lát thì mô-lô-tô-va và GMC Trung quốc tiến vào. Bộ đội miền Bắc đội nón cối. Quân giải phóng đội mũ tai bèo. Tất cả đứng trên xe cười thỏa mãn, vẫy tay rối rít. “Nhân dân” vẫy tay chào theo phép lịch sự. Tuyệt nhiên, “nhân dân” không hoan hô, dù cò mồi cách mạng 304 đã lấn xuống đường hô những khẩu, hiệu chào mừng quân giải phóng. Không còn cách mạng “diễn binh” nữa, “nhân dân” tản mạn về nhà mình. Đường phố nổi bật lính sư đoàn 304 đeo băng đỏ.
    Tôi bảo vợ tôi đưa các con vào nhà, đóng cổng, khóa kỹ rồi rủ Đặng Xuân Côn đi bộ lên Sài gòn.
    -Ông thấy gì?
    – Thấy gì?
    -Tôi sợ biển máu của nhân dân, không sợ biển máu của cộng sản. Rất may, nhân dân không thích biển máu.
    – Sẽ không có biển máu.
    -Phải, biển máu sẽ là đại dương nước mắt.
    Dọc vỉa hè số lẻ đường Công Lý, chúng tôi rảo bước. Tôi không thấy đi, thấy khát. Quân trang, quân dụng, võ khí từng đống, từng đống trên vỉa hè. Tôi đã no nghẹn ngào. Mười tuổi, tôi đi đếm xác đồng bào tôi chết đi tháng ba năm ất Dậu, 1945. Cái thị xã Thái Bình nhỏ bé của tôi, xác chết đói cùng khắp. Gầm cầu. Xó chợ. Vỉa hè… Tôi đã nhìn đồng bào tôi chết từ từ. Tôi đã nhìn người mẹ chết, đứa bé nhay vú mẹ một lúc rồi chết theo. Hồi đó, tôi chỉ biết sợ hãi, thương xót mà chưa vỡ lẽ đau đớn. Những người bạn thơ ấu của tôi như Côn, như Luyến đã cố gắng làm những gì mình có thể làm được để cứu đói Và chúng tôi, đã đi ăn mày xin cơm cứu đói. Hôm nay, 30-4-1975, ba mươi năm sau, 40 tuổi, tôi lại nhìn quần áo, nón mũ, súng đạn của quân đội nước tôi nằm ngổn ngang, chất đống trên vỉa hè Sài gòn. Tôi đã vỡ lẽ đau đớn. Nón mũ, giầy vớ, quần áo của quân đội tôi yêu dấu, cơ hồ xác chết đói năm 1945. Đời tôi sao lại phải chứng kiến nhiều thảm cảnh thế? Nước mắt ròng ròng, hai chúng tôi bước nhanh.
    – Long, cuộc chiến đấu chống cộng sản của dân tộc ta thật sự bắt đầu từ năm nào?
    – 1951.
    – Tại sao?
    – Vì cuối 1950, cộng sản quy định thành phần, giai cấp Quốc gia bị loại bỏ khỏi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập, tự do.
    – Như thế, dân tộc ta đã chống cộng sản 24 năm. Bốn năm chống cộng sản với Pháp thì mất nửa tổ quốc. Hai mươi năm chống cộng sản với Mỹ thì mất cả tổ quốc và nuốt nhục.
    – Chúng ta có thể xin cơm cứu đói 1945 mà không thể cất dấu xác chết 1975.
    – Chúng ta làm gì?
    – Làm gì? Lúc nãy, Phạm Lê Phan nói nó không đủ tư cách làm Hoàng Diệu nên nó về nhà nó. Ông muốn làm gì? Trong một biến cố lịch sử nào đó, có những người cần chết và những người cần sống. Chúng ta không có cả hai. Chúng ta chỉ có những kẻ sợ chết, cho nên, chúng ta thiếu sự chết cho sự sống.
    -Mày nghĩ sao, nếu Trần văn Hương không chịu “hy sinh” cho Dương văn Minh?
    – Có thể có đánh đấm.
    – Rồi sao?
    – Ông ta sẽ sống như Dương văn Minh thôi.
    – Nếu mày là Dương văn Minh?
    Những kẻ như Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh, ngoài tham vọng quyền bính còn tham vọng đi vào lịch sử. Dương văn Minh đã có cơ hội duy nhất đi vào lịch sử, nhưng ông ta tình nguyện khước từ. Từ một tên lính của thực dân Pháp, nhờ sự chuyển mùa của đất nước khan hiếm tài năng, ông ta trở thành tướng lãnh của chế độ Ngô Đình Diệm, trở thành người anh hùng của các chiến dịch tiêu trừ loạn quân Bình Xuyên, Hòa Hảo… Tên lính Xuân tóc đỏ của quân đội, đáng lẽ, đứng ở đó là đẹp rồi. ông ta không chịu. ông ta nhúc nhích vì ngỡ mình là Nasser. ông ta bị dìu vào tội ác thoán nghịch. Và Dương văn Minh thỏa chí Quốc trưởng. Triều đình của Dương văn Minh thật phù du. Tên vũ biền không thích truy nã thân phận mình, ông ta tưởng ông ta có… đế mạng. Bị tước đoạt quyền bính, bị đuổi khỏi đất nước, Dương văn Minh cựa quậy quay về giành bằng được tước vị tổng thống. ông ta thỏa mãn. Thánh nhân thường đãi kẻ khù khờ. Thánh nhân đãi thêm đứa ngu dốt. Đất nước phải có đến thứ Dương văn Minh gánh vác, kể như đất nước tàn tạ. Dương văn Minh, trong diễn văn nhận chức vụ Tổng thống, biết nói về Trằn văn Hương: “Thầy đã hy sinh nhiều rồi” mà không biết ông ta đã già rồi và ngôi vị tổng thống ngáp ruồi vào giờ thứ hai mươi lăm của ông ta là cáo phó tuyệt vời bế mạc cuộc đời mình. Dương văn Minh chỉ cách biên giới lịch sử một sợi tóc: Nếu Dương văn Minh không ngu, lệnh đầu hàng của ông ta sẽ như thế này: “Đồng bào thân mến… Tôi, Dương văn Minh, tổng thống nước Việt Nam cộng hòa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng hòa, tưởng đã đem những ngày cuối cùng của đời tôi chuyển vần lại vận mệnh của đất nước vào thời kỳ nghiêm trọng nhất của lịch sử, nhưng suy nghĩ lại, tôi thấy không đủ tài năng, e rằng xương máu của đồng bào đổ thêm vô ích. Vậy tôi tuyên bố đầu hàng cộng sản và xin đem cái chết của tôi để tạ tội cùng đồng bào, cùng chiến hữu, cùng tổ quốc…” Và Dương văn Minh tự sát ngay tại chỗ, ngay sau khi tuyên bố đầu hàng. Phát súng Minh tự bắn vào đầu ông ta cả nước sẽ được nghe trên vô tuyến truyền thanh, cả thế giới được nghe. Và đó là cái chết cần thiết cho cái sống. Dương văn Minh bất trí. ông ta không nên làm hàng tướng, vì sự sống của ông ta vô tích sự.*
    – Không có so sánh hay “nếu” quái đản ấy. Dương văn Minh là tên lính tẩy chưa vỡ lẽ sống chết.
    Hai chúng tôi vẫn cắm cúi bước. Lính của sư đoàn 304 xuất hiện khắp đường phố Sài gòn. Triết lý sống cỏ đuôi chó mà Lý Cẩm Dương đề cập trong cuốn Mạ nháy và chế độ mới đang là cái mốt ở đây. Nhưng cỏ đuôi chó mới chỉ mọc ngoài đường phố và là thứ cỏ dân giả. Những con thò lò trí thức chờ đợi quay. Góc độ còn tùy hoàn cảnh. Không thể thiếu cỏ đuôi chó vương giả. Mỗi biến cố lịch sử, chúng ta lại thấy lòi mặt một hạng người không ra cái giống người. Cái hạng người này sáng tạo thứ nhân sinh quan đốn mạt. Chỉ cần cái miệng hét lớn. Họ đã hoan hô Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại. Họ đã hoan hô hụt Nguyễn Chánh Thi đảo chính Ngô Đình Diệm. Họ đã hoan hô Dương văn Minh tàn sát Ngô Đình Diệm. Họ đã hoan hô Nguyễn văn Thiệu loại bỏ Nguyễn cao Kỳ. Họ đã hoan hô hụt cộng sản tổng tấn công Mậu Thân. Trí thức cả đấy. Bây giờ, họ chuẩn bị hoan hô cách mạng “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào”…
    Sư đoàn 304 tự đảm trách việc hướng dẫn lưu thông đường phố, bảo vệ an ninh, trật tự công cộng. Cách mạng vô sản thường ồn ào nhờ cỏ đuôi chó. Tôi nghĩ, cỏ đuôi chó đã mọc khắp vỉa hè Sài gòn. Chúng tôi đã đến Dinh Độc Lập. Lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam đã thay thế cờ vàng ba sọc đỏ. Nó không phất phới bay theo khí thế giải phóng. Nó rũ rượi trong ngày thiếu nắng, thiếu gió. Chiếc xe tăng thứ nhất theo ngả Thị Nghè, Hồng Thập Tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thống Nhất đã vào khuôn viên Dinh Độc tập ngon lành. Cổng mở rộng sẵn. Không hề bị T-54 ủi sập như báo chí cộng sản tường thuật. Sư đoàn 304 đông đầy hai bên cổng dinh. Dân chúng đứng xa ngó vào. Lác đác ở vườn sao hai bên đường, vài người đứng nhìn về phía sau nhà thờ Đức Bà. Ở phố Hàn Thuyên nhỏ hẹp, dân chúng thập thò ngoài cửa. Cộng sản vào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.
    Chúng tôi băng sang nhà thờ Đức Bà. Một người quen vỗ vai tôi, nói nhỏ:
    – Cách đây nửa tiếng, quân ta nghênh giặc ở sau lưng nhà thờ.
    – Quân ta?
    – Một trung đội nhẩy dù quyết tử.
    – Có diệt được chiếc T-54 nào?
    – Không.
    – Đánh đấm ra sao?
    – Đánh lấy chết. Chết vinh. Tôi vừa mới khô nước mắt. Trung đội nhẩy dù chết hết. Giặc cũng chết bộn. Xác quân ta và xác giặc đã được mang đi. Chiến trường đã rửa sạch vết máu. Ông ra mà xem, đường còn ướt mèm.
    – Ngoại quốc có quay phim?
    – Họ tới không kịp. Chỉ quay T-54 vào Dinh Độc Lập. Tôi ngỡ chúng ta đã bất hạnh cả đến phút chót.
    – Tại sao?
    – Bọn ký giả ngoại quốc chỉ quay những cảnh có lợi cho cộng sản.
    Đặng Xuân Côn và tôi lần ra phía sau nhà thờ Đức Bà. Quả thật, một khúc đường Thống Nhất cạnh vườn sao còn ướt mèm. Cộng sản đã hiện diện khắp cơ cấu quốc gia. Bọn nằm vùng chỉ đợi thời cơ hành động. Chúng đã kịp thời đưa xe vòi rồng tới tải xác chết, rửa đường. Đề chứng minh với thế giới rằng, quân đội ta tan hàng bệ rạc, cộng sản vào Sài gòn như vào chỗ không người.
    – Côn.
    – Hả?
    – Ai sẽ viết trận đánh này? Ai sẽ vinh tôn lính nhẩy dù, lính Việt Nam cộng hòa? Ai biết ngọn ngành trận đánh mà viết? Chắc chắn, phải có vài trang tiểu thuyết. Ai sẽ viết những trang này? Tôi đã là bạn của lính nhẩy dù. Nguyễn Minh Tiến, Hà Huyền Chi, Hoàng Ngọc Liến, Vũ Khắc Niệm, Phạm Huy Sảnh… Bạn tôi cả đấy, lính nhẩy dù cả đấy.
    – Vậy mày cần sống.
    – Phải, dù sống hèn.
    NHỮNG THIÊN THẦN MŨ ĐỎ CỦA CHƯƠNG CÒM, DZŨNG ĐAKAO, BỒN LỪA, HƯNG MẬP
    Một vài trang nhỏ mọn dưới đây trích từ truyện tuổi thơ Nhánh cỏ mộng mơ của tôi viết năm 1985 ở Paris mà nhà xuất bản Nam á Paris đã phát hành. Tôi không muốn thế hệ con cháu tôi quên trận đánh danh dự này. Và tôi, tự cho mình còn thiếu nhiều thành thật khi vinh tôn những người lính mũ đỏ. Vậy nên để tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên, đôn hậu bày tỏ hết lòng ngưỡng mộ lính quốc gia bằng những rung động thuần khiết, nguyên khối của các em. Với riêng tôi, vài trang truyện nhỏ mọn này nằm trong ý nghĩ: Sự thật nói ra không ai tin, thì nó biến thành tiểu thuyết. Lịch sử bỏ quên thì vẫn còn dã sử, huyền sử…
    ***
    Hai chiếc xe cam-nhông từ đâu không rõ, chạy tới đậu ngay chỗ bùng binh, sau nhà thờ Đức Bà. Lính trên xe nhẩy hết xuống. Dzũng Đakao vui mừng:
    -Lính nhẩy dù!
    Bốn ông nhóc đứng dậy, tiến sát ra lề đường. Những thiên thần mũ đỏ còn nguyên vẹn là thiên thần. Vị đại úy chỉ huy rất trẻ, mai vàng rực rỡ trên cổ áo. ông cằm cây gậy nhỏ, say mê nhìn quốc kỳ ủ rũ trên nóc Dinh Độc Lập. Rồi ông xoay lưng lại, quan sát phía Phủ Thủ Tướng. ông hơi cúi đầu giây lát. Đoạn, ông ngó thằng chiến hữu của mình, dõng dạc nói:
    – Lần cuối cùng, tôi nhắc nhở anh em: Dương văn Minh đã đầu hàng. Nhiệm vụ của anh em chấm dứt. Ai muốn về nhà cứ thản nhiên về. Anh em không nợ nần gì tổ quốc nữa.
    Những người lính nhẩy dù đứng nghiêm, đồng loạt trả lời:
    -Chúng tôi ở lại chiến đấu với đại úy. Vì danh dự của người lính.
    Đại úy dơ tay chào:
    -Cám ơn anh em. Chúng ta chuẩn bị nghênh địch.
    Dzũng Đakao, Chương còm, Hưng mập, Bồn lừa phóng tới ôm chặt lấy vị đại úy.
    – Thưa chú, tên chú là gì? Chương còm hỏi.
    Vị đại úy xoa đầu bốn ông nhóc, giọng cảm động:
    -Lính nhẩy dù. Mà cháu hỏi tên chú làm chi?
    Chương còm nắm tay vị đại úy:
    – Mai này, tên chú sẽ thay tên đại lộ Thống Nhất.
    -Chú tin không?
    Vị đại úy chớp mắt:
    – Chú tin, thế hệ các cháu phải làm lại lịch sử, phải xóa bỏ dấu tích ô nhục hôm nay.
    Dzũng Đakao nói:
    -Chúng cháu đặt tên chú cho con đường này. Chú cho biết tên chú đi.
    Vị đại úy vỗ nhẹ vai Dzũng Đakao:
    -Tên chú gắn liền với lính nhẩy dù. Lính nhẩy dù là tên chú. Các cháu nhớ đặt tên đại lộ này là đại lộ Mũ Đỏ nhé? Bây giờ chạy thật nhanh về nhà. Sắp nổ súng.
    Bồn lừa hỏi:
    – Cháu có thể giúp chú việc gì?
    Vị đại úy lắc đầu:
    – Các cháu đã giúp chú rồi, đã làm tăng ý nghĩa chiến đấu của chú, đã sưởi ấm lòng chú. Chú không còn cô đơn nữa. Nào chạy lẹ, các cháu yêu dấu…
    Bốn ông nhóc co cẳng chạy. Nhưng chúng không chạy về nhà, mà núp dưới gốc cây đầu đường Alexandre de Rhôdes. Phía bên kia, đường Hàn Thuyên, dân chúng cũng đang lấp ló dưới những gốc cây sao. Nhiều người vào nhà thờ Đức Bà để xem chiến tranh qua kẽ hở của mấy khung cửa bên hông. Nhiều người tụ tập ở sân Bưu Điện. Xe tăng cộng sản, từ xa lộ Biên Hòa, vô Sài gòn hai lối Lối thứ nhất: Hàng Xanh, qua Gia Định, qua đường Chi Lăng, đường Võ Tánh đến Tổng Tham Mưu, rẽ trái qua đường Cách Mạng, qua cầu Công Lý. Rồi chạy thị uy khắp phố Sài gòn. Mười hai giờ trưa, xe tăng vô lối này đã xuất hiện. Lối thứ hai: Thị Nghè, qua cầu Thị Nghè (bị chặn đánh). Mãi gần bốn giờ mới lại qua cầu Thị Nghè, qua Hồng Thập Tự rẽ trái, qua Nguyễn Bỉnh Khiêm, rẽ phải, qua Thống Nhất để vào Dinh Độc Lập.
    – Xe tăng cộng sản rét rồi.
    – Bọn điên ấy không rét đâu.
    -Bao giờ chúng đến?
    -Cứ từ từ.
    Vị đại úy đứng ngạo nghễ giữa đại lộ Thống Nhất, khẩu Colt của ông trễ xuống bên đùi. Lính của ông đứng sau những thân cây sao với tư thế sẵn sàng khạc đạn..
    -Chú ấy oai quá.
    – Cứ như shérif đợi bọn cướp.
    – Tao hồi hộp thấy mồ.
    – Im lặng.
    -Thằng nào chạy ra, ngó xuống Sở Thú xem chúng nó vô chưa?
    – Tao.
    – Để Bồn lừa đi. Mày mập chạy đâu nổi, Hưng.
    Bồn lừa cắm cổ chạy ra đường Thống Nhất. Nó chạy vào ngay, hổn hển:
    – Rồi, rồi, sắp tới!
    Tiếng xe tăng nghiến xích sắt trên đường nhựa nghe rõ dần rồi sôi sục trong tâm hồn bốn ông nhóc. Như chính mình tham dự trận đánh, Dzũng Đakao hét:
    – Nó kia kìa.
    Chiếc xe tăng dẫn đầu đã đến bùng binh. Nó có vẻ làm bộ làm tich. Nó có vẻ khinh khi, ngạo mạn. Đằng sau nó, đám bộ đội nón cối, dép râu ngụy trang cành lá trông dễ ghét. Chúng ôm súng AK lò mò bước y hệt chúng diễn trò khỉ. Vị đại úy đâu rồi? Chiếc xe tăng thứ hai lừ lừ bò ở cửa Bộ Tư Pháp. Một phát súng nổ. Lính nhẩy dù xuất hiện. Không thèm nấp. không thèm nằm, lính nhẩy dù đứng thẳng, bước tới, chắc tay súng, nhằm xe tăng và kẻ thù nhả đạn xối xả. Vị đại úy đó, thần tượng của Dzũng Đakao, Chương còm đó, sát cánh chiến hữu, phóng nhiệt tình và danh dự vào trận chiến cuối cùng. Để trả lời thế giới: Chúng tôi không đầu hàng. Bọn Mỹ và bọn tướng phường chèo khiếp nhược đầu hàng. Lính Việt Nam không biết đầu hàng. Chiến trường kết thúc mau lẹ. Vị đại úy và hơn ba mươi người lính nhẩy dù gục chết trên đại lộ Thống Nhất. Máu của họ, máu Việt Nam anh dũng, bất khuất đã thấm đỏ đường lịch sử tháng 4. Lính nhẩy dù, tại sao anh không chạy trốn ở phi trường, ở tòa đại sứ Mỹ, ở bờ sông? Tổ quốc đã cho anh cái gì? Dân tộc đã cho anh cái gì? Ngôi sao nào trên cầu vai anh, trên mũ anh? Bảo quốc huân chương nào, Bắc đẩu bội tinh nào trước ngực anh?
    -Thế là xe tăng nó vào Dinh Độc Lập!
    Bốn ông nhóc, nước mắt đầm đìa, thằng nọ nhìn thằng kia mếu máo.
    Xe tăng nghiến lên xác chết của lính nhẩy dù. Chúng nó thù hận cả xác chết. Bọn bộ đội phân tán, bao quanh khu vườn sao. Dzũng Đakao và Chương còm muốn tới vuốt mắt vị đại úy và những người lính cũng không được. Chương còm thầm thì:
    – Vâng, mai này, đại lộ này sẽ mang tên Mũ Đỏ và chỗ các chú chết sẽ là Đài Tưởng Niệm Anh Hùng. Cháu hứa, các cháu hứa…

Trang 1/2 12 cuốicuối

Similar Threads

  1. Cái Duyên Văn Võ
    By Longhai in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-08-2016, 02:24 AM
  2. Duyên kiếp
    By Longhai in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 11-28-2015, 02:22 AM
  3. Duyên Số
    By dnchau in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 11-03-2015, 02:34 AM
  4. Duyên Mộng - Trần Kim Bằng
    By saomai in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-18-2015, 07:59 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •