Remember ?

Trang 1/9 123 ... cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 52

Tựa Đề: Trang Truyện Ngắn - Hai Hùng SG

  1. #1
    Moderator
    Longhai's Avatar
    Status : Longhai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Mar 2009
    Posts: 3,036
    Thanks: 0
    Thanked 24 Times in 8 Posts

    Default Trang Truyện Ngắn - Hai Hùng SG

    Bùa Yêu


    Hai Hùng SG



    Lời TG: Tình cờ nghe Một XNV của đài Radio nọ, anh đã tản mạn cùng thính giả về tuổi trẻ thật vui của anh và những người bạn. Trong đó kỷ niệm vui nhất của anh và các bạn được "Thầy" cho một đạo bùa yêu. Đạo bùa này linh nghiệm ra sao, xin mời theo dõi câu chuyện phóng tác này nhé.


    Tôi còn nhớ như in trong tâm trí tôi những thằng bạn thân thiết nhất trong đời của mình, nào là Tâm, Mẫn, Thành,Tựu. Vũ là tôi thêm vào danh sách này chúng tôi thành ngũ quỷ mà thời bấy giờ nơi giảng đường đại học các nhóm khác thầm ao ước được có cách học cách chơi như nhóm ngũ quỷ chúng tôi, bởi chúng tôi tuy không cùng quê quán, có đứa ở tận miền Bắc xa xôi, có thằng sinh ra và lớn lên nơi vùng đất miền Trung cằn khô sỏi đá, vùng đất mà dân gian mình thường ví trên đầu môi là nơi "Chó ăn đá, gà ăn muối", ý nghĩa chính xác của câu ví trên như thế nào tôi không rõ lắm, nhưng nôm na tôi biết họ diễn tả vùng đất đầy khốn khó mà người dân sống nơi này. Dĩ nhiên không thiếu thằng bạn ở miền Tây sông nước, nơi phù sa bồi đắp cho cây ngọt trái lành, tôm cá ê hề ăn không hết phải làm khô làm mắm, còn tôi thì quê ở một tỉnh miền Tây nhưng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Sài Gòn thì đương nhiên là dân Sài Gòn chánh gốc "Miến điện" rồi phải không các bạn.

    Như tôi đã nói, chúng tôi là cư dân khắp mọi nơi trên ba miền của dãy đất hình chữ S, đất nước mến yêu của mình mà mọi người ai nấy đều yêu mến, tuy giọng nói và cách thức sinh hoạt có khác nhau nhưng chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, thậm chí chia sẻ cho nhau những niềm vui nỗi buồn thầm kín nhất trong lòng, khi hữu sự xảy ra cho ai trong nhóm ngũ quỷ thì y như rằng tinh thần "Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ" được nhóm chúng tôi thể hiện đúng tinh thần câu trên kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, do đó mà các nhóm khác thèm cách sống của nhóm họ như nhóm chúng tôi là vậy.

    ***

    Cái tuổi chúng tôi thời bấy giờ nhìn đâu cũng toàn màu hồng trong cuộc sống, trong lớp chúng tôi được các thầy cô truyền chi những kiến thức và những điều hay lẽ phải để ở đời, tuy vậy đôi lúc cho chúng tôi cũng được các thầy cô vạch cho chúng tôi thấy mặt trái của cuộc đời trong một số vấn đề, mục đích nhằm giúp chúng tôi trang bị thêm mớ "hành trang" để bước vào đời sau này.

    Tuy phải bù đầu bù cổ học hành, nhưng đôi lúc chúng tôi cũng dành một góc trong con tim để chứa đựng hình ảnh của cô bạn gái học cùng lớp, thời bấy giờ muốn thổ lộ tình cảm với các cô nàng chúng tôi cảm thấy thật khó khăn, vì các cô nàng gương mặt lúc nào cũng khó đăm đăm qua đôi mục kính, có lần tôi định bụng cố gắng làm quen với cô nàng tên Duyên, mà kể cũng lạ trong lớp không thiếu gì các cô chẳng những tên rất đẹp mà còn đẹp về nhan sắc rất tuyệt vậy mà tôi lại thích cô Duyên, sau này tôi nghiệm lại chắc vì tôi tự kỷ ám thị với tên Duyên do tôi rất thích bài hát "Thà như giọt mưa" của nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác phổ thơ của anh Nguyễn Tất Nhiên, tôi thích nhất câu :

    "Khiến người tên Duyên đau khổ muôn thiên".

    Vì lẽ đó nên tôi thầm thích và manh nha ý nghĩ trong đầu phải làm quen bằng được nàng Duyên của tôi.

    Qua một vài cử chỉ để có cớ làm quen với cô nàng, một hôm tôi đánh bạo đến bên nàng tôi vờ hỏi bài :

    - Duyên à cho anh hỏi chút nhé, anh thấy môn Triết sao khó nuốt quá, còn Duyên thì sao ?

    Cô nàng lườm tôi một cái, vẫn với gương mặt khó đăm đăm, tay tháo đôi mục kính ra khỏi khuôn mặt, mắt nàng nhìn thẳng vào tôi nàng phán một câu xanh rờn :

    - Khó nuốt thì dễ thôi, chỗ nào ông thấy khó nuốt chịu khó hớp vô ngụm nước cho trơn cổ rồi nuốt ngon lành ngay thôi.

    Nghe người trong mộng trả lời kiểu móc họng, tôi sượng sùng trong lòng nhưng cũng có giữ cho bình tĩnh trả lời :

    - Trời, trời. Anh hỏi thiệt mà, Duyên "móc lò" anh chi vậy tội nghiệp anh mà.

    Những tưởng "ca bài ca con cá" nàng sẽ cảm động trước sự chân tình của mình, không ngờ nàng phán thêm câu nữa khiến tôi "tắt đài" luôn:

    - Mấy ông nói ai mà tin cho được, cũng bài đó, cũng thầy đó sao người khác lãnh hội được, còn mấy ông lại "than trời trách đất", ngũ quỷ mấy ông xem lại mình đi...

    Tưởng đâu mình vô duyên bạc phước nên không gần gũi được với người trong mộng của mình, ai dè đâu hôm chúng tôi tham dự buổi tiệc liên hoan trước khi nghỉ Tết, khi tên nào cũng là đà hơi men đứa nào cũng thú thật vẫn còn "Phòng không chiếc bóng", lúc này trên gương mặt đứa nào cũng phảng phất nỗi buồn khôn nguôi.

    ***

    Từ ngoài cổng thằng Thành chạy nhanh vào khu nhà trọ nơi nhóm ngũ quỷ chúng tôi ở thuê, bằng cái giọng hối hả nó nói :

    - Mấy ông ơi ! Thằng Tiến lớp kế bên ngày mai nó về Phước Long quê nó, nó kêu tui về rủ rê mấy ông cùng đi cho vui, xe cộ ăn uống nghỉ ngơi nó lo hết, tụi mình khỏi phải lo gì cả, mấy ông chuẩn bị nghe, năm giờ sáng khởi hành đó.

    Nghe cái tin này chúng tôi đứa nào cũng vui ra mặt, tôi thầm nghĩ trong bụng :

    "Đứa nào cũng đang thất tình, kệ nó đi chơi xa một chuyến cho thanh thản trong lòng"

    Tôi bèn đáp :

    - Vậy thì hay qúa, chuẩn bị đi mấy ông, ngày mai mình đổi gió cho khỏe người để chuẩn bị bước vô kỳ thi nhé.

    Cả đám đồng lòng hô to :

    - Hoan hô thằng Tiến, hoan hô hoan hô.

    ***

    Thế là bộ sậu ngũ quỷ chúng tôi lên đường, chiếc xe hơi cũ kỹ cũa ba thằng Tiến cũng không tệ, chúng tôi chen chúc ngồi chật như niêm, sau và giờ xả tốc lực Bác Bảy tài xế đưa chúng tôi đến quê nhà của thằng Tiến, trước khi về nhà thằng Tiến, bác Bảy lái xe ghé vào chợ Phước Bình bác đãi chúng tôi những tô hủ tiếu thật ngon của vùng sơn lâm chướng khí, ăn xong chúng tôi xin bác Bảy cho chúng tôi dạo vòng quanh chợ miền núi buôn bán ra sao, cũng để cho xe nguội máy, bác đồng ý để chúng tôi dạo một vòng chợ cho thư giản gân cốt sau một đoạn đường dài.

    Chợ miền núi đơn sơ, hàng hóa không nhiều, nhưng những món hàng nơi phố thị cần mua thì tìm đỏ con mắt như : Thịt thú rừng, Nai, cheo, mễn. v.v.., măng le, mật ong rừng thứ thiệt mang mùi thơm ngào ngạt, có người bán mật gấu, khô khỉ, kỳ nhông kỳ đà.

    Khi dạo đến hàng cuối chợ chúng tôi được hai vợ chồng anh người Thượng gọi í ới :

    - Mấy chàng trai ơi ! Ghé vô ghé vô thỉnh bùa đi, có lá bùa này trong tay thì con gái theo nườm nượp, rẻ lắm rẻ lắm.

    Nghe tiếng rao hàng của anh Người Thượng là lạ, sẵn dịp cả đám đang thất tình, tôi khều thằng Tiến lại hỏi nhỏ nó :

    - Ông Tiến nè ! Anh này bán bùa yêu kìa, ông là thổ địa ở đây ông hỏi ổng giá cả và cách thức xài bùa ra sao.

    Lâu lâm thằng Tiến mới về quê một lần, nó cũng "Ù ù cạc cạc" như chúng tôi nhưng thấy tôi nhờ vả thì nó cũng làm tài lanh làm như nó rành anh này như rành sáu câu vọng cổ mà nó thường hát cho chúng tôi nghe trong những đêm hè oi ả ở khu nhà trọ, Nó tiến đến rồi cất tiếng hỏi anh người Thượng :

    - Anh là Người Stieng ở Sóc Bù Tam, xã Đa Kia ra bán phải không ?

    - Ờ phải rồi, Dớ có mua bùa về để yêu không, tui bán rẻ cho, hiệu nghiệm lắm nghe, đây nè bà vợ tui nè hồi trước bả ghét tui dữ lắm, tui bỏ bùa bả một cái bả theo tui tới bây giờ, bả đẻ cho tui gần chục con nít rồi, mua đi hiệu nghiệm dữ lắm.

    Bà vợ anh Người Thượng nghe chồng nói thì làm ra vẻ mắc cỡ đưa tay nhéo bắp vế non anh ta một cái khiến ông chồng đau đớn la lên :

    - Cái gì nữa đây bà, chục con nít rồi bây giờ còn đòi tui khều nữa hả, không có nữa đâu để bùa đó tui khều bà khác cho vui.

    Bà vợ nghe xong câu nói trên bà dùng hai tay đánh thùm thụp vào lưng bồ tượng của ông chồng, rồi cả hai cùng cười vang khiến chúng tôi cũng cười hùn vào thật vui.

    Thằng Tiến hỏi giá cả và cách sử dụng, hai bên đồng ý mua và bán sáu đạo bùa yêu này, anh ta chỉ cách xài như sau, nếu thầm thương trộm nhớ cô nào, hoặc muốn ghẹo ai chỉ cần rờ tay vào đạo bùa này rồi lấy bàn tay đó khều ai mà mình muốn chinh phục thì họ sẽ mê người khều họ như điếu đổ, mua xong mấy đạo bùa này chúng tôi đứa nào cũng mừng ra mặt, tôi thầm nghĩ chuyến này em Duyên của tôi chạy đâu cho thoát bởi đạo bùa của anh nguời Thượng dễ mến kia.

    ***

    Trên đường trở về Sài gòn, ngồi trên xe tôi móc đạo bùa ra xem và trong bụng nghĩ thầm :

    "Không biết ổng làm bùa bằng thứ gì mà hiệu nghiệm dữ vậy? "

    Sau lớp giấy bóng kiếng trắng là một miếng vải màu đỏ, một vài mẩu cỏ khô vàng, vài ba hạt lúa, một tờ giấy màu vàng nho nhỏ có vẽ chi chít hàng chữ gi thật lạ lẫm, tôi nghĩ chủ yếu bùa linh thiêng là do tờ giấy vàng này, chứ mấy thứ kia tìm đâu mà chẳng có, nếu đơn giản thì cần gì phải mua một lúc sáu đạo bùa, chỉ cần mua một cái rồi về nhà mình làm nhái theo chắc cũng linh ứng.

    ***

    Quay lại lớp học với tâm trạng phấn chấn vì đứa nào trong ngũ quỷ cũng thủ một đạo bùa, chuyến này chắc mẩm chúng tôi sẽ cho mấy nàng biết thế nào là lễ độ, thằng Thành còn làm cao nó nói với cả bọn :

    - Chuyến này em Thúy năn nỉ tao dữ dội lắm tao mới siêu lòng, còn không tao khều mấy em đẹp như mơ ở bên lớp của thằng Tiến cho khỏi phí đời trai.

    Thấy thằng Thành có ý định "được chim bẻ ná, được cá quên nôm" tôi bèn khuyên bảo nó :

    - Thôi ông ơi ! Con Thúy coi vậy nó cũng biết điều lắm, mầy khều nó được rồi hãy giữ lấy, ông "thả mồi bắt bóng" coi chừng không đâu ra đâu thì hối hận không kịp nha.

    Giờ giải lao đã đến, tôi hồi hộp đưa tay vào túi quần vân vê mãi đạo bùa, chỉ sợ chà sát không kỹ bùa không linh thì coi như uổng công.

    Vừa trông thấy nàng Duyên của tôi trong tà áo dài tha thướt đi xuống từ phía cầu thang, tôi sáp lại gần và làm như vô tình đụng phải vai nàng, tôi vuốt nhẹ rồi nói lời xin lỗi để nàng khỏi nghĩ tôi đang có hành động mờ ám.

    Nếu như mọi lần chắc có lẽ tôi nhận được những lời bực dọc từ phía nàng buông ra, không ngờ Duyên của tôi nở một nụ cười e ấp thật dễ thương. Con tim tôi rộn ràng nhịp đập, vậy là bùa của anh người Thượng kia đã bắt đầu hiệu nghiệm, tôi thầm cảm ơn vợ chồng anh người Thượng tốt bụng kia, anh đã giúp tôi gỡ được "một bàn thua trông thấy", đêm đó trong căn phòng trọ tôi chiêm bao một giấc thật đẹp, tôi và Duyên dìu bước nhau trong Thảo cầm viên Sài gòn, chúng tôi chụp ảnh thật nhiều, đến bên chuồng chim những đôi chim tỉa tót lông cho nhau thật hạnh phúc, tôi len lén lúc Duyên của tôi đang chăm chú xem hạnh phúc của đôi chim nọ, tôi bạo gan hôn nhẹ lên tóc nàng, đang vui vậy mà nàng tát tôi một cái đau điếng khiến tôi tỉnh giấc mơ hoa, thì ra tôi đang hôn tóc của thằng quỷ Thành nó tưởng tôi trở thành pê đê nên nó tát tôi một cái quá mạng, tuy đau nhưng tôi rất vui vì Duyên đã không tát tôi như trong giấc mơ kia.

    ***

    Rồi thì sự thật phũ phàng cũng đến, sau bao lần chà sát bùa yêu, mấy đứa bạn tôi đều phàn nàn bùa chẳng hề linh nghiệm dù một phần nhỏ, có thằng nó dùng bùa vuốt một cô gái đến năm lần bảy lượt mà chẳng đâu vào đâu, đứa nào cũng cho là bị anh người Thượng kia lường gạt, riêng tôi cũng bán tín bán nghi vì thái độ của Duyên kể từ ngày tôi vuốt trên vai nàng thì thái độ Duyên đối với tôi có phần cởi mở, tôi ôm ấp ước ao một ngày nào đó Duyên của tôi sẽ cùng tôi đi dạo chơi Thảo cầm viên thật sự chứ không phải trong mơ, cứ thế mà hy vọng tôi lớn lên từng ngày.

    Sáng nọ ! Duyên không đến trường, hai ngày, một tuần, cả tháng nàng mất hút như tan vào hư vô.

    Sốt ruột tôi hỏi thăm bạn bè cuối cùng tôi cũng tìm đến được nơi nàng ở, từ xa tôi nhìn thấy nàng đang sánh vai với anh chàng Sĩ quan Không Quân hào hoa, nàng tiễn chân chàng ra khỏi cổng nhà và họ không quên trao nhau nụ hôn nồng nàn, dưới chân họ còn đầy xác pháo đỏ rực, tôi chết lặng trong lòng, thế là hết Duyên bây giờ không còn là Duyên của tôi, đến lúc này tôi mới thấy đám ngũ quỷ tôi nói đúng làm gì có bùa yêu, thọc tay vào túi quần tôi móc đạo bùa từng được tôi nâng niu gìn giữ, tôi quăng vào đống rác bên đường, tôi thốt lên trong tuyệt vọng :

    - Đúng là cái quân lường gạt.

    Hình ảnh vợ chồng người Thượng hiện ra trong trí tôi, giờ tôi mới thấy hai vợ chồng này đóng một vỡ kịch hoàn hảo mà không phải ai cũng có thể diễn được.



    Hai Hùng SG

  2. #2
    Moderator
    Longhai's Avatar
    Status : Longhai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Mar 2009
    Posts: 3,036
    Thanks: 0
    Thanked 24 Times in 8 Posts

    Default Cút Bắt Trò Chơi

    Cút Bắt Trò Chơi


    Hai Hùng SG



    Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Sài Gòn, nơi mà một thời mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông, nói là nói vậy cho oai chứ kỳ thực thời ấy từ Thủ đô Sài Gòn mà đi vào nơi tôi sinh sống cách nhau tròm trèm gần năm cây số, thậm chí đôi lúc từ ngữ trên báo chí ngày xưa trước năm 1975 người ta còn cho nơi đây là vùng ven đô, đất nước nói chung và Sài Gòn nói riêng thời ấy thật thanh bình, cái tình người thắm thiết chan hòa mà quả thật vậy vào những năm 1960 lúc ấy tôi còn là đứa trẻ ăn chưa no lo chưa tới sau những giờ học ở trường thì cả bọn con nít trong xóm tôi xúm xít bên nhau chơi những trò của con trẻ, thời bấy giờ trò chơi chủ yếu là những trò tiêu khiển tốn rất ít tiền như : đánh đáo bằng những đồng tiền loại 5 cắc có in nổi một mặt là Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng Hòa mặt bên kia là hình bụi tre là biểu tượng quốc huy, còn các đồng xu nhỏ hơn thì có hình cô gái đầu búi tóc thật cao trông thật khỏe mạnh, hoặc chơi trò năm mười mười lăm hai mươi ...

    Một hôm, sau cái màn tay trắng tay đen, thằng Thành là đứa bị nhắm mắt úp mặt vào tường để cho cuộc chơi được bắt đầu:

    - Năm mười, mười lăm, hai mươi… một trăm.

    Nó xòe bàn tay và vỗ mạnh 3 cái vào vách tường, đồng thời đếm tiếp:

    - Một hai ba, đứa nào chạy ra bị bắt ráng chịu.

    Trong lúc thằng Thành đang năm mười thì cả bọn chúng tôi túa đi khắp nơi, đứa thì leo lên cây ,đứa thì trốn trong chòm mả nơi có những ngôi mộ làm bằng đá ong cũ kỹ. Đứa thì lẫn mình vào mấy bụi tre, nhưng thường thì những bụi tre thì mấy đứa tụi tôi không thích trốn ở đây, vì đơn giản là dễ bị gai của Tre cào gây thương tích, khi tàn cuộc chơi về đến nhà thế nào cũng được ba má cho ăn bánh tét nhưn mây, thét rồi đứa nào cũng né chỗ trốn hắc ám đó hết, nhất là mấy đứa con gái trong xóm không bao giờ chúng bén mảng đến bụi tre, chòm mả do sợ ma, cứ như vậy đó con trai bọn tôi suy ra yếu điểm này nên tìm đến nơi sạch sẽ là xí được các cô nàng liền.

    Tôi nhớ hôm đó thằng Cu, con của bà Mười Quán phá lệ ,nó chui vào trốn trong bụi tre gai bên vệ đường mà không ai biết, nó nằm im thin thít trốn rất kỹ, cả bọn nhóc tụi tôi đều bị thằng Thành xí hết ráo, chỉ còn lại một mình thằng Cu là chưa thấy tăm hơi của nó đâu cả, bầu trời dần mờ tối những bóng đèn điện vàng vọt bắt đầu bật sáng bên đường, cả bọn lo lắng vô cùng, bổng tiếng thằng Lập một đứa trong đám bạn nói rú lên :

    - Ơi tụi bây! Có khi nào thằng Cu bị ma giấu không ta? mấy ngày trước tao nghe ba tao nói cái xóm đường đất đỏ của mình có ma đó.

    Nghe thằng lập nói đến đây tự dưng tôi thấy mình bị hiện tượng nổi da gà như có một luồng điện chạy tê rần nơi sống lưng, vì câu nói của thằng Lập nó trùng với câu chuyện chú Út tôi kể cho lũ trẻ trong xóm nghèo mỗi khi đêm về, chú kể rằng:

    - Mấy đứa bây biết không, hồi đó thời người Pháp còn ở Sài Gòn mình chú cũng còn trẻ, ba của chú nói ngày xưa có bà Tám ngụ tại cái xóm chuồng Trâu, xóm này nằm gần chùa Giác Quang ở chợ Cây Thị, đặc biệt khi trời về khuya chừng khoảng mười giờ thì tiếng rao hàng ngọt ngào của bà Tám vang lên:

    - Ai chè đậu đen, bột báng, nước dừa, đường cát trắng hông.

    Có hôm bà Tám vừa đặt gánh chè đậu dừng lại nghỉ chân nơi mấy bụi Tre gai ven đường, tiếng rao lảnh lót của bà Tám vang lên mọi khi, đứa cháu gái nhỏ đi theo phụ bà Tám bán hàng, nhiệm vụ nó là cầm cái đèn bão loại đèn ngày xưa có bốn mặt kiếng chung quanh, có khi được sơn thêm màu xanh, đỏ vàng lên kiếng để tránh chóa mắt người đi đường, đèn này dùng nhiên liệu là dầu hỏa mà dân miền Nam hồi đó gọi là dầu hôi bên trong có sợi tim đèn bằng sợi bông chắc chắn, đèn phát ra ánh sáng vàng rất tiện lợi cho những người nghèo buôn gánh bán bưng như bà Tám, nó còn công dụng chống được những cơn gió lớn mà đèn không bị tắt nên người ta đặt tên cho nó là đèn bão, còn những tiệm quán sang trọng hồi đó thì xài đèn “ Măng xông ” loại đèn hiện đại của người Pháp du nhập vào Việt Nam, cũng xài bằng dầu hôi, nhưng có thiết kế cái bơm hơi làm tăng áp suất trong bầu đèn, khi đốt đèn thì nhờ áp suất này tim đèn cháy cho ánh sáng trắng khác với đèn dầu Hoa Kỳ một trời một vực.

    - Gái Ba! Mầy đem đèn tới đây để dì Tám đảo lại nồi chè để nó khỏi bị khét coi con.

    Con Gái Ba làm theo lời bà Tám, khi nắp nồi chè đậu được mở, khói ùa bay lên gió cuốn đi mang cái mùi hấp dẫn của nồi chè len lõi vào những căn nhà lân cận ven đường, cũng nhờ vậy mà cả cái xóm đường đất đỏ nhỏ bé của chúng tôi là thân chủ hàng đêm của bà Tám.

    Vơ cái vá khuấy nhẹ nồi chè, khi ngước nhìn lên thì đâu trước mắt bà Tám xuất hiện gần cả tiểu đội lính “Pặt tê giăng” súng ống đầy đủ, hình như họ đang đi làm nhiệm vụ gì đó, nghe mùi thơm lừng của nồi chè nóng hổi của bà Tám khiến họ không cưỡng lại được, sà xuống vây quanh gánh chè, cả bọn họ nói cười rôm rã vừa đưa miệng húp rồn rột, mới thoáng một chút mà mỗi chú lính thanh toán gọn ba chén chè vô bụng, chú Út còn nói tiếp nghe đâu có ông lính chưa đã thèm, còn lấy cái cà mèn mua thêm mang về đồn để ăn tiếp, ăn uống thõa thê xong thì một người lính ra dáng là sếp móc tiền trả, ổng còn hào phóng “ poa ” luôn cho bà Tám phần tiền thay vì phải thối lại cho họ. Nghe đâu nhờ cái “vía” của mấy ông Tây nên chỉ loanh quanh gánh đến đầu đường là nồi chè bán hết sạch. Bà Tám và gái Ba trở về nhà, gái Ba lui cui dọn dẹp rửa ráy chén muỗng còn bà Tám thì ngồi lọm khọm đếm tiền , vừa trút rổ tiền ra “ Bộ đi văng ” bà Tám thất kinh hồn vía la làng:

    - Ma ... Ma bớ người ta có ma, gái Ba ơi... cứu dì … với.

    Bà Tám kêu được như thế rồi tự nhiên bà thấy hai quai hàm như có ai bóp chặt khiến bà trừng mắt không thốt thêm được lời nào. Nguyên nhân trong số tiền bà vừa trút ra thì gần phân nửa là giấy tiền “vàng bạc” một loại giấy tiền dùng cho người cõi âm do mấy ông ba Tàu ở Chợ Lớn phát hành.

    Bà con lối xóm nghe tiếng la của bà Tám thì mọi người tông cửa nhà chạy đến rất đông họ tưởng nhà bà bị trộm cướp viếng thăm. Khi tỉnh hồn lại bà Tám mới kể kể sự tình và đoan chắc rằng tiền âm phủ này là do mấy chú lính khố xanh khố đỏ gì đó đưa cho bà.

    Bà tám quả quyết:

    - Mấy ông Tây này chắc chết trận được chôn phía đồng mả ở cạnh cầu hang xe lửa cũng nên.

    Chuyện ma cỏ hư thực thế nào không rõ, nhưng kể từ đêm sau bà Tám giải nghệ không bán chè đêm nữa, nghe đâu bà con trong xóm cũng buồn buồn vì từ đây không còn nghe tiếng rao hàng thân thương và cái mùi chè đậu đen nước cốt dừa đường cát trắng ngọt ngào thoang thoảng trong đêm nữa rồi, và cũng do ám ảnh cái rổ tiền vàng bạc hôm ấy nên bà Tám dọn nhà đi biệt xứ từ đó …

    Vậy mà đêm ấy, thằng Cu con bà Mười quán nó trốn biệt ở đâu? mà có ma thật hay không? giả sử có con ma nào đó hiện ra lúc đó trước mặt chúng tôi thì tôi tin chắc rằng ít ra phải có một vài đứa té xỉu, một ẩn số mà lúc bấy giờ chúng tôi chỉ lò mò đoán già đoán non mà thôi. Con Hồng đứa con gái tham gia trò chơi được chúng tôi cử về nhà thằng Cu để báo hung tin:

    - Bà mười ơi! Anh Cu chơi năm mươi với tụi con không biết ảnh trốn ở đâu tụi con tìm không ra. Tụi con sợ quá nên báo cho bà Mười nè.

    Bà Mười hoảng hốt chạy đôn chạy đáo đầu trên xóm dưới để tìm cho ra thằng con quý tử của mình.

    Tin thằng Cu mất tích, lời đồn đại nó bị ma giấu gây rúng động cho lũ nhóc trong cái xóm nhỏ này.

    Thế là cả xóm, người cầm đèn cầy, kẻ cầm đèn dầu tìm tòi hết mọi nơi cuối cùng cũng thấy nó đang khò khò trong bụi tre gai. Nó mãi trốn cố giấu mình thật kỹ, rồi nằm mơ màng gặp những cơn gió thổi hiu hiu làm cho đôi mắt nó sụp mí hồi nào không hay, đến khi nghe tiếng kêu ầm ĩ của mọi người nó mới lòm còm bò ra khỏi cái bụi Tre gai, bà Mười gặp nó bà mừng rơi nước mắt, nhưng cũng không quên gõ vào mông của nó hai cây roi mây kèm theo lời hăm:

    - Còn chơi kiểu này lần nữa là má không cho mày đi chơi nữa, nghe chưa cái thằng kia.

    Như biết lỗi, và ân hận đã làm mọi người hốt hoảng vì mình, thằng Cu tha thiết:

    - Con xin lỗi má, con không dám vậy nữa.

    - Hứ chơi bời trốn tìm mà chui vô bụi rậm, ma nó chưa giấu bây thì rắn nó cũng cắn bây có ngày đó mấy con ơi.

    Sau lần tai nạn đó bọn tôi thôi không còn chơi trò trốn tìm nữa. Còn nhiều nhiều trò chơi của tuổi thơ yêu dấu nữa như : nhảy lò cò, chơi u, chơi ăn ô quan, thả diều, đá dế, câu cá, chia phe đánh trận như những người lính chống chọi với quân thù, ngày đó trong đám tụi tôi đứa nào phải làm quân địch trong cuộc chiến thì y như rằng đứa nào cũng tiu nghĩu chấp nhận làm phe ác một lần đó thôi , nếu lần sau mà chơi trò đánh trận thì phải đổi phe lại cho công bằng, có mấy cô bác lớn tuổi biết chuyện này đã lên tiếng:

    - Mấy đứa nhỏ coi vậy chứ tụi nó cũng biết phân biệt chánh tà lắm nghe, làm phe địch là xấu nên hỗng có đứa nào vui hết trơn hết trọi á.

    Cái năm tôi thi đậu vào lớp Đệ thất, cả nhà tôi ai cũng mừng rỡ, tháng đó sau khi lãnh lương của hảng xong, để khao tôi có được cái thành quả vừa qua trong học hành, chiều hôm nọ ba nói:

    - Chiều nay ba thưởng cho xem phim cầu sông Wai hay lắm, con nói thằng Lập, Thằng Kháng, với con Hồng nữa xin phép nhà nó cho đi chung với con luôn.

    Nghe ba tôi nói cho mấy đứa bạn cùng đi xem hát bóng với mình tôi mừng ra mặt, mấy đứa ba tôi vừa kể tên cũng đạt kết quả tốt kỳ thi vừa rồi, tôi khẻ cám ơn ba và chạy nhanh đến nhà báo tin vui cho bọn nó, con Hồng mẹ nó đang bệnh nặng, ba nó thì đi chiến trường chưa về, ở nhà còn hai mẹ con hủ hỉ với nhau nên nó không đành lòng tìm niềm vui riêng cho mình.

    Gần đến giờ hẹn, con Hồng mới lò dò đến nhà tôi, nghèn nghẹn trong lòng nó nói:

    - Mấy anh đi chơi vui vẻ, coi hát xong về kể lại Hồng nghe cũng được mà. Má Hồng trở bệnh nặng, Hồng phải canh chừng má, chứ không thì …

    Con Hồng nói giữa chừng rồi nó ù chạy ngay về nhà. Tôi kịp nhận thoáng qua đôi mắt buồn buồn của Hồng đã đỏ hoe ngấn lệ …

    Ba tôi dẫn chúng tôi lội bộ ra đến đầu ngả ba đường để đón xe, chiều vẫn còn chút nắng, không khí oi nồng, hơi nóng vẫn còn hắt lên từ con đường nhựa nơi chúng tôi đang đứng chờ xe, thỉnh thoảng cũng có chút gió thổi nhẹ qua làm dịu bớt đi cái nóng bức rức trong người.

    Chiếc xe Ngựa vừa tấp vô sau cái vẫy tay đón của ba tôi, chủ xe một người đàn ông luống tuổi, ông trạc cở tuổi ba tôi, mặc trên người bộ “Pi ja ma” màu đen có ba cái túi áo thật lớn, tôi thấy ông bỏ trong đó nào là thuốc rê, hột quẹt, giấy tờ gì đó, và túi ông đựng tiền nằm phía trên ngực. Chiếc nón nĩ đẹp đắt tiền ông hay giở lên chào khi có khách lên xe, một phong cách mà thời nay dễ gì còn gặp lại. Con ngựa thì mang cặp kiếng bằng da màu đen che hờ đôi mắt, nó chỉ quan sát được phía trước, không thể nhìn hai bên, sau này tôi khi đi xe quen thân với chủ xe ngựa thì ông mới giải thích:

    - Sở dĩ che như thế cho ngựa khỏi giật mình khi có xe qua mặt nó, để nó không sợ mà gây ra tai nạn.

    Trên đầu con ngựa ông gắn một chùm lông đuôi của gà trống trông thật oai phong, quanh cổ nó được đeo cái vòng lục lạc, mổi khi ngựa phi trên đường nhựa, bốn vó gỏ lốc cốc hòa theo tiếng reo của lục lạc tạo thành âm thanh rất vui tai.

    Sau này chúng tôi học năm đệ thất một trường gần chợ Bà Chiểu, đi riết thành mối của ông Tám xe ngựa, trong đám tụi tôi chỉ có mình tôi là ông Tám ưu ái cho ngồi gần ông phía trước, vì ngồi vị trí này thòng hai chân xuống khỏi phải cởi giày, còn lũ bạn tôi thì lên xe phía sau phải cởi giày ra xỏ vào cái móc bên hông xe, đến nơi mới được mang giày lại như cũ vì trong lòng xe chật hẹp vã lại mang giày dép vào thì làm dơ tấm đệm lót dưói sàn xe thì không hợp vệ sinh cho lắm, đi xe ngựa cũng lắm thú vui, nó cũng tròng trành như ghe gặp sóng lớn đôi khi ngựa dở chứng khiến cả xe ai nấy mặt xanh như tàu lá chuối vì sợ rớt xuống đường do chú ngựa tung 2 vó trước lên cao khiến xe nghiêng hẳn về phía sau …

    Cuộc sống cứ thế êm ả trôi theo tháng ngày. Tôi còn nhớ, năm 1963 Sài gòn sục sôi những biến động, năm đó bên quân đội họ làm đảo chánh, trực thăng mang “Rốc két” bay gần sát nóc nhà tôi, họ bắn đại liên trên máy bay hướng vào Dinh Gia Long, vỏ đạn rớt lộm cộp trên mái tole nhà, cô bác chung quanh sợ hãi vô cùng, sợ sệt trong tình hình này vài gia đình tụ họp lại những căn nhà kiên cố trong xóm cùng nhau ở đó có gì xảy ra khi tắt lửa tối đèn có nhau thì yên tâm hơn, người lớn ai cũng trong dạ nao nao chờ đón thời cuộc, còn bọn con nít thì được dịp gần nhau thường xuyên thỏa thích chơi đùa, chúng tôi đâu có biết rằng cha mẹ chúng tôi đang rầu thúi ruột, thúi gan khi đất nước đang tranh tối tranh sáng của hai phe …

    Rồi cuộc đảo chánh thành công, nền Đệ nhị Cộng hòa hiện diện trên quê hương ….

    Năm 1968, một lần nữa Sài Gòn cũng như cả nước, khói lửa tràn lan, tôi và gia đình cũng suýt chút nữa “tiêu diêu miền cực lạc” bởi một trái đạn cối rớt trước sân nhà, cũng may là chúng tôi trốn kỹ trong hầm ngầm dưới đất, nếu không thì không có cơ hội bây giờ ngồi đây ghi lại những hình ảnh thân thương đang mờ dần trong ký ức.

    Rồi thì sóng gió cũng qua, đến giữa năm 1970 là năm đám trẻ con ngày xưa chúng tôi đến tuổi lên đường nhập ngũ làm bổn phận công dân trong thời chinh chiến.

    Tôi, thằng Kháng. Thằng Lập cùng vào lính một ngày. Buổi đầu tiên vào nơi tiếp nhận, ba đứa chúng tôi đều mang tâm trạng nhớ nhà kinh khủng, mặc dù mới rời khỏi tổ ấm gia đình chừng vài tiếng đồng hồ, nhưng đêm ấy với chúng tôi nó dài thăm thẳm. Nằm cạnh bên nhau chúng tôi tâm sự, tôi nói nhỏ vừa đủ cho thằng Lập và thằng Kháng nghe:

    - Không biết chừng nào mới vô quân trường hả tụi bây? Rồi lăn, lê, trườn, bò nữa. Mà tao nghe nói ở quân trường cái chuyện tắm giặt khổ sở lắm, nghe mấy ông anh trong xóm mình đi lính về kể lại, mùa khô thiếu nước sinh hoạt lắm.

    - Ôi hơi đâu mà lo mầy ơi, chừng nào cũng được, chuyện tắm giặt thì mày làm như vầy… như vầy …

    Thằng Kháng cố tạo ra chuyện vui để chúng tôi quên đi nỗi nhớ nhà, nó thì thầm bên tai tôi tưởng đâu nó hiến kế gì hay để có giải pháp tốt đối phó với khó khăn sẽ phải đối mặt sau này nên tôi chăm chú nghe, thằng Lập cũng xích lại gần cả ba đứa chúng tôi chụm đầu vào nhau trao đổi câu chuyện, bất chợt ai nhìn thấy hình ảnh này có lẽ sẽ để lại nhiều dấu chấm hỏi trong đầu, bọn này đang âm mưu gì đây?

    Thằng Kháng vừa hiến kế xong thằng Lập phá lên cười, nước mắt nó chợt trào nơi khoé mắt cũng bởi chuyện thằng Kháng bày vẻ cho tôi giống như chuyện tiếu lâm làm nó cười ngất ngưởng, khiến mọi người trong ”sam” chăm chú hướng nhìn về chúng tôi. Riêng tôi thì đưa tay cốc vào đầu thằng Kháng một cái đau điếng kèm theo lời trách móc nó;

    - Tao nói thiệt mà, vô đây mà mày còn giỡn được hả mậy, thôi khùng quá ông ơi.

    Tôi còn co giò đạp thằng Kháng một cái nữa, sau này tôi ân hận với sự phản ứng quá trớn đối với nó.

    Thằng Kháng nó bàn với tôi nếu sau này khi ra quân trường thụ huấn mà gặp phải cảnh thiếu nước sử dụng thì viết thư về kêu gia đình gửi lên cho cái thùng phuy loại 200 lít đục bỏ cái nắp trên rồi hứng nước mưa chứa vào đó thì coi như giải quyết được vấn đề thiếu nước, đúng là chuyện tiếu lâm không sai.

    Ngoài trời bóng đêm dần bao phủ không gian, tôi thoảng nghe một vài tiếng kêu của lũ vạc bay đi ăn đêm, tiếng vo ve bên tai của lũ muỗi đói, cố dỗ giấc ngủ mà đôi mắt đứa nào cũng ráo hoảnh, ba đứa chúng tôi nằm im thin thít, mỗi đứa đang theo đuổi suy nghĩ riêng của mình, chợt thằng Lập nhìn vào mắt tôi nó hỏi :

    - Bộ nhớ em Hồng phải không?

    Thằng Lập nó gãi trúng chổ ngứa của tôi, như sợ quê với nó tôi nói :

    - Gì mà nhớ với nhung, có chăng đi nữa thì cũng hết khóa huấn luyện thì may ra nhung với nhớ mầy ơi.

    Thằng Kháng lúc này nó mới lên tiếng :

    - Học ra trường xong về đơn vị mới, mầy kêu bác năm nói với thím Hai cho mầy với con Hồng Châu về hiệp phố cho rồi, ông bà mình nói cưới vợ phải cưới liền tay đó nghe mậy.

    Nghe thằng Kháng nói như vậy, trong lòng tôi ngờ ngợ nhớ lại câu nói của Hồng cái hôm hai đứa hẹn nhau để nói lời tạm biệt:

    - Anh Phương cố gắng làm tròn bổn phận công dân đi, ở Hậu Phương thiếu gì em gái nhỏ chờ đợi, duyên kiếp đều có số phần hết anh đừng lo nhé.

    Câu nói đùa của Hồng khiến tôi không vui lắm, tôi ái ngại vô cùng và tự hỏi không hiểu Hồng có thể chờ đợi mình trở về hay không ? Chiến trường bắt đầu sôi động trở lại, chiến sự ác liệt, tin tức dội về hàng ngày, có những chàng trai ra đi như Tráng sĩ Kinh kha, để rồi cũng có nhiều thiếu phụ Nam Sương chờ chồng trong mòn mõi đợi chờ. Lần ra đi này tôi linh cảm chuyện tình yêu của mình nó có vẻ mang một màu sắc xam xám, đã vậy nghe thằng Kháng đốc thêm vào thì thật lòng mà nói trong lòng tôi như ngổn ngang trăm mối tơ vò.

    Rồi thì ba tháng Quân trường ở Dục Mỹ cũng xong, ba tháng dầm mưa dãi nắng, thao trường mồ hôi đổ, cả ba đứa chúng tôi đều được Tiểu đoàn trưởng của Trung tâm Huấn luyện tuyên dương tinh thần học tập, đêm cuối ở Quân trường lần đầu tiên trong đời 3 thằng nhóc sợ ma ngày nào cùng nhau nốc bia liên hoan một buổi ra trò, đánh dấu buổi họp mặt cuối cùng ở cái lò luyện thép này, nơi đã un đúc tinh thần và thể xác chúng tôi thêm phần mạnh mẽ.

    Rời Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ, chúng tôi lênh đênh trên biển, chiếc Dương vận Hạm 505 rẽ sóng đưa chúng tôi trở về căn cứ Long Bình nơi hậu cứ của đơn vị chúng tôi phục vụ sau này. Ròng rã hai ngày hai đêm trên biển, trong lòng ai cũng nôn nóng mong về đến đất liền, qua hai ngày trên biển chỉ thấy mây, nước và đường chân trời, thỉnh thoảng cũng gặp vài đàn Hải âu bay lượn tìm thức ăn giữa biển trời bao la rộng lớn, lúc ấy thật sự chúng tôi mới cảm phục những người lính Hải quân, bởi họ cô đơn quanh năm với biển khơi mà họ còn chịu đựng được, với chúng tôi hai ngày trên biển như một cực hình vì không thể thích nghi với cái mênh mông của biển trời.

    Đến hậu cứ Long Bình được một tuần, sáng nọ lệnh tập họp được ban ra, xe GMC đưa chúng tôi ra sân bay, từng chiếc trực thăng Chinook đưa chúng tôi vào bay vào vùng lửa đạn, mặt trận An Lộc Bình Long hiện ra bên ô kính tròn của chiếc phi cơ, thấp thoáng trong mây chúng tôi thấy rõ mồn một nơi xa xa những cụm khói bốc lên cao do những phi tuần ném bom nơi vùng hỏa tuyến. Hạ dần độ cao, Phi công rà sát chiếc Chinook trên đầu những ngọn cây cao su bên phi đạo, khiến cây lá ngã nghiêng xào xạc do sức mạnh của cánh quạt gây ra, khi phi cơ đáp xuống gần sát mặt đất, tiếng hô vang của nhân viên phi hành người Mỹ :

    - Go out ... Go out …

    Chúng tôi vụt lao ra khỏi chiếc Chinook rồi chạy vào vạt rừng ven đường, cũng là lúc tiếng đạn pháo từ đâu nổ tới tấp, đất bị đào xới tung lên tạo những hố sâu hoắm, mùi thuốc pháo khét lẹt, không khí như mang nặng âm vang tiếng của lão thần chết đang réo gọi hồn ai.

    Tiếng phản pháo vang lên một hồi lâu rồi cũng chấm dứt, trả lại sự yên tĩnh tịch mịch vốn có của núi rừng,

    - Đại đội tập họp. Ngang dọc so hàng, 4 hàng dọc, đằng trước thẳng.

    Tiếng khẩu lệnh của ông Thượng sĩ người có trách nhiệm đưa chúng tôi trình diện đơn vị mới đang hành quân nơi chiến trường.

    Hàng ngũ xếp ngay ngắn, tôi tranh thủ liếc dọc liếc ngang quan sát nơi mình đặt chân trên chiến trường là nơi đâu, lòng tôi chợt bàng hoàng, trước mắt tôi có tấm bảng viết vội trên tấm ván ép mỏng manh hàng chữ Phi đạo Sa Cam, phía bên dưới là một nắm mộ đất dường như mới đắp gần đây thôi, trên cây thập tự giá bằng hai thanh gỗ thông của thùng đựng đầu đạn cối 81 ly ghép lại, ai đó viết lên hàng chữ thay cho mộ bia một dòng sơn đỏ như máu của người dưới mộ kia đã tuôn ra vì mảnh đất quê hương yêu dấu.

    Nơi tạm yên nghỉ: Chuẩn úy… Đại đội… Tiểu đoàn… Anh dũng đền nợ nước ngày... tháng… năm...

    Được chào đón bằng những tràng đạn pháo, được thấy những anh hùng ngã xuống nơi tuyến đầu cũng không làm chúng tôi sợ sệt chùng bước, thầm khấn vái vong hồn người sĩ quan bạc mệnh kia, ông hiển linh hãy dìu chúng tôi bước qua cho đến ngày tròn cuộc chiến. Như có một phép mầu, như thấu hiểu sự tôn kính với ông nên có thể ông ta đã che chở cho tôi thoát hiểm nhiều lần trong gang tấc.

    Chúng tôi về đến Bộ chỉ huy tại thị trấn An Lộc điêu tàn đổ nát, được tập hợp lại, sau một hồi huấn thị, lựa chọn, phân phối cho các đơn vị tác chiến trực thuộc, tôi là người duy nhất được chỉ huy phó đơn vị chọn ở lại Bộ chỉ huy làm công việc chuyên môn, còn những anh em cùng khóa học được đưa về các Tiểu đoàn tác chiến.

    Tôi chia tay thằng Lập, thằng Kháng, vậy là chúng tôi mỗi đứa một nơi, trong mắt đứa nào cũng đượm buồn lưu luyến, tôi vỗ vai hai đứa nó và cầm lấy bàn tay, ba chúng tôi xiết chặt tay nhau ngầm hẹn ngày nào đó cùng nhau về lại Sài Gòn khi đất mẹ bình yên ...

    Tôi cố chọc cười 2 đứa bạn thời niên thiếu:

    - Tụi mình lại bắt đầu cuộc chơi năm mười nữa rồi đó, hai thằng bây đi trốn, và tao sẽ đi tìm …

    Kỷ niệm xưa chợt hiện ra trong tâm trí, không hẹn nhau mà tự nhiên ba đứa nước mắt chạy thành dòng.

    Đưa tay quẹt nước mắt thằng Kháng đáp lời tôi:

    - Tụi tao đi đây, nhớ giữ sức khỏe nha, thư từ nhà có gì nhớ cho tụi tao biết với.

    Nước mắt lại tuôn ra, ông Thượng sĩ già đứng gần bên thấy hết sự việc, hình như ái ngại điều gì ông ta nói:

    - Ba đứa bây ở chung xóm với nhau hả, thôi đừng buồn, đóng quân cũng gần đây thôi, muốn gặp nhau dễ ợt hà, thôi đi đi kẻo anh em chờ.

    Chiến trường vào mùa khô, mùa cao điểm của chiến trận, lao vào công việc hàng ngày, đối diện với nhiều cam go, có lúc tôi quên bẵng đi hai thằng bạn kia, quên cả cái gia đình ở Sài Gòn, quên cả cái tình yêu bé nhỏ của Hồng, đứa con gái nết na thùy mị đùa vui trong quãng đời thơ ấu và tình yêu đến với hai đứa tôi tự hồi nào không hay.

    Ba tháng sau, thư đi tin lại cho gia đình, cho người yêu. Lần này nhận lá thư của Hồng, không phải cái bì thư màu xanh hy vọng như những cánh thư trước, mà là bì thư màu trắng trinh nguyên, cũng là màu tang tóc, trong thư Hồng kể rằng:

    - Anh Phương thương mến! Viết thư này cho anh, tuy tay thì cầm viết nhưng lòng thì không muốn, nhưng cuối cùng cũng phải viết cho anh, mẹ em (thím hai) mất tròn một tháng, ba em thì đơn vị báo tin mất tích, đất trời sụp đổ dưới chân em, gia đình lâm cánh túng bấn, may nhờ một người ân nhân đứng ra gánh vác mọi chuyện, và anh ta cầu hôn em thật chân tình sau lần lo tang chế cho mẹ, vì nghĩa em đành phụ anh, mong anh đừng buồn, hậu phương còn rất nhiều em gái khác. Anh nhớ giữ sức khỏe. Tạm biệt. Ngàn lần yêu anh, Hồng.

    Đọc xong lá thư tôi không trách Hồng phụ bạc, nhưng tự trách mình vô dụng để vuột một mối tình trong trắng thơ ngây. Đổ vỡ trong cuộc tình với Hồng, thế là tôi gặp phải sự cô đơn như những chiến sĩ Hải quân dạo ấy, nhưng không phải cô đơn giữa biển khơi, mà tôi cô đơn giữa biển đời mênh mông vô định, sau vụ này tôi thẩn thờ cả năm thì vết thương lòng mới tạm liền da.

    Buổi sáng nọ, đang loay hoay công việc, tôi nghe loáng thoáng phòng bên cạnh có tiếng sếp đang ra lệnh:

    - Chiều nay xin trực thăng tản thương, chở mấy anh em thương binh ở Ban quân y về Tổng y viện Cộng hòa, nhân tiện đem xác thằng Nguyễn công Lập, và thằng Dương văn Kháng về Nghĩa trang Quân đội luôn.

    Tôi bỏ ngay công việc chạy nhanh qua Ban 3 Hành quân, hỏi han một lúc thì đúng là hai thằng bạn thân thiết nhất trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn, thằng Lập chết trước thằng Kháng nửa ngày do bị sốt ác tính quật ngã nó. Còn thằng Kháng thì dẫm phải mìn khi đi hành quân, thân xác nó vương vãi khắp nơi, đồng đội nó gom lại được một ít thịt xương gói lại trong chiếc Poncho từng che chở nó trong những cơn mưa rừng lạnh lẽo.

    Chiếc trực thăng sơn màu tang trắng, trước mũi, bên hông đều mang chữ thập đỏ đáp xuống, nó mang những thương binh và mang theo hình hài của hai đứa bạn tôi, cho đến khi chiếc trực thăng có danh hiệu “Nhân ái 95“ chỉ còn một cái chấm nhỏ trên bầu trời vàng hoe nhuộm nắng cũng là lúc tôi thốt lên trong vô thức :

    - Xí thằng Lập, xí thằng Kháng. Một. Hai. Ba...

    Tôi vỗ tay ba cái vào cái thùng Cô nét nơi lưu giữ xác của hai đứa bạn như vỗ vào vách tường của trò chơi cút bắt những ngày xưa.



    Hai Hùng SG

    https://vantuyen.net

  3. #3
    Administrator
    khongquan2's Avatar
    Status : khongquan2 v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2011
    Posts: 2,165
    Thanks: 217
    Thanked 24 Times in 8 Posts

    Default Trở lại Nha Trang - Hai Hùng SG

    Trở lại Nha Trang

    Hai Hùng SG




    Trong biển nhạc mênh mông của quê hương mình, nhiều bài hát và nhiều tác giả đã đưa chúng ta sống lại cái thuở yêu đương của thời tuổi dại, những kỷ niệm của ngày xưa thân ái, cũng có tác giả dìu chúng ta đi cùng nhau suốt chiều dài cuộc chiến trên đất mẹ lầm than,và không ít tác giả đã lột tả được nét đẹp quê hương và những tự tình của dân tộc.

    Một trong những bài hát đã cho tôi nhiều cảm xúc trào dâng, khi nghe câu Hát: ” Nha Trang ngày về, mình tôi bên bãi khuya, tôi đi vào thương nhớ, tôi đi tìm cơn gió xây lại mộng mơ năm nào …” Thì lần nào cũng vậy hình ảnh Nha Trang, một người con gái mang cái tên Thật gần gũi với thành phố biển này, em mang tên Nguyễn Thị Nha Trang lại hiện về trong tâm trí tôi, ngày đó ….

    * * *

    Ngày ấy khi ngoài trời còn một màn đêm bao phủ thành phố, qua ánh đèn đường vàng vọt nhìn qua cửa sổ của Quân y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang, tôi thấy nhiều toán người hối hả dắt díu bồng bế nhau chạy đi chạy lại trên con đường trước mặt, nhìn chiếc đồng hồ trên tay tôi thấy mới gần bốn giờ sáng mà sao người đi trên đường nhiều như trẩy hội , tôi mặc bộ quân phục vào người , lúc này tôi cảm thấy bộ đồ này như rộng hẳn ra, rồi tôi mới chợt nhớ mình nằm điều trị sốt rét ác tính tại nơi đây cả tuần rồi còn gì, kể từ cái hôm di tản chiến thuật từ Kontum theo liên tỉnh lộ 7B, con đường đau khổ đã hằn in nhiều nỗi thống khổ của mọi người thời bấy giờ theo dòng người nối đuôi nhau dài ngoằng, thiếu thốn đủ mọi thứ , rồi chết chóc, thất lạc người thân v.v.. một bức tranh thật buồn của những ngày tháng ba trên vùng cao nguyên này.

    * * *

    Bất chợt cô y tá người mà hằng ngày chăm sóc bệnh tình tôi qua từng chai nước biển, từng phần cơm, từng viên thuốc sốt rét đang vội vã đi ngang, tôi lên tiếng hỏi thăm:

    – Chị ơi ! có nghe tình hình gì không ? Mà tôi thấy ngoài đường chộn rộn quá vậy? .

    Cô y tá hớt hải trả lời:

    – Anh lo dọn đồ đạc đi nhanh ra cầu Đá may ra còn kịp đón tàu cặp bến cho di tản , quân y viện này họ bỏ đi gần như trống trơn , mấy ổng bên kia nghe nói đến gần Nha Trang lắm rồi .

    Tôi nghỉ trong lòng:

    – Tình hình tồi tệ đến nữa rồi đây.

    Tôi chợt nhớ mới tuần trước đây thôi, khi đoàn quân của tôi di tản còn cách cầu sông Ba chừng vài cây số, chúng tôi rải quân nằm lại chờ trời sáng mới bắt đầu đi tiếp. Trời đêm rừng núi xuống thật nhanh, cầm chiếc bi đông lắc nhẹ tôi nghe chỉ còn một ít nước, nếu không có nước thì đêm nay chưa chạm súng với địch có khi mình chết khát cũng không chừng, bổng đâu thằng Kết bạn thân thiết của tôi nó lù lù xuất hiện trước mắt khiến tôi giật mình:

    – Trời, nãy giờ mày ở đâu, giờ bất chợt xuất hiện như ma vậy, bộ tính nhát cho tao chết chắc?.

    Thằng Kết cười hiền nói với tôi:

    – Đêm nay mà không có nước uống thì tao với mầy thành ma chắc luôn khỏi cần ai nhát hết. Tao mới nghe mấy xếp nói phía trước cách nơi mình đang đứng non chừng cây số thôi có con sông con suối gì đó, tao với mầy đi đến đó đi.

    Đứng trước tình cảnh không còn con đường nào khác để tìm ra nguồn nước tôi đành làm theo lời thằng Kết, nhưng nghĩ đoạn đường từ nơi đóng quân tạm thời đêm ấy đến con suối nọ bao nhiêu bất trắc có thể đang chờ đón chúng tôi, nhưng có chết thì đàng nào cũng chết, nên tôi lấy cây đèn pile và khẩu súng, thằng Kết thì khoác trên vai một khẩu súng tay nó cầm gần cả chục cái bi đông được cột xỏ xâu lại mang đi cho tiện.

    * * *

    Dường như đất trời cũng ủng hộ chúng tôi, đêm ấy nhờ ánh trăng treo trên trời, tuy không sáng vằng vặc như đêm rằm nhưng ánh sáng lờ mờ cũng đủ soi sáng con đường nơi chúng tôi bắt đầu hành trình đi tìm sự sống, từ trong mé rừng rẽ ra ngoài mí lộ chúng tôi phải băng qua một khoảnh rừng rậm, may có la bàn hướng dẫn nên chúng tôi ra đến liên tỉnh lộ 7 B cũng không mấy khó khăn, vừa đặt chân lên con lộ chúng tôi thấy một đoàn gồm cả trăm mạng người, già trẻ trai gái trẻ con đủ hết đi đến gần chúng tôi, giật mình thằng Kết kéo cơ bẩm cây M16 chĩa vào đoàn người nó hét to:

    – Đứng lại , ai đó đi đâu?

    Tiếng người nhao nhao lên:

    – Dân. Dân chúng không hà chú ơi, mấy chú là ai? Làm gì ở đây?.

    Thằng Kết nghe mọi người hốt hoảng la to như thế, nó dịu giọng nói:

    – Lính , lính đây, lính Sài gòn, bà con đi đâu đây?

    – Mấy chú nói thiệt không? Mấy chú cho coi giấy tờ đi tụi tui mới tin.

    Lúc này tôi và thằng Kết nhìn nhau hội ý ,nhưng tôi cũng thấy tức cười với cái suy nghỉ:

    ” Ai đời Dân mà đi xét giấy tờ lính, người không có vũ khí bắt người có vũ khí trình giấy tờ “

    – Nè chứng chỉ tại ngũ của tụi tui nè, chú kia chú lại đây coi đi.

    Nghe thằng Kết mời xem giấy tờ, hai người đàn ông lớn tuổi đi đầu chạy nhanh đến, qua ánh đèn pile do tôi rọi, một ông đọc lướt qua thật nhanh rồi bỗng nhiên cả hai ông cùng oà vỡ mừng vui reo lên:

    – Mình sống rồi bà con ơi .. Mấy chú này đúng là lính Sài Gòn thứ thiệt rồi.

    Tiếng reo hò bà con cô bác đúng gần đấy reo mừng khôn xiết, đợi cho đoàn người bớt phấn khích một ông vội xua tay ra hiệu cho đám đông im lặng rồi ông trịnh trọng nói:

    – Hai chú em biết không, mấy ngày nay đoàn người di tản chúng tôi phải băng rừng vượt suối, đêm đi ngày nghĩ, trên đường phát hiện có người vũ trang là tụi tui ” chém vè ” liền sợ gặp mấy ông phía bên kia không cho bà con di tản, may gặp mấy chú ở đây bà con mừng lắm.

    Hai ông hỏi chúng tôi đi đây vào giờ này vì trời đã khuya ngoại trừ đoàn người mà chúng tôi gặp ở đây có cái không khí sôi động , chứ những nơi khác trong khu rừng này chỉ còn tiếng côn trùng rả rích, hoặc tiếng những con Nai, Mễn” tác ” liên hồi trong đêm , hình như chúng đang mời gọi bạn tình tìm nhau trong một mùa trăng nơi vùng sơn lâm chướng khí hoang vu này.

    Tôi nói với ông chúng tôi đi tìm nguồn nước, vì trên bản đồ không ảnh đã thể hiện một con suối ở gần đây thôi, và qua con suối này có một nhà thờ có thể bà con mình đến tá túc tại đây.

    Nghe tôi nói vậy mấy người dân trong đoàn mừng rỡ ra mặt, và rồi tôi và thằng Kết làm hướng dẫn bắt đắc dĩ, dìu dắt và bảo vệ đoàn người này đi đến ngôi nhà thờ phía trước được an toàn, cứ thế đoàn người chúng tôi lầm lũi đi theo tỉnh lộ 7b mà mấy chục năm qua không một dấu chân người, có chăng là những du kích quân của phía bên kia cắt rừng đi ngang đây rồi lủi nhanh vào rừng vì đi trên đoạn đường này ban ngày dễ làm mồi cho những máy bay quan sát bay tít trên cao phát hiện.

    Chừng ba mươi phút sau chúng tôi đến được con suối, nước trong veo mát rượi từ những khe đá chảy ra, mọi người ào xuống suối uống căng bụng bất chấp hậu quả xảy ra, chúng tôi cũng vậy trước mắt phải uống cho đã cơn khát, múc đầy những bi đông cho đồng đội, chuyện gì nếu có xảy ra sau này hẳn hay.

    Chúng tôi tiếp tục đi thêm ba trăm thuớc nữa thì cái nhà thờ sừng sững hiện ra trên nền trời mờ sáng của ánh Trăng, sương đêm ướt lạnh cả đôi vai, gió núi quật từng cơn khiến đoàn người co ro, cây lá ven đường thì xào xạc khua vang, đến trước cổng nhà Thờ cha xứ ra tận ngõ đón đoàn người, cha lấy tay vuốt dầu các em nhỏ, ân cần thăm hỏi các cô bác lớn tuổi, và đoàn người lần lượt vào nhà thờ tá túc, bất chợt chúng tôi thấy ấm lòng vì đang trong hoàn cảnh ly loạn đầy khó khăn thế mà tôi với thằng Kết đã ” Dũng cảm ” đưa bà con đến nơi an toàn, chúng tôi định chào cha xứ và hai người đàn ông lớn tuổi trong đoàn để trở lại tiép tục công việc nơi đơn vị đang đóng quân, cha xứ lên tiếng:

    – Hai con thật dũng cảm , thể hiện trách nhiệm và tình yêu thương con người , cha thay mặt đồng bào xin cảm kích tấm lòng chúng con , cầu xin chúa giúp hai con bình an , may mắn .

    Tôi với thằng Kết rưng rưng xúc động, chưa kịp đáp từ lời cha xứ dạy, thì một bác lớn tuổi nắm lấy bàn tay tôi và thằng Kết, ông còn lại đặt vào lòng bàn tay hai đứa tôi những xấp tiền toàn là giấy bạc mệnh giá lớn có in hình của Đức Thánh Trần Hưng Đạo.

    Bất ngờ với thái độ trên của hai ông, chưa kịp phản ứng thì một ông nói:

    – Hai chú nè, ở đời ông bà mình nói: ” Thi ân bất cầu báo”, nhưng hai chú rất có tấm lòng, bà con góp lại một ít gửi mấy chú ít tiền làm quà cho vui, mong hai chú nhận cho.

    Tôi nháy mắt thằng Kết ngầm bảo nó không nên lấy tiền bạc của đồng bào, thằng Kết gom tiền lại và nhét vào túi áo một ông rồi nó nói:

    – Bà con đang di tản khổ sở thế này, chúng cháu không dám nhận, xin ông trả lại cho đồng bào, không khéo chúng cháu phải ân hận suốt đời nếu lấy tiền này của đồng bào.

    Dường như trong nghịch cảnh thì tâm hồn của mọi người đều có cách suy nghỉ và hành động giống nhau, tự dưng chúng tôi, Cha xứ, hai người đàn ông nọ nấc lên nghẹn ngào, rồi thì cha xứ lên tiếng với hai ông nọ:

    – Hai anh lính này xử sự rất đúng mực, thôi hai bác cất tiền trả lại cho bà con đi, hai anh em trở về đơn vị kẻo muộn.

    Trên đường quay lại đơn vị tôi và thằng Kết thật sự vui sướng trong lòng vì mình đã làm một việc tốt theo dúng câu dạy của người xưa:

    ” Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
    Người trong một nước phải thương nhau cùng “.

    Mấy hôm sau kể từ hôm đơn vị chúng tôi không tìm ra phương hướng khi cứ phải lòng vòng mãi trên một đỉnh núi rộng lớn, ở đây bạt ngàn những cây gỗ to hai ba người ôm không xuể, do nơi nầy bị từ trường trái đất nhiễu loạn làm cho la bàn không còn hoạt động như ý nữa, tuyệt vọng vô cùng vì lương thực và nước uống cạn đần, thời may trực thăng quan sát phát hiện đoàn chúng tôi họ đáp xuống và bốc chúng tôi ra ngay phi trường Động Tác của Tuy Hòa, cơn sốt rét trong người tôi bộc phát ngay lúc này, tôi được trực thăng chở thẳng một lèo vào quân y viện Nguyễn Huệ cho dến hôm phải tiếp tục làm người di tản tập 2 trong bộ phim nhiều tập ” người di tản buồn ”.

    * * *

    Nhìn dãy giường trong phòng bệnh tôi thấy hình như mấy anh em nằm ở quanh tôi họ đã lặng lẽ rời nơi đây tự bao giờ, lúc bấy giờ tôi thật sự lúng túng, trong người thì còn rất ít tiền, lại ở một nơi lạ nước lạ cái không một người quen tôi không biết mình xoay xở ra sao, cuối cùng tôi cũng bấm bụng rời khỏi quân y Viện, tôi bước ra khỏi cổng trước khi theo đoàn người xuôi ngược kia, tôi chỉ kịp ngoái nhìn lại nơi đã dung dưỡng tôi trong tuần vừa qua, Tôi chợt nghĩ trong tình hình này ở trong quân y viện ít ra cũng có cái tâm lý được che chở an toàn trong mọi tình huống, một khi bước chân khỏi nơi ấy xem như tôi đứt liên lạc với đơn vị, với người thân ở Sài Gòn.

    Tôi hòa vào dòng người đang trên đường, tôi mất phương hướng vì không biết mình sẽ đi đâu về đâu với tình hình hỗn loạn này, chợt thấy một ông cụ già đang bước đi khó nhọc, tôi đến gần và hỏi thăm:

    – Dạ chào cụ ạ, cho cháu hỏi thăm đường nào ra Cầu Đá Nha Trang vậy hả cụ?.

    Ông ngước mắt nhìn tôi rồi hỏi:

    – Cậu theo hướng đó, cứ đi khắc sẽ đến. Aø mà cậu chắc mới đến đây lần đầu phải không? Loạn lạc triền miên, người khắp nơi đổ về đây khiến thành phố thêm chật chội ngột ngạt. Thế cậu đến Cầu Đá làm gì ?.

    Tôi thuật lại cho ông biết tình trạng ” tứ cố vô thân ” ở vùng đất mình đang hiện diện, nghe xong ông chặc lưỡi và ôn tồn nói với tôi:

    – Cậu theo tôi đến nhà tôi tá túc tạm thời ngày mai hoặc ngày mốt cậu hẳn đi, vì giờ này dưới cảng Cầu Đá người đông nghịt, con nước này tàu bè chưa thể vào được đâu, cậu cứ nghe tôi không việc gì phải sợ.

    Như một kẻ đắm tàu đang lênh đênh ngụp lặn trong biển cả mênh mông, gặp ông cụ có tấm lòng nhân hậu này tôi như vớ được chiếc phao khi mình sắp chìm sâu trong lòng biển cả, vui mừng tôi nắm chặt tay ông rồi nói:

    - Dạ con cám ơn ông, sau này khi nào đất nước hết cơn binh lửa, con sẽ nhất định tìm lại thăm ông.

    Một già một trẻ, tôi và cụ dìu nhau về đến nhà cụ cách đấy không xa, nhà cụ nằm cách bãi biển bởi một con đường, hàng phi lao được trồng dọc dài theo bờ biển, những ngọn gió mát mang mùi của biển mặn thỉnh thoảng thổi nhẹ vào bờ, nơi đây nằm ở một góc khuất cuối con đường nên không gian thật yên tĩnh, tôi lấy lại tinh thần từ khi gặp cụ già này, ngồi trước sân nhà ông trên chiếc ghế đá cạnh hàng liễu rũ, một hòn non bộ nước róc rách chảy từ các khe của ngọn giả sơn, bên dưới một đàn cá đủ màu tung tăng bơi lội bên những nhánh rong xanh um, quan sát chúng sống nô đùa bên nhau khiến tôi chợt thèm cái không khí gia đình của mình thuở nào, cái không khí yên bình đó đã không còn trong tôi kể từ khi bước chân vào quân ngũ cho đến tận lúc bấy giờ …

    – Nè cậu em, tôi pha cho cậu ly cà phê nóng đây, còn cái này tôi nghĩ cậu ăn tạm cho qua cơn đói.

    Đang thả hồn theo cuộc sống thong dong của bầy cá, thì tiếng cụ già đã đưa tôi trở về thực tại, nhìn ly cà phê bốc khói thơm tho, nhìn ổ Bánh mì thịt jambon to tướng khiến ruột gan tôi cảm nhận được cơn đói đang cồn cào trong tôi, nhìn ông cụ trên gương mặt nhăn nheo của ông đang ngời lên một niềm vui vì cụ đang dang tay cứu lấy một con người, lúc này tôi mới chợt nhớ lại cái hôm tôi với thằng Kết làm ” Hiệp sĩ giữa rừng xanh ” đưa đoàn người đến cái nhà thờ đêm ấy, tôi nghỉ tâm trạng của ông cụ chắc hẳn là nó không khác với tâm trạng của hai đứa tôi đêm đó.

    – Dạ con cám ơn, cụ thật chu đáo đã cho con ở nhờ còn cho con ăn uống nữa.

    Không khách sáo cụ thúc giục tôi:

    – Chẳng có gì ơn với nghĩa cậu ơi, mình là đồng bào với nhau thôi mà, tôi giúp cậu thì sau này tôi cơ nhỡ thì người khác giúp tôi thôi, ở đời mà cậu. Thôi cậu ăn đi cho đở đói.

    Tôi ăn ngấu nghiến như chưa bao giờ được ăn, thú thật trong cơn hoạn nạn thì ổ bánh mì hôm ấy đối với tôi nó quý như vàng, nó vừa giúp tôi qua cơn đói rã rời nó vừa cho tôi nhận biết được cái tình người chân thật nơi ông cụ, cái mùi hương của ly cà phê và mùi của ổ bánh mì nọ nó vẫn còn thoang thoảng trong tôi mãi đến tận bây giờ.

    – Chào chú ạ!

    Vừa hớp một ngụm cà phê, chợt sau lưng tôi một giọng nói trong trẻo vang lên, tôi ngoái nhìn lại một cô bé tuổi trăng tròn đang khép nép đứng bên cụ và khoanh tay chào tôi, chưa kịp đáp lời thì cụ đã lên tiếng:

    – A . Ha đây là cháu Trang, cháu ngoại của tôi đó chú, cháu học giỏi lắm nha cậu.

    Tôi khẻ gật đầu chào cô bé, rồi buộc miệng hỏi:

    – Em tên Trang à, mà Trang Gì mới được chứ. Chẳng hạn như Thanh Trang, Huyền Trang.

    – Dạ ba mẹ đặt cho cháu Tên Nguyễn Thị Nha Trang đó chú.

    Nghe cô bé giới thiệu cái tên thật đặc biệt của mình, sở dĩ tôi dùng từ đặc biệt là bởi cô bé Nha Trang này đang là cư dân của thành phố Nha Trang đẹp tuyệt trần này, sau này có dịp nhìn Diện mạo tổng quát thành phố biển xanh cát trắng này từ trên phi cơ tôi phải buột miệng:

    ” Nha Trang ơi, sao ” em ” đẹp lạ thường, cái đẹp thật hồn nhiên của hàng dừa cao xanh biếc , quyện gió trời sóng biển nhảy tung tăng, bờ cát trắng trinh nguyên như tính tình con gái, khiến hồn tôi xao xuyến khi nhìn ” em ” đang tuổi xuân thì ”.

    Tôi vội khen nịnh:

    – Tôi phải công nhận ba mẹ em hay thật khi lấy tên thành phố thân yêu này đặt cho em, như muốn gửi gấm vào đấy cái tình yêu nồng nàn với quê hương của mình đất với biển nơi này.

    Nha Trang e Thẹn đưa mắt hỏi dò tôi:

    – Chú ơi! Chú Tên gì vậy? chú là lính gì vậy? Cháu thấy nhiều chú có quân phục giống y hệt chú hồi cháu về Dục Mỹ chơi với mấy đứa bạn , thôi cháu biết rồi chú là ..là .. Lính …

    Tôi cướp lời cô gái:

    – Là ..lính … Biệt động quân cháu ơi. Chú Tên Hung .. Huyền đó cháu .

    – Ủa chú con trai sao tên Huyền, vì tên Huyền dành cho con gái không hà chú ơi, chú hổng thấy cô ca sĩ Mai lệ Huyền hát nhạc giật gân với chú Hùng Cường đó hay sao, chú mà tên Huyền chắc nhiều cô ghẹo chú lắm đa.

    Tôi cười ngất, khiến ông ngoại của Nha Trang cũng cười theo:

    – Ai nói với em là tôi tên Huyền?

    – Thì chú mới nói thất thì chứ đâu? Chú Nói Hung .. Huyền …í chết cháu xin lỗi chú Tên Hùng chứ gì, tại cháu nghe không kỹ, mà chú cũng cắc cớ thiệt nha, còn Ngoại nữa vậy mà cũng cười.

    Khi biết tôi là người lính mũ nâu đôi mắt Nha Trang vui lên nhưng rồi đôi mắt Nha Trang dường như mang một nỗi buồn xa xăm nào đó, cô bé cười rồi kể cho tôi nghe câu chuyện của cô bé ..

    – Chú biết không, cách đây hai năm hè năm ấy …

    * * *

    – Nha Trang .. Nha Trang kìa anh Quân của mình đang ra khỏi cổng kìa, bà thấy mặt ổng bà ” mết ” liền cho coi.

    – Xí, ở quân trường Dục Mỹ thiếu gì anh lính đẹp trai, chắc gì anh bà bằng họ không, nhưng để tui coi nếu ông Quân mà bô trai thì tui ok liền ..ha ha…

    Nha Trang và Hạnh Nhi đôi bạn học thân thiết, giờ họ đang có những ngày hè ở Dục Mỹ quê nhà của Hanh Nhi, ngày chủ nhật nọ hai cô đến Quân Trường Dục Mỹ để thăm người anh của Hạnh Nhi , người mà nôn nao trong lòng hôm ấy không ai ngoài cô bé Hạnh Nhi, thấy anh mình cũng gần quá lứa mà chưa có mảnh tình vắt vai nên cô đã cố gán ghép Nha Trang cho Quân, hai cô trau đổi với nhau nhiều về anh chàng này, hôm nay Nha Trang mới có dịp nhìn tận mặt người mà bà ” mai ” Hạnh Nhi muốn tìm cho mình cái đầu heo do công mai mối.

    – Cha ơi, dữ không hôm nay mới đến thăm anh, à đây là Nha Trang phải không, anh chào hai em. Mình vào quán nước bên đường nhé.

    Nhìn nhân dáng Quân người săn chắc đen dòn bởi nắng gió của vùng rừng núi nơi này, cách ăn nói chững chạc lịch sự khiến cho Nha Trang có cảm tình ngay từ cái buổi đầu tiên ấy, cái câu của thi sĩ nào đã nói thay tâm trạng Nha Trang:

    ” Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
    Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên ”.

    Từ khi gặp nhau Nha Trang và Quân yêu nhau thật lòng, ba mẹ Nha Trang cũng thuận lòng khi Nha Trang ăn học thành tài thì Quân sẽ là rể Đông Sàng của nhà mình.

    Chiến trường quân khu 2 bổng dưng sục sôi trở lại, hai bên chạm súng liên tục, Quân thôi không còn làm huyến luyện viên của Quân trường nữa, anh nhận sự vụ lệnh làm đại đôi trưởng của một tiểu đoàn Biên Phòng , chưa một lần về phép thăm lại người yêu . Quân đã vĩnh viễn nằm lại miền Kontum đầy nắng gió, Tin dữ bay về Nha Trang, cô Bé Nha Trang cùng Hạnh Nhi bay lên KonTum nhìn lần cuối một nấm mộ buồn của Quân nằm cạnh buôn Làng người dân tộc.

    * * *

    Đã qua ngày thứ hai tôi vẫn chưa rời khỏi Thành Phố này, trong lòng tôi nôn nóng, cứ dò hỏi tình hình nhưng ông Bảy, cụ già đang cưu mang mình vẫn trả lời một cách từ tốn.

    – Chưa có Tàu cặp bến chú Hùng ơi, kệ nó chú ở đây với tui , có buồn thì cháu Nha Trang dẫn chú ra biển trước nhà hóng mát, tui dặn mấy đứa cháu ở Cầu Đá rồi, hể có rục rịch thì mấy đứa về đưa chú đi ngay.

    Nghe ông Bảy nói tôi cũng tạm an lòng, đêm ấy ánh trăng mười sáu đẹp mê hồn, trồi lên từ dưới nước, trăng nhanh chóng trèo lên cao, thấy tôi ngồi buồn buồn Nha Trang lắc vai tôi và nói:

    – Chú Hùng nè, chú thấy trăng Nha Trang đẹp không, chú cháu mình dạo mát bờ biển đi chú, ra đó cháu nghỉ chú sẽ vơi bớt nỗi buồn ngay.

    – Ừ thì đi, nhưng em nhớ mang áo khoác vào kẻo lạnh.

    – Không cần đâu chú, Nha Trang quen rồi, chỉ sợ chú thôi chú còn đang bệnh mà. Nếu cô bé không nhắc thì tôi cũng quên phức mình bị con ma sốt rét đang hành hạ, khoác chiếc áo do ông Bảy trao cho, tôi và Nha Trang đi nhanh về phía Biển ..

    Đi dạo dọc bờ biển, gió từ ngoài khơi từng đợt thổi ùa vào, thỉnh thoảng những đợt sóng dài chạy nhanh vào bờ, tôi thấy rõ từng vỏ ốc trồi hẳn lên mặt cát sau những cơn sóng rút xa bờ, rồi những lâu đài các của bọn dã tràng cũng tan biến sau từng cơn sóng vổ. Chọn một nơi khô ráo cách mép nước không xa lắm, tôi và Nha Trang ngồi nhìn mông lung ra biển , sóng vẫn lăn tăn chạy từ ngoài khơi vào, ánh trăng sáng phản chiếu bàng bạc xuống mặt biển một cảnh đẹp mà lâu lắm rồi tôi chưa bao giờ gặp lại, nhìn xa ra ngoài khơi vài chiếc tàu chở hàng neo đậu đèn trên boong sáng trưng:

    – Chú Hùng này, chú có người yêu chưa vậy? Nha Trang thấy chú Chẳng vui bao giờ, bộ chú thất tình ai hả?

    Tôi thôi thả hồn về cỏi mông lung, trả lời cô gái trẻ tôi nói:

    – Người yêu hả? Có mà cũng như không, gì mà “Thất” tình, tôi có ” cửu ” hoặc
    ” thập ” tình rồi chứ thất thì nhằm nhò gì, mà em hỏi chi vậy .

    Đôi tay mềm mại của Nha Trang vốc từng nắm cát trắng thật chặt nhưng nào giữ được trong tay, cát tuôn theo từng kẽ ngón tay, cát vuột khỏi tay em như em đã vuột mối tình thật đẹp với Quân, hết vốc cát nọ Nha Trang lại vốc tiếp nắm cát khác rồi cầm chặt tay lại dường như em muốn nắm bắt một điều gì, em nói với tôi:

    – Nha Trang hỏi vậy thôi, nay mai trở về Sài gòn rồi chú có bao giờ nhớ đến Nha Trang không?

    Tôi hơi bất ngờ câu hỏi cô bé đặt ra cho mình, tôi công nhận cô bé Nha Trang này thông minh sắc sảo, cách đặt câu hỏi rất khéo , tôi nghỉ cô bé thừa biết tôi có câu trả lời như thế nào rồi, dĩ nhiên khi rời xa nơi đây chắc tôi chẳng thể nào quên Nha Trang , một người con gái có cái tên Nha Trang và Thành Phố Nha Trang yêu dấu này:

    – Tôi nhớ cả hai.

    Cô bé mỉm cười lộ chiếc răng khểnh thật duyên dáng, rồi cố bắt bí tôi:

    – Chú Hung … Huyền nói vậy là sao?

    – Thì cả Hai, thành Phố Nha Trang và cô bé Nha Trang này nè. Mà quên nữa cả ba mới phải, còn Ông Bảy Ngoại em nữa chứ

    Nha Trang vui sướng reo lên:

    – Chú mà quên Ngoại của Nha Trang là Nha Trang nghỉ chơi chú luôn . Hi ..hi.

    Tôi và Nha Trang đang miên man suy nghỉ theo cái ý của mình, bỗng đâu từ phía đàng xa tiếng súng nổ và ánh lửa trên nòng súng lập loè, Theo phản xạ tôi nhào người đè Nha Trang nằm rạp xuống cát để tránh đạn, do lố đà Tôi vô tình đặt một nụ hôn lên gò má của Nha Trang, tôi ôm chặt em vào lòng như che chở làn đạn vô tình kia, Nha Trang thì hốt hoảng nhưng cũng nhận ra nụ hôn ngộ ngĩnh của tôi, em nói:

    – Cảm ơn Anh đã che chở cho em, mình nằm đây chút nữa đi anh.

    Tôi chưa kịp trả lời, thì nghe phía bên đường vang tiếng gọi của ông Bảy:

    – Trang ơi! chú Hùng ơi! Về ngay nguy hiểm lắm.

    Tôi tiếc nuối cái hơi ấm của Nha Trang chưa sưởi ấm lòng mình mà phải trở vô nhà, tôi dìu Nha Trang đứng dậy, phũi cát cho sạch người, hai đứa tôi vụt chạy nhanh vào nhà, đàng xa vẫn nhiều tiếng súng nổ …

    Đang nằm mơ màng trên chiếc võng, tôi nghe ông Bảy lay nhẹ, ông nói:

    – Chú Hùng, dậy đi tàu Hải quân cập cầu Đá rồi, nhanh lên chú mấy đứa đưa chú đi ngay, về trỏng rồi nhớ thư từ ra cho tui nha, gửi lời thăm cả nhà chú.

    Chuẩn bị xong tôi ngó quanh vào trong nhà, như hiểu ý ông Bảy nói:

    – Nha Trang nó còn ngủ, lúc nãy súng nổ cháu rất sợ, may mà có chú nếu không thì …

    Ông bảy bỏ dở câu nói , tôi nghe giọng ông nghèn nghẹn, tôi hiểu ý ông Bảy không muốn Nha Trang ra tiễn biệt tôi vì ông không muốn Cháu ông lại mang thêm một nỗi buồn nữa kể từ khi Quân đi xa.

    – Con cám ơn ông Bảy, nhất định con sẽ trở lại Nha Trang thăm mọi người. Ông cho con gửi lời thăm cô Nha Trang ông nhé.

    Tôi ngồi sau lưng người cháu trai ông bảy, anh này lái chiếc Honda 67 chạy thật nhanh, trên đường đi anh cho tôi biết, cuộc nổ súng lúc đầu hôm do đám người xa lạ ở đâu đến cướp, họ bị bắn hạ một người khiến đám còn lại hoảng vía dông mất biệt. Chẳng mấy chốc Cảng Cầu Đá hiện ra, tôi ước chừng tập trung nơi này gần cả ngàn người đủ thành phần. Cảm ơn người cháu ông Bảy tôi bắt đầu tìm cách lên boong tàu, chen lấn rất vất vả qua bao lớp người ken dày đặc, không ít lần dưới chân tôi dẫm phải xác những em nhỏ nằm chết ngạt cứ mỗi lần dẫm phải ruột gan tôi như cồn cào, cảm giác tội lỗi giống như chính mình gây nên cái chết của các em.

    Khi đến sát mép bờ đá do Tàu không thể cập sát mà phải đậu cách hơi xa, muốn lên tàu phải có người phía trên nắm tay rồi chân mình phải đạp trúng sợi dây cáp căng ngang phía dưới thì mới có cơ may lên được boong tàu, thiếu một trong hai yếy tố này thì không thể lên boong được, người từ phía sau lưng cứ đẩy tới, rất nhiều người bị lấn lọt khe giữa Tàu và bờ coi như một đi không trở lại, đến khi lên được boong tàu tôi mới tin mình còn sống …

    Khoảng 4 h sáng tàu nhổ neo, chúng tôi chen chúc trên boong như những lũ cá mòi được xếp lộn xộn trong cái hộp, mặc dù tàu chạy ra ngoài khơi khá xa gió mạnh mà vẫn không xua được cái hơi của cả ngàn sinh linh trong cái không gian nhỏ bé của boong tàu …

    Miền nam buông súng, mọi cái mới mẻ xa lạ áp đặt vào, rồi dần dà mọi người cũng phải làm, phải ăn phải sống. Lần nọ có dịp đi theo đoàn khảo sát tour du lịch Sài gòn Nha Trang Đà Lạt, tôi Trở lại Nha Trang vào buổi chiều nọ, khi đã làm việc với du lịch Khánh hoà xong xuôi, tôi nhờ anh Tài xế chở mình lại nơi con đường ngày xưa nơi ông Bảy đã dang tay cứu mạng, khi đến nơi tôi sững sờ căn nhà có hàng liễu rũ không còn nữa, nó biến mất tự bao giờ, tôi nghĩ mình bị lầm mà còn liên tưởng chuyện Từ Thức lên tiên, khi về trần xong Từ Thức quay lại đường cũ đễ gặp Giáng Huơng thì đường mây đã bít lối, tôi cứ ngỡ mình đang ở trong một giấc mơ, khi hỏi lại người chung quanh thì họ cho biết gia đình ông Bảy đi vùng kinh tế mới nào đó và mất liên lạc kể từ đó.

    Kỷ niệm xưa ùa về hình bóng Nha Trang ngồi nơi mép biển ngày nào vẫn còn trong trí nhớ của tôi, vẫn còn đấy những vỏ ốc nằm chõng chơ nằm trên cát, vẫn nhiều chú dã tràng se cát xây lên những lâu đài để rồi sóng biển vô tình xoá đi công sức của chúng, bất giác tôi nghĩ mình cũng giống chú dã tràng kia, tôi chưa xây được lâu đài mà người ơn của tôi đã bị quét khỏi vùng biển mặn này, Nguyễn Thị Nha Trang em ơi, giờ đây chỉ còn mình anh ngồi trên biển vắng vốc cát đầy tay rồi nhìn nó tay chảy qua khe kẽ tay, như anh đã mất dấu của Nha Trang từ đây.


    Hai Hùng SG

    Source: "https://vantuyen.net/2015/12/06/hai-hung-sg-tro-lai-nha-trang/"

  4. #4
    Hai Hùng SG's Avatar
    Status : Hai Hùng SG v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2018
    Posts: 128
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Cảm ơn anh Không Quân 2 đã post bài này lên trang nhà của chúng mình, rất vui khi được góp vui vô mục truyện ngắn của Hội quán Phi Dũng.
    Hai Hùng SG

  5. #5
    Hai Hùng SG's Avatar
    Status : Hai Hùng SG v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2018
    Posts: 128
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Cảm ơn Bạn Long Hai đã đưa bài Cút Bắt Trò Chơi của mình vô đây, mình viết truyện ngắn này khi đến gần đoạn kết mình rưng rưng nước mắt khi nhớ lại hai đứa bạn cùng xóm đã cùng phi đội "Nhân ái 95" ( Danh hiệu liên lạc của trực thăng tản thương) rời khỏi vùng hỏa tuyến để về nơi Miên viễn.
    Mấy mươi năm rồi, mỗi khi nhớ lại tôi vẫn bùi ngùi thương nhớ.
    Hai Hùng SG.

  6. #6
    Hai Hùng SG's Avatar
    Status : Hai Hùng SG v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Sep 2018
    Posts: 128
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default Truyện ngắn

    Truyện ngắn : Thành phố buồn tênh
    Tác giả : Hai Hùng Sg
    Thành Phố Buồn Tênh
    Hai Hùng SG



    Tiếng hát trầm buồn của ca sĩ Chế Linh đang trình bày ca khúcThành Phố Buồn từ máy hát của nhà ai dội đến, ca khúc này đã khiến tôi nhớ quay quắc Thị Xã Kon Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân trong thời chinh chiến, cũng là chốn để lại cho Tôi nhiều kỷ niệm rất thân thương trong miền ký ức, ở đây có một người thiếu nữ người dân tộc Ba Na sinh sống tại ngôi làng Konjơret ( Con dơ rét ), nằm cạnh bìa rừng cách sông Đakbla ( Đắp la ) xinh đẹp một con đường đất đỏ chạy xuyên suốt từ đầu đến cuối buôn làng. Cô gái có cái tên rất lạ: Djem ( Dem ), cô sở hữu một làn da trắng như những cánh hoa Cà phê được bà con trồng ven làng, mái tóc dài đen nhánh, thân hình cân đối và nhất là hàm rắng rất trắng và đều, nói chung là không chê vào đâu được..
    Một ngày giữa năm 1974, do yêu cầu của chiến trường, đơn vị chúng tôi được phối trí lực lượng và đóng quân cách buôn làng nói trên chừng trăm mét, mục đích để chận đường chuyển quân của đối phương và bảo vệ buôn làng người dân tộc nơi đây. Sau một ngày vất vả ổn định nơi ăn chốn ở và nơi làm việc, khi chiều đến tôi cùng đồng đội ra con sông Đakbla để tắm giặt và lấy nước về sinh hoạt, xong đâu đấy Tôi và thằng bạn rất thân nó có tên Bùi Đức Kết người Quê Quảng Ngải hai đứa ra ngồi cạnh bờ sông phía khu vực bên bị nước sông xâm thực tạo thành vách thẳng đứng rất đẹp nhưng hơi nguy hiểm vì có thể bị sụp đất rơi xuống sông lúc nào không hay, ngồi đong đưa hai chân, ngước nhìn bầu trời trong xanh bao la, rồi nhìn dòng sông lững lờ chảy, gió thổi hiu hiu, khung cảnh lạ lẫm nhưng hữu tình, giá mà lúc ấy biết làm thơ thì có lẽ giờ này Tôi cũng có được vài chục bài ca ngợi cảnh đẹp nơi này, đang thả hồn và đắm chìm với những suy nghĩ mông lung... bất chợt tiếng thằng Kết bạn tôi kêu lên thản thốt:
    - Hùng ơi! mầy nhìn xem, Có cô Tiên ở đâu đang hiện ra kìa.
    Nhìn theo hướng của thằng Kết chỉ, Tôi vội đáp lại:
    - Thôi đi ông ơi, đó là nhà của Cô ấy chứ đâu ( Tôi đoán mò )- Ủa mà sao tao thấy hình như mầy mới bị sét đánh phải không thằng quỷ, cái tật thấy con gái là mầy tươm tướp hà, coi chừng họ có chồng rồi đó đừng có mơ nghe mậy.
    Chẳng thèm để ý đến lời của Tôi, mắt nó cứ nhìn chầm chầm về ngôi nhà sàn nằm phía bên kia đường có cô gái đang ngồi ngoài hiên nhà chải tóc, bổng dưng hắn đổi tông hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập đâu vào đâu:
    - Hồi nào tới giờ Tao với mầy chơi nhau rất thân đúng không Hùng? Ngạc nhiên vô cùng Tôi thầm nghĩ: " Thằng này nó muốn cái gì đây, nói đại cho rồi còn bày đặt xa gần chi vậy nữa "
    Trả lời nó Tôi nói:
    - Còn cái gì nữa mà hỏi, bộ mầy tính nhờ tao chuyện gì phải không? Muốn mượn chút đỉnh gửi về cho gia đình hả, Tao còn đúng 8.000 đồng nè, muốn thì cứ lấy đi, vậy là tháng này tao treo "mỏ" luôn.
    Thằng Kết đớp chát lại Tôi:
    - Không phải đâu mầy ơi, tao gửi tiền về rồi, nhờ mầy chuyện khác, chờ tao một chút biết liền. Nó xoay người sang một bên, đúc tay vào túi quần rút gói thuốc lá quân Tiếp Vụ nhăn nheo ra, đưa tay vuốt thẳng gói thuốc lá xong, nó xé tờ giấy bạc bên trong và lấy viết ra hý hoáy nhiều dòng chữ gì đó mà mãi đến bây giờ tôi chưa được đọc qua.
    - Bây giờ tao nhờ mầy đem lá thư này đưa cho em gái bên đó dùm tao, và mầy chịu khó chờ cô ấy đọc xong và trả lời rồi mầy hãy về cho tao biết, xong việc này tao bao mầy một chầu cine ở ngoài Thị xã Kon tum, nếu không coi hát bóng thì mầy muốn gì tao cũng chìu, nhưng nửa tháng lương không kèm phụ cấp nghe mậy.
    Cầm lá thư trên tay tôi thầm nghĩ " Cái thằng này sao nó bạo quá, chưa bao giờ nói chuyện với con người ta mà dám thư với từ ". Tuy vậy vì thương bạn nên Tôi bất đắc dĩ làm cánh én chuyên chở mùa xuân Tây nguyên về cho nó, một thằng quỷ " Háo sắc " thấy phát ớn.
    Bước chân đến cầu thang gỗ trước hiên nhà cô gái, mắt tôi ngước nhìn, Đầu óc tôi gần như choáng váng và chợt nghĩ " Cái thằng Kết ranh ma này đúng là có con mắt tinh đời", trước mắt tôi một dung nhan thánh thiện, nàng đẹp mê hồn khiến tôi cứ lóng ngóng thốt chẳng nên lời, thậm chí lúc ấy bản năng trổi dậy tôi định dấu biệt cái thư của thằng bạn thân kia, thầm mong làm quen với người đẹp riêng cho mình, nhưng rồi lý trí mách bảo Tôi phải đi lại đường ngay lẽ phải, Tôi ngập ngừng nói với cô gái:
    - Chào em ( Lấy hết can đảm ) Anh tên Hùng, anh mới về đóng quân sáng nay cạnh Làng mình, tình cờ gặp em nên bạn anh ( Tôi chĩ tay về phía bờ sông ) nó tên Bùi Đức Kết.Nó nhờ anh cầm thư này đưa cho em, anh không biết nó viết gì trong ở trong đó vì lịch sự anh không thể xem thư, nếu có gì không phải thì xin em vui lòng bỏ qua cho nha. Cô gái nhoẽn miệng cười tươi như đoá hoa rừng vừa hé nở, lòng tôi xao động vô cùng, lúc ấy tôi cố kiềm chế chứ không thì sẽ không tròn nhiệm vụ của thằng bạn thân thiết giao phó. Djem nhận lấy lá thư vừa xem xong bổng dưng nàng cười ngất khiến tôi khó hiểu vô cùng. với giọng lơ lớ của đồng bào dân tộc nàng nói:
    - Anh Hùng ơi! Anh nói với bạn anh là em có người yêu rồi. thật tiếc quá, thôi để em giới thiệu con Hơbia bạn em cho anh Kết nhé, còn người yêu của em là anh Hùng nè!
    Đất trời như sụp đổ dưới chân tôi, chân tay tôi lạnh cóng. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được một người con gái, mà là gái đẹp nữa, nói lời yêu thương mình thì hỏi làm sao tôi không khỏi bồi hồi. Tôi chợt hiểu thì ra thư tỏ tình của thằng Kết. Bây giờ tôi phải ăn nói làm sao với nó đây? Không khéo nó lại cho mình là kẻ cướp tình yêu thì khốn khổ lắm thay. Tôi nói với cô gái:
    - Anh không ngờ nó để ý em nhanh đến thế! À mà tại sao em không thích bạn anh, còn anh đâu có gì đâu mà em lại chọn
    - Em thấy Anh Đẹp trai hơn bạn anh
    ( chắc lúc đó nàng chỉ nhìn cái tướng tá thôi vì xa quá làm sao biết thằng Kết không đẹp ), cô gái nói tiếp:
    - Đã vậy anh Kết còn lùn hơn em...
    Tôi bật cười với câu nói ngây thơ thật lòng của cô gái miền sơn cước, Tôi đắm chìm trong hạnh phúc " Ðê mê " kia, cái cảm giác " Bất chiến tự nhiên thành " nó đến với tôi như một phép mầu, không dễ gì có được lần thứ hai... Rồi dăm tháng trôi nhanh, mới đó mà NOEL lại về trên quê hương, ngôi nhà thờ trong làng Konjoret được thanh niên, thiếu nữ Ba na, già làng, cùng cha bề trên giăng đèn kết hoa làm cho không khí núi rừng tây nguyên mang một sức sống mới, Tôi và thằng kết cũng góp một tay vào công việc này để tỏ cái tình Quân Dân Cá nước.
    Ðêm Noel thật vui, sau khi rước đèn quanh làng, Tôi và thằng Kết được mời chung vui tiệc ( Rờ vi Dông ) đến gần tận sáng, nào rượu cần, nào thịt heo, vịt, gà tất cả đều nướng lên trên đống lửa bập bùng, hương nồng của rượu, cái nóng của đống lửa hoà vào cái không khí lạnh giá đêm noel, Tôi ngồi cùng Djem, thằng Kết quấn quít với con Hơbia chúng tôi có cái cảm giác hạnh phúc đông đầy, tôi cảm thấy trên cuộc đời này không có gì tuyệt vời như đêm hôm ấy, cuộc sống bà con nơi đây không xa hoa, quanh năm sống cùng cái rẫy trên ngàn, con Cá dưới sông dưới suối, con Nai con. Mễn trên rừng, cuộc sống như vậy đó mà thật là hiếu khách, bản chất hiền hoà của mọi người khiến chúng tôi muốn rơi nước mắt khi chia tay nơi này, tôi sẽ nói ở phần sau...
    Mùa mưa của Tây nguyên lại đến, những cơn mưa rừng thường thì không lớn, ít khi hung hãn như mưa vùng đồng bằng, tuy nhiên có những cơn mưa rả rích cả tháng không thấy mặt trời, mặt đất nhuộm đầy bùn đất đỏ, nhất là cái lạnh mà anh em thường nói lạnh từ trong xương lạnh ra. Một hôm đang ngồi trực máy truyền tin tại Trung tâm hành quân của đơn vị, bổng đâu từ phía ngoài thằng Kết mình ướt như chuột lột nó lao vào như tên bắn, đến chổ tôi ngồi nó thì thầm bên tai tôi như sợ các Xếp biết chuyện bí mật gì vậy:
    - Người yêu mầy đang bị sốt rét rừng hành hạ kìa, Ông Thượng sĩ Còn (Tên riêng ) nhờ báo cho mầy biết đó.
    Giật bắn người, tôi cự nự nó:
    - Sao giờ này mày mới nói hả thằng quỷ?
    Bật đứng dậy tôi dùng hai tay ấn vai thằng kết xuống ghế, nhờ nó làm thay công việc tôi đang làm dang dở:
    - Mầy trực dùm tao, chút nữa tao trở về.
    Nói được có bấy nhiêu, khoác vội chiếc Poncho Tôi đến ngay nhà Djem, mọi người trong nhà vây quanh, Djem nằm thở mệt nhọc, vóc dáng xanh sao, bao nhiêu sinh khí hầu như mất gần hết, Tôi thương cảm và đến gần bên hôn nhẹ trên trán ( Lúc này Tôi hơi tự nhiên ) và hỏi nhỏ:
    - Em có uống thuốc men gì chưa? ăn uống được không?
    Djem cố trả lời:
    - Ở đây không có uống thuốc gì hết, có nhờ thầy cúng đến làm phép bắt con ma rồi, vài hôm em sẻ khỏi thôi mà.
    Tự dưng tôi nỗi nóng:
    - Trời ơi! Bệnh là phải uống thuốc chứ, cúng kiến làm gì mà khỏi bệnh, sao mà vùng này còn mê tín quá vậy.
    Nhiều cặp mắt người thân trong nhà nhìn về phía tôi, họ nghĩ tôi từ một hành tinh nào đến chứ không phải người từng sống nơi đây, tập tục người dân tộc khi bệnh hoạn thì nhờ thầy Cúng, công bằng mà nói nhiều khi con bệnh có sức đề kháng tốt thì tự khỏi bệnh trong vài hôm thì công lao đó đượ coi như là nhờ thầy cúng, từ đó bà con cứ tin mà làm theo lệ. Biết mình lỡ lời thiếu kiềm chế, Tôi lấy cớ thối thoát xin phép ra về. Sau đó tôi nhờ vị sĩ quan quân y ở đơn vị đến chạy chữa thuốc men thì Djem khỏi bệnh sau một tuần bạo bệnh, sau lần đó tình yêu chúng tôi càng thăng hoa hơn, tuy vậy hai đứa vẩn giữ gìn cho nhau chưa bao giờ cả gan vượt vòng lễ giáo, nếu làm thế thì sẽ bị làng phạt nộp một con bò để tạ tội với giàng với bà con thì... chết chắc..
    Đến mùa thu hoạch hoa màu, rẫy bắp đầy trái, chúng tôi làm việc bên nhau vui vẻ, lúc rảnh rỗi tôi phụ Djem để chia sẻ bớt nỗi nhọc nhằn bấy lâu ; lúc nghỉ trưa, bên bóng mát của cây gỗ dầu có niên đại chừng trăm tuổi xoè tán rộng che mát cho hai tâm hồn đang hướng về nhau. Djemnói với tôi:
    -Em muốn cưới anh quá, anh có muốn không?
    Tôi bất ngờ nhưng không ngạc nhiên lắm, do người Bana theo chế độ mẫu hệ, nên lời đề nghị này không phải là khiếm nhã cho là " Cột đi tìm trâu ". Thật lòng Tôi Đáp:
    -Anh rất muốn, nhưng phải xin ba mẹ ở nhà mới được. Khi nào có kết quả anh cho em biết nhé, Djem giận dỗi:
    - Đừng có làm bộ rồi trốn về Sài Gòn Nha. ở Đây buồn là em sẽ chết đó
    Tôi bụm miệng Djem lại, khẻ tát yêu vào má và trách
    - Không tin anh thì thôi... anh sẽ.....
    Cũng đến lúc tôi được hưởng 15 ngày phép thường niên, Trên đường trở lại Sài Gòn Tôi miên man suy nghĩ đến những gì mình phải đối mặt với gia đình, thuyết phục gia đình được không? mệt mỏi với ý nghĩ trên tôi thiếp đi trên chuyến xe đò liên tỉnh, khi giật mình thức dậy và Sài Gòn đã hiện ra trước mắt tôi bao tháng ngày xa cách.
    Ngày đầu tiên ở gia đình tôi chưa dám đá động gì đến mối tình sâu kín của mình, qua hôm sau trong một buổi cơm chiều, thu hết can đảm tôi trịnh trọng thông báo:
    - Bấy lâu nay con dã để lòng thương một cô gái người dân tộc, cô ấy ở gần nơi đơn vị con đóng quân, con lớn trong gia đình.. nhà hơi nghèo nhưng được cái tính giỏi giang và nhất là đẹp và khoẻ mạnh. Nay con xin ba má cho con được lấy cổ làm vợ... lâu lâu chúng con sẽ về thăm ba má một lần.
    Để giành lấy chiến thắng tôi tiếp tục pha trò:
    - Tụi con sẽ mang về nào là bắp, mía, thịt rừng về cho ba mẹ và cả nhà thưởng thức đặc sản tây nguyên nữa đó.
    Như từ Cung trăng rớt xuống trần gian sau khi nghe câu chuyện thần thoại " Ðường rừng " này, mẹ tôi nói:
    - Nếu con muốn làm " Già làng " thì ba mẹ không cấm, nhưng liệu về lâu dài con có chịu được hay không, và nhất là dư luận xã hội nữa?.
    Ngầm hiểu gia đình không chấp nhận câu chuyện hôn nhân này, tôi đánh lạc hướng cho gia đình được vui:
    - Lâu quá mới về nhà, không có gì làm quà nên con tạo ra sì căn đan này cho vui nhà vui cửa, chứ làm gì có " Già làng " nọ kia.
    Trấn an gia đình xong, đêm đó về phòng nghĩ, tôi trằn trọc suốt đêm, cái cảm giác tội lỗi giữa bên hiếu bên tình nó đan xen nhau mãi khiến tôi gầy rộc người sau kỳ nghỉ phép tại gia đình... Trên đường quay lại đơn vị, cái ba lô sau lưng tôi nó trĩu nặng hơn mọi khi, hình như nó cũng muốn níu kéo ghì chặt tôi phải ở lại cái vùng đất này, vùng đất tây nguyên màu mỡ ngàn lần yêu thương... Rồi định mệnh dường như đã có sự sắp đặt, Tây nguyên được lệnh di tản chiến thuật, đơn vị tôi cũng không có ngoại lệ. chuẩn bị cho việc rút quân xong, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh rời xa ngôi làng Konjoret, bỏ lại phía sau bụi đỏ mịt mù, với tôi bầu trời dường như tối sầm trước mắt, lòng tôi ăn năn vô hạn, tôi đã không thể tròn nguyện ước với cánh hoa cà phê mong manh của mình, cuộc ra đi buồn như thế, không gặp được người yêu bé bỏng để nói lời tạ từ, nói lời xin lỗi tình yêu rất nồng nàn em đã trọn dành hết cho anh...
    Xe chạy đến cầu Đakbla thì chậm lại, do có đoàn người lố nhố phía trước, bất chợt Djem của Tôi cũng có mặt trong số người đó, nàng đang gùi trên lưng những trái bắp to tròn mũm mĩm, thành quả gặt hái được bao ngày vất vả trên nương rẫy, giờ đây đem ra chợ xã Konkopat để đổi lấy vật dụng cần thiết cho gia đình.
    Thấy tôi ngồi sau chiếc xe jeep mui trần có 2 cần anten cao vút như râu của chú cào cào kiêu hãnh trên rẫy bắp mà tôi thường gặp, Djem bật khóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi má hồng. Tôi vội ngoái người ra khỏi xe, vẫy tay chào và nói trong vô vọng:
    - Nhớ giữ gìn sức khoẻ, chăm sóc ba mẹ nhé. anh sẽ...
    Gió đã cuốn đi lời nói kia, Tôi chắc rằng nó không thể nào đến tai của người tôi hằng thương mến, giọng tôi khản lại, cố cắn chặt đôi môi để tránh bật thành tiếng khóc, nhưng sao miệng tôi mằn mặn hồi nào không hay.
    Thôi nhé tạm biệt Tây nguyên, Tạm biệt cái thành phố Kontum nhỏ bé mà buồn tênh kia, tạm biệt cái làng Konjoret, tạm biệt dòng sông Dakbla và xin tạm biệt tình yêu bé nhỏ của tôi...
    Tiếng hát của ca sĩ Chế Linh cũng đã chấm dứt tự bao giờ, ngồi đây với thực tại Tôi cũng mong rằng sau mấy mươi năm dài xa cách, người con gái Bana ngày xưa sẽ yên ổn mọi điều, và Tôi cũng để cho bụi thời gian ngủ yên cùng quá khứ, một quá khứ Tuyệt vời...
    Hai Hùng

Trang 1/9 123 ... cuốicuối

Similar Threads

  1. Dấu Nhớ Tình Yêu
    By KiwiTeTua in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-17-2015, 08:00 AM
  2. Có Một Tình Yêu
    By KiwiTeTua in forum Nhạc YouTube
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-12-2015, 07:45 AM
  3. Hoài Niệm Dấu Yêu
    By chieutim in forum Nhạc Thơ Chọn Lọc
    Trả lời: 3
    Bài mới nhất : 09-13-2015, 08:22 AM
  4. Tình Yêu
    By Trần Hòa in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 09-10-2015, 02:31 AM
  5. Cho Mẹ Hiền Yêu Dấu
    By khongquan2 in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-16-2015, 04:55 PM

Tags for this Thread

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •