Remember ?

Trang 3/3 đầuđầu 123
kết quả từ 13 tới 15 trên 15

Tựa Đề: Ký ức làng Cùa

  1. #13
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 13

    1. Làng Cùa được huyện Nam Thành chọn làm đơn vị điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Chủ tịch Bùi Quốc Tầm cho cán bộ xã đi hết lượt các gia đình vận động bà con viết đơn. Phần lớn các chủ ruộng đều không thích làm ăn tập thể, nhất là những người từng trải thường tỏ thái độ lừng chừng làm cho trưởng ban vận động Tào Văn Hỗ tức Hỗ Chột lo sốt vó, chỉ sợ không hoàn thành chỉ tiêu chín mươi tám phần trăm đã đăng ký với huyện. Những đối tượng hăng hái nhất trong cuộc ăn chung đổ lộn này chính là các gia đình trước đây vốn là địa chủ cường hào đã bị mất điền sản thời Cải cách, đang sống vật vờ cạnh bãi tha ma đồng Chó Đá. Kẻ chống đối gay gắt nhất là Trịnh Doãng.

    Doãng là con ông Cả Duệch. Ông Duệch có ba con trai. Doạng và Doan tính hạnh hiền lương, làm ăn cơ chỉ, duy có Doãng, anh thứ hai là trái tính trái nết. Doãng tuổi ất Hợi, năm lên bảy bị bệnh đậu mùa, toàn thân phủ lớp mụn to bằng hạt đậu nành, mọng nước như phỏng dạ. Những mụn ấy vỡ, nước vàng chảy ra bốc mùi khăn khẳn không chịu được. Người Doãng quắt như con mèo hen, miệng he hé chẳng khác gì cá mắc cạn hớp không khí. Ông lang ích thăm bệnh xong, lắc đầu:
    - Tôi chịu. Ông bà sắp chiếu, chẻ lạt đi là vừa.

    Ông Duệch thương con không nỡ. Thôi thì còn nước còn tát. Nghĩ vậy, ông bảo Doạng chạy ra xóm Trại Cá gọi bà phó Lễ vào xem có cứu được không, Bà phó Lễ là lang vườn kiêm nghề đỡ đẻ. Thuốc của bà toàn nước thải với bùa chú thêm ít rễ cây đốt thành tro trộn lẫn cho con bệnh uống. Doãng uống thứ nước đục lờ lờ lẫn cả tàn nhang có mùi oi khói như con đồng lên cơn khát. Ông Duệch nhìn con lắc đầu:
    - Cơ sự này hỏng rồi.

    Bà Phó Lễ mắng:
    - Phỉ phui cái mồm nhà ông. Mệnh thằng bé này lớn lắm. Nó là tướng nhà giời bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian để hầu hạ Chúa Bà ở miếu Cô Hồn nên chưa thể "đi" được.

    Quả nhiên đến chập tối Trịnh Doãng tỉnh lại. Ông Cả Duệch bắt vợ thổi một nồi xôi dành dành và thịt con gà trống hoa mang ra miếu làm lễ tạ. Doãng khỏi bệnh nhưng mặt hắn rỗ như tổ ong trông rất khó coi. Lớn lên Doãng không thích học mà chỉ khoái ra đồng Chó Đá lùa bắt chim cút và chia phe chơi trò đánh nhau. Có lần hắn bị bọn trẻ con xóm Cầu Đá dìm xuống ngòi Mác gần chết vì đêm hôm trước mò ra đồng Gà bẹp mấy chục chiếc đó tép của chúng. Dạy học ở làng Cùa bấy giờ là ông đồ Sách. Ông này vừa tham ăn vừa dữ đòn. Đứa nào mới nhập môn cũng bị nện ba roi thật đau để nhớ câu "Tiên học lễ hậu học văn". Doãng là đứa ngỗ nghịch lại lười nhất hạng, hễ vào lớp là ngủ gà ngủ vịt mơ màng đến lũ tôm cá ngoài đồng nên hay bị thầy nọc ra sập sai gã trưởng tràng quật roi mây vào mông. Doãng tức lắm, lựa hôm đồ Sách đi vắng, lẻn vào nhà vạch chim đái vào ống bút với nghiên mực. Đồ Sách mắt bị lông quặm, nhìn không rõ, chỉ thấy mùi khai khai liền chấm tay vào nghiên đưa lên ngửi, biết ngay thủ phạm là ai liền đến nhà ông cả Duệch. Ông Cả sượng mặt vì thằng con mấy dạy, trói hai tay Doãng treo lên xà nhà nện mười lăm hèo mây rồi lấy muối xát vào. Những vết lằn ngang dọc rớm máu nổi lên vừa đau vừa xót nhưng Doãng gan lì, trơ như đá, không khóc cũng chẳng van xin. Ông bố chịu phép phải tha. Doãng oằn người, cắn răng nén chịu, cúi đầu chắp tay vái đồ Sách.
    - Con cám ơn thày.

    Từ đó Doãng bỏ học chuyên đi thả ống lươn.
    Năm Giáp Ngọ bà Cả đi chợ sớm bị ma rủi chết đuối ở ngòi Mác. Ba năm sau, ông Duệch cũng qua đời vì chứng kinh giật. Bố vừa nằm xuống, cỏ chưa kịp xanh mộ Doãng đã đòi chia gia tài. Lúc ấy Doạng đã có vợ, ăn riêng nhưng ba anh em vẫn ở chung một nhà. Doạng bàn với Doan cắt cho Doãng phần đất sát đường có ngôi nhà ngang hai gian lợp lá gồi nhưng hắn không nghe. Hắn yêu cầu mọi thứ phải chia ba, anh nào không thích có thể bán cho người khác. Gay nhất là ngôi nhà chính. Doãng tranh gian giữa.Hắn lấy cót thưng lại hai bên rồi ngủ ngay trên sập gụ trước bàn thờ tổ tiên. Chị dâu không chịu được thói ngỗ ngược của ông em chồng, nói mấy câu bị hắn vả cho một cái hộc máu mồm. Ông xóm trưởng kiêm uỷ viên Nông hội sang dàn xếp, Doãng cầm con dao mác vót nan đứng giữa cửa, mặt hằm hằm, cặp môi cá ngão trề ra:
    - Kẻ nào muốn mất mạng thì vào đây ?

    Có người biết chuyện vội chạy xuống xã báo trưởng công an. Trương Đình Tái đem ba bốn dân quân đến nơi nhưng cũng phải mất gần một giờ mới giải toả được sự căng thẳng và chỉ chút xíu nữa là đổ máu.
    Vua cũng thua thằng liều. Cuối cùng anh em Doạng Doan phải chấp nhận phương án chia ba. Chia buổi sáng, chiều Doãng gọi người bán tài sản của mình.

    Doạng hốt quá sợ cơ nghiệp mấy đời của cha ông chắt bóp mới được thế này bỗng chốc sang tay người khác liền bàn với Doan vay giật mỗi nơi một ít gom đủ số tiền, tất nhiên là cao hơn so với giá nhà đất hiện thời, đưa cho thằng em đầu bò. Mấy hôm sau, Doãng tìm mua được miếng đất của ông Vệ Tuân ơ xóm Cầu Đá. Ông này thua xóc đĩa phải gán nợ đi ở nhờ. Khu đất rộng hơn hai sào có túp nhà ba gian lợp rạ. Từ đấy anh em Doạng Doãng không thèm nhìn mặt nhau.

    Không biết Doãng học thả ống lươn ở đâu vì làng Cùa đến lúc ấy mới chỉ có công nghệ kéo lưới, quăng chài, đánh giậm, móc cua bát ếch và đơm đó. Móc cua là nghề hạ đẳng lại rẻ như bèo, hai xu một giỏ, không bõ những đấng nam nhi bẩn tay. Thả lưới là khó nhất không phải ai cũng kiếm ăn được trên sông Lăng. Đánh giậm, chạy dủi tốn sức, cuối buổi cá tép thường ươn, khó bán. Đặt đó lại phải thức canh đêm, nhãng đi một tí là bọn xóm Trại Cá rình khoắng sạch. Cuối cùng chỉ thả ống lươn là sống được, thậm chí sống phong lưu nếu biết giữ độc quyền không để bí quyết rơi vào tay người khác.

    Làm ống lươn không khó. Nguyên liệu chính là một đoạn nứa ngộ đường kính cỡ bắp chân, đầu mặt trổ vài lỗ thông khí, đầu rỗng dùi hai lỗ đối nhau, lắp hom rồi xuyên qua thanh tre bằng ngón tay vót nhọn là thành cái bẫy bắt loài bò sát chuyên lẩn dưới bùn khá hiệu quả. Thứ mồi hấp dẫn nhất là ốc vặn đập dập trộn với giun đất gói lá khoai ngứa, bên ngoài chọc thủng vài chỗ để mùi tanh dẫn dụ khứu giác lươn. Bí mật nghề nghiệp của Doãng là ở công đoạn chọn vị trí cắm ống. Lươn ưa cư trú ở những ao tù nhiều bùn. Làng Cùa thuộc vùng chiêm trũng, mười hộ thì có đến bảy tám vật đất làm nhà, thành ra chỗ nào cũng có ao chuôm thùng vũng, rất thuận lợi cho Doãng hành nghề. Thường thì ban ngày hắn la cà khắp nơi, có khi lẩn vào những chỗ ngóc ngách rậm rạp quan sát bằng con mắt dày dạn kinh nghiệm. Ai không biết tưởng hắn mải chơi, vô tích sự, không chịu làm ăn. Mặc kệ, Doãng không thèm chấp. Chập tối, sau khi đã chuẩn bị đồ nghề đầy đủ, hắn khoác chùm ống lên vai đến những xó xỉnh ban ngày đã nhắm được. Thao tác của Doãng rất gọn, có khi chưa đầy ba phút đã cắm xong một ống. Những hôm tối trời, giáp mặt không nhìn thấy nhau, Doãng cứ bước phăm phăm, khỏi cần đèn đóm. Hắn thoắt ẩn thoắt hiện như ma. Đàn bà con gái rất sợ gặp Trịnh Doãng ban đêm. Hắn là hiện thân của mọi sự rủi ro. Có lần hắn vừa lỉnh kỉnh bê ống lươn đến đầu cầu Đá bắc qua ngòi Mác gặp ngay anh chàng phó bí thư đoàn đang bóp vú cô phân đoàn trưởng xóm Đình. Thấy bộ dạng Doãng, cô Mầm vốn nổi tiếng lẳng lơ tưởng là thằng Trọc hiện hình, hoảng quá rơi tõm xuống nước. Anh phó bí thư cực chẳng đã phải nhảy xuống cứu.

    Thả hết ống, Doãng về nhà ngủ. Cuối canh tư, thức dậy trong lúc cả làng còn đang ngon giấc, hắn rảo một vòng quanh các ao, thu hết những chiếc ống đã thả hồi đêm. Trời sáng, Doãng lần lượt tháo hom dốc những con lươn béo múp, vàng ươm ra chiếc rổ sề. Hắn chọn toàn con to thả vào nồi hông, chờ cô Mít đến mang ra chợ Rồng bán. Có hôm Doãng đổ ra được ba con rắn đầu bẹp nhẵn bóng, mình ngắn, màu đen sẫm sống lưng gồ lên trông rất quái dị. Ông Lang Chẫu đến xem một lúc rồi bảo:
    - Của này độc hơn cả rắn cạp nia, vô phúc bị nó cắn, sau nửa canh giờ là chỉ có đóng ván.
    Doãng sợ chết khiếp, từ đấy không dám thọc tay vào ống như trước nữa.

    Sau khi chia gia tài, Doãng được ba sào ruộng đồng Gà. Chân ruộng này thuộc loại tốt nhất làng, năm hai vụ làm chơi ăn thật nhưng phải cái mùa khô thường ít nước. Đến vụ cày cấy, Doãng một mình xoay trần ra làm, không thèm nhờ ai. Giai thoại hay được bà con nhắc đến là có lần hắn tát nước với … cọc. Vùng Ba Tổng có lệ tát nước gầu dai mỗi bên một người thành cặp. Có tàu tát cao, người ta đóng đến ba bốn cặp. Thích nhất là tát nước đêm trăng. Từng đôi, kẻ bên này, người bên kia đong đưa theo nhịp. Từng gầu nước lẫn ánh trăng sóng sánh, chao theo một đường vòng cung rồi bất ngờ bãi tung toé trên mặt ruộng, loang ra một màu trắng bạc. Rất nhiều những đôi nam nữ nên vợ nên chồng từ những đêm trăng tát nước huyền ảo như vậy.

    Nhưng với Doãng thì khác. Hắn ghét cay ghét đắng lối vần công và mọi kiểu chung chạ. Năm ấy hạn nặng. Như trên đã nói, đồng Gà thuộc diện cao, nước từ ngòi Mác chảy vào ít, các chủ ruộng phải thương lượng với nhau tát theo giờ. Doãng nhận vào lúc nửa đêm, chắc là vì không muốn thiên hạ biết cung cách làm ăn quái gở của mình. Đợi cho mọi người về hết Doãng mới lấy hai chiếc cọc tre đóng bên kia tàu tát. Sau khi buộc cố định dây thừng vào cọc, hắn thả gầu rồi vung tay chao nước. Khốn nỗi, cọc tre hoàn toàn vô cảm, không có khẳ năng điều khiển linh động như bàn tay người, thành ra, gầu vừa lên nửa chừng đã dốc miệng hết sạch nước. Nhùng nhằng mãi không ăn thua, Doãng tức mình ném cả cọc lẫn gầu xuống ngòi rồi nằm ngửa ngắm sao. Đêm ấy thưa sao. Trời sáng mờ mờ. Gió đông nam phe phẩy khiến Doãng thiu thiu. Chợt có tiếng cười từ xa. Doãng giật mình lập tức bật dậy vớ ngay cán cuốc. Hắn vốn là tay bạo gan nhưng giữa đồng không mông quạnh cũng thấy rờn rợn. Từ lâu, người ta đồn cánh đồng này thường có Mẹ Hét hiện hình thành thiếu nữ tóc trắng trêu những bà đi chợ sớm. Có lẽ mụ ta thật. Doãng nắm chắc cán cuốc từ từ quay lại … Không phải ma mà là một người con gái bằng xương bằng thịt đang đến rất gần. Hắn mê ngủ chăng ? Bởi vì người con gái đó chính là Nhụ. Bố Nhụ là ông Trản, làm nghề quăng chài, nát rượu, một lần uống say quá, vác chài ra đầm Ma ngã xuống nước chết để lại cho vợ ba cô con gái. Con bà Trản cô nào cũng béo phục phịch, hay lam hay làm và mắn đẻ. Cô chị và cô út đã lấy chồng, có con riêng Nhụ ưa nhìn nhất lại chưa cùng ai. Nhìn thấy Nhụ, Doãng sững người. Hắn có tật nói lắp, mãi mới hỏi được một câu hoàn toàn vô nghĩa:
    - Cô … cô là … người.. người... hay … ma ?

    Cô gái cười, giọng ỡm ờ:
    - Là ma đến tát nước hộ người đây. Cái gầu có tội gì mà quẳng nó xuống ngòi. Nào, lội xuống vớt lên đây tát cho.

    - Thật chứ ? - Doãng có vẻ không tin lại hỏi một câu rất thừa.
    - Ai nói dối làm gì. Mau lên kẻo trời sáng, người ta bắt gặp.

    Khỏi phải nói, đêm ấy Doãng cảm động đến mức nào. Hai người mải tát quên hẳn thời gian đến lúc vợ chồng nhà Nguyễn Đình Phán xách gầu ra đòi sòng mới biết nước đã tràn bờ. Mấy hôm sau, lúc làm đồng về, gặp Nhụ ở gốc đa Doãng khẽ chạm vào tay cô ta hỏi:
    - Nhụ có bằng lòng về ở với tôi không ?
    Cô gái tỏ ra khá bạo dạn:
    - Thích thì nhờ người mang trầu cau sang nói với mẹ người ta.

    Hắn nhờ bà Cõn làm mối thật. Ba tháng sau thì cưới. Đám cưới của vợ chồng hắn theo lối đời sống mới, chỉ ăn trầu uống nước nhưng già nửa làng Cùa đến dự. Lũ trẻ con đứa nào cũng được một cặp kẹo vừng. Riêng họ Trịnh nhà hắn không thấy ai kể cả anh em Doạng Doan.

    Cưới nhau được một năm Nhụ đẻ sinh đôi hai thằng con trai, đưa tổng số cặp sinh đôi ở làng Cùa từ năm Canh Ngọ (1930) đến lúc ấy là ba mươi bẩy. Doãng thích lắm, đặt tên là Dọng, Dõng. Hai thằng giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không thể phân biệt được thằng nào là anh, thằng nào là em.

    Còn bé mà chúng nghịch hơn cả quỷ sứ. Trong nhà có thứ gì dễ vỡ đều phải treo cao, sểnh một chút là các ông nhóc moi ra, nghịch chán chê rồi đập. Khi đã choai choai, Dọng và Dõng toàn gọi nhau bằng mày tao, không đứa nào chịu đứa nào. Nhiều hôm hai anh em đánh nhau chảy cả máu mồm máu mũi. Có lần hai thằng bảo nhau rút rơm nướng khoai. Lửa cháy to quá bén sang cả nhà bếp. Doãng tức quá, bắt nằm sấp vụt mỗi đứa năm roi quắn mông, nhưng chỉ được mấy ngày lại chứng nào tật ấy.

    Dọng và Dõng khá đẹp trai. nói năng lưu loát chứ không ngọng líu ngọng ló như bố. Điều giống bố duy nhất là chúng lười học và thói bán giời không văn tự. Dân làng Cùa vốn ghét thói ba hoa thường bảo nhau "giỏ nhà ai quai nhà ấy"

    Cuối năm năm tám, làng Cùa rộ lên phong trào hợp tác hoá. Doãng dứt khoát không viết đơn mặc dù cán bộ xã đã nhiều lần vận động. Hắn lý sự :
    - Vào hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện. Chủ trương của Đảng, Chính phủ như vậy. Ai không muốn thì thôi, vì sao các ông cán bộ lại ép bà con ?

    Chủ nhiệm Hỗ coi Trịnh Doãng là dân đầu mấu, khó cải tạo tư tưởng liền tuyên bố:
    - Những đối tượng chống lại chủ trương hợp tác hoá, ban quản trị sẽ trả ruộng ở đồng Chó Đá.
    Đồng chó Đá là địa giới giữa hai xã Đoàn Kết và Phong Trạch, sát ngay bãi tha ma, bỏ hoang đã nhiều năm, đất gan gà cằn cỗi có cấy mà chẳng có gặt. Hồi Cải cách xã đã dồn hơn hai chục hộ địa chủ, cường hào phản động ra ở, nhiều người không chịu được phải bỏ làng đi nơi khác làm ăn, giờ chuyển các hộ cá thể đến đây khác gì bắt đi đày. Doãng nuốt nước bọt đánh ực, nghiến răng, cắm phập lưỡi mác xuống bờ ruộng gầm lên:
    - Ruộng này là của cha ông họ Trịnh để lại chứ không phải của vớ được hồi Cải cách nhá. Kẻ nào dám động vào một hòn đất là ăn đòn.

    Không hiểu ban quản trị sợ Doãng hay là họ không thèm chấp thằng khùng mà các hộ cá thể khác đã tự nguyện chuyển đến vùng đất mới, riêng mấy sào ruộng của Doãng vẫn ngang nhiên "ngự" tại khu đồng Gà như cái gai trước mắt trêu ngươi các nhà chức trách. Nhưng Doãng sức mấy thi gan được với tập thể. Hợp tác xã chi công điểm đào đắp hệ thống mương máng thuỷ lợi dẫn nước vào đồng. Hắn là dân tự do chẳng thuộc tổ chức đoàn thể nào bị "cấm vận" ngay từ vụ đầu tiên. Chả lẽ cứ nằm đấy chờ nước trời mà trời lại đang đại hạn. Ruộng của vợ chồng hắn đã nứt chân chim, lúa héo đến nơi. Nóng ruột quá, nửa đêm thức dậy Doãng lẻn ra đồng. Hắn đang hì hục tháo nước máng thì cánh cờ đỏ tuần tra tóm được. Nói mãi Doãng không nghe, tay đội trưởng sấn vào giằng cuốc đắp lại bờ bị hắn tống cho một quả vào quai hàm. Phải vất vả lắm họ mới kéo được tay thả ống lươn về trụ sở hợp tác xã. Chuyện ấy Doãng bị giải lên huyện công an làm khách của dám muỗi vằn mấy đêm. Chẳng biết ở cơ quan bảo vệ pháp luật người ta nói với hắn những gì mà sau hôm được thả, dân xóm Trại Cá thấy vợ chồng hắn lên Ban quản trị xin đổi ruộng .

    Vợ chồng Doãng xoay trần ra với mấy sào ruộng xấu. Hắn sang cồn Vành cắt cây tầm bóp về làm phân xanh còn Nhụ quẩy đôi quang sảo khắp vùng Ba Tổng nhặt phân trâu bón ruộng. Không có hạt đạm nào mà lúa của hắn tốt bời bời, năng suất gấp mấy lần hợp tác xã. Khổ nhất là hồi chưa mua được trâu, Doãng phải nai lưng kéo cày.Hai vợ chồng hắn, người đi trước kẻ bước sau, nhũng nhẵng mấy ngày mới làm xong đất. ý chí quyết tâm làm giàu của hắn thật đáng nể. Trong có mấy năm, hắn vừa xây được nhà ngói ba gian bằng gạch chín, tậu được con nghé, lại bổ sung dân số cho làng Cùa hai suất đinh làm chủ nhiệm Tào Văn Hỗ tức điên, bèn triệu tập ban quản trị họp khẩn cấp chuyên bàn về lĩnh vực ao, hồ, đầm ngòi. Sau hai ngày tranh luận khá căng thẳng, cuối cùng ban chủ nhiệm cũng ra được nghị quyết tóm tắt như sau: "Các diện tích mặt nước trong làng và ngoài đồng đều thuộc sở hữu tập thể, cấm mọi hình thức đánh bắt cá. Ai vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ". Thông báo trên được gã Tuyển què trong đội Cờ đỏ kẻ chữ sơn lên bảng tin cổng làng và trước trụ sở hợp tác xã. Ngoài ra, mỗi ao chuôm, thùng, vũng còn đượccắm biển gỗ viết sơn đỏ dòng chữ ngắn gọn: "Cấm mọi hình thức đánh bắt cá".

    Xã viên kháo nhau, phen này Doãng hết đường làm ăn. Những kẻ ghen ăn tức ở thì nhìn ngôi nhà ngói đỏ của hắn nhếch mép cười nhạt. Thế nhưng, biển cắm hôm trước, sáng hôm sau vợ Doãng vẫn có lươn mang lên chợ Rồng bán. Chủ nhiệm Hỗ cáu lắm, gọi trưởng ban cờ đỏ ra lệnh:
    - Đêm nay cậu cho anh em đi kiểm tra một lượt các ao trong làng, nếu gặp tay Doãng, không nói lôi thôi, cứ điệu cổ về đây, tội vạ đâu tôi chịu.

    Phải đến tối thứ ba cánh cờ đỏ mới tóm được Doãng trong lúc hắn đang lúi húi gài ống ở cầu ao nhà Thường Rỗ. Chẳng nói chẳng rằng, thằng Cửu và thằng Hiệp quàng ngay dây thừng vào cổ Doãng trói nghiến lại, giong về trụ sở. Hắn vừa chửi vừa la:
    - Ới làng nước ơi ! Chúng nó trói người.

    Doãng bị vứt nằm queo ở nhà kho suốt một đêm. Bên ngoài có hai dân quân cầm súng đứng gác. Mới bẩy giờ sáng, chủ nhiệm Hỗ, chủ tịch Bùi Quốc Tầm, trưởng công an Trương Đình Tái và đội trưởng cờ đỏ Tiệp Cò đã về tề tựu đông đủ. Anh nào cũng hí hửng ra mặt. Một lúc sau xã đội trưởng Cung Văn Luỹ dẫn Doãng vào trụ sở. Chủ nhiệm Hỗ nghiêm giọng hỏi:
    - Anh có biết vì sao bị bắt không ?

    Doãng trừng mắt nhìn hết lượt các vị chức sắc sừng sộ:
    - Các ông bắt người vô cớ là phạm luật. Tôi sẽ đi kiện.
    - Đề nghị anh nói cho nghiêm chỉnh . - Bùi Quốc Tầm cao giọng răn đe - Vậy anh có biết hợp tác xã cấm mọi hình thức đánh bắt cá không ?

    - Biết . - Doãng nói cộc lốc
    -Tại sao vẫn cố tình vi phạm ?

    Doãng nhe răng cười rất đểu:
    - Tôi không bắt trộm cá của tập thể mà là bắt lươn. Thưa các ông cán bộ, lươn không nằm trong danh mục cấm.
    - Anh .. anh láo .. còn già mồm cãi hả ? - Chủ tịch xã đuối lý, không ngờ bị vố đau như thế nhưng vẫn cố nói liều đề vớt vát sĩ diện - Lươn cũng là …cá, thuộc tài sản hợp tác xã.
    - Này các ông ! - Doãng lại hếch cặp môi cá ngão chĩa về phía ban lãnh đạo xã - Các ông ra văn bản cấm mọi hình thức đánh bắt cá mà lại cho người rình trói thằng thả ống lươn, thế có phải là phường lừa đảo không ? Được, tôi sẽ theo vụ này lên tỉnh, tỉnh không giải quyết sẽ vác đơn lên trung ương.

    Sau chuyện ấy, chủ tịch Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ có vẻ ngại đụng chạm với Doãng. Thấy chính quyền lờ đi, hắn mặc sức tung hoành, đồng thời nghiên cứu nâng cao kỹ thuật bắt lươn lên hàng công nghệ. Có lần Doãng còn được đích thân Hỗ Chột đặt hàng một trăm ba mươi con. Chuyện có vẻ khó tin nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Một thời làng Cùa nổi tiếng khắp hàng tỉnh về làm thuỷ lợi nội đồng, được ông Trần Quảng, lúc ấy đã là chủ tịch tỉnh dẫn một đoàn cán bộ năm mươi tám người về tham quan mô hình làm ăn tiên tiến. Ông chủ tịch vốn thích món lươn om củ chuối, vậy là Doãng được triệu đến. Chế biến các món ăn từ lươn là sở trường của hắn. Người hắn thì nhếch nhác, bẩn thỉu nhưng các thứ đặc sản do hắn nấu ngon không chê được. Trước khi về ông chủ tịch bắt tay khen và đưa cho Doãng tấm danh thiếp, dặn lúc nào lên tỉnh ghé vào nhà chơi. Vì thế hắn trở nên nổi tiếng. Cánh cán bộ xã cũng có ý gờm dù hắn chỉ là anh nông dân cá thể mà đáng lẽ ra mọi người phải hết sức cảnh giác.

    Trịnh Doãng gọi bà Khúc Thị Hài bằng cô vì mẹ hắn trước đây làm con nuôi họ Khúc. Năm Cải cách vào lúc mẹ con bà Hài bị xã Nhân ái bên kia sông đuổi về làng Cùa dân xóm Trại Cá tránh như tránh hủi thì Doãng hạ hơn ba chục cây tre ở vườn vác cho anh em Lê Văn Khải làm nhà. Thỉnh thoảng hắn lại xách mấy con lươn cho bà Hài:
    - Cô kiếm mấy củ chuối tây mài ra nấu ăn tạm.
    Bà Hài chép miệng bảo:
    - Anh cứ cho luôn thế này làm cô khó nghĩ quá.
    Doãng bảo:
    - Ngày nào cháu cũng kiếm được, biếu gia đình mấy con có đáng là bao, cô đừng cả nghĩ.

    Hắn biết, nhà bà Hài đang đói, nhiều bữa chỉ ăn rau má luộc chấm muối vì không được chia ruộng, trong khi ấy, đội Lạc và Bùi Quốc Tầm lại cấm con cháu địa chủ, phú nông thả vịt và cất vó bè. Hồi ấy ông cả Duệch còn sống, thấy con trai hay qua lại nhà bà Hài liền mắng:
    - Mày cứ thậm thụt với hai thằng ấy, đội Lạc mà biết thì toi đời con ạ.

    Doãng cười nhạt:
    - Tôi trên răng dưới cát tút, chẳng liên quan gì đến chính quyền, sợ quái gì đứa nào.
    - Mày chỉ nói càn không khéo liên luỵ đến cả tao nữa.
    - Thầy là đồ hèn. - Doãng nhếch mép bảo - Nhà bà Hài với mình là đâu mà hôm ở ngoài đình thày xui lão Cau đấu bác Vận. Đúng là một phường nói điêu.
    Ông Duệch trợn mắt, há mồm, nhưng bị nghẹn mãi mới thốt ra được câu:
    - Thằng … mất dạy !

    Những năm sau này, ngoài việc thả ống lươn, thỉnh thoảng Doãng còn ra sông Lăng đánh cá với Nghiên. Hai anh chàng xấp xỉ tuổi nhau, một anh mới thoát nạn mù chữ, một anh tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp nhưng thân nhau như anh em. Sau khi Khải đi học đại học Nông nghiệp, mẹ con bà Hài được chia ruộng ở đồng Chó Đá. Doãng hay sang kéo cày cho Lê Văn Nghiên. Cày chìa vôi trượt trên đât rắn, hai gã trai dù là đang độ sung sức cũng phải mất sáu buổi mới xong. Vai Doãng trợt mấy mảnh da, sưng vù, còn Nghiên, hai bàn tay phồng rộp nước vỡ ra, xót hơn xát ớt.

    Khác với các gia đình cựu địa chủ trong làng, Nghiên làm đơn ngay đợt đầu khi có chủ trương thành lập hợp tác xã nông nghiệp để chứng tỏ mình là người chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, nhưng Bùi Quốc Tầm tuyên bố một câu xanh rờn làm anh chưng hửng:
    - Chỉ những bà con bần nông có tư tưởng tiến bộ mới đủ điều kiện gia nhập hợp tác xã. Đây là giai cấp nông dân tập thể, sau này sẽ xây dựng nông thôn thành những nông trang lớn xã hội chủ nghĩa theo mô hình tiên tiến của Liên xô và Trung Quốc. Các đối tượng khác trước mắt chưa xét đến. Anh mang đơn về đi.

    Doãng biết tin chạy đến bảo:
    - Cậu có học mà dốt bỏ mẹ. Hợp tác xã nghe nói thì hay nhưng thực ra là một thứ cha chung không ai khóc, đừng dại mà dính vào, sau này đói rã họng.

    Lê Văn Nghiên xua tay:
    - Anh toàn nói giọng phản động. Lão Tầm nghe thấy chưa biết chừng lại được mời sang huyện công an mấy ngày.
    - Tớ chỉ nói đúng sự thật chứ có nói điêu đâu mà lo. Nếu chúng nó chèn ép quá tớ sẽ sang tỉnh gặp ông Trần Quảng.
    - Anh tưởng lũ dân đen như cánh mình gặp các cán bộ đầu tỉnh dễ lắm đấy.

    Doãng móc túi chìa cho Nghiên tấm danh thiếp của chủ tịch tỉnh:
    - Có cái này đứa nào dám không cho vào.
    - Rồi anh xem, chỉ sợ đến lúc ấy lại thất vọng.

    2. Bà Hài mong ngày mong đêm nhưng xem ra việc tìm con dâu không dễ, chẳng phải vì Lê Văn Nghiên kén chọn mà cái chính là gái làng không cô nào muốn về nâng khăn sửa túi cho một anh chàng có bố bị xử tử trong Cải cách vì tội hoạt động Quốc dân đảng. Hơn nữa, bản thân Nghiên lại thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, không được kết nạp Đoàn. Trịnh Doãng bảo:
    - Tôi định giới thiệu cho cậu cô Chắt ở làng Đậu Khê con ông phó lý Bền, hơi đen một tí nhưng hay làm, tính tình dễ chịu.
    - ấy ! bác đừng làm thế. Tôi chưa có ý định lấy vợ
    - Cậu cứ chần chừ là hỏng - Doãng chúm môi nhọn lại như môi con chồn hoa thổi phù một cái rồi bảo - Hăm sáu hăm bảy rồi còn gì ?

    Lê Văn Nghiên nhìn bộ dạng cổ quái của Doãng bất giác cười. Mấy hôm sau, vào dịp làm cỏ lúa ở đồng Chó Đá, Nghiên hỏi Doãng:
    - Nghe nói trước đây bác hay kéo nhị ?

    Câu hỏi gãi đúng chỗ ngứa vì Doãng vốn thích món chầu văn, liền phán liến thoắng:
    - Chẳng những biết kéo nhị mà tớ còn gảy được đàn bầu. Hồi cuối năm năm ba, chúng tớ lập chiếu chèo, cô Sót vợ tay Lê Bản say như điếu đổ, mặc dù mặt tớ …
    - Thế thì tốt rồi. -Nghiên bảo - Giờ đang vụ nông nhàn tôi có ý định lập một đội kèn hiếu.
    - Tức là thổi kèn đám ma chứ gì ? - Doãng trợn mắt, há mồm mãi mới hỏi được.
    - Phải, từ ngày ông phó Sùng mất, ông Quản Thống đi Đông Ngàn ở với con, vùng Ba Tổng không còn phường kèn nên các đám ma nhạt nhẽo, kém phần ai oán. Ngoài tôi và bác ra ta phải chọn thêm một tay trống nữa.
    - Việc ấy khó gì. - Doãng bật ngón tay đến tách môt cái quả nhiên có ngay nhân tài xuất hiện - Thằng

    Phán con ông cửu Mẫn, tớ chỉ cần hô một tiếng là xong.
    - Như thế mới chỉ được một nửa công việc. - Nghiên lắc đầu làm Doãng ngớ ra - Vấn đề còn lại là phải xin phép chính quyền xã. Việc này tôi lo nhất vì thế nào lão Tầm và lão Hỗ Chột cũng phá.
    - Việc đếch gì phải xin phép đứa nào . - Doãng văng tục - Chúng mình toàn dân cá thể, đoàn viên không, đảng viên không, chẳng lẽ nó lại cấm được mình ?
    - Về lý thì chưa chắc đã dám cấm công khai nhưng nếu thấy ngứa mắt, nay họ gọi xuống xã "giáo dục" mai tịch thu đồ nghề thì còn làm ăn gì được. - Nghiên bảo Trịnh Doãng - Việc này tôi xuất đầu lộ diện là hỏng, bác phải kiếm lạng chè với gói thuốc xuống nói với ông Tầm.

    Doãng giãy nảy:
    - Tôi chả dại, cứ nhìn thấy bản mặt nó là muốn đấm vỡ quai hàm. Căm nhất là cái lần nó ra lệnh bọn thằng Cửu trói giam tôi một đêm trong nhà kho.

    Nghiên bảo:
    - Thù dai làm gì. Cứ nhún mình một tý, lấy được cái giấy có chữ ký với con dấu cho phép hành nghề là phần thắng về ta.
    - Nhỡ chúng nó bàn nhau nhất định không ký thì sao ?
    - Bác có cái các vi dít của ông Trần Quảng cho kia mà.
    - ờ nhỉ, thế mà mình không nhớ ra.

    *****

    Nhìn thấy Trịnh Doãng với lá đơn chữ viết loằng ngoằng như gà bới trên tay, Bùi Quốc Tầm ghét lắm bảo:
    - Các anh chỉ vẽ chuyện để chén xôi thịt của thiên hạ. Kèn trống đám ma là thứ mê tín dị đoan, những thứ hủ tục ấy người ta đang dẹp đi không được lại bới ra. Xã không duyệt đâu, thôi về đi.

    Doãng nổi tiếng làng Cùa là dân đầu bò, đuổi hắn không phải là chuyện dễ, hắn đã quyết tâm làm cái gì là làm bằng được. Nghe ông chủ tịch nói xong, Doãng vặn ngay:
    - Ông bảo là mê tín dị đoan, vậy tại sao năm ngoái cụ Tiên Nhũ mất, vợ chồng ông sang tận kẻ Bòng đón phường kèn về tế suốt một đêm ?

    Tầm nói hớ bị bẽ mặt đành giở bài hoãn binh:
    - Thôi được, để tôi họp bàn với tập thể Đảng uỷ và thường trực Uỷ ban xem họ có nhất trí không đã.

    Doãng vuốt mớ tóc húi kiểu móng lừa, hếch cái mũi đầy trứng cá đỏ như cà chua chín bảo:
    - Nói thật với các ông, lập đội kèn là nguyện vọng của bà con làng Cùa, nếu Đảng uỷ, Uỷ ban và hợp tác xã không duyệt tôi sẽ lên tỉnh gặp ông chủ tịch.

    Tầm trố mắt nhìn cái miệng cá ngão của Trịnh Doãng không tin ở tai mình:
    - Cái thứ nông dân cá thể mở miệng là chống lại chủ trương chính sách như anh sẽ có lúc người ta tống vào nhà đá, chủ tịch nào thèm gặp.

    Doãng thọc tay vào túi áo lấy ra tấm các đặt trước mặt Bùi Quốc Tầm nhìn anh ta bằng nửa con mắt :
    - Xem kỹ đi, có phải danh thiếp của ông Trần Quảng không ?

    Về danh nghĩa, Trịnh Doãng làm đội trưởng kèn đám ma nhưng thực chất Lê Văn Nghiên là người chỉ huy. Mấy hôm đầu, Lê Văn Nghiên rủ Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán mang đồ nghề ra đình Cả tập. Doãng xấu mã mà đa tài. Hắn thổi kèn điệu Lâm khốc ai oán đến nỗi mấy bà đồng bóng xóm Đình khóc rưng rức nghĩ là làng Cùa vừa mới có người về nơi chín suối. Nguyễn Đình Phán mang một cặp trống cơm và hai trống nhỡ đến hoà tấu bằng những ngón gia truyền khiến Lê Văn Nghiên nổi hứng cò cử chiếc nhị réo rắt làm cho mấy cô gái chưa chồng ngứa ngáy không chịu được, rủ nhau ra đầu đình thập thò.

    Kỹ thuật cá nhân nói chung đã khá thành thạo, vấn đề cần làm là phải hoà tấu sao cho các nhạc cụ ăn khớp nhau để khi vào đám khỏi xảy ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nghe tiếng kèn đám ma từ đình làng vọng ra chủ nhiệm Hỗ tức lắm. Anh ta đem mấy dân quân khoác súng đến bảo Lê Văn Nghiên:
    - Không được thổi kèn ở đây. Yêu cầu các anh mang đi nơi khác

    Trịnh Doãng đang phồng mồm thổi chiếc kèn loe, nghe chướng tai vặc lại:
    - Xã đã đồng ý cho chúng tôi lập đội kèn hiếu các ông còn hạch sách gì nữa ?

    Hỗ sừng sộ:
    - Thổi kèn trong làng làm mất an ninh trật tự và phá giấc ngủ của bà con xã viên. Các anh không chấp hành nội quy hợp tác xã tôi sẽ ra lệnh tịch thu đồ nghề.

    Doãng nóng mắt định gây sự, Lê Văn Nghiên bấm tay nói nhỏ:
    - Thôi về, tối mai ta mang chiếu ra đồng Chó Đá chẳng kẻ nào đuổi được.

    Tối hôm sau, ba anh em xách kèn trống ra nghĩa địa thật. Doãng thuộc loại ba trợn trên không sợ giời, dưới không sợ đất. Phán là con thầy cúng, ma quỷ nhác thấy đã phải tránh xa. Nghiên được học hành chút ít, không mê tín dị đoan. Họ ngồi trên gò đống, phía dưới là những âm hồn, giữa đêm hôm khuya khoắt say sưa hoà tấu mấy bản tang khúc quen thuộc trong tâm trạng vô cùng hứng khởi. Đêm thanh vắng, gió đông nam thổi nhẹ, đưa tiếng kèn thổi khúc "Hành vân" về làng lúc gần lúc xa, lúc khoan lúc nhặt nghe vừa du dương vừa ai oán như là một thứ bùa ngải đầy ma lực làm xao xuyến khối cô nàng đa tình.

    Lê Văn Nghiên còn kiêm thêm nhiệm vụ soạn điếu văn nếu tang chủ yêu cầu. Điếu văn anh ta viết cho ông Bẩy Hựu ở xóm Cầu Đá chết vì chứng xơ gan cổ trướng lâm ly thống thiết khiến bà con hàng xóm ai cũng thương cảm. Mấy chị trung niên chẳng có họ hàng gì cũng oà khóc như vừa bị chồng đánh oan, còn lũ trẻ con gào rống lên, có thằng khóc dữ quá đái cả ra quần.

    Doãng không đặt giá nhất định cho mỗi đám tang nhưng nói chung, các tang chủ đều biết điều trả thù lao không đến nỗi quá bèo bọt. Họ biết tầm quan trọng của phường kèn, vì đã mấy năm nay, giờ mới có được tiếng kèn nhị diễn tấu đúng âm luật ngũ cung, nhất là nghệ thuật đánh trống có một không hai trong vùng Ba Tổng của Nguyễn Đình Phán.

    Gánh kèn hiếu lần đầu tiên được người hàng tổng thỉnh đó là ông Tăng Văn Trọng phó chủ tịch xã Thanh Bình. Bà mẹ ông ta bẩy mươi ba tuổi vừa quy tiên. Tang chủ cử người sang đón anh em Trịnh Doãng từ chiều hôm trước để kịp lúc bảy giờ tối phát tang. Lê Văn Nghiên được nhờ soạn điếu văn. Ông Tăng Văn Trọng do tang ma bối rối, chỉ viết nguệch ngoạc ra quyển vở học trò vài nét đại khái về thân thế, sự nghiệp của thân mẫu, còn những chi tiết cụ thể giao cho cô con gái tên là Hảo nói với anh thợ kèn. Hảo mười chín, học hết lớp sáu rồi ở nhà làm hợp tác xã, thuộc loại đẹp gái ở làng Báng. Hai năm nay, có đến gần chục đám khá giả nhờ người mai mối nhưng ông Trọng chưa ưng ai mà có ý chờ Thạc, con trai ông bí thư huyện uỷ đang học lớp trung cấp nông lâm. Thạc mê Hảo đến mức cuồng si, những dịp nghỉ hè, ngày nào cũng đạp xe sang kẻ Báng. Ông Trọng trong ban thường vụ, phụ trách nội chính, có sở trường vận động quần chúng, nói chuyện thời sự hấp dẫn, đám thanh niên rất phục, xem như một mẫu cán bộ tuyên huấn điển hình của thời đại. Những dịp ông đăng đàn giảng nghị quyết đình làng chật cứng nam nữ đoàn viên và các đối tượng cảm tình để nghe về hai nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đến phần quan trọng nhất là "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa" và "Quyền làm chủ tập thể" , ông diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ khúc chiết đầy hào khí cách mạng rồi trích dẫn hàng loạt những câu nói nổi tiếng của các tác giả Mác xít kinh điển không sai một chữ, làm cử toạ phục lăn, nghĩ rằng chẳng mấy chốc ông trở thành nhà lý luận. Thế nhưng ông phó chủ tịch cũng là kẻ cơ hội, trong bụng đầy những toan tính vị kỷ. Tìm cách gả được Hảo cho Thạc tức là đã khai thông con đường lên huyện. Cao hơn thì chưa nói nhưng ít nhất đồng chí bí thư cũng phải xếp ông ta một chân chánh văn phòng hoặc trưởng ban khoa giáo. Phải có những cương vị như thế mới phát triển được tài năng. Làm cái anh phó chủ tịch quèn lại phải dưới trướng một gã vô học, chuyên nghề thiến lợn mà lại khệnh khạng hệt chánh Đàm ngày trước làm sao mà chịu được. Ông ta mà lên huyện thì chỉ trong vòng sáu tháng, cái chức chủ tịch của tay Kiểm đi tong. Cho nên vị phó chủ tịch không nhận lời bất cứ đám nào vùng Ba Tổng. Con Hảo đã có nơi có chốn. Thằng nào động vào tức là mó dái ngựa. Hãy coi chừng đấy các chú trống choai ạ.

    Bài điếu văn Lê Văn Nghiên chấp bút hầu như không phải sửa được viết bằng thứ chữ tròn vành rõ nét đẹp như vẽ không giống bất cứ loại chữ "bình dân học vụ" nào với lời lẽ chân thành, tình cảm thống thiết, cô Hảo đọc qua một lần mà cứ ngẩn ngơ cả người. Lựa lúc vắng khách, Hảo giả bộ xuống nhà lấy thêm trầu vỏ hỏi Nghiên :
    - Anh học đến lớp mấy mà viết điếu văn hay thế ?

    Nghiên thoáng nhìn Hảo, hai luồng mắt giao nhau, như có dòng điện chạy qua làm anh thợ kèn lúng túng:
    - à, học "bình dân" ấy mà.

    Hảo đong đưa cặp mắt đen láy như cười:
    - Anh chỉ nói đùa. Em không tin.

    Nghiên nheo mắt thì thầm:
    - Cô không tin cũng không sao nhưng đấy là hương hồn cụ bà hiện về phù họ cho tôi viết …

    Hảo còn định nấn ná thêm lúc nữa thì ông Trọng bất ngờ xuất hiện lừ mắt bảo con gái:
    - Lên nhà, anh Thạc về đấy !

    Bản "Lâm khốc" và khúc "Lưu thuỷ" của bộ ba kèn, nhị, trống nghe như dàn hoà tấu của các loại nhạc cụ dân tộc trong một đêm hội chèo. Đã lâu lắm kẻ Báng mới có được buổi tế kèn trang trọng như thế. Dân làng chen nhau vòng trong vòng ngoài như đi xem hội. Ông chủ nhà nở mày nở mặt cứ nghĩ thiên hạ nể mình, phục mình và cả sợ mình nữa nên có nghĩa vụ đến chia buồn cùng tang quyến.

    Đưa đám xong, lúc trở về, ba chàng thợ kèn vẫn lững thững bước sau linh xa thỉnh thoảng lại tấu khúc "Đò đưa" tiễn hồn người qúa cố. Bản này vốn được phát triển từ một làn điệu chèo đã lược đi phần lớn những nốt nhấn nháy và đảo nhịp nghe khá bi thương, có chỗ phảng phất như giọng điệu trong bài "Thập ân". Một số người đã rẽ vào các ngõ, nhưng nghe tiếng trống cư chần chừ chưa muốn bước. Cô Hảo mặc áo xô khăn trắng, dây chuối bện thắt lưng, mái tóc dày đen như sừng xoã chấm khoeo, giả bộ đau buồn, thương bà đận đà đi sau cánh thợ kèn, thỉnh thoảng hờ vài tiếng nhưng mắt lại đánh đáo về phía Lê Văn Nghiên. Anh ta cũng chẳng phải vô tình mặc dù vẫn giả tảng không biết gì, ra sức thổi kèn. Trịnh Doãng đúng là một tay thợ kèn đám ma bẩm sinh. Hắn thể hiện kỹ năng nghề nghiệp bằng một phong thái rất nghệ sỹ, nhất là khi bắt đầu đưa tang. Lúc ấy, đầu Doãng hơi cúi, mồm cá ngão ngậm dăm kèn hơi phùng ra, mấy ngón tay nhịp nhàng lúc bịt lúc mở trên hàng lỗ, thỉnh thoảng đảo qua đảo lại hoặc ngoáy một vòng, hệt như anh chàng hề mồi phát loa báo tin quan tân khoa sắp vinh quy bái tổ. Đặc biệt lúc vào việc, Doãng nói đâu ra đấy chẳng khác gì ông chủ đòn đám ma, chỉ mỗi tội mặt hắn hơi khó coi nên ít khi tranh thủ được cảm tình của đám chị em.

    *******

    Nghiên nhận được thư của Hảo qua một anh bạn ở làng Đậu Khê. Thư hẹn hai người sẽ gặp nhau ở quán Cây Đề đồng Quao, Nghiên đến sớm. Lúc ấy mới khoảng sáu rưỡi nhưng vì vào cuối thu nên trời đã nhập nhoạng. Đàn sẻ đã bắt đầu kéo về đậu trên mái quán tìm chỗ trú đêm. Chúng mổ nhau chí choé, thỉnh thoảng một vài con bay vút lên lượn vài vòng rồi sà xuống. Lũ chích choè vốn lắm điều bay vật vờ trên cao hoàn toàn im lặng, chỉ đến khi lần lượt đậu xuống cành cao nhất của cây đề chúng mới nhả những tiếng”chíp chíp” rời rạc như là quá mệt mỏi sau một ngày lang thang kiếm mồi. Hảo đến muộn một chút hỏi Nghiên:
    - Anh đợi em lâu chưa?

    Nghiên bảo:
    -Tôi cũng mới ra

    Hảo hỏi:
    - Anh học thổi kèn đám ma ở đâu?

    Nghiên lại bảo:
    - Cánh mình chơi theo bản nhạc ấy mà.

    Hảo tỏ vẻ ngạc nhiên:
    - Các anh còn biết cả âm nhạc?

    Nghiên cười:
    - Cái gì cũng có thể học được nếu mình chịu khó.

    Hảo:
    - Anh nói thật đi, anh là ai?

    Nghiên:
    - Tôi là dân làng Cùa, nông dân cá thể, nhà ở đồng Chó Đá.

    Hảo:
    - Anh chỉ giỏi bịa, em thấy anh rất bí hiểm. ở nông thôn ít có những người như thế.

    Nghiên:
    - Hảo nói đúng lắm, khắp vùng Ba Tổng kiếm đâu ra phường kèn đám ma như bọn này. Vì thời nay, thanh niên là phải phấn đấu vào Đoàn, hoạt động xã hội hoặc thoát ly làm người nhà nước mới đúng kiểu.

    Hảo cười rất hồn nhiên:
    - Anh viết điếu văn hay như thế chắc viết thư phải tình cảm lắm.

    Nghiên lại bảo:
    - Cũng thường thôi, với lại tôi cũng ít viết thư.

    Hảo hỏi:
    - Ngày mai anh sang nhà em có được không ?

    Nghiên lắc đầu :
    - Nhà đang có tang sang không tiện , tôi thấy ông phó chủ tịch nghiêm lắm.

    Hảo thở dài :
    - Nhưng anh chàng Thạc đang học trung cấp nông lâm thì ngày nào cũng đến ám.

    Nghiên nói khẽ:
    - Thì đồng ý người ta đi, môn đăng hộ đối thế cơ mà.

    Hảo bậm môi:
    - Cái anh này nói thế Hảo còn hẹn anh ra đây làm gì .

    Nghiên lại trêu:
    - Trông anh ta cũng cao ráo đấy chứ, lại có văn hoá nữa, khác hẳn bọn tôi, chưa thoát nạn mù chữ.

    Hảo bĩu môi cười nhạt :
    - Văn hoá gì, cũng học lớp sáu rồi bỏ như em, may có ông bố là bí thư huyện uỷ xin cho.

    Nghiên cầm tay Hảo làm người cô run lên. Lúc sắp chia tay Hảo ngập ngừng hỏi:
    - Tối mai lại ra đây được không anh ?

    Nghiên gật đầu:
    - Anh sẽ ra nhưng ... bố em không bằng lòng cho chúng ta gặp nhau đâu.

    *****

    Mấy hôm sau, lúc ở đám ông Vệ Tuân chết vì say rượu ngã xuống ao Quan về, Trịnh Doãng hỏi Lê Văn Nghiên :
    - Cậu phải lòng cái Hảo bên kẻ Báng rồi phải không?

    Nghiên chối phắt:
    - Đâu có, anh chỉ đoán mò.

    Doãng tủm tỉm cười :
    -Tối hôm hai mốt anh chị nào hẹn nhau ra quán Cây Đề đồng Quao?

    Nghiên giật mình:
    - Hôm ấy anh đi thả ống lươn à?

    Doãng chỉ ậm ừ:
    - Không đi nhưng tớ biết... Mà này, trông bộ dạng lão Trọng lúc nào cũng vênh váo, tớ chẳng ưa tí nào.
    - Chưa chi anh đã có ác cảm với người ta.
    - Thằng Doãng này nói không sai đâu . Tớ ngại là ngại cho cuộc tình duyên của các cậu. Cái Hảo là đứa con gái ngoan, nó yêu cậu thật đấy nhưng ông bố thì đếch chơi được. Hắn sẽ phá đám cho mà xem.

    Doãng nói tào lao thế mà đúng . Lê Văn Nghiên cùng anh bạn đánh trống Nguyễn Đình Phán vừa bước vào cổng, ông phó chủ tịch xã Thanh Bình đã chơi ngay một vố làm hai người chỉ còn cách độn thổ:
    - Các anh là mấy tay thợ kèn làng Cùa phải không?
    - Dạ, chúng cháu chào bác ạ.

    Ông Trọng laị hỏi:
    - Sang đây có việc gì?
    Thấy hai gã trai thiên hạ đưa mắt nhìn nhau, ông chủ nhà ra tiếp đòn quyết định :
    - Con Hảo nhà này sắp làm dâu ông bí thư huyện uỷ. Tôi đề nghị các anh đừng quấy rầy nó nữa.

    Thế là hai anh em quay gót, đi một mạch về làng chẳng biết Hảo có nhà hay không .Tối hôm ấy Nghiên viết mấy dòng thư gửi cô ta : “Hoàn cảnh nhà tôi phức tạp lắm không tương xứng với Hảo. Từ nay chúng ta chấm dứt quan hệ và mong em được hạnh phúc với chàng trung cấp nông lâm.” Nhận được thư, Hảo chẳng giữ ý nữa, sang ngay làng Cùa. Lúc ấy Nghiên đang gõ thuyền đánh lưới bén trên sông Lăng. Nhìn thấy dung mạo Hảo, bà Hài mừng lắm, trong lòng dự đoán, hai đứa chắc đã có tình ý với nhau, liền nhờ người đi gọi con trai rồi kể cho Hảo về gia cảnh. Nghe xong cô xúc động lắm nói với bà mẹ :
    - Chuyện bác trai trước là chủ tịch huyện rồi anh Khải đi học đại học Nông lâm anh ấy chẳng nói gì với cháu. Hôm bà cháu mất, anh ấy viết điếu văn làm cả họ phải khóc cháu đã sinh nghi.

    Bà Hài chép miệng;
    - Hai anh em nó đứa nào cũng tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp ở tỉnh, nhưng vì thành phần gia đình, thằng Khải khó khăn lắm mới được đi học đại học. Thằng Nghiên vì anh mà phải giam gần nửa năm, may có ông Trần Quảng gỡ cho.


    Bà Hài nói đến đây thì Nghiên về. Hảo làm mặt giận:
    - Anh Nghiên coi thường em quá .

    Nghiên tin Hảo yêu mình thật lòng nhưng biết là cô ta không thể nào vượt được quyền ông bố gia trưởng đang lập kế hoạch dùng con gái làm nhịp cầu tiến thân. Cuộc tình này hẳn là chẳng có kết thúc tốt đẹp liền giả tảng nói với mẹ nhưng thực chất là để cho Hảo biết rõ thái độ của mình:
    - Đây là cô Hảo bên làng Báng, con ông Trọng, phó chủ tịch xã Thanh Bình.

    Bà Hài bảo:
    - Tao biết rồi.

    Hảo nguýt Nghiên có ý trách:
    - Giới thiệu kiểu gì thế?
    - Tôi nói chưa hết. Nghiên tiếp tục bằng thứ giọng mà chính mình cũng thấy khó chịu – Chắc cô Hảo sang đây mời đám cưới?

    Hảo sa sầm nét mặt:
    - Anh ác lắm. Đấy bác xem, anh ấy toàn nói châm chọc.
    -Tôi không nói sai đâu. Mấy hôm trước chính ông phó chủ tịch nói như thế khi tôi và anh Phán vừa vào đến cổng.

    Hảo bổng giật mình:
    - Các anh đến hôm nào, sao em không biết?
    - Vừa đến cổng đã bị đuổi ra Hảo biết thế nào được?

    Hảo cười gằn:
    - Vì thế mà anh viết thư cho tôi đòi chấm dứt quan hệ?
    - Biết làm thế nào được, cái chính là tại hoàn cảnh gia đình tôi.
    - Làm đấng nam nhi phải chịu nhường người mình yêu thương cho kẻ khác thì hèn lắm. Thôi chào anh. Con chào bác, con về.

    Tất nhiên là bà Hài không cần đưa mắt ra hiệu thì Lê Văn Nghiên cũng phải chạy theo. Anh ta đưa Hảo ra tận quán Cây Đề. Tại đây Hảo khóc thút thít, còn Nghiên ra sức vỗ về. Anh ta vốn sợ nước mắt phụ nữ, hễ cứ thấy các cô sụt sịt là người bứt rứt như bị dị ứng khi thời tiết thay đổi. Được một lúc thì sự căng thẳng tạm thời giải toả. Lúc sắp về, Hảo dặn:
    - Từ nay nếu có sang phải báo trước để em đón.
    - Anh sợ ông phó chủ tịch lắm, lúc nào cũng lừ lừ trông ghê cả người.
    - Bây giờ làm thế nào hả anh ? Cứ nhìn thấy thằng Thạc là em đã ghét.
    - Em cứ viết thư nói thẳng với anh ta.
    - Hắn bám dai như đỉa, trong nhà bố em là nội ứng, anh bảo làm sao thoát được. Em nghĩ chỉ còn một cách.
    - Cách gì hả cô bé bướng bỉnh?

    Hảo ngập ngừng:
    - Chỉ có một cách là... có con trước với chàng thợ kèn.

    Nghiên bật cười:
    - Em không đùa đấy chứ?

    Hảo gật đầu:
    - Em nói hoàn toàn nghiêm túc. Có thế chúng ta mới được bên nhau mãi mãi.

    Nghiên từ từ kéo Hảo vào ngực, hôn lên tóc cô, thì thầm:
    - Chúng mình là những người đàng hoàng, không làm thế được. Ta phải chọn cách khác thôi em ạ.

    Mấy lần Hảo đi chơi tối về muộn, ông Trọng sinh nghi liền cử cậu con trai út là thằng Tần bí mật theo dõi. Đến lúc ấy ông ta mới ngã ngửa người ra hai đứa vẫn hò hẹn nhau ở quán Cây Đề. Khác với mọi lần, hôm ấy ông phó chủ tịch im như thóc trong bồ, lặng lẽ nghĩ cách xử lý. Thời gian chờ đợi khá căng thẳng nhưng rồi nó cũng đến khi ông bố thấy cô con gái vào buồng chải tóc mặc bộ quần áo mới. Hảo vừa ra khỏi làng lập tức có mấy bóng đen bám theo. Họ luôn giữ khoảng cách với Hảo chừng hơn trăm thước mà cô ta không hề biết. Từ kẻ Báng sang đồng Quao khá xa. Hảo vừa đi vừa chạy, đến lúc nhập nhoạng thì mất hút làm mấy bóng đen nháo nhác tìm. Lúc ấy khoảng hơn bảy giờ. Nghiên đã chờ khá lâu. Hảo vừa xuất hiện hai người đã ôm cứng lấy nhau. Cô gái khóc tức tưởi:
    - Gay rồi anh ơi, rằm tháng này nhà trai đến ăn hỏi, làm thế nào bây giờ ?

    Nghiên vuốt tóc Hảo thở gấp như bị choáng:
    - Sao nhanh thế?
    - Hình như bố em đã biết chuyện chúng mình, mấy hôm nay em thấy thái độ khác lắm.
    - Đứng im ! Các người đã bị bắt.

    Hảo và Nghiên vừa rời khỏi tay ra thì chiếc đèn pin đã rọi thẳng vào mặt.
    - à, ra cô Hảo, mời cô về, ông phó chủ tịch đang đợi ở nhà. Còn anh kia, theo chúng tôi về uỷ ban !

    Hai gã lạ mặt chắc là dân quân làng Báng. Tay khoác súng trường lừ lừ nhìn Nghiên rồi bất ngờ quàng ngay dây thừng vào người anh ta. Hảo sấn lại, quát lên:
    - Các người làm gì thế? Bỏ anh ấy ra.
    - Xin lỗi cô Hảo nhé !

    Gã cầm đèn pin giữ chặt tay cô gái bảo :
    - Đây là lệnh của ông nhà. Chúng tôi chỉ là người thừa hành.

    Nghiên bị trói hai tay vào cột quán. Trước khi đưa Hảo về, tay dân quân khoác súng vỗ vai chàng thợ kèn bảo:
    - ở đời không nên chơi trèo anh bạn ạ. Cô Hảo là con dâu ông bí thư, kẻ nào động vào là ngồi nhà đá.

    Hảo vừa bước vào nhà ông bố đã túm tóc bạt tai liền mấy cái, giọng rít lên:
    - Đồ mất dạy! thế này thì mày bôi tro trát trấu vào mặt tao còn gì.
    Cô con gái lấy tay xoa má, lẳng lặng vào buồng làm ông bố càng tức:
    - Mày không có mồm à?

    Đến lúc này Hảo không chịu được thói gia trưởng quá quắt của ông Trọng nữa, oà lên khóc:
    - Thầy sai dân quân rình mò con, trói người ta giữa đồng là phạm pháp. Ngày mai con sẽ ra xã báo với bác Kiểm.

    Ông phó chủ tịch như vừa bị cái tát điếng người, rít qua kẽ răng:
    - Có giỏi thì mày cứ đi.

    Hảo vênh mặt:
    - Con đã bảo không lấy tay Thạc, thầy cứ ép sau này đừng trách.

    Ông Trọng cười gằn:
    - Mày... mày dám...
    - Thật đấy.

    Hảo thấy bố đờ mặt ra liền tấn công tiếp:
    - Lần nào giảng nghị quyết cho thanh niên thầy cũng nói chế độ xã hội chủ nghĩa tôn trọng tình yêu hôn nhân tự do rồi phê phán hệ ý thức phong kiến lạc hậu, vô nhân đạo chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, thế mà về nhà lại ép duyên con gái, vậy chúng con phải tin vào ai?

    Rõ ràng là đang bị dồn vào thế bí nhưng ông phó chủ tịch vốn lắm mưu mẹo, biết rằng cứ đối đầu như vậy sẽ dẫn đến đổ vỡ, bèn thay đổi chiến thuật. Ông ta vốn có sở trường dùng ba tấc lưỡi chuyển bại thành thắng trong lúc nguy cấp. Có lẽ chỉ con cách đánh vào tình cảm may ra con bé cứng đầu này mới chịu nghe.
    - Hảo con có thương thầy mẹ không?
    - Sao thầy lại hỏi như vậy?
    - Là vì thầy mẹ thương mày lên muốn chọn cho mày tấm chồng tử tế, sau này có chỗ dựa suốt đời.
    - Con biết ơn thầy mẹ nhưng như thế không có nghĩa là cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy.
    - Nhà ông bí thư có mỗi cậu Thạc là con trai, lại được học hành tử tế. Mày về bên ấy là bác Sự xếp ngay cho một chân văn phòng, thiên hạ khối kẻ nằm mơ cũng không được đâu con ạ.
    - Con lạ gì tư cách anh Thạc, anh ta đã học dốt lại ỷ thế bố là bí thư huyện uỷ khinh người.

    Đã dùng mọi lý lẽ thuyế phục mà Hảo vẫn không chuyển biến, ông Trọng phải dùng đến chiêu cuối cùng :
    - Được rồi, bây giờ tao hỏi đây, mày có biết gốc gác cái thằng thổi kèn đám ma ấy thế nào không mà định đâm đầu vào?
    - Gia đình anh ấy tốt, chăm chỉ làm ăn.
    - Mày ăn phải bùa mê thuốc lú rồi con ạ. - Ông phó chủ tịch cười nham hiểm - Bố nó là Quốc dân đảng bị xử bắn hồi Cải cách. Mẹ nó là con gái lão chánh Đàm, phản động khét tiếng vùng Ba Tổng. Anh em nó đều là lũ lưu manh đi tù về.

    Hảo nhìn lên thấy vẻ mặt đắc thắng và ánh mắt thoáng chút độc địa của bố liền bảo:
    - Trừ thầy ra, cả vùng này ai mà không biết bác Vận là chủ tịch huyện bị Đội Cải cách xử oan. Con cũng xin nói rõ, mấy người thầy sai đi điều tra”báo cáo” không đúng sự thật. Trước Cải cách ruộng đất, hai người con trai bác Vận đã đỗ tú tài bán phần. Hiện nay anh Khải đang học khoa Thú y đại học Nông lâm sắp ra trường. Họ là những người có văn hoá và tư cách chứ không phải “ lũ lưu manh”.

    Ông Trọng cười mát:
    - Mày hiểu rõ lý lịch nhà người ta quá nhỉ, nhưng quyết định của thầy mẹ vẫn không thay đổi. Rằm này ông bà bí thư sẽ mang lễ sang ăn hỏi, đầu tháng tám tổ chức.
    - Thầy... thầy nhẫn tâm lắm.

    Ông phó chủ tịch hạ giọng nặng chịch:
    - Nước có phép nước, nhà có lệ nhà, cứ thế mà chấp hành, không bàn cãi lôi thôi nữa.

    Dịp ấy Thạc cũng học xong trung cấp Nông lâm mang tấm bằng xếp loại trung bình sang khoe với Hảo:
    - Anh đã có quyết định về làm việc ở phòng Nông nghiệp huyện. Cưới nhau xong bố sẽ xếp việc cho con dâu làm văn thư, thế là chúng mình mãi mãi bên nhau.

    Hảo nhìn bộ dạng anh cán bộ kỹ thuật mới ra lò, giọng lạnh lùng:
    - Nhưng anh chưa hỏi xem tôi có đồng ý hay không?
    - Em sao thế?
    - Chẳng sao cả. Đơn giản là tôi không yêu anh.

    Thạc nhăn nhó:
    - Nhưng mà tôi yêu em. Hơn nữa hai gia đình đã chuẩn bị, em phá đám còn ra thể thống gì nữa.

    Hảo lắc đầu:
    - Anh về nói với ông bà bí thư hủy đám ăn hỏi đi. Tôi đã có mang với người ta.

    Thạc bị choáng, lặng người một hồi lâu mới ngập ngừng bảo:
    - Không... sao, vì anh rất yêu em. Chuyện này chỉ hai ta biết với nhau miễn là em đồng ý làm vợ anh.

    Hảo ôm mặt khóc. Thật là phường vô liêm sỉ. Cô đã mạo hiểm đem cả danh tiết của mình đặt lên bàn đàm phán mà hắn ta vẫn trơ lỳ, bám dai hơn đỉa đói. Biết làm thế nào đây?

    Những ngày này Hảo bị giam lỏng, nhất cử nhất động đều bị giám sát chặt chẽ, không thoát ra ngoài được. Tối nào Nghiên cũng ra quán Cây Đề để rồi nửa đêm lại về túp lều ở đồng Chó Đá trong tâm trạng bần thần thảng thốt.

    Sau lễ ăn hỏi mười tám ngày thì hai bên tiến hành đám cưới. Đó là một đám cưới nửa nạc nửa mỡ. Bà con dân làng đến dự được mời ăn trầu, uống nước, hút thuốc ngoài sân kho hợp tác xã. Họ hàng thân quen và quan khách hàng huyện thì ăn cỗ trong nhà. Việc tổ chức đời sống mới do chi đoàn thanh niên đảm nhiệm. Riêng khoản văn nghệ, bây giờ người ta không nắm tay nhau nhảy “xon mì” như hồi Cải cách nữa mà chuyển sang hát " Câu hò trên bến Hiền Lương” hoặc "Tình trong lá thiếp” nghe rất mùi.

    Đến lúc sắp đón dâu, Ông Trọng mới ra lệnh mở cửa buồng. Hảo như người mất hồn, quần áo lôi thôi, tóc rối bù chẳng thèm chải. Mấy cô bạn xúm vào trang điểm gần nửa giờ mới tàm tạm giống cô dâu.

    Đêm tân hôn .Lúc ấy đã muộn lắm. Thạc say khướt vì phải chạm cốc với cánh đồng môn lớp trung cấp Nông lâm, đẩy cửa buồng bước vào thở ra toàn mùi rưọu quốc doanh. Anh ta cài chốt rồi nhảy lên gường choàng tay ôm ngang người Hảo. Cô lùi vào trong khẽ bảo:
    - Không được động vào người tôi!

    Thạc cất giọng lè nhè:
    - Cô đã là vợ tôi, tôi có quyền.

    Hảo bịt mũi xua tay:
    -Tôi sợ mùi rượu .
    Thạc quài tay vặn to ngọn đèn, mặt hằm hằm, khác hẳn thái độ khúm núm mấy hôm trước ở nhà ông Trọng.
    - Cởi quần áo ra!

    Hảo lắc đầu:
    - Anh mà động vào người tôi là tôi cắn lưỡi tự tử.
    - Mày đã nằm ngửa ra cho thằng thợ kèn nó chơi... còn ngượng cái nỗi gì?
    - Anh im đi!

    Thạc nổi khùng chửi:
    - Không ngờ nhà tao tốn bao nhiêu tiền lại rước về một con đĩ.

    Hảo tái mặt cố nén cho giọng bớt gay gắt:
    - Hãy nghe cho rõ đây. Trinh tiết một đời con gái của tôi không phải là dành cho hạng người như anh.
    - Cứ thử xem...

    Thạc dường như đã tỉnh rượu, vồ lấy Hảo xé rách toạc chiếc áo cánh bằng phin nõn. Anh ta vừa thò tay kéo chun quần thì cô lật sấp người đẩy mạnh ra rồi cắm con dao lá lúa vào yết hầu. Con dao nhỏ sắc được Hảo chuẩn bị từ trước, động tác lại quá nhanh làm Thạc trong lúc đang bị kích động không kịp đề phòng, chỉ đến khi máu từ cổ vợ thấm ướt áo gối trắng tinh thêu đôi chim hoà bình anh cán bộ kỹ thuật mới hô hoán lên. Mọi người hoảng hốt chạy vào thì Hảo đã tắt thở.

    Vụ án đêm tân hôn làm nhà bí thư Huyện uỷ mất mặt với thiên hạ. Người ta nghi Đoàn Công Thạc giết vợ nên điện cho công an tỉnh về điều tra. Con dao vấy máu còn đó. Thạc không thể thanh minh khi mà chính anh ta rút dao khỏi cổ vợ, dấu vân tay còn để lại sau khi bộ phận hình sự làm xét nghiệm. Trong khi khai với cảnh sát điều tra, anh cán bộ kỹ thuật cung cấp một chi tiết quan trọng, đó là Hảo đang có mang với một người làng Cùa là Lê Văn Nghiên. Tuy nhiên các bác sỹ pháp y lại có kết luận ngược lại. Hảo vẫn là con gái trinh. Vì thế, họ càng có thêm chứng cứ, bởi ghen tuông Thạc đã giết vợ ngay đêm động phòng.

    Vụ án ngày càng phức tạp vì công an không tìm thêm được những chứng cứ ngoại phạm nhằm gỡ tội cho con trai ông bí thư. Hơn nữa, ông Tăng Văn Trọng sau khi biết chắc chức chánh văn phòng đã tuột khỏi tầm tay liền phát đơn đề nghị công an tỉnh làm rõ cái chết oan uổng của con gái. Đoàn Công Thạc bị tạm giam tại trại Kim Chân đến tháng ba vẫn chưa xử được. Lê Văn Nghiên nhớ thương Hảo, người lúc nào cũng như bị ma ám, ăn ngủ thất thường.

    Bà Hài khuyên con trai:
    - Vợ chồng là cái duyên cái số, trời không cho đành chịu con ạ. Có trách là trách cái ông phó chủ tịch xã Thanh

    Bình hám địa vị, danh vọng ép duyên con gái đến nỗi cái Hảo thiệt thân. Tao mong toà án sớm đem cái thằng bất nhân ấy ra bắn trước bàn dân thiên hạ .

    Nghiên nhìn mẹ nét mặt rầu rầu :
    - Con nghĩ tay Thạc chưa chắc đã giết vợ mà có khi Hảo uất ức quá rồi tự sát.
    - Mày chỉ nói càn .-Bà hài trách –Con gái hơ hớ ra như thế thì việc gì nó phải chết .

    Nghiên bảo :
    - Trước hôm cưới ít lâu con có nhận lá thư . Cô ấy nói, nếu không còn cách nào khác thì ngày cưới cũng là ngày từ giã cõi đời .
    - Nó viết thế thật à?
    - Con vẫn giữ thư của Hảo đây.

    Bà Hài gạt đi :
    - Chớ có đưa ra rồi làm ơn nên oán . Bây giờ mẹ mới nhớ ra, ông bí thư Đoàn Công Sự, hồi giữa năm năm nhăm chả làm đội Cải cách bên xã Nhân ái là gì . Chính ông ta đã xúi Hoàng Đình Tằng đuổi nhà mình ra khỏi làng Bòng.

    Nghiên lại bảo :
    - Thời ấy qua rồi, mẹ không nên cố chấp . Con nghĩ ta cứ gửi bức thư này cho nhà chức trách để họ xem xét , cho dù tay Thạc có tội thật con cũng được thanh thản lương tâm.
    - Vậy thì tuỳ con.

    Hôm sau Nghiên cuốc bộ năm cây số ra bưu điện gửi bức thư của Hảo. Vừa nhận được, công an tỉnh vội đánh chiếc xe ba bánh về làng Cùa. Bà con đồng Chó Đá không biết chuyện gì xảy ra đã lo cho cho bà Hài . Hai cảnh sát hỏi Nghiên về mối quan hệ giữa anh ta và Hảo trước đây, thời gian nhận bức thư và một vài chi tiết khác. Nghiên kể xong họ ghi chép rồi bắt tay anh ta:
    - Cảm ơn anh đã giúp chúng tôi làm sáng tỏ vụ án. Chúng tôi sẽ đề nghị chính quyền biểu dương tinh thần trách nhiệm.

    Nghiên lắc đầu:
    -Tôi chả cần biểu dương mà chỉ cần các cấp có thẩm quyền xem xét tư cách của ông phó chủ tịch Tăng Văn Trọng. Vì ông ta mà Hảo phải chết oan. Có điều trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta, cho đến giờ, hình như chưa có điều khoản nào xử phạt những ông bố ép duyên con gái.

    Người công an đứng tuổi đeo quân hàm thượng uý gật đầu:
    - Anh nói đúng.

    Hảo mất được hơn một năm thì đã xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ. Khắp vùng Ba Tổng thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ . Nghiên cũng viết đơn xin tòng quân. Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ xem đơn xong bảo:
    - Đối tượng nhập ngũ đợt này phải là đoàn viên. Anh thuộc hộ cá thể lại quá tuổi không đủ tiêu chuẩn.
    Đầu năm sáu sáu lại có đợt tuyển thanh niên xung phong Trường Sơn. Nghiên nghĩ, thanh niên xung phong chọn tiêu chuẩn thấp hơn bộ đội chắc họ để mình đi. Ai ngờ Bùi Quốc Tầm lúc ấy là bí thư Đảng uỷ, nhìn thấy lá đơn, gõ gõ cán bút xuống bàn nói:
    - Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước ở hậu phương cũng quan trọng không kém gì tiền tuyến. Anh cứ về nhà yên tâm lao động sản xuất, khi nào cần chúng tôi gọi.

    Mấy lần bị hạ nhục, Nghiên cảm thấy không còn đủ kiên nhẫn chịu đựng, định viết lên đơn lên huyện tố cáo thói lộng hành và tham ô tài sản hợp tác xã của bọn Bùi Quốc Tầm và Hỗ Chột. Bà Hài khuyên:
    -Thân phận mình như con sâu cái kiến, họ có cả một bè, bàn tay không che nổi mặt trời đâu con ạ.
    - Nhưng mà họ chèn ép mình quá.
    -Thôi được, ngày mai sang mượn bác Doãng cái xe đạp đưa mẹ lên tỉnh, lần này lại phải nhờ bà Ba mới xong.

    Cũng như Lê Văn Khải đi đại học Nông lâm, lần này Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái nhìn thấy lá thư tay cùng chữ ký của ông Trần Quảng thì không còn lý do trì hoãn nữa, phải hạ bút phê ngay vào đơn và chuẩn bị hồ sơ cho Lê Văn Nghiên gia nhập thanh niên xung phong.

    Chuyến ấy vùng Ba Tổng có hơn bảy chục thanh niên nam nữ vào Trường Sơn, riêng làng Cùa có tám người.

    (còn tiếp)

  2. #14
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 14

    1. Sau khi tốt nghiệp, Lê Văn Khải được phân công về nông trường Phượng Sơn. Nông trường này ở một nơi heo hút suốt ngày chỉ nghe tiếng chim “ bắt cô trói cột’’. Rừng ở đây thoáng đãng hơn vùng Bắc Thoòng, gió cũng nhiều hơn và đặc biệt có những đồng cỏ rộng, khá bằng phẳng để chăn thả gia súc. Thanh niên nông thôn mới gia nhập đội ngũ công nhân vài năm, nhiều người chưa biết chữ nhưng rất hồn nhiên, yêu đời.

    Giám đốc Trần Kim Thang là cán bộ miền Nam tập kết từ năm Năm Tư, xem xong giấy tờ hỏi Lê Văn Khải:
    - Cậu học ngành Thú Y à?
    - Thưa Giám đốc, trong quyết định có ghi rõ đấy ạ.

    Ông Thang húng hắng họ nói giọng Quảng Ngãi vùng Ba Tơ rất nặng:
    - Ban giám đốc điều đồng chí về phòng kỹ thuật phụ trách khâu chăn nuôi.
    Trần Kim Thang có cả một bộ máy giúp việc đa số là dân xứ Quảng, trình độ học vấn phần lớn mới thoát nạn mù chữ, nghề chuyên môn là nuôi lợn, trồng chè, rất đố kỵ với dân trí thức, nhất là loại tốt nghiệp đại học như Khải. Mai Ngộ, trưởng phòng tổ chức hành chính là một người đàn ông da mặt sát xương, tóc chớm bạc, mắt như mắt mèo hoang, xem hồ sơ của Khải do nhà trường gửi về theo đường bưu điện, thấy có những chỗ không khớp nhau liền gọi anh ta đến hỏi:
    - Bố anh mất tháng giêng năm năm nhăm phải không?
    - Phải, có chuyện gì thế ạ?
    - Ông cụ chết bệnh hay là...?

    Đến lúc này thì chẳng cần giấu nữa. Khải thầm nghĩ vậy rồi nhìn thẳng vào cặp mắt soi mói của trưởng phòng Tổ chức bảo:
    - Bố tôi bị Đội Cải cách bắn oan.
    - Sao không ghi vào lý lịch?
    - Uỷ ban xã đề nghị không đưa việc ấy vào hồ sơ.
    -Tại sao xã lại làm việc tuỳ tiện như vậy?

    Lê Văn Khải bực mình vì cái kiểu vặn vẹo vô lý của tay trưởng phòng liền bảo:
    - Ông về địa phương mà hỏi, tôi không biết.

    Mai Ngộ về xã Đoàn Kết thật. Sau một tuần, ông ta đã có bộ hồ sơ đầy đủ về anh chàng bác sĩ thú y liền báo cáo với Trần Kim Thang trong buổi giao ban đầu tuần:
    - Lý lịch của tay Khải này phức tạp lắm. Anh ta được đi học là do bà mẹ có mối quan hệ vơí ông chủ tịch tỉnh. Tôi đề nghị nông trường không lên bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo mà chỉ để anh ta làm chuyên môn thuần tuý.

    Trần Kim Thang gật đầu tán thành:
    - Đồng chí Ngộ nói đúng. Đây không chỉ đơn giản là sự sắp xếp cán bộ mà nó còn liên quan đến vấn đề giai cấp. Ta mà chủ quan, hữu khuynh là kẻ thù giai cấp ngóc đầu dậy, nguy hiểm lắm.

    Trưởng phòng kỹ thuật Hà Hữu Đư, người Bắc, học trung cấp nông nghiệp, tiếp Lê Văn Khải không được mặn mà lắm. Anh ta liếc mắt đánh giá đối phương rồi chỉ chiếc bàn ọp ẹp để cốc chén ở góc phòng nói:
    - Đây là chỗ làm việc của đồng chí, có việc gì khó khăn cứ nói với tôi.

    Lê Văn Khải nhìn thấy đám cán bộ đang giả vờ bận bịu với đống giấy tờ nhưng mắt người nào cũng gườm gườm có vẻ như chả ưa gì anh nhân viên mới. Anh ta ngẫm nghĩ: “ Tiếp đón nhau kiểu này khó sống lắm đây”.

    Khải về nông trường chưa đầy hai tháng, một buổi chiều có ông khách đến tìm tại khu nhà tập thể. Viên bác sĩ thú y chưa hề biết người này, nhưng ông khách, trạc ba tư ba nhăm, đội mũ phớt, mang kính râm lại nắm khá rõ hoàn cảnh của anh ta. Sau mấy câu mang tính xã giao, người đội mũ phớt bảo:
    - Đại uý Lương Quang Tính giới thiệu về anh.
    - Vậy ra, đồng chí là...
    - Tôi được cấp trên giao nhiệm vụ phụ trách mạng lưới đặc tình vùng này. Từ nay hàng tháng anh phải báo cáo những sự việc xảy ra trong phạm vi nông trường vào ngày hai mươi tám. Địa điểm sẽ quy định sau. Nên nhớ việc này chỉ tôi với anh biết.

    Đêm hôm ấy là thứ Bảy, nằm một mình, Lê Văn Khải thầm nghĩ: “Thế là họ vẫn không tha mình”. Còn nhớ, hồi mới học năm thứ Nhất, lúc Khải đang từ nhà ăn về, một người đứng tuổi mặc thường phục bất ngờ vỗ vai hỏi:
    - Anh là Lê Văn Khải phải không?
    - Tôi đây, nhưng anh là ai?

    Người đàn ông chìa ra tấm thẻ rồi nói khẽ:
    - Theo tôi !

    Ông công an mặc thường phục dẫn Khải ra khỏi trường, đi lòng vòng một lúc thì đến bờ sông máng. Trong lòng Khải rất hoang mang, thậm chí còn sợ bị thủ tiêu. Hút gần hết điếu thuốc người công an mới vào vấn đề:
    - Chúng tôi bên An Ninh muốn mời anh cộng tác.

    Khải thở phào nhưng giọng vẫn còn căng thẳng:
    - Tôi thì giúp được các đồng chí việc gì ?
    - Có đấy.

    Người cán bộ An Ninh nhìn chàng sinh viên Nông nghiệp, cái nhìn mang hàm ý răn đe:
    - Trường Đại Học là nơi tập hợp nhiều trí thức có thành phần xuất thân thiếu cơ bản. Một số không ít còn là cán bộ lưu dung, tức là những viên chức cũ trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp và tay sai để lại. Phần lớn các đối tượng này đều ngấm ngầm chống lại đường lối sáng suốt của Đảng, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Anh là người được ngành An ninh tin tưởng chọn làm nhân viên đặc tình, hàng tháng phải có trách nhiệm báo cáo những việc xảy ra trong trường từ ông hiệu trưởng đến các anh nuôi, chị nuôi dưới nhà bếp.
    - Có nghĩa tôi phải làm công việc do thám họ ?
    - Đại loại như thế nhưng cần tuyệt đối bí mật. Người ngoài không ai được biết.

    Lê Văn Khải đã hiểu người ta muốn gì ở mình nhưng anh ta vẫn thả lời thăm dò:
    - Nếu tôi từ chối thì sao ?

    Ông Công an ném mẩu thuốc xuống máng nước cất giọng nặng trịch:
    - Tôi nghĩ anh sẽ không từ chối, vì với một sinh viên có lý lịch phức tạp như anh sẽ buộc phải nghỉ học bất cứ lúc nào nếu bên An ninh thấy cần thiết.

    Khải gật đầu một cách miễn cưỡng:
    - Tôi hiểu...

    Từ đấy anh ta bắt buộc phải làm cái việc mà mình không muốn, nghĩa là bí mật theo dõi hành vi của người khác viết thành báo cáo gửi công an dưới mật danh H3. Một lần trong trường xảy ra vụ ngộ độc thức ăn, hơn tám chục sinh viên phải vào bệnh viện. Lê Văn Khải nghe ngóng tình hình, thu thập thông tin rồi viết : “Người ta nghi ngờ ông Trần Đình Quỳ, nhân viên phòng hành chính quản trị có mâu thuẫn với ông Phạm Tất, quản lý nhà ăn sinh viên, nên đã bỏ thuốc độc vào thùng nước uống. Trưa ngày... tháng ... năm... Cũng xin lưu ý, ông Quỳ trước đây có đi lính Bảo an, thành phần gia đình hồi Cải cách là phú nông, bố làm chánh hội....’’. Ông quỳ bị tạm giam để lấy lời khai. Sau đó người ta tìm ra nguyên nhân ngộ độc là do nhà bếp mua phải thứ cá mè ươn, để tám tiếng đồng hồ mới đem nấu, cũng may không có trường hợp nào tử vong. Lần khác, một vị lãnh đạo cao cấp đến nói chuyện ở hội trường lớn. Ông ta đang thao thao bất tuyệt về tính ưu việt của hợp tác xã nông nghiệp và phong trào thi đua “ mỗi người làm việc bằng hai ’’ thì bên dưới chuyền tay nhau băng giấy pơ luya viết mấy câu lục bát :

    "Bốn người làm việc bằng hai
    Ăn thì bằng tám, nói dai bằng mười"


    Mấy ông cán bộ tổ chức vội chia nhau đi thu gom. Hoá ra ngăn bàn nào cũng có. Tất cả đều cùng một kích thước, chữ đánh máy, có cả dấu, rất dễ đọc. Xác định đây là thứ truyền đơn nói xấu chế độ, chống phá chủ trương chính sách của Đảng, công an tiến hành điều tra trên quy mô lớn. Họ bắt một số đối tượng nghi ngờ, kiểm tra toàn bộ máy chữ nhưng không tìm ra được thủ phạm. Riêng thầy Nguyễn Thúc Cơ, tốt nghiệp kỹ sư Canh nông tại Pháp, hiện đang giảng dạy bộ môn chọn giống, thường hay chèn những câu châm biếm của mình vào bài giảng phê phán một số quan điểm giáo điều duy ý chí, làm thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, là đối tượng nghi can số một, thì lại không bị thẩm tra. Thế là Lê Văn Nghiên làm một bản báo cáo chi tiết gửi ông cán bộ An ninh. Ba hôm sau thầy Nguyễn Thúc Cơ bị bắt. Từ đó nhà khoa học này không bao giờ trở lại trường đại học Nông lâm nữa.

    Cầm được tấm bằng tốt nghiệp trong tay, Lê Văn Khải những tưởng mình thoát khỏi trò chơi nguy hiểm, ai ngờ chợ chưa họp kẻ cắp đã đến. Thật là khốn nạn.

    Hồi ấy nông trường Phượng Sơn được Bộ giao kế hoạch chăn nuôi cừu Mông Cổ. Thời gian đầu loại gia súc ngoại nhập này phát triển tương đối tốt, số lượng lên đến bảy ngàn con, nhưng hai năm sau, tự nhiên chúng mắc phải chứng bệnh kỳ lạ chết hàng loạt. Trần Kim Thang sợ đàn cừu bị xoá sổ, mất chức giám đốc phải đánh xe lên Hà Nội trình báo. Người phụ trách chăn nuôi của bộ Nông trường bảo:
    - ở chỗ anh có một Bác sỹ Thú y cơ mà ?

    Trần Kim thang gật đầu chẳng cần suy nghĩ:
    - Có đấy, nhưng anh ta cứ đòi mổ thịt hết con này đến con khác để nghiên cứu trong khi ngày nào cũng có vài con chết. Cái mà chúng tôi cần là Bộ cấp ngay cho loại thuốc đặc trị nhằm duy trì số lượng chứ không phải kinh phí để tay bác sĩ non choẹt ấy thường xuyên mổ cừu lấy thịt tươi đánh chén.

    Ông Thứ trưởng phụ trách chăn nuôi tuy chẳng có chút chuyên môn nào về cừu Mông Cổ thấy thái độ của giám đốc nông trường Phượng Sơn cũng phải bất bình:
    - Muốn cứu đàn cừu khỏi chết hàng loạt thì trước hết phải biết chúng mắc bệnh gì đã, mà tìm bệnh ở gia súc không có cách nào hơn là phải mổ ra xem lục phủ ngũ tạng nó ra sao sau đó mới lên phác đồ điều trị. Anh nghĩ thế là sai rồi.
    - Chúng tôi đề nghị Bộ cử chuyên gia về nghiên cứu.

    Vị Thứ trưởng chăn nuôi gật đầu:
    - Được, nhưng tôi lưu ý, Lê Văn Khải vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong đề tài khoa học này. Kinh phí nghiên cứu sẽ do Bộ cấp.

    Chuyên gia được cử về nông trường là Nguyễn Cẩm Tú, học trước Lê Văn Khải một khoá. Hai người mổ đến con cừu thứ tư thì phát hiện ra, trong dạ dày của nó có loại giun xoăn là tác nhân gây ra cái chết hàng loạt. Giai đoạn tiếp là phải tiêm một số kháng sinh rồi tiến hành xét nghiệm gan, dạ dày và một số bộ phận nội tạng xem phản ứng với thuốc ra sao. Lại hàng chục chú cừu bị hạ sát. Trần Kim Thang tiếc đứt ruột.

    Một hôm ông ta gặp Khải gợi ý:
    - Tớ bị yếu gan, nghe nói loại bệnh này ăn gan cừu có thể khỏi, muốn xin các cậu mỗi ngày một bộ.

    Lê Văn Khải bảo:
    - Bác thông cảm lấy thịt vậy, gan là bộ phận quan trọng nhất của thí nghiệm. Nó được cắt vụn ra, rửa qua dung dịch rồi đưa vào kính hiển vi soi để tìm trứng hoặc ấu trùng giun.

    Trần Kim Thang nghe chưa hết câu đã cau mặt:
    - Nghiên với chả cứu. Các cậu định chờ đến lúc đàn cừu vào nồi hết mới công bố kết quả thí nghiệm phải không ?

    Hôm sau Giám đốc cho các nhân viên bảo vệ canh trại cừu từ sáng sớm. Lê Văn Khải và Nguyễn Cẩm Tú đến bắt cừu như mọi ngày thì liền bị ngăn lại:
    - Nông trường quy định, từ nay bất cứ ai muốn bắt cừu phải có lệnh của giám đốc.

    Lê Văn Khải bảo:
    - Chúng tôi đang làm thí nghiệm khoa học chữa bệnh cho cừu. Những con bị mổ đã có kinh phí nghiên cứu do Bộ cấp cơ mà.
    Tay bảo vệ rậm râu sâu mắt cũng là dân xứ Quảng, giọng trọ trẹ:
    - Đây không biết, các người cứ về nông trường mà hỏi.

    Hai người đạp xe về cơ quan thì thấy cửa phòng giám đốc khoá, chẳng biết đi đâu. Cẩm Tú bảo:
    -Thế này là họ cố tình phá chúng ta rồi.

    Khải cười nhạt:
    - Chị nói đúng. Có lẽ ta lên dừng công trình này lại nếu không, họ còn tiếp tục gây khó khăn.

    Cẩm Tú về Hà Nội được một tuần thì Trần Kim Thang họp ban giám đốc ra nghị quyết thanh lý đàn cừu với lý do không hợp thuỷ thổ, chết hàng loạt, gây thiệt hại cho nhà nước. Khách hàng phần lớn là các công ty thực phẩm và cửa hàng ăn uống, số còn lại phân phối cho anh chị em công nhân theo giá nội bộ.

    Cuối năm ấy, nông trường Phượng Sơn lập kế hoạch chăn nuôi lợn. Một quan chức có trách nhiệm của Bộ tỏ ra dè dặt sau vụ Trần Kim Thang thanh lý cừu, đưa ra ý kiến:
    -Tay này trình độ lớp ba, chẳng có chút kiến thức nào về quản lý kinh tế, liệu ông ta có quản nổi đàn lợn hay lại giống như hồi nuôi cừu.

    Ông Vụ trưởng Tổ chức nhận xét:
    - Hồi còn ở nhà, Trần Kim Thang là tá điền chuyên nuôi lợn cho hội đồng Quýnh. Tôi nghĩ ông ta sẽ làm được vì nuôi lợn dễ hơn nuôi cừu, hơn nữa lợn vốn là giống bản địa thích hợp với thổ ngơi.

    Vậy là chỉ trong vòng hai năm, đàn lợn lên đến ba ngàn bảy trăm con. Đây là cơ sở chăn nuôi tập thể lớn nhất miền Bắc. Phượng Sơn trở thành lá cờ đầu, là điển hình tiên tiến của ngành nông trường. Khách từ mọi nơi kéo đến tham quan học tập. Trần Kim Thang bỗng nhiên trở thành người hùng.

    Nông trường chỉ có một mình Lê Văn Khải là Bác sĩ Thú y nên anh ta khá mất thời gian với đàn lợn. Nhưng chị em chăn nuôi còn vất vả hơn nhiều. Hàng ngày họ phải thái hàng trăm cây chuối, băm một khối lượng bèo bằng đống rạ, nấu hơn hai chục chảo cám mới đủ cung cấp cho mấy nghìn chú Trư Bát Giới lúc nào cũng thi nhau gào thét vì đói. Đề tài “Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” bất chợt nảy sinh khi khải nhìn thấy mấy chú lợn choai đang tranh nhau mớ rau muống. Đây là một dự án khoa học táo bạo, thậm chí mạo hiểm, vì đến lúc ấy các cơ sở chăn nuôi từ quy mô gia đình đến tập thể, đều cho lợn ăn chín theo phương thức truyền thống. Phát hiện của Lê Văn Khải mang tính đột phá làm giảm nhẹ sức lao động của chị em, hạ giá thành sản phẩm, gây chấn động toàn ngành chăn nuôi, đưa nông trường Phượng Sơn lên đỉnh cao vinh quang. Bộ yêu cầu nông trường viết đề tài khoa học. Khải phải mất nửa tháng mới hoàn thành công trình. Anh ta chắc mẩm, từ nay mình sẽ được sống dễ thở hơn, nhưng không ngờ Trần Kim Thang chơi tiếp vố thứ hai. Đó là cuộc hội thảo khoa học ở nông trường Cao Thắng. Bộ đã ra chỉ thị, ai là chủ đề tài sẽ đọc báo cáo nhưng Trần Kim Thang rỉ tai ông thứ trưởng:
    - Báo cáo anh, tay Khải không phải đảng viên mà tính kiêu ngạo không coi ai ra gì. Đề tài này của tập thể đảng uỷ và ban giám đốc. Anh ta chỉ là người thừa hành.

    Ông Thứ trưởng người Quảng Nam, trước đây cũng là một đại đội Địa phương Quân với Giám đốc nông trường Phượng Sơn, gật đầu:
    -Thế thì cậu thay mặt ban giám đốc lên đọc đi, đọc cho rõ ràng khúc chiết vào, vì đây là đề tài cấp bộ sẽ được nhân rộng ra toàn ngành.

    Phải nói Trần Kim Thang có chất giọng tốt, đọc khá diễn cảm nên nhanh chóng thu hút được sự chú ý của các cử toạ. Bản báo cáo vừa dứt, tiếng vỗ tay rào rào, ai cũng phải thừa nhận, đó là một phát kiến vĩ đại mặc dù nó vô cùng đơn giản.

    Vào phút cuối cùng khi được ban tổ chức thông báo thay đổi người trình bày đề tài khoa học, Lê Văn Khải sững người. Anh ta nghiến chặt hai hàm răng, bàn tay tự nhiên co lại thành nắm đấm, định tống vào cái mặt thiết bì của lão Giám đốc một quả cho bõ tức nhưng rồi lại buông thõng xuống, bỏ hội trường ra ngoài trước con mắt ngạc nhiên của hàng trăm quan khách. Anh ta nhảy qua một mương dẫn nước leo lên đồi. Những vành nón trắng nhấp nhô của những cô gái trẻ giữa một vùng mênh mông, trên là bầu trời màu lam nhạt, dưới là ngút ngát nương chè làm tâm hồn chàng bác sĩ thú y trở lại thư thái. Thiên nhiên hào phóng đầy mây ngàn và gió núi xua đi phần nào nỗi uất ức trong lòng, bất giác Khải buột miệng:
    - Mặc xác các người với những báo cáo khoa học nhảm nhí ấy, ta lên trời đây.

    Thảo nguyên mênh mông xa típ tắp vẫn là cỏ xanh. Phía sau những đồi chè là dòng suối ngoằn nghoèo uốn khúc, nhìn từ trên cao chẳng khác gì con rồng xanh với rất nhiều chân choãi ra. Cách bờ suối không xa, nơi có những đám mây bạc sà xuống tận sườn núi là một đàn bò đang thong dong gặm cỏ. Nhìn bộ dạng vô tư, thanh thản của chúng Khải bỗng ao ước : “ Gía mà mình được làm kiếp bò, ngày nào cũng được gặm cỏ, uống nước mát, mặc kệ sự đời, chẳng phải nghĩ ngợi gì”.

    Về đến nông trường Phượng Sơn, trong cuộc họp giao ban, Trần Kim Thang mặt lạnh như tiền tuyên bố:
    -Đồng chí Lê Văn Khải có hành vi vô kỷ luật, bỏ hội thảo đi chơi không báo cáo. Tôi yêu cầu phải làm kiểm điểm.

    Khải không nói gì chỉ cười gằn. Nửa tháng sau, một hôm tình cờ ghé vào phòng Giám đốc, Khải thấy tờ chuyên san khoa học kỹ thuật của ngành kẹp dưới mấy cuốn tạp chí “Học tập” liền rút ra xem. Đó là số chuyên san mới nhất có in đề tài “ Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” của mình nhưng tên tác giả lại là Trần Kim Thang. Hoá ra lão ém đi là vì chuyện này. Anh ta nghĩ một lúc rồi quyết định cầm tờ chuyên san sang phòng họp đặt trước mặt ông Giám đốc:
    -Thế này là thế nào ?

    Trần Kim Thang giả bộ không biết gì, hỏi lửng lơ:
    - Chuyện gì thế đồng chí Khải ?
    - Ông đừng đóng kịch nữa.
    - Tôi cấm anh không được xúc phạm…
    - Vậy tôi hỏi, tội chiếm đoạt công trình khoa học của người khác thì pháp luật xử lý như thế nào ?

    Phòng họp có toàn thể các thành viên ban chấp hành đảng uỷ, Trần Kim Thang rất sợ mất mặt . Đang bối rối ông ta chợt nảy ra một diệu kế liền nghiêm giọng bảo:
    - Đề nghị đồng chí nói năng cẩn thẩn. Tôi hỏi đồng chí ai lãnh đạo nông trường?
    - Ông làm tôi như là trẻ con ấy .
    - Tôi hỏi nghiêm túc đấy.
    - Tất nhiên là ban giám đốc.
    - Đồng chí mới chỉ nói đúng một nửa. - Trần Kim Thang lúc này đã lấy lại được bình tĩnh thong thả phân tích theo phương pháp tam đoạn luận - Đảng uỷ nông trưòng lãnh đạo toàn diện. Ban giám đốc chỉ là những người thừa hành. Mà Đảng lãnh đạo toàn diện thì mọi thành tích đều thuộc về Đảng. Công trình khoa học đồng chí viết là do Đảng chỉ đạo, gợi ý và phân công. Tôi trên cương vị bí thư và giám đốc doanh nghiệp ghi tên vào công trình khoa học càng làm vinh dự cho tập thể chúng ta, trong đó có đồng chí và tập thể anh chị em công nhân. Đồng chí thắc mắc chuyện này là chưa dứt được cái đuôi tiểu tư sản vốn là căn bệnh làm con người chỉ thấy cá nhân mà không thấy sự nghiệp lớn của tập thể.

    Trước những lời lẽ hết sức “thuyết phục” của Trần Kim Thang, Lê Văn Khải không thể bắt bẻ được nữa. Anh ta đưa mắt nhìn hết lượt các vị lãnh đạo rồi bất ngờ tuyên bố:
    -Phải bây giờ tôi mới hiểu được chân lý Đảng lãnh đạo toàn diện.

    2. Người yêu của Lê Văn Khải là Mai Thị Xuân. Cô ta mới lên nông trường hơn một năm, người dong dỏng, dáng xinh xẻo thích ăn diện. Xuân là người chủ động tấn công anh bác sĩ thú y trước. Lúc đầu Khải có phần lạnh nhạt nhưng về sau thấy cô gái chăn nuôi thể hiện tình cảm rất nồng nàn nên cũng xiêu lòng, chỉ có điều trình độ học vấn thấp, hình như mới học hết lớp bốn. Nghĩ đi nghĩ lại Khải tự bảo: “ Đời mình rồi sẽ gắn bó mãi với đàn lợn ở vùng xanh núi đỏ này thôi, vậy thì hãy nghĩ đến một gia đình, vì tuổi cũng không còn ít nữa.”

    Mai Thị Xuân tuy là cô gái nông thôn nhưng tỏ ra là có kinh nghiệm trong trường tình. Để chài bằng được anh bác sỹ thú y đẹp trai, cô ta không từ bất cứ thủ đoạn nào. Khải được bố trí ở gian ngoài cùng của dãy nhà tập thể đội chăn nuôi. Tối nào các cô cũng đến chơi và cô nào cũng hi vọng vào một điều gì đó rất mơ hồ.

    Hôm ấy trời rét mà đêm đã khuya, Mai thị Xuân về phòng chừng nửa tiếng lại sang. Cô ta nấn ná một lúc rồi khẽ nói:
    - Hôm nay em ở đây với anh...

    Mặt Khải biến sắc. Anh ta lắc đầu bảo :
    - Em về đi. Bọn bảo vệ được lệnh của ông Thang và ông Ngộ luôn để mắt đến chúng ta đấy, chỉ cần tắt đèn là họ ập vào lập biên bản ngay.

    Xuân làm mặt giận :
    - Anh không yêu em ?

    Khải rối rít xua tay:
    - Khổ quá. Anh giữ là giữ cho hạnh phúc của chúng mình. Em làm thế này bạn bè nó coi ra gì.

    Cô gái chăn nuôi nũng nịu:
    - Nhưng em không muốn mất anh. Lúc tối, thấy cái Lý nó nhìn anh như muốn ăn sống nuốt tươi mà em gai hết cả người.

    - Thôi nào - Khải nhẹ nhàng bảo - Người ta có mắt người ta nhìn, cấm sao được.
    - Nhưng em cấm anh.
    - Được rồi anh xin nghe.

    Tình yêu của hai người đang độ chín. Khải sắp đưa Xuân về làng Cùa giới thiệu với bà Hài thì cô ta tạm thời được điều về phòng hành chính nông trường . Là đơn vị có phong trào chăn nuôi điển hình, nông trường Phượng Sơn thường xuyên có khách. Khách huyện, khách tỉnh, khách trung ương đủ loại. Có đoàn về tham quan học hỏi kinh nghiệm thực sự, có đoàn ghé qua chỉ để kiếm tạ gạo nếp hoặc vài con lợn giống, chục ký chè, lại có vị chức sắc đầu tỉnh đã chán mứ các món cao lương mỹ vị, bảo lái xe đưa về Phượng Sơn thưởng thức chim quay và ngắm cảnh núi rừng để thư giãn sau những ngày đấu đá căng thẳng.

    Lần ấy, nông trường phải đón đoàn cán bộ của uỷ ban kế hoạch. Chủ nhiệm Vũ Kiểm là nhân vật đầy quyền lực, thường xuyên thay mặt uỷ ban hành chính tỉnh duyệt kế hoạch sản xuất hàng năm của các doanh nghiệp. Anh nào muốn nhanh chóng được phân bổ chỉ tiêu kinh phí thì phải tìm cách yết kiến ông ta. Vũ Kiểm có tật ưa của nếp và thích hát chèo. Gái nông trường phần đông nhan sắc giống như Thị Nở, học hành lôm nhôm, những cô mỏng mày hay hạt lại biết tí chút văn nghệ chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

    Đinh Công Ngoã, Trưởng phòng Hành chính đồng thời là tay chân thân tín của giám đốc xuống các đội chọn mãi mới được vài cô sạch nước cản. Hắn kéo tuốt cả về nông trường làm một cuộc sát hạch cả thanh lẫn sắc. Cuộc kiểm tra khá nghiêm túc do đích thân Trần Kim Thang làm chánh chủ khảo. Các thí sinh lọt vào vòng chung kết phải cởi bỏ quần áo ngoài chỉ mặc đồ lót để xem có bệnh ngoài da không vì rất nhiều cô trông mặt thì bóng bẩy nhưng toàn thân lại mắc chứng ghẻ ruồi hoặc bị phá nước, ngồi đâu cũng gãi xoành xoạch, rất mất lịch sự.

    Chủ nhiệm Vũ Kiểm dẫn đoàn tuỳ tùng gồm sáu cán bộ kế hoạch về nông trường Phượng Sơn được đón tiếp như thượng khách. Buổi tối, trước khi bảo Mai Thị Xuân vào phòng riêng hát làn điệu chèo “ Quân tử vu dịch”và “ Đường trường phải chiều” cho ông chủ nhiệm nghe, Đinh Công Ngoã ghé tai thì thầm:
    - Giám đốc dặn, hát xong, chủ nhiệm bảo làm gì em cũng phải chiều ông ấy, sau sẽ có thưởng.

    Xuân đánh mắt liếc Ngoã nguýt dài :
    - Em ngượng lắm.

    Ngoã cười toe toét trấn an cô nhân viên mới:
    - Này, xem ra ông ấy thích em lắm đấy.

    Vũ Kiểm mới trạc tứ tuần, thân hình ngũ đoản, khoẻ như vâm. Sau khi nghe vài bài, ông ta cài chốt cửa, tắt đèn rồi bế Mai Thị Xuân lên giường vần cô ta suốt đêm, đến gần sáng thì mệt phờ, ngủ thiếp đi. Mai thị Xuân lách ra khỏi chăn, mặc quần áo, he hé cửa nhìn trời vẫn còn tối, liền lẳng lặng về phòng mình ở dãy nhà phía sau.

    Chuyến ấy, nông trường Phượng Sơn được duyệt kế hoạch bổ sung sớm nhất so với các đơn vị khác trong tỉnh. Trần Kim Thang phấn khởi lắm, xếp lương cho Mai Thị Xuân vào nghạch cán sự hai, năm mươi sáu đồng và cho đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ văn thư ngắn hạn. Hai tháng sau, Xuân về nông trường, mặt mày ủ dột làm Đinh Công Ngoã sinh nghi hỏi:
    -Sao em buồn thế ?

    Mai Thị Xuân trả lời nhát ngừng :
    -Hình như em có chửa rồi . . .

    Ngoã giật mình :
    -Chết cha ! Có.....với đứa nào ?

    Xuân giẩu mỏ rất đanh đá :
    -Lại còn phải hỏi, lão Vũ Kiểm chứ còn ai nữa.

    Trưởng phòng Hành chính ngập ngừng :
    -Anh cứ tưởng . . .

    Cô nhân viên khẽ gắt :
    -Tưởng cái gì ? Lão ấy làm hùng hục như trâu húc bờ ấy, ai mà chịu được .

    Ngoã cắn môi ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
    -Quan hệ của em với tay Khải bây giờ thế nào ?

    Xuân lắc đầu :
    -Hết rồi.
    -Được để tôi trao đổi với ông Thang, nhưng việc này em phải giữ kín .
    -Anh không phải dặn .

    Buổi chiều Giám đốc nông trường đánh com măng ca đít vuông xuống đội chăn nuôi, vào gian nhà Lê Văn Khải bắt tay anh ta :
    -Vẫn khoẻ chứ đồng chí Khải ?
    -Cám ơn bác, tôi khoẻ.

    -Này tớ hỏi thật. - Trần Kim Thang bỗng nhiên tỏ ra thân mật rất đáng ngờ - Quan hệ của cậu với cô Xuân đến đâu rồi ?

    Lê Văn Khải chưa hiểu mục đích của cuộc viếng thăm bất chợt này nên trả lời lấp lửng :
    -Người ta cứ đồn thế chứ thực ra không có gì.
    -Chuyện này là chuyện vui đừng dấu Ban giám đốc.- Trần Kim Thang cười rất tươi nói bằng giọng cha chú -Nếu các cháu đồng ý ta sẽ đứng ra làm ông mối rồi tổ chức một đám cưới đời sống mới thật rôm rả ở cơ quan nông trường.

    Anh Bác sỹ Thú y không biết được âm mưu của Trần Kim Thang, nhưng qua thái độ quá lộ liễu của ông ta tự nhiên cảm thấy sự vun vén hạnh phúc này có cái gì đó không bình thường bèn lựa lời từ chối :
    -Cảm ơn giám đốc nhưng cũng xin nói thực, tôi và cô Xuân trước đây có tìm hiểu nhau , tuy nhiên qua một thời gian thấy tính tình không hợp nên đã chấm dứt mối quan hệ.

    Giám đốc thấy kịch bản có nguy cơ đổ bể, ông ta quyết định chơi bài ngửa :
    - Nếu Ban Giám đốc đề nghị đồng chí cưới cô Xuân rồi sẽ bổ nhiệm làm phó phòng kỹ thuật đồng chí có chấp hành không ?
    Khải thấy cái đuôi chuột đã lòi ra liền cười nhạt :
    - Bây giờ Đảng uỷ lại có nghị quyết về hôn nhân và gia đình của công nhân viên chức nông trường nữa cơ đấy .

    Trần Kim Thang cười gằn :
    - Chúng tôi quan tâm đến anh mới gợi ý như vậy, không đồng ý thì thôi nhưng cấm có thái độ châm chọc.

    Nói rồi ông giám đốc hằm hằm bước ra xe, về đến nông trường lập tức gọi Đinh Công Ngoã lên phòng, đóng cửa lại bảo :
    - Việc không xong rồi. Ngày mai tôi cấp giấy, cậu đưa cô Xuân sang bệnh viện tỉnh giải quyết cái thai. Tuần sau tôi sẽ làm quyết định điều thằng Khải xuống đội 6 chăn bò.

    Lê Văn Khải không ngờ Trần Kim Thang lại dồn mình đến đường cùng nhưng anh ta vẫn phải chấp hành. Trong quyết định ghi : “Tăng cường cán bộ kỹ thuật cho cơ sở sản xuất” nhưng thực chất là đi đày đến một nơi khỉ ho cò gáy cách cơ quan nông trường hai chục cây số có tên là Trại Bông. Chăm sóc đàn bò cày hai mươi tám con là một tổ ba người. Chị Thìn ba bảy tuổi, người đẫy đà, mông to, ngực nở thuộc loại quá lứa nhỡ thì làm tổ trưởng, Lê Văn Khải bác sĩ thú y mới được bổ nhiệm chức tổ phó, ngoài ra còn có cô Sánh người được một mẩu lại thọt chân làm tổ viên. Hàng ngày, chị Thìn và cô Sánh cắt cỏ, Khải lùa bò đi chăn, đội sản xuất nào cần cày thì đếm đầu con giao cho họ, xong vụ, lại nhận về nhốt vào chuồng.

    Gần Trại Bông có hồ Thanh Thuỷ rộng hơn trăm mẫu. Chiều chiều sau khi thả bò, Lê Văn Khải lại ra ngồi dưới gốc bạch đàn ngắm mặt nước sóng sánh. Có những hôm đàn bò về chuồng đã lâu, trời nhập nhoạng anh ta anh ta vẫn còn lững thững trong rừng dẻ, chị Thìn phải lên gọi mới về ăn cơm. Chị Thìn đối xử với Khải như em trai làm anh bác sĩ thú y cảm động lắm.

    Thấm thoắt, Lê Văn Khải đã ở Trại Bông một năm ba tháng. Dịp ấy cuối tháng chạp, sắp đến Tết Nguyên Đán. Lúc này việc cày bừa đã xong, đàn bò được thả rông, cô Sánh xin nghỉ phép về ăn Tết. Trại bò chỉ còn lại chị Thìn và Lê Văn Khải. Giữa tiết tiểu hàn, trời lạnh lắm. Lũ bò bị nhốt trong chuồng nhai cỏ khô. Dãy nhà tập thể trống tuềnh toàng, gió lùa rét như cắt da. Tối nào hai chị em cũng đốt lửa sưởi đến quá nửa đêm mới ngủ. Một hôm chị Thìn ốm, Khải nấu cháo đậu xanh mang sang đặt trên chiếc bàn nhỏ đầu giường bảo:
    - Chị ăn cháo cho nóng.

    Chị Thìn ngồi dậy lắc đầu :
    - Tôi có ốm đâu mà nấu cháo.

    Khải cầm tay chị Thìn bắt mạch, bàn tay người phụ nữ nóng hầm hập, run bắn liền kêu lên:
    - Chị không ốm sao tay nóng thế? Để tôi tìm xem còn viên thuốc nào không.

    Chị Thìn tóc tai bơ phờ nhìn Khải ngập ngừng:
    -Tối mò thế này biết thuốc ở đâu mà tìm, thôi ngồi xuống đây tôi bảo.

    Thấy thái độ chị Thìn có cái gì đó khác thường, anh ta định mở cửa bước ra, nhưng nghe giọng thảng thốt của người đàn bà, liền ngồi xuống bên cạnh. Toàn thân Khải lúc này tự nhiên nóng ran. Chị Thìn lại thì thầm :
    - Tôi lạnh lắm Khải ngồi vào đây ...

    Bàn tay anh Bác sỹ Thú y run run đặt lên đùi chị Thìn. Một cái đùi to đùng chắc nịch và ấm áp hơn bất cứ thứ chăn đệm nào làm anh ta vừa thích vừa sợ . Chị Thìn cầm tay Khải áp lên bộ ngực nóng hổi đã được tháo bỏ hết cái thứ dây rợ. Khải nhắm mắt gục đầu vào tóc chị Thìn, tay mân mê cặp vú, lắng nghe nhịp đập gấp gáp của con tim người đàn bà luống tuổi. Đôi vú thật là mẩy và đàn hồi hơn cả các loại bóng cao su. Nó vừa nóng ấm vừa mát lạnh. Nó có sức mạnh tự thân điều hoà trạng thái tâm lý. Nó gợi lên tứ thơ bất chợt hoặc phác thảo một khuôn hình lập thể đầy chất cổ điển, khác hẳn vú bò, vú lợn, thậm chí cả cặp vú giang hồ của Mai thị Xuân mà không chỉ một lần cô ta đã cầm tay Khải đặt vào.

    Chị Thìn thở hổn hển nhưng không phải vì sốt cao. Chị nằm ngửa ra tuột quần xuống chân đỡ Lê văn Khải nằm lên bụng rồi thì thầm:
    - Cậu đã biết mùi đàn bà chưa?

    Khải gật đầu:
    - Biết...

    Chị Thìn lại hỏi:
    - Ngủ với bao nhiêu cô rồi?

    Khải hôn lên má chị, thật thà bảo:
    - Ngủ thì chưa.

    Chị Thìn vòng tay ôm ngang lưng chàng Bác sĩ Thú y, giọng khiêu khích:
    - Đàn ông đã hơn ba chục tuổi mà kém thế.

    - Tại tôi không thích thế thôi.

    - Thế tôi cậu có thích không?

    - Thích.- Lê văn Khải ghì chặt người đàn bà đến mức chị ta phải rên khe khẽ.
    - Tôi già rồi, cậu thích chẳng qua là ở xứ khỉ ho cò gáy này chẳng có đứa con gái nào ra hồn.

    Khải dụi mớ tóc bù xù vào ngực chị Thìn:
    -Tôi thích chị thật mà...

    Sáng ra, hai người dậy muộn. Khải ra suối xách nước người vẫn còn lâng lâng. Chị Thìn tươi tỉnh khác hẳn bộ mặt ủ rũ chiều hôm trước. Chị ta hỏi:
    - Cậu có ân hận vì chuyện hôm qua không?

    Khải thản nhiên bảo:
    - Có gì mà phải ân hận, đã bảo tôi thích chị kia mà.
    - Liệu thích được mấy hôm ,hay lai cả thèm chóng chán ?
    - Chị đừng nghĩ thế.

    Chị Thìn sụt sịt khóc :
    - Chị thuộc loại xấu gái , quá lứa nhỡ thì, chỉ cầu xin cậu một đứa con, sau này có chỗ dựa chứ không có ý rằng buộc trách nhiệm.

    Khải nhìn vẻ mặt đau khổ của người đàn bà, giọng nhoè đi:
    - Không tôi yêu chị thật lòng.

    - Đừng nói dại - Chị Thìn bỗng oà khóc, người rung lên trong tiếng nấc - Tôi không hứa hẹn gì với cậu, nhưng lúcnào muốn ngủ với tôi thì cứ sang, cửa phòng không cài chốt đâu.

    Cuối tháng hai, chị Thìn thèm của chua, biết là có chuyện liền xin nghỉ phép. Lê Văn Khải mượn được chiếc xe đạp đèo chị về nông trường bộ. Lúc sắp đi , hai người ra rừng dẻ trên bờ hồ Thanh thuỷ tìm dâu da đất. Thấy chị Thìn ăn thứ quả dại này một cách ngon lành, Khải sinh nghi bảo
    - Chị làm sao thế? Ăn nhiều dâu ra đất không tốt đâu.

    Chị Thìn cười ( Khi cười trông chị đẹp hẳn lên ):
    - Tôi có mang rồi, cảm ơn cậu.
    - Thế thì khoan hãy đi phép, ta bàn việc tổ chức đã.

    Chị Thìn rút trong túi ra mấy tờ giấy đưa cho Khải:
    - Đây là đơn xin ra Đảng và đơn xin thôi việc. Sau khi tôi về quê hai tháng, nếu không thấy lên thì cậu mang ra nông trường nộp cho ông Trần Kim Thang hoặc ông Mai ngộ.

    Khải sững sờ trước quyết định của người tổ trưởng chăn bò. Anh ta cầm tay chị khẽ bảo:
    - Chị không nên nghĩ quẩn. Tôi hứa danh dự là sẽ cưới chị đoàng hoàng .

    Chị Thìn ghì đầu Khải vào ngực giọng ngậm ngùi :
    - Chị biết tấm lòng của cậu nhưng chúng ta không có duyên phận. Cậu đã cho chị đứa con, thế là quý lắm . Chị không muốn làm hỏng sự nghiệp của một trí thức tài hoa.

    Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo :
    - Vậy để tôi đưa chị về quê.

    Người đàn bà lại lắc đầu :
    - Còn đàn bò ai trông? Cậu mà cứ gây căng thẳng với bọn Trần KimThang là bọn chúng đuổi việc đấy. Chị khuyên nên nín nhịn một thời gian. Người tốt như cậu sau này tất sẽ được đền bù. Còn điều này phải nhớ, hãy quên chị đi , không những bây giờ mà cả sau này nữa.

    Hai người nấn ná ở lại trong rừng đến nửa buổi mới ra đường. Trời vẫn còn rét đậm. Khải gò lưng đạp xe lên sườn dốc . Chị Thìn ngồi sau ôm chặt lấy eo chàng Bác sỹ Thú y. Suốt chặng đường hai người chẳng nói với nhau câu nào. Chị trùm khăn len kín mặt, thỉnh thoảng bật lên tiếng nấc. Thì ra chị vẫn khóc.

    Lấy giấy phép xong Khải lại đèo chị Thìn ra bến ô tô thị trấn . Quê chị mãi tận Thanh Hoá. Từ đây về đấy hơn ba trăm cây số. Khải chen vào mua vé. Thật may hôm ấy thưa khách . Chiếc xe chuồng gà long sòng sọc từ từ lăn bánh trên con đường cấp phối đầy bụi đỏ.

    (còn tiếp)

  3. #15
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 15

    1. Sau khi Nghiên đi thanh niên xung phong , Trịnh Doãng bỏ nghề thổi kèn đám ma chuyên chú vào việc thả ống lươn . Nguyễn Đình Phán đứng ra thành lập lại phường hiếu mà một trong hai tay kèn mới được phát hiện mỗi khi cất lên làm cho thần sầu quỷ khốc là lão Mộc.

    Lão Mộc là dân ngụ cư , nguồn gốc không rõ ràng . Hôm ấy là sáng mười tám , các bà đi chợ sớm nhìn thấy một người nằm co quắp trong điếm Bài Vân cạnh chiếc tay nải nhuộm vỏ già bên trong có chiếc kèn đám ma và mấy lưỡi búa vốn là đồ nghề của người đánh gộc tre . Hình như ông chủ những vật tuỳ thân đã chết bởi dáng nằm rất không tự nhiên . Bà quản Thông hộc tốc chạy về làng báo . Được tin , lý Quỳnh vội cử người ra xem hư thực . Ông ta rất sợ phải chôn cất những xác chết vô thừa nhận trong địa hạt của mình .

    Người đàn ông chưa chết nhưng nếu không được cứu chữa kịp thời chắc chắn sẽ về chầu ông vải rất nhanh vì lúc này đang sốt cao , người nóng hầm hập như lò lửa . Người ta thương tình cho nạn nhân nằm tạm trên chiếc chõng tre trong gian nhà phụ bên cạnh đình Cả .Tầm trưa thì ông ta tỉnh lại, xưng tên là Mộc không biết là thật hay giả. Phải nói rằng, ông Mộc thuộc loại người hễ trẻ con nhìn thấy là sợ chết khiếp giống như gặp “ Ba bị chín quai “ hiện hình với diện mạo hết sức cổ quái : mái tóc rễ tre cờm cợp đã muối tiêu, đôi mắt xếch dưới cặp chân mày rậm vếch lên và hàm râu quai nón mọc vô tổ chức choán già nửa khuôn mặt dái trâu ngăm ngăm đen. Không thể đoán chính xác được tuổi nhưng căn cứ vào dáng đi và những vết hằn ở đuôi mắt, có thể áng chừng ông ta vào khoảng bốn mươi hoặc trẻ hơn một chút.

    Hình như ông Mộc còn bị điếc. Tuy vậy việc giao tiếp bằng ngôn ngữ với ông không phải hoàn toàn vô ích. Ông có khả năng nhìn miệng mà hiểu được ý nghĩa lời người đối thoại. Vậy làng Cùa thêm một công dân, dù rằng ông ta chỉ có một cái tên, hoàn toàn vô gia cư, còn nghề nghiệp tuỳ vào thời vụ, ai thuê gì làm nấy nhưng thiện nghệ nhất là đánh gộc tre. Từ lâu làng Cùa đã nổi tiếng cả huyện về nghề đan giỏ và lờ bắt cá. Nhà nào cũng trồng mấy bụi tre hoá. Đêm đông, gió lạnh từ cồn Vành thổi về làng, thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt nghe như ma quỷ nghiến răng, khiến lũ trẻ con yếu bóng vía sởn gai ốc. Những nhà có rặng tre viền quanh bờ ao, vào dịp đầu tháng bẩy, cò lửa cùng với bồ các từ thượng nguồn sông Lăng bay về làm tổ, chẳng may gặp bão, lũ cò con mới ra ràng rớt xuống hoảng hốt gọi mẹ bằng thứ giọng đặc biệt của họ nhà chim rất là ai oán. Nhưng trăng ở đây thì thật tuyệt vời. Đó không phải thứ ánh sáng trần trụi, nguyên thuỷ, nhạt thếch đầy hoang dã mà là cả một trời lụa nõn, mượt như nhung, được lọc qua ngàn vạn mắt lá xanh mơn mởn rưng rưng những hạt móc vô cùng tinh khiết. Xa xa có tiếng chích choè gọi bạn. Một chú dế cơm đang vỡ giọng gáy lanh lảnh cạnh bụi tầm xuân bên ao đình. Màn độc tấu chói tai của nó vừa dứt thì dưới ao những âm thanh hỗn tạp của lũ chẳng chuộc, ếch cốm, nhái xanh với đủ cung bậc đồng loạt rộ lên như là cãi nhau. Trong bụi dành dành, chàng cuốc si tình cất giọng khắc khoải “ cuốc cuốc” Nghe thật não nùng .

    Việc đầu tiên của ông Mộc sau khi tai qua nạn khỏi là tra cán vào ba chiếc búa và dọn dẹp gian nhà bẩn thỉu, ẩm thấp bằng tinh thần của một ông chủ thực sự mặc cho lý Quỳnh càu nhàu. Nhà chật như hũ nút. Bộ đòn khênh bằng gỗ lim, đầu chạm hình rồng nặng chình chịch choán già nửa gian, thành ra phần còn lại chưa đầy ba thước ta muốn vào phía trong phải trèo qua chiếc chõng tre ọp ẹp vốn là của lão mõ Cống mới chết vài tháng trước.

    Người làng Cùa có thói quen, cứ đến cuối thu là gọi thợ đánh gộc chuẩn bị củi đun cho mùa đông. Có nhà xếp củi thành đống to như đống rạ, tết tha hồ luộc bánh chưng. Ông Mộc đậu lại ở đây quanh năm chả lúc nào hết việc. Không ai biết quá khứ của người đàn ông ngụ cư. Ông ta kín như bưng, thảng hoặc có người hỏi chỉ nheo cặp mắt đùng đục như bị ám khói cười, một nụ cười rất ngờ nghệch, chẳng khác gì người thiểu năng trí tuệ. Thế nhưng ông ta lại có dáng vóc vậm vạp của một lực điền to xương với bàn tay bè bè phủ lớp chai vàng xỉn dày cồm cộp, xù xì giống hệt bàn tay tượng nhà mồ Tây Nguyên được nghệ nhân vạc vài nhát phác thảo bằng rìu. Với ông, đánh gộc tre đã được nâng lên hàng công nghệ độc nhất vô nhị ở ở khắp vùng hữu ngạn sông Lăng. Ai có việc cần thỉnh phải đến đấy từ mấy hôm trước. Sau một hồi vừa nói như quát , vừa lấy tay ra hiệu của gia chủ, ông Mộc nhoẻn miệng cười gật đầu, thế là xong. Sáng sớm ông xách đồ đến gọi cổng từ lúc chủ nhà còn chưa dậy. Ăn lót dạ qua loa vài củ khoai hầm hoặc nắm ngô rang , uống bát nước vối, ông thợ gộc bắt đầu công việc của một ngày làm thuê . Đồ nghề của ông Mộc sáng loáng, cái nào cũng sắc. chém phầm phập . Sau khi dùng búa Thạch Sanh chặt đứt những chùm rễ tua tủa, ông vung cuốc chim bổ từng nhát chắc nịch và chính xác tách rời các gộc tre theo trật tự từ ngoài vào trong, từ dễ đến khó bằng động tác dứt khoát. Nửa buổi nghỉ giải lao, ông " bắn" điếu thuốc lào , nhấp ngụm nước rồi lại hùng hục đào , chặt bổ cho đến lúc cơm trưa. Ông thuộc loại dễ tính, không uống rượu , có gì ăn nấy và ăn rất khoẻ. Nghĩ cũng phải , nghề thổ mộc hao tổn năng lượng, cơm nhà quê chỉ dưa cà mắm muối, sang lắm mới có đĩa cá rán, không ăn nhiều làm sao đủ sức quai búa suốt ngày . Lôi hết gộc tre lên mới chỉ được nửa công việc . Ngày hôm sau, ông Mộc còn phải dùng búa tách chúng ra làm nhiều mảnh xếp thành đống hình cũi lợn. Tối, cơm nước xong, chủ nhà trả tiền hoặc đong vào bao ruột tượng vài ống gạo. Có nhà túng khất đến mùa mới ông trả cũng gật.

    Ông Mộc là người thật thà, thích sòng phẳng, không tắt mắt , có làm có hưởng, chẳng muốn luỵ ai. Phải năm mất mùa, làng đói ít người thuê mướn, ông đóng khố ra ngòi Mác đánh giậm kiếm mớ cá lẹp đem về nấu với ngọn khoai lang húp cho qua bữa chứ không xin người ta bố thí. Những hôm trở trời trái gió , ông nằm dài đắp chiếc áo dạ lính ngủ suốt ngày, thỉnh thoảng mới nhoài dậy nhấc điếu cày kéo mồi thuốc . Với ông thuốc lào là máu thịt , là niềm đam mê đến bệnh hoạn, thiếu cơm là chịu được , hết hơi khói là ốm ngay. ở đình làng đôi khi cũng có lộc . ấy là lúc các vị chức sắc ngả mâm đánh chén hoặc là những đám hiếu, tang chủ ra mượn đòn khênh. Cuộc đời của người ngụ cư cứ thế trôi đi cùng với nhịp sống đều đều buồn tẻ của cư dân làng Cùa cho đến ngày Đội Cải cách về làng. Ba hôm sau , ông Mộc được lệnh phải cuốn gói để lấy chỗ làm nhà giam bọn địa chủ , phản động. Ông ta đến nhà Ngô Quỳnh cầu cứu nhưng ông Lý mặt khó đăm đăm , thở dai thườn thượt, ghé tai người đánh gộc thuê nói rành rọt từng tiếng:

    - Ông tìm chỗ khác mà ở. Tôi hết thời rồi, chưa biết chừng vài hôm nữa còn bị tống vào đấy cũng nên.

    Ông thất thểu bước thấp bước cao, lòng nặng trĩu, cái dáng lực điền đổ bóng xuống đường làng. Không một cán bộ Cải cách nào thèm nghe nguyện vọng có vẻ như rất chính đáng ấy. Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp vĩ đại với nhiều cuộc họp quan trọng thông qua những quyết sách có tầm chiến lược, để người ngoài tổ chức luôn rình rập bên cạnh sẽ lộ bí mật. Hơn nữa ông ta là dân ngụ cư , lai lịch không rõ dàng, rất đáng ngờ. Đội Lạc nêu vấn đề này ra trong hội nghị cốt cán.
    - Xét bề ngoài thì ông Mộc thuộc thành phần cố nông, nhưng biết đâu được kẻ địch không gài người của chúng lại trước khi rút vào Nam. Có khi ông ta giả điếc để dễ bề hoạt động chống phá.

    Lê Thị Chĩnh, một trong hai cốt cán đắc lực của Đội Cải cách tuyên bố:
    -Tôi đề nghị đuổi lão ra khỏi làng Cùa.
    - Không làm thế được.- Đội Lạc nghiêm giọng bảo – Phải giữ những thành phần đáng ngờ ấy tại địa phương để có điều kiện quản lý giám sát, nếu cần thì giam lại cùng với bọn phản động. Thả chúng là mất cảnh giác cách mạng.

    Cuối cùng thì ông Mộc được ra ở miếu Si. Miếu này trước đây thờ một bà lão bắt cua bị chết đuối ở đầm Ma, đã nhiều năm dân làng chẳng cúng tế gì nhưng không hiểu sao vẫn chưa đổ nát. Ngôi miếu nằm trên gò đất cao hơn mặt ruộng vài thước, dưới tán một cây si già, rễ quấn lòng thòng, thả xuống như những cánh tay đười ươi, người nhát gan nhìn thấy sởn tóc gáy. Chung quanh gò còn có hàng duối cổ thụ, cành lá xoè ra với đủ mọi hình thù, đứng xa trông chẳng khác gì nhưng gã quỷ lùn đang mai phục, chờ đêm xuống bắt khách qua đựờng. Nói tóm lại cảnh vật quanh miếu vô cùng bí hiểm. Từ lâu người làng Cùa không dám vãng lai trừ bọn đạo chích chuyên nghề đào tường khoét ngạch. Bị đẩy đến đường cùng, ông Mộc chẳng còn cách nào khác, thôi thì đành ở với ma vậy. Kể ra ngôi miếu khá rộng, có khi gấp hai ba lần diện tích gian nhà để đòn khênh đám ma. Trước khi nhập cư, ông quét dọn “nhà” thật sạch sẽ, quờ hết mạng nhện, hót phân dơi và chữa lại cánh cửa. Xong việc ông thắp ba lén hương cắm lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái, sau đó buộc con chó Mực ra gốc cây si rồi lên chõng đánh một giấc. Đêm ấy ông chẳng chiêm bao thấy thần phật ma quỷ nào về quấy nhiễu mà chỉ có lũ dơi bay phành phạch, hết ra lại vào có vẻ như đang tức giận vì lãnh địa do chúng sở hữu lâu nay bỗng nhiên bị một kẻ lạ mặt chiếm dụng.

    Sáng hôm sau, vươn vai đứng dậy, ông khoác chiếc áo nhà binh muôn thuở lên vai, xách đồ nghề xuống chân gò. Ông Nhiêu Chuộc đang chăn bò nhìn thấy vẫy tay nói như quát:
    - Ông Mộc đi làm cho nhà ai đấy?

    Tất nhiên là người đánh gộc không thèm nghe nhưng qua điệu bộ của ông chăn bò cũng nhoẻn miệng cười.

    Ông Mộc tá túc ở ngôi miếu cổ được vài tháng thì có chuyện xảy ra. Đêm tháng sáu nóng quá, lúc dậy đi tiểu chân bỗng vấp phải một bọc tròn tròn ngay trước cửa ra vào, ông giật thót mình miệng lẩm bẩm:
    - Lạy các ngài con là kẻ tứ cố vô thân cùng đường phải ở nhờ chỗ thần linh, mong được bề trên che chở.

    Khấn rồi nhưng trong lòng vẫn không yên, người đánh gộc khêu to ngọn đèn dầu lạc, lấy hết can đảm he hé cửa miếu nhìn ra, hy vọng “ngài” đã thăng thiên. Nhưng mà cái bọc vẫn nằm đó hình như còn đang cựa quậy. Ông Mộc run lắm, tuy nhiên tính tò mò đã thắng nỗi sợ cố hữu, đánh liều cầm chiếc búa Thạch Sanh ra tận nơi xem nó là thứ ma quỷ gì. Không phải ma quỷ hiện hình mà là một đứa bé mới đẻ được bọc mấy lần tã lót, chắc là vừa ngủ dậy đang gào khóc thảm thiết. Lưỡng lự giây lát rồi ông Mộc cũng mang đứa trẻ vào miếu, tháo chiếc váy thâm bên ngoài vì nó đã “tè” ướt cả mấy lần tã. Một thằng con trai. Ông lắc đầu lẩm bẩm:
    - Chắc con đàn bà ôn vật nào hoang thai rôì làm chuyện thất đức đây.

    Hôm sau, ông mang ít tiền dành dụm dược được ra mẹt hàng xén bà Đô mua hai hộp sữa “con chim” về pha cho thằng bé. Nó bị mẹ bỏ rơi, đói quá, lúc nào cũng đòi ăn nhưng rất lành, ăn xong là lăn ra ngủ. Hết sữa ông Mộc nấu một nồi cháo loãng, đánh nhuyễn, bỏ thêm đường phèn vậy là cậu ta có thể ăn suốt ngày.

    Được chừng hơn tháng, hết sạch gạo, ông thợ gộc nghĩ đến việc phải đi làm, nếu không cả hai bố con sẽ chết đói. Nhưng đi làm lại phải mang thằng bé theo. Nó còn bé quá, từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ chưa chắc đã được ba tháng. Đành vậy. Đói bụng đầu gối phải bò. Buổi sáng ông vác đồ nghề, địu thằng bé trước bụng đến nhà bà Cả Phê. Bà Phê có cô con dâu mới ở cữ, hai vợ chồng đòi ra ở riêng phải phá rặng tre lấy đất làm nhà. Nhìn thấy người đàn ông ngụ cư ôm đứa trẻ lầm lũi bứơc trên đường, dân làng Cùa trố mắt tưởng như trời sắp sập. Mấy bà nạ dòng chuyên ngồi lê đôi mách thì thầm hỏi nhau:
    - Lão lôi đâu ra thằng bé thế nhỉ?
    - Hay là con lão?
    - Ai mà biết đựơc tổ con chuồn chuồn.
    - Nhưng mà tôi nghi lắm. Chẳng lẽ lão ngủ với... ma?
    - Vớ vẩn.- Một con mẹ mặt quắt, da hổ giun, răng cải mả như sắp long ra khỏi cái mồm cái mồm chão chuộc bảo - Có lần tôi nhìn thấy lão đưa cho con điên ở chợ Rồng mấy bắp ngô luộc, không con mụ ấy thì con ai?

    Ông Mộc chẳng cần thanh minh và cũng chẳng cần biết thiên hạ đàm tiếu gì về mình bởi cái tai nghễnh ngãng. Thật may cô con dâu bà cả Phê thừa sữa, suốt một tuần ông ta phá hàng tre, ngày nào thằng bé cũng được bú no.

    Những ngày ấy làng Cùa vô cùng sôi động. Chuyện lão đánh gộc thuê tự nhiên có một đứa con chẳng phải là điều đáng quan tâm của nhà chức trách. Người ta còn đang bận đấu tố địa chủ, phản động truy tìm tàn dư Quốc dân đảng, chia ruộng đất và phân phát quả thực. Mới được năm sáu tháng, thằng bé đã bò lê bò la, thăm dò tất cả mọi ngóc ngách. Những lúc có việc , không phải đi quá lâu, ông Mộc thường cài cửa để nó một mình trong miếu. Cậu ta lân la bò đến làm quen với con Mực mới đẻ bốn chú cún con mũm mĩm như trong tranh. Mẹ Mực âu yếm liếm mặt thằng bé như liếm lông con mình. Thấy lũ có con bú mẹ nó cũng hoặp miệng vào vú con mực mút lấy mút để. Dần dần thành quen, mỗi khi đói bụng thằng bé lại bò đến gần ổ chó. Có lần ông Mộc nhìn thấy vội kéo cậu ta ra nhưng nó giãy đành đạch, khóc toáng lên, còn con Mực nhe nanh gầm gừ, làm ông thợ gộc chịu phép.

    Rõ ràng là cố nông nhưng ông Mộc không được chia ruộng. Người ta lấy cớ ông thuộc đối tượng ngụ cư phi nông nghiệp, lai lịch lại thiếu rõ ràng nên tất nhiên không được hưởng chính sách người cày có ruộng. Lúc thằng bé gần hai tuổi một hôm chủ tịch Bùi Quốc Tầm chợt nhớ ra liền cho người đến miếu gọi ông Mộc ra trụ sở hỏi:
    -Tên thằng con bác là gì?
    - Là thằng Nhặt.
    - Bác phải làm khai sinh cho nó

    Ông nghe mãi mới thủng hỏi lại:
    - Khai sinh để làm gì?

    Vị Chủ tịch vừa lấy tay ra hiệu vừa quát:
    - Để đến khi lớn lên nó làm công dân làng Cùa.
    - Tôi cũng là công dân tại sao không được nhập hộ tịch?- Ông Mộc trừng mắt hỏi.
    - Lý lịch của bác không rõ ràng, xã cho ở nhờ là tốt lắm rồi.
    -Thế thì đây đếch cần cái thứ khai sinh của các người nhé.

    Nói xong ông bế thằng bé về, mắt gườm gườm nhìn trước nhìn sau như là sợ người ta cướp mất. Ông còn nhớ hồi cuối năm ngoái, dịp ấy đang đánh gốc xoan cho trưởng ban nông hội Quản Văn Ngật. Buổi trưa nhà Ngật làm thịt vịt đãi hai bố con. Thằng bé ăn lưng cơm, rồi cầm đôi chân vịt mút mát nguệch ra má trông rất hề. Vừa lúc ấy Chĩnh Con từ cổng nhà Trịnh Doãng bước sang, mắt trước mắt sau có vẻ gian lắm, hình như trong tay còn dấu vật gì. Nhìn thấy thằng bé gần vại nước, cô ta vẫy tay bảo nhỏ:
    - Ra đây cô cho cái này.

    Vừa gọi Chĩnh Con vừa chìa ra trước mặt nó cặp bánh dầy gói lá sen. Bánh dầy làng Rồng bằng xôi nếp hoa vàng giã nhuyễn, nhân đậu xanh cồn Vành, từ xa đã thấy thơm lừng. Hai cánh mũi thằng bé phập phồng, ngập ngừng một thoáng, sau đó chạy ra cổng. Chĩnh Con ấn vào tay thằng bé gói bánh rồi đột nhiên ôm chầm lấy hôn hít khắp người làm nó khóc thét lên. Đúng vào thời điểm ấy, không hiểu tình cờ hay có ai mách bảo, ông thợ gộc xuất hiện gườm gườm lườm Chĩnh Con như muốn thiêu cháy cô ta rồi giật phắt thằng Nhặt giọng rít lên:
    -Tôi cấm nhà chị động vào thằng bé, rõ chưa?

    Thằng Nhặt nép vào vai bố nuôi lấm lét nhìn người đàn bà. Nó đã nín khóc nhưng toàn thân vần còn run. Tuy điếc lác nhưng ông không dễ bị bắt nạt. Từ nay ông cảnh giác với bất cứ ai đến gần thằng bé. Bây giờ nó là máu thịt, là niềm an ủi cảnh cô đơn của một kẻ vô gia cư vào lúc tuổi xế chiều bị chính đồng loại của mình ruồng bỏ. Hai bố con sống yên ổn được mấy tháng lại có chuyện xảy ra. Hình như từ lâu, Chĩnh Con đã để ý đến thằng bé nên thỉnh thoảng lại lảng vảng quanh miếu Si. Có những chiều cô ta ngồi lì dưới gốc cây duối già nhìn vào miếu mãi nhập nhoạng mới về, lâu dần thành quen đến mức nắm được cả quy luật đi lại của ông thợ gộc. Đợi cho ông Mộc quẩy đôi lọ sành xuống đến chân gò, Chĩnh Con lẩn nhanh vào gốc si khẽ khàng rút then cửa lẻn vào miếu. Thằng Nhặt đang ngủ trên chiếc võng gai mắc giữa hai cột miệng nhai tóp tép như là đang ăn một thứ gì trong mơ. Người đàn bà đứng lặng một lúc khá lâu như đang suy tính điều gì hệ trọng lăm. Cuối cùng, cô ta cúi xuống, bàn tay ngập ngừng định vuốt vào má đứa trẻ bất chợt có tiếng quát ngay phía sau:
    - Không được động đến thằng bé!

    Chĩnh Con giật mình đứng sững như trời trồng, bỗng nhiên quỳ sụp xuống vái người đánh gộc:
    - Trăm lạy bác, em muốn...

    Ông Mộc chỉ tay ra cửa:
    - Cút ra khỏi đây!

    Nhìn vào cặp mắt tối sầm của ông thợ gộc, Chĩnh Con sợ lắm nhưng vẫn cố liều đánh vào lòng từ tâm cửa người đàn ông ngụ cư:
    - Em xin bác!

    Máu hồng bào nổi lên, ông Mộc quẳng đôi quang gánh làm lọ nước đổ lênh láng trên nền miếu, vớ cây búa đại dưới gầm bàn thờ gầm lên:
    - Cút!
    Chĩnh Con sợ hết hồn, lùi dần, lùi dần, ra đến gốc si thì ù té chạy.

    Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp hoàn thành được bẩy năm thì vùng Ba Tổng gần như hết sạch tre, vì thứ cây này được nhập vào thành tài sản xã hội chủ nghĩa, các gia đình muốn sử dụng phải làm đơn xin phép đội sản xuất, nếu là công việc chung của hợp tác xã thì ai cũng có quyền chặt. Ông Mộc đâm ra thất nghiệp , nằm ườn ở nhà, định sang đầu tháng mang thằng Nhặt về bên kia sông Lăng kiếm việc làm. Ông hy vọng, bên ấy người ta chưa công hữu tre. Ngồi buồn uống rượu một mình ( Dạo này thỉnh thoảng ông thợ gộc nhấm nháp chút ít ) ông Mộc nhớ đến chiếc kèn mang theo từ mười ba năm trước vẫn cất trong chiếc túi nhuộm vỏ già treo trên đầu xà, liền bảo cu Nhặt lấy xuống. Nghe tiếng kèn đám ma cả làng nháo lên, ai cũng nghĩ đêm qua có người chết. Nguyễn Đình Phán vội chạy ra miếu Si, nhìn thấy lão ngụ cư đang lắc lư mái tóc bạc phồng mồm đi bài “ Lưu thuỷ” rất say sưa mặc dù chiếc dăm bị thủng thỉnh thoảng lại bật lên những tiếng “khè khè”. Anh ta giật mình nghĩ thầm: “ Lão điếc mà thổi kèn giỏi thật, thế mà từ trước đến nay mình không biết.”

    Mấy hôm sau đội kèn hiếu được tái lập dưới sự bảo trợ của ban quản trị hợp tác xã Đoàn Kết do Nguyễn Đình Phán làm đội trưởng. Bố con lão thợ gộc trở thành xã viên thổi kèn hưởng công điểm theo định suất như những bộ phận thợ mộc, thợ nề khác. Thằng Nhặt được thầy Phán dạy đánh trống và kéo nhị. Đội kèn đến xã nào phục vụ, cuối năm xã đó phải chuyển thóc về làng Cùa qua bộ phận kế toán. Riêng khoản xôi thịt nhà đám biếu và các bữa ăn cho thợ kèn thức đêm thì không tính.

    2. Cuối cùng thì Trịnh Doãng cũng bảo thằng Dọng viết đơn xin vào hợp tác xã. Hắn vào không phải vì thấy được lợi ích thật sự của phương thức làm ăn tập thể mà cái chính là cả làng Cùa chỉ còn mình hắn thuộc hộ cá nhân, lúc nào cũng bị thiên hạ nhìn như một kẻ phản động bị loại ra khỏi cộng đồng. Hắn biết thừa hợp tác xã là một thứ cha chung trong đó người khôn kẻ dại đều bấu vào với phương châm nói nhiều làm ít và vì thế, ăn cũng ít trừ ban chủ nhiệm, kế toán, thủ quỹ, đội trưởng và thư ký. Bọn này có trăm phương ngàn kế ăn cắp công quỹ, không bao giờ biết đến cái đói cho dù giá trị ngày công có những vụ chưa đầy hai trăm gam thóc.

    Thằng Dọng dạo này đã có tiến bộ trong nghề thả ống lươn. Một mình nó cai quản già nửa số ao chuôm làng Cùa. Nó ranh ma hơn Trịnh Doãng, thỉnh thoảng đem biếu chủ nhiệm Hỗ vài con lươn nên loại ngành nghề này tạm thời chưa bị hợp tác xã đưa vào danh mục quản lý. Hôm ấy thằng Dọng xuống Mạc Điền xem phim về muộn, bị Trịnh Doãng chửi cho một trận, gần nửa đêm mới khoác ống lươn đi thả. Nó tắt lối đình Đụn. Đình này đã bị phá hồi Cải cách chỉ còn trơ nền với mấy chục viên tảng vứt lổng chổng cùng bốn tấm bia đá. Lúc sinh thời lão Xếp Đáy bảo đã nhìn thấy con rắn mười hai mào dài gấp ba chiếc đòn càn, nằm cuộn khúc bên bụi dứa dại, riêng cái vẩy của nó cũng bằng đồng xu, lấp lánh như ánh bạc. Dân xóm Cầu Đá sợ lắm không ai dám bén bảng, nhưng bố con Trịnh Doãng thì bất chấp. Có vẻ như ma quỷ cũng phải kiềng dân thả ống lươn. Từ đình Đụn ra kho hợp tác xã chưa đầy năm chục thước. Sân kho làm trên khoảnh đất rộng, phía sau là khu đồng hoang nổi tiếng nhiều cá trê và lươn. Dọng cắm xong một ống, vừa bước lên bờ chợt thấy sân kho có bóng người liền ngồi thụp xuống căng mắt theo dõi. Được một lúc, nó men theo bờ tường bao bò vào xem bọn chúng đang àm gì. Lũ đạo chích không biết có kẻ theo dõi nên cứ lần lượt vào kho vác thóc ra ngoài. Đến lúc ấy thì Trịnh Dọng đã nhận mặt được tay Cấn thủ kho, Tào Văn Khắc, cháu gọi chủ nhiệm Hỗ bằng chú và đặc biệt có cả Bùi Quốc Tiếm, con trai chủ tịch Bùi Quốc Tầm. Thì ra chính cán bộ và nhân viên cờ đỏ hợp tác xã ăn cắp thóc của xã viên. Chả trách dân đói là phải. Dọng nghĩ vậy rồi chạy ra đường kêu lên:
    - Ới bà con ơi! Trộm vào phá kho hợp...

    Dọng không biết lúc ấy có người bám theo mình. Nó chưa hô được hết câu thì đã bị một vật cứng nện vào gáy. Bọn ăn trộm quẳng vội các bao thóc xuống sân thì thầm bàn bạc. Bùi Quốc Tiếm chạy ra bờ đầm thu đám ống lươn mang đi còn Tào Văn Khắc và mấy tay cờ đỏ nhảy qua tường xúm vào đấm đạp Trịnh Dọng một hồi cho đến khi người nhũn ra mới kéo vào sân kho.

    Sáng sớm chủ nhiêm hợp tác xã cho đánh kẻng báo động. Khi toàn thể ban quản trị và các xã viên xóm Cầu Đá kéo đến thì Trịnh Dọng đã chết. Mấy bao thóc vẫn còn vứt bên cạnh, vãi tung toé. Kế toan trưởng Cao Xuân Thọ còn tìm thấy hai bao nữa giấu trong bụi dành dành đầu đình Đụn. Tào Văn Hỗ đứng giữa sân kho tuyên bố:

    Thưa bà con, đêm qua Trịnh Dọng đã phá cửa kho lấy trộm thóc hợp tác xã. các đồng chí dân quân canh gác kịp thời phát hiện yêu cầu về trụ sở giải quyết, nhưng Dọng đã dùng hung khí chống lại người thi hành công vụ sau đó chạy về phía đình Đụn. Vì trời tối, không nhìn thấy đường hắn bị vấp ngã, đập gáy vào tảng đá kê chân cột...vậy chúng tôi thông báo để bà con biết.

    Hỗ vừa nói xong một người tóc tai bù xù từ bờ đầm rẽ đám đông chạy vào túm ngực anh ta gào lên:
    - Không phải. Con tôi đi thả ống lươn chứ không ăn trộm thóc của hợp tác xã. Các người đã giết oan nó.

    Tào Văn Hỗ đẩy Trịnh Doãng ra hất hàm cho Tào Văn Kha:
    - Bảo anh em dân quân đưa ông ấy về.
    - Tao không về !- Trịnh Doãng bị hai dân quân xóc nách kéo ra ngoài nhưng vẫn rướn cái cổ cò về phía Tào Văn Hỗ chửi – Tiên sư cha thằng chột. Chúng mày giết con ông, ông sẽ kiện đến cùng.

    Vợ Doãng, cô Nhụ ngày trước giờ mặt mũi hom hem, quần áo tả tơi, vừa hờ con vừa khóc rất thảm thiết:
    - Dọng ơi vì sao con bị chết oan hãy về báo mộng cho mẹ.

    Mãi đến gần trưa công an huyện mới về. Chủ nhiêm Hỗ cho mổ con lợn sáu chục cân bắt ở trại chăn nuôi tiếp đãi. Cuộc họp có đủ thành phần chủ chốt của Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính, ban chủ nhiệm hợp tác xã và các đoàn thể quần chúng. Sau khi thanh toán hơn chục mâm cỗ, trưởng công an Trương Đình Tái đứng lên phát biểu:
    -Trịnh Doãng nhiều năm nay là thành phần tiêu cực luôn chống đối chủ trương của Đảng và nhà nước.

    Gần đây bố con anh ta mới xin vào hợp tác nhưng vẫn chân trong chân ngoài, nhất là thằng Dọng, lợi dụng nghề thả ống lươn, ban đêm luôn rình mò trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Lần này, bị phát hiện hắn dùng dao chống lại lực lượng bảo vệ định tẩu thoát nhưng không may vấp ngã, chấn thương vùng gáy đã tử vong. Hiện trường vẫn được giữ nguyên, đề nghị các đồng chí công an khám nghiệm.

    Bí thư Bùi Quốc Tầm bị bệnh đái dắt người gầy tóp như con nhái bén cũng gắng gượng đến họp cung cấp thêm vô số thành tích bất hảo của gia đình họ Trịnh :
    - Bố con Trịnh Doãng thường kích động những phần tử bất mãn trong làng nói xấu cán bộ, chê bai hợp tác xã, gây rối trật tự trị an. Có lần bà con xóm Chùa còn nghe thấy hắn đọc mấy câu thơ sau đây rất mất lập trường:

    “Mỗi người làm việc bằng hai
    Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”.


    Đội trưởng Cung Văn Luỹ gật đầu:
    -Đồng chí Bí thư nói rất đúng. Bố con Trịnh Doãng đúng là thành phần bất hảo.

    Công an huyện sau khi xem xét hiện trường, khám nghiệm tử thi kết hợp với lời khai của các nhân chứng đã tạm thời kết luận: “Trịnh Dọng người làng Cùa sinh năm 1956 vào hồi ba giờ năm phút ngày 17 tháng 6 năm 1969 đã phá cửa kho hợp tác xã lấy trộm thóc bị lực lượng bảo vệ phát hiện liền dùng loại dao mác vót nan chống trả quyết liệt. Qua một hồi giằng co , anh ta chạy về phía đình Đụn bị trượt chân ngã gây chấn thương nặng ở vùng gáy sau đó tử vong”

    Các thủ tục hoàn tất, Tào Văn Hỗ gọi gia đình Trịnh Doãng đưa con về rồi cử bốn xã viên lên cửa hàng vật liệu kiến thiết mua cỗ quan tài gỗ tạp để khâm liệm Trịnh Dọng. Tối hôm ấy Nguyễn Đình Phán cùng bố con ông Mộc đến thổi kền thờ. Tiếng kèn thổi điệu “Lâm khốc” của lão thợ gộc vừa ai oán vừa uất hận, người làng Cùa càng nghe càng thấy xót xa. Các bà các cô đến chia buồn lúc đầu còn sụt sịt sau oà lên khóc nức nở. Mỗi lần như thế Trịnh Doãng lại trợn mắt nghiến răng còn bà Nhụ thì nằm mê man bên quan tài con trai, thỉnh thoảng khẽ rên rỉ bằng thứ giọng khản đặc “ới con ơi!”.

    Đưa đám xong, Doãng không về làng mà đi tắt đồng Chó Đá lên đường 228. Hắn cứ để nguyên bộ quần áo lấm lem chạy gằn về huyện. Người gác cổng thấy một gã mặt rỗ, quần ống thấp ống cao dáng vẻ ngơ ngác như vừa ở trại tâm thần về liền ngăn lại:
    -Anh kia, có việc gì?
    -Tôi cần gặp ông Chủ tịch huyện.
    Tay bảo vệ hỏi trống không:
    -Có việc gì?

    Doãng trợn mắt sừng sộ:
    -Việc gấp có liên quan đến tính mạng đứa bé mười bốn tuổi.
    -Thế thì anh đến nhầm chỗ rồi.- Tay gác cổng cất giọng khinh khỉnh- Những việc như thế phải sang bên công an.

    Doãng lắc đầu;
    -Tôi đếch tin công an . Bọn họ với ban chủ nhiệm hợp tác xã là một. Con tôi bị chết oan tôi phải kiện lên ông chủ tịch cho chúng nó phải đi tù.

    Ngưòi gác cổng chạy vào dãy nhà làm việc, mấy phút sau, một người đàn ông tầm thước mặc bộ quần áo Tô Châu bước ra nhìn Trịnh Doãng một thoáng rồi nói:
    - Đồng chí chủ tịch hôm nay bận họp, có việc gì mời bác vào phòng tôi.
    - Nhưng mà ông là ai?

    Người mặc đồ Tô Châu thong thả bảo:
    -Tôi là Đoàn Công Sự , Bí thư huyện uỷ.

    Doãng vừa kể vừa khóc, câu nọ vấp vào câu kia. Nghe xong ông bí thư bảo:
    Vấn đề này thuộc trách nhiệm của ngành công an. Giờ bác sang bên ấy trình bày với huyện trưởng. Tôi sẽ gọi điện sang yêu cầu họ giải quyết.
    Người thả ống lươn vừa ra khỏi cổng ông bí thư liền quay dây nói cho huyện trưởng công an:
    - Alô! Anh Thẩm đấy phải không?
    - Thưa anh có việc gì ạ?

    Bí thư huyện uỷ gắt:
    -Cái vụ sáng nay ở làng Cùa các anh làm ăn thế nào mà để tay Trịnh Doãng lên ăn vạ ở cổng huyện, may mà tôi ở nhà chứ không lôi thôi to.
    - Báo cáo anh, biên bản xét nghiệm hiện trường cho biết, lúc ba giờ đêm Trịnh Dọng phá cửa kho vác trộm thóc. Anh em dân quân phát hiện bị nó đánh lại rồi chạy trượt chân ngã, chấn thương nặng ở vùng gáy được một lúc thì chết.

    Bí thư hạ giọng ra lệnh:
    - Phải dẹp yên vụ này đi, nếu cần tạm giam tay Doãng vài ngày. Nó mà kích động một số phần tử tiêu cực kéo lên đây gây rối thì cá nhân anh phải chiụ trách nhiệm trước huyện uỷ đấy.
    - Dạ, tôi hiểu, bí thư cứ yên tâm.

    Vừa nhìn thấy Trịnh Doãng bước vào phòng, Đoàn Danh Thẩm đã hỏi:
    - Anh là Trịnh Doãng ở làng Cùa?

    Tay thả ống lươn gật đầu:
    - Phải. Hôm nay tôi lên đây để yêu cầu công an huyện trừng trị bí thư xã Đoàn Kết Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ cho tay chân đánh chết con tôi rồi vu oan nó phá cửa kho ăn trộm thóc.

    Đoàn Danh Thẩm trừng mắt:
    - Công an huyện đã về tận nơi khám xét, lấy lời khai các nhân chứng và xác định được thằng con anh đột nhập vào kho vác trộm thóc, chống lại nhân viên bảo vệ bị trượt chân ngã chấn thương sọ não. Một mình thằng Dọng không thể lấy được từng ấy thóc mà phải có bọn bên ngoài. Chúng tôi đang tiếp tục mở rộng điều tra, có kết quả sẽ thông báo cho xã.
    Doãng chĩa cặp môi cá ngão vào huyện trưởng công an :
    -Thứ nhất, con tôi khong ăn trộm thóc mà đi thả ống lươn, thứ hai, nó không ngã mà bọn ăn trộm dùng gậy đập vào gáy.
    - Anh đừng nói càn. Hiện trường gây án đã được bộ phận nghiệp vụ điều tra, xác minh và lập biên bản tại chỗ. Tôi thông cảm với tâm trạng anh lúc này nhưng chúng ta là công dân phải tôn trọng pháp luật.

    Doãng lắc đầu:
    -Tôi không tin vào thứ pháp luật của các ông.

    Đoàn Danh Thẩm cười nhạt;
    - Anh phải tin. Bởi vì pháp luật đại diện cho nền chuyên chính vô sản. Chống lại pháp luật tức là chống lại Đảng và Nhà nước chúng tôi sẵn sàng mời anh vào trại cải tạo cho đến khi nào hết hoài nghi.

    Trịnh Doãng đã có ít nhất hai lần nằm trong trại tạm giam hiểu rất rõ thế nào là công dân mất tự do. Hắn tin ông huyện trưởng đã nói là làm. Chuyến này mà bị bắt thì gay.

    Trên đường về Doãng chợt nhớ đến ông Trần Quảng. Phải rồi, có lẽ chỉ còn cách ấy. Uỷ ban hành chính tỉnh sơ tán về làng Bầu cách đây hơn chục cây số, gần gấp đôi đường ra huyện, nếu đi liền một mạch thì tờ mờ sáng là đến nơi. Tấm danh thiếp của ông chủ tịch vẫn để dưới đáy hòm lúc nào đi phải mang theo. Qua cánh đồng Chó Đá, Doãng dừng lại bên mộ thằng Dọng. Vẫn còn mấy ngọn hương lập loè. Chắc vợ hắn hoặc anh em thằng Dõng mới ra thắp cho nó. Dọng ơi con chết thật oan ức, phen này bố nhất quyết phải đòi lại công bằng để pháp luật trừng trị những kẻ vừa ăn cướp vừa la làng.

    Sắp qua cầu đá như chợt nhớ ra điều gì, Doãng quay lại miếu Si tìm lão đánh gộc sau đó lôi ông ta đến nhà Nguyễn Đình Phán. Ba người nhỏ to bàn bạc. Thằng Nhặt đứng cổng canh chừng. Gần đây Doãng mới phát hiện ra sự lạ ở đôi tai ông Mộc.Khi nói chuyện, nếu quát to, ông ta hoàn toàn điếc đặc, nhưng khẽ thì thầm lại nghe rõ, không cần phải ra hiệu.
    - Được, tôi làm nhưng ông phải chuẩn bị cái chiếu thước rưỡi.

    Nguyễn đình Phán xem ra còn lưỡng lự :
    - Bác liều quá, đêm hôm thế này nhỡ công an tóm được thì gay.

    Doãng gắt:
    - Chú sợ chết thì ở nhà.
    - Thôi, cũng đành vậy tôi thấy đúng là bác gan cóc tía, trên đời không có người thứ hai.

    Đầu canh hai, Doãng về nhà lấy lá đơn kiện do thằng Dõng viết từ sáng và tấm danh thiếp của ông Trần Quảng rồi cả bọn mang cuốc xẻng ra bãi tha ma. Trong nửa giờ, ba người đào mộ thằng Dọng, mở nắp quan tài, bọc thi thể vào tấm vải diềm bâu. Lão đánh gộc quấn chiếu, bó lạt tre rất nhanh. Xác chết trương phình đã bốc mùi làm Nguyễn Đình Phán phải bịt mũi, nhổ nước bọt. Ông Mộc ngậm rượu phun phì phì. Doãng dốc cả một lọ nước hoa mậu dịch lên khắp chiếu. Nguyễn Đình Phán đi trước, Trịnh Doãng và lão đánh gộc khênh thằng Dọng bước thấp bước cao tắt đường đồng lên đường quốc lộ. Doãng bước phăng phăng, ông Mộc yếu chân gần như bị tay thả ống lươn lôi đi, thỉnh thoảng lại vấp ngã làm chiếc võng bị kéo lệt sệt trên mặt ruộng.

    Nửa đêm về sáng, đường 228 không một bóng người. Vạn vật lặng lẽ chìm trong thứ bóng tối đặc quánh, dính nhớp nháp như nhựa hắc ín. Đã từ lâu, chiến tranh phá hoại hình như chừa vùng này ra. Hãn hữu lắm mới có chiếc máy bay lượn lờ mãi chín tầng mây. Không một tiếng chó sủa. Gà gáy xao xác báo đêm đã chuyển canh. Lúc rẽ vào làng Bầu xuýt nữa bị đám dân quân tuần tra phát hiện, Nguyễn đình Phán phải trổ tài thuyết khách cho họ xem thẻ cử tri cả bọn mới qua được vọng gác. Cũng may trời xui đất khiến thế nào, bệnh viện sơ tán lại ở kẻ Sung, đưa người ốm đi bệnh viện phải qua làng Bầu. Cánh dân quân mắt nhắm mắt mở chỉ kiểm tra giấy tờ chẳng để ý đến bọc chiếu nằm trong võng đang toả ra thứ mùi nặng âm khí.

    Khu sơ tán của uỷ ban tỉnh là vườn nhãn cổ thụ chùa Vĩnh Xương. Những dãy nhà tranh lợp giấy dầu thấp lè tè khuất dươí bóng nhãn được nối tiếp với nhau bằng hệ thống hào giao thông ngập đầu người. Sau khi xác định đúng vị trí ngôi nhà của ông chủ tịch, Nguyễn đình Phán ngoắc tay ra hiệu cho Trịnh Doãng và lão thợ gộc chuyển bó chiếu xuống đường hào. Trời mới mưa mấy hôm trước, nước ngập đến mắt cá chân. Họ bấm nhau bước thật khẽ để khỏi phát ra tiếng động. Lúc ấy đã là cuối canh tư nhưng vẫn còn tối mò. Trịnh Doãng vác bó chiếu leo lên đặt dựng đứng giữa khung cửa sổ, gài lá đơn vào khoanh lạt ở chỗ dễ nhìn thấy nhất rồi lại tụt xuống hào cùng hai ông bạn rút ra ngoài.

    Kẻng cơ quan báo thức bằng vỏ quả bom năm trăm bảng Anh treo trên cành nhãn, gõ đúng ba hồi chín tiếng nghe rất chối tai. Các cánh cửa lần lượt mở. Mấy vị ở ban tổ chức chính quyền ngại ra hố giải ở mãi cuối vườn, chẳng ông nào bảo ông nào, đều bắc “vòi” đồng loạt câu xuống hào nước. Chủ tịch tỉnh đã ngót ngét sáu mươi, sắp nghỉ hưu nhưng vẫn tập thể dục rất đều. Sau khi chạy một vòng quanh lối mòn trong vườn nhãn, Trần Quảng vào sân chùa Vĩnh Xương tập với đám thanh niên bên văn phòng ty giao thông. Bọn này hay đi chơi khuya, ngủ muộn, nhiều khi ông phải đập cửa mới uể oải dậy . Tập xong về đến cửa, Trần Quảng đã ngửi thấy mùi khăn khẳn rất lợm giọng. Ông cho rằng đó là mùi chuột chết định vòng ra phía sau tìm thì bất chợt nhìn thấy bó chiếu dựng ngay cửa sổ. Là người đã từng nếm mùi tù đày cận kề cái chết không chỉ một lần mà chủ tịch Trần Quảng cũng thấy lạnh sống lưng, mặt xám ngoét, miệng ú ớ không nói được câu nào. ít phút sau mấy công an bảo vệ hạ cái xác xuống khênh ra vườn nhãn. Người ta tìm thấy trong tay ông Chủ tịch lá đơn Trịnh Doãng đọc cho con trai viết:

    Kính gửi ông chủ tịch!
    Tôi là Trịnh Doãng, phó thường dân làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành, đã có vinh dự được nấu món lươn om củ chuối phục vụ đoàn cán bộ do ông dẫn đầu về thăm xã vì thành tích làm thuỷ lợi nội đồng ngày... tháng... năm.... Dịp ấy, ông còn chiếu cố bắt tay và cho tôi tấm danh thiếp, hẹn có việc gì cần cứ đến gặp ông. Nay tôi làm đơn này gửi lên ông để kêu oan về cái chết mờ ám của thằng Trịnh Dọng con tôi. Nó là thằng bé mới mười bốn tuổi, bản tính thật thà, từ bé đến giờ chưa hề trộm cắp của ai. Đêm ngày 17 tháng 6 lúc nó đang thả ông lươn thì nhìn thấy Tào Văn Khắc, Bùi Quốc Tiếm cùng đồng bọn mở kho ăn trộm thóc hợp tác. Sợ sự việc bại lộ, chúng xúm nhau lại đánh chết thằng Dọng rồi vu oan cho nó phá cửa kho, vác thóc ra ngoài, bị dân quân bắt đã dùng vũ khí chống lại. Công an huyện Nam thành về xã, lập biên bản xong được bí thư Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ làm thịt con lợn sáu chục cân thết đãi. Họ kết luận vụ án theo lời khai của các nhân chứng do ông Tầm và ông Hỗ sắp đặt hoàn toàn sai sự thật. Tôi đã trực tiếp lên huyện công an khiếu nại nhưng xuýt nữa bị ông Đoàn Danh Thẩm tống giam. Gia đình tôi giờ cùng đường rồi chẳng biết bày tỏ với ai nỗi oan khuất này, vì vậy đành phải mang xác Trịnh Dọng lên trình với ông, mong ông đèn giời soi xét giải nỗi oan và trùng trị những kẻ tàn ác, bất lương, vô nhân đạo đã giết chết nó.

    Kính đơn
    Trịnh Doãng đã ký

    Lúc ấy bọn Trịnh Doãng đã ra đứng ở cổng Chùa. Hắn đưa tấm danh thiếp cho người gác cổng xin được gặp ông Quảng. Anh ta nhìn hắn đầy vẻ nghi ngại:
    - Anh là thế nào với ông chủ tịch?

    Doãng ngẫm nghĩ một thoáng rồi nói bừa:
    - Là em họ.
    - Chưa đến giờ làm việc mời anh ra bên ngoài đợi một lúc.

    Cùng lúc ấy, một chiếc xe com măng ca bóp còi inh ỏi chạy từ vườn nhãn ra rồi quặt xuống làng Tào Khê. Đó là xe ông Trần Quảng. Ông Quảng từ lâu mắc chứng suy tim do thời gian tù Sơn la bị tên cai ngục Lơgiê bắt uống một loại độc dược làm co thắt động mạch vành, thỉnh thoảng huyết áp tăng vọt, những lúc làm việc căng thẳng hay bị ngất. Lần này nhìn thấy cái xác bó chiếu nhất là sau khi đọc lá đơn kêu cứu của Trịnh Doãng, ông chủ tịch bị sốc rồi đột quỵ ngay tại chỗ. Anh em cán bộ văn phòng vội đưa đi cấp cứu nhưng không kịp. Trần Quảng qua đời khi xe chỉ còn cách bệnh viện sơ tán không đầy trăm thước.

    Ông Chủ tịch mất làm Tỉnh uỷ, uỷ ban hành chính và các ngành chức năng rối lên. Người ta bận tổ chức lễ tang nhưng không quên tay thả ống lươn. Đáng lẽ Trịnh Doãng mang thằng con về ngay còn nhẹ tội, đằng này hắn cứ định xông vào tỉnh đường kêu gào khóc lóc, trong khi cái xác bó chiếu mỗi lúc một nặng mùi làm ông Chánh văn phòng phải cử ngay mấy nhân viên hành chính mang ra chôn ngoài Đống Cao rồi gọi điện báo cho ty công an. Ông Hà Văn Trai, Trưởng ty, đang ngấp nghé chân Phó Chủ tịch phụ trách nội chính vốn rất kính trọng Trần Quảng liền ra lệnh tống Trịnh Doãng vào trại giam với tội danh khủng bố. Thấy tay thả ống lươn bị bắt, Nguyễn Đình Phán vội kéo ông Mộc nhảy xuống hào giao thông chạy bán sống bán chết, khoảng nửa giờ mới ra khỏi làng Bầu. Cả hai mệt đứt hơi, ngồi thở một lúc, khát quá liền vốc nước ruộng uống. Lúc ấy mặt trời đã lên quá con sào. Nguyễn Đình Phán ghé tai lão thợ mộc nói nhỏ:
    -Ta về thôi bác, chuyến này thì Trịnh Doãng gay rồi.

    Ông Mộc dỏng tai nghe, có vẻ đã hiểu liền bảo:
    -Tôi với chú ngu hơn chó, nghe hắn xui dại, suýt nữa vào nhà đá hết lượt.

    (còn tiếp)

Trang 3/3 đầuđầu 123

Similar Threads

  1. Về Bà Chiểu, rảo Hàng Bàng
    By TAM73F in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-21-2015, 06:48 AM
  2. Trình Làng
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 04-28-2015, 04:14 AM
  3. Hồi ức
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 02-24-2015, 03:21 AM
  4. Trận Ba Làng An
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-10-2014, 01:36 AM
  5. Làng Tôi
    By PS khoá 72G in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-13-2009, 10:10 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •