Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 15

Tựa Đề: Ký ức làng Cùa

  1. #7
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 7

    1. Tháng Tám năm Bốn Nhăm. Bầu trời vùng Ba tổng xanh màu nõn chuối. Nắng nhạt. Một con diều hâu xám, xoè cánh rộng, lượn đi lượn lại trên dải đồng vàn dõi mắt tìm những chú chuột đất ngờ nghệch đang thập thò dưới đám bìm bìm tía. Bầy sáo đen bay rào rào tìm bắt châu chấu cơm ngoài bãi tha ma đồng Chó Đá. Lũ sẻ bạc má gọi nhau lích tích, cứ bay một đoạn lại cụp cánh rơi xuống gần mặt ruộng rồi bất chợt vọt lên như những nghệ sỹ nhào lộn thực thụ.

    Đoàn người rùng rùng trên đường quan. Đấy là một đám đông hỗn tạp gồm đủ mọi tầng lớp của mấy làng vùng hữu ngạn sông Lăng kéo nhau lên huyện Nam Thành cướp chính quyền. Cuộc biểu tình có vẻ như hoàn toàn tự phát, không theo bất cứ trật tự nào. Dân nhà quê, kẻ giáo mác, người gậy tre hăm hở gia nhập vào đội quân chân đất mỗi lúc một đông, khí thế xung thiên, sẵn sàng đập tan bất cứ trở lực nào trên đường đi giành quyền độc lập tự do.

    Lê Văn Vận thuộc tốp đi đầu. Anh ta xuất hiện trước cổng huyện đường với tư cách là người chỉ huy cao nhất. Tiếng hô "đả đảo" rầm trời. Hàng trăm cố nông, tá điền xô đổ hai cánh cổng sắt ùa vào lỵ sở như nước vỡ bờ. Không có bất cứ sự chống cự nào. Mấy chục lính ở trại Lệ, trại Cơ đã nhanh chân chuồn từ lúc đoàn biểu tình còn ở chợ Cháy. Tri huyện Cáp Văn Tòng bỏ cả ấn tín chạy ra phía chuồng ngựa, đang loay hoay trèo tường thì bị dân đinh làng Yên tóm được. Viên thừa phái sợ quá, quỳ xuống vái như bổ củi xin tha mạng. Lê Văn Vận đóng bộ bà ba nâu, vai mang túi dết, tay vung vẩy khẩu súng lục Nhật nòng to bằng ống điếu, dõng dạc hô:
    - Các đồng chí, giải tên tri huyện ra chợ Cháy cho nhân dân xử tội.

    Vận vừa dứt lời, mấy tuần đinh làng Cọi lăm lăm cây mác trong tay, đẩy Cáp Văn Tòng ngã sấp xuống, luồn đòn tre vào hai tay hai chân khiêng đi như khiêng lợn. Nơi xử án là một gò đất cao trước đây vẫn dùng làm khán đài mỗi khi có quan Công sứ về hiểu dụ. Viên tri huyện bị trói vào cột. Chiếc áo the thâm rách toạc một đường sát nách rủ lòng thòng. Đám người hiếu kỳ chen lấn nhau. Ai cũng muốn nhìn thật rõ bộ mặt thiết bì với cặp mắt sâu hoắm và bộ râu dê lúc nào cũng vểnh lên như là được vuốt sáp của quan phụ mẫu. Vòng tròn chẳng mấy chốc bị khép lại. Người chen người chật như nêm cối. áp lực phía ngoài càng mạnh thì đám đông càng hỗn độn. Phụ nữ, trẻ em và người già yếu là những nạn nhân đầu tiên. Họ vữa ngã xuống lập tức có hàng ngàn bàn chân dẫm lên, hết lớp này đến lớp khác như những đợt sóng nối tiếp nhau, chồng lên nhau vào lúc biển động. Nhìn thấy đám đông đang dồn ép dữ dội cùng với những tiếng gào thét long trời lở đất, Lê Văn Vận tái mặt. Anh ta vội chĩa súng lên trời nổ liền mấy phát. Tiếng súng làm cho những kẻ đang say máu càng bị kích động. Họ bất chấp những tiếng quát tháo đã khản đặc của người chỉ huy vẫn ào ào lấn tới theo quy luật của dòng nước lũ không một sức mạnh nào cản nổi. Lúc này mà còn nấn ná ở đây là chết bẹp. Vận thoáng nghĩ như vậy thì lập tức bị hút vào đám người chân đất nhanh đến mức giống hệt chiếc lá rụng cuốn theo chiều gió chẳng còn biết số phận Cáp Văn Tòng ra sao nữa.

    Giữa biển người mênh mông là một rừng cờ đỏ. Đủ các loại cờ nhưng nhiều nhất vẫn là cờ giấy với ngôi sao vàng năm cánh cắt vội chỉ nhỉnh hơn quyển vở học trò một chút. Thật hú vía. Vừa thoát ra khỏi chợ Cháy , Lê Văn Vận định vòng lại phía sau chợt nhìn thấy Khúc Kiệt cùng một đám dân binh giong viên Đội khố xanh. Tên này mặt xám ngoét, bước lập cập, thỉnh thoảng lại vấp một cái. Khúc Kiệt sững người khi chạm mặt anh cháu rể. Ông ta không thể tin được, một gã giang hồ chuyên nghề sông nước đầy thành tích bất hảo như hắn bỗng chốc trở thành người chỉ huy Việt Minh cao nhất vùng Ba Tổng.

    - Chú ở đâu về ? -Lê Văn Vận hỏi.
    - ở trại Cổ Bi bên kia sông.
    - Đã vào chợ Cháy chưa ?
    - Tôi vừa ở trong ấy ra. Họ chen lấn khiếp quá. Tri huyện Cáp Văn Tòng chết rồi. Người hắn nát bét như quả dưa bở.

    Nghe xong, Lê Văn Vận lắc đầu, chép miệng:
    - Thằng đểu, cách mạng chưa kịp xử tội nó đã chết.

    Sáng hôm hai mốt, Uỷ ban Khởi nghĩa họp phiên đầu tiên sau khi giành chính quyền cử Lê Văn Vận làm chủ tịch lâm thời. Anh ta lập tức trưng dụng chiếc xe "đít vịt" của Cáp Văn Tòng làm phương tiện đi lại. Lái xe cũ trốn biệt, tìm mãi không thấy, Vận đành cử Phan Phê trước đây đã võ vẽ chút ít nghề cơ khí, mới theo Việt Minh mấy tháng, tập lái. Phan Phê là tay có máu liều, lao bạt mạng có lần đưa cả xe lẫn người xuống ao làm Vận xuýt chết. Từ đấy ông Chủ tịch đâm ra thù các loại phương tiện có động cơ, chuyển sang cưỡi ngựa.

    Khúc Kiệt được bổ nhiệm làm trưởng ban An ninh huyện kiêm chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Đoàn Kết gồm mười hai làng vùng Ba tổng. Trụ sở đóng tại làng Cùa. Ông ta lập tức tổ chức đội quân bán vũ trang chuyên trấn áp những kẻ gây rối trật tự xã hội hoặc âm mưu chống đối cách mạng. Đội quân này được một sỹ quan Nhật đào ngũ tên là Côgô huấn luyện võ thuật và cách bắn súng.

    Làng Cùa sau khi Việt Minh giành chính quyền xem ra cũng chưa có thay đổi gì rõ rệt ngoài việc nhà nào cũng treo cờ đỏ sao vàng và thỉnh thoảng lại đổ về sân đình Cả mít tinh hô các khẩu hiệu Cách mạng khản cả giọng. Chủ tịch Khúc ngày nào cũng xuống các làng đăng đàn diễn thuyết về chính sách đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh và vận động các nhà giàu quyên thóc gạo, quần áo , chăn màn ủng hộ người nghèo. Cánh địa chủ phú nông tất nhiên chẳng mặn mà gì với cái chính sách nửa vận động cửa cưỡng bức này nhưng cũng phải bấm bụng nhả ra vài thứ đồ tàng tàng để đỡ bị các đội viên an ninh đến nhà làm khó dễ. Những vật dụng trưng tập được, Khúc Kiệt cho mang về đình Cả để phân phát tận tay bà con cố nông đang nóng lòng chờ đợi hưởng ân huệ của Cách mạng.

    Hôm ấy, dân làng Cùa dồn hết ra đình đứng vòng trong vòng ngoài giống hệt những dịp trước đây chen chúc nhau ngoài chợ Rồng đợi nhà chức trách phát chẩn. Khúc Kiệt trong bộ đồ kaki, lưng đeo khẩu súng nặng trịch kéo trễ xuống một bên hông, đứng trên bậc tam cấp dõng dạc thông báo:
    - Hôm nay, chính quyền nhân dân xã Đoàn Kết, nhân danh Cách mạng cấp phát quần áo chăn màn cho những gia đình nghèo. Đề nghị bà con trật tự nghe chúng tôi đọc tên, đến ai thì người ấy vào nhận, không được chen lấn nhau. Trước hết xin mời ông mõ Khính:

    Có tiếng người phía sau, giọng nhỏ thôi những nghe rất rõ:
    - Bà con chớ có dại mà tin giọng lưỡi khoá Kiệt.

    Thường Rỗ nghển cái cổ ngẳng ngoái lại nhìn, hoá ra là đồ Sách. Anh ta bảo:
    - Bác nên giữ mồm giữ miệng. Họ mà nghe thấy là tù mọt gông.
    - Cậu quên cái đận năm Mùi vì đội quân áo Đen mà làng mình chết oan bẩy tám chục mạng rồi à ? - Đồ sách gườm gườm nhìn anh bắt ếch - Cuộc cờ bây giờ mới bắt đầu nhưng tôi đã đoán được kết cục ra sao rồi.
    - Bác định làm gì ? - Phó hội Bảng cũng xán đến ghé tai Đồ Sách thì thầm.

    Đồ sách thản nhiên bảo:
    - Cái "Chính quyền nhân dân" này xem ra chẳng thọ được lâu đâu. Tôi mà nói sai xin làm con chó giữ nhà cho các ông.
    - Bác chỉ nói càn . - Thường Rỗ vặn lại - Họ có đảng Cộng sản lãnh đạo lại được khối quần chúng công nông hậu thuẫn, đổ làm sao được.

    Đồ Sách cười nửa miệng:
    - Các ông nhìn xem. Một chính quyền cách mạng được tuyên truyền với đủ thứ tốt đẹp từ trước đến nay chưa bao giờ thấy mà lại để một gã vô học, chuyên nghề hạ bạc làm chủ tịch và lão khoá Kiệt gàn bát sách giữ chân trưởng ban An ninh thì còn ra thể thống gì nữa. Tôi đồ rằng, chẳng chóng thì chày, bọn họ sẽ tịch thu hết ruộng đất của cánh nhà giàu chia cho lũ khố rách áo ôm cũng nên.
    - Nói khẽ chứ ! - Phó hội Bảng bảo - Hình như bác cũng có tên trong danh sách chẩn cấp đấy.
    - Tôi tuy nghèo thật nhưng cóc cần cái thứ của phi nghĩa ấy. -Đồ Sách phẩy tay bảo - Hôm nay ăn mồ hôi nước mắt của người ta ngày mai lại phải nhả ra thôi.

    Phó Hội Bảng khẽ huých đồ Sách châm chọc:
    - Bác chẳng hiểu thế nào là thành quả đấu tranh cách mạng cả. Đấy là lộc trời cho, không lấy là dại.
    - Thế thì ông chen vào mà lấy.
    - Ông xỏ tôi đấy à ? - Phó hội Bảng vặc lại - Mấy hôm trước bà vợ tôi phải nộp cho chính quyền hai bộ quần áo gụ và một cái mền bông.
    - Thảo nào mặt ông vênh như bánh đa nướng.
    - Này, ông đừng có cạnh khoé.
    - Thôi các ông đừng cãi nhau nữa . -Thường Rỗ kéo cánh tay đồ Sách bảo - Hình như lão Mõ già không nhận quần áo thì phải.
    - Lạ nhỉ...

    Đúng thật, ngay trước cửa Đình, lão Khính dõng dạc bảo Khúc Kiệt:
    - Cảm ơn các ông Cách mạng đã giải thoát cho lão cái nghề đầu chày đít thớt nhưng lão không vợ con, không ruộng vườn nhà cửa, sau này biết lấy gì mà sống ? Còn quần áo lão không dám nhận đâu. Lão kinh cái năm Nhật kéo về tàn sát dân làng Cùa lắm rồi. Nay mai ông Khoá với chính quyền tếch vào rừng, bọn nhà giàu lại kéo đến đòi, mà những thứ này mặc mãi rồi cũng rách lấy gì trả người ta thế là lão mắc nợ, chả dại …

    Nghe Mõ khính con cà con kê, Khoá Kiệt tức lắm, chỉ muốn cho lão già dở hơi mấy cái bạt tai nhưng vẫn cố gượng cười để làm yên lòng đám tá điền :
    - Cụ ơi, cụ lẩm cẩm rồi. Cách mạng đã thành công. Từ nay chính quyền xóa bỏ vĩnh viễn mọi hình thức bóc lột, mọi công dân được tự do làm ăn, cụ cứ nhận đồ cứu trợ đi, không ai đòi đâu mà sợ.
    -Nếu đã thế thì Cách mạng bán ngay cho lão mấy sào ruộng, bây giờ thì lão chịu nhưng sau này nhất định sẽ thanh toán cả gốc lẫn lãi.
    - Cụ Khính nghe đây ! - Khoá Kiệt dằn giọng - Uỷ ban hiện thời chưa có ruộng đất nhưng nhất định sau này sẽ có để chia cho dân nghèo. Tôi lấy danh dự hứa với bà con làng Cùa. Nào, cụ nhận đi rồi về cho người khác vào.

    Mõ Khính vẫn lắc đầu:
    - Lão không dám đâu. Hay là ông Khoá cho lão gia nhập đội An ninh để khỏi phải … cởi truồng đánh giậm.
    Lúc này Khúc Kiệt không thể cười được nữa. Ông ta quắc mắt quát khẽ :
    - Đứa nào xui cụ đến đây phá đám ? Cụ định đùa với nhà chức trách đấy hả ?

    Kết quả là, hôm ấy không một kẻ cùng đinh nào lên nhận đồ cứu trợ xã hội. Chập tối Khúc Kiệt cử các đội viên mang quần áo, chăn mền, yếm, váy đụp và các tã lót trẻ sơ sinh đến quăng vào các nhà bần cố nông. Chó sủa râm ran suốt từ đầu làng đến cuối làng. Sáng hôm sau, người đầu tiên phát hiện ra sự lạ lại chính là ông chủ tịch xã. Khúc Kiệt dậy sớm đi đái, chợt thấy dưới ao đình có những vật nổi lều phều đủ loại đen đỏ nâu sẫm, cháo lòng. Ông ta sinh nghi liền xuống hẳn cầu đá, lấy chân khoắng lên, hoá ra đó chính là thứ hàng chẩn cấp mà tối hôm trước anh em An ninh đã mang cho dân nghèo.

    - Thế này thì loạn thật ! - Khúc Kiệt nghiến răng trèo trẹo - Thế nào cũng có bàn tay chánh tổng Lê Bang với con mẹ cả Huê nhúng vào. Được, ta sẽ cho chúng biết thế nào là Cách mạng. Lũ chấy rận ấy mà lại dám vuốt râu hùm à ?

    Ngay chiều hôm ấy, Khúc Kiệt cho gọi viên cựu chánh tổng và cánh chức dịch cũ gồm chánh Bang, lý Quỳnh , phó hội Bảng, đồ Sách, và cả Huê ra trình diện. Bà cả Huê từ trước đến nay vốn không coi khoá Kiệt ra gì cất giọng châm chọc:
    - Ông chủ tịch cho đòi chúng tôi ra đình chắc là để phát quần áo cũ ?

    Khúc Kiệt nghiêm giọng:
    - Trước hết, yêu cầu bà cả Huê không được xúc phạm đến chính quyền Cách mạng, nếu không chúng tôi bắt buộc tạm giam vào hậu cung như hồi tháng tám năm Mùi. Còn bây giờ có việc cần nói với các vị đây. Chế độ thực dân phong kiến đã sụp đổ. Chính quyền Nhân dân vừa được thành lập trên khắp đất nước do những đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Đông Dương. Các người đã từng làm chức sắc cho chế độ cũ, hành vi tội lỗi trong quá khứ đều tạm thời bỏ qua, từ nay phải yên phận làm ăn, không được túm năm tụm ba, bàn tán, kích động bà con nông dân chống phá chính quyền. Ai cố tình vi phạm chúng tôi buộc phải xử lý, lúc ấy đừng có trách.

    Bà cả Huê bĩu môi cười nhạt:
    - Tức là xử bắn chúng tôi phải không ?

    Khúc Kiệt gật đầu:
    - Cái đó còn tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tội trạng. Chẳng hạn việc bà xúi tá điền không nhận quần áo cứu trợ cũng như kích động ông Sách nói năng bừa bãi là đã đủ điều kiện lãnh án tử hình.

    Bà cả Huê nhảy thách lên như bị ong châm:
    - Nhà ông đừng có gắp lửa bỏ tay người nhá. Bọn tá điền không nhận của bố thí là việc của họ, can hệ gì đến tôi. Đừng có lên mặt dạy đời. Con Nhân nhà ông kia kìa, chửa hoang với lý Quỳnh rồi bỏ làng đi biệt tăm, sao không đưa hắn ra mà tùng xẻo.

    Khúc Kiệt bị khiêu khích, không kìm được rút ngay khẩu súng pạc hoọc nòng dài ngoẵng, lên đạn rốp rốp chĩa vào vợ goá chánh Đàm . Một đội viên An ninh nhanh tay giữ lại hướng nòng súng lên trời. Tiếng nổ chói tai . Viên đạn xuyên mái ngói âm dương, mảnh vỡ rơi xuống sàn đình rào rào làm cánh Lê Bang được một phen hoảng hồn.

    Khoá Kiệt mặt lạnh như tiền bảo người thư ký:
    - Tạm thời đưa bà cả Huê với ông đồ Sách vào hậu cung, nhớ canh giữ cẩn thận, họ mà trốn mất là các anh phải ngồi thay đấy. Các vị đây có thể về nhưng không được ra khỏi làng. Ông Quỳnh ở lại tôi có việc cần hỏi.

    Lê Bang ra tới sân rỉ tai phó lý Kiền:
    - Chuyến này lý Quỳnh gay rồi ...

    Chánh hội Bường cũng thì thầm:
    - Bà cả Huê cậy thế chị dâu, quá lăng loàn phen này đi tù là cái chắc.

    Trong đình, Khúc Kiệt hỏi Ngô Quỳnh:
    - Tôi có nghe chuyện về con Nhân với tay Lãng nhưng không ngờ sự việc lại kết cục như thế. Ông đã thương thì thương cho trót vậy mà lại để nó đi khỏi làng.
    N
    gô Quỳnh đã hơi yên tâm vì Khúc Kiệt không biết cái việc ông ta cho người đi báo quan vội thanh minh:
    - Cô nhà tính tình khác người lắm, khuyên nhủ mấy cũng không chuyển. Vào đúng dịp tôi phải hộ đê bên Trung Hà thì cô ấy bỏ nhà đi.
    - Những ai đưa ra hình phạt đóng bè trôi sông ?
    - Bà cả Huê và cánh phó Lý Kiền.
    - Được, tôi sẽ cho con mẹ địa chủ này biết tay. - Khúc Kiệt giáng mạnh nắm đấm xuống án thư - Về phần ông, từ nay tôi đề nghị đảm nhiệm chức chủ tịch Liên việt xã. Đó là việc tập hợp các tầng lớp xã hội, giúp chính quyền củng cố khối đoàn kết, trấn áp bọn Việt gian phản động chống phá Cách mạng.

    Lý Quỳnh ngập ngừng hỏi:
    - Vậy tôi có được ra khỏi làng không ?
    - Ông đã là cán bộ Việt Minh đi đâu là quyền ông.
    - Thế thì tốt quá. Tôi không ngờ ông chủ tịch lại chiếu cố
    - Chuyện nhỏ nói làm gì . - Khúc Kiệt phẩy tay - Đầu tháng, ông đến đây nhận con dấu. Giờ ông có thể về. Tôi còn phải làm việc với anh em bên Đậu Khê thành lập đội tự vệ.

    Việc bà cả Huê bị giam sáng hôm sau được một viên An ninh báo lên huyện. Chủ tịch Lê Văn Vận vội cưỡi ngựa về làng Cùa. Dân xóm Trại Cá không thể nhận ra anh con rể chánh Đàm sau mười năm lang bạt kỳ hồ. Tuy mới ba chục tuổi nhưng vị chủ tịch huyện Nam Thành đã có tác phong chững chạc của một cán bộ từng trải. Anh ta ngồi thẳng đuỗn trên con ngựa lang cao lớn,dáng dấp y hệt ông nhạc ngày trước mỗi khi xuống các làng công cán hoặc lừa mấy bà vợ đến với ả nhân tình. Quả thật Vận cũng hơi ngại vì cái án giết lão chánh tổng hồi trước, nhưng nỗi sợ hãi lập tức nhường chỗ cho niềm kiêu hãnh của một kẻ đang đắc thế.
    - Hãy quên chuyện cũ đi . - Anh ta tự bảo mình - Ta bây giờ đường đường là một ông chủ tịch huyện về địa phương công cán, bên cạnh lại có anh em An ninh bảo vệ, sợ quái gì. Kẻ nắm quyền lực trong tay là kẻ thống trị xã hội. Hơn nữa, cách mạng có nghĩa là phá bỏ cái cũ, xây dựng cái mới theo một trật tự khác hẳn. Lúc này cần phải quyết đoán.
    Về đến đình Cả, Lê Văn Vận vừa xuống ngựa, lập tức cho gọi Khúc Kiệt đến quở trách về tội lạm dụng quyền hành bắt người vô cớ rồi ra lệnh thả đồ Sách và bà cả Huê. Chị em Khúc Thị Huệ và Khúc Luận thập thò ở ngoài cổng nhìn vào. Chúng không biết và cũng không tin đấy là "anh rể" mặc dù từ mấy hôm trước dân làng Cùa đã bàn tán khá nhiều sự kiện này. Khúc Luận vừa thấy và bà Cả cắp nón bước ra đã hỏi:
    - Ông chủ tịch huyện có phải là anh Vận không mẹ ?

    Bà Chánh quắc mắt:
    - Câm mồm ! Không được nói xằng. Thằng Vận chết mất xác ở rừng Đà Bắc từ lâu rồi.
    - Sao con nghe ông phó lý bảo …
    - Về nhà ngay ! Chuyện người lớn chúng mày biết gì mà bép xép.

    Chủ tịch huyện về làng làm dân chúng xôn xao. Người ta nô nức rủ nhau ra đình nghe vị đại diện cách mạng nói về Nhà nước dân chủ mới và chủ trương người cày có ruộng của mặt trận Việt Minh. Sân đình lúc này trở lên quá chật với khối quần chúng đông đảo đang chen vai thích cánh nhau, ai cũng muốn nhìn thật rõ mặt người lãnh đạo cao nhất của địa phương. Thường Rỗ, Trịnh Doãng xuýt xảy ra ẩu đả chỉ vì tranh nhau đứng trên chiếc cối đá thủng vẫn dùng đập lúa kê góc sân. Bọn trẻ con nhiều đứa tinh ranh, leo tót lên chạc cây nhãn nhòm vào. Chỉ đàn bà con gái chân yếu tay mềm là thiệt. Họ bị đẩy ra tận phía bờ ao. ở vị trí ấy, chị em chẳng nhìn thấy gì ngoài những cai đầu lô nhô cao thấp với đủ thứ mùi hôi hám rất khó ngửi của đám lực điền bị gió tây nam nóng hầm hập phả tới.

    Khúc Luận năm ấy đã vào tuổi mười bốn, người phổng phao, leo trèo rất giỏi. Cậu ta cùng với thằng Đậu, con phó lý Kiền, ngồi vắt vẻo trên cây xoan đào ngay đầu hồi dãy nhà ngang. ở chỗ ấy, chúng bao quát được toàn bộ quang cảnh cuộc mít tinh mà chẳng cần phải chen lấn, chỉ có điều là không thoải mái lắm, do phải bám vào cành cây, chân tay bị tê. Mục đích của Khúc Luận đến đây không phải chỉ nghe ông chủ tịch diễn thuyết mà để xác minh xem, nhân vật quan trọng này có phải là Lê Văn Vận, kẻ đã giết bố mình không. Khúc Luận căm thù anh ta đến tận xương tuỷ, chính vì vậy, đã nhiều lần nói với bà cả Huê, hễ có dịp là phải thanh toán sòng phẳng để vong linh ông Chánh được thanh thản. Năm Quý Mùi Khúc Kiệt đánh nhau với quân Nhật, Khúc Luận lấy được khẩu súng "dóp" cùng bao đạn của một đội viên áo Đen bị tử thương bên cạnh gò Me. Trong cơn hoả hoạn, làng Cùa nháo nhào, ai cũng lo thoát thân, mấy người để ý đến chuyện súng ống. Khẩu súng được cậu ta bôi một lớp mỡ bò, quấn giẻ tẩm dầu luyn, giấu trong căn hầm dưới tầng trệt ngôi nhà gác. "Nếu quả thật hắn là Lê Văn Vận thì mình phải nhanh chóng ra tay" - Khúc Luận thầm nghĩ - "Trước hết cần lau súng cho sạch sẽ, sau đó vào rừng Hóp bắn thử đã. Chỉ sợ lúc hành sự, đạn thối hoặc khoá nòng bị kẹt thì khốn. Hắn sẽ chẳng nể nang gì mà không treo mình lên cành đa xử tử như Khúc Kiệt đã bắn chánh tổng Cao Lộng".

    Cậu công tử bột đang hình dung kẻ thù bị luồng đạn xé toang lồng ngực, thì từ chiếc bục cao trên sân đình, ông chủ tịch cất giọng sang sảng:
    - Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân. Chúng ta đã giành được độc lập từ tay phát xít Nhật nhưng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn . - Vận ngừng lại, đưa mắt lướt qua đám quần chúng đông đảo rồi chém tay vào khoảng không nhấn mạnh - Đó là nạn đói, nạn dịch và nhất là kẻ thù dân tộc đang rình rập, hễ có thời cơ là chúng ngóc đầu dậy, chống phá nhà nước dân chủ cộng hoà. Cụ Hồ dạy, phải nâng cao cảnh giác cách mạng đoàn kết dân tộc, xoá bỏ áp bức bóc lột.
    - Hồ chủ tịch vạn tuế ! Cách mạng vạn tuế ! Chính quyền dân chủ cộng hoà vạn tuế!

    Một đội viên An ninh bỗng hét to vào chiếc loa sắt tây. Anh ta ngoáy loa một vòng, đẩy những âm thanh nhát gừng ra tứ phía, thế là khối quần chúng lập tức hưởng ứng bằng hàng ngàn tiếng hô dõng dạc với đủ mọi cung bậc đồng loạt dậy lên như sấm tháng ba rùng rùng chuyển động một góc trời :
    - Hồ chủ tịch vạn tuế .. uế ! Cách mạng vạn tuế .. uế ! Chính quyền dân chủ cộng hoà vạn tuế … uế … uế!
    - Vậy mà ở ngay làng Cùa của bà con ta vẫn còn những kẻ cố tình chống phá Cách mạng. - Vận bỗng khoát tay ra hiệu cho đám dân chúng trật tự rồi lên giọng răn đe - Thời thế đã chuyển đổi. Tây thua. Nhật bại. Giai cấp cần lao Việt Nam đã giành được chính quyền. Đó là thực tế hiển nhiên không ai có thể phủ nhận. Từ giờ phút này, chỉ có những kẻ vô lương tâm, những kẻ luôn nuôi trong lòng mối hận thù giai cấp mới thờ ơ với thành quả vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám . Nhân danh chính quyền Cách mạng, tôi kêu gọi bà con hết sức cảnh giác, hãy đoàn kết thành một khối thống nhất, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu đen tối của bọn phản động.

    Người đội viên An ninh lại chõ loa ra tứ phía gào lên:
    - Đả đảo bọn phản động tay sai thực dân đế quốc chống phá cách mạng !

    Lại hàng ngàn tiếng hô đồng thanh "đả đảo". Ai cũng muốn hét thật to để tỏ rõ uy lực của quần chúng cần lao nên buổi mít tinh lúc này biến thành một cuộc thi gào thét có một không hai ở vùng Ba Tổng, đến nỗi, mãi ba hôm sau bọn Thường Rỗ, Bảy Ngạnh và lũ thanh niên choai choai vẫn còn khản cổ. Luận chợt thấy lạnh sống lưng. Cậu ta không còn đủ sức bám mãi trên chạc cây bởi làn sóng "đả đảo" rùng rùng đập vào cân não, nếu không tụt xuống mau có khi ngã vỡ đầu.

    Sau cuộc mít tinh, Lê Văn Vận bảo Khúc Kiệt:
    - Chú đừng gây căng thẳng với bà con dân làng. Tình hình chung bây giờ không tốt lắm đâu. Phải cân nhắc thật kỹ trước khi hành động để còn có lực lượng quần chúng làm chỗ dựa sau này.

    Khúc Kiệt có vẻ bất bình:
    - Thế là tư tưởng hữu khuynh đấy ông chủ tịch ạ ! Theo tôi, bọn Lê Bang, Ngô Quỳnh đồ Sách và cả con mẹ cả Huê nữa là cứ phải xử bắn tuốt để làm gương cho những kẻ đang nuôi ý đồ phản loạn.
    - Tôi lạ gì bản chất bọn này. -Vận cười gằn bảo - Nhưng xử lý chúng ngay bây giờ là đám chức dịch vùng Ba Tổng ra mặt chống đối ngay. Chú nên nhớ, bọn Tàu Tưởng lấy danh nghĩa Đồng Minh giải giáp quân Nhật đang làm hậu thuẫn cho các đảng phái phản động hoành hành khắp nơi. Chúng mà nổi lên kích động dân nghèo chống phá chính quyền thì chú toi mạng.
    - Anh không nhớ ông Lý Ninh[1] nói cách mạng là phải dùng bạo lực à ?
    - Cái đó phải vận dụng vào từng hoàn cảnh cụ thể, không phải lúc nào cũng bắn giết bừa bãi được. Vừa rồi chú nhắc đến bà cả Huê, chiều nay bảo bà ấy ra đây tôi muốn gặp trước khi về huyện.

    Khúc Kiệt ngập ngừng:
    - Không nên. Con mẹ này là loại đàn bà thù dai. Cái vụ anh ngộ sát lão Chánh bà ta chưa quên đâu.
    - Chú yên tâm, tôi đã có cách.
    - Lại còn thằng Khúc Luận nữa. Cái thói khệnh khạng, hách dịch thì giống hệt bố. Ranh con chưa ráo máu đầu mà đã dám sang chòng ghẹo con Nhân. Lúc ấy tôi mà ở nhà thì sẽ cho nó viên đạn vào đầu.
    - Trẻ con, chấp nó làm gì ?
    - Đừng coi thường thằng mất dạy ấy. Bà cả Huê toàn nhồi nhét vào đầu nó tư tưởng phản động. Chưa biết chừng nó xuyên dao găm vào lưng anh lúc nào không hay.

    Nghe Khúc Kiệt, Vận thoáng rùng mình, thầm nghĩ, thì ra bà cả Huê ghê gớm hơn anh ta vẫn tưởng. Thôi được, ta sẽ tuỳ cơ ứng biến, nếu cần thì cho giam lại.

    Mấy đội viên An ninh thấy bà cả Huê liền dẫn vào trong đình. Bà ta có vẻ không ngạc nhiên khi nhận ra anh con rể trong bộ quần áo gụ cắt theo kiểu thành thị ngồi sau chiến án thư sơn son:
    - Xin có lời chào ông chủ tịch huyện. - Vợ Chánh Đàm hơi nghiêng người cất giọng the thé như đang diễn tuồng. - Chúng tôi đến trình diện theo lệnh đòi...

    Lê Văn Vận chỉ tay vào chiếc ghế ngựa mới được chuyển từ nhà Bảy Ngạnh trê ra, bảo:
    - Bà ngồi xuống đây tôi có việc cần hỏi.

    Bà Cả Huê nhìn trước nhìn sau thấy không có ai liền hỏi nhỏ:
    - Cậu là cậu Vận thật đấy à?
    - Chả nhẽ bà Chánh không nhận ra tôi?
    - Trước đây mặt cậu làm gì có vết sẹo dài thế kia?
    - à , bị thằng Tây lai đánh trong tù.
    - Cậu bỏ làng đi những đâu mà giờ mới về?
    - Chuyện dài lắm kể một lúc không hết được .
    - Dì lánh đâu?
    - Cô ấy bị ngã nước chết trên rừng Phiềng Sa từ năm Hợi.

    Bà cả Huê chép miệng :
    - Vậy là cũng xong một kiếp người.

    Vận lưỡng lự một lát rồi hỏi:
    - Con bé… dạo này?
    - Cậu hỏi con bé nào?
    - Tôi nghe ông Khoá Kiệt bảo năm ấy……Chị đẻ con gái.
    - Cái lão thủ lĩnh áo Đen toàn đơm đặt chuyện.
    - Tôi hỏi nghiêm chỉnh đấy. Nó là con gái thật à?

    Bà cả Huê lắc đầu:
    - Mọi chuyện đã qua rồi đừng nhắc lại nữa. Lão khoá Kiệt chẳng tử tế gì đâu. Cậu phải dè chừng hắn. Vì hắn mà làng Cùa bị quân Nhật triệt hạ.
    - Làm cách mạng như là trò đánh bạc ấy, nhiều lúc phải chịu tổn thất. - Lê Văn Vận chậm rãi phân tích - Bà thử nghĩ xem, gia đình ông ấy giờ còn những ai? Không có những người dám xả thân như khoá Kiệt thì làm gì có nền độc lập. Nhân đây tôi cũng nói cho bà rõ, thái độ hằn học với Cách mạng là rất không có lợi cho bản thân và gia đình. Sau này nếu xảy ra chuyện gì tôi cũng đành chịu.

    Bà Cả cúi đầu ra vẻ ngẫm nghĩ, bất chợt ngẩng lên hỏi:
    - Cậu có về thăm nhà một lúc không?
    - Bà đuổi mẹ con người ta sang sông rồi còn hỏi tôi làm gì?
    - Còn con Huệ ? - Bà Chánh hạ giọng - Cậu cũng phải nhìn qua xem mặt mũi nó thế nào chứ.
    - Thôi được. - Vận bảo bà cả Huê - Chị cứ về đi. Ngày mai tôi vào nhà ông Khoá Kiệt rồi nhân tiện rẽ sang, như thế bà con làng Cùa không nói vào đâu được.

    Vậy là kế hoạch thay đổi. Vào lúc chập tối, mấy anh em trong đội công tác tập hát cùng các cô thôn nữ xóm Đình. Đám trẻ con vắt mũi chưa sạch vây quanh lẩm nhẩm bài “Cùng nhau đi hồng binh” theo cái giọng kim uốn éo như giọng cung văn của người đội trưởng. Mấy ngọn đuốc cháy đùng đùng, tàn bay như sao sa, thỉnh thoảng lại nổ lép bép toả thứ ánh sáng chập chờn làm bóng người vặn vẹo trên nền gạch Bát Tràng. Vận lững thững thả bộ quanh bờ giếng. Anh ta lưỡng lự một lát rồi bứơc qua đầu đình. Đường đi lối lại làng Cùa Vận thuộc như lòng bàn tay. Từ đây đến nhà chánh Đàm chỉ qua vài ngõ. Kia rồi, đi hết con đường hẻm này là đến bờ rào nhà ông Khoá. Đang bước Vận chợt thấy lạnh toát ở bả vai, tiếp đến là tiếng nổ giống như pháo đùng ngày tết ở phía cây duối nhà Ba Vếnh cách đấy hơn chục bước chân. Phải đến mấy giây ông chủ tịch mới có cảm giác đau. Nó giống như mũi khoan thép, nóng bỏng xoáy vào tận xương làm Vận không thể đứng vững.

    Nghe tiếng nổ, mọi người từ các ngõ đổ xô đến. Lê Văn Vận được đưa ngay về đình sơ cứu. Khúc Kiệt cùng đội tự vệ khẩn cấp truy tìm thủ phạm. Lúc ấy mới đầu canh hai. Đêm cuối tháng tối sẫm. Bầu trời u ám không một vì sao. Từ trên cao thỉnh thoảng vọng xuống tiếng sấm lục bục báo hiệu sắp có mưa. Khắp các ngõ ngách làng Cùa, đèn đuốc thắp sáng như hội hoa đăng. Chiêng trống cùng với tiếng loa sắt tây chốc chốc lại rộ lên chẳng khác gì đám rước thần. Lê Bang, phó lý Kiền, chánh hội Bường, đồ Sách và bà cả Huê lại bị điệu ra đình. Toàn bộ thanh niên nam nữ bần cố nông xách giáo mác, gậy tày, tay thước lập thành tổ xung kích toả đi khắp các xóm giúp đội tự vệ giữ gìn trật tự. Đến cuối canh tư thì họ tóm được Khúc Luận đang ngồi thu lu trong thùng trấu nhà ông cả Duệch tận xóm Cầu Đá. Mới bị tay đội trưởng tự vệ quất cho ba roi cậu ta đã ngoan ngoãn nhận tội, khai ra chỗ vứt khẩu súng “dóp”. Thường Rỗ lập tức lội xuống ao nhà ba Vếnh mò tang vật. Lúc ấy trời đã rạng sáng. Cánh lý dịch được thả về còn Khúc Luận bị giải lên huyện.

    Viên đạn bắn từ phía sau, xuyên qua phần mềm bả vai phá ra ngoài nên không nguy hiểm đến tính mạng. Người y tá trong khi rửa vết thương bảo Lê Văn Vận :
    - Số ông may đấy. Viên đạn chệch xuống dưới một chút vào tim thì không cứu được.
    - Tôi phải nằm đây bao lâu?
    - Nhanh nhất cũng là một tuần.
    - Không được! - Vận giẫy nảy lên - ngày kia tôi có cuộc họp quan trọng trên tỉnh không thể vắng mặt. Bệnh viện cứ cho tôi ít thuốc là được.
    - Thưa ông chủ tịch, vết thương đã nhiễm trùng, cần phải tiêm thuốc để chống hoại thư, ông không chấp hành kỷ luật bệnh viện sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
    - Anh yên tâm . - Vận thản nhiên bảo - Họp xong tôi sẽ trở lại ngay.

    Thực ra Vận không có cuộc họp nào mà anh ta lo cho Khúc Luận. Chậm lại một chút bên công an đưa cậu ta lên tỉnh thì sự việc càng thêm rắc rối. Hành vi ám sát chủ tịch huyện chắc chắn là sẽ bị xử bắn. Vận thầm nghĩ, Lánh chết rồi, trên đời này nó chẳng còn ai thân thiết ngoài bà Cả Huê. Có điều mình và bà ta lúc này đều không thể cho nó biết rõ thân phận. Sau này sẽ hay, còn bây giờ phải tìm cách cứu thằng bé đã. Cũng may, trưởng ban An ninh là Khúc Kiệt.

    Tầm nửa chiều Khúc Kiệt có mặt tại nhà thương. Thấy Vận đã ngồi dậy được, ông Khoá có vẻ phấn khởi bảo:
    - Ngày mai phải đưa thằng ôn con lên công an tỉnh để người ta nói chuyện với nó.

    Vận lắc đầu:
    - Thằng bé còn đang tuổi vị thành niên, nhất thời hành động thiếu suy nghĩ, nên tha cho nó. Hơn nữa trước đây tôi cũng có lỗi ...

    Khúc Kiệt vỗ vỗ vào khẩu súng ngắn lúc nào cũng kè kè bên sườn, nghiêm giọng:
    - Đối với bọn phản động ta phải thẳng tay trừng trị, nương nhẹ với chúng là mất chính quyền như bỡn.

    Vụ án này tất có kẻ đứng đằng sau xúi giục chứ một mình thằng nhãi ranh ấy không dám làm. Theo tôi, cứ tóm cổ con mẹ cả Huê tẩn cho một trận là phải khai ra hết.

    Vận cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi làm ra vẻ tán thành:
    - Có lẽ chú nói đúng. Tình hình bây giờ đang rối ren, phải áp dụng biện pháp mạnh để răn đe bọn phản động.
    - Việc này anh cứ để tôi . - Khúc Kiệt gật đầu - Mà cũng không nên giải đối tượng về tỉnh nữa. Ta làm trong phạm vi địa phương cho gọn.
    - Đúng lắm . - Vận tán dương ông chú vợ - ở huyện có được một trưởng ban An ninh như đồng chí chúng tôi rất yên tâm. Ngay tối nay đồng chí về làng Cùa ổn định tình hình, trấn an nhân dân địa phương và điều tra xem những kẻ nào đứng đằng sau thằng bé, nhưng phải nhớ, chưa có lệnh của huyện không được tự tiện bắt bà cả Huê.

    Khúc Kiệt đang hăm hở chợt ngớ người ra:
    - Sao thế ? Tôi nghĩ ta cần tóm ngay con mụ ấy.
    - Phải tập hợp đủ chứng cớ đã. Chú cứ bắt lấy được khác gì rút dây động rừng.
    - Thôi được, tôi nghe anh.

    Đêm hôm ấy Vận lẻn về huyện cùng người thư ký thân tín vào nhà giam trước đây là Trại Lệ của tri huyện Cáp Văn Tòng. Khúc Luận ngồi thu lu một góc, mặt sưng húp, có lẽ trước đấy nó đã bị đánh đau. Nhìn thấy Lê Văn Vận thấp thoáng dưới ánh đèn dầu tù mù, thằng bé vênh mặt cười gằn:
    - Chắc ông chủ tịch đến đem tôi đi xử bắn ?

    Vận nhìn thằng bé rất lâu. Anh ta không thể ngờ nó lớn nhanh đến thế. Tâm trạng Vận lúc này khó có thể diễn đạt bằng lời. Đó là sự pha trộn giữa tình cảm cha con với nỗi căm hận lão chánh tổng, những trận đòn thừa sống thiếu chết của gã Tây lai trong nhà tù Sơn La cùng với đôi mắt thảng thốt của Mạc Thị Lánh trước lúc về thế giới bên kia. Thằng bé đã bị bà Cả Huê biến thành kẻ thù với chính người từng sinh ra nó mặc dù từ dáng dấp đến cách ăn nói giống mẹ như đúc. Đó là phẩm chất ngang tàng, phóng túng như con ngựa bất kham với thứ ngôn ngữ buông tuồng không chịu tiết chế theo quy tắc ứng xử của xã hội. Lúc này không thể nói cho nó hiểu được. Hơn nữa, nói ra những điều hệ trọng ấy là mất chức ngay, thậm chí có thể còn bị tống giam. Chính quyền mới thành lập, phải đối mặt với đủ loại kẻ thù, thậm chí kẻ thù ẩn náu ngay trong hàng ngũ Cách mạng, sẵn sàng hạ gục anh một khi mất cảnh giác. Loại cũng không kém phần nguy hiểm nữa là bọn cực đoan, quá khích, nhân danh Cách mạng để thanh toán lẫn nhau vì ân oán trong quá khứ. Khúc Kiệt chỉ là một trong những trường hợp điển hình. Phải giải thoát cho thằng bé trước khi khoá Kiệt trở về. Ông ta vốn rất gàn, ít khi chịu nghe lời người khác góp ý. Vụ này để cho trưởng ban An ninh giải quyết, Khúc luận khó thoát khỏi án tử hình. Nghĩ vậy, Lê Văn Vận bảo:
    - Cậu có biết tội cố ý giết người bị xử thế nào không ?
    - Chết là cùng chứ gì?- Khúc luận tỏ ra chẳng có gì sợ hãi, giọng khiêu khích.
    - Cậu đoán đúng đấy. - Vận gật đầu - Nhưng tôi biết, việc rình bắn tôi không phải tại cậu mà là cậu nghe người ta xui dại. Là đấng nam nhi đừng bao giờ làm chuyện khuất tất mà phải hành động danh chính ngôn thuận người ta mới phục. Cậu nấp một chỗ rồi bắn lén như thế là không quân tử.
    - Vậy ông cầm cán cuốc đập vào đầu bố tôi có phải quân tử không?

    Vận cười khẽ :
    - Ông Chánh dùng mác đâm, tôi tự vệ là chính đáng. Việc này mẹ con bà Hai biết rất rõ.
    - Hừ ! Bây giờ ông là chủ tịch huyện nói gì mà chả đúng. - Thằng bé nhấm nhẳng nói - Vậy mẹ tôi đâu ?
    - Việc ấy sẽ nói với cậu sau. Giờ hãy nghe đây. Tôi sẽ thả cậu ra nhưng không được về làng Cùa. - Vận ngập ngừng một lúc rồi nói -Về đấy là bị khoá Kiệt bắt ngay. Mà cậu biết đấy, một kẻ có âm mưu sát hại cán bộ Cách mạng rơi vào tay trưởng ban An ninh thì số phận như thế nào rồi.

    Nói xong Vận ra ngoài ghé tai người thư ký và một đội viên An ninh vẫn đứng canh chừng :
    - Các anh đưa cậu ta sang bên kia sông Lăng, hỏi nhà ông lái Lự ở kẻ Bòng rồi về báo cho tôi biết.
    Khoá Kiệt biết tin Khúc Luận trốn chạy thì cậu ta đã vượt sông Lăng ở bến Cự Tân. Đội quân An ninh toả ra khắp nơi truy tìm nhưng ba ngày sau vẫn chẳng có tin tức gì. Ông ta bực mình cáu với cả chủ tịch huyện:
    - Giá anh đừng bảo tôi về Ba Tổng thì thằng ranh con ấy không biến mất. Tôi đã bảo, thằng này giống địa chủ cường hào, lắm mánh khoé chứ không như anh nghĩ đâu.

    Vận giả bộ lúng túng như người mắc lỗi:
    - Tôi thật không ngờ thằng này lại ma ranh đến thế. Chú cứ cho anh em tiếp tục truy lùng. Phen này mà tóm được phải đưa ra toà xử công khai trước toàn thể nhân dân.
    - Tôi đề nghị phải tống giam và kỷ luật thật nặng mấy tay đội viên canh gác.
    Vận xua tay bảo :
    - Lỗi ấy là tại tôi, không phải do anh em canh gác. Chả là tầm nửa đêm, vết thương sưng tấy lên đau quá, tôi bị choáng, thế là các cậu ấy xúm vào đưa đi bệnh viện, không ngờ...

    Khúc Kiệt vẫn còn hậm hực, giọng bực bội:
    - Anh chủ quan quá.

    Sang đến làng Bòng, Khúc Luận vẫn không hiểu vì sao Lê Văn Vận tha mình. Hơn nữa, anh ta còn cử người thân tín đang đêm dẫn cậu bí mật sang sông. Còn nhớ, lúc đến bãi chuối xóm chài Cự Tân, nhìn cảnh đồng ruộng xác xơ, ba người vật vờ như những bóng ma dưới bầu trời mông lung, cậu ta bỗng khóc nấc lên bởi nỗi sợ hãi bị thủ tiêu:
    - Các ông định mang tôi ra sông dìm chết phải không ?

    Người đội viên An ninh có đôi mắt lác trông như mắt thuỷ tinh bực mình gắt:
    - Cậu mà hét lên nữa là tôi cho mấy cái bạt tai.

    Người thư ký trẻ hơn, có cái mũi vẹo, giọng khê nồng như người nghiện thuốc lào, mỗi khi bực mình anh ta hay văng tục:
    - Mẹ kiếp, có câm mồm không thì bảo.

    Người lái đò bị dựng dậy bất chợt, ngái ngủ càu nhàu:
    - Có việc gì để đến sáng, giờ này đếch sang sông đâu.

    Đó là một lão già tầm thước, không nhìn rõ mặt nhưng ước đoán cũng phải ngũ tuần. Lão nằm co ro trên chiếc ổ rơm trong căn lều tùm hum như lều chăn vịt thỉnh thoảng lại khậm khoạc ho. Gió đông nam bất chợt rồ lên. Lá chuối đập phành phạch làm lũ chim đêm bay nháo nhác. Một đàn đom đóm chập chờn lúc gần lúc xa, phát ra thứ ánh sáng lạnh lẽo, xanh lét làm căn lều cứ nhập nhoà như âm cung.
    - Dậy ! Ông lão . - người có cái mũi vẹo quát khẽ - Có công văn khẩn.
    -Thượng khẩn cũng để đến sáng mai. - Lão lái đò xem ra không phải loại dễ dàng cho người khác sai bảo, ngáp liền mấy cái rồi lại tiếp tục ngáy.
    - Có dậy không ? - Vẫn người thư ký mũi vẹo vừa quát vừa lên đạn khẩu tuyn[2] làm
    lão lái đò hoảng hồn :
    - ấy ! đừng bắn! Tôi sang ngay đây.

    Đêm đen thẫm. Trời ong ong. Những ngọn gió hiếm hoi lúc này không còn lang thang trên sông. Mặt nước lặng như tờ, thỉnh thoảng mới có gợn nhẹ không đủ cho sóng lao xao. Con thuyền lần mò trong đêm như một kẻ mù loà phải dùng gậy dò đường nhưng vẫn vào đúng bến chứng tỏ tài nghệ không thể phủ nhận của lão lái Quých. Bên này cũng là một bãi chuối. Dịch vào phía trong một chút là dẫy chuồng trâu bỏ hoang của lái Lự. Người thư ký và anh đội viên An ninh có vẻ khá thông thạo đường đi lối lại. Ba người về phía đầm Vực, khoảng canh tư thì đến làng Bòng. Anh mũi vẹo gõ vào cánh cổng một ngôi nhà giữa xóm . Các loại chó hình như đợi đến đúng lúc ấy mới nhất loạt sủa lên bằng đủ thứ giọng tạo thành dàn hợp xướng khủng khiếp, dai dẳng, đinh tai nhức óc. Lái Lự mắt nhắm mắt mở ra cổng. Lão đã bị nhiều vố mất của, thậm chí xuýt bị toi mạng nên không vội rút then ngay mà khẽ hỏi:
    - Ai đấy?

    Người thư ký nói chõ vào:
    - Ông chủ tịch Nam Thành gửi bác cái thư.
    - Chủ tịch nào? – Lái Lự cảnh giác hỏi lại.
    - Ông Vận.
    - Thư gì mà phải đưa ban đêm? - Lái Lự quát khẽ - Các người đừng có giở trò. Ta mà hô lên một tiếng, anh em tự vệ thôn đến thì có chạy đằng trời.
    - Đất nước độc lập rồi làm gì còn trộm cướp mà ông Lái Lự cứ sợ bóng sợ vía. Người đội viên An ninh bảo - Ông Chủ tịch muốn gửi thằng bé con cô Lánh. Mọi việc ông Vận đã nói rõ trong thư. Cậu ta đang chờ ngoài này. Chúng tôi đi đây.

    Phải một lúc lâu sau lái Lự mới dám mở cổng. Khúc Luận ngồi ngủ gật, tay vẫn cầm phong thư. Ông lái trâu vội đưa thằng bé vào nhà nhưng trong thâm tâm vẫn không dám chắc nó là cháu ngoại mình, bởi vì mười năm nay, từ khi con gái trốn khỏi làng, lão ngại không muốn đặt chân đến vùng Ba Tổng. Mọi sự liên hệ lái Lự đều thông qua Khúc Kiệt hoặc vài người bà con ở kẻ Bòng. Cũng chính vì thời gian đứt đoạn quá lâu như thế, Khúc Luận gần như chẳng còn nhớ chút nào về ông ngoại. Thường ngày ông ta còn bị bà cả Huê đơm đặt cho đủ điều xấu xa, nhằm nuôi dưỡng lòng căm ghét và thái độ khinh bỉ cho thằng cháu, đến nỗi khi nhìn thấy người đẻ ra mẹ mình, nó vẫn lạnh lùng, dửng dưng như từ trước đến nay chưa hề quen biết.

    Đọc thư xong, Lái Lự mới hiểu sự tình. Ông bảo Khúc Luận:
    - Cháu đã hiểu lầm anh Vận. Sự việc không đến nỗi ghê gớm như bà Cả vẫn nói. Bây giờ cứ ở đây với ông, mấy hôm nữa sẽ vào Lang Khê.
    - Lại phải đi nữa? - Thằng bé hỏi cộc lốc.
    - Chỗ này không được an toàn. Ông sợ dân làng có người thóc mách.
    - Còn mẹ cả tôi? Họ có xử bắn bà ấy không?
    - Cậu cả đừng nói dại.
    - Tôi nghe ông Khoá Kiệt bảo thế.
    - Ông ấy doạ cháu đấy.
    - Vì sao ông Vận lại thả tôi khỏi nhà giam?
    - Việt Minh họ không giết trẻ con. - Lái Lự buột miệng bảo.
    - Khóa Kiệt cũng là Việt Minh, lại cùng họ nữa vậy mà ông ấy vẫn muốn xử bắn tôi.

    Lái Lự gật đầu:
    - Kể ra thì ông Khoá cũng hơi cố chấp, nhưng hoàn cảnh gia đình ông ấy như thế nên cũng phải thông cảm.
    - Ai bảo ông ta đem quân áo Đen về làng Cùa.
    - Thôi, chuyện qua rồi, đừng nhắc lại nữa, sau này cháu sẽ hiểu.


    2. Khúc Văn đột nhiên về làng sau mấy năm biệt xứ. Anh ta không ở ngôi nhà tranh của gia đình họ Khúc mới được dựng lại mà đến tá túc trong chùa Từ Vân do sư Tuệ Văn trụ trì.

    Chùa Từ Vân giống như một trang trại nằm giữa cánh đồng Vạn, từ xa chỉ thấy thấp thoáng những ngọn tháp rêu phong ẩn hiện giữa những lùm tre. Vì cách biệt hẳn với khu dân cư, lại được luỹ tre dày bao quanh nên quang cảnh ở đây lúc nào cũng thâm u, tĩnh mịch. Lúc hoàng hôn, khi sư thầy vào khoá lễ, chú tiểu leo lên gác tam quan gióng chuông. Tiếng chuông chậm rãi thả vào đồng quê yên tĩnh những âm thanh trầm trầm, buồn tẻ. Những ngày này, Khúc Kiệt đã lên hẳn trên huyện đảm nhiệm chức trưởng Công an kiêm trưởng ban An ninh. Chức chủ tịch uỷ ban xã Đoàn Kết được giao cho Đỗ Kim là người tổng Cao Đôi. Anh này trước vốn là tay chân của trùm cướp Ba Ngạc, bị tri huyện Cáp Văn Tòng tóm được tống vào trại La Tỉnh. Hồi tháng tám, Nhật đầu hàng Đồng minh, Đỗ Kim cùng với một số chính trị phạm phá ngục thoát ra ngoài. Tay này có máu cờ bạc, ban ngày làm việc hàng tổng tối lại rủ cánh đàn em sát phạt nhau đến quá nửa đêm. Sáng ra, mắt anh nào cũng díp lại ngáp lấy ngáp để như con nghiện lúc lên cơn thèm thuốc. Làm chủ tịch mới có nửa tháng, Đỗ Kim đã được kết nạp đảng. Sự kiện này rất có ý nghĩa đối với con đường thăng tiến của các cán bộ Việt Minh mới tham gia phong trào. Việt Minh lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền nhưng đảng Cộng sản lại lãnh đạo Việt Minh. Thời Kỳ này, ở vùng Ba Tổng, ai không là người của Tổ chức nếu tham gia hoạt động xã hội thì được gọi là nhân sỹ yêu nước nằm trong Mặt trận Việt Minh nhưng thường chỉ là cơ cấu mang tính hình thức. Các đảng viên Cộng sản mới là những người nắm thực quyền. Từ lâu, Khúc Kiệt có mối quan hệ khá thân thiết với Đỗ Kim. Mỗi lần từ huyện về ông ta lại ra đình Cả hoặc cưỡi ngựa sang Cao Đôi bàn công việc với chủ tịch xã. Thực ra, Khúc Kiệt đề cử Đỗ Kim vào chức chủ tịch không phải anh ta có tài cán gì mà cái chính là để trả ơn một lần cứu mạng. Dịp ấy, ông Khoá bị mật thám theo dõi trong một lần giả làm người đóng cối đến nhà cai Kíu ở Cao Thượng lấy tin tức. Cai Kíu từ lâu đã là cơ sở của Huyện bộ Việt Minh. Cách đấy ít lâu cai Kíu bị Nhật bắt đã khai ra tất cả những gì mà hắn biết. Bọn Nhật đón lõng tóm được hầu hết cán bộ chủ chốt của huyện tống vào xà lim. Thấy ông thợ cối lảng vảng quanh mấy ngõ xóm, bọn cảnh binh và đám trương tuần sinh nghi đuổi theo. Khoá Kiệt quẳng đồ nghề chạy bán sống bán chết. Vòng vèo qua vài ngõ, ông Khoá nhìn thấy một ngôi nhà gạch liền đánh liều lách cổng vào. Hoá ra đấy là một đám xóc đĩa. Các con bạc đều là dân Ba Tổng, quen mặt nhau cả. Nhìn thấy Khúc Kiệt hớt hơ hớt hải, Đỗ Kim hỏi khẽ:
    - Ông bị mật thám đuổi phải không?

    Khoá Kiệt lấm lét nhìn trước nhìn sau chưa biết trả lời ra sao thì Đỗ Kim bảo tay chủ nhà đồng thời là chủ gá bạc:
    - Phiền bác vào nhà lấy cho mượn bộ quần áo với chiếc khăn xếp.

    Chủ nhà hiểu ý, kéo Khúc Kiệt vào buồng. Mấy phút sau, ông ta bước ra trong bộ trang phục mới, dáng dấp giống hệt một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Bọn mật thám, cảnh binh ập vào khám xét không thấy kẻ lạ mặt măc quần nái đen áo cánh nâu chít khăn đầu rìu nên bỏ sang nhà khác. Mãi đến trưa hôm sau Khoá Kiệt mới dám ra khỏi làng. Trước khi đi Khoá Kiệt hết lời cảm ơn Đỗ Kim. Anh ta bảo:
    - Ông làm việc vì dân vì nước, chúng tôi thật sự kính phục, chỉ mong rằng sau này đất nước độc lập, chính quyền mới để cho dân cờ bạc có chỗ làm ăn.

    Nắm được chức chủ tịch rồi, Đỗ Kim dần dần bộc lộ bản chất lưu manh của mình. Việc đầu tiên là anh ta nhờ bà đồng Chắt sang hỏi cô Mùi con gái ông trương Thép. Ông này bị bất ngờ liền tìm cách hoãn binh. Sở dĩ Đỗ Kim phải đi hỏi vợ thiên hạ là vì dân Cao Đôi không muốn gả con gái mình cho một gã chuyên cờ bạc, ăn chơi bạt mạng và nợ nần chồng chất. Sau một tuần, thấy vợ chồng ông trương Thép không tỏ thái độ gì, tay chủ tịch liền sắm hai gánh lễ vật sang làng Cùa. Lần này, trương Thép ra mặt từ chối, Đỗ Kim tức lắm, ra đến cổng, quẳng đồ sính lễ xuống ao, nhổ bọt thề độc:
    - Chuyến này mà không lột truồng được con Mùi ra ta quyết không làm giống người.

    Ba hôm sau, một tối cô Mùi vừa ra đóng cổng thì bị mấy tên trùm mặt nạ đen, chỉ hở hai con mắt túm lấy, nhét giẻ vào mồm rồi cho vào bao tải vác đi. Chừng canh ba bọn chúng đến Cao Thượng. Khi lũ tay chân đi khỏi, Đỗ Kim lôi cô gái vào buồng lúc này vẫn còn đang ngất xỉu vì sợ.

    Ông bà trương Thép ra đình Cả trình báo với thường trực Uỷ ban Trần Quang Đắc và nhờ mấy anh cháu đi tìm kiếm khắp vùng Ba Tổng. Trần Quang Đắc vốn là học sinh trung học, Việt Minh cướp chính quyền, đang học lớp đệ ngũ, trường đóng cửa, bỏ về nhà nằm khàn đọc tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, được nửa tháng, buồn quá, nhận làm chân thư ký xã. Đắc chẳng ưa gì tay chủ tịch cũng như chính quyền mới, vì bọn họ gặp thời chứ thật ra đều là một lũ chân đất mắt toét và vô học . Nghe ông Trương vừa kể vừa sụt sịt vì cái sỵ con gái bỗng nhiên mất tích, Đắc bảo:
    - Chưa biết chừng cô nàng đi theo trai rồi làm như thế để đánh lừa ông bà.

    Bà vợ mếu máo:
    - Từ trước đến nay nó là đứa nết na, biết nghe lời bố mẹ chả lẽ tự nhiên lại bỏ nhà đi.
    - Chưa biết đâu mà nói chắc. - Vị uỷ viên thư ký khoát tay- Bây giờ nam nữ bình quyền, các bậc cha mẹ không bắt ne bắt nét con cái như thời đế quốc, phong kiến được đâu. Có thể ngày một ngày hai cô ấy về thôi.

    Bà mẹ vẫn tức tưởi khóc:
    - Đúng là con tôi bị bọn xấu bắt cóc chứ không phải nó theo trai. Thôi thì trăm sự nhờ chính quyền, mong các ông cứu cháu.
    - Cách mạng mới thành công, chính quyền còn phải lo bao nhiêu chuyện quốc kế dân sinh, việc của gia đình ông bà chỉ là việc nhỏ, nhưng thôi được, ông bà cứ về đi, chốc nữa tôi sẽ xuống Cao Đôi báo cáo ông chủ tịch.

    Nghe tin con gái ông trương Thép bị bắt cóc, Khúc Văn liền cử một số anh em thân tín bí mật điều tra. Chùa Từ Vân là nơi khá yên tĩnh, ngay cả thời Nhật chiếm đóng chúng cũng không dám vào quấy nhiễu. Chính quyền mới bước đầu tỏ ra tôn trọng tự do tín ngưỡng nên tổ chức “Hội dân cày” của anh ta hoạt động khá thuận lợi. Sau mấy năm lang thang khắp các xứ đông đoài, học được khá nhiều điều, anh ta đã có thời kỳ nghiên cứu chủ nghĩa Mác và xuýt gia nhập đảng Cộng sản. Tuy nhiên, qua mắt thấy tai nghe và nhất là những dịp tiếp xúc với các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, chàng trai trẻ đã ngộ ra một điều chủ nghĩa Cộng sản chỉ là một thứ ảo tưởng. ở một nước thuần tuý nông nghiệp, đói nghèo và lạc hậu vào bậc nhất thế giới này, không thể có cái gọi là giai cấp vô sản đúng như ông Mã Khắc Tư và ông Lý Ninh định danh trong học thuyết của họ. Muốn đất nước thoát khỏi tình cảnh trì trệ hiên nay, trước hết phải làm cuộc Cách mạng nông dân, phải có một tổ chức thực sự của nông dân. ý tưởng ấy cứ nung nấu trong lòng làm Khúc Văn quyết chí thuyết phục bạn bè thành lập “Trung ương Hội dân cày” để phát động hơn hai chục triệu bần cố nông đứng lên đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời cải thiện bộ mặt xã hội đang ốm yếu cả về thể xác lẫn tinh thần từ hàng trăm năm nay. Trong nhận thức của mình, Khúc Văn luôn xem toàn bộ sự nghiệp Cách mạng mà Việt Minh đã làm chỉ là sự ăn may cho dù trước mắt họ đã giành được chính quyền. Thực chất, lực lượng của đảng Cộng sản lúc ấy rất mỏng, nhưng họ khôn ngoan chớp lấy thời cơ quân đội Nhật Hoàng thua trận trước khi các đảng phái chính trị khác kịp ra tay.

    Những thành viên trong “Hội dân cày” cứ một tháng vài lần tập trung về chùa Từ Vân học “nghị quyết” và võ thuật. Không biết Khúc Văn tuyên truyền thế nào mà cả sư thầy trụ trì và mấy chú tiểu đều gia nhập tổ chức này. Trong cuộc họp Ban cán sự, một uỷ viên người tổng Cao Đôi nêu ra hiện tượng đáng chú ý. Nhà chủ tịch xã thời gian gần đây, cứ tầm chiều tối lại xuất hiện những kẻ lại mặt hành tung có vẻ mờ ám.

    Khúc Văn nhận định:
    - Tay này vốn dĩ là dân xóc đĩa thành thần, có thể hắn lợi dụng cái ghế chủ tịch để mở sòng bạc.
    - Liệu bọn này có liên quan đến việc con gái ông trương Thép mất tích?
    -Tôn chỉ, mục đích của chúng ta tuy không giống với Việt Minh nhưng đây rõ ràng là hành vi phạm pháp. Tôi nghĩ, cần phải báo ngay cho chủ tịch Lê Văn Vận hoặc trưởng ban An ninh huyện để họ xử lý.

    Khúc Văn xua tay:
    -Thế là các chiến hữu chưa hiểu gì về ông bố tôi. Ông ấy với Đỗ Kim trước đây đã từng đi lại với nhau...

    Hoàng Thị Tịnh, cháu gái Lý trưởng Đậu Khê đã mấy lần bị Đỗ Kim cợt nhả, đưa ra ý kiến:
    - Tôi cho rằng, có thể chính Đỗ Kim đã cho người bắt cô Mùi. Các anh cứ thử kết nối các sự kiện lại mà xem. Từ lúc tay Kim sang dạm hỏi đến khi cô ta mất tích là mấy ngày? Tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế?
    - Không có lẽ ... - Khúc Văn lẩm bẩm rồi hỏi - Gia cảnh Đỗ Kim hiện nay thế nào?

    Phạm Cửu, người tổng An Điền báo cáo:
    - Bố mẹ Đỗ Kim đã chết. Mấy năm trước, hắn là một tay cờ bạc khét tiếng, đã từng kết bè đảng với bọn anh chị trên phố Phủ, sau dính vào đảng cướp, bị án bảy năm . Hắn trốn ra được là nhờ cánh chính trị phạm tổ chức vượt ngục . Từ khi làm chủ tịch đến giờ nhà Đỗ Kim luôn kín cổng cao tường, bên ngoài lúc nào cũng có đàn em canh gác.
    - Theo tôi, việc này cứ để các ngài Việt Minh giải quyết. - Hoàng Thị Tịnh bảo - Tội gì ta thò tay nhúng vào, chẳng may thất lợi họ lại quy kết là phản Cách mạng.

    Khúc Văn lắc đầu bảo:
    - Cô Tịnh nói sai rồi. Hội của ta làm việc là vì dân chứ đâu phải vì chính quyền Việt Minh. Nên nhớ rằng, hiện nay họ đang lúng túng trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc. Ta phải tranh thủ cơ hội khẳng định uy tín của mình bằng hành động cụ thể.
    - Anh Khúc Văn nói có lý. - Phạm Cửu gật đầu tán thành - Ngay đêm nay tôi cùng một số anh em về Cao Đôi tiếp tục thăm dò, sự việc thế nào sẽ báo cáo Ban cán sự.

    Khúc Văn dặn:
    - Tôi nhắc lại, việc này phải rất thận trọng, không được hở ra với ai kể cả người thân trong gia đình.

    Trưa hôm sau, Phạm Cửu trong vai người quăng chài đến chùa Từ Vân Thông báo một tin quan trọng. Không phải chỉ một cô Mùi mà trong thời gian qua, vùng Ba Tổng có đến ba cô gái bị mất tích. Mấy hôm trước, dân vạn chài nhìn thấy một xác chết nổi lập lờ ở đoạn bến Trại sông Lăng. Sau khi tử thi được vớt lên, phải khó lắm người ta mới nhận ra đấy là Lê Thị Vượng con bà Bẩy Cừ ở Ngân Đôi. Cô gái bị trói hai tay, nhét giẻ vào miệng, trên người không một mảnh vải.
    - Hừ ! Bọn này không còn là giống người nữa. - Khúc Văn nghiến răng bảo - Bên công an huyện đã cử người về điều tra chưa?
    - Báo cáo ! Ông Khoá có dẫn hai đội viên đến khám nghiệm xác chết qua loa rồi cho chôn cất sau đó kéo nhau sang nhà Đỗ Kim uống rượu đến chiều mới về.

    Khúc Văn cười gằn:
    - Ông bố “ chuyên chính vô sản” của tôi bị tay trùm xóc đĩa lừa rồi. Thôi được, tối mai anh cùng anh Chương, anh Khả và anh Tuyến đi với tôi.

    Đầu canh hai hôm sau, Khúc Văn gặp bốn hội viên ở miếu Cây Si. Người nào cũng giắt súng ngắn hoặc dao găm trong bụng, dáng dấp như những tay cờ bạc chuyên nghiệp, đi tắt lối Mạc Xá sang Cao Đôi. Nhà Đỗ Kim ở cuối xóm, vị trí khá hẻo lánh rất thuận lợi cho cánh đệ tử của thần đổ bác[3] hành nghề. Phía trước là dãy tường cao ngang đầu trên cắm mảnh chai, phía sau tiếp giáp với ao sâu, bờ ao trồng tre gai dày, rậm rạp như một bức luỹ tự nhiên. Lại Văn Chương và Lê Khả lảng vảng quan sát vòng ngoài. Khúc Văn, Phạm Cửu cùng Lương Văn Tuyến thản nhiên đẩy cổng vào, phong cách giống hệt dân đỏ đen. Một bàn tay cứng như sắt bất chợt chộp lấy vai Phạm Cửu quát khẽ:
    - Đi đâu?
    - Đi “khai hội". - Phạm Cửu nói đúng mật khẩu của đám xóc đĩa - Người anh em quên tớ rồi à?
    - Đừng có cợt nhả ! _ Tay gác cổng vốn là thuộc hạ thân tín của Đỗ Kim hỏi dồn _ Còn những người này?
    - Anh em nhà Vệ Khoà bên Cao Xá, đều là dân chịu chơi đấy.
    -Vậy à? - tên vệ sĩ đảo cặp mắt nhìn Khúc Văn và Lương Văn Tuyến - có đủ “ngân” không ?

    Khúc Văn vỗ vỗ vào bụng, nơi giấu khẩu súng ngắn bị phồng cộm lên, nheo mắt cười nhạt:
    - Bọn này từ trước nay chưa ăn quỵt của ai bao giờ.
    - Vào đi, nhớ cửa bên trái.

    Dưới ánh đèn toạ đăng có chiếc thông phong rất dài, sáu bẩy tay cờ bạc đang sát phạt nhau. Đỗ Kim cầm cái, Thấy bọn Phạm Cửu chỉ khẽ gật đầu rồi hất hàm ra ý ngồi sang chiếu bên cạnh chờ. Trong buồng có tiếng động lạch cạch. Khúc Văn áp tai nghe nhưng không thấy gì khả nghi, có lẽ là chuột chạy. Dù sao cũng đã đến lúc phải hành động. Cả ba người nhất loạt rút súng ngắn ra quát:
    - Nhân danh chính quyền Cách mạng, chúng tôi bắt các anh vì tội đánh bạc.
    - Cái gì? - Đỗ Kim giật nảy người quay ngoắt lại - Các anh là ai mà dám ...?
    - Đội An ninh của huyện. - Khúc Văn chĩa nòng khẩu Colt đã lên đạn vào gáy tay chủ tịch - tất cả nằm úp mặt xuống chiếu. Kẻ nào chống lại là ăn đạn.

    Phạm Cửu, Lê Tuyến rút cuộn dây gai trói quặt cánh tay từng tên một rồi lột chiếc áo của một tên trong bọn xé ra nhét vào mồm chúng. Phía bên ngoài, Lại Văn Chương, Lê Khả nghe ám hiệu, biết là công việc đã xong liền xuống tay hạ gục tên gác cổng. Phải mất một lúc họ mới phá được chiếc khoá đồng to quá khổ vốn là thứ chỉ dùng để khoá cổng làng. Trong buồng không có gì ngoài chiếc giường gỗ lim cũ và mấy thứ đồ dùng lặt vặt không đáng giá.
    - Chẳng lẽ mình đoán nhầm đối tượng? - Khúc Văn thầm nghĩ - Tội cờ bạc cùng lắm chỉ bị cách chức, phạt giam mấy ngày là cùng, vậy phải báo anh em rút ngay trước khi bọn chúng phát hiện ra.

    Nghĩ vậy nhưng Khúc Văn vẫn cảm thấy trong gian buồng này có điều gì khác thường. Đó là loại mùi rất đặc trưng của đàn bà. Nó kia. Một chiếc áo cánh gụ được vắt trên con sào nứa. Như chợt nhớ ra, anh ta ghé tai Phạm Cửu thì thầm:
    - Cậu tìm dưới gầm giường xem có gì không?

    Phạm Cửu chui vào một lúc lại thò đầu ra bảo:
    - Hình như bên dưới có hầm.
    Chiếc giường lập tức được chuyển sang một bên để lộ ra một nắp hầm kích cỡ khoảng năm mươi phân. Khúc Văn nhìn thấy cây đèn chai treo góc buồng liền châm lửa đưa cho Lương Văn Tuyến :
    - Khi nào tôi xuống đến nơi cậu phải thả đèn để soi.
    V
    ừa chạm đáy hầm anh ta đã đụng phải một vật mềm mềm như da thịt người. Đúng là một phụ nữ. Cô ta chỉ mặc mỗi chiếc váy thâm, nửa trên bị lột trần, mái tóc sõng sượt che gần hết khuôn mặt hốc hác.
    - Cô là con gái ông trương Thép phải không?

    Nạn nhân ú ớ chắc là sợ quá không nói được nên lời. Khúc Văn hỏi lại:
    - Cô là Mùi ở làng Cùa phải không?
    - Mùi ... đây, các bác cứu em ...

    Đến quá nửa đêm, khi dân trong xóm đã hoàn toàn yên giấc Khúc Văn mới cho anh em ra khỏi Cao Thượng. Phạm Cửu là chàng trai có dáng dấp như võ sĩ đấm bốc, cõng cô Mùi. Khúc Văn đi giữa giong Đỗ Kim. Lương Văn Tuyến và Lại Văn Chương cảnh giới phía sau. Chừng nửa giờ cả bọn đến bãi chuối xóm chài Cự Tân. Khúc Văn kéo Đỗ Kim đến gò đất cao trước vốn là chỗ cắm lều của lão lái Quých, nhưng sau cái đêm bị mấy ông An ninh lôi dậy, gí súng vào tai, bắt phải chở đò sang sông thì hốt quá liền đốt lều, bỏ nghề, chuyển sang đánh giậm kiếm ăn. Đỗ Kim sợ hết hồn nhưng miệng bị tống giẻ nên chỉ ú ớ không nói được. Phạm Cửu lấy ra con dao găm và mảnh giấy đã viết sẵn mấy chữ đưa cho Lê Khả. Khúc Văn kéo ông chủ tịch lại gần ghé tai nói dằn từng tiếng :
    - Nhân danh công lý, chúng ta xử tử ngươi vì tội bắt cóc, cưỡng hiếp con gái nhà lành.

    Khúc Văn vừa tuyên án xong thì Lê Khả thọc ngay mũi dao nhọn vào yết hầu Đỗ Kim. Trong bóng đêm chỉ nghe thấy tay chủ tịch ặc ặc ở cổ họng như nồi cơm sôi sắp cạn nước, co giật liền mấy cái rồi đờ ra.

    Trên trời cao những ngôi sao xanh đang nhấp nháy. Dòng sông vẫn chảy và gió từ trên triền đê vẫn rì rào thổi qua hàng tre chắn sóng.

    Nghe tin chủ tịch xã Đoàn Kết bị ám sát, trưởng ban An ninh huyện vội đem người về Cao Thượng truy tìm thủ phạm. Người đầu tiên bị lôi ra đình thẩm vấn là con gái ông trương Thép.
    - Cô có nhận mặt được những kẻ đã đột nhập vào nhà Chủ tịch Kim không?
    - Trời tối, lại tắt hết đèn đóm nên cháu không nhìn thấy mặt họ.
    - Có đúng Đỗ Kim đã cho người bắt cô hay là có kẻ nào xui vu khống nhà chức trách? - Khúc Kiệt gằn giọng răn đe.
    - Chính hắn đã bắt cháu hôm mười bẩy tháng một. Hắn và bọn cờ bạc thay nhau hãm hiếp rồi quẳng cháu xuống hầm. Tội của hắn chết là đáng đời. - Mùi chợt khóc nức lên - Cái hầm có nắp đậy vẫn còn ở trong buồng nhà hắn, các ông đến đấy mà khám.
    - Khi bọn người lạ mặt giết Đỗ Kim chúng nói những gì?
    - Họ bảo nhân danh công lý.
    - Quái nhỉ, vậy thì chúng thuộc cánh nào? Việt Quốc hay Việt Cách? - Khúc Kiệt lẩm bẩm .- Chúng làm vố này là muốn bỉ mặt mình đây.

    Chiều hôm sau Khúc Kiệt về huyện, Lê Văn Vận đưa cho ông ta mấy lá đơn của dân Cao Xá, Mạc Điền và Đậu Khê yêu cầu tìm ra thủ phạm bắt cóc con gái họ. Khúc Kiệt lo lắm. Chính ông ta đề cử Đỗ Kim vào chức chủ tịch, giờ xảy ra vụ bê bối lớn thế này biết tính làm sao.
    - Đây là vụ án nghiêm trọng mà thủ phạm chính lại là một tên lưu manh được chú đứng ra bảo lĩnh. Qua việc này có thể thấy, lực lượng công an của chú không thể đảm bảo được trật tự an ninh xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là trên địa bàn huyện ta, ngoài Mặt trận Việt Minh ra còn có những tổ chức phản động khác đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau mà mục đích chính của chúng là quấy rối chính quyền Cách mạng, tranh giành ảnh hưởng với ta. Phải công nhận bọn này là những tay có bản lĩnh làm được những việc mà nhân viên công an của chú bó tay. Tôi yêu cầu phải tiếp tục thẩm vấn bọn cờ bạc ở nhà Đỗ Kim để làm rõ hành vi phạm pháp của hắn trong mấy tháng qua, nếu cần, cứ nện thật mạnh vào.
    - Có nên đưa ra xử bắn một thằng để răn đe bọn cờ bạc, trộm cướp và lũ lưu manh trong huyện không?
    - Nên quá đi chứ, nhưng không phải một mà là tất cả những tên đã tham gia cưỡng hiếp cô Mùi. Còn nữa, trong vòng một tháng chú phải bắt cho bằng được những kẻ giết Đỗ Kim. Nếu thất bại chú nên tự làm đơn rút khỏi ngành Công an trước khi có quyết định cách chức.

    Sau buổi làm việc khá căng thẳng với chủ tịch huyện, Khúc Kiệt quyết định về làng Cùa, phân phát người của mình đi khắp nơi trong huyện nắm tình hình.Và cũng đến lúc ông ta mới biết Khúc Văn đang ở chùa Từ Vân. Các mũi trinh sát đều không có kết quả, riêng nhóm ở làng Cùa cho biết, mấy tháng nay, chùa Từ Vân có một nhóm thanh niên thường xuyên đến tập võ. Thấy sự việc có vẻ khác thường Khúc Kiệt liền cho người đến bắt sư trụ trì về đình Cả. Nhà sư là người hiền lành, mộ đạo, hơi bị nặng tai, nghe câu được câu chăng, trả lời ấm ớ bị đánh một trận thừa sống thiếu chết. Khúc Văn tức lắm, nửa đêm cùng Lại Văn Chương, Lê Khả đột nhập vào đình, nện gẫy xương sườn tay gác cửa, cứu sư Tuệ Văn đưa sang bên kia sông Lăng.

    Ngày hôm sau Khúc Kiệt cho các đội viên An ninh bao vây chùa. Khúc Văn bàn với các bạn:
    - Chúng ta có đủ đạn để cầm cự đến tối, nếu thấy đứa nào vượt tường vào thì cứ nổ súng, nhớ phải nhắm cho chính xác.

    Phạm Cửu băn khoăn:
    - Tôi sợ ông Khoá kéo thêm người đến thì nguy mất, hay là chúng ta ra hàng?
    - Cậu là thằng nhát gan. - Khúc Văn cười nhạt - Nghe nói quân đội Pháp đã đánh đến Ba Hàng và An Lĩnh. Chính quyền Việt Minh sắp đi đời rồi. Nhân đà này ta phải chiếm lấy vùng Ba Tổng làm căn cứ.

    Lương Văn Tuyến ngập ngừng:
    - Nếu ông Khoá đích thân xông vào thì có bắn không?

    Khúc văn phẩy tay:
    - Tôi đã nói rồi, không có bất cứ ngoại lệ nào.

    Khúc Văn vừa nói xong thì thoáng thấy hai bóng đen thập thò ngoài bờ rào cạnh cây mít mật liền nổ một phát trường mút. Phía cổng chính, Khúc kiệt chõ miệng loa sắt tây vào chùa cất giọng khàn khàn:
    - Anh em đừng nghe luận điệu lừa phỉnh của thằng Khúc Văn, hãy ra đầu hàng, chính quyền Cách mạng sẽ mở lượng khoan hồng.

    Tiếng loa ậm oẹ nhắc đi nhắc lại mấy lần nghe rất chối tai. Lê Khả bảo Khúc Văn:
    - Bắn cảnh cáo nhé.
    - Bắn đi.

    Lê Khả vốn là tay thiện xạ. Anh ta kê nòng súng lên chạc cây dâu da nhằm khoá Kiệt nổ một phát. Viên đạn xuyên thủng chiếc loa làm ông trưởng Công an hết hồn. Trong vòng mấy giờ đồng hồ, quân của Khúc Kiệt không đột nhập được vì hoả lực khá mạnh từ trong bắn ra. Vũ khí của đội An ninh toàn súng dóp với mútxcơtông. Có mỗi khẩu tiểu liên Nhật thì lại hóc, sau một hồi tháo ra lắp vào bị gãy kim hoả, Khúc Kiệt cáu tiết chửi:
    - Mẹ kiếp, súng với ống chết tiệt. Bây giờ anh nào bắt sống được thằng Khúc Văn ta thưởng hẳn ba mươi đồng.

    Quá năm giờ chiều, thế trận vẫn bất phân thắng bại. Tháng mười, gió bấc chạy ào ào. Trời u ám. Thoáng một cái đêm đã ập xuống. Lúc này Khúc Kiệt đã có thêm mấy tự vệ tăng viện cùng với khẩu tiểu liên K50 . Lợi dụng màn đêm, từng nhóm vài ba người một, luồn hàng rào tre, nhảy qua tường tiếp cận mục tiêu. Thấy hoả lực của đối phương thưa thớt dần, ông Trưởng Công an cho rằng cánh phản loạn đã hết đạn liền phá cổng chính xả đạn vào những chỗ nghi có quân bắn tỉa. Đạn lửa bay loằng ngoằng. Lửa bén từ dẫy nhà Tổ sang mái Tam quan bốc lên cao kèm theo những tiếng nổ lốp bốp như pháo đùng. Tàn lửa đỏ rực được những trận gió mùa ràn rạt đẩy ra cánh đồng lúa đang kỳ thu hoạch. Vô vàn là lưỡi lửa với đủ hình thù kỳ dị liếm lem lém vào bất cứ thứ gì nơi nó đi qua. Cả một cánh đồng vàng óng mênh mông những lúa là lúa bỗng chốc biến thành biển lửa. Trong làng, dân chúng nháo nhào xách thùng, chậu, gầu tát nước rầm rập chạy ra đồng nhưng đành bất lực trước đám cháy lan nhanh với tốc độ khủng khiếp. Đồng điền vào ngày đông giá tất cả đều khô nỏ. Không còn một đám ruộng nào còn sót lại khi hoả thần chạy qua. Bà cả Huê xót của, nghiến răng nghiến lợi gọi bố con Khúc Kiệt là quân “trời đánh thánh vật”. Thường Rỗ khóc hu hu còn lý Quỳnh mặt nặng chình chịch bảo phó lý Kiền:

    - Còn chữa chạy gì nữa, chuyến này thì cả làng xách bị đi ăn mày.

    [1] Lê nin (Phiên âm qua tiếng Trung Quốc)
    [2] Một loại súng trường nhỏ của Pháp.
    [3] cờ bạc


    (còn tiếp)

  2. #8
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 8

    1. Tháng Tám năm Đinh Hợi, quân đội Liên hiệp Pháp từ xếch tơ[1] Đông Triều kéo về phố huyện Nam Thành. Trước khi chiếm trụ sở chính quyền Việt Minh, chúng cho bắn hai mươi mốt phát moóc chi ê tám mươi mốt ly lên đỉnh núi Ông Tượng. Từ phía Hải Phòng, một chiếc tàu “Bà già” bay chậm như rùa, vừa kêu phành phạch vừa rải truyền đơn xuống các điểm dân cư hai bên đường quốc lộ. Việt Minh hình như đã biết có những cuộc hành quân như thế này nên từ mấy hôm trước họ rút lực lượng sang bên kia sông. Dân phố huyện mấy năm nay đã chứng kiến vài lần chính quyền thay thầy đổi chủ. Họ nhìn các "đồng chí" Việt Minh khoác ba lô lặng lẽ rút đi cũng như đội quân viễn chinh Pháp lỉnh kỉnh súng ống trở lại bằng con mắt của người nhà quê hoàn toàn dửng dưng. Những kẻ thức giả thì chép miệng dự đoán: “Phen này rồi sẽ loạn to”. Cán bộ Việt Minh dán truyền đơn hiệu triệu “Toàn quốc kháng chiến” khắp nơi. Chùa Vĩnh Hưng trở thành điểm liên lạc của huyện bộ Việt Minh. Lê Văn Vận rút vào hoạt động bí mật, thỉnh thoảng lại vượt sông về làng Cùa nắm tình hình.

    Cuối năm ấy, quân đội Pháp chở xi măng, sắt thép từ Hải Phòng lên xây đồn ở Bến Tuần, cách làng Cùa gần hai cây số. Đồn là một hệ thống phòng thủ gồm ba lô cốt nửa nổi nửa chìm, phía ngoài có hàng rào kẽm gai bùng nhùng, chôn mìn cóc, bên trong là ngôi nhà chỉ huy kiên cố được thiết kế như một pháo đài gồm các phòng làm việc, phòng ngủ và tầng hầm. Chiếc ca nô nửa trắng nửa đỏ treo cờ tam tài, trên boong đặt khẩu liên thanh, ngày nào cũng chạy một vòng xuống tận ngã ba Môi rồi lại ngược lên. Thỉnh thoảng hứng chí, bọn lính đứng dạng chân nhằm bắn vào bãi chuối hai bên bờ làm làm lũ liếu điếu, chào mào bay tán loạn.

    Việt Minh rút đi, làng Cùa lập tức bị ép vào tề. Ngô Quỳnh lại ra làm lý trưởng. Ông ta thừa biết, làm lý trưởng vùng Tề giáp ranh với Việt Minh chẳng những không xơ múi gì mà có khi còn bị tai bay vạ gió, không bị Việt Hùng[2] cắt cổ thì cũng bị Tây đồn đá đít. Dân làng Cùa thuộc loại mạnh ai theo người ấy, khó bảo, dính vào tí chức sắc có khi lợi bất cập hại.

    Lê Bang lúc này cũng đã ra giữ ghế chánh tổng doạ Ngô Quỳnh:
    - Ông đã từng làm chủ tịch Liên Việt, ít nhiều cũng dính dáng đến Việt Minh, tôi bảo cử cho vào chân lý trưởng là muốn để lập công chuộc tội.
    Ngô Quỳnh cãi lý:
    - Làng Cùa thiếu gì thằng có máu mặt làm được lý trưởng mà các ông cứ nhè vào tôi.
    Chánh Bang đành phải nói thật:
    - Việt Minh bây giờ đang yếu thế phải tạm rút đi nhưng không bao lâu nữa họ lại về làng Cùa cho mà xem. Bọn ấy có chuyên chính vô sản trong tay, lơ mơ là mất đầu. Để thầy làm việc , sau này còn có chỗ ăn nói.
    - Thế ra ông Chánh cũng biết sợ Việt Minh? - Lý Quỳnh châm chọc.
    - Sợ quá đi chứ. - Chánh Bang cười lớn làm ra vẻ thức thời vì đã biết sợ - Vụ họ khử tay Đỗ Kim còn sờ sờ ra đấy, có là thằng điên mới chọc vào tổ kiến.
    - Sao bảo Đỗ Kim là do cánh "Hội dân cày” thanh toán.
    - Việt Minh có trăm phương ngàn kế , họ nói một đằng làm một nẻo, biết thế nào mà tin.

    Làm lý trưởng, hàng ngày Ngô Quỳnh phải cắt các trai đinh trong làng lên phục dịch công trường xây dựng bốt Tuần. Dân Ba Tổng bị bắt phu rất đông. Nhà nào đến phiên không đi được có thể thuê người làm thay. Cũng thời gian này, Khúc Kiệt từ bên kia sông bí mật về làng Cùa thành lập đội du kích. Ông ta cử người thân tín, ban đêm vào các gia đình cơ sở tuyên truyền chủ trương kháng chiến trường kỳ của Việt Minh và vận động thanh niên gia nhập lực lượng chiến đấu. Khúc Kiệt nói khéo lắm, nhưng người làng Cùa qua mấy phen kinh hoàng, nằm mơ cũng thấy ác mộng nên xem ra có vẻ không mấy mặn mà. Thủ lĩnh áo Đen quyết không nản chí. Ông ta về các tổng Chi Điền , Cao Đôi, Ngân Đôi tuyển mộ được hơn hai chục thanh niên nam nữ, chủ yếu là tá điền, lấy rừng Hóp làm Đại bản doanh với ý đồ có ngày sẽ đánh bốt Tuần.

    Lúc này đã là giữa tháng hai. Rừng Hóp líu ríu tiếng chim mỏ nhát trên những cây sau sau non. Lũ sáo đá và yểng mỏ vàng đua nhau đồng ca bằng thứ giọng kim cao vút, thỉnh thoảng lại ngắt nhịp lấy hơi như là bị tắc mũi. Một con sóc bông màu khói, cặp mắt tròn, nhỏ xíu như hạt cườm, giỏng đôi tai mỏng dính, nghe ngóng động tĩnh rồi bất chợt hếch mõm kêu chin chít, giống hệt tiếng chuột đồng bị rắn sọc dưa vồ. Cò xám và giẽ giun thấy động bay vút lên lượn lờ vài vòng rồi lại đậu xuống đám cành kiền kiền ngủ gà ngủ gật. Dưới gốc cây keo đá, một con chó hoang lông vằn vèo như lông báo gấm có cặp tai rất lớn nhìn đám người khoác súng ống bằng cặp mắt đầy vẻ thù nghịch. Nó có vẻ như đã kịp hình dung ra những ngày sống êm đềm trong lãnh địa của mình đã qua. Lũ người ăn mặc bát nháo cùng những thứ đồ lỉnh kỉnh kia sẽ đem tai hoạ đến bất cứ lúc nào.

    Khoảng một tuần sau có thêm hai người làng Cùa lần vào rừng. Đó là cô Mùi con ông trương Thép và Bùi Quốc Tầm. Phải nói Khúc Kiệt chọn rừng Hóp làm căn cứ địa là đắc sách. Nó là khu rừng rậm tách hẳn với các điểm dân cư, lại gần với đầm Ma nên rất thuận lợi về mặt chiến lược. Mặt khác, rừng Hóp không quá xa bốt Tuần, đội du kích có thể sử dụng cách đánh chớp nhoáng, sau đó nhanh chóng rút về căn cứ làm cho địch bị bất ngờ, trở tay không kịp. Đây chính là một trong những lợi thế của phép dùng binh. Khúc Kiệt đã có kinh nghiệm qua cuộc đụng độ với quân Triều đình và quân Nhật. Lần này dứt khoát phải chiến thắng. Trong vòng hai tháng, ông ta cho các đội viên vừa luyện tập chiến thuật đánh du kích vừa tập kết lương thực, thực phẩm, vũ khí vào rừng với quyết tâm dạy cho gã Đồn Cáo một bài học.

    Làm việc dưới quyền Lê Văn Vận nhưng thực ra Khúc Kiệt không coi Vận ra gì, bởi anh ta chỉ là tay võ biền, vô học, do nước ngập mà "chó nhảy bàn độc" chứ chẳng có chút tài cán gì. Chức chủ tịch huyện đáng lý phải của ông ta mới có điều kiện bộc lộ hết sở trường. Đã làm cái chân trưởng ban An ninh quèn lại luôn bị Vận uốn nắn những lệch lạc về quan điểm lập trường khiến ông ta vô cùng bất mãn. Sau vụ bao vây chùa Từ Vân, thiêu trụi mấy cánh đồng lúa của làng Cùa, Vận buộc phải cách chức Khúc Kiệt chuyển sang phụ trách Nông hội, ông ta bị bẽ mặt, bỏ về Ba Tổng, bí mật thành lập đội du kích để chứng tỏ bản lĩnh.

    Trong đội có một cậu bé tên là Dược Còi. Bố mẹ Dược mới chết do trúng đạn moóc chi ê trong trận càn mười ba tháng tám. Cậu ta theo chị là một đội viên người Mạc Điền xin gia nhập du kích để trả thù cho cha mẹ. Khúc Kiệt mừng lắm liền bố trí cậu ta vào tổ trinh sát. Ông ta thầm nghĩ, chỉ có Dược Còi trà trộn vào dân phu ở bốt Tuần chúng mới không nghi ngờ. Dược Còi đã quá tuổi mười ba nhưng người bé loắt choắt chỉ bằng đứa lên mười, đi chăn trâu thuê cho ông hương Kình từ năm lên bảy. Dược có biệt tài làm diều, mỗi khi lùa trâu ra đồng đều mang theo diều sáo. Khi đàn trâu thong dong gặm cỏ trên bãi tha ma hoặc bên gò đống, cậu ta lại rủ bọn choai choai thả diều. Thích nhất là vào những ngày đầu thu. Dịp ấy trời trong veo không một gợn mây. Cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ mần trầu vẫn còn xanh mướt như tấm thảm nhung trải dài sườn đê. Sau vụ cày, lũ trâu được xả hơi dài ngày, da con nào cũng đen bóng, cặp sừng cánh ná nghênh nghênh, đôi tai ve vẩy, mồm gặm cỏ soàn soạt. Cứ tầm nửa chiều là có đủ loại diều chao lượn trên không. Bọn lớn tuổi thả diều sáo, bé hơn một chút chơi diều đuôi hoặc diều cốc. Lũ tí nhau vắt mũi chưa sạch thì tạm bằng lòng với loại diều ống, tức là lấy tờ giấy học trò gấp làm ba mảnh theo chiều dọc, dán một cái đuôi ngắn, buộc dây chỉ vào hai mép làm lèo, cầm tay co cẳng chạy. Những con diều chao lượn như mắc cửi, cái thấp, cái cao, cái kêu tu tu, cái vo ve như nhặng xanh vỗ cánh cùng với tiếng nghé hoa gọi mẹ tạo thành một bản hoà tấu với nhiều âm vực khác nhau, làm cánh đồng chiều sôi động hẳn lên.

    Buổi sáng hôm ấy, Dược Còi vác con diều sáo cỡ nhỏ đi lẫn vào đám dân phu làng Mạc Điền lên bốt Tuần. Một người quen nhìn thấy nó hỏi:
    - Mày lên đây làm gì?
    - Thằng bé không chút bối rối nói ngay ra một cái tên mà Khúc Kiệt đã dặn:
    - Cháu đi phu thay cho ông Cả Phiên.

    Người ấy bĩu môi:
    - Trông mày như con nhái, làm được trò trống gì, không khéo còn bị lính đồn nện cho vài hèo vào mông.
    Dược không nói gì. Đến gần đồn, nó xuống vệ đê giả vờ đi đái, đợi cho cánh dân phu ra đào đất phía ngoài bãi chuối mới từ từ thả diều. Con diều nhỏ nhưng gắn đến ba cái sáo, thành ra khi đã lên đủ độ cao, dây căng, nó bắt đầu phát ra chuỗi âm thanh giống như tiếng tiêu lồng trong tiếng kèn sừng dê lúc bổng lúc trầm nghe khá lạ tai. Tiếng sáo làm viên đồn trưởng đồn Tuần chú ý. Thoạt đầu, hắn gấp đống giấy má lộn xộn trên bàn lại, ngồi trầm ngâm lắng nghe. Những âm thanh vui nhộn của đồng quê vùng nhiệt đới kích thích trí tò mò làm tay đại uý đứng ngồi không yên. Cuối cùng, hình như bị thứ nhạc cụ thần kỳ gắn trên con diều quyến rũ, hắn rời bàn giấy, leo lên đỉnh lô cốt cao nhất, ngước cặp mắt xanh màu nước biển lên trời. Kia rồi. Một cánh diều. Cánh diều nhỏ nhoi như chiếc lá phong lữ thảo mỏng manh, gần như không chao lượn mà gắn vào một tảng mây xốp sáng lấp lánh giữa vòm trời thu màu ngọc lục. Cặp đồng tử vàng hoe của gã Đồn trưởng giãn ra. Hắn ngẫm nghĩ một lúc khá lâu, vừa nghĩ vừa đốt thuốc cotab. ít lâu sau, hắn gọi tay thông ngôn đóng lon cai:
    - Hạ sỹ ra bảo thằng bé chơi diều vào đây.

    Viên cai không hiểu ý cấp trên, ngập ngừng chưa định đi, thấy vậy, tên đồn trưởng giục:
    - Nhanh lên! Bảo nó mang cả cái diều theo.
    Thoạt nghe Dược Còi hoảng. Cậu ta phấp phỏng đoán già đoán non: “ Hay là nó biết mình là du kích? Được, chết thì chết, không bao giờ tao thèm khai”. Nghĩ vậy, Dược vừa đi theo cai Toại vừa giong diều. Đến bên hàng rào thép gai ở bốt tiền tiêu, cậu buộc dây vào cọc rồi đàng hoàng vào đồn Tuần. Đồn Cáo tiếp khách với thái độ niềm nở ngoài sức tưởng tượng của Dược Còi. Cậu cũng không ngờ gã đại uý nói tiếng Việt giỏi đến mức không cần cai Toại thông ngôn. Trước tiên, viên đồn trưởng đưa cho Dược hai hộp sắt tây bánh bích quy, năm hộp sữa "Con chim" và một ổ bánh mỳ. Hắn bảo:
    - Bé con, cầm lấy đi. Tao còn nhiều. Từ ngày mai, mày lên đây dạy tao thả diều.

    Trong lòng vừa trút được mối nghi ngờ, Dược mừng lắm nhưng vẫn làm bộ nhăn nhó:
    - Tôi phải đi phu cho ông hương Kình, thả diều với quan đồn về nhà mẹ con tôi không có tiền đong gạo.
    - Ô là là! Lo gì.- Viên đại uý thọc tay vào túi áo ka ki móc ra một nắm tiền Đông Dương ấn vào tay Dược - Thế này đủ chưa? Cầm về mà mua thức ăn.

    Dược lặng người trước một số tiền lớn mà cậu ta không bao giờ dám nghĩ tới nên cứ lúng túng mãi chẳng biết phải làm gì. Tên đồn trưởng nghĩ Dược chê ít liền móc thêm một nắm nữa rồi ấn tất cả vào túi áo nâu mốc thếch của thằng bé:
    - Cầm lấy đi, rồi về nhà làm cái khác. Cái diều đang bay ngoài kia bán cho tao.

    Tối hôm ấy Dược kể hết mọi chuyện với Khúc Kiệt. Ông ta mừng ra mặt, bảo:
    - Được, ta phải tương kế tựu kế.

    Mấy hôm sau, Dược cùng anh Quất người Đậu Khê làm chiếc diều to gấp đôi. ống sáo đã có sẵn. Phết giấy xong, đợi nửa ngày cho khô mới mang thả thử. Diều bay rất cân, tiếng sáo trầm, vang xa, nghe hấp dẫn không chê vào đâu được. Dược lại trà trộn vào đám dân phu mang diều lên đồn Tuần. Đồn Cáo thích lắm lại thưởng cho cậu mấy hộp bích quy và một bịch to kẹo "xích tông" bạc hà. lúc thả, Đồn Cáo cầm diều đâm, Dược giòng dây. Hắn nóng vội không biết cách đón chiều gió, mấy lần tung lên, diều chỉ nhao được nửa vòng lại cắm đầu xuống đất. Dược nhặt lên, chỉnh lại lèo rồi đâm làm mẫu. Cuối cùng thì viên đại uý cũng học được cách thả diều. Khi con diều đã lên đủ độ cao, bay ổn định, Dược buộc dây vào cọc. Đồn Cáo ngồi bệt xuống cỏ, châm thuốc hút và khoan khoái lắng nghe tiếng nhạc mê ly từ chín tầng mây vọng xuống.

    Đồn Cáo về bốt Tuần từ cuối năm ngoái. Hắn vốn là sỹ quan tham mưu thuộc binh đoàn Lê dương thứ ba của quân viễn chinh. “Đồn Cáo” chỉ là biệt danh dân Ba Tổng đặt cho còn tên thật của hắn là Mácxen Đuycroa quê vùng Bơ dăng xông. Cách đây hai năm, Mác xen được điều sang Đông Dương làm việc dưới quyền đại tá pháo binh Béc na đồn trú ở Kiến An. Nhật đảo chính, hắn bị bắt giam ba tháng sau đó được phóng thích liền trốn sang Căm pu chia, đang định tìm cách về nước cùng với đám chiến hữu bại trận thì gặp lúc quân đội Pháp tái chiếm Bắc Kỳ. Mắc xen trở lại con đường binh nghiệp sau chuyến gặp gỡ viên chỉ huy cũ ở Hà Nội lúc này đã là trưởng phòng tác chiến trong Bộ tham Mưu của Tướng Moóc li e. Về bốt Tuần, Mác xen bắt đầu có thói quen là rất thích chén thịt gà nhưng phải là loại gà mái đã đẻ từ một đến hai lứa, da vàng, thịt chắc, béo mỡ được nuôi bằng ngô hạt trồng trên bãi sa bồi ven sông Lăng. Mỗi bữa hắn chỉ ăn hai cái đùi và bộ lườn, phần còn lại nhà bếp cho vào nấu sốt để lính bản xứ ăn với bánh mỳ. Nguồn cung cấp gà chủ yếu là do lý trưởng các làng vùng Ba Tổng bắt dân nộp theo định kỳ rồi cử người mang lên đồn. Trong vòng ba năm Mác xen đã xơi đến hơn hai nghìn con gà, một kỷ lục có thể đưa vào sách Ghi nét. Dân Đậu Khê tức nhưng không làm gì được liền bảo nhau “tiến” một lồng toàn gà mái đã đẻ hàng chục lứa, thịt dai ngoách, ngài đồn trưởng không nhai được liền sai lính nọc lý Vạn ra quất cho hai chục hèo mây.

    Mác xen có khổ người trung bình và khuôn mặt khá đẹp trai với chiếc mũi thẳng, cặp mắt xanh và bộ ria nhọn, đen nhánh vểnh lên giống hệt các nhà quý tộc tỉnh lẻ nước Pháp thời vua Lu y mười bốn. Mỗi khi ra đê thả diều hoặc đi ca nô dạo trên sông Lăng, Đồn Cáo đều mặc quần soóc kaki Mỹ, áo cộc tay kẻ ô vuông và đội chiếc mũ trắng rộng vành như mũ du lịch của người vùng Địa Trung Hải. Ca nô chạy rẽ nước trên sông, Đồn Cáo chĩa ống nhòm quan sát hai bên bờ, thỉnh thoảng lại gật gù với Cai Toại.
    - Hôm nào chúng ta phải ra thăm cồn Vành.
    - Không được đâu, thưa ngài.- Cai Toại lắc đầu - Theo tôi được biết, các đơn vị du kích Việt Minh đã bắt đầu hoạt động. Họ có những xạ thủ bắn tỉa rất giỏi.
    - Ông doạ tôi đấy à ? - Đồn Cáo cười nhạt bảo - Lũ nhà quê chân đất ấy chúng làm quái gì có vũ khí hiện đại ngoài mấy khẩu Mútxcơtông từ thế chiến thứ nhất mà quân đội Pháp đã thải ra.
    - Đại uý không nên chủ quan.- cai Toại chỉ tay về phía làng Cùa bảo - Dưới luỹ tre làng hiền lành tưởng như rất nên thơ kia luôn ẩn giấu những hiểm hoạ bất chợt chẳng bao giờ dự đoán trước được.
    - Hình như từ sau hôm bị bắn trượt ông đã mất hết đảm khí.- Mác xen mỉa mai tay thông ngôn bản xứ- Mục đích quân đội Liên hiệp Pháp trở lại Việt Nam là tiêu diệt chính phủ kháng chiến của ông Hồ Chí Minh chứ không phải để họ tập kích ta bằng vài thứ vũ khí thô sơ. Mấy hôm nữa sẽ có cuộc hành quân vào vùng Ba Tổng, ông chuẩn bị đi cùng tôi để nâng tinh thần lên.
    Cai Toại biết đồn Cáo có máu yêng hùng thích lập chiến công để gắn mề đay Anh Dũng Bội Tinh. Mấy trận càn vừa qua tuy có bị tổn thất chút ít nhưng nói chung đã bình định xong vùng Kim Đôi, Ngân Đôi, Chi Điền, thành lập được các đội dân binh, nghĩa dũng, củng cố hệ thống làng tề nên Mác xen được coi như người hùng.

    Dần dần, Dược Còi quen hầu hết quan tính đồn Tuần. Cậu có thể ra vào bất cứ lúc nào mà không bị bọn gác xét hỏi. Gã Đồn trưởng bị tiếng sáo diều mê hoặc. Những ngày khô ráo, mỗi buổi chiều, sau khi thả diều, hắn lại trèo lên nóc lô cốt lấy ống nhòm ra ngắm. Trong bộ sưu tập của mình, Đồn Cáo đã có đến năm con diều. Đẹp nhất là chiếc diều cánh cốc dán bằng giấy màu sặc sỡ. Hắn lấy tên con gái là Ê li an đặt cho nó. Diều này bay thấp, không có sáo mà chỉ gắn màng, gặp gió đuôi “cốc” bay phần phật, màng kêu như tiếng ve kim. Mác xen có vẻ như chẳng nghi ngờ gì thằng dân phu bé con. Lợi dụng thời cơ, cậu đã tìm hiểu được nơi đặt súng moóc chi ê, súng máy, hệ thống hầm ngầm và các bãi mìn ở ngoài hàng rào kẽm gai. Thỉnh thoảng bọn lính đi càn về, vứt súng bừa bãi, Dược còn thủ được mấy quả lựu đạn đưa cho Khúc Kiệt. Tuy nhiên có một trở ngại lớn là cậu không biết chữ , nói thì được, nhưng vẽ sơ đồ, đánh dấu các vị trí trọng yếu trong đồn là việc hoàn toàn quá sức. Trường hợp của Dược chỉ là một biệt lệ do thói ham chơi của tên đồn trưởng. Dịp này, bọn lính tuần tra, canh phòng ngày đêm rất cẩn mật, chỉ cần phát hiện một chút khả nghi là chúng bắn không tiếc đạn. Khúc Kiệt suy nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra cách giải quyết mặc dù căn cứ vào lời kể của Dược ông ta đã hình dung ra phần nào cách bố trí hoả lực trong đồn. Đồn Tuần là vị trí chiến lược quan trọng. Nếu đánh không thắng chúng sẽ đem tàu chiến ngược sông Lăng từ ngã ba Môi lên hoặc câu đại bác từ xếch tơ Đông Triều về. Thậm chí để giữ vị trí đồn trú, quân đội Pháp sẵn sàng mang máy bay B26 đến ném bom huỷ diệt các làng xung quanh.

    Khúc Kiệt còn biết, mấy tháng qua, từ bên kia sông, Lê Văn Vận đã cho mấy tổ trinh sát lần mò đến bốt Tuần nhưng đều thất bại. Gần đây, có ba người dùng bè chuối thả trôi sát đồn, do không nắm rõ địa hình, một vướng mìn gài dưới mặt nước, còn hai anh kia bị ca nô rọi đèn lao ra tóm sống. Họ đều còn trẻ và gan lỳ không chịu khai. Đồn Cáo ra lệnh xử bắn, vứt xác xuống sông. Hôm ấy Dược Còi cũng ở trong đồn thả diều với viên chỉ huy. Hắn vẫn dõi mắt theo con diều sáo một cách thích thú vừa nhai bánh quy rau ráu. Nhóm thứ hai đóng giả là dân phu từ phía kẻ Bòng, nửa đêm vượt sông ở đoạn bến Trại không ngờ bị toán nghĩa dũng làng Cùa bắt được giải về đồn. Mác xen sai tên ách di đằng Trần Cao đem xuống hầm ngầm ngâm nước đến cổ thỉnh thoảng lại ấn đầu xuống chừng nửa phút cho sặc phù sa. Hai anh địa phương quân sợ phải khai. Mác xen lập tức cho giải họ về Cát chi ê Nam Thành cùng với biên bản hỏi cùng trình thiếu tá La mác tin.

    Nghĩ mãi, không còn cách nào hơn, cuối cùng Khúc Kiệt giao cho Dược tìm cách lấy tấm bản đồ phòng thủ. Dược biết, bản đồ ấy để trong cặp da, chiếc cặp lại để trong tủ sắt ở phòng đồn Cáo. Vào phòng hắn đối với Dược không khó. Cái khó nhất là làm sao có được chiếc chìa khoá viên đại uý luôn mang trong người. Khúc Kiệt đưa cho Dược cục sáp, bảo cậu ta làm sao in được chìa khoá tủ vào đó ông ta sẽ có cách. Hôm ấy trời nắng gắt. Thả diều xong, đồn Cáo thấy người bứt rứt khó chịu liền vào buồng tắm. Bộ quần áo ka ki dầy cồm cộp cởi ra quăng cuối giường. Dạo này Dược gần như thằng bồi nhỏ, đã mấy lần cùng dán diều với Đồn Cáo nên được hắn tin cậy. Đây quả là dịp may ngàn năm có một. Dược nhanh chóng tìm được chìa khoá và lần lượt ấn từng mặt vào miếng sáp.
    Mấy hôm sau, Khoá Kiệt giao cho Dược chiếc chìa khoá đồng mới tinh. Ông ta dặn:
    - Thời gian gấp rồi, phải tìm cách lấy ngay tấm bản đồ.

    Dược lo lắm. Lấy mẫu chìa khoá đã khó nhưng không nguy hiểm bằng mở tủ lấy bản đồ. Trót lọt thì không sao, còn nếu đang loay hoay mà đồn Cáo bắt được thì cầm chắc cái chết trong tay. Nhưng rồi Dược nghĩ đến bố mẹ, đến đám dân phu ngày đêm nai lưng ra khiêng đất, đắp ụ súng, đào công sự bị roi da bò của tên đội Tảo quất thành từng vệt trên lưng, đến những người dân vô tội vùng Ba Tổng bị chính tên quan ba ra lệnh trói chân tay , nhét vào rọ tre thả xuống sông Lăng chỉ vì họ giấu Việt Minh dưới hầm bí mật . "Phải liều thôi.- Dược nghĩ- Ông Khoá đã quá ngũ tuần mà vẫn lặn lội trong rừng Hóp chỉ huy du kích đánh giặc, mình mới tí tuổi đầu lại sợ chết, thật xấu hổ. Cứ hoàn thành nhiệm vụ đã còn những việc khác tính sau".

    Thời gian chờ đợi vô cùng căng thẳng mà dịp may vẫn chưa đến. Cứ mỗi lần từ đồn Tuần về, gặp anh em trong đội du kích mặt Dược Còi lại ỉu xìu. Ba ngày rồi năm ngày, bẩy ngày, thời khắc qua vùn vụt đã tưởng hết hy vọng, vậy mà dịp may lại đến. Đó là vào hôm Dược vác lên đồn con diều to như chiếc thuyền đánh lưới bén. Loại này khi thả phải dùng dây tre bánh tẻ luộc kỹ với nước muối mới chịu được. Tên đồn trưởng thấy khoanh tre quá cồng kềnh, vác đi vác lại khá bất tiện liền bảo cậu về đồn lấy cuộn dây dù vừa nhẹ vừa bền, còn hắn dùng nhựa sung dán lại một vài chỗ bị bong giấy. Dược chạy, tim đập loạn xạ. Mấy thằng lính hỏi, Dược bảo:
    - Lấy dây dù trong phòng quan lớn.

    Vào đến nơi, Dược nhìn trước nhìn sau rồi rút chìa khoá mở tủ. Chìa khoá giũa khéo, xoay một vòng là được. Chiếc cặp da đây rồi. Quả nhiên ở một ngăn có tấm bản đồ gấp tư còn mới kẹp giữa những giấy tờ khác. Đây là thời điểm quyết định, không thể chần chừ. Dược đã bình tĩnh trở lại. Cậu lấy tấm bản đồ luồn vào chiếc túi trong vạt áo mà chị Mùi đã khâu sẵn cho từ mấy hôm trước rồi nhanh chóng để cặp vào tủ khoá lại như cũ. Xong việc chính cậu mới vơ cuộn dây dù bước ra khỏi phòng tên quan ba. Đồn Cáo đợi lâu, sốt ruột đã văng “mẹc xà lù” nhưng thấy Dược chạy đến hắn lại nhoẻn miệng cười. Phải kiên nhẫn lắm, Dược mới đóng trọn được vai kịch. Suốt buổi thả diều, tấm bản đồ cứ cồm cộm trong bụng, cậu chỉ lo, chẳng may nó tuột ra thì chắc chắn sẽ ăn ngay mấy viên đạn của khẩu môde lúc nào viên đại uý cũng kè kè bên hông. Gần tối, đồn Cáo mới cho Dược về. Trước mặt hắn, cậu thọc hai tay vào túi quần short rộng thùng thình, nghênh ngang bước, khuỷu tay khuỳnh ra, giống hệt một tay anh chị phớt đời. Khi đã cách đồn khá xa, hút bóng gã đại uý cậu mới lao xuống chân đê co cẳng chạy. Gần đến điếm Bài Vân, chợt thấy một gã câu ếch đội nón mê từ bụi tre nhô ra, Dược thoáng giật mình, nhưng khi nhận ra Khúc Kiệt thì mừng vô kể. Hai người lẩn vào vườn chuối thì chạm ngay đội Tảo vừa cùng tốp lính đi tuần từ làng Cùa ra. Thấy bóng người , đội Tảo ra lệnh cho lính quay lại đuổi theo. Khoá Kiệt vội xé rào chạy chạy về phía ao Quan. Tấm bản đồ phòng thủ đồn Tuần vẫn nằm trong túi áo Dược.
    - Việt Minh, đứng lại ! - Một gã mặt non choẹt, giọng the thé quát.
    Dược cắm đầu cắm cổ chạy ngược lên điếm làng, định lẩn vào đám dứa dại thì tên này nổ súng. Cậu khựng lại, đầu nhao về phía trước. Lúc ấy mặt trời vừa tắt. Trên cao, phía cồn cát sông Lăng lơ lửng một vành trăng khuyết.

    Chừng nửa giờ sau, bọn lính tuần khiêng Dược về đến bốt Tuần. Thật ra cuộc rượt đuổi hoàn toàn tình cờ, chỉ cần viên đại uý đứng ra bảo lãnh là cậu vô can nếu như đội Tảo không tìm thấy tấm bản đồ giấu trong túi áo. Đến lúc ấy đồn Cáo mới hiểu mức độ tai hại của trò chơi thả diều. Hắn tự tay đánh Dược bằng loại roi song ngâm nước muối, mỗi nhát vụt người cậu giật nẩy lên, máu toé ra nhưng nhất định không khai ra đội du kích rừng Hóp.

    Sang ngày thứ ba, vẫn không khai thác được gì ở Dược, Mác xen lồng lộn như con thú bị thương sai tên quan hai người đảo Coóc cùng một toán lính Âu Phi mang cậu bé xuống bãi sông xử bắn.

    2. Những trận mưa tháng Bẩy kéo dài khác thường làm cánh đồng vàn liền với đầm Ma bị úng. Trà lúa sớm đang xanh mơn mởn giờ ngập lút dưới làn nước nhờn nhợt màu cỏ úa. Chỉ những bụi lác hoặc cỏ vòi voi là bất chấp. Nước dâng đến đâu chúng vươn cao đến đấy. Nhiều cây, trong một đêm đã kịp trổ hoa trắng phất phơ trên mặt nước giống hệt những chiếc chong chóng bé tí xíu xoay tròn trong gió. Bên đầm Ma, những bụi dành dành chen nhau cạnh đám mộc hương khẳng khiu hoa vàng sẫm toả thứ mùi hăng hắc rất khó ngửi nhưng lại vô cùng hấp dẫn lũ ong khoái đến hút mật. Bọn này không có tổ cố định mà thường di chuyển một cách tuỳ hứng đến những nơi có nhiều hoa đang nở trong rừng Hóp. Ong khoái bám vào cành cây phèn gai hoặc một đoạn dây chạc chìu lòng thòng hàng ngàn vạn con trông xa gần giống như chiếc chổi tre mầu nâu sẫm. Mỗi khi thấy nguy hiểm, những con đậu phía ngoài lập tức “rùng mình’ kéo theo sự chuyển động bởi một vũ điệu kỳ quái của cả bầy, nhìn vào sởn cả gai ốc. Măng hóp gặp mưa ngâu đâm lên tua tủa. Những con bồ các đang ấp trứng kêu quang quác mỗi khi nhìn thấy các đội viên du kích đào măng ngay dưới tổ của chúng. Một đôi chim sâu ngó nghiêng chuyền cành bằng cặp chân bé xíu như cây tăm màu hồng phấn. Chúng vừa nhảy nhót vừa kêu lích tích có vẻ tự thoả mãn với thời tiết ướt át, chẳng mấy quan tâm đến những kẻ lạ mặt đang chặt cây làm nhà dưới kia. Lũ cò con hoàn toàn không biết sợ, nhìn thấy người cứ ngoác cái mỏ ngà viền lông tơ trắng đòi ăn bằng thứ tiếng khàn khàn ngắt nhịp rất đều, nghe khá tức cười.

    Lán của Khúc Kiệt ở ngay dưới một tổ cò. Chiều chiều, cò bố, cò mẹ đi kiếm mồi về, lượn trên vòm cây kêu nháo nhác làm ông ta phát cáu vớ mấy cục đất ném lên. ấy là những lúc ông chỉ huy du kích đang nghiền ngẫm kế hoạch đánh bốt Tuần. Căn cứ vào lời kể của cu Dược thì bốt Tuần là một cứ điểm quân sự với hệ thống phòng thủ chắc chắn. Các lô cốt đều được bố trí hoả lực mạnh với một khẩu đại liên và hai trung liên đầu bạc. Nếu chỉ dựa vào số vũ khí chắp vá thô sơ là mấy khẩu mútxcơtông cà khổ và dăm quả lựu đạn tự tạo cùng với hơn chục mã tấu mà đánh đồn thì chẳng khác gì gãi ghẻ, có khi lại bị phản kích, thất bại là chuyện không phải bàn. Vậy chỉ còn một cách đánh nhỏ, đánh chắc, nghĩa là chờ những hôm đồn Cáo đưa lính đi càn, ta phục sẵn ở những vị trí hiểm yếu rồi tấn công bất ngờ may ra mới thành công. Đây chính là phương thức chiến tranh du kích, thực hiện kháng chiến trường kỳ, làm tiêu hao sinh lực địch mà cấp trên đã phổ biến trong đợt chỉnh huấn vừa qua .

    Sau vụ xuýt mất tấm bản đồ, Mác xen lập tức bố trí lại hệ thống phòng thủ. Hắn cho xây thêm hai lô cốt phía trong đê cách bốt chính hơn trăm thước, mỗi lô cốt bố trí một tiểu đội Âu Phi và lính bản xứ làm thế liên hoàn, sẵn sàng chi viện lẫn nhau khi một trong những nơi đó bị tấn công. Phía bờ sông cũng được tăng cường thêm một hàng rào kẽm gai giăng ngầm dưới nước đề phòng du kích đột nhập ban đêm. Công việc xong xuôi, Mác xen bảo viên thiếu uý Chi e ry người vùng Gatxcôn:
    - Trong tuần tới, thiếu uý phải thực hiện cuộc hành quân xuống tổng Chi Điền. Tôi vừa nhận được tin Việt

    Minh đã cắt cổ lý Lọng treo đầu lên cành đa ngay trên bến Lác. Mục đích của chuyến này là phải bắt cho được những tên Việt Minh nằm hầm bí mật chỉ huy du kích, xử bắn ngay tại chỗ để răn đe.
    Chi e ry là người đảo Máctiních. Hắn mới về đồn Tuần, chưa nắm được tình hình vùng Ba Tổng nhưng có Khúc Văn và đội Tảo giúp sức nên trong vòng một tháng qua đã mở ba trận càn thành công. Khúc Văn đóng lon thiếu uý mới được điều về bốt Tuần thay cho Ba danh bị tử thương do vướng mìn du kích. Sau khi thoát khỏi trận hoả hoạn chùa Từ Vân, các hội viên Dân cày tan tác mỗi người một nơi. Phạm Cửu và Lê Khả chạy về Đậu Khê bị Việt Minh phục kích bắn chết. Lại Văn Chương sang Cao Xá được nửa tháng thì theo một người buôn bè ngược sông Thao lên Yên Bái. Khúc Văn và Lương Văn Tuyến vượt đường 283, giả làm thợ đấu sang vùng Vạn Thái lánh nạn. Quân đội Pháp tái chiếm huyện Nam Thành đóng bản doanh ở ngôi nhà hai tầng của Hàn Phúc thì dân buôn bán tản cư khắp nơi lại đổ về chợ Cháy. Hồi còn học lớp đệ Lục, Khúc Văn chơi thân với Vũ Lộc, con trai ông Hàn Phúc là nhân viên phòng Nhì. Vũ Lộc liền vận động anh ta vào quân trường Đà Lạt. Khúc Văn nói tiếng Pháp lưu loát lại là người có quan điểm chống Việt Minh triệt để nên được bố trí học ngành tham mưu. Ra trường anh ta được đưa về xếch tơ Đông Triều làm phụ tá cho quan tư Gơ ra xây.

    Hai tiểu đội lính dõng trang bị súng trường mát, lựu đạn, dưới sự chỉ huy của đội Tảo hành quân theo đội hình hàng dọc trên đê sông Lăng. Chi e ry và Khúc Văn đi với toán Âu Phi. Bọn này cũng được trang bị trường mát nhưng thêm một khẩu trung liên đầu bạc. Lộ trình hành quân không gặp trở ngại gì. Trên đê không một bóng người. Bọn lính gốc Phi cao to, da đen sì như trát bồ hóng, thằng nào mặt cũng lầm lầm, vai khoác súng, chân đi ghệt cao cổ, nện gót rầm rập hệt như đang duyệt binh trên quảng trường.

    Khúc Văn chỉ tay vào đám cây cối rậm rạp cách đê chừng dăm bảy cây số bảo Chi e ry:
    - Ngài có biết khoảng rừng kia không?
    Chi e ry lắc đầu:
    - Xa quá, chắc là một làng nào đó.

    Khúc Văn cười khẩy:
    - Ngài nhầm rồi. Đó là rừng Hóp. Hồi người Nhật đem quân về làng Cùa, sau khi thất bại, tàn quân Việt Minh rút ra ẩn náu ở đấy.

    Viên quan một người vùng Gát x côn chợt nghĩ ra, gật đầu:
    - Cách đây ít lâu, đại uý Mác xen đã nói, có thể quân du kích địa phương sẽ dùng khu rừng ấy làm căn cứ kháng chiến.
    - Đại uý dự đoán không sai. - Khúc Văn chĩa ống nhòm vào rừng Hóp ngắm một lúc rồi nói - Vùng Ba Tổng vẫn còn một số cán bộ nòng cốt Việt Minh nằm vùng. Chúng sẵn sàng móc nối với bọn từ bên kia sông Lăng về kích động đám bần cố nông chống lại ta. Mấy làng quanh đây tuy đã vào tề nhưng như thế không có nghĩa là dân chúng chịu khuất phục, cho nên cần phải thẳng tay trừng trị thì mới có thể sớm bình định được.
    - Vậy trước mắt phải làm gì để hạn chế hoạt động của Việt Minh?
    - Tăng cường hành quân, truy lùng Việt Minh nằm vùng, chặn đứng nguồn cung cấp vũ khí.
    - Phải, đó là những biện pháp rất hữu hiệu trong kế hoạch bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ của ngài trung tướng Tổng chỉ huy, nhưng có thực hiện được hay không lại là chuyện khác. - Chi e ry xem ra không mấy tin tưởng vào tài cầm quân của tướng Aletxăngđơri - Theo tôi được biết, sau thất bại Đông Khê, nhân dân Pháp bắt đầu mất lòng tin vào giới quân sự.
    - Thiếu uý không tin tưởng ở sức mạnh của quân đội Liên hiệp sao?
    Chàng trai Gát x côn khẽ cau mày:
    - Tin thế nào được khi mà mấy tháng gần đây các cuộc hành quân của chúng ta chỉ bắn moóc chi ê và xả đạn tiểu liên vào đám dân cày, giết phụ nữ và trẻ em, còn kẻ thù đích thực thì cứ thoắt ẩn thoắt hiện như ma. Tôi sợ rằng trận càn hôm nay cũng chỉ tóm được vài tên Việt Minh tưởng tượng.
    - Tôi sẵn sàng đánh cuộc năm ăn một với thiếu uý đấy. - Khúc Văn xốc lại khẩu súng ngắn trễ xuống hông nheo mắt nhìn viên sỹ quan Pháp - Tin tình báo cho biết, một trung đội địa phương quân từ Cổ Bi đã đột nhập vào làng Chi Điền. Bọn này sẽ phối thuộc với đội du kích do tên Tùng chỉ huy đang có kế hoạch phá tề, xây dựng làng chiến đấu.
    - Tôi không tin.
    - Rồi thiếu uý sẽ phải tin.

    Trung đội Âu Phi tản ra thành ba hướng theo đội hình chiến đấu. Khúc Văn dẫn đầu toán lính Marốc và tiểu đội dõng kéo thẳng vào đình Thượng. Chi e ry bao vây vòng ngoài, chặn cổng phía tây nam. Đường làng không một bóng người. Từ hôm lý Lọng bị xử tử, cánh chức sắc như gà phải cáo, không ông nào dám đứng ra cầm triện đồng. Phó lý Bài bó mình trong chiếc áo the ngắn cũn cỡn, chiếc quần lá toạ ống thấp ống cao, hấp tấp ra đình. Khúc Văn hỏi:
    - Ông có danh sách những nhà có người theo Việt Minh không?
    - Dạ .. .
    - Dẫn chúng tôi đến !

    Phó lý Bài bất chợt lúng túng:
    - Bẩm quan lớn, chúng chỉ về ban đêm, giờ này không đứa nào dại mà ở lại trong làng.
    - Ông chủ quan lắm. - Khúc Văn mắng - Chúng nằm dưới hầm bí mật, ông hiểu chưa?
    Căn nhà đầu tiên bị khám là bà Đôi, một phụ nữ goá chồng, mắt loà, đang lúi húi nấu cám lợn. Khúc Văn thốc mũi giầy vào ngực bà ta, dằn giọng:
    - Đêm hôm qua thằng Bằng mới vượt sông Lăng về đây, giờ nó ở đâu?
    Bà già ôm ngực ho:
    - Bẩm quan, thằng con tôi đi Hải Phòng từ cuối năm Tuất, từ bấy đến nay chẳng có tin tức gì.
    - Nói láo ! - Khúc Văn quát - Nếu không chỉ hầm bí mật, ta bắn vỡ sọ.
    - Quan lớn thương tình. - Bà già chắp tay vái viên thiếu uý - Nó là thằng con bất hiếu, bất mục, nghe người ta xui dại, tôi không dậy được. Các quan cứ cho người khám nhà, nếu tìm thấy, xử bắn tôi không ân hận gì.
    - Lục soát ! - Khúc Văn ra lệnh .

    Mấy tay lính Marốc cùng tốp dõng xách thuốn xăm hầm. Khúc Văn ngồi trên chiếc chõng tre, vắt chân chữ ngũ, đốt thuốc, thở phì phèo, chốc chốc lại gõ đế giầy xuống đất đánh nhịp. Khoảng mười phút sau, viên cai người Bắc Phi chạy đến trước mặt Khúc Văn nói bằng tiếng Pháp:
    - Bẩm thiếu uý, đã thuốn hết lượt, không thấy hầm bí mật.
    - Còn trong bếp, dưới gầm giường ?
    - Tất cả đều đã được kiểm tra.
    - Thôi được. - Khúc Văn đứng dậy hất hàm về phía bà Đôi - Nện cho con mụ kia một trận.
    - Thưa… hình như bà ta hơi điên.
    - Gọi ông Đội Tảo chuyển sang nhà cả Nhưỡng.

    Nhà Bảy Nhưỡng nằm cạnh ao làng. Đây là khoảnh ao khá rộng thả toàn bèo tây quanh năm xanh tốt. Những tầng bèo lưu cữu hết năm này đến năm khác, chồng chất lên nhau đến mức có chỗ dẫm vào không bị lún. Bố cả Nhưỡng là ông phó Đang có chân trong hội Tư văn. Bà Cả sinh được hai chị em Nhưỡng rồi mắc chứng hậu sản sài mòn qua đời lúc mới hai mươi bảy. Ông Phó tục huyền với một bà người làng Báng. Bà Hai tính nết hiền lành, nhu thuận, cả họ đều quý nhưng chỉ được mỗi mình cu Thạch. Tính Thạch khác người. Được chiều cậu ăn hiếp cả anh chị, lên bảy còn bắt Nhưỡng cõng đi chơi, chân dài ngoằng chấm đất. Ông phó Đang làm nghề chạm khắc gỗ, cũng kiếm ra tiền, chỉ phải dữ đòn. Chị Tí Nhường và cả Nhưỡng sợ một phép. Có chiếc diều đuôi của ai đó đứt dây vướng vào ngọn đa làng, Thạch bắt anh phải lấy cho mình chơi. Cây đa cao to, tán sum sê xoè rộng cả một gò đất hơn hai sào. Con diều đậu đúng vào cành cao nhất. Từ trên chót vót ấy nhìn xuống, Nhưỡng chóng mặt, không dám leo xa hơn nữa. Thấy vậy, Thạch lăn ra đất, đập đầu vào gốc đa khóc. Thương thằng em trai, Nhưỡng nhắm mắt liều. Nào, cố lên, chỉ ra bốn chục phân nữa thôi là được. Nhưỡng run quá. Bất chợt cái đầu hình tam giác của một con rắn xanh ngọ ngoạy ngay phía dưới cùi tay làm mắt cậu hoa lên… Cũng may trong khi rơi, Nhưỡng chạm được vào một cành nhỏ phía trên chạc ba. Cậu nhanh trí tóm lấy rồi đánh đu quặp được vào cành ngang. Xuống đến đất, mặt Nhưỡng tái xám như gà toi vừa bị cắt tiết. Thật hú vía. Đang tức, thấy thằng em cứ nằm giãy đành đạch ăn vạ cậu ta liền phát cho mấy cái vào mông, lôi tuột về nhà. Cu Thạch tuy bé nhưng cũng không vừa, thấy diều chẳng được mà lại bị đánh liền ôm cột nhà, lấy chân đạp anh, sau đó nằm xoài ra đập đầu vào tảng đá kê chân cột. Nghe tiếng khóc, ông Phó từ trong nhà chạy ra quát:
    - Thằng Nhưỡng lại đánh em phải không?

    Nhìn thấy Cu Thạch đầu nhoe nhoét máu, vừa gào vừa chửi, ông cáu tiết, cầm thước lim quất túi bụi vào đầu vào vai Nhưỡng. Lớn chút nữa, hễ ông Phó đi làm xa là bà Trẻ không bảo được con. Thạch lang thang khắp làng trên xóm dưới trêu ghẹo đám trẻ con khiến cho hôm nào cũng có người gọi cổng. Có lần bà Trẻ cầm dao đuổi. Cậu ta liếc mắt nhìn trước nhìn sau, thoắt cái leo tót lên cây vối bờ ao. Đến ngọn cây Thạch cúi xuống bảo mẹ:
    - Bà có giỏi thì lên đây.

    Bà mẹ sợ, van lạy mãi ông con vẫn cứ lờ đi, ngồi trên cây ăn quả vối chín đến thâm môi rồi mới chịu xuống. Lần khác, Cu Thạch ném phân trâu vào nhà bà Hú, một bà già dở hơi sống độc thân trong túp lều rách cạnh ngôi miếu cổ. Buổi chiều, bà ta đến trước cổng gọi đích danh ông phó Đang ra chửi. Bà ta chửi có bài bản và cái chính là chửi rất dai, ngữ điệu lên bổng xuống trầm nghe như hát tuồng khiến bà Trẻ tức điên.Tuy nhiên vốn có kinh nghiệm đối phó với những trường hợp này nên bà tỏ ra rất nhũn nhặn:
    - Cháu nó đầu bò đầu bướu. Tôi xin bà. Bà cứ về để tôi dạy cháu.
    Tất nhiên là lúc đấy Cu Thạch trốn biệt, trưa hôm sau mới về, định vào buồng tìm cơm nguội nhưng nhác thấy mẹ lại lảng ra. Bà Trẻ nói rất ngọt:
    - Thạch đã về đấy hả? Vào khênh giúp u thúng thóc để chốc nữa xay rồi đi mà ăn cơm .
    Ông con tưởng thật bước vào buồng. Bà Trẻ nhanh tay chốt cửa lại, nghiến răng nghiến lợi bảo:
    - Bây giờ thì mày chết với bà !

    Miệng nói, tay với cái dùi đục của ông Phó quật vào lưng con trai. Cu Thạch giơ tay đỡ, đảo mắt nhìn quanh. Bỗng thoắt cái, cậu nhảy lên mặt hòm gian, đánh đu lên xà nhà, đạp tung vách đố đan bằng tre rồi phi thân xuống bàn thờ gian giữa làm đổ lỏng chỏng cả bát hương, mâm bồng, bồ đài. Bà mẹ thở dốc, vội rút chốt cửa, xách dùi đục xô ra, nhưng lúc bấy giờ thì cậu quý tử đã cao chạy xa bay rồi.

    Làng nghèo, đất chật, người đông, lại thuộc vùng chiêm trũng nên cuộc sống vất vả, lam lũ. Những năm vỡ đê, nước ngập trắng đồng, lúa mất sạch, khi nước rút chỉ còn cánh bãi ven sông là trồng được khoai lang. Cái thứ khoai lang Vân trồng trên đất phù sa tốt vô kể, củ nào củ ấy to mập, da nhẵn bóng, nổi sắc nâu đỏ hoặc tím sẫm, luộc lên bở như bánh phong bột nếp hoa vàng. Nhưng Cu Thạch chỉ thích khoai khô, nhất là loại thái con chì, phơi kỹ để trong chum Thanh chèn lá chuối mật. Lần nào giặt áo cho cậu, bà Trẻ cũng tìm thấy khoai khô trong túi. Vùng Ba Tổng có nghề đơm tôm tép bằng loại đó tre dùng. Sau mỗi vụ heo may, anh em Nhưỡng phơi được mấy nong làm thức ăn quanh năm. Chị tí Nhường lấy chồng, nhà nghèo lại đông con, bà Trẻ thường giấu cho mỗi lần một ít. Biết chuyện, Cu Thạch tuyên bố:
    - Phần của u với anh Nhưỡng một chum muốn cho chị Cả bao nhiêu thì tuỳ, nhưng cấm đụng vào chum của tôi.
    Ông phó Đang lườm thằng con ngỗ nghịch mắng:
    - Mày là thằng ích kỷ.
    Cu Thạch mặt lạnh như tiền, phớt lờ cả ông bố, giọng bốp chát:
    - Con gái đã lấy chồng hưởng phúc nhà chồng, hễ về đây bòn vét là tôi đập vào
    mặt.
    Anh em Nhưỡng không học Quốc ngữ mà chỉ học chữ Nho với bố. Ông Phó trước học cụ khoá Thìn. Số ông vất vả chẳng có vai vế gì trong làng nhưng do biết chữ nên bọn lý dịch không dám chèn. Khi đã có thể cầm được đục chạm, ông bố cho hai cậu con trai theo phụ việc. Nhưỡng chịu khó học hỏi, chóng thành nghề. Cu Thạch vừa vụng về vừa mải chơi toàn làm hỏng. Ông Đang ghét lắm, vớ dùi đục choảng. Làm được chẵn năm, một lần ông bố giao cho hai anh em tỉa những chùm hoa cúc trên cánh tủ chè gỗ gụ, Thạch sơ ý đục quá tay làm vỡ một miếng. Nhưỡng tức mình mách bố. Ông Phó sượng mặt với gia chủ, liền lấy cán rìu quật tới tấp vào tay con trai. Trời rét. Bàn tay tím bầm. Đau quá, Thạch cắn răng không nói nửa lời, nhặt chiếc áo cánh nâu vắt vai, lẳng lặng bước ra cổng. Cả Nhưỡng chạy theo gọi, cậu ta nói cộc lốc:
    - Tôi không về nhà nữa đâu.

    Tưởng Cu Thạch phẫn chí nói thế ai ngờ hắn đi thật. Cuối năm Dần, Ông Phó qua đời. Bà Trẻ cũng mất sau đó mấy tháng vì nhớ thương con. Ngôi nhà gỗ năm gian bị Tây bốt Tuần đốt trong trận càn mười hai tháng chín. Năm Mão cả Nhưỡng đi lính Bảo an. Chị Ngần và ba đứa con phải chen chúc trong túp lều chẳng khác gì lều vó bè.

    Một đêm Cu Thạch về. Cùng với cậu ta còn có hai bạn đồng ngũ. Tất cả đều bị ngã nước. Người nào người ấy môi thâm, da tái nhợt, đầu rụng sạch tóc. Thạch gọi chị dâu ra một chỗ bảo :
    - Chị nấu cho chúng tôi nồi cháo, kiếm được mấy quả trứng thì tốt. Anh em mới ở rừng về, nhờ chị vài hôm.
    Chị Ngần gật đầu:
    - Cháo thì có. Trứng cũng có. Nhưng các chú không thể ở đây lâu được. Hôm nào lính tuần cũng vào làng lục soát.
    Ăn cháo xong, bà chị dâu lại giục:
    - Các chú phải đi ngay trong đêm, đừng chờ trời sáng.
    Cu Thạch cười nhạt:
    - Chị đuổi, chúng tôi đi nhưng nhờ chị giữ hộ cái này, cuối tháng sẽ có người đến lấy.
    Nói rồi Thạch xách chiếc bị cói đã cũ nhưng nặng chịch để vào góc lều. Chị Ngần sinh nghi bèn mở ra xem thử. Xuýt nữa chị ta chết ngất vì cái thứ đựng trong bị toàn là lựu đạn chày, vội chạy đuổi theo vừa nói vừa thở :
    - Chị lạy các chú. Các chú ở lại cũng được nhưng phải quăng cái của nợ ấy đi. Nó mà biết thì chết cả nhà.
    Đêm ấy chị Ngần cùng đứa con gái lớn bất đắc dĩ phải đào hầm bí mật cho ba người. Họ ăn nghỉ ở nhà chị hơn một tuần. Chị mua được thuốc ký ninh của ông xếp Thụ cho uống, hết sốt rồi mới đi. Khi đi, Thạch thay mặt anh em nói lời cảm ơn:
    - Sau này kháng chiến thành công, Chính phủ sẽ có sự đền đáp.
    Chị lắc đầu:
    - Chả cần ơn với huệ, chỉ mong các chú chân cứng đá mềm .
    Năm sau, Cả Nhưỡng bị đạn du kích vào gót, thành khập khiễng, được giải ngũ. Chị Ngần chuyển sang nấu rượu nuôi lợn nái. Năm thì mười hoạ Thạch ghé về. Có rượu uống anh ta thích lắm. Một đêm, Thạch bơi qua sông Lăng, quần áo ướt sũng, run cầm cập. Chị Ngần rót chén rượu đưa cho em chồng:
    - Uống cho đỡ rét.
    Uống xong, Thạch dặn trước khi chui xuống hầm:
    - Mai đi chợ chị "đỏ" đừng nhìn lên cành đa.
    Chị Ngần không nói gì . Sớm hôm sau quẩy gánh ra đầu làng nghĩ bụng:“Chắc thằng này lại treo tạc đạn lên cây đa”. Đến nơi, dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ, thấy cái đầu người tóc tai rũ rưỡi, lủng lẳng trên cành đa, các bà hàng rượu chẳng còn hồn vía nào, mạnh ai nấy chạy như bị ma đuổi. Chị ngần vấp ngã vỡ cả hai vò rượu. Về nhà, chị mắng:
    - Chú lừa chúng tôi.
    Cu Thạch nhe răng cười:
    - Đó là đầu lâu Việt gian làm chỉ điểm cho Tây.
    Chị bỗng chột dạ hỏi:
    - Các chú bắt người ta ở đâu về? Hay là. . .
    Giọng Thạch vẫn tỉnh khô:
    - Chính là lý Lọng làng ta chứ còn ai nữa.
    Chị Ngần tái mặt:
    - ối giời ơi ! Chú gây ra tội ác tầy trời rồi .
    Từ lâu Thạch đã nổi tiếng là tay gan lỳ, mấy lần xuýt bị Tây bắt. Gần đây, anh ta được cử về Chi Điền tăng cường cho đội du kích. Chủ trương của Thạch là trừ khử Việt gian. Chỉ trong tháng chín đã có hai tên bị cắt cổ làm đồn Cáo tức điên lên.
    Khúc Văn vung vẩy khẩu súng ngắn, hất hàm hỏi:
    - Anh kia, thằng Thạch đâu?
    Nhưỡng thoáng thấy lính tráng đầy sân, hoảng lắm nhưng cố trấn tĩnh để giọng bớt run :
    - Thưa quan lớn, thằng mất dậy ấy bỏ nhà đi từ bốn năm nay không thấy về.
    - Nhà anh nói láo ! - Khúc Văn nạt nộ - Mấy hôm trước, nó cùng đồng bọn cắt cổ ông lý Lọng treo lên cây đa chợ Đình, chả nhẽ anh lại không biết?
    - Dạ tôi cũng có nghe dân làng nói.
    - Trói lại ! - Khúc Văn ra lệnh cho mấy tên lính dõng - Nếu không thành thật khai ra thì hãy liệu cái mạng mày.
    - ấy quan lớn , - Nhưỡng mếu máo - tôi cũng đã đi lính Bảo an, bị ăn đạn Việt Minh nên chẳng việc gì phải bao che cho chúng.
    - Nhưng Cu Thạch là em ruột mày. - Khúc Văn quắc mắt gằn giọng.
    - Em ruột mà làm Việt Minh tôi cũng báo quan bắt nếu nhìn thấy nó về làng.
    - Được . . .! - Khúc Văn cười nhạt - Mày nhớ đấy.
    Khắp vườn chuối, bờ ao, chỗ nào cũng bị những chiếc thuốn dài, nhọn hoắt xuyên xuống thăm dò. Gần bụi mây, giáp với nhà Trương Quả, một tên dõng phát hiện ra hầm vì cây thuốn sắt sụt xuống già nửa. Khúc Văn nắm cổ áo cả Nhưỡng lôi sềnh sệch đến bụi mây, bảo:
    - Mày gọi nó ra đi nếu không đừng trách.
    - Đã bảo nhà tôi không có hầm bí mật.
    Bọn lính lên đạn rôm rốp. Tiếng cuốc, thuổng, xà beng phầm phập. Chừng năm bẩy phút, một khoảng trống bằng bắp chân lộ ra, sâu hun hút. Một gã kêu lên:
    - Hầm đây rồi . . .
    Hắn chưa nói dứt lời một vật đen loằng nhoằng cất cổ phun phè phè. Thì ra một con hổ mang đang ấp trứng, bất chợt bị phá hang, nó lao vút ra với tốc độ tên bắn mổ trúng tinh mũi cai Lìu. Tên này lập tức ngã bổ chửng, giãy đành đạch. Khúc Văn bị một phen hoảng hồn. Hắn vẩy liền ba phát súng lục. Viên cuối cùng trúng vào cái đầu nhẵn bóng. Con rắn quằn quại một lúc rồi mới chết. Cai Lìu bị nọc độc ngấm vào người, mặt tái nhợt. Khúc Văn quát:
    - Hai đứa khiêng ông ta ra đình còn những người khác tiếp tục tìm hầm.

    Cả Nhưỡng lấm lét theo dõi bọn chúng. Trận càn bất chợt làm anh ta lo lắm. Cái hầm của Cu Thạch nằm ngay phía ngoài bờ ao, gần gốc cây sung. Nó mà khui ra thì gay. Rất may, hôm nay chị Ngần đã đưa lũ trẻ về kẻ Bầu từ sáng. Mẹ con họ mà ở lại thì chẳng biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Các tay thuốn chọc ngoáy hết lượt không thấy chỗ nào đáng ngờ kéo nhau vào sân giở thuốc lá ra hút. Khúc Văn sắp sửa cho rút quân thì một người mặc quần áo nâu, đội nón lá như phu xe mang kính thầy bói từ ngoài cổng vào ghé tai viên thiếu uý nói thầm mấy tiếng rồi chỉ tay ra gốc cây sung. Khúc Văn lập tức ra lệnh đào. Chỉ vài ba nhát cuốc cửa hầm đã hiện ra. Đó là một khung gỗ hình chữ nhật lèn đất nện, được đậy rất khéo ở một vị trí ít ngờ tới nhất mặc dù nó chỉ cách mép đường chưa đầy nửa thước.
    Khúc Văn ra lệnh:
    - Lùi lại ! Chuẩn bị lựu đạn.
    Nói xong, hắn bắc tay làm loa gọi to:
    - Cu Thạch lên đi ! Anh không còn đường thoát đâu.

    Phía dưới vẫn im lặng. Đó là những phút giây căng thẳng chết người không chỉ cả Nhưỡng mà chính tim viên thiếu uý cũng đập thình thịch. Hắn muốn bắt sống tên Việt Minh nằm vùng để chứng tỏ năng lực cầm quân của mình đối với gã đồn trưởng mà ngay từ đầu đã tỏ thái độ coi thường thuộc cấp. Không thấy trong hầm có động tĩnh gì, Khúc Văn lại quát to:
    - Anh Thạch ra đi! Lấy danh dự của một sỹ quan quân đội Liên hiệp Pháp, tôi sẽ đảm bảo tính mạng cho anh.

    Hắn đang lải nhải thì đột nhiên một quả lựu đạn từ dưới hầm quăng lên. Lựu đạn nổ tức thì làm hai lính da đen và một tên dõng chết tại chỗ. Khúc Văn đã nghĩ tới tình huống này nhưng không ngờ tên Việt Minh lại nhanh tay đến thế. Nhìn đám thuộc hạ quằn quại trong vũng máu, hắn nổi máu điên, vảy súng nhằm cả Nhưỡng nổ hai phát. Nghe tiếng lựu đạn, bọn lính của Chi e ry lúc ấy đang ở sân đình cũng xách súng chạy đến. Khúc Văn tự tay ném quả lựu đạn mở vịt xuống hầm. Tiếng nổ bị nén lại nghe lục bục như sấm mùa đông. Khói đặc sệt, cay sè xộc vào mắt mũi làm bọn lính hắt hơi như tất cả đều mắc bệnh cúm. Khúc Văn bảo tên lính da đen người Xê nê gan :
    - Chờ hết khói rồi xuống hầm mang tên Việt Minh lên .

    Tên da đen loay hoay một lúc lại chui lên với một nửa cái chai vốn là thứ đồ đựng gạo rang của những người nằm hầm bí mật .
    - Thưa thiếu uý không thấy xác người.
    - Quái lạ. - Khúc Văn lẩm bẩm - Chả lẽ nó lại nát bét ra đến nỗi mắt các anh không nhìn thấy. Hãy đào rộng thêm, rồi xúc đất lên để xem thằng Việt Minh này mồm ngang mũi dọc thế nào.
    Miệng hầm lập tức được phá rộng . Gốc sung bật rễ. Đến lúc ấy bọn lính mới phát hiện ra một ngách ăn thông xuống nước.
    - Chúng ta bị lừa rồi . - Khúc Văn đưa mắt nhìn ao bèo tây bảo - Đây là loại hầm hai tầng. Tên thạch đã lặn dưới đám bèo kia.
    - Nếu vậy chắc là nó chưa dám ngoi lên.

    Hàng chục quả lựu đạn được ném xuống những chỗ nghi ngờ. Đạn súng trường bay chiu chíu trên mặt lớp bèo dày đặc. Chừng nửa tiếng đồng hồ, Khúc văn lùa tất cả đám lính dõng xuống ao, dùng câu liêm và đinh ba, dàn hàng ngang càn hết lượt đến gần trưa mà vẫn không thấy bóng dáng tên Việt Minh. Hắn cáu lắm quăng chiếc bật lửa cho tên lính Xê nê gan.
    - Đốt nhà !

    Ngôi nhà một gian hai chái của vợ chồng cả Nhưỡng bùng cháy. Lửa gặp gió đông nam bốc cao bén sang nhà quản Hạo . ông Hạo hốt hoảng lập cập xách thùng ra ao thì bị trúng đạn của cánh quân Chi e ry đang bắn loạn xạ phía xóm Nội. Đường làng khói bốc mù mịt. Sức nóng của hoả thần làm không khí hầm hập như lò bát quái. Cả xóm Mật trở thành biển lửa. Mấy tên lính Phi Châu chạy ngược chạy xuôi, đen sì như những hung thần. Một thằng có mái tóc xoăn tít, cao lênh khênh nhảy ra hàng rào cúc tần túm được cô con dâu ông trương Phận liền đè xuống đầu bếp, tốc váy lên. Cô Dự sợ chết khiếp nhưng vẫn cố sức chống cự bằng cách cắn vào yết hầu tên lính Lê dương. Hắn khoẻ như voi, chỉ khẽ gạt một cái, đầu người thiếu phụ đã oặt ra. Cô ta chết rồi nhưng gã da đen vẫn hùng hục giày vò tấm thân loã lồ giữa những tiếng nổ đùng đoàng và hơi lửa hầm hập từ mái bếp cháy đang sắp rơi xuống. Phía bên kia ao, hai tên dõng vồ được đứa con gái chừng mười sáu mười bẩy vừa chạy ra từ một ngõ cụt. Một thằng kéo tuột chiếc váy thâm quăng vào đống lửa rồi xốc ngược con bé lên chạy ra phía bờ ao. Chi e ry trông thấy vội quát :
    - Đứng lại!

    Hai tên lính bản xứ làm ra vẻ không quen nghe tiếng Pháp vẫn cắm cổ chạy. Viên thiếu uý liền rút khẩu colt nhằm thằng đang vác người nổ một phát. Viên đạn trúng bắp chân làm hắn ngã chúi về phía trước. Chi e ry nhảy đến đá vào mạng sườn thằng chạy sau bằng một cú đòn hiểm làm tên này nhăn nhó.
    - Cởi quần dài ra!
    - Dạ, bẩm thiếu uý…
    Chi e ry chĩa khẩu súng lục vào đầu hắn:
    - Tao bảo cởi ra.
    Tên dõng lập cập làm theo mắt len lén nhìn vào nòng súng.
    - Mặc quần của mày cho cô ta !
    Tên lính lóng ngóng mãi mới xỏ được ống quần đi trận bằng thứ vải ka ki dày cộp vào chân cô gái lúc này vẫn còn đang ngất xỉu chẳng biết vì sợ hay vừa bị ngã.
    - Mang cô bé vào ngôi nhà kia ! - Chi e ry chỉ tay ra lệnh - Xong rồi về sân đình đợi tao. Tối nay xuống hầm giam. Phạt cơm cả hai thằng.
    Bốn giờ chiều. Khúc Văn bàn với Chi e ry rút quân sau khi hắn đã ra lệnh đốt gần hết nhà cửa xóm Mật. Nhìn cảnh làng xóm điêu tàn, Chi e ry thở dài:
    - Chả nhẽ những cuộc hành quân như thế này lại được gọi là “tiễu trừ Việt Minh”.

    Khúc Văn mặt lạnh tanh, cười khinh khỉnh:
    - Thiếu uý không nên đa cảm. Chúng ta là những người lính có nghĩa vụ phải phục tùng mệnh lệnh cấp trên.
    - Tôi e rằng cuộc chiến này còn lâu mới kết thúc và quân đội Liên hiệp Pháp chẳng thể nào thắng được Việt Minh.


    3. Chiếc hầm ở gốc sung có cửa nằm sâu dưới nước. Sau khi tung quả lựu đạn, Thạch tụt xuống lặn một hơi dưới ao bèo tây, chui vào cửa hầm thứ hai phía bờ bên kia, leo lên ngách trên, nằm chờ đến nửa đêm thoát ra ngoài. Anh ta vượt sông Lăng lúc canh tư, vào đến bãi chuối cồn Vành thì gà báo sáng. Người vẫn còn ướt lướt thướt, Thạch cởi quần áo vắt cho ráo nước rồi mở bình toong làm tợp rượu ngang cho ấm bụng. Thạch uống rượu từ hồi còn ở nhà cùng với ông phó Đang đi chụp ếch đêm, lâu dần thành nghiện, đi đâu cũng phải mang theo. Ngày mới đi khỏi làng Cu Thạch lang thang mấy hôm bên cồn Vành . Anh ta kiếm ăn bằng cách bẻ ngô thuê cho dân kẻ Bòng. Xảy nhà ra thất nghiệp, đã có lúc chàng thợ chạm nửa mùa nghĩ đến việc đăng lính Bảo an. Vùng Ba Tổng, mấy năm nay khối anh theo binh nghiệp có tiền gửi về cho vợ con. Vào lúc Thạch sắp sang phủ Đông Giàng thì gặp Lê Văn Vận. Ông chủ tịch trong vai người buôn hàng tấm, áo gụ bốn túi, quần chéo go mầu lông chuột, quảy đôi bồ thũng thẵng bước trên đê. Trước đây Thạch đã gặp Vận vài lần nên nhận ra ngay ông chủ tịch. Anh ta nhìn gánh hàng có vẻ ngạc nhiên, hỏi :
    - Dạo này bác bỏ Việt Minh đi buôn chuyến à?
    Vận không trả lời mà hỏi:
    - Cậu là con trai ông phó Đang bên Chi Điền ?
    - Phải.
    - Có việc gì mà lang thang sang đây?
    - Tôi bỏ nhà đi.

    Vận gật đầu:
    - Trai thời loạn chẳng nên ru rú trong nhà mà cần phải có chí lớn. Cậu hãy theo tôi.
    - Chuyển hàng ra vùng tự do phải không?
    - Không, lên rừng.
    Hai người xuôi theo bãi dâu ven sông, chiều tối vào kẻ Bòng nghỉ nhờ một nhà dân bên đường. Chủ nhà là người đàn ông trung niên có cặp mắt trố, cái mũi tẹt và hàm răng vổ trông rất bẩn tướng. Thấy khách nói là dân buôn chuyến ông ta nhận cho nghỉ trọ ngay, còn bảo bà vợ nấu cơm mời ăn. Tầm cuối giờ Hợi, phía đầu làng có tiếng mõ cá khua rất gấp. Tiếp theo là trống ngũ liên nện thình thình từ sân đình vọng về. Vận giật mình bấm tay Thạch nói nhỏ:
    - Gay rồi, lão chủ nhà phản chúng ta.
    Thạch văng tục chửi :
    - Đốt mẹ nó nhà đi rồi chuồn.
    - ấy chớ ! - Vận thì thào - Hồi chiều tôi đã quan sát kỹ chung quanh. Phía sau vườn có một lối nhỏ thông ra miếu hoang. Ta luồn về đằng ấy may ra còn kịp.

    người lén mở cửa mạch, nhẹ nhàng chui vào vườn chuối. Lão mắt trố ngồi rình ở chân đống rơm trước cổng vẫn yên trí hai ông khách đang ngủ mệt. Hồi chiều, nhìn thấy LêVăn Vận lão sinh nghi, hình như có lần gặp gã lái buôn này ở đâu đó. Không. Hắn không phải dân buôn chuyến. Bọn này chắc là Việt Minh trá hình. Phải báo lý Quảng để ông ta làm rõ thực hư. Nghĩ vậy, gã vào bếp thì thầm mấy câu với vợ rồi lẳng lặng ra cổng.

    Khi cánh hương dũng xách gậy gộc, giáo mác ập vào nhà thì hai “lái buôn” đã chạy đến giữa đồng. Bọn này đốt đuốc hô hoán tuần đinh đuổi theo. Tàn lửa bay nhấp nhoáng. Tiếng bước chân rầm rập làm Cu Thạch nổi da gà. Cũng may, trời tối đen mà cánh đồng lại rộng, nhiều gò đống , dễ ẩn nấp nên bọn làng Bòng tìm quanh quẩn chừng một canh giờ không thấy gì đành kéo nhau về. Cu Thạch bảo Lê Văn Vận:
    - Hôm nay tôi mới biết thế nào là Việt Minh.
    - Có sợ không? - Vận hỏi.
    - Sợ chứ, nhưng mà có lẽ hoạt động kiểu này cũng thích.
    Sau vụ thanh toán lý Lọng, Khúc Văn kéo quân càn vùng Chi Điền, Thạch bị lộ không thể ở lại chỉ huy phong trào, Lê Văn Vận phải rút anh ta về căn cứ Mai Động. Nhìn bốt Tuần án ngữ bên bờ sông như cái gai nhọn chọc vào mắt, Vận không chịu được bảo với Thạch:
    - Ta phải vượt sông điều tra bốt Tuần rồi đánh một trận xem sao.
    Thạch vốn là tay có máu phiêu lưu, thích mạo hiểm, tán thành ngay :
    - Đề nghị các anh cho tôi sang sông trước nắm tình hình.
    Vận bảo:
    - Trước hết là chú phải về làng Cùa tìm cách gặp ông Khoá Kiệt . ở rừng Hóp đang có một đội du kích nhưng hình như họ chưa muốn hợp tác với ta. Nhiệm vụ của chú là phải thuyết phục để ông Khoá hiểu được chủ trương toàn dân đoàn kết chiến đấu của cụ Hồ Chí Minh rồi mới đến việc điều tra bốt tuần. Chú định đem theo mấy người?
    - Chỉ mình tôi là đủ. - Thạch nói ngay - Bên ấy hiện giờ lính đồn Tuần kiểm soát ngặt lắm, đi nhiều không lợi.

    Chập tối hôm ấy, Thạch đến cồn Vành. Trời tối như đêm ba mươi tết. Mưa phùn lất phất. Sóng vỗ lóc bóc ngoài bãi sông. Lũ đom đóm trên vạt ngô non bay chập chờn lúc cao lúc thấp, toả thứ ánh sáng lân tinh xanh lét, lạnh lẽo nhưng cũng đủ để nhận ra lối vào vườn chuối. Từ trong bụi sậy, một con gà nước, nghe tiếng động, vỗ cánh phành phạch bay vút lên. Thạch lấy dao găm thận trọng cắt một cây chuối mang ra bờ sông. Anh ta nhằm phía trên điếm Bài Vân bơi sang. Phù sa mát lạnh. Một con chim lạ có sải cánh rất rộng bay là là trên mặt nước. Thạch có cảm giác chỉ cần đưa tay lên là túm được chân nó. Sang đến bên này, anh ta xuôi xuống phía hạ lưu chừng nửa cây số rồi vượt đê. Từ đây đến rừng Hóp còn khá xa. Tầm này, bọn hương dũng và lính Bảo an chắc đã ngủ. Từ ngôi điếm nào đó mãi dưới Chi Điền vọng lại tiếng mõ cầm canh. Những tiếng mõ khô khốc, vô cảm, thậm chí nghe rất chối tai phá tan sự yên tĩnh vốn có của đêm hè vùng đồng chiêm.

    Khoảng hơn một giờ sau, Thạch tìm thấy ngôi miếu hoang theo sự chỉ dẫn của Lê Văn Vận. Anh ta leo hẳn lên bệ thờ, vắt chéo khoeo đánh một giấc. Tang tảng sáng, trước khi người dân ra đồng, chàng trinh sát đã kịp trở dậy rẽ xuống đường ra đầm Ma. Vùng này, từ hồi Pháp xây bốt Tuần ít người qua lại.
    Đường vào rừng Hóp quanh co, hai bên toàn lau sậy rậm rạp. Xa xa là đầm Ma, rộng mênh mông, mặt nước xanh màu nõn chuối nổi bồng bềnh từng đám bèo ong, chốc chốc lại có một đàn vịt trời lông xám hoặc le le đầu trắng từ bên kia sông đáp xuống. Chúng tha hồ lặn ngụp nô giỡn nhau rồi bay vào rừng Hóp đậu trên ngọn cây ngoã rỉa lông cánh. Mải ngắm lũ chim trời, Thạch không để ý có hai người khoác súng đang theo dõi dưới lùm cây dẻ.
    - Đứng lại ! Anh đã bị bắt.
    Thạch giật mình liền đưa hai tay lên quá đầu.
    - Đừng bắn. Tôi ở bên Mai Động sang.
    - Câm mồm ! - Một người có mái tóc húi cua quát.
    Người thứ hai lại gần Thạch khám được bức thư anh ta giấu trong ống nhôm đựng thuốc Atxpirin cài ở cạp quần.
    Lập tức chàng trinh sát bị bịt mắt bằng một băng vải nâu rồi được dẫn vào rừng. Đường càng lúc càng khó, nhiều chỗ phải lội vì trời mới mưa. Thời gian đi không lâu lắm, áng chừng già một khắc cả bọn đến Đại bản doanh của Khúc Kiệt. Vừa được tháo băng mắt, Cu Thạch đã phát khiếp khi nhìn thấy ông chỉ huy du kích râu tia tua tủa như thằng tướng cướp. Khúc Kiệt hỏi:
    - Ai đưa cho anh bức thư này?
    - Anh Vận bảo tôi chuyển đến ông và bàn về việc phối hợp với du kích làng Cùa đánh bốt Tuần.
    - Tình hình bên ấy thế nào?
    - Đã thành lập được mấy trung đội địa phương quân nhưng ngặt nỗi thiếu vũ khí nghiêm trọng.

    Khúc Kiệt bảo:
    - Các làng quanh đây bị ép vào tề hết rồi. Phần lớn lực lượng nòng cốt phải tạm thời bỏ địa bàn để tránh càn quét. Trong ba tháng qua có tám cán bộ nằm hầm bí mật bị khui. Các anh không nghe tôi mà cứ đánh liều là toi mạng.
    - Còn kế hoạch của các ông?
    - Gay lắm. Chúng tôi đã điều tra về cách bố trí hoả lực và hệ thống phòng thủ đồn Tuần nhưng ngặt vì vũ khí toàn loại cà khổ, đánh công kiên không lợi. Anh về nói với anh Vận, đầu tháng tới, tôi cần gặp bàn một số việc quan trọng.
    - Vậy thì ông viết cho mấy chữ.
    - Được, nhưng bây giờ anh chưa nên đi, chiều tối người của tôi sẽ dẫn tới bờ sông.
    Chuyến trở về của Thạch không theo hành trình cũ. Anh ta được một du kích đưa xuống tận bến đò Vạn Điền. Sau khi qua sông, Thạch đóng giả lái trâu, vượt qua mấy làng tề rồi mới ngược lên Mai Động. Đọc thư xong, Vận bảo:
    - Thực ra tôi cũng có kế hoạch về Ba Tổng từ lâu nhưng điều kiện giao thông lúc ấy chưa thuận lợi nhất là phải vượt qua kẻ Bòng, Trúc Sơn và Mao Xá. Tháng trước, địa phương quân của ta kết hợp với du kích đã hạ được đồn An Sơn, nhưng đó chỉ là những lô cốt lẻ binh lực của chúng tiêu hao không đáng kể. Tuy nhiên nó cũng khai thông được tuyến liên lạc giữa chiến khu và vùng địch hậu. Nhân dịp này, ta phải tranh thủ bàn với ông Khoá phối hợp lực lượng đánh bốt Tuần. Đồn này mà thất thủ thì việc đánh đồn Si, đồn Vàng không khó.
    - Kế hoạch của anh đã được ban lãnh đạo thông qua chưa?
    Vận cười nhạt:
    - Sau trận càn tháng tư ông nào cũng hốt, ban ngày nằm lỳ dưới hầm, đêm mới dám mò ra. Mấy lần tôi bàn đánh đồn Mao Xá các vị đều gàn, bảo rằng thời cơ chưa chín muồi.
    - ý anh thế nào?
    - Còn thế nào nữa. Tôi là người lãnh đạo cao nhất của huyện, tôi phải có quyền quyết định chứ.
    - Vậy thì được nhưng còn một chuyện làm tôi băn khoăn, đó là mối quan hệ giữa ông khoá Kiệt và tay

    Khúc Văn mới được điều về đồn Tuần, nghe nói thằng này hung hăng lắm.
    Vận gật đầu:
    - Hai bố con nhà ấy từ lâu nay đã coi nhau như kẻ thù, thế nào rồi cũng phải có một người bị giết. Tôi vốn là cháu rể ông Khoá. Ông ấy tuy là người cực đoan, vô chính phủ nhưng tinh thần cánh mạng thì tuyệt đối trung thành, không nên nghi ngờ.
    - Nhưng tôi vẫn thấy điều gì đó khác thường ở con người này.
    - Đừng nên đa cảm chú em ạ. Trong cuộc đọ sức giữa ta và địch sẽ còn nhiều những bất ngờ không lường trước được đâu.

    Vào một đêm tháng chín, Lê Văn Vận và Cu Thạch vượt sông Lăng ở phía hạ lưu gần điếm Tổng. Dạo này đồn Cáo cho lính phong toả khắp các bến từ điếm Bài Vân xuống tận ngã ba Môi nên hai người không dám đi ban ngày. Cồn Vành sau mùa lũ mà nước vẫn ngập phần lớn các chân ruộng trũng. Cá từ sông Lăng vào nhiều vô kể nhưng dân trong vùng không dám đánh bắt. Họ sợ Tây càn bất chợt. Cả một vùng bãi rộng mênh mông ngập phù sa ngời lên dưới ánh sao đêm. Đâu đó có tiếng đớp mồi. Chỉ lũ cò vạc là tự do kiếm ăn. Chúng tập hợp thành bày hàng chục con vừa lùa cá tép vào miệng vừa cãi nhau bằng đủ thứ giọng. Thỉnh thoảng, một con giang chân lênh khênh như cà kheo bất chợt hạ cánh, lội bùm bũm làm động nước, lũ cá thiểu ăn đêm hốt hoảng lao như tên bắn vọt lên những rãnh cỏ nông choèn, phơi bụng trắng lấp lánh như ánh bạc.

    Lần này, cơ sở An Sơn đã chuẩn bị cho hai người một chiếc thuyền nan. Chèo thuyền là một cô gái, nghe giọng nói áng chừng chỉ khoảng mười tám đôi mươi. Con đò lặng lẽ sang ngang. Đêm thật yên tĩnh. Sóng nhè nhẹ vỗ dưới mạn thuyền. Từ bãi chuối dưới cồn Vành có tiếng cú rúc. Sang được quá nửa sông bỗng nhiên hai ngọn đèn pha cực sáng từ dưới hạ lưu rọi vào thuyền. Nguy rồi, Vận giật mình. Bọn chúng tắt máy thả ca nô trên sông đón lõng từ chập tối mà cơ sở không phát hiện ra .
    - Việt Minh đầu hàng đi ! Các anh đã bị bao vây.
    Cô gái đảo mái chèo xoay mũi về bên tả ngạn bảo hai người :
    - Các anh cứ ngồi yên nếu chúng áp mạn hãy nhảy xuống sông.
    - Không được! - Vận khẽ bảo - Thế thì nguy hiểm cho cô.
    - Việt Minh đầu hàng đi ! - Vẫn tên lính ban nãy chĩa chiếc loa sắt tây cất giọng lè nhè như còn ngái ngủ - Các anh không còn đường thoát đâu.
    Chiếc ca nô rồ máy chạy vòng lên đón đầu con thuyền nổ mấy phát súng thị uy.
    - Nhảy xuống ! - Cô gái quát khẽ.

    Thạch định nhớm chân rời thuyền thì Khúc Văn đã kịp kéo một băng tiểu liên. Anh ta giật mình chới với trên mặt sông một lúc thì mũi ca nô chồm tới. Trong khi ấy, Lê Văn Vận thấy cô lái đò vẫn loạng choạng chèo liền bơi về phía lái, với tay đẩy mạnh mạn thuyền. Lúc này sóng rất mạnh bởi chiếc ca nô đang chạy vòng quanh. Sợ cô ta chết đuối Vận không dám lặn xuống. Mấy phút sau, cả hai người bị kéo lên boong. Tên lính Bắc Phi thúc cùi tay vào ngực Vận đẩy anh ta vào khoang cho một tên dõng có cặp chân vòng kiềng trói lại bằng sợi dây dù. Cô gái chở đò bị dẫn vào ca bin. Tên chỉ huy cầm đèn pin quét một vòng trên mặt sông rồi ra lệnh:
    - Quay về đồn !

    Vận tuy bị đánh khá đau nhưng vẫn không dời mắt khỏi tên si quan người Việt. Hắn có những nét rất quen, và anh ta chợt nhớ ra, đó là Khúc Văn. ánh đèn lướt qua Lê Văn Vận. Khúc Văn nhìn thoáng tên Việt Minh nhưng không nói gì. Ca nô chạy một lúc đã về đến bốt Tuần. Lê Văn Vận bị lôi vào căn hầm khá rộng ngay bên dưới phòng làm việc của Đồn Cáo. Khoảng nửa giờ sau, Khúc Văn xuất hiện trong bộ thường phục. Hắn mang cặp kính đen gọng đồi mồi mặc dù lúc ấy đang là nửa đêm. Ngọn đèn măng xông sáng trắng soi rõ khuôn mặt thư sinh vốn khá điển trai bởi chiếc mũi thẳng, cặp môi đỏ và mái tóc bồng bềnh như sóng lượn. Khúc Văn bật lửa châm thuốc hút, không có gì là vội vã hỏi cung. Hắn phì phèo chán rồi đứng lên đi đi lại lại trong căn hầm chật hẹp làm Lê Văn Vận ngứa mắt chỉ muốn đấm vào bộ mặt đẹp mã của hắn một quả cho nó vỡ quai hàm ra nếu hai tay anh ta được tự do. Thái độ nóng nẩy của Vận không qua được mắt Khúc Văn. Đến lúc ấy hắn mới nhẹ nhàng hỏi:
    - Có lẽ phải đến hơn chục năm ta mới gặp lại nhau chú Vận nhỉ?
    Vận khịt mũi:
    - Vẫn còn nhớ tôi kia à?
    - Nhớ chứ . - Khúc Văn cười nhạt - Người anh hùng đã từng giết bố vợ, cướp dì ghẻ trốn khỏi làng Cùa rồi theo Cộng sản, xúi giục dân cày nổi loạn làm sao mà quên được. Dạo này “đồng chí” có vẻ già đi đấy.
    - Còn anh, thường xuyên được liếm bơ thừa sữa cặn của các ông chủ Tây nên ngày càng béo ra.

    Khúc Văn vẫn nhẹ nhàng :
    - Chú không nên khiêu khích. Giờ ta nói chuyện với nhau một cách nghiêm chỉnh để xem có cách gì gỡ được vụ này không.
    - Cảm ơn. Anh cháu tử tế quá.
    - Cái ấy thì còn phải xem thái độ cộng tác của chú với quân đội Liên hiệp như thế nào đã. Trước hết, tôi muốn biết, chú nghĩ thế nào về chủ nghĩa Cộng sản, về chính thể Việt Minh mà đi theo họ?
    Vận cười khẩy:
    - Anh từng lầm lẫn Cộng sản và Việt Minh. Việt Minh là Mặt trận thống nhất bao gồm tất cả những người yêu nước đứng lên chống quân xâm lược, giành độc lập dân tộc mà thành phần của nó có cả các chính đảng.
    - Điều ấy thì ai cũng hiểu. - Khúc Văn xua tay cắt ngang - Nhưng còn điều rất ít người biết là, Việt Minh chỉ là tấm bình phong. Kẻ đứng sau tấm bình phong giật dây, chỉ đạo mọi hoạt động của Việt Minh mới là nhân vật chính trong cuộc chiến này. Đó là các đảng viên Cộng sản.
    - Vậy ra anh cũng hiểu thời cuộc đấy nhỉ.
    - Cho nên, có thể nói, vận mệnh của mấy chục triệu dân đất Việt sau này phụ thuộc hoàn toàn vào mọi hành vi của những người Cộng sản nếu quân đội Việt Minh thắng trận đúng không?
    - Đúng thì sao?
    - Một người tự nguyện đi theo Cộng sản như chú nhưng chắc gì đã hiểu bản chất của chủ nghĩa Cộng sản?
    - Anh định sát hạch tôi về chủ nghĩa Mác đấy à? Những điều lý luận cao siêu không có thời gian giảng giải ở đây, có thể nói gọn lại, đó là xã hội không còn người bóc lột người, một xã hội dân chủ, công bằng, phồn vinh, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
    - Chú tin như thế thật à? - Khúc Văn cười khẩy - Đó chỉ là thứ chủ nghĩa ảo tưởng của mấy nhà triết học duy ý chí nhằm mê hoạc những kẻ dốt nát, ngu muội, những kẻ cuồng tín, nhẹ dạ cả tin và sử dụng họ như những vật thí nghiệm trong các cuộc tàn sát đẫm máu.
    Vận lắc đầu:
    - Chính anh mới bị cái bả vinh hoa của bọn thực dân, đế quốc mê hoặc nên mới cam tâm làm tay sai cho giặc, bắn giết đồng bào. Anh Văn, hãy về với nhân dân, bây giờ vẫn còn kịp. Tôi sẽ là người đúng ra bảo lãnh .

    Khúc Văn búng tàn thuốc, tháo cặp kính đen gài vào khuy áo, lại gần Lê Văn Vận bảo :
    - Tín điều Cộng sản của chú không thuyết phục được tôi đâu. Bởi vì, xét đến cùng, chú chỉ là anh thuyền chài vô học, là kẻ tội phạm, bần cùng phải đi theo Cộng sản để sau này được Cách mạng chia phần. Xã hội tương lai của các người chỉ là thứ bánh vẽ, phiêu lưu và hoang tưởng một khi nó dựa trên luận điểm sặc mùi máu là đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Nhưng thôi, chuyện tầm phào ấy hãy dừng ở đây. Bây giờ mới đến tiết mục chính. Chú hiện đang ở đâu và qua sông Lăng với mục đích gì?
    - Tôi về thăm làng Cùa chẳng nhẽ không được sao?
    - Người ngồi cùng thuyền với chú đã trốn thoát là ai?
    - Là bạn buôn của tôi.
    - Sao không qua sông ban ngày mà phải đi đêm?
    - Quân của các anh hôm nào chẳng đi càn. Dân buôn chuyến sợ tai bay vạ gió nên mới phải đi đêm.
    - Chú đừng bịp tôi. - Khúc Văn nhếch mép cười - Chú không nói cũng được nhưng sáng mai đồn trưởng sẽ đích thân thẩm vấn, lúc ấy đừng trách tôi không dặn trước.
    Nói xong, viên thiếu uý bước ra khỏi hầm. Hai tên lính gác lập tức đóng cánh cửa lim nặng chình chịch. Tiếng bản lề rít lên nghe rợn người.

    Trong phòng làm việc đồn Cáo đang hỏi cung cô du kích, đồn Cáo vốn háu gái. Hắn cũng say mê đàn bà như là say mê gà mái Ba Tổng. Nhìn người thôn nữ có khuôn mặt trái soan, cặp má bầu, đôi mắt đầy vẻ bí ẩn, viên đại uý rót cho cô một cốc nước lọc rồi hỏi bằng tiếng Việt:
    - Cô tên là gì?
    Xoan gườm gườm nhìn tên đồn trưởng, buột miệng nói ra một cái tên chẳng liên quan gì đến mình:
    - Nguyễn Thị Gái.
    - ở làng nào, tổng nào?
    - Xa lắm .
    - Đang đêm vượt sông làm gì?
    - Đi buôn.
    - Hãy trả lời cho nghiêm túc ! - Đồn Cáo bắt đầu cáu – Tên Việt Minh bị bắt giữ chức vụ gì trong chính quyền Việt Minh?
    - Ông ấy không phải Việt Minh mà là bạn buôn của tôi.
    - Này cô em ! Đừng có đùa với một sỹ quan quân đội Liên hiệp Pháp. - Đồn Cáo hếch cái mũi khoằm, phóng cặp mắt diều hâu vào khuôn ngực đang phập phồng dưới lần áo mỏng của cô du kích – Chúng mày bí mật sang sông là để móc nối với du kích nằm vùng bên Ba Tổng âm mưu đánh đồn Tuần. Chả lẽ bảy tên Việt Minh bị xử bắn ở cầu Vàng trong vòng mấy tháng qua không làm các người sáng mắt ra?
    Xoan thoáng rùng mình:
    - Dưới mắt các ông, có lẽ tất cả người dân vùng này đều là Việt Minh?
    - Phải. - Đồn Cáo gừ gừ trong vổ họng - Đừng nói con cà con kê nữa. Cô nghĩ chúng tôi là trẻ con đấy hả? Hắn là Lê văn Vận. Tháng tám năm bốn nhăm, khi Việt Minh giành được chính quyền hắn làm chủ tịch huyện. Đầu năm bốn bảy, quân đội Liên hiệp trở lại, Vận cùng đám tay chân vượt sông Lăng lên vùng Mai Động. Từ lâu Việt Minh mất đất vì dân chúng đã biết rõ bộ mặt thật của chúng nên gần đây mới bí mật cử người về gây dựng cơ sở.
    - Các ông đã biết nhiều thế thì còn hỏi chúng tôi làm gì?
    - Thế có nghĩa là cô thừa nhận?
    - Không bao giờ. - Xoan lắc đầu bảo - Chúng tôi là dân buôn, vì mang hàng lậu, ban ngày sợ bị bắt nên phải đi đêm.
    - Hàng đâu? - Đồn Cáo túm cổ áo cô gái xé toạc một bên vai gầm lên – Nếu không khai thật ra, tao sẽ lột truồng mày vứt xuống lô cốt dưới kia cho bọn lính Bắc Phi nó giải sầu.
    - Lúc sang sông, ca nô các ông làm đắm thuyền mất hết cả rồi.
    - Nói láo !
    Cùng lúc ấy, Khúc Văn bước vào nói bằng tiếng Pháp :
    - Đại uý bớt nóng. Việc này không thể vội vàng được. Giờ ngài hãy đi nghỉ. Ngày mai tỉnh táo biết đâu ta phát hiện được cái gì đó.

    Đồn Cáo gật đầu:
    - Thiếu uý nói phải. Dù sao thì chuyến này chúng ta đã thành công sau bao ngày đêm giăng lưới. Tôi phải đề nghị với Bộ Tổng tham mưu vinh thăng thiếu uý.
    Đồn Cáo và Khúc Văn thay phiên nhau thẩm vấn hai tù nhân. Đến lượt viên đại uý hỏi cung Lê Văn Vận. Khác với cấp phó của mình, gã Đồn trưởng thiếu khả năng kiên trì đối phó với loại Việt Minh cứng đầu cứng cổ. Hắn là quân nhân, có nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh cấp trên, không thuyết lý dài dòng vô bổ về các thứ chủ nghĩa bát nháo do những nhà triết học lẩm cẩm nghĩ ra. Hắn cầm chiếc dùi cui sơn hai mầu đen đỏ dứ dứ trước mặt Lê Văn Vận:
    - Ông phải biết điều một chút. Cô gái đã khai hết rồi. Bây giờ hỏi ông chẳng qua chỉ là để xác minh lần cuối cho đúng thủ tục. Hãy nói thật đi, ông sang sông bên này bắt liên lạc với những ai?

    Vận nghĩ thầm. Nó hỏi thế chứng tỏ cô Xoan vẫn chưa khai. Thằng Khúc Văn tuy biết mình rất rõ nhưng không có bằng chứng gì kết tội được. Tốt nhất là vãn giữ nguyên lời khai ban đầu, còn sự việc sau này thế nào sẽ tuỳ cơ ứng biến.
    - Tôi đã nói rồi. Từ cuối năm bốn bảy tôi đã từ bỏ hàng ngũ Việt Minh chuyển sang nghề buôn chuyến.
    Đồn Cáo nhe răng gầm gừ:
    - Chúng mày nói dối giống hệt nhau. Đồ con lợn!
    Hắn vung vẩy chiếc dùi cui bất ngờ quật vào mặt Vận. Cú đánh rất hiểm, máu chảy ngoằn ngoèo dọc theo gò má làm anh ta choáng váng.
    - Thế nào? - Đồn Cáo hỏi - Đã nhớ ra chưa?
    - Đã bảo chúng tôi không liên quan gì đến Việt Minh. Ông đánh mãi cũng vậy thôi.
    Lần này là cú đá trời giáng vào bụng dưới làm Vận thót người lại, gập xuống như cây chuối bị đốn ngang. Trời đất tự nhiên quay tít. Mọi vật trong hầm giam tự nhiên phát ra thứ ánh sáng ngũ sắc. Đồn Cáo xoè tay hộ pháp như cái chổi sể nâng cằm Vận lên, nhìn soi mói vào mắt anh ta giễu cợt:
    - Tôi phục bản lĩnh Cộng sản của “đồng chí” nhưng đừng bao giờ ảo tưởng về một nền độc lập của xứ An Nam này tách rời Đại Pháp. Hãy thành thật khai ra sẽ thoát được án tử hình.
    Vận nhắm nghiền mắt, tóc bết mồ hôi rủ xuống vầng trán nóng hầm hập nhưng vẫn không chịu mở miệng. Đồn trưởng tiếp tục ra đòn. Hắn nhảy bổ vào ông chủ tịch như một con thú đói mồi. Người Vận nhàu như tàu dưa héo, thỉnh thoảng lại bật ra những tiếng “hự hự”.
    Cũng vào thời điểm ấy, Khúc Văn vốn trầm tĩnh đã phải nổi điên bởi sự gan lỳ của cô lái đò. Toàn thân Xoan hầu như chỗ nào cũng có những vệt thâm tím rỉ máu. Hắn bĩu môi khiêu khích:
    - Cô trung thành với Việt Minh để rồi có kết cục như ngày hôm nay thật xứng đáng là bậc “liệt nữ” hy sinh cho chủ nghĩa Cộng sản cuồng tín.
    - Những kẻ bán nước như các ông làm sao hiểu được niềm tin của nhân dân vào Chủ nghĩa Cộng sản.
    - Như vậy, cho đến giờ cô đã tự nhận mình là Việt Minh?
    - Thì đã sao? - Người phụ nữ du kích khẽ nhếch cặp môi sưng vếu thều thào.
    - Được lắm . - Khúc Văn dằn giọng - Ngày mai cô sẽ bị xử bắn.

    Xoan biết mình không tránh khỏi cái chết. Chết lúc này thì trẻ quá. Cô chưa đầy hai mươi, thậm chí chưa có được một mối tình. Nghe nói, những cô gái chết trẻ chưa chồng, linh hồn không được siêu thoát, quanh suốt tháng lang thang đầu bờ, xó bụi, chỉ đến rằm tháng bảy mới được hưởng chút cháo thí cúng chúng sinh. Lòng cô thoáng xót xa. Giá mà đừng vào đội du kích, cứ làm một thôn nữ bình thường như cái Hoa cái Mận rồi lấy chồng, đẻ con thì làm gì đến nỗi như bây giờ. Công bằng mà nói, cả tên đồn trưởng mũi lõ đến gã Khúc Văn đẹp trai không phải lúc nào cũng mất hết nhân tính. Chúng có phần đúng khi nói về hạnh phúc của người đàn bà là những thứ rất cụ thể chứ không phải thứ ảo tưởng xa vời. Mong cho ngày mai chúng xử bắn ngay đi, để thêm vài hôm nữa có khi không chịu được đòn, mình khai ra mất. Cái chết của một nữ du kích như mình có ý nghĩa thế nào với cuộc kháng chiến nhỉ ?
    - Cô đã nghĩ kỹ chưa? - Khúc Văn lại đốt điếu thuốc, phả khói mù mịt, hỏi nữ tù nhân bằng giọng chán nản.
    - Có gì mà phải nghĩ .- Xuýt nữa thì Xoan phát khóc may mà kìm được bằng cách quát lên - Tôi chấp nhận cái chết.
    - Thật phí một đời con gái .
    Nói xong viên đồn phó lẳng lặng bước ra khỏi phòng giam. Hắn bảo tên lính gác:
    - Mang thức ăn vào cho cô ta.

    Sáng Mười Chín tháng Chín, đồn Cáo cử một đội áp tải mạnh đem LêVăn Vận và cô Xoan xuống cầu Vàng xử bắn. Đó là một cây cầu sắt ba nhịp, do người Nhật xây dựng từ năm bốn ba, cách đồn Tuần hai chục cây số về phía thượng lưu sông Lăng. Từ mấy năm nay, theo lệnh của viên quan năm chỉ huy xếch tơ Đông Triều, hễ bắt được Việt Minh đột nhập từ các vùng tề là mang xuống đấy hành hình.

    Sở dĩ có cái lệnh kỳ quái này là bởi đầu năm bốn tám, Hăng ri Cátxtơrô còn là tham mưu trưởng trung đoàn bộ binh Lê dương số 7, một lần cùng viên chỉ huy Luy panh đi xe Jeep thị sát mặt trận đường 22, qua cầu bị du kích đánh mìn. Quan tư chỉ huy trung đoàn chết ngay tại chỗ còn ông ta bị trọng thương phải đưa về cấp cứu tại bệnh viện Đồn Thuỷ. Từ đấy Cátxtơrô căm thù Việt Minh đến tận xương tuỷ, ra lệnh cho chỉ huy các đồn binh xử bắn du kích ngay tại chỗ trước đây họ định sát hại mình cho hả giận.

    Chiếc ca nô Noóc măng đi cắm cờ tam tài chạy ngược sông Lăng chừng một giờ sắp đến bến Tràng thì gặp chiếc xuồng máy nhãn hiệu Hoa Kỳ từ phía cầu Vàng xuống. Trên xuồng là bác sỹ Pi ra, phụ trách quân y xếch tơ Đông Triều, bạn thân của quan năm Cátxtơrô. Anh ta ra hiệu cho ca nô dừng lại rồi nhảy lên boong. Đồn Cáo ấn lệch chóp mũ chào mào sang một bên, đứng nghiêm theo đúng tác phong nhà binh.
    - Xin chào thiếu tá. Ngài có việc gì ạ?
    - Nghe nói đại uý sắp đem xử bắn một nữ du kích?
    - Không phải một mà là hai tên, thưa ngài !
    - Cho tôi xem mặt cô ta.
    - Thiếu tá cứ tự nhiên, họ đang ở trong khoang.

    Pi ra bước vào khoang giữa nhìn Xoan và Lê Văn Vận một lúc khá lâu. Anh ta cầm tay cô gái như là bắt mạch xem bệnh rồi quay về phía đồn Cáo bảo :
    - Hình như cô ta có mang ...
    - Thưa thiếu tá, nó là một con Việt Minh nguy hiểm.

    Pi ra nhún vai nói bằng tiếng Anh:
    - Nói ở đây không tiện, mời đại uý xuống xuồng máy của tôi một lúc.

    Hai người vừa nhảy xuống xuồng, viên bác sỹ quân y nói dằn từng tiếng :
    - Trong tháng này đại uý đã hành quyết bốn người trong đó có một phụ nữ. Hôm nay thêm hai nữa là sáu. Chẳng lẽ sức mạnh của quân đội Liên hiệp Pháp lại là ở chỗ dùng tiểu liên bắn vào một thiếu phụ đang mang thai bị trói hai tay.

    Đồn Cáo cau có :
    - Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm trước thiếu tá chỉ huy cát chi ê Nam Thành và tình trạng an ninh của vùng hữu ngạn sông Lăng. Chúng ghê gớm lắm. Thiếu tá không hình dung được đâu.

    Viên bác sỹ nheo mắt nhìn gã đại uý tham mưu qua cặp kính trắng:
    - Ông có thừa nhận đó là một cô gái đẹp không?
    - Đẹp. - Đồn Cáo gật đầu - Như một bông dã quỳ vùng nam sông Loa.
    - Vậy sao nỡ nâng súng bắn vào một bông hoa, đại uý?

    Đồn Cáo có vẻ đã bị thuyết phục, giọng hắn lấp lửng:
    -Thưa thiếu tá, hình như ngài bắt đầu phải lòng con bé Việt Minh?
    - Không hẳn là như thế. - viên bác sỹ nheo mắt đầy ý nghĩa - Về tên Việt Minh kia, mặc ông xử trí, nhưng còn cô bé, hãy giao cho tôi, cứ nói là đưa về phòng Nhì để tiếp tục lấy cung. Việc sau đó thế nào tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ngài chỉ huy xếch tơ. Ông sẽ nhận được một ngân phiếu năm ngàn quan nếu biết cách im lặng.

    Khoản tiền quá lớn làm chiếc mũi khoằm của đồn Cáo nở ra, cặp mắt xanh ánh lên vẻ tinh quái.
    - Được, nhưng với điều kiện ngài phải mang cô ta đi khỏi nơi đây càng xa càng tốt.
    Tay bác sỹ gật đầu ngay:
    - Đại uý nói đúng. Đầu tháng tới tôi sẽ nghỉ phép.
    Mác xen lên ca nô. Hắn bảo tên đội Lăng gơ lê và bọn lính áp tải:
    - Thiếu tá Pi ra yêu cầu mang con Việt Minh về phòng Nhì. Cấm mọi người bép xép. Ai làm lộ chuyện sẽ bị xử bắn vì đây là lệnh của chỉ huy xếch tơ.

    Xoan được hai tên lính dìu sang xuồng máy. Pi ra tiêm cho cô một mũi trợ sức rồi nói một tràng tiếng Pháp. Người thông ngôn dịch:
    - Quan đốc tờ bảo, phải nói dối cô có chửa để cứu tính mạng.
    Ca nô tiếp tục hành trình. Đến cầu Vàng, đồn Cáo ra lệnh ghé vào bờ rồi đưa LêVăn Vận lên trụ số ba. Trên mặt trụ, không hiểu sao, người Nhật để một khoảng trống hình mũi tên rộng chừng hai thước vuông nhô ra phía trước. Đây chính là nơi những người bị coi là Việt Minh không chịu hợp tác với nhà nước Đại Pháp chịu án tử hình. Xác họ rơi xuống chân cầu vài ngày sau mới nổi lên ở một bến nào đó dưới hạ lưu.

    Đội Tảo lấy dải băng định bịt mắt Lê Văn Vận. Anh ta lắc đầu bảo:
    - Không cần !
    Viên đội nhìn đồn Cáo nói một câu tiếng Pháp. Tên đại uý gật đầu:
    - Thôi được, cứ để cho anh ta nhìn dòng sông, bầu trời và cảnh vật quê hương lần cuối trước khi xuống địa ngục làm khách của thần Hađét.
    Lúc sắp ra lệnh nổ súng, đồn Cáo bảo Vận :
    - Nếu ông thay đổi ý định vẫn còn kịp đấy.
    Vận nhổ nước bọt trúng mặt hắn rồi chửi tục :
    - Đồ chó!
    - Bắn ! - Viên đại uý gầm lên.

    4. Khúc Kiệt lúc này đã thu thập thêm một số đội viên áo Đen trước đây từng theo ông ta đánh nhau với Nhật. Sau cái chết của Lê Văn Vận, ông đội trưởng du kích bàn với mấy người trong ban tham mưu là Nguyễn Đình Tuy, Quách Thịnh và Nguyễn Thị Mùi lập kế hoạch đánh bốt Tuần dạy cho đồn Cáo một bài học. Mục tiêu trước mắt của họ là phục kích những toán quân trên đường đi càn về. Quách Thịnh có người anh em bên tổng Ngân Đôi hiện đang là lính dõng trong đồn. Anh ta bí mật thông báo, cuối tháng mười đồn Cáo và Khúc Văn sẽ đem hai trung đội hành quân qua làng Cùa, Yên Xá đánh vào Đồng Khê. Khúc Kiệt cho các đội viên mai phục từ đầu canh ba, trên khu ruộng bỏ hoá phía bên phải đường 228 thực hiện phương án đánh độn thổ. Độn thổ tức là ẩn mình trong những chiếc hầm nhỏ vừa đủ một người ngồi, đậy vầng cỏ lên, nguỵ trang làm sao để người ta đi ngay bên cạnh cũng không phát hiện ra, đợi kẻ địch hành quân đến nơi, nhất loạt đội nắp xông lên tiêu diệt gọn. Đây là trà ruộng xa các điểm dân cư, không cày cấy nhiều năm, cỏ xước, cỏ chân chim và cỏ đuôi chồn mọc chen chúc lẫn với những bụi cây xấu hổ đầy gai tạo thành cảnh hoang vắng tự nhiên, khiến cho không một nhà chiến lược nào của quân đội Pháp mảy may nghi ngờ hiểm hoạ Việt Minh đang tiềm ẩn. Đồn Cáo trong bộ binh phục ka ki xám, mũ chào mào dạ tím viền đỏ, súng lục trễ bên sườn, khoác tiểu liên, thỉnh thoảng lại đưa ống nhòm lên nhìn về phía trước. Khúc Văn đi sau tiểu đội lính dõng, đội mũ sắt, tay lăm lăm khẩu tuyn, chân đi đôi bốt da mới toanh nhưng có lẽ hơi rộng thành ra mỗi bước đi lại kêu ken két. Bọn Âu Phi thằng nào cũng đội loại mũ sắt của pháo binh nặng chịch, khoác trường mát hoặc xten, nòng chúc xuống đất, xếp hàng hai, bước đều rất đúng điều lệnh hành quân. Đường 228 gập ghềnh bụi cuốn mù mịt bởi những trận gió bắc khan chốc chốc lại thổi tạt ngang.

    Đợi cho tên lính cuối cùng lọt vào trận địa phục kích, từ nơi quan sát, Khúc Kiệt nổ một phát súng vào tốp đi đầu. Quách Thịnh hô to: “ Xung phong!" Rồi ném quả lựu đạn chày về phía đồn Cáo. Nghe súng nổ, tất cả đội viên mai phục đều bật nắp hầm nhảy lên. họ vừa nhằm bắn vào đội hình hành quân của địch vừa thi nhau gào thật to :
    - A! a…! a…! X…u…n….g …p….h…o…n….g…!
    Lựu đạn chày vốn là thứ vũ khí tự tạo của xưởng Bạch Đằng xịt khói rất nhiều nhưng không mấy khi nổ, tuy thế cũng làm Đồn Cáo phát khiếp. Hắn lập tức lăn tròn một vòng rồi nằm dán xuống đất theo đúng kỹ thuật tác chiến, sau đó nhanh chóng nổ súng vào toán du kích đang lao tới. Khúc Văn tỏ ra bình tĩnh hơn. Hắn chẳng lạ gì thứ vũ khí tạp nham của Việt Minh nên nhanh chóng củng cố đội hình sau khi bọn chúng có vài tên trúng đạn súng trường mút hoặc bị lưỡi mác xuyên vào bụng trong lúc cận chiến. Viên thiếu uý tỳ súng vào gờ đống Mả Hủi nhằm Quách Thịnh nổ một phát. Rất may viên đạn chệch về bên trái, chỉ sướt qua cánh tay. Thịnh cúi thấp đầu rê nòng súng nhằm tên đồn phó xiết cò. Phát súng của nhà thiện xạ xuyên qua bả vai của tên thiếu uý. Hắn giật nảy người rồi hất chiếc mũ sắt ra, tay cào cào trên cỏ. Quách Thịnh đẩy khoá nòng nạp đạn định bồi cho Khúc Văn viên nữa kết thúc cuộc đời chó săn của hắn thì Khúc Kiệt kịp giữ tay lại:
    - Anh em mình hết đạn cả rồi, phải rút thôi.

    Khúc Kiệt rút đi nhưng đồn Cáo cũng không truy đuổi vì lính của hắn bị thương khá nhiều, đấy là chưa kể ba tên chết ngay trong loạt đánh giáp lá cà đầu tiên của quân độn thổ.

    Trận tập kích coi như thắng lợi vì chỉ có mỗi Trần Thâm bị thương vào bắp chân phải cáng về nhưng Khúc Kiệt vẫn không có được niềm phấn khởi như hồi đánh nhau với Nhật là vì ông ta bắt buộc phải chạm súng với thằng con bất hiếu. Cho đến lúc này mối quan hệ giữa hai cha con hầu như không còn gì trừ lòng hận thù. Khúc Văn không thể tha thứ cho ông bố, bởi chính vị thủ lĩnh áo Đen là thủ phạm gây ra cái chết thê thảm của mẹ hắn, các em hắn và hơn bảy chục người dân vô tội làng Cùa. Để thanh toán"Hội dân cày"của Khúc Văn, ông ta dùng thứ chuyên chính tàn bạo núp dưới chiêu bài Cách mạng vô sản, đem lực lượng công an bắn vào chùa Từ Vân và hoả thiêu cả một cánh đồng lúa đang kỳ thu hoạch. Trong hai năm qua, đã mấy lần Khúc Kiệt cho người dán khắp nơi cáo trạng của Việt Minh tuyên án xử tử vắng mặt Khúc Văn. Hành vi quá quắt của ông bố làm viên đồn phó tức điên lên, thề sẽ có dịp bắn nát đầu ông ta dể răn đe những kẻ khố rách áo ôm, mù quáng theo đuôi Cộng sản. Nhưng thực tế lại khác. Cuộc chạm súng hôm nay chắc chắn Khúc Văn sẽ toi mạng nếu lúc ấy Khúc Kiệt không ngăn Quách Thịnh lại. Viên thiếu uý biết rõ việc này , vì lúc bị dính đạn hắn vẫn đủ tỉnh táo nhìn về phía trước. Nguyên nhân gì khiến ông ấy có hành động khác thường như vậy ? Tình cha con hay sự tỉnh ngộ ? Khúc Văn hỏi rồi lại tự trả lời. Trong con người này có thể là cả một khối mâu thuẫn có khi chính ông ta cũng không giải thích được hành vi của mình.

    Khúc Văn khuỳnh cánh tay quấn băng trắng, ngồi trầm ngâm trong phòng thì đồn Cáo đẩy cửa bước vào. Nhìn vẻ mặt viên đồn phó, Mác xen hỏi:
    - Thiếu uý nghĩ gì về trận đánh hôm nay?
    - Tôi thật không ngờ bọn Việt Minh lại táo tợn đến thế.
    - Đó chỉ mới là màn dạo đầu của cuộc chiến tranh du kích. - Đồn Cáo cười gằn - Nói thật lòng, tôi bắt đầu thấy sợ những trận địa mai phục đại loại như kiểu “độn thổ”.
    - Dù sao cũng phải thừa nhận, bước đầu ta đã thành công khi trừ khử được Lê Văn Vận. - Khúc Văn đưa cho Mác xen tách cà phê tên bồi da đen mới pha còn đang bốc khói - Mấy năm nay hắn nổi tiếng là “hùm xám”Ba Tổng đã cùng đồng bọn hạ sát của ta khá nhiều chức sắc mẫn cán.
    - Thiếu uý nói phải. - Đồn Cáo gật đầu - Ví dụ như vụ lý Lọng bị cắt tiết.
    - Chính vì thế, muốn thắng được Việt Minh ta nên sử dụng những phương pháp mà họ đã dùng, đó là nắm được dân, mua chuộc bọn lý dịch làm tai mắt, như thế Việt Minh sẽ như cây đứt rễ, mất chỗ dựa phải bỏ đất mà lên rừng.
    - Đó là kế hoạch hay nhưng theo tôi, không dễ thực hiện. - Đồn Cáo trầm ngâm gõ nhịp trên bàn - Thiếu uý nên nhớ, bọn Việt Minh đều là người địa phương. Chúng có thể chỉ là anh đánh giậm hoặc mụ bắt ốc đội nón mê, lựu đạn để trong giỏ, thoắt ẩn thoắt hiện như ma, sẵn sàng nằm hầm bí mật cả tháng ăn gạo rang hoặc lặn dưới ao bèo thở bằng ống đu đủ. Sức mạnh của chúng chính là lòng dân, thứ mà nước Pháp có nhiều tiền cũng không mua được.
    Khúc Văn lại đốt thêm điếu thuốc, lơ đãng phả khói thành từng vòng từ thấp lên cao như hình chiếc tù và. Hắn thích thú nhìn đám khói cuộn tròn rất có trật tự đang tan dần rồi chép miệng bảo:
    - Phải nói dân vùng Ba Tổng này cứng cổ.

    Đồn Cáo bảo:
    - Theo tôi được biết thì cho đến nay quan hệ giữa thiếu uý với ông thân sinh vẫn chưa được cải thiện chút nào.

    Khúc Văn gật đầu:
    - Tôi với ông ấy mỗi người ở một chiến tuyến chỉ có thể nói chuyện bằng súng đạn.
    - Mở một cuộc hành quân tổng lực đánh vào rừng Hóp lúc này là rất không có lợi. - Đồn Cáo tuy là võ quan nhưng mà lại có đầu óc phân tích như một nhà chính khách - Tôi định cử thiếu uý làm trung gian vận động ông Khoá ra hàng để đỡ tốn xương máu cho cả hai bên.
    - Ngài nói đùa. - Khúc Văn giãy nảy lên - Chỉ cần tôi đặt chân đến cửa rừng Hóp là lập tức được lãnh ngay hàng chục viên đạn mútxcơtông vào ngực.

    Mác xen bật cười:
    - Tôi không yêu cầu thiếu uý vào rừng Hóp mà tìm cách nào đó gửi cho ông Khoá một bức thư.

    Khúc văn lắc đầu:
    - Cách làm của đại uý chỉ tốn công vô ích thậm chí nguy hiểm đến tính mạng người của ta nữa. Tôi không lạ gì tính khí ông Khoá. Đó là một phần tử Cộng sản cuồng tín luôn lấy bạo lực cách mạng làm phương châm hành động.
    - Vậy theo thiếu uý, muốn diệt toán du kích ấy ta phải làm thế nào?
    - Dùng kế điệu hổ ly sơn.
    - Nghĩa là ta kéo chúng ra khỏi sào huyệt rồi bao vây tiêu diệt?
    - Còn hơn thế nữa, ta phải tạo cơ hội cho ông bố tôi đánh đồn Tuần.
    - Ông nói đùa.
    - Tôi không đùa tí nào. - Khúc Văn nhấn giọng bảo - Trước hết, ta giả vờ điều già nửa số quân ban ngày đến cát chi ê Nam Thành để bọn gián điệp Việt Minh nhìn thấy, ban đêm lại cho số quân này bí mật trở về. Thực hiện vài lần như thế dám chắc Việt Minh sẽ dốc toàn bộ lực lượng đánh đồn. Lúc ấy ta sử dụng ưu thế về hoả lực và một trung đội mai phục dưới chân đê bằng phương thức độn thổ như chúng đã làm chắc chắn sẽ thắng lớn.
    Đồn Cáo nghe xong, vỗ vai Khúc Văn bảo:
    - Thiếu uý đúng là một sỹ quan có tư duy ở tầm chiến lược. Tôi dám chắc, trong tương lai không xa, anh sẽ đeo lon cấp tướng.
    - Đại uý quá khen.
    - Không đâu. Phương án tác chiến của thiếu uý hay lắm. Tuần tới ta bắt đầu thực thi kế hoạch.
    - Trước khi tiến hành trận đánh tôi xin đại uý một việc.
    - Anh cứ nói.
    - Dù sao ông Khoá cũng là bố đẻ tôi, nếu có thể ta nên bắt sống. . .

    Đồn Cáo gật đầu:
    - Tôi sẽ ra lệnh cho các sỹ quan và binh lính lúc tác chiến không được hạ sát ông ta.
    - Cảm ơn đại uý.

    Đồn Cáo vừa rời khỏi phòng thì lý Quỳnh, phó lý Kiền và bà cả Huê mang một lồng gà mái ghẹ, hai cặp vịt bầu, một gánh gạo nếp hoa vàng và bốn chai mật ong đến thăm Khúc Văn. Từ ngày anh cháu về làm đồn phó đồn Tuần bà cả Huê vô cùng phấn khởi vì làng Cùa đã trở lại vị trí đứng đầu vùng Ba Tổng sau bao nhiêu năm bị lép vế với thiên hạ bởi cái chết bất đắc kỳ tử của chánh Đàm. Nhân việc Khúc Văn bị thương, bà ta khoét sâu mâu thuẫn trong mối quan hệ cha con khoá Kiệt, đồng thời dựa vào thế lực đồn Cáo, xây đựng làng Cùa thành một làng tề điển hình vùng đồng bằng sông Hồng. Thực ra, đến lúc này, điền sản của gia đình họ Khúc không đáng gì so với các địa chủ khác trong hạt, nhưng vốn ác cảm với ông em chồng nên bà Cả không từ bất cứ thủ đoạn nào để phá các tổ chức Việt Minh. Cánh chức dịch trong làng vừa sợ vừa ghét vợ goá chánh Đàm . Bà ta lên đồn như cơm bữa, sẵn sàng sắp xếp lại “nhân sự”trong tổng nếu thấy các thầy lý trưởng, phó lý làm việc kém hiệu quả thông qua đồn Cáo và Khúc Văn. Lý Quỳnh biết rất rõ tâm địa người đàn bà này, nên trong mấy năm qua, ông ta sống như con thò lò hai mặt, một đằng vẫn phải tỏ ra mẫn cán trong công việc phục vụ chính quyền, thường xuyên bẩm báo tình hình trị an trong làng với đồn Cáo nhưng thỉnh thoảng lại bí mật vào rừng Hóp gặp Khúc Kiệt và vận động một số gia đình khá giả tiếp tế lương thực cho đội du kích. Cuộc thăm hỏi Khúc Văn hôm nay tất nhiên là do bà cả Huê khởi xướng, lý Quỳnh không thể từ chối. Nhìn thấy lý Quỳnh và bà cả Huê, Khúc Văn mừng lắm, thầm nghĩ chuyến này thế nào mưu kế cũng thành công, liền mời các vị khách hút thuốc lá Cotab, ăn bánh bích quy và uống bia “Con hổ”. Bà cả Huê thích lắm, bảo:
    - Bẩm quan lớn, nghe tin quan lớn đánh nhau với Việt Minh bị trọng thương, dân làng Cùa có một chút quà để bồi bổ sức khoẻ.
    Khúc Văn chắp tay từ tạ:
    - ấy chết, bác với các ông đây đừng nói thế. Tôi chỉ là bậc con cháu, đâu dám.
    - Tuy là con cháu trong nhà nhưng anh làm việc nước. - Bà cả Huê thẽ thọt bảo - Chúng tôi lên đây là để tỏ lòng tri ân vì quân ta đã dũng cảm đánh lui Việt Minh trong trận chúng phục kích vừa qua.
    Khúc Văn thoáng liếc lý Quỳnh. Ông này lúc nào trên môi cũng thường trực nụ cười lấy lòng quan trên nhưng không biết tâm địa ra sao. Hắn quyết định thăm dò thái độ ông em rể hờ :
    - Tình hình chiến sự bây giờ đối với ta không được thuận lợi lắm. Việt Minh khắp nơi nổi lên như ong vỡ tổ. Thế lực của chúng ngày càng mạnh vì chúng được Nga xô và Trung cộng viện trợ vũ khí. Các bác phải tăng cường đội Nghĩa dũng cùng với tuần đinh canh gác cho tốt, thấy Việt Minh về là phải vây bắt ngay đồng thời nhanh chóng cử người lên đồn báo tin.
    Bà cả Huê đưa mắt nhìn lý Quỳnh:
    - Các quan đồn bắt được Lê Văn Vận rồi đem xử tử ở cầu Vàng dân Ba Tổng phấn khởi lắm. Chính hắn đã giết chết ông nhà tôi mà anh Văn đã biết. Thật không biết cám ơn ông đồn trưởng thế nào cho hết. Tuy nhiên vẫn còn đám du kích rừng Hóp. Chả lẽ các ngài có vũ khí tối tân trong tay mà chịu nương nhẹ cho ông khoá Kiệt.
    Khúc Văn biết thừa bà bác nói khích nên xuống giọng nhún nhường:
    - Thực tình chúng tôi cũng đã kêu gọi ông ấy đem vũ khí ra cộng tác với quân đội Liên hiệp cùng chiến đấu chống Việt Minh, nhưng ông ấy chẳng những không chịu hợp tác mà còn dùng chiến thuật đánh độn thổ tập kích quân đội, kết quả là tôi bị trúng đạn vào cánh tay và ba người lính tử thương. Dù sao tôi với ông Khoá cũng là tình cha con, tôi nhờ bác Quỳnh vào rừng Hóp đưa giúp bức thư của ngài đồn trưởng, mong ông ấy nghĩ lại, lấy đại cục làm trọng.
    Lý Quỳnh giật nẩy người chối phắt:
    - Không được. Khoá Kiệt nóng tính lắm, lơ mơ là ông ta bắn ngay.
    Khúc Văn nhếch mép :
    - Bác vẫn sợ cái lần xuýt bị ông Khoá bắn ở ao đình chứ gì? Nhưng còn cái Nhân, em gái tôi, nghe nói hai người đã. . .
    - Về chuyện cô Nhân không phải như dân làng vẫn nghĩ đâu. Khi nào rảnh rỗi tôi sẽ kể cậu Văn nghe. - Lý Quỳnh lưỡng lự một lát rồi bảo - Thôi được, việc vận động ông Khoá tôi sẽ thử xem sao.
    Cũng vào thời điểm ấy, khoảng một trung đội Âu Phi bạc đà nặng trĩu trên lưng, xếp hàng ngoài đê sân dưới sự chỉ huy của thiếu uý Chi e ry có vẻ như sắp hành quân. Bà cả Huê hỏi ngay:
    - Chắc đêm qua vùng Cao Xá Việt Minh lại về?
    Khúc văn làm ra vẻ bí mật:
    - Các bác nhớ giữ kín chuyện này. Bọn gián điệp biết thì không có lợi. Sở dĩ bốt Tuần phải rút bớt quân là do lệnh của quan tư chỉ huy cát chi ê Nam Thành để tăng cường cho các đồn binh phía bắc sông Hàn đang bị Việt Minh uy hiếp.
    - Thế thì gay quá. - Bà cả Huê tái mặt - Vậy là các ông bỏ rơi dân Ba Tổng?
    Khúc Văn xua tay nói nhỏ:
    - Thực ra quân đồn trú vẫn còn giữ lại hơn một tiểu đội để phòng thủ. Hơn nữa các làng hiện giờ đang duy trì lực lượng Nghĩa dũng khá mạnh, vì vậy mong bà con cứ yên tâm.
    Việc rút quân khỏi đồn Tuần chỉ sáng hôm sau đã loang ra khắp tổng. Bọn lính hành quân theo đội hình chiến đấu nện gót giày cồm cộp trên đường 228 . Tin này lập tức đến rừng Hóp qua những tay trinh sát nghiệp dư trong lốt dân đánh giậm, chọc lươn hoặc bắt ếch hàng ngày vẫn lảng vảng quanh đồn.
    Mấy hôm sau, Khúc văn sai lính đưa cho lý Quỳnh bức thư. Ông ta phân vân mãi rồi mới quyết định vào rừng Hóp. Anh em du kích chẳng lạ gì lý trưởng làng Cùa nên không bịt mắt mà đưa thẳng vào sở chỉ huy trình khoá Kiệt. Ông ta vừa lướt qua mấy dòng đã ném thư xuống đất chửi:
    - Mẹ cha thằng đồn Cáo!
    - Nó viết gì trong thư thế hả ông? - Quách Thịnh hỏi.
    - Chúng dụ hàng, khuyên ta cộng tác với quân đội Pháp.
    - ý ông thế nào?
    - Đập vỡ mặt tên cướp nước ra chứ cộng tác cái gì. - Khúc Kiệt chợt quay lại phía Ngô Quỳnh - Nghe nói quân của đồn Cáo đang rút đi phải không?
    - Tôi có nghe cậu nhà nói thế nhưng chẳng biết thực hay hư.
    - Này, ông đừng có giấu tôi. Chính cái hôm ông với con mẹ cả Huê lên thăm thằng Văn ấy là đợt rút quân đầu tiên.
    Lý Quỳnh lắc đầu :
    - Cũng không loại trừ đây là một thứ mưu kế nhằm kéo các ông ra khỏi rừng Hóp để họ dễ dàng tiêu diệt. Nói thật tôi cũng chẳng thích gì Việt Minh nhưng vì cô Nhân nên xin có lời can.
    Khoá Kiệt lẳng lặng gật đầu:
    - Cảm ơn. Phiền ông nói với đồn Cáo rằng, khoá Kiệt này thề sẽ bắt sống hai tên giặc ấy mang ra cầu Vàng xử bắn như chúng đã xử bắn Lê Văn Vận.
    Lý Quỳnh về rồi, khoá Kiệt liền tập hợp ban tham mưu bàn kế hoạch tấn công đồn Tuần. Theo trinh sát báo cáo, cho đến lúc ấy Đồn Cáo đã hai lần chuyển quân về phía trục đường 22 và 228. Vậy là thời cơ đánh đồn Tuần đã đến. Sau khi nhận định tương quan lực lượng giữa hai bên, Khoá kiệt đưa ra ý kiến là không cần có sự phối hợp của bộ đội địa phương vẫn có thể hạ được bốt Tuần.
    Quách Thịnh có vẻ không hào hứng với kế hoạch phiêu lưu của đội trưởng.
    - Hệ thống hoả lực đồn Tuần rất mạnh trong khi đó ta chỉ có mười ba khẩu súng, cơ số đạn không đáng là bao, tôi cho rằng, đánh công kiên kiểu này là rất mạo hiểm.
    Trần Thâm vốn cùng quan điểm với Khúc Kiệt, từ lâu đã có ý muốn đánh đồn để trả thù cho vợ bị chết do trúng đạn moóc chi ê, đứng dậy tuyên bố:
    - Tôi ủng hộ ý kiến của đội trưởng. Ai không tán thành xin cứ ở nhà.
    Quách Thịnh vẫn tỏ ra lo ngại:
    - Tôi thấy Ngô Quỳnh nói có phần đúng. Rất có thể đồn Cáo dùng kế “điệu hổ ly sơn” nhử chúng ta ra khỏi rừng để bao vây tiêu diệt, vì địa thế ở đây hiểm trở chúng không dám đột nhập. Mong ông Khoá và anh em cân nhắc cho kỹ.
    Khúc Kiệt đứng dậy tuyên bố :
    - Đa số đã quyết nghị. Cuộc họp đến đây kết thúc. Mọi người về chuẩn bị. Đêm nay đánh đồn.
    Qua giờ Ngọ, đội quân của khoá Kiệt ra khỏi rừng Hóp . Mọi người men theo đầm Ma ngược lên khu đồng Chằm sau đó lên đê sông Lăng. Đêm cuối tháng không trăng. Trời lất phất mưa. Cánh trinh sát tiền trạm đến điếm Bài Vân thì dừng lại nghe ngóng động tĩnh. Dưới sông sóng vỗ lóc bóc vào kè đá. Sau gần hai giờ, toàn bộ đội du kích đã đến điểm tập kết. Đó là một gò đống thuộc khu đồng Sộp cách đồn chừng ba trăm thước về phía tây nam. Sau khi chỉnh đốn hàng ngũ, các tiểu đội lặng lẽ vượt đê tiếp cận hàng rào kẽm gai. Trần Thâm ném một quả lựu đạn vào vọng gác lô cốt ngoại vi. Một quầng lửa nhoáng lên cùng với tiếng nổ đanh chính là hiệu lệnh tấn công. Nhưng cũng vào lúc ấy, hoả lực trong đồn bắn ra như vãi đạn. Một quả Moóc chi ê sáu mốt ly từ lô cốt dưới bờ sông câu đúng đội hình du kích làm ba người gục ngay tại trận. Khúc Kiệt men theo sườn lô cốt kề khẩu súng trường vào lỗ châu mai bắn một phát rồi ném tiếp quả lựu đạn chày. Lựu đạn xì khói nhưng không nổ. Quách Thịnh dẫn năm đội viên tung bộc phá, định ào qua hàng rào kẽm gai, nhưng bị ngay quả mìn cóc nhảy vọt lên ngang ngực hất anh ta ngược lại bờ đê, một mảng ngực bị toác ra, nhầy nhụa máu. Hai bên cầm cự chừng nửa giờ thì quân Khúc Kiệt hết đạn .Thấy đánh không lại mà trời sắp sáng ông ta ra lệnh rút lui. Đúng vào lúc ấy, từ phía bên kia bãi dứa, một trung đội Âu Phi chẳng biết phục kích từ bao giờ nhất loạt xả đạn vào đội hình du kích. Phía lô cốt chính, toán lính dõng trang bị trường mát và tiểu liên K50 bấy giờ mới xuất trận. Đội quân của khoá Kiệt ở vào cái thế bị kẹt giữa hai gọng kìm , mạnh ai nấy chạy chẳng còn lòng dạ nào đánh nhau nữa. Khúc Kiệt vừa bắn kiềm chế vừa lui dần về phía đồng Sộp. Bọn Âu Phi sát khí đằng đằng, thằng nào mặt mũi cũng đen sì, tay đặt sẵn vòng cò, chỉ cần nhấn nhẹ là ông đội trưởng du kích đi đời. Một viên cai người Việt lấy tay làm loa gọi to:
    - Ông Khoá hàng đi! Quân du kích chạy hết rồi.
    - Hàng này! - Khúc Kiệt tức tiết nổ một phát về phía viên cai. Phát đạn trúng quai hàm, giọng hắn bị tắc lại, máu chảy như xối xuống cái cổ ngẳng vì khói thuốc phiện.
    Đồn Cáo bất chợt xuất hiện, vẫn bộ kaki xám nhưng lần này hắn đội mũ sắt, tay vung vẩy chiếc ba toong gọi to bằng tiếng việt:
    - Lần này ông Khoá mắc mưu bản chức rồi. Lính Bắc Phi của tôi không hề rút đi mà chỉ làm cuộc dã ngoại dạo chơi đến đồn Gang rồi ban đêm lại xuống ca nô về bốt Tuần.
    Khúc Kiệt ngiến răng quát:
    - Đồ đểu. Tao thà chết chứ không bao giờ đầu hàng lũ chó Tây.
    Nói rồi ông ta rút chốt quả lựu đạn giơ lên ngang mặt bảo :
    - Thằng nào muốn chết thì đến đây!
    Một lính dõng người Cao Xá có gã em họ bị du kích rừng Hóp bắn chết trong trận đánh độn thổ đường 228 lại gần đồn Cáo nói:
    - Bẩm ngài để tôi cho lão một phát.
    Đồn Cáo ngẫm nghĩ một lúc rồi ngoảnh lại bảo bọn lính:
    - Thôi, để cho ông ta đi .

    5. Từ khi được cấp xe Jeep tuần nào đồn Cáo cũng về làng Cùa vài lần. Mấy năm nay, tuyến đê được dân phu Ba Tổng bồi trúc, mặt trải đá răm đến tận Cổ Pháp nối với đường 22 ở ngã Tư Gia Hoà. Chiếc xe sơn màu cỏ úa, không mui chạy băng băng, đến điếm Bài Vân bao giờ tay sốp phơ cũng bấm cỏi inh ỏi làm mấy cô váy thâm, quảy quang gánh sang cồn Vành cắt cỏ hốt hoảng chạy vào bụi chuối nhà vệ Đà. Mỗi khi xe đến sân đình, trẻ con, phần lớn cởi truồng, mũi thò lò, bâu lại chỉ trỏ làm Mác xen phải trợn mắt quát nạt. Hắn vào nhà bà cả Huê, có hôm còn ăn cơm ở đấy, tối mới về. Dạo này đội du kích rừng Hóp đã bị vô hiệu hoá sau chuyến tấn công đồn Tuần. Khoá Kiệt cũng bỏ làng ra đi. Vùng tề có vẻ đã yên tĩnh.

    Gần đây Mác xen đâm ra say mê Khúc Thị Huệ , cô Hụê năm nay mười chín , xinh xẻo như bà mẹ thời trẻ. Đồn Cáo, một lần mời Khúc Văn uống cô nhắc trên ca nô Noóc măng đi, ướm hỏi:
    - Cô em họ xinh đẹp của thiếu uý ở làng Cùa chưa chồng phải không?

    Khúc Văn biết tỏng bụng dạ gã Đồn Trưởng liền bảo:
    -Không phải em mà là bà chị họ tuy rằng chị ấy kém tôi hơn chục tuổi . Sao, Đại uý bị mũi tên của thần Cu pi đông bắn trúng tim rồi chứ gì ?
    -Tôi đã đồn trú nhiều nơi nhưng chưa thấy ở đâu một thiếu nữ phương Đông có vẻ đẹp quyến rũ đến thế. Ông bạn có bằng lòng làm mối cho Mác xen này không?

    Khúc Văn cười :
    - Thế còn cô Giannét ở gần bến cảng Tu lông của ngài. Theo chỗ tôi biết nước Pháp có điều luật xử rất nặng với những người đàn ông một lúc có hai bà vợ.

    Đồn Cáo thở dài , rút rong túi ra bức thư đưa cho Khúc Văn .
    - Tôi sang Đông Dương được gần hai năm thì Gian nét gửi thư yêu cầu phải về nếu không cô ấy sẽ đi lấy chồng. Thiếu uý có biết vì sao không?
    - Xin Đại uý cứ kể tiếp .

    Đồn Cáo cười gằn:
    - Hoá ra trong khi tôi phải đương đầu với Việt Minh ở cái xứ nhiệt đới đầy ruồi muỗi này thì Gian nét phải lòng một tay đảng viên cộng sản Pháp làm ở nhà máy in và bị hắn tuyên truyền chủ nghĩa Mác, chống chiến tranh Đông Dương.
    - Sau đó sự việc thế nào ?
    - Tất nhiên là tôi không thể rời bỏ binh nghiệp. - Mác xen bảo - Mặt khác cũng không thể bắt người đàn bà chờ mình một khi cô ta đã công khai đi với nhân tình, vì thế tôi đã gửi đơn ly hôn về.
    - Khúc Văn nâng ly rượu giọng thông cảm:
    - Ngài thật xứng đáng là bậc quân tử, tuy nhiên tôi cũng thành thật chia buồn.
    - Bây giờ tôi thích một cô gái Việt Nam và muốn cưới nàng làm vợ.
    - Sau này ngài mang cô ta về Pháp chứ ?
    - Thiếu uý vẫn chưa hiểu Mác xen. Cuộc chiến tranh chó chết này sắp đến hồi kết.- Viên đồn trưởng tợp một ngụm hết cả ly rượu nặng, mặt hắn nóng bừng nhìn Khúc Văn nói chậm rãi - Đừng tưởng đội quân của khoá Kiệt thất bại và vùng này lập tề là quân đội Pháp sẽ bình định được đồng bằng Bắc Bộ. Không nên đánh giá thấp thực lực của Việt Minh. Họ đang tập trung quân đội vào việc đối phó với cứ điểm Điện Biên Phủ. Cái vùng Ba Tổng khỉ ho cò gáy này chỉ là một điểm rất nhỏ nhoi trên bản đồ chiến lược của tướng Giáp. Cho nên tôi định đem cô Huệ về nước sau khi xin giải ngũ trong thời gian tới.
    - Đại uý không nói đùa đấy chứ ? - Khúc Văn có vẻ hoang mang hết nhìn Đồn cáo lại nhìn dòng sông đang cuộn chảy. - Chẳng lẽ tình hình lại bi quan đến thế ? Tôi thường xuyên nghe đài. Các bản tin chiến sự đều rất sáng sủa.
    - Chúng đều là đồ bịp bợm . - Đồn Cáo đã hơi say văng tục - Mẹ khỉ ! Toàn một bọn bồi bút đưa thông tin giả đánh lừa những kẻ nhẹ dạ cả tin.

    Hôm sau Khúc Văn về làng cùa gặp bà cả Huê . Bà Huê thích lắm, lập tức làm một bữa tiệc nhỏ, các món ăn chế biến chủ yếu từ thịt gà mời Mác xen và Khúc Văn. Đồn Cáo cho mang lên xe Jeep hai két bia Con hổ, ba thùng bích quy, hơn chục hộp kẹo Ca ra men và mấy xấp vải thượng hạng làm lễ ra mắt. Lễ ăn hỏi có cả rượu sâm banh khai vị lẫn vang trắng Boóc đô nhắm với đùi gà quay tẩm ngũ vị hương đến quá nửa đêm mới kết thúc. Chiếc xe của Đồn Cáo và Khúc Văn khật khưỡng về gần đồn Tuần thì nghe có tiếng súng nổ rồi một quầng lửa bùng lên ở sườn lô cốt chính.
    - Chết cha ! Bọn Việt Minh đánh đồn . - Mác xen giật mình bảo lái xe- Chạy nhanh lên!

    Khúc văn ngăn lại :
    - Cho xe chạy tiếp là trúng đạn Việt Minh. Quay lại !

    Đồn Cáo lập cập hỏi:
    - Bỏ đồn à Thiếu uý ?
    - Tạm thời bỏ rồi tính sau.
    - Người chỉ huy không được bỏ quân đội khi lâm trận. - Đồn Cáo bất ngờ ra lệnh cho sốp phơ tăng tốc về đồn .

    Chiếc xe băng qua làn đạn đủ loại. Có những viên đỏ lừ rạch bóng đêm trúng lốp sau nhưng xe vẫn lao ầm ầm như ngựa vía. Quang cảnh đồn Tuần hiện ra trong ánh lửa sáng rực như ban ngày. Lửa cháy bốc lên cao soi rõ cả một hàng kẽm gai bùng nhùng bị bộc phá đẩy ra giữa bãi mìn nằm quằn quại như con trăn khổng lồ trúng thương. Khẩu đại liên trên nóc lô cốt số ba nòng gục xuống, nằm bất động. Trong sân mấy chục lính Bắc Phi và lính dõng quần áo lôi thôi lếch thếch, mặt mũi lem nhem cúi đầu bước ra trước mũi súng của những Việt Minh trẻ măng.

    Đồn Cáo còn chưa hết bàng hoàng vì cú đòn bất ngờ của Việt Minh thì một người đội mũ nan bọc vải dù, tay cầm khẩu mô de bước đến chắn trước xe.
    - Xin chào đại uý Mác xen. Mời ngài xuống xe.

    Người ấy vừa nói xong, lập tức mấy anh lính lôi đồn Cáo và Khúc Văn ra khỏi ghế ngồi, tước súng ngắn rồi lấy dây dù trói quặt hai tay về phía sau. Trong ánh lửa nhập nhoạng, Đồn Cáo nhìn người chỉ huy có khuôn mặt rất quen, liền hỏi:
    - Thưa ông chỉ huy, ông là ...

    Người đàn ông đứng tuổi nhấc mũ khỏi đầu, vuốt cho mái tóc trở lại ngay ngắn, cười nhạt bảo:
    - Ngài đồn trưởng không nhận ra cố nhân à?

    Mác xen ngập ngừng một lúc bất chợt kêu lên:
    - Ông Lê Văn Vận ... Chẳng nhẽ lại là ...?
    - Phải, tôi đây. - Vận nheo mắt bảo - Ông ngạc nhiên lắm phải không?
    - Vậy ra ông không chết ?

    Vận gật đầu:
    - Thật may, trước khi lính của ông nổ súng một giây tôi đã kịp lao xuống chân cầu.
    - Làm thế nào ông cởi được dây trói ở tay?
    - Chắc ông đồn trưởng không biết tôi vốn là dân chài? - Vận nhìn Đồn Cáo đầy vẻ châm biếm - Rơi xuống nước, tôi dùng răng cắn đứt dây trói rồi lặn một mạch sang bờ bên kia. Chính vì vậy mới có cuộc gặp gỡ thú vị hôm nay.

    [1] Xếch tơ ( secteur) : Tiểu quân khu (Tiếng Pháp).
    [2] Một tổ chức bí mật của Việt Minh chuyên ám sát những người làm tay sai hoặc chỉ điểm cho Pháp.


    (còn tiếp)

  3. #9
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 9

    1. Tết Thanh Minh năm Giáp Ngọ, một anh bộ đội quân phục sỹ quan, mũ lưới, súng ngắn bên sườn, vai mang ba lô vào làng Cùa. Anh ta vừa định bước qua cổng thì có hai du kích xách súng chặn lại hỏi:
    - Anh là ai ? Vào làng có việc gì?

    Người sỹ quan gườm gườm nhìn tay du kích lé mắt rồi lấy ra tờ giấy đưa cho anh ta :
    - Tôi là Khúc Luận, con trai bà cả Huê, hiện đang ở trung đoàn ...

    Một trong hai du kích có cái mũi khoằm, súng lăm lăm trong tay, chỉ cần viên sỹ quan hơi động đậy một chút là anh ta sẵn sàng cho ăn đạn. Tay lé mắt xoay ngược tờ giấy đánh máy chụp con dấu đỏ nhìn một lúc rồi đưa cho người mũi khoằm. Anh này cũng không biết chữ đành ngẩng lên nhìn chằm chằm vào anh bộ đội hỏi :
    - Tên gì ?
    - Đã bảo là Khúc Luận, có ghi trong giấy ấy. Các anh không đọc được à?
    - Câm mồm ! - Người mắt lé quát.
    - Anh là con ông chánh Đàm ?
    - Thì sao?
    - Đi theo chúng tôi.

    Lúc ấy trời đã nhá nhem. Khúc Luận cảm thấy làng Cùa có chuyện bất thường định tính nước tháo lui nhưng không kịp nữa rồi. Ba du kích còn khá trẻ chẳng biết ở đâu bất chợt hiện ra tước ngay khẩu súng ngắn, quàng dây thừng trói giật cánh khuỷu dẫn về đình Cả. Chỉ ít phút sau anh ta bị tống vào hậu cung, nơi trước đây khoá Kiệt đã từng giam Lê Bang và bà cả Huê. Người mũi khoằm khoá cửa xong bước ra sân bảo đám du kích ngồi ngoài sân:
    - Sáng mai phải đưa tên phản động họ Khúc ra cho bà con bần cố nông đấu tranh.
    - Hắn về từ bao giờ?
    - Lúc chiều.
    - Đáng đời cho quân địa chủ bóc lột. Chuyến này thì mẹ con nhà nó khó tránh khỏi tử hình .

    Quá nửa đêm, vào lúc Khúc Luận trằn trọc không ngủ được vì muỗi quá nhiều, đang nghĩ kế thoát thân chợt nghe như có tiếng động vào ổ khoá. Cánh cửa khẽ bật ra. Một người tóc tai rối bù, mặt trát nhọ nồi đen sì vào cởi trói cho Khúc Luận rồi nói khẽ :
    - Cậu trốn ngay đi, nếu không ngày mai Đội Cải cách xử bắn đấy.
    - Anh là ai mà lại cứu tôi?

    Người tóc rối thì thầm:
    - Tôi là Thường Rỗ, cậu quên rồi à?
    - Anh Thường , mẹ tôi. . .
    - Bà Cả bị giam trong chuồng trâu nhà phó lý Kiền cùng với đám chánh Bang. Tình hình căng thẳng lắm.

    Khúc Luận đã định đi nhưng lại nắm tay Thường Rỗ hỏi :
    - Anh làm thế nào có được chìa khoá?

    Thường Rỗ bảo:
    - Chúng không biết khoá này có hai chìa. Ông lý Quỳnh đưa cho tôi. Thôi đi đi. Chúc cậu chân cứng đá mềm và nhớ từ nay đừng bao giờ về làng Cùa.
    - Rất cảm ơn anh nhưng tôi sợ anh bị liên lụy.

    Thường Rỗ ấn vào tay Khúc Luận gói cơm nắm, thủng thẳng bảo:
    - Tôi là thằng tá điền trên răng dưới dái, Đội Cải cách làm đếch gì được.

    Khúc Luận không dám đi cửa chính. Anh ta lẻn vào gian nhà để đòn khênh, trèo tường đình rồi nhảy xuống bụi tre nhà quản Thụ sau đó chạy ra khu đồng Chó Đá. Sáng sớm, anh ta qua sông Lăng ở bến Vạn Điền, thế là thoát nhưng mất toi khẩu súng lục. Đến cồn Vành, Khúc Luận định rẽ sang kẻ Bòng thăm ông ngoại nhưng ngẫm nghĩ một lúc lại thôi. Có lẽ anh ta không muốn nhớ lại quá khứ.

    Sau vụ ám sát Lê Văn Vận, Khúc Luận sang làng Bòng, được ông ngoại hết mực cưng chiều, chỉ có hai thằng cháu là Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên là lúc nào cũng nhìn ông cậu xấp xỉ tuổi chúng bằng con mắt nghi ngại. Mùa hè, cả bọn rủ nhau ra cồn Vành bắt cá. Khúc Luận có tài đâm đinh ba còn hai anh em Lê Văn Khải đánh giậm. Một lần chúng cược nhau thi thả diều. Điều kiện đặt ra là diều của ai đẹp nhất, bay cao nhất, đứng yên nhất và sáo kêu hay nhất thì thắng cuộc. Khải và Nghiên mỗi thằng làm một con diều bề ngang to bằng chiếc quạt lúa, dài năm thước ta, dán nhật trình, phất cậy rồi lại táp thêm một lớp giấy bản nổi màu nâu sẫm trông chẳng khác gì lá buồm cánh dơi để nằm ngang. Khải có sáng kiến gắn quả bầu khô vào phía dưới ba chiếc sáo đại mua của ông phó Đá tận kẻ Sung. Diều lên cao, gió thổi qua miệng sáo làm vang lên những chuỗi âm thanh u u lúc gần lúc xa, lúc cao lúc thấp hoà với giọng trầm trầm như tiếng tù và phát ra từ quả bầu nậm tạo thành bản nhạc lạ tai làm cả làng phải ngẩng đầu nghe.

    Diều của Khúc Luận gần bằng chiếc chiếu một, hai mũi cong lên trông như sải cánh con chim cắt lúc lượn trên cao đuổi mồi. Thằng bé không phất cậy lên giấy nhật trình mà cất công mấy ngày liền đi chặt nhựa sung mang về bồi giấy dó. Để tăng vẻ đẹp, Khúc Luận còn bắt ông Lái mua giấy trang kim cắt thành hoa lá chim cò dán vào mặt dưới con diều. Riêng về bộ sáo, cậu ta đóng liền năm chiếc, khi diều bay, sáo kết thành bè, từ âm vực thấp đến âm vực cao hoà vào nhau nghe rất du dương. Nhìn chiếc diều đẹp mã, Lê Văn Nghiên bảo với anh:
    - Có khi chúng ta thua mất.

    Thằng anh động viên em:
    - Chưa chắc, muốn biết diều có tốt hay không phải nhìn xem nó bay thế nào đã.

    Về dây, cả hai bên đều dùng loại gai bện xoắn do ông Lái mua từ chợ Lành, quấn thành cuộn lớn, dùng bao nhiêu cũng được. Hôm ấy là một buổi chiều tháng tám. Trời trong xanh. Gió heo may rất thuận lợi cho việc thả diều. Anh em Lê Văn Khải thả trước. Con diều vừa rời khỏi tay Nghiên đã vút lên. Sau mấy lần nhao qua nhao lại nó đạt độ cao ổn định, bắt đầu thả xuống cồn Vành tiếng vi vu mơ hồ của thứ âm nhạc từ chín tầng mây. Phía bãi cỏ bên này, Khúc Luận nhờ thằng Cấp đâm diều. Thằng bé đen như cột bồ hóng, suốt ngày cởi trần chăn trâu thuê cho ông phó lý Điện. Nó là khắc tinh của các loài chim trời bằng cây súng cao su bắn đạn đất nung. Dạo ấy Cấp chơi thân với thằng bạn từ bên kia sông Lăng sang, có hôm nó bắn được cả một xâu chim, hai đứa vặt lông, đốt lửa nướng ăn ngay tại bãi chuối giữa cồn. Thực ra thỉnh thoảng Luận và Cấp cũng cãi nhau nhưng chỉ được nửa buổi lại rủ nhau đi đâm cá. Chính gã chăn trâu thuê đã dậy cậu công tử làng Cùa ngón nghề này.

    Con diều có vẻ kềnh càng lại khá nặng, thằng Cấp loay hoay mãi mới tung lên được. Nó vọt nhanh theo một đường vòng cung rất rộng sau đó cứ ngúc ngoắc như là con nhang đang lên đồng rồi từ từ rơi xuống một gò đất. Khúc Luận cởi trần, người lấm tấm mồ hôi hì hục sửa dây lèo. Một miệng sáo bị sứt. Cậu ta chậc lưỡi xuýt xoa chẳng khác gì chính mình vừa bị đứt tay. Thằng Cấp mang bát nhựa sang dán lại những chỗ giấy bị bong ra rồi lệnh khệnh vác lên gò đứng de chân chèo đón gió. Cuối cùng chiếc diều cũng bay lên nhưng không hiểu do hai cái cánh mất cân đối hay bộ sáo quá nặng nên thỉnh thoảng nó lại giật một cái như là người thọt đi bộ gặp phải đường lắm ổ gà.
    Hai con diều đua nhau chao lượn giữa vòm trời trong xanh không một gợn mây. Vũ điệu của chúng thật nhịp nhàng, lúc sang phải, lúc dạt về bên trái, lúc uốn thành vòng tròn duyên dáng như những nghệ sỹ nhào lộn điêu luyện trên sân khấu xiếc. Tuy nhiên, nhìn bằng mắt thường diều của Khúc Luận lên cao hơn. Cậu ta khoái lắm vênh mặt bảo anh em Lê Văn Khải :
    - Thấy chưa, phen này diều của tao chắc thắng.

    Thằng Nghiên bĩu môi chê:
    - Khung diều của cậu bị lệch cánh thỉnh thoảng lại giật một cái.
    - Ai bảo mày thế? - Khúc Luận hỏi vặn.
    - Nhìn thì biết việc gì phải hỏi, mà hình như sáo của cậu bị vỡ, nghe tiếng nó cứ rè rè như mèo hen.
    - Còn hay hơn nhiều cái quả bầu khô của chúng mày. Tao nói đúng không Cấp?

    Thằng Cấp vốn vẫn phục Khúc Luận được đi học cái gì cũng biết nên bênh nó :
    - Còn phải nói, năm ống sáo nhất định phải hay hơn tiếng ù ù của quả bầu.
    - Được để rồi xem.

    Lê Văn Khải khẽ giật dây một cái. Con diều đang bay bỗng vọt lên cao rồi bất ngờ bổ nhào về phía trái lao vào diều Khúc Luận làm nó loạng choạng như con cắt bị gẫy cánh sau cuộc đọ sức với diều hâu, đâm xuống khoảng ruộng trũng phía bên kia bãi ngô non. Cánh diều bị ngập nước phù sa còn phần đuôi chổng ngược lên rách một miếng lớn. Nhìn cảnh tượng ấy, Khúc Luận chẳng nói chẳng rằng xông vào đấm Lê Văn Khải mấy quả liền. Thằng Nghiên thấy anh bị đánh liền túm áo Khúc Luận thét lên:
    - Cậu không được đánh anh cháu.

    Ông cậu đang tức vì thua cuộc, mất mặt liền tiện tay tát thằng cháu một cái nổ đom đóm mắt. Thế là một cuộc ẩu đả tay ba xẩy ra làm bọn trẻ trâu xúm lại vỗ tay cổ vũ cho cả hai bên:
    - Đánh nữa đi! Đấm mạnh vào! - Một thằng chân dài như chân sếu, người gầy nhằng, gào lên.

    Thằng Đáp lùn, tròn như hạt mít lấy ống tay áo quệt ngang mũi, khịt một cái rồi nhẩy lên như con choi choi:
    - Thằng Khải túm chân! Kìa, nó ra đòn phía sau.

    Thằng Cấp đứng ngoài, thấy Khúc Luận tuy khoẻ nhưng một không thể chọi được hai cũng lao vào túm tóc Lê Văn Nghiên, thụi liền mấy quả vào ngực nó. Chiếc áo ka ki của Khúc Luận bị xé toác một vạt. Lê Văn Khải môi sưng vếu, tay bị thằng Cấp khoá chặt nhưng chân vẫn quặp cổ nó. Lúc này Lê Văn Nghiên và Khúc Luận đang bóp cổ nhau. Cả hai đều thở hồng hộc, mắt vằn tia máu. Khúc Luận to xác lại nhiều tuổi hơn nhưng không dai sức bằng Lê Văn Nghiên. Nó cố sức thoát khỏi hai cánh tay thằng cháu nhưng không được liền ghé răng cắn một phát vào bắp tay đối thủ. Lê Văn Nghiên đau quá thét lên một tiếng vội buông cổ Khúc Luận.

    Khi ông Lái Lự và bà Hai ra đến nơi thì mọi sự đã kết thúc. Hai anh em Khải Nghiên quần áo tả tơi, mồm miệng sưng vếu đang hối hả cuốn dây. Khúc Luận ngồi phệt xuống bãi cỏ, mặt lầm lầm thỉnh thoảng lại nhổ nước bọt. Lái Lự lại bên Khúc Luận hỏi:
    - Làm sao các cháu đánh nhau?

    Cậu cả ngẫm nghĩ thế nào bỗng nhiên khóc nấc lên:
    - Mẹ ơi!
    - Tối rồi, về thôi cháu. - Ông Lái dắt Khúc Luận đứng dậy - Tối nay ta sẽ cho anh em thằng Khải một trận.

    Sau chuyện cậu cháu xô xát vì con diều, Khúc Luận nghĩ đến việc trốn về làng Cùa một phần vì tức anh em Lê Văn Khải nhưng cái chính là nhớ cô em họ xinh đẹp. Tuy mới bước nào tuổi mười lăm mà cậu ta đã sớm có nhu cầu khám phá thế giới bí mật của đám đàn bà con gái đang tuổi dậy thì. Cô em con ông chú ruột hơn Luận những bẩy tám tuổi, lại đã từng có mang với một Việt Minh nằm vùng rồi bỏ làng đi biệt tích vậy mà hình bóng cô ta lúc nào cũng luẩn quẩn trong tâm trí. Giá như Nhân không mang họ Khúc thì nhất định cậu bắt mẹ Cả mang trầu cau đến hỏi. Trên đời sao lại có người con gái dịu dàng, xinh đẹp đến thế. Mà cô ta cũng thật nhẹ dạ cả tin, đem tình yêu và sự trong trắng trao cho một gã cha căng chú kiết đến nỗi thành goá bụa. Lại còn Ngô Quỳnh nữa, không biết bằng phép mầu gì mà lão chài được cô ấy? Mình mà có quyền trong tay phải dùng roi mây quất cho gã lý trưởng hai mang ấy mấy nhát vào mông để cảnh cáo về tội dám coi thường con trai Chánh Tổng.

    Tháng Ba, đã cuối tiết Xuân. Trời ấm dần nhưng vẫn còn những trận gió mùa Đông Bắc tràn về. Ngô non khẽ rì rào. Những búp dâu mơn mởn xoè ra dưới màn mưa bụi. Thỉnh thoảng trời hửng. Một dẻ nắng vàng óng bất chợt từ chỗ nứt ra giữa những cồn mây xám bập bềnh trôi. Cỏ non mọc miên man như tấm thảm xanh chạy dài đến tận bờ sông. Những gò đất lô xô nở toàn hoa cải dại kết lại thành từng đám vàng sậm như ráng chiều. Hoa cải dại nồng nồng lẫn vị cay cay như mùi gừng nướng lan toả trong buổi sớm mai làm lũ sơn tước đỏm dáng dậy từ lúc tinh mơ bay xập xoè, chao đi chao lại như là đang tắm trong mùi hương quyến rũ của đồng nội.

    Vào dịp ấy, người làng Bòng , làng Miễu ven cồn Láng và đầm Vực thường vác lưới đánh chim ngói, chim xanh. Cồn Láng còn trồng các loại đậu. Mùa đậu chín, chim kéo về hàng đàn, rình lúc vắng người đáp xuống mổ hạt ăn. Lũ sẻ đá và chim ngói khôn ranh chỉ rỉa những quả đã tách vỏ. Sau khi đã ních đầy diều chúng còn dồn hạt đầy hai bìu cổ để dành cho lũ con sắp ra ràng đang thi nhau há cái mỏ đỏ hỏn, viền vàng kêu chiêm chiếp vì đói.

    Anh em Lê Văn Khải và Khúc Luận cũng bắt chước bọn choai choai trong làng xách đồ nghề đi bẫy liếu điếu. Liếu điếu là giống chim lắm điều. Chúng đậu ở đâu là chỗ ấy inh ỏi như một đám cãi nhau. Bẫy chim vùng kẻ Bòng là một bộ gọng tre hình bán nguyệt mắc lưới gai, đường kính bốn năm thước ta. Khi đặt lưới, người ta đóng cọc nhỏ cố định hai đầu cánh cung để tránh xê dịch, buộc chim mồi, rắc thóc, ngụy trang vài cành lá tươi sau đó vào bụi ngồi chờ. Liếu điếu vốn hiếu động, tuy chân bị buộc vẫn nhảy nhót mổ thóc ăn làm cho đồng loại ở trên trời rủ nhau sà xuống. Đợi cả đàn họp lại đúng vào chỗ rắc thóc thì nhẹ nhàng kéo dây cho bẫy sập. May lắm mới có một vài chú thoát hiểm. Bị bất ngờ , đàn chim nhảy loạn xạ, bùng nhùng trong tấm lưới, than vãn bằng thứ âm thanh vô cùng thảm thiết. Gần trưa đồng bãi đã vãn người. Anh em Khải Nghiên hôm ấy gặp may, được cả một đàn liếu điếu béo múp gần ba chục con trông chẳng khác gì chim cút đồng tháng mười bên vùng Ba Tổng. Trong khi ấy khúc Luận vẫn lủng lẳng chiếc lồng rỗng với cặp chim mồi ủ rũ, vai vác lưới luồn lách giữa đám ruộng dâu mãi cuối bãi. Cậu ta là tay thích chơi trội, trong những cuộc so tài với các bạn cùng lứa thường ít khi chịu kém cạnh. Qua vụ thả diều, Khúc Luận càng ghét hai anh em nhà họ Lê, định bụng hễ có dịp sẽ trổ tài để chúng phải tâm phục khẩu phục. Có một đàn không biết là chim gì, mình đen bụng trắng, cổ khoang đỏ từ bên kia lượn vài vòng rồi hạ xuống cánh bãi. Khúc Luận mừng lắm, hạ lưới, thả chim mồi rồi giòng dây vào ruộng dâu ngồi đợi. Lũ chim lạ có vẻ tinh khôn. Chúng rủ nhau đậu trên cành dâu vừa rỉa lông vừa hoài nghi nhìn con chim mồi khác giống đang nhảy nhót một cách giả tạo giữa đám thóc vàng. Một con hình như là đầu đàn xoè cánh bay lướt qua để kiểm tra hư thực sau đó trở lại cành dâu kêu chíp chíp mấy tiếng liền bằng ngữ điệu rất khẩn cấp. Cả bầy lập tức bay vút lên. Chỉ một loáng chúng đã ở trên lưng chừng trời để lại cho gã thợ săn nửa mùa cái nhìn giận dữ.

    Vào đúng lúc ấy, Khúc Luận nhìn thấy chiếc thuyền mủng trên sông Bối sắp chìm. Sông Bối là một nhánh của sông Lăng chảy vòng phía đông tách vùng đất làng Bòng với cồn Láng thành hai khu. Tháng sáu tháng bảy nước lũ ngập bãi, phải đi thuyền, tháng một tháng chạp có thể lội qua được. Cữ này, nước đang lên, thuyền nhỏ bồng bềnh gặp trận gió mạnh rất dễ bị lật.

    Khúc Luận quẳng lưới, chạy bổ ra bờ sông nhảy ào xuống nước, sải tay bơi mấy cái thì bắt kịp con thuyền bị nạn. Hoá ra là cô Hót con ông trương Thiện. Nước chỗ này không sâu lắm, nhưng vì vướng gánh cỏ và chiếc quai nón quàng cổ thành ra cứ lúng túng mãi cô không ngoi lên được. Khúc Luận gạt quang cỏ ra khỏi thuyền, tháo quai nón khỏi cằm Hót rồi vòng tay qua nách ôm ngang người dìu nạn nhân vào bờ. Thực ra cô cắt cỏ chỉ bị choáng tí chút nhưng vì tóc tai quần áo ướt sũng trông bộ dạng có vẻ như sắp chết đến nơi. Khúc Luận thọc tay vào miệng ngoáy cổ họng một lúc tức thì cô ta khạc ra một ít nước đục lờ lờ như màu gạch non.

    Cô Hót xấp xỉ mười tám , nổi tiếng xóm Chuối vì máu trăng hoa. Năm mười sau tuổi cô ta đã phải lòng một gã đò dọc gần ba mươi. Gã này đẹp mã và dẻo mỏ xuýt nữa lôi được nàng thôn nữ kẻ Bòng lên chiếc thuyền chở củ nâu từ bến Tràng đi chợ Buộm. Ông trương Thiện ra tận bờ sông lôi con gái về đánh cho một trận nhừ tử rồi nhốt vào buồng. Nhưng chứng nào vẫn tật đấy. Cô gái đang tuổi chanh cốm luôn khao khát đàn ông một cách bệnh hoạn, hễ gặp đứa con trai nào đến tuổi dậy thì là liếc mắt đưa tình. Cặp mắt cô ta nhìn đắm đuối, đờ đẫn như kẻ mắc chứng mộng du.

    Khạc hết nước, Hót he hé mắt, vừa hay bắt gặp cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống mình vội khép nhanh lại, đầu ngật sang một bên như là sắp chết đến nơi. Cậu chàng choai choai cảm thấy tự nhiên người nóng hầm hập , ngập ngừng một lúc rồi lần cởi chiếc áo cánh trên người cô gái. Chiếc yếm lụa mỡ gà bị tuột dây vắt lệch sang bên để lộ bộ ngực đầy đặn với cặp vú bánh dày rất mẩy đang phập phồng theo nhịp thở gấp. Khúc Luận nhìn hau háu vào đôi gò bồng đảo. Lúc ấy có lẽ đã quá trưa, khắp bãi không một bóng người. Cậu ta mím môi lấy hết sức bình sinh bế bổng cô cắt cỏ mang vào giữa ruộng dâu. Mưa bụi vẫn bay lất phất nhưng gió thổi mỗi lúc một mạnh xô đẩy những thân cây mềm lắc lư. Khúc Luận bị ngộp thở trước cặp vú trắng toát đầy khêu gợi. Cuối cùng, không cưỡng được bản năng đàn ông, cậu ta vòng hai tay xuống lưng Hót ghì chặt đến mức cô ta rên hừ hừ:

    - Kìa, bỏ người ta ra!

    Từ bé đến giờ chưa khi nào Khúc Luận được vuốt ve một cơ thể người con gái trần truồng. Hồi còn ở nhà đã có lần nhìn thấy Nhân vừa tắm xong nhưng chỉ một thoáng cô ta đã khoác được chiếc áo cánh. Theo nhận xét của cậu, Khúc Thị Nhân có vẻ đẹp dịu dàng của một thiếu nữ sinh ra trong một gia đình nề nếp nhưng tính tình cô ta lại ương ngạnh chẳng khác gì ông bố hủ nho. Khúc Luận còn bực mình vì bị Nhân coi là phường “ong non ngứa nọc” nên càng căm ghét hai gã đàn ông được cô ta yêu thương. Nhưng rồi thế sự xoay vần, tay Việt Minh chết trôi sông , Nhân bỏ đi biệt tăm, Lý Quỳnh trơ khấc ra vẫn là anh goá vợ. Đáng đời lão dê già. Lần đầu tiên trong đời ngửi thấy thứ mùi gây gây của đàn bà, gã thiếu niên gần như phát cuồng trước một cơ thể ngồn ngộn những đường cong tuyệt đẹp nhất là vồng ngực nóng hổi với đôi núm vú đỏ như son và cặp mắt đa tình lim dim dưới đôi mày rậm đen nhánh tựa mực tàu. Trong vòng nửa giờ hắn vần vò khắp người cô cắt cỏ với thứ khoái cảm đặc biệt của một kẻ phóng đãng bẩm sinh bất chấp cả thời khắcvà hai chú chim mồi đang mắc kẹt trong tấm lưới gai bùng nhùng mà lúc nhảy xuống sông không kịp ngỡ ra.

    Phía đầu bãi, sau khi bẫy thêm được một đàn mười bốn con, anh em Lê Văn Khải trèo lên gò cao, bắc tay làm lao gọi Khúc Luận nhưng không thấy tăm hơi liền kéo hau về. Lúc ấy đã xế trưa. Hai đứa vừa qua sông Bối thì gặp thằng Huyến , con ông trương Thiện. Nó hỏi:
    - Chúng mày có thấy chị Hót cắt cỏ bên bãi không ?

    Nghiên thoáng nghĩ đến Khúc Luận nhưng lắc đầu bảo :
    - Không thấy.

    Thằng Huyến lại hỏi:
    - Còn chiếc thuyền?

    Khải nháy mắt nhìn em rồi nói :
    - Tao thấy nó được kéo vào bãi dâu.

    Nghe vậy, thằng Huyến sinh nghi, không sang bãi nữa mà chạy bổ về nhà. Một lúc sau trương Thiện cùng hai con trai hộc tốc sang cồn Láng và chẳng khó khăn gì đã túm được hai đứa vẫn còn đang quặp nhau trong ruộng dâu. Trương Thiện nhảy bổ vào Khúc Luận thoi một quả vào quai hàm nó:
    - Thằng mất dậy! Thế này thì mày giết tao rồi .

    Cả Huyên đạp tiếp một phát vào bụng dưới làm con trai chánh Đàm cúi gập xuống, mặt tái nhợt thở hổn hển. Ông Thiện túm tóc cô Hót tát liền mấy cái nẩy đom đóm mắt.
    - Con đĩ rạc ! Về nhà rồi mày biết tay tao.

    Khúc Luận bị trói hai tay. Anh em Huyên Huyến tròng dây thừng ngang người hắn lôi xềnh xệch như lão Tạc ba toa kéo lợn từ chuồng ra chọc tiết. Tầm ấy, dân làng vẫn còn ở nhà, nghe tiếng huyên náo kéo nhau ra ngõ xem. Gã mắc chứng phong tình bước chệnh choạng trên đường sống trâu, thỉnh thoảng lại trượt ngã như người say. Ông Thiện ngượng với thiên hạ không dám về làng ngay. Không ai biết anh chàng ngụ cư mắc tội gì. Hai anh em Huyên Huyến mỗi khi được hỏi đều trả lời cụt ngủn:
    - Ăn trộm.

    Đến nhà, Khúc Luận bị Huyên trói vào cột nhà bếp rồi lấy chiếc tay tre vừa chặt vụt tới tấp vào lưng. Hắn đau quá, oằn người như phải bỏng. Mãi nửa chiều, Trương Thiện mới điệu con gái về đến nơi. Cô ta vênh váo, chẳng có vẻ gì ngượng ngùng chạy ngay xuống bếp cởi trói cho nhân tình.

    Ông bố quát:
    - Hót, vào buồng !

    Cô con gái cười nhạt, giọng tưng tửng :
    - Người ta không có lỗi, bố thả cậu ấy ra.
    - A ! Con nặc nô ! Mày… mày dám…

    Khi lái Lự và bà Hai biết chuyện thì Khúc Luận đã no đòn. Hắn thấy nhục quá, khóc nấc lên như trẻ con bị mắng oan. Lái Lự vào nhà nói ngọt xin bảo lãnh cho cháu ngoại về nhưng ông Thiện không nghe.

    Tội thằng này nặng lắm không thể tha được. Chièu nay tôi phải trình với ông Lý để làng xử phạt.
    - ấy chết, cháu nó còn nhỏ mong ông nghĩ lại.

    Ông Trương phẩy tay :
    - Sáng mai mời ông ra đình mà xin với làng.

    Đêm vừa xuống thì bầy muỗi vằn bắt đầu đến thăm cậu công tử làng Cùa. Gian bếp nồng nặc mùi bồ hóng lẫn với cứt chuột lưu cữu bốc lên từ khắp các xó xỉnh. Lũ gián chạy rào rào quanh chiếc chạn bát mốc thếch tìm thức ăn. Chúng dạn đến mức dám bò cả lên người, thò cặp râu vừa dài vừa cong vào mũi và tai đánh hơi làm Khúc Luận xuýt lộn mửa. Một con cóc cụ nằm bẹp trong cái hang nông choèn cạnh thùng trấu thỉnh thoảng khẽ nghiến răng. Lão cóc già có vẻ thoả mãn với thời tiết ẩm ướt, nhìn thứ gì cũng nhão nhoét như cháo thiu. Trên xà ngang, tiếng mọt nghiến gỗ đều đều, nhẫn nại đến sốt ruột. Cuối cùng là đôi thạch sùng rửng mỡ đuổi nhau chắt lưỡi rin rít. Trong một không gian chật hẹp đầy những tiếng độn hỗn tạp Khúc Luận cảm thấy đầu như muốn vỡ tung ra. Hắn vừa đói vừa buồn ngủ nhưng không thể ngủ. Quá nửa đêm, mệt quá cậu chàng chợp mắt được một thoáng thì có tiếng động nhẹ bên ngoài. Cánh cửa khẽ hé ra. Một bóng người lẻn vào cắt dây trói rồi ghé tai thì thầm:
    - Trốn ngay đi!

    Hắn còn đang bàng hoàng chưa biết thực hay hư thì ả Hót lại giúi vào tay một bọc nhỏ:
    - Trong này có bộ quần áo và một ít tiền, cậu đi khỏi làng Bòng ít lâu rồi hãy về.

    Khúc Luận luồn trong bóng đêm nhanh như một con mèo ăn vụng bị chủ tống ra khỏi cửa dù rằng đường trơn, bùn lép nhép thỉnh thoảng lại trượt ngã. Ra đến bờ sông, hắn cứ dọc con đê bối mà cuốc bộ cho đến sáng tinh mơ. Tiếng gà xao xác gáy. Màn đêm loãng dần ra và trước mắt là một bãi tha ma rộng mênh mông. Tháng ba hoa sim chưa nở nhưng hoa mua đã thấp thoáng tím sẫm trên các lối mòn. Đàn ong đi kiếm ăn sớm lang thang giữa những cánh hoa mò đỏ chót. Thứ hoa này khi mãn khai, mật ứa ra chân đài, toả hương thơm đặc biệt hấp dẫn các loài côn trùng. Lũ bọ ngựa kềnh càng như đàn bà chửa sắp đến tháng đẻ nằm phục trên đám mẫu đơn dại rình chú nhện vàng đang mải miết chăng lưới. Trên cao, chim sẻ đá từ mạn Yên Thái kéo về. Bọn này gần như suốt ngày chập chờn giữa cánh bãi nổi trồng kê, mắt trước mắt sau không thấy người là kéo cả đàn xuống mổ những bông sắp chín.

    Thêm nửa ngày nữa, tức là đến quá trưa hôm ấy, Khúc Luận đã rời kẻ Bòng một khoảng cách an toàn mà cánh chức dịch dù có muốn cũng không thể bắt được nữa. Hắn vừa thất thểu lê bước vừa nghĩ đến thân hình trắng trẻo, mập mạp đầy nhục cảm của cô Hót. Phải, giá mà lấy được cô ta thì hay biết mấy. Sau này hắn sẽ đưa cô ta về làng Cùa trình mẹ Cả cưới xin đàng hoàng. Càng nghĩ Khúc Luận càng căm thù anh em Lê Văn Khải. Tuy không nhìn thấy nhưng hắn dám chắc kẻ mách lẻo với bố con ông Thiện chỉ là chúng nó. Hắn thề, nếu sau này gặp lại sẽ làm cho hai thằng cháu phản phúc thân bại danh liệt. Hình như giữa nhà họ Khúc với nhà họ Lê có tiền oan túc trái chi đây. Bố hắn trước đã bị Lê Văn Vận giết chết giờ lại đến lượt hắn bị con trai ông ta chơi xỏ. Không được. Phải trở lại kẻ Bòng cho chúng mỗi thằng một nhát rồi muốn ra sao thì ra. Khúc Luận quay người , nhưng chỉ được một lúc lại giật mình. Cánh lý dịch giờ này chắc đang cho tuần đinh truy đuổi. Quay về tức là tự chui đầu vào thòng lọng. Anh hùng mười năm báo thù chưa muộn. Phải đi đã. Hắn thả lỏng cặp chân gần như sắp long ra khỏi đầu gối cho nó được tự do. Vậy là cặp chân rẽ trái bắt đầu chặng đường thiên lý. Khúc Luận là dân ngụ cư, chỉ thông thuộc vùng Ba Tổng. Từ khi sang kẻ Bòng hắn chưa bao giờ ra khỏi cồn Láng, nhưng kệ nó, đường ở mồm, khắc đi, khắc đến.

    Ngoài bộ quần áo và ít tiền, trong bọc còn có mo cơm nắm muối vừng. Ngon quá. Bây giờ hắn mới thấy đói thật sự. Hắn ăn một nửa còn một nửa để giành rồi xuống góc ruộng cạnh đường vốc nước uống. Nước vừa ngọt vừa mát. Hắn thấy người khoẻ ra nhưng lại bắt đầu buồn ngủ. Đây là con đường về tổng Mai Sơn tức là lên rừng. Hắn xách khăn gói, tìm bụi cây kín đáo định bụng làm một giấc rồi sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Chợp mắt không biết được bao lâu, Khúc Luận bị dựng dậy bằng một cú đá rất mạnh vào sườn. Hắn bật lên như chiếc lo xo bị nén căng. Trước mặt là mấy kẻ râu ria tua tủa dữ dằn chẳng khác gì tướng cướp. Hắn còn đang ngơ ngác chưa biết sự việc ra sao thì một gã tóc dài búi lại như củ hành, tay dứ dứ khẩu pạc hoọc hỏi:
    - Việt Minh hả? Đi đâu?

    Khúc Luận hoảng quá, giọng lập cập như người nói lắp:
    - Tôi là . . . không phải . . . Việt Minh.
    - Vậy mày vào rừng làm gì?
    - Tôi . . . về nhà.
    - Nhà mày ở đâu?
    - ở làng Cùa.
    - Nói láo! – Tên mặt dài , cằm nhọn như lưỡi cày quát – Làng Cùa mãi bên kia sông Lăng cách đây mấy ngày đường, mày tưởng chúng tao mù đấy à?

    Tên búi tóc củ hành bảo:
    - Cứ trói lại giải về trình bang trưởng để ông ấy khu xử.

    Trên đường đi, Khúc Luận bị bịt mắt bằng một dải băng đen chẳng biết bọn người lạ kiếm ở đâu. Tên cằm nhọn gài súng vào bao gỗ, rút dao quắm vẫn giắt ngang lưng đi trước mở đường. Hai gã đi sau thỉnh thoảng lại lấy mũi súng thúc vào lưng Khúc Luận. Đường gập ghềnh khó đi có lúc phải lội qua suối ngập ngang bắp chân. Tầm nửa chiều cả bọn mới về đến nơi. Khúc Luận được tháo băng. Quang cảnh đầu tiên hắn nhìn thấy trước khi trời tối là một dãy nhà lợp tranh ẩn dưới tán rừng già. Trên đường đi, Khúc Luận phỏng đoán những kẻ bắt mình là thổ phỉ. Điều ấy càng được khẳng định bởi cách ăn mặc tạp nham và thái độ cục cằn, thô lỗ của chúng đối với những người bị bắt cóc.

    Đây chính là sào huyệt của trùm phỉ Lý Quán. Lý Quán là con trai tướng phỉ người Hoa tên Lý Đại. Trước năm Quý Mùi, Lý Quán đã từng đánh nhau với Pháp cướp được nhiều vũ khí của bọn mắt xanh mũi lõ. Chỉ sau hai năm, hắn mở rộng địa bàn hoạt động làm dân chúng các tổng Mai Sơn, Nghĩa Lân và Cổ Đạo vô cùng khốn khổ. Đại bản doanh của Lý Quán trước đóng ở rừng Nghĩa Lân, bên ngoài có mấy trạm gác được bố phòng khá kiên cố. Cuối năm Thân, quân đội Nhật chiếm vùng Lạc Sơn, kỵ binh Phù Tang đánh cho toán phỉ Tàu này một trận tơi bời phải bỏ sào huyệt chạy về Mai Sơn. Sau năm Mậu Tý, một mặt Lý Quán bắt tay với Việt Minh, một mặt vẫn ngấm ngầm xây dựng căn cứ, bổ sung lực lượng, mua sắm thêm vũ khí chờ thời cơ chống lại chính quyền mới. Hắn thường cho quân đón lõng ở nơi hẻo lánh gần cửa rừng bắt đàn bà con gái mang về “sơn trại” rồi phao tin là Việt Minh bắt người tống tiền. Dân trong vùng sợ Lý Quán như cọp. Hắn tìm được một kho vũ khí của Nhật để lại trước khi về nước nên Việt Minh mấy lần bao vây, tập kích đều thất bại.

    Khúc Luận bị trói hai tay quặt ra phía sau lưng đưa vào gặp trùm phỉ. Đó là một gã đàn ông trạc tứ tuần, người thấp đậm, da bánh mật, mặt quả dưa, mắt một mí sùm sụp mang nét đặc trưng của người Tàu vùng bắc Quảng Đông. Hắn nhìn lướt qua cậu bé rồi hỏi:
    - Mày là người ở đâu?
    - Tôi ở làng . . . Cùa bên Ba Tổng.
    - Bố mẹ làm gì?
    - Bố là chánh Tổng Kim Đôi đã chết, mẹ còn sống.
    - Có ủng hộ chính quyền Việt Minh không?
    - Tôi thù chúng. Cuối năm ất Dậu xuýt nữa tôi bắn chết lão chủ tịch huyện.

    - Tốt lắm ! – Lý Quán cười khùng khục ngoác miệng đến tận mang tai, bảo bọn đàn em – Cho thằng bé này xuống phục vụ nhà bếp.

    Khúc Luận theo tên tóc củ hành ra đến cửa Lý Quán bỗng gọi lại hỏi:
    - Có biết chữ không?

    Khúc Luận ngập ngừng:
    - Thưa . . . chữ gì ạ?
    - Chữ Quốc ngữ chứ còn gì nữa.
    - Dạ có.
    - Học đến lớp mấy rồi?
    - Thưa . . . mới vào đệ lục ạ.

    Lý Quán chợt đổi giọng, mắt long lên sòng sọc :
    - Tao đổi ý rồi. Những thằng công tử được học hành như mày phải cho xuống toán lao dịch, đào hào chiến đấu mới xứng đáng, rõ chưa ?

    Đội lao dịch chừng hơn chục người có cả phụ nữ và trẻ em dưới sự giám sát của một tên mặt rỗ. Trông thoáng qua cũng biết gã là một hung thần. Tay gã luôn thủ cây roi song bằng ngón tay, ngứa mắt là vụt liền chẳng cần biết phải trái. Công sự là những con hào cắt sườn núi sâu ngập đầu, rộng chừng ba thước ta, chạy thành mấy lớp vòng chung quanh “ đại bản doanh”. Sáng hôm sau, Khúc Luận vừa bị dẫn ra bìa rừng thì nhìn thấy một phụ nữ quần áo rách tả tơi đang khênh gỗ cùng với thằng bé hơn chục tuổi. Hắn sinh nghi. Chả lẽ đó lại là cô ta? Mãi gần trưa, thừa lúc tên mặt rỗ chạy về trại lấy rượu uống cậu cả làng Cùa mới có dịp đến gần người thiếu phụ khẽ gọi :
    - Cô Nhân phải không?

    Nhân nhận ra ông anh họ nhưng vẫn thản nhiên như chưa từng quen biết.
    - Cô Nhân sao lại ở đây? – Khúc Luận hỏi lại.

    Đến lúc ấy người phụ nữ mới thủng thẳng bảo:
    - Nếu không muốn bị bắn chết thì hãy im lặng, coi như chúng ta không quen biết nhau.

    Cậu chàng còn đang ngạc nhiên bởi sự lạ thì Lý Quán từ trên sườn dốc đi xuống đến sát bờ hào hỏi Nhân:
    - Tôi đã nói rồi, em cứ ra đây với bọn lao dịch làm gì?

    Nhân vẫn cắm cúi xúc đất. Trùm phỉ lại giục:
    - Nào thôi về trại đi, tôi có việc cần hỏi.
    - Ông hỏi gì thì hỏi đi. – Nhân nói vọng lên.
    - Chuyện này quan trọng không thể tuỳ tiện được. – Lý Quán xuống giọng năn nỉ – Tôi đã cho mấy anh em đón ở ngã ba Môi thế nào cũng tìm được vợ chồng hắn.

    Lý Quán nói rồi đứng chờ khá lâu, khoảng hút tàn điếu thuốc Nhân mới vứt xẻng trèo lên bờ hào, giọng nhấm nhẳng:
    - Về thì về.
    - Thế là thế nào? – Khúc Luận như kẻ chết đứng buột miệng hỏi – Chả lẽ cô ta đã thành vợ hắn?

    Một ông già đen nhẻm, tóc muối tiêu nhìn anh chàng nhãi ranh bảo :
    - Cậu mới đến không biết là phải. Cô ấy là bà Ba quan bang trưởng.
    - Bà Ba? – Khúc Luận hỏi lại.
    - Nhưng mà bà ấy vẫn chưa cho ông ta động phòng.
    - Sao lại có chuyện lạ thế hả bác?
    - Nghe đâu cuộc đời cô này cũng phiêu bạt giang hồ lắm. Một lần ông Lý Quán cứu cô ta thoát nạn nhưng vì vẫn chưa nạp đủ sính lễ nên chưa được thành thân.
    - Lão ta cướp được bao nhiêu là tiền bạc chả lẽ…

    Ông già cười nhạt:
    - Không phải tiền bạc mà là cái đầu của vợ chồng tay chủ đò dọc nào đó.

    2. Sau khi rời khỏi làng Cùa, cuộc đời Nhân lại sa vào một bi kịch. Hôm ấy, bụng mang dạ chửa, Nhân cắp gói quần áo đi dọc triền đê, mấy lần định nhảy xuống sông Lăng nhưng nghĩ đến đứa con trong bụng lại chần chừ không nỡ. Khoảng nửa chiều có con đò dọc đậu ở bến Tam Giang sắp xuôi Vạn Giã, cô đánh liều bước xuống xin đi nhờ về kẻ Lủ. Nhìn thấy cô gái xinh đẹp ăn mặc nền nã tay chủ đồng ý ngay. Hắn ta trạc ba tư ba nhăm, rậm râu, tóc húi móng lừa, bắp tay bắp chân cuồn cuộn, ngực nở mày rậm, đặc biệt cặp mắt hoang dại như mắt chó sói nhìn ai cũng muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Nhưng bà chủ thuyền còn ghê gớm hơn nhiều. Mụ ta có khi phải hơn chồng năm bảy tuổi, nhác trông chẳng khác gì loại Tú Bà chuyên nghề buôn son bán phấn, đã hết thời xuân sắc phải xuống sông chạy đò dọc. Nhìn thấy Nhân, bà ta ghét lắm định tống cổ lên bờ. Ngữ này cho xuống thuyền chỉ hỏng đám chân sào. Chưa biết chừng gã chồng háo sắc nát rượu kia cũng thèm rỏ rãi cũng nên. Nghĩ vậy mụ ta gọi Nhân vào trong khoang hỏi:

    - Cô tên là gì?
    - Thưa bà, cháu tên là Nhân.
    - Quê quán?
    - Thưa . . .ở làng . . .Yên Ninh. - Nhân buột miệng nói dối.
    - Cô có mang phải không?
    - Cháu . . .chót dại.

    Bà chủ thuyền gật đầu khẽ “hừ” một tiếng :
    - Hiểu rồi. . . Bây giờ phải cho cái thai ra đã.
    - ấy chết! thưa bà. . .
    - Không muốn thì thôi nhưng ở đây là phải làm việc.
    - Xin bà làm phúc cưu mang, việc gì cháu cũng làm.
    - Vậy thì được.

    Công việc trên đò dọc không thiếu. Ngay chiều hôm ấy Nhân đã phải khênh những sọt dưa hấu lên bờ cùng với một thằng bé da đen nhẻm chừng mười một mười hai tuổi. Chuyến cuối cùng, vừa bước lên ván cầu thì Nhân bị trượt chân rơi xuống bến. Sau khi được cánh chân sào đưa lên thuyền , mọi người mới biết cô bị trụy thai, đẻ non. Máu ra ướt đẫm chiếc váy sồi. Đứa bé chỉ ngọ ngoạy được một lúc rồi tắt thở. Nhìn thấy Nhân nằm thiêm thiếp dưới khoang mụ chủ cau có bảo:
    - Để đàn bà đẻ trong thuyền là làm ăn xúi quẩy. Phải đưa cô ta lên bờ thôi.

    Tay chồng lắc đầu:
    - Đừng, phải tội chết.
    - Tội lội xuống sông. – Bà vợ gườm gườm lườm ông chồng trẻ - Đúng là cái đồ háo sắc, nhìn thấy gái cứ quýnh lên, bây giờ lấy cả tiền vốn ra mà nuôi báo cô nó.

    Gã chủ thuyền văng tục:
    - Mẹ kiếp! Chỉ tại bà bắt người ta khênh nặng mới ra như thế. Những việc ấy là của đàn ông cơ mà, hay là bà muốn chơi xỏ tôi?
    - Ông im đi! – Mụ chủ mà dân vạn đò vẫn gọi là Sáo Sậu, cầm tinh cọp, vênh mặt chì chiết - Đang yên đang lành thì rước cái của nợ ấy lên thuyền. Nếu phải lòng nó thì mang nhau đi nơi khác, để ở đây ăn bám là không yên với con này.

    - Tưởng gì chuyện ấy thì dễ . . . – Hắn nói rồi chạy huỳnh huỵch vào khoang lôi ra chiếc bị cói nhét mấy bộ quần áo vào rồi gọi mấy gã chân sào - Phiền các anh đưa cô Nhân lên cái quán cạnh gốc bàng trên kia giúp tôi.

    Sáo Sậu tưởng chồng dọa, ai ngờ hắn đi thật đâm hoảng :
    - Mới nói thế đã tự ái. Thôi thì cứ để cô ta ở lại ít hôm, sau sẽ tính.

    Phải nói vậy tức là Sáo Sậu đã chịu xuống thang, nhưng đấy chỉ là giải pháp tình thế nhằm giữ chân ông chồng chứ thực ra trong lòng mụ đang chết cay chết đắng. Con bé mỏng mày hay hạt, mắt sắc như dao cau, không chồng mà chửa hẳn là phường mèo mả gà đồng. Nó khác gì loài hồ ly tinh bất cứ lúc nào cũng có thể gieo tai hoạ cho người khác.

    Quá nửa đêm vào lúc mụ chủ thuyền đang mơ mơ màng màng chợt nghe thấy phía mũi khoang có tiếng to nhỏ. Hay là một thằng chân sào nào mò vào. Không phải. Bọn chân sào sau một ngày kéo thuyền mệt nhọc đang ngáy như sấm trong khoang lái. Vậy là chỉ có hắn. Đồ khốn nạn. Con đàn bà vừa mới đẻ non, máu còn dầm dề thế mà đã ngứa ngáy. Mụ rón rén như mèo rình chuột dỏng tai áp sát vách thủng. Trong khoang chồng mụ đang dỗ dành cô gái:
    - Chuyện đã lỡ như thế cô đừng trách bà ấy nữa. Ngày mai đi đến bến Lác tôi sẽ cắt thuốc ông lang Tiếm sắc cho mà uống, độ dăm hôm là khỏi.

    Tiếng Nhân:
    - Tôi cùng đường mới phải bước chân xuống nhờ đò dọc vậy mà bà ấy đối xử tàn tệ quá. Những người nhẫn tâm như vậy sau này tất bị quả báo.
    - Thì ra con này ghê gớm thật. – Sáo Sậu nghiến răng ken két - Được rồi mày sẽ biết tay bà.

    Sáng hôm sau, mụ chủ thuyền thản nhiên như đêm qua không có chuyện gì xẩy ra, đợi ông chồng lên bờ cắt thuốc, lân la đến chỗ Nhân nằm, giọng ngọt như mía lùi:
    - Đàn bà nhiều lúc bực bõ gắt gỏng không đâu, em bỏ quá cho chị. Chốc nữa anh Sỹ về, chị sẽ sắc thuốc, em cố mà uống cho mau lại sức.

    Nhân vẫn còn mệt, nghe giọng bà chủ quay quắt, bán tín bán nghi, nhưng đến trưa, khi mụ ta bưng bát thuốc còn nóng hổi đưa tận tay cho mình thì cô cảm động rơi nước mắt.

    Một tuần sau, lúc ấy đã khuya, Nhân đang thiu thiu ngủ, chợt thấy tiếng động nhẹ phía sau khoang. Bụng thầm nghĩ, chắc lại là anh ta. Người cô run lên vì sợ. Sao cái số mình nó khổ thế. Bà ta mà phát hiện ra thì biết thanh minh thế nào đây. Đêm ấy trăng suông. Con thuyền chở dằm, xuôi gió, bánh lái kẽo kẹt mỗi khi lão Đô ngủ gật để thuyền chệch hướng. Lá buồm cánh dơi bay lật phật. Hơi sương thấm ướt cả lớp vải bố nhuộm nâu thỉnh thoảng nhăn nhúm vì luồng gió quẩn. Bóng đen lặng lẽ đến gần rồi bất ngờ ấn mạnh cuộn giẻ vào mồm Nhân. Hai cánh tay hộ pháp của người đàn ông ôm cứng lấy cô chui nhanh ra ngoài. Cô chỉ ú ớ được mấy tiếng thì đã bị quẳng xuống sông. Trong lúc giãy giụa, thật may, cuộn giẻ bật ra, Nhân chới với giữa dòng nước, cố sức bơi ngửa để giữa thăng bằng. Hồi còn ở làng Cùa, Nhân đã nhiều lần bơi ra soi cát giữa sông vớt củi, nhưng đấy là ban ngày, còn lúc ấy, giữa đêm hôm khuya khoắt, nhìn đâu cũng thấy mênh mông nước chẳng biết chỗ nào là bờ. Trăng hạ tuần đã lặn nhưng trời vẫn còn lưa thưa mấy đốm sao. Mặt sông loang loáng những con sóng nhún nhảy tạo thành tiếng lóc bóc lúc gần lúc xa giống hệt tiếng súng làm bằng tàu chuối hột của lũ trẻ con. Nước phù sa lạnh toát. Nhân nhắm mắt khua tay bơi trong tình thế tuyệt vọng. Người vừa bị mất máu lại dầm nước như thế này, chỉ cần một cơn chuột rút là cái chết cầm chắc trong tay. Nhưng rồi Nhân chạm phải một vật lừ lừ trôi ngay bên cạnh. Một cây chuối. Vậy là sống rồi. Nhân thầm reo lên. Cô bám chắc, xoay theo chiều cắt ngang dòng nước, hướng về phía bên trái.

    Thời gian chậm chạp trôi đi. Nhân kiên trì nhích dần từng đoạn cố sức chống chọi với dòng chảy chẳng hiểu sao mỗi lúc một mạnh.

    Sáng sớm, có hai gã đàn ông ăn mặc theo kiểu lái buôn đi trên con thuyền gỗ nhỏ nhìn thấy Nhân nằm gục giữa dải cát cách bờ một đoạn liền chống sào đưa cô lên khoang. Hai người này chính là tay chân của tướng phỉ Lý Quán. Chúng thường giả làm dân đò dọc thám thính các tổng vùng hạ nguồn sông Vệ rồi tổ chức cướp tiền vàng hoặc trưng thu lương thực của bọn nhà giàu cho sơn trại. Nhìn thấy Nhân, Lý Quán mê ngay. Ông ta có hai vợ nhưng đều đã chết. Vợ cả bị mất xác trong trận Nhật ném bom Đồng Quan. Vợ hai bị rắn khô mộc cắn ở rừng Mai Lĩnh, về đến trại thì đã quá chậm, không cứu được. Phận đàn bà, rơi vào hoàn cảnh ấy Nhân không còn cách lựa chọn nào khác, nhưng cô ta đưa ra một yêu cầu là bang trưởng phải bắt cho được mụ chủ thuyền độc ác trên sông Lăng mới chấp nhận gá nghĩa với ông ta. Quân thám thính của Lý Quán lang thang dọc các bến hơn hai tháng thì tìm ra tung tích con đò dọc. Lúc ấy có lẽ vì sợ lộ tung tích nên Sáo Sậu bắt chồng xuôi xuống ngã ba Môi, ngược lên sông Vệ làm ăn ở khu vực bến An Đồng. Hai tên phỉ giả làm lái buôn vải phải trả công vận chuyển khá cao , hứa sẽ thưởng thêm sau khi hoàn thành mới lừa được Sáo Sậu về bến Tam Giang. Chập tối ngày mười bốn, đang trên đường đi Cổ Trai, đến quãng vắng, hai tên phỉ rút súng uy hiếp tay chủ thuyền và cánh chân sào, trói gô lại nhét giẻ vào mồm rồi lôi Sáo Sậu xuống chiếc thuyền đánh cá đậu gần đấy. Mụ ta ngơ ngác không biết chuyện gì xẩy ra thì bị một trong hai “lái buôn” chặt cho một nhát vào gáy.

    Nhìn thấy Nhân ở sơn trại, mặt mụ chủ thuyền tái nhợt, quỳ xuống vái lấy vái để xin tha mạng. Cô ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo Lý Quán :
    - Hay là tha cho bà ta.

    Ông trùm phỉ lắc đầu:
    - Đối với loại nặc nô như thế này không thể không trị tội. Mình quên là mụ đã sai thằng chân sào ném xuống sông rồi sao? Phải xử bắn.

    Nhân ngập ngừng:
    - Làm thế liệu có nhẫn tâm quá không?

    Lý Quán cười gằn:
    - Không đâu. Tội ác của nó phải xử lăng trì mới đúng.

    Nói rồi ông trùm phỉ vẫy tay về phía sau. Hai tên còn khá trẻ tóc tai bờm xờm như người rừng khoác súng xuất hiện lôi Sáo Sậu vào rừng. Chừng nửa khắc, có hai tiếng nổ rất gần làm Nhân giật thót người.

    Lễ cưới được cử hành khá cầu kỳ theo nghi thức của người Tàu. Lý Quán trong bộ y phục võ quan Quốc dân đảng, ngực cài bông hoa lụa đỏ bằng cái đĩa sứ Giang Tây nâng chén tươi cười mời quan khách. “Quan khách” ở đây không phải ai khác mà chính là đám lâu la ăn mặc tạp nham, mặt mũi hốc hác, râu tóc lâu ngày không cạo chẳng khác gì đám ăn mày đói khát. Khúc Thị Nhân đầu trùm khăn đỏ, ngồi cạnh bang trưởng im lặng như một pho tượng. Khúc Luận cũng được lôi vào đội quân phục dịch, nghĩa là phụ giúp mấy gã nhà bếp những việc lặt vặt. Nhìn thái độ ngạo mạn của Lý Quán, cậu công tử làng Cùa tức đầy ruột, thầm nghĩ “giờ mà có khẩu súng ông sẽ cho mày một phát rồi muốn ra sao thì ra”. Trong giây lát hắn tưởng tượng ra cảnh tên phỉ bị bắn vỡ đầu, óc phọt ra hoà lẫn với máu thành một đám lầy nhầy vung vãi dưới đất. Hắn rê nòng khẩu tiểu liên Nhật vừa cướp được của tên mặt rỗ, hạ gục toán lâu la rồi kéo Nhân nhảy xuống đường hào. Đầu cô em họ vẫn còn trùm khăn đỏ. Hắn bực mình giật phắt, hoá ra tân nhân của Lý Quán là một con hồ ly trắng toát như tuyết. Hắn hoảng quá, người toát mồ hôi mắt trợn ngược như bị trúng gió. Một tên phỉ lấy cùi tay thúc vào mạng sườn hắn quát khẽ :
    - Thằng này điên đấy à?

    Bọn phỉ uống rượu theo đúng phong cách của các hảo hán Lương Sơn Bạc, tức là nốc ừng ực từng bát lớn, xong , khà một tiếng rồi mới nhón tay bốc thịt nhai nhồm nhoàm Ngày vui của chủ tướng, ngay cả bọn gác ở các trại ngoại vi cũng được thả lỏng. Chúng tha hồ chạm cốc say tuý luý thậm chí nôn oẹ bừa bãi cũng không bị phạt. Đêm xuống, Lý Quán sai thắp đuốc cắm la liệt khắp “sơn trại”. Những ngọn đuốc cháy rần rật toả ra toả ra thứ ánh sáng hung hung đỏ cùng với đám khói đùng đục cuộn lại bốc lên cao toả mùi khét lẹt cay xộc lên tận óc. Nốc rượu vào, bọn lục lâm phởn chí, vừa múa may quay cuồng vừa cất giọng lè nhè hát. Vào đúng lúc ấy có những bóng đen mặc áo trấn thủ từ dưới đường hào lần lượt chui lên. Họ nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí xung yếu rồi bất nhờ nổ súng vào đám cưới. Bọn thổ phỉ bị ma men lấy hết đảm khí, phần lớn không kịp trở tay, ngã hàng loạt như cây chuối bị phạt ngang. Phía cuối đường hào nhoáng lên một quầng lửa. Vừa ném xong quả lựu đạn Nhật, tên mặt rỗ lại xả một loạt đạn làm một Việt Minh đang chạy khựng lại. Anh ta ngoẹo đầu sang một bên vai trước khi ngã xuống. Khúc Luận định nhảy xuống đường hào, nhưng chợt nhìn thấy khẩu tiểu liên của thằng phỉ cằm lẹm vừa bị trúng đạn Việt Minh, bèn vồ lấy nhằm gã mặt rỗ kéo cò. Tên ác ôn nhảy cẫng lên như bị vấp, khẩu súng rớt khỏi tay. Thấy hắn đã chết, Khúc Luận xô đống cây cột đổ lổng chổng đuổi theo Lý Quán. Sau khi luồn qua một đoạn hào khá dài, hắn nhìn thấp thoáng chiếc ngù vai bằng kim tuyến dưới ánh lửa chập chờn của mấy ngọn đuốc sắp tàn, liền nâng súng kéo hết cả băng đạn rồi lẩn vào một công sự mới đào nông choèn. Bỗng có tiếng quát:
    - Đứng im! Bỏ súng xuống!

    Khúc Luận giật mình nghĩ là sắp chết đến nơi. Trước mặt hắn là một Việt Minh còn trẻ, đuôi mắt có vết sẹo bằng hạt ngô, tay cầm súng lục hất hàm hỏi:
    - Mày vừa bắn ai?
    - Bắn Lý Quán.- Khúc Luận lập cập nói – Tôi vừa nhìn thấy vợ chồng nó chạy theo đường hào kia lên rừng.
    - Làm phỉ lâu chưa? – Người Việt Minh hỏi lại.
    - Tôi bị chúng bắt ở rừng Cổ Bi từ giữa tháng chín.
    - Được! – người chỉ huy Việt Minh gật đầu bảo – Cầm lấy khẩu súng kia rồi theo tôi.

    Khúc Luận ngớ người ra chưa hiểu ý tay Việt Minh ra sao thì anh ta hỏi:
    - Có muốn vào bộ đội không?

    Cậu công tử làng Cùa không tin ở tai mình nữa. Hắn là đứa trẻ vị thành niên, vô gia cư lại đã từng gây án, lúc này được gia nhập Việt Minh thì còn gì bằng. Hắn sướng quá nhưng lại chợt nghĩ “ nhỡ anh ta đánh lừa đưa mình vào rừng cho viên đạn vào đầu thì toi đời. Bọn này liệu có thể tin được không?”. Có vẻ như đã nắm được tâm trạng gã thanh niên trông như gà tồ này, anh Việt Minh vỗ vai hắn bảo:
    - Nếu không muốn theo kháng chiến thì về nhà với mẹ nhưng phải nộp lại khẩu súng.
    - Dạ, thưa các anh, em muốn làm Việt Minh lắm.
    - Tốt. – Người chỉ huy gật đầu – Bây giờ theo tôi vào sào huyệt Lý Quán.

    Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Hai mươi mốt tên phỉ tử thương. Những gã còn lại sáng sớm hôm sau đều bị đưa vào rừng xử bắn. Vợ chồng Lý Quán biến mất, không biết họ trốn ở đâu.
    (còn tiếp)

  4. #10
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 10

    1. Tháng Bảy năm Năm Tư, làng Cùa bắt đầu Cải cách ruộng đất. Ban chỉ đạo có ba thành viên do một người dong dỏng cao, tóc xoăn, khoảng hăm bảy hăm tám tên là Lạc làm đội trưởng. Đội Lạc xuất thân thành phần cố nông. Bố mẹ quanh năm làm mướn cho lý Đăng. Một năm nước lụt vỡ đê, mất mùa, bà mẹ ra sông Vệ mò tôm chết đuối mất xác. Tháng tư năm Dậu, sau trận đói khủng khiếp, đồng điền bỗng như có phép lạ, lúa tốt bời bời, khắp xóm dưới làng trên chỗ nào cũng thấy mùi no ấm. Dân kẻ La trông ngóng từng ngày, nóng lòng nóng ruột chờ lúa đỏ đuôi là gặt thử làm một bữa cơm mới cho bõ những ngày ăn củ chuối hoặc rễ rau rền lẫn với cháo cám. Lạc còn nhớ, nửa đêm hôm ấy ông Lục ra thửa ruộng lĩnh canh cắt trộm mấy chục lượm mang về nhà vò rồi cho vào cối giã. Thóc tươi, nhiều hạt còn xanh lè nhưng cuối cùng cũng được nấu thành cơm. Đó là nồi cơm trắng toả mùi thơm đặc biệt hấp dẫn làm cả hai bố con đều nuốt nước miếng ừng ực. Cơm vừa bắc ra bất ngờ Lạc bị một cơn đau bụng dữ dội. Người anh ta toát mồ hôi hột, hai thái dương nhức như bị thít bằng một thứ đai sắt cứ mỗi lúc lại xiết chặt thêm. Ông Lục phải giã ngải cứu vắt nước cho uống nửa giờ sau mới đỡ. Khi Lạc ngủ, ông bố đói quá mở vung nồi xúc cơm ăn trước. Thức ăn chỉ có nắm cua với mấy ngọn rau lang luộc nhưng vì đã bốn ngày chưa có gì vào bụng nên ông đánh liền một lúc sáu bảy bát. Ngon quá. Ông định làm thêm bát nữa cho đỡ thèm rồi đi nấu cháo cho Lạc, bỗng nhiên cảm thấy trong bụng như có cái gì vỡ ra kêu đến bục một tiếng. Ông rùng mình, toàn thân ớn lạnh rồi nằm vật xuống không biết gì nữa. Cơn đau làm Lạc kiệt sức, ngủ mê mệt gần tối mới tỉnh dậy thì thấy ông bố nằm co quắp dưới nền nhà, người đã lạnh cứng. Anh ta sợ quá chạy ra cổng hô hoán. Cụ khoá Lềnh ở kề hàng rào sang sớm nhất, nhìn thấy bộ dạng ông hàng xóm, chép miệng bảo:
    - Rõ khổ! Bác ấy ăn cơm mới no quá bục dạ dày.

    Lạc khóc rống lên. Anh ta thương bố quá. Ông Lục ăn ở hiền lành, lam lũ vất vả suốt một đời giờ chết tức tưởi thế này đây.

    Năm Mậu Tý, Tây về đóng đồn núi Voi, ép các làng vùng Cao Tân vào tề. Ngày nào chúng cũng đi càn bắt đàn bà con gái mang về hãm hiếp. Một lần kiếm được quả tạc đạn mỏ vịt do bọn lính Ma rốc đánh rơi ở sườn đê, Lạc chờ đến đêm ném vào sân đồn làm chết ba tên da đen và một viên đội người Pháp bị thương rồi trốn sang Quất Lâm theo Việt Minh.

    Được cử vào Đoàn Cải cách dịp này, Lạc vô cùng phấn khởi. Đây chính là cơ hội để trả thù bọn địa chủ cường hào với phương châm “đào tận gốc trốc tận rễ” để thực hiện chủ trương “người cày có ruộng”. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này, cốt lõi của nó là phải triệt để chuyên chính vô sản, nghĩa là cần xử bắn mỗi làng ít nhất từ ba đến năm đối tượng, nhằm củng cố niềm tin cho tầng lớp bần cố nông, răn đe bọn địa chủ, cường hào làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của người lao động. Qua mấy cuộc họp, Đội Cải cách đã thành lập tổ cốt cán gồm toàn anh chị em bần cố nông, rất hăng hái phát động phong trào ôn nghèo kể khổ, khơi gợi lòng căm thù của bà con nông dân từ ngàn đời nay vốn quen chịu áp bức bóc lột mà không dám đấu tranh. Một trong những thành phần ấy là Chĩnh Con và ứng Thị Sót, con dâu Chánh Tổng Lê Bang.

    Những ngày này làng Cùa sôi động lạ thường. Khắp nơi từ tường đình, mái miếu, cổng làng, cứ chỗ nào hở ra lập tức được kẻ khẩu hiệu bằng nước vôi đặc với đủ kiểu chữ mà phần lớn là nguệch ngoạc và sai chính tả. Đại loại như: “Đả đảo bọn địa chủ cường hào bóc nột bần cố lông”, “tất cả ruộng đất về tay rân cày”, hoặc “Đảo đảo tên chánh tổng Lê Bang”. . . Các cuộc biểu tình diễn ra liên miên dưới sự chỉ huy của hai nữ cốt cán. Đoàn biểu tình lúc đầu chưa đầy ba chục người nhưng chỉ ít phút sau đã trở thành một đám quần chúng đông đảo nối nhau như rồng rắn diễu qua các ngõ ngách trong làng. Qua mỗi ngõ ngách, đoàn lại được bổ sung thêm những thành viên rất hăng hái trong việc hô khẩu hiệu lôi đích danh địa chủ, phú nông đã nằm trong tầm ngắm của Đội Cải cách ra chửi bới, xỉ vả. Bà cả Huê là một trong nhưng nạn nhân đầu tiên.

    Ban ngày, những đối tượng này không dám ra khỏi nhà, vạn nhất, có việc cần, phải đợi đến đêm, lần mò đi như thằng ăn trộm, nếu chẳng may bị cánh du kích tuần tra tóm được thì xem như mạng sống chỉ còn tính từng ngày. Chánh Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền, bà cả Huê. . .như kiến trong chảo rang, thỉnh thoảng gặp nhau lại thì thầm to nhỏ chẳng khác gì trước năm Dậu Việt Minh lập hội kín.

    Từ ngày Khúc Thị Huệ theo chồng về Pháp, Khúc Luận đi biệt tích, bà cả Huê gọi thằng Lẫm con ông Khúc Thuỵ là em họ Khúc Đàm bên Đậu Khê sang trông nom nhà cửa. Thằng này người gầy nhằng, tai như tai phật, răng đen xỉn vì lúc bé mắc chứng cam tẩu mã nhưng tính thật thà làm đâu ra đấy. Bà bác quý lắm định sau này cho ăn một phần thừa tự, ai ngờ thời thế phút chốc thay đổi

    Đoàn biểu tình rẽ vào xóm đình. Trống cà rùng do hai gã con trai nhà Nhiêu Chóp khênh vừa đi vừa nhún nhảy như kép tuồng ra bộ. Thằng Quả chột mắt cầm chiếc dùi to tướng bằng gỗ nhãn được đẽo rất sơ sài, nện một nhịp dạo đầu. Tiếp đó là bảy trống con do tốp thiếu niên đội mũ ca lô xanh, áo trắng, quần short xanh, thắt khăn quàng đỏ, đồng loạt hoà tấu rất ròn rã. Chiếc lệnh to đùng lấy ở đám tế khí trong đình Cả do ông vệ Cốc và bà đồng Mạn nhũng nhẵng khênh, chốc chốc lại bị vụt một nhát cuống chổi. Thứ âm thanh choang choang rất chối tai ấy làm ngay cả lão vệ Cốc vừa đánh cũng phải giật mình. Mấy cô răng đen vốn là con cháu những hộ tá điền xóm Trại không hiểu kiếm được ở đâu bốn cái thanh la, thỉnh thoảng lại gõ vài tiếng leng keng nghe gần giống tiếng chuông của mấy ông đạp xích lô trên phố huyện. Hoà nhịp với bộ gõ kim khí ấy là một hồi kèn đám ma nghe rất lạc lõng nhưng lại vô cùng tỉ tê ai oán khiến cho những bà những cô đa cảm bắt đầu sụt sịt. Lê Thị Chĩnh, nữ cốt cán, người cầm đầu cuộc biểu tình lập tức lao từ trên xuống quát:
    - Ai thổi kèn đám ma? Muốn chống lại công cuộc Cải cách ruộng đất hả?

    Mọi người nháo nhác bổ đi tìm kẻ phản động. Cuối cùng mấy tay dân quân cũng tóm được thủ phạm. Thì ra hắn là Nguyễn Đình Phán, con trai ông cửu Mẫn chuyên nghề thầy cúng bắt ma, tróc quỷ khắp vùng Ba Tổng. Buổi sáng thấy đám đông diễu qua cổng, hắn sướng quá, xách ngay cây kèn hiếu của lão phó La chạy ra nhập hội rồi phồng má trợn mắt tấu điệuLâm khốc góp vui. Chiếc kèn bị tịch thu tức thì làm tang vật. Hai dân quân áp giải anh chàng phá đám về giam ở hậu cung đình Cả chờ Đội xét xử.

    Đoàn người rầm rộ bước trong tiếng chiêng, trống, thanh la, não bạt rầm rĩ chốc chốc lại dừng chân. Người lĩnh xướng đưa chiếc lao sắt tây lên miệng xoay tứ phía dõng dạc hô:
    - Đả đảo địa chủ cường hào bóc lột bà con bần cố!
    - Đả đảo!
    - Đả đảo bọn Việt gian phản động Quốc dân đảng!
    - Đả đảo!

    Hàng trăm, hàng nghìn cái miệng đồng loạt cất lên, âm lượng mỗi lúc một tăng, cuối cùng trở thành một cuộc thi gào thét làm đám nhà giầu đang tạm thời ẩn náu trong những ngôi nhà ngói khang trang có sân gạch, tường hoa, cây cảnh vô cùng khiếp đảm. Vì đường hẹp nên đoàn biểu tình phải kéo dài ra, đứng trên cao trông ngoằn ngoèo chẳng khác gì con trăn màu nâu đất đang rùng rùng trườn đi trong tư thế hối hả vồ mồi. Sắp đến nhà chánh Đàm, khẩu hiệu lúc này không còn chung chung nữa mà rất cụ thể theo kịch bản của đội Lạc đã được dàn dựng từ trước. Người xướng loa hướng vào ngôi nhà gác hai tầng gân cổ hét lên:
    - Đả đảo địa chủ Đặng Thị Huê!
    - Đả đảo! Đả đảo!
    - Đả đảo vợ cả Việt gian Khúc Đàm!
    - Đả đảo!
    - Lôi địa chủ Đặng Thị Huê ra cho bần cố nông hỏi tội!
    - Lôi ra! Lôi ra!

    Trong nhà, bà Cả biết thế nguy, sai anh con nuôi lấy thêm đoạn tre chặn cổng. Nhưng cổng nào chống được sức mạnh tổng hợp của bần cố nông bấy lâu nay bị áp bức bóc lột. Họ xúm nhau, ghé vai đẩy vài lần thì hai cánh cổng lim bật ra. Lập tức, mấy dân quân vốn là tá điền rất thông thạo mọi ngõ ngách trong ngôi nhà này chạy thẳng lên gác trói hai tay bà chủ lôi xuống sân. Chĩnh Con gườm gườm nhìn mụ địa chủ, thấy mặt bà ta lầm lầm thoáng vẻ khinh bỉ liền tát cho một cái cảnh cáo. Cấn Viết Tham, một cố nông chuyên đóng khố đánh giậm ở ngòi Mác tuổi trạc ba tư ba nhăm dúi đầu bà Chánh xuống quát:
    - Đi!

    Bà cả Huê bị hai dân quân kèm lầm lũi bước theo đoàn biểu tình. Lúc này người từ hai bên đường đổ ra rất đông. Họ chen lấn nhau, ai cũng muốn nhìn tận mặt vợ chánh Đàm bằng cặp mắt hiếu kỳ. Bà Huê mái tóc chớm bạc xổ tung rủ lòng thòng trước ngực, cổ quàng tấm biển gỗ viết mấy chữ bằng sơn đen “Địa chủ ác bá” bị đẩy đi theo nhịp trống chiêng chẳng khác gì một đám rước thần chỉ thiếu cỗ kiệu bát cống và mấy ông bồi tế đội mũ bình thiên mặc áo thụng lam mà thôi. Đám trẻ có lẽ phấn khởi hơn cả. Chúng còn quá bé chưa hiểu sự đời. Có đứa cởi truồng nồng nỗng, mũi thò lò xanh, tay chỉ chỏ còn miệng thì hét tướng lên mỗi khi đám đông diễu qua cổng.

    Đến xế trưa khi mọi người bắt đầu đói bụng, không khí đấu tranh đã tạm lắng xuống thì đoàn biểu tình vòng về đến sân đình. Mấy bà già bị phong thấp tê chân ngồi phệt xuống đường xoa bóp chỗ đau. Cánh dân quân giong bà Cả Huê vào ở dãy nhà phụ. Bà con giải tán về ăn cơm, chiều lại tiếp tục diễu hành xuống xóm Bờ Sông.

    Đình Cả trở thành đại bản doanh của đội Cải cách. Đội Lạc ăn ở ngay tại đây còn đội Yên, đội Khắc nghỉ trong các gia đình cốt cán. Họ đều là thành phần cố nông có lý lịch trong sạch, tinh thần cảnh giác cao. Dãy nhà phụ vừa hẹp vừa thấp gồm bảy gian bị đổ nát sau trận lũ năm Mùi mới được sửa chữa lại và lắp khoá từ khi làng Cùa phát động Cải cách ruộng đất. Gian ngoài cùng để đòn khênh đám ma, trước vẫn cho lão Mộc điếc ở nhờ, gần đây lão bị tống ra miếu Si, đòn khênh cũng quẳng ra sau đình lấy chỗ giam địa chủ. Gian nhà ẩm ướt mới thoáng ngửi đã nổi da gà. Một tấm phản cong vênh vứt chỏng chơ trên nền đất lổn nhổn mùn giun lẫn với phân dơi. Bị giong làng suốt buổi sáng, chân bà Chánh xuống máu sưng đẫy lên, lại mót tiểu tiện mà cửa thì đã khoá. Chẳng thể chịu được nữa, bà ta đánh liều kéo váy tè ngay ở góc nhà. Mùi nước giải hăng nồng, mấy tiếng đồng hồ mới có dịp xả ra, chạy như tháo cống, xộc lên mũi làm chính chủ nhân của nó cũng phải hắt xì hơi liền mấy cái. Nhưng rồi chỉ một thoáng, cái thứ nước thải rất khó ngửi ấy cũng ngấm dần xuống đất, bà Cả Huê nhẹ cả người, ngả mình xuống tấm phản. Hãy chợp mắt một lúc đã. Mặc kệ sự đời.

    Lúc thức dậy bà ta thấy thằng Lẫm thập thò ngoài cổng đình. Nó phải nằn nì hai ông dân quân gần một giờ mới được đưa cơm vào. Người ta chỉ cho phép chuyển liễn cơm còn món cá kho với rau cải xào bị tịch thu. Tay Mực khịt mũi nhón một miếng cá bống om tương đưa lên mồm nếm thử rồi bảo :
    - Thay mặt bà con bần cố nông ta tuyên bố “tịch thu” những thứ này của địa chủ Đặng Thị Huê sung vào công quỹ.

    Trong nhà giam bà Chánh dùng tay bốc cơm ăn, mắt gườm gườm nhìn hai ông cố nông đang thực hiện đấu tranh giai cấp bằng cách thanh toán rất nhanh mấy đĩa thức ăn. Đêm xuống. Đèn măng xông thắp sáng choang. Hôm ấy có một cuộc họp cốt cán phát động dân nghèo đấu tranh vạch mặt địa chủ phú nông, quy kết thành phần và chuẩn bị chia ruộng đất. Các cố nông nòng cốt của phong trào như Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh Con, ứng Thị Sót, Lương Văn Mực đều đến sớm chứng tỏ tinh thần rất hăng hái. Đội Lạc ngồi chủ toạ. Đội Yên làm thư ký. Vì tất cả các cốt cán đều không biết đọc biết viết nên Đoàn Cải cách của huyện chỉ thị chung là họ phải chú ý nghe, nhập tâm sau đó cứ theo tinh thần ấy mà làm . Đội trưởng có giọng nói khá truyền cảm, mỗi khi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Cải cách ruộng đất anh ta đều dùng cụm từ “Hãy nhớ rằng đây là cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn”.

    - Theo chỉ thị của cấp trên, làng Cùa phải quy cho được ít nhất năm địa chủ, bảy cường hào và mười hai phản động. Xin các đồng chí cốt cán lưu ý, đây là chỉ tiêu mà ta không có quyền bàn cãi. Bằng mọi cách phải vận động bà con vạch mặt được tội chúng.

    Lại Quang Nghinh, đảng viên, bần nông mới được chỉ định làm chủ tịch xã Đoàn Kết đứng dậy báo cáo tình hình địa phương:
    - Nếu tính theo số ruộng đất cho phát canh thu tô hoặc mướn người cày cấy thì làng Cùa chỉ tìm được ba địa chủ còn phần lớn đều thuộc loại trung nông.

    Đội Lạc hắng giọng cắt ngang:
    - Lập trường của đồng chí còn lơ mơ lắm. Muốn quy kết thiếu gì cách. Với bọn phú nông hoặc trung nông lớp trên cứ động viên bà con tố diện tích lên gấp đôi, gấp ba là thành địa chủ ngay.

    Lại Quang Nghinh ngớ ra một lúc rồi mới tiếp tục trình bầy:
    - Về bọn phản động thì mọi người đã rõ. Đó là Lê Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền. Bọn này từ lâu đã làm tay sai cho Tây chống lại chính quyền nhân dân.

    Đội Yên lắc đầu:
    - ít quá. Đề nghị các đồng chí phải phát hiện thêm, nếu tìm không ra đối tượng theo Tây thì khoác cho tội theo Quốc dân đảng. Làm thế nào thì làm nhưng trên chỉ đạo, hết đợt một, Toà án đặc biệt phải tuyên được của làng Cùa bốn án tử hình, năm chung thân còn lại là mức hai mươi năm.

    Chủ tịch xã tái mặt nhìn đội Lạc:
    - Báo cáo các anh, thế thì nhiều quá, tôi e là tìm không ra. . .

    Đội Lạc đưa mắt nhìn đội Yên:
    - ý đồng chí Yên cũng là quan điểm chỉ đạo của Đoàn Cải cách, đề nghị anh chị em cốt cán bàn kỹ việc này.
    Cấn Viết Tham rụt rè nói:
    - Nếu cấp trên đã chỉ đạo như thế thì tôi nghĩ bọn Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, đồ Sách và cả thằng Khúc Luận con lão chánh Đàm cũng là phản động.

    Đội Lạc tươi cười chạy xuống tận nơi bắt tay Cấn Viết Tham.
    - Thế mới là lập trường giai cấp chứ. Đồng chí chủ tịch xã thấy chưa? Từ nay trở đi phải triệt để tôn trọng ý kiến bần cố nông. Bây giờ chúng ta cần thống nhất kế hoạch hành động. Trước mắt phải bắt ngay chánh Bang, Khúc Kiệt và lý Quỳnh giam lại, sau đó cử dân quân lên huyện điệu Lê Văn Vận về cho bà con đấu tranh. Cuối cùng phải để mắt đến bọn hương dũng và lính Bảo an. Đã làm là phải làm triệt để.
    Đội Lạc chủ trì cuộc họp khá bài bản, cốt cán Lê Thị Chĩnh phục lắm, nhìn anh ta, mắt lúng liếng:
    - Chúng tôi xin chấp hành mọi sự chỉ đạo của đội Cải cách.

    Gà gáy lần thứ nhất, một vài người đã bắt đầu ngáp, đội Lạc, đứng dậy tuyên bố:
    - Nếu không còn ai ý kiến nữa thì cuộc họp đến đây kết thúc, các đồng chí về nghỉ, riêng đồng chí Chĩnh, đồng chí Sót và đồng chí Tham ở lại hội ý công việc ngày mai.

    Lê Thị Chĩnh là con ông mõ Vò ngụ cư làng Cùa từ năm Giáp Tuất. Ông bà Vò mấy đời làm nghề thợ đấu quanh năm trôi nổi ở vùng đồng chiêm trũng khắp các tổng La Thượng, La Hạ, Quán Đồng. Năm nhâm ngọ bà Vò bị sét đánh chết ở đống Lạp để lại hai chị em Chĩnh. Thương cảnh gà trống nuôi con lại vừa gặp lúc lão mõ Tụ quy tiên, làng cho ông Vò thế chân. Làm nghề này cũng kiếm được miếng ăn nhưng bị thiên hạ khinh coi như dân hạng ba, còn thấp kém hơn cả những hộ ngụ cư. Hai chị em Chĩnh lớn lên cũng có chút nhan sắc nhưng trai đinh làng chẳng anh nào để ý đến. Năm Chĩnh Lớn mười chín, nhân một chuyến đi chợ Cháy có gặp một anh chàng người tổng Chi Điền. Đó là một tay chuyên nghề bẫy cò tên là Triền ở làng Phú Đa, hơi méo mồm, phiên chợ nào cũng mang cò bán. Gặp Chĩnh, Triền phải lòng ngay, hai người mày đầu cuối mắt, mới có hai phiên đã chỉ non thề biển nguyện sẽ sống đến lúc đầu bạc răng long. Nửa tháng sau, nhà trai mang trầu sang làng Cùa chạm ngõ mới biết cô dâu tương lai là con ông mõ Vò. Tất nhiên là quan hệ của đôi trai gái chấm dứt, chàng bẫy cò bị ông trưởng họ mắng cho một trận nên thân về thói mê gái xuýt nữa làm bại hoại gia phong. Chĩnh Lớn hận tình quá nửa đêm chạy ra sông Lăng tự tử. Chĩnh Con tức tưởi khóc chị và khóc luôn cho số kiếp hẩm hiu của mình. Cô hận thói đời đen bạc bởi những luật lệ khắt khe của cánh chức dịch Ba Tổng. Cô thương mẹ thương cha và căm thù dân Kim Đôi, chỉ mong một ngày kia có sự đổi đời, sẽ đập váy máu vào mặt những kẻ sinh ra thứ hương ước quái gở, phân chia đẳng cấp tàn nhẫn, chà đạp lên hạnh phúc của mình. Thời cơ đã đến. Đây là dịp may hiếm có, phải triệt để lợi dụng những kẻ như đội Lạc, đội Yên và cả chủ tịch Lại Quang Nghinh nữa để rửa mối hận truyền kiếp của gia đình. Phải thẳng tay trị cho con mụ cả Huê lúc nào cũng vênh váo trưởng giả một bài học đích đáng. Phải kích động bần cố nông phát tán gia tài nhà họ Khúc, cuối cùng đưa mụ ra trường bắn lĩnh vài viên đạn hoặc ít nhất cũng tống đi Lào Cai, Sơn La để mụ ngồi đếm dần những tháng ngày còn lại trong xà lim biệt giam. Khúc Kiệt cũng không thể tha. Lão thầy đồ nửa mùa này hơn chục năm qua chỉ thích đánh nhau. Một tay lão đã gây ra cái chết của không biết bao nhiêu người trong huyện Nam Thành. Hồi trước, mỗi lần ra đình, Khoá Kiệt cậy có chữ, khinh rẻ đám bạch đinh. Đã có lần lão lấy roi mây quất ông Vò chỉ vì mấy miếng đầu gà chẻ không đều làm phần của lão lép hơn so với chánh hội Bường.


    2. Toán dân quân hơn chục người dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng Bùi Quốc Tầm mang theo bảy khẩu súng trường, năm quả lựu đạn mỏ vịt và một cuộn thừng trâu rời làng Cùa lúc năm giờ chiều. Bọn này phần lớn là dân lực điền, chân bàn cuốc, gai đâm không thủng, chạy bộ chục cây số chẳng bõ bèn gì. Bùi Quốc Tầm con ông Bùi Khắc Nhũ, tiên chỉ làng Đậu Khê. Ông Nhũ làm nghề thiến lợn, quanh năm xách thòng lọng khắp mấy tổng Kim Đôi, Ngân Đôi, Cao Xá, đến ngõ nào cũng cất giọng lanh lảnh bằng một ngữ điệu rất truyền cảm: “Thiến lợn ơ!” Tài thiến lợn của Bùi Khắc Nhũ vùng Ba Tổng không ai bì kịp .Vừa vào đến cửa chuồng, con lợn chưa kịp nhận ra người lạ thì một cẳng đã bị thít thòng lọng lôi ra. Ông thợ chụm ngón tay xoa nhẹ dưới háng, gãi gãi mấy cái như một trò đùa rồi bất ngờ đưa xoẹt một đường dao làm chú ta giãy nảy lên. Chỉ một loáng, hai hạt cà đã được móc ra nằm gọn trong chiếc bát da lươn . Lấy vợ từ lúc mười sáu tuổi, đến năm ba mươi sáu vợ Bùi Khắc Nhũ đẻ liền bảy cô con gái. Trong nhà toàn vịt giời, lúc nào cũng cãi nhau chí choé, mất thớ với cánh đàn ông trong giáp, họ Bùi liền nghĩ đến chuyện đi gửi thiên hạ. Vốn sẵn máu phong tình, bác thiến lợn không khó khăn lắm trong việc thả lời ong bướm tán tỉnh các cô quá lứa nhỡ thì hoặc đàn bà goá nạ dòng. Một trong nhưng đối tượng say Bùi Khắc Nhũ như điếu đổ là bà phó Nhu chồng chết từ ba năm trước có cô con gái câm, đã mười tám trăng tròn mà không có anh trai làng nào đánh tiếng. Ông Nhũ qua lại làng Báng chừng già nửa năm thì bà phó Nhu có mang, ít lâu sau sinh được thằng con trai mặt giống bố như tạc nhưng cặp chân lại vòng kiềng. Bà Nhũ mừng lắm dắt bảy cô con gái mang một làn trứng và cặp gà mái ghẹ sang thăm cậu quý tử và nhận bà Nhu làm chị em. Thằng cu Tầm được hơn hai tuổi thì cô Câm lại có mang. Dân làng Báng tức lắm, họ cử đám tuần đinh rình ở đống Chùa lừa bắt Bùi Khắc Nhũ tống vào bao tải quẳng xuống ngòi . Số bác thiến lợn còn may, bao không buộc túm đầu, ông ta giãy giụa một lúc, uống vài ngụm nước thì tuồn được ra. Sau này Bùi Quốc Tầm lớn lên hay về Bối Khê thăm bố, còn ông Nhũ, cho đến cuối đời tuyệt nhiên không dám trở lại kẻ Báng.

    Chuyện đáng nhớ thứ hai của ông ta là là lần thiến lợn cho bà trương Xá ở Mạc Điền. Bà Trương goá chồng từ năm ba mươi hai tuổi, tính đồng bóng, thỉnh thoảng lại đi theo đám cung văn vài ngày, giao nhà cửa cho cô em họ trông hộ. Cô này vốn lẳng lơ, nhìn thấy trai là liếc mắt đưa tình, bác hoạn lợn liếm mép thoáng nghĩ “Mẹ khỉ! Đã thế thì ông cho mày chết”.

    Con lợn lang đen khá to, mõm dài, lông cứng như lông nhím này bà Trương mới gây được hơn một năm, định để làm lợn cà nhưng không hiểu sao lại gọi thợ đến thiến. Chính nó, hồi tháng ba đã đớp phó Hạnh một miếng vào mông làm anh ta phải quẳng cả đồ nghề chạy bán sống bán chết. Lần này, nhìn thấy chiếc thòng lọng trong tay Bùi Khắc Nhũ, mắt con vật long sòng sọc ngoác cái mõm lởm chởm những răng là răng hộc lên một tiếng. Chuyện vặt. Ông ta có thừa kinh nghiệm xử lý những chú Trư Bát Giới cứng cổ hơn thế. Để giữ độ an toàn, Bùi Khắc Nhũ đã lừa quấn được dây thừng vào chân sau con lợn, một tay xoa nhẹ vào mông, một tay cầm dao chuẩn bị hạ thủ. Cô em họ bà Trương cúi người giữ hai chân trước, cạp váy trễ xuống để hở một khoảng trắng ngang thắt lưng rất là khêu gợi. Lưỡi dao vừa rạch một đường vào lớp da chừng hai phân thì con lợn bất chợt oằn người hất một cú trời giáng làm cô em ngã bổ chửng. Bùi Khắc Nhũ mất đà, xoay chân định nhảy qua cửa chuồng chẳng dè bị nó đớp trúng đũng quần. Ông ta kêu thét lên như bị chọc tiết. Con lợn được tự do nhảy phốc khỏi chuồng, phóng ra cổng, chạy dọc đường làng kêu hồng hộc.

    Chuyến ấy, Bùi Khắc nhũ bị mất một hạt cà phải nhờ ông lang Kỷ chữa gần hai tháng mới lành. Khỏi bệnh ông ta quẳng con dao và thòng lọng xuống sông Lăng, bỏ nghề thiến lợn chuyển sang cúp tóc. Họ Bùi có thói quen khác người, mỗi khi mua được con cá hay xâu thịt, trên đường về nhà, thỉnh thoảng lại đưa lên mũi ngửi. Người hàng xứ thấy hành vi kỳ quặc của ông ta cho là dở hơi, đứng lại nhìn liền bị chửi:
    - Tiền của ông ông mua nhìn cái đếch gì mà nhìn.

    Đến nhà, việc đầu tiên là ông bắt bà vợ già hoặc cô con gái thứ ba đem xào nấu ngay, cấm được nếm, nếm thử thế nào cũng bị ăn roi. Mâm bát sắp ra, đĩa thức ăn bao giờ cũng để ngay cạnh chai rượu. Bùi Khắc Nhũ nửa nằm nửa ngồi, khuỷu tay trái chống xuống chiếu, tay phải nâng chén rượu nhấp một ngụm, sau đó cầm đũa liên tục gắp thức nhắm bỏ vào miệng. Ông hoạn lợn cứ uống, cứ nhắm cho đến khi nào thích khẩu bà vợ với mấy cô con gái mới được hưởng phần còn lại.

    Năm Quý Dậu, Bùi Khắc Nhũ sáu mươi hai, bỏ tiền ra mua chân tiên chỉ. Cánh chức sắc trong Hội đồng kỳ hào ghét ông ta là phường tham ăn lại chơi trèo liền bàn nhau cho gã thiến lợn một vố. ấy là vào dịp ông phó hội Lĩnh làm khao. Cỗ bàn đã xong, cứ năm người một mâm mà đóng, riêng Tiên Nhũ ai cũng có ý tránh, vì vậy lão tuy là chức sắc mà phải bấm bụng ngồi với đám bạch đinh ở mâm dưới. Vừa nâng chén, theo thói quen, Tiên Nhũ đã chống khuỷu tay, ngả người về phía trái, bắt đầu vung đũa "vào trận". Tất nhiên là cánh đàn em nhường ông ta miếng to nhất trong đĩa giả cầy. Món này là sở trường của lão mõ Lạp được nấu rất khéo, ai ăn cũng nghĩ là thịt chó. Miếng thịt vừa to vừa dai nhằng nhằng làm ông tiên chỉ quai mồm ra nhai mãi vẫn không nát, mà nuốt ngay cũng không được, vì như thế sẽ bị nghẹn, mà nghẹn khoản giả cầy giữa đình làng nơi đủ mặt quan viên thì còn ra thể thống gì. Thôi, đã trót thì phải trét vậy. Các món ăn cứ vơi dần trong khi Bùi Khắc Nhũ vẫn phải đánh vật với miếng thịt quỷ quái. Đã thế hình như bên trong còn có dây nhợ lằng nhằng mắc cả vào kẽ răng làm ông ta phải cho ngón tay vào mồm ngoáy đi ngoáy lại mới gỡ được. Đến lúc ấy vị tiên chỉ làng chẳng còn giữ thể diện nữa, nhè ra tay, đưa lên nhìn thì ôi thôi, đó không phải là thịt lợn thông thường mà đích thị là miếng l. . . lợn sề được khâu không biết bao nhiêu là chỉ đen thành một khối lằng nhằng rồi cho lẫn vào nồi giả cầy. Khốn nạn, không biết thằng đểu nào chơi xỏ mình đây. Mấy ông chức việc ngồi mâm trên kín đáo đưa mắt cho nhau, tủm tỉm cười. Sau vố ấy, tiên Nhũ tức mình tuyên bố từ nay không thèm ra đình làng. Lão dựng một căn lều cạnh cổng chùa Vĩnh Khang mở hiệu cắt tóc. Tay lão chỉ quen thiến dái lợn, còn tóc xén nham nhở, hầm hố như thằng đi tù về. Những lúc vắng khách, lão ngồi ngả đầu vào vai ghế, mắt lim dim, miệng ư ử ngâm Kiều:

    Lầu xanh quen lối xưa nay
    Nghề này thì lấy ông này tiên sư.

    Năm Bùi Quốc Tầm mười bốn, mẹ chết, chuyển về làng Đậu ở với bố. Tầm càng lớn chân càng vòng kiềng, đi đứng cứ quềnh quàng như con dế trũi bị vặt hai cẳng sau. Hắn học dốt bị thầy lấy thước lim dần vào mu bàn tay, đau quá bĩnh ra quần thối khẳn ba gian nhà, mấy hôm sau thì bỏ học theo cánh lực điền vào phường gặt thuê. Năm Canh Dần, Tầm đi lính Bảo an , sau được Việt Minh tuyên truyền, liền bỏ hàng ngũ địch về nhập đội du kích làng Đậu. Người tuy lùn nhưng Tầm có tài đánh độn thổ làm bọn Âu Phi và lính dõng đồn Tuần nhiều phen khiếp vía. Có lần, một mình anh ta dám đột nhập vào nhà bang Tuân, đâm chết hắn, đặt bản án tử hình về tội phản dân hại nước lên sập gụ. Lúc thoát ra, chẳng may chân vấp phải sợi dây thép căng ngang hàng rào làm cho con chó lài giật mình sủa dữ dội. Bọn hương dõng xách tay thước cùng giáo mác bủa vây khắp các ngõ ngách. Tầm ngó trước ngó sau, thấy không còn cách nào khác, liền nhảy bừa xuống ao nhà cửu Bình, lặn một hơi, một lúc sau thì chạm bờ, leo lên lẻn vào dãy nhà ngang. Cũng vào lúc ấy, cô Cam, con dâu ông Cửu đang xay lúa, thấy một người ướt từ đầu đến chân bất chợt hiện ra, sợ quá, xuýt nữa thì kêu thét lên. Tầm vội giơ tay ra hiệu rồi nói nhỏ:
    - Tôi là du kích vừa mới giết thằng bang Tuân, bị bọn Hương dũng đuổi gấp lắm, chị cho ẩn tạm,sau này Việt Minh không quên ơn.

    Cô ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Tầm chui vào bồ thóc sau đó lấy tấm chiếu rách chùm lên. Ngoài cổng có tiếng hô hoán. Tuần đinh chạy huỳnh huỵch. Bọn Hương dũng khua khoắng một lúc dưới ao bèo không thấy gì liền kéo nhau vào nhà ông Cửu. Chủ nhà cười nhạt bảo:
    - Các anh có súng trong tay mà chịu một thằng Việt Minh à?
    - Bẩm cụ, chúng con đã lục soát hết lượt, chỉ còn nhà . . .
    - Anh muốn nói là nhà ta chứ gì? - Ông Cửu hắng giọng - Thế thì hãy vào tìm cho kỹ đi.
    - Bẩm cụ, chúng con không dám.

    Sau khi cánh Hương dũng rút ra đầu làng, cửu Bình thong thả xuống nhà ngang làm cô con dâu lúc này đang sàng gạo run bắn. Ông thản nhiên như không, bước đến bồ thóc vỗ vào chiếc chiếu bảo:
    - Mời anh ra!
    Tầm hết hồn, lúng túng mãi mới trèo xuống được vì đôi chân ngắn. Nhìn thái độ ông chủ nhà, biết là mọi sự đã bình yên, anh ta khoá chốt an toàn khẩu súng ngắn rồi ngập ngừng nói:
    - Cảm ơn cụ cứu mạng.
    Cô con dâu lúc ấy mới dám hỏi :
    - Thầy . . . thầy đã biết?
    Ông Cửu chép miệng:
    - Biết từ lúc anh ta từ cầu ao chạy vào. . .
    - Thưa cụ, giờ tôi xin phép.
    Ông Cửu lắc đầu:
    - Anh phải ở đây đến tối mới đi được, bây giờ bọn tuần đinh đón lõng khắp nơi, ra khỏi nhà ta là bị bắt ngay.

    Hôm sau đồn Cáo cho lính về càn Cao Điền. Chúng thay nhau đóng ở đấy ba ngày, Tầm không cách nào thoát ra được. Ban ngày anh ta xuống tăng sê ngồi, chập tối mới dám lên. Cô con dâu ông Cửu có chồng đi lính Bảo an, đóng mãi Đông Thị, hàng năm không về, ở nhà một mình, vắng đàn ông ngứa ngáy không chịu được, thế là hai người túng tấng với nhau. Từ đấy, thỉnh thoảng anh ta lại về làng Cao, ban đêm lẻn xuống nhà ngang ngủ với cô Cam. Thấy con trai vắng nhà mà con dâu có chửa, ông cửu Bình uất lắm nhờ người cháu họ là du kích dẫn đến gặp Lê Văn Vận. Vận bấy giờ là chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến trực tiếp phụ trách mấy xã phía nam huyện, tuyên bố Bùi Quốc Tầm phạm tội hủ hoá làm mất thanh danh đoàn thể Việt Minh, ra lệnh trói lại, giam vào nhà lao để toà án Cách mạng xét xử. Đêm ấy thừa lúc người lính gác bỏ ra ngoài, anh ta trèo tường trốn được chạy về rừng Hóp xin đầu quân cho Khúc Kiệt. Từ bấy đến nay, Bùi Quốc Tầm vẫn thù Lê Văn Vận, thiếu chút nữa thì anh ta bị xử bắn chỉ vì có quan hệ luyến ái với một cô vợ lính.

    Chủ tịch Lê Văn Vận ở trong gian nhà của Uỷ ban hành chính huyện. Anh ta vừa chủ trì cuộc họp liên tịch giữa Mặt trận Liên Việt với Nông hội và Ban Thuế nông nghiệp về đến nơi thì bị toán dân quân ập vào trói nghiến lại. Lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Khuôn viên cơ quan vắng tanh không thắp đèn đóm gì, một số người đã buông màn đi ngủ, chẳng một ai biết ông chủ tịch bị xích tay giải đi trên đường 22. Đêm tháng một, gió bắc thổi ràn rạt. Nhưng tàu chuối tây trên bờ ngòi Thía bị tước ra bay lật phật. Một cây đề lẻ loi bên ngôi quán xiêu vẹo, dưới quầng sáng lờ mờ của vài ngôi sao đêm , hiện ra trơ trụi chẳng khác gì bộ xương san hô khổng lồ bị quái vật biển gặm nham nhở. Trên chạc cây, một con chim lạ đen trùi trũi như quạ nhưng cái mỏ lại trắng toát, to bằng con gà gô, cất giọng gừ gừ như giọng chó già nằm sưởi nắng tò mò nhìn đoàn người phía dưới thỉnh thoảng lại hộc lên một tiếng. Lê Văn Vận lúc ấy mới đẩy được cuộn giẻ bẩn thỉu ra khỏi miệng. Anh ta khạc nhổ liền mấy cái rồi hỏi một cách giận dữ:
    - Các anh là ai? Sao lại bắt tôi?

    Bùi Quốc Tầm khịt mũi bảo:
    - Đây là lệnh của Đoàn Cải cách, chúng tôi có nghĩa vụ phải chấp hành.
    Vận nóng mắt quát:
    - Đoàn Cải cách nào? Vì cớ gì lại đi bắt người lung tung thế này?
    - Về làng Cùa sẽ biết. – Tầm cười gằn – Không phải đợi lâu đâu ông chủ tịch huyện ạ.
    Vận là người thứ hai bị giam sau bà cả Huê trong dãy nhà giành cho các phạm nhân ở đình Cả. Sáng hôm sau, nhìn thấy Vận mặt mũi bơ phơ, râu ria tua tủa, bà Chánh mát mẻ bảo:
    - Ông chủ tịch không ngờ lại có ngày hôm nay phải không?

    Vận im lặng nhìn bà cả Huê. Mới có mấy năm mà bà ta già đi nhanh quá. Mái tóc xanh mượt như mây giờ đã lốm đốm bạc. Khuôn mặt tuy vẫn còn đầy đặn nhưng đã thoáng thấy những nếp hằn chạy song song từ đuôi mắt xuống đến vành tai. Tuy nhiên đôi mắt thì vẫn sắc sảo luôn nhìn thấu gan ruột người khác như xưa. Vận hỏi:
    - Bà Cả vào đây lâu chưa?
    Giọng bà Chánh thản nhiên như không:
    - Cảm ơn cậu hỏi thăm . Đội Cải cách mới giam tôi năm ngày.
    - Thế còn con Huệ? Nghe nói nó . . .
    - Nó đã theo Mác xen về Pháp sau đợt Chính phủ trả tù binh. Anh không phải lo.
    - Chết thật ! – Vận khẽ rên rỉ – Nếu đúng là như thế thì việc của chị khó gỡ lắm.
    Bà Cả thở dài:
    - Đến bản thân cậu còn bị tống giam thì còn mong cứu được ai.

    3. Khúc Kiệt vừa sang sông thăm lái Lự về hôm trước thì hôm sau dân quân ập vào nhà trói lôi ra đình cùng với Ngô Quỳnh và phó lý Kiền. Ông ta đã ngót sáu chục, người khô gầy, chòm râu mới nuôi lốm đốm bạc, bước lòng khòng vì mắc chứng đau lưng từ hồi ở rừng Hóp. Vừa nhìn thấy xã đội trưởng Tầm ,

    Khúc Kiệt trừng mắt hỏi :
    - Ai ra lệnh cho các anh bắt tôi?
    Bùi Quốc Tầm thản nhiên bảo :
    - Đội Cải cách.
    - Lệnh đâu đưa xem?
    Tay xã đội giọng khinh khỉnh :
    - Đối với bọn tay sai Quốc dân đảng phản dân hại nước như nhà ông, bất cứ bà con bần cố nông nào cũng có quyền đòi trả nợ máu mà không cần các loại giấy tờ, hiểu chưa?
    Ông cựu đội trưởng du kích rừng Hóp nóng tiết chửi :
    - Đúng là thời buổi “nước ngập chó nhảy bàn độc.”
    Bùi Quốc Tầm cau mày , hất hàm:
    - Đưa vào nhà giam!

    Tuy nhiên dãy nhà giam đã chật nên bọn dân quân đẩy khoá Kiệt vào hậu cung. Sau trận đánh đồn Tuần thất bại, Khúc Kiệt được đồn Cáo tha, Việt Minh bắt đầu nghi ngờ lòng trung thành của ông ta. Tổ chức Đảng và ngành công an từ trước đến nay vốn xem khóa Kiệt như một phần tử vô chính phủ, không chịu phục tùng mệnh lệnh cấp trên thì khẳng định ông ta là kẻ phản bội, thậm chí là người của phòng Nhì được gài vào hàng ngũ Việt Minh để làm nội ứng cho địch. Khúc Kiệt không thể chứng minh sự trong sạch của mình một khi các bằng chứng cứ ngang nhiên chống lại ông ta. Đó là Khúc Văn, đóng lon sỹ quan từng kéo quân càn quét khắp vùng Ba Tổng truy bắt Việt Minh. Sợ rằng sẽ đến lúc Việt Minh cử người đến hỏi tội, Khúc Kiệt giải tán đội du kích, bỏ rừng Hóp về làng Cùa. Làng Cùa vào tề đã lâu, lại gần bốt Tuần và có đội Hương dũng mạnh dù sao cũng tạm được yên ổn. Nhưng rồi tin hàn Kiểm bên Mạc Điền bị xử tử ngay tại nhà lan ra khắp huyện Nam Thành làm ông ta sợ. Sau mấy ngày cân nhắc, Khoá Kiệt thấy không còn cách nào hơn là qua sông sang làng Bòng nương nhờ ông bạn lái Lự. Ông này đã có thời làm chủ tịch Liên Việt, ủng hộ kháng chiến được Việt Minh tín nhiệm. Lái Lự nhờ người cháu họ là nhân viên Sở lục lộ xin cho khóa Kiệt tấm giấy thông hành. Ông ta dùng nó như một thứ bùa hộ mệnh đi qua hầu hết các đồn bốt của quân Pháp vùng tả ngạn sông Lăng.

    Vào Lục An, Khóa Kiệt được dẫn đến vùng trại Cóc ở nhờ nhà ông Diệp Quẩy người Sán Dìu làm nghề thầy cúng. Ông cựu đội trưởng du kích theo dân tản cư lận rừng kiếm sống. Dân lận rừng phần lớn rất nghèo từ vùng tạm chiếm lên, chuyên hái các thứ quả cây như trám, bứa, dọc, tai chua, tước vỏ báng hoặc đào củ nâu mang ra chợ Bầu Be bán kiếm tiền đong gạo . Loại lâm sản này rừng trại Cóc, trại Chít, trại Giang vô thiên lủng, nếu đủ sức, tha hồ khuân ra bán buôn cho thương lái từ ngả Tào Khê, Mạn Dương ngược sông lên cũng kiếm được đồng ra đồng vào. Tuy nhiên với cái tuổi năm bảy, lại bị phong thấp, công việc của khoá Kiệt không phải lúc nào cũng thông đồng bén giọt. Hái dọc, hái trám thì phải trèo cây, mà toàn cây cao, tuy nhiều quả đấy nhưng trượt chân hoặc gẫy cành rơi xuống là cầm chắc cái chết. Đó là chưa kể bất chợt bị rắn khô mộc, một loài bò sát chuyên sống trên cây có nọc rất độc cắn, hoặc ông ba mươi đón lõng lúc chập tối ở chân dốc Cáy. Từ trại Cóc ra đến chợ Bầu Be mất nửa ngày đường. Các bác lận rừng gánh hàng oằn vai, vừa leo dốc vừa thở phì phò chốc chốc lại phải nghỉ lấy sức cho chặng tiếp theo. Rừng Lục An lắm lâm thổ sản nhưng cũng đầy lam sơn chướng khí. Khối anh về đến nhà sau nửa năm hành nghề bị ngã nước, đầu trụi sạch tóc, môi thâm sì, mắt trắng dã, thỉnh thoảng lại lên cơn giật đùng đùng như bị ma xó nhập vào.

    Cũng may, ở rừng Lục An được hơn một năm thì quân ta thắng trận Điện Biên, khoá Kiệt lại khăn gói quả mướp tìm về quê trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn . Vừa đi vừa nghỉ, sang ngày thứ tư, Khúc Kiệt về đến làng Cùa thì được tin Khúc Thị Nhân đã bỏ đi, Khúc Văn bị bắt sau khi bốt Tuần bị hạ.

    Đầu tháng sáu, Khúc Kiệt sắm chiếc vó bè, cắm lều ở đoạn ngòi Mác đổ vào đầm Ma ngày ngày kiếm cá, không quan tâm đến những sự kiện đang xảy ra ở làng Cùa nữa. Nhưng Khúc Kiệt nhầm. Đội Lạc và nhất là Bùi Quốc Tầm lúc ấy mới được phân công làm xã đội trưởng, và Lê Thị Chĩnh trong ban cốt cán, đã xem ông ta là phần tử cần phải thanh trừng ngay từ khi xã Đoàn Kết bắt đầu phát động Cải cách đợt một. Trong cuộc họp kín của ban chỉ đạo, Bùi Quốc Tầm đứng khuỳnh chân, một tay tựa vào bàn, tay kia chém lia lịa vào không khí, dõng dạc tuyên bố:
    - Khúc Kiệt tự ý thành lập đội quân áo Đen, rước Nhật về làng Cùa tàn sát bảy tám chục người . Trong trận đánh bốt Tuần, hắn làm nội ứng cho đồn Cáo dẫn đến thất bại thảm hại, sau đó còn tự ý giải tán đội du kích gây tổn thất cho kháng chiến. Thằng Khúc Văn thì nghe nói đã trốn vào Nam theo giặc. Tất cả những tội ấy đã đủ điều kiện xử tử.

    Lại Quang Nghinh ghét thói tiểu nhân, xu thời của Tầm, không đợi anh ta nói hết, chặn ngay:
    - Ông Khoá tuy có một số sai lầm nhưng là người có công với kháng chiến không thể đưa ra đấu tố như bọn địa chủ được.
    Tầm liếc Nghinh hỏi:
    - Thằng Khúc Văn theo Tây bắn lại đồng bào thì sao?
    Nghinh khịt mũi:
    - Ai làm người ấy chịu. Cả làng Cùa đều biết từ lâu, hai bố con ông Khoá coi nhau như kẻ thù.
    - Anh là chủ tịch mà lại bao che cho bọn phản động à?
    Lại Quang Nghinh bật lên như lò xo bị nén, chỉ mặt xã đội trưởng:
    - Này, anh có biết năm năm hai thằng nào đã xỏ nhầm giầy Tây xách súng đi càn ở Cao Đôi không?
    Tầm tái mặt. Anh ta như quả bóng xì hơi ngồi im thít, lấm lét nhìn mấy ông Đội Cải cách.

    Nhưng rồi Lại Quang Nghinh cũng không cứu được Khúc Kiệt. Dưới con mắt của Đội, ông ta là một người phức tạp, một kẻ vô chính phủ bậc nhất ở vùng Ba Tổng. Từ lâu, đội Lạc vẫn giữ thái độ im lặng để cánh cán bộ xã cãi nhau chán rồi mới thong thả hỏi:
    Có phải từ những năm bốn mốt, bốn hai, Khúc Kiệt đã thành lập đảng áo Đen?
    - Dạ đúng. – Bùi Quốc Tầm trả lời như cái máy.
    Lại quang Nghinh vội cải chính:
    - Không phải đảng áo Đen mà là đội quân áo Đen.
    - Cũng thế cả thôi. – Tầm đế thêm vào - Quân áo Đen sau này bị cả Việt Minh và quân đội Pháp đánh bại nên đã theo đuôi Quốc dân đảng.
    - Ra thế. Tôi đã bảo mà. – Cấn Viết Tham có vẻ đắc ý vớ chiếc điếu cày rít một hơi thuốc lào phả khói mù mịt làm Lê Thị Chĩnh bị sặc:
    - Cái ông này mang ra ngoài sân mà hút!
    -Vậy thì mọi việc đã rõ. - Đội Lạc kết luận- Khúc Kiệt là thành phần Quốc dân đảng nguy hiểm chống phá Cách mạng, cần phải đưa ra đình làng cho bà con nông dân hỏi tội.

    Vào lúc Khoá Kiệt đang run cầm cập vì lạnh thì cánh cửa hậu cung mở. Mấy dân quân đẩy một người vào. Cú đẩy khá mạnh làm ông ta ngã sóng xoài, nhìn kĩ hoá ra là lý Quỳnh. Khúc Kiệt tuy vừa đói vừa rét cũng phải bật cười khi nhìn thấy ông con rể bất đắc dĩ.
    - Bây giờ ông mới vào đây là hơi muộn đấy.
    Ngô Quỳnh chép miệng:
    - Chuyến này chắc là tôi với ông toi rồi. Bọn chúng không thương xót ai đâu. Nhà nào có bát ăn bát để một chút là bị lên thành phần.
    Khúc Kiệt cười như mếu:
    - Ông nói thế chưa đúng. Như tôi đây này, tài sản chẳng có gì ngoài chiếc vó bè mà cũng bị thằng Tầm cho dân quân đến xích tay.
    Ngô Quỳnh bảo:
    - Tôi chưa nói hết. Lên thành phần vẫn còn là nhẹ. Nặng nhất là bị liệt vào hàng Quốc dân đảng sau đó mới đến tội làm tay sai cho Tây. Ông thuộc loại đối tượng nguy hiểm, cho nên bị tóm cổ trước cánh lý dịch chúng tôi.
    Khúc Kiệt thở dài:
    - Nhưng mà từ ngày đi hoạt động đến giờ tôi có biết mồm ngang mũi dọc cái thằng Quốc dân đảng nó thế nào đâu.
    - Thế thì lạ nhỉ? – Lý Quỳnh liếc nhìn thân hình tiều tuỵ của ông bạn già hạ giọng thì thầm. – Nghe nói Đội Cải cách được lệnh xử bắn theo tỷ lệ dân số. Làng ta ít ra cũng phải sáu, bẩy người.
    - Chả lẽ nhà nước Dân chủ Cộng hoà lại không tôn trọng pháp luật?
    - Ông lên nhớ, bây giờ “nhất đội nhì giời” , lũ chúng ta chỉ còn biết cúi đầu nhận tội mà thôi.

    4. Đội Cải cách mở phiên toà xét xử chánh tổng Lê Bang. Ngay từ sáng sớm đình Cả chật cứng người. Bà con bần cố nông háo hức lắm, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến bọn địa chủ cường hào phải cúi đầu nhận tội. Các gia đình trung nông lớp trên, phú nông và mấy hộ làm nghề thủ công hoặc buôn hàng xén còn lừng chừng bị dân quân khoác súng vào tận nhà điệu đi. Những ông bà này lấm lét nhìn nhau không ai dám nói gì nhưng trong bụng đều nghĩ, chống lại Đội họ ngứa mắt quy cho là Quốc dân đảng thì coi như tàn đời.

    Làng Cùa những ngày này chia làm hai phe. Phe bần cố nông mặt tươi roi rói, suốt ngày nhảy múa ca hát mừng sự đổi đời. Lúc ấy ca khúc cách mạng còn ít , ngoài bài “ Giải phóng Điện Biên “ của Đỗ Nhuận và “Qua miền Tây Bắc” của Nguyễn Thành, đám thanh niên Ba Tổng rất say sưa hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa. Đây bao la hương sắc hoa êm đềm. Hoa lan sang mùa xuân đất Việt ...” không biết do ai sáng tác. Làng Cùa du nhập rất nhanh điệu múa sạp và bài dân ca Thái “Múa hái rau” được thay lời mới : “Ngoài đồng lúa ngát hương. Tung tăng bướm bay về ...” Cứ chỗ nào có ba người trở lên là rủ nhau tìm sào múa sạp hoặc nhảy xon mì. “Xon mì” là một vũ khúc khá vui nhộn. Dân nhà quê vừa xướng âm vừa nhảy một cách tuỳ hứng chẳng cần đàn sáo lẫn biên đạo múa. Họ nhìn nhau co chân nhảy thách lên như con choi choi, chán thì thôi. Có cô cậu mải nhảy mắt hếch lên đập mũi vào cột nhà, toé máu ra. Khôi hài nhất là bài hát “ Múa hái rau”, vừa được lưu hành trong xóm Cầu Đá vài hôm không biết có thằng phản động nào nhại lời rất xỏ xiên: “Này bà Lý toét ơi! Con tôi lấy con bà. Hai đứa nó nằm với nhau. Quyết tâm tôi gả cho bà , bà về bà chặt buồng cau. Sớm mai lên đường đón dâu”. Múa sạp thì cô Tý Mỡ con gái bà Điều nhảy lỗi nhịp bị hai cây dóc kẹp vào chân ngã dập môi. Cô Lai, cặp mông như mông lợn ỷ, bàn chân to bè bè, mỗi khi dậm xuống đất nghe thình thịch chẳng khác nào chày giã gạo nện xuống cối đá đại.

    Lũ trẻ con được phân công làm vệ sinh cổng làng, ngõ xóm, những đứa lớn hơn thì quét vôi để các anh thông tin kẻ khẩu hiệu. Thằng cháu họ gọi chánh tổng Lê Bang bằng bác kẻ một hàng chữ lớn bằng hắc ín ngay trước cổng nhà ông ta: “Đả đảo tên cường hào Lê Bang”. Một số thiếu niên còn được Bùi Quốc Tầm và Lê thị Chĩnh cử đi trinh sát, nghĩa là đến rình các gia đình thuộc diện nghi vấn xem động tĩnh ra sao. Nếu thấy có người lén lút ra vào hoặc kêu ca về chủ trương cải cách ruộng đất thì các cậu này phải về báo ngay để Đội kịp thời xử lý. Phe thứ hai gồm tất cả những người, nếu không là địa chủ cường hào, nguỵ quân nguỵ quyền thì cũng ít nhiều dính dáng đến các tổ chức phản động, đã bị bắt giam hoặc đang quản thúc tại gia, chờ nhân dân xét xử. Họ như cá nằm trên thớt lúc nào cũng giật mình thon thót nếu thấy bóng dân quân trước cổng. Trong các cuộc ôn nghèo kể khổ, “bình nghị” thành phần, xác minh diện tích điền thổ, những đối tương tạm thời còn tại ngoại phải đến nghe nhưng không được phát biểu. Đó thật sự là những tội phạm đã mất hết quyền công dân, gặp bần cố nông đều phải cúi đầu thật thấp chắp tay “Con chào ông (bà) ạ” người được tôn lên hàng ông bà lúc ấy hoặc “ừ” một tiếng thật hách dịch hoặc chẳng thèm nói gì, mặt vênh lên ra vẻ rất là bề trên.

    Một tối, nông dân đang “bình nghị” ở nhà chánh Đàm chợt có tiếng chân chạy rình rịch ngoài đường tiếp theo là súng nổ phía ao đình. Đám bần cố nông nhốn nháo xô nhau ra cổng xem có chuyện gì thì Bùi Quốc Tầm bước vào nói dõng dạc:
    - Bọn phản động thừa lúc bà con đang họp lẻn vào đốt bếp nhà đồng chí Tham nhằm mục đích gây rối trật tự an ninh, phá hoại công cuộc Cải cách. Tôi đề nghị mọi ngưòi hãy nâng cao cảnh giác Cách mạng, phát hiện hành vi mờ ám của kẻ xấu để chính quyền trừng trị.

    Tất nhiên không ai biết đấy là thủ đoạn của Tầm. Anh ta cho bọn tay chân thân tín bí mật nhét bùi nhùi vào mái nhà, lửa bốc lên thì kêu làng chữa cháy rồi tung tin thất thiệt, hướng sự nghi ngờ vào con cái địa chủ cường hào làm tinh thần bọn này hoang mang, nhiều kẻ không có tội mà vẫn ra đầu thú, anh nọ khai ra anh kia, làng Cùa rối beng, lúc ấy Đội Cải cách mới ra đòn quyết định.

    Toàn bộ cánh cửa bức bàn được tháo xuống để những người ngoài sân cũng có thể theo dõi phiên toà. Cấn Viết Tham ngồi ghế chánh án. Bùi Quốc Tầm và Lê Thị Chĩnh Con trong vai hội thẩm nhân dân. Đội Lạc giữ chân thư ký. Sở dĩ đội Lạc phải lãnh trách nhiệm nghi chép vì cả hai vị cốt cán đều mù chữ. Xã đội Tầm thì mới thoát nạn i tờ, mỗi khi đọc văn bản phải ê a đánh vần từng chữ một, ngắc ngứ như hóc xương cá. Vành móng ngựa được làm bằng thân cây chuối hột xếp chồng lên nhau như cũi lợn, rồi đóng bốn cái cọc dài xuyên qua đặt trên sàn đình bên trái. Lê Bang bị trói hai tay, bốn dân quân công kênh ông ta lên quẳng vào trong cũi như quẳng con chó ghẻ. Viên chánh tổng vừa nhô đầu lên lập tức hàng trăm cái miệng ngoác ra đến tận mang tai gào lên :
    - Đả đảo chánh tổng Lê Bang !
    - Đả đảo địa chủ Lê Bang!
    - Chém cổ hắn đi!
    Ngoài sân, ngay trước dãy “chuồng giam”, Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Bà cả Huê và các địa chủ cường hào bị trói hai tay, chân mang xích, lưng buộc đoạn dây thừng nối với một chiếc cối đá thủng trôn xếp theo hình vòng cung để họ tận mắt chứng kiến lòng căm thù và sức mạnh quần chúng đấu tranh giai cấp.

    Người lên vạch tội Lê Bang đầu tiên là một tá điền. Bố mẹ anh ta là dân ngụ cư, được ông Chánh cưu mang. Năm Ngọ, cả nhà sắp chết đói, bà Chánh cho vay thóc mãi cuối năm sau mới trả hết. Đó là ơn chứ không phải oán. Chuyện ấy mà kể ra thì dân làng chửi cho. Nghĩ mãi tay cố nông này cũng tìm ra được một lý do. Cách đây mấy năm, một lần anh ta đi đánh giậm về, đang nghêu ngao hát trên đường thì bị con ngựa của ông Chánh chạy nước kiệu va phải ngã bổ chửng, mồm vập phải mô đất gãy mất chiếc răng cửa. Phải rồi, đấy chính là tội tày đình của tên địa chủ cường hào hành hung tá điền. Nói đi thôi. Anh ta thầm nghĩ. Mặt đội Lạc đang hằm hằm thế kia hẳn có chuyện rồi.
    - Chánh Bang! Mày có biết tao là ai không?
    - Thưa... Ông là ông Đưa con cụ Đong ở xóm cầu Đá.
    - Mày có biết mày có tội gì không?
    - Dạ, tội... phản dân hại nước.
    Đưa lắc đầu:
    - Là nói tội với nhà tao kia.
    Chánh Bang ngẩn người ra:
    - Thưa... Chả lẽ lại là chuyện chúng con cho ông bà vay hai thùng thóc cứu đói sau này đòi lại?
    - Không phải, chuyện ấy xem như chúng tôi mang ơn ông bà.
    Đội Lạc đứng phắt dậy trừng mắt:
    - Đồng chí Đưa không được gọi địa chủ là ông bà.
    Đưa lấm lét nhìn các vị quan toà miệng lẩm bẩm:
    - Người ta bằng tuổi bố mình mà lại xách mé nghe nó thế nào ấy.
    Bùi Quốc Tầm hắng giọng bảo tay cố nông:
    - Đề nghị anh Đưa nói to lên cho bà con cùng nghe.
    - à, nhớ ra rồi... Một lần tao đi đánh giậm về bị con ngựa của mày đá ngã gãy răng.
    - Dạ, quả có thế. – Chánh Bang khẽ gật đầu. – Hôm ấy tôi đã mời ông lang Phê đến khám vết thương và tạ gia đình hai đồng, chắc ông còn nhớ?
    - Nhớ chứ. - Chẳng hiểu sao anh chàng cốt cán nổi hứng nói liền một mạch làm đội Lạc tức điên lên- Bố tôi lúc ấy cám ơn ông Chánh lắm. Hai đồng bạc đong được khối thóc.
    - Đề nghị đồng chí Đưa đi xuống!- Đội Lạc quát – Toàn ăn nói mất lập trường.

    Theo đúng như kịch bản, Đưa đấu xong đến lượt ứng thị Sót, con dâu chánh tổng Lê Bang. Sót là con gái thứ ba vợ chồng ông cả Tuất, cô này thuộc loại có chút nhan sắc, nhà tuy nghèo nhưng vẫn có những đám khá giả nhòm ngó. Con trai Lê Bang là Lê Bản say cô tá điền hơn cả thuốc phiện, mới phải lòng nhau chưa đầy hai tháng đã đòi cưới. Ông Chánh thấy cô gái có vẻ thiếu đoan chính, hơn nữa gia thế lại chẳng môn đăng hộ đối nên lắc đầu bảo :
    - Đám này không được, cưới con bé ấy về là sau này bại hoại gia phong.
    Lê Bản thản nhiên thông báo một tin làm cả nhà sửng sốt :
    - Con đã ăn nằm với cô ấy rồi.
    - Lại còn thế nữa, mày thật không coi tao ra gì.
    - Con lấy vợ chứ có phải thầy lấy đâu mà lo.
    - Mày đừng có hỗn!

    Cuối cùng giời không chịu đất đất phải chịu giời, Lê Bang bấm bụng làm đám cưới cho ông quý tử. Về nhà chồng, Sót thích nghi với vai trò bà chủ rất nhanh. Cô ta dần dần thâu tóm quyền thu chi trong nhà đẩy mẹ chồng ra rìa làm bà này uất lên thành bệnh nằm liệt một chỗ. Hai năm sau, Lê Bản đi lính Bảo an, Sót ở nhà ngứa nghề tằng tịu với hết đám trương tuần. Điểm hẹn của họ lúc thì ở điếm Bài Vân, lúc trong miếu Si, có khi lại ở ngay nhà bố mẹ đẻ vì lúc ấy ông Cả đã quy tiên, bà Cả mắt loà chẳng nhìn thấy gì. Sau nhiều lần theo dõi, cuối cùng mấy cô em chồng cũng tóm được đôi gian phu dâm phụ khi chúng đang vui vẻ với nhau trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh giữa đồng Chó Đá. Chuyến ấy hai đứa bị một trận nhừ tử, Trương Cói phải chịu phạt hai tạ thóc với bảy đồng Đông Dương mới được tha. Lê Bang đau lắm nhưng sợ mang tiếng với hàng tổng nên chỉ mời bà cả Tuất sang nói chuyện rồi bắt mang con gái về. Vậy là Sót được tự do, tha hồ lăng loàn chẳng có ai quản thúc.

    Mới nhìn thấy đội Lạc Sót đã đầu mày cuối mắt. Đội Lạc đã có vợ, chị ta thuộc loại khá gái nhưng tính tình riết róng, lại có máu ghen ngược nên bị ông chồng bỏ lửng từ lâu, giờ anh ta nhìn thấy cô nàng óng ả, mắt lúng liếng đưa tình, bất giác tâm trạng xao xuyến. Từ đó hai người ngày nào cũng tìm cớ gặp nhau, không gặp không chịu được. Cái trò trăng gió nó thế, bỏ thì thương vương thì tội. Một khi vướng phải lưới tình trời cũng bé. Tuy nhiên nhờ những cuộc họp cốt cán họ được gặp nhau thường xuyên hơn. Có lần, đêm đã khuya, hội ý xong Lạc còn kéo Sót vào hậu cung. Từ khi hậu cung trở thành nơi giam bọn cường hào thì chỗ hò hẹn của đôi tình nhân cũng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.

    Hôm ấy đội Lạc triệu tập khai hội ở nhà bà Tuất. Anh ta bảo nhà tuy chật nhưng kín đáo, tha hồ bàn bạc không sợ lộ bí mật.

    Bà cả Tuất mắc chứng đau mắt đỏ hễ có ánh mặt trời là quáng gà chẳng nhìn thấy gì. Trên trán lúc nào cung phải che mảnh vải thâm. Cuộc họp có nhiều nội dung, đến gần trưa mới xong. Khi mọi người ra về Lạc còn nấn ná ở lại một lúc rồi kéo ngay Sót vào thùng trấu. Đã hơn một tuần không gặp nhau, hai anh chị còn đang say sưa tận hưởng phút lên tiên thì bất chợt Bùi Quốc Tầm xuất hiện. Anh ta làm như vô tình nhòm vào bếp bằng cặp mắt rất gian giảo. Khi thấy đội Lạc vẫn còn nằm trên bụng cô cốt cán, hắn tảng lờ như không biết, vòng ra sân vờ vịt hỏi bà cả Tuất :
    - Cô Sót đi đâu hả bà?
    Bà cụ không những mù dở mà còn nghễnh ngãng, nghe tay xã đội mãi mới thủng liền bảo :
    - Em nó vừa xuống bếp hay sao ấy, bác chờ một tí.
    - Nếu cô ấy về, nhờ bà nhắn hộ chiều nay xuống xóm Trại họp với chị em phụ nữ.
    Tầm cố tình nói to đánh tiếng cho đôi tình nhân biết rồi xách súng ra cổng. Hai người lúc đó mới hoàn hồn mặc quần áo bước ra khỏi thùng trấu. Đội Lạc nhìn trước nhìn sau không có ai liền lách qua bờ rào sau nhà. Sáng hôm sau đội Lạc sang Đậu Khê gặp Bùi Quốc Tầm. Lựa lúc chỉ có hai người, Lạc bảo:
    -Tôi đề nghị bổ sung đồng chí vào cấp uỷ và đảm nhận chức chủ tịch xã Đoàn Kết.
    Tầm như mở cờ trong bụng nhưng vẫn làm ra vẻ không hiểu:
    -Thế còn ông Nghinh? Chẳng lẽ Đội Cải cách...
    - Anh Nghinh sẽ làm bí thư thay ông Quang. Tôi vừa nhận được tin từ bà con bần cố nông, La Văn Quang năm 1949 có quan hệ với tổ chức Việt cách của Phan Trường Thái.

    Vậy là cơ hội trả thù cha con Lê Bang đã đến. Phen này thì chúng mày mảnh bát vỡ cũng không có mà ăn. Bằng động tác dứt khoát, Sót ấn mạnh hai ngón tay vào trán Lê Bang bắt ông ta ngẩng lên rồi dõng dạc hỏi:
    - Tên địa chủ phản động họ Lê, chắc mày không quên đứa con dâu này chứ?
    Ông chánh tổng trả lời như cái máy:
    - Thưa bà... không quên,
    - Mày có nhớ khi tao bị ép buộc lấy thằng Bản, bố con mày đã hành hạ tao như thế nào không?
    Lê Bang từ tốn trả lời :
    - Thề trên có trời, dưới có đất, nhà họ Lê chưa bao giờ ngược đãi con dâu. Việc chúng tôi trả bà về bên mẹ đẻ hoàn toàn do bà gây ra.
    -Địa chủ Lê Bang câm ngay! - Sót nấc lên, giọng nghẹn ngào - Đến nước này mà mồm mày còn xoen xoét chối tội.
    - Thưa bà, tôi chỉ nói đúng sự thật.

    Sót túm tóc ông Chánh giật mạnh một cái rồi quay xuống phía bà con oà lên khóc :
    - Bà con ơi! Tôi thù bố con nhà nó lắm. Chồng tôi đi lính, ở nhà đêm nào lão Chánh cũng vào gạ gẫm đòi ngủ với tôi. Tôi không cho nó liền trói vào giường, lột quần áo ra hành hạ suốt đêm. Có những lúc tủi nhục quá tôi đã định đâm đầu xuống giếng tự tử nhưng lại nghĩ đến bà mẹ mù loà đành phải nuốt hận mà sống cho qua ngày. ít lâu sau, thằng em chồng là Lê Biên làm thư kí sở Dây thép về nhà lại cưỡng hiếp tôi. Nó cầm lăm lăm con dao nhọn trong tay đẩy cửa vào buồng thở ra toàn mùi rượu. Tôi sợ quá định kêu thì nó đấm vào mặt tôi đến giờ vẫn còn sẹo. Đêm hôm ấy bố con nó nhốt tôi vào căn buồng dãy nhà ngang suốt hai ngày không cho ăn uống gì.

    Bên dưới, đám thanh niên bần cố nông quá khích nghe Sót kể tội phẫn nộ quá, đồng thanh hô :
    - Đả đảo chánh tổng Lê Bang!
    - Đả đảo tên Việt gian bán nước Lê Bang!
    Các bà các cô đều sụt sịt, trước còn khẽ sau to dần, cuối cùng cả mấy gian đình đều biến thành một cuộc khóc tập thể rất là thống thiết. Chừng năm bảy phút sau, khi những tiếng nức nở đã vơi đi, Sót kết thúc bản cáo trạng bằng những lời vô cùng đanh thép:
    - Tôi đề nghị Toà án nhân dân xử tử hình chánh tổng Lê Bang.
    - Tử hình! Tử hình!
    - Bắn chết hết lũ địa chủ đi bà con ơi!

    Bản án được thi hành ngay buổi sáng hôm sau tại một khu đất hoang mãi cánh đồng Xưa. Từ chiều hôm trước, người ta dựng pháp trường bằng hai cây cột lớn, sau đó buộc một cây tre vắt ngang giống như bộ khung căng màn ảnh chiếu bóng. Lê Bang bị bịt mắt bằng vải đen, cổ tay cổ chân đều buộc dây thừng dài. Bốn dân quân, hai người một bên kéo ông ta lên cao cho tay chân giang ra như là con ếch trong phòng thí nghiệm sinh vật học để thử phản xạ khi cho dòng điện chạy qua. Trên kỳ đài, chánh án Cấn Văn Tham ngồi cùng với chủ tịch Bùi Quốc Tầm, đội Yên và cốt cán Lê Thị Chĩnh. Bảy dân quân vác những khẩu súng trường cà khổ đứng cách xa chừng mười hai, mười ba mét hồi hộp chờ lệnh. Xã đội trưởng mới được đề bạt Lương Văn Mực chỉ huy hành quyết. Người đi xem rất đông, không phải chỉ làng Cùa mà gần như cả tổng Kim Đôi mang cơm nắm muối vừng đến chầu chực từ lúc còn tối đất để được xem xử bắn lão chánh Bang nổi tiếng hách dịnh mà nhiều người mới chỉ biết tên chứ chưa từng giáp mặt. ứng Thị Sót, mặt tươi rói ngồi bên đội Lạc. Anh ta không trực tiếp tham gia vào việc thi hành bản án nhưng lại là nhân vật quyết định số phận của Lê Bang.

    Mặt trời lên tầm nửa con sào, Bùi Quốc Tầm vẫy tay ra hiệu cho Cấn Viết Tham .
    Vị chánh án mù chữ hơi tái mặt đứng lên đọc bản án đã thuộc lòng từ hôm trước:
    - Chánh tổng Lê Bang phản dân hại nước tội ác tày trời, tại phiên xử công khai ngày hai mươi mốt tháng mười, Toà án nhân dân đã tuyên án tử hình, yêu cầu các đồng chí dân quân thi hành nhiệm vụ!
    Tiếng đùng đoàng rất không đều. Loạt đạn đầu chỉ có hai viên trúng người ông Chánh còn hầu hết đều đuổi vịt giời chẳng biết do các xạ thủ bắn kém hay họ run tay khi buộc phải chĩa súng vào đồng loại. Máu từ người nạn nhân chảy dọc hai ống quần từ độ cao hai mét sáu nhểu xuống thành giọt đỏ tươi, khi thấm vào lớp đất cát pha sét phía dưới lập tức ngả mầu nâu sẫm như nước quết trầu. Bụng Lê Bang có tiếng réo lục bục như sấm rền. Một luồng uế khí phì ra phía hậu môn khuếch tán khắp bốn phương tám hướng làm tất cả nhưng người trên kỳ đài đều phải đưa tay bịt mũi. Bùi Quốc Tầm lầm rầm chửi bọn dân quân ăn hại rồi nhảy xuống giằng khẩu súng từ tay xã đội trưởng Lương Văn Mực quát to:
    - Tất cả lên đạn!

    Loạt súng thứ hai có khá hơn. Phát đạn của Tầm trúng ngực viên Chánh tổng phá ra phía sau bằng miệng chén tống làm rách toang chiếc áo cánh nâu. Một mảnh thịt lầy nhầy dính máu bay vèo xuống bãi cỏ chẳng khác gì thứ thịt chuột đồng bị mèo gặm dở. Đầu chánh Bang ngoẹo sang một bên vai. Ông ta chết trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh nên khi dải băng được cởi ra, cặp mắt vẫn mở trừng trừng, một dân quân thương tình vuốt mãi vẫn không khép lại được.

    Huyệt đã đào sẵn. Theo lệnh của xã đội trưởng, người ta kéo xác Lê Bang quăng xuống rồi lấp đất một cách vội vàng sau đó đặt lên nấm mộ một vầng cỏ.

    5.
    Bà cả Huê được ra khỏi buồng giam bị dân quân áp giải về nhà trình báo tài sản trước khi đem ra xét xử. Những người thực hiện cuộc khảo của này là xã đội Mực, Lê thị Chĩnh Con và ứng thị Sót. Bà Chánh mặc bộ váy áo mốc thếch chẳng khác gì con mẹ ăn mày, quỳ ở chân đống rơm có hai dân quân kèm hai bên. Cố nông Sót nâng cằm bà ta lên bảo :
    - Thị Huê nghe đây! Vàng dấu ở đâu phải thành khẩn khai ra, toà sẽ khoan hồng.
    Vợ chánh Đàm lắc đầu:
    - Thưa bà cốt cán, nhà này có bao nhiêu tài sản Đội Cải cách đã tịch thu hết, chúng tôi bây giờ cái bát mẻ cũng không có mà ăn lấy đâu ra vàng.
    - Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay ! - Sót túm tóc bà cả Huê giật mạnh mấy cái rồi lèm bèm chửi hệt như hàng tôm hàng cá - Quân mặt sứa gan lim , đồ l... sành ghe đá hút máu mủ của bần cố nông giàu nứt đố đổ vách mà bảo không có vàng, nói chó nó cũng không nghe được .

    Xã đội Mực hùng hổ chạy lại giáng liền hai bạt tai làm người đàn bà ngót sáu chục tuổi loạng choạng, đổ vật vào đống rơm . Hắn kéo bà ta dậy bắt quỳ như cũ, giọng rít lên :
    - Biết điều thì khai ra vàng ở đâu , nếu không đừng trách.
    - Đã bảo là không có vàng . Các ông các bà đánh chết cũng chẳng đào đâu ra.
    - A! Con khọm này lỳ gớm nhỉ. Cô Sót đâu, lấy chày giò ra đây.
    - Hình như mấy chiếc chày đã được chuẩn bị từ trước. Lê Thị Chĩnh và ứng Thị Sót, mỗi cô một bên, tốc váy bà Chánh lên ngang đùi thi nhau dần vào hai đầu gối. Bà ta đau quá kêu ồ ồ như bò rống, được một lúc thì đái ra váy khai nồng nặc làm hai cốt cán phải tạm thời bỏ cuộc.

    Chừng nửa giờ, sau khi đã thì thầm hội ý với Lương Văn Mực và Lê Thị Chĩnh, ứng thị Sót thay đổi chiến thuật, đưa bà cả Huê vào nhà, rót cho chén nước rồi nhẹ nhàng trách :
    - Bà cứ ngoan cố chỉ thiệt vào thân. Chúng tôi thay mặt Đội Cải cách kiểm kê tài sản, yêu cầu gia đình thành khẩn khai báo, nhất là những đồ vàng bạc, nhà nước chỉ trưng thu một phần còn đâu sẽ trả lại.
    Bà cả Huê vẫn im lặng. Sót lại tỉ tê hỏi:
    - Thế cái xuyến vàng nạm ngọc bích trước đây cô Huệ vẫn đeo bây giờ để đâu?
    - Nó đã mang theo chồng sang Pháp rồi.
    - Còn cái vòng cẩm thạch có khắc chữ “Phúc”?
    - Tôi bán lấy tiền tậu trâu hồi đầu năm Tỵ.
    - Bán cho ai?
    - Trên cửa hàng nữ trang Đông Thị ấy, bà lên mà hỏi.
    - Sợi dây chuyền vàng bảy đồng cân có mặt đá hình quả tim chắc cũng bán rồi phải không? - Sót dằn giọng.
    - Cái dây ấy hồi qua đò Vạn tôi lỡ đánh rơi xuống sông mất.
    - Bà không lừa nhà chức trách được đâu.
    - Nếu không tin Đội Cải cách cứ cho người đào bới khắp nhà lên mà tìm.
    Xã đội Mực giật nảy người chỉ tay vào mụ địa chủ giọng rít lên:
    - Trói con mẹ thần đanh đỏ mỏ này đem vào chuồng trâu vụt chết cha nó đi.

    Đến lúc này thì bà Chánh không thể chịu được nữa. Thôi thì lành làm gáo vỡ làm muôi, tao sẽ liều với chúng mày một phen rồi muốn ra sao thì ra. Nghĩ vậy, bà đứng dậy tụt váy ra vứt vào mặt tay Mực :
    - Bà cho mày “vàng” đấy, mang về bán đi mà ăn dần.
    Tấm váy nhuộm thâm lâu ngày không giặt bốc mùi khăn khẳn trùm lên đầu ông xã đội. Anh ta không dự liệu được tình huống này nên hoàn toàn bị động, lúng túng mãi mới thoát ra khỏi tình huống bi hài, miệng vừa khạc nhổ vừa chửi lèm bèm :
    - Đ. mẹ con mụ già chết tiệt.
    Hai nữ cốt cán nhìn bà Chánh cởi truồng tô hô vừa tức vừa buồn cuời, mắng:
    - Rõ là không biết dơ!
    - Có mà dơ cái l... bà đây này.-Bà ta vỗ bành bạch vào bẹn rồi hất hàm bảo đám cốt cán:
    - L.. tao có bao nhiêu sợi lông thì nhà tao có chừng lạng vàng. Chúng mày có giỏi vào đây mà đếm.
    Xã đội Mực vồ lấy súng giương lê, mặt hằm hằm chĩa vào người đàn bà cởi truồng. Vào đúng lúc ấy, đội Lạc không xuất hiện kịp thời thì chắc là mũi lê sáng loáng của ông xã đội đã xuyên thấu âm hộ bà Chánh. Anh ta liếc qua đã hiểu ngay sự việc liền bảo đám tay chân:
    - Các đồng chí về đình ngay để Đội Cải cách phổ biến nhiệm vụ mới.
    ứng Thị Sót đưa mắt cho nhân tình:
    - Nhưng thưa.. anh, con mụ này dám có hành động lăng nhục cốt cán.
    - Tôi biết. - Lạc gật đầu chỉ tay vào chiếc váy bảo bà Chánh - Bà mặc vào rồi đi theo chúng tôi.
    Cuộc khảo của xem như thất bại. Bà cả Huê lại bị giam vào căn buồng cũ. Người mệt rã rời do bị quỳ quá lâu trong một tư thế, bà ta ngồi lên tấm phản mộc, lưng đựa vào tường thiu thiu ngủ, nhưng vừa chợp mắt được một lúc, quang cảnh náo loạn của cuộc chia quả thực mấy hôm trước lại hiện ra.

    Ngôi biệt thự hai tầng với kiểu kiến trúc lai căng cùng dãy nhà ngang do Khúc Đàm vẽ kiểu được gỡ niêm phong. Bùi Quốc Tầm, trưởng ban điều hành trưng thu tài sản địa chủ cường hào xã Đoàn Kết ra lệnh cho dân quân dẫn bà cả Huê trói vào cột chuồng trâu. Đội Cải cách muốn chơi đòn cân não để khổ chủ tận mắt nhìn thấy bần cố nông thực hiện lẽ công bằng, vì sự công bằng vốn là ước vọng ngàn đời của người lao động chân chính. Tất cả bàn thờ, giừơng phản, sập gụ, tủ chè, hòm rương, thóc lúa dược khuân ra thành mấy đống giữa sân. Các bần cố nông đứng vòng trong vòng ngoài, phần lớn mặt nhăn nhúm , vàng vọt vì đói ăn, mắt hau háu nhìn những thứ đồ sơn son thiếp vàng, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Bà Cò Toét mặc chiếc váy đụp hàng trăm mảnh lấy bàn tay mân mê chiếc sập gụ đen bóng mát như lụa nõn chép miệng:
    - Tôi mà được nằm lên cái sập này một đêm chết cũng sướng.
    Lão Khính, cựu mõ làng , già lụ khụ chống gậy lọc cọc vào sân bảo đội Lạc:
    - Cả đời tôi chỉ mong được cái ngai thờ để rước các cụ về.

    Cánh tá điền xem ra thực tế hơn. Bọn này đều vào ở độ tuổi trên dưới ba mươi, chẳng để ý gì đến sập gụ tủ chè mà đứng túm tụm với nhau bàn tán về ba bốn con trâu đang buộc quanh đống rơm và đám cày bừa, mai cuốc cùng hơn chục chiếc gầu tát nước vứt lổng chổng trước cửa nhà bếp. Ba Khích, một tay nổi tiếng làng Cùa về tài vực nghé vuốt ve con trâu đực sừng cánh ná, lông đen, da bóng như sừng. Hắn hết đứng lại ngồi không dám rời đi chỗ khác, tay khư khư giữ sợi dây thừng vì sợ có người phỗng tay trên. Gã trương Chạm mắt trắng dã như mắt lợn luộc, tay chân lòng khòng, vai so làm cái cổ như cò như kéo dài ra, ngay từ sáng sớm đã muốn dành con trâu mộng về phần mình, thấy Ba Khích giữ rịt sợi dây thừng hắn nóng mắt bảo:
    - Bỏ dây thừng ra! Con này tao nhận từ hôm qua rồi.
    - Đừng hòng. Anh Lạc đã hứa cho tao.
    Làm gì có chuyện ấy. Phân chia “quả thực” phải công bằng chứ.
    - Này, hôm trước ở nhà chánh Bang mày đã nhận con nghé tơ sao hôm nay lại còn đòi trâu?
    - Con ấy khi cày nó cứ phá ách tao đổi cho nhà Bồng rồi.
    - Thế thì mặc xác mày.
    Trương Chạm vốn hay gây gổ, trái ý là xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thấy Ba Khích có ý giữ bằng được con trâu liền quai cho hắn một quả. Cú đấm không đau lắm nhưng vì tức thằng đầu bò nên Ba Khích kêu toáng lên rồi nhảy bổ đấm đá đối phương túi bụi. Hoá ra trong sân không chỉ có cặp trương Chạm, Ba Khích đấm nhau. Trước đống của giời ơi không phải mồ hôi nước mắt của mình làm ra, lòng tham nổi lên, ai cũng muốn chiếm làm của riêng, thành thử Đội chưa kịp lên danh sách phân phát họ đã xông vào tranh cướp. Sân nhà chánh Đàm bỗng chốc trở thành một cuộc ẩu đả ác liệt. Chiếc bàn thờ sơn son được chạm trổ rất tinh xảo bị hàng chục bàn tay lôi đi kéo lại một lúc thì đổ kềnh, ba chân gãy rời, mặt gỗ long ra, sơn tróc loang lổ. Mấy bà cố nông nạ dòng lao vào nhau quyết đấu để giành cho được bộ cánh tủ chè. Lúc này tủ đã bị vỡ toác làm bốn mảnh nhưng hai cánh gỗ gụ vẫn còn nguyên. Bà Đũn yếu hơn nhưng biết dùng mưu bằng cách bất ngờ cắn vào tay một bà mặt choắt răng vẩu làm bà này kêu thét lên và vác chiến lợi phẩm chạy ra cổng. Trong lúc nhốn nháo, lão Tý Thọt gọi hai thằng con lẻn vào khênh sập gụ. Thị Sót đã nhắm bộ này từ lâu liền ngáng chân làm lão chăn vịt vấp ngã. Cánh sập rơi xuống nền gạch Bát Tràng làm dập bàn chân anh con cả. Hắn đau quá, ngồi xệp xuống ôm chân rên rỉ. Cùng lúc có bốn năm bàn tay đặt vào bộ sập. Đó là cánh ngụ cư xóm Trại Cá. Bọn này từ trước vẫn bị chèn ép giờ có dịp “bình quyền” chẳng ngại ngần gì kéo nhau vào “hôi” của. Sót gan lì, ngồi chồm chỗm trên sập. Bọn ngụ cư chẳng nể nang gì bà cốt cán trong Ban Cải cách, bốn gã bốn góc khênh cô ta đi như một đám rước. ứng thị Sót thấy mình ở thế bất lợi liền nhảy bổ vào gã Tám Cá túm tóc tát liền mấy cái. Bọn này đều vướng tay, nén chịu đau để lôi cho được chiếc sập gụ ra cổng. Nhưng không may một gã hẫng chân, mất đà, sập lại rơi xuống. Cuộc giằng co đã đến lúc vô cùng quyết liệt. Chị em xóm Chùa từ xưa đến nayvẫn ghét Thị Sót là gái lăng loàn, mồm loa mép giải, liền nháy nhau xúm lại giúp cánh ngụ cư bằng cách đè cô ta xuống, kéo tuột chiếc quần láng đang mặc quăng xuống ao làm đồng chí uỷ viên Cải cách mất mặt với bàn dân thiên hạ phải chạy vội vào bếp. Phía trước, một đám chừng hơn chục người trước đây vẫn lĩnh canh ruộng bà cả Huê, đang xúm quanh mấy cũi bát đĩa, vài chiếc nồi đồng và một số lọ hũ bằng gốm sứ hoặc da lươn. Những thứ này giá trị tuy có thấp hơn nhưng sự tranh chấp cũng không kém phần quyết liệt. Đã có mấy bà đập những chiếc nậm rượu men ngọc rồi lấy mảnh vỡ cào vào mặt nhau, máu chảy nhoe nhoét. Bà Tư Bổng, mắt lông quặm, trông gà hoá quốc, thấy hai chiếc âu gốm miệng loe tráng men xanh liền xách về nhà, mấy hôm sau mới hay, đó chính là nhưng cái bô đi tiểu vẫn để duới gầm giường hồi Khúc Đàm còn sống.

    Cuộc tranh cướp quả thực đã lên đến đỉnh điểm có nguy cơ đổ máu thì Lê thị Chĩnh lẻn về đình Cả báo cho Bùi Quốc Tầm . Anh ta lập tức cử một đám dân quân khoác súng về nhà chánh Đàm. Tiếng quát của Tầm bị chìm đi trong mớ âm thanh hỗn tạp, nhưng khi ba phát súng trường bắn cấp tập thì tất cả trở lại yên ắng như trước đây chưa từng có chuyện gì xảy ra. Chủ tịch xã nhảy lên chiếc án thư chưa kịp bị đập gãy, dõng dạc ra lệnh:
    -Yêu cầu tất cả bà con để đồ đạc xuống!
    Bà con nông dân từ xưa đến nay vốn có thái độ kính nể đối với các loại súng đạn. Tiếng nổ lập tức có hiệu quả ngay. Mọi thứ đồ đạc phải vất vả lắm họ mới giành được trong trận hỗn chiến tạm thời rời khỏi tay. Người nọ nhìn người kia thở dài đầy vẻ thất vọng. Hơn chục dân quân dồn đám ngụ cư cùng dân xóm Chùa vào một góc sân rồi thu gom tài sản xếp thành một đống. Sau nửa giờ bàn bạc, Bùi Quốc Tầm gọi Bùi Sĩ Vĩnh đọc danh sách phân chia “quả thực”. Vĩnh là cháu họ xa Bùi Quốc Tầm đang học tiểu học ở Đông Thị thì bỏ đi theo một người bà con làm ăn ở mãi Tiên Yên, hoà bình được nửa tháng mới về. Được giao nhiệm vụ Vĩnh phấn khởi lắm. Anh ta đứng hẳn lên tầng hai, thò đầu ra ban công dõng dạc đọc:
    - Bà cố nông ứng Thị Sót một cái sập gụ.
    - Chị Bùi Thị Dong một chiếc nồi ba mươi.
    Nhà Dong vắn váy quai cồng, ì ạch bê chiếc nồi đồng, giọng như mếu:
    - Chúng em đội ơn ông Cải cách.
    - Ông trương Chạm một con trâu và bộ răng bừa.
    Trương Chạm nhảy cẫng lên:
    - Đã bảo mà, thế là từ nay ta có trâu rồi.
    - Ông Tí Thọt một chum sành, chục bát chiết yêu và ổ gà mái đang ấp.
    - Sao lại chia cho tôi mấy thứ lặt vặt thế này?
    - Bà đĩ Nhụt hai gầu tát nước và một cái nạng gẩy rơm.
    -Đếch thèm lấy, để ông chủ tịch Tầm mang về cho đủ bộ.
    Mọi người lần lượt nhận đồ của mình, đến xế chiều thì nhà chánh Đàm chỉ còn cái xác và sáng hôm sau nó được chia thành bốn phần cho bốn ông bà nông dân.


    6. Lê Văn Vận không tin là mình có tội với Cách mạng vì chuyện liên quan đến Quốc dân đảng chỉ là sự bịa đặt của một số người nhẹ dạ cả tin bị những phần tử cơ hội kích động. Anh ta hy vọng sớm muộn sẽ có người can thiệp giải oan cho mình. Nhưng ông chủ tịch đã lầm . Những ngày này ở cơ quan huyện Nam Thành, các cán bộ chủ chốt còn lại lo thon thót, chỉ sợ một đêm nào đó dân quân ập đến, ấn súng vào lưng dẫn đi mà không biết mình phạm tội gì. Lê văn Vận bị bắt chưa đầy một tuần thì ông bí thư cũng chung số phận. Tất cả những cuộc bắt bớ đều diễn ra ban đêm. Bà con hàng phố thấy những bóng đen khoác súng rảo bước trên đường, chẳng ai bảo ai đều đóng chặt cửa. Không khí xóm làng luôn trong tình trạng căng thẳng. Phương châm của những kẻ thức thời là im lặng vì lúc này ngay cả bố con, anh em trong nhà cũng nghi kỵ nhau, đề phòng nhau, sảy chân còn đỡ được chứ sảy miệng là rước vạ vào thân.
    Chủ trương của Đội Cải cách là khuyến khích bần cố nông tố cáo các đối tượng của Cách mạng càng nhiều càng tốt. Ông hương Tràng có hai mẫu ruộng đồng Quan và một con trâu, bị tay Mực tố lên bốn mẫu để quy thành phần phú nông. Ông này tính nóng như lửa chỉ mặt tay xã đội chửi là đồ ăn cháo đá bát rồi đòi mang thước ra đồng khảo lại diện tích. Ngay tối hôm ấy ông ta bị hai dân quân tống vào buồng giam thay cho chánh tổng Lê Bang đã bị hành quyết. Buồng giam này giáp với buồng Lê Văn Vận. Ông Hương đánh tiếng hỏi:
    - Cả anh cũng bị nhốt vào đây thì dân Ba Tổng còn biết tin ai?

    Chang cựu ngư phủ lúc này xem ra đã mất dần nhuệ khí nhưng đối với người trung nông này vẫn phải lên dây cót tinh thần cho ông ta :
    - Phải tuyệt đối tin tưởng vào Đảng. Đây chỉ là sai lầm nhất thời thôi.
    Hương Tràng cười gằn:
    - Làng Cùa rặt những người nếu không phải tay sai thực dân đế quốc thì cũng bị Quốc dân đảng giật dây, anh bảo chúng tôi tin vào đảng nào?

    Thực ra trong lòng Vận lúc này không nghĩ đến thứ chủ thuyết xem ra khá mơ hồ mà từ trước đến nay người ta cứ bắt mình phải miễn cưỡng tin theo. Anh ta nghĩ đến cô vợ khoèo tay, nghĩ đến hai thằng con trai, đến Khúc Luận, Khúc Thị Huệ và nhất là Mạc Thị Lánh, người đàn bà khốn khổ đã bỏ xác trên rừng gần hai chục năm nay. Đó chính là quá khứ đè nặng trên vai, là vật cản vô hình ám ảnh mãi trong tâm trí không thể bỗng chốc thoát ra được. Sau chuyến xuống đồng bằng bị mật thám bắt đưa về phòng Nhì, Vận phải lĩnh án bảy năm. Tưởng đã bỏ xác trên Sơn La, may nhờ anh em tổ chức cho vượt ngục, ra ngoài mới bắt mối với cơ sơ ở vùng Cao Tân tiếp tục hoạt động. Thời kỳ đầu năm bốn nhăm Vận đã là huyện uỷ viên phụ trách công tác an ninh, sau khi cướp chính quyền được cử làm chủ tịch huyện Nam Thành. Cuộc đời hoạt động của Vận cũng chẳng mấy suôn sẻ, nhất là cái quá khứ không bình thường từ hồi làm nghề sơn tràng. Có lần đã bị bắt giam vì tự ý bắn chết một kẻ phản bội, nhưng cấp trên đánh giá anh ta là người trung thực, ghét thói xu nịnh và làm được việc. Vậy mà đùng một cái ông chủ tịch huyện bị chính các đồng chí của mình tống ngục thế này đây.

    Sáng ngày thứ ba, nghĩa là chỉ ba mươi nhăm giờ sau sau khi bị giải về làng Cùa, Đội Cải cách đã đưa Lê Văn Vận ra xử. Đây là phiên toà đặc biệt có cả phái viên của Đoàn Cải cách huyện Nam Thành về chỉ đạo. Đội Lạc và Bùi Quốc Tầm Đã chuẩn bị sẵn một số nhân chứng để đối chất nếu bị cáo không thừa nhận tội trạng.

    Vành móng ngựa lần này không phải là những cây chuối chồng lên nhau như hôm xử Lê Bang mà được ông Bảy Sụ đóng bằng gỗ lim hình bán nguyệt có những gióng to cỡ cổ tay bào nhẵn trông rất nổi. Ngồi ghế chánh án hôm nay là ứng Thị Sót. Cô ta mặc chiếc áo cánh màu be bên ngoài khoác áo bông Tàu, cổ quấn khăn len đỏ, tóc chải xù lên trông chẳng khác gì hình nộm . Bùi Quốc Tầm , Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh và đội Lạc chia nhau ngồi hai hàng ghế sau để hỗ trợ bà cốt cán trong lúc thẩm vấn. Vị đại diện đoàn Cải cách ngồi ghế trên cùng. Ông này trạc bốn nhăm, trán hói một mắt có nhài quạt thỉnh thoảng lại nháy một cái.

    Sân đình đông nghịt. Bọn trẻ con trèo cả lên cây đa nhòm vào. Mấy chục dân quân, kẻ xách súng, người mang mã tấu canh gác vòng ngoài đề phòng bọn phản động lợi dụng chỗ đông người để ném lựu đạn khủng bố như ở phiên toà xử lý Biên bên Cao Xá vừa rồi. Lê Văn Vận bị trói hai tay . Xã đội Mực cầm dây thừng đi phía sau đẩy ông chủ tịch vào vành móng ngựa. Vận bị tê chân đang sửa tư thế đứng thì bất ngờ dưới sân đình có tiếng hô lớn:
    - Đả đảo tên Quốc dân đảng phản động Lê Văn Vận!
    Lập tức hàng trăm cái miệng đồng thanh hoà theo:
    - Đả đảo! Đả đảo!
    - Đả đảo Lê văn Vận!
    - Đả đảo! Đả đảo!

    Chánh án ứng Thị Sót vốn là gái lộn chồng, đã từng mặt dạn mày dày với phường trăng gió, không biết liêm sỉ là gì sau sự kiện bị lột quần hôm chia “quả thực” đứng lên vẫy tay cho bà con trật tự rồi dõng dạc tuyên bố:
    - Hôm nay Đội Cải cách và bà con làng Cùa mở phiên toà xét xử tên Quốc dân đảng đội lốt Việt Minh, chui vào hàng ngũ Cách mạng chống phá chính quyền nhân dân. Tên phản động đó chính là Lê Văn Vận, nguyên chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Toà yêu cầu bần cố nông lên đấu tranh vạch rõ bộ mặt phản dân hại nước của hắn.

    Sót vừa dứt lời đã có một người đàn ông tóc muối tiêu, mặt nhẵn bóng, một bên tai rách không biết do ngã hay bị chó cắn đứng phắt dậy :
    - Tôi xin đấu tranh.

    Anh ta ngồi cách vành móng ngựa không xa nên chỉ ba bước đã tới trước mặt Lê Văn Vận, hấp háy cặp mắt lác hỏi ông chủ tịch:
    - Vận mày còn nhớ tao không?
    Lê Văn Vận lắc đầu:
    - Không nhớ.
    Chánh án nhắc:
    - Bị cáo không được xách mé, phải nói “thưa ông”.
    Vận đánh mắt về phía ứng Thị Sót cười nhạt:
    - Tôi chưa bao giờ gặp ngưòi đàn ông này và cũng không có lý do gì gọi hắn bằng ông.
    Sót đứng dậy chỉ tay vào mặt Vận:
    - Tất cả những kẻ phản cách mạng chống lại Cải cách ruộng đất đều phải gọi bà con bần cố nông bằng “ông”, “bà”, nghe rõ chưa?
    - Rất tiếc tôi không phải là kẻ phản Cách mạng.
    - Để rồi xem, chẳng phải riêng mình tao mà đã có rất nhiều bà con được Đội... - Nói đến đây Sót vội bỏ lửng khi thoáng thấy ánh mắt giận dữ của đội Lạc.
    Xuýt nữa thì lộ tẩy. Để gỡ thế bí, anh ta đứng dậy lên giọng cấp trên nhắc nhở:
    - Đề nghị đồng chí chánh án bình tĩnh điều khiển phiên toà.
    ứng Thị Sót đã kịp thời lấy lại tư thế chủ toạ, bảo người đàn ông rách tai:
    - Nói rõ tội trạng của hắn đi.

    Tôi là Trần văn Sệ, nhân viên tiếp phẩm trong cơ quan huyện, tháng bảy năm năm hai, cơ quan tản cư sang Ngân Bình, chính mắt tôi đã nhìn thấy Lê Văn Vận cùng với Hoàng Thịnh và Thái Khắc Toả rủ nhau về Đông Thành khai hội Quốc dân đảng. Cơ sở Quốc dân đảng ở Đông Thành do lão huyện Hựu cầm đầu.
    - Này anh kia, - Vận nhếch môi cười nhạt - Tôi ở cơ quan huyện Nam Thành nhiều năm chưa hề thấy một người vừa rách tai vừa chột mắt như anh, đừng có vu oan giá hoạ cho người ta.

    Gã cố nông lấm lét nhìn đội Lạc, được ông chủ khuyến khích, anh ta bỗng nhiên cất giọng khê nồng như kép tuồng ra bộ :
    - Chính mắt tao đã nhìn thấy mày ngồi uống rượu với huyện Hựu ở nhà hàng Ngũ Lâm...

    Lê văn Vận bật cười bảo:
    - Tôi không chấp anh nhưng hãy về bảo với những kẻ đã xui anh rằng, chúng rất ngu vì nói dối cũng không biết đường. Năm năm hai chỉ có ban Tài chính và Nông hội tản cư sang Ngân Bình còn cơ quan Huyện uỷ và Uỷ ban hành chính kháng chiến vẫn ở lại Đông Thị bám địa bàn tổ chức đánh giặc. Đồng chí phó chủ tịch, đồng chí trưởng công an và cả ông chủ tịch Liên Việt đều biết rất rõ việc này, đề nghị Toà cho được mời đến làm chứng.

    Tay rách tai bắt đầu lúng túng. Hắn gần như quên sạch những gì người ta dặn từ hôm trước bởi trình độ i tờ mới học được dăm bữa, và vốn từ vựng quá ít ỏi không đủ sắp xếp chúng lại với nhau theo trật tự ngữ pháp để tiếp tục vở diễn.

    Trên ghế chánh án, ứng Thị Sót lừ mắt giục:
    - Nói tiếp đi!
    Trần văn Sệ ngập ngừng mãi rồi bỗng nhiên nói một câu ngoài kịch bản làm cả vị phái viên cấp trên, cả đội Lạc và ứng Thị Sót đều choáng váng:
    - Tôi... những lời ông Lạc dặn hôm qua... tôi... quên sạch rồi.
    Vận lắc đầu tỏ vẻ thương hại:
    - Thật khổ cho nhà anh, có tuổi rồi mà còn nghe ngưòi ta xui dại, chưa biết chừng nay mai chính anh cũng bị khép vào tội Quốc dân đảng cũng nên.
    - Về chỗ! – Bùi Quốc Tầm đứng sau buộc phải đứng dậy quát khẽ - Đã dặn thế mà
    cũng không nói nên hồn.
    Chánh án nhìn xuống giọt đình gọi:
    - Toà mời chị Khúc Thị Hài.

    Vận thoáng giật mình :" Bọn này nham hiểm thật. Chúng định dùng sự việc trong quá khứ để xử tử mình đây. Thôi được, đến đâu thì đến". Khúc Thị Hài mặc áo bông chần vải xanh, váy sồi, mặt đã có những vết nhăn khá rõ trông già hơn cái tuổi ba tám, bước đi loạng choạng như người say. Bà vợ ông chủ tịch khẽ ngẩng đầu nhìn lướt qua các vị quan toà rồi lại gần vành móng ngựa hỏi:
    - Chắc anh Vận không quên người đàn bà khoèo tay này chứ?
    - Không quên - Vận gật đầu.
    - Bao nhiêu năm bỏ mẹ con tôi anh đi những đâu?
    - Đi nhiều nơi. - Ông chủ tịch trả lời nhấm nhẳng.
    Chánh án nhắc:
    - Không được gọi bị cáo bằng anh.
    Khúc Thị Hài im lặng một thoáng rồi từ từ ngẩng lên bảo ứng Thị Sót:
    - Dù sao người ta cũng là chồng tôi, tôi không thể...
    - Nhà chị phải chấp hành quy chế của ủy ban Cải cách. - Sót răn đe - Số phận bà hai
    Thoả và hai đứa con trai hoàn toàn phụ thuộc vào việc chị vạch tội Lê Văn Vận.
    - Dạ, Tôi biết...
    Khúc Thị Hài cắn môi. Qúa khứ tủi nhục bất giác hiện ra. Mẹ con chị ta bị bà cả Huê đuổi ra khỏi nhà sau cái chết của chánh Đàm . Lê Văn Vận dắt bà Ba đi biệt xứ, nếu không được ông lái Lự cưu mang thì mấy mẹ con bà cháu đã chết mục xương từ lâu rồi. Tất cả những nỗi trầm luân ấy đều do một tay anh ta gây ra.
    - Thưa quý toà, tôi tuy là con ông chánh Đàm nhưng chẳng khác gì người ở. Chuyện nhân duyên cũng do ông Chánh và bà Cả sắp đặt. Nghĩ rằng anh Vận là người thật thà, khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn, ai ngờ có với nhau hai mặt con tôi mới biết anh ta là kẻ bạc tình bạc nghĩa, chẳng những thông gian với bà ba Lánh mà còn giết chết bố vợ rồi đem nhau đi trốn. Từ đó Vận bỏ mặc vợ con sống vất vưởng trong sự hắt hủi của gia đình, họ hàng. Hành vi của Lê Văn Vận hoàn toàn không xứng đáng với tư cách của một cán bộ Việt Minh, một chủ tịch huyện. Tôi đề nghị toà xử phạt nghiêm khăc để làm gương cho kẻ khác.
    Khúc Thị Hài vừa đi xuống thì hội trường lại bị vỡ ra bởi những tiếng hô đến khản cả giọng :
    - Đả đảo Lê Văn Vận!
    - Tử hình! Tử hình!

    Ngọn đòn mà Khúc Thị Hài vừa giáng xuống làm Lê Văn Vận mất tinh thần. Anh ta cúi đầu, thỉnh thoảng khẽ thở dài. Chánh án ứng Thị Sót chưa kịp gọi nhân chứng tiếp theo thì một ông già tóc bạc, khập khiễng lách lên. Đó là một bần nông người Mạc Điền, năm Bính Tuất có cô con gái bị bọn tay chân của Đỗ Kim bắt cóc. Ông ta chỉ mặt Lê Văn Vận bảo :
    - Thời thực dân đế quốc phong kiến cai trị ở vùng Ba Tổng chưa bao giờ xẩy ra những chuyện tầy đình như thế. Vậy mà các ông Việt Minh vừa giành được chính quyền đã dung túng cho bọn lưu manh hãm hại dân lành. Thằng Đỗ Kim là dân cờ bạc cả tổng này ai chẳng biết, tại sao các ông cử nó làm chủ tịch xã? Chính vì thế bọn đầu trộm đuôi cướp mới núp dưới bóng nó mở sòng bạc, bắt cóc đàn bà con gái hãm hiếp rồi quẳng xuống sông Lăng. Bà con gửi đơn kiện thì bị huyện dìm đi. Hôm nay tôi đến là để đòi sự công bằng. Ông chủ tịch huyện, hãy trả con gái cho tôi, nếu không tôi phải liều...

    Nói đến đây bất ngờ ông già rút trong cạp quần ra con dao nhọn nhảy bổ lên đâm Lê Văn Vận. Cũng may hai dân quân cảnh giác can thiệp kịp thời nếu không hẳn là đã có án mạng. Ngoài cửa đình Lương Văn Mực giơ tay hô to :
    - Đả đảo tên Việt gian Lê Văn Vận!
    - Đả đảo!
    - Kiên quyết bắt tên Quốc dân đảng đền mạng!
    - Kiên quyết! Kiên quyết!

    Vận thoáng rùng mình khi nhìn thấy một rừng cánh tay giơ lên cùng với âm thanh rùng rùng như gió lốc tưởng có thể đẩy bật tung mái đình lợp ngói âm dương lên chín tầng trời.
    - Thưa bà con, cho tôi nói…
    - Câm ngay đi! Tội trạng đã rõ ràng còn nói gì nữa.
    - Thưa đồng bào! Tôi bị oan, đề nghị Toà cử người về huyện lấy nhân chứng.
    Đến lúc ấy, ứng Thị Sót mới đứng dậy liếc nhìn đội Lạc, đội Yên rồi thong thả kết luận:
    - Tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận đã rõ không một ai có thể thanh minh cho hắn được, bà con bần cố nông thấy tôi nói có đúng không?
    - Đúng lắm. Toà xét xử công minh lắm .
    - Xin mời bà con tạm nghỉ để Toà hội ý.

    Vì đình Cả là nơi bàn việc của chế độ cũ năm gian thông nhau không có phòng riêng nên các quan toà phải kéo nhau vào hậu cung nghị án. Thực ra bản án đã có sẵn, có thể tuyên ngay, nhưng vị đại diện của Đoàn Cải cách bảo phaỉ làm thế mơí đúng trình tự xét xử, đồng thời cho nhân dân thấy được tính dân chủ,công bằng của nền tư pháp trong chế độ mới.

    Bên ngoài một số thiếu niên quá khích, sau khi thì thầm với xã đội Mực, lần lượt chen vào đình, mỗi đứa đều dấu một cái gì đó dưới áo. Đến gần vành móng ngựa, bất chợt một thằng choai choai hô to : “ Đả đảo tên Quốc dân đảng!”, thế là bọn trẻ ranh, đứa thì quệt mực tàu vào mặt, đứa ném cà chua thối vào áo, đứa trát một nắm bùn vào đầu làm ông chủ tịch phút chốc biến dạng chẳng khác gì thứ hình nộm cổ quái. Khúc thị Hài thừa lúc trong đình còn ít người đến bên Lê Văn Vận sụt sịt khóc.
    - Anh hiểu cho, tôi vẫn thương anh nhưng bị người ta ép buộc, không đấu anh thì thằng Nghiên, thằng Khải bị bắt.
    Vận nhếch mép cười cay đắng :
    - Cô mắc lừa chúng nó rồi. Tôi mà chết, hai thằng khó mà ngẩng đầu lên được.
    - Làm thế nào bây giờ hở mình?
    Vận gắt :
    -Thôi về đi! Ngày mai không được cho chúng nó ra pháp trường.
    án đã nghị xong. Khi mọi người đã vào đình đông đủ, ứng Thị Sót đứng lên dõng dạc đọc thuộc lòng mấy câu ngắn gọn do đội Lạc soạn thảo:
    - Căn cứ vào tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận, nhân dânh Uỷ ban Cải cách nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Toà tuyên bố hắn tội tử hình.
    Cả hội trường lặng đi mấy giây rồi bất ngờ đồng thanh hô to:
    - Đả đảo tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận!
    - Đả...đảo...!
    Phiên toà vừa kết thúc, đội Lạc gọi Bùi Quốc Tầm và ứng Thị Sót rỉ tai bảo:
    - Đồng chí phái viên cấp trên yêu cầu phải thi hành bản án ngay chiều hôm nay.

    Lần này nơi thi hành án không phải đồng Xưa mà là đồng Đấu. Dân quân đã đào huyệt và chôn sẵn chiếc cọc bằng một đoạn tre trên miệng hố. Hầu hết bà con đều không về nhà mà rồng rắn kéo nhau xuống pháp trường. Đồng Đấu là khu ruộng bỏ hoang từ nhiều năm nay cách xa làng Cùa năm cây số. Đoàn người mỗi lúc một đông vì cứ qua mỗi làng lại có thêm bần cố nông nhập bọn.

    Trời lạnh, những hạt mưa bụi bay lất phất vì gió bắc đã tràn về. Rất nhiều người không có quần áo ấm, mặc phong phanh run lên vì rét. Bọn trẻ chạy nhảy chán, giờ đói bụng, ngồi vạ vật dọc đường, có đứa ngồi chồm chỗm trên lưng mẹ ngủ gà gật. Mấy lá cờ thấm nước ngả màu tím sẫm bay phần phật. Những người cầm cờ cố giữ cán cho thật thẳng, ưỡn ngực hiên ngang bước như trong cuộc diễu binh.

    Lê Văn Vận bị trói hai tay vào cột tre, mắt bịt băng đen. Anh ta im lặng, khuôn mặt lạnh như đá không hề biểu hiện thái độ gì. Bẩy dân quân được chỉ định hành hình xách súng đứng về một bên. Xã đội trưởng Mực bố trí chỗ đứng cho từng người rồi lại gần ông chủ tịch bảo:
    - Cho phạm nhân nói lời cuối cùng.
    Vận lắc đầu:
    - Không cần.
    - Các đồng chí dân quân chuẩn bị lên đạn!
    Tiếng khoá nòng lách cách nghe khô khốc đập vào trí não rợn cả người.
    - Bắn!

    Một loạt tiếng nổ, Mùi thuốc súng vừa khét vừa hăng hắc làm một số người đang bị lạnh hắt hơi. Vận bị trúng ba viên, một vào cằm vỡ quai hàm, máu từ động mạch chủ phụt ra như chiếc vòi bơm áp lực. Một nửa hàm răng bên trái nhoe nhoét máu bật khỏi mồm nhưng vì vẫn còn dính dây chằng nên cứ lủng lẳng trước ngực chưa chịu rơi xuống. Khuôn mặt Lê Văn Vận lúc này biến dạng một cách khủng khiếp chẳng giống người cũng chẳng giống ma quỷ. Nó là một quái nhân khiến cho bất cứ ai nhìn vào cũng phải rùng mình.

    Lần này chủ tịch Bùi Quốc Tầm không bị mất mặt trước vị phái viên cấp trên vì phạm nhân chết ngay từ loạt đạn đầu. Người ta nhanh chóng khám nghiệm tử thi rồi cởi dây trói hất cái xác xuống hố. Lúc ấy đã xế chiều. Pháp trường vừa mới đây có cả ngàn người khí thế hừng hực xông lên tận trời, giờ vắng tanh vắng ngắt, trả lại cái tĩnh mịch muôn thuở của cánh đồng hoang. Đây đó những gò đất lô xô mọc đầy lau lách chẳng biết được đắp từ bao giờ trông chẳng khác gì những con lạc đà với hàng loạt bướu to nhỏ khác nhau, nằm phục hai chân trước chờ ông chủ trèo lên lưng. Hoa bìm bìm vắt trên những cành dâu dại nở tím cả chiều đông. Hoa dành dành xoè cánh trắng điểm chút nhuỵ vàng nhô lên giữa những bụi mẫu đơn đỏ, đứng xa trông như đám hoa mò thường mọc trên bờ đầm Ma. Cánh đồng lạnh lẽo thoang thoảng mùi tử khí nhập nhoà trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng gió chạy lao xao, tiếng loài chim lợn bay thấp và tiếng cú rúc đâu đó trong những bụi núc nác. Khúc Thị Hài ngồi một mình bên mộ Lê Văn Vận. Người đàn bà này ngay cả lúc chồng bị tử hình cũng không nhỏ một giọt nước mắt. Chị ta đã hoá đá sau khi biết mình bị lừa. Cái sự bị Đội Cải cách lừa còn đau hơn nhiều so với việc mất người thân, bởi sự lừa đảo những thân phận đã gửi hết niềm tin vào mình nó đê tiện hèn hạ làm người ta kinh tởm, hơn thế nữa đây lại là chuyện lừa đảo có tổ chức. Chị còn nhớ, chiều hôm trước mấy dân quân lạ hoắc khoác súng vào nhà ông Lái. Một người tự xưng là xã đội cho biết, họ phải vượt sông Lăng, đi hàng chục cây số sang đây là để yêu cầu chị làm một việc cho sự nghiệp Cách mạng. Toán dân quân dẫn Khúc Thị Hài ra cồn Láng, chỉ đến khi sang sông chị mới hiểu mình bị áp giải về làng Cùa. Trước khi ra khỏi kẻ Bòng, Lương văn Mực còn dặn ông cựu chủ tịch Liên Việt xã:
    - Không được cho thằng Nghiên, thằng Khải biết là mẹ nó đã sang sông, nếu để lộ chuyện ông hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước đội Cải cách.

    Bị giải về đình Cả, Khúc Thị Hài được đưa vào gặp Bùi Quốc Tầm và mấy bà cốt cán. Không cần rào trứơc đón sau, đội Lạc, người chỉ huy cao nhất Đội Cải cách xã Đoàn Kết nói ngay:
    - Chúng tôi phải cho người sang làng Bòng đón chị về đây vì chị là nhân chứng quan trọng trong vụ án Lê Văn Vận. Anh ấy hiện đang bị tạm giam, ngày trước có mắc một số sai lầm cần phải được làm rõ.
    Khúc Thị Hài tái mặt. từ trước đến giờ chị ta chưa được tiếp xúc với các cán bộ chính quyền kiểu này nên run lắm.
    -Thưa... tôi phải làm gì?
    Đội Lạc nhỏ nhẹ bảo:
    - Chị là con gái ông chánh Đàm . Ông ta tuy chết rồi nhưng tội phản dân hại nước cả tổng đều biết, nếu còn sống cũng không thoát khỏi án tử hình. Trong gia đình họ Khúc chỉ có chị là không thuộc thành phần bóc lột lại bị mẹ con bà Cả hắt hủi đuổi ra khỏi nhà, Đội Cải cách yêu cầu chị khai báo thành khẩn những hành vi sai trái của anh Vận khi còn ở nhà. Chị càng nói thật, càng thể hiện lòng căm thù thì càng chứng tỏ mình trong sạch, không liên quan đến bọn Quốc dân đảng chống phá công cuộc Cải cách cuả Chính phủ.

    Khúc thị Hài là người thật thà, cả tin nghe ông đội nói bùi tai, ngập ngừng hỏi:
    - Nhưng mà nói thế sợ rằng nhà tôi bị tội...
    - Chị yên tâm . – Bùi Quốc Tầm kéo xong điếu thuốc lào, phà khói mù mịt nói chêm vào – Anh Vận là chủ tịch huyện được cấp trên bảo vệ không thể bị đối xử như bọn địa chủ cường hào. Chị dám dũng cảm đứng lên tố cáo sai lầm của anh âý trong quá khứ cũng chính là cứu tính mạng và danh dự hai cậu con trai. Sau này, chính quyền sẽ cấp cho gia đình giấy xác nhận thành phần bần cố nông, không liên quan đến địa chủ phản động.

    Đội Lạc nói ngọt như mía lùi làm Khúc Thị Hài không thể không tin vào sự nghiệp Cải cách. Sau một đêm suy nghĩ, chị quyết tố cáo Lê Văn Vận với tất cả những tội trạng mà anh ta đã gây ra hồi còn ở làng Cùa mà không biết tự tay mình ký vào bản án tử hình của chồng.

    Đêm xuống từ lúc nào Khúc Thị Hài không biết. Màn sương đục lơ lưng giăng ngang trời. Trăng thượng tuần bị nhoè đi bởi phải lặn ngụp giữa những cồn mây. Giữa đồng hoang lờ mờ có vài bóng đen đang chuyển động dần về phía mấy gò đất. Có lẽ là ma. Chị ta quỳ sụp xuống vái lấy vái để:
    -Trăm lạy anh Vận sống khôn chết thiêng, tôi bị người ta ép buộc chứ thực tâm không muốn vu oan giá hoạ cho anh...
    - Kìa mẹ, sao mẹ lại làm thế? Dù sao ông ấy cũng là bố chúng con.
    Thì ra là hai anh em Lê Văn Khải. Khúc Thị Hài như thấy có cái gì vỡ ra trong lòng, bất giác oà khóc, giọng tức tưởi:
    - Các con ơi mẹ bị người ta lừa...
    Lê Văn Nghiên trách:
    - Mẹ sang đây mà không cho chúng con biết. Nếu biết không bao giờ chúng con để mẹ đấu bố.
    - Chiều hôm qua, lúc hai đứa đánh lưới trên sông, dân quân làng Cùa sang bắt mẹ về. Họ dặn ông Lái không được nói với các con.
    - Quân khốn nạn! - Lê Văn Khải nghiến răng chửi.
    Lê Văn Nghiên nói:
    - Mãi đến tối không thấy mẹ về, bà đoán có chuyện chẳng lành mới bảo chúng con sang.
    Lê Văn Khải lấy trong bọc ra một nắm hương, bật diêm châm lửa, cắm lên vầng cỏ trên mộ bố rồi lầm rầm khấn:
    - Bố tha lỗi cho mẹ và phù hộ cho chúng con. Cuộc đời này còn lắm bất công nên bố phải chết oan, nếu có khôn thiêng hãy về vật chết những kẻ giáng hoạ cho nhà ta.

    Bó hương gần tàn. Ba mẹ con đang định quay về thì từ phía sau có hai người đàn ông khiêng cỗ quan tài mộc và một người đàn bà áo xô khăn trắng tay cầm bát cơm quả trứng lặng lẽ đến bên như những cô hồn. Cỗ quan tài vừa hạ xuống ngưòi đàn bà liền đến bên mộ Lê Văn Vận lầm rầm khấn. Một trong hai người đàn ông bật lửa thắp hương. Khúc Thị Hài cho rằng họ là thân nhân của những địa chủ bị bắn ngày hôm qua nên lại gần bảo:
    - Các người nhầm mộ rồi.
    Người đàn bà mặc đồ tang lắc đầu:
    - Tôi không nhầm. Đây là mộ ông chủ tịch Lê Văn Vận mới bị bắn chiều nay.
    - Các người là ai? - Lê Văn Khải hỏi.
    - Hai cậu là Khải và Nghiên phải không?
    - Sao bà lại biết chúng tôi?
    - Việc ấy sẽ nói sau, điều cần thiết lúc này là phải mai táng tử tế cho ông chủ tịch. Ông ấy tuy có lúc vấp ngã nhưng là người tốt không thể để nằm lạnh lẽo như thế dưới ba thước đất. Tôi đã mua ở phố cỗ ao quan và nhờ hai bác đây chôn cất giúp. Nào, bây giờ hai bác đào huyệt ở sát gò đất kia.

    Lê Văn Khải hỏi:
    - Sao lại phải đào huyệt khác?
    Người đàn bà vừa lấy trong quan tài ra chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc xẻng đưa cho từng người rồi hạ giọng thì thầm:
    - Để phòng xa. Thời buổi này việc gì người ta cũng có thể làm.

    Lê Văn Vận nằm úp sấp, chân tay co quắp, một bên quai hàm bạnh ra, mặt sưng phồng hiện ra dưới ánh nến rất khủng khiếp. Người đàn bà cởi bộ quần áo bẩn thỉu của ông chủ tịch rồi mặc vào bộ bà ba mới màu gụ. Cái xác đã cứng, khó khăn lắm mới nắn được tay chân về đúng vị trí với sự trợ giúp của chai rượu ngang. Vải liệm được chuẩn bị sẵn cùng với quan tài. Đó là một miếng diềm bâu khá dài. Anh em Khải Nghiên tự tay quấn cho bố, đến khi nắp quan tài vừa đóng thì vành trăng non cũng lặn. Càng về khuya trời càng tối. Nến dưới huyệt cũng đã tàn. Mọi người chỉ nhìn thấy nhau như những cái bóng. Lê Văn Nghiên có mang theo chiếc đèn chai nhưng không dám thắp. ánh sáng bất chợt giữa khu đồng hoang chắc sẽ làm đám dân quân làng Báng, làng Quao và Đậu Khê nghi ngờ. Khốn khổ thay cho chàng ngư phủ sông Lăng, sống trên cõi dương gian đã gặp không ít đoạn trường đến lúc chết xuống âm phủ cũng phải chôn cất vụng trộm. Mọi người chụm nhau lại che ánh sáng để Lê Văn Khải bật diêm đốt nhang. Trong đêm đen, tàn hương phát tán nhảy nhót giống hệt lũ ma trơi, thỉnh thoảng một ngon gió lướt qua lại bùng cháy thành quầng lửa nhỏ toả ra đồng hoang thứ mùi lãng đãng của thế giới những hồn ma bóng quỷ.Thắp hương xong, người đàn bà mặc đồ tang bảo hai phu đòn và anh em Lê Văn Khải lấp ngôi mộ cũ đắp vầng cỏ trả lại nguyên dạng ban đầu. Trong làng, gà đã gáy dồn. Có lẽ đã quá canh ba. Bà ta quỳ xuống trước nấm mộ vái ba vái thì thầm điều gì đó rồi cùng hai người đàn ông vác mai cuốc quay đi. Bóng họ lẫn vào đêm tối rất nhanh. Trong khi ấy, Khúc Thị Hài vẫn ngồi lặng lẽ như pho tượng. Từ lúc quan tài hạ huyệt chị ta chẳng hỏi han gì người đàn bà lạ kia nữa. Hai mươi năm chờ đợi bây giờ mất hẳn anh ta, chị hận chồng nhưng lại trách mình nhẹ dạ cả tin, trách ông trời ăn ở bất công. Khi ba mẹ con bắt đầu rời khỏi khu đồng Đấu, Lê Văn Khải hỏi:
    - Bà ấy là ai thế hả mẹ?

    Khúc Thị Hài ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Có lẽ đấy là dì Ba Lánh, người mà các con phải gọi bằng bà trẻ, nhưng việc này phải giữ kín.
    - Thế còn ông Lái?
    - Tạm thời đừng nói gì với ông.

    Thanh toán được Lê Văn Vận, vị phái viên lập tức viết báo cáo gửi cấp trên. Ông ta vốn là chính trị viên tiểu đoàn, được quân đội cử sang làm Cải cách ruộngđất từ đầu tháng bảy. Tối mồng tám tháng mười một, nghiã là một ngày một đêm sau khi chủ tịch huyện bị hành quyết, đội Lạc họp với ban Cốt cán để sơ kết giai đoạn đầu công tác Cải cách ruộng đất ở làng Cùa. Đây là một làng điển hình của xã Đoàn Kết được chọn làm thí điểm, nếu thành công sẽ nhân ra cả huyện Nam Thành. Dự họp, ngoài vị phái viên còn có đội Lạc, Bùi Quốc Tầm, xã đội Mực, Cấn Viết Tham, bí thư Lại Quang Nghinh, ứngThị Sót, Lê Thị Chĩnh và một vài cán bộ Nông hội. Đây là cuộc họp quan trọng nên không thể để nhiều người biết. Bùi Quốc Tầm đề nghị họp trong đình Cả nhưng đội Lạc quyết định chọn ngôi nhà cũ của ứng Thị Sót để bảo đảm bí mật. Từ khi Sót cùng bà mẹ nghễnh ngãng chuyển sang nhà chánh Bang, chỗ này tạm để cho lão Thốn vốn là dân ngụ cư chuyên nghề đóng cối ở nhờ. Mấy hôm nay lão sang làng Báng làm cho ông trưởng công an xã, ăn nghỉ luôn ở đấy nên căn hộ vẫn bỏ không, cổng dấp mấy cành rào. Hai dân quân dược phân công gác khoác súng đi lại trước sân thỉnh thoảng lại đảo một vòng ra phía sau bụi tre nhòm ngó. Lúc ấy khoảng hơn mười giờ. Trong nhà mọi người đang bàn cãi khá căng thẳng về trường hợp của Khúc Kiệt và Ngô Quỳnh thì bỗng nhiên có vật gì rơi đến bịch một cái từ trái nhà xuống.
    - Lựu đạn! Tất cả nằm xuống! - Bùi Quốc Tầm vừa kịp thét lên thì quả lựu đạn mỏ vịt đang xì khói đã phát nổ. Một quấng lửa nhoáng lên như ánh chớp. Không khí bị co giật mạnh đến mức chiếc lọ sành vẫn dùng đựng nước của lão Thốn để trên đầu kệ gỗ bay vèo xuống gầm chõng vỡ làm mấy mảnh. Hai dân quân lúc ấy đang chụm đầu kéo thuốc lào, nghe tiếng nổ vội xách súng chạy vào, mặt cắt không còn hạt máu. Cảnh tượng sau vụ nổ bày ra thật khủng khiếp. Ông Điến chủ tịch Nông hội ngồi ngay dưới chái nhà, hai mắt bị sức ép mạnh lồi ra khỏi tròng lầy nhầy những máu là máu. Vị phái viên của đoàn Cải cách đang đứng nói, tay khua khua vào không khí hứng trọn một trận mưa mảnh gang theo hình nón ngược cắm chi chít từ mông đến bả vai giống như con nhím xù lông chuẩn bị “ bắn” kẻ thù. Xã đội Mực chưa chết ngay. Anh ta ngã chúi đầu xuống đất chân vẫn còn gác lên chiếc chõng tre ngâm cứ run bắn như con ếch lúc bị chặt đầu. Một mảnh gang chém dưới màng tai, máu xối ra làm Mực rống lên ồ ồ như tiêng con bê lạc mẹ. Bùi Quốc Tầm nằm dán bụng xuống đất, vòng hai tay che gáy bị bóc mất mảng lưng, lúc đầu trắng toát sau chuyển sang đỏ sẫm. Anh ta hốt quá, vừa thở phì phì như trâu kéo gỗ vượt dốc vừa rên rỉ:
    - Phen này thì tôi chết rồi, ới đội Cải cách ơi!

    Chỉ ít phút sau dân làng Cùa đã kịp thời có mặt. Bà con vốn rất nhanh nhạy với các sự kiện kiểu này. Họ chen chúc vòng trong vòng ngoài làm cản trở những người có nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân. Trong xóm, ngoài ông lang Toạ chữa thuốc bắc không một ai hiểu gì việc xử lý những người bị thương. Họ khiêng mấy xác chết để sang một bên sau đó chuyển các nạn nhân ra đình.

    Vụ nổ bất ngờ làm cả xã Đoàn Kết choáng váng. ở một vài ngõ xóm có tiếng mẹ khóc con, vợ hờ chồng. Đêm như bị xé nát ra bởi tiếng bước chân rầm rập truy bắt hung thủ của toàn thể lực lượng dân quân dưới sự chỉ huy của xã đội phó Cung Văn Luỹ. Đèn đuốc sáng như sao sa rồng rắn chảy vào các ngõ ngách. Tiếng hô hoán lúc gần lúc xa nghe như thiên hạ sắp đại loạn đến nơi. Phía điếm Bài Vân thỉnh thoảng có tiếng súng. Lũ chim đêm tá túc trên những cụm lồng ngộc hoặc tre gai giật mình bay nháo nhác. Chúng đã quen tiếng súng nhưng lại sợ lửa. Những cây đuốc nứa dài thườn thượt cháy rần rật được đám thanh thiếu niên vác đua nhau chạy khắp làng, ra cả ao Quan, ao Lịnh, đồng Gà tìm lũ phản động nhưng đến sáng bạch vẫn không thấy tăm hơi. Nhờ có ông Điến làm vật chắn, đội Lạc chỉ bị mảnh gang nhỏ xẻo mất một miếng da bắp chân, anh ta lập tức cử người về huyện trình báo đồng thời cho bắt ngay những kẻ tình nghi có liên quan đến vụ án. Ngoài Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Đặng Thị Huê, phó lý Kiền đang bị giam từ trước, lần này Bùi Quốc Tầm ra lệnh xích tay một loạt phú nông, lính dõng, lính Bảo an và cả mấy tay trương tuần có máu mặt. Nhà giam ngoài đình chật cứng, Cung Văn Luỹ nghĩ ra cách tống bọn này vào tầng hầm nhà chánh Đàm tuy rằng ba hôm trước nó đã được chia cho mấy hộ bần cố nông Hai dân quân canh gác cũng bị thẩm vấn. Đội Lạc nghi, rất có thể họ thông lưng với Quốc dân đảng gây ra vụ khủng bố đẫm máu này. Mãi đến chiều hôm sau, Bùi Quốc Tầm mới nhớ đến anh em họ Lê. Đội Lạc lập tức ký lệnh cử Cung Văn Luỹ cùng bốn dân quân sang làng Bòng bắt khẩn cấp Khải và Nghiên.


    7. Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên được Lái Lự coi như cháu nội cho ăn học suốt những năm mẹ con bà Hai sang sông.

    Năm bốn tám sau khi đỗ bằng tiểu học hai anh em được lên tỉnh học trung học đệ nhất cấp. Khải giỏi hơn được học bổng. Hè năm năm hai, sau khi ra Hải Phòng thi tốt nghiệp, tất cả học sinh nam lớp đệ tứ đều phải đến nhà thương khám sức khoẻ, nếu được sẽ lên Đà Lạt vào quân trường học lớp sĩ quan cấp tốc. Trong lúc làm hồ sơ, phòng Nhì phát hiện ra bố đẻ của Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên là Việt Minh. Hai anh em lập tức bị bắt. Ông lái Lự phải chạy ngược chạy xuôi, lo lót các cửa mất một món tiền khá lớn mới lôi được hai thằng cháu ra khỏi trại giam Tân Xá. Về làng Bòng, một số thanh niên rủ Khải vào chiến khu Đông Triều nhưng anh ta vốn có mặc cảm trong quá khứ với ông bố Việt Minh nên xem ra không hào hứng lắm . Ông Lái bảo:
    - Phải học lấy một nghề mà kiếm sống. Ta xem các cháu không hợp với nghiệp binh đao .
    - Hay là chúng cháu lại ra tỉnh ? - Lê Văn Nghiên ngập ngừng hỏi.
    - Ra tỉnh không bằng vào rừng . - Ông Lái khuyên - Thời buổi nhiễu nhương này ở nơi đô hội dễ hỏng người.

    Mấy hôm sau Khải rủ Nghiên vào trại Vân Quan học nghề thợ mộc với ông phó Đằng. Ông Đằng khó tính mà lại dữ đòn, lơ mơ là lấy dùi đục quật ngay. Có những hôm hai anh em thâm tím cả người.Tối nào ông Phó cũng đánh xóc đĩa. Dân xóc đĩa toàn phường buôn bán đủ mánh khoé lừa lọc, có những hôm thua cháy túi ông Đằng phải gán cả cưa đục. Được khoảng nửa năm, nghề chẳng thành mà lại hay bị đòn oan, hai anh em đành bái biệt ông thày cờ bạc xuôi xuống mạn Yên Cư. Đến ngã ba dốc Cây Thị, Nghiên bảo:
    - Anh em ta tạm chia ra mỗi người một hướng mà đi, hẹn đến tết gặp nhau tại nhà, vạn nhất có chuyện gì xảy ra sau này còn có người nuôi mẹ.

    Khải gật đầu :
    - Em nói phải. Thực ra đi tìm việc như thế này chỉ là bất đắc dĩ không hợp với chí hướng của anh.
    Hành lý được chia làm đôi. Nghiên đi về phía thượng nguồn sông Vệ còn Khải rẽ sang vùng Sàn Lạng. Trời sắp tối mà đường có vẻ còn xa mới đến được thị trấn Gôi, Khải đang muốn tìm chỗ nghỉ qua đêm thì thấy giữa cánh đồng có mấy lò gạch đang toả khói. Anh ta tìm đến nơi gặp bọn phu lò đang ăn cơm tối. Khi biết được ý định của Khải, một bác rậm râu đã luống tuổi, gầy hõm mắt, chỉ vào ngôi nhà cạnh đầm nước cách đây chừng hai ba trăm thước bảo:
    - Cô chủ ở trong ấy vào mà xin, ở đây không có chỗ ngủ đâu.

    Bọn thợ gạch nghe xong cười hô hố làm Khải sinh nghi định bỏ đi. Một gã mặt tròn, da xù xì như da cóc, cái mũi chẳng khác gì tẩu thuốc lá nháy mắt với bác rậm râu rồi hỏi:
    - Có biết chữ không?
    Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Biết chút ít.
    - Thế thì vào nhà đi, cô chủ đang cần người quản lý đấy.
    Khải làm ra bộ ngây ngô hỏi lại:
    - Người ta cần sao các bác không làm lại đẩy tôi vào?
    - Là vì trông cậu có dáng thư sinh. - Người rậm râu cười bảo - Chúng tôi toàn loại vai u thịt bắp cứ đến gần là cô chủ nhăn mặt, chun mũi.

    Đã vậy thì cứ thử xem “cô chủ” là ai mà bọn thợ lò thích đem ra giễu cợt đến thế. Mà tại sao lại là “cô chủ” chứ không phải bà chủ? Đường cũng không khó đi lắm nhưng vì Khải đã cuốc bộ suốt ngày, đôi chân mỏi rã rời lên phải lê bước khá lâu mới đến khu nhà có ánh đèn. Người ra mở cổng là một bà già bé loắt choắt chẳng khác gì đứa trẻ nhưng chân tay luôn ngọ nguậy không lúc nào yên. Bà ta nhìn một thoáng từ đầu tời chân cùng chiếc tay nải nhuộm vỏ già của ông khách trẻ hỏi :
    - Cậu là người ở đâu ta?
    - Tôi ở xa được mấy bác lò gạch chỉ vào trọ nhờ.
    - Mời cậu vào để tôi báo với cô chủ.

    Lại “cô chủ”, Khải thầm nghĩ, sao ở một nơi đồng không mông quạnh như thế này lại có một phụ nữ dở hơi nảy ra ý định kinh doanh lò gạch, cái nghề đáng ra phải của đám mày râu. Chừng mấy phút sau, một cô gái, đúng hơn là một người đẹp chừng hăm mốt hăm hai, tóc bồng rẽ đường ngôi lệch, mặt trái soan, mũi dọc dừa, cặp môi ướt, từ trong đi ra. Cô ta nhìn Khải một thoáng rồi hỏi người ta bằng thứ ngôn ngữ rất là “Liêu trai”:
    - Quý khách chắc là từ xa đến đây?
    Khải bật cười :
    - Dạ thưa chị, tôi là thư sinh nghèo, gặp thời loạn lạc phải bỏ nhà đi kiếm việc làm.
    Mắt người phụ nữ chợt sáng lên :
    - Anh có biết tính toán không ?
    - Thưa...tôi đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
    Cô chủ bỗng nhiên thẫn thờ, mắt mơ màng như đang chìm trong giấc mộng đêm hè. Lúc ấy Khải mới để ý trên tay chị ta vẫn còn cầm cuốn “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng.

    Cũng không khó khăn gì trong việc tìm hiểu cô chủ lò gạch. Chị ta tên là Trâm, tốt nghiệp tiểu học, sau khi đọc hàng loạt tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì thêm một mỹ tự vào phía trước tên là Kiều Trâm . Kiều Trâm là con vợ bé một ông phán Dây thép. Bà vợ cả có một sạp vải ở chợ Lớn, thỉnh thoảng nổi máu sư tử Hà Đông lại thuê bọn “anh chị” đến đánh ghen. Bà Hai không có con trai, chỉ được mỗi Kiều Trâm, bị lép vế, không ở được phải dắt díu nhau về Đa Hội mở một quầy tạp hoá kiếm sống. Ông Phán tuy sợ vợ cả một phép nhưng vẫn dấm dúi chu cấp cho hai mẹ con. Mấy năm gần đây, Việt Minh nổi lên lập vùng tự do, việc đi lại giữa thành thị và nhà quê rất khó khăn, bà Cảnh nhờ ông anh ruột đứng ra mở lò gạch, thuê nhân công đốt, bán cho dân địa phương. Đang làm ăn phát đạt thì ông em bị cảm mạo lăn đùng ra chết, vậy là hai mẹ con đành phải cáng đáng lấy công việc.

    Kiều Trâm được chiều từ bé, suốt ngày con sen dẫn đi chơi, lớn lên lại ham đọc sách nhất là loại tiểu thuyết diễm tình mà nhân vật chính là “chàng” và “nàng” con nhà khá giả ở thành phố có chút học vấn, thích vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến, đòi nam nữ bình quyền và hôn nhân tự do. Nhưng ở vùng quê thâm sơn cùng cốc này, người dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời kiếm đâu ra ý trung nhân như cô vẫn hằng tưởng tượng qua những trang sánh của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo? Ngày tháng qua đi, Kiều Trâm chờ người trong mộng đến mỏi mòn sinh ra tính trầm uất làm bà mẹ phát hoảng phải mời thầy lang đến bốc thuốc. Ông nào bắt mạch xong cũng lắc đầu bảo:
    - Bệnh của cô nhà là tâm bệnh, lũ người trần mắt thịt chúng tôi không chữa được.

    Ngày nào Kiều Trâm cũng mang “ Tắt lửa lòng “, Lạnh lùng”, “Cô giáo Minh”, “ Đoạn tuyệt” rồi “Hồn bướm mơ tiên” ra đọc. Có hôm đang giữa trang sách cô khóc rưng rức như trẻ con bị đánh oan. Nhìn bề ngoài Kiều Trâm không có vẻ gì là bệnh hoạn, nhưng cứ cầm cuốn tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nào đó lên là ánh mắt cô ta trở nên thảng thốt, lúc thì đầy vẻ chán chường lúc lại cháy bỏng một thứ đam mê tưởng như có thể thiêu trụi bất cứ thứ gì bị nó chiếu vào.

    Khải đến, bà Cảnh mừng thầm ngỏ ý với anh ta ở lại vài ngày để Kiều Trâm có bạn. Đối với Khải, cuộc chu du trên đường thiên lý là vô định chẳng có gì phải vội. Việc làm đẹp lòng một tiểu thư hơn mình hai ba tuổi bằng cách tán nhăng nhít những đoạn văn sướt mướt trong “Nửa chừng xuân” hoặc “Đời mưa gió" chỉ là chuyện vặt. Cuối cùng Khải cũng nhận lời làm quản lý lò gạch, nghĩa là thay mặt bà chủ xuất gạch chín, đếm gạch mộc, ghi chép số hàng bán ra và quyết toán sổ sách. Công việc quá dễ đối với một chàng tú tài bán phần. Kiều Trâm thích lắm, suốt ngày hát “Đêm đông” rồi “Thu quyến rũ” học được thơì còn ở thành phố. Ngày nào “cô chủ” cũng ra lò gạch kể cả những lúc trời mưa.

    Khải thấy cô ta làm vướng công việc của mình nên nói khéo :
    - Trâm về đi, ở ngoài này dầm nước mưa sẽ bị cảm lạnh.
    - Anh đuổi tôi đấy à?
    - ấy chết, ai lại dám thế, là tôi sợ chị bị ốm bà chủ quở trách.
    - Em không đồng ý anh gọi em bằng chị đâu, nghe nó khách sáo thế nào ấy.
    - à vâng, tôi lỡ lời, chị ..
    - Lại "chị" rồi . Trông Trâm già lắm phải không?
    - Không, Trâm đẹp lắm, đẹp hơn cả Mai trong “Nửa chừng xuân”.
    - Anh thấy Trâm đẹp thật à ?
    - Thưa tiểu thư, tôi không dám nói dối .

    Trâm cười rất hồn nhiên rồi lại hỏi :
    - Anh thấy Tuyết trong “ Đời mưa gió” như thế nào?
    - Đáng trách . - Khải cố tình nói khác với ý mình để thử phản ứng của “cô chủ” đối với nhân vật này.
    - Anh đúng là đồ không có tim .- Trâm phụng phịu ra vẻ giận dỗi - Đấy thực sự là người con gái đáng thương bị hoàn cảnh đẩy vào con đường lầm lạc. Trâm cho rằng các tác giả khi viết đã tìm được một nguyên mẫu trong đời thực. Thân phận đàn bà khổ quá phải không anh?
    - Vâng. Khổ thật.
    - Anh sao thế?
    - Tôi vẫn bình thường mà.
    - Này đầu óc để đâu thế ? Hay là anh vẫn bị mấy trăm viên gạch vỡ ám ảnh.
    - Đâu có.
    Ờ lò gạch giữa năm thứ hai thì ngày càng phức tạp. Đó là việc Kiều Trâm nhất quyết đòi Lê Văn Khải phải làm rể bà Cảnh. Chuyện này xem ra khá nghiêm trọng nếu chưa nói là nguy hiểm, vì thực chất anh em Khải vâng lời mẹ đi học nghề chứ không phải tìm vợ. Bây giờ đùng một cái mang cô tiểu thư hàng ngày chỉ có mỗi việc đọc tiểu thuyết ái tình về làng Bòng thì con mặt mũi nào nhìn ông lái Lự đã đã cưu mang mấy mẹ con bà cháu từ gần hai chục năm nay. Phải tìm cách chuồn thôi, nếu không mình mắc thêm một món nợ nữa. Nợ tiền còn trả được chứ nợ tình thì muôn đời không thể. Công bằng mà nói, đây là một đám khá giả. Bà mẹ gốc gác kẻ chợ mà làm ăn cơ chỉ, đối xử với người làm công rất có tình. Cô con gái tuy hơn anh ta hai tuổi nhưng vừa xinh đẹp lại vừa có của hồi môn, nhiều chàng trai dẫu nằm như mơ giữa ban ngày cũng chẳng dám tơ tưởng. Đã mấy lần bà chủ bảo :
    - Em Trâm nó mến cậu là người thật thà lại có học, cậu thấy thế nào?
    Khải tìm kế hoãn binh:
    - Nhà cháu gia cảnh bần hàn lại cách sông cách đò, chưa được phép của mẹ cháu chưa dám nghĩ đến chuyện trăm năm.
    - Tưởng gì, chuyện ấy không ngại, mấy hôm nữa cậu đưa tôi về quê thăm bà cụ.
    - Cứ để thư thư đã bà ạ.- Khải không ngờ bà chủ sốt sắng đến thế nên trong lòng thực sự hoảng sợ. -Từ đây về vùng quê cháu phải đi mấy ngày đường, lại qua bao nhiêu đồn bốt, nguy hiểm lắm, đi lúc này không tiện.

    Bà Cảnh vẫn tỏ ra rất kiên quyết:
    - Hay là cậu chê nhà tôi không xứng?
    Khải vội thanh minh :
    - Cháu đâu dám, chỉ sợ trên đường gặp chuyện không may thì biết ăn nói thế nào với cô nhà . Bà đã có lòng thương thì để ít bữa nữa cháu về mời mẹ lên đây thưa chuyện.

    Kế ấy xem ra tạm thời có kết quả. Ba tháng sau, lúc ấy đã hết mùa khô chuyển sang mùa mưa, thợ phơ được nghỉ đồng thời cũng đến hạn cuối cùng Lê Văn Khải không thể trì hoãn được nữa. Ngày mai anh ta phải về làng Bòng đón bà Hai lên Đa Hội xem mặt con dâu. Cả nhà đang chuẩn bị hành lý cho Khải thì có hai người đàn ông vận âu phục, mũ phớt, giày bốt tin đánh xi bóng nhoáng đột ngột xuất hiện. Chỉ một nhoáng mọi người đã biết chuyện. Ông phán Dây thép về thăm vợ con mang theo anh bạn vong niên trạc hăm chín, ba mươi làm thầy ký ga từ Hải Phòng sang đang rắp ranh làm khách đông sàng. Nghe được tin này Khải vừa buồn vừa vui. Buồn vì người đẹp sắp lên xe hoa dù sao tâm trạng cũng có chút luyến tiếc, vui vì thoát được cuộc tình chênh lệch mà thực ra anh ta cảm thấy mình vô duyên, kệch cỡm chẳng khác gì chàng Vọi gặp cô Hiền trên bãi biển trong tiểu thuyết “Trống mái”. Tiểu thuyết lãng mạn như thế thì đẹp thật, nhưng cuộc đời thực mà rập khuôn theo kiểu ấy thì chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra.

    Sáng hôm sau Lê Văn Khải dậy thật sớm, chẳng từ biệt ai, lặng lẽ xách khăn gói rời Đa Hội, mãi đến nửa buổi mẹ con bà Cảnh mới biết. Tiểu thư Kiều Trâm vội chạy tắt qua cánh bãi để nói lời chia tay nhưng lúc ấy anh ta đã cách khu lò gạch cả chục dặm đường.

    Khải về làng Bòng được nửa tháng thì Nghiên cũng bất ngờ xuất hiện. Anh chàng này sau hàng tháng lang bạt, một hôm dạt vào làng gốm Phù Kiều rồi ở lại xin chân phụ việc. Làm được ít lâu, một hôm hỏi về gia cảnh, ông thợ cả biết Nghiên đã học trung học, nói tiếng Pháp làu làu với viên đồn trưởng đồn Châu Cầu liền bảo :
    - Cậu có vốn học vấn như thế làm nghề này nó phí đi, hãy nghe tôi, ra thành phố xin vào trường Bách nghệ hoặc Canh nông mà học, sau này giúp ích cho đời.

    Nghe ông cụ, Nghiên về nhà. Mấy tháng sau hai anh em đang định khăn gói quả mướp ra Hà Nội thì Hiệp định đình chiến được ký sau khi Việt Minh đánh cho quân đội Pháp một trận tơi bời ở Điện Biên phủ. Hoà bình được lập lại, hy vọng ra Hà Nội học càng mong manh khi vùng Ba Tổng bắt đầu thí điểm Cải cách ruộng đất.

    8. Hai anh em vừa đi thả lưới ngoài bãi sông về, thấy mấy người lạ khoác súng bước vào nhà, Khải dã sinh nghi hỏi:
    - Các ông tìm ai?
    Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ bảo:
    - Chúng tôi cần gặp Lê văn Khải và Lê văn Nghiên con trai tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận.
    - Có việc gì?
    - Đội Cải cách mời các anh sang làng Cùa. Giấy đây, đọc đi.
    Khải liếc mắt nhìn những dòng chữ mất lỗi chính tả trên tờ giấy kẻ chấm xanh bên dưới có con dấu đóng bằng mực đen bỗng tái mặt.
    - Chúng tôi bị bắt?
    - Bà con bần cố nông nghi hai anh có dính líu đến vụ ném lựu đạn vào cuộc họp cốt cán ở làng Cùa, yêu cầu các anh sang bên ấy để làm sáng tỏ vấn đề.
    Lê Văn Nghiên trừng mắt:
    - Các người có điên không đấy? Suốt mấy ngày qua, anh em tôi vun ngô ở bãi Nổi, làm thế nào lại vượt sông Lăng sang làng Cùa gây án được.
    - Cứ về bên ấy sẽ biết.
    - Này các ông có kiểu bắt người gì lạ thế?
    Cung Văn Luỹ quay lại phía sau hất hàm bảo mấy dân quân:
    - Dẫn họ đi!

    Mẹ con bà Hai lúc ấy vẫn còn ngoài cồn Láng chỉ có ông Lái đang lúi húi ở vườn chuối. Nghe thâý tiếng người qua lại có vẻ gay gắt, ông đoán chắc đã xảy ra chuyện gì liền chạy bổ về nhà nhưng không kịp.
    Sang đến làng Cùa hai anh em họ Lê lập tức bị tống giam. Tối hôm ấy, đội Lạc, xã đội họ Cung, ứng Thị Sót, Lê Thị Chĩnh và mấy ông công an huyện lần lượt hỏi cung Khải và Nghiên. Ông công an mặc quần áo đen, dép cao su, mũ lưới khoảng ba tư ba nhăm, bàn tay có những ngón rất to, hỏi Lê văn Khải có lẽ đã đến lần thứ năm mươi:
    - Đêm hôm mồng chín tháng chạp từ bẩy đến mười giờ đêm anh đi đâu?
    - Tôi đã nói rồi, lúc ấy cả nhà tôi phải ngồi ở đình làng Bòng để nghe bần cố nông ôn nghèo kẻ khổ.
    - Ai có thể làm chứng cho anh?
    - Tất cả người xóm Bãi.
    - Thế mà đồng chí Sự, đội trưởng Cải cách làng Bòng lại nhìn thấy các anh lảng vảng ở bờ sông Lăng từ chiều.

    Khải cười khinh bỉ:
    - Vậy ra ông đội Sự có mắt lửa con ngươi vàng của Tôn Hành Giả nhìn thấu ngàn dặm . Từ làng Bòng ra đến bờ sông theo đường chim bay ít nhất cũng bảy cây số. Theo tôi được biết, chiều hôm ấy họ họp ở nhà ông chủ tịch Phạm Công Vằn đến chập tối rồi uống rươụ thịt chó mãi gần tám giờ mới ra đình, vậy thì làm thế nào thấy chúng tôi ngoài bờ sông?
    - Chúng mày thích lý mấu hả? - Ông áo đen bất ngờ đổi giọng- Bà con bần cố nông là tai mắt của Đội, chúng mày ở đâu, làm gì bọn ta đều biết, hiểu chưa? Muốn sống thì khai thật ra.
    - Ông bảo khai cái gì?
    - Không chúng mày thì đứa nào lém lựu đạn vào nhà đồng chí Sót giết chết bốn người làm bị thương năm người tối hôm mồng chín tháng chạp.
    -Thế ra các người định ép cung à?
    Tay công an mặt lạnh như đá chẳng nói chẳng rằng túm tóc Khải bạt tai liền mấy cái rồi rít qua kẽ răng:
    - Chính quyền từ nay ở trong tay bần cố nông, bà con muốn chúng mày chết cũng phải chết, muốn chúng mày sống thì được sống, đừng có đem cái mớ lý sự cùn của bọn đế quốc thực dân nhồi nhét ở trường về đây loè bịp.

    Đầu đình bên kia, đội Lạc và Cung Văn Luỹ dùng hết mọi mánh khoé truy bức Lê Văn Nghiên. Anh ta vốn rất bình tĩnh, ông xã đội đánh đến mỏi tay vẫn cứ trơ ra với một câu nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
    -Tôi không ném lựu đạn, tôi bị oan.

    Đêm hôm ấy hai em thức trắng vì rét. Gần sáng có tiếng nổ ở khu Cầu Đá. Dân quân bị dựng dậy, anh nào cũng mắt nhắm mắt mở càu nhàu vác súng chạy đi. Lại một quả lựu đạn chày ném vào phòng ứng Thị Sót trong ngôi nhà mới được chia. Rất may đêm ấy Sót không ở nhà mà nằm với đội Lạc ở thùng trấu căn hộ cũ. Bà mẹ già nghễnh ngãng bị mảnh gang chém vào đầu phọt óc ra dính nhớp nháp trên chiếc chăn dạ. Một góc chiếc sập gụ vỡ toác, cánh cửa buồng bật bản lề đổ kềnh ra đè lên hũ gạo. Làng Cùa lại một phen nháo nhào. Đèn đuốc, súng ống, gậy gộc được đám thanh niên mẫn cán sử dụng như những phương tiện chuyên chính chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần những nơi nghi ngờ bọn Việt gian phản động ẩn náu sau khi gây án. Cánh bần nông thì dùng cần vó, đinh ba, con sào chọc xuống những bờ ao bèo tây. Họ đã có kinh nghiệm lẩn trốn bọn lính bốt Tuần mỗi lúc chúng đi càn, hy vọng tóm được thủ phạm một khi chúng chưa thể ra khỏi làng. Các hầm bí mật hai tầng, hai mề và cả tăng sê đào từ thời chống Pháp đều được khui ra. Dân quân có quyền được xộc vào tất cả các nhà khám xét từ buồng ngủ cho đến thùng trấu, hố xí mà không cần phải có lệnh của chủ tịch xã. Sau một ngày đêm, mọi người mệt phờ anh nào cũng lấm từ đầu đến chân trong khi chiến lợi phẩm thu được chỉ là một mớ vài chiếc quần lót rách hoặc yếm diềm bâu tàng tàng được các cặp tình nhân vứt lại sau những cuộc ân ái vụng trộm mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ những tối nhảy “xon mì” và nắm tay nhau hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa”.

    Vụ án trở nên bế tắc. Làng Cùa hoang mang. Đội Cải cách và cán bộ xã Đoàn Kết lúng túng còn huyện Nam Thành ngày nào cũng cử công an về nhưng vẫn không tìm ra kẻ địch giấu mặt. Anh em Lê Văn Khải được tha sau tám ngày bị tạm giam.

    Nếu kể cả Lê Văn Vận thì từ khi phát động Cải cách đến thời điểm này, làng Cùa đã có năm án tử hình, chưa đủ chỉ tiêu huyện giao. Những người đang bị giam như ngồi trong chảo lửa, lúc nào cũng lo ngay ngáy, qua một đêm thấp thỏm sáng ra mới biết mình còn sống, đã có hai người tự sát, gần đây nhất là ông phó hội Bảng. Ông Bảng có hơn chục mẫu ruộng, nhà ngói năm gian cửa bức bàn, bên trong treo la liệt hoành phi, câu đối chẳng khác gì điện thờ. Sau khi Đội Cải cách thu toàn bộ gia sản, ông phó hội bị giam cùng dãy với khoá Kiệt, lý Quỳnh, bà cả Huê chờ xét xử, vợ con phải ra đồng Chó Đá, cạnh bãi tha ma, ở trong những chiếc lều tùm hum như lều chăn vịt. Hàng ngày các cô cậu vốn là con cái nhà giầu này chia nhau đi khắp nơi mò cua, bắt ốc, tát vét hoặc cắt cỏ mang nên trên chợ Từ Đường bán. Nhưng bán được cua cá không phải dễ. Dân Ba Tổng lúc ấy tránh con cái địa chủ như tránh hủi. Có hôm cô Tính cô Tình đứng từ trưa đến xế chiều lại mang mấy giỏ cua về nấu canh, cả nhà húp trừ bữa. Ông phó hội mắc chứng táo bón ngày nào cũng phải ăn vài củ khoai lang, giờ bị cấm cố trong nhà giam ẩm thấp, lắm lúc đau bụng, ngồi chồm chỗm hàng hai ba giờ, rặn ra toàn máu mũi lấy nhầy, người xọp hẳn đi trông rất thảm hại. Một tối, thằng cháu nội, không biết làm cách nào qua mắt bọn dân quân gác cổng đình, mang vào cho ông hơn chục củ khoai luộc. Được khoai, ông Bảng mừng lắm đưa ngay cho khoá Kiệt và Ngô Quỳnh mỗi người mấy củ. Khoá Kiệt thường xuyên bị đói vì không có người tiếp tế, thỉnh thoảng mới được anh dân quân xóm Cầu Đá, goị bằng bác họ, giấu cho nắm cơm bằng nửa quả bòng, còn toàn phải ăn nhờ. Khoai ngon lắm. Ngô Quỳnh vừa nhai vừa ao ước :
    -Thế này mà đựơc thêm bát nước chè xanh nữa thì nhất trần đời.
    Khúc Kiệt bảo:
    - Xem ra ông Lý vẫn còn lạc quan.
    - Cùng lắm là bị dẫn xuống đồng Đấu lĩnh viên đạn chứ gì? - Lý Quỳnh bị nghẹn, giọng trở nên sin sít - Đối với tôi bây giờ sống chết không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ tiếc hồi đánh Nhật tôi theo ông Khoá thì chưa chắc cả nhà bị chết cháy.
    - Nhắc đến chuyện ấy làm gì, bây giờ chúng ta cùng chung cảnh ngộ.

    Lệnh của Đội Cải cách, cứ hai ngày người nhà mới được đem cơm nước vào cho phạm nhân một lần, ai cố tình vi phạm sẽ bị cắt tiếp tế một tuần. Họ làm thế để khủng bố cả tinh thần và thể xác người bị giam, làm cho cái đầu phải mềm ra, ý chí dần dần tiêu ma, tự nguyện từ bỏ ý thức hệ bóc lột, tiếp nhận tư tưởng mới, thừa nhận chân lý Cách mạng sau đó vui vẻ bước lên đoạn đầu đài. Chẳng hiểu ông phó hội có biết được ý đồ rất khôn ngoan của Đội Cải cách không mà mấy ngày gần đây xem ra có phần đăm chiêu, nhất là từ khi thằng cháu nội cũng bị tống giam. Thằng bé thấy mấy lần đưa khoai trót lọt, sinh chủ quan. Cách đây mấy đêm, nó lại mang một làn đầy trèo qua tường phía đầu đình đưa vào cho ông. Tất nhiên đây là số khoai mẹ nó rỡ trộm ở ruộng nhà mình rồi cũng lại giấm giúi luộc trộm để cả nhà ăn cầm hơi. Nhưng lần này thằng bé không may. Nó bị hai dân quân bắt sống trong lúc vừa tụt xuống sân đình. Tay dân quân cổ lang ben tên là Phạm ổn trước vẫn cấy rẽ nhà ông Bảng, mặt hằm hằm quất thằng bé túi bụi bằng chiếc roi mây làm cho nó khóc thét lên. Ông phó hội thương cháu, cắn chặt răng, nước mắt trào ra. Được một lúc ổn xách tai thằng bé kéo lê trên nền gạch:
    - Vào trong chuồng giam kia, chiều nay ông đội Lạc sẽ nói chuyện với mày, riêng cái tội bới trộm khoai của bà con bần cố nông mang tiếp tế cho địa chủ đã đủ điều kiện tử hình rồi.
    Ông Bảng không nhịn được nữa gọi Phạm ổn bảo :
    - Này anh kia, có đánh thì đánh tôi đây này, cháu nó còn bé làm gì nên tội mà hành hạ dã man thế.

    Tay tá điền lé mắt nhìn ông phó hội giọng khiêu khích :
    - Ông không phải chờ lâu đâu, chỉ mấy hôm nữa là được ra đồng Xưa ở chung với chánh Bang thôi.
    Nói xong hắn nhấc làn khoai luộc quay quay mấy vòng lấy đà rồi quẳng ra thật xa.
    Chiếc làn bay đến "vù" một cái xuống ao đình làm con bói cá khoác bộ lông xanh biếc có
    cái mỏ dài, to bè như gọng kìm đang đậu trên đỉnh cọc tre bờ bên kia, giật mình bay vút
    lên. Ngô Quỳnh lầm rầm chửi:
    - Quân khố rách áo ôm vô liêm sỉ.
    Khúc Kiệt thở dài:
    - Chúng không vô liêm sỉ đâu mà đang “đấu tranh giai cấp đấy”.

    Khoá Kiệt không ngủ được. Ông ta có linh cảm ngày mai sẽ đến lượt mình ra đứng trước vành móng ngựa bằng gỗ lim nhẵn bóng trong đình kia. Ông không phải địa chủ, tài sản cũng chẳng có gì ngoài mấy gian nhà bẹp và năm sào ruộng đồng Quan không người cày cấy sau khi con gái bỏ làng ra đi. Tội của Khúc Kiệt chắc Đội Cải cách chẳng thể nào nhẹ tay, bởi trong vòng mười lăm năm qua, ông đã làm cho vùng Ba Tổng, đặc biệt là làng Cùa mấy lần thành bãi chiến trường. Trong ông, có cả phẩm chất của một kẻ lưu manh chính trị lẫn máu giang hồ lục lâm theo kiểu anh hùng hảo hán thời trung đại. Bản chất của hành động phiêu lưu ấy chính là sự bất đắc chí của loại nhà nho cuối mùa bất tài nhưng lắm tham vọng. Từ lòng đố kỵ đã dẫn đến sự căm thù Khúc Đàm, Khúc Kiệt muốn làm một cái gì đó chứng tỏ bản lĩnh không tầm thường của mình. ý nghĩ bệnh hoạn ấy dẫn ông ta đến hàng hoạt hành động đẫm máu. Kết quả là dân Ba Tổng căm thù ông ta , những hồn ma luôn hiện về đòi mạng và sau hết, Đội Cải cách xem ông ta như một tên phiến loạn cứng đầu, một kẻ bán linh hồn cho Quốc dân đảng, cần phải trừng trị nghiêm khắc.

    Về phần gia đình, coi như khoá kiệt không còn gì kể cả hai đứa con thoát chết sau vụ chạm súng với quân Nhật. Khúc Thị Nhân bỏ làng ra đi, không biết lúc này đang phiêu bạt ở phương trời nào, còn sống hay đã chết? Còn Khúc Văn vốn không chấp nhận ông bố vì quan điểm “chuyên chính” mà bắn giết vô tội vạ, đã trốn vào Nam với đám tàn quân sau khi ký hiệp định đình chiến. Phải, bây giờ đã đến lúc đánh giá lại toàn bộ công việc của mình trong những năm qua.

    Nghĩ đến đây, bất giác Khúc Kiệt giật mình. Là kẻ có máu sĩ diện, ông ta chỉ thích khoe khoang chiến tích trước thiên hạ chứ không thể cúi đầu trước đám bần cố nông chân đất mắt toét một chữ bẻ đôi không biết. Thà chết còn hơn. Ai cũng như bọn chúng thì lấy đâu ra độc lập hôm nay? Thật là một lũ vô ơn, bạc tình bạc nghĩa.

    Đêm đã khuya. Trời lạnh. Trong đời có lẽ chưa bao giờ Khúc Kiệt thấy một đêm tháng chạp huyền ảo như đêm nay. Vành trăng thượng tuần mỏng như chiếc lá non, uốn cong hệt cánh diều vàng chập chờn giữa những cụm mây xốp trắng hình vẩy cá. Sân đình loang loáng ánh trăng. Một con quạ già chẳng biết từ đâu bay ngang qua, kêu lên ba tiếng nghe rất là ai oán. Phạm ổn, vai khoác súng tay xách đèn chai soi vào cửa luồng giam, thấy các phạm nhân mặt mũi phờ phạc nằm co quắp trên phản gỗ, anh ta yên tâm vào đình đánh lửa hút thuốc lào. Sang đầu canh tư Khúc Kiệt ngồi dậy, dựa lưng vào vách một lúc rồi lần vạt áo xé rách đường chỉ khâu lấy ra gói thuốc độc dấu được từ trước hôm bị bắt từ từ bỏ vào miệng.

    Sáng ra, Ngô Quỳnh thấy người Khúc Kiệt đã cứng, khoé miệng còn dính mấy giọt máu đen, liền gọi phó hội Bảng, nhưng ông này cũng đã cắn lưỡi chết từ lúc nào không biết. Được tin, Cung Văn Luỹ sợ lắm vội cùng với mấy dân quân vào khênh hai cái xác đặt giữa sân đình. Thằng cháu ông phó hội vừa được thả ra ôm lấy xác ông nội khóc váng lên.

    Cái chết bất ngờ của Khúc Kiệt và phó hội Bảng làm đội Lạc phát điên lên. Anh ta ra lệnh cho xã đội trưởng Cung Văn Luỹ giam mấy dân quân gác đêm lại chờ công an điều tra. Như vậy là kế hoạch đấu tố ông cựu trưởng ban An ninh dự kiến vào sáng ngày mai đương nhiên bị huỷ bỏ. Sau hai vụ ném lựu đạn, đây là vụ thứ ba làm Đội Cải cách và Uỷ ban hành chính xã Đoàn kết phải đau đầu. Vết thương ở lưng Bùi Quốc Tầm chưa khỏi, anh ta vẫn phải lằm bẹp ở nhà . Bí thư Lại quang Nghinh thì ấm ớ hội tề, chẳng quyết định được việc gì, mấy ông bà cốt cán chỉ to mồm, thành thử những việc hệ trọng như thế này đội Lạc không dính tay vào không xong. Chiều hôm ấy, sau khi khám nghiệm xong, công an cho phép chôn xác ở đồng Đấu là nghĩa địa dành cho bọn tội phạm nhưng chỉ bó chiếu, không được đóng quan tài. Thân nhân Khoá Kiệt không còn ai, Cung Văn Luỹ xin ý kiến Đội Cải cách rồi cử mấy dân quân khiêng đi. Huyệt đào vội, nông choèn choẹt, lấp đất xong, tay Mạn đánh mnột vầng cỏ úp ngược lên rồi vén quần đái một bãi lên mộ, miệng lầm rầm :
    - Đáng đời quân phản động.

    Nửa đêm hôm ấy, người đàn bà mặc đồ tang cùng hai gã đàn ông mấy hôm trước lại xuất hiện với cỗ quan tài mộc. Họ nhanh chóng lôi Khúc Kiệt lên mặc cho bộ quần áo gụ rồi đưa vào quan tài, sau đó chuyển sang chiếc huyệt mới đào cạnh mộ Lê Văn Vận. Bó nhang được thắp lên lúc mờ lúc tỏ làm khuôn mặt người đàn bà biến dạng như ma hiện hình. Bà ta lấy trong làn bát cơm quả trứng đặt lên mộ, cúi đầu đầu khấn thì thầm mấy câu rồi cùng hai người đàn ông vác cuốc xẻng quay về.

    Cuối tháng chạp, Đội Cải cách chưa kịp xử bà cả Huê và Ngô Quỳnh thì làng Cùa xảy ra hai vụ bê bối. Vụ thứ nhất liên quan đến Cấn Viết Tham còn vụ thứ hai, liên quan đến ứng Thị Sót. Vợ chồng Cấn Viết Tham được chia một nửa ngôi nhà ngói năm gian của chánh tổng Lê Bang. Sau khi Lê Bang bị xử bắn Đội Cải cách cho vợ con ông ta ở tạm dãy nhà ngang ba gian phía bên phải, giáp với bờ ao. Từ ngày Cải cách đến giờ, cô Tẽo, vợ Tham béo phây phây, chẳng làm ăn gì, suốt ngày hết họp đoàn thể phụ nữ, nông hội, bình xét thành phần giai cấp lại rủ nhau ra sân đình tập múa hát. Tẽo là con bà phó Vện. Ông Vện làm thợ rèn mắc bệnh xơ gan cổ trướng, bụng phình ra bằng cái chum rồi chết năm mới ba mươi hai tuổi. Cô con gái rượu của ông phó rèn càng lớn càng xấu, nhà lại nghèo rớt mồng tơi, thành ra đã xấp xỉ ba chục xuân xanh mà không một chàng trai làng Cùa nào thèm để mắt tới . Khiếp nhất là dáng đi , cứ vài ba bước cô ta lại giật một cái như là dẫm phải bọ cạp làm bà mẹ cũng phải phát bẳn chửi :
    - Mày đi đứng như thế thì có chó nó lấy.

    Cô con gái “hứ” một tiếng, đánh cặp mắt cùi nhãn lườm mẹ rồi gieo cái mông lặc lè như mông lợn ỷ xuống tấm phản đánh rầm một cái. Tẽo có tật thích tán chuyện, gặp đám chị em cùng hội cùng thuyền thì trưa không vội tối không cần mặc cho bà mẹ già ở nhà tha hồ mà chờ. Khi ấy Cấn Viết Tham đã ba nhăm, bố mẹ mất sớm, không tấc đất cắm dùi phải đi ở nhờ nên chẳng dám nghĩ đến chuyện cưới vợ. Chính đội Lạc đứng ra làm mối và tổ chức đám cưới cho cặp uyên ương này sau khi anh ta về làng Cùa được già nửa tháng. Đây là đám cưới đời sống mới đầu tiên ở vùng Ba Tổng mà chú rể tặng hoa cô dâu và dắt tay nhảy “xon mì” làm các ông già bà cả đang móm mém nhai trầu xuýt nữa bị nghẹn. Lấy nhau xong đôi vợ chồng được chia nửa ngôi nhà ngói, bảy sào ruộng đồng Quan và một chân trâu.

    Vợ con Lê Bang không còn ruộng, bà Chánh phải đi quét những hạt thóc rơi vãi mang xuống ao đãi sạch rồi đưa ra phơi. Hết vụ gặt họ đi tát thùng, vũng hoặc đánh giậm kiếm cá tép mang ra chợ chiều bán. Một hôm cô Thời đi mót khoai về, đang định nấu cháo thì phát hiện ra số gạo ít ỏi trong chum bị xúc trộm. Cô ta vội rỉ tai mẹ. Bà Chánh hỏi hai đứa cháu vừa đi móc cua về, đứa nào cũng lắc đầu. Lần khác, chính thằng cháu lớn lại hỏi cả nhà xem có ai bắt hai con cá trê to nhất nó thả trong chum để dành bán lấy tiền mua dầu thắp.
    - Vậy là nhà này có ma rồi... – Bà mẹ lẩm bẩm.
    - Không phải ma đâu. – Cậu Thể, con trai út ông Chánh chuyên đánh lưới bén ở ao Quan ngó ra ngoài một lúc rồi bảo – Mấy hôm trước, con vừa về để thúng cá cạnh bể nước, vừa ra cầu ao rửa chân quay lên đã mất con cá chép già nửa cân.
    Bà Chánh hất hàm chỉ lên phía nhà ngói:
    - Chẳng lẽ lại là...
    Cô Thời chép miệng:
    - Còn ai vào đây nữa. Đồ ăn bơ làm biếng.
    - Khẽ mồm chứ ! – Bà mẹ xua tay – Chuyện này không được hở ra, Đội Cải cách mà biết sẽ cho mẹ con ta ra đồng Chó Đá đấy.
    - Nhưng mà con tức lắm . – Cô con gái vẫn hậm hực- Ky cóp cho cọp nó ăn . Được rồi, con sẽ có cách.
    Mấy hôm sau, như thường lệ, cả nhà bà Chánh ra đồng. Cánh cửa chỉ khép hờ. Cô Thời vác gầu sòng với cái cuốc ra đến cổng thì tạt ngay qua bờ rào, lách khe chuồng lợn vào nhà bằng lối cửa mạch, nép phía sau bồ khoai khô ngồi rình. Quả nhiên không đầy một khắc, bà cốt cán đẩy cửa bước vào tự nhiên như là nhà mình. Chị ta nhìn trước nhìn sau thấy xung quanh không có gì đáng nghi liền mở nắp chum xúc luôn mấy bơ gạo mà bà Chánh phải đãi suốt ngày hôm trước mới gằn được hết sạn. Cho gạo vào khăn vuông xong, Tẽo túm lại định bước ra khỏi cửa thì Thời bất ngờ xuất hiện. Bà cốt cán tái mặt, cái miệng rộng há ra chưa nói được câu gì thì Thời đã chặn lại :
    - Hôm nay bắt được quả tang, hết đường chối cãi nhớ!

    Tẽo lắc đầu ấp úng:
    - Cô nói quả tang... cái gì?
    - Cái túm gạo chị đang cầm ở tay đấy. Thế mà cũng là cốt cán.
    Tẽo biết thế của mình đang rất bất lợi liền đổi giọng:
    - Chị trót nhỡ tay cô bỏ qua cho.
    Thời còn đang phân vân vì không muốn làm to chuyện thì Tẽo nhanh tay quẳng túm gạo ra sân kêu toáng lên:
    - ới bà con ơi! Con gái nhà chánh Bang nó xúc trộm gạo nhà tôi.

    Cấn Viết Tham lúc ấy đang họp ở đình nhưng chỉ một lúc sau đã có mặt tại nhà cùng với mấy dân quân đầy đủ súng ống và dây thừng. Người ta không cho Lê Thị Thời thanh minh mà chỉ nghe lời khai báo của thị Tẽo :
    -Từ lâu tôi đã biết con Thời có tính gian vặt nhưng mấy lần rình nó đều thoát được. Sáng nay tưởng tôi đi vắng, nó dám lẻn vào buồng xúc gạo rồi lấy ngay chiếc khăn trên lao màn bọc. Cũng may tôi về kịp nếu không nó còn già mồm cãi. Đấy các anh xem, gạo còn đổ tung toé khắp nơi, chối làm sao được.

    Tất nhiên không Đội Cải cách nào tin lời con gái địa chủ nhất là loại địa chủ đã bị toà xử tử hình. Chân lý thuộc về bần cố nông, là những ngưòi lúc này có thứ vũ khí rất mạnh trong tay đó là “chuyên chính vô sản”.

    Đúng như bà Chánh đã tự đoán, ngay ngày hôm ấy mấy mẹ con bị trục xuất khỏi làng đến cư trú ở đồng Chó Đá. Riêng cô Thời bị dân quân dẫn ra đình Cả. Đội Lạc chỉ thị cho Cung Văn Luỹ:
    - Canh giữ cẩn thận kẻo nó trốn mất, ngày mai sẽ có công an về điều tra.

    Vụ thứ hai xảy ra sau đó gần một tháng. ấy là cái bụng ứng Thị Sót phình ra. Đây là sự kiện động trời, bởi chồng cô ta là Lê Bản con cả Chánh bang đã chết trong trận Việt Minh đánh đồn Gừa từ năm năm hai. Hiển nhiên người không thể có chửa với ma, mà đấy là kết quả tất yếu sau những buổi hội ý chớp nhoáng hay lâu dài với đội Lạc trong suốt thời gian họ sát cánh bên nhau vì công cuộc "Cải cách ruộng đất". Chẳng mấy chốc “trống cơm” của bà cốt cán lộ rõ đến mức không thể giấu được nữa, thành thử gần đây cô ta không dám xuất hiện trước đám đông mà cứ đóng cửa ru rú ở nhà. Đội Lạc sợ lắm hẹn Sót buổi tối về nhà cũ có chuyện cần bàn. Lúc hai người bước vào sân hoàn toàn không biết có một bóng đen nấp đằng sau vách.
    Tiếng đội Lạc:
    - Tay Nghinh gọi ra đình bảo thế nào?
    Sót:
    - Hắn bảo có chửa với ai cứ khai thực ra, chi bộ sẽ giảm nhẹ hình thức kỷ luật.
    Đội Lạc:
    - ấy đừng, khai ra là mất hết, có khi còn đi tù nữa.
    Sót:
    - Làm thế nào bây giờ? Cái thai mỗi ngày một to không che mắt được người làng nữa rồi.
    Đội Lạc:
    - Cứ nói là một đêm đi họp về bị một kẻ bịt mặt cưỡng bức.
    Sót:
    - Liệu họ có chịu tin không?
    Đội Lạc:
    - Họ phải tin. Đợi chuyến này anh về cắt đứt với cô ta rồi cưới em một cách đàng hoàng. Em mà hở ra quan hệ của chúng mình là sự nghiệp của anh đi tong.
    Sót bất ngờ nổi tam bành:
    - Thế lúc nằm trên bụng tôi anh có nghĩ đến sự nghiệp không? Nếu anh có ý định chạy làng thì lành làm gáo vỡ làm muôi, gái này không chịu lép đâu.
    Đội Lạc cuống quýt:
    - Khẽ chứ em, cứ chịu đựng ít hôm rồi đâu vào đấy cả.

    Nhưng sự việc không đơn giản như đội Lạc nghĩ. Mấy hôm sau có người đàn bà bịt khăn mỏ quạ, mặc áo bông Tàu, quần láng đen từ Mạc Điền sang làng Cùa. Chị ta tìm vào sân đình hỏi thăm rồi rẽ lên xóm Cầu Đá. Nhìn thấy Phạm ổn là người được chia chung nhà với ứng Thị Sót, người đàn bà lạ đánh tiếng :
    - Bác làm ơn cho em hỏi có phải đây là nhà cô Sót bí thư phụ nữ?
    ổn thấy chị ta ăn mặc nền nã, nói năng dễ nghe biết là người tốt liền gật đầu bảo :
    - Cô ấy đang ở trong kia.
    Người phụ nữ đẩy cửa. Sót thoáng giật mình. Cô ta chưa bao giờ gặp người đàn bà này.
    - Chị hỏi ai?
    - Cô là cô Sót, cốt cán làng Cùa phải không?
    - Nhà chị là ai? Có việc gì?
    - Chị ở mãi huyện Nam An, có chút việc, nhân tiện rẽ qua đây nhờ cô.
    Cách nói ngọt như mật cùng với thái độ kẻ cả của người đàn bà lạ làm Sót sinh nghi. Chỉ vài ba câu, chị ta đã buộc "đồng chí" bí thư phụ nữ dù không muốn cũng phải nói rõ thân phận của mình. Khi đã nắm được những thông tin cần thiết người đàn bà bỗng nhiên trở mặt:
    - Bây giờ thì không giấu cô nữa, tôi chính là vợ anh Lạc.
    - Thì ra chị... lừa tôi.
    Vợ đội Lạc thay đổi cả cách nói năng, giọng chị ta trở lên đanh quánh:
    - Cái thai được mấy tháng rồi “đồng chí cốt cán”?
    Sót hiểu tình thế của mình, kiểu này xem ra chị ta đã biết chuyện liền cười nhạt bảo:
    - Việc này không liên quan đến chị. Tôi bị kẻ lạ mặt cưỡng hiếp ban đêm.
    - Bị cưỡng hiếp ở đâu? – Chị ta mát mẻ hỏi – Trong thùng trấu nhà cô hay hậu cung đình Cả?
    - Chị ra khỏi đây ngay, nếu không tôi kêu lên bây giờ.
    - Kêu lên đi! – Vợ đội Lạc bất ngờ túm tóc Sót kéo ra cửa vừa tát cảnh cáo mấy cái vào mặt vừa rủa - Đồ quạ tha ma bắt. Hôm nay bà phải cho con đĩ cướp chồng người khác một trận rồi muốn ra sao thì ra.
    - ối làng nước ơi! Cứu tôi với!

    Sót gào khá to. Dân xóm cầu đá kéo đến rất đông nhưng chỉ để đứng xem.

    Từ lâu họ đã ghét cô ta cậy thế đội Lạc hống hách, vu oan giá hoạ cho bao nhiêu người lương thiện khiến nhà tan cửa nát, phải bỏ làng đi tha hương. Bà cả Phê còn rỉ tai mọi người:
    -Tiếc là cái hôm lựu đạn nổ con nặc nô ấy không tan xác.

    Hai kẻ tình địch lúc này đã ôm cứng lấy nhau lăn xuống sân. Vợ đội Lạc quấn chặt tóc bí thư phụ nữ vào tay lấy hết sức bình sinh giật đi giật lại, còn cô ta vung hai nắm tay cứ nhằm mặt đối thủ mà đấm .Vật nhau một lúc, vợ đội Lạc khoẻ hơn dằn ngửa được ứng Thị Sót ra, ngồi đè lên bụng, hai tay tì lên xương quai xanh nhổ vào mặt “đồng chí cốt cán” :
    - Con đàn bà đĩ dài đĩ rạc, mày muốn chết thì tao cho mày chết.
    - Đồ thần đanh đỏ mỏ, bà mà dậy được thì mày sống cũng thành tật.
    Hai mụ đàn bà vùa võ mồm vừa võ tay trông rất là hài hước khiến bà cả Phê ngứa mắt bảo Phạm ổn :
    - Chúng mày cứ trố mắt ra mà nhìn à? Vào lôi hai đứa ra. Cái con bé mông to ngồi trên kia khéo làm con Sót truỵ thai mất.

    Tay ổn lảng ra giọng nhát gừng :
    - Cứ để cho chúng nện nhau chán đi, không sao đâu bà ạ.
    Có người báo khẩn cấp, chỉ ít phút sau đội Lạc, Cung Văn Luỹ, Lê Thị Chĩnh và mấy dân quân đã kịp thời có mặt. Nhìn thấy vợ ngồi chồm chỗm trên bụng nhân tình, Lạc sững người giọng mất hết cả thần khí.
    - Sao... sao lại... thế này?
    Bà Đội bấy giờ mới từ từ đứng dậy bĩu môi lườm chồng :
    - Sao với giăng gì. Tôi phải mất công từ kẻ La sang đây là để cho con đĩ cướp chồng người khác này bài học.
    Đội Lạc vừa tức vừa xấu hổ. Tình thế lúc này thật là bi hài, nhưng để vớt vát chút sĩ diện anh ta đành phải quát vợ:
    - Cô không được làm càn, hành hung người khác là phạm pháp, tôi hô dân quân trói lại bây giờ.
    Chị vợ cũng không phải tay vừa cất giọng châm trọc:
    - Vậy tôi hỏi anh, cán bộ Cải cách hủ hoá với nữ cốt cán có mang rồi bàn nhau về quê bỏ vợ thì phạm tội gì?
    - Cô đặt điều vu khống ai đấy? - Đội Lạc quắc mắt - Đồng chí Sót bị kẻ xấu rình lúc đi họp về bắt cóc cưỡng bức, chúng tôi đang phối hợp với dân quân truy tìm thủ phạm, đừng có nói càn.
    Vợ đội Lạc cười gằn, rút từ trong túi ra tờ giấy đưa cho Lê Thị Chĩnh bảo :
    - Đây là một trong những lá thư người làng Cùa gửi cho tôi, nhờ cô đọc to lên để bà con cùng nghe.

    Chĩnh con bỗng nhiên tái mặt, cầm bức thư xoay ngang xoay dọc một lúc lại đưa cho thằng Đại con ông đồ Sách. Cậu này đang học tiểu học nhìn qua một lượt rồi cất giọng ê a hệt ông bố giảng “Tam tự kinh”:
    - “Kính gửi chị Hoàng Thị Nhâm tức là vợ ông đội Mai Đăng Lạc đang làm Cải cách ruộng đất ở làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành. Tôi xin báo cho chị một việc quan trọng có liên quan đến hạnh phúc gia đình, là ông Đội nhà ta, trong thời gian ở làng Cùa, đã có quan hệ luyến ái với nữ cốt cán ứng Thị Sót...”.
    - Thôi, không đọc nữa! –Từ nãy đến giờ Sót vẫn nằm ăn vạ giữa sân, giờ thấy tình thế đã xoay chuyển, chợt nhận ra đội Lạc hoàn toàn là tay Sở Khanh liền ngồi dậy, kéo vạt áo che cái bụng lùm lùm rồi dõng dạc bảo : - Chẳng có thằng đàn ông nào bắt cóc cả chính anh Lạc đã ngủ vời tôi. Đứa con trong bụng này là của anh ta.

    Đội Lạc gầm lên:
    - Đề nghị đồng chí Sót ăn nói cho nghiêm chỉnh, không được vu khống.
    - Anh có giỏi thì làm đơn bỏ vợ ngay đi tôi sẽ rút lại lời tố cáo.
    - Cô ép tôi đấy à?
    - Thôi, đừng làm ra vẻ đạo đức nữa, anh ngủ với tôi bao nhiêu lần còn nhớ không?
    Sau vụ đánh ghen mấy ngày ứng Thị Sót bị khai trừ khỏi đảng, cách chức Bí thư phụ nư và uỷ viên Nông hội. Đội Lạc cũng mất sạch chức tước phải rời Đoàn Cải cách về kẻ La đi cày.

    Người về thay đội Lạc tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất làng Cùa là đội Ngọ. Anh này người xứ Nghệ, có chút học vấn, làm việc khá thận trọng, chính vì thế bà cả Huê, lý Quỳnh và một số địa chủ khác không bị tử hình mà chỉ bị mức án mười đến hai mươi năm tù.

    Làng Cùa sau cơn biến động dữ dội lại tạm thời yên tĩnh. Bùi Quốc Tầm khỏi vết thương. Từ đó anh ta không bao giờ dám cởi trần vì đám sẹo nhăn nhúm trông rất gớm ghiếc sau lưng. Dạo này Tầm chịu khó đi học “bình dân học vụ” đã đọc được chữ in tuy đôi lúc vẫn phải đánh vần ngắc ngứ. Lê Thị Chĩnh Con đột nhiên biến khỏi làng chẳng biết vì lý do gì mặc dù lúc ấy cô ta đã thay ứng Thị Sót làm bí thư phụ nữ xã Đoàn Kết. Cốt cán Sót đẻ con gái. Đứa bé rất bụ tóc đen và dầy, cặp má phính phính, hai bàn tay ếch lúc nào cũng khua múa như đánh võ. Mấy bà đồng bóng chuyên nhảy nhót ở đền Sòng kháo nhau: “bố mẹ nó nửa đêm vào hậu cung làm chuyện báng bổ thánh thần thế mà được đứa con gái đẹp như Ngọc Nữ, nhưng chớ vội mừng, đời còn dài lắm”.

    (còn tiếp)

  5. #11
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 11

    1. Lái Lự hồi bốn sáu đã là uỷ viên Mặt trận Liên Việt, những năm sau này lại ủng hộ gạo cho kháng chiến nhưng cũng không thoát khỏi tầm ngắm của Đội Cải cách xã Nhân ái. Người ta phát động bần cố nông tìm ra vô số tội có thật và không có thật của ông ta trong quá khứ để quy kết bằng được thành phần địa chủ phản động. Nặng nhất là vụ bán gần hai chục con trâu cho đồn điền Ba gia sau đó đến việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân áo Đen của Khúc Kiệt. Ông cựu lái trâu ngồi trong nhà giam chín ngày thì bị mang ra xử. Với từng ấy tội danh, căn cứ vào khung hình phạt rất tuỳ hứng của Toà án Cải cách đang thi hành, dù có bổ sung tình tiết tăng nặng chăng nữa ông cựu uỷ viên Liên Việt cũng chỉ tù chung thân là cùng. Nhưng khốn nỗi là, Uỷ ban Cải cách đã phân bổ chỉ tiêu án tử hình cho các xã. Nhân ái gồm bốn làng bình quân mỗi làng ít nhất phải có ba. Làng Bòng mới xử bắn phó tổng Phạm Công Cảo và Lý trưởng Trần Phê, còn một suất nữa tất nhiên phải là lái Lự.

    Sau khi ông lái trâu bị hành quyết ở miễu Đài Sơn, người ta chia cơ ngơi của ông ta cho hai cố nông xóm Bối. Mẹ con bà cháu bà Hai bị tống ra khỏi nhà vì bao nhiêu năm nay họ chỉ là người ở nhờ. Chính quỳên mới không thừa nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông Lái và bà Thoả. Ngôi nhà cũ của cụ Khán bên làng Nội bị Tây đốt năm năm mốt, phần đất còn lại xem như vô chủ đã được Đội Cải cách cấp cho một hộ bần nông. Ngay chiều hôm ấy, cả nhà kéo nhau ra cồn Vành ở tạm trong dãy chuồng trâu cũ của ông Lái. Chuồng trâu chỉ còn lại bốn bức tường đắp bằng đất nện, toàn bộ phần mái đã bị cơn bão năm Tý lột sạch quăng ra giữa sông. Tóm lại đó là một cảnh hoang tàn, đổ nát mà nhìn vào đó người ta có thể thấy được lẽ thịnh suy của thế sự và cái vô nghĩa của những cuộc bắn giết lẫn nhau chỉ vì muốn giành quyền lực về tay mình.

    Sông Lăng lừ lừ trôi, nước phù sa đỏ đòng đọc dưới ánh chiều tà. Một con thuyền chở đá nặng nề ngược nứơc. Bầy chèo bẻo phải đến vài chục con bay chập chờn trên mặt sông, có lúc cặp cánh của chúng chạm đến đầu ngọn sóng như là muốn tắm rồi lại lao vút lên chẳng khác gì mũi tên vừa bật khỏi dây cung.

    Lê văn Khải và Lê văn Nghiên ngày ngày vào miễu Đài Sơn chặt tre làm nhà. Từ cồn Vành đến miễu vừa đi vừa về mất đúng một ngày. Hai anh em bền bỉ vác tre như kiến tha mồi, khoảng nửa tháng thì công việc hoàn tất. Sau chiến tranh, cồn Vành gần như bị bỏ hoang, lại vô chủ nên mẹ con bà Hai tha hồ chăn nuôi trồng trọt. Cá sông Bối nhiều, anh em Khải Nghiên ngày nào cũng quăng chài, thả lưới kiếm được hàng thúng trôi chép cho mẹ mang đi chợ Lành bán. Nhưng đến mùa lũ thì khổ. Mùa lũ bắt đầu từ tháng bảy ta, phù xa từ ngàn xanh đổ về chỉ một ngày một đêm cồn Vành, cồn Láng thành biển nước mênh mông. Gò me như một ốc đảo, mọi sự đi lại đều bị đình trệ nếu không có thuyền. Khu truồng trâu trở thành nơi tá túc của đủ loại cầy cáo, chuột và rắn. Anh em Khải nghĩ ra cách đặt bẫy xen với lưới vó căng chung quanh hàng rào tre, sáng nào cũng tóm được vài con cho mẹ om riềng.

    Ít lâu sau Khải bàn với Nghiên đóng chiếc vó bè và mua năm chục vịt giống về thả. Mùa nước lũ nuôi vịt không cần cho ăn vẫn lớn như thổi vì cồn Láng nhiều tôm cá. Đến tháng hai năm sau, đàn vịt tăng lên ba trăm con. Thương lái từ ngã ba Môi biết tiếng, đánh thuyền ngược sông Lăng về mua trứng. Nhưng rồi chuyện làm ăn của anh em họ Lê không qua được mắt ông chủ tịch xã Nhân ái Hoàng Đình Tằng. Tằng tuổi ba bảy, người làng Hệ, cách kẻ Bòng một cánh đồng, chuyên câu ếch. Chỉ với cái cần trúc, cuộn cước buộc lưỡi câu với giỏ nhái mà trong vòng ba bốn năm anh ta tóm được ở đầm Vực, ao Chài và cồn Vành hơn vạn con ếch. Chiếc lưỡi câu gài hoa mướp trong tay Tằng như có ma thuật. Tay trái giữ cần trúc, tay phải cầm cuộn dây, anh ta điều khiển lúc căng lúc chùng, lúc chỉ khẽ vờn làm như con nhái nhảy chồm chồm, lúc lại lặn một mạch xuống vùng nước không có bèo bằng cách miết dây, khiến cho lũ ếch dù có tinh khôn đến mấy cũng chẳng hề dửng dưng trước thứ màu vàng huyền diệu của cánh hoa mướp và mùi đặc biệt hấp dẫn của chàng nhái sọc. Tằng là sát thủ đáng gờm của họ nhà ếch, nhưng cái nghề ấy không thể nuôi sống được bảy miệng ăn, trong khi năm sào ruộng trũng của ông bố để lại anh ta đã đem gán nợ sau một đêm xóc đĩa thua cháy túi, đành phải đến nói khó với lái Lự vay tiền mua vó bè làm kế sinh nhai. Ông Lự bảo :
    - Tao cho vay tiền làm nghề để vợ con khỏi chết đói chứ không phải để đánh bạc. Sau ba tháng phải trả cả gốc lẫn lãi nếu không tao trình lý trưởng cắm đất, mày có đồng ý thì ký vào văn tự.

    Lãi cao nhưng ngoài ông ta ra, khắp tổng An Lạc không ai có tiền mà lại nhả ra cho một thằng khố rách áo ôm chuyên nghề đỏ đen như anh ta vay.Tằng rập đầu tạ ơn ông Lái rồi sang chợ Lành mua vó. Tre lồng ngộc thì nhờ mấy thằng bạn vào miễu Đài Sơn chặt. Mấy hôm đầu, anh ta làm ăn tử tế, ngày nào cũng có cá cho vợ bán. Nhưng rồi dần dần lều vó trở thành nơi chứa chấp phường cờ bạc của cả mấy làng trong vùng. Chưa đầy một tuần Tằng nhẵn túi còn đèo thêm khoản nợ mới gần trăm bạc. Ông Lái biết tin cho người đến thu bộ gọng vó về để góc vườn. Sau vụ ấy gã câu ếch bỏ mặc vợ con, ra sông Lăng theo cánh đò dọc. Giữa năm năm tư, hắn về làng, việc đầu tiên là đến nhà lái Lự sừng sộ :
    - Ông Lái trả chiếc vó bè để tôi làm ăn.

    Lái Lự chỉ tay ra vườn bảo :
    - Bộ gọng tôi để ngoài kia anh ra mà vác, vó ở trong buồng tý nữa chị Hài đưa cho, nhưng trước khi mang vó đi phải hoàn lại hai đồng tư đã vay năm Tỵ. Tôi chỉ lấy gốc còn lãi thì coi như biếu anh.

    Tằng thần người ra một lúc rồi cười nhạt :
    - Đất nước độc lập rồi, bao nhiêu nợ cũ đều xoá hết, ông biết điều thì đốt văn tự đi nếu không nay mai đội Cải cách về làng có mà tù mọt gông.

    Anh ta nói không sai. Tháng chín Đội về làng Bòng thật. Hoàng Đình Tằng được cử làm chủ tịch xã. Lái Lự bị bắt giam, chín ngày sau lĩnh án tử hình.

    Một hôm Tằng ra Cồn Vành câu ếch nhìn thấy ngôi nhà mới làm của mẹ con bà Hai, tức điên lên. Bọn này dám chiếm cứ cánh bãi chung quanh gò Me làm giàu, đang có âm mưu phục thù giai cấp đây. Phải trị đến cùng để chúng biết thế nào là công bằng xã hội. Các người lại dám giầu hơn bần cố nông à?

    Trưa hôm sau, Tằng cử xã đội trưởng Nguyễn Công Phiên dẫn mấy dân quân khoác súng ra cồn Láng với một cái lệnh. Nội nhật trong ba ngày, bà Hai Thoả và các con cháu phải đi khỏi gò Me, trái lệnh sẽ bị tống giam. Lê Văn Khải điếng người nhìn tay xã đội bằng cặp mắt hằn học:
    - Chúng tôi đã bị đuổi khỏi làng Bòng, giờ lại bị đuổi nữa các ông bảo đi về đâu?

    Nguyễn Công Phiên rút trong túi ra mảnh giấy đưa cho Khải, tay chỉ sang bên kia sông:
    - Các người là dân làng Cùa về bên ấy mà ở. Ông chủ tịch đã viết công văn thông báo cho xã Đoàn Kết, cầm sang đưa cho họ.

    Bà Hai đang bị ốm cũng phải gượng dậy ra nói ngọt với cánh dân quân :
    - Xin các ông thư thư cho dăm hôm để mẹ con nó thu xếp.

    Ông xã đội lắc đầu:
    - Không được, ở nơi vắng vẻ thế này các người sẽ tìm cách móc nối với bọn biệt kích, gián điệp gây bạo loạn….
    Lê Văn Nghiên vừa ở bãi về thấytình hình có vẻ căng liền tìm cách đấu dịu :

    - Chúng tôi đi ngay cũng được nhưng khó nhất là đàn vịt với chiếc vó bè, mong các ông thông cảm cho lui lại.
    Xã đội Phiên khoát tay :
    - Mấy tháng nay mẹ con bà làm ăn trái phép ở cồn Láng nên Uỷ ban xã quyết định sung công đàn vịt và tất cả các phương tiện đánh cá. Không nói lải nhải nữa, yêu cầu công dân Phùng Thị Thoả chấp hành.

    Chuyến sang sông này của mẹ con bà Hai thật là bất đắc dĩ. Bốn người không một xu dính túi. Mấy tháng trời vất vả đổ mồ hôi nước mắt mới có được đàn vịt và chiếc vó bè bỗng chốc bị cướp trắng. Bà Hai xót của thở dài :
    - Một đời đã gặp mấy lần tao loạn nhưng chưa bao giờ khốn nạn như thế này.

    Đó là một chiều tháng Tư nhạt nắng. Bà Hai Thoả, sáu mươi nhăm tuổi, tóc bạc, lưng còng chống gậy dẫn đám con cháu từ bến đò lên điếm Bài Vân.

    Khúc Thị Hài quấn khăn tang, cánh tay tật nguyền bỏ thõng, tay kia xách bị cói. Hai anh em họ Lê cúi đầu lầm lũi bước, thỉnh thoảng ngẩng lên, lập tức bắt gặp ánh mắt nghi ngại của người làng Cùa. Đường làng vẫn như hồi họ còn bé, nghĩa là vừa hẹp vừa gồ ghề và đặc biệt bẩn thỉu khi trời mưa. Phân trâu, phân chó rải rác khắp các ngõ xóm, hết lần cũ đến lần mới, gặp mưa lẫn với đất thó tạo thành thứ bùn xam xám, nhão nhoét, hễ nắng lên là bốc mùi thum thủm theo gió tây nam tràn vào các nhà. Làng Cùa trước đây rất nhiều chuối, tốt như rừng, trồng trong vườn hoặc rải rác dọc các ngõ xóm tạo thành một không gian âm u, ẩm ướt là nơi trú ngụ lý tưởng của muỗi. Từ ngày Cải cách, tất cả các bụi chuối đều bị phạt tận gốc, củ đào lên om lươn, thân, thái cho lợn. Thay vào đó là những ụ đất bằng đống rạ, cao như mả thằng ăn mày bên đường quan để trồng khoai lang chống đói theo sáng kiến của một nhà khoa học nông nghiệp nổi tiếng lúc bấy giờ.

    Tối hôm ấy mẹ con bà Hai vào ở nhờ ngôi nhà tranh ba gian của Ngô Quỳnh. Từ ngày ông ta đi tù đến giờ nhà vẫn bỏ không. Sáng hôm sau, anh em họ Lê mang tờ giấy của Hoàng Đình Tằng nộp cho Uỷ ban xã Đoàn Kết. Bùi Quốc Tầm đọc đi đọc lại mãi đến khi nhìn thấy con dấu chữ nhật in bằng mực đen đóng đè lên chữ ký như con nòng nọc của chủ tịch xã Nhân ái ở mặt bên kia mới vào :
    - Gia đình các anh thuộc đối tượng phài quản lý chặt chẽ. Bên ấy người ta không cho ở là đúng. Trước mắt các người hãy tạm trú ở nhà Ngô Quỳnh, thường trực Uỷ ban họp bàn rồi sẽ thông báo sau nhưng nhớ là, ra khỏi làng phải đến trình công an xã.

    Cuối cùng thì Uỷ ban xã Đoàn Kết cũng chấp nhận cho gia đình bà Hai cư trú tại làng Cùa nhưng gần nửa tháng mới có thông báo chính thức. Chỗ ở là một rẻo đất phía tây nam xóm Trại Cá, nơi trước đây bà cả Huê cắt cho mẹ con bà Hai sau khi Khúc Đàm bị giết. Xóm Trại Cá gần ngòi Mác, nằm ngay trên đường ra đồng Chó Đá. Cách đấy không xa là khu ruộng Chùa chỉ cấy một vụ về mùa tháng Tám, rất nhiều tôm cá. Việc đầu tiên là phải dựng nhà. Người làng Cùa dù có một số bà con thông cảm hoàn cảnh nhưng không ai dám giúp đỡ mẹ con bà Thoả trừ Trịnh Doãng. Mọi việc từ mua tre, đắp nền, nhào đất trát vách đến xin rạ hắn đều làm rất tận tình. Mấy anh em xoay trần ra chừng nửa tháng thì ngôi nhà ba gian hai chái hoàn thành.

    Dịp ấy cả vùng Ba Tổng đói. Hơn nửa năm trời, hết ngày lại đêm, người ta chỉ giành thời gian cho các cuộc mít tinh, đấu tố địa chủ cường hào, xử án Việt gian phản động, học bài hát và nhảy sạp mà quên mất nhiệm vụ cày cấy trên mảnh ruộng vừa được Đội chia, vì thế đến vụ gặt, đồng điền vẫn xanh ngút ngàn những cỏ là cỏ. Sau bao nhiêu năm tao loạn, đất canh tác bỏ hoang quá nửa bạc màu, cây lúa còi cọc như tăm hương, lúc thu hoạch mười phần không được một. Làng xóm tiêu điều báo hiệu một nạn đói mới đang rình rập có khi còn hơn cả tháng ba năm ất Dậu.

    Những thế hệ con trai con gái lớn lên trong cảnh no đủ sau này sẽ không thể hình dung cảnh mặt trời tháng tư năm đói như thế nào. Đó là thứ màu đỏ cà chua hơi sẫm ở giữa, nhàn nhạt chung quanh đang từ từ chìm xuống đường chân trời được nhuộm một thứ màu vàng mỡ gà ảm đạm. Quả cà chua khổng lồ ấy rơi một cách chậm chạp, nặng nề dường như không muốn chịu sự chi phối của quy luật tuần hoàn vũ trụ mà cứ thích vung vãi mãi thứ ánh sáng ghê rợn ấy xuống thế gian với ý thức huỷ diệt. Những chiều như thế, cứ xâm xẩm tối là vợ nhìn vào mắt chồng thở dài, cha nhìn con ai oán. Trẻ đói khát nhìn nhau bằng cặp mắt trống rỗng, vô hồn.

    Củ chuối mài nhỏ nấu lẫn với cá lẹp, rau muống bè độn cơm là thứ thức ăn phổ biến của bà con bần cố nông. Đến khi không còn gì có thể ăn được nữa, chủ tịch Bùi Quốc Tầm quyết định cho nhân dân dỡ khoai lang ụ vì từ lúc trồng đến giờ đã được gần năm tháng. Nhà nhà khấp khởi mừng thầm nghĩ rằng sắp được mấy bữa no, ai ngờ sau khi ụ được cuốc ra, bên trong chỉ toàn là rễ. Có những ụ, rễ dài lòng thòng quấn lại như mớ bòng bong, nhìn thấy, ai cũng lắc đầu ngao ngán. xóm Trại Cá có mười bảy hộ thêm bà Hai là mười tám . Nhà xã đội Lương Văn Mực ở bên trái, bà Hai bên phải chỉ cách nhau một bờ rào. Chính Mực là người chỉ huy hành quyết Lê Văn Vận rồi mấy hôm sau chết trong vụ nổ ở nhà ứng Thị Sót. Bây giờ là đầu tháng tư âm lịch, lúa mới đứng cái chưa thể gặt hái. Vợ chồng Mực có ba đứa con gái và một thằng con trai. Đứa nào cũng xanh như tàu lá vì đói. chị vợ goá chưa đến ba mươi mà hom hem như bà già ngũ tuần, quần ống thấp ống cao, suốt ngày lấm láp như vừa đi tát vét về.

    Sáng nào mẹ con chị Mực cũng dậy sớm xuống đồng Mạc Điền, Đậu Khê móc cua. Những hôm dậy muộn, chậm chân, bọn xóm Đình, xóm Cầu Đá bắt hết là hôm ấy nhịn phèo. Những ngày này dân các làng đổ ra đồng như trẩy hội. Cua ốc, tôm cá, châu chấu, cào cào, thứ gì ăn sống người là bắt tuốt cho vào chiếc giỏ tre đeo lủng lẳng bên sườn. Thằng Vê con chị Mực vồ được mấy chú muỗm tre, vặt cánh rồi bỏ luôn vào miệng nhai rau ráu vì nhà hết gạo đã lâu, nó đói quá. Chỉ trong một thời gian ngắn các loài thuỷ tộc ở tất cả chín khu đồng làng Cùa gần như đã bị tận thu, lúc này thứ còn có thể kiếm được ra tiền là cỏ cồn Vành tuy rằng giá rẻ như bèo.

    Sông Lăng mùa này cạn nước. Dân tứ xứ kéo sang Cồn Vành cắt cỏ nên lão Tam chột, mới được uỷ ban xã Đoàn Kết cắt ra chở phà, cáu vì tăng chuyến mà thù lao thì vẫn thế. Lão chửi rầm nên nhưng chẳng ăn thua gì. Các bà các chị vẫn quảy quang gánh xuống bến nườm nượp. Tam Chột bốn ba tuổi, cháu gọi lái Tình đã chết trong trận lũ cách đây hơn hai mươi năm bằng cậu. Lão không máu rượu như cậu mà nghiện thuốc lá nặng, lúc nào cũng vắt vẻo điếu sâu kèn bên khoé môi. Tam chột có tật hay văng tục. Mỗi khi chửi lão thường đẩy nhanh điếu thuốc từ mép này sang mép bên kia, thành thử âm thanh phát ra nghe cứ bập bềnh như sóng vỗ mạn thuyền. Phương tiện xã giao cho Tam Chột quản lý là chiếc phà gỗ mỗi chuyến chở được vài chục người. Chiếc phà chẳng biết được đóng từ khi nào, bằng loại gỗ gì, nhưng nhìn bề ngoài đáng ra đã phải nghỉ hưu từ lâu bởi vô số những vết rạn nứt cùng đủ loại mảnh ván tạp nham táp vào chẳng khác gì tấm váy đụp của bà đĩ Hoe được ông bí thư huyện uỷ tự tay treo vào phòng truyền thống để cho các thế hệ con cháu biết được tội ác bóc lột dân cày của bọn địa chủ cường hào.

    Phụ chèo cho lái Tam là Tư Quýnh. Tay này khoảng hai tám ba mươi, trông khá đẹp mã nhưng bị tật nói ngọng, con gái làng chê. Anh ta tức mình rước một cô bên Mạc Điền về làm vợ. Con gái Mạc Điền trắng trẻo, thắt đáy lưng ong, khéo nịnh chồng chỉ phải tội đi chợ hay ăn quà vụng. Tư Quýnh chèo khoẻ, đẩy phà băng băng, lão Tam thích lắm nhưng thỉnh thoảng vẫn chửi vì cái tật rình đàn bà tắm sông.
    - Đồ con lợn, thích thì xuống tận nơi tụt quần nó ra mà sờ việc gì phải nấp trong vườn chuối như chó rình cứt trẻ con.

    Tư Quýnh tức lắm quẫy mạnh mái chèo quay ngược mũi phà làm lão Tam chột gồng người cạy mãi không ghé được vào bến. Lão toát mồ hôi hột, miệng bập bập điếu thuốc rê ngoảnh lại chửi:
    -Tổ sư thằng ngọng xỏ lá!

    Lúc ấy đã trưa. Dân cắt cỏ vẫn còn đông nghịt trên bờ. Chị Mực, cái Vấn, cái Vít đã xuống được phà, chỉ còn cái Vịt chờ hai chị lên đỡ. Gánh cỏ của nó kềnh càng mà phà thì đã đầy nhưng lão Tam vẫn chưa chịu rời bến. Lão hất hàm cho Tư Quýnh nhấc gánh của cái Vịt lên rồi dùng chiếc sào dài cán ngang đẩy mọi ngươì ép sát về đằng lái. Lão quyết định chở thêm mười hai gánh nữa. Con phà lắc lư trừơn đi một cách khó khăn vì ngược nước. Có những lúc mái chèo của Tư Quýnh cong vát đi, tưởng sắp gãy đến nơi. Tay lái của lão Tam cọt kẹt bởi tiếng dây chão nghiến vào gỗ nghe rợn cả người. Phà ra đến giữa sông bỗng nhiên mọi người nghe thấy mấy tiếng rào rào. Chết cha rồi, gãy mái chèo. Nhưng không phải, chính là nước từ đáy phà tràn lên. Chỉ trong khoảnh khắc, do sức đẩy khá mạnh, chiếc phà chở quá nặng bị vỡ làm đôi. Lão Tam và Tư Quýnh mỗi người một bên, tay vẫn nắm mái chèo nhưng mặt xanh như đít nhái, mồm há hốc, đang hốt hoảng chưa biết làm thế nào thì cả hai nửa chiếc phà đều bị lật, hất tất cả đám hành khách đang kinh hồn bạt vía kia xuống nước.

    Hầu hết đám đàn bà con gái đều không biết bơi hoặc bơi kém. Họ vùng vẫy một cách tuyệt vọng trước làn nước đục lờ lờ, bám vào bất cứ thứ gì vớ được trong tầm tay, hy vọng khỏi làm mồi cho thần Thuồng Luồng. Hai nửa chiếc phà có đến vài ba chục bàn tay bám vào, người nọ túm áo người kia như một đám rồng rắn. Những mảnh gỗ vá víu ngấm nước cùng với vô số đai sắt, bulông khá nặng, không chịu được phụ tải, từ từ chìm xuống. Trên mặt sông chỉ còn những bàn tay chới với cùng với tiếng la hét tuyệt vọng.

    Anh em họ Lê lúc ấy đang gỡ lưới ở lạch Cá Bơn, nghe tiếng người trên bãi ngô kêu gào vội cho thuyền ra bến. Hai người cố sức chèo nhưng cũng phải nửa khắc mới đến được chỗ phà bị nạn. Tất nhiên là lão Tam Chột và Quýnh ngọng không sao. Họ sợ đám đàn bà bám vào nên đã lặn xuống thật sâu, bơi ra xa rồi vào bờ lấy thuyền ra cứu chị em. Nghiên nhảy xuống sông, lập tức có hàng chục bàn tay túm áo xuýt nữa thì chết chìm. Lão lái phà vội nhào theo tiếp sức cùng Nghiên đưa từng người lên thuyền. Bên kia, Lê Văn Khải và Tư Quýnh cũng vớt được bốn năm cô đã uống no nước. Sau gần hai tiếng đòng hồ, mệt bở hơi tai họ đưa được hai mươi bảy nạn nhân vào bờ, bảy người khác bị nước cuốn đi trong đó có cái Vịt. Lê Văn Khải bị vợ Lại Quang Nghinh quàng tay bấu chặt lấy cổ rồi cứ thế chìm xuống vì chân chị ta có đến hai người nữa bám vào. Khải phải nín thở, vặn người nhoài ra mãi mới thoát. Hai bà già kia sặc nước nổi lập lờ được Quýnh ngọng kéo lên thuyền. Gần tối hôm ấy người ta mới tìm được xác cái Vịt. Nhà Mực khóc con rất là thê thảm. Mẹ con chúng không có tiền đóng ván phải quấn chiếu bó lạt mang ra đồng Chó Đá chôn. Hai anh em Khải khênh cái Vịt, Tư Quýnh vác mai cuốc, lão Tam chột cầm bó đuốc dài gần hai thước tây thỉnh thoảng quay một vòng làm lửa loé lên, tàn bay tứ tung. Bốn mẹ con không còn bơ gạo nào. Trong chum chỉ lổng chổng mấy lát khoai khô. Bà Hai thương tình bảo Lê Văn Nghiên mang cho nửa rổ khoai lang. Số khoai ấy, Khúc Thị Hài mua ở chợ Rồng chiều hôm trước sau khi bán mớ cá chày Khải đánh được trên sông Lăng.

    Sau mấy tháng ở trong ngôi nhà " quả thực", Phạm ổn và ứng Thị sót bắt đầu gỡ cánh cửa bức bàn gỗ lim mang sang chợ Cháy bán. Đói quá, họ bàn nhau mỗi hộ chỉ ở một gian, còn gian chính đường có thứ gì kiếm ra tiền đều bán. Hôm sau Sót gọi người vào mang đi bộ đồ thờ. Tất cả long án, bồ đài, ống hương, lư đồng, mâm ngũ quả đều lần lượt chất lên chiếc xe ngựa của lão Tuế Sứt mang lên phố huyện cho bà Cát Đại. Bà Cát xấp xỉ bốn mươi, ngực lép nhưng cổ chân to như chân voi vì bị giun chỉ có ông anh ruột làm bộ trưởng ở Hà nội, nửa công khai, nửa bí mật khuân gần hết đồ tế tự ở làng Cùa với cái giá rẻ như cho không. Bà ta mua những thứ linh thiêng này không phải để kinh doanh mà cất vào kho, hy vọng có ngày chủ của nó đến chuộc lại.

    Đồ Sách không những không bị xử tù về tội chửi càn mà còn được xếp vào thành phần bần nông vì có anh cháu họ trong Đội Cải cách làng Chi Điền, trước đây ở cùng trung đội với đội Ngọ. Ông ta được chia bốn sào ruộng đồng Gà và bộ long án bằng gỗ vàng tâm sơn son rất đẹp. Chiếc án thờ gỗ gụ chạm khắc khá tinh xảo chiếm già nửa gian nhà, một mình không mang đi được, Đồ Sách phải gọi hai thằng cháu ngoại đến khiêng. Hai đứa cháu mấy hôm nay chỉ được bát cháo khoai khô cầm hơi, chân tay chệnh choạng như của đi mượn. Bỗng "rầm", thằng Tề bị hẫng, cái án thờ chao nghiêng đổ xuống sân gạch vỡ làm mấy mảnh. Ông ta tức mình chửi hai thằng cháu một trận. Chiều hôm ấy, cái án thờ được chẻ ra quẳng vào bếp làm củi. Mấy hôm sau, từ sớm tinh mơ, người ta thấy ông Đồ gánh một gánh, một bên là mấy chiếc bồ đài cùng với mâm ngũ quả, bên kia, chiếc lư đồng mắt cua ra đường 228 lên chợ Cháy. Mẹ con chị Mực sau ngày cái Vịt chết đuối không sang cồn Vành cắt cỏ nữa mà trở lại nghề móc cua. Dân làng Cùa dạo này kéo nhau xuống Đậu Khê, An Bối, Chi Điền kiếm ăn, nhưng những nơi này cũng đang có nguy cơ chết đói. Khắp vùng Ba Tổng, các dải bờ ruộng bị thuổng cuốc đào bới nhoe nhoét. Lúa đang làm đòng vốn dĩ còi cọclại bị hàng trăm hàng ngàn bàn chân dẫm nát chắc mười phần chỉ được một hai.

    Buổi trưa, sau khi húp bát canh cua loãng nấu với rau tập tàng, cái Vấn cái Vít rủ nhau sang Đậu Khê tát cá. Trời đang nắng gắt. hai đứa vét được lưng giỏ lòng cò rồi vào gốc gáo ngồi nghỉ. Bất chợt cái Vít nhìn thấy mấy vồng khoai lang liền gạ chị :
    - Hay là ta hái ít ngọn khoai về xào với tỏi ăn?
    Cái Vấn lưỡng lự:
    - Ruộng khoai của ông chủ tịch đấy, nhỡ người ta biết thì chết.
    - Ngắt vài ngọn sợ gì, chị không làm để em, nhưng tối về đừng có chọc đũa vào.

    Cái Vấn nghĩ đến mùi ngọn khoai xào tỏi đã nuốt nước miếng, nhìn trước nhìn sau thấy đồng đã vắng người liền chạy theo em. Cái Vít vừa hái ngọn vừa bới gốc. Đây rồi. Những tia củ bằng ngón tay đã bắt đầu lộ ra. Nó bẻ gãy mấy đoạn, lấy vạt áo lau rồi đưa lên miệng nhai rau ráu. Cái Vấn thấy em ăn, nó ngần ngừ mãi rồi cũng cúi xuống kéo một chùm rễ lên. Hai đứa mải ăn không để ý vợ chủ tịch Tầm từ phía sau bước đến. Chị ta thuộc loại đàn bà chua ngoa, quay quắt, nhất là từ khi chồng làm chủ tịch, lên mặt, coi bà con dân làng chẳng ra gì. Hai chị em sợ quá bỏ cả giỏ cá với nắm ngọn khoai ù té chạy.

    Chiều hôm ấy, hai dân quân đến nhà chị Mực bắt ba mẹ con ra trụ sở Uỷ ban. Họ tống cái Vấn cái Vít vào buồng khoá lại, bắt chị Mực phải mang tiền bồi thường chỗ khoai bị móc mới cho hai đứa về. Chị ta không biết tìm đâu ra tiền đành mang cái hòm khoá chuông được chia hồi Cải cách sang nhà bà Hai :
    - Bà làm phúc cho con vay mấy nghìn cứu các cháu.

    Bà Hai ngẫm nghĩ một lúc rồi tháo đôi khuyên bạc đưa cho vợ Mực bảo :
    - Nhà chị mang sang chợ Cháy mà bán, có lẽ cũng đủ số tiền nộp phạt, còn cái hòm này mang về, tôi không giữ làm gì.
    - Con đội ơn bà nhưng nếu thế thì con không dám cầm đôi khuyên.
    - Đã bảo cứ cầm về. Nửa tháng nay, nhà này cũng toàn ăn khoai với canh cua, nhưng tao thương hai đứa. Tội chúng quá.

    Chập tối thì cái Vấn cái Vít được thả. Hôm sau, vợ Mực ra chợ Rồng đong ba ống gạo, mua nửa cân thịt và mấy cái bánh đa. Thịt thì luộc. Bánh đa bẻ ra nấu với cua, thật là một bữa ăn thịnh soạn làm thằng Vê mắt sáng lên. Cái Vấn hỏi :
    - Mẹ lấy đâu ra tiền mà ăn sang thế?
    Vợ Mực bảo :
    - Bà Hai cho vay đôi khuyên, mẹ bán đi đền cho chúng mày, còn thừa một ít làm mâm cơm cúng bố.
    Cái Vít tuy háu ăn nhưng thấy mẹ tự nhiên tiêu hoang khác hẳn với ngày thường cũng sinh nghi :
    - Vay rồi sau này lấy gì mà trả?
    - Mẹ đã mang cái hòm khoá chuông sang nhưng bà không nhận.
    - Cái hòm chỉ đáng mấy bơ gạo, mẹ làm thế bác Hài với các anh ấy khinh cho.
    Chị Mực thở dài:
    - Biết làm thế nào được hả các con? Nhà mình cùng đường rồi.

    Cơm trắng, thức ăn ngon nhưng bốn mẹ con ngồi rất lâu, khác hẳn mọi ngày, bữa ăn mãi đến quá ngọ mới xong. Thằng Vê có lẽ đã no, vừa buông đũa buông bát thì mặt mày tái nhợt, hai cánh mũi phập phồng, mắt trợn ngược, ngã vật xuống ngay bên mâm cơm. Cái Vấn thấy sự lạ, quờ tay nâng em dậy nhưng chính nó cũng đang mất thăng bằng, mắt hoa lên, đầu quay cuồng điên đảo như lúc bé bị đặt lên cối xay lúa. Cái Vít trợn mắt nhìn mẹ, hai tay quờ quạng, cổ họng giật giật mấy cái rồi nôn thốc nôn tháo như ăn phải mùn thớt. Trước mắt chị, những đốm xanh đỏ tím vàng cứ hiện ra rồi lại mất đi, có lúc chúng lồng vào nhau thành khối hỗn độn ngũ sắc, lúc lại tách riêng, phồng ra thành những quả bóng đỏ sẫm bay dần lên cao. Trong tai chị như có tiếng sấm nổ lục bục chẳng khác gì búa tạ gõ vào thái dương làm cặp mắt đờ dại như muốn bật ra khỏi tròng. Ruột gan người mẹ sắp đứt ra từng khúc bởi những cơn đau xé làm toàn thân chị ta co giật ngả nghiêng.

    Tầm xế chiều, Khúc Thị Hài đun nước gội đầu, chạy sang nhà Mực xin lá bòng, thấy cửa mở toang liền ngó vào bỗng tay chân rụng rời, bổ về gọi bà Hai.

    Bốn mẹ con chị Mực nằm co quắp bên cạnh mâm cơm vẫn còn mấy miếng thịt lợn và bát canh bánh đa ăn dở. Bà Hai đã hiểu chuyện gì xảy ra liền bảo Lê Văn Nghiên chạy sang báo ông Ngật, trưởng xóm kiêm trưởng ban Nông hội. Mãi nửa tiếng sau, xã đội trưởng Cung Văn Luỹ và trưởng công an Cao Khắc Thông, em vợ Bùi Quốc Tầm mới đến khám nghiệm hiện trường. Họ lục tung đồ đạc trong nhà tìm thuốc độc nhưng không thấy mà chỉ thấy lá thư tuyệt mệnh của chị Mực viết bằng thứ chữ ngoằn ngoèo như gà bới sau khi học lớp "bình dân” được hai tháng. “Cái Vấn cái Vít trót dại moi trộm của nhà ông chủ tịch mấy dãi khoai và vặt một bó ngọn về xào. Bốn mẹ con hiện giờ chẳng còn gì ăn. Đời người đằng nào cũng một lần chết. Sống như thế này còn cực hơn cả thời thực dân đế quốc, thà chết sớm cho đỡ khổ, đỡ nhục. Nhà con có tội với bà Hai vì anh Mực đã bắn bác Vận. Sau khi mẹ con con đi, toàn bộ gia tài giao cho cậu Nghiên cậu Khải. Số cơm canh thừa đã trộn thuốc chuột, không ai được ăn, ăn vào là chết đấy. Con chắp tay lạy bà Hai, chị Hài và hai cậu. Nguyễn Thị Vách”.

    Cao Khắc Thông đọc thư xong vội nhét vào túi áo bảo trưởng xóm trại Cá:
    - Chúng tôi về trình Uỷ ban việc này, bác đi báo cho bà con đến làm thủ tục mai táng.
    Ông Ngật bảo:
    - Việc tày đình như thế này phải trình lên công an huyện để người ta xử lý chứ.
    Cao Khắc Thông cau mặt sừng sộ:
    - Ông này hay nhỉ. Tôi là trưởng công an tất nhiên là phải có trách nhiệm, còn mấy cái xác không chôn đi để đến mai nặng mùi, mất vệ sinh ai chịu được.
    Trưởng công an mang bức thư đưa cho ông anh rể. Tầm đọc xong còn đang phân vân, thì ông em vợ bảo:
    - Việc này có liên quan đến bác, anh em nhà tay Mực mà kiện là gay, theo tôi ta nên đốt đi.
    Tầm có vẻ sợ, ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
    -Đã lập biên bản chưa?
    - Xong rồi
    - Những ai ký?
    - Tôi đã lừa được lão Ngật trưởng xóm ký và mấy bà xóm Trại Cá điểm chỉ.
    - Trong biên bản có nhắc đến việc mấy luống khoai không?
    - Không, dại gì mà đưa vào, đây bác xem.
    Ông chủ tịch đọc đi đọc lại mấy lần thấy bên dưới có cả chữ ký của xã đội trưởng liền đưa bức thư tuyệt mệnh cho Cao Khắc Thông bảo:
    - Đốt đi.


    2. Mặc dù đang đói nhưng làng Cùa vẫn phát động phong trào bài trừ văn hoá nô dịch, chống mê tín dị đoan. Toàn thể thanh thiếu niên, kể cả một số con cái địa chủ phú nông đều phải tham gia chiến dịch này. Lê Văn Khải được cử vào đội tiêu huỷ sách cũ, còn Lê Văn Nghiên trong đội phá đình chùa. Bộ phận của Khải do trưởng công an Cao Khắc Thông phụ trách. Anh ta tập hợp mọi người ra đình, đọc thông tri của cấp trên sau đó hướng dẫn trình tự công việc. Trong số hơn ba chục thanh niên, có già nửa mới thoát nạn mù chữ, phần đông đang học các lớp "bình dân " do các ông thầy vừa biết đọc biết viết khoá trước dạy. Cao Khắc Thông cử tổ thông tin quét vôi vào tường đình, tường miếu, đầu hồi nhà rồi kẻ dòng khẩu hiệu bằng thứ chữ in hoa có chân đế cao bằng cả gang tay: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại " hoặc " Kiên quyết tiêu huỷ văn hoá phẩm nô dịch ". Mấy ông cung văn chuyên gảy đàn cho các bà đồng bóng ở đền Sòng cứ nhấp nha nhấp nhổm như bị kiến vàng đốt đít, chỉ sợ công an đến " rước " đi Trại Sung.

    Người được Cao Khắc Thông dẫn quân ra thăm viếng đầu tiên là chưởng bạ Giang. Nhà ông Giang có ba kệ sách chữ nho, một hòm khoá chuông vừa sách chữ Pháp và Quốc ngữ của anh Giảng. Sở dĩ ông Giang không bị quy lên địa chủ mà chỉ dừng ở mức phú nông là vì anh Giang lúc ấy đang là cấp chỉ huy quân đội. Anh ta về làng đúng vào dịp Cải cách, áo đại cán bốn túi, súng lục trễ bên hông, mũ gắn sao vàng trông rất oai nhưng vẫn bị Đội Lạc cho dân quân đến bắt. Người nhà ông Giang vội đi Hải Phòng báo cho đơn vị. Ngay chiều hôm sau, vị chỉ huy sư đoàn cùng với bốn chiến sỹ khoác tiểu liên đánh xe com măng ca về làng gặp đội Cải cách, đón Giảng đi.

    Ông chưởng bạ học chữ nho với cụ khoá Phùng ở kẻ Sộp. Cụ Khoá đã có lần vác lều chõng đi thi vào đến nhị trường. Vì không có con trai, trước khi mất, cụ Phùng làm di chúc giao lại toàn bộ số sách ky cóp được cả một đời cho người học trò làng Cùa. Trong số thư tịch của cụ Khoá để lại có những bộ rất quý như "Việt sử thông giám cương mục", "Đại Việt sử ký toàn thư ", "Việt điện u linh tập", "Dịch kinh", "Luận ngữ ", "Mạnh tử", "Cựu Đường thư","Tấn thư","Đường thi tam bách thủ" ," Liêu trai chí dị","Tam quốc chí diễnnghĩa"… Hòm sách của anh Giảng có"Les Miserables"( Những người khốn khổ ) của
    Victor Hugo, "Les Troismousquetaires"(Ba người lính ngự lâm) của A .Dumas, tuyển tập Voltaire, thơ Lamartine,"Cô giáo Minh", "Hồn bướm mơ tiên","Đò chiều","Tắt lửa lòng","Ai hát giữa rừng khuya"."Phấn thông vàng","Số đỏ"... Nhìn thấy khối lượng sách giá trị như thế sắp bị thiêu huỷ, Khải không đành lòng bảo với Cao Khắc Thông :
    - Đây toàn là sách quý, theo tôi không nên đốt ,sau này có lúc cần đến.

    Trưởng công an xã, phẩy tay:
    - Cậu đừng giở cái giọng tiểu tư sản ấy ra. Đống sách này là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch phản động, vì nó mà bọn địa chủ cường hào như chánh Bang , cả Huê, phó lý Kiền mới thẳng tay bóc lột bần cố nông , dân ta mới mất nước.Phải đốt hết để trừ tận gốc.

    Lửa được nhóm lên ngay giữa sân đình. Hàng ngàn cuốn sách đủ chủng loại bị hiến cho Hoả thần, lúc đầu quăn bốn góc sau đó cháy lem lém. Khói đen bay lên từ những cuốn sách chữ Hán có mùi hăng hắc của loại bìa phất cậy, bay vòng vèo rồi tan dần vào không khí. Lựa lúc Cao Khắc Thông vào đình hút thuốc lào, Khải nhanh tay rút một tập "Bách khoa toàn thư", bằng chữ Pháp của nhà xuất bản Galimard nhét vào bụng. May mà không ai trông thấy. Tay xã đội sẵn sàng quy kết anh ta vào tội danh phản động nếu phát hiện ra cuốn sách chứa một phần tri thức mấy nghìn năm của nhân loại bị đánh cắp.

    Nhưng đến nhà ông cửu Mẫn thì tình hình không thuận lợi .Ông Mẫn làm nghề thầy cúng cũng có một kệ sách chữ Nho, rất giỏi bói dịch.Vốn là người lo xa, ông cho tất cả sách quý vào chiếc hòm sắt, trét sáp ong kín các khe hở rồi mang giấu trong hầm bí mật. Đoàn của Cao Khắc Thông đến nơi, thấy kệ sách rỗng không, anh ta nghiêm giọng bảo ông thầy cúng :
    - Biết điều thì mang sách ra nộp, đừng để chúng tôi phải khám.
    Ông Cửu thản nhiên như không :
    - Chẳng giấu gì các anh, tôi vốn dát, nghe thấy lệnh phải tiêu huỷ văn hoá nô dịch là bảo các cháu mang xuống bếp đốt sạch.

    Đời nào trưởng công an và xã đội trưởng lại tin lời một lão thầy cúng già đã từng hành nghề mê tín dị đoan nổi tiếng khắp vùng Ba tổng. Cung Văn Luỹ cười tinh quái:
    - Bác giấu ở đâu thì mang ra đi, chuyện này không thể đùa được.
    - Đã bảo là tôi chấp hành lệnh của xã, đốt từ mấy hôm trước rồi.
    Cao Khắc Thông gườm gườm nhìn ông thầy cúng bằng cái nhìn chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành :
    - Được, ông cố tình chống lại chính sách của Đảng phải không? Các đồng chí đâu lục soát!
    Cung Văn Luỹ ra lệnh cho đám dân quân :
    - Tìm kỹ ở trong buồng xem, có thể ông ta cất trên gác xép.

    Lê Văn Khải làm một cách chiếu lệ. Anh ta biết, một người có vốn nho học uyên thâm như ông Cửu không bao giờ đốt sách. Từ cổ chí kim, làm chuyện này chỉ có Tần Thuỷ hoàng và Nêrông. Bởi vì, đốt sách chính là biểu hiện của sự ngu dốt. Những kẻ đi chinh phục, nếu chỉ dựa vào sức mạnh của họng súng và lưỡi gươm mà thiếu văn hoá hoặc ở tầm văn hoá thấp, cho dù được nguỵ trang bằng đủ thứ chủ thuyết mỹ miều cũngkhông thể thu phục được lòng người. Ông ta dấu ở đâu nhỉ? Nền nhà, nền bếp, góc vườn đều bị cácloại xà beng, cuốc chim, thuốn sắt đào bới thăm dò. Thùng trấu, gác bếp, chuồng trâu, thậm chí cả nhà xí cũng không thoát khỏi con mắt soi mói của ông trưởng công an, thế mà hàng trăm cuốn sách như có phép lạ tàng hình. Nhìn toàn cảnh ngôi nhà lúc này như một bãi chiến trường bởi hàng đống hòm xiểng, vứt lỏng chỏng cùng với đất cát bị đào nham nhở, ông Cửu hất hàm bảo Cao Khắc Thông :
    - Phiền các anh sắp xếp lại cho rồi hãy sang nhà khác.
    Trưởng công an cau mặt :
    - Ông đừng có đùa với nhà chức trách. Bây giờ phải đi với chúng tôi ra Uỷ ban.
    - Các anh bắt tôi?
    Thông lắc đầu:
    - Chúng tôi chỉ tạm giữ đến khi nào ông khai thật số sách kia giấu ở đâu thôi.
    Ông Cửu mang theo chiếc tráp sơn then, không phải đựng sách mà để bộ quần áo gụ với chiếc khăn mặt bông nhuộm nâu. Vì căn buồng uỷ ban còn giam hai thằng ăn trộm gà nên Cao Khắc Thông bảo mấy dân quân nhốt tạm ông thầy cúng vào hậu cung đình Cả cho suy nghĩ một đêm rồi sáng mai ra trụ sở làm việc. Đầu canh tư, ông Cửu đau bụng, ruột quặn lên, mót đại tiện nhưng không làm thế nào ra được. Mấy tay dân quân gác ngoài, buổi tối đánh tú lơ khơ đến tận khuya, ngủ mệt, ông Mẫn đập cửa rầm rầm vẫn không thèm dậy. Hậu cung tối mò mà cái thứ đau bụng kiểu này không thể cố nhịn để giành đến mai được, thế là ông thầy cúng bật ra sáng kiến, mở tráp lôi bộ quần áo ra, tương vào đấy rồi đậy nắp, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Sáng sớm, cửa đình vừa mở, ông Cửu len lén xách tráp đổ ra góc ruộng rồi xuống ao rửa, lúc quay về gặp tay Đốm, anh ta thấy lạ, hỏi :
    - Cái tráp của ông có vàng bạc gì mà lúc nào cũng kè kè bên người?

    Ông Cửu chống chế:
    - Có gì đâu, đựng bộ quần áo ấy mà.
    Trưa hôm ấy, Cao Khắc Thông cùng Thân Văn Đốm áp giải ông Cửu sang công an huỵện vì tội cố tình không nộp sách phản động mê tín dị đoan. Ông trưởng công an mặc áo nâu nhuộm vỏ già cắt theo kiểu thành thị cổ bẻ bốn túi, quần"phăng" xanh, ngồi sau chiếc án thư sơn son ( chắc là tịch thu của một hộ địa chủ nào đó), trước mặt là khẩu súng lục để nguyên trong bao, bên phải đặt lọ mực và chiếc bút parker cùng cuốn sổ tay bìa đỏ. Nhìn bộ dạng nhơn nhơn của ông thầy cúng, trưởng công an ghét lắm hỏi mỉa :
    - Ông có biết khẩu hiệu chống văn hoá nô dịch và mê tín dị đoan hiện nay như thế nào không?
    Ông Cửu cúi đầu đọc thuộc vanh vách:
    - Thưa, nó thế này ạ: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại".
    - Đúng lắm .- Trưởng công an gật đầu - Nhưng ông có biết đã phạm tội gì không?
    - Tôi giải nghệ rồi, sách cũng đã đốt thành tro, sao lại bảo là có tội?
    - Có đấy. - Trưởng Công an huyện cười nửa miệng - Tội cố tình ẩn lậu văn hoá phẩm nô dịch, phá hoại công cuộc Cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ.
    Ông Cửu cười nhạt:
    - Công an xã đã khám xét khắp nơi, đào cả nền nhà, cuốc vườn, moi nhà xí đều không thấy sách, tôi không có tội, tôi chả sợ.

    Ngay lập tức ông Cửu bị đưa xuống buồng giam . Hoá ra không phải chỉ mình ông phải câu lưu vì án văn tự. Trong tuần qua hầu hết các thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý trong huyện đã bị tóm về đây. Thật là một cuộc hội ngộ " thiên tải nhất thì" ở vùng Ba Tổng.

    Ngôi chùa bị phá đầu tiên là chùa Đàn ở Đậu Khê. Toàn bộ kèo cột, rui mè, sau khi rỡ được chuyển về làng Cùa dựng trường học. Mấy cây cột lim khoát tư khoát năm không khênh được, uỷ ban xã phải cho thợ xẻ xuống tận nơi kéo co gần một tháng mới xong. Những ngày ấy học sinh được nghỉ để lao động tập thể. Dưới sự chỉ huy của Cao Khắc Thông và Thân Văn Đốm , đám học trò tí nhau trèo lên nhà Tổ và Tam bảo khiêng tượng phật xếp thành một đống trên bãi cỏ phía sau chùa. Mấy ông hộ pháp kềnh càng bằng đất thì cánh thanh niên lấy búa tạ đập vỡ. Pho tượng A di đà sơn son thếp vàng ngồi trên toà sen bị tròng dây chão vào cổ giật đổ xuống, lập tức hai ông bần nông trung niên người Mạc Điền dùng cưa cắt làm ba đoạn vác về nhà. Tượng tạc bằng gỗ mít mật, bên trong yểm trầm không biết có tự đời nào, thớ vàng sẫm vẫn còn thơm. Loại này được chẻ nhỏ ra nhóm bếp, đượm phải biết. Một số bụt nhỡ và bụt ốc bọn trẻ con cầm chơi, chơi chán chúng ném xuống ao nổi lềnh phềnh giữa đám bèo ong, rau dút và bè muống. Ông khán Thịnh trước Cải cách là người trông nom chùa Đàn, nhìn cảnh tượng phật lặn ngụp dưới ao chép miệng than thở:
    - Sao các ngài không về vật cho chúng nó hộc máu ra.

    Xế chiều, đống tượng Phật vơi dần. Mấy bà làm đồng qua, tiện tay bê một hai pho về để bàn thờ. Số còn lại Cao Khắc Thông sai bọn học trò châm lửa đốt. Ông phật Di Lặc béo phệ với cái bụng vĩ đại, lửa bén đến cổ vẫn giữ nguyên nụ cười. Ông Xếp Đáy, chuyên nghề quăng chài, rượu ngang tu hàng lít, lúc nào cũng kè kè chiếc bao da bằng nửa cuốn sách làm ví tiền trước bụng nhưng bói chẳng ra một đồng, vừa ở sông Lăng về, liền lội xuống ao vớt một vị La hán cỡ bắp đùi vác lên vai, lúc đặt vào bàn thờ thấy "ngài” cao quá đành phải cưa phần đế cho vừa.

    Nhưng thành tích lớn nhất của chủ tịch Bùi Quốc Tầm trong chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan phải là việc hoàn toàn phá bỏ ngôi nghè lớn nhất vùng Ba Tổng. Nghè làm từ thời hậu Lê niên hiệu Bảo Thái nguyên niên cách ngày nay hai trăm năm mươi nhăm năm, do một vị nhị giáp tiến sỹ làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại đứng ra quyên góp và hưng công, mất hơn ba năm mới hoàn thành. Chỉ riêng gỗ lim, từ cột kèo, kẻ, trụ, câu đầu xã phải thuê chín cặp thợ, xẻ thông sáu tháng với xong. Số lượng gỗ thành khi xếp lại đo được ba trăm hai mươi chín khối. Hai phần ba gỗ xẻ dùng đóng bàn ghế học trò và trang bị nội thất uỷ ban, phần còn lại cán bộ xã dấm dúi chia nhau đóng tủ, đóng giường và làm cánh cửa. Mấy bác thợ mộc cũng nhân cơ hội bảo nhau "mượn tạm" vài mảnh đầu thừa đuôi thẹo về nhà làm chạn bát, ghế ngồi ăn cơm. Thừa thắng xốc tới, các vị lãnh đạo đang lên kế hoạch phá tiếp đình Cả, đình Lẻ và chùa Vĩnh Hưng thì bỗng xảy ra sự cố nên công việc phải hoãn lại.

    Đầu tiên là ông Xếp Đáy, sau hôm cưa đít bụt, tự nhiên hoá rồ, hai tay cầm hai sợi thừng dài nhẩy vun vút còn thiện nghệ hơn cả các cô bé học trò lớp ba nhẩy dây. Múa may quay cuồng chán, ông ta phi thân lên mái nhà nhẹ nhàng như kiếm khách dùng thuật khinh công, hai mắt trợn trừng, lưỡi cứng lại rồi lăn xuống sân, bất tỉnh nhân sự. Thân Văn Đốm đang đêm nhảy khỏi giường xuống bếp rút con dao bầu bổ ra đường như ngựa vía, miệng lảm nhảm :
    -Thằng Đốm dám báng bổ thần thánh, tội của mày không thể tha.

    Hắn vừa chạy vừa lấy dao cứa cổ, máu chảy nhoe nhoét, đến chỗ gốc cây gạo đổ thì nhảy xuống ao Quan. Dân làng vớt lên được một lúc thì hộc máu mồm ra chết. Dưới Mạc Điền, hai ông cưa tượng A di đà đang ăn cơm bị trúng gió cấm khẩu. Vợ con tìm thầy chạy chữa, mãi ba hôm sau mới tỉnh nhưng một bị méo mồm, một bán thân bất toại nằm đâu ỉa đái ra đấy. Sợ nhất là Cao Khắc Thông. Chập tối ngày hai mươi bảy, anh ta đang uống rượu với cá rán ở nhà Bùi Quốc Tầm, hai mắt tự nhiên buốt như bị ong vò vẽ châm phải. Vợ trưởng công an không biết đấy là bệnh thiên đầu thống, lấy ốc nhồi giã nhỏ trộn với rau má đắp vào, nửa đêm càng đau dữ dội. Thông kêu như lợn bị thiến, đến gần sáng thì hai con ngươi lòi ra. Các quan chức xã Đoàn Kết từ bí thư, chủ tịch cho đến trưởng các ban ngành, ông bà nào chót đem gỗ về đóng đồ, chẳng ai bảo ai đều lần lượt mang ra xếp vào góc đình Cả. Cánh thợ mộc cũng hốt, nửa đêm bắt vợ con chuyển hết những chạn bát, ghế đẩu, ghế ăn cơm xuống hành lang uỷ ban.
    Cung Văn Luỹ và bí thư phụ nữ Lương Thị Nhớn mới lên thay Chĩnh Con phải đến nhờ ông Cửu Mẫn lập đàn cúng giải hạn. Ông Cửu bảo:
    -Tôi chả dại. Cúng bái là mê tín dị đoan, ông Tầm biết lại bắt tôi sang huyện.
    Xã đội trưởng khẽ nháy mắt với bí thư phụ nữ rồi bảo :
    - Ông Tầm mới bị chứng đái rắt ra máu, đang nằm liệt giường. Cụ làm ơn giúp chúng cháu, sau này không dám quên ơn.
    Ông Mẫn lại bảo:
    - Các loại sách cúng đốt hết rồi mà việc này không có sách không làm được.
    Cung Văn Lũy liếc mắt ra chân đống rơm sát gốc cây bưởi làm ông thầy cúng chột dạ:
    - Anh tìm cái gì?
    Luỹ hắng giọng:
    - Chỗ ấy có cái hầm , tháng chín năm năm hai, cháu bị bọn Bảo an đuổi đã chui xuống đấy cùng với anh Khoán.
    Ông Cửu phẩy tay:
    - Tao lấp từ lâu rồi.
    - Cụ giấu cháu làm gì. Hôm bọn Cao Khắc Thông đến lục soát ở đây, cháu bảo chúng nó vào buồng tìm rồi lảng sang bên anh Nhận hút thuốc.
    - Thì ra mày. . .
    - Cụ giúp nhà cháu đi. Làm ban tối. Cháu sẽ gác ngoài cổng, đảm bảo an toàn.
    - Mày không lừa tao đấy chứ?
    Cung Văn Luỹ nhăn nhó:
    - Sau vụ phá chùa, làng này chết mấy người, có các vàng chúng cháu cũng chẳng dám lừa cụ.


    3. Một hôm Lê Văn Khải bảo mẹ:
    - Có khi con phải đi tìm việc làm, cứ tình trạng này thì chết đói mất.
    Khúc Thị Hài thương con nhưng xem ra cũng không còn cách nào khác đành miễn cưỡng gật đầu :
    - Thế cũng được, ở nhà còn có em Nghiên, đến chỗ làm nhớ viết thư về.
    Bà Hai lắc đầu:
    - Không có giấy thông hành sao đi được hở cháu? Nhà mình bây giờ chẳng khác gì tù giam lỏng, ra khỏi làng không trình báo là bị rầy rà.

    Lê Văn Nghiên vốn nóng tính, ngang tai trái mắt không chịu được, thủng thẳng bảo:
    - Có xuống Uỷ ban xin giấy họ cũng không cấp đâu. Anh cứ đi trước đến chỗ lò gạch cũ ở Phú Đa ấy xem thế nào, nếu làm ăn được em cũng đi.
    Khúc Hài bảo :
    - Một đứa đi thôi, còn thằng Nghiên phải ở nhà. Chúng mày không thương bà hay sao?
    Bà Hai hiểu rõ tâm tính hai thằng cháu từ bé, xem ra khó mà giữ chân chúng được đành chép miệng bảo:
    - Cả hai anh em đi được càng tốt không phải lo cho bà. Tao còn khoẻ chán. Chúng mày mà còn ở làng Cùa thì suốt đời không ngẩng đầu lên được.

    Sáng hôm sau hai anh em vác lưới ra sông Lăng. Thuyền xuôi xuống mãi bến Đoan mới sang cồn Vành. Khải khoác khăn gói lên bờ còn Nghiên bắt đầu thả lưới đánh cá . Cồn Vành mùa này toàn cỏ , có nơi cao quá đầu gối xanh tít tắp , rộng mênh mông như một thảo nguyên hoang dã . Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy vài vạt ngô thấp lè tè còi cọc chen lẫn giữa những bạt cỏ lác, cỏ ống, cỏ tai voi. Chim ngói, chim xanh, chào mào, liếu điếu từ khắp nơi bay về kiếm ăn. Cánh thợ săn vác lưới đặt bẫy suốt ngày nhưng bắt được chúng không phải dễ.

    Hầu hết các làng vùng tả ngạn Khải đi qua đều có một nét giống nhau là lắm cờ, nhiều khẩu hiệu. Thỉnh thoảng lại gặp một đoàn khất thực lầm lũi bước trên đường quan. Họ khoác trên người những bộ quần áo vá chằng vá đụp, vật vờ như những cô hồn, lúc mặt trời gác bóng, rủ nhau vào tá túc trong những gian điếm dột nát, nhịn đói, uống nước lã cầm hơi để đến sáng mai lại tiếp tục cuộc hành trình vô vọng. Sang đến ngày thứ tư, Khải đến Phú Đa. Anh ta tìm được dãy lều trại của những người thợ phơ nhưng không gặp ai. Khu lò gạch đã trở thành hoang phế. Khải vào làng gặp ông Tước, một thợ đốt lò nổi tiếng khắp vùng Cao Thượng. Ông này bị đau dạ dày,đang ôm bụng nhăn nhó, thấy khách đến hỏi bà Cảnh liền ngồi dậy bảo :
    - Cậu có phải là cậu Khải?
    - Vâng, cháu đây.
    - Chuyện thế này, sau khi cậu ít hôm , ông Cảnh mang cô Kiều Trâm về thành phố, nghe đâu đã lấy thầy ký kia. Mấy tháng sau ở đây phát động Cải cách ruộng đất. Bà chủ kinh doanh lô gạch bị quy là thành phần tư sản, lãnh án mười lăm năm. Toàn bộ số gạch còn lại, Đội trưng thu chia cho bần cố nông, tôi cũng được hơn hai trăm viên xếp ngoài vườn kia.

    Ông Tước không có con, từ khi vợ chết vì cảm thương hàn vẫn sống độc thân, mời Lê Văn khải ở lại nghỉ qua đêm. Tối hôm ấy, hai bác cháu uống rượu với cua rang lá chanh và bánh đa vừng. Sáng hôm sau, lúc Khải khoác khăn gói lên vai, ông bảo:
    - Ra thành phố mà kiếm sống, ngoài ấy nghe nói dễ làm ăn. Mà này, cái cô Kiều Trâm phải lòng cậu ấy thật ấy à?
    Khải chỉ cười rồi từ biệt ông thợ đất lò.

    Trái với lời khuyên của ông, anh ta không về thành phố mà ngược lên phía bắc. Nơi ấy là rừng núi. Từ nhỏ đến giờ Khải mới chỉ có khái niệm rất mơ hồ về rừng xanh núi đỏ qua những lần chặt tre bương ở miễu Đài Sơn, nhưng trong tiềm thức anh ta luôn nghĩ rằng cuộc đời mình sau này sẽ gắn với rừng. Tiếng gọi của thành phố dù có hấp dẫn bao nhiêu cũng không bằng tiếng gọi của định mệnh. Đường hình như cứ mỗi ngày một dài ra mà rừng mỗi lúc một âm u. Con đường hẹp trải thứ đất sỏi đỏ sẫm chạy chênh chếch dưới chân một quả đồi mọc toàn loại giẻ dầu lủng lẳng từng chùm qủa non nhưng gai đâm tua tủa. Lũ khỉ đỏ đít, lông vàng cháy như vằn hổ, chuyền từ cành này sang cành khác, mắt láo liêng, thỉnh thoảng lại trêu đám khỉ cái bằng những tiếng" choéc choéc" nghe rất là phóng đãng. Mấy chàng vượn đen hầu như chẳng để ý đến những chùm vả chín mọng đang chảy mật mà chỉ mải mê đánh đu như say rượu trên ngọn cây hoàng đằng với hàng loạt cú nhào lộn chóng mặt. Vài ả vượn cái cõng con sau lưng ngồi trên chạc cây báng, nhe răng trắng nhởn cười khèng khẹc cổ vũ cho đám mày râu. Một lão khổng tước cánh đen, ức trắng chẳng biết từ phương nào bay về, đậu ngay trên ngọn cây kiền kiền chênh vênh sườn dốc cất giọng gù gù gần giống tiếng ngỗng trời lạc đàn khi bay về miền nam tránh rét.
    Khải ngồi xuống một rễ cây bên đường, mở nắp quả bầu khô, nhấp ngụm nước và lắng nghe tiếng rừng lao xao. Hôm nay đã là ngày thứ ba, anh ta chưa có hạt cơm nào vào bụng ngoài những quả dâu da, vả hoặc bưởi đào kiếm được ở chân đồi. Bầu trời xanh biếc lọt qua kẽ lá. Những tia nắng sớm nhảy nhót trên cành giẻ gai. Mùi hăng hắc của hoa long não thoang thoảng đâu đây .Tất cả đều kích thích trí tưởng tượng làm cho chàng trai họ Lê cảm thấy mình như đang trong trạng thái bồng bềnh, vô thức.

    Sợ nhất là trong người không một mảnh giấy tuỳ thân. Con trai một tên phản động Quốc dân đảng như Khải lúc này, dù là người có học và lương thiện đến mấy cũng không ai dám đứng ra đảm bảo tư cách công dân. Đất nước mới độc lập, miền Nam còn đang dưới sự kiểm soát của gia đình họ Ngô, gián điệp, biệt kích như rươi, luôn tìm cách phá hoại thành quả kháng chiến, mọi người đi làm ăn xa bắt buộc phải có giấy thông hành để công an dễ bề quản lý, giám sát.Tất nhiên là Khải không đào đâu ra. Thế là bị bắt. Lần thứ nhất ở Tân Phong. Lúc ấy đã lặn mặt trời. Lang thang ban đêm, theo cái lý của nhà chức trách, chỉ có bọn đầu trộm đuôi cướp hoặc gián điệp thổ phỉ. Khải bị ông xã đội trưởng tống vào gian chuồng trâu được cải tạo thành buồng giam từ ngày Cải cách. Đêm ấy anh ta ngủ khá ngon lành mặc dù mùi nước đái vẫn còn nồng nặc từ nền đất ẩm thấp bốc lên. Sáng ra, xã đội trưởng bàn giao phạm nhân cho trưởng công an. Ông trưởng công an lưng hơi gù, giọng nhát gừng, hỏi:
    - Anh cho xem giấy tờ.
    Lê Văn Khải bắt buộc phải nói dối:
    - Tôi lên Bắc Thoòng làm ăn, qua chợ Sàn bị kẻ cắp lấy mất hành lý.
    - Quê quán ở đâu?
    - Mai Sơn, Thanh Đa.
    - Thành phần gia đình?
    - Bần nông.
    - Lấy gì làm bằng chứng để tin là anh nói thật?
    - Tôi đang đói lắm, mấy ngày nay không được hạt cơm, ông có thể cho tôi xin tạm một bát.
    ở vùng này có nhiều sắn, Uỷ ban xã không thể để cho Lê Văn Khải chết đói. Nhưng mà ngày hai bữa cứ phải mang cơm vào chuồng trâu cho một gã vô công rồi nghề làm ông trưởng công an phát cáu:
    - Hôm nay tôi bận họp, người nhà còn phải đi làm. Đây có ít gạo với mấy củ sắn anh tự nấu lấy mà ăn.
    - Vậy thì tốt quá nhưng ông phải cho tôi mượn cái nồi.
    - Tất cả đều ở trong góc nhà, đun khéo không cháy bếp.
    - Tôi có chuyện này muốn nói với ông.
    - Lại còn chuyện gì nữa? - Ông công an bảo - Thôi được, nói đi, xem ra anh cũng không phải là người xấu.
    - Hay là ông cứ cho tôi ... ở tạm đây một thời gian. Trong túi tôi giờ chẳng còn đồng nào mà đường lên Bắc Thoòng còn khá xa.
    Ông trưởng công an phì cười :
    - Anh nói như trò trẻ con ấy, giữ anh ở đây ngày nào là thêm phức tạp ngày ấy.
    - Sao mấy hôm trước ông xã đội bảo dẫn tôi về huyện?
    - Cái lão Phưởng chỉ nói lấy được. Từ đây đến huyện, cuốc bộ lằng nhằng những mấy chục cây số, cả đi lẫn về ba ngày đường có mà nằm liệt giường. Tôi đã bảo các bố ấy rồi, dân nhà quê dưới đồng bằng lên mạn ngược tìm việc làm ngày nào chẳng đi hàng đoàn, cơm gạo đâu mà giữ lại.
    - Bác nói thế là chủ quan đấy. - Khải làm ra vẻ thành thực bảo - Phải nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng chứ.
    Ông trưởng công an văng tục:
    - Cảnh giác cái con khỉ. Thôi anh đi đi.
    - Vậy là bác thả...
    - Ừ, cầm luôn cả ống gạo với mấy củ sắn dọc đường vào nhà dân nấu nhờ mà ăn.

    Chín ngày sau Khải lại bị một trận hết hồn. Lần này thì anh ta mong có người đến bắt mình. Xế chiều hôm ấy, bụng đói lắm rồi, Khải vẫn còn cố vượt qua một sườn núi, vì có sang bên kia mới tìm được nhà trọ. Sườn núi không dốc lắm mà cây cối rậm rạp. Cách đấy không xa có con suối khá rộng, hai bờ mọc toàn dâu da đất với quýt dại rất nhiều quả chín nhưng chua gắt, ăn thử một múi ghê cả răng. Vào lúc mặt trời gác bóng, Khải đã đến đỉnh đèo. Anh ta ngồi nghỉ nhấm nháp quả dâu da chợt thấy mấy con khỉ bạc má trên ngọn cây bứa kêu chí choé có vẻ rất hoảng hốt. Chàng họ Lê ngoái lại phía sau, bỗng dựng tóc gáy. Một con hổ vằn nằm phục cạnh gò đất cách đấy chừng bảy tám mét. Cặp mắt nó như có phép thôi miên làm anh ta bủn rủn cả chân tay. Thời gian như bị đông cứng lại. Sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Lúc này chỉ cần có một động tác bất cẩn là cái chết sẽ đến trong nháy mắt. Khải run bắn nhưng vẫn chằm chằm nhìn vào mắt con mãnh thú. Nó khẽ ve vẩy đuôi, cặp chân sau hơi nhổm lên lấy đà sắp sửa ra đòn thì anh ta ước lượng khoảng cách an toàn, nhao sang bên phải, cắt ngang cú nhẩy của con hổ rồi bám vào một cành gõ trắng leo lên chạc ba. Từ mặt đất lên đến chạc ba có khi phải đến hơn ba mét, vậy mà không biết làm thế nào Lê Văn Khải leo nhanh đến thế. Con cọp vồ hụt, cứ chạy vòng quanh cây gõ gầm thét. Trên đời này, không có gì kinh khủng hơn tiếng hổ gầm, nghe chẳng khác gì tiếng ma quỷ phụ đồng gọi hồn người chết. Xuýt nữa thì Khải tuột tay rơi xuống.

    Suốt đêm hôm ấy, Lê văn Khải cứ ôm chặt lấy cành cây không dám chợp mắt. Con mãnh thú tiếc mồi chắc chỉ quanh quẩn đâu đó chờ anh ta ngủ ngật rơi xuống là xé xác. Phải đến gần trưa hôm sau mới có mấy người lên núi. Bọn họ khoác súng quân dụng và súng săn tự tạo. Khải từ trên cây gọi to, thấy họ đến gần mới dám tụt xuống.

    Những người mang súng đều ở xã Cao Long. Con hổ xám từ rừng Tân Lập về núi Nứa đã mấy tháng nay. Dân các bản quanh vùng muốn đi chợ Đồng Vài đều vòng sang bản Puộc xa hơn mấy con dao quăng nhưng đỡ phải làm mồi cho chúa sơn lâm. Chính con cọp này, năm năm hai đã đón lõng ở hẻm núi Vòi vồ mất chín người vừa dân công vừa bộ đội. Dân bản Thó bảo nó ăn thịt người nhiều đã thành tinh chẳng biết sợ là gì. Có lần đoàn bộ đội đang hành quân giữa ban ngày, thế mà đến "sạt" một cái, nó vọt ra như ánh chớp, quắp luôn anh cấp dưỡng quàng ba lô gạo sau lưng. Trung đoàn 274 thành lập hẳn một đội đặc nhiệm rình bắn con cọp nhưng nó có tài xuất quỷ nhập thần, luôn biết cách thoát khỏi các loại bẫy và đặc biệt giỏi tránh đạn. Ba chiến sỹ bị nó tát chết, một bị bóc hẳn mảng lưng và một rách tai là kết quả đáng buồn sau hai tháng luồn rừng theo dấu chân con mãnh thú của đội đặc nhiệm. Đầu năm năm ba, con hổ chuyển địa bàn về Lũng Vài hoạt động. Cứ tầm lặn mặt trời, nó lại đến đầu xóm Còng, trèo lên chạc cây sung gầm thét hàng giờ rồi mò vào vác bò , lợn, dê. Tiếng hổ gầm làm dân làng chết lặng, đóng chặt cửa, cắm nứa nhọn, rắc rào gai quanh nhà. Hôm sau, mặt trời lên bằng con sào mới dám ra đồng. Khắp các ngõ ngách chỗ nào cũng có vết chân cọp. Chưa đầy một tháng nó đã vồ mất ba nhân mạng.

    Ông Quản Tháp người Châu Khê mới tản cư về xóm Còng mấy tháng có khẩu súng kíp nòng dài trông như gậy cời bếp than rủ anh Khừm người Mán ra rình ở miếu Chùa. Con hổ biết có kẻ muốn hại mình, nó không vào làng gầm thét nữa mà tìm cách vồ ông Tháp. Một tối, ông ta vừa ra đến gốc cây si thì bất chợt con mãnh thú từ trong miếu phi ra. Nó dựng hai chân sau, gầm lên một tiếng như sấm dậy làm ông thợ săn luống cuống đánh rơi cả súng. Cũng may anh Khừm có khẩu trường mát vừa kịp xuất hiện, nhằm con cọp bắn hú họa một phát. Sáng hôm sau mọi người mới biết nó trúng thương vì có vết máu để lại. Từ đấy không thấy con hổ xuất hiện nữa. Mấy tháng sau có anh bộ đội qua xóm Còng cho biết, con hổ xám bờm vàng dính đạn bàn chân trái phía sau, bị thọt nên rất hung dữ. Lúc ấy nó đang luẩn quẩn vùng núi Nứa. Vậy là số Lê Văn Khải còn cao.

    Sau trận chết hụt vì hổ, dân quân xã Cao Long đưa Khải về trụ sở. Ông chủ tịch thương tình cấp cho anh ta tờ giấy thông hành tạm thời. Từ đây lên Bắc Thoòng cũng gần. ở đấy anh ta có bà dì họ lưu lạc từ năm Kỷ Tị, nếu còn sống bây giờ cũng đã sáu mốt sáu hai.

    Xã BắcThòong nằm ở một vùng bán sơn địa đất rộng người thưa, khắp nơi, chỗ nào cũng thấy trồng chè với sắn. Chè búp ở đây nổi tiếng chẳng kém gì chè Tuyết ở Sa Pa và Suối Giàng Nghĩa Lộ. Cách đây hơn ba mươi năm, bà Hai có em tên là Thấm lấy một nhân viên kiểm lâm, được hơn một năm anh ta đổi lên trạm Bắc Thoòng, cô Thấm theo chồng và từ ngày ấy không về làng. Thực ra chuyến đi này Lê Văn Khải không hy vọng tìm được bà Thấm. Ba mươi năm rồi, biết bao vật đổi sao dời, làm sao tìm được một người anh ta chưa từng biết mặt với một cái địa chỉ rất vu vơ. Tìm người chỉ là thứ yếu, cái chính là anh ta không thể chịu được sự o ép bởi không khí ngột ngạt đầy bất trắc ở làng Cùa. ở lại vùng Ba Tổng, những người như Lê Văn Khải có thể bị tống giam bất cứ lúc nào chỉ cần chót thốt ra một lời không vừa tai các nhà chức trách. Anh em họ Lê, trước mắt Bùi Quốc Tầm như một thứ tôi phạm bị quản thúc tại gia, hoàn toàn mất quyền công dân, lúc nào cũng phải chịu sự giám sát và giáo dục của chính quyền nhân dân.

    Gần nửa tháng, Lê Văn Khải đi khắp vùng Bắc Thoòng nhưng không một ai biết vợ chồng ông cựu kiểm lâm. Chỉ còn xóm Cầu Gỗ có hơn chục nóc nhà là anh chưa đến. Trời mưa bụi, đường mới mở toàn đất đá lổn nhổn. Khải đang chật vật lên sườn dốc bỗng người lạnh toát vì một con trăn hoa thò hẳn cái đầu mốc thếch từ lùm cây đằng đằng xuống. Nó há cái miệng đỏ lòm phun phè phè làm anh ta co rúm, lùi dần, lùi dần cho đến khi hẫng chân lăn xuống vực.

    Bờ vực vừa dốc vừa sâu, tận cùng là một con suối. Lê Văn Khải chẳng biết mình lăn bao nhiêu vòng, mới đầu còn ý thức được, nhưng sau một vài cú va đập với đá tảng, cành cây và các loại bụi gai thì anh ta thật sự bất tỉnh. Gần trưa, một cô bé gánh củi ngang qua, nhìn thấy chiếc khăn gói vướng vào cành cây, đoán là có người ngã xuống vực liền chạy về gọi ông. Hai ông cháu phải khó khăn lắm mới đưa được Lê Văn Khải lên. Trên người anh ta hầu như chỗ nào cũng có vết xây xát, không đá nhọn đâm thủng thì gai cào rách toạc. Một bàn chân trật khớp sưng tấy lên, còn sống mũi bị dập rát như phải bỏng. Ông già nắn khớp chân xong, xoa rượu mật gấu rồi bảo cô cháu gái rửa sạch các vết thương trên người Khải bằng nước muối sau đó vào rừng lấy lá thuốc giã nhỏ đắp lên. Khi Lê Văn Khải ngồi dậy được, ông già bảo:
    - Dốc lên xóm Cầu Gỗ thường ít người qua lại, may mà cái Thảo nhìn thấy khăn gói của anh nếu không thì chẳng ai biết mà tìm.
    Cho đến lúc này Khải vẫn còn run bắn khi nghĩ đến con trăn :
    - Cháu thấy nó há mồn ra, phun phì phì nên mới bị ngã.
    - Vùng này lắm trăn mắt võng, thỉnh thoảng có cả trăn gió nữa. Loại to bằng khúc gỗ là nuốt được cả người đấy. Mà này, anh lên tận xóm Cầu Gỗ làm gì ?
    - Cháu tìm bà dì nghe nói hơn ba chục năm trước đã ở vùng này.
    - Tên bà ấy là gì ?
    - Là bà Thấm, em bà Hai Thoả ở tổng Kim Đôi.
    - Bà Hai Thoả với anh là thế nào ?
    - Là bà Ngoại.
    - Thế thì tôi là Quyển chồng bà Thấm đây.
    Khải ngập ngừng:
    - Còn …. bà Thấm ?
    - Bà ấy cùng với bố mẹ con Thảo đã chết trong trận Tây càn Bắc Thoòng tháng bảy năm năm hai. - Ông Quyển thở dài bảo - Chỉ còn hai ông cháu nên tôi cũng chẳng về quê nữa mà ở đây để tiện chăm sóc phần mộ cho người đã khuất.
    - Sao bảo hồi ấy ông làm kiểm lâm cho Pháp cơ mà ?
    - Phải, nhưng chuyện dài lắm để tôi kể cho anh nghe . - Ông già ngắm nghía Khải một lúc rồi mới hỏi - Bây giờ anh định thế nào ?
    - Cháu cũng chưa biết được nhưng chắc chắn không thể về làng . Họ truy bức ghê lắm vì bố cháu là chủ tịch huyện bị toà án đặc biệt xử tử do có kẻ tố giác liên quan đến Quốc dân đảng.
    Ông Quyển gật đầu:
    - Vậy thì cứ ở đây, chịu khó làm không chết đói đâu mà lo.
    Tối hôm sau ông Quyển lại hỏi:
    - ở nhà có được học hành tí nào không ?
    - Cháu đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
    - ái chà, thế là trình độ cao đấy . - Ông cựu nhân viên kiểm lâm tỏ ý thán phục -Mấy hôm nữa cháu phải dạy em Thảo. Nó có được học mấy buổi i tờ nhưng hễ cứ đi lấy củi là quên sạch.

    Ông Quyển là người Mạc Điền, thời trẻ đi mộ phu Nam Kỳ, khi sắp xuống tàu vào Nam, ông ký Thẩm giữ lại xin cho vào đồn điền Phố Hàng. Đây là vùng đất chuyên trồng thứ chè Thái nổi tiếng Bắc Kỳ.Chủ đồn tiên là Tây lai Lô ba Nguyễn, chơi thân với quan chánh Kiểm lâm Hăng ri Bác tê. Một hôm Bác tê đến mừng sinh nhật con gái Lô ba là Marian, thấy người cu ly nói được tiếng Pháp liền ngỏ ý muốn xin chủ đồn điền cho anh ta sang làm kiểm lâm vì Sở lúc này đang cần tuyển nhân viên. Ông Quyển đã đỗ xéc ti phi ca, biết chữ Quốc ngữ và tính toán thành thạo được Bác tê cử về trông coi rừng Bắc Thoòng.

    Nghề Kiểm Lâm vất vả, được mấy đồng bạc lương thì suốt ngày phải trèo đèo lội suối tuần tra, chỉ cần lơ là một chút là cánh thương lái thuê thợ sơn tràng lẻn vào rừng chặt gỗ quý đóng bè thả về xuôi kiếm lãi bạc trăm. Nhưng sợ nhất vẫn là bọn quan chức phủ Thống sứ hoặc cánh tổng đốc, tuần phủ địa phương cậy thế cho người khai thác gỗ mà không cần xin phép kiểm lâm. Theo quy chế của ngành, rừng bị phá ít thì trừ lương nhân viên, bị phá nhiều sẽ phải truy tố nếu không tìm được thủ phạm. Cho nên nghề này làm không được lâu, có người chỉ sau vài tháng đã bỏ việc.

    Lại nói về ông Quyển. Khoảnh rừng do trạm của ông phụ trách rộng hơn sáu ngàn héc ta phần lớn là rừng đầu nguồn toàn gỗ quý, lại gần suối Nậm Cơi, rất dễ vận chuyển ra sông. Hôm ấy, ông đang tuần tra ở lô số ba thì nghe thấy tiếng cưa xoèn xoẹt, tiếng rìu chặt chan chát phía chân đèo Đá Mài. "Chắc lại bọn sơn tràng chặt trộm do thằng Ba đen cầm đầu". - Ông nghĩ vậy và xách súng chạy đến. Không phải. Chúng là một đám lính khố xanh với bọn sơn tràng chừng hơn chục tên đang ra sức đốn cây lát hoa cỡ hai người ôm. Ông Quyển lên đạn, chĩa nòng súng vào bọn lâm tặc quát :
    - Tất cả dừng ngay lại ! Ai cho phép các anh phá rừng ?

    Một gã mặc âu phục nhàu nát, đội mũ phớt, tay cầm chiếc roi ngựa, lại gần ông Quyển, giọng hách dịch:
    - Anh là ai ?
    - Tôi là nhân viên kiểm lâm.

    Tay mặc âu phục nheo mắt chỉ roi ngựa vào đám lính khố xanh bảo:
    - Họ đều là người nhà quan Tuần tìm vài cây lát về đóng đồ. Anh cứ coi như không biết, sau này cụ Tuần sẽ hậu tạ.

    Ông Quyển hỏi:
    - Cụ Tuần có giấy phép khai thác không ?
    - Chặt mấy cây xin giấy làm gì cho phiền phức. Thôi, bỏ qua đi. Đây, có chút gọi là để thày uống rượu.
    - Không được . - Ông Quyển lắc đầu - Tôi nhận tiền lót tay để các người phá rừng là phải vào tù. Cây lát này quan Chánh đã đánh dấu.

    Một viên đội khố xanh rút khẩu pạc hoọc khỏi bao gỗ chỉ vào người kiểm lâm quát:
    - Tôi hỏi, anh nghe theo lệnh quan Tuần hay lệnh sở Kiểm lâm ?

    Ông Quyển vốn thẳng tính không chịu sự luồn cúi, nhìn tên đội cười gằn:
    - Cấp trên của tôi là ông Hăngri Bác tê dĩ nhiên là tôi phải nghe theo ông ta.
    -Thằng này cứng cổ thật . - Viên đội hất hàm ra hiệu cho đám lính - Anh em trói nó vào gốc cây vàng canh kia.
    - Các người dám chống lại sở kiểm lâm ? - Ông Quyển lùi lại, ngón tay đặt vào cò súng.

    Gã mặc âu phục nháy mắt với viên đội rồi thong thả bảo:
    - ở vùng này không ai được phép vượt mặt quan Tuần. Anh đừng đem cái gã mắt xanh mũi lõ nhãi nhép ấy ra doạ bản chức. Biết điều thì quay về và hãy im mồm.

    Ông Quyển định nhấn cò cho gã tham biện dinh Tuần phủ một viên đạn nhưng bọn lính khố xanh đã nhanh hơn, nổ liền mấy phát thị uy. Đạn bay sát sạt bên tai làm viên kiểm lâm sởn gai ốc.
    Ba hôm sau ông Quyển xuống núi gặp chánh kiểm lâm Hăng ri Bác tê nộp đơn xin thôi việc:
    - Tôi không hoàn thành nhiệm vụ, để người của quan tuần chặt mất cây lát quý, phụ lòng tin của ông, xin được từ chức.

    Hăng ri bác tê bảo:
    - Có súng trong tay sao anh không bắn vỡ đầu chúng nó ra ?

    Ông Quyển nhăn nhó:
    - Quả thật lúc ấy không kìm được tôi đã định cho gã tham biện về chầu giời, nhưng bọn lính khố xanh thằng nào cũng có súng.

    Ngài Chánh Kiểm Lâm gật đầu bảo:
    - Được, tôi sẽ cho lão tuần phủ này biết tay.
    - Nhưng quan lớn phải cho tôi nghỉ việc
    - Không được - Bác tê phẩy tay - Anh đã làm ở đấy mấy năm, bảo vệ rừng tốt lắm, giờ xin nghỉ, ai chịu lên trên ấy?
    - Bẩm quan, ngài là người Pháp không sao, chúng tôi dân bản xứ còn có gia đình. Cứ tình hình thế này, chúng đốt nhà, giết vợ con tôi lúc nào không hay. Đấy là chưa nói bọn Việt Minh đang hoạt động ráo riết khắp nơi.
    Cuối cùng thì ngài chánh Kiểm lâm cũng phải chấp nhận. Ông ta vỗ vai người cựu nhân viên của mình dặn:
    - Lúc nào muốn quay lại Sở thì cứ bảo tôi một tiếng.

    Sau Tết, ông Quyển đưa vợ con về Bắc Thoòng. Năm bốn chín, tuy đã cứng tuổi nhưng ông vẫn gia nhập địa phương quân. Giữa năm năm hai, lúc ấy ông đang chiến đấu ở Đồng Sài thì Tây càn Bắc Thoòng, núi Nứa. Kế hoạch của chúng là bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 48 vừa bí mật hành quân qua đây để sang Lạng Sơn. ít lâu sau ông nhận được tin dữ, cả nhà bị chết vì đạn moóc chi ê câu trúng tăng sê, chỉ còn mỗi đứa cháu lúc ấy chín tuổi theo bạn sang bản Nậm Cốc là sống sót.

    Cuối năm năm tư, lúc ấy ông Quyển đã giải ngũ, về dựng lại nhà để chăm nom con Thảo. Đội Cải cách truy ra cái quá khứ làm kiểm lâm cho Tây, bắt ông giam nửa tháng. Đứa cháu gái ngày nào cũng phải mang cơm. Thật may, ông chủ tịch xã lúc bấy giờ là bạn đồng ngũ tìm mọi cách gỡ cho mới thoát tội.
    Kể ra được những nỗi trầm luân cuộc đời mình, ông Quyển thấy tâm trạng bớt phần u uất. Ông chép miệng bảo:
    - Tôi dại chứ ngày ấy đừng đăng ký mộ phu Nam kỳ thì bà Thấm không mất sớm mà cũng chẳng có cảnh ông cháu lưu lạc đất khách quê người như thế này.

    Lê Văn khải an ủi:
    - ở đời chẳng biết thế nào mà đoán trước được số phận của mình đâu ông ạ. Như gia đình cháu đây này, hoà bình rồi, chẳng bom rơi đạn lạc gì mà bỗng chốc trở thành mẹ goá con côi. Người ta còn ép mẹ cháu phải lên đấu bố cháu để có thêm tội chứng cho toà án xử tử.
    Lúc ấy đêm đã khuya. Rừng Bắc Thoòng thỉnh thoảng lại có tiếng hoẵng tác. Lũ chim ngủ gà ngủ gật trong ánh sáng mờ mở của vành trăng khuyết. Ông Quyển rút trên giàn xuống một tảng nai khô bảo Lê Văn Khải quạt than nướng rồi vào buồng lấy ra bình rượu thuốc ngâm tắc kè.
    - Làm chén rượu cho ấm bụng.
    - Cháu uống kém lắm.
    - Có thịt nai khô ta nhấp nháp tí cho vui. - Ông Quyển bảo - Hồi còn đóng quân ở rừng Tân Mộc ta có nghe được câu chuyện về một con hổ. Chuyện lạ lắm. Chưa biết chừng nó chính là con hổ vồ hụt cháu trên núi Nứa.
    - Thật hả ông ?
    - Ta cũng không biết nhưng nói chung loài hổ sống rất lâu, càng già càng tinh khôn - Ông già nhắp ngụm rượu, khà một tiếng rồi bắt đầu kể.

    Chuyện bắt đầu bằng việc anh chàng Hà Thiết vào rừng đốn gỗ làm nhà. Vợ anh ta là Nông Thị Nhóng, đẹp nhất bản Nà Ngườm. Mấy tháng trước, chánh tổng Bế Hữu Tài đã đem bạc trắng đến nhà Nông Viết Định hỏi Nhóng cho con trai mình là Bế Tòng nhưng việc không thành. Nhóng bảo: "Bố mế tham bạc trắng bán con cho nhà giàu là con nhảy xuống vực Thuồng Luồng". Ông Định sợ, bởi hồi đầu năm chẳng hiểu vì sao, Mã Thị Nhàn, vợ thằng Tòng, nửa đêm chạy ra rừng ăn lá ngón chết. Mấy bản quanh vùng, con gái nhà ai cũng sợ về làm dâu họ Bế. Đám cưới Thiết và Nhóng như cái gai chọc vào mát Bế Hữu Tài. Lão không nói ra nhưng trong lòng luôn ngấm ngầm đợi dịp trả thù.

    Từ lâu, Bế Hữu Tài đã làm chức việc cho người Pháp. Thỉnh thoảng lão lại cưỡi ngựa lên đồn Pha Lay ở châu lỵ Bình Xuyên chơi với quan ba mắt xanh muĩ lõ. Viên chánh tổng này còn có biệt tài đánh hơi mùi hổ cốt. Dù ở thung lũng đá xám mờ sương hay trên đỉnh Thiên Phong quanh năm tuyết phủ, nghe tin phường săn nào bắn được hổ là lập tức lão sai tay chân đến lấy bộ xương về nấu cao. Dân Bình xuyên ai cũng thù lão. Bế Tòng giống hệt tính bố, coi thiên hạ như rác. Trong những cuộc chè chén với lũ đàn em, hắn thường huyênh hoang tuyên bố :
    - Con Nhóng đáng lẽ là vợ tao, thế nào tao cũng bắt về cho mà xem.

    Ngôi nhà sàn của vợ chồng Hà Thiết ở rừng Ken Chải cách hẳn với bản Nà Ngườm ba quả đồi. Từ xưa đến nay dân bản ít người đến khu rừng này vì họ sợ một truyền thuyết về vực Thuồng Luồng. Suối Bạc chảy từ ngọn Cốc Dì, qua rừng Ken Chải khoét xuống thành một vực sâu, nước trong vắt như pha lê. Vào những đêm trăng sáng, thường có cô gái mặt hoa da phấn, tóc đen như mun, từ dưới nước leo lên tảng đá trắng trên bờ, trút bỏ xiêm áo, phô ra giữa đất trời tấm thân ngà ngọc, mê hoặc những chàng trai trẻ đa tình. Trai bản có những kẻ hiếu kỳ, thích ma quỷ đẹp hơn là người trần kém nhan sắc, chẳng biết sợ là gì, lén lút rủ nhau ra bờ suối, hy vọng nhìn thấy mỹ nhân trong cảnh thiên thai. Dần dần bọn này mắc một chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh quên. Họ quên ông bà, cha mẹ, vợ con, thậm chí quên cả bản thân mình, suốt ngày di lang thang tơ tưởng đến người đẹp dưới thuỷ cung. Nhưng đêm như thế,dòng suối Bạc lung linh dưới ánh trăng ngà. Mặt nước sóng sánh hằng hà sa những đốm sáng như vảy cá chép vàng bắt nắng ban mai. Trong cảnh sắc chập chờn, huyền ảo, thỉnh thoảng một gã si tình lại nhảy xuống vực tìm người trong mộng để rồi không bao giờ trở về cõi dương gian nữa. Chuyện ấy chắc chỉ là huyền thoại nhằm cảnh tỉnh những kẻ lắm đam mê, nhưng con suối Bạc với vực Thuồng Luồng thì vẫn còn đó.

    Hà Thiết là chàng trai mang trong mình hai dòng máu. Bố người Kinh mẹ người Tày. Ông Thao lưu lạc đến vùng Bình Xuyên từ nhỏ, làm con nuôi nhà họ Hà, lớn lên được gia chủ cưới cho một cô gái người bản Nậm Coóng. Ông giỏi nghề mộc, đã từng được quan châu đón lên làm nhà nhưng mệnh số bị hãm, không được ở với vợ con lâu dài. Cách đây mấy năm, một lần đi rừng về, lội qua suối Nậm Thoong, ông bị nước lũ cuốn trôi.

    Biết Nhóng phải lòng Hà Thiết, ông bố có vẻ không hài lòng, bảo con gái:
    - Thằng ấy giỏi trai nhưng tao ngại nó là người Kinh. Bọn người Kinh khôn ngoan mà hay xảo trá. Sống với họ luôn phải cảnh giác, bởi vì trong đầu họ luôn có những cái mà người vùng cao ta không có được.
    Nhóng không mấy quan tâm đến người chồng tương lai là Kinh hay Tày mà thề rằng nếu không được làm vợ Hà Thiết sẽ tự tử. Rốt cuộc, Nông Viết Định cũng phải chấp nhận chuyện trăm năm của con gái khi mẹ Hà Thiết mang lễ vật sang dạm hỏi. Năm ấy, mưa muộn, mãi đến cuối tháng tám suối Bạc vẫn còn lũ. Một buổi chiều, Hà Thiết vác củi từ trên nương về, chợt nhìn thấy một vật gì giống con chó vện bị dòng nước đẩy giạt vào ghềnh đá. Anh ta quẳng bó củi lại gần xem, thì ra là một chú hổ con lạc mẹ, gãy chân trước, những đám công lông vằn vèo dính bết vào da thịt nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền trong tình trạng gần như đã chết. Hà Thiết vác con vật lên vai, chạy một mạch về nhà bảo vợ đổ rượu mật gấu xoa khắp người cho nó. Nhóng sợ hết hồn, giãy nảy:
    - Anh mang ra rừng thả hoặc giết nó đi. Ai lại mang cọp về nhà. Em sợ lắm.
    Hà Thiết bế con hổ lại gần bếp lửa hơ cho nó khô lông rồi thong thả bảo vợ:
    - Nó còn bé, thiếu sự chăm sóc của mẹ, lại gẫy chân, giờ thả về rừng là chết. Anh nghĩ, con vật cũng như con người, mình cứu giúp nó, nó không nỡ hại mình.

    Con Hổ yếu lắm, mãi chiều hôm ấy mới liếm được ít cháo trứng gà. Vết thương khá nặng. Những đoạn xương gãy trồi khỏi khuỷu chân đâm ra ngoài khiến nó bị sốt cao, suốt ngày nằm thiêm thiếp, thở khò khè như đứa trẻ mắc chứng hen phế quản. Sau khi đắp thuốc, Hà Thiết phải dùng hai chiếc nẹp tre kẹp vào chân con hổ rồi quấn dây chung quanh cố định khớp xương. Đi làm thì thôi, về đến nhà nhìn thấy con hổ là Nhóng lại càu nhàu. Nhưng rôì thấy chồng hết lòng cứu chữa con vật, chẳng quản ngày đêm lội suối băng rừng kiếm thuốc, cô cũng dần nguôi giận. Mỗi sáng, trước khi lên nương, Nhóng còn giúp chồng nấu cháo pha mật ong đổ từng thìa cho con thú. Được chừng mươi ngày thì Hà Thiết tháo nẹp. Vết thương của loài hổ nói chung, rất lâu khỏi, phải gần một tháng sau nó mới hoàn toàn bình phục.

    Là loài mãnh thú, nhưng vì còn bé nên con hổ vẫn chưa kế thừa đầy đủ tập tính di truyền của tổ tiên. Nó hiếu động và thích khẽ gừ gừ như một gã mèo vằn nằm sưởi nắng khi đã được gia chủ cho đánh chén no nê. Phải nói đó là một chú hổ nhí khá hiền lành, thậm chí nó còn sợ hãi nhảy bổ lên bậc cầu thang khi nhìn thấy con chó Lài giống Vân Nam cao lừng lững của Hoàng Đản lúc anh này đến rủ Hà Thiết đi săn lợn rừng. Hà Thiết đặt tên cho nó là Huổi Vằn, Con vật tỏ ra dễ thương và biết nghe lời ông bà chủ. Anh ta không muốn bất cứ ai nhìn thấy Huổi Vằn nên đã tập dần cho nó quen với những tín hiệu quy định. Khi có người đến cổng nghe tiếng huýt sáo của ông chủ là chú ta cúp đuôi chạy ngay vào nhà chứa củi.

    Nửa năm sau, Huổi Vằn được chăm sóc chu đáo đã thành một chú hổ choai choai. Cơ thể của nó phải nhiều năm nữa mới đến độ trưởng thành nhưng dáng dấp đã có vẻ oai phong của bậc chúa sơn lâm. Ban ngày, con mãnh thú ngoan ngoãn nằm trong chiếc cũi để ở gian đầu nhà chòi khuất giữa vườn mắc coọc, lim dim ngủ. Ban đêm, Hà Thiết thả nó vào rừng kiếm mồi. Huổi Vằn mải chơi, lang thang trong rừng Cấm hai ba ngày mới về, nhưng cũng có những hôm trời còn tối, chưa rõ mặt người nó đã lẳng lặng tha về một con hoẵng hầu như còn nguyên vẹn cho ông bà chủ.

    Một hôm, Hà Thiết thả Huổi Vằn sớm hơn thường lệ rồi bảo Nhóng đem chiếc búa tạ để anh phá cũi. Con Hổ thấy lạ cứ nhìn chủ rồi gừ gừ trong cổ họng. Hà Thiết vỗ vỗ vào lưng Huổi Vằn bảo:
    - Mày lớn rồi, không ở đây được nữa mà phải vào rừng Cấm mới khỏi bị bọn phường săn rình bắn. Hôm qua, lúc ở bản Tèo về, tao đã nhìn thấy anh em thằng Bế Tòng phát hiện dấu chân mày.
    Con hổ vẫn còn đang ngơ ngác thì Hà Thiết đã huýt gió chỉ tay vào rừng :
    - Thôi đi đi ! Thỉnh thoảng về thăm tao.

    Huổi Vằn hình như vẫn còn lưu luyến nhưng nhìn thấy ánh mắt ra lệnh của chủ nó mới uể oải bước một cách miễn cưỡng. Anh ta lặng lẽ nhìn theo cho đến khi nó mất hút sau những bụi gai móc mèo um tùm.

    Con hổ đi rồi, Hà Thiết đâm ra nhớ, còn Nhóng thì mừng ra mặt. Thỉnh thoảng anh ta ra bờ suối lấy chiếc tù và bằng sừng trâu rúc vài tiếng thử gọi, dù biết ràng lúc này nó ở mãi ngàn xanh. Nhưng rồi mấy hôm sau Huổi Vằn về thật. Con hổ uốn thân hình mềm mại nhảy loang loáng dưới ánh trăng, lúc ẩn lúc hiện giữa những lùm cây kim tước không hề phát ra một tiếng động làm Hà Thiết giật thót mình. Anh ta nhẹ nhàng vuốt cái bờm vàng cháy ram ráp từ đỉnh đầu đến ngang lưng, làm con thú khoái chí khẽ gừ gừ như ngày còn bé. Tuy vậy, Hà thiết không dám giữ con hổ lại lâu. Anh ta rất sợ những nòng súng nạp đạn ghém của cánh thợ săn Nà Ngườm. Họ sẵn sàng bắn vào bất cứ mục tiêu nào, miễn là hạ sát được con mồi.

    Vào một đêm tháng Ba, lúc ấy đã khuya lắm, bỗng có tiếng chó sửa dữ dội. Không phải Huổi Vằn. Con hổ về thì lũ chó nhất loạt cúp đuôi, rúm người lại, im thin thít. Chỉ có lợn rừng, hươu nai hoặc giả là người bọn chúng mới ra oai báo cho chủ mẫn cán đến như thế. Hà Thiết bảo Nhóng nằm yên trong buồng rồi với cây súng, nhẹ nhàng lần xuống cầu thang. Anh ta không phải tìm lâu. Theo hướng chó sủa, từ xa Hà Thiết đã thấy một hình người mặc quần áo sẫm màu, bùn đất dính bê bết, nằm cạnh hàng rào ở tư thế hoàn toàn không bình thường. Anh ta chần chừ không dám lại gần, sợ có kẻ nào đó rình rập chung quanh. Mà có thể lắm. Biết đâu đây chẳng là mưu chước của cha con lão Chánh Tổng khi chúng còn ôm mối hận về cô con dâu hụt. Lũ chó vẫn cắn dai dẳng. Cậy chủ ở bên cạnh, cả con Vện và con Mực vừa sủa vừa chạy quanh kẻ lạ mặt đang nằm co quắp vẽ thành một vòng cung mỗi lúc một hẹp dần. Dõi mắt quan sát ba bề bốn bên, thấy không có gì khả nghi, Hà Thiết quả quyết lại gần . Có tiếng rên rỉ khe khẽ, tiếp theo là nhịp thở nặng nhọc, mệt mỏi của người bị thương. Anh ta nạt con Vện cúp tai đang định thò mõm lôi ống tay áo kẻ lạ mặt :
    - Vện, ra ngoài kia !

    Con chó đã biết tính chủ. Nó lẳng lặng lẩn vào góc vườn nằm xuống đống vỏ cây, xoải hai chân trước, cặp mắt lim dim làm nhiệm vụ cảnh giới trong khi con mực tai dỏng đã bị tống vào gầm sàn đang rên ư ử.

    Kẻ lạ mặt là một người đàn ông chừng bốn mươi có mái tóc cứng như rề tre và bộ râu quai nón lởm chởm lâu ngày không cạo giống hệt một tay lục lâm đã từng lão luyện trong nghề chặn đường khách thương hồ đòi tiền mãi lộ. Ông ta bị một phát đạn vào bắp đùi trái. Vết thương toang hoác, phá ra bằng nửa bàn tay, tuy chỉ vào phần mềm nhưng đã bị nhiễm trùng bốc mùi hôi làm nạn nhân bị choáng. Nghe giọng nói, Hà Thiết biết ông ta là người Kinh. Trong lòng đầy nghi hoặc, anh ta nhìn bộ dạng ông khách không mời hỏi bằng tiếng Tày :
    - Khách đi chợ bản Then không biết đường lạc vào rừng Cấm à ?
    Người đàn ông vểnh hàm râu chổi sể lắc đầu:
    - Ta là … Cả Pháo, có dám cho vào nhà không ?
    Vậy ra ông khách này là tướng cướp thật. Nghe thiên hạ đồn từ lâu giờ Hà Thiết mới biết mặt. Anh ta thản nhiên bảo ông trùm lục lâm :
    - Sợ gì ? ở đây chỉ có mỗi nhà tôi. Các nhà khác trong bản Nà Ngườm đều cách nửa con dao quăng. Để tôi dìu ông lên sàn.
    - Anh không sợ chánh tổng Bế Hữu Tài à ?
    - Cả bản này thù bố con nó. -Hà Thiết quả quyết bảo - Mà nếu có kẻ xấu bụng báo chánh tổng hoặc quan châu Bình Xuyên cũng chẳng làm gì được. ở đây gần với con đường chạy vào rừng Cấm, vợ tôi sẽ đi hái thuốc chữa vết thương cho ông.
    - Ta chỉ dám nhờ gia chủ vài hôm, vết thương dịu bớt là đi ngay.
    - Không vội được đâu. - Hà Thiết lắc đầu ái ngại bảo ông khách - Vết thương của ông nặng lắm, chậm một hai ngày nữa là hỏng cái chân.

    Sáng sớm, Nhóng lên rừng hái thuốc. Hà Thiết pha nước muối rửa vết thương, sau đó dùng một loại lá cây ở khe Đầu Quạ, trông tựa vẩy ốc, giã nhỏ trộn với mật ong rừng rịt vào. Thứ lá này có hoạt tính cực mạnh vừa có tác dụng sát trùng vừa làm lành những chỗ đã bị hoại thư. Đây là bài thuốc gia truyền của họ Hà từ nhiều đời trước. Nó được giữ bí mật ngay cả với người trong bản.

    Khoảng già nửa tuần trăng, vết thương đã lên da non, sức khoẻ của Cả Pháo dần dần hồi phục. Tối hôm ấy, trong lúc nhắm rượu với thịt lợn rừng nướng trên than hồng, ông trùm kể cho vợ chồng Hà Thiết nghe về cuộc đời mình.

    Cha Cả Pháo vốn là một nghĩa binh trong quân doanh Đề Thám. Sau mấy chục năm tung hoành làm cho quân đội Pháp và quan lại Nam triều khiếp đảm, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đến giai đoạn thoái trào. Một số thủ lĩnh của nghĩa quân rơi vào tay giặc và bị hành hình rất dã man, trong đó có thân phụ ông là suất đội Trần Tung. Nghe tin dữ, Cả Pháo lúc ấy mới mười lăm tuổi, sợ bị liên luỵ vội bỏ làng dắt mẹ đi lánh nạn. Suốt mấy tháng trời, ngày đi đêm nghỉ, gối đất nằm sương, phải chịu bao nỗi cực nhục đói khát dọc đường, cuối cùng hai mẹ con đến được châu Bình Xuyên. ít lâu sau Cả Pháo xin được chân phụ việc cho phường săn Lũng Phầy kiếm gạo. Phường săn gồm toàn những đối tượng có thành tích bất hảo, hoặc những gã đầu trộm đuôi cướp, sống ngoài vòng pháp luật nhưng trọng nghĩa khí sẵn sàng xả thân vì lẽ công bằng. Dần dần Cả Pháo được ông trùm quý mến và truyền võ nghệ cho. Phường toàn đàn ông, nay đây mai đó, không thể mang mẹ đi theo nên Cả Pháo gửi bà ở bản Noọng Khai trong nhà một người bà con của Bàn Văn Lọi. Tri châu Bình Xuyên sức giấy cho các tổng phải tróc nã bằng được toán lục lâm. Nhưng bọn này có tài xuất quỷ nhập thần, chuyên lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Một lần anh em chạm trán với chánh Tài ở dốc Mật. Họ đánh bạt toán lính khố xanh có trang bị súng trường, cướp toàn bộ số tiền thuế rồi biến vào rừng như có phép lạ. Không may, một tên tay chân của lão Chánh nhận được mặt Cả Pháo. Lão cho người dò la tung tích, bất ngờ phát hiện ra bà mẹ ông ở Noọng Khai bèn báo cho tên bang tá đem lính bắt giam vào đề lao. Bà là người phụ nữ có khí tiết, bị quan châu dùng cực hình tra tấn vẫn không chịu khuất phục, đến nửa đêm thì cắn lưỡi tự tử để khỏi luỵ đến con trai. Mẹ chết, Cả Pháo vô cùng đau xót. Ông thề không đội trời chung với lũ quan Tây và bọn phản dân hại nước. Hơn chục năm sau, Cả Pháo trở thành thủ lĩnh của phường Lũng Phầy với những chiến tích từng lưu truyền trong dân bản khắp châu Bình xuyên như một huyền thoại. Hãi nhất là vụ đang đêm anh em đột nhập vào đồn Phay Hán đốt nhà, mang hết vàng bạc cùng với lão bang tá về sào huyệt. Hà Thiết nghe câu chuyện phục lắm bèn hỏi:
    - Như vậy là ông đã bị cả bọn Phú Lãng Sa da trắng tóc vàng và lính quan châu rình bắt nhiều lần mà vẫn bình an vô sự, thế còn mấy hôm trước, kẻ nào bắn ông ?
    - Ta không nhìn rõ mặt chúng nhưng ở vùng này chắc chỉ có cha con lão Chánh tổng.
    - Ông Cả đi lối rừng Cấm rồi lội suối về Ken Chải phải không ?
    Cả Pháo gật đầu:
    - Cứ tưởng theo lối này thì an toàn ai ngờ lại bị dính đạn. Lúc ấy trời đã chạng vạng, chỉ thoáng thấy một thằng khập khiễng ôm súng chạy khi ta bắn trả.
    - Thằng Tòng đấy. Cái chân thọt là do hắn ngã ở vực Thuồng Luồng . - Hà Thiết trầm ngâm một thoáng rồi quả quyết bảo -Tôi nghĩ mãi rồi. Tuy chân chưa khỏi hẳn nhưng ông Cả phải đi thôi, ở đây lâu sợ chúng tìm ra dấu vết.
    - Ta cũng cảm thấy cha con lão Chánh không dễ gì bỏ cuộc khi đã bắn bị thương con mồi. Anh nói phải. Ơn cứu mạng của vợ chồng anh kiếp này không báo được thì xin hẹn kiếp sau.
    Nói rồi ông ta quỳ sụp xuống vái Hà Thiết ba vái. Hà Thiết vội đỡ Cả Pháo dậy :
    - Hà tất ông Cả phải làm thế. Ông là người nghĩa khí, bênh vực dân nghèo, trị tội ác bá, không chỉ chúng tôi mà ngay cả bà con dân bản cũng sẵn lòng cưu mang. Đêm mai tôi sẽ đưa ông tắt rừng Ken Chải sang bản Puốn.
    - Phải lắm, Bản Puốn ta có một người anh em là ông Lầu Phềnh.

    Mờ sáng hôm sau, Nhóng vừa lùa đàn trâu lên rừng thì cha con chánh Tài cưỡi ngựa dẫn một toán lính khố xanh đến cổng. Mấy con chó chạy xô ra sủa toáng lên. Bế Tòng nổ một phát súng mút thị uy làm lũ chó bị kích động nhảy vọt qua hàng rào thưa lao vào con ngựa bạch của lão chánh tổng. Nó bị bất ngờ, hí lên một tiếng sau đó bổ nước đại hất Bế Hữu Tài xuống bờ ruộng bậc thang. Lão vừa ngượng vừa tức, lồm cồm bò dậy, ra lệnh cho bọn thuộc hạ bao vây ngôi nhà sàn. Hà Thiết thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra liền đẩy Cả Pháo vào góc nhà, vớ lấy cây súng kíp, bước ra đầu quản hỏi:
    - Có việc gì mà ông Chánh đem lính tráng đến nhà tôi từ sáng sớm ?

    Lão Chánh hực lên một tiếng :
    - Mày muốn sống thì mang thằng tướng cướp ra nộp quan. Ta biết hắn đã bị thương đang nằm trong nhà.
    - Này ông Chánh, đừng quen thói gắp lửa bỏ tay người. ở đây không có ai là tướng cướp. Ông bảo người nhà về đi nếu không đừng trách Hà Thiết này nóng tính.

    Chánh tổng cười gằn hất hàm bảo lũ tay chân:
    - Vào nhà lôi tên Cả Pháo ra đây. Đứa nào chống lại, bắn.

    Hà Thiết chĩa nòng súng vào lão Chánh dằn giọng:
    - Ta thách đấy ! Kẻ nào dám bước lên bậc thang là sẽ được về với ông vải.

    Hà Thiết vừa nói hết câu thì "đoàng" một viên đạn bay sát ngay cột đầu chái làm vỡ toác chiếc hòm trên gác lửng. Thì ra Bế Tòng, từ lâu vẫn âm ỉ mối hận tình, nay đã có thời cơ, từ ngoài hàng rào nhắm vào anh ta nổ súng. Hà Thiết nép nhanh vào góc khuất, bình tĩnh chờ đợi thằng Tòng ló đầu ra là xiết cò. Con trai lão chánh tổng vừa ngã thì một loạt tiếng súng rộ lên, tất cả đều nhằm vào ngôi nhà sàn. Không kịp nhồi đạn, Hà Thiết lao vào buồng lấy khẩu súng bắn đạn ria ra thì đã thấy Cả Pháo chĩa nòng khẩu trường mút của ông qua khe cửa nhằm vào bọn lính khố xanh. Viên đạn hất một tên ngã ngửa ra, đầu đập xuống tảng đá chắn hàng rào. ở trên rừng, nghe tiếng súng, Nhóng biết là có chuyện chẳng lành. Cô thả trâu rồi ba chân bốn cẳng chạy về. Vừa đến đầu nhà, Nhóng giật mình thấy phía trước có tiếng hô hét. Gay rồi. Chắc bọn chức việc đến bắt ông người Kinh. Phải nhanh chóng chạy về Nà Ngườm báo cho trưởng bản Lục Phát mới được. Nhưng họ chỉ có hai người chẳng may trúng đạn thì nguy.Thử tìm cách lại gần xem sao đã. Nhóng luồn qua những bụi cây lúp xúp bò vào gần sàn, ngẩng lên thấy chồng đang nạp đạn. Hàng rào đã bị đổ. Thằng Tòng mới chỉ bị thương, tay nó run run rê nòng súng trường về phía Hà Thiết. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, cô bỗng nhào ra chắn ngang mũi súng thét lên:
    - Không được bắn !

    Gần như đồng thời, nòng súng Bế Tòng bốc khói. Nhóng giật nảy người, chới với một lúc rồi ngã.

    Thấy vợ trúng đạn, Hà Thiết uất lắm, quẳng khẩu súng đã vỡ toác nòng, rút con dao phát rừng định nhảy xuống quyết sống mái với chúng một phen. Nhưng rồi anh ta lại nghĩ, không thể liều chết được. Nhìn sang gian bên, ông Cả cũng hết đạn đang lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Bất chợt một ýnghĩ vụt loé lên … Hà Thiết lật ván sàn, bám cây cột gian giữa tuột xuống gầm nhà, khom người chạy ra bờ suối, hướng về phía rừng Cấm rúc một hồi tù và. Anh ta thổi hai tiếng ngắn lại một tiếng dài. Vừa đúng ba lần như thế thì từ cánh rừng trước mặt bỗng rồ lên như sắp có trận cuồng phong. Rồi một con hổ vằn to lớn xuất hiện. Nó chỉ nhảy vài bước đã vượt qua suối Bạc lao thẳng về ngôi nhà quen thuộc. Đúng là Huổi Vằn. Với dáng vóc oai hùng của vị chúa sơn lâm, chỉ bằng cú táp nhẹ, Huổi Vằn đã làm toạc vai Bế Văn Tòng. Những tên lính khố xanh còn lại chưa kịp định thần vì quá hoảng loạn vội quẳng súng ù té chạy. Nhưng con hổ không thèm đụng đến lũ này mà nó vọt lên rượt theo tên cai áo vàng, chìa cặp móng vuốt sắc như lưỡi dao cào một vệt vào lưng hắn. Lão chánh tổng là tên ranh ma. Biết đối phương hết đạn, hắn định leo lên cầu thang. Lúc này Cả Pháo đang trấn giữ ở trên bằng con dao phát rừng to bản khá lợi hại Hà Thiết chuyển cho. Nhìn thấy lưỡi dao sáng loáng, chánh Tài khựng lại, đi giật lùi, ghếch nòng súng về phía ông trùm. Hắn chưa kịp xiết cò thì Huổi Vằn từ ngoài cổng chồm đến sau khi đã hạ gục tên cai khố xanh. Là tay thợ săn giàu kinh nghiệm, mặc dù vô vùng khiếp đảm, chánh Tài vẫn đủ bình tĩnh tìm cách tháo lui. Nhưng Huổi Vằn có cách trấn áp đối phương bằng một độc chiêu và luôn bất khả chiến bại. Nhìn thấy họng khẩu trường mút nó lập tức dựng đứng hai chân sau, cặp mắt sáng rực như hai đạo hào quang ma quái chiếu vào Bế Hữu Tài rồi gầm lên dữ dội. Tiếng gầm của ông ba mươi khiến hồn phách lão chánh tổng lên mây, ngã vật xuống, miệng sùi bọt. Chỉ đợi có vậy, Huổi vằn chồm tới "con mồi" định kết thúc tấm thảm kịch, nhưng Hà thiết đã quát :
    - Thôi đủ rồi, Huổi Vằn về rừng !

    Nghe tiếng chủ, con hổ ve vẩy chiếc đuôi dài, chui qua gầm sàn đến bên Hà Thiết. Anh ta vỗ vỗ vào lưng nó rồi chỉ tay về phía trước. Huổi Vằn hiểu ý lững thững ra bờ suối Bạc.

    Con hổ đi rồi, Cả Pháo xuống cầu thang đến bên lão chánh tổng vẫn còn đang chết khiếp, kề sát hàm râu quai nón vào mặt hắn, dằn giọng :
    - Với tội phản dân hại nước của mày, lẽ ra phải để con hổ xé xác hoặc cho một nhát dao phát rừng, tuy chủ nhà đã tha nhưng cũng không thể để cho mày nguyên vẹn trở về bản rồi sau này vẫn chứng nào tật ấy.

    Nói xong, ông Trùm lục lâm rút con dao găm trong người cắt xoẹt một bên tai khiến lão chánh tổng rú lên lấy tay bưng thái dương. Hà Thiết trừng mắt quát :
    - Cút !

    Buổi chiều, Cả Pháo và Hà Thiết vào rừng Ken Chải đào huyệt chôn cất Nhóng. Anh ta ở bên mộ vợ đến chập tối mới về. Cả Pháo thấy vẻ rầu rĩ của anh bạn trẻ, thương lắm bảo:
    - Bỏ quách cái nhà này đi. Chú theo tôi lên núi dẹp nỗi bất công cho người nghèo.

    Hà Thiết lẳng lặng gật đầu:
    - Cho nó mồi lửa ….
    - Phải. ở đời chẳng nên lưu luyến mãi những thứ đã thuộc về quá khứ.

    Sáng hôm sau hai người dậy từ cuối canh tư. Họ vừa đi vừa nghỉ vì vết thương của ông Trùm vẫn chưa lành hẳn. Hôm ấy là một ngày âm u. Trên cao những tảng mây xám xịt, nặng nề trôi về khu rừng Cấm.

    (còn tiếp)

  6. #12
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 12

    1. Lê Văn Khải đi khỏi làng Cùa được ba hôm thì Trương Đình Tái, quyền trưởng công an đem hai dân quân đến Trại Cá bảo mẹ con bà Hai:
    - Anh Nghiên theo chúng tôi ra Uỷ ban.
    Khúc Thị Hài chột dạ bảo:
    - Nó làm gì mà các ông bắt?
    - Có chuyện đấy, đến Uỷ ban khắc rõ.

    Bà Hai lắc đầu:
    - Chắc lại chuyện thằng Khải.

    Nghiên bị dẫn ra trụ sở. Bùi Quốc Tầm đã ngồi chỡ sẵn.
    - Thằng Khải đi đâu?

    Quả nhiên không ngoài dự đoán. Thấy thái độ hách dịch của chủ tịch xã, nghiên ngứa mắt muốn quại cho hắn một phát vào mặt nhưng bắt buộc phải tỏ thái độ lễ phép một cách giả tạo:
    - Thưa ông chủ tịch, nhà tôi không có ruộng mà những bốn miệng ăn nên anh ấy phải đi kiếm việc làm.

    Tầm lại hỏi :
    - Làm ở đâu ? Lúc đi sao không ra xã trình báo ?
    - Anh ấy bảo chỉ đi ít hôm rồi lại về nên chúng tôi chưa kịp báo với ông Tái.

    Tầm hắt hơi liền mấy cái, khạc đờm nhổ xuống đất rồi sẵng giọng :
    - Những đối tượng như các anh ra khỏi làng nửa ngày cũng phải xin phép. Đấy là quy định của địa phương.Thế mà anh Khải vắng nhà đã ba ngày không lí do .Yêu cầu anh khai thật ra.
    -Tôi đã bảo là anh ấy đi tìm việc làm, khi chưa tìm được việc thì không thể nào có nơi cư trú để trình báo với các ông .
    - Anh cũng lắm lý luận gớm nhỉ? - Tầm châm chọc - Vậy tôi hỏi anh, tại sao trước khi đi anh Khải không xin phép?

    Nghiên cười nửa miệng, nhìn vị chủ tịch cố nông như nhìn một con lừa:
    - Anh ấy biết trước, có xin các ông cũng chẳng cho đi. Đói bụng đầu gối phải bò. Chẳng lẽ cứ ngồi nhà chờ chết đói?
    -Thế là rõ. - Tầm cười đắc thắng - Vậy thì anh hãy tạm xuống buồng giam dưới kia,đợi đến khi nào thằng Khải về sẽ được ra.

    Ngày thứ tám, Trương Đình Tái mang lệnh của chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Đoàn Kết đọc cho mẹ con bà Hai nghe :
    - " Từ ngày hai mươi bốn tháng ba năm 1956 , vợ hai địa chủ Khúc Đàm là Phùng Thị Thoả, con gái là Khúc Thị Hài, vợ tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận, có nợ máu với bà con bần cố nông , lập tức phải rời xóm Trại Cá ra đồng Chó Đá ở, nếu cố tình trái lệnh sẽ bị tống giam . Chủ tịch Bùi Quốc Tầm đã ký " .

    Sáng sớm ngày hai mươi nhăm, mẹ con bà Hai cho tất cả đồ đạc tuỳ thân vào đôi quang thúng . Khúc Thị Hài gánh còn bà mẹ khoác chiếc bị cói thập thững theo sau. Từ xóm Trại Cá đến đồng Chó Đá không xa lắm nhưng phải qua khu ruộng vàn hàng năm chỉ cấy một vụ còn một vụ bỏ hoá vì ngập nước. Khu đất mà xã Đoàn Kết bố trí cho các hộ địa chủ ở cách bãi tha ma chưa đầy ba chục thước. Nơi đây mười lăm năm trước, sau trận huyết chiến giữa quân áo Đen của Khúc Kiệt với lính Nhật của Hi rô si, làng Cùa đã phải chôn liền một lúc hơn bẩy chục người vô tội . Xương thịt của họ đã tan vào lòng đất làm xanh tốt hàng ngàn thế hệ cỏ cây nhưng linh hồn họ chắc gì đã được siêu thoát về nơi tịnh thổ.

    Trịnh Doãng, lão Mộc điếc cùng Đoàn Văn Đáp, cháu họ gọi phó lý Kiền bằng bác vào xóm Trại Cá dỡ ngôi nhà cũ dựng lại cho mẹ con bà Hai.

    Ba người vừa trèo lên mái lột được mấy hàng rạ đã thấy Trương Đình Tái khoác súng đến sừng sộ :
    - Ngôi nhà này Uỷ ban đã trưng dụng không được dỡ . Các anh xuống ngay .

    Đoàn Văn Đáp bảo :
    - Mẹ con bà Hai giờ không có lấy một cây tre dựng lều , xin các ông làm ơn cho người ta.
    - Không nói lôi thôi. - Quyền trưởng công an quát - Các anh cố tình phá nhà là tôi hô quân dân trói lại .

    Tối hôm ấy mẹ con bà Hai phải trải rạ nằm trên nền đất ẩm đắp tạm tấm chăn đụp. Phải mất gần ba hôm kiếm vật liệu bọn Trịnh Doãng mới dựng xong căn lều. Nó chỉ rộng hơn chiếc lều vịt của lão Ngạnh vừa đủ kê chiếc chõng và để đôi quang thúng , mỗi khi ra vào đều phải khom người nhưng dù sao cũng còn hơn phải phơi nắng phơi sương giữa trời .

    Cũng vào thời gian ấy, Lê Văn Nghiên bị giải lên huyện để công an tiếp tục điều tra về sự mất tích của Lê Văn Khải mà lãnh đạo xã Đoàn Kết nghi là anh ta đã trốn vào Nam theo địch. ở huyện người ta đối xử với Nghiên khác hẳn với Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái đã làm. Họ không tát tai hoặc thích cùi chỏ vào ngực, thậm chí không lên giọng quát tháo nhưng thực sự Nghiên thấy sợ. Đó là nỗi sợ hãi cố hữu bởi anh ta luôn biết thân phận mình chỉ là con sâu cái kiến , đang đối mặt với một thế lực có sức mạnh tập thể vô cùng lớn được duy trì bằng nguồn năng lượng đặc biệt đó là " chuyên chính vô sản " . Họ mở miệng ra là nhân danh Đảng và giai cấp vô sản, có khi chưa cần dùng đến biện pháp cứng rắn những công dân hạng hai như anh ta đã rúm người lại như con chuột nhìn thấy lão mèo già đang lặng lẽ vuốt râu .

    Ông công an mặc áo đại cán, tay đeo đồng hồ Nikles có cái cằm nhọn, ria đen nhánh nhưng thưa, thái độ rất nhã nhặn hỏi :
    - Anh cứ bình tĩnh kể lại cho chúng tôi nghe từ đầu đến cuối việc anh Khải đi khỏi làng Cùa như thế nào . Nhớ là phải thật tỉ mỉ , chính xác
    .
    Người thư ký ngồi bên cạnh đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Anh ta ghi rất nhanh khi Lê Văn Nghiên bắt đầu nói . Trong nửa giờ , người cằm nhọn vừa nghe vừa ghi sổ tay. Ông ta viết khá xấu nhất là các chữ " s " ," m " và đặc biệt chữ "k " chẳng khác gì cái chân gà. Nghiên trình bày một cách ngắn gọn, có phương pháp làm ông công an bất giác nheo mắt hỏi :
    - Anh có biết chữ không ?
    - Thưa ông, có biết chút ít .
    - Chắc là học bình dân ?

    Nghiên ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu :
    - Thưa ông, vâng .

    Ông công an khoảng trên ba mươi, trán rộng, mũi nở, mắt sáng trông có dáng của một lãnh đạo quốc gia trừ cái cằm nhọn. Thỉnh thoảng ông ta nhìn Nghiên như kiểu mèo vờn chuột. Cái nhìn tưởng là vô cảm , bất chợt thoảng qua nhưng nếu để ý sẽ thấy những tia sắc lạnh như mũi khoan thép làm ý chí đối phương tê liệt, mất hẳn khả năng phòng thủ cuối cùng phải bộc lộ bản chất . Nghĩ đến đây , Nghiên tự bảo mình : " Ta nguy mất rồi ".
    - Anh nghĩ gì thế ? - Người cằm nhọn lại phóng một tia nhìn làm Nghiên cồn cào ruột gan .
    - Tôi đang nghĩ giá mà anh Khải viết thư về cho biết đang làm việc ở đâu .

    Ông ta gật gù :
    - Nếu thế thì còn nói làm gì. Mà này, anh có viết được không ?
    - Dạ, cũng võ vẽ đôi chút...
    - Vậy hãy viết bản tường trình. - Ông công an đẩy xấp giấy, cây bút sắt cùng lọ mực tím mà người thư ký đã chuẩn bị sẵn về phía anh - Cứ bình tĩnh mà trình bầy. Nhớ dùng chữ nhỏ và đừng để mất nét. Tôi bận họp, chiều ta lại gặp nhau .

    Bản tự khai của Nghiên chỉ chừng năm trăm chữ viết gọn trong hai mặt giấy, nét đẹp như cắt làm tay thư ký há hốc mồm không tin ở mắt mình . Nội dung hoàn toàn giống với lời khai, chỉ có điều cốt yếu mà người ta đang muốn biết là Lê Văn Khải đang ở đâu thì Nghiên không viết vào . Chiều hôm ấy,Nghiên ngồi trong trại tạm giam. Ông công an điều tra không đến. Chắc vẫn bận họp . Sáng hôm sau, ông Thẩm, Nghiên nghe thấy người thư ký gọi như vậy, đến rất sớm. Vừa bước vào phòng anh ta đã thấy vị cán bộ điều tra cầm trong tay bản tự khai của mình đọc rất chăm chú hoặc đang làm ra vẻ chăm chú. Thời gian đọc khá lâu gần như ông ta đánh vần từng chữ làm Nghiên sinh nghi, ông ta đang đóng kịch hay cũng mới thoát nạn mù chữ ?
    - Anh ngồi đi. - Ông Thẩm đặt tờ giấy xuống mặt bàn rồi khẽ gật đầu - Chữ anh viết đẹp lại đúng mẹo luật nữa .
    - Ông quá khen.
    - Hình như trước đây anh cũng được học hành tử tế chứ không phải chỉ ở trình độ bình dân học vụ ?

    Nghiên thoáng nghĩ, chuyện này không thể giấu, nếu giấu lập tức ông ta sẽ liên hệ ngay đến việc mình lừa dối chính quyền , tội không nhỏ .
    - Thưa vâng, tôi đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhất Cấp .
    - Có thế chứ. Bọn trí thức tiểu tư sản các anh nói chung là thuộc thành phần bóc lột, ăn bám vào bà con bần cố nông. - Ông Thẩm vừa bẻ đốt ngón tay khùng khục vừa phân tích - Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp lớn nhằm xoá bỏ sự áp bức bóc lột , thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng " . Chính sách của nhà nước không nhằm đánh vào thân thể các anh mà để cải tạo tư tưởng cổ hủ lạc hậu trong đầu các anh. Một trong những yêu cầu tối thiểu để giảm nhẹ hình thức xử phạt là phải thành khẩn. Vậy mà từ hôm qua đến giờ anh vẫn cứ loanh quanh không cho nhà chức trách biết hiện giờ anh Khải ở đâu ?
    - Ông nói rất có lý. Tôi cũng nóng lòng muốn được ra khỏi đây về nhà giúp đỡ gia đình nhưng ngặt một nỗi từ khi đi khỏi làng đến giờ anh Khải chẳng có tin tức gì .
    - Thế này vậy. - Ông Thẩm vẫn rất bình tĩnh bảo, - Tôi để anh suy nghĩ thêm từ giờ đến sáng mai , nếu ngày mai vẫn cố tình không chịu khai ra tên Khải đi đâu, chúng tôi bắt buộc phải đưa anh lên tỉnh .

    Ngày hôm sau, ông Thẩm hoàn toàn thất vọng nhưng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh cần thiết của người cán bộ điều tra chính trị. Trước khi Lê Văn Nghiên bị hai công an dẫn đi, ông ta còn dặn :
    - Cái chính là phải thành khẩn nói hết những điều mình biết. Pháp luật tuy nghiêm khắc nhưng vẫn có phần giảm nhẹ nếu các đối tượng thực sự hối cải. Anh nhớ lấy.

    Thường thì những đối tượng có lý lịch phức tạp như Lê Văn Nghiên mà công an huyện đã chuyển tỉnh thì hiếm khi được về ngay. Anh ta vừa đến ty công an đã được đưa ngay vào trại tạm giam K4. Trong trại, sau Cải cách ruộng đất vẫn còn khoảng hơn trăm người, phần lớn là con em địa chủ cường hào, tay sai Quốc dân đảng đang chờ xử lý .

    Cũng vào thời gian ấy mẹ con bà Hai không còn thứ gì có thể ăn sống người đành phải tính đến việc đi xin. Chuyện ăn mày vào những năm giữa thập kỷ năm mươi không có gì lạ. Cái lạ là hầu hết số người lang thang khất thực trên khắp các nẻo đường đều có nguồn gốc địa chủ , cường hào hoặc phú nông đã bị tịch thu điền sản .

    Tất cả bọn họ đều mang một đặc điểm chung khi hành nghề là nón mê kéo sụp xuống che mặt , giọng nói lí nhí và không bao giờ dám nói rõ thân phận .Khúc Thị Hài trong bộ váy áo vá chằng vá đụp , vai khoác bị , cánh tay lành dắt bà mẹ lưng còng ngót nghét sáu mươi chẳng khác gì hình ảnh nàng Cúc Hoa dắt mẹ Tống Trân hành khất thời xưa . Bà Hai mệt thỉnh thoảng phải ngồi nghỉ lấy sức.

    Lúc ấy hai mẹ con trên đường vào làng Rào . Con đường hẹp lát gạch nghiêng, ở giữa gồ lên như mai rùa . nắng tháng tư trong suốt không đến nỗi gay gắt như trưa tháng sáu nhưng vì là nắng mới nên rất khó chịu với những người đi bộ đường trường . Trời trong xanh , thỉnh thoảng mới có gợn mây trông như hình mạng nhện đan bằng những sợi trắng như bông . Mặt trời lên cao , mạng nhện càng nở phình ra cho đến lúc giống hệt tấm lưới khổng lồ choán nửa bầu trời rồi mờ dần. Một đàn sếu lông xám nhịp nhàng vỗ cánh bay về phía đầm Ma theo hình mũi tên .Con đầu đàn hơi tách ra khỏi đội hình rồi bất ngờ hạ dần độ cao. Chúng bay quanh làng vài vòng kêu lên những tếng rất lạ tai sau đó tiếp tục cuộc hành trình . Qua cổng làng , mẹ con bà Hai rẽ vào một ngôi nhà ngói trông bề ngoài thì gia chủ có vẻ khá giả . Khúc Thị Hài kéo tấm khăn đen che mặt , cố ý để người ta nhìn thấy cánh tay tật nguyền .Con chó vện bằng nắm đấm cắn dai nhanh nhách . Người ra mở cổng là một bà già .
    - Bà ơi ! Bà làm ơn cho con xin chút ít . Quê con mất mùa đói lắm .

    Bà cụ già lúng búng nhai trầu hỏi :
    - Sao dạo này lắm ăn mày thế không biết ? Mẹ con nhà chị ở mạn nào đến ?
    - Quê con mãi làng Vạn , Thái Bình cơ . - Khúc Thị Hài nói dối - Cùng đường mới phải ngửa tay đi xin , mong bà mở lòng từ bi , một nắm khi đói bằng một gói khi no .

    Bà cụ vào nhà xúc bơ gạo đưa cho Khúc Thị Hài bảo:
    - Nhà này cũng sắp hết ăn rồi nhưng nhìn thấy mẹ con nhà chị nhếch nhác quá không đành .

    Bà Hai cảm động khẽ nói :
    - Đội ơn bà !
    Hai người lại thất thểu trên con đường trục giữa làng , từ xa nhìn thấy ngôi nhà gạch năm gian lợp ngói âm dương, Khúc Thị Hài chỉ tay hỏi mẹ:
    - Mình cứ liều vào trong ấy xem có được gì không?

    Bà Hai bảo :
    - Mẹ đoán nhà ấy là nhà cố nông mới được chia chẳng ăn thua gì đâu.
    Trước cửa , một người đàn ông mặt dẹt, trán thấp ,cởi trần, những dẻ xương sườn hình nan quạt trồi lên dưới lớp da vàng ệch đang húp xoàn xoạt bát cháo khoai vẫn còn bốc khói, vừa nhìn thấy ăn mày vào sân đã xua như xua tà :
    - Không có gì đâu, nhà này cũng phải húp cháo khoai trừ bữa đây .

    Khúc Thị Hài nhăn nhó .
    - Bác nhón tay làm phúc giúp kẻ cơ nhỡ một chút gọi là .
    - Về quê làm lấy mà ăn . - Người đàn ông vẫn xịt xoạt húp thứ nước lõng bõng trong chiếc bát chiết yêu , giọng rồm rộp như bị bỏng lưỡi - Đây mấy đời cố nông mà không thèm ngửa tay xin xỏ ai bao giờ nhé !
    - Bác nói thế thì chúng tôi đành chịu .
    - Không chịu cũng không được. Nhà này sáng qua đã phải đem ra chợ bán mấy cái ghế quả thực mua được thúng khoai khô, hôm nay mới có cháo húp. Mà thôi, chị chờ một tí, tôi mang cho nắm khoai. Nếu đói quá thì có thể ăn tạm. khoai phơi được nắng, thơm lắm .

    Xế chưa mẹ con bà Hai ra nghỉ dưới gốc đa làng giở khoai khô ra nhai. Ăn xong, khát quá , Khúc Thị Hài lội xuống giếng ngắt lá sen múc nước mang lên cho bà Hai uống . Đêm ấy, về đến căn lều của mình bà Hai nằm thiêm thiếp bụng sôi òng ọc .Hôm sau, lúc sắp đi, Khúc Thị Hài bảo mẹ :
    - Hôm nay bà mệt cứ ở nhà .

    Bà Hai lắc đầu :
    - Tôi già thế này ngửa tay xin người ta mới thương, một mình chị sợ rằng khó .
    - U cứ lo không đâu. Cái tay khoèo của tôi thế này mà lắm lúc cũng được việc .
    - Thời buổi thóc cao gạo kém, ăn xin như rươi, người cụt cả hai chân còn chưa ăn ai huống hồ cái tay khoèo của chị

    Hai mẹ con sang vùng Mễ Tây . Dọc đường 228 thỉnh thoảng lại gặp một toán bị gậy, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, áo quần nhếch nhác trông như quỷ nhập tràng. Khúc Thị Hài hỏi một ông mặt choắt, rậm râu, già nhất trong đám, dáng bước lòng khòng :
    - Các bác ở đâu ta ?
    - Dưới Cổ Trai .
    - Sao không vào chợ La ?
    - Vào thế đếch nào được .- Ông già buột miệng chửi - Mẹ cha chúng nó chứ ! Lão vừa mon men đến cổng mấy thằng khán thị đầu trâu mặt ngựa đã vác gậy đuổi như đuổi tà. Có tay mặt rỗ còn trẻ bị câm cứ liều xông vào bị nó nện dập ống chân .
    - ở nhà có còn ruộng vườn không ?
    - Các ông bà nông dân tịch thu hết rồi, giờ chỉ còn trơ hai cái thân già thay nhau đi xin của bố thí đây .

    Qua chợ La được một thôi đường, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Hai mẹ con vào ngồi quán đá dưới gốc cây đa cổ thụ tránh nắng. Được một lúc có ba phụ nữ ăn mặc kiểu nửa quê nửa tỉnh đạp xe ngang qua. Người lớn tuổi bảo hai chị bạn :
    - Ta vào quán này nghỉ uống chén nước .
    Trên chiếc chõng tre nức mây đen sì như dính bồ hóng , ngoài nải chuối tây đã chín vàng chỉ có ấm nước vối, một lọ thuỷ tinh kẹo bột xanh đỏ với chiếc điếu cày ghếch bên cạnh. Người phụ nữ đứng tuổi mặc áo cổ bẻ xanh sĩ lâm, chiết ly, quần láng đen, đội nón bài thơ, vai quàng chiếc túi vải, ngồi xuống ghế bảo bà chủ quán :
    - Bà cho ba bát nước vối với đĩa kẹo .
    - Các bác về đâu thế ?
    - Về tỉnh bà ạ .
    - Nước đây mời ba bác. Từ đây về tỉnh đi xe lết chả mấy, cứ thong thả cho mát .

    Nhìn thấy hai mẹ con người ăn mày, chị phụ nữ đứng tuổi thoáng giật mình, nhưng rồi chị ta lấy lại bình tĩnh rất nhanh, thái độ thản nhiên như không bảo bà chủ quán :
    - Bà mang nải chuối này với hai bát nước đưa cho mẹ con người ăn mày kia, tôi sẽ trả tiền.
    Bà Hai mắt kém lại bị quáng nắng không nhận ra người phụ nữ nhưng Khúc Thị Hài đã ngờ ngợ ngay từ khi chị ta bước vào quán. Khi người ấy đến gần hai mẹ con, bỏ khăn ra thì Khúc Thị Hài khẽ kêu lên :
    - Dì Ba !

    Người phụ nữ đặt tay lên môi ra hiệu nói khẽ rồi hỏi :
    - Sao lại đến nông nỗi này ?
    - Chúng tôi bị xã đuổi khỏi làng phải ra đồng Chó Đá ở vì thằng Khải bỏ nhà đi tìm việc , thằng Nghiên thì đang nằm trong trại tạm giam .

    Chị ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi dặn :
    - Nói chuyện ở đây không tiện . Nghe tôi dặn đây. Nếu có gì cần giúp đỡ chị hãy sang thị xã đến nhà số 15 phố Đông Sơn, hỏi bà Dương Thị Xuân .

    Trên đường về, bà Hai bảo con gái :
    - Cái người mang quan tài về liệm cho chồng mày hôm nó bị bắn đúng là cô ấy.
    - Con cứ nghĩ là dì ấy chết rồi.

    Bà Hai gật đầu :
    - Tao cũng nghĩ thế, mà... sao lại phải thay tên đổi họ nhỉ ?
    - Chắc là phần đời sau này của dì ấy có những uẩn khúc .
    - Tao chẳng biết được mà chỉ thấy cô ấy khác trước nhiều lắm .
    - Có khi "người ta" làm cán bộ bà ạ . Nay mai con phải lên tỉnh một chuyến may ra cứu được thằng Nghiên .

    *****

    Ông công an điều tra cấp tỉnh xem ra còn có văn hoá và khả năng nhẫn nại hơn nhiều so với người đồng nghiệp dưới huyện. Ông này không thuyết lý dài dòng mà đi ngay vào bản chất của sự việc :
    - Thực ra, trong thời gian qua chúng tôi đã có đầy đủ hồ sơ về anh. Việc anh Khải đi khỏi làng không báo cáo chính quyền hẳn là đã có một kế hoạch được sắp đặt từ trước. ở huyện công an, anh có ý định giấu trình độ học vấn nhằm mục đích gì ?

    Nghiên im lặng. Ông công an tiếp tục, giọng đều đều vô cảm :
    - Các anh được đào tạo rất bài bản trong hệ thống nhà trường thực dân, bị nhồi nhét toàn những tư tưởng phản động và hệ ý thức nô dịch, trong thâm tâm rất bất mãn với chính quyền mới và luôn chờ dịp để chống lại .

    Nghiên thấy đã đến lúc phải chứng tỏ thái độ của mình :
    - Lập luận của ông không đúng vì nó xuất phát từ nhận định chủ quan, mang tính áp đặt .
    - Anh dám …
    - Ông cứ bình tĩnh .- Nghiên xua tay cắt lời - Trước hết chúng tôi cùng giai cấp với ông. Bố tôi là đảng viên đảng Lao động, hoạt động Cách mạng nhiều năm và đã bị đế quốc cầm tù. Cách mạng thành công, ông ấy được cử làm chủ tịch huyện, vậy mà hồi Cải cách bị đem ra xử bắn với tội danh rất mơ hồ là " tay sai Quốc dân đảng ". Từ cái chết oan ức của cha tôi, các ông nhân danh bần cố nông, tước hết số tài ít ỏi, đuổi chúng tôi ra khỏi làng, thử hỏi đấy là thứ " đấu tranh giai cấp " gì?
    - Anh không được láo ! Nói xấu chính quyền Cách mạng là tù mọt gông.-Ông cán bộ thẩm vấn vứt ngay cái mặt nạ đạo đức giả nhìn xoáy vào Lê Văn Nghiên như muốn ăn tươi nuốt sống anh ta -Biết điều thì khai ra, thằng anh mày trốn ở đâu ?
    -Tôi đã nói rồi,tôi không biết .

    Cái kiểu khiêu khích của Lê Văn Nghiên rất khó chịu . Đó là thứ châm chọc mang mầu sắc văn hoá hơn hẳn đối phương một bậc làm ông công an phát khùng, không kìm được liền giáng cho anh ta mấy cái bạt tai .Mấy cái tát có nghề làm Nghiên nổ đom đóm mắt , máu cam chảy ra làm rớt xuống ngực áo. Anh ta cười như mếu :
    -Thì ra chuyên chính của Nhà nước dân chủ là thế này đây .
    - Đúng đấy .- Ông cán bộ điều tra cười nhạt, giọng khinh khỉnh - Nếu không biết điều thì sẽ còn rất lâu mới được nhìn thấy ánh mặt trời anh bạn ạ .

    Chiều hôm ấy, ông công an điều tra trả Nghiên về trại K4 với mệnh lệnh :
    - Tống vào phòng biệt giam, cắt khẩu phần ăn hai ngày .

    Trên đường về, ông cán bộ điều tra vẫn còn hậm hực vì gần một năm làm công việc thẩm vấn tội phạm chưa bao giờ gặp một thằng nhãi ranh miệng còn hơi sữa mà thở ra toàn lý sự như Lê Văn Nghiên .

    Hai mẹ con bà Hai lên trại thăm Nghiên nhưng không được gặp. Trên đường về họ phải rẽ vào làng Tảo An xin ăn. Bà Hai sẵn có bệnh tim , bụng đang đói. Trời vừa nắng gắt lại đổ mưa , thế là bị cảm ngã xuống ruộng . Khúc Thị Hài phải khó khăn lắm mới kéo được mẹ lên thì bà đã hôn mê. Giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết làm thế nào, chị ta đành chạy vào làng nhờ người giúp. Ông xã đội trưởng hỏi :
    - Mẹ con nhà chị ở đâu ? Làm sao phải đi ăn mày ?
    Lúc này không thể nói dối. Chị ta đành kể về thân phận mình. Nghe xong, vị xã đội trưởng chẳng những không thông cảm mà còn thản nhiên bảo:
    - Uỷ ban đã có lệnh, thân nhân của của các gia đình địa chủ phản động có nợ máu với nhân dân chết không được để chung ở nghĩa địa khu dân cư . Nếu mẹ chị chết chúng tôi sẽ cử mấy dân quân ra đào huyệt chôn .

    Khúc Thị Hài tức tưởi chạy ra đến nơi thì bà Hai đã tắt thở. Chị ta nằm phục bên xác mẹ, người cứ rung lên bần bật. Tiếng khóc bị bị nghẹn lại bởi trong người hầu như đã cạn kiệt sức lực. Có cảm giác như chẳng còn bao lâu nữa chị cũng đi theo mẹ .

    Mấy người dân quân bó bà Hai trong chiếc chiếu từ thiện rồi đào huyệt chôn ngay cạnh đường gần một bụi dứa gai . Mấy hôm sau ngôi mộ cứ to đần , thỉnh thoảng lại có người thắp hương. Đó là các bà vùng Ba Tổng đi chợ Cháy mang đất đá đắp vào mong hồn người chết phù hộ cho mua rẻ, bán đắt .

    Mẹ chết đường, con vào trại, Khúc Thị Hài bị đột quỵ nằm liệt giường gần nửa tháng mới dậy được. Cũng may trong túi vẫn còn ít tiền dì Ba cho hôm gặp ở quán Năm Gian nếu không thì chết đói. Lê Văn Khải vẫn không có tin tức gì. Chị ta định sang tỉnh một chuyến xem có hy vọng gì không, nhưng hễ cứ đứng dậy là đầu choáng mắt hoa không bước được .

    Nhịp sống của cư dân đồng Chó Đá vẫn cứ diễn ra đều đều trong nỗi nơm nớp lo sợ lúc nào đó đến lượt mình vào trại giam. Con cái địa chủ, cường hào, Quốc dân đảng thường bị dân quân làng Cùa đến bắt đi bất cứ lúc nào. Có đứa vừa lang thang xin ăn về, chưa kịp bước chân vào lều đã bị trói giật cánh khuỷu điệu xuống trụ sở Uỷ ban chỉ vì đêm qua nhà ông chủ tịch Nông hội bị chặt mất buồng chuối. Cộng đồng những kẻ ăn mày bất đắc dĩ này cũng chẳng tử tế gì vói nhau mà ngược lại luôn rình rập đề phòng nhau. Kinh nghiệm cho biết, không nên đặt hết niềm tin vào bất cứ người nào dù họ có tốt đến mấy. Phương châm hành xử khôn ngoan là chỉ có thể tin vào chính mình, vì ở đây tai vách mạch rừng. Trong hoạn nạn rất nhiều trường hợp không những không cưu mang nhau mà còn sẵn sàng bán đứng nhau để có được sự thương hại của bần cố nông. Chuyện các bà cô cạnh khoé, xoi mói nhau xảy ra như cơm bữa ở khu lều ổ chuột. Ông phó lý cựu Tưởng Đình Hàm , không phải đi tù nhưng bị tịch biên gia sản là một trong những hộ cư trú sớm nhất đồng Chó Đá. Bà phó lý mắc chứng kinh giật, tay chân lúc nào cũng run bắn, cầm bát cơm không vững . Nhà đông miệng ăn, đói triền miên nhưng ông Hàm nhất quyết không đi ăn xin mà bắt lũ con bắt cua, mò ốc, tát cá bán lấy tiền đong gạo. Những ngày đầu rất khổ. Con cái địa chủ ngồi bán hàng ở chọ Rồng chợ Từ Đường, chợ Đình không ai thèm mua. Bà con bần cố nông sợ ăn tôm cá của họ sẽ bị lây thói áp bức bóc lột, rất nhiều hôm chị em cô Xuyến phải mang về .

    Xuyến là con cả ông Hàm , xinh nhất nhà , trước Cải cách đã hứa gả cho con trai đồ Sách là anh Thiệp. Hai người quyến luyến nhau lắm , nhưng đến khi ông phó lý cựu bị qui lên địa chủ, mà đồ Sách chỉ ở mức bần nông thế là ông ta tuyên bố huỷ bỏ hôn ước. Anh Thiệp cưới cô La thành phần cố nông, gia đình cơ bản chỉ phải tội toét mắt.Có một người làng Cùa rất mê Xuyến là Nguỵ Văn Thành . Anh ta đã ngoài ba mươi mà vẫn chưa có con trai trong khi cô vợ lùn tịt đẻ liền một mạch năm ả " vịt giời " . Thành khá đẹp trai , tán gái thành thần nhưng cô vợ sẵn máu Hoạn Thư, nghe phong phanh anh ta léng phéng ở đâu là lồng đến đánh ghen. Tuy nhiên Thành cũng có trăm phương ngàn kế lừa vợ để chim chuột đám chị em quá lứa nhỡ thì, ngứa nghề. Hồi ấy gia đình ông Hàm vẫn ở xóm Đình, một lần gặp Xuyến ngoài ngòi Mác, anh ta hỏi :
    - Tình hình bên nhà thế nào ?

    Xuyến vốn ghét thói trai lơ của tay trưởng ban thông tin xã, chẳng thèm nhìn anh ta, nói trống không :
    - Hỏi làm gì ?

    Nguỵ Văn Thành lim dim mắt bảo :
    - Có cần đây giúp cho.

    Con gái ông phó lý cựu cũng không vừa liền đổi giọng :
    - Có hạ được thành phần cho nhà tôi không?

    Thành lắc đầu :
    - Nói thật nhá, ông cụ đã có tên trong danh sách năm người bị xử bắn đợt này, cô mà đồng ý …tôi có thể nói với ông Lạc miễn tội chết .
    - Chỉ phải đi tù phải không ?
    - May ra thì thoát đi tù, nếu vận động thêm được bà Sót. Bà này xem ra lập trường cứng rắn lắm.
    - Thôi thì trăm sự nhờ anh, tôi chẳng có gì ngoài tấm thân anh muốn làm sao thì làm …
    Mấy hôm sau Thành hẹn Xuyến ra chiếc lều vó của ông Khích ở ngòi Mác. Từ nửa tháng nay ông ta nghỉ việc để tham gia biểu tình đấu tranh vạch mặt địa chủ . Vừa gặp Xuyến, anh trưởng ban thông tin đã thông báo :
    - Việc nhà cô xong rồi. Tôi đã vận động mấy cốt cán chỉ giữ ở mức địa chủ thường, không có thêm cái đuôi "cường hào " hoặc "Quốc dân đảng " nhưng phải tịch thu tài sản . Chốc nữa về bảo với ông cụ có tiền nong vàng bạc gì thì giấu đi , hai ba hôm nữa là họ đuổi ra đồng Chó Đá .
    Xuyến vào trong lều , đầu tiên cô cởi tấm áo cánh gụ, cởi yếm rồi bất ngờ tụt nhanh chiếc váy để lộ ra tấm thân nõn nà làm Nguỵ Văn Thành run bắn người . Trăng đầu tháng chênh chếch rọi vào cửa lều có thể thấy rõ cặp vú mịn màng trắng toát choán cả khuôn ngực đang phập phồng. Cô gái co chân , nhích người nằm dịch vào một bên rồi bảo anh thông tin :
    - Nào anh còn đợi gì nữa. Tôi còn trinh đấy .

    Thành vẫn đứng trước lều , mặt ngẩng lên nhìn trăng , im lặng. Xuyến lại giục :
    - Chả lẽ tôi đem sự trinh tiết đổi lấy mạng sống của thày tôi mà anh còn chưa bằng lòng hay sao ?

    Người đàn ông ngồi xuống cửa lều cầm chiếc áo đặt xuống ngực cô gái khẽ bảo :
    - Em mặc váy áo vào đi rồi về .
    - Sao thế, hay là anh nghĩ lại không giúp gia đình tôi nữa?

    Thành lắc đầu :
    - Tiếc là không hạ được thành phần nhà em xuống nữa . Tôi biết ông cụ bị oan .
    Xuyến ngồi dậy mặc váy áo xong lưỡng lự một lúc rồi bảo :
    - Gia đình em chẳng biết lấy gì tạ ơn anh. Bao giờ em phải ra đây nữa ?
    - Thôi đừng ra nữa . Giờ em phải về đường tắt qua miếu Si, đừng đi cổng chính, bọn thằng Phong đang canh ở đấy .

    Chuyện hai người trong lều vó không giấu được ông cựu phó lý. Xuyến không ngờ đêm ấy, lúc cô ra khỏi nhà ông Hàm đã cử cô em bám theo . Biết nhưng ông bố vẫn âm thầm chịu đựng cho đến khi phải ra đồng Chó Đá . Một hôm cả nhà đi tát cá ở thùng Đấu, ông phó lý cựu mang dây thừng ra cây đa giữa đồng treo cổ tự tử, may mà có Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán đi chao dậm châu chấu phát hiện ra , chậm chút nữa thì không cứu được .

    2. Nghiên bị tạm giam đã hơn hai tháng. Thời gian trôi đi, cuối cùng Khúc Thị Hài thấy rõ một điều, nếu cứ chần chừ việc đi gặp dì Ba thì con trai bà ta khó mà được về. Hai chục năm qua, người đàn bà tật nguyền vẫn ôm mối hận bị cướp chồng mà không có cách nào hoá giải được . Nó như căn bệnh trầm kha , ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, cứ mỗi ngày lại làm hình hài một héo hon. Khúc Thị Hài từ lúc sinh ra đã quặt quẹo, bản tính nhu nhược , chỉ muốn an phận , biết mình không phải là đối thủ của Mạc Thị Lánh. Bà Ba là người không chịu sự ràng buộc của khuôn phép , luôn khát khao hướng tới một cái gì đó tốt đẹp hơn hoàn cảnh hiện tại cho dù chỉ là ảo tưởng. Bà Ba dám sống hết mình, sẵn sàng đập phá , nhổ toẹt vào mớ giáo lý phong kiến cổ hủ, vô nhân đạo ràng buộc thân phận người phụ nữ . Đứng trước Mạc Thị Lánh , KhúcThị Hài chỉ là cái bóng mờ nhạt , nhiều khi còn bị thần khí của cô ta làm cho biến dạng nên rất ngại giáp mặt .

    Khúc Thị Hài đến nhà 15 Đông Sơn vào buổi chiều. Lúc ấy đã tan tầm . Các công sở hết giờ làm việc. Bà Ba trong bộ quần áo cánh nhuộm nâu non, tóc búi buộc túm bằng chiếc khăn mùi xoa, chạy ra mở cổng. nhìn thấy bà Hài, dì Ba hỏi ngay :
    - Sao lâu thế mới đến ? Tôi cứ chờ mãi .

    Khúc Thị Hài chớp chớp mắt :
    - Mẹ tôi mất rồi .

    Bà Lánh hỏi dồn :
    -Mất khi nào ?Bệnh gì ?

    Khúc Thị Hài lấy ống tay áo quệt nước mắt :
    - Bị cảm nắng chết trên đường đi ăn xin .
    - Còn thằng Nghiên ?
    - Vẫn chưa được thả . Tôi lên gặp dì Ba hôm nay cũng vì việc ấy . Thôi thì trăm sự nhờ dì , mẹ con tôi không bao giờ dám quên .

    Bà Ba đứng dậy khép cửa buồng, kéo rèm che phía trong rồi ngồi xuống bên cạnh Khúc Thị Hài bảo :
    - Từ nay chị đừng gọi dì Ba hay bà Ba nữa. Tôi bây giờ là Dương Thị Xuân, đang làm Bí thư phụ nữ tỉnh. Nhà tôi là phó chủ tịch. Chiều nay bên Uỷ ban tỉnh có cuộc họp quan trọng nên giờ ông ấy vẫn chưa về .
    Khúc Thị Hài thấy nhà vắng vẻ nên hỏi :
    - Dì Ba được mấy em ?
    - Được hai. Thằng lớn đang đá bóng với lũ trẻ ngoài phố, còn con em về quê thăm bà nội từ đầu tháng chưa ra .
    - Mừng cho dì .

    Mạc Thị Lánh cau mặt :
    - Đã bảo cứ gọi là chị cho thân mật .
    - Vâng, thưa chị!

    Được rồi, việc thằng Nghiên cứ để tôi lo. Ông nhà tôi phụ trách khối nội chính có ý kiến của ông ấy là bên công an phải thả thôi. Nhưng mà nghe tôi dặn đây, không được nói với bất cứ ai ở vùng Ba Tổng là đã gặp tôi. Đời tôi cũng ba chìm bảy nổi khốn khổ lắm mới có được ngày hôm nay .
    - Có phải vì thế mà hồi ông Lái bị xử chị cũng không dám về làng Bòng ?
    - Hoàn cảnh lúc ấy bắt buộc phải nhẫn nhục. - Bà bí thư phụ nữ thở dài bảo - Cũng may ông Quảng kịp thời giữ lại, tôi mà về là bị bắt ngay .
    - Nửa đêm hôm ấy chị qua sông mang quan tài về chôn cất ông cụ phải không ?
    - Nói thực với chị, làm thế là rất mạo hiểm nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, huống hồ đấy lại là người sinh ra mình .

    Khúc Thị Hài gật đầu :
    - Cảm ơn chị cũng đã lo cho anh Vận tấm áo .

    Bà Ba cầm tay Khúc Thị Hài, giọng ngập ngừng :
    - Trước đây còn trẻ dại tôi có lỗi với chị và hai cháu nhiều lắm, giờ nghĩ lại thật xấu hổ .

    Khúc Thị Hài bảo :
    - Chuyện cũ qua rồi, người chết cũng đã yên phận , đừng nhắc lại thêm đau lòng.

    *

    Khúc Thị Hài không thể ngờ, sau khi cùng Lê Văn Vận trốn khỏi làng Cùa, Mạc Thị Lánh lại xuýt chết vì cú đâm lút cán con dao găm của người tình. Lúc ấy, trong khi Trần Phí dẫn anh em sơn tràng truy tìm Lê Văn Vận thì một toán lính khố xanh của tri châu Vi Văn Sầm đi tìm gỗ đàn hương nhìn thấy ba cái xác nằm bên bờ suối Đá Đen. Hai gã đàn ông đã chết. Người đàn bà bị đâm vào bụng tuy đã được cầm máu nhưng vẫn bất tỉnh . Viên đội người Thái lưỡng lự một lúc rồi bảo ;
    - Phải mang cô ta xuống thuyền độc mộc đưa về Chiềng Đôi để thầy mo Lủ chữa thuốc .
    - Hình như cô ta bị cưỡng hiếp .
    - Chắc là hai tên sơn tràng trần truồng kia. - Viên Đội khịt mũi nhổ nước bọt bảo- không biết kẻ nào đã giết chúng nhỉ ?
    - Ai giết cũng mặc xác chúng nó, cứ để đấy cho hổ báo về xé xác .- Một anh lính trẻ khoác khẩu súng săn hai nòng bảo - Cây gỗ tìm được hôm nay chắc quan tri châu hài lòng lắm .
    - Đây là cây đàn hương rất hiếm, có người đi rừng cả đời chưa chắc đã tìm thấy. Chuyến này thế nào anh em mình cũng được thưởng bạc trắng .
    - Thôi được, việc ấy để tôi trình quan xin cho anh em, giờ ta phải mang cái cô người kinh kia xuống thuyền. Sao mà con gái người xuôi nó đẹp thế, có khi quan lớn nhà mình cũng phải mê .
    Thuyền độc mộc chở được ba người. Bà Ba nằm thiêm thiếp, đôi môi khô se, tím ngắt, thỉnh thoảng lại ú ớ ngủ mê. Gần nửa ngày đi thuyền, toán lính khố xanh đưa Mạc Thị Lánh đến bản người Thái Chiềng Đôi. Thầy mo kiêm thầy lang Quàng Văn Lủ xem vết thương xong lắc đầu :
    - Nặng lắm , bị mất máu nhiều, không chắc nó đã sống được .

    Viên Đội đưa cho ông ta một đồng bạc trắng, ghé tai dặn :
    - Đây là ngươì của quan tri châu, ông chữa chạy tử tế sẽ có thưởng, nếu để cô ta chết coi chừng cái mạng .

    Thầy mo Quàng Văn Lủ vốn là môn đệ của tri châu Vi Văn Sầm, cứ vài ngày lại cưỡi con ngựa gầy giơ xương về châu lỵ hầu điếu đóm cho quan lớn để được hưởng sái thuốc phiện . Nhìn sắc diện bà Ba, Quàng Văn Lủ biết tình trạng vết thương không đến nỗi nào , chỉ cần chữa thuốc trong vòng một tuần là khỏi , nhưng lão phải nói thế để may ra moi được của viên tri châu mấy đồng thuốc phiện .

    Lão thầy cúng nửa mùa này đánh bạn với nàng Tiên nâu từ năm mười sáu tuổi, ngày nào không có thuốc là người phát phiền, chẳng thiết ăn uống gì, bởi vậy, tuy là thầy thuốc nổi tiếng cả mường nhưng hễ được bao nhiêu bạc lão lại nhét hết vào dọc tẩu thành ra quanh năm nghèo đói .

    Tri Châu Vi Văn Sầm là tay mê gái có hạng. Tuy đã có ba bà vợ Thái, trẻ nhất mới ba mươi mốt , nhưng khi nghe thầy đội Lò Văn Hếnh kể về cô gái người Kinh trẻ đẹp thì lão ngứa ngáy không chịu được. Bọn lính khố xanh biết ông chủ của mình ưa của ngọt liền xúm nhau vào tán dương :
    - Tháng này quan lớn có lộc, coi như "song hỷ lâm môn" .

    Lão Tri Châu nhe bộ răng vàng cười hềnh hệch rồi hỏi bọn thuộc hạ :
    - Thế nào là "song hỷ lâm môn ?"

    Lò Văn Hóng biết chữ Nho, viết một chữ "Hỉ" to tướng vào tờ giấy hồng điều cung kính trình lên Vi Văn Sầm :
    - Bẩm quan, cái vui thứ nhất là anh em chúng con đã tìm được cây đàn hương cổ thụ ở đầu nguồn suối Đá Đen. Thứ hai là mang được cô gái người kinh đẹp như tiên sa về bản Chiềng Đôi, nhưng nó bị thương , thầy mo Quàng Văn Lủ đang chữa .

    Viên Tri Châu chợt mắt sáng lên :
    - Các người làm ta sốt ruột quá, liệu đến hôm nào cái người Kinh ấy nó khỏi bệnh để ta xuống thăm ?

    Lò Văn Hóng nháy mắt với đám lính khố xanh:
    - Quan lớn cứ bình tĩnh, cô ta khỏi là chúng con đưa lên dinh ngay .

    Vi Văn Sầm lừ mắt :
    - Bé cái miệng thôi. chúng mày bép xép mấy con mẹ nhà dưới nó biết thì ta cắt lưỡi.

    Bọn lính kín đáo đưa mắt cho nhau . Ngài tri châu nổi tiếng hách dịch , hơi nhíu mày là bọn thuộc quan xanh mặt, nhưng người điều khiển lão ta lại là vợ cả, năm ấy đã ngót ngét sáu mươi, gầy đét như con cá mắm . Người trong châu kháo nhau, nhà bà ta truyền đời nuôi ma xó . Cách đây gần hai mươi năm ở bản Nháy xảy ra chuyện lạ . Ông Tòng Quang Phúng, chồng bà Ló, chị ruột bà Lả léng phéng với đứa con gái lão thợ săn người Mán. Khi cô này có mang thì cũng là lúc ông Phúng tự nhiên phát điên nhảy xuống vực Tiêu Diêu tự tử. Mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, quan tri châu lại thấy sởn gai ốc, nhưng chính mắt lão chưa bao giờ thực sự nhìn thấy loài ma chuyên gieo rắc tai hoạ cho người khác kia. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, bởi vì mụ vợ già Quàng Thị Lả của lão còn thính mũi hơn cả ma xó .

    Mấy hôm sau, dưới danh nghĩa công cán, Vi Văn Sầm cùng gã tham biện và mấy tên lính khố xanh khoác súng cưỡi ngựa xuống núi .Gần trưa cả bọn đến bản Chiềng Đôi. Vi Văn Sầm bước lên chín bậc cầu thang, vừa nhìn thấy Mạc Thị Lánh đã bủn rủn chân tay, hai mắt đờ ra như bị điểm huyệt. Lò Văn Hếnh đưa cho bà Ba bộ váy áo Thái với hàng cúc bướm bằng bạc và chiếc khăn piêu mà Vi Văn Sầm đã cho làm ở nhà cô em gái. Lánh vào buồng đến khi bước ra thì viên tri châu không còn tin ở mắt mình nữa. Một noọng Thái trắng đẹp mê hồn như từ chốn Bồng lai bỗng chốc giáng trần với đầy đủ cả xiêm y lộng lẫy làm căn nhà sàn của thầy mo Quàng Văn Lủ như toả ánh hào quang. Quan tri châu bảo :
    - Nàng có bằng lòng theo ta về châu lỵ không ?

    Bà Ba cúi đầu e thẹn đúng với điệu bộ của những cô gái chính chuyên sắp về nhà chồng. Thực ra, trong đầu bà Ba đang dự kiến một kế hoạch. Hãy cứ thoát khỏi bản Chiềng Đôi, tạm thời làm vợ bé lão già dại gái này đã, sau đó sẽ tính chuyện về quê. Vi Văn Sầm để Mạc Thị Lánh ở ngôi nhà sàn trong ngõ hẻm cuối châu lỵ gần đường đi Đà Bắc. Mỗi tuần lão đến với bà Ba vài lần nhưng ít khi dám ngủ qua đêm. Mọi cuộc truy hoan đều diễn ra ban ngày trong gian buồng che rèm thổ cẩm và sàn lát bằng tre bương đập dập lên nước nhẵn bóng. Vi Văn Sầm đã quá lục tuần nhưng chuyện phòng the thì không già chút nào. Có sâm nhung hổ cốt trợ lực, lão khoẻ như trâu, vừa leo khỏi cầu thang đã vồ lấy bà Ba đè xuống, tốc ngựơc váy lên bổ hùng hục làm sàn nhà run bần bật . Bà Ba là phụ nữ có thừa kinh nghiệm trong lúc chăn gối, tìm mọi cách chiều chuộng lão tri châu khiến lão chẳng tiếc gì bạc trắng cũng như những lời hứa hẹn. Lão dặn bọn thuộc hạ tuyệt đối giữ bí mật. Đứa nào để lộ ra là mất đầu. Thành thử một thời gian khá dài, viên tri châu dan díu với cô gái người Kinh mà cả ba bà vợ đều không biết .

    Vào một đêm tháng chạp mưa dầm gió bấc, bà Ba không ngủ được, chẳng phải vì lạnh mà bởi phải nằm một mình trong ngôi nhà vắng. Hơn tuần nay không thấy Vi Văn Sầm đến . Cô ta sợ mấy mụ sư tử Hà Đông đã ngửi thấy mùi mèo mỡ nên lúc nào cũng nơm nớp đề phòng. Có tiếng động nhẹ dưới gầm sàn . Con chó vện nằm trong cũi sủa dữ dội. Chẳng lẽ lại là trộm ? Lánh thầm nghĩ . Chúng không biết rằng đây là nhà vợ bé quan tri châu hay sao mà dám vuốt râu cọp ? Cô ta nhẹ nhàng trườn khỏi chăn đệm, đánh lửa châm vào chiếc đèn soi rồi cầm khẩu súng lục Vi Văn Sầm đưa cho để phòng bất trắc , rón rén xuống cầu thang . Trong bóng đêm nhập nhoạng bà Ba nhìn thấy một hình người ngồi dựa chân cột như là đang ngủ gật liền chĩa khẩu súng ổ quay vào hắn quát khẽ:
    - Ai ?
    T
    ừ chân cột có tiếng thì thào :
    - Nước !

    Hắn bị thương. Bà Ba thoáng nghĩ và thận trọng lại gần sờ vào vai kẻ lạ mặt. Người hắn nóng hầm hập. Đúng là đang sốt. Nghĩ vậy cô ta cúi xuống xốc nách dìu hắn lên cầu thang. Bếp lửa được chất thêm củi. Khi ánh sáng bùng lên thì bà Ba bất giác rùng mình với khuôn mặt gớm guốc của gã đàn ông. Đó là một hình nhân thì đúng hơn bởi vì cái đầu hắn trụi sạch tóc, nhẵn thín như quả dưa hấu, thậm chí cặp lông mày cũng biến mất nhưng bộ râu dê thì lại dài một cách đáng ngờ. Nhìn bộ dạng người đàn ông, Lánh thầm đoán, chắc là tù vượt ngục. Sau khi ăn xong bát cháo, khuôn mặt anh ta đã có chút sinh khí. Bà Ba rót cho chén nước nóng, đợi người đàn ông uống xong mới hỏi:
    - Bác mới vượt ngục phải không ?
    - Vâng, đã ba ngày hôm nay không có gì ăn, cảm ơn cô.
    - Ai bảo bác vào nhà tôi ?
    - Đói quá đâm liều cô ạ ! - Người đàn ông nói - Với lại từ chập tối, tôi nấp ngoài góc vườn thấy nhà chỉ có mình cô nên mới dám vào.
    - Bác liều quá. ở châu lỵ này đầy mật thám nhìn thấy cách ăn mặc với đầu tóc của bác là chúng bắt ngay.
    - Hình như cô phải phải là người Thái ?
    - Sao bác nghĩ thế ?
    - Nghe giọng thì biết, người Thái trên này nói tiếng Kinh không sõi lắm.
    - Bác tinh thật. Tên bác là gì ?
    - Cứ gọi tôi là Quảng. Cảm ơn cô, giờ tôi phải đi.
    - Bác chưa đi được, trời đang mưa.

    Quảng ngập ngừng:
    - ở đây lâu sợ liên luỵ đến cô.
    Bà Ba bảo:
    - Chuyện đâu để mai sẽ tính. Đêm nay bác cứ nghỉ ở đây.
    - Thế sao được. Tôi là đàn ông…
    - Không sao. Tôi cũng có ngủ được đâu. Năm nay rét quá.

    Bà Ba giữ người tù ở lại mấy hôm. Rất may những ngày này lão tri châu có công vụ phải xuống các bản Thái vùng Chiềng Om nên anh ta tạm thời được an toàn. Đêm thứ ba, thấy Mạc Thị Lánh chỉ trải một đệm một chăn, người tù có vẻ lúng túng hỏi:
    - Sao cô …?
    - Hôm nay rét lắm tôi muốn nằm chung.

    Người tù không thể từ chối lòng tốt của bà chủ nhưng cũng không có đủ can đảm chạm vào người cô ta. Gần sáng bà Ba vòng tay ghì chặt Trần Quảng vừa khóc vừa kể:
    - Vì hoàn cảnh bắt buộc tôi mới phải nấn ná ở đây sống kiểu già nhân ngãi non vợ chồng với lão tri châu, thế nào rồi cũng có lúc bị mấy con mụ người Thái phát hiện ra. Anh có thể cho tôi đi theo được không ?

    Trần Quảng ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Được, nhưng bây giờ đang giai đoạn giặc khủng bố mạnh, một số cơ sở Cách mạng bị vỡ, nguy hiểm lắm.

    Lánh bảo:
    - Chết tôi cũng không sợ, chỉ sợ bị cột chặt ở vùng người Thái này đến già.
    - Vậy thì tối nay ta sẽ đi.
    - Đi như thế rất nguy hiểm, lính khố xanh hoặc mật thám phát hiện ra thì gay. Tôi có cách này anh xem có được không? - Bà Ba lục trong hòm gỗ sơn then ra mấy tờ giấy đưa cho Quảng - Đây là loại giấy thông hành đặc biệt chỉ cấp riêng cho một số người trong dinh quan châu mà tôi đã lấy trộm trong cái tráp của Vi Văn Sầm. Ta phải sử dụng nó thì mới thoát.

    Trần Quảng xem qua một lượt, mừng lắm hỏi:
    - Cô cũng biết chữ à ?
    - Cũng đọc được chút ít.
    - Thế thì tốt lắm. Nếu đi trót lọt, về đến cơ sở tôi sẽ giới thiệu cô vào hoạt động trong ban phụ vận.

    Sáng hôm sau, hai người đóng giả làm một cặp vợ chồng người Thái đi chợ Bản Then. Quảng đội mũ nồi che cái đầu trọc, nói tiếng Thái khá sõi vì anh ta hoạt động ở vùng cao mấy năm nên bọn lính dõng không mảy may nghi ngờ. Nhưng đến dốc Ban thì có chuyện. Hai tên mật thám chặn những người lạ mặt trình thẻ căn cước và lục soát đồ đạc. Trong chiếc túi thổ cẩm của bà Ba có khẩu súng ổ quay. Chúng mà phát hiện ra thì chỉ có Vi Văn Sầm mới cứu được. Nhìn thấy Trần Quảng, một trong hai gã lính bảo:
    - Cho xem thẻ.

    Người tù lừ mắt:
    - Chúng mày là ai ?
    - Thằng này muốn ăn đạn à ? - Tên mật thám nheo mắt cười gằn - Tao hỏi mày, mày lại hỏi tao, thế là thế nào ?

    Bà Ba móc túi lôi ra mảnh giấy bảo:
    - Nhìn kỹ xem loại thẻ này cấp cho ai ?

    Tên mật thám vừa liếc qua đã vội rập gót chân đưa tay lên vành tai chào.
    - Xin lỗi ông bà, chúng tôi làm phận sự không biết các vị là người của quan tri châu.

    Trần Quảng cười nhạt:
    - Bọn Cộng sản trốn tù nhan nhản thì không bắt được, chỉ giỏi hạch sách người mình.
    Hai người vào chợ lẫn trong đám thanh niên Thái Trắng, quẩn quanh mấy dãy hàng tạp hoá, thấy hai tên mật thám đã đi về phía cuối dốc họ mới lẻn vào rừng. Chuyến ấy Trần Quảng và bà Ba xuống núi an toàn. Đến Hạ Lôi, hai người vào một nhà cơ sở mà Quảng đã vận động tham gia tổ chức từ bốn năm trước. Chủ nhà tiếp đón khá niềm nở. Tối hôm ấy Quảng hơi quá chén, Mạc Thị Lánh phải dìu vào ổ rơm trải ở góc nhà. Món rượu ngâm tắc kè mật ong làm anh ta bị kích động như con thú đói mồi, vồ ngay lấy bà Ba. Vào đúng lúc ấy, con chó Đốm đang nằm ở chái bếp khẽ hực lên một tiếng. Linh tính cho biết có chuyện chẳng lành, bà Ba bấm tay Quảng thì thầm:
    - Hình như có người rình ở ngoài.
    - Đi thôi .

    Quảng khe khẽ mở cánh cửa liếp phía sau. Hai người lẻn ra vườn. Trong bóng đêm lờ mờ, Lánh thấy lão chủ nhà ngoắc tay ra hiệu cho hai bóng đen ra ngoài hàng rào. Bà Ba đưa khẩu súng lục cho Quảng. Họ chạy thục mạng lên sườn đồi chẳng kịp xác định phương hướng, ước chừng năm bẩy chục thước thì gặp hàng rào gỗ. Quảng đỡ bà ba trèo qua hàng rào. Phía sau một chớp lửa loé lên. Tiếng nổ làm Mạc Thị Lánh giật nảy người:
    - Đứng lại ! Chúng mày chạy không thoát đâu.

    Bọn truy đuổi hô hét ầm ĩ, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng kíp hoặc trường mút. Quảng đẩy bà Ba đi trước rồi nép vào gốc cây cầm súng bằng cả hai tay nổ một phát về phía sau. Không ngờ viên đạn trúng mục tiêu. Chỉ nghe đến "ối" một tiếng, một trong hai tên cầm súng kíp khựng lại. Hình như đấy là lão chủ nhà. Cuộc tháo chạy đến gần sáng thì hoàn toàn mất phương hướng. Trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái đều là rừng. Trời âm u lạnh lẽo như địa phủ. Lũ vượn bạc má ngồi ôm nhau dưới tán lá tùm hum của một cây sừng trâu, mắt mở thao láo nhìn hai vị khách lạ nhưng chẳng tỏ thái độ gì. Có lẽ chúng đang đói mà thời tiết vừa mưa vừa lạnh nên không đi kiếm ăn được. Chiều hôm ấy họ gặp nhánh đường mòn dẫn đến con suối lớn. Bờ bên kia, những người thợ sơn tràng đang cốn bè.
    - Sống rồi. - Quảng khẽ reo lên.
    - Anh định theo đám sơn tràng sao ? - Lánh rùng mình khi nghĩ đến mấy thằng đầu trâu mặt ngựa ở phường Bồ Nông.
    - Không, mình chỉ xin họ ít gạo nấu cơm ăn rồi tiếp tục về thôi.

    Sau gần một tháng luồn rừng, Trần Quảng và Mạc Thị Lánh mới về đến Đan Thành. Tại đây anh ta móc nối với tổ chức cũ, nhận công tác mới và đưa bà ba vào hoạt động ở ban phụ vận với bí danh là Dương Thị Xuân.

    Tháng Chín năm Bốn Nhăm, sau khi tham gia cướp chính quyền tỉnh, bà ba được cử làm uỷ viên ban phụ vận, Quảng phụ trách ngành công an. Năm bốn bảy, quân đội Pháp từ Hải Phòng lên đánh chiếm thị xã, Uỷ ban hành chính phải rút về vùng rừng Lạc Lâm để chỉ đạo kháng chiến. Cũng thời kỳ này Quảng bỏ bà vợ hơn mình bốn tuổi ở quê do bố mẹ ép cưới từ năm anh ta mới mười hai, chính thức lấy Mạc Thị Lánh. Bà Ba lúc ấy đã ba tư không ngờ lại có ngày hạnh phúc như thế. Đêm tân hôn, hai người ở trong chiếc lán lợp cỏ tranh, vách ken phên nứa, giữa tiết tiểu hàn buốt thon thót,cô ta gục vào ngực chồng khóc tức tuởi. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc bị đánh mất từ mười mấy năm trước giờ mới tìm lại được. Trong lúc ân ái với Quảng, Lánh lại hình dung ra cuộc mây mưa làm cho đất trời nghiêng ngả trong con thuyền chài trên sông Lăng với Lê Văn Vận. Nhớ tới thằng Côi chăn vịt lần đầu tiên được phá trinh con gái mà không biết cách bị mắng là đồ vô tích sự, nhớ đến lão chánh tổng hách dịch nhưng lực bất tòng tâm … Dù sao tất cả những cái đó chỉ là ký ức của một thời vụng dại. Anh Quảng của bà Ba bây giờ mới là hiện thực. Lánh hết lòng chiều chuộng làm anh ta sướng mê tơi, đêm nào cũng lột trần truồng cô vợ trẻ vầy vò cho đến gần sáng mới ngủ thiếp đi.

    Bẩy năm sau, khi đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản thị xã, Quảng được phân công giữ chức phó chủ tịch phụ trách nội chính. Bà ba, tức tức nữ đồng chí Dương Thị Xuân, làm phó bí thư tỉnh hội phụ nữ. Thật may, thời kỳ Cải cách cả hai vợ chồng đều vô sự. Đây là điều đại phúc. Vì chỉ riêng các cơ quan cấp tỉnh trong cuộc đấu tranh giai cấp này đã có hăm chín người bị coi là có dính líu đến các tổ chức đảng phải phản động trong đó năm bị tử hình, số còn lại phải lãnh án tù từ bẩy năm đến chung thân.

    Có sự can thiệp của ông phó chủ tịch nhưng cũng phải hơn hai tháng sau Lê Văn Nghiên mới được thả. Ra khỏi trại tạm giam, người anh ta chếnh choáng như bước trên mây vì đói và tinh thần hoảng loạn. Kinh nhất là mỗi khi nhớ lại những khuôn mặt đầy sát khí hoặc lạnh như băng và hoàn toàn vô cảm của các ông cán bộ thẩm vấn. Họ là thứ công cụ vô cùng mẫn cán với chế độ không thể dùng tình cảm tác động được. Những người ấymuốn cho ai sống thì sống và nếu cần, chỉ một cái nhếch môi là tính mạng anh đi tong. Chàng trai họ Lê lếch thếch cuốc bộ về quê trong một buổi chiều nắng hanh rất đẹp. Hai bên đường những trà lúa sớm sắp được gặt. Lúa chín vàng đang uốn câu. Lũ sẻ đồng chấp chới, lúc tản ra, lúc tụ lại thành đàn bay ràn rạt, nghe rõ cả tiếng đập cánh.

    3. Một hôm ông Quyển bảo Lê Văn Khải:
    - Cháu phải đi học. Trình độ học vấn như thế mà ở mãi xó rừng này nó phí đi.

    Khải lắc đầu:
    - Cháu mà về Làng Cùa bây giờ là bị bắt ngay làm sao dám mơ tưởng đến chuyện học hành.
    - Ta đã có cách - Ông Cựu kiểm lâm bảo - Ta sẽ nhận cháu làm con nuôi và nhờ ông Nông ích Nghiêm chứng nhận vào hồ sơ.
    Khải xem ra không mấy tin tưởng vào cách làm đầy mạo hiểm của ông Quyển nhưng hoá ra ở vùng cao này sự việc được giải quyết đơn giản hơn nhiều. Chủ tịch xã Bắc Thoòng bảo ông bạn già:
    - Trước hết phải nhập hộ khẩu cho nó vào xã rồi mới làm hồ sơ cử đi học được.

    Thế là Khải thành người họ Lưu, tức là họ của ông Quyển. Từ lúc lên Bắc Thoòng đến nay đã gần hai năm, Khải không nhận được tin tức gì về gia đình. Anh ta không biết rằng, vì không có ruộng mà nhà đành dắt nhau đi ăn mày đến nỗi bà Hai chết dọc đường còn Lê Văn Nghiên phải vào trại giam chịu tội thay mình gần một năm, chỉ thiếu chút nữa thì mắc bệnh tâm thần.

    Ông Quyển và cái Thảo đưa Lê Văn Khải đến tận núi Nứa. Con cọp thành tinh đã bị phường săn bản Thí bắn hạ cách đấy nửa năm. Lúc con cọp chết người ta mới biết nó chỉ có ba chân. Bàn chân thứ tư trúng đạn bị hoại thư, nó lấy lưỡi liếm mãi cho tới khi khớp xương vỡ rời ra rồi ăn da non. Từ đó ngài chúa sơn lâm đi cà nhắc. Người kết thúc số phận nó là một thợ săn chột mắt. Thứ vũ khí ông ta sử dụng không phải là trường mát hoặc súng kíp nhồi đạn phá, mà là một cánh nỏ lắp tên thuốc độc. Ông già mặc tấm áo da hổ, đội mũ lông báo rình đúng bảy ngày ở một hẻm núi trong rừng Phạ Cốc mới phát hiện được con hùm. Mũi tên găm trúng vào bìu dái, đau quá làm nó gầm lên, lao vun vút qua bụi cây bờ suối bất kể là gai góc. Đây là mũi tên đầu có ngạnh, đuôi có cánh nhưng rất ngắn, được phóng đi từ chiếc nỏ cứng, nên tha hồ cho con thú lồng lộn, vẫn cứ lủng lẳng giữa hai chân sau. Chất độc có hoạt tính mạnh phát huy ngay tác dụng. Chưa đầy nửa giờ con hổ đã nằm phục xuống bờ suối, mắt đờ dại , mồm sàu bọt. Vị chúa rừng đã làm mưa làm gió vùng núi Nứa, sát hại bao nhiêu nhân mạng, là nỗi khiếp đảm của bà con dân bản. Nó chết rồi nhưng rất nhiều người vẫn không dám đi chợ Đồng Vài qua lối này. Có điều chắc chắn đó không phải là con hổ mà ông Quyển đã kể, vì Huổi Vằn có một đốm lông trắng như ngôi sao trên trán.

    Năm ngày sau Lê Văn Khải về Hà Nội, nộp đơn thì vào khoa toán trường Đại học sư phạm. Ngày thi chỉ còn gần một tháng. Ông giáo hướng dẫn các thí sinh ôn tập nhìn Khải chẳng có vẻ gì của một thư sinh liền bảo:
    - Sao anh không đăng ký vào lớp dự bị hoặc xin vào Trung cấp sư phạm cho đỡ vất vả ?

    Khải đứng dậy cúi đầu hỏi:
    - Thưa thầy, đề thi ra ở trình độ nào ạ ?
    - Phải học xong bậc phổ thông chín năm mới có hy vọng đỗ kỳ này.
    - Thưa … em sẽ cố gắng, nếu không được cũng đành chịu.

    Đây là khoá tuyển sinh đầu tiên của trường Đại học sư phạm, đề ra không đến nỗi khó lắm, nhưng số thí sinh trúng tuyển thấp không đủ chỉ tiêu vào khoa. Lê Văn Khải đỗ với số điểm khá cao được xếp vào học ngay hệ chính thức. Thời ấy, học đại học, sinh viên tuy được nhà nước bao cấp, nhưng mức sinh hoạt nói chung là thấp, nếu gia đình không gửi thêm tiền thì sống rất chật vật. Khải bắt đầu nghĩ đến chuyện kiếm việc làm để có thêm năng lượng bổ sung vào bữa ăn hàng ngày vốn rất đạm bạc của nhà ăn tập thể. Một buổi sáng chủ nhật, mấy anh em trong ký túc xá rủ nhau ra bến phà Đen đội than từ xà lan dưới sông đổ lên bãi. Phần lớn các nhà giáo tương lai đều "dài lưng tốn vải" không quen lao động thổ mộc, mới nửa ngày đã bỏ cuộc vào trong phố tìm nghề khác. Lê Văn Khải có khá hơn nhưng sau nửa tháng cũng phải từ biệt chân cửu vạn vì đội than vừa bụi bặm vừa đau cổ. Sau một ngày ở bến phà về trông anh ta bẩn thỉu, nhếch nhác chẳng khác gì thợ móc cống ở công ty vệ sinh. Có lần Khải làm quen được với một cô gái điếm trong đêm từ bên phà Đen cuốc bộ về ký túc xá. Cô gái còn khá trẻ, xinh xẻo, mới trốn từ Hoà Bình về sau bốn tháng bị quản thúc trong trại "phục hồi nhân phẩm" cùng hơn hai trăm chị em trong đợt làm lành mạnh môi trường xã hội ở Thủ đô. Đêm đông lá bàng rơi xào xạc trên hè phố. Những ngọn đèn đường thưa thớt treo trên cao tít toả thứ ánh sáng vàng vọt làm bóng người dài ra, đôi khi bị gió bắc đánh tạt ngang khiến mọi vật đều biến dạng thành vô số hình thù quái dị. Thỉnh thoảng một gánh phở đêm dừng lại ở một góc phố. Ông phở già rao "phở ơ … " một cách lười nhác.

    Đêm có lẽ đã khuya lắm. Gió chạy dọc hè phố. Gió xát xuống nền gạch nghe như tiếng lưỡi dao miết vào hòn đá ráp. ở một ngôi chùa nào đấy trong hẻm vẫn còn thỉnh chuông. Cô gái mảnh mai mặc bộ quần áo tân thời, dép nhựa cao gót bất chợt từ một ngõ vắng bước ra nắm lấy vạt áo dính bụi than của Khải:
    - Anh ơi ! Cho em xin chiếc bánh mi.

    Khải sững người. Từ khi ra thành phố đến giờ anh ta chưa bao giờ gặp cảnh này nên cứ lúng ta lúng túng không biết làm thế nào cho phải. Cô gái ghé tai chàng đội than thì thầm :
    - Đi với em.
    - Đi đâu ? - Khải khẽ hỏi khi ngửi thấy mùi nước hoa rẻ tiền được sức rất đậm trên người cô gái ăn sương.
    - Ra vườn hoa, em sẽ chiều anh …

    Trong túi Khải có mấy chục ngàn tiền công vừa nhận chiều nay. Anh ta nhìn ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn của cô gái biết rằng không thể không đi nhưng thấy mình ăn mặc nhếch nhác quá nên đâm ngượng :
    - Quần áo tôi … bẩn lắm, hay là để hôm khác.

    Cô gái nhoẻn miệng cười:
    - Không hề gì, anh đi với em.

    Công viên mùa đông thưa người, nửa đêm lại càng vắng. Thấp thoáng giữa những lùm cây, một vài cặp trai gái ôm nhau. Có đôi ngồi dưới gốc cây du, người đàn ông bế tình nhân trong lòng, hai tay nắn bóp bầu vú, miệng thì thầm chuyện đó. Có mùi hương rất lạ giống như hoa nhài mà lại không phải hoa nhài từ một cụm cỏ ngay chỗ Khải và cô gái ngồi thoang thoảng bay lên. Đó là thứ hoa cánh nhỏ mà dài như hình mũi tên màu trắng đục, nhuỵ tím sẫm. Dưới ánh đèn tuýp xanh nhợt, cảnh vật hiện ra vừa lạnh lẽo vừa hoang sơ, thậm chí cô đơn chẳng khác gì một khu rừng nguyên sinh thời tiền sử. Cô gái điếm có lẽ chưa quá hai mươi vầng trán hơi dô, cặp mắt dài và đôi môi mọng làm cho gương mặt đặc biệt sinh động. Cô ta gỡ cúc bấm ở cổ và nách, cởi áo dài, để lộ khuôn ngực còn rất căng được nịt chặt bằng chiếc xuchiêng trắng . Lê Văn Khải chợt thấy người nóng bừng vội quay mặt đi hỏi bâng quơ :
    - Quê em ở đâu ?

    Cô gái miễn cưỡng trả lời :
    - ở gần sở Máy chai Hải Dương. Nào, anh mở hộ em cái khuy sau lưng.
    - Cởi ra làm gì, em không lạnh à ? - Lê Văn Khải khẽ bảo khi nhìn thấy làn da tím tái của cô gái dưới ánh đèn nê ông màu nõn chuối.
    - Không. -Cô gái nhẹ nhàng đặt tay lên vai chàng sinh viên - Để cho anh xem … Chiếc khuy bật ra. Cô gái cầm tay Lê Văn Khải đặt lên ngực.

    Cặp vú khá mẩy so với khuôn ngực, có vẻ như mỗi lúc một nóng và nở ra khi bàn tay anh ta miết vào. Người Khải run lên bần bật nhưng rồi chẳng hiểu nghĩ sao anh ta lại quàng tấm áo lên người cô gái:
    - Em mặc vào đi.

    Cô gái thẫn thờ hỏi:
    - Anh không muốn ?

    Khải lắc đầu:
    - Anh thương em. Vì sao phải bỏ nhà ra đây ?

    Cô gái điếm sụt sịt khóc:
    - Bố em bị toà án Cải Cách xử tử vì gia đình thuộc thành phần tư sản phản động. Nhà cửa bị tịch biên. Mẹ cũng mất sau đó ít hôm vì bệnh tim.
    - Anh em không còn ai sao?
    - Anh cả đi bộ đội, hoà bình không thấy về, còn anh hai với bố em không hợp nhau, hồi cải cách chính anh ấy lên đấu bố.
    - Em ra Hà Nội từ bao giờ ?
    - Mới được gần một năm rồi bị công an bắt lên Hoà Bình . -Cô gái nhìn Lê Văn Khải rụt rè hỏi - Anh là công nhân bến phà Đen phải không ?

    Khải ngẫm nghĩ một thoáng rồi quyêt định nói thật:
    - Tôi đang học Đại học Sư Phạm nhưng tối nào cũng phải đi bốc vác kiếm thêm.

    Nói rồi anh ta lấy già nửa số tiền trong túi đặt vào tay cô gái :
    - Em cầm lấy đi.

    Cô gái điếm giãy nảy:
    - Không, em không lấy đâu.

    Khải phải làm mặt giận:
    - Cầm lấy ! Em đang đói kia mà.

    Bỏ nghề cửu vạn, Lê Văn Khải được một anh bạn cùng lớp giới thiệu làm gia sư cho một gia đình ở phố Hàng Vò. Học trò của anh là một thiếu nữ mười bảy tuổi bị liệt hai bàn chân, phải đi nạng, có gương mặt đẹp và cái tên cũng rất đẹp: Phi Điệp. Cô nàng mắc chứng hoang tưởng, học thì ít mà chủ yếu giành thời gian viết thư tình cho đủ loại nhân vật nổi tiếng trong các tiểu thuyết lãng mạn. Ngăn bàn của Phi Điệp có hàng trăm phong bì dày cộp dán cả tem bưu chính hẳn hoi. Đó là những bức thư tỏ tình sướt mướt kèm theo vô số lời trách móc hoặc hứa hẹn bằng thứ ngôn ngữ "Bí mật thành Ba lê" hoạc "Trà hoa nữ" mà đối tượng thường là những chàng Trixtăng, Mariuýt, Đáctanhăng, Văn Quân, Lộc hoặc Điệp … Ông bố Phi Điệp làm Đại sứ tại một nước Đông Âu, trước khi đi nhậm chức ông ta bảo Lê Văn Khải :
    - Thày mà dạy em nó đạt trình độ toán lý hoá bậc trung học gia đình sẽ có thưởng.
    - Sao hai bác không cho em Điệp đến trường ?

    Ông Đại sứ thở dài:
    - Nói mãi mà nó không nghe. Thầy biết đấy, nó bị tật bẩm sinh ở bàn chân nên mặc cảm với bạn bè.
    - Nhưng còn chuyện này, - Khải nhìn ông cán bộ ngoại giao thăm dò - chắc bác biết Điệp hay viết thư …

    Ông Đại sứ lắc đầu tỏ vẻ chán nản:
    - Đấy chính là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch còn rơi rớt lại. Tôi mà có quyền tôi sẽ ra lệnh tống tất cả bọn viết lách lăng nhăng làm mê hoặc con gái nhà lành vào trại cải tạo, vĩnh viễn phải treo bút.
    -Bác nói có lý. - Lê Văn Khải ngoài miệng tuy tán thành nhưng trong lòng thoáng giật mình - Những quan chức như thế này mà lãnh đạo quốc gia thì nền văn hoá dân tộc sẽ đi đến đâu ?

    Sáu tháng trôi qua. Trình độ học vấn của Phi Điệp vẫn dẫm chân tại chỗ, nhưng kỹ năng viết thư tình đặc biệt tiến bộ do có sự trợ giúp của Lê Văn Khải. Không hiểu nghĩ thế nào, cô học trò bàn với thày viết thư cho Ca di mô đô và chàng Vọi. Cô nàng có cả một kho từ vựng phong phú về tình yêu, hễ cứ đặt bút là tự nó trào ra nhiều lúc viết không kịp. Ví dụ, mở đầu bức thư gửi cho thằng Gù, Phi Điệp viết:

    "Cadimôđô gù khốn khổ của em ! Tại sao chàng lại dại dột si mê con bé phù thuỷ Exmêranđa để rồi phải treo cổ tự vẫn vì mụ ta ? Giá mà chàng đừng si tình, cứ bền bỉ kéo chuông ở nhà thờ Đức Bà thì biết đâu bây giờ chúng ta có thể gặp nhau. Tuy chàng hình dung cổ quái nhưng em yêu chàng hơn tất cả những người đàn ông điển trai trên đời này gộp lại. Em yêu cái bướu trên lưng chàng, yêu tâm hồn cao quý trong hình hài ma quỷ của chàng. Chàng chết đi làm cho nhân loại mất giống Cadimôđô, không phải chỉ mình em tiếc thương mà tất cả phụ nữ đa cảm còn sống và đã chết trên hành tinh naỳ đều vô cùng đau buồn. Ôi Cadimôđô khốn khổ của em!"

    Vào đầu năm thứ hai, Khải vẫn tiếp tục dạy kèm cho Phi Điệp. Giữa lúc thầy trò đang lập kế hoạch sáng tạo bức thư bất hủ gửi cho chàng Đônggioăng nổi tiếng thế kỷ mười tám là Sở Khanh thì sự nghiệp gia sư của anh sinh viên sư phạm đột ngột chấm dứt vì một sự cố ngoài ý muốn.

    Sáng hôm ấy, sinh viên trong ký túc xá đang chuẩn bị lên lớp thì dưới sân trường xuất hiện bốn người đàn ông nhà quê. Họ cứ đi đi lại lại dưới chân cầu thang như đang đợi ai đó. Quả nhiên, Lê Văn Khải vừa bước xuống, một người chân vòng kiềng đã chặn lại :
    - Anh là Lê Văn Khải ?

    Khải sững người. Đứng trước anh ta không phải ai khác mà chính là Bùi Quốc Tầm, Chủ tịch xã Đoàn kết. Trưởng công an Trương Đình Tái hất hàm ra hiệu cho hai dân quân rồi bảo Lê Văn Khải :
    - Đi theo chúng tôi !

    Biết là sự việc đã bại lộ nhưng Khải vẫn hỏi :
    - Tôi phạm tội gì mà các ông bắt ?

    Bùi Quốc Tầm trả lời cộc lốc:
    - Về nhà khắc rõ.

    Khải lắc đầu:
    -Các ông bắt người trái phép, tôi phải báo cáo với nhà trường đã.

    Trương Đình Tái nhếch môi cười rất đểu:
    - Anh không phải lo chuyện ấy. Hôm qua chúng tôi đã làm việc với ban lãnh đạo nhà trường về hành vi khai man lý lịch đi học đại học của anh.

    Trưởng công an nói đúng. Lúc này cả hiệu trưởng, hiệu phó lẫn trưởng phòng tổ chức đều đã có mặt dưới sân. Tò mò nhất là đám nữ sinh viên. Họ không biết chuyện gì xảy ra mà có cả mấy ông dân quân khoác súng đến trường đại học. Ông hiệu trưởng vỗ vai Khải thông cảm:
    - Việc này hoàn toàn do chính quyền địa phương làm, nhà trường không thể can thiệp, em đừng trách ban giám hiệu.

    Về đến làng Cùa Khải mới biết, kẻ tố cáo anh là thằng Loát, con trai bí thư đảng uỷ Lại Quang Nghinh. Thằng này học dốt nhưng vì có ông cậu làm phó ty công an nên được cử đi học lớp dự bị Đại học sư phạm. Một hôm, đến nhà ăn, nó nhìn thấy Lê Văn Khải liền viết thư về cho bố. Nghinh bàn với Bùi Quốc Tầm rồi kéo nhau sang tỉnh gặp phó ty. Nghe Tầm trình bày sự việc ông ta bảo:
    - Tội khai man lý lịch là rất nặng, có thể phải đi cải tạo tập trung vài năm. Bây giờ tôi ký cho xã một cái lệnh, các anh đem người lên trường đem nó về đây.

    Khải bị giam ở huyện công an. Đoàn Danh Thẩm, cán bộ điều tra, bắt anh ta khai tỉ mỉ từ lúc bỏ làng ra đi đến khi luồn được vào trường đại học bằng hồ sơ giả mạo. Lần này thì Thẩm có chứng cứ rõ ràng, khác hẳn thời kỳ hỏi cung Lê Văn Nghiên nên thái độ rất kẻ cả, thậm chí hách dịch thái quá làm Khải chỉ muốn nhổ vào mặt. Có sự trùng hợp là phòng giam của Khải cũng chính là chỗ giam Nghiên hơn một năm về trước.

    Khúc Thị Hài lại phải cắp nón lên nhà 15 phố Đông Sơn. Lần này bà ta được gặp cả Trần Quảng. Nghe bà Hài kể rõ sự tình ông phó chủ tịch hỏi:
    - Cuối năm năm sáu, phần lớn các đối tượng bị Đội Cải cách xử lý sai đã được minh oan, riêng trường hợp của đồng chí Lê Văn Vận chưa thấy Uỷ ban huyện báo cáo lên. Ngày mai làm việc với bên công an, kết quả thế nào tôi sẽ thông báo cho chị.

    Bà Ba trách chồng:
    - Anh Vận không phải cán bộ thường mà là chủ tịch huyện Nam Thành bị bắn oan vậy mà tại sao đến giờ vẫn chưa được phục hồi danh dự ?

    Ông Quảng nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Hình như trong thời kỳ hoạt động trước năm bốn nhăm, lý lịch của ông ấy có một vài chỗ không rõ ràng vì thế bên công an kiến nghị tạm dừng để xác minh thêm.

    Bà Ba bảo:
    - Chờ được vạ thì má sưng. Họ có biết rằng công an ngâm hồ sơ bao lâu thì con người ta ngồi trong trại bấy lâu không ? Anh đã ở trong tù anh lạ gì chuyện đó.

    Ông phó chủ tịch thấy vợ nổi nóng liền dàn hoà:
    - Thôi được, việc này cứ để tôi lo.

    Bà Hài rân rấn nước mắt:
    - Trăm sự nhờ ông cứu giúp, mẹ con tôi không dám quên ơn.

    Trần Quảng gật đầu:
    - Chị cứ yên tâm, trong tuần này cháu sẽ được về.

    Ông phó chủ tịch giữ một nửa lời hứa, mười ngày sau Lê Văn Khải ra khỏi trại giam, còn nửa kia tức là việc minh oan cho Lê Văn Vận vẫn còn vướng mắc ở một khâu nào đó nên phải gác lại.
    ở nhà được nửa tháng, Lê Văn Khải rủ Lê Văn Nghiên sang Thượng Đáp làm thợ đấu vì mấy mẹ con không có ruộng, lại những ba miệng ăn thường xuyên bị đói. Nghiên bảo:
    - Anh thử ra Hà Nội xin học lại xem sao.

    Khải lắc đầu:
    - Chú nghĩ đơn giản lắm, qua sự việc vừa rồi liệu lão Tầm có chứng nhận vào hồ sơ cho anh em mình bước ra khỏi làng Cùa một cách đàng hoàng không ?
    - Có thể là hắn đố kỵ không muốn ai hơn mình.
    - Không phải chỉ riêng lão ta mà cả Lại Quang Nghinh, Trương Đình Tái cũng vậy.

    Bà Hài nghe hai anh em bàn nhau liền gợi ý:
    - Việc đi học của Khải mẹ lại phải lên tỉnh gặp bà Ba một chuyến may ra thì được.

    Lần này Lê Văn Khải không tin tưởng lắm vào chuyến đi của mẹ. Anh ta cũng bỏ ý định làm thợ đấu, sắm chiếc thuyền và tay lưới ra sông Lăng đánh cá. Sông Lăng, cồn Vành, ngòi Mác không của riêng ai. Nghề hạ bạc có cái thú riêng của nó là tha hồ ngắm mây trời sông nước, cuộc sống đạm bạc nhưng hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào bất cứ sự ràng buộc nào. Nhưng rồi dự kiến cam chịu làm anh dân chài của Khải không thành. Anh ta chỉ lênh đênh trên sông Lăng được bốn tháng. Chuyện bắt đầu từ lúc bà Hài lên tỉnh gặp bí thư phụ nữ. ít lâu sau ông Quảng cử một phái viên về làng. Anh cán bộ an ninh này đến gặp Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái, trao cho họ những giấy tờ gì đó rồi lên xe đi ngay. Ba hôm sau, Trương Đình Tái đến nhà bảo Lê Văn Khải làm một bản sơ yếu lý lịch. Khải viết khá lâu. Anh ta phải chọn từng chữ để làm sao nó không gây ấn tượng xấu đối với các nhà tổ chức khi đọc đến những đoạn then chốt liên quan đến thành phần gia đình. Về phần họ tên bố và quá trình hoạt động, Khải cắn bút suy nghĩ mãi không biết viết thế nào cho xuôi, cuối cùng vẫn phải hạ bút viết những dòng như sau: "Lê Văn Vận, đảng viên đảng lao động Việt Nam, hoạt động cách mạng từ năm 1935. Năm 1939 bị đế quốc bắt, đi tù Yên Bái. Tháng ba năm 1941 vượt ngục tiếp tục hoạt động ở Cao Tân. Tháng chín năm 1945, chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Thời kỳ Cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng, bị xử bắn ngày 27 tháng 01 năm 1955.

    Xem đến đây Bùi Quốc Tầm cau mày:
    - Anh viết sơ yếu lý lịch thế này thì không một trường đại học nào người ta dám nhận dù là đỗ thủ khoa. Trước mắt, nếu muốn đi học phải bỏ ngay cái đoạn "thời kỳ cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng bị xử bắn …" đi, tạm thời thay bằng "chết tháng 01 năm 1955".
    - Sự thật đúng như thế cơ mà ?
    - Tôi không phủ nhận nhưng trong lý lịch ghi như thế là chính quyền nhân dân có nợ máu với gia đình ông Vận, cho dù có được minh oan đi nữa thì cũng chẳng ai dám đứng ra đảm bảo là sau này anh em nhà anh không nuôi oán hận.

    Khải vẫn còn chần chừ :
    - Tôi sợ đến một lúc nào đó lại bị đuổi ra khỏi trường vì khai man lý lịch .

    Bùi Quốc Tầm gằn giọng:
    - Anh có học mà dốt như bò. Chính quyền xã không làm việc ấy thì bố đứa nào dám thọc mũi vào. Mà tôi cũng nói để anh biết, đây là ý kiến của ông Trần Quảng, phó chủ tịch tỉnh, xã phải chấp hành, nếu không mãi mãi các anh chỉ là những tay gõ thuyền đánh cá trên sông Lăng. Thôi về đi, nhớ bảo bà Hài sáng mai ra đồng nhận ruộng.

    Lần này Khải nộp đơn thi vào Đại học Nông Lâm. Thực tình anh ta cũng tiếc ngành sư phạm nhưng không muốn trở lại trường cũ vì đã muộn gần một năm, nhưng cái chính là ngại gặp bạn bè sau vụ bị Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái lên tận ký túc xá bắt về. Đề thi tuyển thuộc loại khó nhưng Lê Văn Khải không ngại, Anh ta làm ba bài gần như trọn vẹn, đỗ thứ năm được xếp vào khoa Thú y là một ngành học khá danh giá thời bấy giờ.

    (còn tiếp)

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Về Bà Chiểu, rảo Hàng Bàng
    By TAM73F in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-21-2015, 06:48 AM
  2. Trình Làng
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 04-28-2015, 04:14 AM
  3. Hồi ức
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 02-24-2015, 03:21 AM
  4. Trận Ba Làng An
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-10-2014, 01:36 AM
  5. Làng Tôi
    By PS khoá 72G in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-13-2009, 10:10 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •