Remember ?

Trang 1/3 123 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 15

Tựa Đề: Ký ức làng Cùa

  1. #1
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Ký ức làng Cùa


    Ký ức làng Cùa
    Đặng Văn Sinh

    Chương 1

    Vào một đêm mùa Hè năm Mậu Ngọ, có ngôi sao băng từ dải Ngân Hà rơi xuống phía đông nam làng Cùa, kéo thành một vệt sáng chói, cong như lưỡi kiếm, kèm theo tiếng nổ rùng rùng như sấm động. Sáng ra dân làng vô cùng kinh ngạc khi thấy dải đất trồng dâu đồng Bìm Bịp bị khối thiên thạch khoét thành một cái đầm lớn, nước đục ngầu, vẫn còn sôi sùng sục....Cái đầm ấy giờ gọi là đầm Ma.

    1. Gần trưa ngày mười tư tháng Bảy, Chánh Tổng Khúc Đàm đang xử một vụ tranh chấp đất đai ở làng Bối Khê thì hay tin bà Ba bị đắm đò sông Lăng, sắp đến rằm xá tội vong nhân, già nửa đàn bà con gái làng Cùa kéo nhau sang chợ Lành mua hoa quả, vàng hương, tiền giấy, voi giấy, ngựa giấy và cả chó giấy về cúng cháo thí.

    Sông Lăng ngày thường rộng chưa đầy trăm thước, nước trong vắt, có thể nhìn rõ những con cá đồng tiền lượn lờ giữa đám rong đuôi chồn vảy lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Những chú cá măng kìm mõm dài ngoẵng, lỗ mũi phình ra như mũi lợn rừng, lao vun vút tựa tên bắn rượt theo đám đòng đong. Lũ “thảo dân” này có cái đầu quá khổ vì phải vác đôi mắt thô lố, gồ lên, đỏ đòng đọc chẳng khác gì ngọn đèn báo hiệu lâu ngày không được lau chùi trước cửa các tiệm cô đầu. Thỉnh thoảng vào những hôm đẹp trời, dòng nước trong vắt như mắt mèo, sau một cơn mưa bóng mây, bỗng như có phép thần, chuyển sang vàng sẫm rồi đỏ hồng như màu cà chua chín. Khối màu sắc lạ mắt này không ổn định mà cứ chuyển động uốn éo tựa như dải san hô với hàng tỷ xúc tu mềm mại đang đưa đẩy theo nhịp thở của biển. Đám du ngư ấy là loài cá trầm ba sọc từ cửa sông ngược về thượng nguồn, tìm loại rêu ký sinh bên vách đá vôi trên ngọn thác cao nhất của dãy Nham Biền. Cá trầm ba sọc nhỏ bằng bàn tay, toàn thân vàng óng như quả mướp vừa chín hoặc hồng nhạt tựa trái doi rừng, dưới bụng có ba vệt đen mảnh như sợi chỉ, đem tẩm rượu rồi hấp cách thuỷ thì không có một món cao lương mỹ vị nào sánh kịp. Từ lâu lắm, người dân làng Cùa truyền lại cho nhau, chỉ vào những năm loạn lạc hoặc thiên tai mất mùa cá trầm ba sọc mới kéo nhau ngược sông Lăng tìm rêu đá. Đã mấy chục năm rồi, bắt đầu từ cuối tháng Ba, người ta lại được chứng kiến canh tượng trên.

    Bây giờ sông Lăng đang mùa lũ. Nước lên ngập lút cả rẻo cồn bên phía làng Nội. Mặt sông mở ra gấp ba bốn lần. Từ trên cao nhìn xuống, con đò ngang giống hệt chiếc lá tre mỏng manh, đơn côi bập bềnh giữa dòng nước chảy xiết. Đó là chiếc thuyền gỗ rạn nứt, bạc phếch, và đầy bất trắc, là vật sở hữu của ông Tình - một lão già chống thuyền thuộc loại siêu đẳng nhưng nát rượu - đã ba mươi năm nay. Không ai biết rõ bệnh tật con thuyền bằng chính ông chủ của nó, nhưng mỗi khi lão Tình đến trình Hội đồng sắc mục xin tiền sửa chữa thì Lý Lượng lại bảo:

    - Con đò ấy đóng bằng gỗ thành ngạnh còn tốt chán. Lão chờ ít lâu nữa đến vụ thuế làng sẽ lo.

    Lý trưởng hứa ba năm liền nhưng sau vụ thuế chẳng thấy động tĩnh gì. Những chỗ rạn nứt, nước ngấm vào, lão phải trộn vôi cát với mật mía trét tạm. Vậy là con đò vẫn lầm lũi sang ngang. Mỗi chuyến chở được mười hai người kể cả lái thuyền. Dân làng Cùa thích chợ Lành hơn là chợ Cháy dù rằng đi chợ Lành phải qua sông Lăng. Chợ Cháy chính là chợ Huyện, vừa xa nửa ngày đường vừa bị thu thuế cả người bán lẫn người mua. Viên khán thị là cháu tri huyện Cáp Văn Tòng, người làng Vũ La nổi tiếng tham ăn. Thành thử mấy năm qua, bà con các làng ven sông Lăng bảo nhau dạt sang chợ Lành buôn bán, tuy cách sông nhưng chỉ mất một thôi đường. Vậy là cái cửa khẩu sông Lăng ngày càng trở nên sầm uất, nhất là vào dịp tết hoặc hội làng, đình đám.

    Hôm ấy, mặt trời lên chừng hai con sào, lái Tình đã đưa được ba chuyến sang sông. Mặc dù dòng nước chảy cuồn cuộn, thỉnh thoảng một luồng gió ngược thốc mạnh chồm tới tưởng có thể nuốt chửng toàn bộ con thuyền cùng đám hành khách mặt vàng như nghệ, nhưng lão vẫn bình tĩnh, môi hơi mím lại, trán lấm tấm mồ hôi, thong thả đưa con đò già nua ra khỏi vùng nguy hiểm. Xong chuyến cuối cùng, lão cắm thuyền, vào túp lều cạnh đê, lôi ra quả bầu khô, mở nút lá chuối làm một tợp. Thứ rượu làng Đọi cất bằng gạo nếp con, men Trại, uống vào ruột gan cứ lâng lâng như đang bay trên mây. Lão cắn một miếng chuối xanh chấm muối ớt rồi ngẩng lên nhìn trời. Vòm trời cao vút, xanh đến nhức mắt. Từ đâu đó vọng lại tiếng ì ầm. Lão vừa nhắm rượu vừa càu nhàu:

    - Mả mẹ nó! Mưa gì mà lắm thế.

    Vừa dứt câu chửi, một tiếng sét long trời sạt ngay trước mái lều. Căn lều bốc cháy ngùn ngụt. Lão đang chếnh choáng chỉ kịp vơ vội nậm rượu vọt ra. Lửa lém cả vào mông đít, khói bốc khét lẹt. Lão vội nhảy ùm xuống sông, quả bầu khô tuột khỏi tay nổi lềnh phềnh giữa đám rều rác. Phù sa mát lạnh làm lão Tình tỉnh rượu và sực nhớ ra nhiệm vụ phải đón các bà đi chợ về. Lão nhanh nhẹn lẩn vào bụi duối bên miếu Đức Ông, cởi chiếc quần đùi và chiếc áo cánh nâu mốc thếch vắt cho ráo nước, lấy dây gai buộc túm chỗ bị thủng, mặc vào rồi chèo thuyền sang bên kia sông. Lúc ấy gió đang đổi chiều. Những cụm mây màu cánh vạc hình thù kỳ dị không giống bất cứ thứ ma quỷ nào trong tưởng tượng của con người, thốc ngược từ ngã ba Môi lên, trong giây lát nở tung toé, giống hệt loài bạch tuộc gặp kẻ thù phun ra thứ hoả mù, làm bầu trời tối sẫm, lạnh lẽo. Con đò rời bến chừng nửa khắc thì trời đổ mưa. trận mưa rào kèm theo những viên đá bằng hạt ngô rất hiếm thấy vào dịp tháng bảy, rơi lộp độp vào nón lá, áo tơi, thúng mủng của các bà đi chợ về. Đá gõ xuống sạp thuyền, be thuyền rào rào. Những viên đá trong suốt, lạnh buốt, tan trong chớp mắt qua lần áo mỏng làm các bà các cô run rẩy, co người lại, ngồi sát nhau tìm hơi ấm.

    Bà Ba mua một gánh hàng mã. Hàng cồng kềnh. Tấm vải buồm che không xuể, bị nước mưa tuốt sạch lớp giấy hồng điều, trang kim, còn trơ lại bộ xương tre dính nhoe nhét hồ và phẩm màu. Nhìn đống hoa man, chỉ vì trận mưa quái ác, bỗng chốc trở thành đồ phế thải, bà Ba nghiến răng nghiến lợi, lầm rầm trong miệng rồi quẳng tất cả xuống nước tiến cống thần Thuồng Luồng. Những bộ xương voi, ngựa, chó… lặn hụp một lúc giữa dòng phù sa đỏ như máu rồi biến mất dưới lớp sóng cuồn cuộn gầm réo ùng ục. Lão lái gò lưng chèo ngược nước cố ghếch mũi thuyền để nó khỏi bị hút về phía vực xoáy. Mưa sầm sập như trút nước. Mặt sông mỗi lúc lại rộng thêm. Mặt nước và bầu trời phút chốc như hoà vào nhau, tạo thành một khối xám xịt, bùng nhùng. Gió và sóng lưỡi búa vặn đò kêu răng rắc. những âm thanh chết người ấy lúc rồ lên như kéo bễ, lúc lại khò khè như hơi thở của lão già sắp lìa đời bởi căn bệnh suyễn kinh niên. Mười một khuôn mặt trắng bệch cùng với mười một cặp mắt thất thần đang trong trạng thái tột cùng của nỗi kinh hoàng. Lão Tình gồng người uốn cong mái chèo, chân choãi ra cố giữ thăng bằng nhưng con thuyền quá già nua chẳng những không hề nhích thêm một bước mà còn đang có xu hướng trôi dần về phía vực xoáy. Bỗng “rắc” mái chèo gỗ nhãn bị gẫy, con đò lập tức nhấc bổng lên và chỉ trong chớp mắt, nó đã mất hút sau khi đã xoay đủ một vòng quanh cái phễu nước không đáy, sôi sùng sục như vạc dầu khổng lồ của Diêm Vương. Lái Tình vốn là tay giỏi bơi lội. Lão quẫy đạp một cách ngoan cường, đầu chúi xuống, mông chổng lên trời để hở cả mảng quần cháy buộc túm bằng dây gai nhưng đã bị tuột ra trong lúc nhào lộn giữa sóng dữ. Nhưng, nói như câu châm ngôn trong sách của ông đồ Khúc Kiệt, “Nhân giả, bất khả kình thiên dã ”, bản mệnh của lão lái đò đã được đến giờ Tỵ ngày mười bốn tháng bảy. Lão không bị Hà Bá cuốn xuống vực nhưng lại chết vì thiếu chất men trợ sức. Mấy hôm sau, người ta tìm thấy lão tấp lên mép cồn Vành. Người lão lép kẹp, chiếc quần lá toạ bở bùng bục nhũng nhẵng bám ngang sườn như là không muốn rời khổ chủ, khuôn mặt sạm nắng gió vẫn thanh thản như đang ngủ chẳng có gì giống một kẻ chết trôi.

    Trong số mười một nạn nhân, chỉ có bà Ba, lúc rơi vào vực xoáy là hai tay vẫn bám chặt vào gióng ngang cuối mũi thuyền. Hành động này có lẽ do bản năng sinh tồn khơi dậy trong tiềm thức hơn là kinh nghiệm tích luỹ được của một cô gái hai mươi tuổi. Sau khi đã nhấn chìm hết lần lượt đám hành khách xấu số, con thuyền bị sức nước đẩy trồi lên cách miệng vực xoáy chừng dăm chục thước, phần lái vỡ toác, phần mũi vặn vỏ đỗ, nửa nổi nửa chìm trông giống như cái vây lưng của cá nhà táng.

    Vào lúc ấy, có một người đàn ông quăng chài ở cồn Vành nhìn thấy con thuyền gặp nạn. Anh ta vội quẳng đồ nghề, bất chấp dòng nước chảy xiết, nhoài ra, và chỉ bằng mấy sải tay đã bám được vào be thuyền. Phải mất khá lâu người đàn ông mới gỡ được hai bàn tay cô gái ra khỏi gióng ngang, đặt đầu nạn nhân lên vai rồi nương theo dòng nước tấp vào bờ. Người đàn bà hầu như đã chết. Mái tóc bết lại, nhờn nhờn một lớp phù sa đặc quánh. Chiếc váy lĩnh chẳng biết tuột ra từ lúc nào,trên tấm thân tím tái chỉ còn trơ lại manh áo dài bằng lụa điều nhưng đã bị nước dứt hết phần vạt, ngang đến thắt lưng. Vốn đã quen với những tai nạn sông nước như thế này, người đàn ông bình tĩnh cởi chiếc quần lửng mặc cho người thiếu phụ, tháo ruột tượng sồi vẫn quấn ngang lưng làm khố rồi xốc ngược cô ta chạy trên mặt ruộng đầy những thân ngô mà do mùa lũ đến sớm dân làng Nội chưa kịp thu hoạch. Chừng già một khắc, khi bà Ba nôn ra hết thứ nước hung hung đỏ như gạch cua thì anh quăng chài đặt cô ta nằm ngửa lên gò đất cao, trèo lên bụng, hít một hơi thật dài rồi kề cái mồm đầy râu vào miệng nạn nhân mà thổi. Hơi thở nóng bỏng, nồng nàn đầy truyền cảm và sự đụng chạm xác thịt dần dần có tác dụng. Đến lần thứ chín hay mười gì đó thì cặp môi xinh đẹp nhưng hơi đầy của người đàn bà bắt đầu động đậy…

    Khi dân làng Nội hay tin đò ngang của lão Tình bị đắm, kéo ra cồn Vành thì bà Ba đã được anh thuyền chài cứu sống. Mãi đến gần tối, cơn mưa tạm ngớt, một chiếc thuyền đinh bên tả ngạn mới dám vượt sông sang đón bà Chánh về.

    Ngày hôm sau, tức là rằm tháng bảy, chánh tổng Khúc Đàm cùng mười gia đình có người nhà ngộ nạn ra bờ sông Lăng làm lễ cầu hồn. Riêng ông Chánh còn có một lễ tạ ơn thần Thuồng Luồng đã không bắt vợ mình xuống thuỷ cung làm nữ tỳ.

    2. Cơ ngơi của chánh Đàm thuộc loại bề thế nhất làng Cùa nhưng không phải gia sản của ông cha để lại mà do mới phất lên từ khi lão đi lính về. Nghe đâu hồi ở chiến trường Tây Âu, chánh Đàm đóng đến lon đội, có huân công, được thưởng Anh dũng bội tinh nên khi giải ngũ về nước được chính phủ Pháp trợ cấp một khoản niên bổng. Số tiền này đủ để lão sống an nhàn đến cuối đời, nếu thời cuộc không thay đổi.

    Bố chánh Đàm vốn là một trùm cướp khét tiếng vùng Ba Tổng. ông ta thường đóng giả dân đò dọc xuôi ngược khắp vùng hạ du sông Lăng, ban ngày lên các chợ tìm mối hàng nhưng thực ra là thu thập tin tức về cánh nhà giàu rồi mấy đêm sau kéo đồng đảng đến khảo của. Toán cướp trang bị toàn súng mút với mã tấu. Bọn có máu mặt ven sông sợ khiếp vía, ngay cả những lúc vắng mặt cũng gọi họ bằng "các quan”. Nổi tiếng nhất là trận cướp nhà lý Sáng làng Bối Khê vào tháng chạp năm Nhâm Thìn. Năm ấy rét đến mức cá rô chết cóng nổi lên mắc vào rễ bèo tây. Nước ao trong vắt nhưng lạnh thấu xương. Trời xanh thẫm không một gợn mây. Hôm ấy nhằm ngày hai mươi. Cả làng Bối Khê đang hối hả chuẩn bị cho tết ông Táo lên trời. Buổi trưa có một thầy bói áo the, khăn xếp, mắt mang cặp kính đen tròn như hai chiếc trôn bát, tay xách tráp, được một thằng bé tóc trái đào chừng tám chín tuổi dẫn vào nhà lý trưởng. Lý Sáng vốn ghét các loại thầy bịp bợm, lại đang giấc ngủ trưa nên càu nhàu:

    - Nhà ta ăn nên làm ra, chẳng có vận hạn gì, mời thầy sang nhà ông Chánh hội xem sao. Hình như bên ấy có chuyện…

    Chánh Hội Bường với Lý Sáng vốn có hiềm khích từ lâu. Đẩy lão thầy bói nửa mùa này sang quấy rối giấc ngủ trưa để hắn nổi khùng lên tí chút cũng là một cách trả thù. Chánh Bường vừa nóng tính vừa hách dịch, chưa biết chừng lão mù dở còn được ăn vài hèo mây cũng nên. Tuy nhiên, tay thầy bói kiêm thầy tướng vẫn lừng khừng trước cửa, giọng lạnh như tiền:

    - Nhà ông Lý không tin chuyện bói toán nhưng phải nghĩ đến sự yên ổn của toàn gia. Hiện ngôi mộ ngũ đại của dòng họ Tào ở đồng Mả Gạch bị sạt một góc về phía Tây Nam…

    - Cái gì?- Lý Sáng đang ngáp ngủ tỉnh như sáo- Sao nhà thầy biết rõ chuyện ngôi mộ?

    Lão thầy bói hếch cặp mắt giả thong manh qua đôi tròng kính đen bóng như mực Tàu, giọng thủng thẳng:

    - Từ xưa đến nay, liệt tổ liệt tông thường để lại phúc cho con cháu. Nơi yên nghỉ của các vị ấy mà bị động chạm thì hậu quả không biết đâu mà lường. Đừng nên nghĩ mình giàu có mà quên chuyện mai sau. Thầy trò tôi xin chào ông Lý. Ta đi con!

    Lý Sáng bị chạm nọc vội huơ tay:

    - ấy khoan đã, xin mời vào nhà. Vừa rồi tôi lỡ lời mong thầy bỏ quá cho.

    Ong thầy bói ở nhà lý trưởng hai ngày không lúc nào rời cặp kính kể cả lúc đi ngủ. Bàn về tướng số cũng như thuật phong thuỷ lão tỏ ra đặc biệt am tường, miệng trơn như cháo chảy, chỉ rõ từng thời điểm gia chủ gặp điềm lành điềm gở, khiến lý Sáng đã từng mấy năm học hành về trò bịp bợp này bái phục tôn là “tiên sinh” và biếu hẳn hai chục đồng Đông Dương làm lộ phí.

    Lão “tiên sinh” vừa đi hôm trước thì hôm sau nhà lý trưởng bị một toán cướp mặc toàn đồ đen, đeo mặt nạ xông vào nhà lúc đầu giờ Sửu. Đàn chó vằn vện hơn chục con dữ như hùm beo hoàn toàn im hơi lặng tiếng, mắt lờ đờ, mõm nhểu đầy nhớt dãi bất lực nhìn các vị khách không mời, lần lượt vượt tường không hề gây ra một tiếng động. Tên cầm đầu tỏ ra khá thông thạo đường đi lối lại trong nhà. Hắn kề dao vào cổ lý Sáng quát khẽ:

    - Mang hết đồ vàng bạc ra đây thì được tha mạng!

    Lý trưởng giọng run cầm cập, giọng lí nhí:

    - Trăm lạy các quan thương tình. Tiếng là làm việc làng nhưng chúng tôi thanh bạch, nhà lại đông miệng ăn, không có của để giành.

    Tên trùm cướp ấn lưỡi dao vào yết hầu lý Sáng cười nhạt. Tiếng cười rất quen, hình như ông ta đã nghe được ở đâu đó:

    Mỗi vụ thuế đinh, thuế điền, ông kiếm được bao nhiêu nhét vào chiếc tráp sơn mài để trong khám thờ phật Quan Âm, hãy mang ra đây nộp các quan, nếu không muốn toàn bộ dinh cơ bị hoả thiêu.

    Lý Sáng lạnh sống lưng, mắt lấm lét nhìn quanh. Ông ta chợt nhớ ra giọng nói của lão thầy tướng hôm nào.

    Các thành viên trong gia đình họ Tào đều bị trói, nhét giẻ vào mồm. Bọn cướp lăm lăm súng trong tay canh chừng. Những tên khác sục sạo khắp nhà trên nhà dưới khoắng sạch các thứ đồ quý giá kể cả nồi đồng mâm thau, lư hương rồi lôi cả chủ nhà theo làm con tin. Mãi đến gần sáng ông Lý mới lần được về nhà sau mấy giờ bị toán cướp bịt mắt trói gô lại như trói lợn vứt ở bãi tha ma đồng Chó Đá. Mất của nhưng lý Sáng không dám kêu mà chỉ lẳng lặng lên huyện trình quan. Quan phụ mẫu là lão già hủ nho, gàn dở, suốt ngày mải chơi mạt chược, nhìn thấy viên xã trưởng mặt xanh như chàm đổ báo việc mất cướp, nhếch mép bảo:

    - Có của thì phải giữ. Thời buổi này trộm cướp như rươi, hở một tí là chúng khoắng sạch ngay. Đầu tháng trước, nhà phó tổng Yên Cư bị cướp giữa ban ngày. Bọn chúng có cả một chiếc ô tô hòm thầy biết không?

    Lý Sáng tức như bò đá, nhìn bộ mặt xương xương với chòm râu dê của viên tri huyện chỉ muốn đấm cho lão một quả. Dân vùng Ba Tổng kháo nhau, tên trùm băng cướp ấy có tài xuất quỷ nhập thần, bất cứ phi vụ nào cũng làm trót lọt. Lão chính là Khúc Tuệ, bố đẻ ra chánh Đàm. Làm nghề đạo tặc nhưng Khúc Tuệ không giàu. Cướp được bao nhiêu, sau khi chia chác cho bọn đàn em, phần còn lại lão ném vào những cuộc đỏ đen. Khúc Tuệ chơi bạc thâu đêm suốt sáng, uống rượu như nước lã, và khi say sẵn sàng hạ gục đối phương ngay giưa chiếu bạc. Cuối năm Kỷ mão, trong một cuộc ẩu đả tranh giành địa phận làm ăn với toán cướp vùng Nam Mẫu, Khúc Tuệ bị cai Thìn vốn là lính khố xanh xuyên cho một mũi mác búp đa vào mạng sườn. Bọn đàn em khiêng ông ta về đến nhà thì tắt thở để lại bà vợ goá cùng với hai đứa con trai, lớn là Khúc Đàm, nhỏ là Khúc Kiệt. Hai thằng con trai khinh bố ra mặt vì cái nghề bất hảo. Nhìn cái xác rách mướp nằm co quắp giữa sân, mắt Khúc Đàm ráo hoảnh, không hề có chút thương xót. Thằng em mặt lạnh như tiền, thỉnh thoảng lại cười gằn. Trong đám tang, hôm ấy có một người đàn ông còn khá trẻ, để ria mép, tóc bới củ hành, mặc đồ cháo lòng, bưng mâm lễ phúng rất hậu. Đó không phải là khách quen, chẳng riêng gì gia chủ mà ngay cả bọn đàn em của Khúc Tuệ đến hộ tang cũng trố mắt ra nhìn. Lúc sắp về, anh ta cố ý nấn ná đến bên Khúc Đàm nói nhỏ:

    - Thừa lệnh quan lớn… đến viếng ông nhà và chia buồn cùng gia quyến, nhưng cậu đừng cho ai biết chuyện này.

    Khúc Đàm nhếch mép cười nhạt:

    - Tôi hiểu.

    3. Bà chánh Ba tên thật là Mạc Thị Lánh, về làm vợ chánh Đàm từ năm Tân Hợi. Thị Lánh vừa trẻ đẹp nhưng là cái đẹp theo kiểu chợ búa mang màu sắc thớ lợ của một gia đình có truyền thống mấy đời làm nghề lái trâu. Công bằng mà nói, lái trâu không xấu nhưng cái xấu nằm ở cung cách làm ăn cụ thể của ông bố hám tiền thông qua hàng loạt trò lừa đảo ngoạn mục. Bất cứ con trâu nào vào tay lái Lự cũng lập tức trở thành của quý. Lão uốn ba tấc lưỡi dùng đủ các mĩ từ phù phép cho món hàng rồi ra một cái giá cắt cổ thăm dò. Nếu gặp đối phương là tay sành sỏi trong thương trường thì lão xuống giọng bớt tí chút làm ra vẻ mình biết điều. Gặp phải ông nhà quê thuộc loại trọc phú, lại có máu bốc đồng, nói một tấc đến giời thì xem như hôm ấy thần tài gõ cửa. Lão tâng bốc ông bạn vàng có “con mắt tinh đời” rồi cuỗm sạch hầu bao của khách sau khi làm thủ tục ngoắc tay trao thừng một cách trịnh trọng. “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, thiên hạ từ cổ chí kim thiếu gì những kẻ lừa đảo thuộc hàng thượng thặng. Lừa người lắm thế nào cũng có lúc bị người lừa lại. Hôm ấy đúng phiên chợ Sài. Chợ Sài từ xưa vẫn nổi tiếng là chợ trâu bò của phủ Đông Giàng. Lái Lự đang mặc cả mua con trâu đực chừng hai tuổi thì có người khách râu rậm phong thái rất chững chạc, cứ đi lại bên cạnh, dáng vẻ băn khoăn. Lão ngẫm nghĩ một thoáng rồi chủ động làm quen:

    - Ông khách không chọn được hàng vừa ý à?

    Người râu rậm nheo mắt lắc đầu:

    - Chả giấu gì ông, tôi tìm mua trâu cho đồn điền Ba gia. Ông chủ dặn, lần này ít nhất phải chọn được mười con khoẻ, kéo cày dai sức để vỡ hoang vùng bãi sông Vệ. Ông chủ là người khó tính mà tôi lại rất ít kinh nghiệm mua bán sợ bị bọn cò mồi chơi khăm, thành ra…

    Ngửi thấy mùi tiền, lái Lự bỗng sáng mắt, hơi lấp lửng:

    - Cần những mười con cơ à?

    - Khai khẩn đồn điền mà lại.- Người khách chép miệng- Thế là còn ít đấy. Chỉ riêng cái trại Cổ Bi cũng ngót nghét bốn trăm mẫu, ông tính xem phải dùng bao nhiêu trâu cho kịp thời vụ?

    Lái Lự đảo mắt đánh giá ông khách lạ, phác trong đầu một con tính theo kiểu nhà nghề rồi gật gù ra vẻ am hiểu:

    - Phải… Những bốn trăm mẫu, ít ra cũng đến hai chục con. Mà này, trâu trên Bắc thiếu gì, sao phải xuống đây cho diệu vợi?

    Ông khách lắc đầu tỏ vẻ thất vọng về vốn kinh nghiệm làm ăn của lái Lự, khoác khăn gói lên vai, thủng thẳng bảo:

    - Trâu Bắc không quen thuỷ thổ, chưa bắc ách cày sá nào đã đổ hàng loạt, ông bảo rước về làm gì?

    Lái Lự nghĩ đã đến lúc ra đòn quyết định để dồn con mồi vào bẫy, bất ngờ tuyên bố:

    - Tôi có thể kiếm cho ông đủ số cần thiết.

    Người khách há hốc mồm tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên:

    - Từ nãy đến giờ tôi vẫn nghĩ ông là người đi tậu trâu?

    - Tôi là lái Lự ở kẻ Bòng… chắc ông có nghe…

    - Nửa tháng sau, lái Lự gom được mười tám con trâu đực thuộc loại cực tốt thuê một anh lực điền lùa lên chợ Sài. Người khách khoác tay nải đã chờ sẵn ở một hàng cơm cuối phố. Ông ta đảo đi đảo lại xem kỹ từng con một rồi mới mời thầy trò lái Lự vào mâm rượu đã bày sẵn trong một gian riêng. Sợ chủ hàng còn bán tín bán nghi, ông ta rút trong hầu bao ra xấp tiền mặt đặt trước mặt lái Lự:

    - Chừng này tôi đưa trước đặt cọc, còn bữa rượu này là do ông chủ đồn điền khoản đãi. Ông chủ có nhã ý mời ông và anh vào trong ấy thăm cơ ngơi, nhân tiện lùa giúp đàn trâu và nhận nốt phần còn lại. phí tổn dọc đường sẽ do chúng tôi đài thọ.

    Bữa rượu kéo dài đến quá trưa. Món lẩu hổ lốn Quảng Đông lạ miệng cùng với rượu nếp cẩm pha mật rắn hổ chúa làm lái Lự mềm môi, say mèm mãi cuối giờ Mùi mới thũng thẵng dẫn đàn trâu về đồn điền.

    Đồn điền Ba gia nằm ở thung lũng Tam Cốc cách sông Vệ chừng dăm bảy cây số vốn là của Tây Ba gia chuyên trồng ngô và cỏ ba lá nuôi bò cung cấp sữa cho quân đội Pháp. Được khoảng hơn chục năm ,Tây Ba gia bị sốt rét rụng tóc gần chết, hắn hốt qúa giao lại đồn điền cho người quản lý, về Pháp chữa bệnh. Sau gần ba tháng lênh đênh trên tàu thuỷ, đến Địa trung hải, viên chủ đồn điền chết đột ngột bởi một cơn co thắt động mạch vành. Trong khi ấy ở xứ An Nam, gã quản lý tằng tịu với vợ Ba gia. Cô này là gái làng chơi, xinh đẹp mà lại hát cô đầu có tiếng ở đất Bắc Kỳ nên được gã chủ Tây chuộc ra với cái giá ba mươi lượng vàng. Về danh nghĩa, đồn điền do madame Anne Phi Yến quản lý nhưng thực chất mọi quyền hành đều nằm trong tay ký Tam. Từ khi nhận được tin Ba gia về với Chúa trên hành trình hồi hương, ký Tam bàn với mụ me Tây chuyển một phần nông trại sang trồng lúa. Lương thực lúc này đang là thứ hàng được giá. Nếu thời tiết thuận lợi chẳng mấy chốc sẽ phất to. Toàn bộ câu chuyện về đồn điền Ba gia được người khách kể lại khá tỷ mỉ với thứ ngôn ngữ truyền cảm không chê vào đâu được. Chân bước tuy vẫn còn xiêu vẹo tí chút nhưng trong đầu lái Lự lại vô cùng tỉnh táo. Lão chắc mẩm, với mối làm ăn này, chỉ từ giờ đến cuối năm là có thể tậu được hai chục mẫu ruộng, thứ ruộng nhất đẳng ở đồng Báng Thượng mà bố lão hồi còn sống có nằm mơ cũng không thấy được. Sau khi ngoắc tay thoả thuận giao kèo, lái Lự gom góp toàn bộ vốn liếng của cả một đời bươn chải trên thương trường cùng với số tiền thế chấp sản nghiệp vay của Khúc Đàm bên làng Cùa quyết chí chơi canh bạc lớn. Lão định bụng , xong thương vụ này sẽ tự hồi hưu, đoạn tuyệt với cái nghề mà thiên hạ rất cần nhưng lại hay rỗi hơi đàm tiếu.

    Lái Lự không có con trai mà chỉ có một cô gái rượu, năm ấy xuýt soát mười chín, có nhan sắc nhưng tính khí thất thường. Vợ lái Lự liệt nửa người sau khi đi chợ Lành bị cơn gió độc, suốt ngày ở trong buồng, ăn cực khoẻ mà không dậy được, nằm đâu ỉa đái ra đấy. Lão phải khoét cái giát giường đặt bên dưới một thúng tro để đỡ ngày mấy lần vần bà ta dậy làm công việc bài tiết. Mạc Thị lánh sợ bà mẹ bán thân bất toại như quỷ nhập tràng. Hiếm hoi lắm mới có dịp cô ta vào buồng. Thành thử cái sảo tro dưới gầm giường, hai ba ngày mới được mang đi đổ. Có lần lái Lự sang chợ Gành mua trâu gặp nước lũ vỡ đê Quai Xanh, mãi bốn ngày sau mới về. Vừa bước vào nhà, lão đã phải bịt mũi bởi thứ mùi thối khẳn đến lộn mửa từ gian buồng xộc ra. Dưới gầm giường ruồi bay vù vù. Lũ nhặng xanh chao lượn theo một vũ điệu kỳ quái, phát ra thứ âm thanh vo ve ở tần số cao nửa như thoả mãn nửa như những tín hiệu đặc trưng gọi bạn.Trên giường, người đàn bà bị giời đày chỉ còn thoi thóp thở. Bà mẹ bị bỏ đói gần một tuần còn cô con gái xinh đẹp chẳng biết biến đi đằng nào. Mãi trưa hôm sau mới thấy Thị Lánh dẫn xác về . Buổi tối Lái Lự bảo con gái:

    - Có khi thầy phải tìm một người về chăm nom mẹ mày.

    Cô con gái giẩu mỏ nguýt dài:

    - Thầy mà cưới vợ bé là tôi ra đầm Vực ở với thằng chăn vịt.

    - Nhưng mày bỏ đi đàn đúm suốt ngày để mẹ ở nhà một mình, hôm qua tao không về kịp thì đã thành ma đói từ lâu rồi. - Lão lái trâu sa sầm mặt càu nhàu.

    Thị Lánh mặt câng câng, giọng xanh rờn:

    - Ôi dà thầy sợ cái gì. Cứ cho bà ấy liều thạch tín là hết nợ.

    - Mày chỉ láo ! Con với cái.

    Cô con gái đánh mắt lườm bố:

    - Tôi biết thầy nghĩ đến chuyện ấy từ lâu, chỉ có điều chưa dám làm thôi.

    Lái Lự định vả cho Thị Lánh một cái nhưng kịp hãm lại. Từ trước đến giờ lão vẫn có vẻ gờm con gái. Về phần mình, Lánh chẳng coi bố ra gì. Dưới mắt cô ta lão chỉ là lão lái trâu bẩn thỉu chuyên lừa thiên hạ bằng những ngón nghề hạ đẳng. Rằng lão tham lam và ăn độc như chó , trước sau cũng chết bất đắc kỳ tử. Điều tệ hại là, trong thâm tâm , lái Lự đặt cả niềm tin, hy vọng vào đứa con gái có phẩm chất lăng loàn chẳng kém gì giặc cái này. Lão chiều chuộng bao nhiêu thì Lánh coi thường nhân cách của ông bố bấy nhiêu . Từ mấy năm nay chưa bao giờ nó nói với lão được lời tử tế.

    Những lúc bực tức vì sự hỗn xược của con yêu nữ, không có cách nào giải toả, lái Lự thường trút cơn giận lên người đàn bà bán thân bất toại bằng những câu chửi rủa mang đậm phong cách lái trâu , nghĩa là thô tục, độc địa tai ác. Bà vợ hoàn toàn bất lực mặc cho chồng sỉ vả, phản ứng duy nhất có thể có được là từ từ đảo tròng mắt trái lờ đờ, không sinh khí rồi nở một nụ cười ngớ ngẩn trên khoé miệng đầy nhớt dãi.

    Sáng hôm sau, vợ lái Lự lên cơn co giật khi ăn xong cặp bánh dày Thị Lánh mua của con mẹ hàng rong đầu làng. Bà ta quằn quại trong nỗi đau xé ruột gan. Nửa người bị liệt, những mảnh thịt ở mông và lườn mền nhũn, đôi chỗ đã mủn ra, tím như quả bồ quân bốc mùi thum thủm. Phần còn lại trắng nhợt, dày bình bịch, giống hệt như thứ thịt lợn chết toi, ngâm hàn the vừa vớt ra chưa ráo nước. Trước khi tắt thở, đầu người đàn bà bất hạnh ngoẹo sang bên phải, bàn tay duy nhất còn cử động được đôi chút cố nâng lên chỉ về phía bàn thờ nhưng đôi mắt lại long lên sòng sọc, vằn tia máu như mắt của loài chó ăn phải bả độc.

    Khi bà vợ lên cơn hấp hối thì lái Lự chạy xuống nhà ngang, đóng cửa lại, vớ chai rượu ngang tu già nửa. Đầu óc lão không còn đủ bình tĩnh để phân tích hành vi của đứa con gái sau tấn bi kịch mà không chóng thì chầy chuyện ấy sẽ xảy ra.

    Người đàn bà được rửa mặt, chải tóc, lau chùi qua loa rồi chọn giờ nhập quan. Bà ta lâm bệnh nặng lâu quá rồi nên hàng xóm láng giềng xem việc ra đi là một sự giải thoát khỏi nỗi thống khổ của một kiếp người. Lúc đưa tang, Mạc Thị Lánh khóc mẹ ai oán đến mức những người xung quanh ai cũng động lòng. Cô ta xổ tóc rối bù, lăn ra đường gào thét điên loạn, quần áo bê bết bùn đất trông chẳng khác gì con điên đang lên cơn. Lái Lự mặt khó đăm đăm đi sau quan tài thỉnh thoảng lại lấy tay quệt mắt.

    *********

    Ba người dẫn đàn trâu rẽ vào con đường mòn nằm giữa một vùng đồi bát úp. Chen giữa những sườn dốc thoai thoải mọc toàn một thứ sậy gióng dài như những gióng trúc, hoa trắng giống hoa sở phất phơ chẳng khác gì lông đuôi gà trống là những bãi ngô non bắt đầu trổ cờ. Không gian vùng bán sơn địa này thật yên tĩnh. Nắng chiều nhạt dần. Một đàn cò trắng giăng hàng chẳng theo một trật tự nào , bay hối hả như đang đuổi theo vầng dương đã khuất dần vào giữa chân mây xốp như bông nõn đang trôi bồng bềnh cuối chân trời . Khi những dẻ sáng cuối cùng như ánh hồi quang quét sáng một vệt mỏng trên dải đồi hoang thì vô vàn những chiếc đuôi gà trống biến từ màu trắng thành màu mỡ gà như có phép lạ. Gió sà xuống thấp hơn và toả một mùi thơm quyến rũ ve vuốt những hàng ngô xanh thẫm tạo thành thứ âm thanh rào rào, lúc gần lúc xa, lúc hư lúc thực nghe như tiếng vuốt nhẹ của bàn tay ca kỹ trên phím đàn tỳ bà ở quãng trầm.

    Bãi ngô không một bóng người. đâu đó có tiếng gà gáy rất xa. Con gà báo trời sắp tối có lẽ là một chú gà trống choai. Tiếng của nó lanh lảnh ra vẻ ta đây là một gã đàn ông có quyền gửi thông điệp đến lũ gà mái trong lãnh địa bằng thứ giọng hoàn toàn chưa vỡ, chốc chốc lại đứt quãng như là ngừng lại lấy hơi. Lái Lự nghe thấy tiếng trống choai chợt cất tiếng lẩm bẩm : “ Con gà chết tiệt này chắc là báo điềm gở”. Cùng lúc ấy có khoảng năm sáu lính khố xanh cùng với Nhà đoan, chân quấn xà cặp , súng trường và súng khai hậu lăm lăm trong tay, ra hiệu cho cả bọn dừng lại:

    - Các người lùa trâu đi đâu?

    Người đại diện đồn điền Ba gia vội vượt lên trước bảo:

    - Tôi là Lý Ba, người của đồn điền đi chợ Sài mua trâu.

    Tên Cai khố xanh có cặp mắt xếch, đội mũ lie bọc vải kaki trông như nửa quả dưa chụp lên đầu , sừng sộ:

    - Có giấy phép của sở Nông lâm Bắc Kỳ không?

    Lái Lự giật mình toát mồ hôi hột:

    - Thưa ông Cai, chúng tôi có giấy thông hành của Quan phủ Đông Giàng.

    - Phủ Đông Giàng có cấp môn bài cho các cho các anh đi buôn trâu không?

    Lý Ba nhăn nhó nhìn đám nhân viên Nhà đoan , giọng thiểu não chẳng biết thật hay giả vờ:

    - Chúng tôi ở đồn điền Ba Gia thật mà. Chắc các ngài biết ông chủ Tây?

    - Nhà nước bảo hộ đã có sắc lệnh cấm buôn bán trâu.- Viên thuế đoan nhìn đàn trâu béo mập con nào da cũng láng bóng như ánh sừng nheo mắt cười một cách khó hiểu- Kẻ nào vi phạm chẳng những bị tịch thu mà còn phải nộp tiền phạt, nếu chống lại người thi hành công vụ là bỏ tù. Đây đếch thèm biết Tây Ba Gia là ai, cứ theo phép nước mà làm . Nào anh em trói mấy tên gian thương này lại, dẫn đàn trâu đi.

    Chuyến ấy lái Lự mất sạch cơ nghiệp may mà nửa đêm trốn được ra ngoài. Đến lúc ấy lão mới cay đắng nhận ra mình bị một vố lừa chết người . Câu chuyện Tây Ba gia chẳng qua chỉ là màn kịch . Bọn đạo tặc đã diễn xuất một cách hoàn hảo với những chi tiết tình tiết như thật. Chung quy cũng chỉ tại lão ngu. Thất thểu lê bước về đến bến Cẩm Đàn, lão định nhảy xuống sông để tự trừng phạt mình và cảnh cáo những kẻ hậu sinh hám hơi đồng. Nhưng lái Lự vốn sợ chết. Từ xưa đến nay phương châm của lão là sống nhục còn hơn chết vinh. Chết là hết dù cho người ta có đắp lên mộ cả một đống vàng và tâng bốc bằng ngàn vạn lời hoa mỹ. Sống còn có cơ may thay đổi hoàn cảnh. Tội gì mà chết để thiên hạ chửi cho. Lại nữa, lão còn đứa con gái. Thị Lánh tuy hỗn láo, cãi bố đôm đốp nhưng nó vẫn còn là con lão. Lão mà về chầu trời, nó sẽ bơ vơ nơi trần thế , biết nương tựa vào đâu? Điều lái Lự sợ nhất bây giờ là món tiền vay của Khúc Đàm. Tay này trước là lính tập, đã từng sang Pháp trong những năm Thế Chiến, lại là chánh tổng đương chức xem ra rất khó khất nợ.

    Đã quá hạn mười ngày không thấy lái Lự sang trả tiền, chánh Đàm sốt ruột đích thân đi đòi nợ . Đường đất từ làng Cùa đến kẻ Bòng khá xa vì phải vượt sông Lăng. Dịp này đang mùa lũ lão không dám đi đò bến Trại mà phải đến bến Lở rồi vòng lối đầm Vực. Tiếp giáp với đầm Vực về hướng tây nam là khu ruộng trũng chừng vài chục mẫu của phó hội Bảng chuyên nuôi vịt đẻ. Chếch về hướng đông bắc một chút là bãi tha ma rộng hàng trăm mẫu khá bằng phẳng, đây đó còn lô xô những gò đống vô chủ, cái thấp cái cao mọc toàn dứa dại. Nghe nói dải đất hoang này, thời Lê mạt đã từng là nơi giao tranh khốc liệt giữa nghĩa binh Tây Sơn và đạo tán binh cờ xanh của quận công Đinh Tích Nhưỡng . Quận Nhưỡng thua trận bỏ lại vài trăm tử sĩ trên chiến địa. Đêm hôm ấy dân mấy làng thắp đuốc mang cuốc xẻng đào mười tám cái huyệt chôn vội vàng những chiến binh xấu số . Từ đấy cứ đến ngày giỗ trận, cánh kỳ mục lại thay mặt hàng tổng mang hương hoa, giấy tiền ra mộ địa tế các vong hồn. Mấy trăm năm qua đi, vầng dương mọc rồi lại lặn nước sông Lăng khi đầy khi vơi, biết bao vật đổi sao dời nhưng ký ức của người dân Ba Tổng về một vùng đất bí hiểm thì vẫn còn đó.

    Chánh Đàm xắn quần , tay cầm hèo mây, bước thấp bước cao qua khu ruộng vàn nhà phó hội Bảng. Sát bờ đầm có chiếc lều canh vịt lợp rạ . Cái mái khum khum của nó có lẽ chỉ nhỉnh hơn chiếc lều vó của của lão Kếu cổ ngẳng một chút . Từ xa Khúc Đàm thoáng thấy bóng người. Lão Chánh nghĩ đó có lẽ là thằng chăn vịt của nhà phó hội . Tự nhiên lão nảy ra một ý định muốn đến tận nơi xem lũ vịt Kỳ Lừa được thiên hạ truyền ngôn như một thứ đặc sản của cha con họ Quách mà bản thân lão chưa bao giờ tin là có thật. Đến bờ đầm chánh Đàm định khoắng chân xuống nước rửa qua loa để xỏ vào đôi dép da trâu có bốn quai vặn xoắn như sợi thừng tre, bỗng lão lặng người khi nhìn rõ trước cửa lều không phải là thằng chăn vịt mà là cô gái mặc áo cánh trắng, váy thâm được vận lên quá đầu gối, để lộ cặp đùi non mơn mởn, đang nhặt những quả trứng rải rác trên mặt ruộng xếp vào chiếc làn tre đựng trấu. Cô gái còn quá trẻ , chỉ khoảng mười chín đôi mươi , sức vóc ngồn ngộn bởi bộ ngực căng phồng và tấm lưng thon uyển chuyển thót lại như eo bọ ngựa cái thời kỳ mang trứng. Cặp vú bánh dầy mẩy và chắc như hai trái lê bị ép một cách tượng trưng sau lớp yếm mỏng cứ nhảy tâng tâng theo mỗi nhịp bước lom khom. Nhìn cặp tuyết lê đồ sộ đầy khêu gợi, Chánh đàm nuốt nước bọt thầm nghĩ: “ Mẹ kiếp, cái ngực kia, cái lưng ong kia mắn đẻ phải biết”. Cô thôn nữ tiếp tục nhặt trứng có vẻ như không thèm để ý đến kẻ đang ngắm trộm “toà thiên nhiên” của mình, miệng he hé cười thầm. Vốn là phường hám gái, Khúc Đàm không thể nhịn được nữa , lão vứt hèo, quẳng đôi dép da trâu, thủng thẳng đến cạnh lều như người đi thăm đồng . Lúc này lão đã nhìn rõ mặt cô gái. Đó thực sự là khuôn mặt đẹp nhưng gợi chút hoang dã bởi đôi chân mày rất rậm chờm xuống cả đôi mắt và sống mũi cao, phần cuối hơi hếch lên đối xứng với cặp môi ướt át, trề ra đầy vẻ khêu gợi . Cô gái không hề ngạc nhiên nhìn Chánh Đàm nửa như muốn cười tình nửa lại muốn ông khách không mời cuốn xéo càng nhanh càng tốt. Chánh Đàm đã có nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật giao tiếp với đàn bà, nhất là loại đàn bà lẳng lơ, nên không dễ gì bỏ qua dịp may bằng một câu ướm hỏi đầy chất phong tình, chẳng tương xứng chút nào với địa vị xã hội của mình:

    - Cô em có bán trứng ta mua hết?

    Cô gái liếc Chánh Đàm, giọng bỡn cợt:

    - Trứng vịt Kỳ Lừa đắt lắm , những hai mươi đồng một chục, ông Chánh Kim Đôi có mang đủ tiền không?

    Chánh Đàm giật mình , có vẻ ngượng. “Bỏ mẹ” Con bé biết tên mình. Chuyện này mà biết thiên hạ đồn ầm lên là Chánh Tổng đi tán gái thì còn mặt mũi nào ra đình mà quát tháo sai phái bọn chức dịch hàng tổng. Nghĩ vậy lão làm ra vẻ bề trên hỏi:

    - Nói đùa vậy thôi. Ta có chút việc sang làng Bòng lối này. Hỏi khí không phải, cô là con gái ông Phó Hội Bảng?

    Cô gái hình như chẳng coi gì cái chức danh chánh tổng ra gì vẫn tiếp tục đối đáp với Khúc Đàm bằng giọng cợt nhả:

    - Chắc ông Chánh muốn tìm thêm bà Ba cho vui cửa vui nhà?Chánh Đàm thấy con bé mỏng mày hay hạt, lời ăn tiếng nói nghe vẻ đong đưa trong bụng thích lắm , quên phắt vai kịch đạo mạo đang đóng, thả lời ong bướm:

    - Nếu ta cho người sang thưa chuyện với ông Phó Hội em có bằng lòng không?

    Cô gái tinh nghịch, nheo mắt nhìn ông khách xấp xỉ tuổi bố mình , giọng chua như giấm:

    - Trông ông Chánh còn tráng kiện lắm , nhưng hỏi thật, giả sử nhạc phụ tương lai là một lái trâu ông có chịu cưới con gái lão ta không?

    - Vậy ra cô em là con ông lái Lự?

    - Ông nhìn kỹ xem kẻo lại nhầm.

    - Sao lại chăn vịt ở đây?

    Cô gái chỉ tay về phía đầu làng, có một người đang đi ra:

    - Tôi nhặt trứng giúp thằng Côi . Nó về nhà lấy chài đánh cá.

    - Hôm nay ông Lái có nhà không?

    Cô gái nói trống không:

    - Đi biệt tăm nửa tháng nay... Mà ông Chánh hỏi làm gì?

    Chánh Đàm giấu biệt chuyện lái Lự vay nợ trả lời ậm ừ:

    - À, cũng không có gì hệ trọng, đợi khi nào ông ấy về tôi sang cũng được.

    Lúc lên bãi tha ma, chánh Đàm quay lại nhìn về phía lều vịt, trong đầu luôn tự hỏi: "Con bé này với thằng chăn vịt nhà phó hội Bảng có quan hệ thế nào nhỉ ? Hay là chúng đã... Đồ đàn bà lăng loàn” Mải ngẫm nghĩ về người đẹp, quên cả đường, chánh Đàm bị gai găng đâm vào bàn chân. Lão giật thót , nhảy lò cò đến gờ ngôi mộ cổ ôm chân nhăn nhó trong lúc đôi dép da trâu vẫn lủng lẳng trên cổ. Chiếc gai nhọn hoắt đã khô, xuyên thấu lớp da dầy , bị gẫy một đoạn rồi nằm cứng trong đó làm Khúc Đàm đau nhói. Đã thế lại không có ghim băng mang sẵn bên mình, thành thử ông chánh Kim Đôi đành phải cà nhắc đến bến đò miệng không ngớt xuýt xoa.

    4. Từ ngày mẹ chết, Mạc Thị Lánh ít ở nhà. Lái Lự không bảo được con, phải nhờ người cháu họ bên làng Nội trông nom cửa nhà mỗi khi lão đi vắng. Con gái kẻ Bòng có khi chưa đến tuổi cập kê đã thành gia thất, mười chín đôi mươi đã con bế con bồng, riêng cô gái rượu của ông lái trâu thì không một gia đình tử tế nào dám hỏi , trừ bọn mèo mả gà đồng với ý định bờm xơm, trăng gió. Như trên đã nói, Mạc Thị Lánh đẹp nhưng là vẻ đẹp vượt ra ngoài khuôn khổ nhận thức của làng Bòng vốn dĩ đầy định kiến với những hủ tục lạc hậu. Đàn ông từ thằng trẻ ranh còn cởi truồng tắm sông đến các bậc chức dịch đáng kính tóc đã muối tiêu hễ nghe đến tên Thị Lánh đều nhất loạt bĩu môi khinh bỉ, nhưng chẳng may một mình gặp cô ta thì mắt lại lấm lét, miệng nuốt nước bọt đến đờ đẫn, mất hết cả hồn vía. Căm thù ra mặt là các bà các cô. Họ sợ ả yêu tinh đó làm hư hỏng chồng con , bại hoại gia phong , nhất là đôi mắt lẳng lơ đầy ma lực như có yêu khí quyến rũ các bậc mày râu háo sắc. Đám này thuộc phái chính chuyên, luôn miệng lên giọng răn dạy con cái sống theo quy phạm đạo đức.

    Thị Lánh, ngược lại không bao giờ xem các bà các cô chính chuyên ở làng Bòng là hiện thân của công dung ngôn hạnh. Cô ta bảo cánh đàn ông thích của lạ: “Các mẹ ấy còn cái gì rao bán ngoài cặp vú mướp giắt vành váy mốc mà chẳng lên mặt đạo đức giả”. Dạo này Lánh hay ra đầm vực chơi với thằng chăn vịt. Cô nàng có vẻ thích món trứng luộc chấm muối ớt nên thỉnh thoảng xách làn lội ruộng ra mua, dần dần nghiện luôn cả thằng chăn vịt. Mỗi ngày không nhìn thấy hắn là cô ta ăn không ngon ngủ không yên. Côi là đứa không cha mẹ được phó hội Bảng đưa về từ lúc còn bé. Nó kém Lánh hai ba tuổi nhưng cao lớn ra dáng một đấng nam nhi với khuôn ngực trần rám nắng vồng lên cùng đôi bắp tay cuồn cuộn ở tuổi dậy thì. Thấy Lánh hay ra chơi thằng Côi thích lắm nhưng chẳng biết nói gì. Mỗi lúc nhìn cô nàng mặt nó lại đỏ lên, miệng lúng búng chẳng nói được câu nào ra hồn . Thực ra Côi là gã trai khá mơ mộng, sức sống hừng hực, tuy ăn uống kham khổ nhưng được sống tự do giữa thiên nhiên phóng khoáng, hít thở khí trời trong lành nên có vẻ tự bằng lòng với thân phận mình. Giờ được một người con gái để ý đến, thỉnh thoảng liếc mắt đưa tình một cách suồng sã làm con tim gã lịm đi tựa như được uống một liều tiên dược. Có lần, lúc ấy trời đã về chiều, đồng vãn người, Lánh ỡm ờ hỏi:

    - Bao giờ Côi lấy vợ?

    Tay chăn vịt thật thà bảo:

    - Phận đi ở nghèo rớt mồng tơi , chả ai người ta để ý đến.

    Lánh lại hỏi:

    - Côi thấy tôi thế nào?

    Côi ngẫm nghĩ một thoáng rồi bảo:

    - Chị đẹp lắm ,đẹp hơn cả tiên.

    - Có... thích Lánh không?

    Tay chăn vịt không còn vẻ ngô nghê nữa, cũng nửa nạc nửa mỡ:

    - Làm vợ chồng ấy à?

    - Biết rồi còn hỏi.

    - Nhưng tôi không có tiền với lại ông Phó Hội đánh chết.

    - Mặc kệ - Thị Lánh ngúng nguẩy ngồi sát vào thằng chăn vịt- Có muốn... thử?

    - Thử gì ?- Thằng Côi run run đặt tay lên cặp đùi non mà không hiểu vô tình hay cố ý cô nàng đã kéo váy lên quá mức trước lúc ngồi xuống.

    Lánh hất thằng chăn vịt ra : “ Không được động vào đấy...” Nhưng đôi mắt thì lại bùng cháy ngọn lửa đam mê như là hối hả mời gọi. Gã trai chỉ đợi có thế. Nó đột nhiên ôm choàng lấy cô gái, dằn ngửa ra, kéo tuột váy lên cổ, hau háu nhìn vào cái hõm mờ mờ ảo ảo giữa hai đùi. Cô gái vòng tay ôm lấy lưng thằng Côi, ghì chặt thở hổn hển chờ đợi... Nhưng gã vốn dĩ là gã trai mới lớn, chưa từng biết mùi đàn bà, thành thử người cứ run bần bật, tim đập thình thịch như đánh trống. Đợi mãi, đến khi không thể chịu được nữa, Thị Lánh hơi nhổm dậy, lấy tay kéo tuột chiếc quần đùi rách vá chằng vá đụp xuống chân thằng Côi thì mới phát hiện ra nó đã ướt nhoe nhoét như bị nước mỡ dây vào. Quá thất vọng, cô nàng đẩy thằng chăn vịt khỏi bụng, ngồi dậy, kéo váy xuống rồi hậm hực bảo:

    - Đồ vô tích sự. Thế mà cũng là đàn ông...

    5. Hôm ấy Chánh Đàm đến kẻ Bòng sau khi đã sai người thăm dò biết chắc lái Lự ở nhà. Lần này lão bắt ông Tình chở cả ngựa qua sông cho oai. Vừa đến sân, Khúc Đàm chợt sững sờ trước cảnh hoang tàn như là ngôi nhà vừa bị mất cướp. Toà chính đường trước bày toàn sập gụ, tủ chè, tràng kỷ gỗ trắc, câu đối, hoành phi sơn son bóng loáng, giờ trống hoác trơ ra nền gạch Bát Tràng và những viên tảng chạm hoa văn đỡ hàng cột nặng nề. án thư cũng đã theo chân lão lái trâu ra chợ từ mấy hôm trước. Những thứ gì có thể quy được ra tiền đều lần lượt về nhà chủ mới. Lúc này vật đáng giá nhất chỉ còn lại cái xác nhà và khu vườn nhãn. Lão đã tính trước, nếu chánh Đàm xiết nợ, đành phải gán dinh cơ cho hắn rồi đưa con gái sang làng Nội làm ăn. Bên Nội, lão vẫn còn khoảnh đất rìa làng được ăn thừa tự của ông bác ruột không có con, mới mất cách đây hai năm. Sông có khúc, người có lúc. Kẻ đi buôn lên voi xuống chó là chuyện thường. Thiên hạ thiếu gì những đứa nhẹ dạ cả tin. Rồi chúng mày xem, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Tự trấn an mình như vậy nhưng vừa nhìn thấy chách Đàm với cái roi ngựa trên tay, lái Lự bỗng tái mặt. Tay này nổi tiếng hách dịch, coi người như rác, không trả hết số nợ cho hắn thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thế nhưng, khi nghe lái Lự trình bày cái sự bị lừa mất sạch cả vốn lẫn lãi bằng bộ mặt đưa đám và thứ ngôn ngữ thớ lợ khá mùi mẫn, Chánh Đàm không trở mặt giận dữ mà lại bình thản bảo:

    Trong nhà ông Lái còn có một thứ quý hơn cả vàng bạc.

    Lái Lự khịt mũi nghĩ Khúc Đàm xỏ xiên nên chỉ nhếch mép:

    - Ông Chánh cứ đùa.

    - Tôi không đùa. - Chánh Đàm đảo mắt nhìn tứ phía rồi bất chợt hỏi - Cô nhà đi đâu?

    Đến lúc ấy thì lái Lự vỡ chuyện. Lão ngập ngừng hỏi:

    - Ông Chánh nói con Lánh nhà tôi?

    Chánh Đàm gật đầu:

    - Gia sản của ông giờ tiêu tán hết rồi mà số tiền nợ tôi lại khá lớn dẫu có gán cả dinh cơ này cũng chẳng đủ. Nói thật, nhà tôi hiếm người, nếu ông bằng lòng, nay mai tôi sẽ nhờ người mang lễ vật sang hỏi cô nhà làm bà Ba. Về công nợ coi như xí xoá, ông tính sao?

    Nghe Chánh Đàm gợi ý, lái Lự mừng quá, xuýt ngất xỉu, nhưng vốn là một lái trâu lọc lõi, đầy mánh khoé, lão dùng kế hoãn binh, chậm rãi uống chén nước để lấy lại thăng bằng sau cú sốc rồi mới thong thả nói:

    - Cái này là việc cả một đời người, ông để tôi lựa lời nói với cháu xem sao đã.

    Chánh Đàm hạ giọng:

    - Từ xưa đến nay việc dựng vợ gả chồng cho con đều phải do bố mẹ xếp đặt, đó chính là gia pháp. Gia pháp không nghiêm sẽ loạn ngay. Phận nữ nhi không thể vượt ra khỏi mấy chữ "Tam tòng tứ đức", cho nên ...

    - Mà nếu nói lời không nghe, vẫn còn ngang bướng thì tôi sẽ vụt cho một trận rồi tống cổ ra khỏi nhà. Cái lý ở đời cứ già đòn là non nhẽ.

    - Ông chớ làm thế ! - Chánh Đàm xua tay - Cứ lấy lời ngon ngọt mà khuyên bảo có khi lại được việc. Hơn nữa, tôi thấy cô nhà cũng sắc sảo, biết ăn nói lắm.

    Lái Lự thoáng nghĩ đến đứa con gái bất trị. Đến nước này thì không thể thương được nữa. Lão càng cưng chiều nó càng hỗn láo. Để ở nhà ngày nào nó gây tai hoạ ngày ấy. Phương thuốc trị bệnh tốt nhất là nhanh chóng gả chồng. Con gái xuất giá tòng phu. Cứ để lão chánh tổng dại gái này trị con giặc cái. Vạn nhất không trị được bị nó xỏ mũi cũng đáng đời hắn. Trước mắt lão được hai cái lợi, vừa không phải trả nợ vừa được làm bố vợ tay chánh tổng Kim Đôi gần bằng tuổi mình, ở đời mấy ai được như thế?

    Hai lão đang lần lượt thảo luận từng điều khoản trong bản hợp đồng hôn phối thì Thị Lánh chẳng biết ở đâu về bằng lối cổng hậu. Lái Lự lấm lét nhìn con gái còn chánh Đàm đứng dậy chào. Lánh liếc mắt nhìn họ khúc cười nhạt:

    - Chào ông Chánh. Hôm nay chắc ông sang đòi nợ?

    - Ấy chết, tôi đâu dám. - Chánh Đàm cười nịnh - Chả là ông nhà cho gọi ...

    - Tôi hiểu rồi - Lánh chẳng nể nang gì, nói tưng tửng theo kiểu hàng tôm hàng cá - Ông lái trâu bị mất sạch gia sản, không trả được nên làm văn tự gán con gái cho Chánh Tổng Kim Đôi phải không?

    Lái Lự sượng mặt lườm con:

    - Đừng có hỗn. Nhà ông Chánh nền nếp lại giàu có nhất vùng, được vào đấy khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nếu mày bằng lòng, mấy hôm nữa bà Chánh sẽ mang trầu cau sang ăn hỏi.

    Thị Lánh mỉm cười nhìn ông khách vùng Ba Tổng:

    - Thế tôi về làm dâu ông Chánh hay làm vợ bé ông Chánh?

    Lái Lự quắc mắt:

    - Mày đừng có lộng ngôn. Ông Chánh chưa có con trai nên mới phải đi tìm người, chứ con gái nhà tử tế bây giờ thiếu gì.

    Lánh cười gắn, còn lão lái trâu ngầm đưa mắt cho Khúc Đàm. Cả hai đều im lặng chờ đợi phản ứng xem ra chẳng có gì là tốt lành từ phía cô gái. Nhưng thật không ngờ, Mạc Thị Lánh lại chấp nhận cuộc hôn nhân mua bán nhanh đến thế:

    - Tôi bằng lòng, nhưng với một điều kiện.

    - Xin cô cứ nói.

    - Tôi phải giữ tay hòm chìa khoá.

    - Tưởng gì, chuyện ấy thì được - Chánh Đàm gật đầu.

    Ba hôm sau, bà Chánh mà hàng tổng vẫn gọi là bà cả Huê mang trầu cau sang chạm ngõ, hẹn đến đầu tháng Ba thì rước dâu. Trước ngày cưới ít lâu, Thị Lánh lại ra đầm Vực mưa trứng. Lúc ấy đã vàng vàng mặt trời, khu đồng trũng vắng vẻ, cô tịch như một vùng hoang địa. Kể ra, lấy trứng xong, vẫn còn kịp về làng nhưng cô ta lấy cớ sợ ma ở lại qua đêm với tay chăn vịt. Lần này thằng Côi không còn lớ ngớ như buổi ban đầu. Hai đứa trần truồng quấn riết lấy nhau như một đôi rắn lịch kịch suốt một đêm trên chiếc ổ rạ được trải manh chiếu cói mà hắn lấy được ở đình Trụ. Trong cơn hoan lạc, niềm đê mê ngây ngất đến tột đỉnh, Thị Lánh ghì lấy cổ thằng Côi bảo:

    - Mấy hôm nữa Lánh lấy chồng phải xa mình rồi.

    Thằng chăn vịt thở hổn hển:

    - Sau này biết bao giờ gặp lại?

    - Thỉnh thoảng tôi đi chợ qua đây?

    Sau ngày cưới, Mạc Thị Lãnh thành bà Chánh Ba. Bà Ba trẻ nhất, đanh đá nhất nhưng lại có quyền hành nhất trong nhà họ Khúc. Đêm tân hôn, chánh Đàm trải tấm vải trắng xuống giường. Thị Lánh là cô gái từng trải trong chuyện phòng the nên đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết. Mới có đầu giờ Hợi, Chánh Đàm đã tắt nến lôi tuột vợ lên giường. Trước khi lão lột váy trườn lên người thì cô ta bí mật bóp cái bong bóng cá đựng tiết vịt hãm muối mà thằng Côi đã đưa cho vào miếng vải.

    Chánh Đàm đã có hai vợ. Vợ cả là bà Huê, cưới từ lúc chưa đầy mười sáu, đến giờ vẫn chẳng đẻ đái gì. Trước lúc đăng lính ít lâu lão đón cô Phùng Thị Thoả ở làng Nội, bên kia sông Lăng về làm thứ thất cũng chỉ được một mụn con gái khoèo tay. Lần này họ Khúc rước Mạc Thị Lánh về là mong có kẻ nối dõi tông đường, cứu cho gia tộc khỏi nguy cơ tuyệt tự.

    Từ nhỏ, Khúc Đàm đã là gã trai phóng đãng, khác hẳn em ruột là Khúc Kiệt. Hai anh em lớn lên đều cảm thấy con mắt dè bỉu của làng trên xóm dưới về cái quá khứ bất hảo của người cha, nên trong lòng luôn nuôi chí rửa nhục theo cách riêng của mình. Khúc Đàm đăng lính còn Khúc Kiệt ở lại làng tìm thày học chữ Nho. Thừa hưởng khí huyết của người cha, từ nhỏ Khúc Đàm đã nổi tiếng thích phiêu lưu. Hắn còn là gã thanh niên đẹp trai, miệng tán gái dẻo như kẹo mạch nha và đam mê cờ bạc. Năm hai mươi hai tuổi, Khúc Đàm bị động viên sang Pháp. Binh đoàn thuộc địa số 5 của hắn được điều đến đồn trú ở vùng An dát. Dịp ấy vào cuối năm thứ hai của Thế Chiến thứ Nhất, Nhà nước bảo hộ trưng tập hàng ngàn lính Đông Dương bổ sung cho quân số bị hao hụt trên chiến trường Pháp - Đức. Làng Cùa có bốn thanh niên xuất chinh, sau này chỉ mình Khúc Đàm hồi hương. Hai người tử trận, một người bị thương ở lại chính quốc mở quán thịt chó.

    Hôm tiễn Khúc Đàm xuống tàu há mồm vượt trùng dương sang Pháp là một ngày đáng nhớ. Mặc cho vợ cả, vợ hai khóc hết nước mắt, vật vã, lăn ra đất van nài, Khúc Đàm vẫn quyết dứt áo ra đi. Vợ hắn có biết đâu nỗi mặc cảm của anh em họ Khúc với dân làng Cùa. Phải gột rửa quá khứ bằng niềm vinh quang của kẻ làm trai cưỡi sóng đạp gió ngao du khắp hoàn cầu, và sau hết, kiếm được tiền rồi lựa thời cơ mua một chân chức sắc để có vị thế trên chiếc chiếu cạp điều giữa đình làng. Vạn nhất, nếu bỏ xác nơi sa trường thì dòng họ nhà hắn vẫn còn Khúc Kiệt. Em hắn là gã hủ nho mọt sách, suốt ngày ê a đọc Tứ thư, Ngũ kinh, không có chí lớn, sẽ thay hắn giữ gìn hương hoả.

    Vào những năm Đại chiến thế giới, làng Cùa gần như bị bỏ rơi. Tiếng đại bác gầm bên trời Âu hầu như chẳng có tác động gì đến nếp sống thường nhật khép kín vùng Ba Tổng. Làng vẫn cứ phạt vạ nếu có gái chưa chồng chửa hoang, và khổ chủ, tức gia đình cô gái hư hỏng kia phải biện đủ lễ vật để các vị chức sắc cúng thần trừ tà rồi ngả mâm đánh chén. Ban đêm, trai đinh cắt phiên nhau tuần tra. Nếu chẳng may có trộm vào làng thì phát lệnh bằng mõ cá, tù và sừng trâu hoặc trống ngũ liên. Chỉ trong khoảnh khắc, cả xóm thắp đuốc chạy ra, kẻ giáo mác, người dao chín hoặc tay thước, hô hét rầm trời. Bọn đạo tặc cùng đường có thằng nhảy xuống ao, có thằng đánh liều thượng lên mái đình, cuối cùng vẫn bị lũ chó phát hiện, chịu trói nộp quan.

    Làng Cùa rộng nhất tổng Kim Đôi được bảo vệ bằng luỹ tre dày chỉ thông với bên ngoài bằng hai chiếc cổng xây gạch vồ trên có vọng lâu, dưới là những cánh cửa lim nẹp sắt dày mười sáu phân. Có một con ngòi từ đầm Ma xuyên qua làng nhưng không thẳng mà lại cong queo như con rồng uốn khúc. Ông thầy phong thuỷ xứ Đoài đi qua, nhìn thế đất lắc đầu bảo: "Làng này bị con ngòi giống loài rắn nước chẻ làm đôi, phá vỡ huyệt đất quý thành ra nhân tài không phát được. Tiếc thay !".

    Những năm ấy, ở đất Bắc Kỳ, đạo Nho đã đến hồi mạt vận, nhưng ở vùng Ba Tổng người dân vẫn còn trọng chữ nghĩa. Khoá Kiệt học giỏi nổi tiếng trong vùng được các phụ huynh làng Bích La bên kia sông đón sang dạy con em mình. Làng Cùa từ lâu khuyết chân giáo thụ, học trò toàn dạt đi thiên hạ kiếm chữ vừa vất vả vừa tốn kém nhưng cánh chức dịch ghét cái nguồn gốc đạo chích của nhà họ Khúc thành thử bảo nhau tẩy chay không mời đồ Kiệt. Trái lại, anh em Khúc Đàm chẳng biết căn cứ vào nguồn tư liệu nào thường tự nhận là hậu duệ của Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ người làng Cúc Bồ đã có công khôi phục quyền tự chủ của đất Giao Châu thời Hậu Đường. Khúc Kiệt dạy học một năm thì được cụ thứ chỉ làng Bích La gả con gái cho. Bà này mắn đẻ, trong vòng chưa đầy một giáp đã sinh Khúc Văn, Khúc Vĩ, Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa. Cái chí học gạo làm quan của thầy đồ Khúc tan biến như bong bóng xà phòng khi hay tin Nhà nước bảo hộ huỷ bỏ vĩnh viễn các kỳ thi Hán học. Nhà nghèo lại đông con, chạy ăn từng bữa khiến Khúc Kiệt rầu lòng sinh bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, rượu say lại ôm mặt khóc như trẻ con bị bố mẹ đánh.

    6. Nỗi khổ đầu tiền của Khúc Đàm khi vượt biển sang nước Đại Pháp là bệnh say sóng. Chiếc tàu há mồm cao lừng lững, dài sáu bảy chục thước tây là một khối sắt thép đồ sộ với những thứ dây rợ lạ mắt giăng mắc ngang dọc trên các cột cùng lá cờ tam tài bay phần phật trước gió làm cánh lính thuộc địa, lần đầu xuất dương, vô cùng thán phục kỹ nghệ Thái Tây. Khúc Đàm chỉ ngắm trời ngắm nước được chừng vài giờ thì ruột gan bắt đầu lộn tùng phèo khi chiếc hạm thuyền cưỡi lên những con sóng bạc đầu lừng lững như trái núi, thực hiện những cứ nhào lộn, nhồi lắc dữ dội, vượt xa sức tưởng tưởng táo bạo nhất mà con người có thể nghĩ ra được. Từ lúc ấy, Khúc Đàm nằm bẹp dưới khoang tàu, trong căn hầm ẩm ướt, bẩn thỉu, lúc nào cũng tối tăm như cảnh âm cung. Mười bốn lính thuộc địa gồm cả Việt, Miên, Lào chen chúc trong cái hộp sắt chưa đầy chín thước vuông như thế nên nhất cử nhất động của một người đều phát sinh sự đụng chạm mang tính dây chuyền. Hầm nóng như nung. Không khí đặc quánh lại và ô nhiễm nặng chẳng khác gì xà lim biệt giam tử tù. Khẩu phần hàng ngày gồm bánh mỳ đen bở bùng bục, cá trích đóng hộp và thứ xúp thịt cừu loãng mới ngửi đã lộn mửa. Nước ngọt quý như vàng, ngày được một lít, uống còn không đủ nói gì đến tắm giặt.




    Tàu qua Bắc Phi, vào biển Đỏ, khẩu phần được tăng thêm chút ít nhưng vẫn không phục hồi được sức khoẻ của phần đông lính mắc bệnh kiết lỵ do thiếu nguồn rau xanh. Hành trình hơn ba tháng, khi con tầu vào cảng Mác xây thì binh đoàn Đông Dương số 5 được một đoàn xe cam nhông đưa ngay lên cao nguyên đông bắc. Nơi đây là vùng đệm tiếp giáp với dải phòng ngự chiến lược của sư đoàn 13 do tướng Pốtchiê làm tư lệnh. Đối diện với hệ thống chiến hào chạy ngoằn ngoèo như hình con trăn khổng lồ uốn khúc giữa dãy đồi mọc toàn cây vân sam là phòng tuyến quân Đức. Bọn này suốt ngày chui rúc dưới hầm, quấn mình trong những chiếc Pa đờ xuy dạ thô nặng trịch ngốn bánh mỳ với mỡ lợn hoặc loại xăng đuých rắn như đá vì lạnh với nhứ rượu vang Pađờ Cale chua loét như cứt mèo mà chúng cướp được ở các nông trại trồng nho.

    Cần phải nói thêm, tiểu đội của Khúc Đàm do viên Cai Trần Thái chỉ huy không thuộc quân số chiến đấu mà là lính phục dịch. Công việc hàng ngày là sửa chữa những chỗ chiến hào bị sạt lở, vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nếu cần kiêm luôn cả công việc tải thương. Bấy giờ đang là cuối Thu, mà mùa Thu ở miền Đông Bắc xứ Phú Lãng Sa lạnh thấu xương. Tuyết rơi ban đêm, sáng ra rắn lại như băng. Khúc Đàm cùng Phan Thế Thanh khiêng một hòm đạn đui sết sơn vàng nhạt, nặng trịch, ì ạch leo lên sườn dốc của một quả đồi nằm chếch về phía Tây tuyến phòng thủ của sư đoàn Héc man. Đêm hôm trước, Tướng Pốt chi ê vừa mất một tiểu đoàn. Họ bị rơi vào trận địa phục kích của Đại Tá Héc man, sau đó tiếp tục làm mồi cho hai mươi bảy họng súng cối sáu mươi ly. Bọn Đức trinh sát rất kỹ. Chúng căn các nòng moóc chi ê, khoá đầu khoá đuôi thung lũng Patxcan, bắn như giã giò, chần cho Tiểu đoàn Công Binh 32 của Đại uý Sác lơ tối tăm mặt mũi. Đến gần sáng, chỉ còn không qúa ba chục tay súng mình đầy thương tích thất thểu quay về. Chiến hào quá hẹp, chỉ đủ hai người tránh nhau. Nước mưa lẫn với bùn đất cùng lớp tuyết rơi đêm qua tạo thành thứ hỗn hợp nhão nhoét, bềnh bệch, ngập đến cổ đôi giày xăng đá làm Khúc Đàm có cảm giác như bị kim châm khắp lượt bàn chân. Trên đầu, vòm trời loang lổ những cụm mây xám, mây trắng và mây màu hạt dẻ bập bềnh như những tảng băng trôi. Từ góc khuất của nhánh công sự tạm thời có thể nhìn thấy phần ngọn của một cây sồi đơn độc, tán lá tròn như chiếc dù xanh mà trên cành cao nhất, không hiểu theo lệnh của ai, mấy chàng lính trẻ tiểu đội 3 đã buộc lên đấy lá cờ ba sọc rách tướp đang bay phần phật. Một con chim ưng mỏ trắng, cặp cánh rộng xoè ra, liệng trên vòm trời màu thiếc, đảo đôi mắt tròn quét một lượt khắp khoảng rừng tìm những chú thỏ ngờ nghệch, tựa hồ như chẳng hề biết đến hai đạo quân đang tìm cách tàn sát nhau dưới những con hào ngoằn ngoèo kia.

    Khúc Đàm đang ngây người ngắm mảnh trời Âu giữa lúc cả hai bên ngẫu nhiên ngừng tiếng súng thì một viên quan Hai người Pháp từ một ngách hào gọi to:

    - Ê ! Mấy anh kia, có phải các anh thuộc tiểu đội phục dịch của Hạ sĩ Trần Thái?

    - Bẩm quan lớn, đúng ạ ! - Khúc Đàm vừa lấy tay ra hiệu vừa trả lời bằng thứ tiếng Pháp bồi, các âm tiết đều bị tách ra rời rạc làm tay sĩ quan thông tin chẳng hiểu gì, hỏi lại như quát:

    - Phục dịch phải không?

    - Đúng!

    - Về trung đội ngay ! Có lệnh chiến đấu.

    Bây giờ thì không còn phải khiêng đạn và đào chiến hào ở tuyến sau nữa mà là thực sự cầm súng bắn nhau với bọn Phổ. Khúc Đàm bất giác rùng mình. Tiểu đội được phiên chế vào tiểu đoàn cơ động. Tiểu đoàn này toàn lính thuộc địa gồm hai đại đội Ma Rốc, một đại đội Lê Dương Xê nê gan và một đại đội Đông Dương. Hướng hành quân hôm nay không phải là ngọn đồi có cây sồi đơn độc mà chếch về phía Nam, nơi có trang trại trồng nho. Ông chủ nhà đã bị bọn Đức bắn chết sau khi cướp toàn bộ số rượu vang dưới hầm dự trữ từ năm 1896.

    Trang trại hồ đào tuyệt đẹp nhất là vào lúc chiều tà khi mặt trời vẫn còn cách đỉnh núi Guy đi ông chừng nửa con sào. Trước chiến tranh, mảnh đất này vốn thanh bình. ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mái nhà thờ thánh Giăng với tháp chuông nhọn chạm nổi hình chiếc bánh xe mặt tiền trông ra sông Đia xanh màu lam ngọc. Đàn cừu gặm cỏ dưới chân núi, nhìn từ xa, trắng toát như một khối bông di động. Những chú cừu non vừa chào đời không theo kịp đàn, run rẩy trên đôi chân mảnh khảnh, ngơ ngác nhìn chung quanh thỉnh thoảng lại be be gọi mẹ. Sườn đồi thoai thoải, chếch về phía Nam một chút là những chiếc cối xay gió xếp hàng xoè ra những chiếc cánh quạt dài, mỏng mảnh quay một cách miễn cưỡng mặc dù có lúc gió từ triền sông thổi về rất mạnh. Trên đỉnh chiếc chong chóng cao nhất, hình như đã bị hỏng, một con quạ già trụi sạch lông đầu, cái mỏ rũ xuống, đứng trầm tư nhìn xuống khu vườn nho. Xa hơn chút nữa, chếch về hướng tây bắc là cánh đồng lúa mạch đang chín. Lũ chim dẻ quạt, bồ các và sáo đen chao lượn như mắc cửi. Chúng lao vun vút nhìn ngó tứ phía, thỉnh thoảng lại cụp cánh thả mình rơi xuống mổ đám châu chấu ma đang nhảy tanh tách giữa những nhánh lúa. Vài con dẽ gà tinh khôn rất có kinh nghiệm tìm những đám lúa mới chín. Chúng lủi thật nhanh vào giữa ruộng, đánh đu lên cây nhằn hạt.

    Nhưng bây giờ thì khung cảnh êm đềm ấy không còn nữa. Từ lâu nó đã thành bãi chiến trường. Nhìn cảnh tượng một vùng quê nước Pháp, Khúc Đàm chợt nhớ đến mảnh đất làng Cùa vùng Ba Tổng của mình. Hắn đang thả hồn phiêu diêu về xứ sở An Nam với nền văn minh lúa nước và những chiếc cối xay tre đắp đất nhích tùng vòng nặng nề quay từ cả ngàn năm trước thì có lệnh hành quân. Tất cả tiểu đội ba lô lên vai, lưng thắt bao đạn, vai khoác trường mút hoặc rê minh tơn chụp mũ ca sô lên đầu rồi nối nhau bước trong chiến hào. Cuộc chạm súng bắt đầu từ ba giờ chiều khi những quả moóc chi ê tám mươi mốt ly từ phía sau những chiếc cối xay gió bay tới chiến hào tiền duyên. Đấy là moóc chi ê của quân đội Pháp nhưng bị bọn Bốt xơ cướp được từ tuần trước, mở màn cho bản đại hợp xướng máu lửa.

    Lính Đông Dương vốn thể trạng thấp bé lọt thỏm trong bộ quân phục rộng thùng thình như là quần áo đi mượn của mấy ông "nhiêu" trong ngày tế đám. Đã thế, lại vì thời tiết khắc nghiệp, nhiệt kế xuống đến mười hai độ âm, nên mọi người còn phải đóng thêm chiếc áo dạ màu cứt ngựa, vừa dài vừa nặng, thành thử mỗi bước đi, hai vạt xoè ra quết bùn đất trông thật thảm hại. Viên ách di đăng chỉ huy trung đội là một người Pháp lai. Hắn nói tiếng Việt rất sõi, thỉnh thoảng còn chửi lính bằng thứ thổ ngữ vùng Kim Sơn Ninh Bình chính hiệu. Trước đó nửa giờ Trần Thái bị trúng mảnh moóc chi ê. Mảnh đạn phạt vào đầu từ trên xuống bóc hẳn một mảng thịt nhầy nhụa máu cùng với nửa vành tai. Chiếc mũ rách toạc nham nhở như bị chó gặm. Trần Thái rú lên một tiếng thảm thiết rồi ngã chúi xuống nằm chắn ngang đoạn hào nông choèn đã bị đạn pháo làm sập vài chỗ.

    Đại đội Xê nê gan cao to lừng lững như hộ pháp, da đen bóng, ôm súng lom khom triển khai đội hình dưới đường hào cận tuyến. Phía sau họ chừng ba chục thước, tuyến tán binh thứ hai gồm Tiểu đoàn Đông Dương số 2, số 7 và đại đội Lê Dương triển khai theo đội hình tác chiến yểm hộ cho những chiến binh Phi châu. Đối diện với họ, sau vườn nho là những cứ điểm phòng thủ của bộ binh Đức. Chúng tác chiến theo một trình tự khá bài bản và đặc biệt ít khi lộ diện nếu như chưa phát hiện ra vị trí đối phương. Cuối cùng thì những khẩu cối 81 và 105 ly của trung đoàn Li ông cũng khai hoả. Tiếng đề pa nghe rõ mồn một chứng tỏ những thiên thần hộ mệnh cho bộ binh này ở cách đây không xa. Trận địa phút chốc trở thành một cuộc đấu pháo ngoạn mục với hàng ngàn vạn âm thanh hỗn tạp, đinh tai nhức óc làm rung chuyển bầu trời vốn là nơi tuyệt đối yên tĩnh. Khói bay lơ lửng giữa từng không rồi xộc vào chiến hào. Mùi lưu huỳnh vừa nồng vừa khét làm nhiều người ngạt thở, ho sặc sụa. Mặt trời chiều không thể xuyên nổi lớp khói dày đặc. Không gian bùng nhùng âm u như địa ngục. Khúc Đàm phải lấy chiếc khăn bông bẩn thỉu ấp vào mũi, một tay xách súng dò từng bước lên sườn một quả đồi thấp mọc toàn cây lúp xúp tựa như cây dành dành ở quê nhà. Viên chuẩn uý cầm khẩu rê minh tơn trong tay đứng thẳng người dõng dạc hô:

    - Trung đội, bên trái quay ! Về hướng cối xay gió.

    Tiếng hô vừa dứt, từ trên cao, hơi chếch về mỏm đồi Chó Sói, những vệt lửa loằng ngoằng kèm theo tiếng nổ đanh, đều, từng loạt một nhằm vào hàng lính Đông Dương.

    - Anh em ơi xông lên, quyết tiêu diệt bọn Phổ!

    Có tiếng ai đó thét lên bằng tiếng Pháp. Lính Xê nê gan chạy ngược lên đồi Cối Xay Gió chẳng theo một bài bản nào, thành ra khi bị hoả lực đối phương quất trực diện thì chẳng ai bảo ai, quẳng súng chạy như một đàn vịt. Trận tấn công thất bại. Viên chuẩn uý bị đạn xuyên qua bả vai, gẫy xương quai xanh được Khúc Đàm dìu về chiến hào tiền duyên. Nửa giờ sau, một viên thiếu uý rậm râu người vùng A vi nhông, nói tiếng Đức lưu loát được điều về làm trung đội trưởng. Hắn chửi rủa lính thuộc địa không tiếc lời, tất nhiên là bằng thứ ngôn ngữ Avinhông rồi huơ huơ khẩu súng lục to tổ bố trước hàng quân lấm lem như ma vùi.

    - Lần này không có lệnh của tôi, kẻ nào quay đầu nhìn lại phía sau là bắn.

    Lời răn đe của viên quan một tỏ ra có hiệu lực. Lính thuộc địa sợ khẩu súng của Đuy mông hơn là lửa của bọn Đức. Cuối cùng thì tiểu đoàn thuộc địa cũng chiếm được cao điểm Cối Xay Gió. Bọn Phổ rút đi bỏ lại mấy chục xác chết dưới chiến hào hoặc trên mặt đất. Khúc Đàm bị một viên đạn súng trường khoan vào mông, gẫy xương chậu. Cánh phục dịch khiêng hắn về tuyến sau trên chiếc cáng gỗ bạch dương vừa dài vừa hẹp, thỉnh thoảng lại thúc vào vách hào. Máu chảy ra như xối mặc dù mông hắn đã được tay y tá người Pháp sơ cứu. Hắn nằm sấp trên cáng kêu ồ ồ như lợn bị chọc tiết.

    Trạm xá trung đoàn là một toà lâu đài bỏ hoang từ cuối thế kỷ trước nằm trong cánh rừng bạch dương, cách khu Cối Xay Gió, trung tâm của trận đánh vài dặm nhưng tương đối an toàn bởi công trình này khá kiên cố. Tường xây toàn bằng đá tảng dày bốn mươi bảy phân, dưới có tầng hầm, trước dùng chứa rượu và bắp cải muối, có thể sơ tán thương binh nếu bị quân Đức pháo kích. Cuộc phẫu thuật không có thuốc gây tê để lấy những mảnh vỡ trong vết thương do các bác sỹ gần như đã kiệt sức vì mấy chục ca mổ trong ngày làm Khúc Đàm xuýt nữa thì về chầu ông vải. Rất may hắn được cô y tá người Angiêri là Miriam chăm sóc chu đáo nên mới thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Khúc Đàm vốn có thể trạng tốt, lại gan lì chịu đau để cô hộ lý thay băng trong tình cảnh gần như cởi truồng nên tất yếu không tránh khỏi sự đụng chạm vào "của quý" của hắn. Mỗi khi bàn tay xinh đẹp hơi ngăm ngăm của Miriam luồn băng qua háng, dương vật của hắn lại cứng ngắc, ngỏng lên. Lúc đầu cô gái Bắc Phi còn đỏ mặt, đến lần sau, chẳng nể nang gì, Miriam cầm chiếc panh vụt thật mạnh làm gã lính tập kêu rú lên như là đang bị thiến.

    Ba tháng sau, khi vết thương đã lành, Khúc Đàm được điều về đại đội phục dịch. Lúc này hắn đã được phong hạ sỹ và ở ngoài chiến hào, thỉnh thoảng lại nhận được thư của Miriam bằng thứ chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Tất nhiên hắn không thể đọc những bức thư kiểu ấy cũng như cô y tá chẳng hiểu gì những ký tự nguệch ngoạc tượng hình mà hắn gửi đáp lại tấm tình cô ta. Công việc phục dịch tuy không phải cầm súng nhưng chết như bỡn nếu rơi vào trận địa pháo của Đức. Mới hôm qua, chính hắn đã phải khiêng xác Lê Văn Ngọ, Thân Quang Đính và áp đu la về cuối đường hào số 4. Chỗ ấy là nơi tập kết những xác chết. Trời băng giá, nhiệt độ quá thấp, những cái xác cứng lại trong chiếc capốt lính màu xám. Nhìn thi hài hai người đồng hương xấu số, bất giác Khúc Đàm thở dài, chảy nước mắt. Trung đội cũ của hắn cứ hao hụt dần. Hắn biết được tin này qua anh chàng Thiệp chân sếu quê ở Ngân Sơn, Bắc Cạn.

    Thiệp là người Tày đã có vợ con nhưng do thua bạc, nợ nần nhiều quá phải đăng lính lấy tiền trang trải. Tay này mỗi khi ra trận đều đeo chiếc bùa do một bà đồng người Sán Dìu bán cho hồi còn ở nhà. Chẳng biết có phải được thần phật che chở hay không mà suốt mấy năm chạm nhau với bọn Đức hắn chưa hề mất một sợi tóc. Mối tình của cô gái Angiêri với Khúc Đàm có vẻ như ngày càng sâu nặng. Chẳng bao lâu, cả hai đã nói được với nhau bằng thứ tiếng Pháp lơ lớ chẳng cần chia động từ và hoàn toàn bỏ qua trọng âm. Khúc Đàm đã có chủ ý, nếu trời phật để cho sống sót qua cuộc chiến, hắn sẽ đưa Miriam về làng Cùa, mặc cho chiên hạ đàm tiếu, cưới cô làm bà ba và sinh con đẻ cái nối dõi dòng họ như bất cứ gã đàn ông nào khác. Có điều, ý nguyện của hắn không thành. Cô y tá Bắc Phi bị thương nặng trong một trận ném bom dữ dội của không quân Đức khi chúng phát hiện được bệnh viện dã chiến nằm trong toà lâu đài. Miriam chết vì vết thương ở bụng mất quá nhiều máu. Trung đội của Khúc Đàm được lệnh chôn cất người chết. Trong số mười ba nạn nhân có hai phụ nữ, Miriam và bác sĩ ngoại khoa Bêatơrít.

    Chiến tranh thế giới kết thúc, binh đoàn Thuộc Địa cho lính giải ngũ. Khúc Đàm về Mác xây cùng với phần lớn cựu chiến binh Đông Dương chờ ngày xuống tàu về nước. Tại hải càng này, hắn đã đi lại với một gái điếm người Pháp tên là Luy xi và bị lây bệnh giang mai. Chưa đầy một tuần, dương vật của hắn sưng tấy lên, thỉnh thoảng chảy mủ, bốc mùi rất khó chịu. Nhiều khi đau quá, đứng ngồi không yên hắn đã nghĩ đến chuyện ra cầu tàu nhảy xuống biển tự tử. Cái thứ bệnh quái ác ấy theo hắn vượt trùng dương về tận làng Cùa, sau này phải mất khá nhiều thời gian và tiền bạc mới chữa khỏi. Cũng may chuyến viễn chinh mấy năm của hắn được chính phủ Pháp tặng thưởng mề đay "Anh dũng Bội tinh" vì có huân công kèm theo mấy trăm bạc Đông Dương trợ cấp thương tật. Khoản tiền đó làm Khúc Đàm trở thành giàu nhất vùng Ba Tổng.


    Công việc đầu tiên sau khi hồi hương là Khúc Đàm kén thợ xây một dinh cơ bề thế hơn hẳn toà nhà bát giác kệch cỡm của lão Lý Lượng để phô trương với thiên hạ. Toà nhà chính hai tầng xây theo kiểu Pháp, trần xi măng cốt thép, mái lợp ngói Tây chống nóng, nền lát gạch men hoa. Hai dãy nhà ngang đối nhau qua cái sân rộng lát gạch Bát Tràng được cánh thợ Nam Định dựng hơn một năm mới hoàn công. Hai toà nhà này, trừ mái ngói âm dương còn toàn bộ kiến trúc đều bằng gỗ kể cả sàn và ván thưng bốn chung quanh. Đây là kiểu nhà do chính họ Khúc thiết kế. Hắn đã khéo léo kết hợp hai phong cách kiến trúc Âu A để tạo ra một sản phẩm khá lạ mắt ở làng Cùa. Các ngài chức sắc hễ có dịp ra đình ngồi với nhau là dè bỉu vệ Đàm đài các rởm. Khúc Đàm biết tỏng bọn này ngoài miệng chê bai nhưng trong lòng thì ghen tức, càng tìm cách trêu ngươi.

    Được hơn một năm, sau khi làm xong toàn bộ dinh cơ, Khúc Đàm ra tranh chức Lý Trưởng làng Cùa. Bọn hào mục ghét họ Khúc bèn đệ đơn trình Quan phủ tố cáo bố đẻ Khúc Đàm trước đây là trùm cướp, hoành hành khắp vùng Ba Tổng, quấy nhiễu dân lành. Tri phủ Đỗ Khánh vốn là một gã vô học nhưng lại là cháu họ quan Khâm Sai Bắc Kỳ, được sung chức do hối lộ chứ không có thực tài, rất hách dịch. Nhận được đơn, Đỗ Khánh nổi giận, gửi trát đòi Khúc Đàm lên phủ đường để trị thói chơi trèo và dạy cho bài học về tôn ti trật tự. Mãi trưa hôm sau Khúc Đàm mới cưỡi ngựa đến trình diện. Hắn nghênh ngang bước vào công đường, không chắp tay vái mà chỉ khẽ gập đầu chào làm Đỗ Khánh tím mặt.

    - Tên kia có phải Khúc Đàm làng Cùa?

    Khúc Đàm bấy giờ mới chắp tay hỏi:

    - Quan lớn cho gọi chúng tôi lên đây có việc gì ạ?

    Viên Tri Phủ cầm phiến đá chặn giấy đập đến chát một cái xuống bàn, dõng dạc bảo:

    - Có đơn của hội đồng kỳ mục làng Cùa kiện nhà anh về tội mạo phạm ra tranh chức Lý Trưởng.

    Khúc Đàm cười nhạt:

    - Bẩm quan lớn, tôi ra tranh cử lL trưởng là căn cứ vào các điều khoản quy định trong văn bản hướng dẫn của văn phòng Thống Sứ Bắc Kỳ và ngài Khâm Sai đại thần thay mặt chính phủ Nam Triều năm Mậu Tý, sao lại gọi là mạo phạm?

    Đỗ Khánh đập án quát:

    - Anh này lý sự gớm. Anh có biết vì sao người làng đệ đơn tố cáo không? Nói cho mà biết, chính là vì bố anh trước đây làm quân đạo tặc.

    Khúc Đàm không hề thay đổi sắc mặt khi nhìn thấy vẻ hí hửng của viên Tri Pphủ. Hắn thong thả rút trong túi ra tấm "Anh Dũng Bội tinh" và tấm bằng tưởng thưởng công lao của Trung sĩ Khúc Đàm trong Đại Chiến Thế Giới đối với nước Đại Pháp, đặt trước mặt viên Thừa phái rồi hất hàm bảo:

    - Ông đọc lên cho quan lớn nghe xem những thứ này có đủ tư cách bảo lãnh cho chiếc triện đồng không?

    Nhìn thấy những thứ ấy, khuôn mặt Đỗ Khánh trở nên trắng bệch. Viên Thừa phái thì thầm vào tai ông ta mấy câu, ngài Tri Phủ vội đứng lên rời khỏi bàn, bước lại gần Khúc Đàm, hơi cúi đầu, nói nhỏ:

    - Chuyện này quả thực bản chức không biết. Ông cứ về chuẩn bị nhận việc, còn cánh Lý Lượng cứ để tôi trị.

    Cầm triện đồng trong tay rồi, lý Đàm bắt đầu củng cố vây cánh mà việc đầu tiên là vận động cánh kỳ hào bầu Khúc Kiệt làm Chánh Hội. Khúc Kiệt biết tin bảo các con:

    - Ta thà chết đói còn hơn bám đít Tây kiếm bơ thừa sữa cặn.

    Khúc Đàm tức lắm mắng em trai là đồ ngu. Ông em vốn tính gàn, xưa nay không chịu luồn cúi ai, nhà nghèo rớt nhưng cậy có tí chữ, coi thiên hạ bằng nửa con mắt.

    Bẩy năm sau, tuy chưa đến tuổi bốn mươi mà Khúc Đàm đã giữ triện đồng hàng Tổng, danh tiếng nổi như cồn nhưng vẫn chưa có con trai. Trước khi hắn viễn chinh sang Pháp, bà Hai Thoả đã đẻ được Khúc Thị Hài nhưng mắc chứng khoèo tay bẩm sinh. Nhìn con bé dị dạng, Khúc Đàm ghét lắm, vì thế ghét luôn cả vợ. Chưa có người nối dõi tông đường, chánh Đàm rất sốt ruột. Cũng từ đấy lão nghĩ đến chuyện cưới bà Ba.

    (còn tiếp)

  2. #2
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default


    Chương 2

    Lê Văn Vận là chàng lực điền khoẻ mạnh, cha mẹ mất sớm, không tấc đất cắm dùi, kiếm ăn bằng nghề thả lưới trên sông Lăng. Về nguồn gốc của Vận không ai rõ. Có tin đồn, cha mẹ Vận cũng là thuyền chài ở mãi vùng Ngã Ba Môi, năm ất Mão người chồng lặn xuống vụng Giải tìm của nửa ngày không lên, bà vợ nóng ruột nhảy xuống cứu cũng mất tích. Dân chài từ lâu có tục thả nồi đồng, mâm đồng, chậu thau đồng xuống những vực nước sâu dọc triền sông Lăng. Cách để của khá độc đáo này có cái lợi là không phải mang theo thuyền, đỡ cồng kềnh và đặc biệt không thể mất trộm. Tuy nhiên cái hại của nó thì không lường được. Vực sông thường là những xoáy nước cuồn cuộn với sức hút ghê gớm, phải là người lặn giỏi, bền sức vào cữ giêng hai mới lấy những thứ đã giấu lên được. Muốn "của" an toàn, hàng năm gia chủ phải sắm lễ vật cúng thần sông vào ngày rằm tháng bảy. Cái vụng nước mà bố mẹ Lê Văn Vận lặn xuống, trước đã có thằng bé chết đuối lúc cưỡi trâu bơi qua sông. Mãi sau này người ta mới biết, nó bị dòng nước hút xuống đáy sông, xoay tròn như cối xay lúa rồi chui tọt vào cái nồi đồng điếu to đại, mắc cứng ở đó không nổi lên được. Thằng bé chết bất đắc kỳ tử nên rất thiêng, cứ mỗi năm đến mùa lũ nó lại bắt một người.

    Trở thành kẻ mồ côi, Lê Văn Vận tiếp tục nghề sông nước trên con thuyền nát và mấy tay lưới của cha mẹ để lại. Hôm ấy trời bất chợt đổ mưa. Sông Lăng chỉ là một chi lưu của sông Yên nhưng trên thượng nguồn có lũ nên nước về rất nhanh. Sóng vỗ oàm oạp, cuồn cuộn đuổi nhau. Mặt sông mở rộng ra, chưa đầy nửa giờ đã nhấn chìm những bãi chuối hột và cả những vạt tre chắn sóng dưới làn nước đỏ quạch phù sa. Chẳng hiểu sao, sóng to gió lớn như thế mà lão lái Tình dám cho đò qua sông. Từ trên đê, Vận hồi hộp theo dõi số phận con đò, trong bụng không dám chắc nó có thể bình yên cập bến dù lão ma rượu này là một tay chèo cự phách. Và điều tệ hại đã xảy ra. Trong cuộc vật lộn tuyệt vọng giữa cái sống và cái chết, nếu không phải một gã dân chài quen nghề sông nước như Lê Văn Vận thì bà Ba khó lòng thoát khỏi nanh vuốt của thuỷ thần. Sau trận đắm đò xuýt chết, chánh Đàm cấm Thị Lánh đi chợ xa. Lão cho mời lang Vị, một thầy thuốc nổi tiếng trong vùng đến nhà bắt mạch, bốc thuốc bồi dưỡng sức khoẻ cho bà Ba. Thị Lánh vốn có thuật mê hoặc đàn ông. Trong lúc ái ân, cô ta giở đủ mánh khoé nhà nghề buộc chánh Đàm phải làm theo ý mình. Họ Khúc si mê người đàn bà đến mức gần như quên hẳn trên đời còn có bà Cả, bà Hai. Các bà trước đây sống với nhau như chó với mèo, giờ tự nguyện liên minh thành một khối để đối phó lại với kẻ thù của mình mà bà Cả Huê vẫn gọi là "con hồ ly tinh". Mọi việc thu chi trong nhà giờ thuộc quyền Thị Lánh. Cô ta phớt lờ hai bà chị nhưng lại đối xử khá rộng rãi với tá điền. Những gia đình nghèo quá đôi khi cô ta còn vượt mặt Khúc Đàm tha hẳn địa tô.

    Năm ấy, vùng Ba Tổng được mùa. Trai gái làng Cùa, Mạc Điền, Đậu Khê và Bối Khê rủ nhau trảy hội xuân vào ngày mồng sáu tháng giêng. Phần quan trọng nhất là lễ đền Vân Nương đã có các chức sắc hàng tổng mà đứng đầu là chánh Đàm đảm nhiệm. Thanh niên nam nữ rủ nhau ra bãi sông chơi đu, đấu vật, kéo co, bắt vịt và leo cây chuối. Sân chơi là một khu bãi rộng hàng chục mẫu chạy dọc ven đê, vì chưa đến vụ gieo trồng nên cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ chân chim, cỏ mật mọc chen nhau, mịn màng chẳng khác gì một tấm thảm xanh. Đây đó điểm xuyết những đoá cúc dại vàng sẫm hoặc vài bụi tầm xuân xoè những cánh mỏng phơn phớt hồng ngời lên trong ánh ban mai. Chếch về phía nam một chút, nơi tiếp giáp với bãi cỏ và cánh đồng Mả Dứa là đầm Ma. Cạnh đầm Ma có một gò đất chừng hơn trăm mẫu nhô lên như quả đồi thấp, mọc chen chúc đủ các loại cây, chẳng biết do con người trồng hay đã có từ bao đời trước mà rậm rạp, xanh tốt như một khoảnh rừng. Chim chóc, cò vạc từ khắp nơi, vượt sông Lăng kéo nhau về làm tổ, chiều chiều lại vỗ cánh ràn rạt bay đi kiếm mồi. Người làng Cùa coi khu rừng là một thế giới hoang vu, huyền bí, thậm chí còn là nơi cư ngụ của phần lớn ma quỷ trong vùng. Chỉ có lũ trẻ trâu, bọn đánh giậm, dân móc cua, câu ếch chẳng biết sợ là gì. Chúng ngang nhiên vào rừng leo lên cây lác bắt chim, rung tổ để cò con rơi xuống. Có thằng còn dùng ống xuỳ đồng bắn được một con chim mào đỏ, lông sặc sỡ, đuôi dài như đuôi công. Ông Cửu Mẫn, một thầy phù thuỷ chuyên tróc ma quỷ về quẫy nhiễu dân làng bảo đó là loài phượng hoàng. Bố mẹ thằng bé sợ quá, vụt cho nó mấy roi rồi thả con chim ra. Người ta đồn gần đây trong rừng có nhiều sự lạ. Ông Tiên Nhũ là dân thiến lợn rong khắp tổng bảo, một lần vào đấy tìm lá mộc hương bắt gặp người đàn bà trẻ, rất xinh đẹp, tóc trắng như bông, ngồi vắt vẻo trên sợi dây leo giữa hai cây báng cổ thụ lắc lư đưa võng. Nhìn thấy Tiên Nhũ, con ma bật cười sằng sặc làm lão chết khiếp mãi đến chiều mới tỉnh lại. Còn bà Đồng Dự mắt toét chuyên lừa bịp con nhang đệ tử, thì thề sống thề chết đã có lần được "Mẫu" gọi lên rừng trao cho thứ quả nhỏ như quả quýt, ăn vào có thể chữa được bách bệnh. Ra đến cửa rừng chẳng may gặp con rắn mười hai mào phun phè phè thè ra cái lưỡi đỏ lòm, bà ta sợ quá, chạy bán sống, rơi mất quả "thuốc quý".

    Cũng như mọi năm, hội làng bao giờ cũng bắt đầu bằng việc rước tượng Vân Nương, một dâm nữ bị thả bè trôi sông đã gây ra tấn thảm kịch cho làng. Chuyện xưa kể lại, ngày ấy làng Đậu có một cô gái xinh đẹp là Thị Vân, con hoang của một mụ hành khất vẫn thường qua lại ăn xin vùng Ba Tổng. Lý trưởng làng Cùa rất ghét phường du thủ du thực hay ăn lười làm, hễ thấy ăn mày đến là đuổi như đuổi tà. Hôm ấy, hai mẹ con Thị Vân tay bị tay gậy, nón mê áo rách vừa vào cổng nhà lý Thìn đã bị cả đàn chó xổ ra bâu xung quanh. Chó nhà lý Thìn toàn loại dỏng tai, cao to và dữ dằn như hổ báo. Chúng nhe nanh nhọn trắng nhởn, thè cái lưỡi đầy gai, làm lớp da mõm co lại, kéo những sợi râu mép vểnh ngược lên trong tư thế bị kích động, cổ họng phát ra thứ âm thanh gừ gừ uy hiếp, sẵn sàng lao vào cắn xé. Trong giây phút hiểm nguy, người mẹ sử dụng cây gậy như một thứ vũ khí tự vệ khá hiệu lực. Chiếc gậy lăm lăm trong tay, bà già thủ thế, thỉnh thoảng lại vụt trúng mõm một con. Nhát vụt của người mẹ hành khất ốm yếu hầu như không mấy tác dụng đối với sức mạnh tổng lực của đàn khuyển béo tốt và tuyệt đối trung thành với chủ. Sau một hồi cầm cự, sức lực của bà lão đuối dần, cuối cùng, con đầu đàn có chiếc bờm vàng cháy như bờm hổ dùng hàm răng cứng như sắt, giật được cây gậy tạo cơ hội cho cả bầy lao vào mẹ con Thị Vân. Người mẹ bị đàn chó xé toạc tấm áo đụp, cắm những chiếc nanh nhọn vào tấm thân gầy còm trơ xương sườn như cách hạ sát con mồi của lũ sư tử đói. Chỉ một thoáng, người đàn bà hành khất chỉ còn là một khối bùng nhùng nhầy nhụa máu. Giữa cơn bấn loạn, con bé sợ quá nhắm mắt thét lên mấy tiếng như tiếng tru của bầy sói hoang vào những đêm trăng giá lạnh. Tiếng thét nghe thê thảm bởi thứ âm sắc hoang dã thậm chí rùng rợn làm lũ chó cụp tai, run lên bần bật, rồi nhất loạt bỏ xác chết, cúp đuôi chạy vào nhà.

    Đứa bé gái được một cặp vợ chồng không con nhận nuôi sau này trở thành cô gái đẹp nhất làng. Đến tuổi trăng tròn, cô ta không lấy chồng mà dùng nhan sắc của mình chài hết lượt đàn ông nhất là bọn chức việc có vai vế. Các bà vợ có máu sư tử Hà Đông lồng lộn như con thú bị nhốt trong chuồng bỏ đói lâu ngày. Cánh trai làng vác gậy nện nhau còn gia đình lý trưởng, phó lý, chánh hội, chưởng bạ thường xuyên lục đục, và cứ mỗi lần như thế các bà lại bị đức ông chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay thâm tím mặt mày. Làng Cùa dậy lên làn sóng phẫn nộ đòi lý trưởng phải trừng phạt con dâm nữ bằng cách thả bè trôi sông. Lý trưởng là gã máu dê đã nhiều lần mò đến ngủ qua đêm với cô con gái người hành khất, định giải cứu người tình nhưng không thoát. Thị Vân bị trói vào bè chuối. Tấm biển ghi tội "lẳng lơ, quyến rũ đàn ông làm bại hoại thuần phong mỹ tục" cắm ngay dưới chân. Chiếc bè bập bềnh trên sóng lắc lư giữa dòng nước đục ngầu. Dân làng đổ ra xem như đi hội. Đàn ông lén lau nước mắt. Đàn bà hả hê ra mặt. Vậy là từ nay làng Cùa trừ được một con yêu tinh. Trôi gần đến vụng Giải, chiếc bè tự nhiên dựng ngược rồi bị hút vào xoáy nước. Cũng thời khắc ấy, trời bỗng nhiên tối sầm. Từ đâu đó vọng về những tiếng nổ lụp bụp kéo dài thành chuỗi lúc xa lúc gần, rồi một trận mưa sầm sập trút xuống trắng cả vùng Ba Tổng. Trận mưa tai ác kéo dài ba ngày ba đêm làm vỡ bảy quãng đê nhấn chìm làng Cùa giữa một đại dương mênh mông là nước. Các vị chức sắc là những kẻ đầu tiên làm vật hiến tế cho cơn thịnh nộ của thuỷ thần. Tiếp theo là đàn bà con gái nhất là những kẻ từ lúc mới sinh ra đã nhiễm thói ghen ngược. Trai tráng vốn dai sức, bằng mọi phương tiện có được, họ dìu nhau đến được rừng Hóp nên phần lớn qua khỏi cơn hồng thuỷ. Mấy hôm sau nước rút, bà phó Đễ, một trong bảy phụ nữ sống sót, được thần nhân báo mộng:

    - Dân làng Cùa phạm tội lớn, dám hành hình nữ thần bảo hộ hạt Ba Tổng thác sinh làm con gái người hành khất. Muốn thần không giáng hoạ phải lập miếu thờ. Trong miếu tạc một pho tượng phụ nữ khoả thân nằm nghiêng trên khám sơn son thiếp vàng. Hàng năm cứ đến ngày mồng sáu tháng giêng mở hội rước thần chủ ra sông tắm rồi lại khiêng vào miếu. Tám người khiêng kiệu phải là gái chưa chồng nhưng đã mất trinh. Làm được như thế Vân Nương sẽ khiến cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu.

    Đây là lễ hội đông vui nhất vùng Ba Tổng. Ngoài việc tắm tượng cầu mát, các nam thanh nữ tú còn có nhiều trò du hí. Chơi đu bắt đầu bằng ba cặp nam nữ. Nam áo the, quần chúc bâu, khăn xếp. Nữ áo tứ thân, váy đũi, thắt lưng xanh, tóc bỏ đuôi gà. Những chiếc đu vừa đủ chỗ cho bốn bàn chân đặt sát nhau, được cố định bằng tám cây tre đực già vừa dài vừa thẳng đặt chéo nhau, gốc chôn xuống đất ngọn néo chặt, xuyên gióng ngang. Dây đu cũng bằng tre nhưng là cây tre bánh tẻ vừa dẻo vừa mềm, văng suốt mấy ngày hội vẫn an toàn. Khi đôi bạn đã nhún đu đến tốc độ cần thiết, do quán tính, nó cứ văng đi văng lại theo một hành trình mỗi lúc một cao làm cho người ta có cảm giác lâng lâng như là đang bay lên trời bằng cặp cánh của chính mình. Đu bay, gió vờn những tà áo tứ thân xanh đỏ rực rỡ như cánh cào cào giã gạo. Váy lĩnh của các cô con nhà giầu phồng lên như những chiếc nơm. Mỗi khi dây đu đổi chiều, gió đẩy ngược, gấu váy tốc lên quá đùi phô ra phần da thịt nõn nà rất trần tục mà lại vô cùng bí hiểm.

    Bà Ba xuất hiện ở hội từ ngày đầu tiên với tất cả sự háo hức của một cô gái trẻ đa tình. Vào dịp hội hè, chánh Đàm không giữ vợ ở nhà mà có giữ cũng chẳng được. Cô ta sẽ tìm trăm phương ngàn kế để thoát khỏi sự kiềm toả nặng tính gia trưởng của lão già cả ghen. Lúc vào đu, bà Ba được xếp cặp với con trai chánh hội Hạp. Tay này là một gã bạo gan, vừa nhún bàn đu vừa thò tay bóp vú người đẹp. Bà Ba nghiêm mặt bảo:

    - Này ! của bụt mất một đền mười, đừng tưởng bở.

    Hắn lim dim cặp mắt lươn, hếch cái mũi sần lốm đốm những mụn trứng cá bỡn cợt:
    - Trước khi ra hội, đây đã vào chùa thắp hương. Đức phật dạy, oản thiên hạ ngon lắm, lộc trời cho tội gì không nếm thử.
    - Thôi đi, đồ nỡm ...

    Hắn cười hềnh hệch tiện tay kéo dải thắt lưng nhiễu tím của bà ba. Động tác kéo không phải là cố ý nhưng do phản ứng giới tính, Thị Lánh sợ bị tuột váy vội rút tay giữ thắt lưng. Chỉ một thoáng bất cẩn, cây đu mất thăng bằng làm bà ba chới với tuột tay rơi xuống… Tính mạng bà Ba lúc này là ngàn cân treo sợi tóc. Những người đứng xem chưa biết xử trí ra sao, không ít các bà các cô phải nhắm mắt chờ một kết cục tất yếu, thì bất chợt một chàng thanh niên phi thân như một mũi tên đỡ được Thị Lánh vừa rơi trúng tầm tay. Cả hai cùng ngã, tất nhiên là cú ngã không hề êm ái chút nào nhưng nó đã cứu được tính mạng vợ ba chánh tổng. Bấy giờ mọi người mới xúm lại xem chàng trai liều lĩnh ấy là ai. Thật không thể nào tin được lại chính là gã thuyền chài Lê Văn Vận.

    Lần này chánh Đàm sai bà Cả Huê đích thân mang lễ xuống thuyền tạ ơn anh thuyền chài. Thị Lánh tuy còn đau vì tay trật khớp những vẫn đòi đi theo. Trong cuộc diện kiến dưới khoang thuyền chật hẹp nồng nặc mùi cá, bà Ba nhìn thân hình vạm vỡ với những bắp thịt săn nổi cuồn cuộn của Lê Văn Vận bất giác thở dài, thỉnh thoảng lại liếc mắt đưa tình. Anh này từ bé đến lớn chưa bao giờ được ánh mắt đàn bà ve vuốt khiến khuôn mặt ngăm ngăm nóng bừng, tim đập thình thịch còn miệng thì lúng búng không nói lên lời. Khi khớp tay khỏi, bà Ba lấy cớ đi thăm ruộng đồng Quan, ra sông Lăng tìm gặp ân nhân đã hai lần cứu mạng. Hôm ấy, Lê Văn Vận vừa thu lưới định mang cá lên chợ, bà Ba xin mua hết rồi trả số tiền gấp hàng chục lần giá trị thực của nó. Sau phút lúng túng đầu tiên, Lê Văn Vận trở nên bạo dạn bởi cái nhìn đầy ý nghĩa của người đàn bà đẹp. Hắn bảo:

    - Chỗ cá hôm nay không đáng là bao, xin biếu bà Ba, lần sau sẽ lấy tiền.

    Thị Lánh chợt thoáng một ý trong đầu:
    - Anh Vận có muốn làm rể ông Chánh không ?

    Chàng ngư phủ giật mình lắc đầu:
    - Bà Ba cứ đùa. Tôi là phận đũa mốc đâu dám chòi mâm son.

    Bà Ba liếc Vận cười khẽ, chiếc răng khểnh phô ra trắng loá làm gương mặt xinh đẹp có chiếc cằm lẹm ngời lên dưới ánh nắng sớm.
    - Anh hãy tin tôi. Ai lại nói đùa một chuyện hệ trọng như thế. Mọi việc cứ để tôi lo. Có điều con bé hơi bị khoèo…

    Đêm hôm ấy, lúc đi ngủ, bà Ba bảo chánh Đàm:
    - Con Hài nhà mình sắp mười bảy, cũng nên tìm nơi chốn cho nó thành gia thất.

    Chánh Đàm từ lâu vẫn ấm ức vì cô con gái tật nguyền nay thấy vợ nói chuyện gả chồng, lão nhấm nhẳng bảo:
    - Có mấy đám dạm hỏi nhưng đều chẳng ra gì. Nhà phó hội Lẫm thì môn đăng hộ đối đấy nhưng thằng con lại dở người, thỉnh thoảng lăn quay ra như phải gió. Ngữ ấy chỉ có hầu nó suốt đời, khổ con gái mình. Còn thằng Đẩu nhà lý Cựu mới tý tuổi đầu đã nghiện thuốc phiện, người như hình nhân thế mạng. Của ấy chắc gì sống được đến ba chục tuổi. Vậy mà lão Cựu chẳng biết điều, đòi hồi môn những ba chục đồng, bà nghĩ xem có quá đáng không. Thà để con Hài ở vậy còn hơn.

    Thị Lánh nắm được tâm lý chồng. Lão vốn keo kiệt, rất xót ruột khi phải đem gia sản cho người khác, liền bàn:

    - Con bé mang tật bẩm sinh như thế ông mà kén chàng rể môn đăng hộ đối thì có mà sạt nghiệp. Tôi nghĩ, ông nên bàn với bà Cả, bà Hai chọn một thằng tá điền nào hiền lành, tử tế gả quách cho nó nên vợ nên chồng là hơn.
    - Tôi đã tính đến chuyện ấy nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy không ổn. Mình đường đường là chánh tổng đương chức, làm thế bọn đàn em nó coi thường.
    - Ở đời không thể chu toàn mọi nhẽ . - Bà Ba thuyết phục - Trong hai điều ấy chỉ có thể chọn một mà thôi. Hay là ông muốn con bé chết già ở nhà họ Khúc?
    -Ý bà thế nào ?
    - Còn thế nào nữa. Cưới xong cho nó ở rể, chẳng những không mất con gái mà còn được thêm sức lao động, khác gì người ở.
    Chánh Đàm xem ra đã xuôi ướm hỏi vợ:
    -Thế ... bà đã nhắm đứa nào chưa ?
    - Có thì có rồi nhưng phải hỏi ý kiến bà Cả.

    Khúc Đàm gắt:

    - Bà Cả, bà Cả, quên con mụ "điếc" ấy đi. Tôi là bố nó lại không gả chồng cho nó được à ?
    -Ấy là tôi nói thế để việc nhà trong ấm ngoài êm.
    - Cứ tán hươu vượn mãi, nó là đứa nào ?
    - Chính cái tay thuyền chài đã cứu tôi mấy lần ấy. Anh ta không cha mẹ, lại khoẻ mạnh, hiền lành, hợp ý ông quá rồi còn gì.
    - Để xem xem đã ... Nó là dân hạ bạc sợ không quen việc đồng áng.
    - Còn xem gì nữa. - Bà Ba gắt khẽ - Đám ấy được đấy. Còn việc cày bừa, dần dần rồi sẽ quen, lo gì.

    Mấy hôm sau chánh Đàm bàn với bà Cả Huê. Nói là bàn nhưng thực chất là việc đã được quyết định từ trước. Bà Cả Huê tím mặt biết thừa đấy là âm mưu của "con yêu tinh" nhưng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Chánh Đàm vốn sẵn máu gia trưởng, lão đã quyết định việc gì thì ngay cả hàng chức sắc trong tổng cũng răm rắp thực hiện không ai dám bàn ra tán vào. Mẹ con bà Hai gần như là người thừa trong gia đình họ Khúc. Bà Hai tuy cũng sắc sảo chẳng kém ai nhưng vì thân phận lẽ mọn, bị chèn ép từ nhiều phía nên lép vế. Việc gả chồng cho Khúc Thị Hài là sự kiện lớn, ấy vậy mà bà ta chỉ được Khúc Đàm thông báo như một mệnh lệnh. Bà Ba được chồng giao trách nhiệm làm tín sứ thăm dò phản ứng của anh thuyền chài, bước xuống bãi ngô, nách cắp thúng, tay vung vẩy như người đi chợ. Sông Lăng mùa này nước lặng. Những vạt sóng lăn tăn đuổi nhau vỗ óc ách vào kè đá. Từ ngã ba Môi, đoàn thuyền đá nối nhau ngược dòng về bến Trung Hà. Mấy hôm nay gió đổi chiều những cánh buồm nâu sẫm hoặc mận chín đã được cuốn lại. Cánh dân phu cởi trần, tì sào vào ngực, đẩy cho con thuyền nhích dần từng bước. Đó là những chàng trai khoẻ mạnh ngực vồng lên như đô vật, vừa chống thuyền vừa hò một điệu dân ca nghe rất lạ tai. Những câu hò hoàn toàn ngẫu hứng, trầm trầm, thoát ra một cách khó nhọc từ những lồng ngực vạm vỡ bị chùm dây chão níu lại.

    Bà Ba phải chờ khá lâu vì chàng ngư phủ đi gỡ lưới chưa về. Ngồi trên mom sông lơ đãng ngắm những con thuyền xuôi ngược, tưởng như rất bình thản, nhưng thực ra lòng dạ Thị Lánh đang nghĩ về những chuyện mới xảy ra gần đây. Có phải đấy là mối lương duyên nên anh ta đã hai lần cứu mình ? Liệu "người ta" có bằng lòng làm rể ông Chánh ? Cuộc hôn nhân này có lợi cho ai ? Con thuyền câu vào lạch sông. Lê Văn Vận đã nhìn thấy Thị Lánh từ xa. Anh ta buộc thuyền rồi xách giỏ nhảy lên bờ.

    - Bà Ba ra mua cá ?
    Thị Lánh liếc mắt tình tứ nhìn anh thuyền chài:
    - Chuyện tôi nói hôm trước anh nghĩ kỹ chưa ?

    Lê Văn Vận nhìn bà Ba ngập ngừng:

    - Tôi sợ ông Chánh lắm. Trai vùng Ba Tổng thiếu gì mà ông ta lại gả con gái cho một gã quăng chài. Hay là có chuyện uẩn khúc ?
    - Chắc anh nghe người ta bàn tán nhiều về ông Chánh ?
    - Cô hỏi thế là thế nào ? - Vận bắt đầu gọi bà Ba bằng cô.
    - Chẳng thế nào cả. - Thị Lánh bất ngờ cầm tay Lê Văn Vận, nhìn thẳng vào mắt anh ta - Đừng nên bỏ qua dịp may tự nhiên đến với mình. Với người dưng, một ngày còn nên nghĩa huống hồ anh đã hai lần cứu tôi.
    Câu nói cuối cùng khiến Lê Văn Vận nghe ra.

    Ít lâu sau, chàng ngư phủ nhờ bà Hai Cõn, người xóm Chùa mang trầu cau đến nhà chánh Đàm dạm hỏi Khúc Thị Hài. Chánh Đàm nhìn anh con rể tương lai khoẻ mạnh, tướng mạo khác người trong bụng cũng phần nào bớt đi nỗi ngượng ngùng với xóm làng. Lão ra điều kiện cưới xong phải bỏ hẳn nghề sông nước về ở rể. Mẹ con bà Hai mừng như bắt được vàng. Điều này cũng đúng với lẽ tự nhiên. Một cô gái tật nguyền bẩm sinh, dù là con nhà chánh tổng đi chăng nữa cũng chẳng thể treo cao giá. Già kén kẹn hom, ế là cái chắc. Người hậm hực nhất là bà cả Huê. Bà có linh cảm, cuộc hôn nhân này dữ nhiều lành ít, vì từ lâu bà đã nhìn rõ tâm địa Thị Lánh.

    Trước ngày cưới ít lâu, hôm ấy chánh Đàm cưỡi ngựa lên huyện từ sớm trình quan về việc tu bổ đê kè, bà Ba xách làn hương hoa và nải chuối ra miếu Vân Nương. Lễ xong Thị Lánh ra mom sông. Lê Văn Vận cắm sào đang nấu nướng trong thuyền. Mom sông lúc này không một bóng người. Không gian tuyệt đối yên tĩnh. Gió từ cồn Vành thổi sang lật lá ngô ràn rạt. Nước lũ từ thượng nguồn bắt đầu về đỏ hồng dưới ánh nắng nhạt. Lánh rón rén bước xuống sạp thuyền làm Vận giật mình:

    - Kìa ! Bà Chánh.

    Thị Lánh đặt làn vào khoang thuyền bảo:
    - Hôm nay anh Vận phải trả công cho tôi ...

    Chàng ngư phủ nhìn ánh mắt của người đàn bà, hiểu ngay nhưng vẫn ỡm ờ:

    - Tôi nghèo lắm, chỉ có mỗi con thuyền rách.
    - Có đấy, chàng Trương Chi ạ - Bà Ba xáp lại gần chàng trai, giọng thì thầm - Chàng phải giúp em, nếu không em sẽ bị đuổi khỏi nhà ông Chánh. Mà đến nước ấy chỉ còn cách nhảy xuống sông.
    - Cái gì ? Cô nói gì ? Vận bất ngờ nắm bàn tay Lánh hỏi gấp gáp.
    - Em cần một đứa con trai.

    Vận lặng lẽ gật đầu rồi lùa tay vào chiếc yếm lụa mân mê hai bầu vú nóng hổi của bà Ba. Người đàn bà ưỡn ngực ép sát vào Lê Văn Vận, đẩy anh ta ngã xuống sạp thuyền rồi trườn lên bụng như một con rắn. Anh thuyền chài ôm ngang vai bà Ba, ghì riết làm cô ta gần như nghẹt thở, không phải bởi đôi cánh tay vạm vỡ của người thanh niên chưa từng trải mùi đời, mà bởi sự đụng chạm xác thịt sau một phản ứng dây chuyền kích thích sự hưng phấn đến tột đỉnh của phần nhạy cảm nhất, vi diệu nhất trong tâm hồn. Tấm váy lụa tuột ra và Lê Văn Vận đã lật người trèo lên bụng cô ta như thế nào cả hai đều không nhớ nữa, chỉ biết khi Thị Lánh cầm chiếc....... đã cứng lên, thẳng đuỗn như thanh sắt nguội của chàng ngư phủ ấn mạnh vào ........ bằng một động tác khá thuần thục thì đất trời dường như tối sầm lại. Mặt sông Lăng bất chợt nổi sóng. Con thuyền chòng chành theo một vũ điệu kỳ quái bởi sự cộng hưởng của cả hai loại dao động, một trong thuyền, một ngoài thuyền. Cơn mây mưa qua đi, con thuyền đã bớt rung lắc, bà Ba mặc lại váy thắt dải lưng bằng nhiễu tam giang, cắp thúng bước lên bờ lẩn vào vườn chuối.

    Đám cưới Lê Văn Vận và Khúc Thị Hài được tổ chức theo nghi lễ truyền thống với đầy đủ các nghi thức diệu vợi của của vùng Ba Tổng trừ công đoạn đưa dâu. Chàng ngư phủ không cha mẹ, không họ hàng thân thích nhưng bà Cả Huê đã chọn được một dàn diễn viên đóng thế tuyệt vời để che mắt thiên hạ. Không ít các vị chức sắc trong hạt biết rõ mười mươi Lê Văn Vận là gã thuyền chài gặp vận đỏ mà vẫn bán tín bán nghi, hay là hàng xứ đồn nhảm về thân phận anh ta. Lê văn Vận trong trang phục ngày cưới: áo the, khăn xếp, quần ống sớ còn nguyên nếp gấp bên cạnh cô vợ khoèo tay lần lượt ra mắt quan khách. Khúc thị Hài mắc áo mớ ba, váy lụa Cẩm La, tóc đuôi gà. Cánh tay tật nguyền gập lại một bên nách, bàn tay cứ ngọ nguậy mỗi khi hai vợ chồng tiến lui giữa các mâm rượu.

    Phó lý cựu Phạm Kiền là tay thầy cò lắm mưu nhiều kế, thù chánh Đàm đến tận xương tuỷ sau vụ tranh chấp chức lý trưởng cũng được mời, nhìn quang cảnh đám cưới, bĩu môi bảo với thày đồ Sách người xóm Chùa:
    - Ông tính xem, sau cái trò cưới xin bịp bợm này lão Chánh còn giở thêm chiêu gì nữa ?

    Đồ Sách nghèo kiết xác lại tham ăn chẳng cần để ý đến lời xỏ xiên của ông phó lý Cựu, chỉ chăm chăm vào mấy đĩa thức ăn, miệng nhồm nhoàm nhai, tay gắp lia lịa, thỉnh thoảng lại tợp một ngụm rượu. Cựu Kiền nhìn Đồ Sách cười nhạt:

    - Ông có nghe tôi nói không đấy ?
    - Có chứ. - Thầy đồ nuốt vội miếng cổ hũ. Miếng thịt thái to quá, lão xuýt bị nghẹn - Mà ông bảo cái gì nhỉ ?

    Ông Cửu Biềng, người xóm Đình đã có thời làm phó tổng, từ đầu bữa vẫn chăm chú nghe câu chuyện của phó Cựu, bấm tay lão nói nhỏ:
    - Phú quý sinh lễ nghĩa, ông còn lạ gì trò đời. Đừng bàn đến chuyện ấy nữa. ở đây tai vách mạch rừng...
    - Tôi đếch sợ. Chúng nó có giỏi ...
    - Thôi xin ông. Khi nào rảnh rỗi, mời ông Cựu đến nhà tôi, ta nói chuyện.

    Thực khách vừa đánh chén vừa nói chuyện râm ran. Phía cuối rạp, phường bát âm thỉnh thoảng lại tấu nhạc. Đám nhạc công gồm ba ông già và một bà còn trẻ nghe nói mời tận trên tỉnh về. Mở đầu, dàn nhạc tấu bản "Quan trạng vinh quy" theo điệu "Xuân tình". Người phụ nữ trung niên vừa ôm đàn nhấn những phím đầu tiên cả rạp bất chợt dừng đũa, lặng đi. Những âm thanh trầm đục như tãi ra giống tiếng trống trận làm nền cho một đoạn cao trào khởi phát ở một quãng rất cao rồi dừng đột ngột. Cử toạ sừng sờ nghĩ rằng một dây bị đứt. Nhưng không phải. Khoảng lặng vừa đủ độ dừng, một hợp âm ngọt ngào với kỹ thuật nhấn nháy điêu luyện bất chợt rung lên diễn tả tiếng vó ngựa gõ trên đường quan đưa ông trạng tân khoa về cố hương gặp người vợ tao khang bao năm gánh gạo nuôi chồng ăn học. Hết điệu "Xuân tình" người đàn bà cầm phách gõ nhịp cho hai ông già chơi bản "Hành vân" trên cây đàn thùng. Tiếng đàn thùng nghe trầm trầm mà tao nhã, diễn tả được tâm trạng đôi vợ chồng đêm tân hôn với những cung bậc khác nhau, sắc thái khác nhau mà không một thứ ngôn ngữ nào thể hiện nổi. Nhịp "Hành vân" như mây bay trong vũ trụ bao la, như cái thực ẩn trong cái mộng là niềm bâng khuâng kim cổ trong nỗi u hoài trần thế.

    Lúc vào khấn gia tiên, chánh Đàm ngồi chễm trệ trên chiếc ghế bằng gỗ trắc chạm trổ rồng phượng cầu kỳ như ngai vàng cuả đương kim hoàng đế. Bà cả Huê, bà hai Thoả và bà ba Lánh "ngự" trên sập gụ. Sau khi thắp hương trước bàn thờ gia tiên, đôi trẻ lần lượt lạy các bậc phụ mẫu đã có công sinh thành, nuôi dưỡng tân nhân nên người. Chàng ngư phủ đến trước mặt bà Ba có vẻ ngượng ngùng, chẳng phải vì bà này còn quá trẻ, chỉ hơn chú rể một hai tuổi, mà anh ta thoáng hình dung lại cuộc "tao ngộ chiến" nhớ đời trong khoang thuyền hôm nào. Trong khi ấy, Thị Lánh khẽ mỉm cười, đưa mắt khuyến khích người tình và thản nhiên nhận lễ. Cuối cùng thì mọi thủ tục phiền toái của đám cưới cũng đã xong. Cô dâu mừng đến chảy nước mắt vì thoát khỏi bộ y phục mớ ba rộng lùng thùng với đủ các thứ dây nhợ lằng nhằng. Cánh tay khoèo lại được tự do. Đêm tân hôn, khi cả hai lên giường, Lê Văn Vận bạo dạn lột váy Khúc Thị Hài để lộ tấm thân trần truồng, mịn màng, ngồn ngộn như pho tượng cẩm thạch với những đường cong đầy ma lực như mời gọi, nhưng rồi gã thuyền chài chỉ khẽ thở dài, để nguyên cả áo quần nằm quay đầu vào vách. Có lẽ hắn đã uống quá nhiều rượu nên mụ mẫm người đi, hoặc có thể qua hàng loạt những nghi lễ phiền phức mà một tân lang bắt buộc phải đóng cho trọn vai kịch, đã hút kiệt sức lực, không còn chút hào hứng nào nghĩ đến tấm hồng nhan đang muốn cùng mình khám phá những bí mật của giây phút thần tiên.

    2.

    Vợ chồng Lê Văn Vận được Khúc Đàm cắt cho ngôi nhà ba gian giáp bờ ao. Ngôi nhà này trước là chỗ ăn nghỉ của tá điền những lúc thời vụ, mấy năm gần đây lão chuyển họ ra Trại Sen để tiện trông nom khu ruộng màu nên vẫn bỏ không. Hoá ra chàng ngư phủ làm ruộng cũng chẳng kém gì thả lưới bắt cá trên sông. Chưa đầy một vụ, đường cày của hắn đã thẳng tắp, gốc rạ đều lật úp, phơi màu đất vàng suộm dưới ánh mặt trời. Việc đồng áng Vận làm băng băng chẳng kém gì những tá điền kỳ cựu đã từng lĩnh canh nộp tô gần như suốt đời ở nhà chánh tổng. Nhưng việc làm ưa thích nhất của Lê Văn Vận là xay lúa, giã gạo. Cái cối xay to đùng, lão Phó Đạc đóng vốn để cho hai người vậy mà một mình hắn quay có nửa buổi đã hết chín thúng thóc. Giã gạo Vận cũng làm một mình trừ những lúc có cô vợ khoèo tay đứng giúp chút ít cho đỡ mỏi chân. Cần giã bằng gỗ nhãn vừa to vừa nặng, cứ nâng lên hạ xuống theo nhịp chân của gã thuyền chài, mỏ chày nện xuống cối thình thịch, đều đều buồn tẻ. Công việc xay giã phần lớn được làm vào buổi tối. Với ngọn đèn Hoa kỳ ám khói đặt ở cạnh tường, Vận vừa nhún chân vừa đếm. Được chừng bốn năm trăm chày, chẳng cần bốc lên thử, hắn cũng biết hạt gạo đã trắng bong còn cám thì mịn và mát lạnh như bột lọc.

    Có lần, bà Ba từ buồng lẻn xuống nhà ngang cùng giã với Vận. Một tay hắn bám giá đỡ, một tay xoa vào cái bụng đã lùm lùm của Thị Lánh khẽ hỏi:
    - Mấy tháng rồi nhỉ ?
    - Hình như năm tháng.
    - Sao nhanh thế ?
    - Còn nhanh gì nữa. - Lánh thì thầm - Cái Hài thế nào ?
    - Chưa có gì . - Vận vòng cả hai tay ôm ngang bụng bà Ba, áp môi vào gáy cô ta nói nhỏ - Thôi, lên nhà kẻo ông ấy nghi .

    Cái bụng của bà Ba mỗi ngày một to ra thì niềm vui của nhà họ Khúc càng lớn. Chánh Đàm dự tính, nếu trời
    thương cho được thằng con trai thì lão sẽ làm khao. Sắp đến ngày ở cữ, bà Cả Huê cấm ngặt không để Thị Lánh làm bất cứ việc gì , hàng ngày bắt uống thuốc dưỡng thai của lang Chìa bên kẻ Bòng. Bà Ba ngán thuốc đến tận cổ, lại sợ cái thai to quá không ra được, chết cả mẹ lẫn con thì khốn, bèn ngầm đổ thuốc xuống ao. Lũ cá trắm chờn vờn bên dưới uống vào lớn như thổi. Những hôm thuốc bị hất ra vườn sau, chúng nổi lên hàng đàn, nhô hẳn đầu hỏi mặt nước, bơi theo vòng tròn, miệng hớp hớp không khí.

    Đến kỳ sinh nở, bà Ba đau bụng ba ngày mà đứa bé vẫn chưa ra. Chánh Đàm hoảng quá cho đón hai bà đỡ cùng một lúc để phòng bất trắc. Gần sáng, nước ối vỡ nhưng ngôi thai ngược, một chân thò ra trước, mà chỉ nhìn chân thì không biết được là trai hay gái. Bà cả Huê thắp hương lầm rầm khấn trước bàn thờ phật Quan Âm mong ngài phù hộ độ trì cho Thị Lánh mẹ tròn con vuông. Chánh Đàm mặt tái mét cứ chắp tay sau lưng đi đi lại lại trước cửa buồng làm bà Hai bưng nồi nước thang mai hoa từ bếp lên xuýt chạm phải, gắt:
    - Ông ngồi yên một chỗ cho chúng tôi nhờ.

    Trong này, hai bà đỡ đang cãi nhau vì không bà nào chịu bà nào. Mỗi bà đều có cái lý riêng trong thuật xử lý ngôi thai mà chẳng quan tâm đến sản phụ đang nằm tô hô trên chiếc giường ba xà, mặt bóng nhẫy mồ hôi, hai mắt lờ đờ còn miệng thở như say nắng. Cặp đùi bà Ba lúc này có vẻ mập mạp hơn bình thường. Bàn chân bé xíu, tím ngắt của đứa trẻ thò ra khỏi âm hộ, ngọ nguậy chẳng khác gì cái vòi ở đầu ổ kén sâu khoai làm những sợi lông đen nhánh, loăn xoăn, ướt nhớp nháp phía trên bờ mu cũng lúc lắc theo như là bị gió thổi. Tình trạng nguy kịch ấy kéo dài chừng hai khắc thì Khúc Thị Hài đã sang làng Vạc đón được ông lang Thược. Ông này nổi danh khắp huyện Nam Thành về thủ thuật đỡ những ca đẻ khó và món thuốc gia truyền chữa bệnh sa đì. Việc làm đầu tiên là ông ta tống cổ hai con mẹ bẻm mép ra khỏi buồng, sau đó cho sản phụ uống một gói thuốc bột pha lẫn với mật ong. Ông cấm mọi người, kể cả chánh Đàm lảng vảng gần buồng rồi đóng sập cửa lại. Khi bàn chân thai nhi đã được ấn vào, lang Thược nhẹ nhàng xoa bụng bà Ba, vừa tìm cách xoay thai. Không đầy một khắc, ngôi thai trở lại thuận chiều, đứa bé lọt lòng mẹ khóc váng lên. Tiếng khóc của nó khoẻ đến nỗi mấy nhà hàng xóm bên kia bờ tường xây cao quá đầu cũng nghe tiếng. Chánh Đàm là người nhảy bổ vào đầu tiên. Đến khi nhìn thấy giữa hai đùi nhăn nheo đứa bé là một cái chim xinh xinh thì lão khóc nấc lên quỳ sụp trước mặt bà Ba. Thị Lánh tuy mất khá nhiều sức qua những lần rặn đẻ nhưng vẫn cố mỉm cười với chồng. Sau cơn vượt cạn, người đàn bà như được lột xác. Những gì là trần tục đều để lại phía sau. Trước mặt Khúc Đàm là một người thiếu phụ xinh đẹp, toả ánh hào quang rực rỡ như một tiên nữ giáng trần. Thằng bé vừa dài vừa rộng, mắt sáng, mũi nở trông ra dáng con nhà. Khi con trai đầy cữ, chánh Đàm đặt tên là Khúc Luận, đồng thời làm cỗ khao toàn thể chức sắc làng Cùa và họ hàng nội ngoại. Những dịp mở tiệc lớn như thế này, trong thực đơn đãi khách nhất thiết phải có món thịt ếch. Đây là truyền thống lâu đời của làng Cùa, mâm cao cỗ đầy đến mấy, thiếu đặc sản "gà đồng" cũng vứt.

    Thật may, dịp ấy vào cuối tháng ba, bắt đầu có mưa rào. Trận mưa đầu tiên nước đã mấp mé bờ ruộng. Đồng gần đồng xa, lúa đang thì con gái, gặp mưa rào và sấm đầu mùa lớn nhanh như thổi. Mới chập tối, cả làng đã náo nức chuẩn bị cho buổi soi ếch đầu tiên trong năm. Đây là một cuộc tàn sát tập thể trên quy mô lớn tuy chỉ dùng phương tiện thô sơ nhưng tỏ ra rất hiệu nghiệm. Phổ biến nhất là đuốc. Đuốc làm bằng tre hoặc nứa khô chẻ nhỏ, buộc chặt, cháy rất đượm. Nhà giầu hoặc dân làm nghề chuyên nghiệp thì lên chợ Cháy mua đèn hộp sắt hình trụ có nắp gắn kính dầy như một khối chỏm cầu để hội tụ ánh sáng gọi là đèn "ló". Đèn "ló"thắp dầu lạc hoặc mỡ lợn, phía sau có tay cầm, bên trên là bộ phận thông khói gồm nhiều lá tôn mỏng xếp nếp. Cả hai loại phương tiện này đều nhằm cùng một mục đích là làm cho ếch loá mắt không nhảy được, chờ người đến tóm.

    Từ canh hai, trời bắt đầu mưa nặng hạt, thỉnh thoảng lại có vài tiếng sấm lạc lõng từ đâu đó vọng về. Khắp cánh đồng đèn đuốc sáng như sao sa. Cha nào con ấy, anh nào em ấy, thậm chí chồng nào vợ ấy, áo tơi nón lá, tay đuốc tay chụp sẵn sàng vào trận. Lê Văn Vận cặp đôi với thằng Đà, cháu bà cả Huê mới từ làng Báng sang chơi. Cái đèn của Vận có mặt kính pha lê trong suốt không một gợn bọt, dày hai đốt ngón tay nên độ chiếu sáng rất xa. Mưa mỗi lúc một lớn. Nhiều bờ ruộng đã ngập. Đứng trên đống Ba Tầng, Vận nhìn khắp lượt các cánh đồng Chùa, đồng Hẻm, đồng Gà, đồng Chó Đá... đâu đâu cũng có ánh lửa chập chờn như đêm hội hoa đăng. Những ngọn đuốc khô nỏ cháy rần rật, tàn bay tứ tung như pháo hoa cà hoa cải theo từng nhịp bước lép nhép trên thảm cỏ lưỡi mèo ram ráp. Những hạt mưa đan chéo nhau đập lộp bộp vào nón lá rồi chảy thành vệt theo sườn áo tơi lấp loáng trong ánh lửa vàng nhạt hoặc đùng đục bởi những quầng khói loãng. Chàng ngư phủ bắt đầu cuộc tảo thanh từ một bờ ruộng trũng mọc dầy cỏ gà lẫn với cỏ chỉ. Đây là khu ruộng nhà chánh Đàm, bờ rộng hơn bốn tấc, đắp cao, thế mà đôi chỗ đã ngập lút, nước chảy rào rào. Một chú ếch cốm lưng nổi gai xanh, nhọn và bóng láng, cặp mắt như bị thôi miên bởi ánh lửa nhấp nhoáng phát ra từ thứ dụng cụ ma quái. Nó ngồi chống hai cẳng chân, mõm hếch lên phô ra trước "sát thủ" cái ức trắng toát như là khoe bộ cánh mới thửa được sau chuyến ngủ đông. Một tay rọi đèn, tay kia nâng chụp, Vận thận trọng nhích dần từng bước về phía con mồi, đến khi gã ếch cốm ngờ nghệch hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị chàng rể nhà họ Khúc dùng hai ngón tay túm chặt eo lưng. Bằng động tác thành thục, thằng Đà xoay lưng chìa chiếc vịt tre ra, và chú ếch cốm nhanh chóng bị tống vào qua lớp hom mềm cùng với lũ bạn xấu số. Đã ngớt mưa. Lúc này ếch nhái đang say. Đây là cơ hội vàng để tranh thủ "lèn" cho đầy giỏ. Phía bên kia, mấy chị em nhà đĩ Nhụt không có chụp. Con Nhinh chị cả, khua cây đuốc nứa dài hơn cả người nó, cháy rần rật để cho lũ em gồm năm đứa con gái, mỗi đứa chỉ nhỉnh hơn nhau cái chỏm, lội chòm chọp thi nhau vồ. Con Nhinh, con Nhính, con Nhỉnh mặc quần đùi, áo cánh nâu, không tơi, không nón, ướt từ đầu đến chân nhưng chẳng biết lạnh là gì. Mỗi khi vồ được một chú ếch, mấy chị em lại hét toáng lên. Con Nhút, con Nhít bé quá cũng đòi đi theo. Hai đứa cởi truồng đầu đội nón gủ bé tí trông như cây nấm. Đi được nửa bờ, con Nhít không theo kịp các chị, trượt chân ngồi xệp xuống, khóc hu hu. Cái Nhính quay lại đỡ em mới biết, nó ngã bị đỉa bám vào bẹn. Con chị tức quá, phát vào mông một cái: "Ai bảo mày cứ theo đi quẩn chân chúng tao ?". Con bé gan lỳ, nhiều lần mẹ đánh không khóc nhưng có tật sợ đỉa. Con Nhính quát:

    - Bây giờ mày phải lên gò Dứa kia mà đứng, chốc nữa chị Nhinh quay lại đón.

    Con bé lắc đầu quầy quậy:
    - Ứ ừ ! Em sợ ma lắm.
    - Thì đi . - Con chị lầu bầu - Nhưng lần sau bị đỉa cắn tao không gỡ cho đâu.

    Cặp vợ chồng Thường Rỗ từ tối đến giờ đã chộp được lưng lửng vịt. Chị vợ còn trẻ, béo ục ịch, mỗi bước đi thình thịch như voi, thỉnh thoảng lại ngủ gật. Anh chồng bực mình quát:
    - Đi khẽ thôi không ếch nó nhảy xuống ruộng hết.

    Thường Rỗ là tay chân của chánh Đàm. Tay này nghiện thuốc lào, thỉnh thoảng lại lên sườn đống giở điếu cày ra hút sòng sọc. Thuốc ngấm, có khi hắn lăn quay ra bất tỉnh như người mắc bệnh động kinh, nhưng chỉ ít phút sau lại ngồi dậy xem như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thường nổi tiếng là tay chụp ếch lão luyện. Từ trên gò đống đi xuống, vừa tắt qua dải bờ ngăn đôi chân ruộng cấy lúa tám đen với mảnh chiêm trăng đã làm đòng, hắn thoáng thấy một con ếch cụ ngồi chồm chỗm gần ngay lợi nước, điệu bộ hết sức cảnh giác. Toàn thân con ếch gần như vàng sẫm, lốm đốm hoa trắng. Cặp mặt của nó khá linh động cứ đảo đều đều theo mỗi vòng quay của cây đuốc. Thường Rỗ không lạ gì loại ếch đã thành tinh này. Chúng rất có kinh nghiệm trong việc đánh lừa cánh thợ săn. Phải thật bình tĩnh mới tóm được. Hắn khẽ hất chân về phía sau cho vợ lùi lại rồi nâng cần chụp nhích dần từng bước không hề phát ra một tiếng động nhỏ. Cây chụp gần như bất động nhưng ngọn đuốc lại chuyển động liên tục để tạo nguồn sáng ổn định cùng với hàng trăm ngàn tàn lửa vãi tung toé, nhằm mê hoặc thị giác đang rối loạn của con ếch già. Con ếch vẫn ngồi nghe động tĩnh. Một lúc sau nó gại gại chân sau chuẩn bị làm cú nhảy thoát hiểm vì đánh hơi thấy mùi tử thần thì Thường Rỗ đã phóng chụp từ một vị trí bất ngờ, trúng vào cái lưng lốm đốm. Con ếch bùng nhùng trong tấm lưới gai giẫy giụa một cách tuyệt vọng. Có lẽ đó là một vị ếch thủ lĩnh mà từ trước đến nay chưa bao giờ Thường Rỗ bắt được. Khoảng trống canh tư, cái vịt to bự của vợ chồng hắn đã gần đầy. Hắn lại lên gò đống làm mồi thuốc cho tỉnh ngủ. Lần này Thường Rỗ không say nhưng vợ hắn thì đã quá mệt vì giỏ ếch nặng lệch cả sườn, luôn miệng giục về. Hắn bảo:

    - Chịu khó tí nữa, tôi kiếm thêm con cạp nong về ngâm rượu.

    Vừa nói Thường Rỗ vừa nhảy xuống nong nước, định sang khu đồng Cổ Cò, tự nhiên thấy mắt cá chân đau nhói như chạm phải gai nhọn. Hắn co chân định nhổ vứt đi thì thoáng thấy một vật loằng ngoằng trườn về phía trước. Rắn! hắn vội huơ đuốc cho ngọn lửa bùng lên. Trời ơi ! Một con cạp nia bằng về néo đập lúa, khúc đen khúc trắng đang lẩn vào giữa đám cỏ thài lài. Thường Rỗ lặng người. Rắn đen trắng cắn nếu để chậm, thuốc tiên cũng đành bó tay. Vết thương của hắn phồng lên rất nhanh, chưa đầy nửa khắc, mu bàn chân phải đã sưng húp, buốt như có hàng ngàn vạn mũi kim chích vào. Vợ Thường Rỗ vốn to họng, lại trong lúc thần hồn nát thần tính, khóc toáng lên như bò rống. Tiếng gào của chị ta vang xa đến mức hầu như tất cả dân soi ếch trên đồng đều dỏng tai nghe:

    - Ối giời ơi ! Có ai làm ơn làm phúc cứu chồng tôi. Nó bị rắn hổ lửa cắn sắp chết rồi.

    Mấy chị em nhà đĩ Nhụt vồ ếch gần đấy, nghe tiếng vợ chồng Thường Rỗ gào, chạy đến trước nhất, đứng trơ mắt nhìn nạn nhân nằm như phục trên bờ cỏ. Tiếp đến là lão Khính cựu mõ làng. Lão này đến bên Thường, định nâng hắn dậy dìu lên sườn đống, nhưng vì sức lão yếu, mà tay này lại to như con trâu trương, đành chịu phép chờ cánh trai tráng. Lúc ấy, Lê Văn Vận và thằng Đà đang ở khu ruộng Chùa, khá xa đống Hủi.

    Nghe tiếng kêu la vọng đến Vận bảo thằng bé:
    - Ta quay lại phía ấy xem có chuyện gì xảy ra rồi về.

    Thằng Đà gật đầu:
    - Đầy vịt rồi, nhét thêm nữa sợ chết ngạt không để được đến hôm làm khao.

    Khi hai anh em len vào đến nơi thì Thường Rỗ đã gần như phát cuồng. Người hắn nóng hầm hập, hai mắt trợn trừng toàn lòng trắng. Nhìn bộ dạng, Vận biết nếu không cấp cứu kịp thời, nọc độc ngấm vào máu thì trong vòng vài giờ nữa là hắn về chầu trời. Vốn là dân chài giầu kinh nghiệm, lại học được môn chữa rắn độc từ một bà già người Mán, đi ra ngoài, nhất là vào ban đêm, bao giờ Vận cũng mang sẵn thuốc bột đặc trị. Trước hết chàng ngư phủ tháo dây đeo giỏ buộc chặt cổ chân Thường Rỗ rồi cạy mồm hắn đổ thuốc vào. Đợi một lát, thuốc ngấm, Vận và Cả Nhỡ thay nhau cõng về làng. Qua miếu Bà, Hắn vòng ra phía sau vặt một nắm lá, nhai nát vắt nước bắt Thường Rỗ nuốt. Hắn sốt ly bì ba ngày ba đêm. Ngày thứ tư bắt đầu ăn được tí cháo. Vợ Thường Rỗ mừng quá vừa quỳ xuống lạy sống chàng rể cụ chánh vừa khóc rưng rức.

    Đám đầy cữ làm năm mươi tám mâm mời gần ba trăm khách. Quan phủ Đông Giàng đánh xe ô tô đít vịt đen bóng về tận cổng làng mừng cậu bé một xấp lụa Hàng Châu. Chủ nhà mời quan phụ mẫu ngồi mâm nhất cùng luật sư Trần Phi và đốc tờ Albert Nguyễn mới du học ở Đại Pháp về. Thực đơn phần lớn được chế biến từ ếch. Lão vệ Sót đã có mấy năm làm bồi cho Tây lai Marty là một chuyên gia thượng thặng về kỹ thuật nấu nướng. Món ếch tẩm bột rán ròn chỉ dùng hai đùi, rán đến đâu ăn đến đấy cho nóng. Vệ Sót đóng trang phục như đầu bếp nhà hàng cao lâu, mũ bồ đài cao lênh khênh, áo trắng, tạp dề trắng, tay cầm đôi đũa dài khoắng vào chão mỡ sôi sùng sục. Khi đùi ếch đã vàng, lão dùng vỉ nhôm vớt ra xếp vào các đĩa. Mùi thơm ngào ngạt kích thích đến tận con tỳ con vị. Nhưng hấp dẫn hơn cả lại là ếch om củ chuối tuy nghe ra có vẻ tầm thường. Thứ này chỉ nên lấy đùi của ếch cốm, xương còn mềm, dùng sống dao dần nhẹ, ướp nắm muối, gia vị để một lúc cho ngấm. Củ chuối tây chọn những cây chưa ra buồng, thái chỉ hoặc mài nhỏ, ngâm nước vài lần, luộc kỹ, vắt sạch rồi mới cho mẻ cùng đùi ếch đã đảo qua mỡ nóng vào, đun sôi chừng nửa giờ là được. Những phần còn lại chỉ cần thêm ít thịt nạc, băm nhỏ, nặn thành viên cho vào chảo mỡ nóng, sau đó vớt ra nấu măng chua hoặc canh cải làm món thang giã rượu thì không gì hiệu nghiệm hơn.

    Tri phủ Đỗ Khánh khoái món ếch om củ chuối. Lão ăn như hùm đổ đó. Đến cuối bữa quan phụ mẫu nửa đùa nửa thật bảo Khúc Đàm:
    - Dịp tới có khi thầy chánh phải cho bản phủ mượn tay vệ Sót ít lâu để hắn dạy bọn đầu bếp nấu các món đặc sản từ ếch.

    Chánh Đàm mặt tươi rói chắp tay cung kính:
    - Đã là lệnh của quan lớn chúng tôi đâu dám không tuân theo.

    Viên tri phủ xua tay:
    - Ấy, đây là việc nhà chứ có phải ở công đường đâu mà nhà thầy đa lễ.

    Tiệc được nửa chừng, bà Ba từ nhà xuống bế theo Khúc Luận vào chào quan khách. Thằng bé mặc áo đỏ, mũ nhung đỏ, vòng bạc, xuyến vàng loảng xoảng nơi cổ chân cổ tay, cười toe toét trơ hai hàng lợi đỏ hơn. Bà mẹ mặc áo phin nõn, cổ khoét hơi rộng, yếm hoa hiên, tóc vấn trần, cặp mắt lúng liếng. Nhìn dung nhan Thị Lánh, tri phủ thích lắm, quên cả miếng đùi ếch rán tẩm bột sắp đưa lên cái miệng đầy răng vàng nhờn mỡ, mắt chăm chắm vào khuôn ngực như muốn lột trần người thiếu phụ ra. Viên luật sư Tây học thấy chướng quá, tức mình hích nhẹ vào sườn quan phụ mẫu. Lão chợt tỉnh, vội đứng dậy cúi đầu chào bằng cử chỉ rất nịnh đầm:
    - Xin có lời chào bà Chánh.

    Thị Lánh liếc xéo Đỗ Khánh, thoáng đánh giá đối tượng rồi nhoẻn miệng cười đáp lễ:
    - Quan lớn hạ cố đến ... thật vinh hạnh cho nhà em quá.

    Đốc tờ Albert nguyễn thì thầm vào tai viên luật sư bằng tiếng Pháp:
    - Liệu lão chánh có giữ được bà ta ?

    Luật sư Trần cũng đáp khẽ bằng một câu cách ngôn Pháp mà cả phương Đông và phương Tây đều dùng:
    - Hoa thơm mỗi người hưởng một tí.

    Lê Văn Vận tiếp loại khách nhà quê ở ngoài rạp, nhìn bà Ba bế con đi đi lại lại, hắn lặng lẽ mỉm cười.
    Trong số khách mời chỉ có bố con nhà Khúc Kiệt là không đến. Tuy là em ruột nhưng từ lâu Khúc Kiệt đã coi thường tư cách ông anh nên cấm các con không đứa nào được lai vãng đến nhà chánh Đàm. Ngược lại, chánh Đàm cũng khinh em trai là phường hủ nho, dài lưng tốn vải, chỉ chăm chăm tầm chương trích cú trong mấy quyển sách thánh hiền đã mục nát mà quên rằng vợ con đang đói rách.

    Khúc Kiệt đông con, toàn đặt tên đẹp: Văn, Vĩ, Nhân, Nghĩa, Lễ. Lũ con trai giống bố, đứa nào cũng lười, mọi việc đồng áng dồn lên vai bà vợ cùng mấy cô con gái. Khúc Kiệt không biết cày bừa, suốt ngày hết ê a đọc Ngũ kinh lại tha thẩn ngắm mấy chậu cây cảnh hoặc đàm luận với đồ Sách về điển cố vua Vũ mới cưới vợ được lệnh trị thuỷ, ba lần đi qua cổng mà không vào nhà. Trong khi ấy, cơ ngơi của Khúc Đàm lên như diều. Mỗi lần có việc ra ngoài lão cưỡi con ngựa bạch bờm nâu, cổ đeo nhạc đồng kêu loong coong làm ông em càng tức. Được ít lâu, Khúc Kiệt bắt các con đắp tường bịt cổng chính mở lối đi sang phía nhà vệ Toan. Bà vợ thấy chuyện lạ, nghĩ ông chồng đọc sách nhiều hoá rồ liền hỏi:
    - Ông điên à ! Mở cổng về phía ấy để ngửi chuồng xí nhà hàng xóm.

    Khúc Kiệt gàn cũng chẳng kém gì đồ Sách thủng thẳng bảo:
    - Nghe tiếng nhạc ngựa điếc tai không đọc sách được.

    Nhà Khúc Kiệt thuộc loại nghèo nhất nhì làng Cùa, so ra có lẽ chỉ hơn dân tá điền vì còn có vài sào ruộng. Quanh năm lão đánh chiếc quần lửng vải bố nhuộm vỏ só dầy như da trâu, vá hàng chục mảnh, có khách mới dám mặc bộ chúc bâu rung rúc may từ mấy năm trước. Ngẫm nghĩ về thân phận mình, có lúc lão ôm mặt khóc hu hu như trẻ con bị đánh đòn. Bà vợ là người hiền lành, chịu thương chịu khó lựa lời an ủi:
    - Cái số vợ chồng mình nó thế, ông đừng tự dằn vặt nữa.

    Khúc Kiệt nghe vợ nói càng đau lòng, giọng nhoè đi trong nước mắt:
    - Mười mấy năm đèn sách, giờ tay trắng vẫn hoàn tay trắng, bà nghĩ làm sao tôi chẳng tủi thân. Người đời nói đúng, "giầu tại phận, trắng tại da".
    Cứ suy từ lão chánh Đàm ra thì biết. Một gã du thủ du thực bám đít Tây mà mua được hàm cửu phẩm thế có ngược đời không cơ chứ.
    - Bác ấy đối xử với nhà mình đâu đến nỗi bạc tình, chỉ tại ông cố chấp.

    Khúc Kiệt quắc mắt lườm vợ:
    - Đời tôi từ trước đến nay chưa từng xin xỏ đứa nào một đồng kẽm. Chết thì thôi chứ đây đếch thèm luỵ phường trọc phú.

    Một hôm đồ Sách sang chơi mang cho Khúc Kiệt mượn mấy cuốn sách về khoa xem tướng và thuật phong thuỷ. Thực ra từ lâu lão không tin vào các trò dị đoan, hơn nữa ông thân sinh, thời làm nghề đạo chích, đã dùng nó như một phương tiện bịp bợm thiên hạ để thực hiện những hành vi bất lương nên càng tỏ ra dị ứng.

    Đồ Sách bảo:
    - Ở đời nhìn nhận sự việc cực đoan quá dễ hỏng việc. Đây toàn là sách thánh hiền cả, bác cứ đọc thử rồi sẽ thấy cái lợi của nó.
    Khúc Kiệt lắc đầu:
    - Cảm ơn bác. Tôi chừng này tuổi rồi, chẳng dại gì để mấy thứ nhảm nhí ấy mê hoặc.
    Đồ Sách có vẻ không phật ý, thủng thẳng nói:
    - Thời thế giờ đã thay đổi. Thiên hạ khối kẻ lắm tiền, rửng mỡ, muốn hối lộ thánh thần để yên lòng với những thứ của cải bất nghĩa. Mà tôi với bác đang bị cái nghèo đẩy đến chân tường. "Cùng tắc biến, biến tắc thông". Sách nói vậy. Thế thì hãy thử đọc xem.

    Hoá ra sách đoán tướng số và thuật phong thuỷ không hẳn chỉ là trò nhảm nhí. Càng đọc Khúc Kiệt càng thấy không thể dứt ra được. Trong một trăm lẻ tám phép dự đoán số phận qua các đặc điểm nhân dạng có đến quá nửa là dựa vào những chi tiết rất mơ hồ, nói kiểu nào cũng được. Nghĩa là người xưa đã giành một khoảng mở đáng kể cho khả năng quan sát, phân tích và phán đoán của các nhà tướng số học. Còn thuật phong thuỷ thì các nhà trước tác bàn khá kỹ ở phần khái luận. Họ phân tích thấu đáo mối tương quan giữa âm dương với ngũ hành cũng như quá trình biến đổi của các quẻ trong bát quái. Từ những việc lớn như xây cung điện, làm đình miếu đến cách đặt áo quan lúc mai táng đều được kiến giải tường tận chứng tỏ một cách nhìn liên thông, hài hoà giữa vũ trụ và nhân sinh, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, rất không nên coi thường.

    Sau hơn nửa năm nghiền ngẫm, mọi thứ dường như đã tinh thông, Khúc Kiệt xách ô, cắp tráp ra đi. Bà Thìn thấy chuyện lạ, hỏi:
    - Thầy nó đi đâu thế ?
    Khúc Kiệt thản nhiên bảo:
    - Mấy người bạn trong hội đồng môn đã tìm cho một chỗ ngồi dạy học. Tôi đến đấy xem sao ?
    - Ở làng nào ?
    - Xa. Đợi lúc về tôi bảo.

    Thực ra, làm gì có đồng môn nào mời. Hôm ấy chính là ngày đầu tiên Khúc Kiệt khai nghiệp hành nghề thày tướng. Lão tự nhủ: "Từ nay ta sẽ dấn bước trên con đường thiên lý. Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, gối đất nằm sương, tắm bụi trần chính là cái nghiệp của nhà phong thuỷ. Chung quy cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, còn việc cứu nhân độ thế đâu cần đến phường hủ nho như lão". Mải ngẫm nghĩ sự đời, chân thập thững đường quan, trời đã ngả bóng lúc nào không hay. Đây là buổi chiều lãng du đầu tiên đối với thầy khoá nghèo kiết xác trên con đường đi tìm lại chính mình. Buổi chiều ấy tuyệt đẹp nếu nhìn từ con mắt thi nhân. Vòm trời trong suốt cao thăm thẳm xanh màu hồ thuỷ, đây đó vài gợn mây trông giống hình vảy cá vừa trắng vừa mỏng phản chiếu một cách yếu ớt ánh nắng đang nhạt dần khi mặt trời xuống gần đỉnh núi Tam Tầng. Trên cao, một con diều hâu với cặp cánh dài, xoè rộng bay là là bao quát toàn bộ dải đồng lúa xanh thẫm. Gió đã chuyển heo may. Lẫn trong gió hình như thoang thoảng mùi hoàng lan từ một ngôi đền nào đó ẩn hiện dưới vòm cây cổ thụ bên đường. Tức cảnh sinh tình, bất giác Khúc Kiệt ngâm hai câu thơ của Vương Bột:

    “Lạc hà dữ cô vụ tề phi
    Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” [1]

    Chập tối, Khúc Kiệt vào làng Vân Hà xin nghỉ trọ. Chủ nhà là một ông già tuổi ngoài sáu mươi tóc bạc trắng mà dáng vóc còn tráng kiện. Gia chủ làm cơm thết đãi khách sau khi được ông thầy tướng mới nhập môn đoán cho vài chi tiết cơ bản về tiền vận. Lời thầy khá mơ hồ chẳng khác gì "Thoán truyện" trong "Kinh Dịch". Đến phần hậu vận thì Khúc Kiệt lên giọng thao thao bất tuyệt phán như thánh sống vì có hơi men bôi trơn cổ họng. Chủ nhà có lẽ cũng biết gã thày tướng bịp bợm nên chỉ im lặng thỉnh thoảng gật đầu ra vẻ khuyến khích. Sáng hôm sau trước khi khách ra đi, ông chủ dặn:
    - Tối nay, nếu không tìm được chỗ nào tiện hơn xin hãy về nhà tôi. Cứ hỏi Hàn Hành mấy làng quanh đây ai cũng biết. Tôi có câu chuyện muốn bàn với tiên sinh…

    Khúc Kiệt cảm thấy Hàn Hành có điều gì bí ẩn. Trong nhà không có bóng dáng phụ nữ. Giúp việc cho chủ nhân chỉ có hai người đàn ông đứng tuổi mà một trong hai người đó có lẽ câm. Suốt mấy hôm vật vờ trên đường, chẳng có ma dại nào thỉnh, lão lê cặp chân mệt mỏi, định bụng về nghỉ nhờ Hàn Hành vài bữa rồi đi phương khác kiếm ăn. Cũng như buổi gặp ban đầu, chủ nhà lại sửa mâm rượu tiếp đãi rất là nồng hậu. Đêm ấy, khi chỉ còn hai người bên điếu thuốc lào và ấm chè tàu, Hàn Hành bảo:
    - Trước đây tôi cũng đã có mấy năm làm nghề thầy tướng.

    Khúc Kiệt giật mình. Trong bụng hơi hoảng nghĩ rằng thế nào cũng bị chủ nhà lật tẩy. Hàn Hành nói tiếp:
    - Cũng là trò lừa thiên hạ lấy tiền thôi. Nhưng nghề này bạc lắm. Tôi hỏi thật. Mấy hôm vừa rồi có kiếm được chút nào không ?
    Khúc Kiệt đứng dậy chắp tay vái chủ nhà:
    - Xin tiên sinh đại xá cho, tôi vốn là thày đồ, đạo học giờ đã đến hồi mạt vận, đành phải lang thang kiếm bát ăn.

    Hàn Hành kéo Khúc Kiệt ngồi xuống, rót thêm một chén rượu rồi bảo:
    - Làm nghề này bây giờ chẳng những khó sống mà lại còn nhếch nhác. Tôi thấy bác là người có ý chí lại đang ở vào thời bĩ, nên gia nhập tổ chức của chúng tôi.
    -Bác bảo tổ chức gì ? - Khúc Kiệt tỏ vẻ nghi ngờ - Không phải là đi ăn cướp đấy chứ ?
    - Không. - Hàn Hành nhẹ nhàng giải thích - Đây là một tổ chức chính trị có sứ mệnh cứu dân cứu nước, thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than do một số nhà ái quốc sáng lập gọi là đảng Cộng sản.
    - Thế thì tôi biết, nhưng nghe nói từ năm canh ngọ đến nay, hầu hết các thủ lĩnh của đảng đã bị người Pháp xử tử hoặc lĩnh án chung thân khổ sai. Phong trào của họ đang tan rã.

    Hàn Hành mỉm cười thông cảm:
    - Không phải thế. Đành những năm qua có không ít cán bộ nòng cốt hy sinh nhưng đảng vẫn còn nhiều chiến sỹ trung kiên đứng lên lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập dân tộc. Đảng này lấy đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản làm phương châm hành động, mục đích cuối cùng là xây dựng một Nhà nước độc lập, công bằng, hạnh phúc, phồn vinh... không có tình trạng người bóc lột người. Tôi có một số sách báo anh em ở trên tỉnh gửi về, bác đọc qua sẽ hiểu phần nào.
    - Chắc là phong trào ở đây đang phát triển mạnh ?
    - Cơ sở của Đảng thì mới xây dựng được một vài nơi nhưng quần chúng nhân dân nhất là nông dân ở vùng này rất nhiệt tình ủng hộ Cách mạng. Nếu bác bằng lòng thì ở lại đây luôn. Nhà tôi chính là đầu mối liên lạc của Đảng với các địa phương trong tỉnh.

    Sau khi làm lễ tuyên thệ gia nhập tổ chức, Khúc Kiệt được phân công cùng làm việc với nhóm Hàn Hành gọi là đội "Nghĩa dũng" chuyên trừng trị những kẻ phản dân hại nước làm tay sai cho Pháp. Sinh hoạt phí của họ được quỹ đảng chu cấp. Quỹ này khá lớn do một số nhà tư sản yêu nước quyên góp để mua vũ khí và các phương tiện hoạt động cách mạng.

    Từ ngày gặp Hàn Hành, Khúc Kiệt không về nhà. Lão chẳng thèm nhắn vợ con một lời. Tết năm ấy cũng bặt vô âm tín. Dân làng Cùa nghĩ rằng lão đã chết. Nghề thầy tướng lúc này xem ra rất có tác dụng trong việc liên lạc giữa các cơ sở cách mạng. Những tên địa chủ ác bá, quan lại tàn ác lần lượt bị trừng trị. Nổi tiếng nhất là vụ khử viên tri huyện Nam An, thường gọi là huyện Ký. Huyện Ký người được một mẩu nhưng to ngang, cái cổ bè bè như cổ trâu mộng lúc nào cũng đỏ tía giống hệt da gà chọi. Lão ăn bẩn như chó, nghĩa là thượng vàng hạ cám không chê bất cứ thứ gì, rất rương xứng với hoàn cảnh xuất thân là một gã thầy cò, chuyên xui nguyên giục bị và viết đơn thuê cho những kẻ nhiễu sự thích đưa nhau đáo tụng đình. Hắn ngồi trị nhậm chưa đầy ba năm mà vùng Nam An đã xác xơ, dân tình ta oán, uất khí ngất trời.
    Hôm ấy, huyện Ký làm giỗ bố. Thực khách phần lớn là chánh tổng, lý trưởng, phó lý cùng một số nhà giầu trong hạt và các thuộc viên huyện đường. Mọi người sắp sửa vào mâm thì có chiếc ô tô chạy thẳng vào tư dinh. Huyện Ký nhìn chiếc xe hơi bóng loáng biết là khách quý lật đật ra đón. Người tài xế mở cửa. Một thanh niên vận Âu phục thong thả bước xuống, theo sau là ông lão bộc hai tay bưng gói quà bọc giấy trang kim thắt dây lụa đỏ cung kính bẩm:
    - Quan huyện Nam Ngạn biết hôm nay là ngày kỵ cụ cố nên sai tôi đưa công tử mang chút hoa quả sang thắp hương, mong quan lớn chiếu cố, nhận cho.

    Huyện Ký thoáng nghĩ: "Mình với lão huyện Nam Ngạn từ trước đến nay có đi lại với nhau bao giờ, sao hắn lại biết ngày giỗ ông cụ ? Hẳn phải có ẩn ý gì đây ? à phải. Có thể lão muốn nhắm con Loan cho gã công tử bột này chăng? Thôi được. Cứ biết thế đã". Hắn sai người nhận lễ và bảo:
    - Quan nhà thật chu đáo. Mọi việc đã xong, xin mời công tử vào lão lên nhà trên xơi chén rượu nhạt.

    Chàng thanh niên cúi đầu từ tạ:
    - Thành thật xin lỗi quan lớn, hiện giờ chúng tôi còn có chút việc trình với quan Tuần, xin hẹn dịp khác.

    Chiếc ô tô rời huyện đường chừng nửa giờ thì một tiếng nổ long trời làm huyện Ký toi mạng khi hắn cùng mấy tên gia nhân mở gói quà biếu trong từ đường. Trong vụ này, một cựu học sinh trường Bách Nghệ mượn xe gắn biển số giả, đóng vai "công tử bột" con quan huyện Nam Ngạn, còn người lão bộc không ai khác chính là Khúc Kiệt. Màn kịch ngoạn mục gây ra tiếng nổ trong tư dinh huyện Ký làm chấn động cả tỉnh. Viên công sứ Pháp Đờ Guýt xanh thì nghi cho những người Quốc dân đảng chủ mưu nhưng tuần phủ Vũ Nho thì biết chắc đó là Cộng sản. Dân chúng Nam An hoan hỉ ra mặt. Thực hiện trót lọt công việc, Hàn Hành, Khúc Kiệt được thưởng hai trăm đồng Đông Dương. Một lần ngồi uống rượu với nhau Hàn Hành bảo:
    - Lôi kéo bọn chánh tổng, lý trưởng chẳng qua chỉ là hình thức mang tính mặt trận. Nhóm chúng ta mới là hạt nhân của tổ chức Cách mạng. Những vụ thanh trừng bọn tay sai tàn ác như huyện Ký vừa rồi phải tuyệt đối bí mật. Hở ra là mất mạng như chơi. Từ nay ta tạm nghỉ ít bữa để tránh sự rình mò của mật thám.
    - Phải, tôi cũng muốn giành chút thời gian đọc lại mấy cuốn sách về chủ nghĩa Cộng sản.
    - Đúng đấy. Chủ trương của ông Mã khắc tư[2] vĩ đại lắm.

    3.

    Năm Giáp Tuất, tức là năm rưỡi sau ngày cưới, Khúc Thị Hài đẻ sinh đôi hai thằng con trai. Anh là Lê Văn Khải, em là Lê Văn Nghiên, thằng nào cũng có nước da ngăm ngăm giống bố. Thị Hài nằm ổ, mọi việc đều đến tay Vận. Mỗi khi làm đồng về nhìn thấy cái tay khoèo của vợ Vận lại chép miệng thở dài nghĩ đến đôi tay mát dịu, mềm mại ôm riết cổ mình hôm nào dưới thuyền. Nhiều đêm nằm cạnh vợ mà tâm trạng chàng ngư phủ cứ như để trên mây, trằn trọc mãi không ngủ được. Có lần đã quá canh tư, hắn lẳng lặng tụt khỏi giường, ra ngoài sân ngẩng mặt nhìn trời sao, thỉnh thoảng lại liếc về phía cửa sổ căn buồng ngôi nhà hai tầng nơi bà Ba đang ngon giấc. Cái sân gạch Bát Tràng rộng thênh thang. Đêm thượng huyền mờ mờ sương giăng. Quầng sáng nhợt nhạt của vành trăng lưỡi liềm bị sương pha loãng, làm mọi vật bị nhoè đi, hình dạng trở nên mờ ảo. Đám chậu cảnh sắp hàng trước cửa từ đường thẳng tắp. Trước hiên dãy nhà ngang bên phải vài chùm phong lan đong đưa. Những cánh lan Phi Điệp đen thẫm, ve vẩy như múa. Đầu tường, cây bưởi đào đang độ nở hoa lặng lẽ thả từng cánh trắng muốt xuống mặt sân. Hương bưởi nồng nàn, khêu gợi nỗi đam mê trong tiềm thức giống những lời đường mật của con rắn đã từng xui Êva ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng.

    Cũng vào thời điểm ấy bà Ba không ngủ. Nằm cạnh con nhưng người đàn bà đa tình này lại nhớ đến Lê Văn Vận theo một kiểu hoàn toàn thực dụng. Thị Lánh đã ngán đến mức hoàn toàn lãnh cảm mỗi khi phải chiều chuộng lão dê già. Chánh Đàm tuy chưa quá bốn mươi nhăm nhưng sức lực hầu như đã cạn kiệt sau những cuộc ăn chơi trác táng hồi còn là lính tẩy. Vậy mà cái nhu cầu đàn bà của lão không hề suy giảm. Có điều, lực bất tòng tâm, khả năng thực tế không đáp ứng được lòng ham muốn. Lão nằm trên bụng bà Ba hàng nửa giờ hoàn toàn bất lực, còn bà vợ trơ như một khúc gỗ, lạnh như đá, không hề có cử chỉ buốt ve, âu yếm. Mỗi lần bị mất mặt như thế, chánh Đàm lại chửi:
    - Đúng là dòng giống lái trâu. Đồ nặc nô !

    Bà Ba cũng không kém cạnh, giẩu môi cạnh khoé:
    - Đã thế sao còn ngủ với con gái phường lái trâu? Ông đã lấy mất tuổi xuân của tôi giờ lại cả thèm chóng chán phải không?

    Chánh Đàm bị hạ nhục mà chẳng biết nói thế nào. Xét cho cùng, mọi sự đều tại bản thân. Lão không thể biết và không bao giờ biết, trước khi về làm dâu họ Khúc, bà Ba đã mất trinh. Chính điều ấy làm lão yên tâm về Khúc Luận - đứa con trai mà lão quý như vàng. Tức thì chửi, vì lão là chánh tổng của cai quản một hạt rộng có đến mười ba làng vùng hữu ngạn sông Lăng, nhưng thực tình lão vẫn sợ bà Ba, mà điều sợ hơn cả là bà Ba chứ không phải ai khác đã đẻ cho lão một thằng con trai nối dõi tông đường. Thằng bé càng lớn, bà vợ càng nở ra, trẻ đẹp và hiển nhiên là vô vùng quyến rũ. Khúc Đàm tự an ủi mình theo lý sự của mấy tay trọc phú tiểu nhân đắc chí: "Cho dù ta đã già, sức khoẻ giảm sút thì cô ta vẫn phải giữ trọn đạo làm vợ, không thằng phàm phu tục tử nào được phép nhìn ngắm chứ chưa dám nói thả lời ong bướm cợt nhả". Họ Khúc quản lý vợ như thế nên bà Ba, trừ một tối vào giã gạo chung với Lê Văn Vận còn tuyệt nhiên không có cơ hội gần gũi người tình. Nhớ Lê Văn Vận da diết, mặc dù hai người thường ngày vẫn gặp nhau, nhiều hôm Thị Lánh thẫn thờ như ốm lửng. Cô ta mà ốm thì chẳng những Khúc Đàm mà cả bà Huê, bà Thoả đều lo lắng, chạy ngược chạy xuôi đón thày lang bốc thuốc rồi nấu cháo đem lên tận giường nằm.

    Thằng Khúc Luận đầy năm. Dáng vóc nó vậm vạp, hay ăn chóng lớn. Nó chỉ giống bố ở vóc người còn nét mặt giống mẹ. Điều ấy làm cho bà Ba hoàn toàn yên tâm. Thỉnh thoảng Lê Văn Vận cũng bế thằng bé. Nó bập bẹ gọi Vận là "anh Vậng". Bà Ba ý tứ liếc mắt cho người tình khẽ mỉm cười. Cơ hội đến với hai người vào dịp cụ chưởng bạ Khang bố đẻ bà cả Huê qua đời. Cả nhà phải sang phục vụ đám ma, trừ Lê Văn Vận và bà Ba. Bà Ba lấy cớ đau bụng, còn Lê Văn Vận phải đi cày bừa đồng Vạn để kịp gieo mạ chiêm. Đầu canh hai, sau khi lừa thằng Luận ngủ, bà Ba đóng cổng, cài then rồi xuống nhà ngang. Lê Văn Vận đã chờ sẵn. Vừa thấy Thị Lánh, Vận đã bế xốc cô ta đặt lên giường, chẳng nói chẳng rằng, tốc ngược váy lên cổ rồi trườn ngay lên bụng. Bà Ba cấu vào sườn hắn bảo:
    - Làm gì mà hùng hục như trâu húc bờ thế ? Vướng lắm, để em cởi váy đã. Lê Văn Vận ghì chặt người tình bằng hai cánh tay hộ pháp, miệng thở như kéo bễ:
    - Phải tranh thủ ... Nhỡ lão Chánh về bất chợt.

    Thị Lánh ưỡn người, cặp mắt lim dim, rên khe khẽ:
    - Đừng làm em nghẹt thở…

    Từ lâu Vận hoàn toàn vô cảm với cô vợ tật nguyền, giờ được dịp gần gũi nhân ngãi hắn rạo rực đến mức bệnh hoạn, vần vò cô ta suốt đêm không ngủ, chỉ đến khi thằng Luận đái dầm tỉnh dậy khóc toáng lên hai người mới rời nhau. Lúc ấy đã gần sáng. Bà Hai Thoả đảo về nhà thì Vận đã vác cày, đánh trâu ra đồng. Hắn vừa đi vừa ngủ gật thỉnh thoảng lại vấp một cái. Đồng Vạn là nơi giáp ranh làng Bạch Đa. Ruộng này xa nhưng là loại thượng đẳng, lại gần nước vốn của nhà Cả Sang, ông Sang thua xóc đĩa phải bán tháo cho chánh Đàm lấy tiền trả nợ. Từ đấy lão chánh dùng làm xướng mạ. Lúc này đồng vắng tanh không một bóng người vì còn quá sớm. Vận hạ cày, thả trâu lên gò đống Cao cho nó gặm cỏ rồi nằm co trên bờ ruộng đánh một giấc.

    Có thể nói, đây là giấc ngủ ngắn nhưng sâu nhất trong đời chàng ngư phủ. Trong mơ, Vận thấy mình cùng Thị Lánh quắp chặt lấy nhau bay lên bằng cặp cánh mỏng như cánh chuồn chuồn vừa mọc ra từ hai bên nách. Hắn chỉ đóng mỗi chiếc khố sồi còn bà Ba gần như trần truồng, cặp vú trắng như tuyết dài lòng thòng xuống tận đầu gối. Đang bồng bềnh giữa đám mây ngũ sắc nhẹ và xốp như bông, Vận cảm thấy có cái gì vương vướng phía sau kéo hai người trở lại trần gian. Hắn quài tay và bất chợt chạm phải cái đuôi đang dài dần với những đốt xương xù xì mọc dầy lông cứng như lông lợn. Cái đuôi của bà Ba thì nhỏ hơn một chút nhưng dài hơn cứ ngoe nguẩy như đuôi con rắn sọc dưa đến kỳ động cỡn. Những chiếc đuôi phát triển hết cỡ thì cặp cánh biến mất, cặp tình nhân rơi xuống một khe nước. Hai người thay hình đổi dạng đến mức đáng ngờ. Họ biến thành loài bò sát, đầu người, đuôi rắn. Nhìn thấy thân hình quái dị của bà Ba,Vận vô cùng khiếp đảm, thét lên một tiếng như tiếng thét của loài vượn đen khi đứa con vẫn bám vào bụng nó bị rơi xuống vực sâu. Tiếng thét làm Vận toát mồ hôi tỉnh dậy. Hắn uể oải vươn vai, rít mồi thuốc lào, sau đó bắc ách vào cổ trâu, bắt đầu cày.

    Giống như con ngựa bất kham xổng chuồng, từ đêm mò xuống giường Lê Văn Vận, trong lòng bà Ba không lúc nào yên, luôn tìm mọi cơ hội gần gũi người tình. Trò xiếc không qua được mắt và cả Huê. Bà này chưa bao giờ xem Thị Lánh là người đàn bà đoan chính. Thỉnh thoảng có dịp là nói gần nói xa với chồng, nhưng chánh Đàm vốn tự cao tự đại không coi thiên hạ ra gì, luôn nghĩ rằng, bà Ba là sở hữu riêng, chẳng thằng lực điền nào ở làng Cùa dám vuốt râu cọp. Hơn nữa, thường ngày lão lại bị cô vợ trẻ mê hoặc bằng những lời đường mật, nên trước sau cũng chỉ nghĩ, lời cảnh báo ấy chẳng qua xuất phát từ lòng ghen tuông tầm thường của người đàn bà đã hết thời xuân sắc. Bà cả Huê là con gái cụ chưởng bạ Khang. Cụ Khang đã từng là ân nhân của Khúc Tuệ, bố đẻ Khúc Đàm hồi còn làm nghề ăn cướp. Không có cụ chưởng bạ thì Khúc Tuệ đã rũ tù sau một đợt quan phủ Đông Giàng cho người về khám xét bắt được tang vật là chiếc đỉnh đồng của nhà bang Thạch ở làng Vẽ. Ông Tuệ cảm nghĩa cử của chưởng bạ Khang xin kết làm thông gia. Vốn là người quân tử trước sau như một, đã nói là làm, vì thế sau này ngay cả khi Khúc Tuệ bị cai Thìn sát hại, cụ Khang vẫn giữ lời hứa cho Khúc Đàm và con gái thành hôn bất chấp sự ngăn cản của gia đình và dòng họ Đặng nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt thành danh. Bà cả Huê trước cũng vào hàng xinh đẹp ở làng Cùa, tuy sắc sảo, riết róng nhưng bụng dạ không hiểm độc. Ăn ở với Khúc Đàm được sáu năm mà chưa có con, buồn lắm, nghĩ tại mình bạc phận làm mất hương hoả nhà họ Khúc, vì vậy bà ta sang làng Nội tìm vợ bé cho chồng. Bà Hai thời trẻ cũng là một cô gái đa tình nhưng kém nhan sắc, con ông khán Đản bên làng Nội. Ông Khán là thầy phù thuỷ nổi tiếng trong tổng về tài tróc ma, trừ yêu quái nhưng cũng không có con trai. Nghe nói cách đây hơn chục năm, những lúc ông đi cúng, bà vợ bé ở nhà túng tấng với gã trương tuần ở xóm Rào. Biết chuyện khán Đản chẳng nói chẳng rằng, chỉ vẽ một đạo bùa, cuộn lại rồi đem chôn ở cổng bên cạnh con chó đá. Mấy hôm sau, đôi gian phu dâm phụ kia tự nhiên phát điên rồi kéo nhau ra sông Lăng trẫm mình. Về nhà Khúc Đàm được gần ba năm thì bà Hai sinh ra Khúc Thị Hài. Do thể trạng yếu, dặt dẹo từ bé, lại bị khoèo tay mãi đến năm mười ba tuổi Khúc Thị Hài mới hết sài đẹn. Bà cả Huê, trước đây vẫn quản lý công việc gia đình. Từ khi Thị Lánh về đoạt quyền tay hòm chìa khoá, đảo lộn gia phong bà phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Chánh Đàm mê bà Ba quá, hơn nữa cô ta dựa vào cái bùa hộ mệnh là đứa con trai nên tha hồ lộng hành, nói sao lão Chánh cũng phải nghe.

    Những mánh khoé dù tinh vi đến đâu của cặp tình nhân, cuối cùng vẫn có chỗ sơ hở. Bà cả Huê kiên nhẫn chờ thời cơ, rốt cuộc thời cơ ấy cũng đến. Vụ mùa năm Giáp Tuất, lúa chín rộ, tá điền gặt không xuể, bà Ba huy động cả nhà ra đồng trừ chánh Đàm và thằng con trai. Hôm ấy là buổi gặt ở đồng Quan. Đã có chủ ý từ trước, Thị Lánh lấy cớ phải trông nom người làm, ở lại đồng sau khi bà Cả, bà Hai và hơn chục tá điền gánh lúa về. Lúc này nắng đã dịu. Cánh đồng sực nức hương lúa. Những thửa ruộng mới gặt rạ còn tươi, cọng xanh như lá niễng xếp thành từng đống. Lũ châu chấu ma bay xập xoè từ mô này sang mô khác, thỉnh thoảng lại nghiến răng kèn kẹt. Bọ muỗm béo núc, thân hình thon thon như chiếc thoi dệt, xoè cặp cánh mỏng như lụa, lao vun vút lên trời, liệng một vòng rồi lại sà xuống đậu vào một đám ruộng nào đó. Loài chim cút lẩn nhanh như có phép tàng hình. Chúng thường xuất hiện ở những chân ruộng tám thơm hoặc dự hương chớm đỏ đuôi. Dự hương thấp cây, hạt nhỏ toả mùi thơm nồng nàn trong gió heo may. Trên trời, một con diều hâu cứ lượn đi lượn lại như cố tình khoe cặp cánh dài màu xám bạc. Sự kiên nhẫn của chàng sát thủ này không một loài chim ăn thịt nào bì kịp. Vào lúc bất ngờ nhất, nó cụp cánh, thả mình rơi tự do như một mũi tên quắp con dẽ gà rồi lao vút lên với một tốc độ đáng nể. Lúc này đồng không mông quạnh, chỉ còn Lê Văn Vận và bà Ba là những người cuối cùng xếp lúa vào quang. Hai gánh lúa xếp đầy đến cổ là những tấm bình phong tuyệt vời. Thời gian lúc này là vàng. Chẳng cần màn dạo đầu tán tỉnh vô bổ của những cặp trai gái mới chập chững bước vào trường tình, Lê Văn Vận dằn ngửa bà Ba xuống tấm nệm rạ, tốc ngược váy lên ...

    Giữa lúc chàng ngư phủ đang ngây ngất trên bụng người thiếu phụ, thỉnh thoảng lại nhổm dậy, quỳ xuống lớp rạ tươi vuốt ve cặp đùi trắng hồng, mập mạp đầy nhục cảm đang dạng ra một cánh rất vô liêm sỉ thì bà cả Huê bất ngờ xuất hiện như là từ trên trời rơi xuống. Đôi tình nhân hết hồn, vẫn còn trần truồng, vội rời nhau quỳ sụp xuống lạy như tế sao:
    - Em trót dại mong chị thể tình tha cho ...
    - Con lạy mẹ cả ! Chuyện này mà bố biết thì ông ấy giết chết cả hai…
    - Các người to gan thật ! - Bà cả Huê hắng giọng - Thì ra ta đoán không sai. Từ xưa đến nay, loạn luân vẫn là tội tày đình, không thể tha được.

    Thị Lánh kéo váy xuống nhanh đến mức bà cả Huê cũng phải thán phục. Chàng rể Vận, mặt tái như gà cắt tiết, xỏ cả hai chân vào một ống quần, lúng túng mãi mới đứng dậy được. Tình thế lúc này chẳng khác gì màn bi hài kịch. Hai nhân vật chính thủ vai hết sức vụng về trong bộ dạng như nhà có đám, đang cố tìm những lời bi thương nhất tác động vào lòng từ bi của người đàn bà từ lâu đã bị Thị Lánh cho ra rìa.
    - Chị xưa nay vẫn có lòng nhân hậu, cùng đàn bà với nhau, thương em chút nào em được nhờ chừng ấy.

    Bà cả Huê cười nhạt bảo:
    - Từ khi về nhà họ Khúc đến nay chưa bào giờ tôi thấy dì khéo mồm thế. Tôi có thể báo việc gian dâm này với ông Chánh ngay chiều nay để làng xử phạt, nhẹ ra cũng thả bè trôi sông, nhưng nghĩ "anh chị" còn trẻ trót lầm lỡ nên hãy tạm gác tội đấy nếu cô Lánh thuận theo những điều kiện sau...
    - Xin chị cứ dạy, chỉ cần chị tha tính mạng, trăm điều em cũng xin theo.
    - Thứ nhất . - Bà Cả Huê hắng giọng một lúc rồi mới ra tối hậu thư - Ngay từ tối nay, cô phải nói với ông Chánh, bằng cách nào thì tuỳ, trao lại việc quản lý gia đình cho tôi.
    Thị Lánh ngây mặt ra nhưng thoáng nghĩ đến cài bè chuối bập bềnh trên sông Lăng đành phải chấp nhận :
    - Xin theo ý chị.
    - Thứ hai - Bà cả Huê liếc nhìn một thoáng - Mỗi tháng cô phải để ông Chánh sang buồng tôi ba đêm.
    - Chuyện ấy thì dễ, chị cứ tin ở em.
    - Điều thứ ba là, từ nay "anh chị" phải thôi làm chuyện đốn mạt ấy đi, nếu ngựa quen đường cũ, đừng trách tôi không có lượng bao dung. Bây giờ cho hai người gánh lúa về. Tôi ở lại trông đồng, ngày mai sẽ nói chuyện với anh Vận.

    Hoá ra bà Cả cũng không đến nỗi nào. Thị Lánh thầm nghĩ trên đường. Thật hú vía. Xuýt nữa thì khốn nạn. Lê Văn Vận sợ quá toát mồ hôi lạnh. Hắn lầm lũi bước. Bà Ba hỏi gì cũng không nói. May mà đường làng vắng người qua lại, nếu không hẳn là có kẻ nghi ngờ cách nói năng nhấm nhẳng của bà Ba cũng như thái độ lạnh lùng, vô cảm như thằng câm của chàng ngư phủ.

    Bà Cả không phải là kẻ sắt đá, vô tình nên luôn nhìn Mạc Thị Lánh và Lê Văn Vận bằng cặp mắt soi mói của loài mèo rình chuột. Vốn là cô gái con nhà tử tế, về nhà chồng từ năm mười bảy, vì không sinh con nên bị Khúc Đàm hắt hủi đến mức, muốn yên thân, phải mang trầu cau sang sông hỏi vợ hai cho chồng. Trước đây bà nghĩ mình phận mỏng trời không thương, đày xuống trần gian chịu phận cô quả, sau này mới biết, sự việc không hoàn toàn như thế, nhất là từ khi chánh Đàm cưới vợ hai. Mới ba mươi tám, lòng bà Cả chưa tắt ngọn lửa xuân tình. Bà phải làm ra vẻ đạo đức, trước hết, bởi chánh Đàm có mới nới cũ từ lâu lạnh nhạt với vợ cả. Thứ nữa, là người cai quản mọi việc trong nhà, bà cần nêu tấm gương đoan chính để giữ gìn gia đạo. Tư gia họ Khúc nội bất xuất, ngoại bất nhập, suốt ngày mấy người đàn bà chỉ quẩn quanh với công việc nhàm chán. Rất nhiều đêm nhất là những đêm đông dài dằng dặc nằm trong chăn đệm mà trái tim bà lạnh giá, lòng thổn thức những hoài niệm vu vơ, những khát vọng đầy hoang tưởng. Bà nghĩ đến số kiếp con người cô đơn, buồn tủi và khốn khổ trong cõi nhân gian. "Giờ thì khác rồi. Mình cũng là một người đàn bà như ai, phải có quyền được hưởng niềm vui làm vợ, làm mẹ thực sự". Bà Cả Huê thoáng nghĩ đến chàng ngư phủ. Ta tha cho lần này là muốn anh phải biết điều. Hãy rời con quỷ cái kia ra. Nó chính là hiện thân của loài hồ ly tinh sẵn sàng nuốt chửng anh lúc đói.

    Mấy hôm sau, một đêm tối trời, khoảng canh ba, một bóng đen băng qua sân gạch lên nhà trên, vào buồng bà Cả. Bóng đen vừa lẻn vào, cửa lập tức chốt lại. Bà Cả Huê trên người không một mảnh vải ôm ghì lấy Lê Văn Vận vật ngay ra giường rồi cầm tay hắn đặt lên ngực thì thào:
    - Cẩn thận không cái Hài nó biết .
    - Nó ngủ say như chết, với lại hôm nay tôi nằm chõng, ngoài hiên, biết làm sao được.
    - Nào, nhanh lên ! Sao lúng túng thế ?
    - Cứ từ từ, - Vận giỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài, giọng nhát gừng nhưng rất
    khẽ, - còn từ giờ đến cuối canh tư cơ mà.

    Bà Cả vòng hai tay ôm cổ chàng ngư phủ y hệt cái cách bà Ba đã từng làm với hắn. Lần đầu tiên trong đời, bà Cả Huê biết thế nào là một cuộc phiêu lưu trong thế giới mây mưa với một người đàn ông thực sự. ít phút sau, trong trạng thái đê mê của sự đụng chạm xác thịt, bà ta vít đầu Vận rỉ tai:
    - Thế nào ? Tôi chiều cậu có bằng cô Lánh không ?
    - Thì ra chị ghê gớm hơn là tôi nghĩ . - Vận áp cái đầu tóc rễ tre bù xù vào giữa hai bầu vú mát lạnh vẫn còn rất mẩy của người đàn bà nạ dòng - V
    ì sao lúc ngoài đồng chị không làm ầm lên mà lại tha chúng tôi ?
    - Không biết vì sao à ? - Bà Cả bấu nhẹ vào sườn chàng ngư phủ làm hắn buồn giật nảy người - Cậu ngốc lắm. Tôi cần một đứa con trai như dì Ba.
    - Có nghĩa là... chị đã biết ?
    - Vải thưa che làm sao được mắt thánh. - Bà Cả lửng lơ - Nhưng cậu giờ hồn đấy, thỉnh thoảng không lên với tôi thì đừng có trách.
    - Thế còn ông Chánh ?
    - Cái lão già vô tích sự ấy kể làm gì. Tôi đã có cách miễn là cậu giữ lời hứa.

    Đã quá nửa trống canh nhưng bà Cả Huê vẫn chưa chịu cho Vận xuống nhà ngang. Hắn vừa tuột khỏi giường thì bà ta bật khóc. Tiếng khóc thầm bị dồn nén từ non nửa cuộc đời giờ mới thoát ra được nghe thật tội nghiệp.

    Về phần mình, chánh Đàm tuy rất đa nghi nhưng tuyệt nhiên không biết màn bi kịch của gia đình họ Khúc đã bắt đầu. Lão suốt ngày lên phủ xuống huyện, ra tổng, có những dịp thường xuyên vắng nhà. Đấy là cơ hội tuyệt vời cho bà Cả, bà Ba và gã chàng rể quý chơi trò mèo mỡ. Họ dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ đánh lừa mẹ con bà Hai. Chánh Đàm cưng chiều thằng con trai hết mức, vì vậy vai trò của bà Ba trong gia đình họ Khúc càng trở nên quan trọng. Có lần lão còn cho thằng bé mới hơn hai tuổi cùng cưỡi con ngựa bạch bờm nâu. Hai bố con rong ruổi từ đầu làng đến cuối làng, nhạc ngựa kêu long coong, cu cậu thích lắm cứ túm lấy bờm hét toáng lên. Hai đứa trẻ nhà Lê Văn Vận cũng đầy năm. Chúng không giống nhau lắm nhưng đều phổng người, hay ăn chóng lớn. Bà Hai thật không ngờ, một đứa con gái khoèo tay như Khúc Thị Hài mà có có phúc lấy được thằng chồng khoẻ mạnh, tháo vát được cả nhà quý. Quả thật, trong thâm tâm cũng có lúc bà thoáng nghi ngờ khi bắt gặp cái nhìn khác thường của bà Ba với Lê Văn Vận. Nhưng anh chàng này khôn, những lúc có người khác bên cạnh đều không biểu hiện thái độ gì vượt quá khuôn phép của con cái đối với cha mẹ. Bà Hai chỉ có thể nghĩ, Thị Lánh là cô gái không đoan chính chứ tuyệt nhiên không thể coi chàng rể hư hỏng. Đây là kỷ cương gia pháp. Huống hồ, ông Chánh là người đứng đầu cả tổng, danh tiếng họ Khúc ở huyện này ai mà không biết.

    4.

    Thời gian ấy, chánh Đàm hay vắng nhà. Thực ra lão chẳng bận lắm với công việc "quốc gia đại sự" mà cái chính là đang vướng phải lưới tình. Nhân tình của họ Khúc là một người đàn bà có cặp mông vĩ đại, to như cái giành ủ thóc giống và đôi mắt ươn ướt nép dưới hàng mi lưa thưa trông giống mắt loài dê núi đang thời kỳ cho con bú. Trên đường công cán, Khúc Đàm gặp cô ta khoác cái bị cói đi chợ về. Lão dẻo mỏ đến mức lôi được cô ta lên ngựa cho ngồi phía trước. Chiếc bị treo lủng lẳng vào móc yên. Đường về làng Buộm không xa nhưng lão cố tình cho ngựa chạy vòng lối kẻ Sung để có thêm thời gian cọ sát cặp mông người đẹp. Cô nàng là vợ một thầy quyền khố xanh. Anh lính này nghe nói đồn trú ở mãi Hà Quảng Cao Bằng. Gái một con, vắng chồng lâu ngày, ngứa ngáy không chịu được. Cô ta đã từng tiếp đón hết lượt các thầy cai, thầy ký, thầy đề trong huyện, nổi tiếng là người đàn bà có thuật mê hoặc lũ mày râu dại gái. ả vợ lính đa tình rút ruột Khúc Đàm không biết bao nhiêu mà kể. Có lần bí quá, lão phải lấy tạm ít tiền thuế để làm dịu bớt con đồng bóng của nhân ngãi.

    Bà cả Huê thấy mức thu hàng năm của gia đình mỗi ngày một tăng mà tiền lại mỗi ngày một giảm, đâm nghi chánh Đàm mang đi cho gái liền bàn với bà Ba cử người thân tín theo dõi. Người được giao việc này là hai Doạc, cháu gọi bà Huê bằng cô. Hai Doạc máu rượu, lúc nào cũng nhẵn túi, ngẫm nghĩ: "Thế ông Chánh đang mạnh, dại gì vuốt râu cọp. Chi bằng ta cứ ngầm thăm dò, nếu thấy tổ con chuồn chuồn thì doạ mấy câu kiếm vài đồng uống rượu còn hơn là phục vụ không công cho bà cô". Mấy hôm sau, hắn cải dạng thành thằng bắt rắn với bộ đồ nghề trên vai, hễ thấy chánh Đàm cưỡi ngựa ra khỏi nhà là đi theo. Họ Khúc có thói quen cho ngựa đi bước một, ngồi thẳng đuỗn trên yên, mắt mơ màng, thả tâm hồn ngắm trời ngắm đất. Đấy là lão bắt trước phong thái ung dung tự tại của lãng tử Lý Bạch tiên sinh mỗi khi tìm cảm hứng thi ca. Điều ấy có lẽ chỉ là phỏng đoán, chắc không đúng, vì cả đời có bao giờ họ Khúc đọc nổi một câu thơ Đường, mà cái chính là lão tìm cách kéo dài thời gian, bằng cách cho con tuấn mã dẫn diệu, sao cho khi vào đến xóm Bồng Bồng làng buộm thì trời vừa chạng vạng. Xóm Bồng Bồng gần huyện nhưng là một trại mới lập, xa làng, chỉ lưa thưa mấy chục nóc nhà, trời lại sắp tối, mấy ai để ý đến khách vãng lai. Thế là sau vài lần rình mò, tay thám tử đã biết rõ nơi nghỉ qua đêm của ngài chánh tổng. Chập tối hôm thứ ba, cũng theo quy luật ấy, chánh Đàm vừa vào nhà nhân tình một lúc thì hai Doạc lập tức xuất hiện. Họ Khúc đang lúng túng chưa biết xử trí thế nào, gã bợm rượu đã nhanh nhảu bảo:
    - Tôi ở bên kia sông đi bắt rắn, trời lại sắp tối nên vào đây xin chị mồi lửa.

    Chánh Đàm đưa mắt ra hiệu nhưng hai Doạc lờ đi coi như không biết. Hắn châm lửa vào bùi nhùi, uống một bát nước vối rồi xách thuổng bước ra.
    - Cậu mới học được nghề bắn rắn ban đêm à ?

    Hai Doạc cười rất tươi:
    - Dạo này túng quá, nhà hết sạch thóc, chẳng còn gì cho các cháu ăn nên phải liều ông ạ.

    Hai Doạc vừa bước chân khỏi cổng chánh Đàm cũng theo ra, chộp vai hắn, quát khẽ:
    - Bà Cả sai mày... phải không ?
    - Dạ thưa ông Chánh, con đi bắt rắn thật mà.
    - Rắn cái con khỉ ! - Chánh Đàm văng tục - Mày giờ hồn đấy !
    - Bẩm ông, con không dám.
    - Từ rày mày mà còn rình mò thì ông róc xương. - Khúc Đàm vừa thò tay vào túi móc mấy tờ bạc ấn vào tay hai Doạc vừa lầu bầu - Cút ra ngoài bãi tha ma mà bắt rắn mòng. Cấm được bép xép, nhớ chưa ?
    - Bẩm, con nhớ rồi.

    Thế là âm mưu của bà cả Huê và bà ba Lánh thất bại thảm hại. Thằng cháu giời đánh hễ gặp cô lại lẩn như chạch. Hai Doạc là thằng không có lập trường, mạnh ai theo người ấy. Sau này, thời Nhật chiếm đóng, hắn theo lũ giặc làm bồi ngựa cho tên quan hai hirôsi. Một lần Doạc dắt ngựa ra sông tắm, con ngựa thụt chân xuống kè đá bị trẹo khớp. Tên trung uý rút kiếm chém một nhát ngang cổ, đầu hắn rơi xuống một lúc, máu mới từ cổ phọt ra.

    Cuối cùng thì sau hai mươi mốt năm lấy chồng bà cả Huê cũng mang thai, tin này như một quả bom làm chấn động làng Cùa, thậm chí cả tổng Kim Đôi, nhưng trong nhà họ Khúc mỗi người tuỳ theo hoàn cảnh của mình tiếp đón nó với thái độ khác nhau. Chánh Đàm tất nhiên là vô cùng phấn khởi. Người đầu tiên lão nghĩ cần phải trả ơn là ông lang Toét làng Suộm. Ông này năm ngoái đã bán cho lão bình rượu ngâm cá ngựa lẫn với ba con tắc kè hoa đầu bạc. Thứ thuốc tráng dương lập tức có ngay tác dụng khiến lúc nào họ Khúc cũng dậm dật như phát cuồng, đến nỗi có đêm chẳng biết vô tình hay hữu ý, lão mò vào giường cô cháu gái bà Cả từ kẻ Suốt sang chơi khiến cô ta kêu toáng lên. Trong thâm tâm, chánh Đàm hy vọng bà Cả sẽ sinh một thằng con trai. Bà ta mà có con trai thì hiển nhiên là Thị Lánh hết làm mình làm mẩy. Lão sẽ trị dần dần rồi đưa vào khuôn phép, không thể để lăng loàn như trước. Trong tương lai, nhà thêm một suất đinh, thế của họ Khúc ngày càng được củng cố, như vậy mỗi khi ra chốn đình trung, lão mới đoàng hoàng ngẩng mặt nhìn thiên hạ. Bà cả Huê thì vừa lo vừa mừng. Lo vì tuổi đã cứng chẳng biết chuyến này vượt cạn có dễ dàng, nên thường xuyên thắp hương trước bàn thờ Quan Âm mong ngài phù hộ cho mẹ tròn con vuông. Thứ nữa liệu đứa bé sinh ra giống ai? Tốt nhất là không nên giống bất kỳ người đàn ông nào trong nhà này trừ Khúc Đàm. Mừng vì nếu một thằng con trai ra đời, Thị Lánh sẽ không còn giữ địa bị độc tôn. Bà sẽ lấy lại thế thượng phong, điều hành toàn bộ hoạt động của gia đình họ Khúc, đến khi lão dê già chầu trời, sẽ tìm cách tống khứ con yêu tinh ấy về với lão lái trâu bên kia sông. Thỉnh thoảng bà cả Huê lại đóng cửa buồng, tuột váy đến ngang hông, vuốt vuốt cái bụng đã hơi căng nổi chằng chịt gân xanh lẫn với những mạch máu li ti rồi nhoẻn miệng cười. Làn da bụng màu vàng nhạt, đôi chỗ xam xám điểm vài vết sần nho nhỏ, thỉnh thoảng khẽ chuyển động nghe như đưa trẻ đang cựa quậy.

    Lê Văn Vận vẫn thậm thụt đi lại với Mạc Thị Lánh mặc dù bà Cả đã cấm. Hắn không muốn làm phật lòng bà Huê nhưng cũng khó mà đoạn tuyệt với người tình. ở vào cái thế chạch bỏ giỏ cua, Vận đành phải chấp nhận phương án tình thế, san sẻ tình cảm cho cả hai thậm chí ba người đàn bà để giữ an toàn tính mạng. Những lúc gặp chuyện khó xử Vận lại ra sông Lăng đánh cá. Chiếc thuyền câu cũ, trước khi về làm rể chánh Đàm hắn đã cho tay Quýnh trong vạn chài. Gần đây ông bố vợ thuê đóng một cái mới để hắn kiếm cá tươi, nhất là loại cá chép râu đỏ về nhắm rượu. Một lần hứng lên, họ Khúc còn đem bà Ba cùng thằng con trai xuống thuyền, bắt Lê Văn Vận chèo xuôi dòng xuống đến ngã ba Môi ngắm cảnh. Sông Lăng mùa này nước chảy lờ đờ. Cá chày mắt đỏ, cá chép vàng và cá lăng ngược dòng tìm nơi đẻ trứng, bơi từng đàn như những đám rong đuôi chó phát sáng. Cồn Vành choài ra như một miếng vá hình bán nguyệt nhấp nhô lau lách. Từ trong đám sậy, thỉnh thoảng một con vịt hoang hoặc một cặp le le vút lên vỗ cánh phành phạch, làm lũ cào cào tím, đầu nhọn giật mình bay loạn xạ. Mòng nước thì bất chấp sự đời miễn là no bụng. Chúng rủ nhau vài ba con một, dàn hàng ngang dùng cái mỏ vừa dài vừa nhọn, khoắng xuống mặt ruộng tìm lũ cá lác ngờ nghệch . Bọn cá mương háu ăn lao loạn xạ trên mặt ruộng nước đục ngầu như thoi dệt cửi. Chúng cứ chờn vờn theo một vũ điệu nhố nhăng chẳng theo quy luật nào nên rất khó bắt trừ giăng lưới ba bề bốn bên rồi dùng mõ giậm lùa dần. Trên cao, một con bói cá mỏ dài hơn cả thân người, trông như một đốm sáng xanh biếc biết bay. Thoắt một cái, nó thả mình lao xuống theo chiều thẳng đứng, trong chớp mắt, giữa cái mỏ cứng như gọng kìm đã ngậm chú cá trôi bằng ngón tay lấp lánh như bạc.

    Khúc Đàm nhấm nháp từng ngụm rượu cá ngựa ngâm thuốc bắc với cá chép nướng than hoa chấm muối tiêu và mấy lát gừng. Thằng con trai thích thú nhìn những cánh buồm nâu trên các con thuyền chở đá ngược dòng về bến Tràng. Thuyền nào phần mũi cũng cong vút lên sơn màu nâu thẫm, bên dưới vẽ hai con mắt tròn, đồng tử trắng, viền vàng trông như mắt quỷ. Nhìn thấy đôi mắt quái dị, thằng bé chẳng những không sợ mà còn lấy tay vẫy vẫy. Cánh chân sào ném sang thuyền mấy bắp ngô luộc còn nóng. Lão Chánh giơ tay ra hiệu cảm ơn rồi nhặt món quà của những người phu thuyền đưa cho con. Ngắm cảnh trời nước mênh mông tâm trạng thư thái, họ Khúc bảo với bà Ba:
    - Cảnh đẹp như thế này chả trách trước đây anh Vận không muốn bỏ nghề hạ bạc.

    Lê Văn Vận làm như không nghe thấy, lẳng lặng chèo. Bà Ba khẽ mỉm cười. Thuyền cập bến, trời cũng vừa xế bóng, Bà cả Huê và Khúc Thị Hài đứng trên đê chờ. Nhìn thấy vợ cả, chánh Đàm nhăn mặt:
    - Bà đang bụng mang dạ chửa ra đây làm gì, nhỡ xảy chân thì khốn.

    Bà Huê mắt long sòng sọc lườm Thị Lánh nhưng giọng lại ngọt nhạt:
    - Ông Lái bên nhà sang chơi, thầy nó với dì về ngay đi.

    Đợi cho mọi người vào làng, dưới bến chỉ còn lại Lê Văn Vận đang lúi húi cuốn tay lưới, bà cả Huê làm mặt giận:
    - Tôi đã cấm chỉ thế mà chứng nào vẫn tật ấy.

    Chàng ngư phủ đánh trống lảng:
    - Đâu có, bà Cả chỉ hay đa nghi.
    - Nửa đêm hôm kia đứa nào lẻn xuống nhà ngang bấu vào người anh rồi kéo nhau ra vườn chuối. Anh tưởng tôi mù chắc ?
    - Tôi xin thề ...
    - Từ xưa đến nay lời thề mà linh nghiệm thì lũ đàn ông các người tuyệt giống rồi.

    Thực tình, Lê Văn Vận dù có muốn, bà Ba cũng không để cho anh ta thoát khỏi cuộc tình vụng trộm mà chính cô ta là người giăng bẫy. Bà Cả đang thời kỳ mang thai, nhìn lũ chúng thậm thụt với nhau, bất chấp lệnh "giới nghiêm" lấy làm ngứa mắt. "Ta đã cảnh cáo nhiều lần, nếu không biết điều thì đừng bảo là thiếu lượng bao dung". Bà Huê nghĩ vậy và lặng lẽ chờ cơ hội.

    Về phần mình, sắc sảo đến thế mà Thị Lánh vẫn bị bà cả Huê xỏ mũi. Chuyện tư thông giữa bà cả và Lê Văn Vận cô ta không hề hay biết. Nó được bí mật cho đến khi cái bụng bắt đầu phình ra. Tới lúc này bà Ba mới đặt dấu hỏi: "Chả lẽ món rượu hổ lốn cá ngựa, tắc kè với thuốc bắc lại có tác dụng nhanh đến thế ? Mình không tin. Thế thì sự thật kẻ nào là chủ của cái bào thai quá muộn mằn ấy ?" Cô ta không bao giờ nghĩ đến Lê Văn Vận mà dứt khoát cho rằng, con mẹ cáo già kia đã thậm thụt với một gã trương tuần nào đó rồi lập lờ đánh lận con đen, nhằm giành lại quyền bà chủ nếu may ra đẻ được thằng con trai. Nghĩ đến đấy, nỗi bực dọc dâng lên tận cổ làm cô ta gần như nghẹt thở. Bằng mọi cách, phải tìm ra sự thật, nếu không, cơ ngơi này trước sau cũng rơi vào tay con mụ già.

    Chính vào lúc bà Ba đang ngày đêm trù tính kế hoạch cho tương lai thì bà cả Huê cao tay hơn đã nhanh chóng ra đòn trước.
    Từ lâu, bà Huê đã bóng gió cho chồng biết những hành vi thiếu đoan chính của Thị Lánh. Tất nhiên chánh Đàm không tin, nhưng đấy là thứ đòn gió, hư hư thực thực nhằm chuẩn bị tinh thần cho lão nếu sau này có chuyện xảy ra. Bà đã tha cho một lần, không thể tha tiếp lần nữa để ả xỏ chân lỗ mũi. Chuyện xảy ra vào một đêm tháng tư, chánh Đàm phải ra đình họp với Hội đồng kỳ mục, chuẩn bị cho lễ rước sắc phong Thành hoàng. Làng Cùa đón gánh chèo của ông trùm Lộng ở kẻ Sui về diễn tích Lưu Bình Dương Lễ. Chiều hôm ấy bà cả Huê đến nhà hai Doạc. Bị tóm bất ngờ, hắn không lẩn được đành nhe răng cười trừ. Bà Huê móc hầu bao đưa cho gã bợm rượu ít tiền rồi ghé tai thì thầm mấy câu. Trước lúc ra về bà nẹt hắn:
    - Lần này mà làm hỏng việc nữa thì tao bảo ông Chánh tống mày đi lính.

    Hai Doạc nhăn nhở cười lấy lòng:
    - Cô yên tâm, nhất định lần này cháu lập công chuộc tội.

    Bà Cả dự đoán không sai. Chừng giữa canh ba, khi cả làng đang chăm chú theo dõi tích chèo ở sân đình thì Lê Văn Vận lẻn ra ngoài. Một lúc sau bà Ba cũng tìm cách rời khỏi cuộc vui. Hai Doạc lập tức bám theo họ. Khi hai người vào nhà cài then cổng, gã bắt rắn lập tức quay lại đình vào gặp Khúc Đàm. Ông Chánh ra hiệu cho thằng cháu vợ đợi một lúc rồi cả hai mới trèo tường vào nhà bằng lối vườn chuối. Đàn chó nhận ra mùi của ông chủ, không hề sủa một tiếng, chỉ đến khi chánh Đàm quát to thị oai, đôi gian phu dâm phụ mới hết hồn, lục sục mãi chưa rút được chốt cửa. Một bóng đen nửa trần truồng bất ngờ lao ra húc vào Khúc Đàm rồi nhảy xuống sân. Hai Doạc thuận tay phang một gậy vào bắp chân gã gian tế. Hắn bị đau, ngã xoài xuống nền gạch Bát Tràng nhưng lại đứng dậy ngay. Chánh Đàm lồm cồm bò dậy, sờ nắn mạng sườn một lúc rồi bảo hai Doạc đánh lửa châm nến. Bà Ba đầu tóc bù xù ngồi ủ rủ góc giường. Chánh Đàm mặt hầm hầm quát:
    - Đứa nào vừa ở đây ra ?

    Thị Lánh sợ lắm, đang tìm kế hoãn binh nên không nói gì, chỉ ti tỉ khóc.
    - Câm mồm ! Tao hỏi: Đứa nào vừa ở đây ra ?
    - Kìa mình ! Không phải tại em. Em khổ lắm - Thị Lánh khóc nghe thật ai oán.
    - Gái đĩ già mồm ! - Chánh Đàm nghiến răng kèn kẹt - Hỏi vậy thôi chứ tao đã biết thừa nó là thằng Vận. Cứ thử xem có chạy được mãi không.

    Chánh Đàm lấy dây thừng trói hai tay bà Ba vào cột nhà rồi khoá cửa lại, nhét chùm chìa khoá vào túi sau đó bảo hai Doạc:
    - Chuyện này không được nói với ai. Mấy hôm nữa chú sẽ cắt cho ba sào ruộng đồng Đấu. Mày mà bép xép tao trình quan cho đi hiệu lực ở
    Tuyên Quang chết mất xác nhớ chưa ?
    - Thưa chú, cháu nhớ, nhưng ...
    - Lại vòi tiến uống rượu chứ gì ? Đây, cầm lấy.

    Sáng hôm sau, Khúc Đàm tự tay trói bà Ba vào cột chuồng trâu rồi dùng roi mây quật ngang lưng. Tiếng roi vun vút nghe thật ghê rợn nhưng người đàn bà vẫn cắn răng chịu không hề kêu một tiếng. Đánh chán, lão quẳng roi lên nhà uống rượu. Tấm lưng thon thả trắng nõn nà của Thị Lánh đầy những vết thâm tím hằn thành vệt chẳng khác gì mụn vá vụng về bằng các loại vải khác nhau. Bà Ba chịu đòn ánh mắt đầy lửa hận thù. Với bản chất phóng túng như con ngựa hoang tung hoành trên thảo nguyên, không thích các loại yên cương, hàm thiếc ràng buộc, cô ta hoàn toàn mất tự do trong một gia đình hào mục với những quy tắc giáo điều nghiệt ngã do Khúc Đàm làm chủ. Hành vi của bà Ba và thằng con rể là một cái tát vào niềm kiêu hãnh của Khúc Đàm vốn vẫn dương dương tự đắc cậy mình là bề trên của cả vùng Ba Tổng. Lão đau đến tận xương tuỷ nhưng là nỗi đau không thế nói ra, bởi nếu thiên hạ biết chuyện này thì không còn mặt mũi nào nhìn cánh chức sắc hàng tổng nhất là phó tổng Lê Bang. Ông ta có gã em vợ làm phán lục lộ trên tỉnh, nhà giầu nhất nhì làng Cùa, luôn nhăm nhe lật đổ lão để giữ triện đồng. Việc này phải xử lý sao cho trong ấm ngoài êm mới giữ được thể diện vốn là yếu tố quan trọng nhất của hàng sắc mục. Việc đầu tiên là chánh Đàm bảo Khúc Thị Hài đem thằng Luận về quê bà Hai chơi mấy ngày cùng với hai đứa con trai sinh đôi. Tiếp sau, lão sai mấy tá điền là tay chân thân tín bí mật thủ tiêu Lê Văn Vận, xong việc sẽ thưởng hậu. Lệ làng Cùa rất khắt khe. Từ xưa đến nay những người đàn bà thất tiết bị bắt quả tang hoặc hoang thai đều bị gọt tóc bôi vôi thả bè trôi sông. Lão không muốn bà Ba chịu hình phạt này nhưng cũng không thể để cô ta cứ nhởn nhơ cắm sừng lên đầu mình. Lão có cách giải quyết vụ bê bối này êm hơn, gọn hơn. Từ chiều hôm qua, nghĩa là sang ngày thứ hai từ khi bà Ba bị trói, họ Khúc đã chuẩn bị một ít thuốc độc loại không có mùi vị do lang Toét bào chế làm bả chó bán cho bọn đào tường khoét ngạch. Chỉ cần pha một liều vào nước cho cô ta uống là xong. Những việc còn lại đối với một chánh tổng đương chức không có gì là khó. Cứ nói bà chánh Ba bị cảm thương hàn chết đột ngột thế là xong. Không một ai trong làng Cùa dám ngờ chánh tổng giết vợ. Còn thằng Vận, sau khi hắn chết sẽ phao tin thủ phạm là tay chân của Cửu Nghi, một tên trùm cướp, nổi tiếng giết người không ghê tay mới dạt từ Thạch Nham về vùng Ba Tổng hoành hành.

    Đêm ấy Lê Văn Vận hốt quá, sau khi húc vào sườn làm bố vợ ngã, hắn băng qua sân, nhảy phứa lên tường mặc cho mảnh sành cào vào tay và bụng nhoe nhoét máu chạy tháo thân. Cứ thuận đường, hắn chạy mãi đến khi nghe tiếng sóng vỗ óc ách mới biết đã đến sông Lăng. Hắn xuống bến tìm nơi buộc thuyền, định xuôi dòng xuống ngã ba Môi. Đêm càng khuya sóng vỗ vào kè đá càng mạnh. Gió đông nam chạy dọc triền sông, xô những con sóng gối vào nhau nghe rào rào như là tiếng đập cánh đồng loạt của bầy nhạn nước mỗi khi cất mình bay lên khỏi đầm Ma. Phía bên kia cồn Vành, vài đốm lân tinh chập chờn, lúc ẩn lúc hiện như ma trơi. Những con vạc ăn đêm cần mẫn dùng chân sục sạo, lùa lũ tép gạo dưới khu ruộng trũng cạnh đầm vào cái mỏ vừa nhọn vừa dài như kìm thợ rèn. Lũ bìm bịp lặn ngụp kiếm ăn dưới đầm thỉnh thoảng lại ngoi lên kêu những tiếng rời rạc gọi bạn. Một con mèo hoang đuôi trắng gào lên như hoá rồ bằng thứ âm thanh khàn khàn giống hệt tiếng rên rỉ của người già nghiện thuốc lào lúc hấp hối. Con mèo cứ quẩn quanh bên sườn đê, thỉnh thoảng lại ngước cặp mắt lóng lánh như mắt ma nhìn chàng ngư phủ như là nhìn kẻ thù. Vận ngứa mắt, cúi xuống quờ một hòn đất ném. Con vật cúp cái đuôi trắng như đuôi cáo Bắc cực biến vào đám dứa dại. Từ điếm canh không đèn đóm hình như có tiếng khóc thút thít. Chẳng lẽ lại là ma. Hắn đi vòng từ dưới chân đê lên, dõi mắt quan sát. Không phải ma là một cặp trai gái đang ngồi bên nhau. Gã con trai đang thì thầm tán tỉnh điều gì đó còn cô gái cứ ngúng nguẩy thỉnh thoảng lại hất tay anh chàng ra khỏi ngực. Vận chợt nhớ đến bà Ba. Không được. Bỏ cô ta lúc này là mình có tội. Lão chánh tổng đánh cô ta chết mất. Nhưng không thể về ngay. Phải xem động tĩnh thế nào đã. Bây giờ nơi ẩn mình tốt nhất là rừng Hóp. Cánh rừng này từ xưa tới nay vốn bí hiểm lan truyền toàn những chuyện ma quỷ hiện hình, ít người dám vào trừ bọn đạo tặc. Hắn dự định tá túc ở đấy vài ngày, đến đêm vào làng tìm cách cứu Thị Lánh. Việc vào rừng đối với Vận không khó. Hắn là thổ công vùng này. Trong rừng nhiều chim cò trú ngụ, hắn có thể bắt cò nướng hoặc luộc trứng chim nếu không kiếm được món nào khác.

    Hai Doạc là một trong ba gã trai làng được chánh Đàm sai đi giết Lê Văn Vận, xong việc mỗi đứa sẽ được ba mươi đồng. Số tiền ấy chúng nằm mơ cả đời cũng không có được. Hai Doạc chơi thân với Thường Rỗ. Trong lúc chếnh choáng hơi men, hắn đã nửa kín nửa hở cho ông bạn bắt ếch biết tin này. Nghe xong Thường rỗ sợ quá bèn tìm cách báo cho Lê Văn Vận. Vận đã có ơn cứu mạng với hắn nên hắn không thể làm ngơ khi ân nhân mình bị chánh Đàm sát hại. Nhưng biết anh ta trốn ở đâu ? Vốn là dân thuyền chài, thạo nghề sông nước, có khi hắn đã giong thuyền xuống ngã ba Môi, chu du ngoài sông Cái thì có mà giời tìm. Thường Rỗ vội ra sông Lăng thấy con thuyền vẫn neo ở bến, biết chắc là Vận không đi theo đường thuỷ. Tự nhiên hắn nghĩ đến rừng Hóp. Chiều hôm ấy, Thường Rỗ giả làm người đánh chim vác lưới và lồng men theo bờ đầm Ma vào rừng. Hắn vốn là tay gan lỳ không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ. Có lần hắn vác chiếu ra ngủ ngoài bãi tha ma ngay cạnh ngôi mả mới của lão trương Khoái bị sét đánh ba đêm liền trong một vụ cá cược ăn tiền mà chẳng thấy các âm hồn hiện hình về bắt. Xong việc, tay Chút thọt phải giữ lời giao kèo trả hắn một đồng hai.

    Thường Rỗ treo đồ nghề lên một cành Hóp, tay cầm gậy vừa dò dẫm vừa khua ra phía trước. Hắn đã bị rắn cạp nia cắn một lần gần chết, bây giờ đi đâu cũng mang gậy theo kể cả ra đình làng. Tháng tư trời oi nồng nhưng trong rừng gần như không có ánh nắng. Ngoài những bụi tre hóp mọc chen chúc từ bao đời, cánh rừng còn khá nhiều cây cổ thụ vươn cao xoè tán rợp cả một vùng không gian rộng lớn. Những cây thấp hơn bị dây leo quấn chằng chịt tạo thành những cái vòm lý tưởng là nơi cư ngụ tuyệt vời của lũ cò lửa hoặc vạc sành sau một đêm thức trắng kiếm ăn bên cồn Vành hoặc đầm Ma. Một con sóc đuôi xù lên như chùm bông lau, cặp mắt giống hai hòn bi ve nhỏ xíu láo liêng nhìn cây gậy của Thường Rỗ. Hình như nó không thích có kẻ đột nhập vào lãnh địa của mình nên cứ ngúc ngoắc đầu kêu chin chít như chuột cắn nhau rồi lao vút lên cây kiền kiền có những cành đâm ngang giống hệt cành bứa. Trên chạc ba cây vàng canh, một con đa đa trống có bộ lông sặc sỡ như chim thiên đường cứ vươn cổ hót mãi một điệu "bắt cô trói cột" nghe ai oán như gã thất tình. Thứ giọng rền rĩ ấy lan truyền khắp rừng, ghé xuống cả đầm Ma, làm lũ liếu điếu, chào mào, sáo sậu đang kiếm sâu bọ cũng nghển đầu hoạ theo bằng đủ mọi cung bậc chẳng khác gì một dàn đại hợp xướng. Thường Rỗ vốn thích bẫy chim, nghe bản hoà tấu ầm ĩ của chúng, nhất là thứ giọng kim lĩnh xướng của chú bồ các mỏ dài lông đen tuyền như lông quạ đậu trên cành hóp, người hắn như bị thôi miên, quên mất việc đi tìm Lê Văn Vận. Chính vào lúc ấy, chàng rể họ Khúc xuất hiện sau khi đã nhìn thấy gã bắt ếch từ xa. Vận hỏi:
    - Làm sao biết được tôi ở đây ?

    Thường Rỗ bảo:
    - Tôi ra sông thấy cái thuyền vẫn còn nên đoán là cậu vào rừng. Cô ấy bị ông Chánh trói ở chuồng trâu đã hai ngày nay.
    - Liệu Lánh có làm sao không ?
    - Vì thể diện, chánh Đàm sẽ không đưa cô ấy ra cho làng xử phạt, nhưng nếu ông ấy cứ để như thế thêm vài ngày thì chết mất.
    - Anh bảo tôi phải làm thế nào bây giờ ?
    - Chánh Đàm đã sai bọn hai Doạc thủ tiêu cậu. - Thường Rỗ ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo - Tầm này chúng đang ở Ba Kèo. Đêm nay cậu nên về nhà đưa cô ấy ra. Tôi sẽ thăm dò hành tung của ông Chánh. Xong việc phải xuống thuyền đi ngay kẻo cả hai cùng mất mạng.

    Đêm hôm ấy không trăng. Trời lất phất mưa. Làng Cùa râm ran tiếng chó. Lũ chó sủa gần như phản ứng dây chuyền theo lệnh của con Đốm già có cái mõm dài như mõm cáo nằm ở thềm sau nhà chánh hội Hạp. Con này trụi sạch lông đuôi, đầu bạc phếch, bốn chân khẳng khiu như que củi nhưng khôn vào bậc nhất. Tuy nhiên, danh tiếng của nó hoàn toàn không phải vì tuổi tác. Nó là một "lão khuyển lạc mao"[3] thậm chí mắt đã hơi mờ khó có thể nhận biết những vật ở xa. Sức mạnh của con Đốm là ở tiếng sủa. Giữa đêm thanh vắng, đánh hơi thấy mùi lạ, nó bất ngờ tru lên giống tiếng sư tử gầm làm chính đồng loại của nó cũng sởn gai ốc. Có lần, một gã trộm vặt, chừng canh tư mò vào định khoắng mấy con gà nhép, vừa nghe con Đốm sủa đã thọt dái lên cổ, chạy quáng quàng bổ xuống ao, bị chủ nhà tóm sống. Muốn vào nhà họ Khúc hướng này phải vòng qua cổng chánh hội Hạp. Con Đốm nằm án ngữ trên cao khó có thể qua mặt nó. Thường Rỗ đã có kinh nghiệm vô hiệu hoá những tên lính gác thuộc loại này, bởi trước đây đã có thời hắn theo cả Đĩnh làm nghề ăn sương. Thường không muốn hạ thủ con chó già nên chỉ lấy miếng thịt tẩm thuốc mê quăng vào chái nhà. Mùi thịt nướng thơm phức khiến chú ta khịt khịt mũi quên mất nhiệm vụ cảnh giới. Chỉ ít phút sau nó nằm phục hai chân trước, miệng sàu bọt. Thuốc đã ngấm.

    Lê Văn Vận lên tường, men theo rệ ao, lẻn vào chuồng trâu. Lũ chó đánh hơi chủ vẫy đuôi mừng rối rít. Hắn ném cho chúng mấy miếng thịt để phòng bất trắc rồi mở gióng chuồng trâu tìm bà Ba. Thị Lánh bị trói vòng hai tay vào cột, người mềm nhũn như đã chết. Chàng ngư phủ dùng răng tháo dây thừng rồi ghé lưng xốc người tình chạy ra cổng. Hắn đang loay hoay mở chốt thì bất ngờ Khúc Đàm xuất hiện với ngọn mác lăm lăm trong tay. Lão cười gằn:
    - Tao đoán không sai, thế nào rồi mày cũng mò về đây.

    Vận biết thế nguy, sợ lắm. Hắn xoay người che cho bà Ba, lợi dụng bóng đêm định luồn qua phía bờ ao. Chánh Đàm quát khẽ:
    - Bỏ con đĩ xuống, nếu không cả hai đứa đều chết !

    Lê Văn Vận lấm lét nhìn trước nhìn sau tìm lối thoát nhưng lúc này họ Khúc đã cảnh giác đứng chắn ngang cổng. Hai bên gầm ghè nhìn nhau như loài thú dữ rình mồi. Lão Chánh không muốn đánh thức cả nhà vì chuyện nhục nhã này còn tay con rể muốn đưa Thị Lánh khỏi làng càng ít người biết càng tốt. Cuối cùng hắn chủ động bảo:
    - Ông Chánh .. . để cho chúng tôi đi.
    - Câm mồm ! - Chánh Đàm gằn giọng - Muốn sống mày phải bỏ con Lánh xuống.
    - Không bao giờ ! - Vận rít lên - Ông trói người ta thế này chỉ từ giờ đến mai là
    chết. Tôi xin ông...
    - Gớm nhỉ ! Quân phản chủ. Tao sẽ cho chúng mày được toại nguyện.

    Khúc Đàm nói chưa hết câu đã phóng ngọn mác vào ngực Lê Văn Vận. Hắn né mình. Cũng may, trời tối, mũi mác chỉ chạm vào cánh tay làm toạc một mảnh da. Hắn lùi vào gốc cây bưởi đặt bà Ba đang còn ngất xỉu xuống đất rồi quờ tay vớ được đoạn tre làm cán cuốc vung lên đỡ ngọn mác. Lúc này chánh Đàm nổi cơn điên. Lão cầm chắc vũ khí bằng tay phải định kết thúc số phận người đàn bà trước rồi sẽ tính sổ với thằng con rể láo lếu. Mũi mác chưa kịp chạm vào Thị Lánh, Khúc Đàm đã bị cây gậy tre đực choảng một nhát vào đầu. Thân hình cao lớn hơi gù của lão đổ xuống như cây chuối bị phạt ngang gốc. Nhờ Thường Rỗ giúp, Vận đưa được bà Ba ra khỏi nhà chánh tổng. Dàn đồng ca của các loại chó trong làng vẫn vang lên bất tận. Nhưng đấy là những tiếng sủa cầm canh báo sự bình yên đã thành thói quen ru giấc ngủ của dân làng Cùa, chẳng ai nghĩ có chuyện khác thường. Ra đến bờ sông, khi hai người đã dìu bà Ba xuống thuyền, Thường Rỗ bảo:
    - Thôi chúc cậu ra đi chân cứng đá mềm.

    Vận lưu luyến nắm tay chàng bắt ếch:
    - Thật không biết lấy gì cảm ơn anh.

    Thường Rỗ giục:
    - Có thể ông Chánh đã chết. Chuyện án mạng này lớn đấy. Đừng bao giờ về làng nếu thời thế chưa thay đổi.

    Vận buông mái chèo khoát nước. Con thuyền nhỏ bé lẫn vào bóng đêm. bà Ba nằm trong khoang vẫn bất tỉnh. Từ một xóm nào đó ven sông có tiếng gà gáy. Đêm đã chuyển canh. Trời bỗng đổ mưa. Màn đêm tối đen. Thỉnh thoảng một con chim lợn bay ngang sông. Tiếng kêu của nó bao giờ cũng báo điềm chẳng lành nghe rợn người. Trên những bụi chuối hoang ven sông, lũ côn trùng rỉ rả ca mãi một điệp khúc buồn thảm lúc nhặt lúc khoan bằng thứ giọng ngái ngủ. Lũ giang chân dài như cà kheo lội bì bõm ngoài bãi sục cá. Xa hơn một chút lũ cò vạc nháo nhác tranh mồi. Chúng cãi nhau bằng thứ thổ ngữ quen thuộc vùng đồng chiêm trũng, nghe gần giống tiếng đàn tranh bị chùng dây hoặc tiếng khen bè của người Mèo có vài ba ống bị dập. ầm ĩ hơn cả là lũ ếch nhái, ễnh ương, chẳng chuộc. Chúng đều ngắn cổ nhưng to họng. Con nào cũng ngoác cái miệng rộng đến mang tai thi nhau gào lên hợp thành bản đồng ca ộp oạp bất tận. Con thuyền của chàng ngư phủ lầm lũi trôi đi trong màn mưa mỗi lúc một dày.

    (còn tiếp)

  3. #3
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 3

    1. Sáng ngày thứ hai thuyền đến ngã ba Tam Giang. Vận sợ có người truy đuổi cứ mải miết chèo, không dám ghé bờ. Đêm hôm ấy hắn dạt vào một cánh bãi bẻ trộm ngô non cho bà Ba luộc. Thị Lánh lúc này đã đi lại được nhưng vẫn còn yếu bởi những vết đòn thâm tím khắp người. ánh lửa yếu ớt hắt ra từ khoang thuyền, nhìn từ xa nhập nhoè như ma trơi. Từ đây đến kẻ Lủ chỉ già nửa ngày đường. Về kẻ Lủ rồi sẽ tính chuyện làm ăn. Hắn đem ý định của mình bàn với bà Ba. Cô ta vừa nghe đã giãy nảy:

    - Không được đâu. Dân Ba Tổng có nhiều người đi chợ kẻ Lủ. Họ mà bắt gặp thì nguy. Theo tôi, ta nên theo sông Cổ Cháy lên mạn Bắc kiếm kế sinh nhai có khi lại hơn.

    Bắt đầu từ hôm ấy, Vận chèo thuyền ngược sông Cổ Cháy. Vừa đi vừa thả lưới kiếm cá. Gần nửa tháng hai người mới lên được trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông nằm trên một mỏm núi cách bến Phù Lao không xa. Từ dưới sông có thể thấy mỏm núi giống cái đầu con chó đá cụt tai mọc toàn giống trám trắng cao ngất nghểu với những cành ngang thẳng đuột đâm tua tủa ra tứ phía. Tầng dưới thấp hơn, chen chúc đủ loại đinh chi, vàng tâm, thị mực bị dây leo quấn chằng chịt vận thành những bó lớn như những cuộn chão khổng lồ. Trên sườn dốc chênh vênh, lũ dê đen râu xồm sừng cong thong thả gặm cỏ. Mấy chú dê non ngứa sừng nghênh đầu húc nhau phớt lờ những tiếng be be như là tín hiệu cảnh báo của mẹ. Một cặp sơn tước màu xám đá nhảy tanh tách trên cành cây hoàng đàn. Chúng song ca một điệp khúc nghe khá lạ tai, thỉnh thoảng lặng di một lúc rồi bất chợt vút lên cao, véo von như tiếng sáo trúc. Từ đâu đó mãi tận dãy Ngân Sơn xa mờ bàng bạc khói sương, đàn cò ruồi như những chấm đen lao về hướng mặt trời. Qua đỉnh Chó Sói chúng hạ dần độ cao, lần lượt bay ngang sông theo hình mũi tên. Cặp cánh của chúng mềm mại, nhịp nhàng vờn trên mặt nước như đôi tay vũ nữ múa điệu "Tản hoa" rồi hạ xuống đồng vàn ngập nước mọc toàn cỏ ba cạnh giống như cây cói trổ hoa vàng, bắt đầu một ngày kiếm ăn. Nhìn những cánh cò chao lượn trên bầu trời tự do, Vận bất giác nghĩ đến cảnh ngộ của mình. Hắn bảo bà Ba:

    - Hay là ta cắm thuyền lên cái trại kia kiếm ít gạo nấu cơm ?

    Bà Ba gật đầu. Hai người lần theo từng bậc đá thoai thoải, vừa đi vừa nghỉ vì bà Ba còn mệt. Chừng nửa giờ thì gặp ngôi nhà đầu tiên. Chủ nhà là một lão già râu xồm, thọt chân, tập tễnh trên đôi nạng gỗ. Vừa nhìn thấy vị khách không mời thập thò trước cổng, lão đã nâng khẩu súng nòng dài ngoẵng trông như một đoạn ống sắt gỉ chĩa vào hắn đuổi như đuổi tà:

    - Cút ngay ! Nhà anh mà tiến thêm bước nữa là ta bắn.
    Vận hoảng, lấm lét nhìn chủ nhà xua tay:
    - Kìa bác ! Chúng tôi là dân chài muốn lên mua gạo.
    - Quân trộm cướp chết tiệt ! - Lão già vẫn án ngữ trước cửa, dựa lưng vào cây cột hiên, mắt long sòng sọc như mắt chó dại, giọng kèn kẹt chẳng khác gì bản lề cửa lâu ngày không tra dầu - Chính chúng mày đã vu cho con tao là Cộng sản rồi ném nó xuống thác Bời Lời. Con ơi là con!
    - Thưa bác !
    - Đồ mặt dày ! Tao thì ...

    Những tiếng cuối cùng chưa thoát ra khỏi cổ họng thì lão già khuỵu xuống chẳng hiểu vì cái chân thọt hay là mới có nửa chiều đã bị thần Lưu Linh nhập vào lục phủ ngũ tạng. Mà cũng có thể do cả hai. Khẩu súng cổ lỗ sĩ lăn lông lốc xuống sườn núi. Lê Văn Vận đỡ lão đứng dậy dìu lên dốc. Bà Ba đi sau cầm khẩu súng chống xuống đất như một cây gậy. Lão già vẫn làu bàu chửi, nhưng lần này đối tượng là một tên quan châu nào đó. Tiếng chửi giống như người điên khóc nghe vừa ai oán vừa buồn cười. Chẳng mấy chốc ba người lên đến cái nơi mà dân hai bên mom sông gọi là trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông là nơi cư trú của vài chục gia đình làm nghề khai thác gỗ và cốn bè thuê từ mấy chục năm nay. Cư dân ở đây là người tứ chiếng từ khắp các xứ đông đoài, thậm chí còn có cả bọn tội đồ bị lưu đày hoặc tù cấm cố vượt ngục nên thành phần rất phức tạp. Phần lớn trong số họ là những kẻ có bản lĩnh giỏi quyền thuật, trọng nghĩa khinh tài, giữa đường thấy sự bất bình là ra tay cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ ác.

    Lão già họ Lương, gốc gác tại phủ Thiên Trường, Nam Định, lưu lạc từ nhỏ, đến năm ba mươi hai tuổi thì gia nhập phường Sơn Tràng. Dân sơn tràng, nửa năm trên rừng, ba tháng lênh đênh sông nước, cuộc sống phóng khoáng như chim trời, thích tự do và liều lĩnh vào bậc nhất trong giới giang hồ. Những đêm trăng thượng huyền, cánh phu bè nằm trên sạp nứa ngắm bầu trời sao lung linh lẫn giữa những đám mây hình vẩy cá lang thang. Chúng di chuyển rất chậm, gần như trôi song song cùng chiếc bè gỗ. Mặt sông loang loáng ánh trăng xanh, tươi rói, mơ màng. Trăng lẫn vào sóng nước lăn tăn, bị pha loãng trở thành thứ màu bàng bạc, lạnh lẽo trông giống một lớp bọt xốp nổi lềnh bềnh. Rồi bất chợt từ đâu đó, những ngọn gió đẫm hơi sương vượt qua triền đê mơn man trên mặt nước sóng sánh. Gió nhẹ đến mức chỉ đủ dậy lên những tiếng lao xao nhưng dư âm của nó lại đi rất xa, rất vang. Những khoảnh khắc như thế chiếc bè là một thế giới riêng. Dường như nó không còn hiện diện như một thực thể hữu hình. Nó là ảo ảnh, là ý niệm, là sự hoang tưởng trong cõi hư vô mà tất cả những thứ ta nhìn thấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.

    Cánh phu bè - một nửa cư dân trại Bồ Nông- dọc ngang khắp các triền sông cùng với những chiếc bè gỗ vượt qua không biết bao nhiêu ghềnh thác. Có nhưng năm động trời, cứ qua một thác dữ, phường Sơn tràng lại mất một nhân mạng. Những kẻ xấu số phải vài ngày mới tìm thấy. Nghề chống bè là nghề mạt hạng nhất trong các nghề hạ đẳng bị người đời coi rẻ. Cùng cực lắm người ta mới phải làm nhưng đã làm rồi thì không thể bỏ được, phần nhiều đeo đẳng đến lúc thân tàn ma dại như lão Lương Đoàn kia.

    Lương Đoàn được ông trùm phường thu nhận sau trận kịch chiến với một gã phu bè ở bến Đoan. Tay này đã từng học trường quyền với thầy họ Nhữ Đặng Xá. Hôm ấy Lương Đoàn bẫy cò ở mấy cánh ruộng ngoài bãi sông. Chiếc bè của ông Cả Tuân đã neo ở đấy từ hai hôm trước đợi con nước ròng. Trần Lượng tắt qua cánh bãi lên chợ Bía mua gạo, gặp mấy con cò dính bẫy, hắn gỡ sợi dây thòng lọng ở chân ra rồi thả cho nó tự do. Lúc ấy, Lương Đoàn đang ẩn trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh mãi cuối rộc nước, nhìn thấy, chẳng nói chẳng rằng, chạy phăm phăm đón đầu tên phá đám, nện luôn. Cuộc ẩu đả xảy ra được một lúc mọi người mới báo cho ông chủ bè. Tuy võ nghệ không đến nỗi nào nhưng Trần Lượng vẫn bị Lương Đoàn dùng mấy đường quyền của lò Vịnh Xuân nện cho một trận nhớ đời. Khi anh em lôi Trần Lượng từ dưới đầm lên, người hắn lấm bê bết, đầu tóc ướt sũng còn mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Thấy đồng bọn bị nạn cánh phu bè ức lắm định xông vào chàng bẫy cò ra đòn hội chợ nhưng ông trùm giơ tay ngăn lại.

    - Anh Lượng vô cớ thả cò của người ta bị đánh là đáng lắm. Các người ỷ thế đông định để lại tiếng xấu cho phường hạ bạc à ?
    - Thưa ông trùm ! - Trần Lượng vẫn còn ấm ức, nói ,- nhưng mà thằng này nó đánh toàn đòn hiểm.
    - Vậy hả ? - Ông trùm gật gật đầu - Quỳ xuống xin lỗi người ta ngay nếu không ta sẽ đưa anh ra khỏi phường.

    Sau trận đụng độ ấy, Cả Tuân thu nhận Lương Đoàn. Từ đấy hắn bỏ nghề chim cò, xuống bè theo phường Sơn Tràng. ít lâu sau, ông trùm phường gả con gái cho Lương Đoàn. Chẳng mấy chốc hắn trở thành phụ tá đắc lực cho ông bố vợ vốn là một đại ca khét tiếng của giới giang hồ. Sau khi nhạc phụ qua đời, lương Đoàn nối nghiệp cai quản mấy chục anh em trong phường. Lương Đoàn có một con trai là Lương Doanh. Doanh cũng theo nghề sơn tràng rồi gia nhập một tổ chức bí mật chống Pháp do ông Phan Phi là đảng viên Cộng sản làm thủ lĩnh. Tổ chức này dần dần lan rộng ra nhiều nơi. Họ vận động nông dân chống sưu cao thuế nặng. Thợ thuyền đòi tăng lương, giảm giờ làm thông qua những cuộc biểu tình, bãi công, bãi thị làm cho Nhà nước bảo hộ và chính phủ Nam triều khá đau đầu. Nhóm cách mạng của Lương Doanh hoạt động được hai năm thì bọn chỉ điểm của viên tuần phủ phát hiện. Bị truy đuổi, Lương Doanh rút lực lượng về bến Đoan. Một trung đội Âu Phi dưới sự chỉ huy của viên quan hai người Pháp ngược sông Ba Gia bằng chiếc tàu chiến Đuy mông xanh có cả súng liên thanh mục đích tiêu diệt bằng được những kẻ phiến loạn. Một đêm Lương Doanh cùng mấy thanh niên quần áo rách rưới, đầu tóc bù xù như tổ bồ các, da tái nhợt như người sốt rét rừng mò về trại Bồ Nông. Lương Đoàn từ lâu đã bất đồng ý kiến với con về chủ trương đánh Pháp nên ông ta dứt khoát không cho ở lại.

    - Ở đây không có chỗ tuyên truyền Cách mạng. Mày định đem tính mạng của mấy chục gia đình đổi lấy chút hư vinh phải không ? Muốn lên trại Bồ Nông trước hết phải bước qua xác tao.

    Lương Doanh thế cùng lực kiệt đành đem các chiến hữu xuống thuyền độc mộc ngược thác Bời Lời định tìm đường về Mai Châu. Chẳng ngờ, lão tuần phủ cho hai cơ lính khố xanh đón lõng ở dốc Mật Sơn. Lương Doanh bị cai cơ Trương Phổng bắt giải về châu lỵ Hoà Bình. Ba hôm sau, tri châu Vi Văn Sầm sai người trói anh ta lại thả xuống thác Bời Lời. Thác Bời Lời cao hơn trăm thước lao thẳng xuống qua những ghềnh đá lởm chởm nhảy chồm chồm như ngựa vía, chẻ dòng nước thành hàng triệu sợi nhỏ li ti lấp loá giống hệt thứ pha lê trắng được phủ lớp sương mù. Cái xác bị biến dạng đến mức, nếu không biết chắc cuộc hành hình thì chẳng một ai có thể nhận ra nạn nhân là con trai ông trùm phường sơn tràng. Lương Doanh chết rồi Lương Đoàn vô cùng ân hận. Ông ta gần như phát điên, bỏ trại Bồ Nông đi mảng ngược sông đến thác Bồi Lời tìm con. Một lần Lương Đoàn sảy chân ngã xuống vực bị gãy xương đùi từ đó lúc nào cũng ngây ngây dại dại như kẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt. Ngày ngày ông ta uống rượu say khướt rồi xách khẩu súng han gỉ đứng chắn lưng chừng dốc, gặp người lạ là giương súng doạ dù rằng đó là thứ hoả khí vô tích sự, thậm chí cái khoá nòng cũng đã mất từ lâu mà không biết.

    Trại Bồ Nông ái ngại cho tình cảnh của Lương Đoàn, họ cử một ông già người Khách quê Vân Nam làm trùm trưởng. Trùm trưởng Lục Kiến cũng là một tay cự phách trong làng võ thuật. Trước khi đến trại Bồ Nông, Lục Kiến giống như một hiệp khách giang hồ, không vợ con với ngón độc chiêu là bảy thế võ truyền đời rất hiểm. Đó là một thứ nhu đạo vô cùng lợi hại có nguồn gốc từ Nhật Bản mà tổ phụ của ông ta học được của một khách thương Tân Gia Ba. Biết được hoàn cảnh của Lê Văn Vận, Lục Kiến chấp nhận cho hai người ở lại trại Bồ Nông. Từ đó, chàng ngư phủ gia nhập phường Sơn tràng. Nhìn tướng mạo Lê Văn Vận, Lục Kiến bảo:

    - Số anh sau này tất làm nên nhưng yểu mệnh, phải chú ý giữ gìn thì may mới qua được tuổi tứ tuần.

    Trại Bồ Nông từ dịp tháng Sáu tháng Bẩy cho đến giáp Tết Nguyên Đán còn lại toàn đàn bà trẻ con. Mùa khô các ngọn nguồn sông suối đều cạn nước, tre gỗ xếp đống không mang ra được, chủ hàng lo thắt ruột nhưng dân chống bè vẫn bình chân như vại. Họ không mất vốn mà chỉ mất công. Một chiếc bè dài hàng trăm thước, toàn gỗ quý, qua hành trình dài dằng dặc lên thác xuống ghềnh không có tay chèo lão luyện, thông thạo luồng lạch thì mất sạch cơ nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Có điều phu bè là một tập hợp bát nháo, vô học và cả vô giáo dục, luôn ứng xử với nhau bằng cơ bắp nên những kẻ yếu thường bị lép vế. Vận biết rõ điều ấy nên hắn ra sức khổ luyện các thế nhu đạo mà Lục Kiến thỉnh thoảng dạy cho. Chuyến lên rừng đầu tiên bà Ba đòi đi theo. Ông trùm người Vân Nam bảo:

    - Ở đây thỉnh thoảng cũng có tàn pà làm nghề sơn tràng nhưng vất vảt ấy.

    Bà Ba thích lắm hỏi:

    - Cháu có thể học võ được không ?

    Lục Kiến lắc đầu:
    - Cái nghề tấm tá không phải là của phụ nữ, từng pao giờ hỏi ngộ việc ấy.

    Phường Sơn Tràng khăn gói trên vai bắt đầu chặng hành trình đầy khổ ải. Cuộc lên ngàn của đám người tha hương trong màn mưa ngâu dai dẳng có cái gì bi tráng như là cảnh những chinh phu ngày xưa lên vùng biên ải trấn thủ lưu đồn. Họ vạch lá, cắt rừng, tìm đường mòn. Người đã quen với nghề rừng đi tiên phong dùng dao quắm phạt cành cây. Một lối mòn hiện ra lờ mờ. Những bàn chân trần nối nhau bước lép nhép. Thỉnh thoảng một người trượt chân ngã, áo quần dính bê bết thứ bùn dẻo quánh ngai ngái mùi lá mục. Những con vắt nâu ngóc cổ lên như hàng tiêu binh, thẳng tắp, chỉ cái đầu bé xíu là khẽ ngó ngoáy. Khi bàn chân đầu tiên xuất hiện, dường như có một thứ hiệu lệnh bí mật nào đó, lũ khát máu người này nhất loạt phóng tới cắm cái vòi mềm nhũn vào lớp da đã bợt bạt vì bùn nước của khổ chủ mà hút lấy hút để. Chúng cắn êm không hề gây cảm giác đau đớn cho đến khi no nê, bụng phình bằng ngón tay mới rời ra. Nhưng kinh nhất vẫn là thứ vắt xanh cư ngụ trên cành cây. Lũ này có khả năng uốn mình búng xa vài thước nếu ngửi thấy mồ hôi người. Chúng cắn nhói một cái, rất đau nên bị phát hiện ngay, vết thương lâu cầm máu nếu không có thứ lá pạc nhì giống lá cây móc rừng dán vào. Sang đến ngày thứ hai ,Thị Lánh đã mệt lắm, hai bắp chân mỏi nhừ, bàn chân bị vắt chích, chỗ nào cũng rỉ máu. Máu trộn lẫn với bùn nâu nhão nhoét tạo thành một thứ màu đỏ sẫm giống như nước quết trầu. Một con vắt nâu vẫn còn đói bám lủng lẳng nơi khoeo chân. Bà Ba vừa thò tay dứt được con vật gớm ghiếc ấy ra bỗng rú lên ngã ngồi xệp xuống, một bàn chân gập lại bị trẹo. Lê Văn Vận vội đỡ dậy nhưng cô ta vẫn rên khe khẽ, người giật nảy như là lên cơn động kinh. Thì ra một con vắt chui vào bẹn qua lỗ thủng ống quần. Trong hoàn cảnh dở khóc dở cười này, chàng ngư phủ chẳng biết làm thế nào, đành luồn tay ngược từ phía dưới lên háng người thiếu phụ. Con vắt quái ác bám nhằng nhẵng vào chỗ nhạy cảm nhất trong cơ thể bà Ba. Tất nhiên không thể để tình trạng bi hài này kéo dài, Vận khó khăn lắm mới gỡ được con vật mềm nhũn , dai như đỉa, giải thoát cho người tình. Tiện tay hắn bóp nhẹ giữa bụng con vắt, một tia máu phọt ra, chẳng khác gì thứ tiết gà ốm mà người ta cắt vội.

    Sau cú ngã của bà Ba, Lê Văn Vận phải quàng hai tay nải, dìu cô ta thập thững theo anh em trong phường. Một gã rậm râu mặt như khỉ, cặp tai rất to, trông giống loại ốc biển vẫn dùng làm tù và nửa đùa nửa thật:
    - Nếu đằng ấy cho mượn một tối tớ sẽ tình nguyện cõng người đẹp đến tận Phiềng Soi.
    Thấy Vận im lặng, Quản Thực, một tay đầu trộm đuôi cướp đã từng hành nghề mấy năm ở kẻ Sòng, nhăn nhở cười:
    - Bằng lòng đi, có mất gì đâu, cuối cùng cô ấy vẫn là vợ cậu mà lại được lợi.
    Lúc ấy Vận từ tốn bảo:
    - Tôi gặp đường cùng, may ông trùm cho nhập phường kiếm miếng cơm, nếu các bác không có lượng bao dung chúng tôi đành đi nơi khác vậy.

    Nói rồi hắn dìu bà Ba quay lại. Có người báo với Lục Kiến. Ông ta lập tức túm ngực Quản Thực cho hai cái bạt tai, xỉa bàn tay cứng như thép vào sườn tên rậm râu:
    - Ngộ cấm các người dở trò trêu ghẹo chị em trong phường à! Piết chưa ?
    Rừng ướt sũng nước. Đường mòn vắt qua sườn dốc chênh vênh hẹp đến nỗi chỉ sẩy nửa bàn chân là rơi xuống vực. Ba bề bốn bên là đại ngàn mênh mông cao chót vót. Những cây cổ thụ tán lá rậm rạp chen lấn với các loại lim, lát hoa, sao dầu, gụ ... vốn là thảm thực vật nguyên sinh tầng tầng lớp lớp nối nhau thành hình khối dày đặc, mông lung, bí hiểm. Mưa tháng bảy làm cho rừng nhợt nhạt, nặng nề và buồn chán. Mấy chú chích choè lông dính bết lại lười nhác đậu trên cành cây sao, nhìn thấy đám lữ hành nhếch nhác luồn phía dưới với những bước uể oải, nặng nề liền cất giọng ai oán hót những tiếng buồn thảm như là phần vĩ thanh của một khúc nhạc tang. Thấp hơn một chút là lũ vượn đen ngồi vắt vẻo trên ngọn cây gió xanh. Bọn này đang khốn khổ vì trời ẩm ướt nên hễ có thì giờ rảnh rỗi không phải kiếm ăn là chải lông bắt bọ chét cho nhau. Một con vượn đực có vẻ là đầu đàn đang nhằn quả chuối chín vàng. Quả chuối toàn là hạt làm nó bực mình vừa ăn vừa nhổ phì phì vào lũ vượn cái. Ngay dưới thung lũng là rừng chuối trải dài, xanh đến vô cùng. Chính những cây chuối cao đến vài chục thước ấy, hàng năm đã sinh ra ngàn vạn quả mập mạp, vàng ươm, thơm phức nhưng vô tích sự bởi toàn hạt là hạt, đến mức khỉ vượn còn nhăn mặt mỗi khi nếm thử. Những hạt mưa li ti bị gió đẩy nhẹ, rơi xiên trông chẳng khác gì những sợi tơ mỏng manh như tơ nhện dệt ngang dọc tạo thành tấm màn nước xanh khổng lồ treo lơ lửng giữa bầu trời u ám.

    Đêm đầu tiên đoàn lữ hành nghỉ tạm trong một ngôi nhà sàn còn sót lại của bản người Mường. Chủ nhân có lẽ đã làm cuộc thiên di đến vùng đất mới từ lâu nên quang cảnh rất tiêu điều. Sàn nhà bằng tre bương đập dập mục nát, gẫy từng đoạn. Sau một ngày mệt mỏi, ăn xong, mọi người lăn ra ngủ mê mệt. Vận nằm cạnh bà Ba chắn giữa những người khác. Chừng quá nửa đêm, bà Ba vừa chợp mắt được một lúc vì chân vẫn còn đau tự nhiên có cảm giác buồn buồn trên bụng. Cô ta định trở mình quay mặt về phía Vận nhưng không được bởi một thân hình nặng nề đang trườn lên người trong khi chiếc quần đi rừng đã bị kéo xuống tận bẹn lúc nào không biết. Phải khó khăn lắm Thị Lánh mới kêu lên được một tiếng. Cùng lúc Vận tỉnh giấc biết ngay chuyện gì xảy ra. Hắn ngồi dậy dùng thế võ mới học được của Lục Kiến thoi một quả khá mạnh vào hướng mà hắn nghi là gã rậm râu đang giở trò đểu cáng. Cú ra đòn khá lợi hại. Chỉ nghe đến hự một cái, tên ma cô bật khỏi sàn rơi xuống đất kèm theo những tiếng răng rắc của đoạn tre gẫy. Phía bên kia Lục Kiến thức giấc làu bàu:

    - Tứa nào mê ngủ ngã xuống gầm sàn à ?

    Không có tiếng trả lời. Gần như tức thời ông trùm phường lại ngáy pho pho. Cánh sơn tràng sau một ngày ngược dốc mệt nhọc, ngủ như chết chẳng cần biết chuyện gì đã xảy ra. Gã râu rậm rón rén bò lên cầu thang chen vào nằm cạnh Quản Thực. Từ lúc ấy, Vận cảnh giác lúc nào cũng ôm lưng bà Ba, luồn tay vào ngực giữ chặt hai bầu vú nóng hổi. Nhưng cũng chính vì thế hắn không ngủ được. Hắn thấy hối hận vì đã mang người tình tới một nơi xa lạ hoàn toàn không có gì đảm bảo cho tương lai dù là tương lai gần. Rằng cái lũ người mà hắn đi theo chỉ là một bọn táp nham sống ngoài vòng pháp luật. Chúng sẵn sàng nhảy vào cắn xé nhau có khi chỉ vì những nguyên nhân rất vớ vẩn. Một ý nghĩ thoáng qua: "Hay là cùng với Lánh bỏ quách nơi này quay lại trại Bồ Nông trước khi trời sáng ?". Nhưng rồi chàng ngư phủ lại tự nhủ : "Quay lại thì sống như thế nào, làm gì khi bản thân mang án giết người đang bị quan nha truy nã ? Thôi, chót đâm lao thì phải theo lao. Đành vậy."

    Trời vẫn mưa như rây bột. Hành trình của ngày hôm sau còn khổ hơn nhiều. Bởi vì họ còn phải xuyên qua rừng Tủa Chang bạt ngàn là nứa. Những vệt đường mòn lầy lội còn hằn rõ dấu chân thú kiếm ăn đêm. Thỉnh thoảng có tiếng sột soạt từ bụi cây nào đó. Một con gà sặc sỡ, lông đuôi vổng lên như đuôi công bay từ cây vân sam xuống gò đất mọc thứ hoa mẫu đơn dại đỏ tím như mào của nó. Dưới chân gò, mấy con mái tơ lông xám bạc đang cục cục tìm mồi. Trần Phí, một gã trai người Tày có khuôn mặt ốm đói, đi trước dùng dao phát rừng mở đường. Do bất cẩn anh ta bị cật nứa cứa vào tay, sâu đến tận xương, máu toé ra thấm ướt đẫm chiếc khăn bông xơ. Trần Phí đau quá, mặt tái mét, tay phải bóp chặt vết thương rên rỉ. Lê Văn Vận vội vạch lối rẽ cây tìm vào một khe nước. ít phút sau, hắn nhai dập mấy thứ lá hái được với vài hạt muối đắp vào ngón tay anh chàng ốm đói. Vết đứt toang hoác, chạy dài trông lạnh cả gáy. Chừng mấy phút, máu ngừng chảy nhưng Trần Phí thì bắt đầu lên cơn sốt.

    Phải đến ngày thứ bẩy, phường Bồ Nông mới đến được ngọn nguồn Phiềng Soi là điểm khai thác gỗ của những người sơn tràng. Đối với phường Bồ Nông, nghề sơn tràng và nghề chống bè không khác nhau là mấy, cho dù từ xưa đến nay thiên hạ vẫn coi đó là hai lĩnh vực hoàn toàn độc lập. Cũng như những chú Khách đồng hương vùng Đại Lý khác, Lục Kiến chưa bao giờ để cho cái đầu hói của mình bị chi phối bởi khái niệm "chuyên môn hoá" của mấy gã Pháp Lan Tây mắt xanh mũi lõ. Đã không ít lần ông trùm phường nhận bao thầu trọn gói từ các chủ hàng có máu mặt, chẳng phải chỉ chặt gỗ cốn bè mà còn làm luôn cả công đoạn vận chuyển về xuôi qua những hành trình vượt thác mà nếu chỉ sơ sẩy chút ít là vỡ bè, chết người.

    Rừng Phiềng Soi nằm cạnh con đường mòn chạy song song với suối Đá Đen. ở khoảng giữa con đường và thung lũng Nậm Cắn là bản Tả Pay của người Thái thuộc tổng Bình An. Dải rừng nguyên sinh bắt đầu từ ngã ba suối Đá Đen kéo dài đến chân đèo Váng bạt ngàn là lim xanh hai ba người ôm. Những cây lát hoa cổ thụ vỏ nâu sẫm, xù xì nằm chênh vênh bên sườn dốc. Loại gỗ tứ thiết gần nguồn nước như thế phần lớn đã có chủ.

    Phường Sơn Tràng hoặc dân cốn bè trước sau cũng chỉ là những kẻ làm thuê. Người thuê họ ở mãi Kẻ Chợ hoặc các quan lại trong chính phủ Nam triều cậy thế lắm bạc nhiều tiền, đứng trên cả pháp luật, coi thường sinh mạng của đám dân đen. Có những bận, bọn Tây kiểm lâm lên rừng đón lõng ở Bãi Sang, thế là cả thầy lẫn tớ phải cuốn gói, bỏ của chạy lấy người và nếu không nhanh chân còn bị tống vào nhà lao kèm theo khoản phạt vạ không dưới hai trăm đồng Đông Dương.

    Dịp ấy, sau khi cánh thợ hạ xong hàng chục cây gỗ lim to như cột tam quan trên dải rừng Mụ Bà, Lục Kiến cho anh em nghỉ một ngày săn bắn. Lão Cầu thọt và bà Ba vừa trông lán vừa nấu cơm. Quản Thực bị sốt rét nằm rên hừ hừ. Phường Sơn Tràng có hai khẩu Mút, ba khẩu Anhđôsinoa và mấy khẩu súng kíp bắn đạn ghém mua được của dân bản. Ngoài ra mỗi người còn được trang bị một ngọn mác hoặc dao quắm để phòng bất trắc. Lần này họ vào thung lũng Pò Mày tìm lợn rừng. Cách đây mấy hôm Trần Phí phát hiện một đàn chừng bẩy tám con, cứ tầm mặt trời gác ngọn Chiềng Băng lại rủ nhau lội qua suối đá Đen, sang phá nương sắn của bản Tả Pay. Rừng Phiềng Soi sau tháng mưa ngâu xanh biếc lộc non, ríu ran tiếng hót của đủ các loại chim. Trên vòm cao như chiếc lọng khổng lồ của cây đinh hương, một con khướu bạc má chỉ bằng nắm tay mà giọng oang oang như tiếng kèn xắc xô phôn được hệ thống tăng âm khuyếch đại. Mấy chú khỉ mặt choắt, lông sẫm, cặp mắt đen láy và linh động như hai hòn bi ve, nhìn thấy người chẳng biết sợ là gì, vẫn mải miết chơi trò đánh đu, thỉnh thoảng lại trêu nhau kêu khèng khẹc. Đi săn mà gặp phải buổi rừng ồn ào như cái chợ thế này thì thợ săn về tay không là cái chắc. Lục Kiến lẩm bẩm rồi cúi xuống nhặt hòn đá ném con khướu lắm mồm. Phía bên này, gã rậm râu có cái tên rất chướng tai là Ngô Nghệ Toánh, thường gọi Toánh xồm và cu Sún, con trai Lâm Quang Tào, chết mất xác trong chuyến vỡ bè ở thác Khôn năm Mão, đang lần theo dấu chân đàn lợn. Vết chân còn mới nhưng ra đến bờ suối lại mất hút. Hắn ngồi bệt xuống tảng đá sát mép nước vừa càu nhàu vừa gỡ những con vắt bám ở bắp chân:

    - Lũ lợn chết tiệt, chẳng lẽ chúng có phép tàng hình mà biến sạch không để lại dấu vết.

    Cu Sún giục:
    - Hay là ta về. Trời cũng sắp tối rồi bác ạ.
    - Về là thế nào. - Toánh hậm hực bảo - Bọn này thường kiếm ăn từ lúc nhập nhoạng. Mày bảo các ông ấy chịu khó ở lại, đêm nay thế nào cũng tóm được một con.
    - Nhưng cháu đói lắm rồi.
    - Từ chiều đến giờ tao cũng đã ăn gì đâu. - Toánh gườm gườm nhìn thằng bé - Cố chịu một lúc nữa nếu không thấy động tĩnh gì thì ta về. Chả biết hôm nay là ngày gì mà xúi quẩy thế.

    Lê Văn Vận xách khẩu súng kíp nòng dài dáng vẻ vừa đói vừa uể oải bước đến. Toánh xồm đánh mắt liếc hắn một thoáng rồi hỏi:
    - Có thấy gì không ?
    - Không. Tôi nghĩ anh Phí nhầm.
    - Không thể có chuyện nhầm lẫn ở đây được. - Nghệ Toánh khẳng định - Trần Phí là người Tày rất có kinh nghiệm trong việc phân biệt dấu chân các loại thú rừng.
    - Vậy thì cho thằng Sún về trước. Tôi thấy nó có vẻ mệt quá rồi.
    - Cũng được nhưng bảo nó rẽ qua chỗ Trần Phí bảo hắn không đón lõng ở khe Bầu mà về đây ngay.

    Trời lắc rắc vài hạt mưa. Gió lặng và rừng đột nhiên trở lại yên ắng. Cu Sún vừa quay đi được vài bước thì nó xuất hiện. Đó là một con lợn độc cao lớn đen trùi trũi với hai chiếc nanh dài trắng nhởn thò ra khỏi mồm từ trên sườn dốc lao xuống làm đám cây mỏ vẹt và những cành gai ba tiêu đổ rào rào như bị lở đất. Lập tức ba người tản ra dựa vào các gốc cây hướng nòng súng dõi theo con thú. Chưa bao giờ họ nhìn thấy con lợn to và dữ dằn như thế. Trong bụng anh nào cũng hoảng, nhất là Lê Văn Vận. Dưới ánh trăng non, chốc chốc lại bị những cồn mây xám với đủ mọi hình thù kỳ dị, lười nhác trôi ngang, thành ra đêm thượng tuần đáng lẽ lung linh huyền ảo thì lại tối mò như chốn âm cung. Con thú bước hùng hục, cái mũi khịt khịt đánh hơi rồi lần ra bờ suối. Nó vừa dợm chân định nhảy ào xuống nước thì Nghệ Toánh nổ súng. Con lợn khựng lại mấy giây rồi bất ngờ đổi hướng. Nó quay ngoắt lại phóng về phía gã râu xồm với tốc độ không thể ngờ. Nghệ Toánh vừa kịp thay đạn khẩu súng mút, chạy ngang sang gò mối đã bị cái nanh khủng khiếp của con thú dữ cắm vào mạng sườn. Cú ra đòn của nó mạnh đến nỗi khẩu súng văng xa hàng chục thước. Tuy vô cùng khiếp đảm nhưng đúng vào lúc ấy Lê Văn Vận và thằng Sún cũng kịp thời nổ súng. Hai phát đạn cách nhau chừng một giây. Con lợn bị thương lại càng kích động. Nó rống lên một tiếng rồi lao thẳng vào đám khói khét lẹt mùi diêm sinh mà khẩu súng kíp của Lê Văn Vận vừa nhả đạn. Biết là khó thoát, hắn hốt hoảng nhìn trước nhìn sau, chợt thấy cây dẻ cổ thụ ngay phía bên phải liền đánh đu vào một cành ngang trước mặt rồi leo lên. Thật may cây dẻ có một chạc ba cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lê Văn Vận chọn tư thế ngồi thật vững rồi xoay nòng súng về phía con lợn đang gầm gừ chạy vòng phía dưới. Hắn gọi cu Sún:

    - Mày dìu bác Toánh về lán ngay đi, tao giữ chân con lợn. Nhớ vòng lối suối. Nhanh lên. Nó mà phát hiện ra thì nguy.

    Nói xong, Lê Văn Vận nhằm con lợn bắn phát nữa. Có lẽ viên đạn chệch hướng. Con thú hộc lên một tiếng rồi xáp vào gốc cây dẻ dùng cặp nanh to bằng cổ tay nhọn hoắt moi đất. Tiếng đào rễ cây lục cục nghe gai cả người. Tuy gốc cây rất lớn, con vật khó có thể quật đổ, nhưng với sức mạnh ma quỷ, nó hất đất đá rào rào vẫn làm chàng ngư phủ run bần bật. Hắn thầm nghĩ: "Giờ mà rơi xuống thì khốn nạn". Trong lúc tâm thần bất định chưa kịp bắn phát thứ ba thì chẳng may khẩu súng rơi xuống đất. Con lợn độc khịt khịt mấy tiếng thăm dò rồi điên cuồng dùng hai chân sau dẫm nát thứ vũ khí chết người vừa mới trước đây mấy phút còn khạc lửa vào nó. "Phen này chắc toi mạng thật" . - Vận vừa ôm chặt cành cây vừa nghĩ . Hắn sợ đến mức nhắm tịt hai mắt, không dám nhìn xuống dưới nữa. Trong khi ấy, con mãnh trư vẫn chạy loang loáng quanh gốc cây, vừa thở hồng hộc và cày xới đất đá với tất cả lòng hận thù man dại.

    Đến gần sáng con lợn mới bỏ đi mang trên mình mấy vết thương. Dưới gốc cây dẻ thực sự là một bãi chiến trường. Những chiếc rễ cỡ bắp đùi bị moi hết đất trơ ra cùng với lớp vỏ cây bị vạc nham nhở như người ta dùng rìu đẽo. Đất đá bị cái mõm vừa dài vừa cứng của con thú cày lên tụ thành đống như tổ mối, đôi chỗ dính những vệt máu đã ngả màu nâu xỉn. Không còn một thứ thảo mộc nào đứng vững quanh cây dẻ trong vòng hai chục bước chân. Tất cả đã trở thành một khối hỗn độn mang tính huỷ diệt vượt xa khả năng tưởng tượng của con người.

    2. Biết cánh sơn tràng đang ở Phiềng Soi, tri châu Vi Văn Sầm cho viên đội khố xanh lên bảo Lục Kiến:

    - Quan lớn xây nhà cần một ít ván làm sàn. Cây gỗ đã được đánh dấu ngay cạnh khúc ngoặt suối Đá Đen. Các anh hạ xuống, xẻ thành tấm, xong việc quan sẽ cho bạc trắng và được chặt đủ số lim lát đóng bè về xuôi.

    Lục Kiến ngẫm nghĩ thấy công việc bước đầu thuận lợi nhưng cũng phải ra điều kiện rõ ràng với lão thổ quan người Thái trắng vốn nổi tiếng nghiện thuốc phiện và mê gái để sau này ông ta không thể lật mặt:

    - Được, nhưng ông về trình quan chuyến này giảm thuế cho chúng tôi.

    Viên đội gật đầu và đưa cho ông trùm phường một cái gói giấy đỏ:
    - Đây là tiền ứng trước, làm tốt quan sẽ miễn hẳn thuế.

    Cây chò chỉ cao khoảng bốn mươi thước, vòng chu vi ba thước tám, nằm trên một mỏm núi nhô hẳn ra suối. Dân trong vùng sợ rừng Phiềng Soi có ma. Ngoại trừ bọn thầy mo, thầy phù thuỷ còn người bản xứ ít ai dám bén mảng. Từ lâu quan tri châu muốn xẻ bằng được cây gỗ quý, bất chấp mọi lời khuyên, đặt trước một trăm đồng bạc cho cánh sơn tràng nhưng phường nào cũng lắc đầu vì cây gỗ ở vào cái thế chênh vênh rất khó hạ, hạ được lại rất khó xẻ, chết người như bỡn. Sau hôm nhận giao kèo, Lục Kiến cho anh em san đất tạo thành mặt bằng khá rộng chung quanh cây chò, tiếp đó cử Quản Thực, Trần Phí và ba tay thợ có kinh nghiệm dùng rìu chặt phía dưới. Lê Văn Vận, cu Sún, Triệu Đán và Nông Viết Nhân chặt phần trên. Nghệ Toánh vẫn còn đau ở mạng sườn được nghỉ phụ bếp cho ông già Cầu. Gỗ chò xanh cứng như sắt, rìu bổ chan chát chỉ bật ra vài mảnh dăm vụn. Cả phường thay nhau phạt đúng bẩy ngày mới hạ được. Cây gỗ đổ kéo theo một chuỗi âm thanh ào ào như tiếng hút gió của chiếc vòi rồng khổng lồ cách xa vài ba dặm vẫn thấy rợn người. Chim chóc hoảng hốt bay tán loạn. Một con bồ các đen thui từ bụi cây mắt rồng vụt lên như bị đồng ốp. Cái mỏ ngắn nhưng to bè bè của nó liên tục phát ra những tiếng quang quác như tiếng gà mái mẹ nhìn thấy lũ con bị diều hâu quắp. Mặt đất rùng rùng chuyển động như đang xẩy ra một cơn địa chấn dữ dội.

    Xong công việc chặt cành, Lục Kiến bố trí từng cặp dùng loại cưa dài do tri châu cho người mang lên cắt gỗ thành từng đoạn theo kích thước. Công đoạn này ít ra cũng phải non nửa tháng, đó là chưa kể các thao tác kê kích, nâng bẩy từng súc sau khi cắt rời vào đúng vị trí cố định kể bắc cầu xẻ.

    Mọi việc đang trôi chảy, phường Sơn Tràng lại xảy ra chuyện đau lòng. Cu Sún bị hổ vồ. Rừng Phiềng Soi từ lâu không thấy cọp về. Dân bản bảo cách đây vài ba năm ở Khe Tre có một con hổ vằn nhưng đã bị phường săn bản Nậm Cắn bắn hạ lấy xương nộp quan tri châu nấu cao. Tấm da vẫn để ở nhà trưởng bản Hà Văn Tòng. Ông trưởng bản bảo Lục Kiến:

    - Nai, hoẵng, lợn rừng không thiếu nhưng hổ báo bị đuổi sang Lũng Vài rồi.

    Hôm ấy là ngày rằm, trời mù sương nên trăng không sáng lắm. Mọi người ngồi quanh bếp lửa nướng săn, cu Sún đứng dậy bảo:
    - Tôi ra thăm mấy cái bẫy gà.
    - Mày đặt ở chỗ nào ?- Quản Thực hỏi. - Hay là thôi, để sáng mai. Trời tối thế này nhỡ rắn rết nó đớp cho một phát thì toi đời.

    Thằng bé vớ con dao quắm nhìn Lê Văn Vận và lão Cầu thọt, nhe hàm răng đen xỉn trông rất tức cười:

    - Rắn rết đã có con dao này. Lúc chiều tôi gài cạnh suối có khi giờ này bọn chúng dính bẫy rồi.

    Thằng Sún đi chừng nửa giờ không thấy về. Lục Kiến đâm lo bảo Trần Phí và Lê Văn Vận:
    - Thằng pé nó làm gì ở pờ suối mà lâu thế. Hay là ... mà vùng này làm gì có thú dữ.
    Vận cũng bồn chồn không yên vì linh tính báo cho hắn có chuyện chẳng lành:
    - Bác để tôi với anh Phí ra xem sao.

    Họ hú tìm cả giờ không thấy cu Sún. Lúc ấy cả phường mới nháo lên chia nhau đi tìm tất cả các hướng. Gần sáng Lê Văn Vận nhìn thấy mấy vệt máu trên vạt cỏ mỡ cách lán ở khá xa. Trần Phí là người vùng sơn cước rất có kinh nghiệm về các loại thú rừng, phát hiện được dấu chân cọp xéo nát cả bụi cỏ vòi voi trước khi tha nạn nhân qua khe suối cạn. Mấy người nhìn nhau thở dài. Một lát sau Trần Phí quả quyết bảo Lê Văn Vận:
    - Anh về lán gọi thêm người sang bên kia suối tìm cho kỹ. Tôi nghi nó đi hướng này.
    - Hay là tôi đi cùng với anh ?
    Trần Phí lưỡng lự giây lát rồi gật đầu.
    - Tôi thù con cọp này. Từ giờ đến mai dứt khoát phải hạ được nó.

    Trần Phí vốn là dân giang hồ đã từng giết lão thầy mo nên không dám về bản Huổi Tắng, chấp nhận cuộc sống lang thang, lúc đầu ở với phường săn bản Tấu, rồi dân sơn tràng Chiềng Khoa, cuối cùng được Lục Kiến nhận vào trại Bồ Nông.

    Năm Trần Phí mười chín tuổi phải lòng con gái nhà họ Lục ở bản Háy. Ông Lục Tông máu rượu, thích đi săn, được con mồi là bắt cánh trai bản kiếm củi đốt lửa quay nhắm rượu tại chỗ. Lục Tông rất hay hát nhất là lúc chếch choáng hơi men, lão lè nhè ca những bài học được từ thời đi lính cho quan châu, thỉnh thoảng lại chêm vài câu tiếng Pháp bồi nghe rất buồn cười. Ngoài rượu, Lục Tông còn là tay cờ bạc nổi tiếng khắp vùng Yên Mai, chợ Đuộm. Một năm nọ, lão đem con gái là Lục Nga, mười sáu tuổi, gán nợ cho Hoàng Bí vì thua bạc. Hoàng Bí vừa là thầy mo vừa là một tay gá bạc giầu kinh nghiệm. Người ta bảo nhà thày mo có ma xó. Con ma này, lúc sinh thời cũng thuộc hàng đệ tử của thần đổ bác, bị lừa mất cả cơ nghiệp, liền treo cổ lên cây mộc hương ở chợ Đuộm tự tử. Hoàng Bí đem cái xác vô thừa nhận ấy về làm ma long trọng như lễ an táng bố mình. Cái hồn của tay cờ bạc chuyên nghiệp kia cảm động lắm, thường bí mật phù phép cho gia chủ thắng những canh bạc lớn. Trong nhà, lão thầy mo đã có đến ba bà vợ. Bà Cả già sọm, mặt mũi nhàu nát, suốt ngày ngồi xó buồng, miệng lầm rầm khấn thần rừng. Bà Hai và bà Ba cũng là vật thế chấp của những ông chồng có máu đỏ đen. Hai bà này, mỗi ngày không chửi nhau một trận là ăn không ngon ngủ không yên. Thỉnh thoảng họ lại túm tóc vật nhau, nếu ông chồng không kịp thời can thiệp thì đã xảy ra án mạng. Nghe tin Hoàng Bí sắp cưới cô vợ tư, trẻ đẹp hơn mình, máu sư tử Hà Đông nổi lên đùng đùng, các bà bèn tạm thời liên kết với nhau phá đám. Trần Phí biết chuyện người yêu bị gán nợ, ức lắm, chạy đến bảo Lục Tông:
    - Ông không được bán con gái vào chỗ ấy. Lão Hoàng Bí là một con quỷ.

    Lão già đang chẻ nan đan cái lồng lợn con "hứ" một tiếng rồi thản nhiên nói:

    - Mày mang một đàn trâu trả nợ thầy mo tao cho cưới con Lục Nga.
    - Ông là bố mà nhẫn tâm.
    - Mày nói cái gì ? - Lục Tông hằm hằm chĩa cặp mắt đỏ ngầu vì rượu men lá vào tận mặt chàng trai giọng sừng sộ - Tao đẻ ra nó. Mẹ nó chết rồi, bây giờ không có rượu uống, tao bán nó đấy, mày làm gì được nào ?

    Đêm hôm ấy, Trần Phí chờ mãi không thấy, nghĩ bụng, chắc Lục Nga đã bị bố nhốt trong buồng. Lưỡng lự giây lát, chàng ta liền chui rào mò vào gầm sàn rồi trèo lên buồng người yêu. Trần Phí con đang mon men ở cửa thì bất chợt một tiếng "phập" sắc ngọt đập vào cây cột sau gáy. Anh hoảng hồn vội thả người nhảy ào xuống đống lá cọ dưới sàn rồi co cẳng chạy. Con chó vện vốn đã quen hơi, chẳng biết từ đâu xô ra, trở mặt ngoặp một nhát vào bắp chân xé rách tươm ống quần. Khiếp thật, tại sao Lục Tông lại đoán ra ý định của mình nhỉ ? Chỉ chút xíu nữa thì toi mạng với con dao quắm lưỡi sáng loáng trên tay lão ta.

    Biết Trần Phí yêu Lục Nga say đắm nhưng vì nhà nghèo không có tiền cưới, bà Thoóng vợ ba Hoàng Bí bảo:

    - Sao chúng mày không đem nhau trốn lên vùng người Phù Lá mà làm ăn ? Con Lục Nga đẹp như tiên giáng trần thế mà để lão thầy mo hôi như cóc chết sờ vào bụng thì phí cả một đời con gái.

    Trần Phí biết tâm trạng của các mụ vợ Hoàng Bí. Thừa dịp lão thầy mo đi cúng ở bản Háy anh lẻn đến nhà gặp bà Ba:
    - Sắp đến ngày cưới rồi, ông Lục Tông canh giữ con gái suốt ngày đêm. Mấy hôm trước xuýt nữa tôi bị chém.

    Ngẫm nghĩ một lúc, bà Thoóng ghé tai Trần Phí nói nhỏ:
    - Hôm ấy … cứ làm như thế … ta sẽ giúp.

    Ngày Hoàng Bí đón dâu, khách khứa ra vào rất đông. Ngoài những người trong bản vay nợ lãi của lão còn toàn dân cờ bạc chuyên nghiệp quanh vùng. Họ đến đấy uống rượu ăn thịt, hút thuốc phiện và sát phạt nhau từ chiều hôm trước. Hoàng Bí súng sính trong bộ đồ thầy cúng loè loẹt, miệng chào khách nhưng cặp mắt lươn màu chuột khói đảo loang loáng khắp lượt, trong bụng ước tính số bạc trắng sẽ chui vào chiếc hòm bằng gỗ gụ sơn đen để trong buồng. Lục Nga gần như bị áp tải đến nhà trai với khuôn mặt mệt mỏi, đau đớn như vừa có đại tang. Cô được dẫn vào buồng bà Cả, bà Hai rồi bà Ba trình diện để cái ma nhận mặt người nhà. Trong lúc mọi người ăn uống tấp nập, không ai để ý một phụ nữ mặc bộ quần áo chàm , trùm khăn đen từ buồng bà Ba xuống cầu thang rồi lẩn vào vườn mía. Vườn mía cách bìa rừng một tầm tên bắn. Trần Phí đã đợi ở đây từ sáng sớm. Vừa nhìn thấy Lục Nga anh vội bế xốc lên ngựa ra roi cho nó phi nước đại dọc con đường mòn sang bản Cốc Dì. Mất cô dâu, Hoàng Bí lập tức cử bọn tay chân toả ra khắp các hướng truy tìm. Lão đã quá tuổi sáu mươi, răng rụng bốn chiếc, người lép kẹp như con cá mát ướp muối, vậy mà không hiểu lấy đâu ra sức lực nhảy lên con ngựa bạch bờm hung phi như hoá rồ lên dốc Đá Mài. Tuy nhiên Hoàng Bí là kẻ tinh ranh. Lão phán đoán cặp trai gái kia chỉ có thể trốn theo lối bản Cốc Dì, vượt suối Leng Kheng, sau đó ra chợ Phiềng Sa, nếu không đuổi gấp chúng sẽ thoát. Mà chúng thoát thì họ Hoàng nhục như con chó vì lão phải mua Lục Nga bằng cả một đàn trâu. Con ngựa trắng của Hoàng Bí vốn nòi Mường Bi có thể phi một mạch hàng trăm dặm không nghỉ, tốc độ hơn hẳn ngựa Trần Phí. Quả nhiên , chưa đến nửa giờ, lão thày mo đã nhìn thấy bóng con ngựa hồng thấp thoáng khúc quanh sườn núi. Do phải chở hai người, con ngựa chạy khá chậm mặc dù Trần Phí liên tiếp ra roi và thúc chân vào sườn nó.

    - Dừng lại … ! Trả vợ cho t...a... o..! - Hoàng Bí rướn người lên bàn đạp đầu chúi về phía trước gào to.

    Chỉ có tiếng gió ù ù và vó ngựa khua rầm rập làm mặt đường mòn bốc lên những đám bụi hung hung đỏ như khói đốt nương sau khi cây rừng đã nỏ.
    - Thằng Phí ! Trả vợ cho tao …. Chạy nữa là tao bắn...

    Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một gần, Trần Phí càng cố thúc mạnh vào sườn con ngựa đang đuối sức. Sắp đến rừng Huổi Trăn, Hoàng Bí chợt giật mình: "Chúng mà vào được cái rừng đầu nguồn kia thì pháp thuật nổi tiếng như thày mo Lầu Phềnh cũng đành bó tay. Thằng Phí, mày cướp vợ tao là cướp cả một đàn trâu mấy chục con, mày phải chết". Lão ghì cương cho ngựa chạy chậm lại rồi nâng khẩu súng kíp lên vai nhằm vào con ngựa hồng kéo cò. Một tiếng nổ đanh kèm theo đám khói trắng đục đầu nòng. Con ngựa đang phi nước đại chợt chồm lên hất đôi trai gái xuống. Lục Nga ngồi phía sau chết ngay vì lưng cô hứng cả một nắm đạn ghém. Đó là thứ đạn săn thú rừng sát thương rất mạnh của lão thày mo. Trần Phí bị thương vào cánh tay trái nhưng anh vẫn bình tĩnh, biết mình đang ở thế nguy liền nằm sấp cạnh con ngựa giả vờ chết. Hoàng Bí rượt tới. Lão xuống ngựa nâng Lục Nga lên. Vào đúng lúc ấy, Trần Phí bật dậy thọc con dao vào cái hõm nơi cổ họng lão già đang phập phồng vì cố sức phi ngựa trên chặng đường dốc.

    Thanh toán xong lão thầy mo, Trần Phí trốn vào rừng Huổi Trăn. ít lâu sau anh lang thang đến vùng Chiềng Oi của người Thái Đen, ở đấy gặp phường săn bản Tấu...

    Trần Phí và Lê Văn Vận leo lên dốc rồi mỗi người đi về một hướng. Trần Phí men theo một khe suối nhỏ cát trắng óng ánh như thuỷ tinh rồi đến một thung lũng toàn chuối. Anh ngắm nghía một lúc thấy sườn quả đồi tranh trước mặt có những chỗ bị rạp xuống. Bằng con mắt của một thợ săn, Trần Phí phán đoán, con hổ đã chạy về phía này. Vào sâu một đoạn, anh ngửi thấy mùi gây gây đặc trưng của loài chúa sơn lâm rất khó chịu. Quả nhiên không phải tìm lâu. Dưới tán cây xạ hương, một con hổ vằn khá lớn nằm nửa thức nửa ngủ, hai chân trước choãi ra, cái miệng rộng thỉnh thoảng lại ngáp một cái ra vẻ thoả mãn sau bữa chén no nê. Tuy Trần Phí bò ngược hướng gió rất thận trọng nhưng con mãnh thú không hoàn toàn bị động. Nó nhanh hơn tay thợ sơn tràng, vội thu chân lại, cong người nhún mình, cái đuôi ngoe nguẩy trong tư thế chuẩn bị vồ. Con cọp to lớn quá sức tưởng tượng làm Trần Phí run bắn người, lúng túng mãi mới kéo được cò khẩu Anh đô si noa. Đạn không nổ. Con cọp đập đuôi, uốn một đường vòng cung loang loáng giống như tia chớp chồm lên Trần Phí. Chỉ một tầm tay nữa là chàng trai người Tày toi mạng. Anh kẹp súng vào hai đùi lăn một đoạn tránh cú táp của con thú rồi bật dậy chạy tạt ngang vào một gốc cây gần đấy giật khoá nòng, đẩy viên đạn thối. Sau cú vồ hụt, con hổ gầm lên một tiếng dữ dội. Cặp mắt đỏ ngầu của nó chĩa vào Trần Phí như hai mũi dùi nung đỏ khoan vào cân não làm anh đờ ra gần như mất hết phản ứng tự vệ. Chỉ chờ có thế vị chúa sơn lâm hung hăng đập chiếc đuôi dài cứng như sắt xuống đất, nhún hai chân sau lấy đà chuẩn bị ra đòn quyết định. Đúng vào lúc ấy, một tiếng nổ bất ngờ làm Trần Phí thoát khỏi cơn hoảng loạn. Phát súng kíp của Lê Văn Vận nện trúng sườn trái làm con hổ rống lên thảm thiết nhưng nó vẫn liều mạng quay lại lao như hoá rồ vào chỗ có đám khói. Bây giờ Trần Phí đã có đủ thời gian lắp đạn vào khẩu quân dụng của mình. Viên đạn phá vỡ quai hàm và một phần tai phải ông ba mươi. Nó nhảy dựng lên hai chân sau bằng cả chiều dài rồi đổ vật xuống, miệng sùi ra một đống bọt lẫn với máu . Hai người tìm quanh quất một lúc lâu mới thấy những phần còn lại của cu Sún. Trần Phí cởi áo bọc lại mang về chôn trên gò Ma. Đêm ấy bà Ba cứ khóc mãi. Tiếng khóc của người thiếu phụ vừa tức tưởi vừa ai oán lại vừa rờn rợn ở chốn hoang vu giữa đại ngàn như là thứ tín hiệu báo điềm chẳng lành.

    3. Sau hai tháng đánh vật với cây chò, phường Sơn Tràng đã xẻ đủ số ván gỗ cho quan tri châu. Vi Văn Sầm giữ lời hứa, ngoài tiền công khá hậu hĩnh, ông ta còn thưởng thêm cho phường một trăm đồng bạc trắng. Bấy giờ mọi người mới tập trung đốn gỗ, chặt bương cốn bè. Cạnh suối Đá Đen còn một cây sao dầu cỡ hai vòng tay. Cây này rất khó hạ vì bị sườn đá án ngữ. Những tay thợ lão luyện phải mất đứt năm ngày mới chặt được, nhưng thật oái oăm, thay vì đổ xuống suối, ngọn cây lại ngả về phía sườn đá. Lê Văn Vận, Quản Thực và Trần Phí dùng chạc leo lên chặt cành. Lục Kiến cứ chắp tay đi đi lại lại nghĩ cách bẩy cây gỗ ra khỏi gờ đá. Buổi chiều khi đã chặt cành xong, ông trùm quyết định dùng dây thừng buộc vào ngọn kéo, phía bên kia cử bốn người hợp sức bẩy bằng xà beng. Cây gỗ nằm chếch về hướng nam, gốc tì trên con lăn trượt đi một cách khó nhọc từng phân một. Bỗng nhiên, trên sườn dốc, nơi đầu cây gỗ tựa vào có hiện tượng chuyển động. Do sự va chạm mạnh lúc cây đổ phá vỡ thế cân bằng, một khối đất đá khá lớn tách ra lăn xuống rào rào. Lúc ấy, Lục Kiến cùng mấy tay thợ đứng dưới bờ suối đang cố sức ghì sợi chão buộc trên ngọn cây, bị hòn đá tảng văng trúng người, hất xuống vực. Anh em thợ hốt hoảng bỏ cây gỗ nhảy theo, đến khi đưa được Lục Kiến lên thì ông trùm phường chỉ còn thoi thóp. Vết thương ở đầu quá nặng. Hòn đá đập nát phần gáy, óc phọt ra dính lầy nhầy một bên tai.

    Phường Sơn tràng làm lễ chôn cất ông trùm trên gò Ma, cạnh mộ cu Sún. Trần Phí được anh em cử tạm thời thay Lục Kiến trông coi công việc của phường. Những ngày này lương thực lại sắp hết. Một số người chán cảnh ma thiêng nước độc có ý định bỏ về xuôi. Trần Phí cử Lê Văn Vận và lão Cầu xuống các bản dưới chân núi tìm mua gạo. Vận khoác khẩu súng Anhđôsinoa tay cầm dao phát rừng mở đường. Lão Cầu khoác tay nải vừa đi vừa khậm khoạc ho. Lão vốn nghiện thuốc lào, gần nửa tháng hết đành nhịn sinh chứng ho khan. Đi được nửa dốc Vận chợt thấy nóng ruột. Hắn không yên tâm để bà Ba ở lại một mình giữa đám đàn ông mà phần lớn đều có thành tích bất hảo, nhất là Nghệ Toánh và Quản Thực. Hai gã này hễ có dịp là hau háu nhìn vào ngực người thiếu phụ một cách thèm thuồng chẳng cần giấu giếm. May mà có Lục Kiến, một đầu lĩnh rất giỏi võ nghệ che chở, nên hai người mới tạm thời yên ổn. Giờ ông trùm mất rồi, bọn chúng chẳng còn phải sợ bóng sợ gió, tha hồ thả lỏng thú tính, đến lúc ấy thì có mà trời biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nơi rừng xanh núi đỏ này đầy lam sơn chướng khí , tai
    hoạ luôn rình rập, không thể là chốn nương thân. Phải xuống núi quay về thôi. Nếu cùng cực quá thì dắt nhau đi ăn mày còn hơn là gửi xác nơi đây. Nghĩ vậy Vận vảo lão Cầu:

    - Bác xuống bản Phóng tìm mua ngô hoặc được gạo càng tốt rồi đợi tôi ở nhà Quàng Văn Hếnh. Tôi có chút việc phải quay về lán, chiều sẽ xuống.

    Nói xong chẳng đợi lão Cầu đồng ý hay không, Vận hối hả ngược dốc.

    Trong khi ấy Trần Phí chia số anh em còn lại thành từng nhóm vào sâu trong rừng chặt bương kéo xuống suối để kết mặt bè. ở lán chỉ còn bà Ba nấu cơm. Tầm gần trưa, cơm đã nấu xong, bà Ba mang quần áo ra suối tìm một chỗ khuất tranh thủ tắm trước khi cánh đàn ông về. Đó là một nhánh của con suối Đá Đen cách nơi ở chừng hai ba trăm thước, có một chỗ hõm xuống giống như chiếc bồn tắm tự nhiên bằng đá xanh. Nước suối trong vắt, lũ cá mạy tròn như những đồng xu, óng ánh kim nhũ, bơi lượn lờ chẳng khác gì cá cảnh đang du ngoạn trong bể kính. Bà Ba nhìn trước nhìn sau theo thói quen của phái yếu rồi cởi váy áo lội xuống suối thong thả vớt từng vốc nước mát lạnh tưới lên tấm thân thon thả trắng nõn nà . Ra đến bồn nước, cô ta hơi ưỡn người hai bầu vú thây lẩy như hai trái dừa khẽ lắc lư. Cặp đùi mập mạp khép hờ trông rõ vết sẹo phía trên đầu gối do ngọn roi chánh Đàm quật vào. Khi người thiếu phụ ngồi hẳn vào bồn, cặp tuyết lê lúc này ngập hẳn trong làn nước xanh ngọc bích cứ bập bềnh lúc nổi lúc chìm theo nhịp thở. Có điều nét hấp dẫn của người phụ nữ khoả thân này không chỉ rừng lại ở khuôn ngực hoặc cặp đùi đầy khêu gợi mà ở những đường cong nơi eo lưng xuôi xuống hai bên hông. Đó là những đường cong mềm mại hoàn mỹ đến mức bí ẩn. Nó uốn lượn theo những quy luật phức tạp nhưng lại hiện diện dưới dạng thức hoàn toàn đơn giản như là không hề có sự gia công của bàn tay tạo hoá.

    Vùng vẫy chán, bà Ba ra khỏi làn nước lắc người, đang định lên bờ thì Nghệ Toánh bất chợt từ một hòn đá bước tới. Phía sau là Quản Thực đang hau háu nhìn vào tấm thân trắng ngồn ngộn của Thị Lánh. Cô ta vội chạy lại chỗ để quần áo nhưng gã râu rậm đã nhanh chân lao ra chắn đường, bế xốc lấy leo lên lèn đá. Hắn đưa mắt cho Quản Thực:

    - Đứng đấy canh chừng có đứa nào ra thì báo, chốc nữa đến lượt mày …

    Bà Ba vừa giẫy vừa kêu vừa cắn vào tay Nghệ Toánh. Hắn khoá chặt hai tay người thiếu phụ, nhét chiếc khăn hôi hám vào miệng rồi dằn ngửa cô ta xuống khoảng đất hẹp bên cạnh bụi vừng dại. Khi sức chống cự của bà Ba đã yếu đi, gã rậm râu trườn tấm thân hộ pháp lên bụng cô ta, hai cánh tay vòng xuống nách ghì thật chặt rồi mới làm động tác cuối cùng. Đứng cảnh giới cách đấy không xa, Quản Thực nhìn thấy cái mông của Nghệ Toánh cứ nhấp nhổm trên hai đùi bà Ba thì vô cùng sốt ruột. Mồm nuốt nước bọt còn tay hắn thỉnh thoảng lại thò vào trong quần. Cặp mắt lác trắng dã lúc ấy ánh lên những tia man rợ như mắt chó dại. Cơn hoan lạc thú vật đã qua nhưng gã rậm râu vẫn còn trần truồng trên bụng người đàn bà làm Quản Thực không thể chịu nổi. "Hắn quát khẽ Có người".Nghệ Toánh giật nảy mình vơ vội chiếc quần chạy vào rừng. Quản Thực chỉ đợi có thế và chỉ với vài bước nhảy của loài linh dương hắn đã chồm lên người đàn bà. Bà Ba hầu như đã hết sạch khả năng chống cự, người mềm nhũn, mệt nhoài, để mặc cho gã sơn tràng làm cái việc mà thằng bạn hắn trước đã làm. Niềm khoái lạc của Quản Thực sắp được đẩy tới tận cùng thì bất chợt một lưỡi dao sáng loáng cắm phập vào sống lưng bằng tất cả lòng thù hận làm hắn chỉ kêu được "ức ức" mấy tiếng rồi gục xuống ngực người đàn bà, chết ngay. Cũng vào lúc ấy, Nghệ Toánh vòng lối suối đi lên. Gã này biết mình vừa bị Quản Thực lừa định quay lại tiếp tục công việc đang dở dang thì chạm ngay Lê Văn Vận. Nghệ Toánh sững người, nhớm chân định lùi lại chàng ngư phủ đã nâng súng lên vai quát:

    - Đứng lại !

    Tên râu rậm bắt đầu chạy mỗi lúc một nhanh, hy vọng vào được được lèn đá là thoát. Nhưng khẩu Anhđôsinoa đã nổ. Viên đạn đáng lẽ nhằm vào lưng thì lại chếch lên gáy. Hắn chết mà chưa kịp cài khuy chiếc áo chàm ngắn tay. Chiếc áo này Nghệ Toánh đã lừa đổi của một ông già người La Hủ chỉ bằng mấy điếu thuốc lào.

    Hạ xong gã râu rậm, Lê Văn Vận quay lại rút con dao trên người Quản Thực. Vết đâm quá sâu,chạm đến cả bụng bà Ba, hắn phải dùng chân đạp lên lưng gã sơn tràng mới lấy ra được. Máu ở bụng thị Lánh chảy như xối từ vết thương toang toác dưới phần mỏ ác. Vận hoảng quá, đạp cái xác Quản Thực ra một bên, ôm lấy bà Ba mà khóc. Được một lúc hắn chợt nhận ra, người tình vẫn trần truồng liền chạy xuống bờ suối lấy váy áo mặc vào cho cô ta. Hắn xé áo Quản Thực buộc ngang bụng nhưng máu vẫn chảy, chỉ một thoáng là ướt sũng như nhúng nước. Chợt nhớ đến môn thuốc cầm máu lúc còn ở vạn chài, Vận vội luồn vào rừng. Hắn đi được vài bước thì Trần Phí cùng mấy anh em trong phường tìm đến. Nghe tiếng súng họ đoán có chuyện chẳng lành vì không thấy bà Ba ở lán. Một người đi trước phát hiện ba cái xác nằm cạnh suối cách nhau không xa, cả phường hốt hoảng toả đi các hướng tìm thủ phạm. Chiều hôm sau khi thấy một mình lão Cầu lếch thếch gánh hai tay nải gạo ngược dốc về lán phường Sơn Tràng mới biết kẻ gây ra vụ thảm sát chính là Lê Văn Vận. Nhưng lúc này hắn đã cách rừng Phiềng Soi khá xa sau khi ẩn trong hang đá một đêm. Sang đến ngày thứ ba, Lê Văn Vận đói quá. Hắn chẳng còn đủ sức để bắt những con vắt nâu bám lủng lẳng nơi bắp chân nữa. Lại một trận mưa ngàn. Hắn thất thểu bước như kẻ mộng du, chốc chốc lại ngồi bệt xuống bẻ một ngọn măng giang, tước vỏ bỏ vào mồm nhai trệu trạo. Hắn đã bị lạc rừng. Thoát khỏi cuộc truy đuổi của anh em trong phường nhưng chắc gì đã thoát chết một khi chẳng có thứ gì ăn sống người ngoài khẩu Anhđôsinoa mà lúc này hắn dùng để chống như một chiếc gậy. Chỉ còn hai viên đạn. Không có lửa. Nếu gặp may mà hạ được thú rừng thì cũng chỉ có cách là ăn sống. Hắn đã thoát chết bởi con lợn độc tuy phải qua một đêm kinh hoàng ngồi trên chạc cây, nhưng còn bây giờ giữa đại ngàn hoang vu xung quanh biết bao nhiêu hiểm hoạ rình rập. Sợ nhất là hổ báo. Loài mãnh thú này không hề biết sợ. Chúng sẵn sàng tấn công trực diện con mồi nếu đã lâu không kiếm được thứ gì cho vào bụng. Rồi con rắn rết, bọ cạp và nhất là trăn gió. Bọn này thường chạy ào ào trên ngọn cây. Ngửi thấy hơi người là chúng quăng mình cuộn chặt bằng những vòng cứng như gọng kìm thép làm xương cốt gãy răng rắc, thịt mềm nhũn, bấy giờ mới há cái miệng đỏ lòm, ngoác ra đến tận mang tai từ từ nuốt. Vận không thể ngờ nhát dao bổ vào lưng Quản Thực lại mạnh đến thế. Thằng chó đẻ ấy chết là đáng kiếp, nhưng tại sao hắn lại giết cả bà Ba ? Lúc về đến lán, không thấy cô ta Vận đã nghi. Hắn biết chỗ hõm suối hằng ngày vẫn đưa cô ta đi tắm liền lặng lẽ tìm ra. Nhưng đã quá chậm. Lúc ấy Quản Thực đang nằm trên bụng Thị Lánh. Mà cô ta lại nằm trong tư thế như là một sự đồng loã đầy cảm hứng khoái lạc. Chỉ đến khi nhìn thấy khuôn mặt gã rậm râu đầy những vết cào cấu, chàng ngư phủ mới biết, do lòng ghen tuông bột phát, đã nghi oan lòng chung thuỷ của người thiếu phụ. Phát súng hạ gục gã râu rậm là phát súng định mệnh có vẻ như Thượng Đế đã mượn tay hắn trừng phạt cái ác, thực hiện lẽ công bằng.

    Đêm hôm ấy Vận trèo lên một chạc cây to, dùng dây rừng quấn vào người rồi dựa vào cành thiu thiu ngủ. Hắn mệt quá thiếp đi chẳng biết trời đất gì nữa. Trời sáng bạch hắn mới thức dậy, thấy người gây gấy sốt liền tụt xuống đất, tìm nước uống. Đầu nhức như búa bổ. Dòng suối ngay gần đấy, nước chảy ràn rạt nhưng Vận có cảm giác nó gầm réo dữ dội bên tai tựa như tiếng rùng rùng của hàng ngàn chiến mã đang tung vó trên thảo nguyên mênh mông. Lê được đến bờ suối, chưa kịp uống ngụm nước, cơn sốt đã làm hắn ngất đi. Trong cơn mê sảng chàng ngư phủ mơ màng nghĩ đến người đàn bà đã cùng mình lưu lạc sau những biến cố bất ngờ của gia đình họ Khúc. Những hồi ức ngọt ngào lẫn với đắng cay lần lượt hiện về. Kỷ niệm đậm nét nhất là hắn cùng bà Ba nhún cây đu cao chót vót, cao đến tận trời. Vòng đu cuối cùng Vận nắm tay Thị Lánh, bước vào khoảng không rồi bay lên giống hệt cánh chim tự do. Tóc bà Ba mềm như lụa nâng lên hạ xuống nhịp nhàng chẳng khác gì tiên nga múa điệu nghê thường. Lên đến tầng thứ ba đột nhiên trời trở gió. Gió mỗi lúc một mạnh. Mà đôi cánh mỏng manh của cặp tình nhân không thể chống lại những trận cuồng phong. Hai người bị đẩy ngược trở lại trần gian với tốc độ rơi tự do làm Vận hoảng hồn. Hắn vội cụp cánh, vòng tay ôm lấy bà Ba rồi nhắm mắt chờ quỷ sứ đến đưa linh hồn hai người về địa phủ. Một cú va đập dữ dội làm chàng ngư phủ choáng váng…

    Trước mắt Vận là một gã đàn ông không thể đoán được tuổi tác vì hắn để râu tóc xồm xoàm như người rừng. Mặt hắn gầy choắt, da bủng, mắt vàng giống hệt dân nghiện kinh niên vừa đói cơm vừa đói thuốc. Nhìn thấy bộ dạng ông khách quái dị như vậy, Vận sợ lắm hỏi:
    - Ông …là … ?

    Người mặt choắt nheo mắt mỉm cười qua bộ râu hung hung như râu ngô điểm vài sợi trắng như cước không trả lời hắn mà bảo:
    - Anh bị lên cơn sốt chỉ một chút nữa là đâm đầu xuống suối, may mà tôi đến kịp.
    - Vậy là ông đã cứu tôi ?
    - Anh làm gì mà lang thang trong rừng ?
    - Tôi là thợ sơn tràng.
    - Khai thác gỗ ở khu nào ?
    - Cách đây xa lắm - Vận không dám nói thật vì sợ quan quân cho lính truy lùng - còn ông là ai mà cứ hỏi tôi như là hỏi cung thế ?
    - Hoàn cảnh của anh thế nào cứ nói thật đi. Tôi không phải là mật thám.

    Vận thở dài:
    - Trước mồ côi cha mẹ, phiêu bạt khắp nơi, giờ còn khốn nạn hơn nữa là không mảnh đất dung thân.
    - Vậy thì tạm thời đi với tôi cho có bạn - Người đàn ông mặt choắt bất ngờ đề nghị.
    - Nhưng mà đi đâu ? - Vận ngước cặp mắt âu sầu nhìn trời hỏi bâng quơ - Mà tôi đang đói lắm, ông có cái gì ăn được không ?

    Người khách lấy trong bọc ra mấy bắp ngô luộc đưa cho Vận. Hắn nhìn ông ta một thoáng rồi vồ lấy bắp ngô gặm lấy gặm để. Đợi chàng ngư phủ ăn xong, ông ta lấy trong túi chiếc ống nhôm nhỏ dài như ngón tay dốc ra hai viên thuốc màu trắng bảo Lê Văn Vận:
    - Uống ngay đi. Thuốc sốt rét anh em chuẩn bị cho tôi đấy.
    Chiều hôm ấy Vận theo người đàn ông lạ mặt ra khỏi rừng dang. Họ ngủ trong chiếc lều canh ngô của dân bản Cốc. Đêm ấy chàng ngư phủ kể cho ông khách mặt choắt về cuộc đời mình. Nghe xong ông ta cảm động lắm. Sáng ra, lúc sắp lên đường đi tiếp ông khách hỏi:
    - Từ hôm qua đến nay anh vẫn chưa biết tôi là ai phải không ?

    Vận gật đầu:
    - Phải. Tôi trông ông không phải là phường thổ phỉ cũng không phải dân buôn lậu thuốc phiện. Ông ăn nói chững chạc, cử chỉ đàng hoàng, hay là …
    - Tôi là tù chính trị vừa vượt ngục Sơn La.
    - Thế ra ông là chính trị phạm ?

    Ông khách khẽ gật đầu:
    - Bây giờ còn dám đi với tôi nữa không ?

    Vận ngần ngừ một lúc rồi hỏi lại cái câu mà hắn đã hỏi nhiều lần:
    - Nhưng mà đi đâu hả ông ? Tôi cùng đường rồi.
    - Cùng đường nhưng không có nghĩa là tuyệt mệnh - Người tù vượt ngục thong thả bảo - ở dưới bản Chiềng Om tôi có một người quen. Ta xuống đấy nghỉ mấy ngày rồi sẽ tính.
    - Tôi sợ lắm. Đi theo ông nhỡ dọc đường gặp lính quan châu đi tuần thì chết.

    Ông khách mặt choắt nghiêm giọng nhìn thẳng vào Lê Văn Vận :
    - Đi hay không là tuỳ anh bởi chính tôi cũng đang bị nhà cầm quyền truy đuổi. Có điều đã sinh ra làm đấng nam nhi trên đời cần phải làm một cái gì có ích đừng quá nghĩ đến những chuyện vụn vặt.

    (còn tiếp)

  4. #4
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 4

    1.Từ khi chánh Đàm chết, người quản lý cơ nghiệp họ Khúc là bà cả Huê. Khúc Luận được bà ta nuôi dạy như con đẻ. Thậm chí nó còn được cưng chiều hơn cả Khúc Thị Huệ, lúc này đã bốn tuổi, giống thằng anh như đúc mặc dù chúng không cùng một mẹ sinh ra. Tất nhiên là bà ta thâm thù Mạc Thị Lánh. Chính vì cô ta - con đĩ lăng loàn trời đánh thánh vật - mà chồng bà phải chết. Cái chết của Khúc Đàm làm thanh danh gia đình bị hoen ố, là đề tài cho thiên hạ đàm tiếu. Nhưng thằng con do cô ta đẻ ra lại quý như vàng. Nếu không có nó, toàn bộ gia tư điền sản sẽ rơi vào tay kẻ khác mà trước hết là mấy đứa con của Khúc Kiệt. Lão này biệt tăm bảy tám năm, thỉnh thoảng mới mò về mà lại toàn về vào ban đêm. Cánh lý dịch từ lâu đã nghi lão đang làm việc cho một tổ chức bí mật nào đó chống lại nhà cầm quyền nên cách ăn nói khác hẳn thời kỳ còn làm thày đồ gõ đầu trẻ. Nhà họ Khúc sau này phải có một người đàn ông làm chủ, và người đó sẽ là Khúc Luận. Bỏ qua mọi định kiến của phường nhi nữ thường tình, quyết định của bà có ý nghĩa lịch sử đối với truyền thống vốn rất bảo thủ của các bậc phụ huynh làng Cùa. Bà nhồi nhét vào cái đầu trẻ thơ của Khúc Luận lòng hận thù và niềm khinh bỉ đối với người đã sinh ra nó. Mỗi ngày một ít, như mưa dầm thấm lâu, phương thức giáo dục đầy tính vụ lợi của người đàn bà đáo để này đã làm méo mó hình ảnh bà Ba trong tâm trí thằng bé. Đại khái ý niệm thường trực của nó luôn coi mẹ là người đàn bà lẳng lơ đĩ thoả, bỏ nhà theo trai, tội đáng gọt tóc bôi vôi thả bè trôi sông. Còn Lê Văn Vận là tên vong ân bội nghĩa, giết bố vợ cướp vợ bé của ông ta rồi đem nhau đi trốn. Chánh Đàm đã về với tổ tiên, bà cả Huê tô vẽ lão ta thành một thứ thần tượng để nhào nặn Khúc Luận theo quan điểm giáo dục của mình. Đó là lòng hận thù đến tận xương tuỷ và sự khinh miệt nhân cách đối với kẻ đã phá vỡ bức thành đồng gia pháp, đảo lộn cương thường, gây ra màn bi kịch độc nhất vô nhị ở vùng Ba Tổng.

    Khúc Luận đến tuổi đi học. Thầy dạy là ông khoá Nhưng người làng Buộm. Khoá Nhưng chưa đến bốn mươi, có máu gió trăng, chữ xấu như gà bới nhưng ăn mặc bảnh choẹ, nói đâu ra đấy làm bà Cả động lòng. Hai người đầu mày cuối mắt xem ra tâm đầu ý hợp lắm nhưng còn ngại mẹ con bà Hai. "Phải tìm cách tống lũ này đi nơi khác". Bà ta nghĩ vậy mà luôn chờ dịp thực hiện âm mưu của mình. Một hôm bà Cả gọi mẹ con bà Hai lên nhà bảo:

    - Tôi nghĩ mãi rồi. Mấy năm trước hai đứa con nhà chị Hài còn bé thì không nói làm gì, giờ cả thằng Luận và chúng nó đều lớn, đã hiểu biết đôi chút xem ra khó có thể ở chung được vì vụ án anh Vận giết ông Chánh … Tôi đã hỏi mua được ngôi nhà của trương Đáp ở xóm Trại Cá, dăm hôm nữa, tu sửa xong dì và mẹ con con Hài sẽ chuyển ra đấy.

    Biết phận mình lẽ mọn lại không có con trai trước sau cũng bị bà Cả đuổi khỏi nhà, bà Hai chẳng thèm xin xỏ gì, thản nhiên gật đầu:

    - Chị nói phải, nhưng mẹ con tôi không ở xóm Trại Cá mà ngay ngày mai sẽ sang sông về làng Nội.
    - Cái đó thì tuỳ dì thôi - Bà cả cười nhạt nhìn mái tóc điểm bạc của bà Hai, thủng thẳng bảo - Nhưng sang sông thì phần gia tài của mẹ con gì không được mang theo.


    2. Những trận mưa liên miên từ đại ngàn dồn về sông Lăng làm ngập cả cồn Láng cồn Vành. Gió chạy ào áo. Sóng vỗ oàm oạp. Nước phù sa đục ngầu giận dữ lao băng băng như muốn thoát khỏi con đê mỏng manh, chờm vào những cánh đồng chiêm trũng để giải phóng bớt năng lượng. Tháng bảy, lúa đang thì con gái. Khắp lượt các cánh đồng Mả Gạch, Mả Dứa, Đồng Gà xanh mướt một màu. Trên gò đống hoặc ven bờ ruộng, những đứa trẻ đội nón lá, quàng áo tơi chăn trâu. Mưa kéo dài, trâu buộc cuồng chân cà sừng vào gióng chuồng đòi ra. Bọn trẻ thả trâu gặm cỏ rồi vồ châu chấu. Những con chấu cái bụng đầy trứng, toàn thân xanh thẫm màu lá lúa, bị ướt, vỗ cánh một cách khó nhọc. Có con không đủ sức vượt chặng đường khá dài đến gò đống rơi cả xuống nước. Chấu đực nhỏ gầy như đầu đũa, bay ràn rạt hàng đàn. Lũ này có vẻ lười tuy chúng bay rất khoẻ. Các chàng đa tình này thường "ngự " trên lưng các "nàng" tạo thành một cặp chênh lệch như là mẹ cõng con. Thấy động, chấu cái bay lên như tàu "bà già"[1] mang theo cả anh bạn đại lãn không mấy chung thuỷ. Cào cào đầu nhọn đủ loại xanh, đỏ, tím, vàng bay vù vù. Mỗi khi bay chúng chẳng cần phải vỗ cánh lấy đà. Chạm người hoặc bước chân trâu tới gần, chỉ nghe đến "xoẹt" một tiếng, đã thấy chú ta lơ lửng trên trời để rồi vài giây sau lại đỗ xuống một mô đất nào đó cách đấy không xa dù rằng mưa vẫn như trút nước. Lũ cà cộ và châu chấu ma vô cùng tinh khôn.

    Chấu ma ngắn người, to xác, khoác bộ y phục sặc sỡ bẩn thỉu, đôi chỗ điểm các vòng đen lấm tấm vàng giống như mắt quỷ. Vùng Ba Tổng không ai ăn châu chấu ma nên chúng tha hồ sinh sôi nảy nở, tự do dọc ngang trên khắp các dải đồng. Nơi cư trú lý tưởng nhất đối với bọn này là những ruộng lạc, ruộng đỗ, ruộng dưa sắp đến kỳ thu hoạch. Chấu ma bay rất cao, có lúc cả đàn vù vù trên đầu như xay lúa. Chúng không sợ trời mưa. Càng mưa càng bay khoẻ. Nhưng những hiệp sĩ nổi tiếng của đồng chiêm thì phải giành cho các chàng cà cộ. Bọn này thực chất thuộc nòi châu chấu nhưng to xác hơn cả chục lần. Những chú trưởng thành thường khoác bộ cánh xanh lá mạ hoặc vàng rơm với cái đầu vuông gồ lên, hai con mắt lồi ra trong suốt như thủy tinh trông rất hiếu chiến. Cà cộ thường kiếm ăn trên các trà ruộng hoang. Ban đêm chúng phát ra thứ âm thanh gọi bạn nghe cành cạch như là tiếng hai thanh tre gõ vào nhau. Khu đồng vàn có những gia đình cà cộ cư trú lâu đời. Lúc tạnh ráo, lũ choai choai tập nhảy tanh tách, con nào cũng mỡ màng bụng nhẵn bóng, đầu thò ra cặp râu dài đen như hai sợi tóc. Trên cao một cặp sáo đen vừa liệng những vòng cuối cùng vừa kêu chíp chíp giống tiếng nhị hen của xếp Đáy - một lão quăng chài nát rượu thường ra bờ ao ngồi "cò cử" mỗi khi chếch choáng hơi men.

    Chiều chiều, lũ trẻ dắt trâu về đến cổng làng đứa nào cũng kèm thêm giỏ châu chấu lủng lẳng bên sườn. Chỉ cần nhúng giỏ vào nồi nước sôi rồi đổ ra vặt cánh, đem rang với muối, mỡ thêm nhúm lá chanh thái nhỏ là đã có một món ăn trong bữa cơm đạm bạc của những gia đình nghèo.

    Như mọi chiều, đàn trâu thủng thẳng về đến bờ mương, sắp sửa qua cổng làng thì bỗng từ đình Cả vọng về tiếng trống ngũ liên. Quả nhiên chưa đầy một khắc, khắp nơi đã lao xao tiếng người lẫn với tiếng mõ cá dọc theo con đường từ chùa Vĩnh Hưng xuống xóm Trại Cá. "Vỡ đê rồi !". Có ai đó gào lên như là tiếng nấc của bà già đang uống nước bị nghẹn. Liền sau đó là những tiếng ào ào, lúc đầu còn có vẻ mơ hồ sau rõ dần, cuối cùng nổ ùng ục như sấm rền. Chuỗi âm thanh chết người ấy chạy khắp đường làng rẽ vào tận cùng ngõ xóm. Nó đến đâu là mang theo thứ nước đục ngầu, đỏ như máu, mát lạnh phù sa. Nó là tín sứ của thuỷ thần đem thông điệp huỷ diệt đến với vùng Ba Tổng.

    Trước khi vỡ, ở đoạn điếm Bài Vân, đê sông Lăng đã sạt vài chục thước. Đoạn này vừa thấp vừa mỏng, khi nước lên đến lưng chừng con chạch, ngấm qua tổ mối đùn vào phía trong hàng loạt mạch sủi thì đám dân phu đông đúc vùng Ba Tổng dưới sự thúc ép của tri huyện Nam Thành Cáp Văn Tòng đành bó tay chịu phép. Không đầy nửa giờ, bảy chục thước đê bị khối nước hung hãn màu gạch cua đẩy bật về phía làng Cùa. Như con ngựa bất kham xổng chuồng, đạo quân của thần thuồng luồng mặc sức tung hoành tấn công vào khắp các hang cùng ngõ hẻm của các làng hữu ngạn sông Lăng. Những chuỗi sấm rền lục bục trên cao cùng với tiếng nước réo ầm ầm từ cái miệng đê lúc này đã toác ra hàng trăm thước thành một bản hợp tấu khổng lồ, rùng rợn chẳng khác gì cơn Đại hồng thuỷ thời tiền sử. Mây đen vẫn vũ trên bầu trời ướt sũng làm đêm xuống rất nhanh tuy lúc ấy mới đầu giờ Dậu. Từ phía nhà Khúc Kiệt có ai đó gào thảm thiết kèm theo là tiếng chuyển động răng rắc giống như tiếng vặn mình của một con trăn khổng lồ sau khi đã nuốt chửng chú dê non. Như vậy là nhà Khúc Kiệt đổ. Tiếng kêu the thé ấy có thể là giọng hoảng hốt của Khúc Thị Nhân. Con bé này xinh đẹp nhất làng nhưng vì có nốt ruồi dưới mắt trái nên khó lấy chồng. Từ lâu Khúc Kiệt đã biệt tăm. Nó tuy là em gái nhưng phải thay hai ông anh lười như hủi quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc bà mẹ ốm yếu. Giờ nhà đổ không còn chỗ chui ra chui vào, nó khóc là phải. Lũ lên rất nhanh, chưa đầy hai canh giờ, làng Cùa đã chìm trong biển nước. Đàn bà, trẻ con bị thuỷ thần tống ra khỏi cửa cùng với các loại đồ vật nổi lềnh phềnh. Mấy đứa con vợ chồng Thường Rỗ bám được vào mái nhà. Thằng anh vòng hai tay ôm cột trụ ngồi lên thanh quá giang, còn thằng em bị gióng kèo gẫy đập vào bả vai, đau quá, phải thả tay ra, thế là rơi xuống nước. Thằng anh tuột khỏi quá giang quờ quạng tìm, nhưng vào đúng lúc ấy một trận gió quái ác lật nghiêng cái chóp còn lại của căn nhà bẹp. Nó bị hất xuống một đống bùng nhùng rào gai lẫn với rong rêu rồi mắc cứng ở đó. Thường Rỗ gào đến khản cổ mà chẳng thấy tăm tích hai thằng con. Hắn lặn xuống ba thước nước hy vọng tìm được một trong hai đứa nhưng cô vợ béo phục phịch lại sắp chìm nghỉm vì không biết bơi, đành phải dìu ra ngọn cây xoan dùng thừng buộc tạm vào chạc ba.

    Đau nhất là nhà phó hội Đang. Nhà ông này kín cổng cao tường, cho là nước chỉ lên không quá một thước như trận vỡ đê năm Sửu (1925) nên vẫn bình chân như vại sai các con kê kích thóc lúa. Ai ngờ lũ về nhanh quá , ngập sâu hơn ba thước, chân móng ruỗng ra, kéo đổ nhà. Mái ngói âm dương ngấm nước, nặng chịch úp xuống đè chết cả bốn mẹ con, chỉ còn mình ông chồng lúc ấy đang ở ngoài sân định đi tìm thuyền.

    Nhà chánh Đàm bấy giờ là nơi tị nạn của bất cứ ai trong làng nếu tìm cách vào được. Đây là ngôi nhà hai tầng được họ Khúc xây dựng kết hợp cả hai phong cách kiến trúc bản địa và kiến trúc biệt thự của Pháp thế kỷ mười chín, có diện tích sử dụng khá rộng. Tầng dưới năm gian, hai đầu hai buồng và gian giữa thông với nhau như các căn hộ truyền thống. Tầng trên cũng năm gian nhưng được bố trí thành những phòng riêng biệt. Hai gian đầu là nơi làm việc và nghỉ ngơi của chánh Đàm khi lão ta còn sống. Trước khi làm nhà, có lẽ họ Khúc đã dự tính đến khả năng vỡ đê nên lão cho xây nền móng rất cao. Chính vì vậy, các nhà trong làng ngập đến mái tranh riêng dinh cơ bà cả Huê chỉ đến lưng chừng tầng dưới. Ba mẹ con bà chủ rút vào căn buồng ngay cạnh cầu thang tầng hai. Mấy gian còn lại giành cho bà con hàng xóm. Không những thế bà ta còn mang gạo trợ cấp cho những người ở nhờ. Sau vụ Lê Văn Vận ngộ sát chánh Đàm, bà cả Huê xấu hổ với làng Cùa, mỗi khi có việc ra đường phải quấn khăn đội nón che mặt. Giờ nhân dịp trời giáng hoạ bà phải tranh thủ làm phúc để lấy lại phần nào vị thế của mình. Đêm hôm ấy căn gác nhà Chánh Đàm chật cứng người.

    Gần sáng lại một trận mưa như trút nước. Những lằn chớp loang loáng chạy ngang dọc khắp bầu trời rạch bóng đêm thành từng vệt xanh lét kèm theo cơ man nào là tiếng nổ đinh tai nhức óc tưởng như làng Cùa sắp đến ngày tận thế. Nước rào rào trên mái ngói, chảy xối xả chẳng khác gì đứng trên cao dốc cả thùng xuống. Mọi người còn đang hoảng hồn bởi hàng chuỗi những âm thanh kinh thiên động địa còn dữ dằn hơn cả tiếng gầm đại bác một trăm lẻ năm ly thì có tiếng ộp oạp dưới sân. Trong ánh chớp rõ như ban ngày, một người đàn ông ôm một phụ nữ quần áo ướt sũng, tóc rối bù đang quằn quại như là sắp chết đến nơi. Bà phó lý Dần vội chạy xuống cầu thang dắt người đàn bà lên. Ông chồng mặt tái mét, trên người đánh mỗi chiếc quần cộc bạc phếch thủng lỗ, chỗ giọng mếu máo:
    - Các ông các bà ơi, cứu nhà cháu với. Nó sắp đẻ …

    Thì ra là vợ trương Thấn. Trương Thấn quanh năm quăng chài ngòi Mác, bắt ếch thành thần. Hắn nghèo rớt mồng tơi, mãi ba mươi tuổi mới lấy được cô Tăng con ông Biểu Ngạch. Cô này trước đã có một đời chồng nhưng anh ta chết sớm vì bị rắn độc cắn trong một lần đi thả rọ cá trê. Cô Tăng đau bụng dữ dội mà đứa bé vẫn chưa chịu ra, anh chồng phải chặt cây chuối dìu vợ đến nhà bà Chánh. Trong số mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà không ai biết đỡ đẻ. Bà cả Huê đem bộ quần áo sạch cho cô ta rồi bảo nhà Thao con ông vệ Toàn đi đun nước. Cũng may sản phụ mới vỡ ối, cái thai lại thuận chiều nên chỉ già một khắc thằng bé đã lọt lòng mẹ. Bà Phó lý tìm mãi mới được chiếc liềm cắt rốn. Liềm cùn phải cưa đi cưa lại mấy lần mới đứt.

    Toàn bộ làng Cùa ngập trong biển nước. Đây đó những hàng tre, những bụi chuối và đám ổi phất phơ dưới làn nước đục ngầu lẫn vô số rác rưởi, giường phản bàn thờ, thúng mủng nổi lềnh phềnh cùng với xác gà chó bắt đầu nặng mùi.

    Đến trưa ngày thứ ba thì những kẻ còn sống sót ở làng Cùa thực sự rơi vào một thảm hoạ. Ngay giữa ao đình, một đàn trâu chừng năm sáu con của nhà Phó lý Dần chết từ hai hôm trước giờ trương phềnh chẳng khác gì những con voi cụt vòi bị sóng đẩy giạt vào bờ. Những cặp mắt trắng dã mở thao láo, bất động. Đám lông hung hung đỏ ở trán con trâu đực sứt mũi đã bắt đầu rụng từng mảng. Ngay cạnh nhà Khúc Kiệt, nơi có khoảnh ao rộng vẫn thả bèo cái, phập phều mấy xác lợn. Bụng chúng phình ra như là ăn cám quá no làm cho chiều dài ngắn đi trông giống hệt những chú lợn béo mũm mĩm để trong kiệu được cánh tuần đinh khiêng ra đình tế thần. Chỉ có điều lợn hiến tế thì thơm phức vô cùng hấp dẫn còn loại chết trôi này đang bốc mùi lợm giọng. Kinh nhất là quản Thông chết trong hòm thóc. Cái hòm gian của lão chứa ngót bảy chục thúng . Lúc nước về, quản Thông bắt vợ ngồi lên xà nhà. Lão xúc từng thúng leo lên đưa cho bà ta đổ vào tấm phản quây lá cót. Được độ bảy tám thúng quản Thông bị trượt chân, đổ thang rơi trúng miệng hòm. Lão đang quờ quạng tìm lối ra thì cùng lúc nước phá sập bức tường. Chiếc hòm khổng lồ ngập sâu dưới nước, phải ba bốn ngày sau hàng xóm mới đưa được lão ra cùng với đám thóc lúa đã nảy mầm như là mống mạ sắp sửa đem gieo. Người Quản Thông thối hoắc, trương lên như con bò mộng không nhét vừa bất cứ thứ quan tài nào. Cánh tuần đinh phải tháo cả khuôn cửa bức bàn thửa cho lão một cái hộp tạm thời rồi đặt lên bè chuối đẩy ra đống Ba Quai chôn.

    Khi nước rút, các gia đình có người mất tích bắt đầu tìm kiếm xác nạn nhân. Khắp vùng Ba tổng đâu đâu cũng nhuốm màu tang tóc. Thằng Đạt con ông nhiêu Soạn lên chín tuổi mải bắt cào cào để trâu xuống tận đồng Quan. Tìm được trâu thì đã tối mịt, nó đội mưa dò dẫm về được đến cổng Mả Gạch thì bị nước lũ cuốn cả người lẫn trâu ra tận đầm Ma. Ông Soạn tìm hai ngày không thấy. Mấy hôm sau có người phát hiện giữa đám bèo tây cách bờ đầm vài thước có một xác chết mới nổi lên. Người nhà khó mà nhận ra thằng bé nếu ở cổ nó không còn chiếc vòng bạc với mấy quả nhạc chạm hình hoa cúc. Chiếc vòng thít lấy cái cổ chật cứng. Khuôn mặt thằng Đạt biến dạng đến mức quái dị. Từ trong hốc mũi, một con đỉa to bằng ngón tay cái dài loằng ngoằng thò ra rồi lại thụt vào. Hai vành tai nhợt nhạt bị lũ cá mương gặm nham nhở, còn cái miệng há hốc rộng đến khủng khiếp, phơi ra hàm răng đen xỉn nhớp nháp phù sa lẫn với rong rêu. Một con cua bằng ngón tay đang dùng càng gặm dần từng tí một thứ thịt đã mủn bốc mùi hôi thối không thể chịu nổi ở các kẽ răng.

    Khúc Luận ngồi trên ban công tầng hai thả dây câu xuống sân. Cái lưỡi câu to sụ của nó mắc một con châu chấu đã vặt cánh. Nước vẫn còn cao hơn mặt sân lát gạch Bát Tràng của nhà họ Khúc già một thước. Mấy chiếc thuyền mủng buộc cạnh cửa chính. Đầu hồi còn chiếc bè đóng bằng cây chuối hột của nhà cả Thuần. Ông Thuần đi tìm vợ đã ba ngày nay mà không thấy, đói quá, chống bè vào sân nhờ bà Chánh bữa cơm. Lúc bà cả Huê bưng mâm ra, chẳng biết nghĩ ngợi thế nào ông ta ôm mặt khóc hu hu làm những người ở nhờ cũng sụt sịt lau nước mắt.

    Chốc chốc thằng Luận lại giật được một con lúc thì cá giếc lúc thì cá rô, toàn loại cỡ bàn tay, con nào cũng béo múp. Thằng Tuyền còi con nhà Kim Sẹo cởi truồng chống mủng ra gò Kim Kê đào giun. Chưa đầy nửa giờ nó đã bắt được một gáo dừa. Thằng Luận có vẻ không sát cá bằng thằng Tuyền nhưng toàn nhấc được cá to. Chiều hôm ấy, nó giật được chú chép vàng óng, nặng đến gần một ký, kéo trĩu cần. Bị lôi lên khỏi mặt nước mà mắt nó vẫn đảo loang loáng, vành môi trề ra, còn cặp râu đỏ cong vút khẽ rung rung như là vẫn đang trong giấc mộng êm ái sắp sửa vượt vũ môn hoá rồng.

    - Đúng là cá chép sông Lăng - Ông cả Thuần ngắm nghía con cá một thoáng rồi bảo - Có khi nó là con vua Thuỷ Tề, ham chơi quá rồi bị bắt. Theo tôi thì nên thả nó ra. Biết đâu, sau này …
    - Thả là thả thế nào. Loại chép này rán giòn nhắm rượu ngon phải biết.
    - Mày nói chứ như thành phán ấy - Bà Huê bảo.
    - Cháu nói thật đấy. Chốc nữa bà Chánh đem luộc một nửa nấu cháo còn đâu thì rán.

    Bà phó lý có màu đồng bóng, trong nhà lập điện thờ, nghe thằng Tuyền còi nói vậy liền bảo:
    - Ăn cá lúc này tức là ăn … thịt người chết đấy.

    Bà cả Huê nhăn mặt:
    - Phỉ phui cái nhà thím này, chỉ nói nhảm.
    - Chứ lại không à ? Tôi mà nói sai thì xin đi bằng đầu. Này nhé, vỡ đê nước ngập, người chết, trâu bò lợn gà chết, chôn làm sao kịp. Mà cái giống cá nó bơi khắp nơi, chỗ nào có thức ăn là tìm đến tranh nhau rỉa. Đấy là chưa kể trong làng còn hàng trăm chuồng xí ngập nước nữa … Có vậy nó mới béo múp thế kia. Mọi người thử nghĩ xem tôi nói có đúng không ?
    - ờ nhỉ ! - Có ai đó quay ra ban công khạc nhổ.

    Bà cả Huê cầm con cá chép bằng cả hai tay lẳng xuống sân.
    - Thôi phóng sinh cho mày.
    - Kìa mẹ ! - Khúc Luận tiếc đứt ruột vội kêu lên.
    - Từ nay ăn cơm với muối rang - Bà bảo con trai - Không câu nữa.

    3. Sau trận lũ mười một ngày, nước rút mới thấy quan phủ Đông Giàng cưỡi ngựa về vùng Ba Tổng. Không phải ông ta quan liêu mà cái chính là nước lũ phá hỏng nhiều đoạn đường, ô tô không đi được. Chả lẽ các bậc " dân chi phụ mẫu" lại lội bộ hàng mấy chục cây số từ phủ đường về làng Cùa chỉ để an ủi những xác chết.

    Đã nhận được công văn từ trước, cánh chức dịch lếch thếch kéo ra đình bàn nhau xin miễn thuế. Ngôi đình làng, thường gọi là đình Cả, to và đẹp vào bậc nhất hàng tổng, giờ tan hoang , xơ xác đến thảm hại. Bùn đất, rác rưởi phủ dày hàng tấc trên sàn gỗ lim. Một con chó trụi sạch lông, cái miệng ngoác ra toàn răng là răng, chẳng biết của nhà ai, chễm chệ "ngự" trên long án thành hoàng trong hậu cung, thỉnh thoảng lại rên ư ử vì đói. Tám bộ cánh cửa bức bàn bị gẫy, đổ liểng xiểng , trôi giạt khắp ao. Một bộ gọng vó bè với chiếc lều đã tước hết rơm rạ mắc cứng vào cây mẫu đơn ngay trước sân đình. Cái đầu con voi đá bên tả vu vỡ một miếng khá lớn, trông như vừa bị chém.

    Các hào mục đón quan bằng đủ thứ y phục vớ được sau trận thuỷ tai. Phó tổng Lê Bang khăn xếp, áo the thâm nhưng chỉ còn một vạt, vạt kia cụt đến thắt lưng. Mấy hôm trước, ông ta ngã trên sàn để thóc xuống, bị sai khớp, giờ, mỗi khi ra ngoài vẫn phải chống gậy. Chánh tổng Cao Lộng đánh chiếc quần soóc nhà binh bằng kaki vàng nhưng lại kiếm được chiếc áo the mới trùm lên. Lão ta đứng yên còn tạm được, nhưng nếu bước đi là cặp giò dài ngoẵng đen nhẻm với đôi đầu gối củ lạc lòi ra chẳng khác gì Táo Quân sắp lên chầu Thiên Đình. Hài hước hơn cả là lý trưởng Ngô Quỳnh. Đầu ông ta quấn khăn xếp to tổ bố như chiếc đai thùng gỗ đựng chượp, quần cháo lòng ống thấp ống cao, khoác chiếc pađờ xuy bằng dạ đen nhà binh mà hàng khuy đồng đã tuột gần hết. ống tay và nhất là hai vạt bị gián nhấm thủng lỗ chỗ. Sở sĩ lý Quỳnh ăn mặc kỳ quái như thế là bởi hòm khoá chuông quần áo nhà ông ta bị nước cuốn cùng với toàn bộ gia sản ngay sau khi vỡ đê. Bà vợ và hai cô con gái còn thảm hại hơn, mất sạch váy áo nên mấy hôm nay không dám ra ngoài. Nhìn đám thuộc hạ ăn mặc nhếch nhác, lố lăng như một lũ hành khất, tri phủ Đỗ Khánh lắc đầu thở dài:
    - Bản chức đã sức cho tri huyện Nam Thành bảo các thày hằng năm phải đốc thúc dân phu tu bổ các đoạn đê xung yếu nhất là chỗ điếm Bài Vân, thế mà chỉ kéo bè kéo cánh kiện cáo nhau rồi lại ngả vạ đánh chén để tai họa xảy ra khổ cho dân, chuyện này biết ăn nói thế nào với quan Tuần.

    Phó tổng Lê Bang khẽ kéo vạt áo cho kín bụng, khom người khẽ nói:
    - Bẩm quan, sức nước năm nay còn lớn hơn cả năm ất Sửu. Trận lũ này thực ra là tại trời, sức người không chống lại được, cúi mong quan lượng tình xét miễn thuế cho vùng Ba Tổng.

    Lý Quỳnh nóng quá, cứ ngọ nguậy trong chiếc áo dạ Tây, đưa mắt cho chánh tổng Cao Lộng rồi hắng giọng:
    - Vùng Ba Tổng thì làng Cùa thiệt hại nặng nhất. Số người chết là bốn mươi bẩy. Toàn bộ lương thực, hoa màu mất sạch. Chúng con lo rồi đây còn nhiều người chết đói nữa.

    Những tiếng cuối cùng của Lý Quỳnh nghèn nghẹn như là ông ta sắp khóc. Viên tri phủ, dù đã nắm được tình hình thiệt hại sau trận lũ, nét mặt vẫn thản nhiên chẳng có vẻ gì là xúc động. Trước khi lên ngựa cùng đám tuỳ tùng về gặp quan huyện Nam Thành Cáp Văn Tòng, ông ta chỉ nói lấp lửng mấy câu:
    - Việc này bản phủ sẽ làm công văn trình lên tỉnh đường để quan Tuần xin chỉ thị của người Nhật. Hiện nay quân đội Thiên Hoàng đang đánh nhau với phe đồng minh, rất cần chiến phí nên chưa biết thế nào mà nói trước.

    Quả nhiên, mười ngày sau quan huyện Nam Thành có trát sức cho dân vùng Ba Tổng vẫn phải đóng thuế đinh, điền theo hạng ngạch như cũ. Làng Cùa xa tỉnh xa huyện, từ sau vụ lụt đến giờ chẳng biết thiên hạ sự diễn biến ra sao. Bị rơi vào thế cùng quẫn, đằng nào cũng chết, họ bàn nhau kéo lên phủ Đông Giàng gặp nhà chức trách. Cùng lúc ấy Khúc Kiệt về làng. Ông ta về ban đêm mang theo cả một đội quân mặc toàn quần áo đen, súng ống lỉnh kỉnh giống như một toán thổ phỉ. Thủ hạ của Khúc Kiệt giúp ông ta dựng lại ngôi nhà. Họ đông người, làm rất nhanh, sau đó chia thành từng nhóm, đi khắp làng thu dọn rác rưởi, chôn xác súc vật chết, tìm kiếm người mất tích ở đầm Ma hoặc dọc theo các bãi chuối ở triền sông Lăng. Số khác làm một cuộc tổng vệ sinh, cọ rửa đình Cả, lắp lại cánh cửa. Đình Cả là ngôi đình lớn nhất tổng Kim Đôi. Cột lim bằng vòng tay ôm, sàn gỗ gụ dày bốn phân, nhẵn bóng, ghép khít đến mức gần như không nhìn thấy mối nối.

    Khúc Kiệt lôi ở đâu về chiếc trống đại to hơn cả cái ang đựng thóc, mặt bưng bằng da con trâu đực thiến, đặt trên giá gỗ ngay cửa đình. Sáng sớm ngày mười chín, mọi người chưa kịp thức dậy đã nghe thấy tiếng rùng rùng như sấm động đúng ba hồi chín tiếng. Cả làng hôm ấy nghỉ việc kéo nhau ra đình. Lý trưởng Ngô Quỳnh tức lắm, sai tuần đinh bắt Khúc Kiệt nhưng rốt cuộc chính ông ta lại bị cánh quân áo đen trói gô giam vào hậu cung. Lê Bang đang khám thuế ở Bối Khê nghe tiếng trống lạ tai tưởng là có cướp vội hấp tấp lên ngựa phi nước kiệu về Cùa. Ông ta vừa đến đầu làng đã bị trói giật cánh khuỷu dẫn vào đình giao cho mấy tay súng canh giữ. Phó lý Dần thấy làng có biến liền ăn mặc giả làm người đánh chài, luồn ra đồng Mả Gạch định lên huyện báo quan. Lão vừa thò đầu ra khỏi bụi tre nhà cả Phê thì một người áo đen lưng thắt đai da đeo hai quả lựu đạn to bằng cái chày giã cua đang đứng đái ở góc vườn nhìn thấy. Hắn ta nâng khẩu Mútxcơ tông lên vai quát:
    - Ông kia, đi đâu ?

    Phó Lý Dần đã vượt ra khỏi hàng rào, nhớn nhác nhìn quanh, chỉ thấy có một người lên co cẳng chạy.
    - Đứng lại ! - Người mặc áo đen kéo khoá nòng rê nhanh mũi súng về phía ông phó lý.

    Ông ta có vẻ hiếu kỳ, vừa nhảy lò cò như là con khỉ bị sập cạm gẫy chân, vừa ngoái lại nhìn khẩu súng dài ngoẵng trên vai người áo đen. Tay thủ hạ của Khúc Kiệt chơi trò mèo vờn chuột chỉ muốn doạ cho viên phó lý sợ một mẻ vãi đái ra quần rồi ngoan ngoãn quay trở lại. Ai ngờ ông ta chạy mỗi lúc một xa, sắp sửa ra khỏi tầm đạn: "Lão mà thoát thì đoàn trưởng Khúc xử tử mình mất". Hắn chợt hoảng lên và vội vã kéo cò. Một tiếng nổ chói tai như tiếng pháo đùng. Đằng kia, phó lý Dần khựng lại, hai tay ông ta chới với đưa ra phía trước, loạng choạng một lúc khá lâu mới ngã xuống khoảnh ruộng vẫn còn ngập nước sau trận lũ. Ngoài đình, Khúc Kiệt đã tập trung được hầu hết dân làng Cùa cả đàn ông lẫn đàn bà. Mọi người còn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra thì ông ta bước lên chiếc bục cao kê bằng hai chiếc án thư của nhà chưởng bạ Giang bắt đầu hiểu dụ. Khúc Kiệt lúc này trông oai phong như một viên thủ lĩnh quân sự trước đám dân chúng dốt nát trong bộ y phục đen tuyền. Khẩu súng lục nòng dài thò cả ra ngoài cái hộp to đùng bằng gỗ sơn đen, kéo trễ chiếc đai da xuống ngang hông làm bụng ông ta thót lại như con chão chuộc. Bẩy tám năm đi khỏi làng, Khúc Kiệt đã dày dạn phong sương, không còn dấu vết nhăn nhúm, thiểu não của ông đồ gàn ngày trước. Mỗi tác phong của họ Khúc đều mạch lạc, dứt khoát, từ cử chỉ chém tay đưa mắt đến hất hàm ra lệnh đều chứng tỏ thứ uy lực tối thượng mà những kẻ dưới quyền phải nhất nhất chấp hành. ở nhà, vợ Khúc Kiệt và nhất là mấy đứa con không thể tin được chồng mình, bố mình thay đổi nhanh đến thế. Họ đều biết đấy là ông ta nhưng đồng thời lại không phải là ông ta, bởi một gã "bạch diện thư sinh" ngày xưa chỉ biết nhẫn nhục phó thác số phận cho thần may rủi, ép bụng nhịn đói đọc sách thánh hiền, bỗng chốc đứng sừng sững trước bàn dân thiên hạ tuyên ngôn bằng những lời hết sức táo bạo:

    - Thưa bà con, từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, chúng câu kết với thực dân Pháp, đàn áp, bóc lột nhân dân ta vô cùng tàn bạo. Chắc mọi người còn nhớ chuyện hai tên giặc Lùn xả kiếm chém ông phó Đắc vì trong nhà có khẩu súng "dóp" hồi cuối tháng trước. Gần đây nhất là việc cô Thời con ông hương Ngạch bị hiếp ở chợ Cháy giữa ban ngày. Tội ác của chúng thật trời không dung, đất không tha. Chính vì vậy, Mặt trận Việt Minh khẩn thiết kêu gọi toàn thể đồng bào vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng dân tộc, xây dựng nhà nước độc lập tự do, thực hiện chính sách người cày có ruộng, tiến tới chủ nghĩa Cộng sản làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Trước mắt, chúng ta phải đoàn kết chống lại chủ trương thu mua thóc tạ và nhổ lúa trồng đay của Nhật. Ai cũng biết, vùng Ba Tổng vừa bị trận vỡ đê khủng khiếp. Chỉ qua một đêm mất sạch nhà cửa, tài sản, hoa màu, chết gần trăm mạng người. Giờ đây nhiều nhà đã bỏ làng kéo đi bốn phương khất thực. Các quan lại cai trị chẳng những không cứu đói cho dân mà còn về hùa với giặc đè cổ dân nghèo ra tróc thuế. Tôi xin hỏi, làng Cùa của chúng ta có nộp cho họ không ?
    - Không nộp !

    Hàng trăm cái miệng gào lên đồng loạt làm rung chuyển cả mái đình. Những tiếng hô đầy phẫn uất dội vào hậu cung làm Lê Bang và Ngô Quỳnh sởn gai ốc. Mấy ông này vốn rất ngu ngơ về chính trị, cứ nhận được trát quan trên là "án khoa nhi hành" chẳng nghĩ gì đến nỗi cơ cực của dân đen, giờ thời thế đã thay đổi, lão thầy đồ họ Khúc kéo quân về, tính mệnh cả bọn chắc là nguy đến nơi rồi. Sân đình Cả lát gạch Bát Tràng rộng thênh thang, phía bên trái có dãy nhà ngang hơn chục gian để cánh nhà bàn phục vụ những ngày vào đám. Đội quân áo Đen của Khúc Kiệt đặt đại bản doanh tại đây mà chẳng cần vào hậu cung “xin phép” lý trưởng Ngô Quỳnh. Lính của Khúc Kiệt toàn người thiên hạ, phần lớn còn trẻ măng, có những gã chưa đến mười bảy, anh nào mặt cũng lạnh tanh, sát khí đằng đằng. Cứ vài hôm lại thấy một toán chừng bảy tám người vượt sông Lăng sang làng Bòng chuyển lương thực về. Kẻ Bòng lắm ruộng nhiều thóc gạo, tha hồ mua. Sau này mới biết, từ ngày vùng Ba Tổng vỡ đê, lái Lự kiêm luôn cả nghề buôn gạo. Những năm dạy học trước đây, Khúc Kiệt có đôi lần qua lại với lão lái trâu, giờ ông ta trở thành nguồn cung cấp nhu yếu phẩm cho đội quân áo Đen. Dạo ấy lúa cũng đã đỏ đuôi nhưng phải nửa tháng nữa mới được gặt. Lái Lự phất lên trông thấy nhờ đầu cơ lương thực nhưng lão cũng biết tự bảo hiểm cho tính mạng, phòng khi bàn cờ thế sự xoay vần, bằng cách bỏ ra bốn tấn chiêm trăng chẩn cấp cho những nhà sắp chết đói vùng Ba Tổng.

    Từ hôm phó lý Dần bị bắn chết, các vị chức sắc sợ xanh mắt không anh nào dám ra khỏi cổng. Lê Bang, Ngô Quỳnh được thả về nhưng vẫn bị Khúc Kiệt cử người giám sát. Một đêm lý Quỳnh lẻn sang nhà chánh Đàm gặp bà cả Huê. Bà này đang căm Khúc Kiệt vì ông ta ra lệnh trưng thu toàn bộ số thóc còn lại sau trận lụt chuyển ra đình. Việc làm này hẳn là có liên quan đến mối hiềm khích giữa hai anh em họ Khúc hồi lão Chánh còn đương chức. Bà Huê chẳng nể nang gì, luôn miệng chửi Khúc Kiệt là quân thổ phỉ. Chiều nào bà ta cũng chõ mồm sang nhà em chồng cạnh khoé. Khúc Kiệt thường xuyên vắng mặt vì còn phải cai quản đám tay chân ngoài đình. Vợ lão vốn hiền lành, nghe bà Cả chửi ngoa ngoắt mãi không chịu được bảo Khúc Vĩ:
    - Mày mang cái đũa quấy cám lợn sang quật vào mồm mụ ấy ra cho tao.

    Cô con gái ,là Khúc Thị Nhân, lúc ấy đã mười bẩy vội can:
    - Đừng. Bác ấy xót của không biết kêu ai, chửi bới cũng là lẽ thường. Có trách là trách bố ấy. Làng Cùa còn ối nhà giàu nứt đố đổ vách sao không bắt nộp hết thóc mà lại trưng thu của bác Cả.

    Khúc Vĩ lẩm bẩm:
    - Chuyến này có khi bố làm chánh tổng.

    Khúc Văn cười nhạt mắng em:
    - Thời buổi nhiễu nhương trắng đen lẫn lộn, biết thế nào mà mày nói càn.

    Cuối cùng thì lý Quỳnh cũng tìm cách báo được cho quan huyện Nam Thành. Tri huyện Nam Thành đã biết tiếng đội quân áo đen vội trình lên phủ Đông Giàng. Viên tri phủ lập tức cử ngay một cơ lính nai nịt như sắp sửa đi trận hành quân về làng Cùa. Đường từ phủ lỵ về làng Cùa xấp xỉ ba chục cây số. Tốp lính Triều đình chân đất, nón chóp đỏ, vác súng mút vừa đi vừa chạy gằn dưới trời nắng gắt, anh nào anh ấy vã mồ hôi hột. Viên đội khố xanh, mặt bèn bẹt có cặp tai vểnh lên như tai chuột, kè kè bên sườn bình rượu bằng nhôm hình quả lê chốc chốc lại mở nắp tu một ngụm. Mặt hắn đỏ gay, mái tóc rễ tre cờm cợp chờm xuống tận gáy trông chẳng khác gì một tay lận rừng đã lâu mới có dịp hạ sơn. Chạy phía sau viên đội là một phó lãnh binh người xứ Nghệ. ông ta theo nghề cung kiếm dễ đến ba chục năm, sức khoẻ đã giảm sút nên tham gia vận động dã chiến kiểu này xem ra không mấy thích hợp. Vai khoác súng, nòng hướng lên trời, lưng đeo bạc đà, quân dụng nặng trĩu, ngài chỉ huy vừa chạy vừa thở hắt ra như sắp hết hơi. Vừa may gặp một cái quán bỏ không cạnh đống Lủi, ông ta hạ lệnh cho lính tạm nghỉ. Nhìn thấy hai bên đường là khu đồng màu của làng Bảo Nham trồng toàn dưa chuột, các thầy quyền chẳng ai bảo ai, nhất loạt lao xuống ruộng, vặt đầy nón ngồi nhai rau ráu.

    Khoảng cuối giờ thân, đám quan quân phủ Đông Giàng về đến địa giới làng Cùa. Họ nhanh chóng tản ra theo đội hình chiến đấu rồi bắc loa kêu đối phương ra đầu hàng. Trong này Lê Bang, Ngô Quỳnh trèo lên tầng hai nhà bà cả Huê chuẩn bị trợ chiến theo phương thức "nội công ngoại kích". Đội quân áo Đen, sau một thời gian ở làng Cùa đã nắm chắc địa hình địa vật. Họ lại được phần lớn dân nghèo ủng hộ nên không hề tỏ ra mất bình tĩnh. Mấy tay thám sát vòng ngoài cho biết, bọn lính chỉ có khoảng ba bốn chục tên. Việc làm đầu tiên là giám sát nhà bà cả Huê không cho Lê Bang và Ngô Quỳnh thoát ra ngoài. Sau đó họ cử các tay súng có kinh nghiệm chiến đấu trấn giữ hai cổng làng và những nơi hiểm yếu đề phòng địch đột nhập bất ngờ. Đêm xuống rất nhanh. Sương giăng giăng như khói che mờ ánh trăng hạ tuần hắt xuống sân đình thứ màu bềnh bệch nhạt nhẽo. Từ phía đầm Ma có con cuốc lẻ đàn nào đó kêu một cách nhẫn nại thứ âm thanh đều đều khắc khoải làm đêm vùng chiêm càng hoang dã, bí hiểm. Lũ chim nước, sau cơn Hồng thuỷ, chẳng biết ở đâu kéo về hàng đàn hàng lũ, suốt đêm lần mò ở khu ruộng trũng. Bóng của chúng lúc tụ lại như một đám mây xám, lúc lại toẽ ra thành vô số đốm trắng nhợt, bay là là trên mặt đầm, vỗ cánh phành phạch gọi nhau bằng đủ thứ ngôn ngữ như đang chuẩn bị cho "Dạ Hội Cò Vạc". Trên cây me nhà Thường Rỗ, một con cú rúc lên mấy tiếng nghe rợn người. Con cú có những chiếc lông trắng ở đầu cánh này trước vẫn trú ngụ ở cây gạo gần nhà phó lý Dần. Từ khi ông ta chết, chẳng hiểu sao nó lại chuyển về đây. Nghe tiếng cú, Thường Rỗ sợ quá mở cửa ra sân nhặt một hòn gạch ném lên cành cây. Hắn yên trí vào nhà chắc mẩm con chim đã bay đi nơi khác. Chẳng ngờ tay bắt ếch vừa thiu thiu con quái điểu ấy lại rúc mấy tiếng làm hắn giật bắn như vừa bị bóng đè.

    Cuộc chạm súng bắt đầu vào sáng hôm sau khi một đội viên áo Đen của Khúc Kiệt bị bắn vào chân. Anh ta là một trong ba người gác cổng chính. Tên phó Lãnh binh sau mấy lần gọi loa, không thấy trong làng động tĩnh gì liền dàn quân theo hàng chữ nhất. Trước khi vào cuộc, hắn ra lệnh cho bọn thuộc hạ bắn một loạt thị uy. Các đội viên áo Đen lặng lẽ chờ cho đám lính đến đúng cự ly mới bình tĩnh kéo cò. Họ vốn là những tay thiện chiến đã từng chạm chán đủ loại khố xanh, khố đỏ thậm chí cả trùm cướp Lý Ba Mùi ở vùng Hạ Diễn nên không dễ gì khuất phục. Sau loạt đạn đầu tiên, bốn gã tốt đen đã về chầu ông vải. Ba tên khác bị thương nặng. Một thằng đạn sượt vào yết hầu. Viên đội phải cởi chiếc bao vàng giống như ruột tượng quấn quanh cổ hắn đến ba vòng mà máu vẫn phun ra như xối. Phía cổng hậu, Khúc Kiệt cho năm tay súng phục ở cửa nhà quản Thông. Bọn lính quét một loạt đạn trước khi nhảy vào chiếm hai cánh gà làm cứ điểm để phát triển vào làng. Mấy tên vừa lom khom ôm súng nhớn nhác nhìn quanh thì một loạt tiếng nổ hất chúng ngã xuống bờ ao. Một thằng lồm cồm bò dậy, xoay mũi súng định nháy cò lập tức bị cú song phi trời giáng vào bụng, ngã sóng soài. Những tên còn lại sợ quá, quẳng súng xin hàng. Khúc Kiệt cho điệu chúng về đình Cả.

    Ông ta hỏi tên lính mặt già cấc có nốt ruồi bằng ngón tay út đậu ngay cạnh lỗ mũi bên phải :
    - Tại sao lão tri phủ Đông Giàng biết chúng tao về làng Cùa ?
    - Bẩm quan, cái đó tôi không được biết.
    - Thế thì ai biết ? Nói mau !
    - Bẩm, ông phó Lãnh binh đang còn ở ngoài làng.
    - Còn những ai biết nữa ? - Khúc Kiệt nhìn hết lượt mấy tên bị bắt rồi quát - Muốn ăn đạn phải không ?

    Tên lính già sợ chết chỉ liều vào cai Huyến đang ôm sườn nhăn nhó vì ngón đòn hiểm của một đội viên áo Đen:
    - Có lẽ ông Cai biết.

    Một đội viên lôi xềnh xệch cai Huyến đến trước mặt Khúc Kiệt. Tên này còn nhát gan hơn cả thuộc hạ của mình, chưa đợi tra hỏi đã khai vanh vách:
    - Bẩm quan lớn, sở dĩ quan phủ biết được là vì ông lý Quỳnh cho người lên huyện Nam Thành mật báo có một toán thổ phỉ về xúi dân làng Cùa nổi loạn.
    - Được lắm !- Khúc Kiệt cười nhạt - Các anh giam bọn này vào hậu cung chờ tóm hết lũ sâu mọt ngoài kia rồi ta sẽ hỏi tội chúng.

    Kết thúc đợt tấn công thứ ba, đạo quân của Triều đình gần như đã mất hết nhuệ khí. Tay phó Lãnh binh bị một viên đạn xuyên vào mông và bốn chiến binh què cẳng. Lũ này bò lê lết lên sườn đống Mả Hủi để cho đồng bọn băng bó. Một thằng máu ra nhiều quá, mặt xanh như chàm đổ, miệng rên hừ hừ, thỉnh thoảng lại giật nảy lên như người mắc chứng kinh phong cấp.

    Lần đầu tiên trong đời dân làng Cùa chứng kiến cảnh chạm súng giữa hai đội quân. Lúc đầu những kẻ hiếu kỳ còn chạy ra xem, sau thấy đạn bay chiu chíu, rồi người bị thương máu thảy nhoe nhoét thì hốt quá, vợ chồng con cái lôi nhau vào nhà, đóng cửa lại. Đến trưa hôm sau tình hình trở nên đặc biệt nguy hiểm , vì những viên đạn bắn vô tội vạ của lũ quan binh đã giết chết gã thợ rèn méo mồm và làm thằng Quyết thọt , đang kéo bễ bị vỡ quai hàm. Họ rủ nhau đến nhà chánh Đàm. ở đây có tường gạch chắn chắn, đạn súng mút khó có thể xuyên thủng được. Những nhà khác đào hầm ngay dưới gầm giường, nghe tiếng sung là bảo nhau chui xuống.

    Viên suất đội căn cứ vào tấm sơ đồ lý Quỳnh vẽ tìm cách lọt được vào làng bằng lối cổng hậu. Hắn bị một viên áo Đen phát hiện nhưng bắn trượt. Tên này chạy vòng vo một lúc thì bị lạc đường. Đáng lẽ rẽ tay trái vào nhà bà cả Huê để gặp lý trưởng thì hắn lại quặt phải đến ngay cổng nhà Khúc Kiệt, bị Khúc Văn tống cho một gậy từ phía sau, chỉ nghe đến "hự" một tiếng rồi ngã chúi về phía trước. Khúc Vĩ cướp ngay khẩu súng nòng dài, bẻ quặt hai tay để Khúc Văn trói lại giải ra đình. Ngay lập tức, Khúc Kiệt cho người vào nhà chánh Đàm lôi lý Quỳnh ta hỏi tội. Lý trưởng không phải tay vừa, chối phắt việc cử Trương Hoà lên huyện báo quan. Chỉ đến khi Khúc Kiệt cho giải viên suất đội từ hậu cung ra đối chất lão mới cúi đầu nhận tội.

    Đội quân áo Đen thiết lập pháp trường trên một gò đất nổi giữa ao đình. Lý Quỳnh mắt bịt băng đen bị trói vào cây tre đực chôn cao quá đầu. Lão sợ quá, bĩnh cả ra quần làm mấy người lính áo đen phải bịt mũi. Vào lúc năm tay súng đã lên đạn sắp sửa hành quyết thì từ sau đình, một người con gái tóc tai rũ rượi chạy đến bờ ao. Cô ta chẳng thèm vén váy, nhảy ào xuống nước và chỉ một thoáng đã leo lên gò đất đứng chắn trước mặt Ngô Quỳnh. Thì ra là Khúc Thị Nhân. Cô ta gần như gào lên về phía sân đình:
    - Không được bắn ông Lý ! Có bắn thì bắn tôi đây này.

    Khúc Kiệt không hề dự kiến tình huống này. Ông ta ngớ người ra một lúc rồi mới quát con gái:
    - Nhân ! Không việc gì đến mày. Về ngay !

    Cô con gái nước mắt ròng ròng, giọng thổn thức:
    - Bố mà bắn ông ấy tức là tự tay giết cả nhà. Nhà ta từ trước đến nay không có thù hằn gì với dân làng vì sao bố lại dẫn bọn người áo Đen vác súng ống về làm loạn cả lên ?

    Khúc Kiệt nghiến răng kèn kẹt:
    - Đồ ngu ! Mày thì biết gì, không về nhà tao cho người trói lại bây giờ.

    Khúc Thị Nhân giang hai tay về phía trước, mặt vênh lên:
    - Đây, bố lấy súng bắn chết tôi đi !

    Lúc ấy dân làng đã kéo ra đứng chật cả bờ ao nhưng tất cả đều im lặng theo dõi cuộc đấu khẩu giữa hai cha con họ Khúc. Khúc Kiệt đang phân vân chưa biết làm thế nào thì ngoài cổng làng tiếng súng lại rộ lên. Ông ta quay lại bảo viên phó chỉ huy:
    - Cứ tạm giam hắn vào hậu cung rồi sẽ tính sau, trước mắt phải đối phó với bọn quan binh đã.

    Khúc Thị Nhân lội từ dưới ao lên trông cô đẹp mê hồn. Cái nốt ruồi bằng hạt đậu màu hồng đậu dưới mắt trái giống như hạt ngọc trang trí tự nhiên làm gương mặt cô trở lên hấp dẫn đặc biệt. Cô bước đi trong tiếng sột soạt của tấm váy sồi còn ướt sũng nước vẽ thành những vệt vằn vèo trên nền gạch chỉ lát nghiêng. Vợ lý Quỳnh một người đàn bà phốp pháp, cặp mông thây lẩy như mông lợn thiến, quỳ xuống trước mặt cô con gái họ Khúc vái lấy vái để:
    - Muôn ngàn lần đội ơn cô. Không có cô, hôm nay ông nhà tôi đã thành ma đói. Cầu trời phật phù hộ cho cô sống lâu trăm tuổi.

    Khúc Thị Nhân đỡ bà béo dậy chép miệng bảo:
    - Ơn với huệ gì. Tôi phải liều ra đấy vì không muốn họ Khúc gây thù chuốc oán với cả làng.

    Đêm hôm ấy, Khúc Kiệt vào hậu cung hỏi viên suất đội:
    - Các anh đã chết bao nhiêu lính ?

    Tay đội khố xanh lưng vẫn còn đau ê ẩm, nửa nằm nửa ngồi, trả lời miễn cưỡng:
    - Trước khi tôi vào làng là bảy, bị thương bốn.
    - Còn "ngài" phó Lãnh binh ?
    - Bị đạn xuyên vào mông, có lẽ đã được đưa về huyện.
    - Các anh chắc đang đợi viện binh ? - Khúc Kiệt châm chọc.

    Viên suất đội phát bẳn:
    - Viện binh cái con khỉ. Giờ là lúc hỗn quân hỗn quan, lão tri phủ còn đang lo cái mạng của hắn, hơi đâu nghĩ đến chúng tôi.
    - Hiện tại ông là chỉ huy cao nhất ở đây. - Khúc Kiệt bảo - Nếu ông đồng ý đầu hàng rút quân về phủ, chúng tôi sẽ thả ông cùng mấy gã bị bắt hôm trước.

    Tay suất đội gật đầu :
    - Có gì mà chẳng đầu hàng. Tôi phục các ông sát đất đấy, nhưng ông cần phải biết, lúc này người Nhật mạnh hơn người Pháp nhiều. Họ mà kéo về đây làm cỏ làng Cùa thì các ông sẽ thành ma không đầu.

    Viên đội trưởng áo Đen cười nhạt :
    - Ông doạ chúng tôi đấy à ?

    Sáng sớm hôm sau, đám quan binh bại trận thất thểu lê bước trên đường quan về phủ Đông Giàng. Khúc Kiệt trở thành thủ lĩnh cao nhất vùng Ba tổng. Thanh niên các làng hữu ngạn sông Lăng nô nức rủ nhau gia nhập đội quân áo Đen. Họ là lực lượng tự vệ thường trực, sẵn sàng cơ động đến những nơi có biến, nổ súng chiến đấu.

    Vụ này vùng Ba Tổng chắc sẽ được mùa. Những cánh bãi sau khi nước rút, trước vẫn bỏ hoang giờ cũng lốm đốm đuôi gà. Lúa ba giăng ở chân ruộng vàn bông dài hạt thưa nhưng chắc quả , đổ rạp xuống, xếp lên nhau vàng óng như lụa tơ tằm. Trên các khoảnh cao sản vùng đồng Quan, Cổ Cò, Mả Me đâu đâu cũng nhấp nhô sóng lúa. Mùi thơm mát của dự hương, mùi nồng nồng của lúa tám đen lẫn với mùi ngai ngái của rạ tươi mới xén lan toả khắp đồng xa đồng gần, thậm chí còn được gió đẩy lên cao lơ lửng giữa bầu trời làm không gian sực nức không khí mùa màng.

    Làng Cùa trở lại cuộc sống thanh bình như nó vốn có. Ruộng bà cả Huê thẳng cánh cò bay, lúa chín vàng rực chạy suốt từ chân tre đình Cả đến tận đầm Ma. Tá điền lại chuẩn bị liềm hái, quang gánh chuẩn bị cho một mùa gặt mới. Đầu tháng trước, vì đói nhiều nhà đã bán lúa non lấy tiền đong gạo, giờ rủ nhau đến làm thuê cho bà Chánh.

    Khúc Luận đã lớn bổng lên. Ngoài giờ học, cậu ta suốt ngày la cà ở ruộng vừa xem tá điền cắt lúa vừa bắt bọ muỗm và chim cút. So với châu chấu cào cào thì bọ muỗm thuộc loại côn trùng quý phái. Chúng chỉ xuất hiện vào vụ gặt tháng mười như là một thứ tặng vật quý giá của ông trời giành riêng cho lũ trẻ nhà quê. Bọ muỗm khoác bộ cánh xanh lá mạ hoặc vàng rơm, con to cũng chỉ bằng ngón tay út nhưng dáng dấp mềm mại, cặp râu dài linh động và một thân hình thon thon như chiếc thoi dệt vải. Bọ muỗm ban đêm thường đậu trên nhánh lúa chín, nhất là ruộng tám xoan hoặc dự hương uống những giọt móc trời có lẫn hương thơm đồng điền. Ban ngày chúng la cà ở các bờ nước nhấm nháp chút cỏ non rồi quay về tránh nắng trong những thửa ruộng sắp gặt. Mỗi khi tá điền cắt gần hết một khoảnh, cào cào châu chấu và bọ muỗm bị dồn vào góc. Chúng bay loạn xạ như là đàn thiêu thân ban đêm gặp phải ánh đèn. Các bác lực điền vừa xén lúa xoàn xoạt vừa quờ tay vơ những con muỗm béo múp, bụng đầy trứng, lặc lè như những chiếc tàu bay chuồn chuồn sắp sửa hết xăng. Bắt được bao nhiêu, thợ gặt lại đưa cho thằng Luận. Từ sáng đến trưa thế nào cũng được lưng giỏ. Những con tự tay vồ được, thằng bé rủ bọn trẻ cùng xóm đốt lửa nướng ngay tại ruộng. Bọ muỗm nướng chín mỡ chảy ra béo ngậy. Cuối buổi, mặt đứa nào cũng nhem nhuốc, dính đầy tro than. Khúc Luận còn có biệt tài bắt chim cút. Những chú chim cút tròn ung ủng, lông xám, vào vụ gặt béo núc nhưng lủi rất nhanh tuy rằng không biết bay. Thằng bé có khả năng định vị tuyệt vời và óc phán đoán chính xác nơi con chim chui vào trong hàng loạt những mô rạ giống hệt nhau. Nó chỉ việc chắn hai tay hai phía rồi nhích dần vào giữa thế làm tóm được con mồi. Có hôm, Khúc Luận bắt được cả một lồng nhưng nó không phải là đứa ăn độc. Trước khi về nhà, thế nào thằng bé cũng chia cho lũ trẻ trâu mỗi đứa một con. Bọn này thường là đem về nuôi nhưng chỉ ít ngày sau lũ chim đồng đã bị mèo vồ hoặc xổng chuồng lủi mất.

    (còn tiếp)

  5. #5
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 5

    1. Làng Cùa tạm thời trở lại yên tĩnh. Khúc Kiệt bắt đầu thực hiện một số cải cách mà việc đầu tiên là trưng thu con ngựa bạch của nhà chánh Đàm. Hôm nào cũng vậy, ông ta dậy từ lúc còn mờ đất, nhảy phốc lên con tuấn mã chạy nước kiệu ra bến sông Lăng. Đường làng lúc này còn vắng, thỉnh thoảng mới gặp một bà nhặt phân chó. Những bà này nghe tiếng vó ngựa từ xa đã lẩn vội vào ngõ ngách hoặc bụi rậm. Cách đây mấy hôm, cô Mận thọt con ông trương Thình đã bị mấy hèo mây vào lưng vì tội dám để gánh phân thối hoắc giữa đường chắn lối đi của thủ lĩnh áo Đen. Mấy hôm sau, Khúc Kiệt mời các vị chức sắc trong làng ra đình hiến ruộng cho Cách mạng. Chánh tổng Cao Lộng dù chẳng muốn tí nào cũng phải rứt ruột nộp ra hai mẫu. Lý Quỳnh ngậm đắng nuốt cay mất toi một mẫu tám sào mà không kêu vào đâu được. Người chống đối gay gắt nhất là bà cả Huê. Bà ta lấy thế mẹ goá coi côi chẳng những không chịu nộp ruộng mà còn dứt khoát đòi con ngựa. Khúc Kiệt vốn không phải là người có tính nhẫn nại, nghe và chị dâu gọi mình là quân ăn cướp thì bật dậy như chiếc lò xo bị nén quá lâu, hàm răng ám khói thuốc lào nhe ra, giọng gầm gừ:

    - Yêu cầu bà Huê không được xúc phạm đến Cách mạng, nếu còn mồm loa mép giải, chúng tôi buộc phải có biện pháp cứng rắn.
    - Cách mạng gì các người. - Bà Huê đỏ mặt tía tai - Một lũ thổ phỉ thì có.
    - Này ! Chị đừng có quá đáng. Tội của nhà chị tử hình còn là nhẹ.
    - Có giỏi thì cứ bắn đi. Con này không sợ đâu nhé !

    Rõ ràng là Khúc Kiệt đang bị khiêu khích. Mặt ông ta tím lại, tay run run sờ vào bao súng lục. Phía bên này chánh tổng Cao Lộng che miệng giấu nụ cười khó hiểu. Giữa lúc Khúc Kiệt đang nghĩ cách trừng phạt bà vợ chánh Đàm để răn đe những kẻ có máu mặt ở làng Cùa đang rắp tâm chống đối thì người thư ký từ ngoài vào đưa một mảnh giấy. Ông ta đọc lướt qua rồi chau mày, ngồi thừ ra một lúc dường như chẳng để ý gì đến các khổ chủ bị triệu đến hiến gia sản. Bọn Cao Lộng thấy thái độ của thủ lĩnh áo Đen như vậy, ngầm đưa mắt cho nhau lặng lẽ rút lui. Các đội viên gác ngoài cửa định giữ lại thì Khúc Kiệt phẩy tay ra hiệu để cho họ đi sau đó chuyển mảnh giấy cho Lại Xuân Kiên vừa đi tuần tra về. Viên đội phó xoay dọc xoay ngang tờ giấy mãi không đánh vần nổi nhưng con chữ nghệch ngoạc bằng mực tím đành trả lại đội trưởng.
    - Bác đọc giúp, tôi chịu…

    Khúc Kiệt có vẻ như không mấy quan tâm đến vẻ lúng túng của Lại Xuân Kiên mà lên giọng hậm hực:
    - Thượng cấp cảnh cáo chúng ta manh động vì thời cơ chưa đến. Họ còn ra lệnh giải tán ngay đội công tác và xử lý kỷ luật tôi. Chú thấy bây giờ ta nên làm thế nào ?
    - Không được. - Lại Xuân Kiên lắc đầu - Bác mà giải tán đội áo Đen thì bọn Lê Bang, Cao Lộng, Ngô Quỳnh tha hồ làm mưa làm gió, dân Ba Tổng lại vô cùng khốn khổ.
    - Tôi cũng nghĩ thế. - Khúc Kiệt châm tờ giấy vào ngọn nến, đợi cho nó cháy hết rồi mới nói tiếp - Các ông thượng cấp ngồi dưới hầm bí mật cách xa chúng ta hàng trăm dặm biết thế quái nào được phong trào nông dân làng Cùa. Quan binh phủ Đông Giàng mang súng ống kéo nhau về đây bị chúng ta giã cho một trận tơi bời, còn bọn hào lý thì bạt vía kinh hồn, không dám lên mặt hách dịch. Đây chính là thời cơ thuận lợi để ta cướp chính quyền, vậy thì tại sao họ khai trừ tôi ra khỏi tổ chức và bắt chúng ta giải tán lực lượng ?
    - Cũng có thể cấp trên phòng xa bọn Nhật kéo về.
    - Nhật cũng chẳng sợ. Nếu chúng đem quân về đây ta sẽ rào làng chiến đấu, chú thấy thế nào ?

    Lại Xuân Kiên vẫn phục Khúc Kiệt là tay lắm mưu nhiều kế lại đọc chữ Quốc ngữ vanh vách nên tán thành ngay chủ trương của đội trưởng.
    - Được quá đi chứ . Bọn giặc Lùn thì cũng là người chứ có phải ba đầu sáu tay đâu mà lo.

    Nửa tháng trôi qua, làng Cùa vẫn bình yên vô sự. Khúc Kiệt cho rằng thượng cấp quá lo xa. Bọn Nhật còn mải đánh nhau với Pháp, hơi đâu chúng đem quân về cái làng hẻo lánh bên cạnh sông Lăng này.
    Một hôm Hàn Hành đến làng Cùa. Khúc Kiệt tiếp đón ông ta ở đình Cả như một thượng khách. Rượu được một tuần, Khúc Kiệt hỏi:
    - Có việc gì mà Bác quá bộ đến đây hay là được cấp trên cử đi công cán ?

    Hàn Hành lắc đầu, giọng nhạt nhẽo:
    - Tôi đã xin ra khỏi Đảng, bây giờ không còn trong tổ chức nữa.
    - Sao thế ? - Khúc Kiệt nghĩ mình nghe lầm - Bác xin ra ?
    - Phải, nếu không tự nguyện rút lui, trước sau họ cũng khai trừ. Cách đây ít ngày có một phái viên từ tỉnh về đưa cho tôi một cái giấy. Nội dung trong giấy nói tôi manh động, không chấp hành nghị quyết Trung Ương làm thiệt hại đến phong trào.
    - Hôm qua tôi cũng nhận được một cái thông báo như thế - Khúc Kiệt khoát tay ra vẻ bất cần đời - Tưởng chỉ có tôi, hoá ra bác cũng bị.
    - Có lẽ đấy là chủ trương chung.
    - Điều tôi lo là ở chỗ khác kia. - Hàn Hành hạ giọng thì thầm - Có một vài đảng viên ở bên Nam Ngạn đã bị mất tích. Chắc cấp trên sợ họ bất mãn, phản bội khai ra các đường dây bí mật, cho nên …
    - Cho nên bác mới tạm rời làng đi làm nghề thầy tướng chứ gì ?
    - Cũng là vạn bất đắc dĩ. - Hàn Hành chép miệng

    Khúc Kiệt mừng quá vì có thêm đồng minh, nắm chặt tay ông bạn cùng cảnh ngộ:
    - Thế thì bác ở đây với tôi. Lính Triều Đình đến cũng đánh. Nhật cũng đánh. Chúng ta sẽ giải phóng tất cả các làng bên hữu ngạn sông Lăng để xem cuối cùng chủ trương của ai đúng. Nói thật, tôi cũng bị xử lý kỷ luật rồi, nhưng đừng hòng Khoá Kiệt này giải tán đội quân áo Đen. Thời buổi hỗn quân hỗn quan phải có lực lượng vũ trang trong tay mới làm nên chuyện.
    Hàn Hành là kẻ thích vũ trang bạo động, nghe chủ trương của Khúc Kiệt, phấn khởi lắm liền bỏ nghề, ở lại làng Cùa.

    Sớm hôm sau, trời vẫn còn mờ tối, tiếng mõ cầm canh chưa kịp gióng hết hồi thứ ba, trên con đường thập tự đã vang tiếng vó ngựa rầm rập. ít phút sau đoàn kỵ sĩ rẽ vào làng Cùa. "Bọn Nhật !" có ai đó gào lên, giọng lạc hẳn đi vì sợ. Khúc Kiệt vừa thức dậy vãn còn ngái ngủ, ra lệnh cho các đội viên không được mở cổng. Hàn Hành ra sức thúc trống báo động còn Lại Xuân Kiên tập hợp anh em áo Đen chuẩn bị chiến đấu. Khúc Kiệt cử một đội viên trèo lên nóc đình gọi loa thông báo cho cả làng.
    - A lô ! Thưa bà con ! Bọn Nhật đã kéo quân về làng Cùa. Mọi người hãy ở yên trong nhà, cấm ra đường, để lực lượng tự vệ Cách mạng chuẩn bị chiến đấu, tiêu diệt bọn giặc lùn. A lô ! A lô !

    Một lúc sau, người gọi loa đi dọc theo đường trục từ đình Cả xuống bến sông, tiếp tục thông báo:
    - Cấm mọi người liên hệ với Nhật làm tay sai chỉ điểm cho chúng. Ai cố tình ra khỏi làng sẽ bị xử bắn tại chỗ.

    Trong khi ấy, bọn Nhật thông qua sự chỉ dẫn của tên phó Lãnh binh bại trận lần trước đang tìm cách đột nhập vào làng.
    Đầu tiên chúng cũng cho người gọi loa:
    - A lô ! Dân làng Cùa nghe đây. Quân đội Thiên Hoàng về đây để tróc nã tên trùm Cộng sản là Khúc Kiệt cùng đồng bọn đã xúi giục bà con chống thuế và đánh lại binh sĩ Triều Đình. Yêu cầu không ai được giúp bọn phiến loạn. Kẻ nào trái lệnh sẽ bị chém đầu.

    Để phụ hoạ cho tiếng loa của tên thông ngôn là loạt đạn bắn thẳng vào cổng làng. Đạn súng trường Nhật không xuyên thủng được cánh cổng lim nhưng là ngón đòn tâm lý đánh vào cân não làm già trẻ gái trai trong làng nháo cả lên. Ai cũng muốn ra khỏi làng nhưng lập tức bị những đội viên áo Đen chặn lại. Họ như con chạch bỏ giỏ cua, ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, người nào cũng lo ngay ngáy.
    Bọn Nhật xuất hiện quá bất ngờ, Khúc Kiệt chưa kịp hạ lệnh bắt giam bọn sắc mục thì lý trưởng Ngô Quỳnh đã vượt rào chạy ra ngoài. Hàn Hành sau khi nghe Lại Xuân Kiên thông báo nội tình làng Cùa liền bàn với Khúc Kiệt:
    - Việc lúc này rất gấp, không thể chần chừ. Vì vậy, cần phải cho bắt ngay chánh tổng Cao Lộng, chánh hội Hạp và con mẹ Huê vợ cả chánh Đàm. Để bọn này thoát được là chúng ta tự tay ký vào bản án tử hình.
    Vừa lúc ấy, một đội viên áo Đen xách mã tấu thở hổn hển vì vừa chạy từ ngoài cổng làng vào:
    - Báo cáo ! Anh em vừa bắt được chánh tổng luồn theo lối chuồng lợn nhà vệ Toan trốn ra ngoài.
    Cao Lộng cởi trần trùng trục, người dính toàn phân lợn, đầu tóc vẫn còn vương mấy đám mạng nhện. Lão ta giả làm người vớt bèo, lẩn xuống ao nhà phó lý Huấn, chạy đến nhà vệ Toan thì bị tóm. Khúc Kiệt liếc mắt nhìn Cao Lộng cười gằn:
    - Hừ ! lần này thì không thể tha được. Anh em đâu ! Mang ra ngoài miếu Cô Hồn xử bắn.
    Cao lộng nghe hai tiếng "xử bắn" hồn vía đã lên mây. Lão quỳ mọp xuống vái lấy vái để:
    - Tôi chót dại, mong ông Khoá mở lượng khoan hồng, sau này nguyện làm trâu ngựa đền đáp công ơn trời biển.
    Khúc Kiệt nghe lời cầu xin rất là ai oán đã có vẻ mềm lòng, Hàn Hành vội bấm vào tay ông ta khẽ bảo:
    - Làm Cách mạng là phải triệt để chuyên chính vô sản, không nên để thứ tình cảm mềm yếu của đàn bà chen vào. Bác mà tha hắn hôm nay, ngày mai hắn sẽ treo cổ tất cả lũ chúng ta lên cây đa đầu đường Thập Tự.
    Khúc Kiệt ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Bác nói phải !
    Cao Lộng bị trói quặt hai tay ra sau lưng, một đoạn thừng còn vòng qua cổ bắt chéo trước ngực như là quai đeo ba lô. Dải băng đen chẳng biết xé từ chiếc áo của ai bịt cứng hai mắt làm viên chánh tổng bước đi chệnh choạng. Mớ tóc chớm bạc xổ tung ra bay phất phơ trước gió. Bà vợ lão từ đằng sau lập cập chạy lên định quấn lại tóc cho chồng bị một người áo Đen dộng báng súng vào ngực. Bà ta kêu đến "hự" một tiếng nhổ ra một bãi máu tươi.

    Lần này cần phải hành quyết thật nhanh trước khi dân làng kéo đến. Để đỡ xảy ra rắc rối, Khúc Kiệt cử mấy đội viên áo đen quản thúc Khúc Thị Nhân không cho ra khỏi nhà. Miếu Cô Hồn nằm trên một bãi hoang, cây cối rậm rạp. Cạnh miếu có cây gạo cổ thụ. Những chùm hoa đỏ rực rỡ như lửa đang thả dần từng cánh mỏng hình lòng thuyền xuống nước. Mặt ao nổi lềnh bềnh toàn một thứ bèo ong màu xám. Thỉnh thoảng một con cá rô tinh nghịch vọt lên đớp lũ chuồn chuồn ớt. Bọn này xoè cặp cánh mỏng như tơ nhện, bay là là mặt bèo, chốc chốc lại đập đuôi xuống nước như là cố tình trêu ngươi. Trên cây cọc rào giữa ao, một con chuồn chúa hoa vàng dáng dấp đầy vẻ quý phái đậu gần như bất động, khoe chiếc đuôi dài óng ánh như được làm bằng giấy trang kim. Chú chuồn này xem ra chẳng mấy quan tâm đến chuyện người ta sắp sửa bắn nhau mà đang trầm tư thiền định mong sớm được chuyển kiếp làm người. Từ lâu lắm, theo các bậc cao niên kể lại thì xung quanh khu vực ao Quan này đầy ma đói ma khát của những kẻ chết đuối. Những cô hồn không nơi nương tựa thường rủ nhau vào làng quấy nhiễu dân lành, bắt trẻ con, dụ dỗ đàn bà con gái. Sau mấy lần mời thầy pháp về yểm bùa làm phép trừ tà không ăn thua, các vị chức sắc bàn nhau quyên tiền xây miếu và trồng cây gạo để những linh hồn vật vờ có chỗ đi về. Hằng năm, vào những ngày sóc vọng, lý trưởng phải mang hương hoa, phẩm vật cúng tế dân làng mới yên ổn làm ăn, mưa thuận gió hoà, mùa màng phong túc. Từ khi vỡ đê, miếu đổ, chỉ còn trơ lại cây gạo với mấy bụi tre gai bị sóng đánh lật nghiêng, trơ gốc khiến cho cảnh vật trở nên xơ xác, tiêu điều.
    Chánh tổng Cao Lộng bị trói vào cây gạo bằng mấy vòng thừng. Lúc này chẳng biết bởi nguồn sức mạnh nào, lão ta đã lấy lại được đảm khí, khác hẳn thái độ hèn nhát ban đầu, xem thường cái chết, dõng dạc bảo Lại Xuân Kiên đang chỉ huy bọn áo Đen chuẩn bị thi hành bản án:
    - Ta muốn gặp Khóa Kiệt.

    Lại Xuân Kiên lắc đầu:
    - Ông ấy đang bận chỉ huy anh em đánh nhau với Nhật không hơi đâu nói chuyện với một tên Việt gian như ngươi.
    - Ta không thèm xin tha mạng, mà trước khi bị các người giết, muốn khuyên Khoá Kiệt một câu.
    - Có việc gì cứ nói, tôi sẽ báo lại cho ông ấy.

    Cao Lộng ngẩng cao đầu, bình thản nhấn mạnh từng tiếng như thể lão ta mới là người tuyên án:
    - Cái thứ cách mạng hão huyền của những kẻ hủ nho như Khúc Kiệt trước sau cũng tan thành mây khói mà bản thân hắn cũng không tránh được hình phạt treo cổ. Hãy nhớ lấy lời Cao Lộng này.

    Lại Xuân Kiên tái mặt, hối hận vì chót để cho tên cáo già nói lời cuối cùng lăng nhục Cách mạng, anh ta lập bập hô:
    - Tất cả lên đạn !
    Tiếng khoá nòng nghe có vẻ không đều lắm vì năm chiến sỹ áo Đen sử dụng bốn loại súng khác nhau. Có khẩu đã han gỉ kéo mãi mới bật được chốt an toàn.
    - Bắn !

    Một loạt tiếng nổ lẹt đẹt như pháo. Đạn bay chiu chíu cắm phầm phập vào thân cây gạo sau khi xuyên qua ngực và bụng nạn nhân. Viên chánh tổng chết ngay, đầu gục xuống một cách miễn cưỡng, mái tóc muối tiêu ướt đẫm máu, chảy thành vệt, nhuộm đỏ dưới gốc cây. Từ ngõ nhà trương Hoà, bà vợ bé Cao Lộng tóc tai bù xù vừa gào vừa khóc vừa chửi ba đời Khúc Kiệt là kẻ sát nhân, mấy chiến sĩ áo đen túm áo giữ lại nhưng không ăn thua. Mụ ta lồng lộn như con thú dữ đã trúng thương, cắn vào tay một đội viên rồi xé quần áo nhảy xuống ao Quan.

    Phía cổng làng rộ lên một loạt súng. Bọn Nhật bắn đầu khai chiến. Mặt trời lên chừng nửa con sào. Trên cao, một đàn sếu xếp thành hàng mũi tên bay chếch về hướng đông nam. Con đầu đàn có bộ lông trắng như lông thiên nga đang nhịp nhàng vỗ cánh dẫn đường chợt loạng choạng rơi khỏi đội hình theo chiều thẳng đứng. Lúc ấy giờ mới có tiếng súng trường dội về. Một tên Nhật nào đó chơi trò tâm lý bắn chim trời để chứng tỏ tài thiện xạ của lính Thiên Hoàng. Đứng trên tầng hai nhà chánh Đàm, phó hội Hạp xuýt xoa thán phục:
    - Các quan Nhật bắn giỏi thế kia bọn lính áo Đen của Khoá Kiệt chỉ có nước về chầu ông vải.

    Lúc này bà cả Huê đang bị giam trong hậu cung đình Cả. Ngôi nhà hai tầng kiên cố như một pháo đài lại là nơi tránh đạn của cả làng. Khúc Luận mang cơm cho mẹ Cả, nhìn thấy Khúc Kiệt, mắt nó ánh lên những tia căm thù. Cậu ta vẫn còn là trẻ con chưa hiểu sự đời.

    Bên ngoài, những con ngựa chiến của quan binh Phù Tang phi như điên dọc theo các bờ ruộng hướng tây nam, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng uy hiếp tinh thần đối phương. Trung uý Hirôsi, thanh kiếm dài kéo lệt sệt, thỉnh thoảng lại chạm lách cách vào chiếc ủng da bóng lộn, cao quá đầu gối mà người lại thấp, thành ra mỗi bước đi của hắn đều giật cục chẳng khác gì thằng đánh gậy. Hắn quen đi ngựa, và lúc xuất trận, người ngựa gắn thành một khối vững chắc, tha hồ tung hoành trên chiến địa, vung kiếm tàn sát kẻ thù. Đem quân về làng Cùa theo lệnh quan tư Yamađa, Hirôsi gặp phải một địa hình rất khó chơi. Đó là một làng cổ An Nam được vây bọc chung quanh bởi luỹ tre gai dày đặc và một hệ thống ao chuôm liên hoàn hạn chế tối đa tác dụng của kỵ binh. Hắn đã tác chiến ở hầu hết các quốc gia Đông Nam á, đã từng khuất phục người Tân Gia Ba, đè bẹp sự kháng cự của các tín đồ thiên chúa giáo Phi Luật Tân, ruổi ngựa trên thảo nguyên mênh mông của vương quốc Mãn Châu ăn bánh ngô với nước sốt thịt cừu pha rượu hồ đào, và cuối cùng là những cô gái xinh đẹp da vàng xứ Mã Lai thơ mộng. Tất cả những vùng đất đạo quân của Hirôsi đi qua đều đặt được nền thống trị của Thiên Hoàng. Vậy mà đến xứ Bắc Kỳ có vẻ như tình hình không được thuận buồm xuôi gió bởi sự bất lực của chính quyền Nam triều, sự cản trở của bọn Pháp bại trận và lũ dân đen bị chủ nghĩa Cộng sản mê hoặc. Điển hình là cái làng này. Không khó khăn lắm những kỵ binh thiện chiến của Hirôsi đã phá được cổng làng. Cánh cửa vừa đổ sập xuống lập tức một loạt đạn súng trường mútxcơtông hạ gục hai tên võ sĩ đạo. Viên quan hai khoát tay ra hiệu cho tên lính có bộ ria nhọn nhưng đầu trọc lốc mang trung liên đặt trước cổng. Khẩu súng nòng dài, miệng loe nổ liên hồi kỳ trận khạc ra hàng tràng đạn theo hình cánh quạt bay chiu chíu vào làng. Phía cổng hậu, bọn Nhật cũng đã mở được đột phá khẩu. Khẩu trung liên thứ hai do một tên cai gầy nhằng vừa khai hoả được một lúc thì bị Lại Xuân Kiên từ góc bếp nhà Ba Vếnh tương cho một phát súng "dóp" trúng đầu. Hàn Hành rê nòng khẩu súng kíp, ngắm thật kỹ rồi mới xiết cò. Đạn ghém quả là thứ vũ khí lợi hại. Mấy tên lính thập thò ở mép tường rào đều bị dính đòn phải rút ra ngoài không kịp kéo khẩu trung liên. Lại Xuân Kiên mừng quýnh khi tịch thu được khẩu liên thanh cùng mấy băng đạn vàng choé. Các đội viên nhìn khẩu súng với thái độ vô cùng kính trọng nhưng rất tiếc là không ai biết sử dụng. May có Hàn Hành võ vẽ đôi chút vì cách đây ít lâu, ông ta mua được khẩu tiểu liên của Pháp cho Đoàn thể. Mầy mò một lúc rồi Hàn Hành cũng bắn được. Ông ta đặt khẩu súng ở sân nhà Phó Đát. Tại vị trí này có thể khống chế được khu cổng hậu. Thằng nào lớ ngớ thò mặt vào là nổ súng.

    Đội kỵ binh của Hirôsi vừa đánh vừa thăm dò đã vào gần giữa làng. Bảy đội viên áo đen thiệt mạng, Khúc Kiệt bị một vết kiếm chém sượt cánh tay trái nhưng chỉ vào phần mềm không nghiêm trọng. Điều tệ hại là họ sắp hết đạn, mà giao đấu tay đôi với bọn lính Thiên Hoàng thì phía ta hoàn toàn bất lợi. Chúng phần lớn là những tay thiện chiến , trình độ kiếm thuật cực kỳ điêu luyện. Dao chín, mã tấu và mác búp đa khó có thể thắng được thứ kiếm Lưu Cầu vừa dài vừa sắc như nước của đạo quân viễn chinh với tinh thần võ sĩ đạo và học thuyết Đại Đông A làm tư tưởng chỉ đạo. Bị đẩy bật khỏi cổng hậu, sau một trận hỗn chiến, Hirôsi tập trung hoả lực vào hướng Đông Bắc. Phía này ít chướng ngại vật, đường làng rộng có thể đưa kỵ binh luồn theo các ngõ hẻm mà Ngô Quỳnh đã chỉ điểm đánh vào sân đình tiêu diệt đại bản doanh của quân áo Đen. Khúc Kiệt ra lệnh cho anh em tiết kiệm đạn, chỉ nổ súng khi địch đã đến gần nhằm kéo dài trận đánh đến đêm. Bọn Nhật chiếm dần từng căn nhà một. Đây đó đã có một vài đám cháy không hiểu lính Thiên Hoàng đốt hay quân của Khúc Kiệt nghi binh.

    Phía cổng lớn vọng về tiếng gào khóc rất thảm thiết. Đó là nhà Trương Dật gần giếng làng. Dật có hai con gái, đứa lớn mười bảy, đứa nhỏ mười lăm. Khi bọn Nhật vào đến cổng hắn đang bê nồi cám cho lợn ăn. Tên lính mặt sẹo có cái mũi hếch vẫy tay nói một tràng líu lô như khướu hót tồi chỉ tay ra cổng. Dật chẳng hiểu tên Nhật nói gì, sợ quá quăng nồi cám ù té chạy. Tên thứ hai đảo mắt nhìn quanh rồi nâng súng nhằm Dật bóp cò. Máu từ ngực anh ta trào ra ướt đẫm tấm áo cộc vá chằng vá đụp. Cái Là cái Lượt vội đẩy cửa nhào ra. Nhìn thấy gái, mắt hai thằng Lùn ánh lên những tia man rợ như thú dữ nhìn thấy con mồi. Cả hai thằng đều quăng súng vồ lấy thị Là, thị Lượt, xé toang áo, lột váy trong trạng thái hoàn toàn điên loạn. Trước khi bị hiếp, Thị Lượt cắn vào tay tên mặt sẹo. Vết cắn khá đau làm tên này nổi đoá bạt tai nó mấy cái nổ đom đóm mắt rồi bế xốc đến gian bếp bẩn thỉu ngập ngụa những rơm rác lẫn với đầu mẩu khoai lang. Thị Là khoẻ hơn bị tên Nhật khoá cứng hai tay. Hắn đã tốc ngược váy của nó lên đến ngực,chỉ còn vướng chiếc thắt lưng da quân dụng ngang lưng nên phải thả lỏng một tay. Vào lúc tên Nhật còn đang loay hoay với chiếc khoá đồng, Thị Là quài tay vớ được con dao cau vẫn để trong rổ con mà trong lúc thị Lượt giằng co với tên giặc Lùn bị hất ra ngoài. Nó lén đẩy con dao vào dưới hông xong nhẹ nhàng vuốt lưng thằng kỵ binh như là một cử chỉ âu yếm. Tên võ sĩ đạo vòng tay ôm ngang sườn thị Là, cà hàm sâu chổi sể vào mặt nó chuẩn bị cho hành động đốn mạt. Trong khi tên Nhật sờ soạng vào bẹn thị Là thì nó giả vờ mân mê chiếc dương vật cứng ngắc làm hắn như mê đi. Đúng lúc ấy một nhát dao sắc ngọt lia ngang bằng tất cả lòng căm thù của một thiếu nữ bị sỉ nhục, cứa đứt đôi "của quý" của gã quỷ lùn. Hắn thét lên một tiếng khủng khiếp chẳng khác gì tiếng gầm của loài mãnh thú đột ngột sa bẫy. Tên mặt sẹo đang cơn hoan lạc trên cái cơ thể trần truồng gần như bất động của thị Lượt, nghe tiếng thét kinh hoàng vội bật dậy, lập cập mặc quần rồi chạy ra sân vồ lấy súng. Thằng bạn hắn đang lăn lộn giữa sân ôm lấy cái bẹn nhoe nhoét máu. Hắn điên tiết kéo khoá nòng xả đạn vào hai chị em Thị Là, thị Lượt vẫn còn trong tình trạng loã lồ.

    Hirôsi rút đám kỵ binh bên ngoài bổ sung cho hướng tấn công chính. Quân Nhật đã vào được nhà chánh Đàm. Ngô Quỳnh lúc này đã lẻn về nhà làm nội ứng cho quân Nhật thông qua gã phiên dịch người Nam Bộ. Khẩu trung liên của Hàn Hành hết đạn thành vô tác dụng. Ông ta quẳng nó xuống ao sau đó luồn theo đường chùa Hà về đình Cả, nhưng vừa ra khỏi vườn nhãn thì bị một tên Nhật bắn vào chân. Viên đạn xuyên qua đầu gối làm hàn Hành khựng lại rồi ngã. Lý Quỳnh lập tức cho giải ra gốc gạo trình với Hirôsi. Viên quan hai hỏi:
    - Các ông có bao nhiêu quân ?

    Hàn Hành liếc nhìn tên Nhật cười gằn:
    - Nhiều lắm, đếm không hết.

    Hirôsi lại hỏi:
    - Chắc là quân áo Đen sắp hết đạn phải không ?

    Hàn hành quắc mắt:
    - Còn đủ đạn chiến đấu với giặc Nhật đến người cuối cùng.
    -Nếu ông chịu đầu hàng, hợp tác với quân đội Thiên Hoàng thì tôi sẽ đảm bảo tính mạng - Hirôsi đề nghị.
    -Người Cách mạng không bao giờ phản bội đồng chí của mình. Ta thà chết chứ không thèm làm việc đê tiện ấy.
    - Vậy thì được. - Tên quan hai hất hàm bảo gã thông ngôn - Hỏi ông ta có dặn gì gia đình trước khi chết không ?
    - Ta biết chắc quân đội Nhật sẽ bại trận và đấng Thiên Hoàng đáng kính của nhà ngươi sẽ phải lên đoạn đầu đài.

    Nghe đến tiếng cuối cùng tuy gã thông ngôn chưa kịp dịch hết ý, Hirôsi đã rút kiếm bên sườn vung lên, bằng động tác chuẩn xác với kỹ thuật hành hình điêu luyện, trong chớp mắt đầu Hàn Hành đã lìa khỏi cổ. Hirôsi lau kiếm vào chiếc quần đi ngựa, nhét vào bao rồi bảo tên thượng sĩ mang cặp kính dày cộp như đít chai, khoác tiểu liên đứng bên cạnh:
    - Về phía cổng phụ truyền lệnh cho thiếu uý Mátsumôtô bao vây chặt đoạn mương nước không cho bọn Cộng sản trốn thoát. Từ giờ đến tối là phải giải quyết xong lũ phiến loạn.

    Lúc này đội quân áo Đen đã bị tổn thất khá nặng. Lại Xuân Kiên bị đạn vào cằm vỡ quai hàm. Anh ta nhổ ra mấy chiếc răng gẫy dính máu, loạng choạng được vài bước rồi phủ phục xuống góc bếp nhà chưởng bạ Giang. Những đội viên còn lại rút về hướng đình Cả. Hirôsi cho lính kéo khẩu trung liên vào sân nhà Khúc Đàm xoay nòng bắn sang nhà Khúc Kiệt. Bà vợ ốm yếu của ông ta loạng choạng đứng dậy chạy ra ngoài, bị dính đạn ngã sóng soài xuống nền nhà. Khúc Vĩ hoảng quá nhảy quáng quàng xuống ao, một lúc sau ngoi lên bị tên lính đeo kính cận xả một băng tiểu liên chết ngay tại chỗ. Khúc Văn lúc ấy đang ở ngoài đình. Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Nghĩa, Khúc Thị Lễ trong lúc bối rối chẳng biết làm thế nào đành chui xuống gầm giường, nằm nín thở phó mặc số phận cho thần may rủi. Mái nhà lợp rạ bén nửa, bùng lên, trong khoảnh khắc đã thành một đám cháy lớn. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, rui mè nổ lốp bốp như pháo đùng ngày tết.

    Phía bên kia ao, nhà Cả Phê cũng đang cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa bỏng rát, nóng hầm hập, liếm lem lém vào mái bếp, thiêu trụi đống rơm rồi há cái mõm đỏ lòm phun phè phè vào chái nhà Hai Doạc. Đám cháy khủng khiếp lại được những ngọn heo may đầu mùa tiếp sức thành trận địa liên hoàn như con rắn lửa khổng lồ huỷ diệt tất cả những gì nó gặp trên đường. Trời tối hẳn, làng Cùa trở thành biển lửa sáng rực như ban ngày. Khắp nơi đâu đâu cũng dậy lên tiếng la ó, gào thét lẫn với tiếng khóc thảm thiết. Lũ chim sẻ, chào mào, bồ các, thậm chí cả những gia đình quạ vẫn tá túc trên luỹ tre gai, giờ bay tán loạn, kêu quang quác vì mất tổ. Một đàn liếu điếu không chịu nổi đám khói dày đặc, khét lẹt, lao vút lên cao, bay loạn xạ như thể làng Cùa sắp đến ngày tận thế. Một con sẻ đồng lạc đàn, bay qua ao nhà Cả Phê định thoát khỏi làng nhưng lập tức bị rơi xuống đám lửa đang cháy rần rật của ngôi nhà phó lý Dần.

    Đội quân áo Đen sau một ngày quần nhau với Nhật còn không quá hai chục người. Khúc Kiệt tập trung anh em lại phổ biến kế hoạch rút lui khỏi làng bằng đường thuỷ. Họ lợi dụng trời tối, trườn xuống ao đình, theo ngòi Mác ra ao Quan rồi vào rừng Hóp. Rừng Hóp kề ngay đầm Ma, địa hình hiểm trở, có thể tạm thời ẩn náu, chờ quân Nhật rút đi.

    Gần sáng, khi lý Quỳnh dẫn Hirôsi và hơn chục tên Nhật vào đình Cả thì Khúc Kiệt và những đội viên áo Đen còn lại đã vượt vòng vây thoát ra rừng Hóp để lại khá nhiều xác chết. Cánh cửa hậu cung vừa bật mở, mọi người vội vàng bịt mũi khạc nhổ vì thứ mùi xú uế nồng nặc bay ra từ đống phân và bãi nước tiểu ngang dưới bệ thờ. Bà cả Huê tóc tai rũ rượu như một con điên, cặp mắt long sòng sọc, mồm lảm nhảm chửi ông em chồng bằng thứ giọng thều thào của kẻ sắp chết đói.

    Hoả hoạn do quân Nhật gây ra thiêu trụi quá nửa làng Cùa nhưng chính Hirôsi cũng phải trả giá đắt vì sáu lính Thiên Hoàng tử trận và năm tên khác bị bỏng nặng. Sau cuộc hỗn chiến, hắn không còn đủ lực lượng truy đuổi đạo quân của Khúc Kiệt đành phải tạm thời rút về Phú Xuyên. Khắp làng chỗ nào cũng thấy những đụn khói xám đục bốc lên. Đó là những đống rui mè, kèo cột hoặc gióng chuồng trâu còn đang âm ỉ cháy. Năm gian nhà tranh của Khúc Kiệt được anh em áo Đen dựng lại cách đây chưa lâu giờ chỉ còn là đống tro tàn. Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa gần như bị nướng chín cùng với con chó vằn khi mái nhà bén lửa sập xuống đè gẫy chiếc trường kỷ bằng trúc. Khúc Thị Nhân may mắn thoát được do lách qua khe vách gian buồng nhưng bị lửa bén trụi sạch tóc. Cô ta phải lấy khăn vuông quấn đầu mới dám ra đường. Bà mẹ chết từ chiều hôm trước, người mỏng như tờ giấy, lạnh cứng, mắt trợn trừng trừng, Nhân phải vuốt ba lần mới khép lại. Khúc Vĩ vẫn còn chìm dưới ao. Chỗ bị thương cả bầy đỉa bám vào hút máu. Con nào con ấy no căng. Nhân không còn đủ sức kéo xác anh lên bờ. Cô ta ngồi bệt xuống đất, vuốt tàn than bám vào cái đầu lởm chởm, thở hổn hển. Đôi mắt ráo hoảnh gần như vô cảm. Có lẽ nỗi mất mát quá lớn làm người con gái mới mười bảy tuổi này bị sốc nặng, không thể khóc được.

    Lý Quỳnh không thể ngờ mình cúc cung tận tuỵ phục vụ các quan Nhật mà vợ con ông ta lại chết cháy do chính quân đội Thiên Hoàng gây ra. Ngay từ sáng sớm, khi biết tin Hirôsi đem đội kỵ binh về, lý Quỳnh đã cấm vợ con ra ngoài. Đề phòng Khúc Kiệt cho lính áo Đen sát hại người nhà, trước khi tìm cách bắt liên lạc với quân Nhật, ông ta đã nhốt họ vào buồng, khoá lại, sau đó đóng chặt cổng, quấn thêm mấy vòng dây xích cho chắc. Cẩn thận quá hoá ra lại hại chính mình. Lửa từ hướng đông bắc sau khi thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ nhà cả Phê, nhanh chóng lém sang chái buồng nhà Ngô Quỳnh. Khói đặc sệt bị áp lực của hoả thần, chảy vào tất cả mọi ngóc ngách như những chiếc vòi bạch tuộc trắng nhợt, đùng đục hoặc vàng nhạt, toả mùi khét lẹt làm bất cứ ai ngửi phải cũng ho sặc sụa. Mấy mẹ con bà Lý không chịu được khói, tìm cách phá cửa buồng, nhưng bộ cánh bằng lim lõi, lắp bản lề ngược, lại khoá ngoài thành ra cứ trơ trơ chẳng suy suyển gì. Tiếng gào của họ bị chìm trong tiếng súng liên thanh cùng với tiếng lửa réo của hàng trăm ngôi nhà đang cháy tạo thành thứ tiếng động hỗn tạp, có lúc ù ù như xay lúa, có lúc lại đùng đoàng như sấm tháng tư. Xét đến cùng, trong cơn khổ nạn này, không một người dân lương thiện nào ở làng Cùa còn đủ tâm trí lo cho tính mạng người khác ngoài bản thân mình. Vợ con lý Quỳnh chết vì khói trước khi sức lửa giải phóng cánh cửa gỗ lim. Họ ngồi bên nhau theo đủ các tư thế. Tất cả các gương mặt nạn nhân đều xám ngoét vì tức thở, cặp mắt mở trừng trừng thảng thốt trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh.

    Mấy anh em trương Kiệm xóm Cầu Đá, lúc nhà mới bén lửa còn gọi nhau múc nước giếng Bụt té lên. Sau lửa cháy rát quá không ăn thua đành phải bỏ. Lửa ba bề bốn bên, nóng như lò bát quái. Ngoài đường súng nổ lẹt đẹt lúc thưa lúc nhặt. Đàn bà, trẻ con chạy quáng quàng như kiến bò trong chảo, chỗ nào cũng gặp lửa. Cái giếng đã cạn. Chẳng ai bảo ai đều tranh nhau nhảy xuống, chỉ một loáng đã chật cứng người. Giếng hẹp và sâu hơn hai mét, chung quanh ghép đá ong gần như thẳng đứng, cầu múc nước lại hẹp, đông người xô đẩy chen chúc, ai cũng muốn có chỗ của mình, thành thử một số đứa trẻ bị ngạt thở. Tình trạng lộn xộn đến mức, người khoẻ dẫm lên đầu người yếu, hy vọng kiếm chút không khí trong lành. Trên cao, khói cháy nhà vẫn chảy cuồn cuộn, lúc này tựa như không phải lửa sinh ra mà là từ dưới đất chui lên. Nhưng đụn khói dày đặc nóng bỏng với đủ các hình thù kỳ dị bò vào miệng giếng như một con quái vật có khả năng biến hình, phút chốc mọc ra hàng trăm cánh tay chộp lấy mấy chục nạn nhân đang ngắc ngoải bởi không còn dưỡng khí.

    *
    Quân Nhật rút đi, Lý trưởng Ngô Quỳnh tập hợp đám trương tuần cùng cánh tá điền bắt đầu tìm kiếm, thu lượm các xác chết, Đã cuối tháng chín nhưng trời vẫn còn nắng gắt. Khắp nơi đâu đâu cũng bốc mùi lợm giọng bởi làng Cùa hầu như đã thành một bãi tha ma. Phó tổng Lê Bang, sau hôm trốn sang Mạc Điền giờ mới dám về, Ông ta điều từ làng Đậu, làng Bối Khê gần sáu chục dân phu sang giúp lý Quỳnh. Luỹ tre dày quanh làng vẫn còn nguyên vẹn nhưng toàn cảnh bên trong thực sự là một bãi chiến trường. Không ai có thể đếm chính xác được thi thể các đội viên áo Đen cũng như dân làng Cùa trừ bọn lính Nhật tử thương đã được tên quan hai ra lệnh mang đi. Bà con chết cháy hoặc bị đạn lạc nhiều vô kể. Những người bị cháy thân hình biến dạng đến mức khó có thể nhận ra. Cánh phu đòn, cứ hai người một, khênh họ ra nghĩa địa trên những chiếc võng đay. Trời bỗng chuyển gió tây nam, mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Nhiều người cởi áo làm khăn quấn ngang miệng để đỡ nôn oẹ. Các nạn nhân bị đạn hoặc kiếm Nhật chém phải, qua một ngày một đêm đã trương phềnh, nằm thẳng đuỗn trên võng. Theo nhịp bước người khênh, một thứ nước vàng rất khó ngửi, cứ nhỏ giọt đều đều trên đường từ làng ra bãi tha ma. Sau cơn hoả hoạn, người ta không thể kiếm được áo quan cho những người xấu số. Ngay cả chiếu cói cũng chỉ còn hơn chục chiếc. Những ngôi mộ phần lớn nông choèn được lấp một cách vội vàng, không bát cơm quả trứng và không một nén nhang. Anh em dân phu làm thật nhanh để còn về làng đi chuyến khác.

    Đêm hôm ấy làng Cùa hoàn toàn yên ắng thậm chí không có cả tiếng gà gáy nhưng ngoài bãi tha ma thì lại vô cùng nhộn nhịp bởi những tiếng gầm gừ của lũ chó hoang. Vùng Ba Tổng xưa nay nổi tiếng lắm chó hoang. Chúng cư ngụ ở miễu cò Đài Sơn bên Mạc Điền, số khác tụ tập hàng đàn hàng lũ trong rừng Hóp, đánh hơi thấy mùi tử khí liền kéo nhau đến làm cuộc đào bới trên quy mô lớn ở nghĩa địa đồng Chó Đá. Những ngôi mộ mới chôn san sát chẳng theo hàng lối nào nổi lên thành một vùng trắng bệch dưới ánh trăng hạ tuần lãnh lẽo. Những con chó hoang chân dài, mõm nhọn như mõm cầy xạ, không khó khăn gì trong việc lôi xác chết ra khỏi các ngôi mộ chôn cất sơ sài. Một con chó già rụng sạch lông đầu, hai tai dỏng cao như tai thỏ vớ được chiếc cẳng chân của một đứa trẻ văng ra sau cuộc ẩu đả của hai con chó đốm choai choai. Nó cố sức kéo lê miếng mồi ra xa để tránh bị cướp giật rồi nằm xuống bắt đầu gặm. Ngôi mộ chánh tổng Cao Lộng bị cả một bầy vằn vện khai quật bằng cách dùng hai chân trước ra sức bới đất. Chỉ sau vài phút, cái xác đã lộ ra. Chúng chẳng khách sáo gì, nhất loạt lao vào cắn xé bằng những hàm răng trắng nhởn, nhọn hoắt sắc như dao cạo. Một con nhay đứt gân cánh tay, tha được đến chỗ con chó già lập tức bị con lông xám mõm ngắn nhưng rất dữ tợn nhe nanh ra cướp mất. Thế là một cuộc ẩu đả đẫm máu hoàn toàn mang phong cách của loài khuyển bắt đầu. Chúng tạm thời bỏ xác chết, lao vào nhau trong cơn kích động cuồng loạn của những kẻ khát máu. Bãi Chó Đá rộ lên những âm thanh gầm gừ phát ra từ cổ họng của những con chó hoang hiếu chiến, tiếp theo là hàng loạt tiếng sủa chói tai, nghe âm âm như tiếng vọng của lũ chó ngao gầm thét dưới cầu Nại Hà hau háu chờ những tội nhân bị ngã xuống dòng Âm Phủ. Gã chó xám đã rút khỏi cuộc ẩu đả, tha khúc ruột dài lòng thòng moi được từ ngôi mộ chung nhà Trương Dật, chợt nhìn thấy vành trăng khuyết, đỏ như máu, vội bỏ mồi nghếch mõm tru lên mấy tiếng nghe như tiếng loài sói gọi đàn rồi mới tiếp tục thưởng thức món ăn vừa kiếm được.

    Lũ quạ đánh hơi người chết rất sớm nhưng chúng chỉ dám chờn vờn bên ngoài vì sợ bọn chó hoang. Nhưng cũng có con đói quá, liều mạng nhảy vào mổ những miếng thịt rơi vãi trên mặt đất sau những trận hỗn chiến của lũ bốn chân. Cũng như bầy chó hoang dưới đất, loài chim chuyên ăn xác chết từ khắp nơi kéo về, bay loạn xạ trên trời, nháo nhác gọi nhau chuẩn bị cho một đêm dạ tiệc. Những con quạ đen thui vô cùng tinh ranh đập cánh loang loáng dưới ánh trăng đã bắt đầu bợt bạt vì trời sắp sáng. Chúng lượn lờ vài đường rồi bất ngờ cụp cánh rơi xuống như mọt viên đạn đại bác, quắp vội được miếng gì đó rồi lại lao vút lên theo hình vòng cung. Con chó xám mõm ngắn vừa nhai khúc lòng vừa gầm gừ xua đuổi đồng bọn, nhưng không ngờ kẻ trộm lại là lũ quạ lắm điều trên cao. Nó vừa nhả mồi sủa mấy tiếng cảnh cáo hai con chó gíe có cái đầu tròn ung ủng như chiếc gáo dừa thì một con quạ khoang to đùng, cái mỏ bè ra như hai gọng kìm sà xuống nẫng gọn phần còn lại của bộ lòng bay lên. Con chó xám tức lắm, tung hai chân trước làm một cú nhảy khá cao, sủa váng lên. Nhưng con quạ đã thoát hiểm, bóng của nó cùng với miếng mồi vẽ thành một vệt loằng ngoằng ngay chỗ con chó ngồi. Lúc này hẳn đã no nê, lũ chó tha những khúc xương ống chân ống tay vứt lung tung khắp nơi trên bãi tha ma, nô giỡn một lúc rồi mới tản mát về sào huyệt. Bây giờ mới thực sự là dạ yến của bọn quạ. Hầu như không còn con nào ngó nghiêng trên trời. Tất cả lũ chúng, cả quạ đen lẫn quạ khoang đều đủ mặt. Chúng nhảy lò cò, túm năm tụm ba háo hức tận hưởng thứ thịt người vung vãi khắp nơi mà lũ chó hoang bỏ lại. Đàn quạ đông đến mức gần như thứ màu đen xỉn bẩn thỉu của chúng phủ kín toàn bộ khu mả mới. Quạ là loài chim vốn lắm điều nhưng lúc này nghĩa địa lại hoàn toàn yên lặng. Nguồn thức ăn khá dồi dào. Trời vẫn còn mờ tối, con người vẫn chưa thể phát hiện ra lũ ăn cắp xác chết. Trăng lạnh và sương đang thấm ướt cỏ cây. Một đêm hiếm hoi ngàn năm có một như thế, việc gì phải bắt chước lũ chó cãi nhau giành mồi.

    Khi những tia nắng đầu tiên rọi xuống đồng Chó Đá thì khung cảnh bãi tha ma hiện lên với tất cả sự rùng rợn của nó. Hầu như các ngôi mả đều bị đào bới bằng cùng một thứ công cụ là mõm và chân nhưng cái cách hành hạ xác chết thì lại không hoàn toàn giống nhau. Có xác mất hai tay hoặc một cẳng chân. Một vài xác bị khoét mắt, moi bụng hoặc bóc mất mảng ngực. Người nằm ngang, kẻ nằm dọc theo một thứ trật tự vô cùng hỗn độn. Lúc này vẫn còn hàng trăm con quạ đang mải mê rỉa thịt trên những khúc xương ống hoặc xương sườn đã bị hàm răng chó hoang cắt rời khỏi các xác chết. Chỉ đến khi toán dân phu đầu tiên chuyển tiếp những nạn nhân mới tìm thấy hồi đêm trong những đống đổ nát ra an táng thì chúng mới chịu bay lên. Lũ quạ vùng Ba Tổng thuộc loại lỳ lợm. Chúng lượn vài vòng quan sát thái độ của đám tuần đinh rồi lần lượt đáp xuống cách đấy không xa, chờ họ đi khuất lại tiếp tục bữa điểm tâm.

    Nhìn cảnh hỗn loạn nơi nghĩa địa sau một đêm mất cảnh giác, Ngô Quỳnh tức lắm. Ông ta huy động toàn bộ trai tráng ra chôn cất lại những ngôi mộ đã bị chó đào lên và cắt cử đám tuần đinh mang giáo mác gậy gộc và cả súng kíp ra canh đêm, sẵn sàng chiến đấu với chó hoang và quạ. Lũ quạ từ bên kia sông Lăng kéo sang, bị chậm chân không được thưởng thức món thịt người, lúc này bay vù vù trên cao. Chúng kêu "quạ quạ" đinh tai nhức óc, bảo nhau đồng loạt ỉa xuống đám phu đòn đang lấp đất trên các ngôi mộ. Hai Doạc tức mình nổ một phát đạn ghém. Hai con chết tại chỗ. Một con bị thương, loạng choạng cố bay theo đàn như chỉ được một đoạn cũng rơi xuống ruộng lúa.

    2. Mẹ con bà Hai dắt díu nhau về làng Nội chưa đầy nửa năm thì cụ khán Đản qua đời. Cụ Khán không có con trai, làm di chúc giao mảnh vườn hơn bốn sào với ngôi nhà tranh ba gian cho bà Thoả, nhưng trưởng họ Phùng là phó lý Tài không nghe, lấy cớ đàn bà xuất giá hưởng lộc nhà chồng rồi nên quyết định giành phần thừa kế cho con trai mình. Được tin, lái Lự từ làng Bòng bổ sang gặp phó lý Tài:
    - Sao ông Phó cạn tàu ráo máng thế ? Có chuyện gì thì cái nhà này cũng là hương hoả cụ Khán để lại chứ đâu phải mồ hôi nước mắt của ông.

    Phó Tài vốn hách dịch không chịu được cách ăn nói của lão lái trâu hợm của, tức mình quát:
    - Đây là việc riêng của họ Phùng việc đếch gì đến ông mà chõ mồm vào .
    - Cướp trắng gia sản rồi đuổi mẹ con bà cháu người ta ra khỏi nhà mà bảo là việc riêng, nói như cứt ấy.
    - A ! Ông định đến gây sự đấy hả ? Nếu thích thì rước mẹ con nhà nó về mà nuôi. Còn nói lôi thôi nữa tôi sai tuần đinh nó gô cổ, đừng có trách.

    Lái Lự mặt vẫn tỉnh bơ, giọng khiêu khích:
    - Đấy là ông phó lý Tài nói đấy nhé. Nếu tôi đón mẹ con bà ấy về thật thì sao ?

    Ông trưởng họ Phùng càng thách già:
    - Rước được những của nợ ấy đi thì họ Phùng mang ơn ông lắm đấy.
    - Lời nói suông không tin được. Phải có bằng chứng.

    Phó Tài đang muốn tống mẹ con bà Hai ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt nên thuận miệng bảo:
    - Tôi viết cho ông một cái văn tự là được chứ gì ?
    - Phải - Lái Lự gật đầu mỉa mai -Để đề phòng sau này có kẻ lật lọng.
    - Ông đừng có cạnh khoé.
    - Là tôi nói thế thôi.
    ít phút sau, khi đã cầm "văn tự" trong tay, lái Lự rút trong túi ra tờ giấy xoè trước mặt phó Lý Tài:
    - Ông nhìn cho rõ: Đây là văn tự vay tiền của cậu nhà, hẹn trong một tháng sẽ trả, lãi năm phân. Bây giờ đã quá mười ngày, gia hạn mười ngày nữa, nếu không hoàn cả vốn lẫn lãi, bắt buộc tôi phải trình quan.

    Phó lý Tài mặt xám lại khi nhìn thấy số tiền ghi trong văn tự.
    - Chết thật, nó vay làm gì mà nhiều thế ?
    - Chắc là lại trò đỏ đen. - Lái Lự thủng thẳng bảo.
    - Mà tại sao nó lại sang tận làng Bòng vay tiền ? - Phó Tài lườm lão lái trâu, giọng hậm hực - Ông cả tin thế thì có chuyến mất cả chì lẫn chài.
    - Từ trước đến nay chưa bao giờ tôi cho những kẻ cha căng chú kiết vay tiền nếu không có sự bảo lãnh của các bậc huynh trưởng. Có phải ông với ông phó hội Long là anh em con cô con cậu?
    - Phải, thì sao ?
    - Chính ông ấy dẫn cậu Mạc đến.
    - Thế này thì nó giết tôi rồi. Dù sao tôi cũng là phó lý đương nhiệm.

    Lái Lự cười khẩy:
    - Đời vốn công bằng chẳng cho ai không cái gì đâu ông ạ.

    ra lái Lự và bà hai Thoả chẳng lạ gì nhau mặc dù gần hai chục năm làm như không hề quen biết. Thuở nhỏ, lái Lự được bố mẹ cho sang kẻ Nội vừa học chữ Nho vừa học nghề nặn tò he với ông phó Đễ. Tuy chỉ cách một hàng rào nhưng hai nhà vốn có nhiều hiềm khích từ lâu nên không qua lại chơi bời với nhau. Ông phó Đễ vừa là cậu họ vừa là thầy dạy nghề, máu rượu mà lại nóng tính, lơ mơ là quất ngay nên cậu Lự nhiều khi bị đòn oan. Nặn tò he là cái nghề đòi hỏi sự nhẫn nại và tỉ mỉ, thêm chút khéo tay nữa nên rất không hợp với sở trường của chàng học việc. Một lần Lự làm hỏng mẻ bột do pha phẩm màu sai liều lượng. Phó Đễ chẳng nể nang gì vớ ngay chiếc roi mây vẫn giắt trên mái nhà vụt túi bụi vào lưng thằng cháu. Chàng phó nhỏ vừa khóc vừa lạy van rối rít. Đúng lúc ấy, cô hàng xóm tóc ngắn cũn cỡn, buộc túm lại bằng sợi dây chuối, kín đáo nhìn qua khe rào, nhe chiếc răng khểnh ra tủm tỉm cười. Lự ngượng lắm. Ngay chiều hôm ấy, chàng ta trốn về kẻ Bòng, thề rằng chẳng bao giờ thèm dính đến cái nghề nặn đồ chơi trẻ con nữa. Có điều ông bố không phải là người dễ dàng thay đổi quan điểm bởi những ý nghĩ nhất thời hồ đồ của cậu con trai. Kết quả Lự lại được lĩnh thêm hơn chục hèo mây để rồi sáng hôm sau bị ông trương Thao áp giải sang làng Nội.

    Như vậy là trên đời có rất nhiều người phải làm cái nghề mà họ hoàn toàn không muốn, cũng như trong chuyện trăm năm, phải lấy một người mà họ hoàn toàn không yêu. Đeo đẳng cái nghiệp xanh đỏ tím vàng đến năm thứ hai thì Lự được ông chủ cho gánh hàng ra chợ vừa bán vừa nặn các con giống tại chỗ theo yêu cầu của các cô cậu tí nhau. Tháng vài phiên chàng tò he gặp cô láng giềng ra chợ mua voi giấy ngựa giấy hoặc vàng mã về cho ông bố lập đàn làm phép trừ ma. Ông khán Đản làm nghề phù thuỷ. Trong nhà có một điện thờ. Lự chưa bao giờ dám bước chân sang nhà cô Thoả. Cứ vào tuần rằm mồng một là nhà ông Khán hương khói nghi ngút, từ xa đã nghe tiếng chập cheng. Vợ ông Khán là bà Huần sinh được mỗi cô Thoả, bảy năm sau thì chết vì thứ bệnh kỳ lạ. Dịp ấy vào rằm tháng bẩy bà ta đi chợ về, tự nhiên leo tót lên bàn thờ, ngồi chễm chệ trên ngai rồi lảm nhảm bảo:
    - Ta là đức Thánh Mẫu ở đền Sòng bị lão khán Đản dùng yêu thuật nhốt vào khám sắt từ ba năm trước, giờ được chúa Liễu Hạnh giải thoát, về hỏi tội cả nhà ngươi đây.

    Nói xong bà Khán hộc máu tươi, chảy ròng ròng xuống ngai rồi ngã vật xuống bất tỉnh. Ông Khán sợ quá vội mời lang Tễu đến xem mạch bốc thuốc nhưng mạch của bà Huần lúc trầm lúc phù, lúc nhanh lúc chậm không thể đoán ra bệnh gì đành cắt cho mấy chén an thần rồi cáo lui. Được ba ngày thì bà Khán qua đời. Từ đấy người kẻ Nội có ý kiềng gia đình khán Đản. Mấy năm sau ông Khán tục huyền. Bà vợ kế là dân làng Vẽ vừa hoang toàng vừa lẳng lơ, trẻ hơn chồng gần chục tuổi nên được chiều hết mức. Mọi công việc nhà ông Khán đều giao cho vợ kế trông nom. Bà ta được thể càng lấn lướt chồng, đối xử rất cay nghiệt với con bà cả. Những dịp ông Khán được tín chủ nơi xa mời đi cúng bái, bà ta lập tức đóng bộ biến khỏi nhà, phớt lờ cô con chồng lúc này đã đến tuổi hiểu sự đời. Thì ra bà ta phải lòng tay thợ mộc chuyên đóng quan tài ở phố Nhài. Chuyện ấy cuối cùng cũng đến tai khán Đản. Ông muốn có đứa con trai nên đành phải nhịn nhục. Nhưng sự chịu đựng cũng chỉ có giới hạn. Trò đời già néo đứt dây. Khuyên bảo nhiều lần chứng nào vẫn tật ấy, cuối cùng thầy phù thuỷ phải dùng hạ sách. Vào một đêm tối trời, khán Đản vào điện thắp hương, tung đồng tiền xin âm dương rồi mang đạo bùa ra chôn ở cổng, ngay cạnh con chó đá. Ba hôm sau, vào lúc quá Ngọ, bà vợ kế đến xưởng quan tài túm áo nhân tình dắt đi như dắt trâu. Gã thợ mộc chẳng biết chuyện gì xảy ra nhưng thấy thái độ của người đàn bà như bị ma ám thì sợ quá, định chạy nhưng không dứt ra được. Bàn tay bà ta lúc này như có nhựa dính còn cặp mắt trợn ngược toàn lòng trắng như là mắt của kẻ ăn phải bả độc trong cơn hấp hối. Đến bờ sông thì hai người hầu như đã cùng trong một tâm trạng thật sự phấn khích khi nhìn thấy dòng nước đục ngầu cuồn cuộn chảy. Bà vợ kế ông Khán cười sằng sặc, chỉ tay xuống đám bọt sóng bảo:
    - Mình thấy nước sông hôm nay có trong không ?

    Gã thợ mộc gật đầu:
    - Trong vắt. Bây giờ mà được tắm một cái thì tốt quá.
    - Thế thì còn chờ gì nữa. Tôi với mình nhảy xuống bơi đi.
    - Nhưng mà tôi không biết bơi. - Tay thợ đóng hòm người chết thoáng chút lo lắng.
    - Đừng ngại. - Người đàn bà vẫn nắm chặt ống tay áo nhân ngãi cười sằng sặc - Tôi vốn là con gái vua Thuỷ Tề, tôi sẽ giúp mình. Nào, nhảy đi.

    Cả hai gần như đồng thời nhún mình nhảy xuống dòng nước xiết. Đây là bờ bên lở, sóng dữ khoét vào chân đê thành những vệt sâu hoắm. Chỉ trong nháy mắt, cặp tình nhân đã mất hút giữa một vực xoáy cùng với tiếng réo ùng ục như nồi ba mươi luộc bánh chưng đang sôi.

    Nhà có hai người đàn bà bất đắc kỳ tử nên việc gả chồng cho con gái của ông khán Đản vô cùng khó khăn. Người kẻ Nội sợ cái vía phù thuỷ nhập vào nhà sẽ táng gia bại sản nên tuy vẫn kính trọng ông Khán như trước nhưng rước cô con gái về làm dâu thì hoàn toàn không thể. Đã thế nhà phó Đễ với ông Khán lại có chuyện bất hoà. Ông Đễ tính nhỏ nhen, có máu tham, thấy cái lợi bằng hạt thóc cũng vơ vào mà chẳng nghĩ đến chuyện ăn ở lâu dài với hàng xóm láng giềng. Chuyện bắt đầu từ cái bờ rào. Ông Khán vốn nghiện chè xanh nên đã trồng một hàng ở phần đất của mình. Chè lên xanh tốt, Phó Đễ cứ thản nhiên hái uống mà chẳng cần nói với hàng xóm một lời. Chẳng những thế ông ta còn dùng cuốc bàn vạc đất dưới hàng rào, thành ra cây chè cứ teo tóp dần, cuối cùng ông Khán phải phá đi thay vào bằng hàng găng. Ông Đễ liền trồng sát hàng găng một dãy xoan. Cái thứ sương soan và chất độc ở rễ tiết ra phá hỏng toàn bộ đất vườn. Nói mãi không được, ông Khán nhờ hai thằng cháu trèo lên phát cành. Thế là ông thợ tò he nhảy sang gây sự. Chuyện bé xé ra to, sau phải đến phó lý Tài đứng ra xử kiện. Phó Đễ mắc tội lấn chiếm đất, trồng soan giữa cõi trái với hương ước, bị làng phạt vạ. Bắt buộc phải nộp phạt nhưng phó Đễ không phục. Ông ta bảo phó lý Tài là cháu họ ông Khán nên cánh chức dịch thiên vị. Từ đấy hai nhà kiềng mặt nhau.

    Thời gian qua đi. Lúc Lự nhập môn nặn tò he thì cô Thoả đã đến tuổi trăng tròn. Chỉ sau vài phiên chợ, anh chàng môn sinh của ông phó Đễ đã phải lòng cô hàng xóm. Hai người quyến luyến nhau lắm. Những hôm không có chợ Đình thế nào Lự cũng giả vờ ra hàng rào làm việc gì đó để nhìn cô bạn gái. Thoả biết ý, thường đứng nép vào giữa hai cây chuối góc vườn, hễ thấy bóng anh chàng thì nhô đầu ra. Việc thậm thụt giữa hai người không qua mặt được vợ chồng phó Đễ. Ông ta gọi thằng cháu vào nhà lên giọng cha chú:
    - Lão ấy hành nghề phù thuỷ đã chết hai đời vợ, lại không có con trai vì làm nhiều việc tổn âm đức. Tao cấm mày đi lại với con bé ấy.
    Lự thấy thái độ của ông cậu có vẻ xuất phát từ sự hiềm khích dai dẳng do lòng đố kỵ và thói tham lam vô lối gây ra nên mới bảo:
    - Cháu thấy nhà ông Khán đối xử với xóm làng có đến nỗi nào, sao mà cậu cố chấp thế ?
    Ông cậu mặt vẫn hầm hầm, giọng nặng chịch:
    - Như vậy là mày vẫn muốn lấy con bé ấy ?
    - Là cháu nói thế chứ đã có chuyện gì đâu mà cậu đã nổi xung lên.
    - Vậy thì hãy tránh xa nó ra. Con bé ấy chỉ có lấy chồng thiên hạ. Trai làng này không đứa nào dám rước.
    - Vì sao hả cậu ?
    - Lại còn phải hỏi. - Phó Đễ gắt - Nó nặng căn số vì lão khán Đản là người dương gian nhưng lại làm việc âm phủ.

    Nhưng rồi hai người vẫn lén lút gặp nhau ngoài chợ. Một lần phó Đễ bí mật đi theo bắt được liền sang kẻ Bòng báo cho ông anh họ. Ông Thao lập tức lôi con trai về không cho học nghề to he nữa, ít lâu sau bắt lấy vợ. Vợ Lự là con ông Ba Toa người làng Bối Khê. Ông Ba Toa với ông trương Thao cùng là dân buôn trâu, biết nhau quá rõ, thật là môn đăng hộ đối. Trước khi cưới vợ cho Lự, ông Thao bảo:
    - Cái nghề buôn trâu hay bị thiên hạ nó chửi. Bố muốn đến đời mày không phải mang tiếng là phường lừa đảo nên mới cho đi học nặn tò he. Nhưng cậu Đễ bảo tay nghề chưa đâu vào đâu đã phải lòng gái, mà con bé ấy lại là dòng giống phù thuỷ. Thôi không kén cá chọn canh nữa, cưới xong theo tao vài chuyến cho nó quen đi.

    Lự vốn chẳng ưa gì công việc vỗ mông trâu của ông thân sinh, lắc đầu quầy quậy:
    - Con không đi buôn trâu, thà làm nghề đánh giậm còn hơn.
    Ông Trương cười nhạt:
    - ở đời chẳng có nghề gì cao quý và thấp hèn, mà cao quý hay thấp hèn là ở cung cách làm ăn, anh hiểu chưa ? Nếu là người lương thiện thì chẳng việc gì phải ngại nghề buôn trâu. Làm vua mà bụng dạ tiểu nhân thì cũng chẳng khác gì phường lừa đảo. Chỉ sợ sau này dính vào rồi anh bám dai như đỉa, không muốn đổi nghề nữa.
    - Nhưng con thấy nó thế nào ấy ?
    - Cưới vợ rồi anh định làm gì nuôi nó ? Hay là vẫn ăn bám bố mẹ ?
    - Đấy là bố mẹ bắt cưới đấy chứ ?
    - Mày đừng có láo - Ông trương Thao quắc mắt - Vợ chồng là đạo nhân luân, đã làm người thì phải có trách nhiệm với tổ tông. Không nghe tao thì bước khỏi nhà.
    Vợ Lự là người đàn bà khoẻ mạnh, hiền lành nhưng trời chỉ cho hai người được mỗi mụn con gái rồi không đẻ nữa. Thị Lánh thuở bé được bố mẹ quý như vàng, càng lớn càng xinh đẹp. Hành nghề vài năm, đến lúc ông trương Thao quy tiên, Lái lự đã có một số vốn kha khá. Quả như ông bố dự đoán, những món lãi đáng kể sau mỗi chuyến làm ăn đã biến chàng trai chất phác kẻ Bòng thành gã buôn trâu giầu thủ đoạn trên thương trường. Trong vòng hơn chục năm, lái Lự thông thạo tất cả mọi đường ngang ngõ dọc ở phủ Đông Giàng. Có lần lão còn lên tận vùng Lạng Giang thăm mối hàng. Mọi việc đồng áng ở nhà đều do bà vợ cáng đáng. Năm Thị Lánh mười sáu, bà mẹ đi chợ Lành về, trúng gió độc sinh cảm hàn rồi bị liệt nửa người, chỉ nằm mà không ngồi dậy được, hai năm sau thì chết. Từ đấy Lái Lự sống độc thân tuy mới xấp xỉ tứ tuần.

    Nghề buôn trâu vào những năm tao loạn chẳng kiếm được là bao. Sẵn có vốn trong tay lái Lự chuyển sang buôn gạo và hàng tạp hoá. Tuy đã mấy lần lên voi xuống chó, có bận phát tán gần hết cơ nghiệp nhưng vốn khôn ngoan lọc lõi và giỏi kinh doanh, gần đây lão đã trở thành người có máu mặt nhất ở kẻ Bòng. Tận nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn, nhất là những lúc cô đơn, lái Lự vẫn còn một khoảng giành cho người con gái năm xưa. Từ khi Khúc Đàm chết, con gái trốn khỏi làng Cùa, lái Lự không dám sang sông nhưng vẫn theo dõi số phận mẹ con bà Hai. Những tưởng hai người không bao giờ gặp lại nhau và mối tình cuồng dại năm xưa chỉ còn là một kỷ niệm buồn, chẳng ngờ gần đây mẹ con bà ấy lại kéo nhau về quê ngoại.

    Sau hôm giỗ đầu cụ Khán, lái Lự nhào bột nếp, nhuộm phẩm nặn một rổ con giống tò he mang sang làng Nội cho lũ cháu bà Hai. Thằng Khải và thằng Nghiên thích lắm, đòi theo về kẻ Bòng để ông Lái dạy nặn Quan Vân Trường cầm Thanh Long đao cưỡi ngựa Xích Thố và Tôn hành Giả vác gậy như ý đánh Bạch Cốt Tinh. Lái Lự bảo :
    - Được rồi, nhưng ông muốn bà và mẹ các cháu về bên ấy luôn thể. ý mẹ con bà thế nào ?
    Bà hai đã nghe lái Lự nói đi nói lại chuyện này nhưng vẫn còn dùng dằng chưa quyết :
    - Tôi cứ thấy nó thế nào ấy. Thời trẻ chẳng ở được với nhau, giờ hai thứ tóc lại về bên ấy, làng nước người ta bảo già còn theo trai.
    - Đấy là lỗi ở tôi. - Lái Lự chợt lặng đi một lúc rồi mới nói tiếp bằng giọng quả quyết -Bây giờ tôi một thân một mình, buồn lắm, mong mẹ con bà cháu sang cho vui cửa vui nhà trước khi nhắm mắt về với tổ tiên.
    - Giá ngày ấy ông cứng cáp lên một tí thì bây giờ đâu đến nỗi.
    - Chuyện cũ qua rồi, nhắc lại làm gì … Lái Lự thở dài khẽ bảo - Bà không thương tôi sao ?
    -Nhưng còn mẹ con nó ?
    - Tôi coi chúng như con cháu. - Lái Lự ngước nhìn hai thằng con Khúc Thị Hài đang vặt những quả chuối tò he đưa lên miệng nhấm nháp cho dù chúng đã bảy tám tuổi, mỉm cười bảo - Gì thì gì, tôi với gia đình bên ấy vẫn là chỗ thông gia, có điều con Lánh ăn ở chẳng ra gì, làm mất mặt cả họ.

    Bà Hai có vẻ chưa xuôi :
    - Ông cứ để tôi tính xem sao đã. Chuyện này còn có chỗ không thuận.
    Lái Lự là người có tính kiên nhẫn mà vẫn phải gắt lên trước thái độ lừng chừng của bà Thoả :
    - Bà nghĩ xem, từ hồi cụ Khán mất, họ Phùng đối xử với mẹ con bà như thế nào, nhất là tay phó lý Tài. Trước sau rồi chúng nó cũng cướp trắng cơ ngơi này, đuổi mẹ con chị Hài ra khỏi làng một khi bà nằm xuống. Hãy nghe tôi, về kẻ Bòng.
    - Nhưng còn ông cụ bà cụ, tôi bỏ đi ai hương khói ?
    - Con cái ở đâu bố mẹ ở đấy ! Họ hàng nhà bà toàn một lũ đểu, tham ăn như chó đói. Chúng muốn là muốn mảnh đất này chứ đâu phải có lòng hiếu đễ. Theo tôi, ta nên rước các cụ sang bên ấy. Hằng năm tôi sẽ đưa bà với mẹ con con Hài về tảo mộ.

    Đầu tháng Mười, bà Hai và mẹ con Khúc Thị Hài theo lái Lự về kẻ Bòng. Năm ấy trời rét sớm. Gió bắc rít từng cơn quần đảo điên loạn trên những thửa ruộng đã cày ải phơi màu vàng sậm. Đây đó những mô rạ chưa kịp chuyển về làng, bị những trận cuồng phong giận dữ cuốn lên cao, xé tung ra, đẩy giạt về phía cồn Vành tạo thành một khối hỗn độn mù mịt thứ bụi trắng đục như bột phấn. Đi giữa cồn Vành có thể nghe rõ tiếng gió đập vào những tàu lá chuối phành phạch như là tiếng quạt mo của lão vệ Hạch bợm rượu vào một đêm bức bối đã chót quá chén. Những tàu lá chuối cách đấy ít lâu còn xanh mướt như ngọc tuyền thuỷ giờ xác xơ, bầm dập. Chỉ còn có cỏ là xanh, cỏ mần trầu, cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ chân chim vẫn mơn mởn trên đất phù sa. Phải tìm đến khu gò cao, dọc theo cánh bãi trồng ngô mới gặp vài đám cỏ mật. Trẻ trâu chỉ cần một một cụm bỏ vào túi, khi cỏ héo đi chính là lúc hương thơm và mật ngọt toả ra ngào ngạt, vài ngày sau vẫn còn phảng phất vị nồng nàn, quyến rũ của đồng quê. Cồn Vành lúc này vắng bóng hoàn toàn lũ chim nước. Từ cuối tháng chín chúng đã bay về phương Nam tránh rét. Thỉnh thoảng còn lại vài con sáo đen, chèo bẻo hoặc sẻ đồng vốn đã quen với cái lạnh cắt da cắt thịt của những ngày mưa phùn, gió bấc. Lũ sáo đen mỏ ngà cứ tầm trưa khi nắng hửng lên một lúc là chạy lui cui giữa những vồng ngô non mổ cào cào châu chấu. Chèo bẻo thì luôn luôn bám sát đàn trâu, nhảy thoăn thoắt trên lưng trên cổ chúng mà bắt rận. Bọn trẻ đôi khi tết thòng lọng bằng lông đuôi trâu hoặc dùng nhựa dính được vài con.Chèo bẻo bé tí tẹo có cái mỏ ngắn chân mảnh như que tăm nhưng tiếng hót cực kỳ hấp dẫn nhất là lúc bay chấp chới trên cao. Sẻ đồng chẳng biết rét là gì, tụ tập hàng đàn trên những ruộng kê vừa thu hoạch nhặt những hạt rơi vãi. Mỗi khi chúng bay lên, cánh đập ràn rạt ào qua như một đám mây. Thấp thoáng dưới ruộng đỗ, ruộng vừng là lũ chim xanh từ mãi vùng Yên Hưng bay về. Chúng to bằng cỡ chim cu và cũng như chim cu có cái cổ cườm óng ánh tuyệt đẹp nhưng không biết hót. Mỗi khi gọi nhau cổ họng chúng chỉ phát ra những tiếng "tích tích" rồi lại "tà tà" như là hiệu thính viên gõ cần ma níp. Làng Bòng có những thợ săn vô công rồi nghề chuyên dùng lưới bẫy những chú chim xinh đẹp này về băm viên nướng chả nhắm rượu. Nhưng loài chim xanh vô cùng tinh khôn. Chúng ít khi bị mắc lừa bọn sát thủ ngay cả khi có chim mồi. Có thể xem đây là loài chim không bao giờ phản bạn cho dù sắp phải lên "đoạn đầu đài". Chuyện xảy ra với lão Chi méo cách đây ít lâu. Chẳng biết bằng cách nào, hôm ấy Chi méo bẫy được một mẻ tám con. Lão nhắm rượu sáu, còn để lại hai làm chim mồi. Lão tin chắc, không chóng thì chày, thế nào cũng bắt đến con chim xanh cuối cùng một khi trong tay đã có "át chủ bài". Lưới được giăng ra và nguỵ trang bằng những cành móc lá còn xanh khéo đến mức ngay cả con người cũng khó phát hiện được. Đôi chim mồi bị buộc dây vào chân cứ nhảy nhót liên tục như đang mổ thóc ăn. Chừng nửa buổi thì đàn chim xanh khoảng vài chục con từ phía núi Phượng Hoàng bay về. Chúng lượn vài vòng rồi từ từ đáp xuống. Đúng vào lúc ấy con chim mồi gáy lên mấy tiếng "tích tích tà tà". Chẳng hiểu tiếng hót ấy bao hàm tín hiệu gì mà cả bầy chim vừa sắp tiếp đất lại cuống cuồng bay vút lên, chỉ một thoáng đã mất hút vào dãy núi xa mờ. Những lần sau Chi Méo đặt bẫy sự việc cũng diễn ra y hệt như thế. Lão tức lắm, vặn cổ đôi chim rồi vác lưới thất thểu về làng.

    Vào lúc chiều tối, tuy rét mướt nhưng thỉnh thoảng vẫn gặp những con cò già lẻ loi kiếm ăn dưới chân rộc còn sót lại sau mùa lũ chưa kịp khô hết nước. Chúng sục mỏ xuống bùn bắt đám tôm rảo, tép gạo hoặc cá đòng đong, Bọn này bị sặc , chạy quáng quàng tìm cách thoát khỏi hai gọng kìm của kẻ thù truyền kiếp. Có con hoảng quá nhảy cả lên bờ. Lão cò già cổ ngẳng trụi sạch lông điềm tĩnh mổ từng con một, cần mẫn, chính xác và tàn nhẫn cho đến khi hoàng hôn đổ xuống thì bay lên cây gạo gần đấy nghỉ qua đêm.

    Chiều hôm ấy lái Lự tiếp đãi mẹ con bà Hai bằng món gà luộc chấm muối ớt lá chanh và thứ đặc sản chim xanh băm chả nấu với mướp hương. Buổi tối cả nhà ngồi quây quần quanh bếp lửa ăn ngô rang. Khúc Thị Hài có ngón nghề rang ngô bằng cát sông Lăng, hạt nào cũng nở bung, trắng như hoa huệ. Ngô kẻ Bòng vừa dòn vừa thơm, lão nhai rau ráu, thỉnh thoảng lại bốc cho bà Hai một nắm. Hai thằng cháu ngầm đưa mắt cho nhau tủm tỉm cười. Lái Lự bảo Khúc Thị Hài:
    - Mấy hôm nữa phải cho anh em thằng Khải đi học. Bác đã nói với ông giáo Đằng nhận chúng vào lớp đồng ấu.
    - Thời buổi này học hành mà làm gì hả ông ? - Bà Hai bàn - Hay là ông mua lấy con trâu cho chúng nó vừa chăn vừa đánh giậm kiếm cá.
    Lái lự lắc đầu:
    - Học chữ thời nào cũng cần mà có chữ là có tiền. Tôi đã từng tiếp xúc với một ông tham lục lộ, nhà giầu nứt đố đổ vách.
    - Nhưng cũng cứ mua lấy con trâu để ngoài giờ học chúng đi chăn.
    - Được, với một lái trâu như tôi, việc ấy có gì khó, chỉ sợ hai thằng mải chăn trâu đúc dế chểnh mảng sự học.
    Khúc Thị Hài đưa mắt cho con, hai thằng chắp tay thưa:
    - Chúng cháu thích học lắm, không mải chơi đâu ông ạ.
    - Thế thì được, đợi qua tết, ông sẽ mua một con trâu tơ sừng ấu cho mà cưỡi.

    Mấy hôm sau, trời vẫn rét đậm. Nửa đêm gió lạnh quất ràn rạt trên mái nhà như sắp có bão. Lái Lự đang mơ mơ màng màng giữa đống chăn bông to sụ chợt có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Lão tỉnh giấc nhưng vẫn nằm yên nghe động tĩnh.
    Tiếng gõ lần này gấp gáp. Lão chần chừ một lúc rồi mới đứng lên rón rén lại gần cửa hỏi khẽ:
    - Ai đấy ?
    - Ông Lái cho tôi vào với, ngoài này rét lắm.

    Tiếng thì thầm nghe rất quen nhưng lái Lự chịu không thể đoán được ai. Không lẽ lại là cướp. Thế này thì nguy quá. Lão thoáng nghĩ. Mình mới đưa mẹ con bà ấy về đây được ít ngày, chúng mà khoắng sạch thì phen này …
    - Làm ơn mở ra ông Lái... - Tiếng người bên ngoài vô cùng khẩn thiết.
    "Chắc không phải cướp. - Lái Lự tự trấn an mình - Nhưng phải thử xem đã. Thời buổi này trộm cướp như rươi. Chúng nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lừa gạt dân lành".
    - Thưa các quan, nhà này chẳng có gì đâu ạ ! - Lái Lự làm ra vẻ thiểu não - Cách đây ít lâu tôi bị chúng nó lừa mất sạch cơ nghiệp rồi. Mời các ngài sang nhà phó lý Uông. Ông ta vừa bán ao cá mè.
    - Ông Lái mở cửa ra. Tôi là Khoá Kiệt đây mà, không phải kẻ cướp đâu ?
    - Hả ? Ông là Khóa Kiệt làng Cùa ?
    - Tôi đây chứ còn ai.
    - Chết thật, sao không nói ngay từ đầu làm tôi hết cả hồn.

    Cửa mở, Khoá Kiệt lẻn vào nhanh như một bóng ma rồi đóng sập hai cánh lại. Dưới ánh đèn dầu tù mù, quả thật chủ nhà không thể nhận ra cố nhân trong lốt một gã đàn ông cao lêu nghêu với khuôn mặt hốc hác như đói ăn lâu ngày và chòm râu dê rối tung chẳng khác gì đám rễ bèo tây phơi nắng. Người Khoá Kiệt gần như ướt sũng, chân tay ông ta tê cứng, toàn thân run rẩy nên tiếng nói ngọng nghịu khác hẳn một ông khoá vẫn cao giọng bình những bài văn xuất sắc của đám học trò hồi còn ngồi dạy học ở làng Bòng.
    - Bác ở đâu về đây ? Hình như là người ta vẽ hình bác dán ở chợ Cháy.

    Tôi vừa kiếm được chiếc thuyền vượt sông Lăng, gần sang đến bên này, gió mạnh quá thành ra bị lật, xuýt chết. Bác còn gì ăn được không ?
    - Có lưng nồi cơm nguội với ít rôm rang. Để tôi gọi bà ấy.
    - Xin bác đừng để người nhà biết. Nói thật tôi mới từ Ba Tổng sang đây. Nhà chức trách phủ Đông Giàng và cả huyện

    Nam Thành đang có lệnh truy nã.
    - Nghe nói quân áo Đen của bác mạnh lắm, đánh được cả Nhật phải không ?
    - Chuyện dài lắm, lúc nào thư thả tôi kể bác nghe - Khoá Kiệt vừa nhai trệu trạo vừa lấm lét nhìn trước nhìn sau rồi hỏi:
    - Chắc bác mới tục huyền ?
    - Sao bác biết ?
    - Là tôi đoán thế vì bà nhà mất đã gần chục năm nay mà bác vẫn độc thân.

    Lái Lự thì thầm:
    - Vì một lời hẹn ước ngày xưa, là vì tôi phụ người ta nên bây giờ nói mãi mẹ con bà ấy mới chịu về đây.
    - Bà ấy ở làng nào ?
    - Bên kẻ Nội. Người ấy ông biết quá còn gì ?
    - Thú thật, những năm qua tôi theo đoàn thể hoạt động mãi bên Nam Ngạn mới về Ba Tổng nên không biết.
    - Chính là Bà Thoả con cụ khán Đản.
    - Là vợ hai chánh Đàm phải không ?
    - Thì đã sao ? - Lão lái trâu có vẻ không hài lòng với câu hỏi bất ngờ của ông chỉ
    huy đội quân áo Đen. - Ông ta đã chết còn bà cả Huê thì đuổi mẹ con người ta ra khỏi nhà, bác xem còn gì là tình người.
    Khúc Kiệt đã ăn xong, chiêu một ngụm nước vối trong chiếc bình tích rồi thong thả bảo:
    - Cả nhà chánh Đàm chỉ có mỗi mẹ con bà Hai là người tốt. Làm nghề buôn bán mà có tấm lòng độ lượng như bác không nhiều. Tôi phục đấy.
    - Bác quá khen - Lái Lự nhún nhường - Thời buổi loạn lạc chẳng biết sống chết ra sao. Thôi thì mỗi người dựa vào nhau một chút may ra qua được cơn binh lửa. Mà này, còn một chuyện tôi muốn hỏi. Gia đình bác sau trận Nhật kéo quân về làng Cùa có bình yên không ?

    Khúc Kiệt lắc đầu, mặt khó đăm đăm:
    - Bác biết rồi đấy, giặc Nhật đốt nhà giết người, chưa đầy một ngày một đêm làng Cùa mất hơn bẩy chục nhân mạng. Nhà tôi bẩy người, còn ba mà thằng lớn lại bỏ đi.
    - Bây giờ bác định thế nào ? hay là tạm lánh sang bên này ít bữa, đợi tình hình lắng xuống rồi hãy về?

    Khúc Kiệt bảo:
    - Vẫn còn những cơ sở quần chúng đáng tin cậy ở vùng Ba tổng, nhưng bọn Nhật và lũ tay sai dán hình tôi khắp nơi, treo thưởng cho ai bắt được hoặc chỉ ra nơi ẩn náu nên mới phải vượt sông ban đêm.
    - Thế thì cứ ở nhà tôi một thời gian. Làng này hẻo lánh, ít kẻ rình mò, không ngại.

    Khúc Kiệt trong lòng vô cùng cảm kích đảm khí của lão lái trâu nhưng dù sao cũng cần phải nhắc ông ta cẩn trọng:
    - Chuyện này can hệ đến cái sống cái chết của cả nhà, mong hãy giữ kín cho, sau này Cách mạng sẽ không quên ơn. Tôi cũng chỉ dám nhờ bác vài ngày thôi.
    - Tôi sẽ dẫn bác đến trú tạm ở dãy buồng trâu ngoài đầm Vực. Chỗ ấy an toàn lắm.

    Khoảng canh ba, Lái Lự lấy cho Khúc Kiệt bộ quần áo nâu, thêm chiếc áo bông chần và chiếc khăn phu la rồi dẫn ông ta ra bờ đầm. Lúc này gió đã bớt gào thét nhưng trời vẫn lạnh hun hút. Đầm Vực chìm trong màn đêm dày đặc. Một chàng dế non có lẽ mới ra ở riêng gáy ke ke. Tiếng gáy yếu ớt lập tức bị lẫn vào tiếng sóng. Những con sóng nhỏ lăn tăn gối lên nhau, bị gió cuốn vào bờ phát ra thứ âm thanh oàm oạp chẳng khác gì đứa trẻ vừa tắm vừa lấy bàn tay vỗ nước nghịch trong chậu. Trên cành cây xương cá, một con gà nước ngủ gật bỗng giật mình, vỗ cánh phành phạch, kêu toáng lên khiến mấy chú bồ chao đậu trong đám dây chạc chìu nháo nhác, làm rối loạn cả đầm nước vốn đang vô cùng yên tĩnh. Thì ra nó ngửi thấy mùi cáo. Con cáo xám có cái đuôi dài như bông lau lặng lẽ luồn dưới đám cây gai lúp xúp, hy vọng kiếm được miếng gì đó cho vào bụng vì đã gần một tuần nay trời rét như cắt, nó phải nhịn đói.

    Khoá Kiệt nằm trên chiếc ổ rạ trong dãy chuồng trâu bỏ hoang ngay sát bờ đầm, mệt quá, ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy đã quá trưa, xung quanh không một bóng người. Ông ta vươn vai đứng dậy định ra ngoài đi tiểu nhưng chợt nhớ là mình đang lẩn trốn nên đành phải vào góc nhà. Khi quay về ổ Khúc Kiệt mới nhìn thấy bình soạn cơm, cái liễn sành đựng thức ăn và quả bầu khô đựng nước chẳng biết lái Lự mang ra từ lúc nào. Ông ta ăn cơm và bất giác nhớ lại những ngày qua.

    Đêm ấy, sau khi rút khỏi đình Cả, đội quân áo Đen chỉ còn lại hơn hai chục người kể cả những anh em bị thương, thoát ra được đầm Ma rồi lần vào rừng Hóp. Dân làng Cùa lúc đầu ủng hộ Khúc Kiệt đấu tranh chống sưu cao thuế nặng. Bà con tỏ ra hoan hỷ khi thấy đội quân áo Đen đánh bại một cơ lính của Triều đình, nhưng đến khi quân Nhật về giết người , đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ thì họ lại coi ông ta như kẻ thù. Cánh chức dịch còn sống sót sau trận huyết chiến giữa Khúc Kiệt và bọn giặc Lùn, vừa sợ vừa ghét vị thủ lĩnh áo Đen. Biết thừa ông ta đang lẩn trốn trong rừng Hóp nhưng không một ai dám dẫn tuần đinh lên vây bắt hoặc bẩm báo phủ Đông Giàng. Cái chết của phó lý Dần và chánh tổng Cao Lộng là bài học đắt giá cho những kẻ mất hết lương tri, bán rẻ nhân phẩm của mình, làm hại đồng bào. ở trong rừng đến ngày thứ sáu, mọi người đói vàng mắt vì không tìm được cái ăn ngoài thứ măng hóp vừa đắng vừa chát. Bây giờ không phải mùa chim làm tổ, thỉnh thoảng mới tóm được con giẽ giun, thịt dai ngoách, chỉ ngửi đã lợm giọng. Tình hình lúc này rất căng nhưng không thể ngồi chờ chết. Khúc Kiệt tập trung anh em khai hội. Một hội viên người tổng Bạch Sam bàn:
    - Theo tôi ta nên vượt sông Lăng, bên ấy tương đối yên ổn, dễ gây dựng cơ sở.

    Quách Thịnh bảo:
    - Kẻ Bòng, kẻ Nội không phải địa bàn hoạt động của chúng ta, lớ ngớ là bị bọn chức dịch tóm nộp cho Nhật lấy tiền thưởng. Ai sang thì sang chứ tôi không bao giờ.

    Khúc Kiệt bó gối nhìn hết lượt anh em mắt lim dim như là sắp ngủ, nhưng thực ra ông ta đang tính toán phương án có lợi nhất cho những hoạt động tiếp theo :
    - Bây giờ tôi đề nghị anh em thế này. mọi người tạm thời về địa phương mình, bí mật vận động bà con chống chủ trương mua thóc tạ và nhổ lúa trồng đay của Nhật. Tôi sẽ tìm cách liên hệ với cấp trên, báo cáo tình hình, vì ta mất liên lạc quá lâu, không nắm được chủ trương chung. Sau khi có chỉ thị mới, tôi sẽ thông báo lại.
    Chập tối hôm ấy Khúc Văn bảo bố:
    - Con chán cái trò chém giết này lắm rồi, vì bố mà gia đình ta tan nát.
    Khúc Kiệt cau mặt:
    - Mày nói cái gì?
    Khúc Văn ngoảnh mặt lau nước mắt:
    - Con đi đây.
    - Đứng lại!- Ông bố quát- Ra ngoài ấy là bị chúng nó giết.
    Khúc Văn thủng thẳng bước đi có vẻ như chẳng coi lời cảnh báo của Khúc kiệt ra gì. Anh ta vác khẩu súng trường đã hết đạn lên vai dò dẫm ra cửa rừng
    Trận mưa bất chợt làm bầu trời bớt đi vẻ u ám để lộ ra khoảng không gian màu lam ngọc được gắn những ngôi sao bé tí xíu như hạt cườm. Một dải mây trắng mỏng giăng ngang đầm Ma, phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo của dòng sông Ngân lúc ẩn lúc hiện như những sợi tơ trời. Trước khi sang sông, Khúc Kiệt chợt nảy ra ý nghĩ về nhà. Làng Cùa sau trận hoả hoạn hầu như không còn tiếng chó sủa. Họ Khúc lần mò chẳng khác gì tên kẻ trộm trong đêm. Toàn bộ ngôi nhà đã làm vật hiến tế cho thần lửa. Trước mắt chỉ còn là đống hoang tàn. Không có một biểu hiện nào của sự sống. Đứng lặng hồi lâu trước cảnh tang thương, Khúc Kiệt cầm lòng không đậu, đưa tay lên gạt nước mắt.
    - Phải tìm Ngô Quỳnh.- Ông ta lẩm bẩm- Chỉ có hắn mới biết rõ được vợ con mình ai mất ai còn.
    Lý Quỳnh đang ngồi uống rượu một mình. Nhìn thấy Khúc Kiệt, ông ta chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên, cầm chiếc nậm cụt cổ rót rượu ra chén rồi bảo khách bằng giọng lè nhè:
    - Tôi biết ông đến đây làm gì rồi. Nào, làm một tợp cho ấm bụng đã.
    - Ông vẫn uống thế này à?- Khúc Kiệt đưa mắt quan sát xung quanh chiếc lều mới dựng có lẽ chỉ nhỉnh hơn gian bếp một chút- Bà ấy với các cháu đâu?
    - Chết cháy cả rồi - Lý Quỳnh đã hơi say giọng méo mó - Không uống thì để làm gì.
    - Biết thế sao ông lại rước bọn quỷ Lùn về?
    - Lão Phủ Đông Giàng thù Việt Minh nên mới báo cho Nhật đem kỵ binh về tiêu diệt quân áo Đen. Chúng tôi là lũ thuộc hạ, ở vào cái thế trên đe dưới búa, theo các ông thì Nhật chém đầu, mà theo Nhật thì kết quả như thế này đây. Làng Cùa đến ngày tận số rồi.
    - Vợ con tôi chết hết rồi phải không?
    Lý Quỳnh gật đầu:
    - Chỉ còn mình cô Nhân, nhưng mấy hôm trước tôi đã nhờ thằng cháu đưa sang lánh tạm bên Đậu Khê.
    Khúc Kiệt lạnh lùng bảo:
    - Chắc ông không định bắt tôi đấy chứ?
    Lý Quỳnh lắc đầu:
    - Không.
    - Sao thế ?- Khúc Kiệt nói kháy- Cách đây mấy hôm ông vẫn muốn chặt đầu tôi treo lên cây gạo kia mà.
    - Chém giết nhau như thế là đủ rồi. Với lại, tôi có dự cảm thời thế sắp thay đổi.
    - Bao giờ con Nhân nhà tôi về đây?
    - Chưa về ngay được đâu. - Lý Quỳnh định rót thêm cho mình chén nữa nhưng nậm rượu đã cạn. Ông ta loạng choạng đến góc lều xách ra một vò đậy nút lá chuối đặt trước mặt Khúc Kiệt.
    - Con bé đang hoảng loạn vì cái chết của cả nhà, đưa về lúc này sợ nó nghĩ quẩn rồi làm liều.
    - Thế cũng phải. Thôi thì trăm sự nhờ ông.
    - Bây giờ ông đi đâu?- Lý Quỳnh nhìn Khúc Kiệt có vẻ ái ngại.
    - Cũng chưa biết.- Khúc Kiệt lưỡng lự một lát rồi bảo- Có lẽ tôi sang bên kia sông.
    - Chúc ông chân cứng đá mềm. Chỉ mong sau này ông có kéo quân về thì đừng tàn sát dân làng.
    Khúc Kiệt nặng nề đứng dậy bước ra khỏi lều rồi lẫn vào bóng đêm. Có cái gì nhói lên trong lòng ông ta. Như vậy là Lý Quỳnh cũng mất sạch vợ con cùng cơ nghiệp, nhưng hắn vẫn còn mảnh đất dựng túp lều mà ngồi nhấm nháp chén rượu giải sầu. Còn ông ta, từ nay không nhà cửa, không người thân thích. Thằng con trai thì mất lòng tin, công khai chống lại bố, bỏ đi. Khúc Thị Nhân cũng xiêu dạt xứ người, biết bao giờ mới được gặp nó.
    Đêm như loãng ra bởi từ đâu đó rất gần có tiếng chim lợn kêu. những con quái điểu này bay loạn xạ trên bầu trời làng Cùa, thả xuống thứ âm thanh chói tai giống hệt tiếng lợn bị chọc tiết. Có con táo tợn bay rất thấp. Chúng sải cặp cánh dài, trắng lốp sà sát xuống những mái nhà còn sót lại sau vụ cháy, kêu choeng choéc như là tín hiệu của quỷ sứ về bắt hồn người chết. Khắp vùng Ba Tổng không ở đâu có mật độ chim lợn, cú mèo và chó hoang dầy đặc như làng Cùa. Đến gần gò Kim Kê, Khúc Kiệt bỗng giật mình bởi những bóng lờ mờ, quanh quẩn bên cây gáo cổ thụ. Đó là đàn chó hoang mới từ rừng Hóp kéo về. Chúng khác hẳn chó nhà bởi hành tung lặng lẽ như bóng ma, gặp người không bao giờ sủa mà tìm cách lẩn vào bụi rậm. Lũ dã cẩu này có những cái nanh nhọn như nanh chó sói và cái đuôi khá dài kéo lê trên mặt đất. Chúng vô cùng điêu luyện trong nghệ thuật trộm gà và cuỗm những thứ có thể ăn được nếu gia chủ sơ ý. Một con chó vàng cụt đuôi to như con bê, hình như là đầu đàn, ẩn vào bụi dong riềng, khẽ gầm gừ khi phát hiện Khúc Kiệt đang bước tới. Cặp mắt nó bắt ánh sao đêm xanh lét. Người và vật lăng lẽ nhìn nhau mấy giây, đến khi Khúc Kiệt vung chiếc gậy tre lên, thì con chó hoang nhún chân lao vọt vào vườn chuối. Bóng của nó vẽ thành một đường vòng cung như là đang làm xiếc nhảy qua vòng lửa. Trên gò cao, cây gáo sừng sững vươn lên với những cành trụi lá như cánh tay của con quái vật khổng lồ đang dò dẫm tìm kẻ thù bằng cách cứ mỗi lúc lại dài thêm ra. Gió lạnh cọ vào những cành khẳng khiu, làm bật ra những tiếng lào thào chẳng khác gì gã chán đời thở dài.

    Khúc Kiệt chậm rãi bước lên đê, quay mặt về hướng bắc đón làn gió lạnh. Đằng đông, một quầng sáng mờ mờ báo hiệu buổi bình minh bắt đầu hiện dần lên ở đường chân trời. Dãy Cổ Ngựa lô xô những chóp núi như là răng của loài khủng long thời tiền sử. Mỗi chiếc răng như thế được trang điểm bằng chiếc khăn quấn quanh, xốp và nhẹ như bông. Một con quạ đen thui có cái mỏ khoằm viền vàng, từ cồn Vành vượt sông Lăng bằng đường bay thẳng tắp như kẻ chỉ rồi đậu trên cây gáo, cất mấy tiếng rời rạc. Đã sắp rạng đông. Lúc này qua sông với Khúc Kiệt là hoàn toàn không thể. Ông ta lững thững ra điếm Bài Vân, tắt xuống cánh ruộng trũng bên đầm Ma rồi vào rừng Hóp. Trời sáng dần nhưng là thứ ánh sáng mùa đông. Không nhìn thấy mặt trời. Khắp đó đây chỉ thấy những cồn mây bị gió bắc dồn lại thành đống, xám ngoét, lạnh lẽo. Thỉnh thoảng lắc rắc vài hạt mưa. Mưa đập vào mo nang trên những cây hóp già lộp bộp giống như tiếng mõ cá bị rạn.
    Sự lừng khừng không vượt sông ngay của Khúc Kiệt thành ra bất lợi. Ông ta vừa mò vào rừng Hóp được một lúc đã thấy viên phó Lãnh binh dẫn hơn chục lính khố xanh phủ Đồng Giàng cùng ba tên Nhật ra điếm Bài Vân lùng sục dọc triền sông Lăng. Suốt ngày hôm ấy Khúc Kiệt bị đói, nửa đêm đánh liều về làng. Chẳng rõ bằng cách nào lý Quỳnh biết đối thủ của mình trở lại nên đã đợi sẵn ở cổng, đưa cho ông ta mo cơm rồi nói như ra lệnh:

    - Quan quân đã mai phục ở bến đò, ông không thể qua sông được nhưng phải đi khỏi làng ngay đêm nay.

    Khúc Kiệt cảm động lắm, nhìn Ngô Quỳnh chớp chớp mắt:
    - Cảm ơn ông Lý.

    Cũng vào đêm ấy, sau khi ra khỏi rừng Hóp, Khúc Văn quẳng khẩu súng đã hết đạn xuống ngòi nước rồi lững thững đi dọc bờ sông Lăng. Dòng sông như bị co hẹp lại bởi những trận gió lạnh tới tấp tràn về. Đêm càng khuya mặt nước càng tối sẫm, không thể phân biệt được đâu là dải bờ có những bụi tre gai chắn sóng đã bị gió cào tướp ra chỉ còn trơ lại cành lởm chởm với những thân ngô đã bẻ bắp, trụi sạch lá, đâm tua tủa lên trời. Dưới sông những con sóng đuổi nhau xô vào bờ ràn rạt. Sóng bạc đầu từ cồn Vành lao như ngựa vía, vượt qua vụng Hà Bá rồi liếm vào bờ hữu ngạn tạo thành những tiếng ùng ục ghê rợn như vạc dầu âm phủ đang sôi.

    Khúc Văn xuống gần mép nước. Cát ướt lạnh buốt loang khắp cơ thể. Bất chấp gió rét, hắn lội dọc bờ sông. Có những lúc hắn dẫm lên cỏ. Đó là thứ cỏ chỉ mảnh mai, vừa dòn vừa ngọt nổi tiếng ở vùng đất phù sa sông Lăng. Phía trước thấp thoáng chiếc thuyền nổi bập bềnh trên sóng được neo vào bờ bằng đoạn dây xích dài. trong thuyền không có chủ nhưng vẫn có cả hai mái chèo gác trong khoang. Khúc Văn nhìn chiếc thuyền, ngẫm nghĩ một lúc tiếp tục bước những bước chân vô định. Nhưng một ý nghĩ bất chợt làm hắn quay lại, tháo dây xích nhảy lên thuyền rồi từ từ buông chèo. Con thuyền nhấp nhô gối lên những ngọn sóng lừng lững trườn ra giữa sông. Khác với Lê Văn Vận lúc đưa bà Ba đi trốn, Khúc Văn chèo thuyền về phía ngã ba Môi hầu như không có một bến bờ nào cụ thể. Hắn lênh đênh trên sông trong tâm trạng của kẻ lãng du, muốn phó thác cả phần xác lẫn phần hồn cho Định Mệnh.

    Gió đã dịu đi nhưng bầu trời vẫn cuồn cuộn những tảng mây đen nặng nề làm không gian càng về khuya càng u ám. Hiếm hoi lắm mới có được chút ánh sáng lờ mờ của một ngôi sao bất chợt hiện ra giữa kẽ nứt những cồn mây. Từ đâu đó trong những âm thanh hỗn tạp của gió và sóng hình như có tiếng nhị đang rền rĩ một điệu “làn thảm” vô cùng ai oán. Tiếng nhị lúc trầm lúc bổng, lúc khoan lúc nhặt rung lên, cứa vào lòng người nỗi niềm khắc khoải chứng tỏ một kỹ năng bậc thầy trong nghệ thuật cầm ca. Phía dưới hạ lưu, nơi nhánh sông rẽ về bến Tràng, có ánh lửa thuyền chài. ánh lửa yếu ớt cùng tiếng nhị ai oán chập chờn lan toả trên mặt nước đen thẫm càng làm cảnh vật thêm cô tịch. Lầm lũi giữa bóng đêm, con thuyền giống như ảo ảnh lênh đênh trong cõi hoang tưởng. Khúc Văn cảm giác như là cuộc hành trình của mình sắp đến bến cuối cùng. Tấm thân phàm tục đang dần dần thoát được sức nặng ràng buộc trần thế và linh hồn đang phơi phới bay lên.
    Vụng nước xoáy tròn hút con thuyền bằng thứ lực hướng tâm đủ mạnh để không một vật thể nào còn nguyên vẹn khi ra khỏi vương quốc của Thuỷ thần. Hơn thế, khi nhìn thấy cái bẫy giết người hiện ra phía trước, Khúc Văn lại bất ngờ ném cặp chèo xuống nước. Trước mắt hắn dường như lấp loáng một đạo hào quang bảy sắc cầu vồng từ vụng nước xoáy vươn lên tận dải Ngân hà. Hắn nhắm mắt để chế ngự nỗi sợ hãi chợt thoảng qua rồi bình thản đến lạnh lùng với chiếc thuyền đi vào cõi vô cùng...

    Từ trong chiếc thuyền câu có ánh lửa chập chờn mờ ảo như ánh lân tinh, một bóng đen bất chấp cái lạnh của đêm đông, nhảy ào xuống nước. Chỉ vài sải tay, người đàn ông kéo nhị hồi đêm đã xốc nách lôi được chàng trai họ Khúc lên thuyền. Cũng không lâu lắm, sau khi được người thuyền chài làm thủ thuật cứu chữa, Khúc Văn tỉnh lại. Đó là một ông già xấp xỉ lục tuần nhưng dáng vóc còn tráng kiện lắm, nhất là đôi mắt có cái nhìn đầy vẻ giễu cợt. Lúc đưa cho Khúc Văn chén nước nóng pha mấy lát gừng, ông già nheo mắt như là đọc được tâm trạng hắn:

    - Cậu còn lắm nghiệp chướng, chưa thể làm thần dân của Hà Bá được. Số cậu là số thiên di. Cuộc hành trình tuy có nhiều gian nan nhưng sau này sẽ được mở mặt với đời.

    (còn tiếp)

  6. #6
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 6

    1. Hơn một năm sau, Khúc Thị Nhân mới từ Đậu Khê về làng Cùa. Đậu Khê là quê ngoại Khúc Kiệt. ở đấy ông ta còn một bà chị họ góa chồng. Nhìn thấy cô, Khúc Luận lúc ấy chưa đầy mười ba tuổi nhưng đã thấy xốn xang trong lòng. Những biểu hiện giới tính của cậu ta phát triển quá sớm mà con gái ông chú thì lại đẹp rực rỡ như một bông hoa đồng nội còn hàm tiếu dưới nắng ban mai. Khúc Luận học trường huyện trông đã ra dáng một gã choai choai. Dạo này cậu ta đang được nghỉ Hè, ngày nào cũng sang nhà Nhân giúp cô dọn dẹp.

    Việc dựng túp lều đối với Nhân phức tạp hơn cô nghĩ vì không những thiếu vật liệu cần thiết mà bản thân cũng chưa từng làm quen với loại công việc này. Khúc Luận là chàng công tử bắt cào cào châu chấu, nghịch ngợm thành thần, nhưng để trở thành thợ mộc, thợ đấu hoặc lợp nhà thì xem ra còn tốn nhiều thời gian và cơm gạo. Lúc đầu Nhân nghĩ Khúc Luận có lòng tốt, thương cô em họ gặp hoạn nạn, nhưng dần dần thấy cậu ta có những biểu hiện của một kẻ si mê mình thì bảo:
    - Từ mai anh phải ở nhà học, cứ lêu lổng là bác Cả đánh đòn.

    Khúc Luận cười lấy lòng:
    - Bây giờ đang nghỉ hè bài vở có gì đâu.
    - Nhưng anh cứ sang bên này làm quẩn chân tôi.
    - Nhân đuổi đấy à?
    - Không dám.

    Vào lúc ấy lý Quỳnh sang. Nhà lý Quỳnh với nhà Khúc Kiệt cách nhau không xa. Từ hồi mất cả vợ lẫn con, ông ta hay uống rượu rồi la cà khắp nơi trong làng. Nhìn thấy Ngô Quỳnh, Khúc Luận tức lắm, cậu ta “hứ” một tiếng rồi về, chẳng thèm chào một lời. Sáng hôm ấy, Nhân tắm sớm, chưa kịp mặc yếm thì Khúc Luận đã sang, đành phải khoác tạm chiếc áo cánh nâu, thành thử mỗi cử động, cặp vú tròn căng như hai trái dừa xiêm đánh đu trước ngực vô cùng khêu gợi. Thoáng nhìn cặp vú trinh nữ, người Ngô Quỳnh phút chốc như nổi gai. Ông ta cảm thấy phía trước như có dải sương mù chắn mất tầm nhìn. Trong cái khối bùng nhùng màu trắng đục như khói ấy hình như có mùi mồ hôi ngai ngái cùng với hương bồ kết nồng nồng từ mái tóc óng như mây chiều và chút sữa hoi hoi thấm qua lần áo mỏng. Ngô Quỳnh hít một hơi dài giấu vẻ lúng túng bởi những liên tưởng hoàn toàn không tương xứng với tư cách của một ông lý trưởng xấp xỉ ngũ tuần, rồi mới ngập ngừng bảo:
    - Tôi sang giúp cô làm lại gian nhà.

    Nhân giẫy nảy lên:
    - ấy chết ! Ông Lý còn bận việc dân việc nước, nhà cháu không dám phiền.
    - Có gì đâu mà phiền. - Lý Quỳnh xắn tay áo vào việc rất tự nhiên - Là người làng với nhau, hơn nữa cô bây giờ chẳng còn ai ở nhà, phận gái không nơi nương tựa tôi ái ngại lắm.
    - Xin nhận tấm lòng của ông Lý, còn công việc thì cháu cũng làm được mà.
    - Cô đừng khách sáo quá. Tôi chỉ có một mình, nhiều lúc buồn lắm, nên thỉnh thoảng cũng muốn giúp bà con trong làng cho khuây khoả.

    Hơn hai mươi năm trước, Lý Quỳnh đã có một thời oanh liệt. Thuở nhỏ, gia đình ông ta tuy không thuộc loại khá giả nhưng cũng được bố mẹ cho đi học chữ Nho với ông cả Thuyết là bố đẻ ra đồ Sách bây giờ. Ngô Quỳnh đẹp trai mà lại ngỗ nghịch có tiếng rất hay bị ông trương Phẩm đánh đòn. Ông Phẩm thửa chiếc roi mây to bằng ngón tay giắt mái nhà, lôi thôi là vụt tối tăm mặt mũi. Nhiều lần Quỳnh bị thâm tím cả người, nhất là hai mông đít nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Năm mười bốn mười lăm tuổi, cậu ta hay đánh giậm ở ngòi Mác. Đây là con lạch bắt nguồn từ cánh đồng Mả Dứa chảy vòng vèo qua xóm Trại Cá rồi đổ vào đầm Ma, rất nhiều tôm rảo, tép gạo và cá lòng cò. Tôm rảo nhỏ nhưng chắc thịt, nhảy tanh tách, mỗi mẻ quờ được hàng chục con. Thứ này rang khô, cho thêm thìa mỡ và chút đường ăn với cơm rau muống luộc cả tháng không biết chán. Cá lòng cò vào dịp tháng sáu ta, con nào cũng mang trứng, bụng phình ra tròn ung ủng. Chúng kéo hàng đàn hàng lũ, ngược dòng nước lờ lờ, thỉnh thoảng lại nghiêng mình phô ra những lớp vẩy bé tí xíu óng ánh như kim tuyến. Người làng Cùa thường nấu cá lòng cò với khế hoặc lá me ăn kèm rau ghém thái bằng cây chuối non hay rau muống chẻ. Cây me nhà ông Đà xóm Cầu Đá cao chót vót, chẳng biết được trồng từ bao giờ, chuyên cung cấp lá cho cả làng. Dưới gốc có ngôi miếu nhỏ thờ Mộc Thần. Trước khi leo lên vặt lá, ai cũng vào khấn mấy câu để thần phù hộ khỏi ngã.

    Lúc ấy đã quá trưa, Ngô Quỳnh giặt giậm, leo lên bờ bắt những con đỉa bám vào chân vứt xuống ruộng. Trời oi nồng như sắp có giông. Khắp nơi đồng không mông quạnh. Hắn quàng mõ giậm vào cán, đặt lên vai rồi thủng thẳng về. Trên gò Mả Dứa hình như vẫn còn người lúi húi cắt cỏ. Khu mả Dứa nổi tiếng lắm rắn. Không biết đứa nào mà gan thế, dám ra đây giữa trưa. Gọi là mả Dứa vì đấy là một khu gò cao hơn mặt ruộng, chung quanh mọc toàn dứa dại đầy gai nhọn, là nơi tá túc của đủ loại từ cầy cáo, chuột, rắn, mèo hoang đến châu chấu ma, cào cào lửa và cà cộ. Dứa mọc chen chúc thành những bụi to tướng, cao lênh khênh, rậm rạp như một khu rừng rất bí hiểm đối với những kẻ giầu trí tưởng tượng. ở giữa vành đai dứa dại ấy là những vạt cỏ chỉ và cỏ xước xanh mướt, cao đến đầu gối.

    Nhìn thấy cô gái thấp thoáng giữa bụi dứa dại, Ngô Quỳnh chợt sáng mắt lên. Hắn vốn là gã có máu phong tình, sớm đến tuổi dạy thì, liền quẳng giậm và giỏ cá rồi cúi thấp người bò lên gò, luồn qua những gốc dứa như con mèo rình mồi. Gần đến nơi, Ngô Quỳnh mới biết đó là cô Son con ông Bảy Ngạnh. Son chưa đầy mười bẩy nhưng cặp vú bánh dày nhô lên làm cả khuôn ngực chật căng trong chiếc áo cánh nâu non. Cô nàng lê la dùng liềm lia từng nhát xén cỏ xoàn xoạt, thỉnh thoảng nhổm người vơ thành đống xếp vào quang làm cặp mông vổng lên đong đưa đầy khêu gợi. Gã đánh giậm nhìn cô gái một lúc, nước bọt chảy tứa ra hai bên mép. Hắn chịu không nổi nữa bèn nhào đến ôm cô ta từ phía sau lưng. Cô Son giật mình tưởng là ma, mặt tái xám, không kêu được một tiếng. Ngô Quỳnh chẳng để mất thời gian, dằn ngửa cô nàng ra, luồn tay vào trong váy sờ soạng. Lúc này cô gái đã hiểu ra khi thấy thằng con nhà trương Phẩm đang loay hoay trên bụng mình. Cơn sợ hãi đã qua, phản ứng tự vệ trở lại, trong tay sẵn chiếc liềm, cô ta liền bổ một nhát vào mặt thằng đánh giậm. Ngô Quỳnh nghiêng đầu tránh được cú đòn trực diện, nhưng mũi liềm sắc cắm vào dưới màng tai làm hắn rú lên, trườn khỏi bụng cô cắt cỏ, lấy hai tay bịt vết thương lăn lộn giữa đám cây bạc hà dại. Nhìn thấy vết máu nhoe nhoét trên cổ thằng đánh giậm, cô Son đâm hoảng, bỏ cả quang gánh, cầm chiếc liềm chạy một mạch về nhà, chui vào buồng khóc, bố mẹ hỏi cũng không nói. Thấy con gái có cử chỉ khác thường, ông Bẩy Ngạnh tra hỏi mãi cô Son mới thú thật sự việc trên gò Mả Dứa. Bà mẹ gầm lên:
    - Nó đã làm gì mày chưa ?

    Cô con gái vẫn tấm tức khóc. Ông bố quát:
    - Tao hỏi, nó đã làm gì mày chưa ?
    - Đã bảo là chưa. - Cô Son cũng vặc lại - Con đã cho nó nhát liềm vào cổ chẳng biết sống chết ra sao. Con sợ lắm thầy u ạ.
    - Giời ạ ! Con mới chả cái - Bà mẹ rên rỉ - Chẳng may xảy ra án mạng thì tù mọt gông.

    Ông Ngạnh vớ chai rượu, tu một ngụm, lấy ống tay áo quệt ngang miệng, mắng vợ:
    - Cái thằng chó dái ấy chết là đáng đời. Bây giờ tôi phải đến nhà trương Phẩm báo cho lão ra lôi thằng con về. Cái Son ở nhà. Từ nay không được ra Mả Dứa cắt cỏ nữa.

    Vết thương ở cổ không nặng lắm nhưng chuyến ấy Ngô Quỳnh bị nện một trận thừa sống thiếu chết. Ngay chiều hôm ấy, ông Phẩm quẳng cho hắn mấy bộ quần áo rồi tống ra khỏi nhà. Về phần mình, chàng đánh giậm cũng thấy như thế là quá nhục không còn mặt mũi nào ở lại làng đành chấp nhận kiếp sống tha hương. Cuộc ra đi của Ngô Quỳnh tuy không có người áp giải nhưng chẳng khác gì cảnh lưu đày. Hắn khoác khăn gói, đầu cúi gằm lùi lũi bước đi trước con mắt dè bỉu của những kẻ hiếu sự thập thò trong cổng. Cứ nghĩ đến những ánh mắt như lưỡi dao lá lúa xuyên thấu vào da thịt, Ngô Quỳnh vừa hổ thẹn vừa căm thù. Các người cứ cười đi rồi đến lúc phải khóc cho mà xem. Ngô quỳnh ta thề sẽ trở về trả mối hận này. Con đĩ Son hãy coi chừng. Mà việc đếch gì phải xấu hổ. Cái khác nhau chỉ là ở chỗ bọn họ sờ mó nhau ban đêm, còn ta công khai việc ấy giữa thanh thiên bạch nhật mà thôi. Nghĩ như vậy Ngô Quỳnh bất giác bật cười. Tiếng cười của hắn vừa ngạo nghễ, vừa giầu sức truyền cảm, lan khắp các ngõ xóm trước khi ra bờ sông Lăng, khiến người làng nghĩ hắn là một thằng điên.

    Đêm hôm ấy, Ngô Quỳnh ngủ trong một bãi chuối ven sông cách làng Cùa khá xa. Hắn thu gọn lá khô dồn thành đống rồi chui vào đánh một giấc. Nửa đêm tỉnh dậy vì có tiếng cú rúc ngay bên cạnh, hắn bực mình nhưng không thể nào ngủ lại được. Hắn bắt đầu ân hận bởi hành động ngu xuẩn của ngày hôm trước. Tâm trạng đã trở lại cân bằng. Hắn phải thừa nhận mình đã dại dột làm một việc vô luân, bôi do trát trấu lên mặt bố mẹ. Lúc này Ngô Quỳnh rất muốn, tất cả những chuyện ấy chỉ là một giấc mơ. Nó không có thật và rồi chừng một hai canh giờ nữa hắn lại về làng Cùa, buổi sáng đến trường nghe thày Cả Thuyết giảng Kinh Thi chiều lại vác giậm ra đồng kiếm cá. Cuộc sống thật thanh bình và làng Cùa cổ lỗ, lạc hậu, lắm hủ tục kia đẹp biết nhường nào. Bất giác Ngô Quỳnh sờ tay lên cổ. Vòng vải diềm bâu băng vết thương vẫn còn đó,đau rát, thỉnh thoảng lại cắn nhói một cái, may mà nó chỉ sâu nửa đốt ngón tay, không vào chỗ phạm. Mũi liềm cắt cỏ của con nặc nô ấy bổ lệch một chút vào yết hầu hoặc trúng giữa thái dương, thì hắn đi đời.

    Ngày thứ ba, Ngô Quỳnh thất thểu ở ngã ba Môi, vô kế khả thi. Hắn đói, cứ tầm chiều lại ra các bãi ngô mót những bắp kẹ sau vụ thu hoạch hoặc tìm chuối chín dọc cánh bãi sau đê. Hắn để ý thấy có chiếc đò dọc neo ở bến Tuần từ chiều hôm trước. Đó là loại thuyền gỗ nhỏ, buồm cánh dơi, chuyên chở hàng nông sản từ Ba Tổng di kẻ Sung. Chủ thuyền là anh Trác, mới khoảng ba chục tuổi nhưng chẳng khác gì ông già năm mươi bởi cái dáng lòng khòng và mái tóc sớm muối tiêu đầy vẻ phong trần. Cùng đi với anh Trác còn có chị Nhuần và cô con gái tên là Nhuỵ. Vợ Trác là người đàn bà đẫy đà còn xuân sắc nhưng chẳng hiểu vì sao chỉ sinh nở có một lần. Với sức vóc vậm vạp chị ta khênh những sọt dưa hấu hoặc bí đao xuống thuyền băng băng, khác hẳn ông chồng hom hem mỗi bước đi một bước dừng lại thở. Anh Trác bị bệnh suyễn kinh niên, công việc đò dọc là quá sức nhưng chị vợ ham làm giàu chẳng nghĩ gì đến tính mệnh của chồng. Mọi việc giao dịch mua bán đều do chị ta quán xuyến.

    Dịp ấy đã qua mùa lũ, sắp đến tiết bạch lộ, cồn Láng phơi màu vàng nhạt giữa ngã ba sông. Đứng trên bến Tuần có thể nhìn rõ những vồng khoai mới trồng trên bãi phù sa giữa những bờ cỏ xanh thẫm. Hoa cứt lợn và hoa vòi voi nở lốm đốm giữa những đám tầm bóp sai trĩu quả. Quả tầm bóp bằng ngón tay cái đang độ chín, thỉnh thoảng gặp cơn heo may đầu mùa khẽ đung đưa như chùm đèn lồng bọc lụa vàng óng. Hoa bồ công anh hăng hắc như mùi lá bạc hà nở rộ trên khắp các bãi hoang. Một cây đa cổ thụ nhưng thấp lè tè đứng chơ vơ trên gò đất hình con voi quỳ cao hơn hẳn mặt cồn. Dưới gốc đa là hai gian quán, cột đá, lợp ngói mũi để vào thời vụ những người làm đồng tránh mưa nắng. Trên cao, vòm trời xanh màu lá non, một con diều đang chao lượn. Con diều khá lớn được neo bằng dây tre, đang thả vào không gian những thanh âm du dương của cặp sáo kép, nghe chẳng khác gì dàn hoà tấu của các nhạc cụ dân tộc. Nằm trên cỏ, gối đầu lên khăn gói, Ngô Quỳnh tuy đói nhưng vẫn mải mê lắng nghe tiếng sáo từ trên trời vọng xuống. Hắn nhìn con diều và ước lượng kích thước của nó, ít nhất cũng phải bằng chiếc thuyền thả lưới bén. Vào đúng lúc ấy, người thiếu phụ, vợ Trác đến bên hỏi :
    - Cậu đi đâu mà nằm ườn ra thế này ?

    Hắn trả lời nhát gừng:
    - Chẳng đi đâu cả.
    - Cậu này nói lạ - Chị ta nguýt Ngô Quỳnh, giọng hơi chua - Chắc là bị bố mẹ tống ra khỏi nhà ?
    Ngô Quỳnh nhỏm dậy:
    - Sao chị biết ?
    Người phụ nữ cười nửa miệng:
    - Trông bộ dạng cậu thì biết. Hẳn là đang đói phải không ?
    - Chị đừng có nói mò. - Ngô Quỳnh bực vì bị người đàn bà bắt thóp - Việc gì đến nhà chị.
    - Hỏi thế vì tôi đang cần người làm. Cậu có muốn đi đò dọc không ?
    Ngô Quỳnh hỏi cộc lốc:
    - Làm gì ?
    - Chống sào.
    Thái độ anh chàng lập tức thay đổi. Hắn vội hỏi:
    - Chị thuê thật à ?
    - Tôi không nói chơi. - Người đàn bà bảo - Thuyền đang ở dưới bến kia.

    Coi như hôm ấy Ngô Quỳnh gặp may. Có lẽ lúc ra khỏi làng hắn vô tình bước chân phải trước. Mà cái chân phải giống như điềm lành ấy, đã phù trợ vị lý trưởng tương lai làng Cùa suốt những năm lênh đênh sông nước. Ngoài việc chống thuyền, Ngô Quỳnh còn đảm nhận chức năng khuân vác, nghĩa là bốc hàng lên xuống mỗi khi đò cập bến. Tuy mới già mười lăm nhưng sức vóc vạm vỡ, hắn bê những sọt hàng nặng vài yến chạy huỳnh huỵch suốt ngày không thấy mệt. Chị Nhuần thích lắm bảo:
    - Cậu làm tốt lắm, cứ ở đây với anh chị, đừng đi đâu nữa.

    Nghề đò dọc thích nhất là những lúc sóng êm gió thuận. Giữa trời nước bao la, con thuyền êm giầm, cánh buồn no gió phồng lên phơi màu nâu sẫm dưới ánh trăng vàng. Có khi mặt nước phẳng như tấm gương phản chiếu bầu trời đêm với những ngôi sao xanh, mơ hồ từ chòm Song Tử xa xôi. Những lúc thanh nhàn như thế, Ngô Quỳnh thường cùng cái Nhuỵ con gái anh Trác, ngồi trên sạp thuyền ngắm ông Thần Nông và con vịt rồi khe khẽ cất tiếng hò một điều hò sông nước. Tiếng hò của hai đứa lúc hoà làm một, lúc lại tách ra, âm vang rất xa dường như chạy mãi đến tận ngọn nguồn dòng sông. Hò chán lại lăn ra ngủ. Có lần bất chợt thức dậy, cái Nguỵ thấy bàn tay Ngô Quỳnh đặt lên ngực mình liền hất ra rồi chui vào trong khoang.

    Khổ nhất là những khi ngược nước, trái gió. Ngô Quỳnh phải quàng dây thừng vào vai, chân trần, khom lưng, kéo con thuyền nhích dần từng bước men theo triền sông. Dấu chân to bè của hắn in trên lớp phù sa đỏ. Dưới thuyền, anh Trác tì sào vào ngực, chạy từ mũi đến lái, dùng hết sức bình sinh đẩy, có khi cong cả con sào. Giong thuyền ngược nước cực lắm. Nhiều khi thấy chồng mệt chị Nhuần phải làm đỡ. Chị đặt đầu sào vào bộ ngực đồ sộ, đẩy thuyền một cách kiên nhẫn. Ngô Quỳnh cho rằng cặp vú của chị có khả năng đàn hồi. Nó giống miếng đệm lò xo có khả năng co giãn làm người ta không thấy đau. Nhưng không phải thế. Thực ra chị đặt đầu sào vào hõm vai. Buổi tối trước khi đi ngủ, hắn trông thấy chị lấy rượu ngâm củ gấu Tàu bôi khắp bả vai rồi lặng lẽ xoa bóp.

    Khoang thuyền chật được chia làm hai ngăn bằng vách thưng. Cái Nhuỵ ngủ với mẹ còn Ngô Quỳnh và anh Trác nằm ngoài. Những đêm mưa phùn gió bấc, anh Trác vào ngủ với chị Nhuần, cái Nhuỵ lại bò ra nằm bên cạnh hắn. Lúc phía trong có tiếng lịch kịch rồi chị Nhuần khẽ rên rỉ như là bị người ta bóp cổ hoặc thở hổn hển như sắp hết hơi, Ngô Quỳnh làm như mê ngủ luồn tay vào cái váy cái Nhuỵ. Nó cũng làm như chẳng biết gì nhưng trống ngực thì đập thon thót. Vừa lúc ấy anh Trác chui ra. Hắn hốt quá, người toát mồ hôi, lặng lẽ nhích dần vào vách thuyền.

    Thời gian trôi nhanh, thấm thoắt Ngô Quỳnh đã xấp xỉ mười tám. Nghề sông nước và cuộc sống nay đây mai đó khắp các xứ đông đoài đã biến hắn thành một chàng trai thực thụ. Cái Nhuỵ cũng đã trở thành thiếu nữ . Anh Trác có ý định tác thành cho hai đứa, nhưng rồi một ngày kia chuyện không may xảy ra.

    Hôm ấy, con thuyền chở nặng dưa hấu Sài Sơn đang đậu ở bến Tuần định sáng hôm sau nhổ neo về bến Phù Dung thì một cơn bão bất ngờ ập tới. Đó là con bão năm Tỵ mà cho đến giờ mọi người vẫn nhớ. Một trận gió xoáy giật đứt dây neo, đẩy thuyền về phía sông Cổ Cháy. Thực ra bão không mạnh lắm nhưng thỉnh thoảng có một cơn gió giật kinh người. Nước sông lên cao do mưa lớn ở thượng nguồn.

    Con thuyền lừ lừ trôi mà không có cách gì hãm lại được. Thấy thế nguy chị Nhuần và cái Nhuỵ định ném dưa xuống sông. Anh Trác vội quát;
    - Không được ném ! Ném hết hàng là thuyền bị lật.
    - Làm thế nào bây giờ ? - Chị Nhuần cũng gào lên.
    - Mẹ mày ra cầm lái để tôi vào bờ giòng dây kéo.
    - Không được ! Nguy hiểm lắm - Chị Nhuần xua tay ra hiệu.
    - Còn hơn là chết cả nhà - Anh Trác vừa nói vừa liếc về phía Ngô Quỳnh - Cậu lấy cây sào dài thăm dò độ sâu, nếu chạm đất phải cố ghì hướng mũi thuyền vào bờ.

    Anh Trác vừa nhảy xuống lập tức bị nước cuốn ra giữa sông, lay hoay mãi chưa tấp được vào bãi nổi. Ngô Quỳnh buông sào nhảy xuống nắm sợi dây chão đã tuột khỏi tay anh Trác, lặn sâu xuống bơi ngầm dưới nước. Con thuyền vẫn lắc lư như người say nhưng tốc độ đã chậm lại vì Ngô Quỳnh kéo được mũi vào vùng nước nông. Hắn ra hiệu cho mẹ con chị Nhuần đưa thuyền vào còn Láng rồi nhào ra tìm anh Trác. Sau nửa giờ lặn ngụp, Ngô Quỳnh mệt nhoài nhưng vẫn không thấy bóng dáng chủ thuyền trong khi nước lũ dồn về, dâng lên mỗi lúc một cao. Cơn bão hoành hành suốt đêm hôm ấy, mãi đến gần sáng mới dịu đi. Một trận mưa trắng trời đổ xuống ngã ba sông. Mãi ba ngày sau mới tìm thấy xác anh Trác. Anh bị nước lũ cuốn xuống tận bến đò Vạn Điền cách bến Tuần nửa ngày đò. Mẹ con chị Nhuần chôn anh ở nghĩa địa vạn chài Cổ Cháy. Nhờ kinh nghiệm của anh, chiếc thuyền không bị lật mà vẫn bán được dưa. Nhiều nhà mất cả người lẫn của vì vội vã quăng hàng xuống sông cho thuyền nhẹ bớt. Chồng chết, chị Nhuần xọp hẳn trông chẳng khác gì người mắc bệnh sài mòn. Gia cảnh như vậy, Ngô Quỳnh ở lại không tiện nên nói với chị chủ xin đi nơi khác. Chị Nhuần bảo:
    - Mấy năm qua chúng tôi vẫn coi cậu như người nhà, giờ chẳng may gặp vận rủi chẳng lẽ nhẫn tâm bỏ đi.

    Ngô Quỳnh lưỡng lự một lát rồi hỏi:
    - Nghe nói chị sắp bán thuyền ?
    - Lúc anh ấy mới mất, tôi nghĩ quẩn cũng có ý định như thế, nhưng giờ thì muốn tiếp tục chạy thêm vài năm nữa, mong cậu ở lại.

    Ngô Quỳnh trở thành người đàn ông duy nhất trong gia đình. Cô Nhuỵ sau mấy lần được chàng phu thuyền hôn hít vụng trộm, thích lắm, luôn tìm cách ở bên hắn vào lúc thuyền chạy ban đêm. Những cử chỉ ấy không qua được mắt bà mẹ. Chị ta là người lọc lõi, nhìn thấy dáng vóc cao lớn cùng cách làm ăn tháo vát của Ngô Quỳnh, trong lòng toan tính một kế hoạch lâu dài để vĩnh viễn ràng buộc anh ta vào nghề sông nước. ở tuổi ba tư, sức xuân đang còn hừng hực bởi thể chất sung mãn và nỗi thèm khát đàn ông bị dồn nén quá lâu vì ông chồng ốm yếu, chị Nhuần trằn trọc trong khoang thuyền chật hẹp, luôn thả hồn vẩn vơ nghĩ đến những cuộc tình lãng mạn. Chị mơ thấy mình cùng Ngô Quỳnh cưỡi chiếc thuyền câu lên tận ngọn nguồn sông Cổ Cháy, cách ngã ba Môi hàng trăm dặm. ở nơi ấy trên là rừng đại ngàn dưới là dòng suối Tiên trong vắt, nước chảy lững lờ, cá tôm bơi tung tăng hệt cảnh Thiên Thai. Họ sống với nhau những ngày tuyệt đỉnh của hạnh phúc trần gian. Rồi đến một lúc chị sinh được thằng bé đẹp như tiên đồng. Nghĩ đến đấy người chị nóng ran, toàn thân run bắn, miệng ú ớ như bị bóng đè khiến cô con gái nằm bên cạnh hoảng tưởng mẹ phải cảm liền lấy dầu Nhị thiên đường xoa vào thái dương.

    Căn bệnh hoang tưởng của chị Nhuần mỗi ngày một nặng thì tình cảm mẹ con đối với Nhụy mỗi ngày hình như một nhẹ đi. Nhìn thấy Ngô Quỳnh và con gái đứng ngồi bên nhau là chị không chịu được. Nỗi bực tức cứ ngấm dần vào cơ thể tựa như lòng hận thù khiến chị luôn nhìn đôi trẻ bằng con mắt cảnh giác. Chính cô con gái chứ không phải ai khác đã lén lút chiếm đoạt, không phải tiền bạc mà là thứ tình cảm mơ hồ nhưng vô cùng quan trọng đối với sinh mệnh của chị. Một lần chị Nhuần bảo Nhuỵ ở lại ở lại kẻ Sung, lấy cớ thu gom hàng để cùng với Ngô Quỳnh chở dưa xuống bến Phù Dung. Ngay đêm đầu tiên thuyền đậu ở bến Lam Điền chờ con nước ròng, chị đã chui ra khoang ngoài ôm lấy Ngô Quỳnh. Hắn biết thừa người đàn bà nạ dòng này muốn gì bởi toàn thân hắn cũng đang rạo rực. Một ý nghĩ thoáng qua, hay là mình cứ chiều chị ta, chẳng những không mất gì mà còn có lợi là khác. Trong khi ấy, người đàn bà đã tuột hết váy áo, trần như nhộng, ôm riết lấy Ngô Quỳnh. Hắn tặc lưỡi thò tay mân mê bầu vú nóng hổi rồi định trườn lên bụng chị ta. Bỗng nhiên, từ trong bóng đêm, có quầng sáng mờ mờ như ánh lân tinh, gương mặt trái soan, cặp má bầu bĩnh và chiếc mũi hếch hiện ta với nụ cười gằn vừa trách móc và khinh bỉ. Ngô Quỳnh chợt tỉnh. Hắn ngồi dậy, trèo lên sạp thuyền mặc cho chị Nhuần khóc tức tưởi vì bẽ bàng.

    Suốt chặng đường từ bến Phù Dung về bến Tuần có đến già hai ngày đường chị Nhuần không nói gì với Ngô Quỳnh. Hắn im lặng chèo, thỉnh thoảng lại chống sào chạy dọc từ mũi đến lái thuyền hệt như anh Trác ngày trước. Chị Nhuần cầm lái, mặt khó đăm đăm, mắt lơ đãng nhìn dòng sông.

    Chiều hôm thứ ba, Nhuỵ đã đóng xong hàng. Thuyền từ từ vào bến, Ngô Quỳnh thả neo rồi lên bờ buộc dây vào cọc. Nhìn thái độ của hai người, cô gái biết đã có chuyện xảy ra. Anh chàng phu thuyền mặt nặng chình chịch, hùng hục khuân từng sọt bí, miệng như ngậm hột thị, hỏi câu nào trả lời câu ấy. Hàng xếp xong, chị Nhuần thẫn thờ trên bến một lúc rồi mới xuống thuyền bảo Nhuỵ:
    - Chuyến này mẹ không đi được vì còn phải lên kẻ Suốt đòi nợ. Con với anh Quỳnh bảo nhau mà làm ăn cho thông đồng bén giọt, ít hôm nữa mẹ về.

    Cô Nhuỵ còn ngây thơ tin lời mẹ nên không có biểu hiện gì lưu luyến nhưng Ngô Quỳnh nhìn vào đôi mắt mờ đi của người đàn bà, hắn biết có thể thị Nhuần không bao giờ về bến sông này nữa.

    Đúng như Ngô Quỳnh dự đoán, năm hôm sau, khi thuyền cập bến Tuần không thấy chị Nhuần bên những sọt hàng. Hai người về kẻ Sung. Đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên, duy chỉ có chiếc xà tích bạc của bà ngoại để trong hộp gỗ mun khảm trai là chị Nhuần mang đi. Ngay chiều hôm ấy, Nhuỵ giao thuyền cho Ngô Quỳnh trông nom rồi sang bên ngoại tìm mẹ. Chị Nhuần không về làng Ngô Đồng. ở đấy chẳng còn ai ngoài bà dì nghễnh ngãng suốt ngày chỉ lảm nhảm hát mãi một điệu "gà rừng" rè rè giống hệt tiếng chũm chọe mẻ đập vào nhau. Nửa tháng, Nhuỵ về mặt mũi đen sạm, thở dài bảo:
    - Không thấy đâu cả. Ngày mai ta bốc hàng cho thuyền ngược bến Tràng, anh Quỳnh thấy thế nào ?
    Ngô Quỳnh gật đầu:
    - Nhưng phải thuê thêm một chân sào, chỉ tôi với cô thì làm sao nổi.
    - Cái đó tuỳ ở anh. Bây giờ anh là chủ thuyền kia mà.
    Ngô Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi như chợt nhớ ra liền bảo:
    - Mấy hôm vừa rồi tôi để ý có thằng bé choai choai vẫn khuân vác hàng cho các bà buôn trầu vỏ xuống thuyền của ông trương Thình, hay là ta bảo nó.
    Nhuỵ cau mặt:
    - Không được. Thuyền chúng mình phải tìm một người đứng tuổi, thạo nghề sông nước, rước cái đám trẻ ranh ấy về là hỏng việc.
    Bị chạm nọc, Ngô Quỳnh chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình cách đây mấy năm liền ướm hỏi:
    - Nhuỵ nói gì thế ?
    Cô gái nhìn chàng chủ thuyền mới giọng có vẻ không vui:
    - Là vì tôi không muốn như mẹ phải khăn gói ra đi …

    Hành nghề đò dọc mười năm, vợ chồng Ngô Quỳnh đã có một số vốn kha khá. Hai người bàn nhau bán thuyền cùng với ngôi nhà kẻ Sung mang con về làng Cùa lập nghiệp. Khi ấy ông trương Phẩm đã mất, bà mẹ già còng lưng suốt ngày chống gậy ra gốc đa làng ngóng con trai. Dân làng Cùa có thói cố chấp nhưng lại chóng quên nên vụ bê bối của Ngô Quỳnh cách đây mười bốn năm giờ chỉ còn là ký ức mờ nhạt. Vả lại, cô Son lấy chồng mãi làng Buộm, cách sông cách đò, có khi vài năm mới về thăm bố mẹ một lần, thành thử nỗi hổ thẹn trong lòng hắn cũng nguôi ngoai.

    Ngô Quỳnh về làng được bốn năm thì chánh Đàm chết. Lý Lượng cùng phe cánh ông ta thất thế. Cao Lộng, người xóm Cầu Đá lên làm chánh tổng Kim Đôi bảo cử cho Ngô Quỳnh ra làm lý trưởng. Năm ấy ông ta mới ba mươi tuổi. Từ một chủ đò dọc nghiễm nhiên trở thành bà lý nhưng cô Nhuỵ chẳng thích tý nào, vì cảm thấy sống trong làng tù túng, không được thoải mái như lúc lênh đênh trên thuyền ngang dọc khắp mọi bến bờ. Tất nhiên lý Quỳnh không thể chiều theo nguyện vọng dở người của vợ nhưng cũng chẳng bắt chước chánh Đàm lúc sinh thời, thuê thợ đóng một con thuyền neo ở bến sông ngay dưới điếm Bài Vân, thỉnh thoảng lại cho mẹ con cô Nhuỵ du ngoạn xuống tận ngã ba Môi. Giá như Ngô Quỳnh không đưa vợ về làng, yên phận làm ăn với nghề đò dọc thì bây giờ không tan cửa nát nhà. Cái nghiệp làm quan, dù là quan làng đôi khi cũng lợi bất cập hại. Đấy là chưa tính đến cái đoạn chỉ chút xíu nữa thì bị Khúc Kiệt xử bắn nếu không có Khúc Thị Nhân kịp thời ra cứu. "Mình hơn cô ta những hai mươi tuổi lại đã có một đời vợ không biết cô ta có chịu lấy mình ?".Trong tâm trí Ngô Quỳnh luôn vấn vương câu hỏi ấy. Kể ra con gái vùng Ba tổng quá hai mươi không có người hỏi coi như ế. Khúc Thị Nhân đẹp thật nhưng có nốt ruồi dưới mắt. Hồi trước, ông cử Yên Duệ qua thăm Khúc Kiệt nhìn thấy cô ta bảo đó là tướng vất vả, hậu vận còn lắm tai ách. Tin ấy làm đám con trai trong làng ngại không anh nào dám rước. Đến khi bọn Nhật kéo về tàn sát, đốt phá làng Cùa, gia đình Khúc Kiệt chết gần hết, họ lại càng tin vào tài phán đoán của ông Cử. Ngô Quỳnh thích Nhân không phải chỉ vì cô còn trẻ mà cái chính là ông ta thấy cô có những nét hao hao giống với chị Nhuần ngày trước. Cho đến giờ, dù đã hơn ba mươi năm trôi qua, ông ta vẫn thấy mình xử sự như thế là đúng với đạo làm người, không xấu hổ với vợ con khi nhắm mắt xuôi tay xuống suối vàng gặp họ.

    Sáng hôm sau, Ngô Quỳnh lại mang cưa đục sang làm giúp Nhân nhưng lúc này cô đã sang cồn Vành xúc cá.

    Năm ấy, lũ rút sớm. Mới cuối tháng bẩy, ở những chân ruộng cao cồn Vành, nước chỉ còn chưa đầy gang tay. Vùng trũng có nơi ngập ngang thắt lưng. Phù sa đặc sánh lắng xuống bám vào cỏ thành một lớp dày, mỗi khi khoả chân, thứ bột mịn màng ấy lại loang ra, đỏ tươi chẳng khác gì mai con cà da luộc. Những đám sậy, lác, cỏ gai ngâm nước hàng tháng vẫn xanh tốt. Trên gò đất cao bên làng Mật, đàn trâu đang thong thả gặm cỏ. Một con lội hẳn xuống rộc, bước chân ộp oạp, lia lưỡi liếm những ngọn lúa tái sinh lơ phơ trên mặt nước. Vẫn còn sớm. Mặt trời chưa kịp nhô lên đã bị cả một tảng mây hình thù giống hệt con sứa đè xuống. Đám mây dường như chỉ đứng yên một chỗ nhưng biến hoá vô vùng linh hoạt. Đầu tiên là màu xám đục, chỉ một thoáng đã thành khối bông trắng nõn, có những múi cuộn lại vừa nhẹ vừa xốp. Nhưng rồi khối bông trắng như tuyết ấy lại nhường chỗ cho một cái mạng nhện hình lục giác với những mắt lưới đan rất tinh xảo óng ánh như ngân tuyến. Trời sáng thêm một chút thì mạng nhện bạc mờ dần. Bây giờ là những lớp mây hình vảy cá gắn chặt vào cái màn khổng lồ màu thiên thanh. Đám vảy cá hiện lên với đủ các hình thù và màu sắc rực rỡ, có những lúc bất chợt loé lên như một đạo hào quang. Cuối cùng thì những ảo ảnh ấy cũng biến mất và mặt trời lên.




    Nước lũ rút đi, dân mấy làng bên bờ sông Lăng kéo sang cồn Vành bắt cá. Đây là nơi sông tách làm hai nhánh xuống đến tận bến Phù Kiều mới hợp lưu, ôm lấy cánh bãi rộng hàng mấy trăm mẫu, là nơi tụ tập của đủ các loài thuỷ tộc. Cá trôi, cá rói nhởn nhơ bơi giữa đám cỏ xước cọng dài mấy gang tay, bò loằng ngoằng như dây thòng bong. Lũ này thường thích chỗ ruộng vàn kiếm ăn bằng cách sục cho nước đục ngầu lên. Những tay đánh cá chuyên nghiệp rủ nhau xếp giậm thành hàng theo hình vòng cung rồi ra thật xa dùng mõ dồn cá. Gặp bước đường cùng những con tinh khôn chơi trò quăng mình tháo thân còn phần lớn bị sa bẫy, nhảy loạn xạ trong giậm. Dân quăng chài nhiều khi vớ bẫm. Họ đón lõng ở những chỗ nước chảy, độ sâu vừa phải, thỉnh thoảng tóm được chú cá chép dăm cân. Bọn này vô vùng láu cá, trừ hững người có kinh nghiệm sông nước còn thì ít khi bắt được.

    Đàn bà con gái dùng rổ sề thậm chí cả rổ rửa rau bắt tôm dạt vào bờ ruộng. Tôm tép mùa này nhiều lắm, mấy chị em cái Nhút cái Nhít xúc một ngày mang về phơi được ba nong. Chính nguồn thủy sản phong phu trời cho như thế nên cồn Vành hằng năm luôn xảy ra tranh chấp quyền sở hữu giữa làng Cùa và làng Mật. Lúc ấy Nhân đang xúc tôm ở chân ruộng trũng giữa bãi cùng với cái Nhút, cái Nhít. Phía làng Mật có tiếng người cãi nhau. Một thằng bé làng Mật cướp con cá măng bằng bắp chân của cái Hậu xóm Trại Cá. Con bé nổi tiếng đanh đá. Nó cào vào mặt thằng kia rồi giẫy đành đạch như phải bỏng. Thằng "chọi" làng Mật cũng là quân lỳ lợm, chẳng những không trả con cá mà còn xông vào túm tóc đối thủ đẩy xuống ruộng. Thế là một cuộc xô xát trên quy mô lớn xảy ra. Dân làng Mật huy động thanh niên trai tráng mang gậy gộc giáo mác ra trợ chiến. Chúng xông vào tịch thu tất cả các phương tiện đánh bắt cá. Dân làng Cùa yếu thế, mạnh ai nấy chạy ra bờ sông. Kẻ chèo thuyền, người ngồi bè chuối, số khác nhảy ào xuống nước bơi, cốt làm sao về bên kia càng nhanh càng tốt. Nhân chạy gần như sau cùng nhưng vẫn khư khư cắp cái rổ và giỏ tôm bên sườn. Một gã trung niên mặt có vết sẹo chạy dài từ dái tai xuống mép phải như bị dao chém, đuổi phía sau. Nghe bước chân bùm bũm, Nhân đâm cuống vấp vào đám cỏ lác bị ngã. Tay mặt sẹo dấn tới đầu tiên giằng lấy giỏ rồi thò tay luồn vào ngực cô gái. Đúng lúc ấy hắn bị cái tát như trời giáng vào giữa vết sẹo. Mặt vẫn còn nổ đom đóm , chưa hết choáng thì hắn lại nhận thêm một cú đệm bằng đầu gối vào bụng dưới, ngã ngửa ra, đầu đâm xuống bùn. Nhân chưa kịp hoàn hồn thì người thanh niên lạ mặt đã một tay xách giỏ, tay kia dắt cô chạy ra bờ sông. Phía sau bọn làng Mật đang ào ào đuổi theo. Bờ sông không còn một con thuyền. Anh ta kéo Nhân chạy gằn dọc theo bãi cát nhưng phía trước lại có một nhóm gồm bốn năm con mẹ nạ dòng, dẫn đầu là một lão già mặt choắt như mặt con cheo cheo cầm gậy hô hoán. Chẳng biết làm thế nào, chàng lạ mặt phải kéo Nhân lội xuống sông. Anh ta hỏi:

    - Cô có biết bơi không ?
    - Có... - Nhân thở hổn hển - Nhưng tôi ...
    - Cứ bình tĩnh. Tôi sẽ đưa qua sông.

    Anh ta nói cho Nhân yên lòng rồi đảo mắt nhìn quanh. Hoá ra vẫn còn hàng chục đoạn chuối của dân làng Cùa bỏ lại lúc tranh nhau sang sông bị sóng đánh giạt vào bờ. Anh chàng lạ mặt túm một cây rồi bảo cô gái:
    - Bây giờ cô bám chặt vào đây, không được bỏ tay ra. Nhớ chưa ?

    Người thanh niên bơi rất giỏi. Anh vừa bơi vừa đẩy cho cây chuối của Nhân đi đúng hướng nhưng cũng phải già nửa giờ hai người mới về được bên hữu ngạn. Khi Nhân lên bờ người thanh niên trao cho cô giỏ tôm và bảo:
    - Lần sau đừng có tham, thấy bọn làng Mật gây sự là phải chạy ngay.
    - Anh cũng là người làng Mật à ?

    Người thanh niên lắc đầu:
    - Tôi là người kẻ Bòng.
    - Xa thế mà cũng đến bắt cá ?
    - à ! đi cho biết thôi.

    Mấy hôm sau, lúc Nhân đang nhào đất trát vách thì có một người gánh cưa đục vào xin nước uống. Nhìn người thợ mộc cô ta ngờ ngợ nhưng chưa dám hỏi ngay. Uống nước xong anh ta chưa đi mà cứ ngắm trời ngắm đất rồi hỏi mấy câu về gia cảnh. Nghe giọng nói Nhân nhận ra đó là người đã cứu mình qua sông khi bị gã đàn ông làng Mật đuổi.
    - Vậy ra anh làm nghề thợ mộc. Sao hôm ấy anh bảo ở kẻ Bòng ?
    - Lúc ấy nói thế để cô yên lòng, thực ra tôi là dân kẻ Suốt chuyên xách cưa đi đục kiếm cơm thiên hạ.
    Nhân bảo:
    - Dạo này làng Cùa cần thợ mộc. Anh đến đúng lúc đấy.
    - Tôi cũng định như thế. - Anh thợ mộc ngắm gian nhà mới dựng xong bộ khung lợp rạ của Nhân liền bảo - Nhưng trước hết phải làm lại cái nhà này cho ra hồn đã.
    - ấy chết ! - Nhân giãy nảy - Hàng xóm giúp thế này cũng đã tốt chán. Anh nhìn xem, làng tôi sau trận hoả hoạn, trừ bà cả Huê có nhà ai còn nguyên vẹn đâu. Vả lại tôi không có tiền trả công.
    - Nhà như cái lều vịt của lão Côi ở kẻ Bòng thế này chỉ một trận gió là đi tong. Một mình cô xoay sở làm sao được.
    - Anh nghe ai nói tôi ở một mình ?

    - Còn chưa thành gia thất nữa kia. - Anh thợ mộc cứ như là có ma xó trong túi, nói vanh vách gia cảnh của cô chủ khiến Nhân vô vùng sửng sốt.
    - Sao anh biết rõ về tôi như thế ?
    -Là vì tôi mới gặp bác nhà … -Nói đến đây người thợ mộc hạ giọng thì thầm - Cô tìm cho một nhà gần đây để tôi ở tạm.
    - Tối nay tôi sẽ dẫn anh sang bên ông đồ Sách. - Nhân ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo- Nhà ấy chỉ bị cháy mấy gian bếp.

    Đồ Sách lúc đầu ngại không dám cho người lạ ở vì sợ Lý Quỳnh nhưng Nhân lại bảo:
    - Anh ấy là thợ mộc bên kẻ Bòng có thẻ thuế thân, bác đừng lo, có chuyện gì cháu sẽ bảo với ông Lý.
    Buổi tối đồ Sách mời anh thợ mộc ăn khoai lang luộc. Làng Cùa đang vụ giáp hạt, nhà nào cũng hết thóc nhưng khoai lang cồn Vành thì nhiều vô kể. Có nhà nấu khoai khô với đỗ đen. Khoai chín trộn thêm mấy thìa mật mía, nắm lại bằng quả thanh yên ăn trừ bữa. Anh thợ mộc tên là Lãng, khoảng hăm bẩy hăm tám tuổi, viết chữ Hán rất đẹp. Thơ Đường, loại ngũ ngôn thi, bản in vừa lèm nhèm vừa mất nét, phần lớn là những chữ ít thông dụng, nhiều bậc túc cho còn phải tra từ điển "Khang Hy" hoặc"Từ hải" vậy mà anh ta đọc vanh vách, bình đâu ra đấy khiến đồ Sách rất phục. Chưa đầy năm ngày ngôi nhà hai gian của Khúc Thị Nhân đã xong làm Ngô Quỳnh vô cùng tức tối.

    Một hôm, lúc ấy khoảng cuối canh một, Ngô Quỳnh rón rén vào cổng nhà Nhân thấy bên trong có tiếng nói chuyện, ông ta đoán, nhất định là tay thợ mộc đang giở trò chim chuột, liền cầm tay thước bước vào nói to:
    - Bây giờ là giờ gì mà anh Lãng còn đến nhà đàn bà con gái tán tỉnh bậy bạ làm hại thuần phong mỹ tục.

    Từ trong nhà, một người bước ra hằm hằm nhìn Ngô Quỳnh:
    - Ông Lý nói gì mà chướng tai thế ? Ai tán tỉnh bậy bạ ?

    Hoá ra không phải anh thợ mộc mà là Khúc Luận. Suốt từ tối đến giờ cậu ta cứ ngồi lỳ, Nhân đuổi khéo mấy lần cũng không về, vừa hay được lý Quỳnh giải cứu cho.
    - Này cậu Luận ! - Lý Quỳnh lên giọng cha chú răn đe - Nếu ban đêm còn lảng vảng sang đây, tôi báo cho bà Cả nện cậu một trận ra trò đấy.

    Khúc Luận chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Mặt cậu ta vênh lên:
    - Ông có quyền gì mà cấm tôi ?
    - Là vì cậu hay sang đây quấy nhiễu cô Nhân. Cô ấy tuy con ông chú nhưng là người lớn, còn cậu mới chỉ là thằng ranh con, lôi thôi tôi cho tuần đinh trói lại mang ra đình phạt vạ.
    - Thách ông đấy ! Khúc Luận chẳng nể nang gì tuổi tác ông lý trưởng, giọng châm chọc - Đừng tưởng tôi không biết tâm địa của ông. Cô Nhân chẳng thèm …

    - Thôi đi ! Anh Luận đừng nói càn. - Khúc Thị Nhân vội chạy ra bảo - Ông Lý nói không sai. Suốt ngày anh lêu lổng, tối lại sang bên này nói con cà con kê, thử hỏi tôi còn làm được việc gì ?

    Ngô Quỳnh được thể, hất hàm khẽ quát:
    - Về ngay ! Từ mai cấm sang đây.

    Khúc Luận gườm gườm nhìn viên Lý trưởng, bàn tay phải nắm chặt định quai cho ông ta một quả vào mặt cho bõ ghét nhưng nghĩ sao lại thôi, chỉ cười gằn nói đủ nghe:
    - Tiếc là hồi ấy bọn Áo Đen không kịp cho ông viên đạn.

    Cảm thấy đây là lúc thuận tiện nhất để tỏ rõ lòng mình, Ngô Quỳnh ngập ngừng một lúc rồi dè dặt hỏi:
    - Mấy hôm nữa tốt ngày tôi nhờ người mang cơi trầu sang nhà Nhân …

    Nhân thoáng giật mình. Lão lý trưởng lợi dụng cơ hội này để tỏ tình làm cô thật sự bối rối, bởi vì từ trước đến giờ chưa lúc nào Nhân nghĩ đến chuyện về nhà họ Ngô làm vợ một người hơn mình đến hai chục tuổi. Trong lúc lúng túng chưa biết từ chối thế nào để Ngô Quỳnh khỏi sượng mặt thì cô chợt nghĩ ra một kế:
    - Cảm ơn ông Lý đã có lòng thương nhưng chuyện trăm năm là hệ trọng, không được sự đồng ý của cha, "cháu" không dám tự quyền.

    Lý Quỳnh thấy sự việc có vẻ không xuôi chiều bèn lựa lời thuyết phục:
    - Ông ấy đi biền biệt biết đến bao giờ mới về, mà cái xuân xanh thì mỗi tuổi lại mất đi, chả lẽ cô cam chịu ở vậy đến già.
    - Làng này thiếu gì con gái nhà tử tế và đẹp người, vừa đẹp nết - Khúc Thị Nhân nhẹ nhàng cất giọng đưa đẩy - "cháu" thuộc loại quá lứa nhỡ thì lại có mụn ruồi đón lệ dưới mắt, thầy tướng đoán hậu vận lắm gian truân, ông Lý chớ nên rước về.
    - Bọn thầy tướng, thầy bói chỉ nói dựa. Tôi chẳng sợ cái nốt ruồi ấy mà rất yêu quý cô, muốn làm bạn trăm năm … Mong cô xét đến hoàn cảnh.
    - Ấy ông Lý ! duyên phận con người là tự trời sắp đặt, làm sao mà ép lòng mình được, "cháu" xin ông hiểu cho.

    Năn nỉ năm lần bẩy lượt, Nhân vẫn một mực từ chối, Ngô Quỳnh không thể kiên nhẫn được nữa, bèn đổi giọng:
    - Hay là cô đã bị cái thằng thợ mộc ấy nó chài ?
    - Ông Lý đừng ăn nói hàm hồ.
    - Bọn trai thiên hạ dẻo mỏ ấy các cô phải coi chừng. Chúng nó đều là phường lừa đảo, không giữ gìn, ễnh bụng ra thì mang tiếng cả làng.

    Khúc Thị Nhân vẫn ngọt nhạt:
    - Cảm ơn ông Lý đã dạy bảo. Chúng "cháu" là phận gái còn lo bằng mấy ấy chứ.
    Chuyện tỏ tình với Nhân không thành, lý Quỳnh dấu biệt nhưng không hiểu sao bà cả Huê vẫn biết. Bà nói bắn tin, nếu ông ta cưới con gái tên Việt Minh làm vợ kế thì chính bà sẽ lên phủ Đông Giàng và huyện Nam Thành cáo quan thu triện đồng lý trưởng. Ngô Quỳnh biết người đàn bà ghê gớm này vẫn căm Khúc Kiệt vì vụ bắt nhốt hậu cung năm trước và đang chờ dịp trả hận.

    Chập tối trời nổi giông. Sấm nổ lục bục thành từng chuỗi. Không gian nồng nực như sắp có bão. Đã mấy ngày không thấy Lãng đến. Nhân khắc khoải chờ, lòng dạ bồn chồn. Lúc cô sắp đi ngủ thì có tiếng gõ nhẹ vào tấm liếp. Lãng nhìn trước nhìn sau rồi lách vào nhà ôm choàng lấy Nhân. Cô bị bất ngờ, khẽ đẩy người đàn ông ra rồi với tay gài chốt cửa. Cũng vào lúc ấy, những hạt mưa xiên gõ lộp bộp trên vườn chuối sau nhà. Cơn mưa đêm hè mỗi lúc một nặng hạt, chỉ một loáng đã có tiếng nước chảy ràn rạt ngoài sân lẫn trong thứ âm thanh rền rĩ của gió và sấm. Thỉnh thoảng một tiếng sét sắc lạnh, khét lẹt khiến Nhân giật nảy mình, co rúm người lại, ôm cứng lấy Lãng. Trận mưa làm đêm như giãn ra. ếch nhái, chẳng chuộc và nhất là lũ ễnh ương hoa xanh, ban ngày thường nổi lập lờ giữa những đám bèo ong, giờ ngoác cái miệng rộng đến mang tai, đua nhau trình tấu bằng đủ thứ âm điệu hỗn tạp, lúc ộp oạp, lúc the thé, lúc lại khàn khàn như tiếng vịt đực. Một con mèo hoang đến kỳ động cỡn gào lên bằng thứ giọng đặc biệt khủng khiếp, chẳng khác gì ma quỷ gọi hồn người chết. Ngoài bờ tre, có tiếng chiêm chiếp rất là ai oán của chú chích choè non bị rơi khỏi tổ. Gió đã dịu đi nhưng mưa vẫn còn nặng hạt.

    Nhân hỏi chàng thợ mộc:
    - Anh là Việt Minh phải không ?

    Lãng quàng tay ôm ngang người cô gái, không trả lời mà hỏi lại:
    - Sao em biết ?
    - Có gì mà không biết. - Nhân bảo - Ngay hôm đầu, thấy anh xách đồ nghề đến làng Cùa em đã ngờ ngợ.
    - Hình như em chưa hiểu gì về Việt Minh ? - Lãng thì thầm giải thích - Đó là một tổ chức cách mạng…
    - Phải ! - Nhân bỗng dài giọng chì chiết - Vì "tổ chức cách mạng" ấy mà cách đây gần một năm làng Cùa bị thiêu hơn trăm nóc nhà, chết oan bảy tám chục mạng người.

    Lãng im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Anh hiểu tâm trạng của em. Sở dĩ có tổn thất lớn như vậy là do một số cán bộ manh động, không chấp hành chỉ thị của thượng cấp. Đảng chủ trương vận động quần chúng đấu tranh, chờ đợi thời cơ thuận lợi để giành chính quyền.

    Nhân khẽ "hứ" một tiếng:
    - Em chẳng ưa gì cái thứ cách mạng mà lại mang người bà con của mình treo lên cây gạo rồi xả súng bắn. Em bảo này, anh bỏ quách Việt Minh đi, về làng Cùa . Ông lý Quỳnh tuy thế nhưng là người tốt sẽ đứng ra bảo lãnh cho anh được ngụ cư.

    Lãng lắc đầu:
    - Nói thế thì khác gì em xui anh đầu hàng. Anh là người của Tổ chức phải đặt quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc lên trên quyền lợi bản thân.

    Nhân lặng lẽ thở dài:
    - Anh nói chẳng khác gì ông bố em. Thôi thì tuỳ anh.

    Đến lúc ấy Lãng mới ngập ngừng bảo:
    - Cuối tháng này anh phải đi.
    - Bao giờ anh về ?
    -Chắc cũng không lâu nữa đâu. Tình hình đang có nhiều chuyển biến, Đến lúc ấy chúng ta sẽ nhờ Tổ chức đứng ra làm đám cưới.

    Lãng và Nhân không ngờ rằng, đêm hôm ấy dù trời mưa to gío lớn vẫn có một bóng đen lẩn khuất ngoài vườn chuối. Đó chính là Ngô Quỳnh. Biết chắc Lãng là Việt Minh từ bên kia sông Lăng sang, ngay từ chập tối, ông ta đã cho người báo quan huyện Nam Thành. Lập tức, một tốp quan binh nai nịt súng ống như đi trận, đội mưa về làng Cùa. Cai Viện đội chiếc mũ đỏ chót như đít chào mào chỉ huy bốn cảnh binh ập vào nhà đồ Sách. Ông này vẫn còn đang ngủ bị dựng dậy.
    - Tay thợ mộc đâu ? - Viên cai hỏi cộc lốc rồi đảo mắt nhìn khắp lượt mấy gian nhà tranh dột nát ẩm mốc như hang chuột.

    Đồ Sách mắt nhắm mắt mở, thấy đám lính tráng sát khí đằng đằng, mặt xám ngoét như vừa bị sét đánh trượt, giọng lập cập:
    - Bẩm … các quan … anh ta ở … dưới nhà ngang.

    Cánh cửa liếp bị gã lính mũi sần như vỏ chanh rám đạp đến "roạt" một cái. Cả bốn khẩu súng đều lên đạn rôm rốp. Viên cai mũ đỏ quét một vệt đèn pin. Cái giường tre trống không.

    Cai Viện nhìn trước nhìn sau rồi hất hàm bảo đồ Sách:
    - Đi gọi ông lý Quỳnh sang đây.

    Linh tính cho Nhân biết có chuyện chẳng lành vội lay Lãng dậy vì có tiếng chó sủa dữ dội từ phía xóm Đình vọng lại.
    - Anh chạy ra lối bờ sông ngay đi ! - Nhân cuống quýt giục - Hình như có lính về làng.
    - Em cứ bình tĩnh - Lãng áp tai vào cửa nghe ngóng một lúc, vơ chiếc áo cánh khoác lên người - Nếu chúng đến khám nhà thì không được nói anh ở đây.
    - Nhớ rồi, thôi anh đi đi.

    Lãng lẩn vảo vườn chuối, ngồi xuống một lúc xác định phương hướng sau đó luồn qua cổng nhà trương Ngạnh.
    - Có trộm - Ông Ngạnh thoáng thấy bóng người xé rào chạy về phía ao Quan vội la lên - Bớ bà con ! Bắt trộm.

    Anh thợ mộc vừa chạy vừa thở, sắp đến chỗ cây sung thì bị cánh tuần đinh xóm Bờ Sông khua giáo mác chặn đường đành phải rẽ ngang vào vườn chuối ông vệ Đà. Cùng lúc toán cảnh binh xách súng rượt tới. Bí quá, Lãng nhảy ùm xuống ao, lặn một hơi, bơi ngầm dưới nước, được một lúc thì chạm cọc lều vó lão Tư Kền. Đã sắp đến đê quai. Chỉ cần cố một đoạn nữa là ra bờ sông Lăng. Phía gốc gạo đuốc cháy rần rật. Tiếng hô hoán mỗi lúc một xa vì cánh tuần đinh ngại nhảy xuống nước mà rồng rắn kéo nhau vòng theo bờ ao. Khả năng thoát hiểm đã nằm trong tầm tay. Trong khi chạy loạng quạng, Lãng vấp phải con chó đá ở cổng nhà Quản Sầm, bị trẹo chân, đau lắm nhưng không dám nghỉ. Sau khi vượt qua con đê, Lãng lao xuống bờ cát định vượt sông, chợt có tiếng quát:
    - Đứng lại ! Mày đã bị bắt.

    Người thợ mộc giật mình. Sống lưng lạnh toát. Anh không thể ngờ mấy tên cảnh binh chạy theo lối đường trục giữa làng đón lõng ở đây. Ước lượng khoảng cách giữa mình và bọn lính, thấy khó có thể thoát được, Lãng tính nước liều, phó thác tính mạng cho sự may rủi.
    - Thôi được, coi như các ông thắng, tôi xin hàng. - Lãng nheo mắt cười nhạt rồi bất ngờ cắm đầu lao xuống sông.

    Bọn cảnh binh đã dự kiến đến trường hợp này nên chúng không mất bình tĩnh mà lần lượt kéo cò súng xả đạn vào những chỗ có tăm nước nổi lên. Khi toán tuần binh chạy đến nơi thì mặt sông đã trở lại yên tĩnh. ở gần ghềnh đá chỉ còn thấp thoáng những đám bọt nước sẫm màu bị sóng đẩy cuộn lại chẳng hiểu là phù sa hay máu người thợ mộc.

    Ba ngày sau, cánh phu đò dọc vớt được một xác người bị đạn xuyên vào lưng nổi lên ở bến Tuần Châu. Quan huyện Nam Thành cho khám nghiệm tử thi, biết đó chính là tên Việt minh đóng giả thợ mộc đến làng Cùa xúi giục dân cày nổi loạn, liền ra lệnh treo lên cành đa giữa chợ Từ Đường thị uy.

    2. Đến tháng thứ Tư thì cái bụng của Nhân không thể giấu được nữa. Những người phát hiện ra sự kiện này trước hết là đám phụ nữ xóm Đình. Bà cả Huê vội chớp thời cơ, Trong âm trí người đàn bà đáo để này đã mường tượng ra hình ảnh cô con gái xinh đẹp của lão em chồng bị gọt tóc bôi vôi trên chiếc bè chuối nổi phập phềnh giữa sông Lăng trước sự chứng kiến của bàn dân thiên hạ.

    Về phần mình, trước khi cử trương Tòng đi báo quan, Ngô Quỳnh không ngờ được sự việc lại phức tạp đến thế. Ông ta chỉ muốn gã Việt Minh trai lơ biến khỏi làng Cùa càng sớm càng tốt để hắn khỏi phá hỏng kế hoạch tán tỉnh Khúc Thị Nhân của mình. Chuyến này mà Khúc Kiệt kéo quân về thì không biết chuyện gì xảy ra nếu con gái ông ta bị làng phạt vạ. Viên lý trưởng thầm nghĩ, thời thế sắp thay đổi rồi mà bà vợ goá lão chánh Đàm vẫn thù dai như đỉa. Thật là đồ ngu. Phải tìm cách xử lý ngay, nếu không con mẹ đồng bóng ấy kích động cánh phó lý Kiền, cửu Nghi, binh Tào vốn rất hăng hái trong việc bảo vệ hương ước thì cô ta khó mà thoát khỏi hình phạt.

    Chập tối hôm sau, Lý Quỳnh sang nhà Nhân. Cửa vẫn đóng im ỉm. Ông ta sinh nghi liền xách tay thước ra bờ ao Quan. Loanh quanh gốc cây gạo đổ khá lâu, vị lý trưởng đa tình lại vào vườn chuối tìm kiếm. Khu miếu hoang vẫn hoàn toàn im ắng thỉnh thoảng có tiếng cú rúc, chứng tỏ quanh đây vắng người. Một ý nghĩ chợt thoáng qua, Ngô Quỳnh hấp tấp chạy lên đê. Từ xa, một bóng người hiện ra lờ mờ dưới ánh sao đêm, vai quàng khăn gói lững thững đi dọc bờ sông. Trên cao, một con vạc lẻ loi từ rừng Hóp hối hả sải cánh sang bên kia cồn Vành bắt đầu cho buổi kiếm ăn. Mặt sông đen thẫm, thỉnh thoảng mới dậy lên tiếng lao xao lười nhác như tiếng thở dài của kẻ thất tình khi bất chợt có ngọn gió mệt mỏi từ ngã ba Môi trườn về. Người phụ nữ thẫn thờ, một mình đối diện với dòng sông, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn bầu trời sao. Lý Quỳnh lặng lẽ đến bên khẽ gọi:
    - Cô Nhân !

    Người phụ nữ không quay lại, thản nhiên bước xuống mép nước.
    - Cô Nhân ! Đừng làm thế. Đời người ta đâu phải con sâu cái kiến mà bỗng chốc bỏ phí.
    -Ông Lý về đi ! - Nhân lạnh lùng bảo.

    Ngô Quỳnh bước dấn lên giọng dứt khoát:
    - Sau vụ Nhật càn năm trước, tôi đã hứa với ông Khoá chăm sóc cô. Hoàn cảnh lúc này cũng có chỗ khó nói nhưng mà …. ý tôi đã quyết.

    Lý Quỳnh chưa nói hết câu thì Nhân đã gieo mình xuống nước. Ông ta hốt hoảng, để nguyên cả quần áo nhảy theo. Đêm cuối tháng không trăng. Mặt sông vẫn mờ mờ phản chiếu những vệt sao lưa thưa viền quanh đám mây bạc hình dạng như con cá sấu vắt ngang cồn cát. Sông chảy không xiết lắm nhưng đoạn này thường có nước quẩn. Ông Lý phải lặn ngụp một lúc khá lâu mới đưa được Khúc Thị Nhân lên bờ.

    Sáng hôm sau, lý Quỳnh sang nhà, thấy Nhân đã dậy được liền trách:
    - Sao cô dại thế. Đời con gái còn dài, tội gì mà chết.

    Nhân cười nhạt:
    - Ông cứu tôi làm gì. Chết như thế còn thanh thản hơn là để làng đóng bè trôi sông.
    - Cô lầm rồi . - Ngô Quỳnh thong thả bảo . - Tôi thách đứa nào ở vùng Ba Tổng này dám động đến sợi tóc trên đầu cô.

    Bà Cả Huê lồng lộn như con thú dữ bị trúng thương khi biết tin lý Quỳnh mang lễ đến ăn hỏi con gái khoá Kiệt. Cánh chức sắc trong làng hậm hực muốn phạt vạ Khúc Thị Nhân nhưng lại sợ uy thế lý Quỳnh đành phải lờ đi cho dù họ biết chắc cái thai kia là của gã thợ mộc trá hình. Về mặt danh dự, tất nhiên Ngô Quỳnh bị bẽ mặt với hàng tổng, những điều ấy không hề cản trở ông ta thi hành phận sự của nhà chức trách đứng đầu làng Cùa. Có lần Chánh Tổng Lê Bang cho gọi lý Quỳnh ra đình Cả nghiêm giọng răn đe:
    - Đường đường là Lý trưởng đương chức mà đêm hôm mò vào nhà con gái người ta giở chuyện trăng hoa, thầy có biết phạm tội gì không ?

    Ngô Quỳnh vốn lắm lý sự, nghe xong, chắp tay cúi đầu:
    - Bẩm ông Chánh, sau sự biến làng Cùa, tôi mất vợ mất con, một thân một mình, lại gánh vác việc làng, vất vả nên phải kiếm một người về lo việc nội trợ.

    Chánh Bang nhếch mép cười gằn:
    - Không ai cấm nhà thầy cưới vợ nhưng đã là bậc quân tử thì phải hành xử cho đàng hoàng. Thầy thậm thụt với người ta bụng ễnh ra rồi mới tính chuyện cưới hỏi thì còn ra thể thống gì.

    Nghe Lê Bang lên giọng răn dạy đạo đức, Ngô Quỳnh ngứa tai vặc lại:
    - Ông Chánh toàn xoi mói người khác mà không nghĩ đến bản thân mình. Cả tổng này ai còn lạ gì ông đã có đến ba bà vợ mà mới đây còn bắt con gái nhà trương Dậm ở làng Dọc mới mười sáu tuổi về làm thiếp chỉ vì trước đây nhà Dậm nợ lãi mấy thùng thóc. Nói thật, ông Chánh để cho cô ấy về đi, nếu không Việt Minh họ sẽ hỏi thăm đấy.

    Chánh Bang ngồi ngẩn người ra một lúc, đáng lẽ phải nổi cơn thịnh nộ trút giận dữ vào gã thuộc hạ dám ngang nhiên chỉ trích mình thì lại khẽ gật đầu bảo:
    - Thầy nói đúng, cuộc cờ đã sắp tàn, có lẽ tôi cũng xin nghỉ chân chánh tổng.

    Thật tình, Khúc Thị Nhân chẳng vui vẻ gì với cuộc hôn nhân chênh lệch như cha con này, nhưng vì đã chịu ơn lý Quỳnh vừa cứu mạng vừa cứu danh dự nên đành phải nhắm mắt đưa chân. Cô không thể ngờ được phía sau bộ mặt tưởng như rất thành thực của ông ta lại là một âm mưu đen tối được vạch ra khá tỉ mỉ và thận trọng để chiếm đoạt mình. Lý Quỳnh cũng đủ khôn ngoan để toán cảnh binh ập vào nhà đồ Sách trước. Đây là kế "điệu hổ ly sơn". Biết chắc tay Việt Minh thế nào cũng thoát ra lối bờ sông, phía dưới điếm Bài Vân nên ông ta ngầm bảo cai Viện cho người đón lõng từ trước. Sự việc xảy ra hoàn hảo đến mức, dân làng Cùa không một ai biết Ngô Quỳnh là thủ phạm gây ra cái chết bi thảm của người thợ mộc trừ trương Tòng và bà cả Huê.

    Nói cho công bằng, trong thâm tâm Ngô Quỳnh chẳng sung sướng gì nếu sau này buộc phải nuôi con kẻ khác, cho dù anh ta đã sang thế giới bên kia. Vì thế, mỗi khi nhìn thấy cái bụng lùm lùm của Nhân, phải khó khăn lắm ông lý trưởng mới nặn ra được nụ cười. Lựa dịp ông ta dẫn đám dân phu lên hộ đê Trung Hà, bà cả Huê lẻn sang nhà nói cho cô cháu gái biết rõ sự tình. Nhân lắc đầu nhìn bà bác đầy vẻ nghi kỵ:
    - Cháu không tin ông Quỳnh lại nhẫn tâm làm việc ấy ?

    Bà cả Huê nhổ nước trầu, lấy tay vuốt hai bên mép, thong thả bảo:
    - Tin hay không là ở chị. Từ trước đến nay tôi không vu oan giá hoạ cho ai bao giờ. Người cảnh binh có cái bớt bên cằm là cháu gọi tôi bằng dì họ ở Mạc Điền cho biết, chập tối hôm ấy lý Quỳnh sai trương Tòng lên báo huyện.
    - Thì ra là như vậy. - Nhân lắc đầu thở dài - Tất cả đều là do ông ta sắp xếp.
    - Chị thật là hồ đồ. - Bà Cả trách - Làng này từ trước đến nay lạ gì tư cách lý Quỳnh mà dấn thân vào. Lại còn đứa bé nữa, sau này liệu ông ta có để cho mẹ con chị yên ổn không ?

    Giờ thì Nhân đã hiểu ra, Thật là tiền oan nghiệp chướng. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không ngủ được, gần sáng, vừa chợp mắt một lúc lại mơ thấy cái xác người thợ mộc treo lủng lẳng trên cành đa. Sợ quá, Nhân thét lên, người toát mồ hôi hột . Xế chiều, Nhân vơ mấy bộ quần áo ấn vào chiếc tay nải, quàng lên vai rồi thập thững ra bờ sông, di dọc triền đê, đến bến Ngàn thì xuống một chiếc đò dọc.

    (còn tiếp)

Trang 1/3 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Về Bà Chiểu, rảo Hàng Bàng
    By TAM73F in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-21-2015, 06:48 AM
  2. Trình Làng
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 04-28-2015, 04:14 AM
  3. Hồi ức
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 02-24-2015, 03:21 AM
  4. Trận Ba Làng An
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-10-2014, 01:36 AM
  5. Làng Tôi
    By PS khoá 72G in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-13-2009, 10:10 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •