Remember ?

kết quả từ 1 tới 6 trên 15

Tựa Đề: Ký ức làng Cùa

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 10

    1. Tháng Bảy năm Năm Tư, làng Cùa bắt đầu Cải cách ruộng đất. Ban chỉ đạo có ba thành viên do một người dong dỏng cao, tóc xoăn, khoảng hăm bảy hăm tám tên là Lạc làm đội trưởng. Đội Lạc xuất thân thành phần cố nông. Bố mẹ quanh năm làm mướn cho lý Đăng. Một năm nước lụt vỡ đê, mất mùa, bà mẹ ra sông Vệ mò tôm chết đuối mất xác. Tháng tư năm Dậu, sau trận đói khủng khiếp, đồng điền bỗng như có phép lạ, lúa tốt bời bời, khắp xóm dưới làng trên chỗ nào cũng thấy mùi no ấm. Dân kẻ La trông ngóng từng ngày, nóng lòng nóng ruột chờ lúa đỏ đuôi là gặt thử làm một bữa cơm mới cho bõ những ngày ăn củ chuối hoặc rễ rau rền lẫn với cháo cám. Lạc còn nhớ, nửa đêm hôm ấy ông Lục ra thửa ruộng lĩnh canh cắt trộm mấy chục lượm mang về nhà vò rồi cho vào cối giã. Thóc tươi, nhiều hạt còn xanh lè nhưng cuối cùng cũng được nấu thành cơm. Đó là nồi cơm trắng toả mùi thơm đặc biệt hấp dẫn làm cả hai bố con đều nuốt nước miếng ừng ực. Cơm vừa bắc ra bất ngờ Lạc bị một cơn đau bụng dữ dội. Người anh ta toát mồ hôi hột, hai thái dương nhức như bị thít bằng một thứ đai sắt cứ mỗi lúc lại xiết chặt thêm. Ông Lục phải giã ngải cứu vắt nước cho uống nửa giờ sau mới đỡ. Khi Lạc ngủ, ông bố đói quá mở vung nồi xúc cơm ăn trước. Thức ăn chỉ có nắm cua với mấy ngọn rau lang luộc nhưng vì đã bốn ngày chưa có gì vào bụng nên ông đánh liền một lúc sáu bảy bát. Ngon quá. Ông định làm thêm bát nữa cho đỡ thèm rồi đi nấu cháo cho Lạc, bỗng nhiên cảm thấy trong bụng như có cái gì vỡ ra kêu đến bục một tiếng. Ông rùng mình, toàn thân ớn lạnh rồi nằm vật xuống không biết gì nữa. Cơn đau làm Lạc kiệt sức, ngủ mê mệt gần tối mới tỉnh dậy thì thấy ông bố nằm co quắp dưới nền nhà, người đã lạnh cứng. Anh ta sợ quá chạy ra cổng hô hoán. Cụ khoá Lềnh ở kề hàng rào sang sớm nhất, nhìn thấy bộ dạng ông hàng xóm, chép miệng bảo:
    - Rõ khổ! Bác ấy ăn cơm mới no quá bục dạ dày.

    Lạc khóc rống lên. Anh ta thương bố quá. Ông Lục ăn ở hiền lành, lam lũ vất vả suốt một đời giờ chết tức tưởi thế này đây.

    Năm Mậu Tý, Tây về đóng đồn núi Voi, ép các làng vùng Cao Tân vào tề. Ngày nào chúng cũng đi càn bắt đàn bà con gái mang về hãm hiếp. Một lần kiếm được quả tạc đạn mỏ vịt do bọn lính Ma rốc đánh rơi ở sườn đê, Lạc chờ đến đêm ném vào sân đồn làm chết ba tên da đen và một viên đội người Pháp bị thương rồi trốn sang Quất Lâm theo Việt Minh.

    Được cử vào Đoàn Cải cách dịp này, Lạc vô cùng phấn khởi. Đây chính là cơ hội để trả thù bọn địa chủ cường hào với phương châm “đào tận gốc trốc tận rễ” để thực hiện chủ trương “người cày có ruộng”. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này, cốt lõi của nó là phải triệt để chuyên chính vô sản, nghĩa là cần xử bắn mỗi làng ít nhất từ ba đến năm đối tượng, nhằm củng cố niềm tin cho tầng lớp bần cố nông, răn đe bọn địa chủ, cường hào làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của người lao động. Qua mấy cuộc họp, Đội Cải cách đã thành lập tổ cốt cán gồm toàn anh chị em bần cố nông, rất hăng hái phát động phong trào ôn nghèo kể khổ, khơi gợi lòng căm thù của bà con nông dân từ ngàn đời nay vốn quen chịu áp bức bóc lột mà không dám đấu tranh. Một trong những thành phần ấy là Chĩnh Con và ứng Thị Sót, con dâu Chánh Tổng Lê Bang.

    Những ngày này làng Cùa sôi động lạ thường. Khắp nơi từ tường đình, mái miếu, cổng làng, cứ chỗ nào hở ra lập tức được kẻ khẩu hiệu bằng nước vôi đặc với đủ kiểu chữ mà phần lớn là nguệch ngoạc và sai chính tả. Đại loại như: “Đả đảo bọn địa chủ cường hào bóc nột bần cố lông”, “tất cả ruộng đất về tay rân cày”, hoặc “Đảo đảo tên chánh tổng Lê Bang”. . . Các cuộc biểu tình diễn ra liên miên dưới sự chỉ huy của hai nữ cốt cán. Đoàn biểu tình lúc đầu chưa đầy ba chục người nhưng chỉ ít phút sau đã trở thành một đám quần chúng đông đảo nối nhau như rồng rắn diễu qua các ngõ ngách trong làng. Qua mỗi ngõ ngách, đoàn lại được bổ sung thêm những thành viên rất hăng hái trong việc hô khẩu hiệu lôi đích danh địa chủ, phú nông đã nằm trong tầm ngắm của Đội Cải cách ra chửi bới, xỉ vả. Bà cả Huê là một trong nhưng nạn nhân đầu tiên.

    Ban ngày, những đối tượng này không dám ra khỏi nhà, vạn nhất, có việc cần, phải đợi đến đêm, lần mò đi như thằng ăn trộm, nếu chẳng may bị cánh du kích tuần tra tóm được thì xem như mạng sống chỉ còn tính từng ngày. Chánh Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền, bà cả Huê. . .như kiến trong chảo rang, thỉnh thoảng gặp nhau lại thì thầm to nhỏ chẳng khác gì trước năm Dậu Việt Minh lập hội kín.

    Từ ngày Khúc Thị Huệ theo chồng về Pháp, Khúc Luận đi biệt tích, bà cả Huê gọi thằng Lẫm con ông Khúc Thuỵ là em họ Khúc Đàm bên Đậu Khê sang trông nom nhà cửa. Thằng này người gầy nhằng, tai như tai phật, răng đen xỉn vì lúc bé mắc chứng cam tẩu mã nhưng tính thật thà làm đâu ra đấy. Bà bác quý lắm định sau này cho ăn một phần thừa tự, ai ngờ thời thế phút chốc thay đổi

    Đoàn biểu tình rẽ vào xóm đình. Trống cà rùng do hai gã con trai nhà Nhiêu Chóp khênh vừa đi vừa nhún nhảy như kép tuồng ra bộ. Thằng Quả chột mắt cầm chiếc dùi to tướng bằng gỗ nhãn được đẽo rất sơ sài, nện một nhịp dạo đầu. Tiếp đó là bảy trống con do tốp thiếu niên đội mũ ca lô xanh, áo trắng, quần short xanh, thắt khăn quàng đỏ, đồng loạt hoà tấu rất ròn rã. Chiếc lệnh to đùng lấy ở đám tế khí trong đình Cả do ông vệ Cốc và bà đồng Mạn nhũng nhẵng khênh, chốc chốc lại bị vụt một nhát cuống chổi. Thứ âm thanh choang choang rất chối tai ấy làm ngay cả lão vệ Cốc vừa đánh cũng phải giật mình. Mấy cô răng đen vốn là con cháu những hộ tá điền xóm Trại không hiểu kiếm được ở đâu bốn cái thanh la, thỉnh thoảng lại gõ vài tiếng leng keng nghe gần giống tiếng chuông của mấy ông đạp xích lô trên phố huyện. Hoà nhịp với bộ gõ kim khí ấy là một hồi kèn đám ma nghe rất lạc lõng nhưng lại vô cùng tỉ tê ai oán khiến cho những bà những cô đa cảm bắt đầu sụt sịt. Lê Thị Chĩnh, nữ cốt cán, người cầm đầu cuộc biểu tình lập tức lao từ trên xuống quát:
    - Ai thổi kèn đám ma? Muốn chống lại công cuộc Cải cách ruộng đất hả?

    Mọi người nháo nhác bổ đi tìm kẻ phản động. Cuối cùng mấy tay dân quân cũng tóm được thủ phạm. Thì ra hắn là Nguyễn Đình Phán, con trai ông cửu Mẫn chuyên nghề thầy cúng bắt ma, tróc quỷ khắp vùng Ba Tổng. Buổi sáng thấy đám đông diễu qua cổng, hắn sướng quá, xách ngay cây kèn hiếu của lão phó La chạy ra nhập hội rồi phồng má trợn mắt tấu điệuLâm khốc góp vui. Chiếc kèn bị tịch thu tức thì làm tang vật. Hai dân quân áp giải anh chàng phá đám về giam ở hậu cung đình Cả chờ Đội xét xử.

    Đoàn người rầm rộ bước trong tiếng chiêng, trống, thanh la, não bạt rầm rĩ chốc chốc lại dừng chân. Người lĩnh xướng đưa chiếc lao sắt tây lên miệng xoay tứ phía dõng dạc hô:
    - Đả đảo địa chủ cường hào bóc lột bà con bần cố!
    - Đả đảo!
    - Đả đảo bọn Việt gian phản động Quốc dân đảng!
    - Đả đảo!

    Hàng trăm, hàng nghìn cái miệng đồng loạt cất lên, âm lượng mỗi lúc một tăng, cuối cùng trở thành một cuộc thi gào thét làm đám nhà giầu đang tạm thời ẩn náu trong những ngôi nhà ngói khang trang có sân gạch, tường hoa, cây cảnh vô cùng khiếp đảm. Vì đường hẹp nên đoàn biểu tình phải kéo dài ra, đứng trên cao trông ngoằn ngoèo chẳng khác gì con trăn màu nâu đất đang rùng rùng trườn đi trong tư thế hối hả vồ mồi. Sắp đến nhà chánh Đàm, khẩu hiệu lúc này không còn chung chung nữa mà rất cụ thể theo kịch bản của đội Lạc đã được dàn dựng từ trước. Người xướng loa hướng vào ngôi nhà gác hai tầng gân cổ hét lên:
    - Đả đảo địa chủ Đặng Thị Huê!
    - Đả đảo! Đả đảo!
    - Đả đảo vợ cả Việt gian Khúc Đàm!
    - Đả đảo!
    - Lôi địa chủ Đặng Thị Huê ra cho bần cố nông hỏi tội!
    - Lôi ra! Lôi ra!

    Trong nhà, bà Cả biết thế nguy, sai anh con nuôi lấy thêm đoạn tre chặn cổng. Nhưng cổng nào chống được sức mạnh tổng hợp của bần cố nông bấy lâu nay bị áp bức bóc lột. Họ xúm nhau, ghé vai đẩy vài lần thì hai cánh cổng lim bật ra. Lập tức, mấy dân quân vốn là tá điền rất thông thạo mọi ngõ ngách trong ngôi nhà này chạy thẳng lên gác trói hai tay bà chủ lôi xuống sân. Chĩnh Con gườm gườm nhìn mụ địa chủ, thấy mặt bà ta lầm lầm thoáng vẻ khinh bỉ liền tát cho một cái cảnh cáo. Cấn Viết Tham, một cố nông chuyên đóng khố đánh giậm ở ngòi Mác tuổi trạc ba tư ba nhăm dúi đầu bà Chánh xuống quát:
    - Đi!

    Bà cả Huê bị hai dân quân kèm lầm lũi bước theo đoàn biểu tình. Lúc này người từ hai bên đường đổ ra rất đông. Họ chen lấn nhau, ai cũng muốn nhìn tận mặt vợ chánh Đàm bằng cặp mắt hiếu kỳ. Bà Huê mái tóc chớm bạc xổ tung rủ lòng thòng trước ngực, cổ quàng tấm biển gỗ viết mấy chữ bằng sơn đen “Địa chủ ác bá” bị đẩy đi theo nhịp trống chiêng chẳng khác gì một đám rước thần chỉ thiếu cỗ kiệu bát cống và mấy ông bồi tế đội mũ bình thiên mặc áo thụng lam mà thôi. Đám trẻ có lẽ phấn khởi hơn cả. Chúng còn quá bé chưa hiểu sự đời. Có đứa cởi truồng nồng nỗng, mũi thò lò xanh, tay chỉ chỏ còn miệng thì hét tướng lên mỗi khi đám đông diễu qua cổng.

    Đến xế trưa khi mọi người bắt đầu đói bụng, không khí đấu tranh đã tạm lắng xuống thì đoàn biểu tình vòng về đến sân đình. Mấy bà già bị phong thấp tê chân ngồi phệt xuống đường xoa bóp chỗ đau. Cánh dân quân giong bà Cả Huê vào ở dãy nhà phụ. Bà con giải tán về ăn cơm, chiều lại tiếp tục diễu hành xuống xóm Bờ Sông.

    Đình Cả trở thành đại bản doanh của đội Cải cách. Đội Lạc ăn ở ngay tại đây còn đội Yên, đội Khắc nghỉ trong các gia đình cốt cán. Họ đều là thành phần cố nông có lý lịch trong sạch, tinh thần cảnh giác cao. Dãy nhà phụ vừa hẹp vừa thấp gồm bảy gian bị đổ nát sau trận lũ năm Mùi mới được sửa chữa lại và lắp khoá từ khi làng Cùa phát động Cải cách ruộng đất. Gian ngoài cùng để đòn khênh đám ma, trước vẫn cho lão Mộc điếc ở nhờ, gần đây lão bị tống ra miếu Si, đòn khênh cũng quẳng ra sau đình lấy chỗ giam địa chủ. Gian nhà ẩm ướt mới thoáng ngửi đã nổi da gà. Một tấm phản cong vênh vứt chỏng chơ trên nền đất lổn nhổn mùn giun lẫn với phân dơi. Bị giong làng suốt buổi sáng, chân bà Chánh xuống máu sưng đẫy lên, lại mót tiểu tiện mà cửa thì đã khoá. Chẳng thể chịu được nữa, bà ta đánh liều kéo váy tè ngay ở góc nhà. Mùi nước giải hăng nồng, mấy tiếng đồng hồ mới có dịp xả ra, chạy như tháo cống, xộc lên mũi làm chính chủ nhân của nó cũng phải hắt xì hơi liền mấy cái. Nhưng rồi chỉ một thoáng, cái thứ nước thải rất khó ngửi ấy cũng ngấm dần xuống đất, bà Cả Huê nhẹ cả người, ngả mình xuống tấm phản. Hãy chợp mắt một lúc đã. Mặc kệ sự đời.

    Lúc thức dậy bà ta thấy thằng Lẫm thập thò ngoài cổng đình. Nó phải nằn nì hai ông dân quân gần một giờ mới được đưa cơm vào. Người ta chỉ cho phép chuyển liễn cơm còn món cá kho với rau cải xào bị tịch thu. Tay Mực khịt mũi nhón một miếng cá bống om tương đưa lên mồm nếm thử rồi bảo :
    - Thay mặt bà con bần cố nông ta tuyên bố “tịch thu” những thứ này của địa chủ Đặng Thị Huê sung vào công quỹ.

    Trong nhà giam bà Chánh dùng tay bốc cơm ăn, mắt gườm gườm nhìn hai ông cố nông đang thực hiện đấu tranh giai cấp bằng cách thanh toán rất nhanh mấy đĩa thức ăn. Đêm xuống. Đèn măng xông thắp sáng choang. Hôm ấy có một cuộc họp cốt cán phát động dân nghèo đấu tranh vạch mặt địa chủ phú nông, quy kết thành phần và chuẩn bị chia ruộng đất. Các cố nông nòng cốt của phong trào như Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh Con, ứng Thị Sót, Lương Văn Mực đều đến sớm chứng tỏ tinh thần rất hăng hái. Đội Lạc ngồi chủ toạ. Đội Yên làm thư ký. Vì tất cả các cốt cán đều không biết đọc biết viết nên Đoàn Cải cách của huyện chỉ thị chung là họ phải chú ý nghe, nhập tâm sau đó cứ theo tinh thần ấy mà làm . Đội trưởng có giọng nói khá truyền cảm, mỗi khi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Cải cách ruộng đất anh ta đều dùng cụm từ “Hãy nhớ rằng đây là cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn”.

    - Theo chỉ thị của cấp trên, làng Cùa phải quy cho được ít nhất năm địa chủ, bảy cường hào và mười hai phản động. Xin các đồng chí cốt cán lưu ý, đây là chỉ tiêu mà ta không có quyền bàn cãi. Bằng mọi cách phải vận động bà con vạch mặt được tội chúng.

    Lại Quang Nghinh, đảng viên, bần nông mới được chỉ định làm chủ tịch xã Đoàn Kết đứng dậy báo cáo tình hình địa phương:
    - Nếu tính theo số ruộng đất cho phát canh thu tô hoặc mướn người cày cấy thì làng Cùa chỉ tìm được ba địa chủ còn phần lớn đều thuộc loại trung nông.

    Đội Lạc hắng giọng cắt ngang:
    - Lập trường của đồng chí còn lơ mơ lắm. Muốn quy kết thiếu gì cách. Với bọn phú nông hoặc trung nông lớp trên cứ động viên bà con tố diện tích lên gấp đôi, gấp ba là thành địa chủ ngay.

    Lại Quang Nghinh ngớ ra một lúc rồi mới tiếp tục trình bầy:
    - Về bọn phản động thì mọi người đã rõ. Đó là Lê Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền. Bọn này từ lâu đã làm tay sai cho Tây chống lại chính quyền nhân dân.

    Đội Yên lắc đầu:
    - ít quá. Đề nghị các đồng chí phải phát hiện thêm, nếu tìm không ra đối tượng theo Tây thì khoác cho tội theo Quốc dân đảng. Làm thế nào thì làm nhưng trên chỉ đạo, hết đợt một, Toà án đặc biệt phải tuyên được của làng Cùa bốn án tử hình, năm chung thân còn lại là mức hai mươi năm.

    Chủ tịch xã tái mặt nhìn đội Lạc:
    - Báo cáo các anh, thế thì nhiều quá, tôi e là tìm không ra. . .

    Đội Lạc đưa mắt nhìn đội Yên:
    - ý đồng chí Yên cũng là quan điểm chỉ đạo của Đoàn Cải cách, đề nghị anh chị em cốt cán bàn kỹ việc này.
    Cấn Viết Tham rụt rè nói:
    - Nếu cấp trên đã chỉ đạo như thế thì tôi nghĩ bọn Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, đồ Sách và cả thằng Khúc Luận con lão chánh Đàm cũng là phản động.

    Đội Lạc tươi cười chạy xuống tận nơi bắt tay Cấn Viết Tham.
    - Thế mới là lập trường giai cấp chứ. Đồng chí chủ tịch xã thấy chưa? Từ nay trở đi phải triệt để tôn trọng ý kiến bần cố nông. Bây giờ chúng ta cần thống nhất kế hoạch hành động. Trước mắt phải bắt ngay chánh Bang, Khúc Kiệt và lý Quỳnh giam lại, sau đó cử dân quân lên huyện điệu Lê Văn Vận về cho bà con đấu tranh. Cuối cùng phải để mắt đến bọn hương dũng và lính Bảo an. Đã làm là phải làm triệt để.
    Đội Lạc chủ trì cuộc họp khá bài bản, cốt cán Lê Thị Chĩnh phục lắm, nhìn anh ta, mắt lúng liếng:
    - Chúng tôi xin chấp hành mọi sự chỉ đạo của đội Cải cách.

    Gà gáy lần thứ nhất, một vài người đã bắt đầu ngáp, đội Lạc, đứng dậy tuyên bố:
    - Nếu không còn ai ý kiến nữa thì cuộc họp đến đây kết thúc, các đồng chí về nghỉ, riêng đồng chí Chĩnh, đồng chí Sót và đồng chí Tham ở lại hội ý công việc ngày mai.

    Lê Thị Chĩnh là con ông mõ Vò ngụ cư làng Cùa từ năm Giáp Tuất. Ông bà Vò mấy đời làm nghề thợ đấu quanh năm trôi nổi ở vùng đồng chiêm trũng khắp các tổng La Thượng, La Hạ, Quán Đồng. Năm nhâm ngọ bà Vò bị sét đánh chết ở đống Lạp để lại hai chị em Chĩnh. Thương cảnh gà trống nuôi con lại vừa gặp lúc lão mõ Tụ quy tiên, làng cho ông Vò thế chân. Làm nghề này cũng kiếm được miếng ăn nhưng bị thiên hạ khinh coi như dân hạng ba, còn thấp kém hơn cả những hộ ngụ cư. Hai chị em Chĩnh lớn lên cũng có chút nhan sắc nhưng trai đinh làng chẳng anh nào để ý đến. Năm Chĩnh Lớn mười chín, nhân một chuyến đi chợ Cháy có gặp một anh chàng người tổng Chi Điền. Đó là một tay chuyên nghề bẫy cò tên là Triền ở làng Phú Đa, hơi méo mồm, phiên chợ nào cũng mang cò bán. Gặp Chĩnh, Triền phải lòng ngay, hai người mày đầu cuối mắt, mới có hai phiên đã chỉ non thề biển nguyện sẽ sống đến lúc đầu bạc răng long. Nửa tháng sau, nhà trai mang trầu sang làng Cùa chạm ngõ mới biết cô dâu tương lai là con ông mõ Vò. Tất nhiên là quan hệ của đôi trai gái chấm dứt, chàng bẫy cò bị ông trưởng họ mắng cho một trận nên thân về thói mê gái xuýt nữa làm bại hoại gia phong. Chĩnh Lớn hận tình quá nửa đêm chạy ra sông Lăng tự tử. Chĩnh Con tức tưởi khóc chị và khóc luôn cho số kiếp hẩm hiu của mình. Cô hận thói đời đen bạc bởi những luật lệ khắt khe của cánh chức dịch Ba Tổng. Cô thương mẹ thương cha và căm thù dân Kim Đôi, chỉ mong một ngày kia có sự đổi đời, sẽ đập váy máu vào mặt những kẻ sinh ra thứ hương ước quái gở, phân chia đẳng cấp tàn nhẫn, chà đạp lên hạnh phúc của mình. Thời cơ đã đến. Đây là dịp may hiếm có, phải triệt để lợi dụng những kẻ như đội Lạc, đội Yên và cả chủ tịch Lại Quang Nghinh nữa để rửa mối hận truyền kiếp của gia đình. Phải thẳng tay trị cho con mụ cả Huê lúc nào cũng vênh váo trưởng giả một bài học đích đáng. Phải kích động bần cố nông phát tán gia tài nhà họ Khúc, cuối cùng đưa mụ ra trường bắn lĩnh vài viên đạn hoặc ít nhất cũng tống đi Lào Cai, Sơn La để mụ ngồi đếm dần những tháng ngày còn lại trong xà lim biệt giam. Khúc Kiệt cũng không thể tha. Lão thầy đồ nửa mùa này hơn chục năm qua chỉ thích đánh nhau. Một tay lão đã gây ra cái chết của không biết bao nhiêu người trong huyện Nam Thành. Hồi trước, mỗi lần ra đình, Khoá Kiệt cậy có chữ, khinh rẻ đám bạch đinh. Đã có lần lão lấy roi mây quất ông Vò chỉ vì mấy miếng đầu gà chẻ không đều làm phần của lão lép hơn so với chánh hội Bường.


    2. Toán dân quân hơn chục người dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng Bùi Quốc Tầm mang theo bảy khẩu súng trường, năm quả lựu đạn mỏ vịt và một cuộn thừng trâu rời làng Cùa lúc năm giờ chiều. Bọn này phần lớn là dân lực điền, chân bàn cuốc, gai đâm không thủng, chạy bộ chục cây số chẳng bõ bèn gì. Bùi Quốc Tầm con ông Bùi Khắc Nhũ, tiên chỉ làng Đậu Khê. Ông Nhũ làm nghề thiến lợn, quanh năm xách thòng lọng khắp mấy tổng Kim Đôi, Ngân Đôi, Cao Xá, đến ngõ nào cũng cất giọng lanh lảnh bằng một ngữ điệu rất truyền cảm: “Thiến lợn ơ!” Tài thiến lợn của Bùi Khắc Nhũ vùng Ba Tổng không ai bì kịp .Vừa vào đến cửa chuồng, con lợn chưa kịp nhận ra người lạ thì một cẳng đã bị thít thòng lọng lôi ra. Ông thợ chụm ngón tay xoa nhẹ dưới háng, gãi gãi mấy cái như một trò đùa rồi bất ngờ đưa xoẹt một đường dao làm chú ta giãy nảy lên. Chỉ một loáng, hai hạt cà đã được móc ra nằm gọn trong chiếc bát da lươn . Lấy vợ từ lúc mười sáu tuổi, đến năm ba mươi sáu vợ Bùi Khắc Nhũ đẻ liền bảy cô con gái. Trong nhà toàn vịt giời, lúc nào cũng cãi nhau chí choé, mất thớ với cánh đàn ông trong giáp, họ Bùi liền nghĩ đến chuyện đi gửi thiên hạ. Vốn sẵn máu phong tình, bác thiến lợn không khó khăn lắm trong việc thả lời ong bướm tán tỉnh các cô quá lứa nhỡ thì hoặc đàn bà goá nạ dòng. Một trong nhưng đối tượng say Bùi Khắc Nhũ như điếu đổ là bà phó Nhu chồng chết từ ba năm trước có cô con gái câm, đã mười tám trăng tròn mà không có anh trai làng nào đánh tiếng. Ông Nhũ qua lại làng Báng chừng già nửa năm thì bà phó Nhu có mang, ít lâu sau sinh được thằng con trai mặt giống bố như tạc nhưng cặp chân lại vòng kiềng. Bà Nhũ mừng lắm dắt bảy cô con gái mang một làn trứng và cặp gà mái ghẹ sang thăm cậu quý tử và nhận bà Nhu làm chị em. Thằng cu Tầm được hơn hai tuổi thì cô Câm lại có mang. Dân làng Báng tức lắm, họ cử đám tuần đinh rình ở đống Chùa lừa bắt Bùi Khắc Nhũ tống vào bao tải quẳng xuống ngòi . Số bác thiến lợn còn may, bao không buộc túm đầu, ông ta giãy giụa một lúc, uống vài ngụm nước thì tuồn được ra. Sau này Bùi Quốc Tầm lớn lên hay về Bối Khê thăm bố, còn ông Nhũ, cho đến cuối đời tuyệt nhiên không dám trở lại kẻ Báng.

    Chuyện đáng nhớ thứ hai của ông ta là là lần thiến lợn cho bà trương Xá ở Mạc Điền. Bà Trương goá chồng từ năm ba mươi hai tuổi, tính đồng bóng, thỉnh thoảng lại đi theo đám cung văn vài ngày, giao nhà cửa cho cô em họ trông hộ. Cô này vốn lẳng lơ, nhìn thấy trai là liếc mắt đưa tình, bác hoạn lợn liếm mép thoáng nghĩ “Mẹ khỉ! Đã thế thì ông cho mày chết”.

    Con lợn lang đen khá to, mõm dài, lông cứng như lông nhím này bà Trương mới gây được hơn một năm, định để làm lợn cà nhưng không hiểu sao lại gọi thợ đến thiến. Chính nó, hồi tháng ba đã đớp phó Hạnh một miếng vào mông làm anh ta phải quẳng cả đồ nghề chạy bán sống bán chết. Lần này, nhìn thấy chiếc thòng lọng trong tay Bùi Khắc Nhũ, mắt con vật long sòng sọc ngoác cái mõm lởm chởm những răng là răng hộc lên một tiếng. Chuyện vặt. Ông ta có thừa kinh nghiệm xử lý những chú Trư Bát Giới cứng cổ hơn thế. Để giữ độ an toàn, Bùi Khắc Nhũ đã lừa quấn được dây thừng vào chân sau con lợn, một tay xoa nhẹ vào mông, một tay cầm dao chuẩn bị hạ thủ. Cô em họ bà Trương cúi người giữ hai chân trước, cạp váy trễ xuống để hở một khoảng trắng ngang thắt lưng rất là khêu gợi. Lưỡi dao vừa rạch một đường vào lớp da chừng hai phân thì con lợn bất chợt oằn người hất một cú trời giáng làm cô em ngã bổ chửng. Bùi Khắc Nhũ mất đà, xoay chân định nhảy qua cửa chuồng chẳng dè bị nó đớp trúng đũng quần. Ông ta kêu thét lên như bị chọc tiết. Con lợn được tự do nhảy phốc khỏi chuồng, phóng ra cổng, chạy dọc đường làng kêu hồng hộc.

    Chuyến ấy, Bùi Khắc nhũ bị mất một hạt cà phải nhờ ông lang Kỷ chữa gần hai tháng mới lành. Khỏi bệnh ông ta quẳng con dao và thòng lọng xuống sông Lăng, bỏ nghề thiến lợn chuyển sang cúp tóc. Họ Bùi có thói quen khác người, mỗi khi mua được con cá hay xâu thịt, trên đường về nhà, thỉnh thoảng lại đưa lên mũi ngửi. Người hàng xứ thấy hành vi kỳ quặc của ông ta cho là dở hơi, đứng lại nhìn liền bị chửi:
    - Tiền của ông ông mua nhìn cái đếch gì mà nhìn.

    Đến nhà, việc đầu tiên là ông bắt bà vợ già hoặc cô con gái thứ ba đem xào nấu ngay, cấm được nếm, nếm thử thế nào cũng bị ăn roi. Mâm bát sắp ra, đĩa thức ăn bao giờ cũng để ngay cạnh chai rượu. Bùi Khắc Nhũ nửa nằm nửa ngồi, khuỷu tay trái chống xuống chiếu, tay phải nâng chén rượu nhấp một ngụm, sau đó cầm đũa liên tục gắp thức nhắm bỏ vào miệng. Ông hoạn lợn cứ uống, cứ nhắm cho đến khi nào thích khẩu bà vợ với mấy cô con gái mới được hưởng phần còn lại.

    Năm Quý Dậu, Bùi Khắc Nhũ sáu mươi hai, bỏ tiền ra mua chân tiên chỉ. Cánh chức sắc trong Hội đồng kỳ hào ghét ông ta là phường tham ăn lại chơi trèo liền bàn nhau cho gã thiến lợn một vố. ấy là vào dịp ông phó hội Lĩnh làm khao. Cỗ bàn đã xong, cứ năm người một mâm mà đóng, riêng Tiên Nhũ ai cũng có ý tránh, vì vậy lão tuy là chức sắc mà phải bấm bụng ngồi với đám bạch đinh ở mâm dưới. Vừa nâng chén, theo thói quen, Tiên Nhũ đã chống khuỷu tay, ngả người về phía trái, bắt đầu vung đũa "vào trận". Tất nhiên là cánh đàn em nhường ông ta miếng to nhất trong đĩa giả cầy. Món này là sở trường của lão mõ Lạp được nấu rất khéo, ai ăn cũng nghĩ là thịt chó. Miếng thịt vừa to vừa dai nhằng nhằng làm ông tiên chỉ quai mồm ra nhai mãi vẫn không nát, mà nuốt ngay cũng không được, vì như thế sẽ bị nghẹn, mà nghẹn khoản giả cầy giữa đình làng nơi đủ mặt quan viên thì còn ra thể thống gì. Thôi, đã trót thì phải trét vậy. Các món ăn cứ vơi dần trong khi Bùi Khắc Nhũ vẫn phải đánh vật với miếng thịt quỷ quái. Đã thế hình như bên trong còn có dây nhợ lằng nhằng mắc cả vào kẽ răng làm ông ta phải cho ngón tay vào mồm ngoáy đi ngoáy lại mới gỡ được. Đến lúc ấy vị tiên chỉ làng chẳng còn giữ thể diện nữa, nhè ra tay, đưa lên nhìn thì ôi thôi, đó không phải là thịt lợn thông thường mà đích thị là miếng l. . . lợn sề được khâu không biết bao nhiêu là chỉ đen thành một khối lằng nhằng rồi cho lẫn vào nồi giả cầy. Khốn nạn, không biết thằng đểu nào chơi xỏ mình đây. Mấy ông chức việc ngồi mâm trên kín đáo đưa mắt cho nhau, tủm tỉm cười. Sau vố ấy, tiên Nhũ tức mình tuyên bố từ nay không thèm ra đình làng. Lão dựng một căn lều cạnh cổng chùa Vĩnh Khang mở hiệu cắt tóc. Tay lão chỉ quen thiến dái lợn, còn tóc xén nham nhở, hầm hố như thằng đi tù về. Những lúc vắng khách, lão ngồi ngả đầu vào vai ghế, mắt lim dim, miệng ư ử ngâm Kiều:

    Lầu xanh quen lối xưa nay
    Nghề này thì lấy ông này tiên sư.

    Năm Bùi Quốc Tầm mười bốn, mẹ chết, chuyển về làng Đậu ở với bố. Tầm càng lớn chân càng vòng kiềng, đi đứng cứ quềnh quàng như con dế trũi bị vặt hai cẳng sau. Hắn học dốt bị thầy lấy thước lim dần vào mu bàn tay, đau quá bĩnh ra quần thối khẳn ba gian nhà, mấy hôm sau thì bỏ học theo cánh lực điền vào phường gặt thuê. Năm Canh Dần, Tầm đi lính Bảo an , sau được Việt Minh tuyên truyền, liền bỏ hàng ngũ địch về nhập đội du kích làng Đậu. Người tuy lùn nhưng Tầm có tài đánh độn thổ làm bọn Âu Phi và lính dõng đồn Tuần nhiều phen khiếp vía. Có lần, một mình anh ta dám đột nhập vào nhà bang Tuân, đâm chết hắn, đặt bản án tử hình về tội phản dân hại nước lên sập gụ. Lúc thoát ra, chẳng may chân vấp phải sợi dây thép căng ngang hàng rào làm cho con chó lài giật mình sủa dữ dội. Bọn hương dõng xách tay thước cùng giáo mác bủa vây khắp các ngõ ngách. Tầm ngó trước ngó sau, thấy không còn cách nào khác, liền nhảy bừa xuống ao nhà cửu Bình, lặn một hơi, một lúc sau thì chạm bờ, leo lên lẻn vào dãy nhà ngang. Cũng vào lúc ấy, cô Cam, con dâu ông Cửu đang xay lúa, thấy một người ướt từ đầu đến chân bất chợt hiện ra, sợ quá, xuýt nữa thì kêu thét lên. Tầm vội giơ tay ra hiệu rồi nói nhỏ:
    - Tôi là du kích vừa mới giết thằng bang Tuân, bị bọn Hương dũng đuổi gấp lắm, chị cho ẩn tạm,sau này Việt Minh không quên ơn.

    Cô ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Tầm chui vào bồ thóc sau đó lấy tấm chiếu rách chùm lên. Ngoài cổng có tiếng hô hoán. Tuần đinh chạy huỳnh huỵch. Bọn Hương dũng khua khoắng một lúc dưới ao bèo không thấy gì liền kéo nhau vào nhà ông Cửu. Chủ nhà cười nhạt bảo:
    - Các anh có súng trong tay mà chịu một thằng Việt Minh à?
    - Bẩm cụ, chúng con đã lục soát hết lượt, chỉ còn nhà . . .
    - Anh muốn nói là nhà ta chứ gì? - Ông Cửu hắng giọng - Thế thì hãy vào tìm cho kỹ đi.
    - Bẩm cụ, chúng con không dám.

    Sau khi cánh Hương dũng rút ra đầu làng, cửu Bình thong thả xuống nhà ngang làm cô con dâu lúc này đang sàng gạo run bắn. Ông thản nhiên như không, bước đến bồ thóc vỗ vào chiếc chiếu bảo:
    - Mời anh ra!
    Tầm hết hồn, lúng túng mãi mới trèo xuống được vì đôi chân ngắn. Nhìn thái độ ông chủ nhà, biết là mọi sự đã bình yên, anh ta khoá chốt an toàn khẩu súng ngắn rồi ngập ngừng nói:
    - Cảm ơn cụ cứu mạng.
    Cô con dâu lúc ấy mới dám hỏi :
    - Thầy . . . thầy đã biết?
    Ông Cửu chép miệng:
    - Biết từ lúc anh ta từ cầu ao chạy vào. . .
    - Thưa cụ, giờ tôi xin phép.
    Ông Cửu lắc đầu:
    - Anh phải ở đây đến tối mới đi được, bây giờ bọn tuần đinh đón lõng khắp nơi, ra khỏi nhà ta là bị bắt ngay.

    Hôm sau đồn Cáo cho lính về càn Cao Điền. Chúng thay nhau đóng ở đấy ba ngày, Tầm không cách nào thoát ra được. Ban ngày anh ta xuống tăng sê ngồi, chập tối mới dám lên. Cô con dâu ông Cửu có chồng đi lính Bảo an, đóng mãi Đông Thị, hàng năm không về, ở nhà một mình, vắng đàn ông ngứa ngáy không chịu được, thế là hai người túng tấng với nhau. Từ đấy, thỉnh thoảng anh ta lại về làng Cao, ban đêm lẻn xuống nhà ngang ngủ với cô Cam. Thấy con trai vắng nhà mà con dâu có chửa, ông cửu Bình uất lắm nhờ người cháu họ là du kích dẫn đến gặp Lê Văn Vận. Vận bấy giờ là chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến trực tiếp phụ trách mấy xã phía nam huyện, tuyên bố Bùi Quốc Tầm phạm tội hủ hoá làm mất thanh danh đoàn thể Việt Minh, ra lệnh trói lại, giam vào nhà lao để toà án Cách mạng xét xử. Đêm ấy thừa lúc người lính gác bỏ ra ngoài, anh ta trèo tường trốn được chạy về rừng Hóp xin đầu quân cho Khúc Kiệt. Từ bấy đến nay, Bùi Quốc Tầm vẫn thù Lê Văn Vận, thiếu chút nữa thì anh ta bị xử bắn chỉ vì có quan hệ luyến ái với một cô vợ lính.

    Chủ tịch Lê Văn Vận ở trong gian nhà của Uỷ ban hành chính huyện. Anh ta vừa chủ trì cuộc họp liên tịch giữa Mặt trận Liên Việt với Nông hội và Ban Thuế nông nghiệp về đến nơi thì bị toán dân quân ập vào trói nghiến lại. Lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Khuôn viên cơ quan vắng tanh không thắp đèn đóm gì, một số người đã buông màn đi ngủ, chẳng một ai biết ông chủ tịch bị xích tay giải đi trên đường 22. Đêm tháng một, gió bắc thổi ràn rạt. Nhưng tàu chuối tây trên bờ ngòi Thía bị tước ra bay lật phật. Một cây đề lẻ loi bên ngôi quán xiêu vẹo, dưới quầng sáng lờ mờ của vài ngôi sao đêm , hiện ra trơ trụi chẳng khác gì bộ xương san hô khổng lồ bị quái vật biển gặm nham nhở. Trên chạc cây, một con chim lạ đen trùi trũi như quạ nhưng cái mỏ lại trắng toát, to bằng con gà gô, cất giọng gừ gừ như giọng chó già nằm sưởi nắng tò mò nhìn đoàn người phía dưới thỉnh thoảng lại hộc lên một tiếng. Lê Văn Vận lúc ấy mới đẩy được cuộn giẻ bẩn thỉu ra khỏi miệng. Anh ta khạc nhổ liền mấy cái rồi hỏi một cách giận dữ:
    - Các anh là ai? Sao lại bắt tôi?

    Bùi Quốc Tầm khịt mũi bảo:
    - Đây là lệnh của Đoàn Cải cách, chúng tôi có nghĩa vụ phải chấp hành.
    Vận nóng mắt quát:
    - Đoàn Cải cách nào? Vì cớ gì lại đi bắt người lung tung thế này?
    - Về làng Cùa sẽ biết. – Tầm cười gằn – Không phải đợi lâu đâu ông chủ tịch huyện ạ.
    Vận là người thứ hai bị giam sau bà cả Huê trong dãy nhà giành cho các phạm nhân ở đình Cả. Sáng hôm sau, nhìn thấy Vận mặt mũi bơ phơ, râu ria tua tủa, bà Chánh mát mẻ bảo:
    - Ông chủ tịch không ngờ lại có ngày hôm nay phải không?

    Vận im lặng nhìn bà cả Huê. Mới có mấy năm mà bà ta già đi nhanh quá. Mái tóc xanh mượt như mây giờ đã lốm đốm bạc. Khuôn mặt tuy vẫn còn đầy đặn nhưng đã thoáng thấy những nếp hằn chạy song song từ đuôi mắt xuống đến vành tai. Tuy nhiên đôi mắt thì vẫn sắc sảo luôn nhìn thấu gan ruột người khác như xưa. Vận hỏi:
    - Bà Cả vào đây lâu chưa?
    Giọng bà Chánh thản nhiên như không:
    - Cảm ơn cậu hỏi thăm . Đội Cải cách mới giam tôi năm ngày.
    - Thế còn con Huệ? Nghe nói nó . . .
    - Nó đã theo Mác xen về Pháp sau đợt Chính phủ trả tù binh. Anh không phải lo.
    - Chết thật ! – Vận khẽ rên rỉ – Nếu đúng là như thế thì việc của chị khó gỡ lắm.
    Bà Cả thở dài:
    - Đến bản thân cậu còn bị tống giam thì còn mong cứu được ai.

    3. Khúc Kiệt vừa sang sông thăm lái Lự về hôm trước thì hôm sau dân quân ập vào nhà trói lôi ra đình cùng với Ngô Quỳnh và phó lý Kiền. Ông ta đã ngót sáu chục, người khô gầy, chòm râu mới nuôi lốm đốm bạc, bước lòng khòng vì mắc chứng đau lưng từ hồi ở rừng Hóp. Vừa nhìn thấy xã đội trưởng Tầm ,

    Khúc Kiệt trừng mắt hỏi :
    - Ai ra lệnh cho các anh bắt tôi?
    Bùi Quốc Tầm thản nhiên bảo :
    - Đội Cải cách.
    - Lệnh đâu đưa xem?
    Tay xã đội giọng khinh khỉnh :
    - Đối với bọn tay sai Quốc dân đảng phản dân hại nước như nhà ông, bất cứ bà con bần cố nông nào cũng có quyền đòi trả nợ máu mà không cần các loại giấy tờ, hiểu chưa?
    Ông cựu đội trưởng du kích rừng Hóp nóng tiết chửi :
    - Đúng là thời buổi “nước ngập chó nhảy bàn độc.”
    Bùi Quốc Tầm cau mày , hất hàm:
    - Đưa vào nhà giam!

    Tuy nhiên dãy nhà giam đã chật nên bọn dân quân đẩy khoá Kiệt vào hậu cung. Sau trận đánh đồn Tuần thất bại, Khúc Kiệt được đồn Cáo tha, Việt Minh bắt đầu nghi ngờ lòng trung thành của ông ta. Tổ chức Đảng và ngành công an từ trước đến nay vốn xem khóa Kiệt như một phần tử vô chính phủ, không chịu phục tùng mệnh lệnh cấp trên thì khẳng định ông ta là kẻ phản bội, thậm chí là người của phòng Nhì được gài vào hàng ngũ Việt Minh để làm nội ứng cho địch. Khúc Kiệt không thể chứng minh sự trong sạch của mình một khi các bằng chứng cứ ngang nhiên chống lại ông ta. Đó là Khúc Văn, đóng lon sỹ quan từng kéo quân càn quét khắp vùng Ba Tổng truy bắt Việt Minh. Sợ rằng sẽ đến lúc Việt Minh cử người đến hỏi tội, Khúc Kiệt giải tán đội du kích, bỏ rừng Hóp về làng Cùa. Làng Cùa vào tề đã lâu, lại gần bốt Tuần và có đội Hương dũng mạnh dù sao cũng tạm được yên ổn. Nhưng rồi tin hàn Kiểm bên Mạc Điền bị xử tử ngay tại nhà lan ra khắp huyện Nam Thành làm ông ta sợ. Sau mấy ngày cân nhắc, Khoá Kiệt thấy không còn cách nào hơn là qua sông sang làng Bòng nương nhờ ông bạn lái Lự. Ông này đã có thời làm chủ tịch Liên Việt, ủng hộ kháng chiến được Việt Minh tín nhiệm. Lái Lự nhờ người cháu họ là nhân viên Sở lục lộ xin cho khóa Kiệt tấm giấy thông hành. Ông ta dùng nó như một thứ bùa hộ mệnh đi qua hầu hết các đồn bốt của quân Pháp vùng tả ngạn sông Lăng.

    Vào Lục An, Khóa Kiệt được dẫn đến vùng trại Cóc ở nhờ nhà ông Diệp Quẩy người Sán Dìu làm nghề thầy cúng. Ông cựu đội trưởng du kích theo dân tản cư lận rừng kiếm sống. Dân lận rừng phần lớn rất nghèo từ vùng tạm chiếm lên, chuyên hái các thứ quả cây như trám, bứa, dọc, tai chua, tước vỏ báng hoặc đào củ nâu mang ra chợ Bầu Be bán kiếm tiền đong gạo . Loại lâm sản này rừng trại Cóc, trại Chít, trại Giang vô thiên lủng, nếu đủ sức, tha hồ khuân ra bán buôn cho thương lái từ ngả Tào Khê, Mạn Dương ngược sông lên cũng kiếm được đồng ra đồng vào. Tuy nhiên với cái tuổi năm bảy, lại bị phong thấp, công việc của khoá Kiệt không phải lúc nào cũng thông đồng bén giọt. Hái dọc, hái trám thì phải trèo cây, mà toàn cây cao, tuy nhiều quả đấy nhưng trượt chân hoặc gẫy cành rơi xuống là cầm chắc cái chết. Đó là chưa kể bất chợt bị rắn khô mộc, một loài bò sát chuyên sống trên cây có nọc rất độc cắn, hoặc ông ba mươi đón lõng lúc chập tối ở chân dốc Cáy. Từ trại Cóc ra đến chợ Bầu Be mất nửa ngày đường. Các bác lận rừng gánh hàng oằn vai, vừa leo dốc vừa thở phì phò chốc chốc lại phải nghỉ lấy sức cho chặng tiếp theo. Rừng Lục An lắm lâm thổ sản nhưng cũng đầy lam sơn chướng khí. Khối anh về đến nhà sau nửa năm hành nghề bị ngã nước, đầu trụi sạch tóc, môi thâm sì, mắt trắng dã, thỉnh thoảng lại lên cơn giật đùng đùng như bị ma xó nhập vào.

    Cũng may, ở rừng Lục An được hơn một năm thì quân ta thắng trận Điện Biên, khoá Kiệt lại khăn gói quả mướp tìm về quê trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn . Vừa đi vừa nghỉ, sang ngày thứ tư, Khúc Kiệt về đến làng Cùa thì được tin Khúc Thị Nhân đã bỏ đi, Khúc Văn bị bắt sau khi bốt Tuần bị hạ.

    Đầu tháng sáu, Khúc Kiệt sắm chiếc vó bè, cắm lều ở đoạn ngòi Mác đổ vào đầm Ma ngày ngày kiếm cá, không quan tâm đến những sự kiện đang xảy ra ở làng Cùa nữa. Nhưng Khúc Kiệt nhầm. Đội Lạc và nhất là Bùi Quốc Tầm lúc ấy mới được phân công làm xã đội trưởng, và Lê Thị Chĩnh trong ban cốt cán, đã xem ông ta là phần tử cần phải thanh trừng ngay từ khi xã Đoàn Kết bắt đầu phát động Cải cách đợt một. Trong cuộc họp kín của ban chỉ đạo, Bùi Quốc Tầm đứng khuỳnh chân, một tay tựa vào bàn, tay kia chém lia lịa vào không khí, dõng dạc tuyên bố:
    - Khúc Kiệt tự ý thành lập đội quân áo Đen, rước Nhật về làng Cùa tàn sát bảy tám chục người . Trong trận đánh bốt Tuần, hắn làm nội ứng cho đồn Cáo dẫn đến thất bại thảm hại, sau đó còn tự ý giải tán đội du kích gây tổn thất cho kháng chiến. Thằng Khúc Văn thì nghe nói đã trốn vào Nam theo giặc. Tất cả những tội ấy đã đủ điều kiện xử tử.

    Lại Quang Nghinh ghét thói tiểu nhân, xu thời của Tầm, không đợi anh ta nói hết, chặn ngay:
    - Ông Khoá tuy có một số sai lầm nhưng là người có công với kháng chiến không thể đưa ra đấu tố như bọn địa chủ được.
    Tầm liếc Nghinh hỏi:
    - Thằng Khúc Văn theo Tây bắn lại đồng bào thì sao?
    Nghinh khịt mũi:
    - Ai làm người ấy chịu. Cả làng Cùa đều biết từ lâu, hai bố con ông Khoá coi nhau như kẻ thù.
    - Anh là chủ tịch mà lại bao che cho bọn phản động à?
    Lại Quang Nghinh bật lên như lò xo bị nén, chỉ mặt xã đội trưởng:
    - Này, anh có biết năm năm hai thằng nào đã xỏ nhầm giầy Tây xách súng đi càn ở Cao Đôi không?
    Tầm tái mặt. Anh ta như quả bóng xì hơi ngồi im thít, lấm lét nhìn mấy ông Đội Cải cách.

    Nhưng rồi Lại Quang Nghinh cũng không cứu được Khúc Kiệt. Dưới con mắt của Đội, ông ta là một người phức tạp, một kẻ vô chính phủ bậc nhất ở vùng Ba Tổng. Từ lâu, đội Lạc vẫn giữ thái độ im lặng để cánh cán bộ xã cãi nhau chán rồi mới thong thả hỏi:
    Có phải từ những năm bốn mốt, bốn hai, Khúc Kiệt đã thành lập đảng áo Đen?
    - Dạ đúng. – Bùi Quốc Tầm trả lời như cái máy.
    Lại quang Nghinh vội cải chính:
    - Không phải đảng áo Đen mà là đội quân áo Đen.
    - Cũng thế cả thôi. – Tầm đế thêm vào - Quân áo Đen sau này bị cả Việt Minh và quân đội Pháp đánh bại nên đã theo đuôi Quốc dân đảng.
    - Ra thế. Tôi đã bảo mà. – Cấn Viết Tham có vẻ đắc ý vớ chiếc điếu cày rít một hơi thuốc lào phả khói mù mịt làm Lê Thị Chĩnh bị sặc:
    - Cái ông này mang ra ngoài sân mà hút!
    -Vậy thì mọi việc đã rõ. - Đội Lạc kết luận- Khúc Kiệt là thành phần Quốc dân đảng nguy hiểm chống phá Cách mạng, cần phải đưa ra đình làng cho bà con nông dân hỏi tội.

    Vào lúc Khoá Kiệt đang run cầm cập vì lạnh thì cánh cửa hậu cung mở. Mấy dân quân đẩy một người vào. Cú đẩy khá mạnh làm ông ta ngã sóng xoài, nhìn kĩ hoá ra là lý Quỳnh. Khúc Kiệt tuy vừa đói vừa rét cũng phải bật cười khi nhìn thấy ông con rể bất đắc dĩ.
    - Bây giờ ông mới vào đây là hơi muộn đấy.
    Ngô Quỳnh chép miệng:
    - Chuyến này chắc là tôi với ông toi rồi. Bọn chúng không thương xót ai đâu. Nhà nào có bát ăn bát để một chút là bị lên thành phần.
    Khúc Kiệt cười như mếu:
    - Ông nói thế chưa đúng. Như tôi đây này, tài sản chẳng có gì ngoài chiếc vó bè mà cũng bị thằng Tầm cho dân quân đến xích tay.
    Ngô Quỳnh bảo:
    - Tôi chưa nói hết. Lên thành phần vẫn còn là nhẹ. Nặng nhất là bị liệt vào hàng Quốc dân đảng sau đó mới đến tội làm tay sai cho Tây. Ông thuộc loại đối tượng nguy hiểm, cho nên bị tóm cổ trước cánh lý dịch chúng tôi.
    Khúc Kiệt thở dài:
    - Nhưng mà từ ngày đi hoạt động đến giờ tôi có biết mồm ngang mũi dọc cái thằng Quốc dân đảng nó thế nào đâu.
    - Thế thì lạ nhỉ? – Lý Quỳnh liếc nhìn thân hình tiều tuỵ của ông bạn già hạ giọng thì thầm. – Nghe nói Đội Cải cách được lệnh xử bắn theo tỷ lệ dân số. Làng ta ít ra cũng phải sáu, bẩy người.
    - Chả lẽ nhà nước Dân chủ Cộng hoà lại không tôn trọng pháp luật?
    - Ông lên nhớ, bây giờ “nhất đội nhì giời” , lũ chúng ta chỉ còn biết cúi đầu nhận tội mà thôi.

    4. Đội Cải cách mở phiên toà xét xử chánh tổng Lê Bang. Ngay từ sáng sớm đình Cả chật cứng người. Bà con bần cố nông háo hức lắm, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến bọn địa chủ cường hào phải cúi đầu nhận tội. Các gia đình trung nông lớp trên, phú nông và mấy hộ làm nghề thủ công hoặc buôn hàng xén còn lừng chừng bị dân quân khoác súng vào tận nhà điệu đi. Những ông bà này lấm lét nhìn nhau không ai dám nói gì nhưng trong bụng đều nghĩ, chống lại Đội họ ngứa mắt quy cho là Quốc dân đảng thì coi như tàn đời.

    Làng Cùa những ngày này chia làm hai phe. Phe bần cố nông mặt tươi roi rói, suốt ngày nhảy múa ca hát mừng sự đổi đời. Lúc ấy ca khúc cách mạng còn ít , ngoài bài “ Giải phóng Điện Biên “ của Đỗ Nhuận và “Qua miền Tây Bắc” của Nguyễn Thành, đám thanh niên Ba Tổng rất say sưa hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa. Đây bao la hương sắc hoa êm đềm. Hoa lan sang mùa xuân đất Việt ...” không biết do ai sáng tác. Làng Cùa du nhập rất nhanh điệu múa sạp và bài dân ca Thái “Múa hái rau” được thay lời mới : “Ngoài đồng lúa ngát hương. Tung tăng bướm bay về ...” Cứ chỗ nào có ba người trở lên là rủ nhau tìm sào múa sạp hoặc nhảy xon mì. “Xon mì” là một vũ khúc khá vui nhộn. Dân nhà quê vừa xướng âm vừa nhảy một cách tuỳ hứng chẳng cần đàn sáo lẫn biên đạo múa. Họ nhìn nhau co chân nhảy thách lên như con choi choi, chán thì thôi. Có cô cậu mải nhảy mắt hếch lên đập mũi vào cột nhà, toé máu ra. Khôi hài nhất là bài hát “ Múa hái rau”, vừa được lưu hành trong xóm Cầu Đá vài hôm không biết có thằng phản động nào nhại lời rất xỏ xiên: “Này bà Lý toét ơi! Con tôi lấy con bà. Hai đứa nó nằm với nhau. Quyết tâm tôi gả cho bà , bà về bà chặt buồng cau. Sớm mai lên đường đón dâu”. Múa sạp thì cô Tý Mỡ con gái bà Điều nhảy lỗi nhịp bị hai cây dóc kẹp vào chân ngã dập môi. Cô Lai, cặp mông như mông lợn ỷ, bàn chân to bè bè, mỗi khi dậm xuống đất nghe thình thịch chẳng khác nào chày giã gạo nện xuống cối đá đại.

    Lũ trẻ con được phân công làm vệ sinh cổng làng, ngõ xóm, những đứa lớn hơn thì quét vôi để các anh thông tin kẻ khẩu hiệu. Thằng cháu họ gọi chánh tổng Lê Bang bằng bác kẻ một hàng chữ lớn bằng hắc ín ngay trước cổng nhà ông ta: “Đả đảo tên cường hào Lê Bang”. Một số thiếu niên còn được Bùi Quốc Tầm và Lê thị Chĩnh cử đi trinh sát, nghĩa là đến rình các gia đình thuộc diện nghi vấn xem động tĩnh ra sao. Nếu thấy có người lén lút ra vào hoặc kêu ca về chủ trương cải cách ruộng đất thì các cậu này phải về báo ngay để Đội kịp thời xử lý. Phe thứ hai gồm tất cả những người, nếu không là địa chủ cường hào, nguỵ quân nguỵ quyền thì cũng ít nhiều dính dáng đến các tổ chức phản động, đã bị bắt giam hoặc đang quản thúc tại gia, chờ nhân dân xét xử. Họ như cá nằm trên thớt lúc nào cũng giật mình thon thót nếu thấy bóng dân quân trước cổng. Trong các cuộc ôn nghèo kể khổ, “bình nghị” thành phần, xác minh diện tích điền thổ, những đối tương tạm thời còn tại ngoại phải đến nghe nhưng không được phát biểu. Đó thật sự là những tội phạm đã mất hết quyền công dân, gặp bần cố nông đều phải cúi đầu thật thấp chắp tay “Con chào ông (bà) ạ” người được tôn lên hàng ông bà lúc ấy hoặc “ừ” một tiếng thật hách dịch hoặc chẳng thèm nói gì, mặt vênh lên ra vẻ rất là bề trên.

    Một tối, nông dân đang “bình nghị” ở nhà chánh Đàm chợt có tiếng chân chạy rình rịch ngoài đường tiếp theo là súng nổ phía ao đình. Đám bần cố nông nhốn nháo xô nhau ra cổng xem có chuyện gì thì Bùi Quốc Tầm bước vào nói dõng dạc:
    - Bọn phản động thừa lúc bà con đang họp lẻn vào đốt bếp nhà đồng chí Tham nhằm mục đích gây rối trật tự an ninh, phá hoại công cuộc Cải cách. Tôi đề nghị mọi ngưòi hãy nâng cao cảnh giác Cách mạng, phát hiện hành vi mờ ám của kẻ xấu để chính quyền trừng trị.

    Tất nhiên không ai biết đấy là thủ đoạn của Tầm. Anh ta cho bọn tay chân thân tín bí mật nhét bùi nhùi vào mái nhà, lửa bốc lên thì kêu làng chữa cháy rồi tung tin thất thiệt, hướng sự nghi ngờ vào con cái địa chủ cường hào làm tinh thần bọn này hoang mang, nhiều kẻ không có tội mà vẫn ra đầu thú, anh nọ khai ra anh kia, làng Cùa rối beng, lúc ấy Đội Cải cách mới ra đòn quyết định.

    Toàn bộ cánh cửa bức bàn được tháo xuống để những người ngoài sân cũng có thể theo dõi phiên toà. Cấn Viết Tham ngồi ghế chánh án. Bùi Quốc Tầm và Lê Thị Chĩnh Con trong vai hội thẩm nhân dân. Đội Lạc giữ chân thư ký. Sở dĩ đội Lạc phải lãnh trách nhiệm nghi chép vì cả hai vị cốt cán đều mù chữ. Xã đội Tầm thì mới thoát nạn i tờ, mỗi khi đọc văn bản phải ê a đánh vần từng chữ một, ngắc ngứ như hóc xương cá. Vành móng ngựa được làm bằng thân cây chuối hột xếp chồng lên nhau như cũi lợn, rồi đóng bốn cái cọc dài xuyên qua đặt trên sàn đình bên trái. Lê Bang bị trói hai tay, bốn dân quân công kênh ông ta lên quẳng vào trong cũi như quẳng con chó ghẻ. Viên chánh tổng vừa nhô đầu lên lập tức hàng trăm cái miệng ngoác ra đến tận mang tai gào lên :
    - Đả đảo chánh tổng Lê Bang !
    - Đả đảo địa chủ Lê Bang!
    - Chém cổ hắn đi!
    Ngoài sân, ngay trước dãy “chuồng giam”, Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Bà cả Huê và các địa chủ cường hào bị trói hai tay, chân mang xích, lưng buộc đoạn dây thừng nối với một chiếc cối đá thủng trôn xếp theo hình vòng cung để họ tận mắt chứng kiến lòng căm thù và sức mạnh quần chúng đấu tranh giai cấp.

    Người lên vạch tội Lê Bang đầu tiên là một tá điền. Bố mẹ anh ta là dân ngụ cư, được ông Chánh cưu mang. Năm Ngọ, cả nhà sắp chết đói, bà Chánh cho vay thóc mãi cuối năm sau mới trả hết. Đó là ơn chứ không phải oán. Chuyện ấy mà kể ra thì dân làng chửi cho. Nghĩ mãi tay cố nông này cũng tìm ra được một lý do. Cách đây mấy năm, một lần anh ta đi đánh giậm về, đang nghêu ngao hát trên đường thì bị con ngựa của ông Chánh chạy nước kiệu va phải ngã bổ chửng, mồm vập phải mô đất gãy mất chiếc răng cửa. Phải rồi, đấy chính là tội tày đình của tên địa chủ cường hào hành hung tá điền. Nói đi thôi. Anh ta thầm nghĩ. Mặt đội Lạc đang hằm hằm thế kia hẳn có chuyện rồi.
    - Chánh Bang! Mày có biết tao là ai không?
    - Thưa... Ông là ông Đưa con cụ Đong ở xóm cầu Đá.
    - Mày có biết mày có tội gì không?
    - Dạ, tội... phản dân hại nước.
    Đưa lắc đầu:
    - Là nói tội với nhà tao kia.
    Chánh Bang ngẩn người ra:
    - Thưa... Chả lẽ lại là chuyện chúng con cho ông bà vay hai thùng thóc cứu đói sau này đòi lại?
    - Không phải, chuyện ấy xem như chúng tôi mang ơn ông bà.
    Đội Lạc đứng phắt dậy trừng mắt:
    - Đồng chí Đưa không được gọi địa chủ là ông bà.
    Đưa lấm lét nhìn các vị quan toà miệng lẩm bẩm:
    - Người ta bằng tuổi bố mình mà lại xách mé nghe nó thế nào ấy.
    Bùi Quốc Tầm hắng giọng bảo tay cố nông:
    - Đề nghị anh Đưa nói to lên cho bà con cùng nghe.
    - à, nhớ ra rồi... Một lần tao đi đánh giậm về bị con ngựa của mày đá ngã gãy răng.
    - Dạ, quả có thế. – Chánh Bang khẽ gật đầu. – Hôm ấy tôi đã mời ông lang Phê đến khám vết thương và tạ gia đình hai đồng, chắc ông còn nhớ?
    - Nhớ chứ. - Chẳng hiểu sao anh chàng cốt cán nổi hứng nói liền một mạch làm đội Lạc tức điên lên- Bố tôi lúc ấy cám ơn ông Chánh lắm. Hai đồng bạc đong được khối thóc.
    - Đề nghị đồng chí Đưa đi xuống!- Đội Lạc quát – Toàn ăn nói mất lập trường.

    Theo đúng như kịch bản, Đưa đấu xong đến lượt ứng thị Sót, con dâu chánh tổng Lê Bang. Sót là con gái thứ ba vợ chồng ông cả Tuất, cô này thuộc loại có chút nhan sắc, nhà tuy nghèo nhưng vẫn có những đám khá giả nhòm ngó. Con trai Lê Bang là Lê Bản say cô tá điền hơn cả thuốc phiện, mới phải lòng nhau chưa đầy hai tháng đã đòi cưới. Ông Chánh thấy cô gái có vẻ thiếu đoan chính, hơn nữa gia thế lại chẳng môn đăng hộ đối nên lắc đầu bảo :
    - Đám này không được, cưới con bé ấy về là sau này bại hoại gia phong.
    Lê Bản thản nhiên thông báo một tin làm cả nhà sửng sốt :
    - Con đã ăn nằm với cô ấy rồi.
    - Lại còn thế nữa, mày thật không coi tao ra gì.
    - Con lấy vợ chứ có phải thầy lấy đâu mà lo.
    - Mày đừng có hỗn!

    Cuối cùng giời không chịu đất đất phải chịu giời, Lê Bang bấm bụng làm đám cưới cho ông quý tử. Về nhà chồng, Sót thích nghi với vai trò bà chủ rất nhanh. Cô ta dần dần thâu tóm quyền thu chi trong nhà đẩy mẹ chồng ra rìa làm bà này uất lên thành bệnh nằm liệt một chỗ. Hai năm sau, Lê Bản đi lính Bảo an, Sót ở nhà ngứa nghề tằng tịu với hết đám trương tuần. Điểm hẹn của họ lúc thì ở điếm Bài Vân, lúc trong miếu Si, có khi lại ở ngay nhà bố mẹ đẻ vì lúc ấy ông Cả đã quy tiên, bà Cả mắt loà chẳng nhìn thấy gì. Sau nhiều lần theo dõi, cuối cùng mấy cô em chồng cũng tóm được đôi gian phu dâm phụ khi chúng đang vui vẻ với nhau trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh giữa đồng Chó Đá. Chuyến ấy hai đứa bị một trận nhừ tử, Trương Cói phải chịu phạt hai tạ thóc với bảy đồng Đông Dương mới được tha. Lê Bang đau lắm nhưng sợ mang tiếng với hàng tổng nên chỉ mời bà cả Tuất sang nói chuyện rồi bắt mang con gái về. Vậy là Sót được tự do, tha hồ lăng loàn chẳng có ai quản thúc.

    Mới nhìn thấy đội Lạc Sót đã đầu mày cuối mắt. Đội Lạc đã có vợ, chị ta thuộc loại khá gái nhưng tính tình riết róng, lại có máu ghen ngược nên bị ông chồng bỏ lửng từ lâu, giờ anh ta nhìn thấy cô nàng óng ả, mắt lúng liếng đưa tình, bất giác tâm trạng xao xuyến. Từ đó hai người ngày nào cũng tìm cớ gặp nhau, không gặp không chịu được. Cái trò trăng gió nó thế, bỏ thì thương vương thì tội. Một khi vướng phải lưới tình trời cũng bé. Tuy nhiên nhờ những cuộc họp cốt cán họ được gặp nhau thường xuyên hơn. Có lần, đêm đã khuya, hội ý xong Lạc còn kéo Sót vào hậu cung. Từ khi hậu cung trở thành nơi giam bọn cường hào thì chỗ hò hẹn của đôi tình nhân cũng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.

    Hôm ấy đội Lạc triệu tập khai hội ở nhà bà Tuất. Anh ta bảo nhà tuy chật nhưng kín đáo, tha hồ bàn bạc không sợ lộ bí mật.

    Bà cả Tuất mắc chứng đau mắt đỏ hễ có ánh mặt trời là quáng gà chẳng nhìn thấy gì. Trên trán lúc nào cung phải che mảnh vải thâm. Cuộc họp có nhiều nội dung, đến gần trưa mới xong. Khi mọi người ra về Lạc còn nấn ná ở lại một lúc rồi kéo ngay Sót vào thùng trấu. Đã hơn một tuần không gặp nhau, hai anh chị còn đang say sưa tận hưởng phút lên tiên thì bất chợt Bùi Quốc Tầm xuất hiện. Anh ta làm như vô tình nhòm vào bếp bằng cặp mắt rất gian giảo. Khi thấy đội Lạc vẫn còn nằm trên bụng cô cốt cán, hắn tảng lờ như không biết, vòng ra sân vờ vịt hỏi bà cả Tuất :
    - Cô Sót đi đâu hả bà?
    Bà cụ không những mù dở mà còn nghễnh ngãng, nghe tay xã đội mãi mới thủng liền bảo :
    - Em nó vừa xuống bếp hay sao ấy, bác chờ một tí.
    - Nếu cô ấy về, nhờ bà nhắn hộ chiều nay xuống xóm Trại họp với chị em phụ nữ.
    Tầm cố tình nói to đánh tiếng cho đôi tình nhân biết rồi xách súng ra cổng. Hai người lúc đó mới hoàn hồn mặc quần áo bước ra khỏi thùng trấu. Đội Lạc nhìn trước nhìn sau không có ai liền lách qua bờ rào sau nhà. Sáng hôm sau đội Lạc sang Đậu Khê gặp Bùi Quốc Tầm. Lựa lúc chỉ có hai người, Lạc bảo:
    -Tôi đề nghị bổ sung đồng chí vào cấp uỷ và đảm nhận chức chủ tịch xã Đoàn Kết.
    Tầm như mở cờ trong bụng nhưng vẫn làm ra vẻ không hiểu:
    -Thế còn ông Nghinh? Chẳng lẽ Đội Cải cách...
    - Anh Nghinh sẽ làm bí thư thay ông Quang. Tôi vừa nhận được tin từ bà con bần cố nông, La Văn Quang năm 1949 có quan hệ với tổ chức Việt cách của Phan Trường Thái.

    Vậy là cơ hội trả thù cha con Lê Bang đã đến. Phen này thì chúng mày mảnh bát vỡ cũng không có mà ăn. Bằng động tác dứt khoát, Sót ấn mạnh hai ngón tay vào trán Lê Bang bắt ông ta ngẩng lên rồi dõng dạc hỏi:
    - Tên địa chủ phản động họ Lê, chắc mày không quên đứa con dâu này chứ?
    Ông chánh tổng trả lời như cái máy:
    - Thưa bà... không quên,
    - Mày có nhớ khi tao bị ép buộc lấy thằng Bản, bố con mày đã hành hạ tao như thế nào không?
    Lê Bang từ tốn trả lời :
    - Thề trên có trời, dưới có đất, nhà họ Lê chưa bao giờ ngược đãi con dâu. Việc chúng tôi trả bà về bên mẹ đẻ hoàn toàn do bà gây ra.
    -Địa chủ Lê Bang câm ngay! - Sót nấc lên, giọng nghẹn ngào - Đến nước này mà mồm mày còn xoen xoét chối tội.
    - Thưa bà, tôi chỉ nói đúng sự thật.

    Sót túm tóc ông Chánh giật mạnh một cái rồi quay xuống phía bà con oà lên khóc :
    - Bà con ơi! Tôi thù bố con nhà nó lắm. Chồng tôi đi lính, ở nhà đêm nào lão Chánh cũng vào gạ gẫm đòi ngủ với tôi. Tôi không cho nó liền trói vào giường, lột quần áo ra hành hạ suốt đêm. Có những lúc tủi nhục quá tôi đã định đâm đầu xuống giếng tự tử nhưng lại nghĩ đến bà mẹ mù loà đành phải nuốt hận mà sống cho qua ngày. ít lâu sau, thằng em chồng là Lê Biên làm thư kí sở Dây thép về nhà lại cưỡng hiếp tôi. Nó cầm lăm lăm con dao nhọn trong tay đẩy cửa vào buồng thở ra toàn mùi rượu. Tôi sợ quá định kêu thì nó đấm vào mặt tôi đến giờ vẫn còn sẹo. Đêm hôm ấy bố con nó nhốt tôi vào căn buồng dãy nhà ngang suốt hai ngày không cho ăn uống gì.

    Bên dưới, đám thanh niên bần cố nông quá khích nghe Sót kể tội phẫn nộ quá, đồng thanh hô :
    - Đả đảo chánh tổng Lê Bang!
    - Đả đảo tên Việt gian bán nước Lê Bang!
    Các bà các cô đều sụt sịt, trước còn khẽ sau to dần, cuối cùng cả mấy gian đình đều biến thành một cuộc khóc tập thể rất là thống thiết. Chừng năm bảy phút sau, khi những tiếng nức nở đã vơi đi, Sót kết thúc bản cáo trạng bằng những lời vô cùng đanh thép:
    - Tôi đề nghị Toà án nhân dân xử tử hình chánh tổng Lê Bang.
    - Tử hình! Tử hình!
    - Bắn chết hết lũ địa chủ đi bà con ơi!

    Bản án được thi hành ngay buổi sáng hôm sau tại một khu đất hoang mãi cánh đồng Xưa. Từ chiều hôm trước, người ta dựng pháp trường bằng hai cây cột lớn, sau đó buộc một cây tre vắt ngang giống như bộ khung căng màn ảnh chiếu bóng. Lê Bang bị bịt mắt bằng vải đen, cổ tay cổ chân đều buộc dây thừng dài. Bốn dân quân, hai người một bên kéo ông ta lên cao cho tay chân giang ra như là con ếch trong phòng thí nghiệm sinh vật học để thử phản xạ khi cho dòng điện chạy qua. Trên kỳ đài, chánh án Cấn Văn Tham ngồi cùng với chủ tịch Bùi Quốc Tầm, đội Yên và cốt cán Lê Thị Chĩnh. Bảy dân quân vác những khẩu súng trường cà khổ đứng cách xa chừng mười hai, mười ba mét hồi hộp chờ lệnh. Xã đội trưởng mới được đề bạt Lương Văn Mực chỉ huy hành quyết. Người đi xem rất đông, không phải chỉ làng Cùa mà gần như cả tổng Kim Đôi mang cơm nắm muối vừng đến chầu chực từ lúc còn tối đất để được xem xử bắn lão chánh Bang nổi tiếng hách dịnh mà nhiều người mới chỉ biết tên chứ chưa từng giáp mặt. ứng Thị Sót, mặt tươi rói ngồi bên đội Lạc. Anh ta không trực tiếp tham gia vào việc thi hành bản án nhưng lại là nhân vật quyết định số phận của Lê Bang.

    Mặt trời lên tầm nửa con sào, Bùi Quốc Tầm vẫy tay ra hiệu cho Cấn Viết Tham .
    Vị chánh án mù chữ hơi tái mặt đứng lên đọc bản án đã thuộc lòng từ hôm trước:
    - Chánh tổng Lê Bang phản dân hại nước tội ác tày trời, tại phiên xử công khai ngày hai mươi mốt tháng mười, Toà án nhân dân đã tuyên án tử hình, yêu cầu các đồng chí dân quân thi hành nhiệm vụ!
    Tiếng đùng đoàng rất không đều. Loạt đạn đầu chỉ có hai viên trúng người ông Chánh còn hầu hết đều đuổi vịt giời chẳng biết do các xạ thủ bắn kém hay họ run tay khi buộc phải chĩa súng vào đồng loại. Máu từ người nạn nhân chảy dọc hai ống quần từ độ cao hai mét sáu nhểu xuống thành giọt đỏ tươi, khi thấm vào lớp đất cát pha sét phía dưới lập tức ngả mầu nâu sẫm như nước quết trầu. Bụng Lê Bang có tiếng réo lục bục như sấm rền. Một luồng uế khí phì ra phía hậu môn khuếch tán khắp bốn phương tám hướng làm tất cả nhưng người trên kỳ đài đều phải đưa tay bịt mũi. Bùi Quốc Tầm lầm rầm chửi bọn dân quân ăn hại rồi nhảy xuống giằng khẩu súng từ tay xã đội trưởng Lương Văn Mực quát to:
    - Tất cả lên đạn!

    Loạt súng thứ hai có khá hơn. Phát đạn của Tầm trúng ngực viên Chánh tổng phá ra phía sau bằng miệng chén tống làm rách toang chiếc áo cánh nâu. Một mảnh thịt lầy nhầy dính máu bay vèo xuống bãi cỏ chẳng khác gì thứ thịt chuột đồng bị mèo gặm dở. Đầu chánh Bang ngoẹo sang một bên vai. Ông ta chết trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh nên khi dải băng được cởi ra, cặp mắt vẫn mở trừng trừng, một dân quân thương tình vuốt mãi vẫn không khép lại được.

    Huyệt đã đào sẵn. Theo lệnh của xã đội trưởng, người ta kéo xác Lê Bang quăng xuống rồi lấp đất một cách vội vàng sau đó đặt lên nấm mộ một vầng cỏ.

    5.
    Bà cả Huê được ra khỏi buồng giam bị dân quân áp giải về nhà trình báo tài sản trước khi đem ra xét xử. Những người thực hiện cuộc khảo của này là xã đội Mực, Lê thị Chĩnh Con và ứng thị Sót. Bà Chánh mặc bộ váy áo mốc thếch chẳng khác gì con mẹ ăn mày, quỳ ở chân đống rơm có hai dân quân kèm hai bên. Cố nông Sót nâng cằm bà ta lên bảo :
    - Thị Huê nghe đây! Vàng dấu ở đâu phải thành khẩn khai ra, toà sẽ khoan hồng.
    Vợ chánh Đàm lắc đầu:
    - Thưa bà cốt cán, nhà này có bao nhiêu tài sản Đội Cải cách đã tịch thu hết, chúng tôi bây giờ cái bát mẻ cũng không có mà ăn lấy đâu ra vàng.
    - Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay ! - Sót túm tóc bà cả Huê giật mạnh mấy cái rồi lèm bèm chửi hệt như hàng tôm hàng cá - Quân mặt sứa gan lim , đồ l... sành ghe đá hút máu mủ của bần cố nông giàu nứt đố đổ vách mà bảo không có vàng, nói chó nó cũng không nghe được .

    Xã đội Mực hùng hổ chạy lại giáng liền hai bạt tai làm người đàn bà ngót sáu chục tuổi loạng choạng, đổ vật vào đống rơm . Hắn kéo bà ta dậy bắt quỳ như cũ, giọng rít lên :
    - Biết điều thì khai ra vàng ở đâu , nếu không đừng trách.
    - Đã bảo là không có vàng . Các ông các bà đánh chết cũng chẳng đào đâu ra.
    - A! Con khọm này lỳ gớm nhỉ. Cô Sót đâu, lấy chày giò ra đây.
    - Hình như mấy chiếc chày đã được chuẩn bị từ trước. Lê Thị Chĩnh và ứng Thị Sót, mỗi cô một bên, tốc váy bà Chánh lên ngang đùi thi nhau dần vào hai đầu gối. Bà ta đau quá kêu ồ ồ như bò rống, được một lúc thì đái ra váy khai nồng nặc làm hai cốt cán phải tạm thời bỏ cuộc.

    Chừng nửa giờ, sau khi đã thì thầm hội ý với Lương Văn Mực và Lê Thị Chĩnh, ứng thị Sót thay đổi chiến thuật, đưa bà cả Huê vào nhà, rót cho chén nước rồi nhẹ nhàng trách :
    - Bà cứ ngoan cố chỉ thiệt vào thân. Chúng tôi thay mặt Đội Cải cách kiểm kê tài sản, yêu cầu gia đình thành khẩn khai báo, nhất là những đồ vàng bạc, nhà nước chỉ trưng thu một phần còn đâu sẽ trả lại.
    Bà cả Huê vẫn im lặng. Sót lại tỉ tê hỏi:
    - Thế cái xuyến vàng nạm ngọc bích trước đây cô Huệ vẫn đeo bây giờ để đâu?
    - Nó đã mang theo chồng sang Pháp rồi.
    - Còn cái vòng cẩm thạch có khắc chữ “Phúc”?
    - Tôi bán lấy tiền tậu trâu hồi đầu năm Tỵ.
    - Bán cho ai?
    - Trên cửa hàng nữ trang Đông Thị ấy, bà lên mà hỏi.
    - Sợi dây chuyền vàng bảy đồng cân có mặt đá hình quả tim chắc cũng bán rồi phải không? - Sót dằn giọng.
    - Cái dây ấy hồi qua đò Vạn tôi lỡ đánh rơi xuống sông mất.
    - Bà không lừa nhà chức trách được đâu.
    - Nếu không tin Đội Cải cách cứ cho người đào bới khắp nhà lên mà tìm.
    Xã đội Mực giật nảy người chỉ tay vào mụ địa chủ giọng rít lên:
    - Trói con mẹ thần đanh đỏ mỏ này đem vào chuồng trâu vụt chết cha nó đi.

    Đến lúc này thì bà Chánh không thể chịu được nữa. Thôi thì lành làm gáo vỡ làm muôi, tao sẽ liều với chúng mày một phen rồi muốn ra sao thì ra. Nghĩ vậy, bà đứng dậy tụt váy ra vứt vào mặt tay Mực :
    - Bà cho mày “vàng” đấy, mang về bán đi mà ăn dần.
    Tấm váy nhuộm thâm lâu ngày không giặt bốc mùi khăn khẳn trùm lên đầu ông xã đội. Anh ta không dự liệu được tình huống này nên hoàn toàn bị động, lúng túng mãi mới thoát ra khỏi tình huống bi hài, miệng vừa khạc nhổ vừa chửi lèm bèm :
    - Đ. mẹ con mụ già chết tiệt.
    Hai nữ cốt cán nhìn bà Chánh cởi truồng tô hô vừa tức vừa buồn cuời, mắng:
    - Rõ là không biết dơ!
    - Có mà dơ cái l... bà đây này.-Bà ta vỗ bành bạch vào bẹn rồi hất hàm bảo đám cốt cán:
    - L.. tao có bao nhiêu sợi lông thì nhà tao có chừng lạng vàng. Chúng mày có giỏi vào đây mà đếm.
    Xã đội Mực vồ lấy súng giương lê, mặt hằm hằm chĩa vào người đàn bà cởi truồng. Vào đúng lúc ấy, đội Lạc không xuất hiện kịp thời thì chắc là mũi lê sáng loáng của ông xã đội đã xuyên thấu âm hộ bà Chánh. Anh ta liếc qua đã hiểu ngay sự việc liền bảo đám tay chân:
    - Các đồng chí về đình ngay để Đội Cải cách phổ biến nhiệm vụ mới.
    ứng Thị Sót đưa mắt cho nhân tình:
    - Nhưng thưa.. anh, con mụ này dám có hành động lăng nhục cốt cán.
    - Tôi biết. - Lạc gật đầu chỉ tay vào chiếc váy bảo bà Chánh - Bà mặc vào rồi đi theo chúng tôi.
    Cuộc khảo của xem như thất bại. Bà cả Huê lại bị giam vào căn buồng cũ. Người mệt rã rời do bị quỳ quá lâu trong một tư thế, bà ta ngồi lên tấm phản mộc, lưng đựa vào tường thiu thiu ngủ, nhưng vừa chợp mắt được một lúc, quang cảnh náo loạn của cuộc chia quả thực mấy hôm trước lại hiện ra.

    Ngôi biệt thự hai tầng với kiểu kiến trúc lai căng cùng dãy nhà ngang do Khúc Đàm vẽ kiểu được gỡ niêm phong. Bùi Quốc Tầm, trưởng ban điều hành trưng thu tài sản địa chủ cường hào xã Đoàn Kết ra lệnh cho dân quân dẫn bà cả Huê trói vào cột chuồng trâu. Đội Cải cách muốn chơi đòn cân não để khổ chủ tận mắt nhìn thấy bần cố nông thực hiện lẽ công bằng, vì sự công bằng vốn là ước vọng ngàn đời của người lao động chân chính. Tất cả bàn thờ, giừơng phản, sập gụ, tủ chè, hòm rương, thóc lúa dược khuân ra thành mấy đống giữa sân. Các bần cố nông đứng vòng trong vòng ngoài, phần lớn mặt nhăn nhúm , vàng vọt vì đói ăn, mắt hau háu nhìn những thứ đồ sơn son thiếp vàng, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Bà Cò Toét mặc chiếc váy đụp hàng trăm mảnh lấy bàn tay mân mê chiếc sập gụ đen bóng mát như lụa nõn chép miệng:
    - Tôi mà được nằm lên cái sập này một đêm chết cũng sướng.
    Lão Khính, cựu mõ làng , già lụ khụ chống gậy lọc cọc vào sân bảo đội Lạc:
    - Cả đời tôi chỉ mong được cái ngai thờ để rước các cụ về.

    Cánh tá điền xem ra thực tế hơn. Bọn này đều vào ở độ tuổi trên dưới ba mươi, chẳng để ý gì đến sập gụ tủ chè mà đứng túm tụm với nhau bàn tán về ba bốn con trâu đang buộc quanh đống rơm và đám cày bừa, mai cuốc cùng hơn chục chiếc gầu tát nước vứt lổng chổng trước cửa nhà bếp. Ba Khích, một tay nổi tiếng làng Cùa về tài vực nghé vuốt ve con trâu đực sừng cánh ná, lông đen, da bóng như sừng. Hắn hết đứng lại ngồi không dám rời đi chỗ khác, tay khư khư giữ sợi dây thừng vì sợ có người phỗng tay trên. Gã trương Chạm mắt trắng dã như mắt lợn luộc, tay chân lòng khòng, vai so làm cái cổ như cò như kéo dài ra, ngay từ sáng sớm đã muốn dành con trâu mộng về phần mình, thấy Ba Khích giữ rịt sợi dây thừng hắn nóng mắt bảo:
    - Bỏ dây thừng ra! Con này tao nhận từ hôm qua rồi.
    - Đừng hòng. Anh Lạc đã hứa cho tao.
    Làm gì có chuyện ấy. Phân chia “quả thực” phải công bằng chứ.
    - Này, hôm trước ở nhà chánh Bang mày đã nhận con nghé tơ sao hôm nay lại còn đòi trâu?
    - Con ấy khi cày nó cứ phá ách tao đổi cho nhà Bồng rồi.
    - Thế thì mặc xác mày.
    Trương Chạm vốn hay gây gổ, trái ý là xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thấy Ba Khích có ý giữ bằng được con trâu liền quai cho hắn một quả. Cú đấm không đau lắm nhưng vì tức thằng đầu bò nên Ba Khích kêu toáng lên rồi nhảy bổ đấm đá đối phương túi bụi. Hoá ra trong sân không chỉ có cặp trương Chạm, Ba Khích đấm nhau. Trước đống của giời ơi không phải mồ hôi nước mắt của mình làm ra, lòng tham nổi lên, ai cũng muốn chiếm làm của riêng, thành thử Đội chưa kịp lên danh sách phân phát họ đã xông vào tranh cướp. Sân nhà chánh Đàm bỗng chốc trở thành một cuộc ẩu đả ác liệt. Chiếc bàn thờ sơn son được chạm trổ rất tinh xảo bị hàng chục bàn tay lôi đi kéo lại một lúc thì đổ kềnh, ba chân gãy rời, mặt gỗ long ra, sơn tróc loang lổ. Mấy bà cố nông nạ dòng lao vào nhau quyết đấu để giành cho được bộ cánh tủ chè. Lúc này tủ đã bị vỡ toác làm bốn mảnh nhưng hai cánh gỗ gụ vẫn còn nguyên. Bà Đũn yếu hơn nhưng biết dùng mưu bằng cách bất ngờ cắn vào tay một bà mặt choắt răng vẩu làm bà này kêu thét lên và vác chiến lợi phẩm chạy ra cổng. Trong lúc nhốn nháo, lão Tý Thọt gọi hai thằng con lẻn vào khênh sập gụ. Thị Sót đã nhắm bộ này từ lâu liền ngáng chân làm lão chăn vịt vấp ngã. Cánh sập rơi xuống nền gạch Bát Tràng làm dập bàn chân anh con cả. Hắn đau quá, ngồi xệp xuống ôm chân rên rỉ. Cùng lúc có bốn năm bàn tay đặt vào bộ sập. Đó là cánh ngụ cư xóm Trại Cá. Bọn này từ trước vẫn bị chèn ép giờ có dịp “bình quyền” chẳng ngại ngần gì kéo nhau vào “hôi” của. Sót gan lì, ngồi chồm chỗm trên sập. Bọn ngụ cư chẳng nể nang gì bà cốt cán trong Ban Cải cách, bốn gã bốn góc khênh cô ta đi như một đám rước. ứng thị Sót thấy mình ở thế bất lợi liền nhảy bổ vào gã Tám Cá túm tóc tát liền mấy cái. Bọn này đều vướng tay, nén chịu đau để lôi cho được chiếc sập gụ ra cổng. Nhưng không may một gã hẫng chân, mất đà, sập lại rơi xuống. Cuộc giằng co đã đến lúc vô cùng quyết liệt. Chị em xóm Chùa từ xưa đến nayvẫn ghét Thị Sót là gái lăng loàn, mồm loa mép giải, liền nháy nhau xúm lại giúp cánh ngụ cư bằng cách đè cô ta xuống, kéo tuột chiếc quần láng đang mặc quăng xuống ao làm đồng chí uỷ viên Cải cách mất mặt với bàn dân thiên hạ phải chạy vội vào bếp. Phía trước, một đám chừng hơn chục người trước đây vẫn lĩnh canh ruộng bà cả Huê, đang xúm quanh mấy cũi bát đĩa, vài chiếc nồi đồng và một số lọ hũ bằng gốm sứ hoặc da lươn. Những thứ này giá trị tuy có thấp hơn nhưng sự tranh chấp cũng không kém phần quyết liệt. Đã có mấy bà đập những chiếc nậm rượu men ngọc rồi lấy mảnh vỡ cào vào mặt nhau, máu chảy nhoe nhoét. Bà Tư Bổng, mắt lông quặm, trông gà hoá quốc, thấy hai chiếc âu gốm miệng loe tráng men xanh liền xách về nhà, mấy hôm sau mới hay, đó chính là nhưng cái bô đi tiểu vẫn để duới gầm giường hồi Khúc Đàm còn sống.

    Cuộc tranh cướp quả thực đã lên đến đỉnh điểm có nguy cơ đổ máu thì Lê thị Chĩnh lẻn về đình Cả báo cho Bùi Quốc Tầm . Anh ta lập tức cử một đám dân quân khoác súng về nhà chánh Đàm. Tiếng quát của Tầm bị chìm đi trong mớ âm thanh hỗn tạp, nhưng khi ba phát súng trường bắn cấp tập thì tất cả trở lại yên ắng như trước đây chưa từng có chuyện gì xảy ra. Chủ tịch xã nhảy lên chiếc án thư chưa kịp bị đập gãy, dõng dạc ra lệnh:
    -Yêu cầu tất cả bà con để đồ đạc xuống!
    Bà con nông dân từ xưa đến nay vốn có thái độ kính nể đối với các loại súng đạn. Tiếng nổ lập tức có hiệu quả ngay. Mọi thứ đồ đạc phải vất vả lắm họ mới giành được trong trận hỗn chiến tạm thời rời khỏi tay. Người nọ nhìn người kia thở dài đầy vẻ thất vọng. Hơn chục dân quân dồn đám ngụ cư cùng dân xóm Chùa vào một góc sân rồi thu gom tài sản xếp thành một đống. Sau nửa giờ bàn bạc, Bùi Quốc Tầm gọi Bùi Sĩ Vĩnh đọc danh sách phân chia “quả thực”. Vĩnh là cháu họ xa Bùi Quốc Tầm đang học tiểu học ở Đông Thị thì bỏ đi theo một người bà con làm ăn ở mãi Tiên Yên, hoà bình được nửa tháng mới về. Được giao nhiệm vụ Vĩnh phấn khởi lắm. Anh ta đứng hẳn lên tầng hai, thò đầu ra ban công dõng dạc đọc:
    - Bà cố nông ứng Thị Sót một cái sập gụ.
    - Chị Bùi Thị Dong một chiếc nồi ba mươi.
    Nhà Dong vắn váy quai cồng, ì ạch bê chiếc nồi đồng, giọng như mếu:
    - Chúng em đội ơn ông Cải cách.
    - Ông trương Chạm một con trâu và bộ răng bừa.
    Trương Chạm nhảy cẫng lên:
    - Đã bảo mà, thế là từ nay ta có trâu rồi.
    - Ông Tí Thọt một chum sành, chục bát chiết yêu và ổ gà mái đang ấp.
    - Sao lại chia cho tôi mấy thứ lặt vặt thế này?
    - Bà đĩ Nhụt hai gầu tát nước và một cái nạng gẩy rơm.
    -Đếch thèm lấy, để ông chủ tịch Tầm mang về cho đủ bộ.
    Mọi người lần lượt nhận đồ của mình, đến xế chiều thì nhà chánh Đàm chỉ còn cái xác và sáng hôm sau nó được chia thành bốn phần cho bốn ông bà nông dân.


    6. Lê Văn Vận không tin là mình có tội với Cách mạng vì chuyện liên quan đến Quốc dân đảng chỉ là sự bịa đặt của một số người nhẹ dạ cả tin bị những phần tử cơ hội kích động. Anh ta hy vọng sớm muộn sẽ có người can thiệp giải oan cho mình. Nhưng ông chủ tịch đã lầm . Những ngày này ở cơ quan huyện Nam Thành, các cán bộ chủ chốt còn lại lo thon thót, chỉ sợ một đêm nào đó dân quân ập đến, ấn súng vào lưng dẫn đi mà không biết mình phạm tội gì. Lê văn Vận bị bắt chưa đầy một tuần thì ông bí thư cũng chung số phận. Tất cả những cuộc bắt bớ đều diễn ra ban đêm. Bà con hàng phố thấy những bóng đen khoác súng rảo bước trên đường, chẳng ai bảo ai đều đóng chặt cửa. Không khí xóm làng luôn trong tình trạng căng thẳng. Phương châm của những kẻ thức thời là im lặng vì lúc này ngay cả bố con, anh em trong nhà cũng nghi kỵ nhau, đề phòng nhau, sảy chân còn đỡ được chứ sảy miệng là rước vạ vào thân.
    Chủ trương của Đội Cải cách là khuyến khích bần cố nông tố cáo các đối tượng của Cách mạng càng nhiều càng tốt. Ông hương Tràng có hai mẫu ruộng đồng Quan và một con trâu, bị tay Mực tố lên bốn mẫu để quy thành phần phú nông. Ông này tính nóng như lửa chỉ mặt tay xã đội chửi là đồ ăn cháo đá bát rồi đòi mang thước ra đồng khảo lại diện tích. Ngay tối hôm ấy ông ta bị hai dân quân tống vào buồng giam thay cho chánh tổng Lê Bang đã bị hành quyết. Buồng giam này giáp với buồng Lê Văn Vận. Ông Hương đánh tiếng hỏi:
    - Cả anh cũng bị nhốt vào đây thì dân Ba Tổng còn biết tin ai?

    Chang cựu ngư phủ lúc này xem ra đã mất dần nhuệ khí nhưng đối với người trung nông này vẫn phải lên dây cót tinh thần cho ông ta :
    - Phải tuyệt đối tin tưởng vào Đảng. Đây chỉ là sai lầm nhất thời thôi.
    Hương Tràng cười gằn:
    - Làng Cùa rặt những người nếu không phải tay sai thực dân đế quốc thì cũng bị Quốc dân đảng giật dây, anh bảo chúng tôi tin vào đảng nào?

    Thực ra trong lòng Vận lúc này không nghĩ đến thứ chủ thuyết xem ra khá mơ hồ mà từ trước đến nay người ta cứ bắt mình phải miễn cưỡng tin theo. Anh ta nghĩ đến cô vợ khoèo tay, nghĩ đến hai thằng con trai, đến Khúc Luận, Khúc Thị Huệ và nhất là Mạc Thị Lánh, người đàn bà khốn khổ đã bỏ xác trên rừng gần hai chục năm nay. Đó chính là quá khứ đè nặng trên vai, là vật cản vô hình ám ảnh mãi trong tâm trí không thể bỗng chốc thoát ra được. Sau chuyến xuống đồng bằng bị mật thám bắt đưa về phòng Nhì, Vận phải lĩnh án bảy năm. Tưởng đã bỏ xác trên Sơn La, may nhờ anh em tổ chức cho vượt ngục, ra ngoài mới bắt mối với cơ sơ ở vùng Cao Tân tiếp tục hoạt động. Thời kỳ đầu năm bốn nhăm Vận đã là huyện uỷ viên phụ trách công tác an ninh, sau khi cướp chính quyền được cử làm chủ tịch huyện Nam Thành. Cuộc đời hoạt động của Vận cũng chẳng mấy suôn sẻ, nhất là cái quá khứ không bình thường từ hồi làm nghề sơn tràng. Có lần đã bị bắt giam vì tự ý bắn chết một kẻ phản bội, nhưng cấp trên đánh giá anh ta là người trung thực, ghét thói xu nịnh và làm được việc. Vậy mà đùng một cái ông chủ tịch huyện bị chính các đồng chí của mình tống ngục thế này đây.

    Sáng ngày thứ ba, nghĩa là chỉ ba mươi nhăm giờ sau sau khi bị giải về làng Cùa, Đội Cải cách đã đưa Lê Văn Vận ra xử. Đây là phiên toà đặc biệt có cả phái viên của Đoàn Cải cách huyện Nam Thành về chỉ đạo. Đội Lạc và Bùi Quốc Tầm Đã chuẩn bị sẵn một số nhân chứng để đối chất nếu bị cáo không thừa nhận tội trạng.

    Vành móng ngựa lần này không phải là những cây chuối chồng lên nhau như hôm xử Lê Bang mà được ông Bảy Sụ đóng bằng gỗ lim hình bán nguyệt có những gióng to cỡ cổ tay bào nhẵn trông rất nổi. Ngồi ghế chánh án hôm nay là ứng Thị Sót. Cô ta mặc chiếc áo cánh màu be bên ngoài khoác áo bông Tàu, cổ quấn khăn len đỏ, tóc chải xù lên trông chẳng khác gì hình nộm . Bùi Quốc Tầm , Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh và đội Lạc chia nhau ngồi hai hàng ghế sau để hỗ trợ bà cốt cán trong lúc thẩm vấn. Vị đại diện đoàn Cải cách ngồi ghế trên cùng. Ông này trạc bốn nhăm, trán hói một mắt có nhài quạt thỉnh thoảng lại nháy một cái.

    Sân đình đông nghịt. Bọn trẻ con trèo cả lên cây đa nhòm vào. Mấy chục dân quân, kẻ xách súng, người mang mã tấu canh gác vòng ngoài đề phòng bọn phản động lợi dụng chỗ đông người để ném lựu đạn khủng bố như ở phiên toà xử lý Biên bên Cao Xá vừa rồi. Lê Văn Vận bị trói hai tay . Xã đội Mực cầm dây thừng đi phía sau đẩy ông chủ tịch vào vành móng ngựa. Vận bị tê chân đang sửa tư thế đứng thì bất ngờ dưới sân đình có tiếng hô lớn:
    - Đả đảo tên Quốc dân đảng phản động Lê Văn Vận!
    Lập tức hàng trăm cái miệng đồng thanh hoà theo:
    - Đả đảo! Đả đảo!
    - Đả đảo Lê văn Vận!
    - Đả đảo! Đả đảo!

    Chánh án ứng Thị Sót vốn là gái lộn chồng, đã từng mặt dạn mày dày với phường trăng gió, không biết liêm sỉ là gì sau sự kiện bị lột quần hôm chia “quả thực” đứng lên vẫy tay cho bà con trật tự rồi dõng dạc tuyên bố:
    - Hôm nay Đội Cải cách và bà con làng Cùa mở phiên toà xét xử tên Quốc dân đảng đội lốt Việt Minh, chui vào hàng ngũ Cách mạng chống phá chính quyền nhân dân. Tên phản động đó chính là Lê Văn Vận, nguyên chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Toà yêu cầu bần cố nông lên đấu tranh vạch rõ bộ mặt phản dân hại nước của hắn.

    Sót vừa dứt lời đã có một người đàn ông tóc muối tiêu, mặt nhẵn bóng, một bên tai rách không biết do ngã hay bị chó cắn đứng phắt dậy :
    - Tôi xin đấu tranh.

    Anh ta ngồi cách vành móng ngựa không xa nên chỉ ba bước đã tới trước mặt Lê Văn Vận, hấp háy cặp mắt lác hỏi ông chủ tịch:
    - Vận mày còn nhớ tao không?
    Lê Văn Vận lắc đầu:
    - Không nhớ.
    Chánh án nhắc:
    - Bị cáo không được xách mé, phải nói “thưa ông”.
    Vận đánh mắt về phía ứng Thị Sót cười nhạt:
    - Tôi chưa bao giờ gặp ngưòi đàn ông này và cũng không có lý do gì gọi hắn bằng ông.
    Sót đứng dậy chỉ tay vào mặt Vận:
    - Tất cả những kẻ phản cách mạng chống lại Cải cách ruộng đất đều phải gọi bà con bần cố nông bằng “ông”, “bà”, nghe rõ chưa?
    - Rất tiếc tôi không phải là kẻ phản Cách mạng.
    - Để rồi xem, chẳng phải riêng mình tao mà đã có rất nhiều bà con được Đội... - Nói đến đây Sót vội bỏ lửng khi thoáng thấy ánh mắt giận dữ của đội Lạc.
    Xuýt nữa thì lộ tẩy. Để gỡ thế bí, anh ta đứng dậy lên giọng cấp trên nhắc nhở:
    - Đề nghị đồng chí chánh án bình tĩnh điều khiển phiên toà.
    ứng Thị Sót đã kịp thời lấy lại tư thế chủ toạ, bảo người đàn ông rách tai:
    - Nói rõ tội trạng của hắn đi.

    Tôi là Trần văn Sệ, nhân viên tiếp phẩm trong cơ quan huyện, tháng bảy năm năm hai, cơ quan tản cư sang Ngân Bình, chính mắt tôi đã nhìn thấy Lê Văn Vận cùng với Hoàng Thịnh và Thái Khắc Toả rủ nhau về Đông Thành khai hội Quốc dân đảng. Cơ sở Quốc dân đảng ở Đông Thành do lão huyện Hựu cầm đầu.
    - Này anh kia, - Vận nhếch môi cười nhạt - Tôi ở cơ quan huyện Nam Thành nhiều năm chưa hề thấy một người vừa rách tai vừa chột mắt như anh, đừng có vu oan giá hoạ cho người ta.

    Gã cố nông lấm lét nhìn đội Lạc, được ông chủ khuyến khích, anh ta bỗng nhiên cất giọng khê nồng như kép tuồng ra bộ :
    - Chính mắt tao đã nhìn thấy mày ngồi uống rượu với huyện Hựu ở nhà hàng Ngũ Lâm...

    Lê văn Vận bật cười bảo:
    - Tôi không chấp anh nhưng hãy về bảo với những kẻ đã xui anh rằng, chúng rất ngu vì nói dối cũng không biết đường. Năm năm hai chỉ có ban Tài chính và Nông hội tản cư sang Ngân Bình còn cơ quan Huyện uỷ và Uỷ ban hành chính kháng chiến vẫn ở lại Đông Thị bám địa bàn tổ chức đánh giặc. Đồng chí phó chủ tịch, đồng chí trưởng công an và cả ông chủ tịch Liên Việt đều biết rất rõ việc này, đề nghị Toà cho được mời đến làm chứng.

    Tay rách tai bắt đầu lúng túng. Hắn gần như quên sạch những gì người ta dặn từ hôm trước bởi trình độ i tờ mới học được dăm bữa, và vốn từ vựng quá ít ỏi không đủ sắp xếp chúng lại với nhau theo trật tự ngữ pháp để tiếp tục vở diễn.

    Trên ghế chánh án, ứng Thị Sót lừ mắt giục:
    - Nói tiếp đi!
    Trần văn Sệ ngập ngừng mãi rồi bỗng nhiên nói một câu ngoài kịch bản làm cả vị phái viên cấp trên, cả đội Lạc và ứng Thị Sót đều choáng váng:
    - Tôi... những lời ông Lạc dặn hôm qua... tôi... quên sạch rồi.
    Vận lắc đầu tỏ vẻ thương hại:
    - Thật khổ cho nhà anh, có tuổi rồi mà còn nghe ngưòi ta xui dại, chưa biết chừng nay mai chính anh cũng bị khép vào tội Quốc dân đảng cũng nên.
    - Về chỗ! – Bùi Quốc Tầm đứng sau buộc phải đứng dậy quát khẽ - Đã dặn thế mà
    cũng không nói nên hồn.
    Chánh án nhìn xuống giọt đình gọi:
    - Toà mời chị Khúc Thị Hài.

    Vận thoáng giật mình :" Bọn này nham hiểm thật. Chúng định dùng sự việc trong quá khứ để xử tử mình đây. Thôi được, đến đâu thì đến". Khúc Thị Hài mặc áo bông chần vải xanh, váy sồi, mặt đã có những vết nhăn khá rõ trông già hơn cái tuổi ba tám, bước đi loạng choạng như người say. Bà vợ ông chủ tịch khẽ ngẩng đầu nhìn lướt qua các vị quan toà rồi lại gần vành móng ngựa hỏi:
    - Chắc anh Vận không quên người đàn bà khoèo tay này chứ?
    - Không quên - Vận gật đầu.
    - Bao nhiêu năm bỏ mẹ con tôi anh đi những đâu?
    - Đi nhiều nơi. - Ông chủ tịch trả lời nhấm nhẳng.
    Chánh án nhắc:
    - Không được gọi bị cáo bằng anh.
    Khúc Thị Hài im lặng một thoáng rồi từ từ ngẩng lên bảo ứng Thị Sót:
    - Dù sao người ta cũng là chồng tôi, tôi không thể...
    - Nhà chị phải chấp hành quy chế của ủy ban Cải cách. - Sót răn đe - Số phận bà hai
    Thoả và hai đứa con trai hoàn toàn phụ thuộc vào việc chị vạch tội Lê Văn Vận.
    - Dạ, Tôi biết...
    Khúc Thị Hài cắn môi. Qúa khứ tủi nhục bất giác hiện ra. Mẹ con chị ta bị bà cả Huê đuổi ra khỏi nhà sau cái chết của chánh Đàm . Lê Văn Vận dắt bà Ba đi biệt xứ, nếu không được ông lái Lự cưu mang thì mấy mẹ con bà cháu đã chết mục xương từ lâu rồi. Tất cả những nỗi trầm luân ấy đều do một tay anh ta gây ra.
    - Thưa quý toà, tôi tuy là con ông chánh Đàm nhưng chẳng khác gì người ở. Chuyện nhân duyên cũng do ông Chánh và bà Cả sắp đặt. Nghĩ rằng anh Vận là người thật thà, khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn, ai ngờ có với nhau hai mặt con tôi mới biết anh ta là kẻ bạc tình bạc nghĩa, chẳng những thông gian với bà ba Lánh mà còn giết chết bố vợ rồi đem nhau đi trốn. Từ đó Vận bỏ mặc vợ con sống vất vưởng trong sự hắt hủi của gia đình, họ hàng. Hành vi của Lê Văn Vận hoàn toàn không xứng đáng với tư cách của một cán bộ Việt Minh, một chủ tịch huyện. Tôi đề nghị toà xử phạt nghiêm khăc để làm gương cho kẻ khác.
    Khúc Thị Hài vừa đi xuống thì hội trường lại bị vỡ ra bởi những tiếng hô đến khản cả giọng :
    - Đả đảo Lê Văn Vận!
    - Tử hình! Tử hình!

    Ngọn đòn mà Khúc Thị Hài vừa giáng xuống làm Lê Văn Vận mất tinh thần. Anh ta cúi đầu, thỉnh thoảng khẽ thở dài. Chánh án ứng Thị Sót chưa kịp gọi nhân chứng tiếp theo thì một ông già tóc bạc, khập khiễng lách lên. Đó là một bần nông người Mạc Điền, năm Bính Tuất có cô con gái bị bọn tay chân của Đỗ Kim bắt cóc. Ông ta chỉ mặt Lê Văn Vận bảo :
    - Thời thực dân đế quốc phong kiến cai trị ở vùng Ba Tổng chưa bao giờ xẩy ra những chuyện tầy đình như thế. Vậy mà các ông Việt Minh vừa giành được chính quyền đã dung túng cho bọn lưu manh hãm hại dân lành. Thằng Đỗ Kim là dân cờ bạc cả tổng này ai chẳng biết, tại sao các ông cử nó làm chủ tịch xã? Chính vì thế bọn đầu trộm đuôi cướp mới núp dưới bóng nó mở sòng bạc, bắt cóc đàn bà con gái hãm hiếp rồi quẳng xuống sông Lăng. Bà con gửi đơn kiện thì bị huyện dìm đi. Hôm nay tôi đến là để đòi sự công bằng. Ông chủ tịch huyện, hãy trả con gái cho tôi, nếu không tôi phải liều...

    Nói đến đây bất ngờ ông già rút trong cạp quần ra con dao nhọn nhảy bổ lên đâm Lê Văn Vận. Cũng may hai dân quân cảnh giác can thiệp kịp thời nếu không hẳn là đã có án mạng. Ngoài cửa đình Lương Văn Mực giơ tay hô to :
    - Đả đảo tên Việt gian Lê Văn Vận!
    - Đả đảo!
    - Kiên quyết bắt tên Quốc dân đảng đền mạng!
    - Kiên quyết! Kiên quyết!

    Vận thoáng rùng mình khi nhìn thấy một rừng cánh tay giơ lên cùng với âm thanh rùng rùng như gió lốc tưởng có thể đẩy bật tung mái đình lợp ngói âm dương lên chín tầng trời.
    - Thưa bà con, cho tôi nói…
    - Câm ngay đi! Tội trạng đã rõ ràng còn nói gì nữa.
    - Thưa đồng bào! Tôi bị oan, đề nghị Toà cử người về huyện lấy nhân chứng.
    Đến lúc ấy, ứng Thị Sót mới đứng dậy liếc nhìn đội Lạc, đội Yên rồi thong thả kết luận:
    - Tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận đã rõ không một ai có thể thanh minh cho hắn được, bà con bần cố nông thấy tôi nói có đúng không?
    - Đúng lắm. Toà xét xử công minh lắm .
    - Xin mời bà con tạm nghỉ để Toà hội ý.

    Vì đình Cả là nơi bàn việc của chế độ cũ năm gian thông nhau không có phòng riêng nên các quan toà phải kéo nhau vào hậu cung nghị án. Thực ra bản án đã có sẵn, có thể tuyên ngay, nhưng vị đại diện của Đoàn Cải cách bảo phaỉ làm thế mơí đúng trình tự xét xử, đồng thời cho nhân dân thấy được tính dân chủ,công bằng của nền tư pháp trong chế độ mới.

    Bên ngoài một số thiếu niên quá khích, sau khi thì thầm với xã đội Mực, lần lượt chen vào đình, mỗi đứa đều dấu một cái gì đó dưới áo. Đến gần vành móng ngựa, bất chợt một thằng choai choai hô to : “ Đả đảo tên Quốc dân đảng!”, thế là bọn trẻ ranh, đứa thì quệt mực tàu vào mặt, đứa ném cà chua thối vào áo, đứa trát một nắm bùn vào đầu làm ông chủ tịch phút chốc biến dạng chẳng khác gì thứ hình nộm cổ quái. Khúc thị Hài thừa lúc trong đình còn ít người đến bên Lê Văn Vận sụt sịt khóc.
    - Anh hiểu cho, tôi vẫn thương anh nhưng bị người ta ép buộc, không đấu anh thì thằng Nghiên, thằng Khải bị bắt.
    Vận nhếch mép cười cay đắng :
    - Cô mắc lừa chúng nó rồi. Tôi mà chết, hai thằng khó mà ngẩng đầu lên được.
    - Làm thế nào bây giờ hở mình?
    Vận gắt :
    -Thôi về đi! Ngày mai không được cho chúng nó ra pháp trường.
    án đã nghị xong. Khi mọi người đã vào đình đông đủ, ứng Thị Sót đứng lên dõng dạc đọc thuộc lòng mấy câu ngắn gọn do đội Lạc soạn thảo:
    - Căn cứ vào tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận, nhân dânh Uỷ ban Cải cách nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Toà tuyên bố hắn tội tử hình.
    Cả hội trường lặng đi mấy giây rồi bất ngờ đồng thanh hô to:
    - Đả đảo tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận!
    - Đả...đảo...!
    Phiên toà vừa kết thúc, đội Lạc gọi Bùi Quốc Tầm và ứng Thị Sót rỉ tai bảo:
    - Đồng chí phái viên cấp trên yêu cầu phải thi hành bản án ngay chiều hôm nay.

    Lần này nơi thi hành án không phải đồng Xưa mà là đồng Đấu. Dân quân đã đào huyệt và chôn sẵn chiếc cọc bằng một đoạn tre trên miệng hố. Hầu hết bà con đều không về nhà mà rồng rắn kéo nhau xuống pháp trường. Đồng Đấu là khu ruộng bỏ hoang từ nhiều năm nay cách xa làng Cùa năm cây số. Đoàn người mỗi lúc một đông vì cứ qua mỗi làng lại có thêm bần cố nông nhập bọn.

    Trời lạnh, những hạt mưa bụi bay lất phất vì gió bắc đã tràn về. Rất nhiều người không có quần áo ấm, mặc phong phanh run lên vì rét. Bọn trẻ chạy nhảy chán, giờ đói bụng, ngồi vạ vật dọc đường, có đứa ngồi chồm chỗm trên lưng mẹ ngủ gà gật. Mấy lá cờ thấm nước ngả màu tím sẫm bay phần phật. Những người cầm cờ cố giữ cán cho thật thẳng, ưỡn ngực hiên ngang bước như trong cuộc diễu binh.

    Lê Văn Vận bị trói hai tay vào cột tre, mắt bịt băng đen. Anh ta im lặng, khuôn mặt lạnh như đá không hề biểu hiện thái độ gì. Bẩy dân quân được chỉ định hành hình xách súng đứng về một bên. Xã đội trưởng Mực bố trí chỗ đứng cho từng người rồi lại gần ông chủ tịch bảo:
    - Cho phạm nhân nói lời cuối cùng.
    Vận lắc đầu:
    - Không cần.
    - Các đồng chí dân quân chuẩn bị lên đạn!
    Tiếng khoá nòng lách cách nghe khô khốc đập vào trí não rợn cả người.
    - Bắn!

    Một loạt tiếng nổ, Mùi thuốc súng vừa khét vừa hăng hắc làm một số người đang bị lạnh hắt hơi. Vận bị trúng ba viên, một vào cằm vỡ quai hàm, máu từ động mạch chủ phụt ra như chiếc vòi bơm áp lực. Một nửa hàm răng bên trái nhoe nhoét máu bật khỏi mồm nhưng vì vẫn còn dính dây chằng nên cứ lủng lẳng trước ngực chưa chịu rơi xuống. Khuôn mặt Lê Văn Vận lúc này biến dạng một cách khủng khiếp chẳng giống người cũng chẳng giống ma quỷ. Nó là một quái nhân khiến cho bất cứ ai nhìn vào cũng phải rùng mình.

    Lần này chủ tịch Bùi Quốc Tầm không bị mất mặt trước vị phái viên cấp trên vì phạm nhân chết ngay từ loạt đạn đầu. Người ta nhanh chóng khám nghiệm tử thi rồi cởi dây trói hất cái xác xuống hố. Lúc ấy đã xế chiều. Pháp trường vừa mới đây có cả ngàn người khí thế hừng hực xông lên tận trời, giờ vắng tanh vắng ngắt, trả lại cái tĩnh mịch muôn thuở của cánh đồng hoang. Đây đó những gò đất lô xô mọc đầy lau lách chẳng biết được đắp từ bao giờ trông chẳng khác gì những con lạc đà với hàng loạt bướu to nhỏ khác nhau, nằm phục hai chân trước chờ ông chủ trèo lên lưng. Hoa bìm bìm vắt trên những cành dâu dại nở tím cả chiều đông. Hoa dành dành xoè cánh trắng điểm chút nhuỵ vàng nhô lên giữa những bụi mẫu đơn đỏ, đứng xa trông như đám hoa mò thường mọc trên bờ đầm Ma. Cánh đồng lạnh lẽo thoang thoảng mùi tử khí nhập nhoà trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng gió chạy lao xao, tiếng loài chim lợn bay thấp và tiếng cú rúc đâu đó trong những bụi núc nác. Khúc Thị Hài ngồi một mình bên mộ Lê Văn Vận. Người đàn bà này ngay cả lúc chồng bị tử hình cũng không nhỏ một giọt nước mắt. Chị ta đã hoá đá sau khi biết mình bị lừa. Cái sự bị Đội Cải cách lừa còn đau hơn nhiều so với việc mất người thân, bởi sự lừa đảo những thân phận đã gửi hết niềm tin vào mình nó đê tiện hèn hạ làm người ta kinh tởm, hơn thế nữa đây lại là chuyện lừa đảo có tổ chức. Chị còn nhớ, chiều hôm trước mấy dân quân lạ hoắc khoác súng vào nhà ông Lái. Một người tự xưng là xã đội cho biết, họ phải vượt sông Lăng, đi hàng chục cây số sang đây là để yêu cầu chị làm một việc cho sự nghiệp Cách mạng. Toán dân quân dẫn Khúc Thị Hài ra cồn Láng, chỉ đến khi sang sông chị mới hiểu mình bị áp giải về làng Cùa. Trước khi ra khỏi kẻ Bòng, Lương văn Mực còn dặn ông cựu chủ tịch Liên Việt xã:
    - Không được cho thằng Nghiên, thằng Khải biết là mẹ nó đã sang sông, nếu để lộ chuyện ông hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước đội Cải cách.

    Bị giải về đình Cả, Khúc Thị Hài được đưa vào gặp Bùi Quốc Tầm và mấy bà cốt cán. Không cần rào trứơc đón sau, đội Lạc, người chỉ huy cao nhất Đội Cải cách xã Đoàn Kết nói ngay:
    - Chúng tôi phải cho người sang làng Bòng đón chị về đây vì chị là nhân chứng quan trọng trong vụ án Lê Văn Vận. Anh ấy hiện đang bị tạm giam, ngày trước có mắc một số sai lầm cần phải được làm rõ.
    Khúc Thị Hài tái mặt. từ trước đến giờ chị ta chưa được tiếp xúc với các cán bộ chính quyền kiểu này nên run lắm.
    -Thưa... tôi phải làm gì?
    Đội Lạc nhỏ nhẹ bảo:
    - Chị là con gái ông chánh Đàm . Ông ta tuy chết rồi nhưng tội phản dân hại nước cả tổng đều biết, nếu còn sống cũng không thoát khỏi án tử hình. Trong gia đình họ Khúc chỉ có chị là không thuộc thành phần bóc lột lại bị mẹ con bà Cả hắt hủi đuổi ra khỏi nhà, Đội Cải cách yêu cầu chị khai báo thành khẩn những hành vi sai trái của anh Vận khi còn ở nhà. Chị càng nói thật, càng thể hiện lòng căm thù thì càng chứng tỏ mình trong sạch, không liên quan đến bọn Quốc dân đảng chống phá công cuộc Cải cách cuả Chính phủ.

    Khúc thị Hài là người thật thà, cả tin nghe ông đội nói bùi tai, ngập ngừng hỏi:
    - Nhưng mà nói thế sợ rằng nhà tôi bị tội...
    - Chị yên tâm . – Bùi Quốc Tầm kéo xong điếu thuốc lào, phà khói mù mịt nói chêm vào – Anh Vận là chủ tịch huyện được cấp trên bảo vệ không thể bị đối xử như bọn địa chủ cường hào. Chị dám dũng cảm đứng lên tố cáo sai lầm của anh âý trong quá khứ cũng chính là cứu tính mạng và danh dự hai cậu con trai. Sau này, chính quyền sẽ cấp cho gia đình giấy xác nhận thành phần bần cố nông, không liên quan đến địa chủ phản động.

    Đội Lạc nói ngọt như mía lùi làm Khúc Thị Hài không thể không tin vào sự nghiệp Cải cách. Sau một đêm suy nghĩ, chị quyết tố cáo Lê Văn Vận với tất cả những tội trạng mà anh ta đã gây ra hồi còn ở làng Cùa mà không biết tự tay mình ký vào bản án tử hình của chồng.

    Đêm xuống từ lúc nào Khúc Thị Hài không biết. Màn sương đục lơ lưng giăng ngang trời. Trăng thượng tuần bị nhoè đi bởi phải lặn ngụp giữa những cồn mây. Giữa đồng hoang lờ mờ có vài bóng đen đang chuyển động dần về phía mấy gò đất. Có lẽ là ma. Chị ta quỳ sụp xuống vái lấy vái để:
    -Trăm lạy anh Vận sống khôn chết thiêng, tôi bị người ta ép buộc chứ thực tâm không muốn vu oan giá hoạ cho anh...
    - Kìa mẹ, sao mẹ lại làm thế? Dù sao ông ấy cũng là bố chúng con.
    Thì ra là hai anh em Lê Văn Khải. Khúc Thị Hài như thấy có cái gì vỡ ra trong lòng, bất giác oà khóc, giọng tức tưởi:
    - Các con ơi mẹ bị người ta lừa...
    Lê Văn Nghiên trách:
    - Mẹ sang đây mà không cho chúng con biết. Nếu biết không bao giờ chúng con để mẹ đấu bố.
    - Chiều hôm qua, lúc hai đứa đánh lưới trên sông, dân quân làng Cùa sang bắt mẹ về. Họ dặn ông Lái không được nói với các con.
    - Quân khốn nạn! - Lê Văn Khải nghiến răng chửi.
    Lê Văn Nghiên nói:
    - Mãi đến tối không thấy mẹ về, bà đoán có chuyện chẳng lành mới bảo chúng con sang.
    Lê Văn Khải lấy trong bọc ra một nắm hương, bật diêm châm lửa, cắm lên vầng cỏ trên mộ bố rồi lầm rầm khấn:
    - Bố tha lỗi cho mẹ và phù hộ cho chúng con. Cuộc đời này còn lắm bất công nên bố phải chết oan, nếu có khôn thiêng hãy về vật chết những kẻ giáng hoạ cho nhà ta.

    Bó hương gần tàn. Ba mẹ con đang định quay về thì từ phía sau có hai người đàn ông khiêng cỗ quan tài mộc và một người đàn bà áo xô khăn trắng tay cầm bát cơm quả trứng lặng lẽ đến bên như những cô hồn. Cỗ quan tài vừa hạ xuống ngưòi đàn bà liền đến bên mộ Lê Văn Vận lầm rầm khấn. Một trong hai người đàn ông bật lửa thắp hương. Khúc Thị Hài cho rằng họ là thân nhân của những địa chủ bị bắn ngày hôm qua nên lại gần bảo:
    - Các người nhầm mộ rồi.
    Người đàn bà mặc đồ tang lắc đầu:
    - Tôi không nhầm. Đây là mộ ông chủ tịch Lê Văn Vận mới bị bắn chiều nay.
    - Các người là ai? - Lê Văn Khải hỏi.
    - Hai cậu là Khải và Nghiên phải không?
    - Sao bà lại biết chúng tôi?
    - Việc ấy sẽ nói sau, điều cần thiết lúc này là phải mai táng tử tế cho ông chủ tịch. Ông ấy tuy có lúc vấp ngã nhưng là người tốt không thể để nằm lạnh lẽo như thế dưới ba thước đất. Tôi đã mua ở phố cỗ ao quan và nhờ hai bác đây chôn cất giúp. Nào, bây giờ hai bác đào huyệt ở sát gò đất kia.

    Lê Văn Khải hỏi:
    - Sao lại phải đào huyệt khác?
    Người đàn bà vừa lấy trong quan tài ra chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc xẻng đưa cho từng người rồi hạ giọng thì thầm:
    - Để phòng xa. Thời buổi này việc gì người ta cũng có thể làm.

    Lê Văn Vận nằm úp sấp, chân tay co quắp, một bên quai hàm bạnh ra, mặt sưng phồng hiện ra dưới ánh nến rất khủng khiếp. Người đàn bà cởi bộ quần áo bẩn thỉu của ông chủ tịch rồi mặc vào bộ bà ba mới màu gụ. Cái xác đã cứng, khó khăn lắm mới nắn được tay chân về đúng vị trí với sự trợ giúp của chai rượu ngang. Vải liệm được chuẩn bị sẵn cùng với quan tài. Đó là một miếng diềm bâu khá dài. Anh em Khải Nghiên tự tay quấn cho bố, đến khi nắp quan tài vừa đóng thì vành trăng non cũng lặn. Càng về khuya trời càng tối. Nến dưới huyệt cũng đã tàn. Mọi người chỉ nhìn thấy nhau như những cái bóng. Lê Văn Nghiên có mang theo chiếc đèn chai nhưng không dám thắp. ánh sáng bất chợt giữa khu đồng hoang chắc sẽ làm đám dân quân làng Báng, làng Quao và Đậu Khê nghi ngờ. Khốn khổ thay cho chàng ngư phủ sông Lăng, sống trên cõi dương gian đã gặp không ít đoạn trường đến lúc chết xuống âm phủ cũng phải chôn cất vụng trộm. Mọi người chụm nhau lại che ánh sáng để Lê Văn Khải bật diêm đốt nhang. Trong đêm đen, tàn hương phát tán nhảy nhót giống hệt lũ ma trơi, thỉnh thoảng một ngon gió lướt qua lại bùng cháy thành quầng lửa nhỏ toả ra đồng hoang thứ mùi lãng đãng của thế giới những hồn ma bóng quỷ.Thắp hương xong, người đàn bà mặc đồ tang bảo hai phu đòn và anh em Lê Văn Khải lấp ngôi mộ cũ đắp vầng cỏ trả lại nguyên dạng ban đầu. Trong làng, gà đã gáy dồn. Có lẽ đã quá canh ba. Bà ta quỳ xuống trước nấm mộ vái ba vái thì thầm điều gì đó rồi cùng hai người đàn ông vác mai cuốc quay đi. Bóng họ lẫn vào đêm tối rất nhanh. Trong khi ấy, Khúc Thị Hài vẫn ngồi lặng lẽ như pho tượng. Từ lúc quan tài hạ huyệt chị ta chẳng hỏi han gì người đàn bà lạ kia nữa. Hai mươi năm chờ đợi bây giờ mất hẳn anh ta, chị hận chồng nhưng lại trách mình nhẹ dạ cả tin, trách ông trời ăn ở bất công. Khi ba mẹ con bắt đầu rời khỏi khu đồng Đấu, Lê Văn Khải hỏi:
    - Bà ấy là ai thế hả mẹ?

    Khúc Thị Hài ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Có lẽ đấy là dì Ba Lánh, người mà các con phải gọi bằng bà trẻ, nhưng việc này phải giữ kín.
    - Thế còn ông Lái?
    - Tạm thời đừng nói gì với ông.

    Thanh toán được Lê Văn Vận, vị phái viên lập tức viết báo cáo gửi cấp trên. Ông ta vốn là chính trị viên tiểu đoàn, được quân đội cử sang làm Cải cách ruộngđất từ đầu tháng bảy. Tối mồng tám tháng mười một, nghiã là một ngày một đêm sau khi chủ tịch huyện bị hành quyết, đội Lạc họp với ban Cốt cán để sơ kết giai đoạn đầu công tác Cải cách ruộng đất ở làng Cùa. Đây là một làng điển hình của xã Đoàn Kết được chọn làm thí điểm, nếu thành công sẽ nhân ra cả huyện Nam Thành. Dự họp, ngoài vị phái viên còn có đội Lạc, Bùi Quốc Tầm, xã đội Mực, Cấn Viết Tham, bí thư Lại Quang Nghinh, ứngThị Sót, Lê Thị Chĩnh và một vài cán bộ Nông hội. Đây là cuộc họp quan trọng nên không thể để nhiều người biết. Bùi Quốc Tầm đề nghị họp trong đình Cả nhưng đội Lạc quyết định chọn ngôi nhà cũ của ứng Thị Sót để bảo đảm bí mật. Từ khi Sót cùng bà mẹ nghễnh ngãng chuyển sang nhà chánh Bang, chỗ này tạm để cho lão Thốn vốn là dân ngụ cư chuyên nghề đóng cối ở nhờ. Mấy hôm nay lão sang làng Báng làm cho ông trưởng công an xã, ăn nghỉ luôn ở đấy nên căn hộ vẫn bỏ không, cổng dấp mấy cành rào. Hai dân quân dược phân công gác khoác súng đi lại trước sân thỉnh thoảng lại đảo một vòng ra phía sau bụi tre nhòm ngó. Lúc ấy khoảng hơn mười giờ. Trong nhà mọi người đang bàn cãi khá căng thẳng về trường hợp của Khúc Kiệt và Ngô Quỳnh thì bỗng nhiên có vật gì rơi đến bịch một cái từ trái nhà xuống.
    - Lựu đạn! Tất cả nằm xuống! - Bùi Quốc Tầm vừa kịp thét lên thì quả lựu đạn mỏ vịt đang xì khói đã phát nổ. Một quấng lửa nhoáng lên như ánh chớp. Không khí bị co giật mạnh đến mức chiếc lọ sành vẫn dùng đựng nước của lão Thốn để trên đầu kệ gỗ bay vèo xuống gầm chõng vỡ làm mấy mảnh. Hai dân quân lúc ấy đang chụm đầu kéo thuốc lào, nghe tiếng nổ vội xách súng chạy vào, mặt cắt không còn hạt máu. Cảnh tượng sau vụ nổ bày ra thật khủng khiếp. Ông Điến chủ tịch Nông hội ngồi ngay dưới chái nhà, hai mắt bị sức ép mạnh lồi ra khỏi tròng lầy nhầy những máu là máu. Vị phái viên của đoàn Cải cách đang đứng nói, tay khua khua vào không khí hứng trọn một trận mưa mảnh gang theo hình nón ngược cắm chi chít từ mông đến bả vai giống như con nhím xù lông chuẩn bị “ bắn” kẻ thù. Xã đội Mực chưa chết ngay. Anh ta ngã chúi đầu xuống đất chân vẫn còn gác lên chiếc chõng tre ngâm cứ run bắn như con ếch lúc bị chặt đầu. Một mảnh gang chém dưới màng tai, máu xối ra làm Mực rống lên ồ ồ như tiêng con bê lạc mẹ. Bùi Quốc Tầm nằm dán bụng xuống đất, vòng hai tay che gáy bị bóc mất mảng lưng, lúc đầu trắng toát sau chuyển sang đỏ sẫm. Anh ta hốt quá, vừa thở phì phì như trâu kéo gỗ vượt dốc vừa rên rỉ:
    - Phen này thì tôi chết rồi, ới đội Cải cách ơi!

    Chỉ ít phút sau dân làng Cùa đã kịp thời có mặt. Bà con vốn rất nhanh nhạy với các sự kiện kiểu này. Họ chen chúc vòng trong vòng ngoài làm cản trở những người có nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân. Trong xóm, ngoài ông lang Toạ chữa thuốc bắc không một ai hiểu gì việc xử lý những người bị thương. Họ khiêng mấy xác chết để sang một bên sau đó chuyển các nạn nhân ra đình.

    Vụ nổ bất ngờ làm cả xã Đoàn Kết choáng váng. ở một vài ngõ xóm có tiếng mẹ khóc con, vợ hờ chồng. Đêm như bị xé nát ra bởi tiếng bước chân rầm rập truy bắt hung thủ của toàn thể lực lượng dân quân dưới sự chỉ huy của xã đội phó Cung Văn Luỹ. Đèn đuốc sáng như sao sa rồng rắn chảy vào các ngõ ngách. Tiếng hô hoán lúc gần lúc xa nghe như thiên hạ sắp đại loạn đến nơi. Phía điếm Bài Vân thỉnh thoảng có tiếng súng. Lũ chim đêm tá túc trên những cụm lồng ngộc hoặc tre gai giật mình bay nháo nhác. Chúng đã quen tiếng súng nhưng lại sợ lửa. Những cây đuốc nứa dài thườn thượt cháy rần rật được đám thanh thiếu niên vác đua nhau chạy khắp làng, ra cả ao Quan, ao Lịnh, đồng Gà tìm lũ phản động nhưng đến sáng bạch vẫn không thấy tăm hơi. Nhờ có ông Điến làm vật chắn, đội Lạc chỉ bị mảnh gang nhỏ xẻo mất một miếng da bắp chân, anh ta lập tức cử người về huyện trình báo đồng thời cho bắt ngay những kẻ tình nghi có liên quan đến vụ án. Ngoài Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Đặng Thị Huê, phó lý Kiền đang bị giam từ trước, lần này Bùi Quốc Tầm ra lệnh xích tay một loạt phú nông, lính dõng, lính Bảo an và cả mấy tay trương tuần có máu mặt. Nhà giam ngoài đình chật cứng, Cung Văn Luỹ nghĩ ra cách tống bọn này vào tầng hầm nhà chánh Đàm tuy rằng ba hôm trước nó đã được chia cho mấy hộ bần cố nông Hai dân quân canh gác cũng bị thẩm vấn. Đội Lạc nghi, rất có thể họ thông lưng với Quốc dân đảng gây ra vụ khủng bố đẫm máu này. Mãi đến chiều hôm sau, Bùi Quốc Tầm mới nhớ đến anh em họ Lê. Đội Lạc lập tức ký lệnh cử Cung Văn Luỹ cùng bốn dân quân sang làng Bòng bắt khẩn cấp Khải và Nghiên.


    7. Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên được Lái Lự coi như cháu nội cho ăn học suốt những năm mẹ con bà Hai sang sông.

    Năm bốn tám sau khi đỗ bằng tiểu học hai anh em được lên tỉnh học trung học đệ nhất cấp. Khải giỏi hơn được học bổng. Hè năm năm hai, sau khi ra Hải Phòng thi tốt nghiệp, tất cả học sinh nam lớp đệ tứ đều phải đến nhà thương khám sức khoẻ, nếu được sẽ lên Đà Lạt vào quân trường học lớp sĩ quan cấp tốc. Trong lúc làm hồ sơ, phòng Nhì phát hiện ra bố đẻ của Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên là Việt Minh. Hai anh em lập tức bị bắt. Ông lái Lự phải chạy ngược chạy xuôi, lo lót các cửa mất một món tiền khá lớn mới lôi được hai thằng cháu ra khỏi trại giam Tân Xá. Về làng Bòng, một số thanh niên rủ Khải vào chiến khu Đông Triều nhưng anh ta vốn có mặc cảm trong quá khứ với ông bố Việt Minh nên xem ra không hào hứng lắm . Ông Lái bảo:
    - Phải học lấy một nghề mà kiếm sống. Ta xem các cháu không hợp với nghiệp binh đao .
    - Hay là chúng cháu lại ra tỉnh ? - Lê Văn Nghiên ngập ngừng hỏi.
    - Ra tỉnh không bằng vào rừng . - Ông Lái khuyên - Thời buổi nhiễu nhương này ở nơi đô hội dễ hỏng người.

    Mấy hôm sau Khải rủ Nghiên vào trại Vân Quan học nghề thợ mộc với ông phó Đằng. Ông Đằng khó tính mà lại dữ đòn, lơ mơ là lấy dùi đục quật ngay. Có những hôm hai anh em thâm tím cả người.Tối nào ông Phó cũng đánh xóc đĩa. Dân xóc đĩa toàn phường buôn bán đủ mánh khoé lừa lọc, có những hôm thua cháy túi ông Đằng phải gán cả cưa đục. Được khoảng nửa năm, nghề chẳng thành mà lại hay bị đòn oan, hai anh em đành bái biệt ông thày cờ bạc xuôi xuống mạn Yên Cư. Đến ngã ba dốc Cây Thị, Nghiên bảo:
    - Anh em ta tạm chia ra mỗi người một hướng mà đi, hẹn đến tết gặp nhau tại nhà, vạn nhất có chuyện gì xảy ra sau này còn có người nuôi mẹ.

    Khải gật đầu :
    - Em nói phải. Thực ra đi tìm việc như thế này chỉ là bất đắc dĩ không hợp với chí hướng của anh.
    Hành lý được chia làm đôi. Nghiên đi về phía thượng nguồn sông Vệ còn Khải rẽ sang vùng Sàn Lạng. Trời sắp tối mà đường có vẻ còn xa mới đến được thị trấn Gôi, Khải đang muốn tìm chỗ nghỉ qua đêm thì thấy giữa cánh đồng có mấy lò gạch đang toả khói. Anh ta tìm đến nơi gặp bọn phu lò đang ăn cơm tối. Khi biết được ý định của Khải, một bác rậm râu đã luống tuổi, gầy hõm mắt, chỉ vào ngôi nhà cạnh đầm nước cách đây chừng hai ba trăm thước bảo:
    - Cô chủ ở trong ấy vào mà xin, ở đây không có chỗ ngủ đâu.

    Bọn thợ gạch nghe xong cười hô hố làm Khải sinh nghi định bỏ đi. Một gã mặt tròn, da xù xì như da cóc, cái mũi chẳng khác gì tẩu thuốc lá nháy mắt với bác rậm râu rồi hỏi:
    - Có biết chữ không?
    Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Biết chút ít.
    - Thế thì vào nhà đi, cô chủ đang cần người quản lý đấy.
    Khải làm ra bộ ngây ngô hỏi lại:
    - Người ta cần sao các bác không làm lại đẩy tôi vào?
    - Là vì trông cậu có dáng thư sinh. - Người rậm râu cười bảo - Chúng tôi toàn loại vai u thịt bắp cứ đến gần là cô chủ nhăn mặt, chun mũi.

    Đã vậy thì cứ thử xem “cô chủ” là ai mà bọn thợ lò thích đem ra giễu cợt đến thế. Mà tại sao lại là “cô chủ” chứ không phải bà chủ? Đường cũng không khó đi lắm nhưng vì Khải đã cuốc bộ suốt ngày, đôi chân mỏi rã rời lên phải lê bước khá lâu mới đến khu nhà có ánh đèn. Người ra mở cổng là một bà già bé loắt choắt chẳng khác gì đứa trẻ nhưng chân tay luôn ngọ nguậy không lúc nào yên. Bà ta nhìn một thoáng từ đầu tời chân cùng chiếc tay nải nhuộm vỏ già của ông khách trẻ hỏi :
    - Cậu là người ở đâu ta?
    - Tôi ở xa được mấy bác lò gạch chỉ vào trọ nhờ.
    - Mời cậu vào để tôi báo với cô chủ.

    Lại “cô chủ”, Khải thầm nghĩ, sao ở một nơi đồng không mông quạnh như thế này lại có một phụ nữ dở hơi nảy ra ý định kinh doanh lò gạch, cái nghề đáng ra phải của đám mày râu. Chừng mấy phút sau, một cô gái, đúng hơn là một người đẹp chừng hăm mốt hăm hai, tóc bồng rẽ đường ngôi lệch, mặt trái soan, mũi dọc dừa, cặp môi ướt, từ trong đi ra. Cô ta nhìn Khải một thoáng rồi hỏi người ta bằng thứ ngôn ngữ rất là “Liêu trai”:
    - Quý khách chắc là từ xa đến đây?
    Khải bật cười :
    - Dạ thưa chị, tôi là thư sinh nghèo, gặp thời loạn lạc phải bỏ nhà đi kiếm việc làm.
    Mắt người phụ nữ chợt sáng lên :
    - Anh có biết tính toán không ?
    - Thưa...tôi đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
    Cô chủ bỗng nhiên thẫn thờ, mắt mơ màng như đang chìm trong giấc mộng đêm hè. Lúc ấy Khải mới để ý trên tay chị ta vẫn còn cầm cuốn “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng.

    Cũng không khó khăn gì trong việc tìm hiểu cô chủ lò gạch. Chị ta tên là Trâm, tốt nghiệp tiểu học, sau khi đọc hàng loạt tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì thêm một mỹ tự vào phía trước tên là Kiều Trâm . Kiều Trâm là con vợ bé một ông phán Dây thép. Bà vợ cả có một sạp vải ở chợ Lớn, thỉnh thoảng nổi máu sư tử Hà Đông lại thuê bọn “anh chị” đến đánh ghen. Bà Hai không có con trai, chỉ được mỗi Kiều Trâm, bị lép vế, không ở được phải dắt díu nhau về Đa Hội mở một quầy tạp hoá kiếm sống. Ông Phán tuy sợ vợ cả một phép nhưng vẫn dấm dúi chu cấp cho hai mẹ con. Mấy năm gần đây, Việt Minh nổi lên lập vùng tự do, việc đi lại giữa thành thị và nhà quê rất khó khăn, bà Cảnh nhờ ông anh ruột đứng ra mở lò gạch, thuê nhân công đốt, bán cho dân địa phương. Đang làm ăn phát đạt thì ông em bị cảm mạo lăn đùng ra chết, vậy là hai mẹ con đành phải cáng đáng lấy công việc.

    Kiều Trâm được chiều từ bé, suốt ngày con sen dẫn đi chơi, lớn lên lại ham đọc sách nhất là loại tiểu thuyết diễm tình mà nhân vật chính là “chàng” và “nàng” con nhà khá giả ở thành phố có chút học vấn, thích vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến, đòi nam nữ bình quyền và hôn nhân tự do. Nhưng ở vùng quê thâm sơn cùng cốc này, người dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời kiếm đâu ra ý trung nhân như cô vẫn hằng tưởng tượng qua những trang sánh của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo? Ngày tháng qua đi, Kiều Trâm chờ người trong mộng đến mỏi mòn sinh ra tính trầm uất làm bà mẹ phát hoảng phải mời thầy lang đến bốc thuốc. Ông nào bắt mạch xong cũng lắc đầu bảo:
    - Bệnh của cô nhà là tâm bệnh, lũ người trần mắt thịt chúng tôi không chữa được.

    Ngày nào Kiều Trâm cũng mang “ Tắt lửa lòng “, Lạnh lùng”, “Cô giáo Minh”, “ Đoạn tuyệt” rồi “Hồn bướm mơ tiên” ra đọc. Có hôm đang giữa trang sách cô khóc rưng rức như trẻ con bị đánh oan. Nhìn bề ngoài Kiều Trâm không có vẻ gì là bệnh hoạn, nhưng cứ cầm cuốn tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nào đó lên là ánh mắt cô ta trở nên thảng thốt, lúc thì đầy vẻ chán chường lúc lại cháy bỏng một thứ đam mê tưởng như có thể thiêu trụi bất cứ thứ gì bị nó chiếu vào.

    Khải đến, bà Cảnh mừng thầm ngỏ ý với anh ta ở lại vài ngày để Kiều Trâm có bạn. Đối với Khải, cuộc chu du trên đường thiên lý là vô định chẳng có gì phải vội. Việc làm đẹp lòng một tiểu thư hơn mình hai ba tuổi bằng cách tán nhăng nhít những đoạn văn sướt mướt trong “Nửa chừng xuân” hoặc “Đời mưa gió" chỉ là chuyện vặt. Cuối cùng Khải cũng nhận lời làm quản lý lò gạch, nghĩa là thay mặt bà chủ xuất gạch chín, đếm gạch mộc, ghi chép số hàng bán ra và quyết toán sổ sách. Công việc quá dễ đối với một chàng tú tài bán phần. Kiều Trâm thích lắm, suốt ngày hát “Đêm đông” rồi “Thu quyến rũ” học được thơì còn ở thành phố. Ngày nào “cô chủ” cũng ra lò gạch kể cả những lúc trời mưa.

    Khải thấy cô ta làm vướng công việc của mình nên nói khéo :
    - Trâm về đi, ở ngoài này dầm nước mưa sẽ bị cảm lạnh.
    - Anh đuổi tôi đấy à?
    - ấy chết, ai lại dám thế, là tôi sợ chị bị ốm bà chủ quở trách.
    - Em không đồng ý anh gọi em bằng chị đâu, nghe nó khách sáo thế nào ấy.
    - à vâng, tôi lỡ lời, chị ..
    - Lại "chị" rồi . Trông Trâm già lắm phải không?
    - Không, Trâm đẹp lắm, đẹp hơn cả Mai trong “Nửa chừng xuân”.
    - Anh thấy Trâm đẹp thật à ?
    - Thưa tiểu thư, tôi không dám nói dối .

    Trâm cười rất hồn nhiên rồi lại hỏi :
    - Anh thấy Tuyết trong “ Đời mưa gió” như thế nào?
    - Đáng trách . - Khải cố tình nói khác với ý mình để thử phản ứng của “cô chủ” đối với nhân vật này.
    - Anh đúng là đồ không có tim .- Trâm phụng phịu ra vẻ giận dỗi - Đấy thực sự là người con gái đáng thương bị hoàn cảnh đẩy vào con đường lầm lạc. Trâm cho rằng các tác giả khi viết đã tìm được một nguyên mẫu trong đời thực. Thân phận đàn bà khổ quá phải không anh?
    - Vâng. Khổ thật.
    - Anh sao thế?
    - Tôi vẫn bình thường mà.
    - Này đầu óc để đâu thế ? Hay là anh vẫn bị mấy trăm viên gạch vỡ ám ảnh.
    - Đâu có.
    Ờ lò gạch giữa năm thứ hai thì ngày càng phức tạp. Đó là việc Kiều Trâm nhất quyết đòi Lê Văn Khải phải làm rể bà Cảnh. Chuyện này xem ra khá nghiêm trọng nếu chưa nói là nguy hiểm, vì thực chất anh em Khải vâng lời mẹ đi học nghề chứ không phải tìm vợ. Bây giờ đùng một cái mang cô tiểu thư hàng ngày chỉ có mỗi việc đọc tiểu thuyết ái tình về làng Bòng thì con mặt mũi nào nhìn ông lái Lự đã đã cưu mang mấy mẹ con bà cháu từ gần hai chục năm nay. Phải tìm cách chuồn thôi, nếu không mình mắc thêm một món nợ nữa. Nợ tiền còn trả được chứ nợ tình thì muôn đời không thể. Công bằng mà nói, đây là một đám khá giả. Bà mẹ gốc gác kẻ chợ mà làm ăn cơ chỉ, đối xử với người làm công rất có tình. Cô con gái tuy hơn anh ta hai tuổi nhưng vừa xinh đẹp lại vừa có của hồi môn, nhiều chàng trai dẫu nằm như mơ giữa ban ngày cũng chẳng dám tơ tưởng. Đã mấy lần bà chủ bảo :
    - Em Trâm nó mến cậu là người thật thà lại có học, cậu thấy thế nào?
    Khải tìm kế hoãn binh:
    - Nhà cháu gia cảnh bần hàn lại cách sông cách đò, chưa được phép của mẹ cháu chưa dám nghĩ đến chuyện trăm năm.
    - Tưởng gì, chuyện ấy không ngại, mấy hôm nữa cậu đưa tôi về quê thăm bà cụ.
    - Cứ để thư thư đã bà ạ.- Khải không ngờ bà chủ sốt sắng đến thế nên trong lòng thực sự hoảng sợ. -Từ đây về vùng quê cháu phải đi mấy ngày đường, lại qua bao nhiêu đồn bốt, nguy hiểm lắm, đi lúc này không tiện.

    Bà Cảnh vẫn tỏ ra rất kiên quyết:
    - Hay là cậu chê nhà tôi không xứng?
    Khải vội thanh minh :
    - Cháu đâu dám, chỉ sợ trên đường gặp chuyện không may thì biết ăn nói thế nào với cô nhà . Bà đã có lòng thương thì để ít bữa nữa cháu về mời mẹ lên đây thưa chuyện.

    Kế ấy xem ra tạm thời có kết quả. Ba tháng sau, lúc ấy đã hết mùa khô chuyển sang mùa mưa, thợ phơ được nghỉ đồng thời cũng đến hạn cuối cùng Lê Văn Khải không thể trì hoãn được nữa. Ngày mai anh ta phải về làng Bòng đón bà Hai lên Đa Hội xem mặt con dâu. Cả nhà đang chuẩn bị hành lý cho Khải thì có hai người đàn ông vận âu phục, mũ phớt, giày bốt tin đánh xi bóng nhoáng đột ngột xuất hiện. Chỉ một nhoáng mọi người đã biết chuyện. Ông phán Dây thép về thăm vợ con mang theo anh bạn vong niên trạc hăm chín, ba mươi làm thầy ký ga từ Hải Phòng sang đang rắp ranh làm khách đông sàng. Nghe được tin này Khải vừa buồn vừa vui. Buồn vì người đẹp sắp lên xe hoa dù sao tâm trạng cũng có chút luyến tiếc, vui vì thoát được cuộc tình chênh lệch mà thực ra anh ta cảm thấy mình vô duyên, kệch cỡm chẳng khác gì chàng Vọi gặp cô Hiền trên bãi biển trong tiểu thuyết “Trống mái”. Tiểu thuyết lãng mạn như thế thì đẹp thật, nhưng cuộc đời thực mà rập khuôn theo kiểu ấy thì chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra.

    Sáng hôm sau Lê Văn Khải dậy thật sớm, chẳng từ biệt ai, lặng lẽ xách khăn gói rời Đa Hội, mãi đến nửa buổi mẹ con bà Cảnh mới biết. Tiểu thư Kiều Trâm vội chạy tắt qua cánh bãi để nói lời chia tay nhưng lúc ấy anh ta đã cách khu lò gạch cả chục dặm đường.

    Khải về làng Bòng được nửa tháng thì Nghiên cũng bất ngờ xuất hiện. Anh chàng này sau hàng tháng lang bạt, một hôm dạt vào làng gốm Phù Kiều rồi ở lại xin chân phụ việc. Làm được ít lâu, một hôm hỏi về gia cảnh, ông thợ cả biết Nghiên đã học trung học, nói tiếng Pháp làu làu với viên đồn trưởng đồn Châu Cầu liền bảo :
    - Cậu có vốn học vấn như thế làm nghề này nó phí đi, hãy nghe tôi, ra thành phố xin vào trường Bách nghệ hoặc Canh nông mà học, sau này giúp ích cho đời.

    Nghe ông cụ, Nghiên về nhà. Mấy tháng sau hai anh em đang định khăn gói quả mướp ra Hà Nội thì Hiệp định đình chiến được ký sau khi Việt Minh đánh cho quân đội Pháp một trận tơi bời ở Điện Biên phủ. Hoà bình được lập lại, hy vọng ra Hà Nội học càng mong manh khi vùng Ba Tổng bắt đầu thí điểm Cải cách ruộng đất.

    8. Hai anh em vừa đi thả lưới ngoài bãi sông về, thấy mấy người lạ khoác súng bước vào nhà, Khải dã sinh nghi hỏi:
    - Các ông tìm ai?
    Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ bảo:
    - Chúng tôi cần gặp Lê văn Khải và Lê văn Nghiên con trai tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận.
    - Có việc gì?
    - Đội Cải cách mời các anh sang làng Cùa. Giấy đây, đọc đi.
    Khải liếc mắt nhìn những dòng chữ mất lỗi chính tả trên tờ giấy kẻ chấm xanh bên dưới có con dấu đóng bằng mực đen bỗng tái mặt.
    - Chúng tôi bị bắt?
    - Bà con bần cố nông nghi hai anh có dính líu đến vụ ném lựu đạn vào cuộc họp cốt cán ở làng Cùa, yêu cầu các anh sang bên ấy để làm sáng tỏ vấn đề.
    Lê Văn Nghiên trừng mắt:
    - Các người có điên không đấy? Suốt mấy ngày qua, anh em tôi vun ngô ở bãi Nổi, làm thế nào lại vượt sông Lăng sang làng Cùa gây án được.
    - Cứ về bên ấy sẽ biết.
    - Này các ông có kiểu bắt người gì lạ thế?
    Cung Văn Luỹ quay lại phía sau hất hàm bảo mấy dân quân:
    - Dẫn họ đi!

    Mẹ con bà Hai lúc ấy vẫn còn ngoài cồn Láng chỉ có ông Lái đang lúi húi ở vườn chuối. Nghe thâý tiếng người qua lại có vẻ gay gắt, ông đoán chắc đã xảy ra chuyện gì liền chạy bổ về nhà nhưng không kịp.
    Sang đến làng Cùa hai anh em họ Lê lập tức bị tống giam. Tối hôm ấy, đội Lạc, xã đội họ Cung, ứng Thị Sót, Lê Thị Chĩnh và mấy ông công an huyện lần lượt hỏi cung Khải và Nghiên. Ông công an mặc quần áo đen, dép cao su, mũ lưới khoảng ba tư ba nhăm, bàn tay có những ngón rất to, hỏi Lê văn Khải có lẽ đã đến lần thứ năm mươi:
    - Đêm hôm mồng chín tháng chạp từ bẩy đến mười giờ đêm anh đi đâu?
    - Tôi đã nói rồi, lúc ấy cả nhà tôi phải ngồi ở đình làng Bòng để nghe bần cố nông ôn nghèo kẻ khổ.
    - Ai có thể làm chứng cho anh?
    - Tất cả người xóm Bãi.
    - Thế mà đồng chí Sự, đội trưởng Cải cách làng Bòng lại nhìn thấy các anh lảng vảng ở bờ sông Lăng từ chiều.

    Khải cười khinh bỉ:
    - Vậy ra ông đội Sự có mắt lửa con ngươi vàng của Tôn Hành Giả nhìn thấu ngàn dặm . Từ làng Bòng ra đến bờ sông theo đường chim bay ít nhất cũng bảy cây số. Theo tôi được biết, chiều hôm ấy họ họp ở nhà ông chủ tịch Phạm Công Vằn đến chập tối rồi uống rươụ thịt chó mãi gần tám giờ mới ra đình, vậy thì làm thế nào thấy chúng tôi ngoài bờ sông?
    - Chúng mày thích lý mấu hả? - Ông áo đen bất ngờ đổi giọng- Bà con bần cố nông là tai mắt của Đội, chúng mày ở đâu, làm gì bọn ta đều biết, hiểu chưa? Muốn sống thì khai thật ra.
    - Ông bảo khai cái gì?
    - Không chúng mày thì đứa nào lém lựu đạn vào nhà đồng chí Sót giết chết bốn người làm bị thương năm người tối hôm mồng chín tháng chạp.
    -Thế ra các người định ép cung à?
    Tay công an mặt lạnh như đá chẳng nói chẳng rằng túm tóc Khải bạt tai liền mấy cái rồi rít qua kẽ răng:
    - Chính quyền từ nay ở trong tay bần cố nông, bà con muốn chúng mày chết cũng phải chết, muốn chúng mày sống thì được sống, đừng có đem cái mớ lý sự cùn của bọn đế quốc thực dân nhồi nhét ở trường về đây loè bịp.

    Đầu đình bên kia, đội Lạc và Cung Văn Luỹ dùng hết mọi mánh khoé truy bức Lê Văn Nghiên. Anh ta vốn rất bình tĩnh, ông xã đội đánh đến mỏi tay vẫn cứ trơ ra với một câu nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
    -Tôi không ném lựu đạn, tôi bị oan.

    Đêm hôm ấy hai em thức trắng vì rét. Gần sáng có tiếng nổ ở khu Cầu Đá. Dân quân bị dựng dậy, anh nào cũng mắt nhắm mắt mở càu nhàu vác súng chạy đi. Lại một quả lựu đạn chày ném vào phòng ứng Thị Sót trong ngôi nhà mới được chia. Rất may đêm ấy Sót không ở nhà mà nằm với đội Lạc ở thùng trấu căn hộ cũ. Bà mẹ già nghễnh ngãng bị mảnh gang chém vào đầu phọt óc ra dính nhớp nháp trên chiếc chăn dạ. Một góc chiếc sập gụ vỡ toác, cánh cửa buồng bật bản lề đổ kềnh ra đè lên hũ gạo. Làng Cùa lại một phen nháo nhào. Đèn đuốc, súng ống, gậy gộc được đám thanh niên mẫn cán sử dụng như những phương tiện chuyên chính chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần những nơi nghi ngờ bọn Việt gian phản động ẩn náu sau khi gây án. Cánh bần nông thì dùng cần vó, đinh ba, con sào chọc xuống những bờ ao bèo tây. Họ đã có kinh nghiệm lẩn trốn bọn lính bốt Tuần mỗi lúc chúng đi càn, hy vọng tóm được thủ phạm một khi chúng chưa thể ra khỏi làng. Các hầm bí mật hai tầng, hai mề và cả tăng sê đào từ thời chống Pháp đều được khui ra. Dân quân có quyền được xộc vào tất cả các nhà khám xét từ buồng ngủ cho đến thùng trấu, hố xí mà không cần phải có lệnh của chủ tịch xã. Sau một ngày đêm, mọi người mệt phờ anh nào cũng lấm từ đầu đến chân trong khi chiến lợi phẩm thu được chỉ là một mớ vài chiếc quần lót rách hoặc yếm diềm bâu tàng tàng được các cặp tình nhân vứt lại sau những cuộc ân ái vụng trộm mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ những tối nhảy “xon mì” và nắm tay nhau hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa”.

    Vụ án trở nên bế tắc. Làng Cùa hoang mang. Đội Cải cách và cán bộ xã Đoàn Kết lúng túng còn huyện Nam Thành ngày nào cũng cử công an về nhưng vẫn không tìm ra kẻ địch giấu mặt. Anh em Lê Văn Khải được tha sau tám ngày bị tạm giam.

    Nếu kể cả Lê Văn Vận thì từ khi phát động Cải cách đến thời điểm này, làng Cùa đã có năm án tử hình, chưa đủ chỉ tiêu huyện giao. Những người đang bị giam như ngồi trong chảo lửa, lúc nào cũng lo ngay ngáy, qua một đêm thấp thỏm sáng ra mới biết mình còn sống, đã có hai người tự sát, gần đây nhất là ông phó hội Bảng. Ông Bảng có hơn chục mẫu ruộng, nhà ngói năm gian cửa bức bàn, bên trong treo la liệt hoành phi, câu đối chẳng khác gì điện thờ. Sau khi Đội Cải cách thu toàn bộ gia sản, ông phó hội bị giam cùng dãy với khoá Kiệt, lý Quỳnh, bà cả Huê chờ xét xử, vợ con phải ra đồng Chó Đá, cạnh bãi tha ma, ở trong những chiếc lều tùm hum như lều chăn vịt. Hàng ngày các cô cậu vốn là con cái nhà giầu này chia nhau đi khắp nơi mò cua, bắt ốc, tát vét hoặc cắt cỏ mang nên trên chợ Từ Đường bán. Nhưng bán được cua cá không phải dễ. Dân Ba Tổng lúc ấy tránh con cái địa chủ như tránh hủi. Có hôm cô Tính cô Tình đứng từ trưa đến xế chiều lại mang mấy giỏ cua về nấu canh, cả nhà húp trừ bữa. Ông phó hội mắc chứng táo bón ngày nào cũng phải ăn vài củ khoai lang, giờ bị cấm cố trong nhà giam ẩm thấp, lắm lúc đau bụng, ngồi chồm chỗm hàng hai ba giờ, rặn ra toàn máu mũi lấy nhầy, người xọp hẳn đi trông rất thảm hại. Một tối, thằng cháu nội, không biết làm cách nào qua mắt bọn dân quân gác cổng đình, mang vào cho ông hơn chục củ khoai luộc. Được khoai, ông Bảng mừng lắm đưa ngay cho khoá Kiệt và Ngô Quỳnh mỗi người mấy củ. Khoá Kiệt thường xuyên bị đói vì không có người tiếp tế, thỉnh thoảng mới được anh dân quân xóm Cầu Đá, goị bằng bác họ, giấu cho nắm cơm bằng nửa quả bòng, còn toàn phải ăn nhờ. Khoai ngon lắm. Ngô Quỳnh vừa nhai vừa ao ước :
    -Thế này mà đựơc thêm bát nước chè xanh nữa thì nhất trần đời.
    Khúc Kiệt bảo:
    - Xem ra ông Lý vẫn còn lạc quan.
    - Cùng lắm là bị dẫn xuống đồng Đấu lĩnh viên đạn chứ gì? - Lý Quỳnh bị nghẹn, giọng trở nên sin sít - Đối với tôi bây giờ sống chết không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ tiếc hồi đánh Nhật tôi theo ông Khoá thì chưa chắc cả nhà bị chết cháy.
    - Nhắc đến chuyện ấy làm gì, bây giờ chúng ta cùng chung cảnh ngộ.

    Lệnh của Đội Cải cách, cứ hai ngày người nhà mới được đem cơm nước vào cho phạm nhân một lần, ai cố tình vi phạm sẽ bị cắt tiếp tế một tuần. Họ làm thế để khủng bố cả tinh thần và thể xác người bị giam, làm cho cái đầu phải mềm ra, ý chí dần dần tiêu ma, tự nguyện từ bỏ ý thức hệ bóc lột, tiếp nhận tư tưởng mới, thừa nhận chân lý Cách mạng sau đó vui vẻ bước lên đoạn đầu đài. Chẳng hiểu ông phó hội có biết được ý đồ rất khôn ngoan của Đội Cải cách không mà mấy ngày gần đây xem ra có phần đăm chiêu, nhất là từ khi thằng cháu nội cũng bị tống giam. Thằng bé thấy mấy lần đưa khoai trót lọt, sinh chủ quan. Cách đây mấy đêm, nó lại mang một làn đầy trèo qua tường phía đầu đình đưa vào cho ông. Tất nhiên đây là số khoai mẹ nó rỡ trộm ở ruộng nhà mình rồi cũng lại giấm giúi luộc trộm để cả nhà ăn cầm hơi. Nhưng lần này thằng bé không may. Nó bị hai dân quân bắt sống trong lúc vừa tụt xuống sân đình. Tay dân quân cổ lang ben tên là Phạm ổn trước vẫn cấy rẽ nhà ông Bảng, mặt hằm hằm quất thằng bé túi bụi bằng chiếc roi mây làm cho nó khóc thét lên. Ông phó hội thương cháu, cắn chặt răng, nước mắt trào ra. Được một lúc ổn xách tai thằng bé kéo lê trên nền gạch:
    - Vào trong chuồng giam kia, chiều nay ông đội Lạc sẽ nói chuyện với mày, riêng cái tội bới trộm khoai của bà con bần cố nông mang tiếp tế cho địa chủ đã đủ điều kiện tử hình rồi.
    Ông Bảng không nhịn được nữa gọi Phạm ổn bảo :
    - Này anh kia, có đánh thì đánh tôi đây này, cháu nó còn bé làm gì nên tội mà hành hạ dã man thế.

    Tay tá điền lé mắt nhìn ông phó hội giọng khiêu khích :
    - Ông không phải chờ lâu đâu, chỉ mấy hôm nữa là được ra đồng Xưa ở chung với chánh Bang thôi.
    Nói xong hắn nhấc làn khoai luộc quay quay mấy vòng lấy đà rồi quẳng ra thật xa.
    Chiếc làn bay đến "vù" một cái xuống ao đình làm con bói cá khoác bộ lông xanh biếc có
    cái mỏ dài, to bè như gọng kìm đang đậu trên đỉnh cọc tre bờ bên kia, giật mình bay vút
    lên. Ngô Quỳnh lầm rầm chửi:
    - Quân khố rách áo ôm vô liêm sỉ.
    Khúc Kiệt thở dài:
    - Chúng không vô liêm sỉ đâu mà đang “đấu tranh giai cấp đấy”.

    Khoá Kiệt không ngủ được. Ông ta có linh cảm ngày mai sẽ đến lượt mình ra đứng trước vành móng ngựa bằng gỗ lim nhẵn bóng trong đình kia. Ông không phải địa chủ, tài sản cũng chẳng có gì ngoài mấy gian nhà bẹp và năm sào ruộng đồng Quan không người cày cấy sau khi con gái bỏ làng ra đi. Tội của Khúc Kiệt chắc Đội Cải cách chẳng thể nào nhẹ tay, bởi trong vòng mười lăm năm qua, ông đã làm cho vùng Ba Tổng, đặc biệt là làng Cùa mấy lần thành bãi chiến trường. Trong ông, có cả phẩm chất của một kẻ lưu manh chính trị lẫn máu giang hồ lục lâm theo kiểu anh hùng hảo hán thời trung đại. Bản chất của hành động phiêu lưu ấy chính là sự bất đắc chí của loại nhà nho cuối mùa bất tài nhưng lắm tham vọng. Từ lòng đố kỵ đã dẫn đến sự căm thù Khúc Đàm, Khúc Kiệt muốn làm một cái gì đó chứng tỏ bản lĩnh không tầm thường của mình. ý nghĩ bệnh hoạn ấy dẫn ông ta đến hàng hoạt hành động đẫm máu. Kết quả là dân Ba Tổng căm thù ông ta , những hồn ma luôn hiện về đòi mạng và sau hết, Đội Cải cách xem ông ta như một tên phiến loạn cứng đầu, một kẻ bán linh hồn cho Quốc dân đảng, cần phải trừng trị nghiêm khắc.

    Về phần gia đình, coi như khoá kiệt không còn gì kể cả hai đứa con thoát chết sau vụ chạm súng với quân Nhật. Khúc Thị Nhân bỏ làng ra đi, không biết lúc này đang phiêu bạt ở phương trời nào, còn sống hay đã chết? Còn Khúc Văn vốn không chấp nhận ông bố vì quan điểm “chuyên chính” mà bắn giết vô tội vạ, đã trốn vào Nam với đám tàn quân sau khi ký hiệp định đình chiến. Phải, bây giờ đã đến lúc đánh giá lại toàn bộ công việc của mình trong những năm qua.

    Nghĩ đến đây, bất giác Khúc Kiệt giật mình. Là kẻ có máu sĩ diện, ông ta chỉ thích khoe khoang chiến tích trước thiên hạ chứ không thể cúi đầu trước đám bần cố nông chân đất mắt toét một chữ bẻ đôi không biết. Thà chết còn hơn. Ai cũng như bọn chúng thì lấy đâu ra độc lập hôm nay? Thật là một lũ vô ơn, bạc tình bạc nghĩa.

    Đêm đã khuya. Trời lạnh. Trong đời có lẽ chưa bao giờ Khúc Kiệt thấy một đêm tháng chạp huyền ảo như đêm nay. Vành trăng thượng tuần mỏng như chiếc lá non, uốn cong hệt cánh diều vàng chập chờn giữa những cụm mây xốp trắng hình vẩy cá. Sân đình loang loáng ánh trăng. Một con quạ già chẳng biết từ đâu bay ngang qua, kêu lên ba tiếng nghe rất là ai oán. Phạm ổn, vai khoác súng tay xách đèn chai soi vào cửa luồng giam, thấy các phạm nhân mặt mũi phờ phạc nằm co quắp trên phản gỗ, anh ta yên tâm vào đình đánh lửa hút thuốc lào. Sang đầu canh tư Khúc Kiệt ngồi dậy, dựa lưng vào vách một lúc rồi lần vạt áo xé rách đường chỉ khâu lấy ra gói thuốc độc dấu được từ trước hôm bị bắt từ từ bỏ vào miệng.

    Sáng ra, Ngô Quỳnh thấy người Khúc Kiệt đã cứng, khoé miệng còn dính mấy giọt máu đen, liền gọi phó hội Bảng, nhưng ông này cũng đã cắn lưỡi chết từ lúc nào không biết. Được tin, Cung Văn Luỹ sợ lắm vội cùng với mấy dân quân vào khênh hai cái xác đặt giữa sân đình. Thằng cháu ông phó hội vừa được thả ra ôm lấy xác ông nội khóc váng lên.

    Cái chết bất ngờ của Khúc Kiệt và phó hội Bảng làm đội Lạc phát điên lên. Anh ta ra lệnh cho xã đội trưởng Cung Văn Luỹ giam mấy dân quân gác đêm lại chờ công an điều tra. Như vậy là kế hoạch đấu tố ông cựu trưởng ban An ninh dự kiến vào sáng ngày mai đương nhiên bị huỷ bỏ. Sau hai vụ ném lựu đạn, đây là vụ thứ ba làm Đội Cải cách và Uỷ ban hành chính xã Đoàn kết phải đau đầu. Vết thương ở lưng Bùi Quốc Tầm chưa khỏi, anh ta vẫn phải lằm bẹp ở nhà . Bí thư Lại quang Nghinh thì ấm ớ hội tề, chẳng quyết định được việc gì, mấy ông bà cốt cán chỉ to mồm, thành thử những việc hệ trọng như thế này đội Lạc không dính tay vào không xong. Chiều hôm ấy, sau khi khám nghiệm xong, công an cho phép chôn xác ở đồng Đấu là nghĩa địa dành cho bọn tội phạm nhưng chỉ bó chiếu, không được đóng quan tài. Thân nhân Khoá Kiệt không còn ai, Cung Văn Luỹ xin ý kiến Đội Cải cách rồi cử mấy dân quân khiêng đi. Huyệt đào vội, nông choèn choẹt, lấp đất xong, tay Mạn đánh mnột vầng cỏ úp ngược lên rồi vén quần đái một bãi lên mộ, miệng lầm rầm :
    - Đáng đời quân phản động.

    Nửa đêm hôm ấy, người đàn bà mặc đồ tang cùng hai gã đàn ông mấy hôm trước lại xuất hiện với cỗ quan tài mộc. Họ nhanh chóng lôi Khúc Kiệt lên mặc cho bộ quần áo gụ rồi đưa vào quan tài, sau đó chuyển sang chiếc huyệt mới đào cạnh mộ Lê Văn Vận. Bó nhang được thắp lên lúc mờ lúc tỏ làm khuôn mặt người đàn bà biến dạng như ma hiện hình. Bà ta lấy trong làn bát cơm quả trứng đặt lên mộ, cúi đầu đầu khấn thì thầm mấy câu rồi cùng hai người đàn ông vác cuốc xẻng quay về.

    Cuối tháng chạp, Đội Cải cách chưa kịp xử bà cả Huê và Ngô Quỳnh thì làng Cùa xảy ra hai vụ bê bối. Vụ thứ nhất liên quan đến Cấn Viết Tham còn vụ thứ hai, liên quan đến ứng Thị Sót. Vợ chồng Cấn Viết Tham được chia một nửa ngôi nhà ngói năm gian của chánh tổng Lê Bang. Sau khi Lê Bang bị xử bắn Đội Cải cách cho vợ con ông ta ở tạm dãy nhà ngang ba gian phía bên phải, giáp với bờ ao. Từ ngày Cải cách đến giờ, cô Tẽo, vợ Tham béo phây phây, chẳng làm ăn gì, suốt ngày hết họp đoàn thể phụ nữ, nông hội, bình xét thành phần giai cấp lại rủ nhau ra sân đình tập múa hát. Tẽo là con bà phó Vện. Ông Vện làm thợ rèn mắc bệnh xơ gan cổ trướng, bụng phình ra bằng cái chum rồi chết năm mới ba mươi hai tuổi. Cô con gái rượu của ông phó rèn càng lớn càng xấu, nhà lại nghèo rớt mồng tơi, thành ra đã xấp xỉ ba chục xuân xanh mà không một chàng trai làng Cùa nào thèm để mắt tới . Khiếp nhất là dáng đi , cứ vài ba bước cô ta lại giật một cái như là dẫm phải bọ cạp làm bà mẹ cũng phải phát bẳn chửi :
    - Mày đi đứng như thế thì có chó nó lấy.

    Cô con gái “hứ” một tiếng, đánh cặp mắt cùi nhãn lườm mẹ rồi gieo cái mông lặc lè như mông lợn ỷ xuống tấm phản đánh rầm một cái. Tẽo có tật thích tán chuyện, gặp đám chị em cùng hội cùng thuyền thì trưa không vội tối không cần mặc cho bà mẹ già ở nhà tha hồ mà chờ. Khi ấy Cấn Viết Tham đã ba nhăm, bố mẹ mất sớm, không tấc đất cắm dùi phải đi ở nhờ nên chẳng dám nghĩ đến chuyện cưới vợ. Chính đội Lạc đứng ra làm mối và tổ chức đám cưới cho cặp uyên ương này sau khi anh ta về làng Cùa được già nửa tháng. Đây là đám cưới đời sống mới đầu tiên ở vùng Ba Tổng mà chú rể tặng hoa cô dâu và dắt tay nhảy “xon mì” làm các ông già bà cả đang móm mém nhai trầu xuýt nữa bị nghẹn. Lấy nhau xong đôi vợ chồng được chia nửa ngôi nhà ngói, bảy sào ruộng đồng Quan và một chân trâu.

    Vợ con Lê Bang không còn ruộng, bà Chánh phải đi quét những hạt thóc rơi vãi mang xuống ao đãi sạch rồi đưa ra phơi. Hết vụ gặt họ đi tát thùng, vũng hoặc đánh giậm kiếm cá tép mang ra chợ chiều bán. Một hôm cô Thời đi mót khoai về, đang định nấu cháo thì phát hiện ra số gạo ít ỏi trong chum bị xúc trộm. Cô ta vội rỉ tai mẹ. Bà Chánh hỏi hai đứa cháu vừa đi móc cua về, đứa nào cũng lắc đầu. Lần khác, chính thằng cháu lớn lại hỏi cả nhà xem có ai bắt hai con cá trê to nhất nó thả trong chum để dành bán lấy tiền mua dầu thắp.
    - Vậy là nhà này có ma rồi... – Bà mẹ lẩm bẩm.
    - Không phải ma đâu. – Cậu Thể, con trai út ông Chánh chuyên đánh lưới bén ở ao Quan ngó ra ngoài một lúc rồi bảo – Mấy hôm trước, con vừa về để thúng cá cạnh bể nước, vừa ra cầu ao rửa chân quay lên đã mất con cá chép già nửa cân.
    Bà Chánh hất hàm chỉ lên phía nhà ngói:
    - Chẳng lẽ lại là...
    Cô Thời chép miệng:
    - Còn ai vào đây nữa. Đồ ăn bơ làm biếng.
    - Khẽ mồm chứ ! – Bà mẹ xua tay – Chuyện này không được hở ra, Đội Cải cách mà biết sẽ cho mẹ con ta ra đồng Chó Đá đấy.
    - Nhưng mà con tức lắm . – Cô con gái vẫn hậm hực- Ky cóp cho cọp nó ăn . Được rồi, con sẽ có cách.
    Mấy hôm sau, như thường lệ, cả nhà bà Chánh ra đồng. Cánh cửa chỉ khép hờ. Cô Thời vác gầu sòng với cái cuốc ra đến cổng thì tạt ngay qua bờ rào, lách khe chuồng lợn vào nhà bằng lối cửa mạch, nép phía sau bồ khoai khô ngồi rình. Quả nhiên không đầy một khắc, bà cốt cán đẩy cửa bước vào tự nhiên như là nhà mình. Chị ta nhìn trước nhìn sau thấy xung quanh không có gì đáng nghi liền mở nắp chum xúc luôn mấy bơ gạo mà bà Chánh phải đãi suốt ngày hôm trước mới gằn được hết sạn. Cho gạo vào khăn vuông xong, Tẽo túm lại định bước ra khỏi cửa thì Thời bất ngờ xuất hiện. Bà cốt cán tái mặt, cái miệng rộng há ra chưa nói được câu gì thì Thời đã chặn lại :
    - Hôm nay bắt được quả tang, hết đường chối cãi nhớ!

    Tẽo lắc đầu ấp úng:
    - Cô nói quả tang... cái gì?
    - Cái túm gạo chị đang cầm ở tay đấy. Thế mà cũng là cốt cán.
    Tẽo biết thế của mình đang rất bất lợi liền đổi giọng:
    - Chị trót nhỡ tay cô bỏ qua cho.
    Thời còn đang phân vân vì không muốn làm to chuyện thì Tẽo nhanh tay quẳng túm gạo ra sân kêu toáng lên:
    - ới bà con ơi! Con gái nhà chánh Bang nó xúc trộm gạo nhà tôi.

    Cấn Viết Tham lúc ấy đang họp ở đình nhưng chỉ một lúc sau đã có mặt tại nhà cùng với mấy dân quân đầy đủ súng ống và dây thừng. Người ta không cho Lê Thị Thời thanh minh mà chỉ nghe lời khai báo của thị Tẽo :
    -Từ lâu tôi đã biết con Thời có tính gian vặt nhưng mấy lần rình nó đều thoát được. Sáng nay tưởng tôi đi vắng, nó dám lẻn vào buồng xúc gạo rồi lấy ngay chiếc khăn trên lao màn bọc. Cũng may tôi về kịp nếu không nó còn già mồm cãi. Đấy các anh xem, gạo còn đổ tung toé khắp nơi, chối làm sao được.

    Tất nhiên không Đội Cải cách nào tin lời con gái địa chủ nhất là loại địa chủ đã bị toà xử tử hình. Chân lý thuộc về bần cố nông, là những ngưòi lúc này có thứ vũ khí rất mạnh trong tay đó là “chuyên chính vô sản”.

    Đúng như bà Chánh đã tự đoán, ngay ngày hôm ấy mấy mẹ con bị trục xuất khỏi làng đến cư trú ở đồng Chó Đá. Riêng cô Thời bị dân quân dẫn ra đình Cả. Đội Lạc chỉ thị cho Cung Văn Luỹ:
    - Canh giữ cẩn thận kẻo nó trốn mất, ngày mai sẽ có công an về điều tra.

    Vụ thứ hai xảy ra sau đó gần một tháng. ấy là cái bụng ứng Thị Sót phình ra. Đây là sự kiện động trời, bởi chồng cô ta là Lê Bản con cả Chánh bang đã chết trong trận Việt Minh đánh đồn Gừa từ năm năm hai. Hiển nhiên người không thể có chửa với ma, mà đấy là kết quả tất yếu sau những buổi hội ý chớp nhoáng hay lâu dài với đội Lạc trong suốt thời gian họ sát cánh bên nhau vì công cuộc "Cải cách ruộng đất". Chẳng mấy chốc “trống cơm” của bà cốt cán lộ rõ đến mức không thể giấu được nữa, thành thử gần đây cô ta không dám xuất hiện trước đám đông mà cứ đóng cửa ru rú ở nhà. Đội Lạc sợ lắm hẹn Sót buổi tối về nhà cũ có chuyện cần bàn. Lúc hai người bước vào sân hoàn toàn không biết có một bóng đen nấp đằng sau vách.
    Tiếng đội Lạc:
    - Tay Nghinh gọi ra đình bảo thế nào?
    Sót:
    - Hắn bảo có chửa với ai cứ khai thực ra, chi bộ sẽ giảm nhẹ hình thức kỷ luật.
    Đội Lạc:
    - ấy đừng, khai ra là mất hết, có khi còn đi tù nữa.
    Sót:
    - Làm thế nào bây giờ? Cái thai mỗi ngày một to không che mắt được người làng nữa rồi.
    Đội Lạc:
    - Cứ nói là một đêm đi họp về bị một kẻ bịt mặt cưỡng bức.
    Sót:
    - Liệu họ có chịu tin không?
    Đội Lạc:
    - Họ phải tin. Đợi chuyến này anh về cắt đứt với cô ta rồi cưới em một cách đàng hoàng. Em mà hở ra quan hệ của chúng mình là sự nghiệp của anh đi tong.
    Sót bất ngờ nổi tam bành:
    - Thế lúc nằm trên bụng tôi anh có nghĩ đến sự nghiệp không? Nếu anh có ý định chạy làng thì lành làm gáo vỡ làm muôi, gái này không chịu lép đâu.
    Đội Lạc cuống quýt:
    - Khẽ chứ em, cứ chịu đựng ít hôm rồi đâu vào đấy cả.

    Nhưng sự việc không đơn giản như đội Lạc nghĩ. Mấy hôm sau có người đàn bà bịt khăn mỏ quạ, mặc áo bông Tàu, quần láng đen từ Mạc Điền sang làng Cùa. Chị ta tìm vào sân đình hỏi thăm rồi rẽ lên xóm Cầu Đá. Nhìn thấy Phạm ổn là người được chia chung nhà với ứng Thị Sót, người đàn bà lạ đánh tiếng :
    - Bác làm ơn cho em hỏi có phải đây là nhà cô Sót bí thư phụ nữ?
    ổn thấy chị ta ăn mặc nền nã, nói năng dễ nghe biết là người tốt liền gật đầu bảo :
    - Cô ấy đang ở trong kia.
    Người phụ nữ đẩy cửa. Sót thoáng giật mình. Cô ta chưa bao giờ gặp người đàn bà này.
    - Chị hỏi ai?
    - Cô là cô Sót, cốt cán làng Cùa phải không?
    - Nhà chị là ai? Có việc gì?
    - Chị ở mãi huyện Nam An, có chút việc, nhân tiện rẽ qua đây nhờ cô.
    Cách nói ngọt như mật cùng với thái độ kẻ cả của người đàn bà lạ làm Sót sinh nghi. Chỉ vài ba câu, chị ta đã buộc "đồng chí" bí thư phụ nữ dù không muốn cũng phải nói rõ thân phận của mình. Khi đã nắm được những thông tin cần thiết người đàn bà bỗng nhiên trở mặt:
    - Bây giờ thì không giấu cô nữa, tôi chính là vợ anh Lạc.
    - Thì ra chị... lừa tôi.
    Vợ đội Lạc thay đổi cả cách nói năng, giọng chị ta trở lên đanh quánh:
    - Cái thai được mấy tháng rồi “đồng chí cốt cán”?
    Sót hiểu tình thế của mình, kiểu này xem ra chị ta đã biết chuyện liền cười nhạt bảo:
    - Việc này không liên quan đến chị. Tôi bị kẻ lạ mặt cưỡng hiếp ban đêm.
    - Bị cưỡng hiếp ở đâu? – Chị ta mát mẻ hỏi – Trong thùng trấu nhà cô hay hậu cung đình Cả?
    - Chị ra khỏi đây ngay, nếu không tôi kêu lên bây giờ.
    - Kêu lên đi! – Vợ đội Lạc bất ngờ túm tóc Sót kéo ra cửa vừa tát cảnh cáo mấy cái vào mặt vừa rủa - Đồ quạ tha ma bắt. Hôm nay bà phải cho con đĩ cướp chồng người khác một trận rồi muốn ra sao thì ra.
    - ối làng nước ơi! Cứu tôi với!

    Sót gào khá to. Dân xóm cầu đá kéo đến rất đông nhưng chỉ để đứng xem.

    Từ lâu họ đã ghét cô ta cậy thế đội Lạc hống hách, vu oan giá hoạ cho bao nhiêu người lương thiện khiến nhà tan cửa nát, phải bỏ làng đi tha hương. Bà cả Phê còn rỉ tai mọi người:
    -Tiếc là cái hôm lựu đạn nổ con nặc nô ấy không tan xác.

    Hai kẻ tình địch lúc này đã ôm cứng lấy nhau lăn xuống sân. Vợ đội Lạc quấn chặt tóc bí thư phụ nữ vào tay lấy hết sức bình sinh giật đi giật lại, còn cô ta vung hai nắm tay cứ nhằm mặt đối thủ mà đấm .Vật nhau một lúc, vợ đội Lạc khoẻ hơn dằn ngửa được ứng Thị Sót ra, ngồi đè lên bụng, hai tay tì lên xương quai xanh nhổ vào mặt “đồng chí cốt cán” :
    - Con đàn bà đĩ dài đĩ rạc, mày muốn chết thì tao cho mày chết.
    - Đồ thần đanh đỏ mỏ, bà mà dậy được thì mày sống cũng thành tật.
    Hai mụ đàn bà vùa võ mồm vừa võ tay trông rất là hài hước khiến bà cả Phê ngứa mắt bảo Phạm ổn :
    - Chúng mày cứ trố mắt ra mà nhìn à? Vào lôi hai đứa ra. Cái con bé mông to ngồi trên kia khéo làm con Sót truỵ thai mất.

    Tay ổn lảng ra giọng nhát gừng :
    - Cứ để cho chúng nện nhau chán đi, không sao đâu bà ạ.
    Có người báo khẩn cấp, chỉ ít phút sau đội Lạc, Cung Văn Luỹ, Lê Thị Chĩnh và mấy dân quân đã kịp thời có mặt. Nhìn thấy vợ ngồi chồm chỗm trên bụng nhân tình, Lạc sững người giọng mất hết cả thần khí.
    - Sao... sao lại... thế này?
    Bà Đội bấy giờ mới từ từ đứng dậy bĩu môi lườm chồng :
    - Sao với giăng gì. Tôi phải mất công từ kẻ La sang đây là để cho con đĩ cướp chồng người khác này bài học.
    Đội Lạc vừa tức vừa xấu hổ. Tình thế lúc này thật là bi hài, nhưng để vớt vát chút sĩ diện anh ta đành phải quát vợ:
    - Cô không được làm càn, hành hung người khác là phạm pháp, tôi hô dân quân trói lại bây giờ.
    Chị vợ cũng không phải tay vừa cất giọng châm trọc:
    - Vậy tôi hỏi anh, cán bộ Cải cách hủ hoá với nữ cốt cán có mang rồi bàn nhau về quê bỏ vợ thì phạm tội gì?
    - Cô đặt điều vu khống ai đấy? - Đội Lạc quắc mắt - Đồng chí Sót bị kẻ xấu rình lúc đi họp về bắt cóc cưỡng bức, chúng tôi đang phối hợp với dân quân truy tìm thủ phạm, đừng có nói càn.
    Vợ đội Lạc cười gằn, rút từ trong túi ra tờ giấy đưa cho Lê Thị Chĩnh bảo :
    - Đây là một trong những lá thư người làng Cùa gửi cho tôi, nhờ cô đọc to lên để bà con cùng nghe.

    Chĩnh con bỗng nhiên tái mặt, cầm bức thư xoay ngang xoay dọc một lúc lại đưa cho thằng Đại con ông đồ Sách. Cậu này đang học tiểu học nhìn qua một lượt rồi cất giọng ê a hệt ông bố giảng “Tam tự kinh”:
    - “Kính gửi chị Hoàng Thị Nhâm tức là vợ ông đội Mai Đăng Lạc đang làm Cải cách ruộng đất ở làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành. Tôi xin báo cho chị một việc quan trọng có liên quan đến hạnh phúc gia đình, là ông Đội nhà ta, trong thời gian ở làng Cùa, đã có quan hệ luyến ái với nữ cốt cán ứng Thị Sót...”.
    - Thôi, không đọc nữa! –Từ nãy đến giờ Sót vẫn nằm ăn vạ giữa sân, giờ thấy tình thế đã xoay chuyển, chợt nhận ra đội Lạc hoàn toàn là tay Sở Khanh liền ngồi dậy, kéo vạt áo che cái bụng lùm lùm rồi dõng dạc bảo : - Chẳng có thằng đàn ông nào bắt cóc cả chính anh Lạc đã ngủ vời tôi. Đứa con trong bụng này là của anh ta.

    Đội Lạc gầm lên:
    - Đề nghị đồng chí Sót ăn nói cho nghiêm chỉnh, không được vu khống.
    - Anh có giỏi thì làm đơn bỏ vợ ngay đi tôi sẽ rút lại lời tố cáo.
    - Cô ép tôi đấy à?
    - Thôi, đừng làm ra vẻ đạo đức nữa, anh ngủ với tôi bao nhiêu lần còn nhớ không?
    Sau vụ đánh ghen mấy ngày ứng Thị Sót bị khai trừ khỏi đảng, cách chức Bí thư phụ nư và uỷ viên Nông hội. Đội Lạc cũng mất sạch chức tước phải rời Đoàn Cải cách về kẻ La đi cày.

    Người về thay đội Lạc tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất làng Cùa là đội Ngọ. Anh này người xứ Nghệ, có chút học vấn, làm việc khá thận trọng, chính vì thế bà cả Huê, lý Quỳnh và một số địa chủ khác không bị tử hình mà chỉ bị mức án mười đến hai mươi năm tù.

    Làng Cùa sau cơn biến động dữ dội lại tạm thời yên tĩnh. Bùi Quốc Tầm khỏi vết thương. Từ đó anh ta không bao giờ dám cởi trần vì đám sẹo nhăn nhúm trông rất gớm ghiếc sau lưng. Dạo này Tầm chịu khó đi học “bình dân học vụ” đã đọc được chữ in tuy đôi lúc vẫn phải đánh vần ngắc ngứ. Lê Thị Chĩnh Con đột nhiên biến khỏi làng chẳng biết vì lý do gì mặc dù lúc ấy cô ta đã thay ứng Thị Sót làm bí thư phụ nữ xã Đoàn Kết. Cốt cán Sót đẻ con gái. Đứa bé rất bụ tóc đen và dầy, cặp má phính phính, hai bàn tay ếch lúc nào cũng khua múa như đánh võ. Mấy bà đồng bóng chuyên nhảy nhót ở đền Sòng kháo nhau: “bố mẹ nó nửa đêm vào hậu cung làm chuyện báng bổ thánh thần thế mà được đứa con gái đẹp như Ngọc Nữ, nhưng chớ vội mừng, đời còn dài lắm”.

    (còn tiếp)

  2. #2
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 11

    1. Lái Lự hồi bốn sáu đã là uỷ viên Mặt trận Liên Việt, những năm sau này lại ủng hộ gạo cho kháng chiến nhưng cũng không thoát khỏi tầm ngắm của Đội Cải cách xã Nhân ái. Người ta phát động bần cố nông tìm ra vô số tội có thật và không có thật của ông ta trong quá khứ để quy kết bằng được thành phần địa chủ phản động. Nặng nhất là vụ bán gần hai chục con trâu cho đồn điền Ba gia sau đó đến việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân áo Đen của Khúc Kiệt. Ông cựu lái trâu ngồi trong nhà giam chín ngày thì bị mang ra xử. Với từng ấy tội danh, căn cứ vào khung hình phạt rất tuỳ hứng của Toà án Cải cách đang thi hành, dù có bổ sung tình tiết tăng nặng chăng nữa ông cựu uỷ viên Liên Việt cũng chỉ tù chung thân là cùng. Nhưng khốn nỗi là, Uỷ ban Cải cách đã phân bổ chỉ tiêu án tử hình cho các xã. Nhân ái gồm bốn làng bình quân mỗi làng ít nhất phải có ba. Làng Bòng mới xử bắn phó tổng Phạm Công Cảo và Lý trưởng Trần Phê, còn một suất nữa tất nhiên phải là lái Lự.

    Sau khi ông lái trâu bị hành quyết ở miễu Đài Sơn, người ta chia cơ ngơi của ông ta cho hai cố nông xóm Bối. Mẹ con bà cháu bà Hai bị tống ra khỏi nhà vì bao nhiêu năm nay họ chỉ là người ở nhờ. Chính quỳên mới không thừa nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông Lái và bà Thoả. Ngôi nhà cũ của cụ Khán bên làng Nội bị Tây đốt năm năm mốt, phần đất còn lại xem như vô chủ đã được Đội Cải cách cấp cho một hộ bần nông. Ngay chiều hôm ấy, cả nhà kéo nhau ra cồn Vành ở tạm trong dãy chuồng trâu cũ của ông Lái. Chuồng trâu chỉ còn lại bốn bức tường đắp bằng đất nện, toàn bộ phần mái đã bị cơn bão năm Tý lột sạch quăng ra giữa sông. Tóm lại đó là một cảnh hoang tàn, đổ nát mà nhìn vào đó người ta có thể thấy được lẽ thịnh suy của thế sự và cái vô nghĩa của những cuộc bắn giết lẫn nhau chỉ vì muốn giành quyền lực về tay mình.

    Sông Lăng lừ lừ trôi, nước phù sa đỏ đòng đọc dưới ánh chiều tà. Một con thuyền chở đá nặng nề ngược nứơc. Bầy chèo bẻo phải đến vài chục con bay chập chờn trên mặt sông, có lúc cặp cánh của chúng chạm đến đầu ngọn sóng như là muốn tắm rồi lại lao vút lên chẳng khác gì mũi tên vừa bật khỏi dây cung.

    Lê văn Khải và Lê văn Nghiên ngày ngày vào miễu Đài Sơn chặt tre làm nhà. Từ cồn Vành đến miễu vừa đi vừa về mất đúng một ngày. Hai anh em bền bỉ vác tre như kiến tha mồi, khoảng nửa tháng thì công việc hoàn tất. Sau chiến tranh, cồn Vành gần như bị bỏ hoang, lại vô chủ nên mẹ con bà Hai tha hồ chăn nuôi trồng trọt. Cá sông Bối nhiều, anh em Khải Nghiên ngày nào cũng quăng chài, thả lưới kiếm được hàng thúng trôi chép cho mẹ mang đi chợ Lành bán. Nhưng đến mùa lũ thì khổ. Mùa lũ bắt đầu từ tháng bảy ta, phù xa từ ngàn xanh đổ về chỉ một ngày một đêm cồn Vành, cồn Láng thành biển nước mênh mông. Gò me như một ốc đảo, mọi sự đi lại đều bị đình trệ nếu không có thuyền. Khu truồng trâu trở thành nơi tá túc của đủ loại cầy cáo, chuột và rắn. Anh em Khải nghĩ ra cách đặt bẫy xen với lưới vó căng chung quanh hàng rào tre, sáng nào cũng tóm được vài con cho mẹ om riềng.

    Ít lâu sau Khải bàn với Nghiên đóng chiếc vó bè và mua năm chục vịt giống về thả. Mùa nước lũ nuôi vịt không cần cho ăn vẫn lớn như thổi vì cồn Láng nhiều tôm cá. Đến tháng hai năm sau, đàn vịt tăng lên ba trăm con. Thương lái từ ngã ba Môi biết tiếng, đánh thuyền ngược sông Lăng về mua trứng. Nhưng rồi chuyện làm ăn của anh em họ Lê không qua được mắt ông chủ tịch xã Nhân ái Hoàng Đình Tằng. Tằng tuổi ba bảy, người làng Hệ, cách kẻ Bòng một cánh đồng, chuyên câu ếch. Chỉ với cái cần trúc, cuộn cước buộc lưỡi câu với giỏ nhái mà trong vòng ba bốn năm anh ta tóm được ở đầm Vực, ao Chài và cồn Vành hơn vạn con ếch. Chiếc lưỡi câu gài hoa mướp trong tay Tằng như có ma thuật. Tay trái giữ cần trúc, tay phải cầm cuộn dây, anh ta điều khiển lúc căng lúc chùng, lúc chỉ khẽ vờn làm như con nhái nhảy chồm chồm, lúc lại lặn một mạch xuống vùng nước không có bèo bằng cách miết dây, khiến cho lũ ếch dù có tinh khôn đến mấy cũng chẳng hề dửng dưng trước thứ màu vàng huyền diệu của cánh hoa mướp và mùi đặc biệt hấp dẫn của chàng nhái sọc. Tằng là sát thủ đáng gờm của họ nhà ếch, nhưng cái nghề ấy không thể nuôi sống được bảy miệng ăn, trong khi năm sào ruộng trũng của ông bố để lại anh ta đã đem gán nợ sau một đêm xóc đĩa thua cháy túi, đành phải đến nói khó với lái Lự vay tiền mua vó bè làm kế sinh nhai. Ông Lự bảo :
    - Tao cho vay tiền làm nghề để vợ con khỏi chết đói chứ không phải để đánh bạc. Sau ba tháng phải trả cả gốc lẫn lãi nếu không tao trình lý trưởng cắm đất, mày có đồng ý thì ký vào văn tự.

    Lãi cao nhưng ngoài ông ta ra, khắp tổng An Lạc không ai có tiền mà lại nhả ra cho một thằng khố rách áo ôm chuyên nghề đỏ đen như anh ta vay.Tằng rập đầu tạ ơn ông Lái rồi sang chợ Lành mua vó. Tre lồng ngộc thì nhờ mấy thằng bạn vào miễu Đài Sơn chặt. Mấy hôm đầu, anh ta làm ăn tử tế, ngày nào cũng có cá cho vợ bán. Nhưng rồi dần dần lều vó trở thành nơi chứa chấp phường cờ bạc của cả mấy làng trong vùng. Chưa đầy một tuần Tằng nhẵn túi còn đèo thêm khoản nợ mới gần trăm bạc. Ông Lái biết tin cho người đến thu bộ gọng vó về để góc vườn. Sau vụ ấy gã câu ếch bỏ mặc vợ con, ra sông Lăng theo cánh đò dọc. Giữa năm năm tư, hắn về làng, việc đầu tiên là đến nhà lái Lự sừng sộ :
    - Ông Lái trả chiếc vó bè để tôi làm ăn.

    Lái Lự chỉ tay ra vườn bảo :
    - Bộ gọng tôi để ngoài kia anh ra mà vác, vó ở trong buồng tý nữa chị Hài đưa cho, nhưng trước khi mang vó đi phải hoàn lại hai đồng tư đã vay năm Tỵ. Tôi chỉ lấy gốc còn lãi thì coi như biếu anh.

    Tằng thần người ra một lúc rồi cười nhạt :
    - Đất nước độc lập rồi, bao nhiêu nợ cũ đều xoá hết, ông biết điều thì đốt văn tự đi nếu không nay mai đội Cải cách về làng có mà tù mọt gông.

    Anh ta nói không sai. Tháng chín Đội về làng Bòng thật. Hoàng Đình Tằng được cử làm chủ tịch xã. Lái Lự bị bắt giam, chín ngày sau lĩnh án tử hình.

    Một hôm Tằng ra Cồn Vành câu ếch nhìn thấy ngôi nhà mới làm của mẹ con bà Hai, tức điên lên. Bọn này dám chiếm cứ cánh bãi chung quanh gò Me làm giàu, đang có âm mưu phục thù giai cấp đây. Phải trị đến cùng để chúng biết thế nào là công bằng xã hội. Các người lại dám giầu hơn bần cố nông à?

    Trưa hôm sau, Tằng cử xã đội trưởng Nguyễn Công Phiên dẫn mấy dân quân khoác súng ra cồn Láng với một cái lệnh. Nội nhật trong ba ngày, bà Hai Thoả và các con cháu phải đi khỏi gò Me, trái lệnh sẽ bị tống giam. Lê Văn Khải điếng người nhìn tay xã đội bằng cặp mắt hằn học:
    - Chúng tôi đã bị đuổi khỏi làng Bòng, giờ lại bị đuổi nữa các ông bảo đi về đâu?

    Nguyễn Công Phiên rút trong túi ra mảnh giấy đưa cho Khải, tay chỉ sang bên kia sông:
    - Các người là dân làng Cùa về bên ấy mà ở. Ông chủ tịch đã viết công văn thông báo cho xã Đoàn Kết, cầm sang đưa cho họ.

    Bà Hai đang bị ốm cũng phải gượng dậy ra nói ngọt với cánh dân quân :
    - Xin các ông thư thư cho dăm hôm để mẹ con nó thu xếp.

    Ông xã đội lắc đầu:
    - Không được, ở nơi vắng vẻ thế này các người sẽ tìm cách móc nối với bọn biệt kích, gián điệp gây bạo loạn….
    Lê Văn Nghiên vừa ở bãi về thấytình hình có vẻ căng liền tìm cách đấu dịu :

    - Chúng tôi đi ngay cũng được nhưng khó nhất là đàn vịt với chiếc vó bè, mong các ông thông cảm cho lui lại.
    Xã đội Phiên khoát tay :
    - Mấy tháng nay mẹ con bà làm ăn trái phép ở cồn Láng nên Uỷ ban xã quyết định sung công đàn vịt và tất cả các phương tiện đánh cá. Không nói lải nhải nữa, yêu cầu công dân Phùng Thị Thoả chấp hành.

    Chuyến sang sông này của mẹ con bà Hai thật là bất đắc dĩ. Bốn người không một xu dính túi. Mấy tháng trời vất vả đổ mồ hôi nước mắt mới có được đàn vịt và chiếc vó bè bỗng chốc bị cướp trắng. Bà Hai xót của thở dài :
    - Một đời đã gặp mấy lần tao loạn nhưng chưa bao giờ khốn nạn như thế này.

    Đó là một chiều tháng Tư nhạt nắng. Bà Hai Thoả, sáu mươi nhăm tuổi, tóc bạc, lưng còng chống gậy dẫn đám con cháu từ bến đò lên điếm Bài Vân.

    Khúc Thị Hài quấn khăn tang, cánh tay tật nguyền bỏ thõng, tay kia xách bị cói. Hai anh em họ Lê cúi đầu lầm lũi bước, thỉnh thoảng ngẩng lên, lập tức bắt gặp ánh mắt nghi ngại của người làng Cùa. Đường làng vẫn như hồi họ còn bé, nghĩa là vừa hẹp vừa gồ ghề và đặc biệt bẩn thỉu khi trời mưa. Phân trâu, phân chó rải rác khắp các ngõ xóm, hết lần cũ đến lần mới, gặp mưa lẫn với đất thó tạo thành thứ bùn xam xám, nhão nhoét, hễ nắng lên là bốc mùi thum thủm theo gió tây nam tràn vào các nhà. Làng Cùa trước đây rất nhiều chuối, tốt như rừng, trồng trong vườn hoặc rải rác dọc các ngõ xóm tạo thành một không gian âm u, ẩm ướt là nơi trú ngụ lý tưởng của muỗi. Từ ngày Cải cách, tất cả các bụi chuối đều bị phạt tận gốc, củ đào lên om lươn, thân, thái cho lợn. Thay vào đó là những ụ đất bằng đống rạ, cao như mả thằng ăn mày bên đường quan để trồng khoai lang chống đói theo sáng kiến của một nhà khoa học nông nghiệp nổi tiếng lúc bấy giờ.

    Tối hôm ấy mẹ con bà Hai vào ở nhờ ngôi nhà tranh ba gian của Ngô Quỳnh. Từ ngày ông ta đi tù đến giờ nhà vẫn bỏ không. Sáng hôm sau, anh em họ Lê mang tờ giấy của Hoàng Đình Tằng nộp cho Uỷ ban xã Đoàn Kết. Bùi Quốc Tầm đọc đi đọc lại mãi đến khi nhìn thấy con dấu chữ nhật in bằng mực đen đóng đè lên chữ ký như con nòng nọc của chủ tịch xã Nhân ái ở mặt bên kia mới vào :
    - Gia đình các anh thuộc đối tượng phài quản lý chặt chẽ. Bên ấy người ta không cho ở là đúng. Trước mắt các người hãy tạm trú ở nhà Ngô Quỳnh, thường trực Uỷ ban họp bàn rồi sẽ thông báo sau nhưng nhớ là, ra khỏi làng phải đến trình công an xã.

    Cuối cùng thì Uỷ ban xã Đoàn Kết cũng chấp nhận cho gia đình bà Hai cư trú tại làng Cùa nhưng gần nửa tháng mới có thông báo chính thức. Chỗ ở là một rẻo đất phía tây nam xóm Trại Cá, nơi trước đây bà cả Huê cắt cho mẹ con bà Hai sau khi Khúc Đàm bị giết. Xóm Trại Cá gần ngòi Mác, nằm ngay trên đường ra đồng Chó Đá. Cách đấy không xa là khu ruộng Chùa chỉ cấy một vụ về mùa tháng Tám, rất nhiều tôm cá. Việc đầu tiên là phải dựng nhà. Người làng Cùa dù có một số bà con thông cảm hoàn cảnh nhưng không ai dám giúp đỡ mẹ con bà Thoả trừ Trịnh Doãng. Mọi việc từ mua tre, đắp nền, nhào đất trát vách đến xin rạ hắn đều làm rất tận tình. Mấy anh em xoay trần ra chừng nửa tháng thì ngôi nhà ba gian hai chái hoàn thành.

    Dịp ấy cả vùng Ba Tổng đói. Hơn nửa năm trời, hết ngày lại đêm, người ta chỉ giành thời gian cho các cuộc mít tinh, đấu tố địa chủ cường hào, xử án Việt gian phản động, học bài hát và nhảy sạp mà quên mất nhiệm vụ cày cấy trên mảnh ruộng vừa được Đội chia, vì thế đến vụ gặt, đồng điền vẫn xanh ngút ngàn những cỏ là cỏ. Sau bao nhiêu năm tao loạn, đất canh tác bỏ hoang quá nửa bạc màu, cây lúa còi cọc như tăm hương, lúc thu hoạch mười phần không được một. Làng xóm tiêu điều báo hiệu một nạn đói mới đang rình rập có khi còn hơn cả tháng ba năm ất Dậu.

    Những thế hệ con trai con gái lớn lên trong cảnh no đủ sau này sẽ không thể hình dung cảnh mặt trời tháng tư năm đói như thế nào. Đó là thứ màu đỏ cà chua hơi sẫm ở giữa, nhàn nhạt chung quanh đang từ từ chìm xuống đường chân trời được nhuộm một thứ màu vàng mỡ gà ảm đạm. Quả cà chua khổng lồ ấy rơi một cách chậm chạp, nặng nề dường như không muốn chịu sự chi phối của quy luật tuần hoàn vũ trụ mà cứ thích vung vãi mãi thứ ánh sáng ghê rợn ấy xuống thế gian với ý thức huỷ diệt. Những chiều như thế, cứ xâm xẩm tối là vợ nhìn vào mắt chồng thở dài, cha nhìn con ai oán. Trẻ đói khát nhìn nhau bằng cặp mắt trống rỗng, vô hồn.

    Củ chuối mài nhỏ nấu lẫn với cá lẹp, rau muống bè độn cơm là thứ thức ăn phổ biến của bà con bần cố nông. Đến khi không còn gì có thể ăn được nữa, chủ tịch Bùi Quốc Tầm quyết định cho nhân dân dỡ khoai lang ụ vì từ lúc trồng đến giờ đã được gần năm tháng. Nhà nhà khấp khởi mừng thầm nghĩ rằng sắp được mấy bữa no, ai ngờ sau khi ụ được cuốc ra, bên trong chỉ toàn là rễ. Có những ụ, rễ dài lòng thòng quấn lại như mớ bòng bong, nhìn thấy, ai cũng lắc đầu ngao ngán. xóm Trại Cá có mười bảy hộ thêm bà Hai là mười tám . Nhà xã đội Lương Văn Mực ở bên trái, bà Hai bên phải chỉ cách nhau một bờ rào. Chính Mực là người chỉ huy hành quyết Lê Văn Vận rồi mấy hôm sau chết trong vụ nổ ở nhà ứng Thị Sót. Bây giờ là đầu tháng tư âm lịch, lúa mới đứng cái chưa thể gặt hái. Vợ chồng Mực có ba đứa con gái và một thằng con trai. Đứa nào cũng xanh như tàu lá vì đói. chị vợ goá chưa đến ba mươi mà hom hem như bà già ngũ tuần, quần ống thấp ống cao, suốt ngày lấm láp như vừa đi tát vét về.

    Sáng nào mẹ con chị Mực cũng dậy sớm xuống đồng Mạc Điền, Đậu Khê móc cua. Những hôm dậy muộn, chậm chân, bọn xóm Đình, xóm Cầu Đá bắt hết là hôm ấy nhịn phèo. Những ngày này dân các làng đổ ra đồng như trẩy hội. Cua ốc, tôm cá, châu chấu, cào cào, thứ gì ăn sống người là bắt tuốt cho vào chiếc giỏ tre đeo lủng lẳng bên sườn. Thằng Vê con chị Mực vồ được mấy chú muỗm tre, vặt cánh rồi bỏ luôn vào miệng nhai rau ráu vì nhà hết gạo đã lâu, nó đói quá. Chỉ trong một thời gian ngắn các loài thuỷ tộc ở tất cả chín khu đồng làng Cùa gần như đã bị tận thu, lúc này thứ còn có thể kiếm được ra tiền là cỏ cồn Vành tuy rằng giá rẻ như bèo.

    Sông Lăng mùa này cạn nước. Dân tứ xứ kéo sang Cồn Vành cắt cỏ nên lão Tam chột, mới được uỷ ban xã Đoàn Kết cắt ra chở phà, cáu vì tăng chuyến mà thù lao thì vẫn thế. Lão chửi rầm nên nhưng chẳng ăn thua gì. Các bà các chị vẫn quảy quang gánh xuống bến nườm nượp. Tam Chột bốn ba tuổi, cháu gọi lái Tình đã chết trong trận lũ cách đây hơn hai mươi năm bằng cậu. Lão không máu rượu như cậu mà nghiện thuốc lá nặng, lúc nào cũng vắt vẻo điếu sâu kèn bên khoé môi. Tam chột có tật hay văng tục. Mỗi khi chửi lão thường đẩy nhanh điếu thuốc từ mép này sang mép bên kia, thành thử âm thanh phát ra nghe cứ bập bềnh như sóng vỗ mạn thuyền. Phương tiện xã giao cho Tam Chột quản lý là chiếc phà gỗ mỗi chuyến chở được vài chục người. Chiếc phà chẳng biết được đóng từ khi nào, bằng loại gỗ gì, nhưng nhìn bề ngoài đáng ra đã phải nghỉ hưu từ lâu bởi vô số những vết rạn nứt cùng đủ loại mảnh ván tạp nham táp vào chẳng khác gì tấm váy đụp của bà đĩ Hoe được ông bí thư huyện uỷ tự tay treo vào phòng truyền thống để cho các thế hệ con cháu biết được tội ác bóc lột dân cày của bọn địa chủ cường hào.

    Phụ chèo cho lái Tam là Tư Quýnh. Tay này khoảng hai tám ba mươi, trông khá đẹp mã nhưng bị tật nói ngọng, con gái làng chê. Anh ta tức mình rước một cô bên Mạc Điền về làm vợ. Con gái Mạc Điền trắng trẻo, thắt đáy lưng ong, khéo nịnh chồng chỉ phải tội đi chợ hay ăn quà vụng. Tư Quýnh chèo khoẻ, đẩy phà băng băng, lão Tam thích lắm nhưng thỉnh thoảng vẫn chửi vì cái tật rình đàn bà tắm sông.
    - Đồ con lợn, thích thì xuống tận nơi tụt quần nó ra mà sờ việc gì phải nấp trong vườn chuối như chó rình cứt trẻ con.

    Tư Quýnh tức lắm quẫy mạnh mái chèo quay ngược mũi phà làm lão Tam chột gồng người cạy mãi không ghé được vào bến. Lão toát mồ hôi hột, miệng bập bập điếu thuốc rê ngoảnh lại chửi:
    -Tổ sư thằng ngọng xỏ lá!

    Lúc ấy đã trưa. Dân cắt cỏ vẫn còn đông nghịt trên bờ. Chị Mực, cái Vấn, cái Vít đã xuống được phà, chỉ còn cái Vịt chờ hai chị lên đỡ. Gánh cỏ của nó kềnh càng mà phà thì đã đầy nhưng lão Tam vẫn chưa chịu rời bến. Lão hất hàm cho Tư Quýnh nhấc gánh của cái Vịt lên rồi dùng chiếc sào dài cán ngang đẩy mọi ngươì ép sát về đằng lái. Lão quyết định chở thêm mười hai gánh nữa. Con phà lắc lư trừơn đi một cách khó khăn vì ngược nước. Có những lúc mái chèo của Tư Quýnh cong vát đi, tưởng sắp gãy đến nơi. Tay lái của lão Tam cọt kẹt bởi tiếng dây chão nghiến vào gỗ nghe rợn cả người. Phà ra đến giữa sông bỗng nhiên mọi người nghe thấy mấy tiếng rào rào. Chết cha rồi, gãy mái chèo. Nhưng không phải, chính là nước từ đáy phà tràn lên. Chỉ trong khoảnh khắc, do sức đẩy khá mạnh, chiếc phà chở quá nặng bị vỡ làm đôi. Lão Tam và Tư Quýnh mỗi người một bên, tay vẫn nắm mái chèo nhưng mặt xanh như đít nhái, mồm há hốc, đang hốt hoảng chưa biết làm thế nào thì cả hai nửa chiếc phà đều bị lật, hất tất cả đám hành khách đang kinh hồn bạt vía kia xuống nước.

    Hầu hết đám đàn bà con gái đều không biết bơi hoặc bơi kém. Họ vùng vẫy một cách tuyệt vọng trước làn nước đục lờ lờ, bám vào bất cứ thứ gì vớ được trong tầm tay, hy vọng khỏi làm mồi cho thần Thuồng Luồng. Hai nửa chiếc phà có đến vài ba chục bàn tay bám vào, người nọ túm áo người kia như một đám rồng rắn. Những mảnh gỗ vá víu ngấm nước cùng với vô số đai sắt, bulông khá nặng, không chịu được phụ tải, từ từ chìm xuống. Trên mặt sông chỉ còn những bàn tay chới với cùng với tiếng la hét tuyệt vọng.

    Anh em họ Lê lúc ấy đang gỡ lưới ở lạch Cá Bơn, nghe tiếng người trên bãi ngô kêu gào vội cho thuyền ra bến. Hai người cố sức chèo nhưng cũng phải nửa khắc mới đến được chỗ phà bị nạn. Tất nhiên là lão Tam Chột và Quýnh ngọng không sao. Họ sợ đám đàn bà bám vào nên đã lặn xuống thật sâu, bơi ra xa rồi vào bờ lấy thuyền ra cứu chị em. Nghiên nhảy xuống sông, lập tức có hàng chục bàn tay túm áo xuýt nữa thì chết chìm. Lão lái phà vội nhào theo tiếp sức cùng Nghiên đưa từng người lên thuyền. Bên kia, Lê Văn Khải và Tư Quýnh cũng vớt được bốn năm cô đã uống no nước. Sau gần hai tiếng đòng hồ, mệt bở hơi tai họ đưa được hai mươi bảy nạn nhân vào bờ, bảy người khác bị nước cuốn đi trong đó có cái Vịt. Lê Văn Khải bị vợ Lại Quang Nghinh quàng tay bấu chặt lấy cổ rồi cứ thế chìm xuống vì chân chị ta có đến hai người nữa bám vào. Khải phải nín thở, vặn người nhoài ra mãi mới thoát. Hai bà già kia sặc nước nổi lập lờ được Quýnh ngọng kéo lên thuyền. Gần tối hôm ấy người ta mới tìm được xác cái Vịt. Nhà Mực khóc con rất là thê thảm. Mẹ con chúng không có tiền đóng ván phải quấn chiếu bó lạt mang ra đồng Chó Đá chôn. Hai anh em Khải khênh cái Vịt, Tư Quýnh vác mai cuốc, lão Tam chột cầm bó đuốc dài gần hai thước tây thỉnh thoảng quay một vòng làm lửa loé lên, tàn bay tứ tung. Bốn mẹ con không còn bơ gạo nào. Trong chum chỉ lổng chổng mấy lát khoai khô. Bà Hai thương tình bảo Lê Văn Nghiên mang cho nửa rổ khoai lang. Số khoai ấy, Khúc Thị Hài mua ở chợ Rồng chiều hôm trước sau khi bán mớ cá chày Khải đánh được trên sông Lăng.

    Sau mấy tháng ở trong ngôi nhà " quả thực", Phạm ổn và ứng Thị sót bắt đầu gỡ cánh cửa bức bàn gỗ lim mang sang chợ Cháy bán. Đói quá, họ bàn nhau mỗi hộ chỉ ở một gian, còn gian chính đường có thứ gì kiếm ra tiền đều bán. Hôm sau Sót gọi người vào mang đi bộ đồ thờ. Tất cả long án, bồ đài, ống hương, lư đồng, mâm ngũ quả đều lần lượt chất lên chiếc xe ngựa của lão Tuế Sứt mang lên phố huyện cho bà Cát Đại. Bà Cát xấp xỉ bốn mươi, ngực lép nhưng cổ chân to như chân voi vì bị giun chỉ có ông anh ruột làm bộ trưởng ở Hà nội, nửa công khai, nửa bí mật khuân gần hết đồ tế tự ở làng Cùa với cái giá rẻ như cho không. Bà ta mua những thứ linh thiêng này không phải để kinh doanh mà cất vào kho, hy vọng có ngày chủ của nó đến chuộc lại.

    Đồ Sách không những không bị xử tù về tội chửi càn mà còn được xếp vào thành phần bần nông vì có anh cháu họ trong Đội Cải cách làng Chi Điền, trước đây ở cùng trung đội với đội Ngọ. Ông ta được chia bốn sào ruộng đồng Gà và bộ long án bằng gỗ vàng tâm sơn son rất đẹp. Chiếc án thờ gỗ gụ chạm khắc khá tinh xảo chiếm già nửa gian nhà, một mình không mang đi được, Đồ Sách phải gọi hai thằng cháu ngoại đến khiêng. Hai đứa cháu mấy hôm nay chỉ được bát cháo khoai khô cầm hơi, chân tay chệnh choạng như của đi mượn. Bỗng "rầm", thằng Tề bị hẫng, cái án thờ chao nghiêng đổ xuống sân gạch vỡ làm mấy mảnh. Ông ta tức mình chửi hai thằng cháu một trận. Chiều hôm ấy, cái án thờ được chẻ ra quẳng vào bếp làm củi. Mấy hôm sau, từ sớm tinh mơ, người ta thấy ông Đồ gánh một gánh, một bên là mấy chiếc bồ đài cùng với mâm ngũ quả, bên kia, chiếc lư đồng mắt cua ra đường 228 lên chợ Cháy. Mẹ con chị Mực sau ngày cái Vịt chết đuối không sang cồn Vành cắt cỏ nữa mà trở lại nghề móc cua. Dân làng Cùa dạo này kéo nhau xuống Đậu Khê, An Bối, Chi Điền kiếm ăn, nhưng những nơi này cũng đang có nguy cơ chết đói. Khắp vùng Ba Tổng, các dải bờ ruộng bị thuổng cuốc đào bới nhoe nhoét. Lúa đang làm đòng vốn dĩ còi cọclại bị hàng trăm hàng ngàn bàn chân dẫm nát chắc mười phần chỉ được một hai.

    Buổi trưa, sau khi húp bát canh cua loãng nấu với rau tập tàng, cái Vấn cái Vít rủ nhau sang Đậu Khê tát cá. Trời đang nắng gắt. hai đứa vét được lưng giỏ lòng cò rồi vào gốc gáo ngồi nghỉ. Bất chợt cái Vít nhìn thấy mấy vồng khoai lang liền gạ chị :
    - Hay là ta hái ít ngọn khoai về xào với tỏi ăn?
    Cái Vấn lưỡng lự:
    - Ruộng khoai của ông chủ tịch đấy, nhỡ người ta biết thì chết.
    - Ngắt vài ngọn sợ gì, chị không làm để em, nhưng tối về đừng có chọc đũa vào.

    Cái Vấn nghĩ đến mùi ngọn khoai xào tỏi đã nuốt nước miếng, nhìn trước nhìn sau thấy đồng đã vắng người liền chạy theo em. Cái Vít vừa hái ngọn vừa bới gốc. Đây rồi. Những tia củ bằng ngón tay đã bắt đầu lộ ra. Nó bẻ gãy mấy đoạn, lấy vạt áo lau rồi đưa lên miệng nhai rau ráu. Cái Vấn thấy em ăn, nó ngần ngừ mãi rồi cũng cúi xuống kéo một chùm rễ lên. Hai đứa mải ăn không để ý vợ chủ tịch Tầm từ phía sau bước đến. Chị ta thuộc loại đàn bà chua ngoa, quay quắt, nhất là từ khi chồng làm chủ tịch, lên mặt, coi bà con dân làng chẳng ra gì. Hai chị em sợ quá bỏ cả giỏ cá với nắm ngọn khoai ù té chạy.

    Chiều hôm ấy, hai dân quân đến nhà chị Mực bắt ba mẹ con ra trụ sở Uỷ ban. Họ tống cái Vấn cái Vít vào buồng khoá lại, bắt chị Mực phải mang tiền bồi thường chỗ khoai bị móc mới cho hai đứa về. Chị ta không biết tìm đâu ra tiền đành mang cái hòm khoá chuông được chia hồi Cải cách sang nhà bà Hai :
    - Bà làm phúc cho con vay mấy nghìn cứu các cháu.

    Bà Hai ngẫm nghĩ một lúc rồi tháo đôi khuyên bạc đưa cho vợ Mực bảo :
    - Nhà chị mang sang chợ Cháy mà bán, có lẽ cũng đủ số tiền nộp phạt, còn cái hòm này mang về, tôi không giữ làm gì.
    - Con đội ơn bà nhưng nếu thế thì con không dám cầm đôi khuyên.
    - Đã bảo cứ cầm về. Nửa tháng nay, nhà này cũng toàn ăn khoai với canh cua, nhưng tao thương hai đứa. Tội chúng quá.

    Chập tối thì cái Vấn cái Vít được thả. Hôm sau, vợ Mực ra chợ Rồng đong ba ống gạo, mua nửa cân thịt và mấy cái bánh đa. Thịt thì luộc. Bánh đa bẻ ra nấu với cua, thật là một bữa ăn thịnh soạn làm thằng Vê mắt sáng lên. Cái Vấn hỏi :
    - Mẹ lấy đâu ra tiền mà ăn sang thế?
    Vợ Mực bảo :
    - Bà Hai cho vay đôi khuyên, mẹ bán đi đền cho chúng mày, còn thừa một ít làm mâm cơm cúng bố.
    Cái Vít tuy háu ăn nhưng thấy mẹ tự nhiên tiêu hoang khác hẳn với ngày thường cũng sinh nghi :
    - Vay rồi sau này lấy gì mà trả?
    - Mẹ đã mang cái hòm khoá chuông sang nhưng bà không nhận.
    - Cái hòm chỉ đáng mấy bơ gạo, mẹ làm thế bác Hài với các anh ấy khinh cho.
    Chị Mực thở dài:
    - Biết làm thế nào được hả các con? Nhà mình cùng đường rồi.

    Cơm trắng, thức ăn ngon nhưng bốn mẹ con ngồi rất lâu, khác hẳn mọi ngày, bữa ăn mãi đến quá ngọ mới xong. Thằng Vê có lẽ đã no, vừa buông đũa buông bát thì mặt mày tái nhợt, hai cánh mũi phập phồng, mắt trợn ngược, ngã vật xuống ngay bên mâm cơm. Cái Vấn thấy sự lạ, quờ tay nâng em dậy nhưng chính nó cũng đang mất thăng bằng, mắt hoa lên, đầu quay cuồng điên đảo như lúc bé bị đặt lên cối xay lúa. Cái Vít trợn mắt nhìn mẹ, hai tay quờ quạng, cổ họng giật giật mấy cái rồi nôn thốc nôn tháo như ăn phải mùn thớt. Trước mắt chị, những đốm xanh đỏ tím vàng cứ hiện ra rồi lại mất đi, có lúc chúng lồng vào nhau thành khối hỗn độn ngũ sắc, lúc lại tách riêng, phồng ra thành những quả bóng đỏ sẫm bay dần lên cao. Trong tai chị như có tiếng sấm nổ lục bục chẳng khác gì búa tạ gõ vào thái dương làm cặp mắt đờ dại như muốn bật ra khỏi tròng. Ruột gan người mẹ sắp đứt ra từng khúc bởi những cơn đau xé làm toàn thân chị ta co giật ngả nghiêng.

    Tầm xế chiều, Khúc Thị Hài đun nước gội đầu, chạy sang nhà Mực xin lá bòng, thấy cửa mở toang liền ngó vào bỗng tay chân rụng rời, bổ về gọi bà Hai.

    Bốn mẹ con chị Mực nằm co quắp bên cạnh mâm cơm vẫn còn mấy miếng thịt lợn và bát canh bánh đa ăn dở. Bà Hai đã hiểu chuyện gì xảy ra liền bảo Lê Văn Nghiên chạy sang báo ông Ngật, trưởng xóm kiêm trưởng ban Nông hội. Mãi nửa tiếng sau, xã đội trưởng Cung Văn Luỹ và trưởng công an Cao Khắc Thông, em vợ Bùi Quốc Tầm mới đến khám nghiệm hiện trường. Họ lục tung đồ đạc trong nhà tìm thuốc độc nhưng không thấy mà chỉ thấy lá thư tuyệt mệnh của chị Mực viết bằng thứ chữ ngoằn ngoèo như gà bới sau khi học lớp "bình dân” được hai tháng. “Cái Vấn cái Vít trót dại moi trộm của nhà ông chủ tịch mấy dãi khoai và vặt một bó ngọn về xào. Bốn mẹ con hiện giờ chẳng còn gì ăn. Đời người đằng nào cũng một lần chết. Sống như thế này còn cực hơn cả thời thực dân đế quốc, thà chết sớm cho đỡ khổ, đỡ nhục. Nhà con có tội với bà Hai vì anh Mực đã bắn bác Vận. Sau khi mẹ con con đi, toàn bộ gia tài giao cho cậu Nghiên cậu Khải. Số cơm canh thừa đã trộn thuốc chuột, không ai được ăn, ăn vào là chết đấy. Con chắp tay lạy bà Hai, chị Hài và hai cậu. Nguyễn Thị Vách”.

    Cao Khắc Thông đọc thư xong vội nhét vào túi áo bảo trưởng xóm trại Cá:
    - Chúng tôi về trình Uỷ ban việc này, bác đi báo cho bà con đến làm thủ tục mai táng.
    Ông Ngật bảo:
    - Việc tày đình như thế này phải trình lên công an huyện để người ta xử lý chứ.
    Cao Khắc Thông cau mặt sừng sộ:
    - Ông này hay nhỉ. Tôi là trưởng công an tất nhiên là phải có trách nhiệm, còn mấy cái xác không chôn đi để đến mai nặng mùi, mất vệ sinh ai chịu được.
    Trưởng công an mang bức thư đưa cho ông anh rể. Tầm đọc xong còn đang phân vân, thì ông em vợ bảo:
    - Việc này có liên quan đến bác, anh em nhà tay Mực mà kiện là gay, theo tôi ta nên đốt đi.
    Tầm có vẻ sợ, ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
    -Đã lập biên bản chưa?
    - Xong rồi
    - Những ai ký?
    - Tôi đã lừa được lão Ngật trưởng xóm ký và mấy bà xóm Trại Cá điểm chỉ.
    - Trong biên bản có nhắc đến việc mấy luống khoai không?
    - Không, dại gì mà đưa vào, đây bác xem.
    Ông chủ tịch đọc đi đọc lại mấy lần thấy bên dưới có cả chữ ký của xã đội trưởng liền đưa bức thư tuyệt mệnh cho Cao Khắc Thông bảo:
    - Đốt đi.


    2. Mặc dù đang đói nhưng làng Cùa vẫn phát động phong trào bài trừ văn hoá nô dịch, chống mê tín dị đoan. Toàn thể thanh thiếu niên, kể cả một số con cái địa chủ phú nông đều phải tham gia chiến dịch này. Lê Văn Khải được cử vào đội tiêu huỷ sách cũ, còn Lê Văn Nghiên trong đội phá đình chùa. Bộ phận của Khải do trưởng công an Cao Khắc Thông phụ trách. Anh ta tập hợp mọi người ra đình, đọc thông tri của cấp trên sau đó hướng dẫn trình tự công việc. Trong số hơn ba chục thanh niên, có già nửa mới thoát nạn mù chữ, phần đông đang học các lớp "bình dân " do các ông thầy vừa biết đọc biết viết khoá trước dạy. Cao Khắc Thông cử tổ thông tin quét vôi vào tường đình, tường miếu, đầu hồi nhà rồi kẻ dòng khẩu hiệu bằng thứ chữ in hoa có chân đế cao bằng cả gang tay: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại " hoặc " Kiên quyết tiêu huỷ văn hoá phẩm nô dịch ". Mấy ông cung văn chuyên gảy đàn cho các bà đồng bóng ở đền Sòng cứ nhấp nha nhấp nhổm như bị kiến vàng đốt đít, chỉ sợ công an đến " rước " đi Trại Sung.

    Người được Cao Khắc Thông dẫn quân ra thăm viếng đầu tiên là chưởng bạ Giang. Nhà ông Giang có ba kệ sách chữ nho, một hòm khoá chuông vừa sách chữ Pháp và Quốc ngữ của anh Giảng. Sở dĩ ông Giang không bị quy lên địa chủ mà chỉ dừng ở mức phú nông là vì anh Giang lúc ấy đang là cấp chỉ huy quân đội. Anh ta về làng đúng vào dịp Cải cách, áo đại cán bốn túi, súng lục trễ bên hông, mũ gắn sao vàng trông rất oai nhưng vẫn bị Đội Lạc cho dân quân đến bắt. Người nhà ông Giang vội đi Hải Phòng báo cho đơn vị. Ngay chiều hôm sau, vị chỉ huy sư đoàn cùng với bốn chiến sỹ khoác tiểu liên đánh xe com măng ca về làng gặp đội Cải cách, đón Giảng đi.

    Ông chưởng bạ học chữ nho với cụ khoá Phùng ở kẻ Sộp. Cụ Khoá đã có lần vác lều chõng đi thi vào đến nhị trường. Vì không có con trai, trước khi mất, cụ Phùng làm di chúc giao lại toàn bộ số sách ky cóp được cả một đời cho người học trò làng Cùa. Trong số thư tịch của cụ Khoá để lại có những bộ rất quý như "Việt sử thông giám cương mục", "Đại Việt sử ký toàn thư ", "Việt điện u linh tập", "Dịch kinh", "Luận ngữ ", "Mạnh tử", "Cựu Đường thư","Tấn thư","Đường thi tam bách thủ" ," Liêu trai chí dị","Tam quốc chí diễnnghĩa"… Hòm sách của anh Giảng có"Les Miserables"( Những người khốn khổ ) của
    Victor Hugo, "Les Troismousquetaires"(Ba người lính ngự lâm) của A .Dumas, tuyển tập Voltaire, thơ Lamartine,"Cô giáo Minh", "Hồn bướm mơ tiên","Đò chiều","Tắt lửa lòng","Ai hát giữa rừng khuya"."Phấn thông vàng","Số đỏ"... Nhìn thấy khối lượng sách giá trị như thế sắp bị thiêu huỷ, Khải không đành lòng bảo với Cao Khắc Thông :
    - Đây toàn là sách quý, theo tôi không nên đốt ,sau này có lúc cần đến.

    Trưởng công an xã, phẩy tay:
    - Cậu đừng giở cái giọng tiểu tư sản ấy ra. Đống sách này là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch phản động, vì nó mà bọn địa chủ cường hào như chánh Bang , cả Huê, phó lý Kiền mới thẳng tay bóc lột bần cố nông , dân ta mới mất nước.Phải đốt hết để trừ tận gốc.

    Lửa được nhóm lên ngay giữa sân đình. Hàng ngàn cuốn sách đủ chủng loại bị hiến cho Hoả thần, lúc đầu quăn bốn góc sau đó cháy lem lém. Khói đen bay lên từ những cuốn sách chữ Hán có mùi hăng hắc của loại bìa phất cậy, bay vòng vèo rồi tan dần vào không khí. Lựa lúc Cao Khắc Thông vào đình hút thuốc lào, Khải nhanh tay rút một tập "Bách khoa toàn thư", bằng chữ Pháp của nhà xuất bản Galimard nhét vào bụng. May mà không ai trông thấy. Tay xã đội sẵn sàng quy kết anh ta vào tội danh phản động nếu phát hiện ra cuốn sách chứa một phần tri thức mấy nghìn năm của nhân loại bị đánh cắp.

    Nhưng đến nhà ông cửu Mẫn thì tình hình không thuận lợi .Ông Mẫn làm nghề thầy cúng cũng có một kệ sách chữ Nho, rất giỏi bói dịch.Vốn là người lo xa, ông cho tất cả sách quý vào chiếc hòm sắt, trét sáp ong kín các khe hở rồi mang giấu trong hầm bí mật. Đoàn của Cao Khắc Thông đến nơi, thấy kệ sách rỗng không, anh ta nghiêm giọng bảo ông thầy cúng :
    - Biết điều thì mang sách ra nộp, đừng để chúng tôi phải khám.
    Ông Cửu thản nhiên như không :
    - Chẳng giấu gì các anh, tôi vốn dát, nghe thấy lệnh phải tiêu huỷ văn hoá nô dịch là bảo các cháu mang xuống bếp đốt sạch.

    Đời nào trưởng công an và xã đội trưởng lại tin lời một lão thầy cúng già đã từng hành nghề mê tín dị đoan nổi tiếng khắp vùng Ba tổng. Cung Văn Luỹ cười tinh quái:
    - Bác giấu ở đâu thì mang ra đi, chuyện này không thể đùa được.
    - Đã bảo là tôi chấp hành lệnh của xã, đốt từ mấy hôm trước rồi.
    Cao Khắc Thông gườm gườm nhìn ông thầy cúng bằng cái nhìn chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành :
    - Được, ông cố tình chống lại chính sách của Đảng phải không? Các đồng chí đâu lục soát!
    Cung Văn Luỹ ra lệnh cho đám dân quân :
    - Tìm kỹ ở trong buồng xem, có thể ông ta cất trên gác xép.

    Lê Văn Khải làm một cách chiếu lệ. Anh ta biết, một người có vốn nho học uyên thâm như ông Cửu không bao giờ đốt sách. Từ cổ chí kim, làm chuyện này chỉ có Tần Thuỷ hoàng và Nêrông. Bởi vì, đốt sách chính là biểu hiện của sự ngu dốt. Những kẻ đi chinh phục, nếu chỉ dựa vào sức mạnh của họng súng và lưỡi gươm mà thiếu văn hoá hoặc ở tầm văn hoá thấp, cho dù được nguỵ trang bằng đủ thứ chủ thuyết mỹ miều cũngkhông thể thu phục được lòng người. Ông ta dấu ở đâu nhỉ? Nền nhà, nền bếp, góc vườn đều bị cácloại xà beng, cuốc chim, thuốn sắt đào bới thăm dò. Thùng trấu, gác bếp, chuồng trâu, thậm chí cả nhà xí cũng không thoát khỏi con mắt soi mói của ông trưởng công an, thế mà hàng trăm cuốn sách như có phép lạ tàng hình. Nhìn toàn cảnh ngôi nhà lúc này như một bãi chiến trường bởi hàng đống hòm xiểng, vứt lỏng chỏng cùng với đất cát bị đào nham nhở, ông Cửu hất hàm bảo Cao Khắc Thông :
    - Phiền các anh sắp xếp lại cho rồi hãy sang nhà khác.
    Trưởng công an cau mặt :
    - Ông đừng có đùa với nhà chức trách. Bây giờ phải đi với chúng tôi ra Uỷ ban.
    - Các anh bắt tôi?
    Thông lắc đầu:
    - Chúng tôi chỉ tạm giữ đến khi nào ông khai thật số sách kia giấu ở đâu thôi.
    Ông Cửu mang theo chiếc tráp sơn then, không phải đựng sách mà để bộ quần áo gụ với chiếc khăn mặt bông nhuộm nâu. Vì căn buồng uỷ ban còn giam hai thằng ăn trộm gà nên Cao Khắc Thông bảo mấy dân quân nhốt tạm ông thầy cúng vào hậu cung đình Cả cho suy nghĩ một đêm rồi sáng mai ra trụ sở làm việc. Đầu canh tư, ông Cửu đau bụng, ruột quặn lên, mót đại tiện nhưng không làm thế nào ra được. Mấy tay dân quân gác ngoài, buổi tối đánh tú lơ khơ đến tận khuya, ngủ mệt, ông Mẫn đập cửa rầm rầm vẫn không thèm dậy. Hậu cung tối mò mà cái thứ đau bụng kiểu này không thể cố nhịn để giành đến mai được, thế là ông thầy cúng bật ra sáng kiến, mở tráp lôi bộ quần áo ra, tương vào đấy rồi đậy nắp, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Sáng sớm, cửa đình vừa mở, ông Cửu len lén xách tráp đổ ra góc ruộng rồi xuống ao rửa, lúc quay về gặp tay Đốm, anh ta thấy lạ, hỏi :
    - Cái tráp của ông có vàng bạc gì mà lúc nào cũng kè kè bên người?

    Ông Cửu chống chế:
    - Có gì đâu, đựng bộ quần áo ấy mà.
    Trưa hôm ấy, Cao Khắc Thông cùng Thân Văn Đốm áp giải ông Cửu sang công an huỵện vì tội cố tình không nộp sách phản động mê tín dị đoan. Ông trưởng công an mặc áo nâu nhuộm vỏ già cắt theo kiểu thành thị cổ bẻ bốn túi, quần"phăng" xanh, ngồi sau chiếc án thư sơn son ( chắc là tịch thu của một hộ địa chủ nào đó), trước mặt là khẩu súng lục để nguyên trong bao, bên phải đặt lọ mực và chiếc bút parker cùng cuốn sổ tay bìa đỏ. Nhìn bộ dạng nhơn nhơn của ông thầy cúng, trưởng công an ghét lắm hỏi mỉa :
    - Ông có biết khẩu hiệu chống văn hoá nô dịch và mê tín dị đoan hiện nay như thế nào không?
    Ông Cửu cúi đầu đọc thuộc vanh vách:
    - Thưa, nó thế này ạ: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại".
    - Đúng lắm .- Trưởng công an gật đầu - Nhưng ông có biết đã phạm tội gì không?
    - Tôi giải nghệ rồi, sách cũng đã đốt thành tro, sao lại bảo là có tội?
    - Có đấy. - Trưởng Công an huyện cười nửa miệng - Tội cố tình ẩn lậu văn hoá phẩm nô dịch, phá hoại công cuộc Cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ.
    Ông Cửu cười nhạt:
    - Công an xã đã khám xét khắp nơi, đào cả nền nhà, cuốc vườn, moi nhà xí đều không thấy sách, tôi không có tội, tôi chả sợ.

    Ngay lập tức ông Cửu bị đưa xuống buồng giam . Hoá ra không phải chỉ mình ông phải câu lưu vì án văn tự. Trong tuần qua hầu hết các thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý trong huyện đã bị tóm về đây. Thật là một cuộc hội ngộ " thiên tải nhất thì" ở vùng Ba Tổng.

    Ngôi chùa bị phá đầu tiên là chùa Đàn ở Đậu Khê. Toàn bộ kèo cột, rui mè, sau khi rỡ được chuyển về làng Cùa dựng trường học. Mấy cây cột lim khoát tư khoát năm không khênh được, uỷ ban xã phải cho thợ xẻ xuống tận nơi kéo co gần một tháng mới xong. Những ngày ấy học sinh được nghỉ để lao động tập thể. Dưới sự chỉ huy của Cao Khắc Thông và Thân Văn Đốm , đám học trò tí nhau trèo lên nhà Tổ và Tam bảo khiêng tượng phật xếp thành một đống trên bãi cỏ phía sau chùa. Mấy ông hộ pháp kềnh càng bằng đất thì cánh thanh niên lấy búa tạ đập vỡ. Pho tượng A di đà sơn son thếp vàng ngồi trên toà sen bị tròng dây chão vào cổ giật đổ xuống, lập tức hai ông bần nông trung niên người Mạc Điền dùng cưa cắt làm ba đoạn vác về nhà. Tượng tạc bằng gỗ mít mật, bên trong yểm trầm không biết có tự đời nào, thớ vàng sẫm vẫn còn thơm. Loại này được chẻ nhỏ ra nhóm bếp, đượm phải biết. Một số bụt nhỡ và bụt ốc bọn trẻ con cầm chơi, chơi chán chúng ném xuống ao nổi lềnh phềnh giữa đám bèo ong, rau dút và bè muống. Ông khán Thịnh trước Cải cách là người trông nom chùa Đàn, nhìn cảnh tượng phật lặn ngụp dưới ao chép miệng than thở:
    - Sao các ngài không về vật cho chúng nó hộc máu ra.

    Xế chiều, đống tượng Phật vơi dần. Mấy bà làm đồng qua, tiện tay bê một hai pho về để bàn thờ. Số còn lại Cao Khắc Thông sai bọn học trò châm lửa đốt. Ông phật Di Lặc béo phệ với cái bụng vĩ đại, lửa bén đến cổ vẫn giữ nguyên nụ cười. Ông Xếp Đáy, chuyên nghề quăng chài, rượu ngang tu hàng lít, lúc nào cũng kè kè chiếc bao da bằng nửa cuốn sách làm ví tiền trước bụng nhưng bói chẳng ra một đồng, vừa ở sông Lăng về, liền lội xuống ao vớt một vị La hán cỡ bắp đùi vác lên vai, lúc đặt vào bàn thờ thấy "ngài” cao quá đành phải cưa phần đế cho vừa.

    Nhưng thành tích lớn nhất của chủ tịch Bùi Quốc Tầm trong chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan phải là việc hoàn toàn phá bỏ ngôi nghè lớn nhất vùng Ba Tổng. Nghè làm từ thời hậu Lê niên hiệu Bảo Thái nguyên niên cách ngày nay hai trăm năm mươi nhăm năm, do một vị nhị giáp tiến sỹ làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại đứng ra quyên góp và hưng công, mất hơn ba năm mới hoàn thành. Chỉ riêng gỗ lim, từ cột kèo, kẻ, trụ, câu đầu xã phải thuê chín cặp thợ, xẻ thông sáu tháng với xong. Số lượng gỗ thành khi xếp lại đo được ba trăm hai mươi chín khối. Hai phần ba gỗ xẻ dùng đóng bàn ghế học trò và trang bị nội thất uỷ ban, phần còn lại cán bộ xã dấm dúi chia nhau đóng tủ, đóng giường và làm cánh cửa. Mấy bác thợ mộc cũng nhân cơ hội bảo nhau "mượn tạm" vài mảnh đầu thừa đuôi thẹo về nhà làm chạn bát, ghế ngồi ăn cơm. Thừa thắng xốc tới, các vị lãnh đạo đang lên kế hoạch phá tiếp đình Cả, đình Lẻ và chùa Vĩnh Hưng thì bỗng xảy ra sự cố nên công việc phải hoãn lại.

    Đầu tiên là ông Xếp Đáy, sau hôm cưa đít bụt, tự nhiên hoá rồ, hai tay cầm hai sợi thừng dài nhẩy vun vút còn thiện nghệ hơn cả các cô bé học trò lớp ba nhẩy dây. Múa may quay cuồng chán, ông ta phi thân lên mái nhà nhẹ nhàng như kiếm khách dùng thuật khinh công, hai mắt trợn trừng, lưỡi cứng lại rồi lăn xuống sân, bất tỉnh nhân sự. Thân Văn Đốm đang đêm nhảy khỏi giường xuống bếp rút con dao bầu bổ ra đường như ngựa vía, miệng lảm nhảm :
    -Thằng Đốm dám báng bổ thần thánh, tội của mày không thể tha.

    Hắn vừa chạy vừa lấy dao cứa cổ, máu chảy nhoe nhoét, đến chỗ gốc cây gạo đổ thì nhảy xuống ao Quan. Dân làng vớt lên được một lúc thì hộc máu mồm ra chết. Dưới Mạc Điền, hai ông cưa tượng A di đà đang ăn cơm bị trúng gió cấm khẩu. Vợ con tìm thầy chạy chữa, mãi ba hôm sau mới tỉnh nhưng một bị méo mồm, một bán thân bất toại nằm đâu ỉa đái ra đấy. Sợ nhất là Cao Khắc Thông. Chập tối ngày hai mươi bảy, anh ta đang uống rượu với cá rán ở nhà Bùi Quốc Tầm, hai mắt tự nhiên buốt như bị ong vò vẽ châm phải. Vợ trưởng công an không biết đấy là bệnh thiên đầu thống, lấy ốc nhồi giã nhỏ trộn với rau má đắp vào, nửa đêm càng đau dữ dội. Thông kêu như lợn bị thiến, đến gần sáng thì hai con ngươi lòi ra. Các quan chức xã Đoàn Kết từ bí thư, chủ tịch cho đến trưởng các ban ngành, ông bà nào chót đem gỗ về đóng đồ, chẳng ai bảo ai đều lần lượt mang ra xếp vào góc đình Cả. Cánh thợ mộc cũng hốt, nửa đêm bắt vợ con chuyển hết những chạn bát, ghế đẩu, ghế ăn cơm xuống hành lang uỷ ban.
    Cung Văn Luỹ và bí thư phụ nữ Lương Thị Nhớn mới lên thay Chĩnh Con phải đến nhờ ông Cửu Mẫn lập đàn cúng giải hạn. Ông Cửu bảo:
    -Tôi chả dại. Cúng bái là mê tín dị đoan, ông Tầm biết lại bắt tôi sang huyện.
    Xã đội trưởng khẽ nháy mắt với bí thư phụ nữ rồi bảo :
    - Ông Tầm mới bị chứng đái rắt ra máu, đang nằm liệt giường. Cụ làm ơn giúp chúng cháu, sau này không dám quên ơn.
    Ông Mẫn lại bảo:
    - Các loại sách cúng đốt hết rồi mà việc này không có sách không làm được.
    Cung Văn Lũy liếc mắt ra chân đống rơm sát gốc cây bưởi làm ông thầy cúng chột dạ:
    - Anh tìm cái gì?
    Luỹ hắng giọng:
    - Chỗ ấy có cái hầm , tháng chín năm năm hai, cháu bị bọn Bảo an đuổi đã chui xuống đấy cùng với anh Khoán.
    Ông Cửu phẩy tay:
    - Tao lấp từ lâu rồi.
    - Cụ giấu cháu làm gì. Hôm bọn Cao Khắc Thông đến lục soát ở đây, cháu bảo chúng nó vào buồng tìm rồi lảng sang bên anh Nhận hút thuốc.
    - Thì ra mày. . .
    - Cụ giúp nhà cháu đi. Làm ban tối. Cháu sẽ gác ngoài cổng, đảm bảo an toàn.
    - Mày không lừa tao đấy chứ?
    Cung Văn Luỹ nhăn nhó:
    - Sau vụ phá chùa, làng này chết mấy người, có các vàng chúng cháu cũng chẳng dám lừa cụ.


    3. Một hôm Lê Văn Khải bảo mẹ:
    - Có khi con phải đi tìm việc làm, cứ tình trạng này thì chết đói mất.
    Khúc Thị Hài thương con nhưng xem ra cũng không còn cách nào khác đành miễn cưỡng gật đầu :
    - Thế cũng được, ở nhà còn có em Nghiên, đến chỗ làm nhớ viết thư về.
    Bà Hai lắc đầu:
    - Không có giấy thông hành sao đi được hở cháu? Nhà mình bây giờ chẳng khác gì tù giam lỏng, ra khỏi làng không trình báo là bị rầy rà.

    Lê Văn Nghiên vốn nóng tính, ngang tai trái mắt không chịu được, thủng thẳng bảo:
    - Có xuống Uỷ ban xin giấy họ cũng không cấp đâu. Anh cứ đi trước đến chỗ lò gạch cũ ở Phú Đa ấy xem thế nào, nếu làm ăn được em cũng đi.
    Khúc Hài bảo :
    - Một đứa đi thôi, còn thằng Nghiên phải ở nhà. Chúng mày không thương bà hay sao?
    Bà Hai hiểu rõ tâm tính hai thằng cháu từ bé, xem ra khó mà giữ chân chúng được đành chép miệng bảo:
    - Cả hai anh em đi được càng tốt không phải lo cho bà. Tao còn khoẻ chán. Chúng mày mà còn ở làng Cùa thì suốt đời không ngẩng đầu lên được.

    Sáng hôm sau hai anh em vác lưới ra sông Lăng. Thuyền xuôi xuống mãi bến Đoan mới sang cồn Vành. Khải khoác khăn gói lên bờ còn Nghiên bắt đầu thả lưới đánh cá . Cồn Vành mùa này toàn cỏ , có nơi cao quá đầu gối xanh tít tắp , rộng mênh mông như một thảo nguyên hoang dã . Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy vài vạt ngô thấp lè tè còi cọc chen lẫn giữa những bạt cỏ lác, cỏ ống, cỏ tai voi. Chim ngói, chim xanh, chào mào, liếu điếu từ khắp nơi bay về kiếm ăn. Cánh thợ săn vác lưới đặt bẫy suốt ngày nhưng bắt được chúng không phải dễ.

    Hầu hết các làng vùng tả ngạn Khải đi qua đều có một nét giống nhau là lắm cờ, nhiều khẩu hiệu. Thỉnh thoảng lại gặp một đoàn khất thực lầm lũi bước trên đường quan. Họ khoác trên người những bộ quần áo vá chằng vá đụp, vật vờ như những cô hồn, lúc mặt trời gác bóng, rủ nhau vào tá túc trong những gian điếm dột nát, nhịn đói, uống nước lã cầm hơi để đến sáng mai lại tiếp tục cuộc hành trình vô vọng. Sang đến ngày thứ tư, Khải đến Phú Đa. Anh ta tìm được dãy lều trại của những người thợ phơ nhưng không gặp ai. Khu lò gạch đã trở thành hoang phế. Khải vào làng gặp ông Tước, một thợ đốt lò nổi tiếng khắp vùng Cao Thượng. Ông này bị đau dạ dày,đang ôm bụng nhăn nhó, thấy khách đến hỏi bà Cảnh liền ngồi dậy bảo :
    - Cậu có phải là cậu Khải?
    - Vâng, cháu đây.
    - Chuyện thế này, sau khi cậu ít hôm , ông Cảnh mang cô Kiều Trâm về thành phố, nghe đâu đã lấy thầy ký kia. Mấy tháng sau ở đây phát động Cải cách ruộng đất. Bà chủ kinh doanh lô gạch bị quy là thành phần tư sản, lãnh án mười lăm năm. Toàn bộ số gạch còn lại, Đội trưng thu chia cho bần cố nông, tôi cũng được hơn hai trăm viên xếp ngoài vườn kia.

    Ông Tước không có con, từ khi vợ chết vì cảm thương hàn vẫn sống độc thân, mời Lê Văn khải ở lại nghỉ qua đêm. Tối hôm ấy, hai bác cháu uống rượu với cua rang lá chanh và bánh đa vừng. Sáng hôm sau, lúc Khải khoác khăn gói lên vai, ông bảo:
    - Ra thành phố mà kiếm sống, ngoài ấy nghe nói dễ làm ăn. Mà này, cái cô Kiều Trâm phải lòng cậu ấy thật ấy à?
    Khải chỉ cười rồi từ biệt ông thợ đất lò.

    Trái với lời khuyên của ông, anh ta không về thành phố mà ngược lên phía bắc. Nơi ấy là rừng núi. Từ nhỏ đến giờ Khải mới chỉ có khái niệm rất mơ hồ về rừng xanh núi đỏ qua những lần chặt tre bương ở miễu Đài Sơn, nhưng trong tiềm thức anh ta luôn nghĩ rằng cuộc đời mình sau này sẽ gắn với rừng. Tiếng gọi của thành phố dù có hấp dẫn bao nhiêu cũng không bằng tiếng gọi của định mệnh. Đường hình như cứ mỗi ngày một dài ra mà rừng mỗi lúc một âm u. Con đường hẹp trải thứ đất sỏi đỏ sẫm chạy chênh chếch dưới chân một quả đồi mọc toàn loại giẻ dầu lủng lẳng từng chùm qủa non nhưng gai đâm tua tủa. Lũ khỉ đỏ đít, lông vàng cháy như vằn hổ, chuyền từ cành này sang cành khác, mắt láo liêng, thỉnh thoảng lại trêu đám khỉ cái bằng những tiếng" choéc choéc" nghe rất là phóng đãng. Mấy chàng vượn đen hầu như chẳng để ý đến những chùm vả chín mọng đang chảy mật mà chỉ mải mê đánh đu như say rượu trên ngọn cây hoàng đằng với hàng loạt cú nhào lộn chóng mặt. Vài ả vượn cái cõng con sau lưng ngồi trên chạc cây báng, nhe răng trắng nhởn cười khèng khẹc cổ vũ cho đám mày râu. Một lão khổng tước cánh đen, ức trắng chẳng biết từ phương nào bay về, đậu ngay trên ngọn cây kiền kiền chênh vênh sườn dốc cất giọng gù gù gần giống tiếng ngỗng trời lạc đàn khi bay về miền nam tránh rét.
    Khải ngồi xuống một rễ cây bên đường, mở nắp quả bầu khô, nhấp ngụm nước và lắng nghe tiếng rừng lao xao. Hôm nay đã là ngày thứ ba, anh ta chưa có hạt cơm nào vào bụng ngoài những quả dâu da, vả hoặc bưởi đào kiếm được ở chân đồi. Bầu trời xanh biếc lọt qua kẽ lá. Những tia nắng sớm nhảy nhót trên cành giẻ gai. Mùi hăng hắc của hoa long não thoang thoảng đâu đây .Tất cả đều kích thích trí tưởng tượng làm cho chàng trai họ Lê cảm thấy mình như đang trong trạng thái bồng bềnh, vô thức.

    Sợ nhất là trong người không một mảnh giấy tuỳ thân. Con trai một tên phản động Quốc dân đảng như Khải lúc này, dù là người có học và lương thiện đến mấy cũng không ai dám đứng ra đảm bảo tư cách công dân. Đất nước mới độc lập, miền Nam còn đang dưới sự kiểm soát của gia đình họ Ngô, gián điệp, biệt kích như rươi, luôn tìm cách phá hoại thành quả kháng chiến, mọi người đi làm ăn xa bắt buộc phải có giấy thông hành để công an dễ bề quản lý, giám sát.Tất nhiên là Khải không đào đâu ra. Thế là bị bắt. Lần thứ nhất ở Tân Phong. Lúc ấy đã lặn mặt trời. Lang thang ban đêm, theo cái lý của nhà chức trách, chỉ có bọn đầu trộm đuôi cướp hoặc gián điệp thổ phỉ. Khải bị ông xã đội trưởng tống vào gian chuồng trâu được cải tạo thành buồng giam từ ngày Cải cách. Đêm ấy anh ta ngủ khá ngon lành mặc dù mùi nước đái vẫn còn nồng nặc từ nền đất ẩm thấp bốc lên. Sáng ra, xã đội trưởng bàn giao phạm nhân cho trưởng công an. Ông trưởng công an lưng hơi gù, giọng nhát gừng, hỏi:
    - Anh cho xem giấy tờ.
    Lê Văn Khải bắt buộc phải nói dối:
    - Tôi lên Bắc Thoòng làm ăn, qua chợ Sàn bị kẻ cắp lấy mất hành lý.
    - Quê quán ở đâu?
    - Mai Sơn, Thanh Đa.
    - Thành phần gia đình?
    - Bần nông.
    - Lấy gì làm bằng chứng để tin là anh nói thật?
    - Tôi đang đói lắm, mấy ngày nay không được hạt cơm, ông có thể cho tôi xin tạm một bát.
    ở vùng này có nhiều sắn, Uỷ ban xã không thể để cho Lê Văn Khải chết đói. Nhưng mà ngày hai bữa cứ phải mang cơm vào chuồng trâu cho một gã vô công rồi nghề làm ông trưởng công an phát cáu:
    - Hôm nay tôi bận họp, người nhà còn phải đi làm. Đây có ít gạo với mấy củ sắn anh tự nấu lấy mà ăn.
    - Vậy thì tốt quá nhưng ông phải cho tôi mượn cái nồi.
    - Tất cả đều ở trong góc nhà, đun khéo không cháy bếp.
    - Tôi có chuyện này muốn nói với ông.
    - Lại còn chuyện gì nữa? - Ông công an bảo - Thôi được, nói đi, xem ra anh cũng không phải là người xấu.
    - Hay là ông cứ cho tôi ... ở tạm đây một thời gian. Trong túi tôi giờ chẳng còn đồng nào mà đường lên Bắc Thoòng còn khá xa.
    Ông trưởng công an phì cười :
    - Anh nói như trò trẻ con ấy, giữ anh ở đây ngày nào là thêm phức tạp ngày ấy.
    - Sao mấy hôm trước ông xã đội bảo dẫn tôi về huyện?
    - Cái lão Phưởng chỉ nói lấy được. Từ đây đến huyện, cuốc bộ lằng nhằng những mấy chục cây số, cả đi lẫn về ba ngày đường có mà nằm liệt giường. Tôi đã bảo các bố ấy rồi, dân nhà quê dưới đồng bằng lên mạn ngược tìm việc làm ngày nào chẳng đi hàng đoàn, cơm gạo đâu mà giữ lại.
    - Bác nói thế là chủ quan đấy. - Khải làm ra vẻ thành thực bảo - Phải nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng chứ.
    Ông trưởng công an văng tục:
    - Cảnh giác cái con khỉ. Thôi anh đi đi.
    - Vậy là bác thả...
    - Ừ, cầm luôn cả ống gạo với mấy củ sắn dọc đường vào nhà dân nấu nhờ mà ăn.

    Chín ngày sau Khải lại bị một trận hết hồn. Lần này thì anh ta mong có người đến bắt mình. Xế chiều hôm ấy, bụng đói lắm rồi, Khải vẫn còn cố vượt qua một sườn núi, vì có sang bên kia mới tìm được nhà trọ. Sườn núi không dốc lắm mà cây cối rậm rạp. Cách đấy không xa có con suối khá rộng, hai bờ mọc toàn dâu da đất với quýt dại rất nhiều quả chín nhưng chua gắt, ăn thử một múi ghê cả răng. Vào lúc mặt trời gác bóng, Khải đã đến đỉnh đèo. Anh ta ngồi nghỉ nhấm nháp quả dâu da chợt thấy mấy con khỉ bạc má trên ngọn cây bứa kêu chí choé có vẻ rất hoảng hốt. Chàng họ Lê ngoái lại phía sau, bỗng dựng tóc gáy. Một con hổ vằn nằm phục cạnh gò đất cách đấy chừng bảy tám mét. Cặp mắt nó như có phép thôi miên làm anh ta bủn rủn cả chân tay. Thời gian như bị đông cứng lại. Sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Lúc này chỉ cần có một động tác bất cẩn là cái chết sẽ đến trong nháy mắt. Khải run bắn nhưng vẫn chằm chằm nhìn vào mắt con mãnh thú. Nó khẽ ve vẩy đuôi, cặp chân sau hơi nhổm lên lấy đà sắp sửa ra đòn thì anh ta ước lượng khoảng cách an toàn, nhao sang bên phải, cắt ngang cú nhẩy của con hổ rồi bám vào một cành gõ trắng leo lên chạc ba. Từ mặt đất lên đến chạc ba có khi phải đến hơn ba mét, vậy mà không biết làm thế nào Lê Văn Khải leo nhanh đến thế. Con cọp vồ hụt, cứ chạy vòng quanh cây gõ gầm thét. Trên đời này, không có gì kinh khủng hơn tiếng hổ gầm, nghe chẳng khác gì tiếng ma quỷ phụ đồng gọi hồn người chết. Xuýt nữa thì Khải tuột tay rơi xuống.

    Suốt đêm hôm ấy, Lê văn Khải cứ ôm chặt lấy cành cây không dám chợp mắt. Con mãnh thú tiếc mồi chắc chỉ quanh quẩn đâu đó chờ anh ta ngủ ngật rơi xuống là xé xác. Phải đến gần trưa hôm sau mới có mấy người lên núi. Bọn họ khoác súng quân dụng và súng săn tự tạo. Khải từ trên cây gọi to, thấy họ đến gần mới dám tụt xuống.

    Những người mang súng đều ở xã Cao Long. Con hổ xám từ rừng Tân Lập về núi Nứa đã mấy tháng nay. Dân các bản quanh vùng muốn đi chợ Đồng Vài đều vòng sang bản Puộc xa hơn mấy con dao quăng nhưng đỡ phải làm mồi cho chúa sơn lâm. Chính con cọp này, năm năm hai đã đón lõng ở hẻm núi Vòi vồ mất chín người vừa dân công vừa bộ đội. Dân bản Thó bảo nó ăn thịt người nhiều đã thành tinh chẳng biết sợ là gì. Có lần đoàn bộ đội đang hành quân giữa ban ngày, thế mà đến "sạt" một cái, nó vọt ra như ánh chớp, quắp luôn anh cấp dưỡng quàng ba lô gạo sau lưng. Trung đoàn 274 thành lập hẳn một đội đặc nhiệm rình bắn con cọp nhưng nó có tài xuất quỷ nhập thần, luôn biết cách thoát khỏi các loại bẫy và đặc biệt giỏi tránh đạn. Ba chiến sỹ bị nó tát chết, một bị bóc hẳn mảng lưng và một rách tai là kết quả đáng buồn sau hai tháng luồn rừng theo dấu chân con mãnh thú của đội đặc nhiệm. Đầu năm năm ba, con hổ chuyển địa bàn về Lũng Vài hoạt động. Cứ tầm lặn mặt trời, nó lại đến đầu xóm Còng, trèo lên chạc cây sung gầm thét hàng giờ rồi mò vào vác bò , lợn, dê. Tiếng hổ gầm làm dân làng chết lặng, đóng chặt cửa, cắm nứa nhọn, rắc rào gai quanh nhà. Hôm sau, mặt trời lên bằng con sào mới dám ra đồng. Khắp các ngõ ngách chỗ nào cũng có vết chân cọp. Chưa đầy một tháng nó đã vồ mất ba nhân mạng.

    Ông Quản Tháp người Châu Khê mới tản cư về xóm Còng mấy tháng có khẩu súng kíp nòng dài trông như gậy cời bếp than rủ anh Khừm người Mán ra rình ở miếu Chùa. Con hổ biết có kẻ muốn hại mình, nó không vào làng gầm thét nữa mà tìm cách vồ ông Tháp. Một tối, ông ta vừa ra đến gốc cây si thì bất chợt con mãnh thú từ trong miếu phi ra. Nó dựng hai chân sau, gầm lên một tiếng như sấm dậy làm ông thợ săn luống cuống đánh rơi cả súng. Cũng may anh Khừm có khẩu trường mát vừa kịp xuất hiện, nhằm con cọp bắn hú họa một phát. Sáng hôm sau mọi người mới biết nó trúng thương vì có vết máu để lại. Từ đấy không thấy con hổ xuất hiện nữa. Mấy tháng sau có anh bộ đội qua xóm Còng cho biết, con hổ xám bờm vàng dính đạn bàn chân trái phía sau, bị thọt nên rất hung dữ. Lúc ấy nó đang luẩn quẩn vùng núi Nứa. Vậy là số Lê Văn Khải còn cao.

    Sau trận chết hụt vì hổ, dân quân xã Cao Long đưa Khải về trụ sở. Ông chủ tịch thương tình cấp cho anh ta tờ giấy thông hành tạm thời. Từ đây lên Bắc Thoòng cũng gần. ở đấy anh ta có bà dì họ lưu lạc từ năm Kỷ Tị, nếu còn sống bây giờ cũng đã sáu mốt sáu hai.

    Xã BắcThòong nằm ở một vùng bán sơn địa đất rộng người thưa, khắp nơi, chỗ nào cũng thấy trồng chè với sắn. Chè búp ở đây nổi tiếng chẳng kém gì chè Tuyết ở Sa Pa và Suối Giàng Nghĩa Lộ. Cách đây hơn ba mươi năm, bà Hai có em tên là Thấm lấy một nhân viên kiểm lâm, được hơn một năm anh ta đổi lên trạm Bắc Thoòng, cô Thấm theo chồng và từ ngày ấy không về làng. Thực ra chuyến đi này Lê Văn Khải không hy vọng tìm được bà Thấm. Ba mươi năm rồi, biết bao vật đổi sao dời, làm sao tìm được một người anh ta chưa từng biết mặt với một cái địa chỉ rất vu vơ. Tìm người chỉ là thứ yếu, cái chính là anh ta không thể chịu được sự o ép bởi không khí ngột ngạt đầy bất trắc ở làng Cùa. ở lại vùng Ba Tổng, những người như Lê Văn Khải có thể bị tống giam bất cứ lúc nào chỉ cần chót thốt ra một lời không vừa tai các nhà chức trách. Anh em họ Lê, trước mắt Bùi Quốc Tầm như một thứ tôi phạm bị quản thúc tại gia, hoàn toàn mất quyền công dân, lúc nào cũng phải chịu sự giám sát và giáo dục của chính quyền nhân dân.

    Gần nửa tháng, Lê Văn Khải đi khắp vùng Bắc Thoòng nhưng không một ai biết vợ chồng ông cựu kiểm lâm. Chỉ còn xóm Cầu Gỗ có hơn chục nóc nhà là anh chưa đến. Trời mưa bụi, đường mới mở toàn đất đá lổn nhổn. Khải đang chật vật lên sườn dốc bỗng người lạnh toát vì một con trăn hoa thò hẳn cái đầu mốc thếch từ lùm cây đằng đằng xuống. Nó há cái miệng đỏ lòm phun phè phè làm anh ta co rúm, lùi dần, lùi dần cho đến khi hẫng chân lăn xuống vực.

    Bờ vực vừa dốc vừa sâu, tận cùng là một con suối. Lê Văn Khải chẳng biết mình lăn bao nhiêu vòng, mới đầu còn ý thức được, nhưng sau một vài cú va đập với đá tảng, cành cây và các loại bụi gai thì anh ta thật sự bất tỉnh. Gần trưa, một cô bé gánh củi ngang qua, nhìn thấy chiếc khăn gói vướng vào cành cây, đoán là có người ngã xuống vực liền chạy về gọi ông. Hai ông cháu phải khó khăn lắm mới đưa được Lê Văn Khải lên. Trên người anh ta hầu như chỗ nào cũng có vết xây xát, không đá nhọn đâm thủng thì gai cào rách toạc. Một bàn chân trật khớp sưng tấy lên, còn sống mũi bị dập rát như phải bỏng. Ông già nắn khớp chân xong, xoa rượu mật gấu rồi bảo cô cháu gái rửa sạch các vết thương trên người Khải bằng nước muối sau đó vào rừng lấy lá thuốc giã nhỏ đắp lên. Khi Lê Văn Khải ngồi dậy được, ông già bảo:
    - Dốc lên xóm Cầu Gỗ thường ít người qua lại, may mà cái Thảo nhìn thấy khăn gói của anh nếu không thì chẳng ai biết mà tìm.
    Cho đến lúc này Khải vẫn còn run bắn khi nghĩ đến con trăn :
    - Cháu thấy nó há mồn ra, phun phì phì nên mới bị ngã.
    - Vùng này lắm trăn mắt võng, thỉnh thoảng có cả trăn gió nữa. Loại to bằng khúc gỗ là nuốt được cả người đấy. Mà này, anh lên tận xóm Cầu Gỗ làm gì ?
    - Cháu tìm bà dì nghe nói hơn ba chục năm trước đã ở vùng này.
    - Tên bà ấy là gì ?
    - Là bà Thấm, em bà Hai Thoả ở tổng Kim Đôi.
    - Bà Hai Thoả với anh là thế nào ?
    - Là bà Ngoại.
    - Thế thì tôi là Quyển chồng bà Thấm đây.
    Khải ngập ngừng:
    - Còn …. bà Thấm ?
    - Bà ấy cùng với bố mẹ con Thảo đã chết trong trận Tây càn Bắc Thoòng tháng bảy năm năm hai. - Ông Quyển thở dài bảo - Chỉ còn hai ông cháu nên tôi cũng chẳng về quê nữa mà ở đây để tiện chăm sóc phần mộ cho người đã khuất.
    - Sao bảo hồi ấy ông làm kiểm lâm cho Pháp cơ mà ?
    - Phải, nhưng chuyện dài lắm để tôi kể cho anh nghe . - Ông già ngắm nghía Khải một lúc rồi mới hỏi - Bây giờ anh định thế nào ?
    - Cháu cũng chưa biết được nhưng chắc chắn không thể về làng . Họ truy bức ghê lắm vì bố cháu là chủ tịch huyện bị toà án đặc biệt xử tử do có kẻ tố giác liên quan đến Quốc dân đảng.
    Ông Quyển gật đầu:
    - Vậy thì cứ ở đây, chịu khó làm không chết đói đâu mà lo.
    Tối hôm sau ông Quyển lại hỏi:
    - ở nhà có được học hành tí nào không ?
    - Cháu đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
    - ái chà, thế là trình độ cao đấy . - Ông cựu nhân viên kiểm lâm tỏ ý thán phục -Mấy hôm nữa cháu phải dạy em Thảo. Nó có được học mấy buổi i tờ nhưng hễ cứ đi lấy củi là quên sạch.

    Ông Quyển là người Mạc Điền, thời trẻ đi mộ phu Nam Kỳ, khi sắp xuống tàu vào Nam, ông ký Thẩm giữ lại xin cho vào đồn điền Phố Hàng. Đây là vùng đất chuyên trồng thứ chè Thái nổi tiếng Bắc Kỳ.Chủ đồn tiên là Tây lai Lô ba Nguyễn, chơi thân với quan chánh Kiểm lâm Hăng ri Bác tê. Một hôm Bác tê đến mừng sinh nhật con gái Lô ba là Marian, thấy người cu ly nói được tiếng Pháp liền ngỏ ý muốn xin chủ đồn điền cho anh ta sang làm kiểm lâm vì Sở lúc này đang cần tuyển nhân viên. Ông Quyển đã đỗ xéc ti phi ca, biết chữ Quốc ngữ và tính toán thành thạo được Bác tê cử về trông coi rừng Bắc Thoòng.

    Nghề Kiểm Lâm vất vả, được mấy đồng bạc lương thì suốt ngày phải trèo đèo lội suối tuần tra, chỉ cần lơ là một chút là cánh thương lái thuê thợ sơn tràng lẻn vào rừng chặt gỗ quý đóng bè thả về xuôi kiếm lãi bạc trăm. Nhưng sợ nhất vẫn là bọn quan chức phủ Thống sứ hoặc cánh tổng đốc, tuần phủ địa phương cậy thế cho người khai thác gỗ mà không cần xin phép kiểm lâm. Theo quy chế của ngành, rừng bị phá ít thì trừ lương nhân viên, bị phá nhiều sẽ phải truy tố nếu không tìm được thủ phạm. Cho nên nghề này làm không được lâu, có người chỉ sau vài tháng đã bỏ việc.

    Lại nói về ông Quyển. Khoảnh rừng do trạm của ông phụ trách rộng hơn sáu ngàn héc ta phần lớn là rừng đầu nguồn toàn gỗ quý, lại gần suối Nậm Cơi, rất dễ vận chuyển ra sông. Hôm ấy, ông đang tuần tra ở lô số ba thì nghe thấy tiếng cưa xoèn xoẹt, tiếng rìu chặt chan chát phía chân đèo Đá Mài. "Chắc lại bọn sơn tràng chặt trộm do thằng Ba đen cầm đầu". - Ông nghĩ vậy và xách súng chạy đến. Không phải. Chúng là một đám lính khố xanh với bọn sơn tràng chừng hơn chục tên đang ra sức đốn cây lát hoa cỡ hai người ôm. Ông Quyển lên đạn, chĩa nòng súng vào bọn lâm tặc quát :
    - Tất cả dừng ngay lại ! Ai cho phép các anh phá rừng ?

    Một gã mặc âu phục nhàu nát, đội mũ phớt, tay cầm chiếc roi ngựa, lại gần ông Quyển, giọng hách dịch:
    - Anh là ai ?
    - Tôi là nhân viên kiểm lâm.

    Tay mặc âu phục nheo mắt chỉ roi ngựa vào đám lính khố xanh bảo:
    - Họ đều là người nhà quan Tuần tìm vài cây lát về đóng đồ. Anh cứ coi như không biết, sau này cụ Tuần sẽ hậu tạ.

    Ông Quyển hỏi:
    - Cụ Tuần có giấy phép khai thác không ?
    - Chặt mấy cây xin giấy làm gì cho phiền phức. Thôi, bỏ qua đi. Đây, có chút gọi là để thày uống rượu.
    - Không được . - Ông Quyển lắc đầu - Tôi nhận tiền lót tay để các người phá rừng là phải vào tù. Cây lát này quan Chánh đã đánh dấu.

    Một viên đội khố xanh rút khẩu pạc hoọc khỏi bao gỗ chỉ vào người kiểm lâm quát:
    - Tôi hỏi, anh nghe theo lệnh quan Tuần hay lệnh sở Kiểm lâm ?

    Ông Quyển vốn thẳng tính không chịu sự luồn cúi, nhìn tên đội cười gằn:
    - Cấp trên của tôi là ông Hăngri Bác tê dĩ nhiên là tôi phải nghe theo ông ta.
    -Thằng này cứng cổ thật . - Viên đội hất hàm ra hiệu cho đám lính - Anh em trói nó vào gốc cây vàng canh kia.
    - Các người dám chống lại sở kiểm lâm ? - Ông Quyển lùi lại, ngón tay đặt vào cò súng.

    Gã mặc âu phục nháy mắt với viên đội rồi thong thả bảo:
    - ở vùng này không ai được phép vượt mặt quan Tuần. Anh đừng đem cái gã mắt xanh mũi lõ nhãi nhép ấy ra doạ bản chức. Biết điều thì quay về và hãy im mồm.

    Ông Quyển định nhấn cò cho gã tham biện dinh Tuần phủ một viên đạn nhưng bọn lính khố xanh đã nhanh hơn, nổ liền mấy phát thị uy. Đạn bay sát sạt bên tai làm viên kiểm lâm sởn gai ốc.
    Ba hôm sau ông Quyển xuống núi gặp chánh kiểm lâm Hăng ri Bác tê nộp đơn xin thôi việc:
    - Tôi không hoàn thành nhiệm vụ, để người của quan tuần chặt mất cây lát quý, phụ lòng tin của ông, xin được từ chức.

    Hăng ri bác tê bảo:
    - Có súng trong tay sao anh không bắn vỡ đầu chúng nó ra ?

    Ông Quyển nhăn nhó:
    - Quả thật lúc ấy không kìm được tôi đã định cho gã tham biện về chầu giời, nhưng bọn lính khố xanh thằng nào cũng có súng.

    Ngài Chánh Kiểm Lâm gật đầu bảo:
    - Được, tôi sẽ cho lão tuần phủ này biết tay.
    - Nhưng quan lớn phải cho tôi nghỉ việc
    - Không được - Bác tê phẩy tay - Anh đã làm ở đấy mấy năm, bảo vệ rừng tốt lắm, giờ xin nghỉ, ai chịu lên trên ấy?
    - Bẩm quan, ngài là người Pháp không sao, chúng tôi dân bản xứ còn có gia đình. Cứ tình hình thế này, chúng đốt nhà, giết vợ con tôi lúc nào không hay. Đấy là chưa nói bọn Việt Minh đang hoạt động ráo riết khắp nơi.
    Cuối cùng thì ngài chánh Kiểm lâm cũng phải chấp nhận. Ông ta vỗ vai người cựu nhân viên của mình dặn:
    - Lúc nào muốn quay lại Sở thì cứ bảo tôi một tiếng.

    Sau Tết, ông Quyển đưa vợ con về Bắc Thoòng. Năm bốn chín, tuy đã cứng tuổi nhưng ông vẫn gia nhập địa phương quân. Giữa năm năm hai, lúc ấy ông đang chiến đấu ở Đồng Sài thì Tây càn Bắc Thoòng, núi Nứa. Kế hoạch của chúng là bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 48 vừa bí mật hành quân qua đây để sang Lạng Sơn. ít lâu sau ông nhận được tin dữ, cả nhà bị chết vì đạn moóc chi ê câu trúng tăng sê, chỉ còn mỗi đứa cháu lúc ấy chín tuổi theo bạn sang bản Nậm Cốc là sống sót.

    Cuối năm năm tư, lúc ấy ông Quyển đã giải ngũ, về dựng lại nhà để chăm nom con Thảo. Đội Cải cách truy ra cái quá khứ làm kiểm lâm cho Tây, bắt ông giam nửa tháng. Đứa cháu gái ngày nào cũng phải mang cơm. Thật may, ông chủ tịch xã lúc bấy giờ là bạn đồng ngũ tìm mọi cách gỡ cho mới thoát tội.
    Kể ra được những nỗi trầm luân cuộc đời mình, ông Quyển thấy tâm trạng bớt phần u uất. Ông chép miệng bảo:
    - Tôi dại chứ ngày ấy đừng đăng ký mộ phu Nam kỳ thì bà Thấm không mất sớm mà cũng chẳng có cảnh ông cháu lưu lạc đất khách quê người như thế này.

    Lê Văn khải an ủi:
    - ở đời chẳng biết thế nào mà đoán trước được số phận của mình đâu ông ạ. Như gia đình cháu đây này, hoà bình rồi, chẳng bom rơi đạn lạc gì mà bỗng chốc trở thành mẹ goá con côi. Người ta còn ép mẹ cháu phải lên đấu bố cháu để có thêm tội chứng cho toà án xử tử.
    Lúc ấy đêm đã khuya. Rừng Bắc Thoòng thỉnh thoảng lại có tiếng hoẵng tác. Lũ chim ngủ gà ngủ gật trong ánh sáng mờ mở của vành trăng khuyết. Ông Quyển rút trên giàn xuống một tảng nai khô bảo Lê Văn Khải quạt than nướng rồi vào buồng lấy ra bình rượu thuốc ngâm tắc kè.
    - Làm chén rượu cho ấm bụng.
    - Cháu uống kém lắm.
    - Có thịt nai khô ta nhấp nháp tí cho vui. - Ông Quyển bảo - Hồi còn đóng quân ở rừng Tân Mộc ta có nghe được câu chuyện về một con hổ. Chuyện lạ lắm. Chưa biết chừng nó chính là con hổ vồ hụt cháu trên núi Nứa.
    - Thật hả ông ?
    - Ta cũng không biết nhưng nói chung loài hổ sống rất lâu, càng già càng tinh khôn - Ông già nhắp ngụm rượu, khà một tiếng rồi bắt đầu kể.

    Chuyện bắt đầu bằng việc anh chàng Hà Thiết vào rừng đốn gỗ làm nhà. Vợ anh ta là Nông Thị Nhóng, đẹp nhất bản Nà Ngườm. Mấy tháng trước, chánh tổng Bế Hữu Tài đã đem bạc trắng đến nhà Nông Viết Định hỏi Nhóng cho con trai mình là Bế Tòng nhưng việc không thành. Nhóng bảo: "Bố mế tham bạc trắng bán con cho nhà giàu là con nhảy xuống vực Thuồng Luồng". Ông Định sợ, bởi hồi đầu năm chẳng hiểu vì sao, Mã Thị Nhàn, vợ thằng Tòng, nửa đêm chạy ra rừng ăn lá ngón chết. Mấy bản quanh vùng, con gái nhà ai cũng sợ về làm dâu họ Bế. Đám cưới Thiết và Nhóng như cái gai chọc vào mát Bế Hữu Tài. Lão không nói ra nhưng trong lòng luôn ngấm ngầm đợi dịp trả thù.

    Từ lâu, Bế Hữu Tài đã làm chức việc cho người Pháp. Thỉnh thoảng lão lại cưỡi ngựa lên đồn Pha Lay ở châu lỵ Bình Xuyên chơi với quan ba mắt xanh muĩ lõ. Viên chánh tổng này còn có biệt tài đánh hơi mùi hổ cốt. Dù ở thung lũng đá xám mờ sương hay trên đỉnh Thiên Phong quanh năm tuyết phủ, nghe tin phường săn nào bắn được hổ là lập tức lão sai tay chân đến lấy bộ xương về nấu cao. Dân Bình xuyên ai cũng thù lão. Bế Tòng giống hệt tính bố, coi thiên hạ như rác. Trong những cuộc chè chén với lũ đàn em, hắn thường huyênh hoang tuyên bố :
    - Con Nhóng đáng lẽ là vợ tao, thế nào tao cũng bắt về cho mà xem.

    Ngôi nhà sàn của vợ chồng Hà Thiết ở rừng Ken Chải cách hẳn với bản Nà Ngườm ba quả đồi. Từ xưa đến nay dân bản ít người đến khu rừng này vì họ sợ một truyền thuyết về vực Thuồng Luồng. Suối Bạc chảy từ ngọn Cốc Dì, qua rừng Ken Chải khoét xuống thành một vực sâu, nước trong vắt như pha lê. Vào những đêm trăng sáng, thường có cô gái mặt hoa da phấn, tóc đen như mun, từ dưới nước leo lên tảng đá trắng trên bờ, trút bỏ xiêm áo, phô ra giữa đất trời tấm thân ngà ngọc, mê hoặc những chàng trai trẻ đa tình. Trai bản có những kẻ hiếu kỳ, thích ma quỷ đẹp hơn là người trần kém nhan sắc, chẳng biết sợ là gì, lén lút rủ nhau ra bờ suối, hy vọng nhìn thấy mỹ nhân trong cảnh thiên thai. Dần dần bọn này mắc một chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh quên. Họ quên ông bà, cha mẹ, vợ con, thậm chí quên cả bản thân mình, suốt ngày di lang thang tơ tưởng đến người đẹp dưới thuỷ cung. Nhưng đêm như thế,dòng suối Bạc lung linh dưới ánh trăng ngà. Mặt nước sóng sánh hằng hà sa những đốm sáng như vảy cá chép vàng bắt nắng ban mai. Trong cảnh sắc chập chờn, huyền ảo, thỉnh thoảng một gã si tình lại nhảy xuống vực tìm người trong mộng để rồi không bao giờ trở về cõi dương gian nữa. Chuyện ấy chắc chỉ là huyền thoại nhằm cảnh tỉnh những kẻ lắm đam mê, nhưng con suối Bạc với vực Thuồng Luồng thì vẫn còn đó.

    Hà Thiết là chàng trai mang trong mình hai dòng máu. Bố người Kinh mẹ người Tày. Ông Thao lưu lạc đến vùng Bình Xuyên từ nhỏ, làm con nuôi nhà họ Hà, lớn lên được gia chủ cưới cho một cô gái người bản Nậm Coóng. Ông giỏi nghề mộc, đã từng được quan châu đón lên làm nhà nhưng mệnh số bị hãm, không được ở với vợ con lâu dài. Cách đây mấy năm, một lần đi rừng về, lội qua suối Nậm Thoong, ông bị nước lũ cuốn trôi.

    Biết Nhóng phải lòng Hà Thiết, ông bố có vẻ không hài lòng, bảo con gái:
    - Thằng ấy giỏi trai nhưng tao ngại nó là người Kinh. Bọn người Kinh khôn ngoan mà hay xảo trá. Sống với họ luôn phải cảnh giác, bởi vì trong đầu họ luôn có những cái mà người vùng cao ta không có được.
    Nhóng không mấy quan tâm đến người chồng tương lai là Kinh hay Tày mà thề rằng nếu không được làm vợ Hà Thiết sẽ tự tử. Rốt cuộc, Nông Viết Định cũng phải chấp nhận chuyện trăm năm của con gái khi mẹ Hà Thiết mang lễ vật sang dạm hỏi. Năm ấy, mưa muộn, mãi đến cuối tháng tám suối Bạc vẫn còn lũ. Một buổi chiều, Hà Thiết vác củi từ trên nương về, chợt nhìn thấy một vật gì giống con chó vện bị dòng nước đẩy giạt vào ghềnh đá. Anh ta quẳng bó củi lại gần xem, thì ra là một chú hổ con lạc mẹ, gãy chân trước, những đám công lông vằn vèo dính bết vào da thịt nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền trong tình trạng gần như đã chết. Hà Thiết vác con vật lên vai, chạy một mạch về nhà bảo vợ đổ rượu mật gấu xoa khắp người cho nó. Nhóng sợ hết hồn, giãy nảy:
    - Anh mang ra rừng thả hoặc giết nó đi. Ai lại mang cọp về nhà. Em sợ lắm.
    Hà Thiết bế con hổ lại gần bếp lửa hơ cho nó khô lông rồi thong thả bảo vợ:
    - Nó còn bé, thiếu sự chăm sóc của mẹ, lại gẫy chân, giờ thả về rừng là chết. Anh nghĩ, con vật cũng như con người, mình cứu giúp nó, nó không nỡ hại mình.

    Con Hổ yếu lắm, mãi chiều hôm ấy mới liếm được ít cháo trứng gà. Vết thương khá nặng. Những đoạn xương gãy trồi khỏi khuỷu chân đâm ra ngoài khiến nó bị sốt cao, suốt ngày nằm thiêm thiếp, thở khò khè như đứa trẻ mắc chứng hen phế quản. Sau khi đắp thuốc, Hà Thiết phải dùng hai chiếc nẹp tre kẹp vào chân con hổ rồi quấn dây chung quanh cố định khớp xương. Đi làm thì thôi, về đến nhà nhìn thấy con hổ là Nhóng lại càu nhàu. Nhưng rôì thấy chồng hết lòng cứu chữa con vật, chẳng quản ngày đêm lội suối băng rừng kiếm thuốc, cô cũng dần nguôi giận. Mỗi sáng, trước khi lên nương, Nhóng còn giúp chồng nấu cháo pha mật ong đổ từng thìa cho con thú. Được chừng mươi ngày thì Hà Thiết tháo nẹp. Vết thương của loài hổ nói chung, rất lâu khỏi, phải gần một tháng sau nó mới hoàn toàn bình phục.

    Là loài mãnh thú, nhưng vì còn bé nên con hổ vẫn chưa kế thừa đầy đủ tập tính di truyền của tổ tiên. Nó hiếu động và thích khẽ gừ gừ như một gã mèo vằn nằm sưởi nắng khi đã được gia chủ cho đánh chén no nê. Phải nói đó là một chú hổ nhí khá hiền lành, thậm chí nó còn sợ hãi nhảy bổ lên bậc cầu thang khi nhìn thấy con chó Lài giống Vân Nam cao lừng lững của Hoàng Đản lúc anh này đến rủ Hà Thiết đi săn lợn rừng. Hà Thiết đặt tên cho nó là Huổi Vằn, Con vật tỏ ra dễ thương và biết nghe lời ông bà chủ. Anh ta không muốn bất cứ ai nhìn thấy Huổi Vằn nên đã tập dần cho nó quen với những tín hiệu quy định. Khi có người đến cổng nghe tiếng huýt sáo của ông chủ là chú ta cúp đuôi chạy ngay vào nhà chứa củi.

    Nửa năm sau, Huổi Vằn được chăm sóc chu đáo đã thành một chú hổ choai choai. Cơ thể của nó phải nhiều năm nữa mới đến độ trưởng thành nhưng dáng dấp đã có vẻ oai phong của bậc chúa sơn lâm. Ban ngày, con mãnh thú ngoan ngoãn nằm trong chiếc cũi để ở gian đầu nhà chòi khuất giữa vườn mắc coọc, lim dim ngủ. Ban đêm, Hà Thiết thả nó vào rừng kiếm mồi. Huổi Vằn mải chơi, lang thang trong rừng Cấm hai ba ngày mới về, nhưng cũng có những hôm trời còn tối, chưa rõ mặt người nó đã lẳng lặng tha về một con hoẵng hầu như còn nguyên vẹn cho ông bà chủ.

    Một hôm, Hà Thiết thả Huổi Vằn sớm hơn thường lệ rồi bảo Nhóng đem chiếc búa tạ để anh phá cũi. Con Hổ thấy lạ cứ nhìn chủ rồi gừ gừ trong cổ họng. Hà Thiết vỗ vỗ vào lưng Huổi Vằn bảo:
    - Mày lớn rồi, không ở đây được nữa mà phải vào rừng Cấm mới khỏi bị bọn phường săn rình bắn. Hôm qua, lúc ở bản Tèo về, tao đã nhìn thấy anh em thằng Bế Tòng phát hiện dấu chân mày.
    Con hổ vẫn còn đang ngơ ngác thì Hà Thiết đã huýt gió chỉ tay vào rừng :
    - Thôi đi đi ! Thỉnh thoảng về thăm tao.

    Huổi Vằn hình như vẫn còn lưu luyến nhưng nhìn thấy ánh mắt ra lệnh của chủ nó mới uể oải bước một cách miễn cưỡng. Anh ta lặng lẽ nhìn theo cho đến khi nó mất hút sau những bụi gai móc mèo um tùm.

    Con hổ đi rồi, Hà Thiết đâm ra nhớ, còn Nhóng thì mừng ra mặt. Thỉnh thoảng anh ta ra bờ suối lấy chiếc tù và bằng sừng trâu rúc vài tiếng thử gọi, dù biết ràng lúc này nó ở mãi ngàn xanh. Nhưng rồi mấy hôm sau Huổi Vằn về thật. Con hổ uốn thân hình mềm mại nhảy loang loáng dưới ánh trăng, lúc ẩn lúc hiện giữa những lùm cây kim tước không hề phát ra một tiếng động làm Hà Thiết giật thót mình. Anh ta nhẹ nhàng vuốt cái bờm vàng cháy ram ráp từ đỉnh đầu đến ngang lưng, làm con thú khoái chí khẽ gừ gừ như ngày còn bé. Tuy vậy, Hà thiết không dám giữ con hổ lại lâu. Anh ta rất sợ những nòng súng nạp đạn ghém của cánh thợ săn Nà Ngườm. Họ sẵn sàng bắn vào bất cứ mục tiêu nào, miễn là hạ sát được con mồi.

    Vào một đêm tháng Ba, lúc ấy đã khuya lắm, bỗng có tiếng chó sửa dữ dội. Không phải Huổi Vằn. Con hổ về thì lũ chó nhất loạt cúp đuôi, rúm người lại, im thin thít. Chỉ có lợn rừng, hươu nai hoặc giả là người bọn chúng mới ra oai báo cho chủ mẫn cán đến như thế. Hà Thiết bảo Nhóng nằm yên trong buồng rồi với cây súng, nhẹ nhàng lần xuống cầu thang. Anh ta không phải tìm lâu. Theo hướng chó sủa, từ xa Hà Thiết đã thấy một hình người mặc quần áo sẫm màu, bùn đất dính bê bết, nằm cạnh hàng rào ở tư thế hoàn toàn không bình thường. Anh ta chần chừ không dám lại gần, sợ có kẻ nào đó rình rập chung quanh. Mà có thể lắm. Biết đâu đây chẳng là mưu chước của cha con lão Chánh Tổng khi chúng còn ôm mối hận về cô con dâu hụt. Lũ chó vẫn cắn dai dẳng. Cậy chủ ở bên cạnh, cả con Vện và con Mực vừa sủa vừa chạy quanh kẻ lạ mặt đang nằm co quắp vẽ thành một vòng cung mỗi lúc một hẹp dần. Dõi mắt quan sát ba bề bốn bên, thấy không có gì khả nghi, Hà Thiết quả quyết lại gần . Có tiếng rên rỉ khe khẽ, tiếp theo là nhịp thở nặng nhọc, mệt mỏi của người bị thương. Anh ta nạt con Vện cúp tai đang định thò mõm lôi ống tay áo kẻ lạ mặt :
    - Vện, ra ngoài kia !

    Con chó đã biết tính chủ. Nó lẳng lặng lẩn vào góc vườn nằm xuống đống vỏ cây, xoải hai chân trước, cặp mắt lim dim làm nhiệm vụ cảnh giới trong khi con mực tai dỏng đã bị tống vào gầm sàn đang rên ư ử.

    Kẻ lạ mặt là một người đàn ông chừng bốn mươi có mái tóc cứng như rề tre và bộ râu quai nón lởm chởm lâu ngày không cạo giống hệt một tay lục lâm đã từng lão luyện trong nghề chặn đường khách thương hồ đòi tiền mãi lộ. Ông ta bị một phát đạn vào bắp đùi trái. Vết thương toang hoác, phá ra bằng nửa bàn tay, tuy chỉ vào phần mềm nhưng đã bị nhiễm trùng bốc mùi hôi làm nạn nhân bị choáng. Nghe giọng nói, Hà Thiết biết ông ta là người Kinh. Trong lòng đầy nghi hoặc, anh ta nhìn bộ dạng ông khách không mời hỏi bằng tiếng Tày :
    - Khách đi chợ bản Then không biết đường lạc vào rừng Cấm à ?
    Người đàn ông vểnh hàm râu chổi sể lắc đầu:
    - Ta là … Cả Pháo, có dám cho vào nhà không ?
    Vậy ra ông khách này là tướng cướp thật. Nghe thiên hạ đồn từ lâu giờ Hà Thiết mới biết mặt. Anh ta thản nhiên bảo ông trùm lục lâm :
    - Sợ gì ? ở đây chỉ có mỗi nhà tôi. Các nhà khác trong bản Nà Ngườm đều cách nửa con dao quăng. Để tôi dìu ông lên sàn.
    - Anh không sợ chánh tổng Bế Hữu Tài à ?
    - Cả bản này thù bố con nó. -Hà Thiết quả quyết bảo - Mà nếu có kẻ xấu bụng báo chánh tổng hoặc quan châu Bình Xuyên cũng chẳng làm gì được. ở đây gần với con đường chạy vào rừng Cấm, vợ tôi sẽ đi hái thuốc chữa vết thương cho ông.
    - Ta chỉ dám nhờ gia chủ vài hôm, vết thương dịu bớt là đi ngay.
    - Không vội được đâu. - Hà Thiết lắc đầu ái ngại bảo ông khách - Vết thương của ông nặng lắm, chậm một hai ngày nữa là hỏng cái chân.

    Sáng sớm, Nhóng lên rừng hái thuốc. Hà Thiết pha nước muối rửa vết thương, sau đó dùng một loại lá cây ở khe Đầu Quạ, trông tựa vẩy ốc, giã nhỏ trộn với mật ong rừng rịt vào. Thứ lá này có hoạt tính cực mạnh vừa có tác dụng sát trùng vừa làm lành những chỗ đã bị hoại thư. Đây là bài thuốc gia truyền của họ Hà từ nhiều đời trước. Nó được giữ bí mật ngay cả với người trong bản.

    Khoảng già nửa tuần trăng, vết thương đã lên da non, sức khoẻ của Cả Pháo dần dần hồi phục. Tối hôm ấy, trong lúc nhắm rượu với thịt lợn rừng nướng trên than hồng, ông trùm kể cho vợ chồng Hà Thiết nghe về cuộc đời mình.

    Cha Cả Pháo vốn là một nghĩa binh trong quân doanh Đề Thám. Sau mấy chục năm tung hoành làm cho quân đội Pháp và quan lại Nam triều khiếp đảm, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đến giai đoạn thoái trào. Một số thủ lĩnh của nghĩa quân rơi vào tay giặc và bị hành hình rất dã man, trong đó có thân phụ ông là suất đội Trần Tung. Nghe tin dữ, Cả Pháo lúc ấy mới mười lăm tuổi, sợ bị liên luỵ vội bỏ làng dắt mẹ đi lánh nạn. Suốt mấy tháng trời, ngày đi đêm nghỉ, gối đất nằm sương, phải chịu bao nỗi cực nhục đói khát dọc đường, cuối cùng hai mẹ con đến được châu Bình Xuyên. ít lâu sau Cả Pháo xin được chân phụ việc cho phường săn Lũng Phầy kiếm gạo. Phường săn gồm toàn những đối tượng có thành tích bất hảo, hoặc những gã đầu trộm đuôi cướp, sống ngoài vòng pháp luật nhưng trọng nghĩa khí sẵn sàng xả thân vì lẽ công bằng. Dần dần Cả Pháo được ông trùm quý mến và truyền võ nghệ cho. Phường toàn đàn ông, nay đây mai đó, không thể mang mẹ đi theo nên Cả Pháo gửi bà ở bản Noọng Khai trong nhà một người bà con của Bàn Văn Lọi. Tri châu Bình Xuyên sức giấy cho các tổng phải tróc nã bằng được toán lục lâm. Nhưng bọn này có tài xuất quỷ nhập thần, chuyên lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Một lần anh em chạm trán với chánh Tài ở dốc Mật. Họ đánh bạt toán lính khố xanh có trang bị súng trường, cướp toàn bộ số tiền thuế rồi biến vào rừng như có phép lạ. Không may, một tên tay chân của lão Chánh nhận được mặt Cả Pháo. Lão cho người dò la tung tích, bất ngờ phát hiện ra bà mẹ ông ở Noọng Khai bèn báo cho tên bang tá đem lính bắt giam vào đề lao. Bà là người phụ nữ có khí tiết, bị quan châu dùng cực hình tra tấn vẫn không chịu khuất phục, đến nửa đêm thì cắn lưỡi tự tử để khỏi luỵ đến con trai. Mẹ chết, Cả Pháo vô cùng đau xót. Ông thề không đội trời chung với lũ quan Tây và bọn phản dân hại nước. Hơn chục năm sau, Cả Pháo trở thành thủ lĩnh của phường Lũng Phầy với những chiến tích từng lưu truyền trong dân bản khắp châu Bình xuyên như một huyền thoại. Hãi nhất là vụ đang đêm anh em đột nhập vào đồn Phay Hán đốt nhà, mang hết vàng bạc cùng với lão bang tá về sào huyệt. Hà Thiết nghe câu chuyện phục lắm bèn hỏi:
    - Như vậy là ông đã bị cả bọn Phú Lãng Sa da trắng tóc vàng và lính quan châu rình bắt nhiều lần mà vẫn bình an vô sự, thế còn mấy hôm trước, kẻ nào bắn ông ?
    - Ta không nhìn rõ mặt chúng nhưng ở vùng này chắc chỉ có cha con lão Chánh tổng.
    - Ông Cả đi lối rừng Cấm rồi lội suối về Ken Chải phải không ?
    Cả Pháo gật đầu:
    - Cứ tưởng theo lối này thì an toàn ai ngờ lại bị dính đạn. Lúc ấy trời đã chạng vạng, chỉ thoáng thấy một thằng khập khiễng ôm súng chạy khi ta bắn trả.
    - Thằng Tòng đấy. Cái chân thọt là do hắn ngã ở vực Thuồng Luồng . - Hà Thiết trầm ngâm một thoáng rồi quả quyết bảo -Tôi nghĩ mãi rồi. Tuy chân chưa khỏi hẳn nhưng ông Cả phải đi thôi, ở đây lâu sợ chúng tìm ra dấu vết.
    - Ta cũng cảm thấy cha con lão Chánh không dễ gì bỏ cuộc khi đã bắn bị thương con mồi. Anh nói phải. Ơn cứu mạng của vợ chồng anh kiếp này không báo được thì xin hẹn kiếp sau.
    Nói rồi ông ta quỳ sụp xuống vái Hà Thiết ba vái. Hà Thiết vội đỡ Cả Pháo dậy :
    - Hà tất ông Cả phải làm thế. Ông là người nghĩa khí, bênh vực dân nghèo, trị tội ác bá, không chỉ chúng tôi mà ngay cả bà con dân bản cũng sẵn lòng cưu mang. Đêm mai tôi sẽ đưa ông tắt rừng Ken Chải sang bản Puốn.
    - Phải lắm, Bản Puốn ta có một người anh em là ông Lầu Phềnh.

    Mờ sáng hôm sau, Nhóng vừa lùa đàn trâu lên rừng thì cha con chánh Tài cưỡi ngựa dẫn một toán lính khố xanh đến cổng. Mấy con chó chạy xô ra sủa toáng lên. Bế Tòng nổ một phát súng mút thị uy làm lũ chó bị kích động nhảy vọt qua hàng rào thưa lao vào con ngựa bạch của lão chánh tổng. Nó bị bất ngờ, hí lên một tiếng sau đó bổ nước đại hất Bế Hữu Tài xuống bờ ruộng bậc thang. Lão vừa ngượng vừa tức, lồm cồm bò dậy, ra lệnh cho bọn thuộc hạ bao vây ngôi nhà sàn. Hà Thiết thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra liền đẩy Cả Pháo vào góc nhà, vớ lấy cây súng kíp, bước ra đầu quản hỏi:
    - Có việc gì mà ông Chánh đem lính tráng đến nhà tôi từ sáng sớm ?

    Lão Chánh hực lên một tiếng :
    - Mày muốn sống thì mang thằng tướng cướp ra nộp quan. Ta biết hắn đã bị thương đang nằm trong nhà.
    - Này ông Chánh, đừng quen thói gắp lửa bỏ tay người. ở đây không có ai là tướng cướp. Ông bảo người nhà về đi nếu không đừng trách Hà Thiết này nóng tính.

    Chánh tổng cười gằn hất hàm bảo lũ tay chân:
    - Vào nhà lôi tên Cả Pháo ra đây. Đứa nào chống lại, bắn.

    Hà Thiết chĩa nòng súng vào lão Chánh dằn giọng:
    - Ta thách đấy ! Kẻ nào dám bước lên bậc thang là sẽ được về với ông vải.

    Hà Thiết vừa nói hết câu thì "đoàng" một viên đạn bay sát ngay cột đầu chái làm vỡ toác chiếc hòm trên gác lửng. Thì ra Bế Tòng, từ lâu vẫn âm ỉ mối hận tình, nay đã có thời cơ, từ ngoài hàng rào nhắm vào anh ta nổ súng. Hà Thiết nép nhanh vào góc khuất, bình tĩnh chờ đợi thằng Tòng ló đầu ra là xiết cò. Con trai lão chánh tổng vừa ngã thì một loạt tiếng súng rộ lên, tất cả đều nhằm vào ngôi nhà sàn. Không kịp nhồi đạn, Hà Thiết lao vào buồng lấy khẩu súng bắn đạn ria ra thì đã thấy Cả Pháo chĩa nòng khẩu trường mút của ông qua khe cửa nhằm vào bọn lính khố xanh. Viên đạn hất một tên ngã ngửa ra, đầu đập xuống tảng đá chắn hàng rào. ở trên rừng, nghe tiếng súng, Nhóng biết là có chuyện chẳng lành. Cô thả trâu rồi ba chân bốn cẳng chạy về. Vừa đến đầu nhà, Nhóng giật mình thấy phía trước có tiếng hô hét. Gay rồi. Chắc bọn chức việc đến bắt ông người Kinh. Phải nhanh chóng chạy về Nà Ngườm báo cho trưởng bản Lục Phát mới được. Nhưng họ chỉ có hai người chẳng may trúng đạn thì nguy.Thử tìm cách lại gần xem sao đã. Nhóng luồn qua những bụi cây lúp xúp bò vào gần sàn, ngẩng lên thấy chồng đang nạp đạn. Hàng rào đã bị đổ. Thằng Tòng mới chỉ bị thương, tay nó run run rê nòng súng trường về phía Hà Thiết. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, cô bỗng nhào ra chắn ngang mũi súng thét lên:
    - Không được bắn !

    Gần như đồng thời, nòng súng Bế Tòng bốc khói. Nhóng giật nảy người, chới với một lúc rồi ngã.

    Thấy vợ trúng đạn, Hà Thiết uất lắm, quẳng khẩu súng đã vỡ toác nòng, rút con dao phát rừng định nhảy xuống quyết sống mái với chúng một phen. Nhưng rồi anh ta lại nghĩ, không thể liều chết được. Nhìn sang gian bên, ông Cả cũng hết đạn đang lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Bất chợt một ýnghĩ vụt loé lên … Hà Thiết lật ván sàn, bám cây cột gian giữa tuột xuống gầm nhà, khom người chạy ra bờ suối, hướng về phía rừng Cấm rúc một hồi tù và. Anh ta thổi hai tiếng ngắn lại một tiếng dài. Vừa đúng ba lần như thế thì từ cánh rừng trước mặt bỗng rồ lên như sắp có trận cuồng phong. Rồi một con hổ vằn to lớn xuất hiện. Nó chỉ nhảy vài bước đã vượt qua suối Bạc lao thẳng về ngôi nhà quen thuộc. Đúng là Huổi Vằn. Với dáng vóc oai hùng của vị chúa sơn lâm, chỉ bằng cú táp nhẹ, Huổi Vằn đã làm toạc vai Bế Văn Tòng. Những tên lính khố xanh còn lại chưa kịp định thần vì quá hoảng loạn vội quẳng súng ù té chạy. Nhưng con hổ không thèm đụng đến lũ này mà nó vọt lên rượt theo tên cai áo vàng, chìa cặp móng vuốt sắc như lưỡi dao cào một vệt vào lưng hắn. Lão chánh tổng là tên ranh ma. Biết đối phương hết đạn, hắn định leo lên cầu thang. Lúc này Cả Pháo đang trấn giữ ở trên bằng con dao phát rừng to bản khá lợi hại Hà Thiết chuyển cho. Nhìn thấy lưỡi dao sáng loáng, chánh Tài khựng lại, đi giật lùi, ghếch nòng súng về phía ông trùm. Hắn chưa kịp xiết cò thì Huổi Vằn từ ngoài cổng chồm đến sau khi đã hạ gục tên cai khố xanh. Là tay thợ săn giàu kinh nghiệm, mặc dù vô vùng khiếp đảm, chánh Tài vẫn đủ bình tĩnh tìm cách tháo lui. Nhưng Huổi Vằn có cách trấn áp đối phương bằng một độc chiêu và luôn bất khả chiến bại. Nhìn thấy họng khẩu trường mút nó lập tức dựng đứng hai chân sau, cặp mắt sáng rực như hai đạo hào quang ma quái chiếu vào Bế Hữu Tài rồi gầm lên dữ dội. Tiếng gầm của ông ba mươi khiến hồn phách lão chánh tổng lên mây, ngã vật xuống, miệng sùi bọt. Chỉ đợi có vậy, Huổi vằn chồm tới "con mồi" định kết thúc tấm thảm kịch, nhưng Hà thiết đã quát :
    - Thôi đủ rồi, Huổi Vằn về rừng !

    Nghe tiếng chủ, con hổ ve vẩy chiếc đuôi dài, chui qua gầm sàn đến bên Hà Thiết. Anh ta vỗ vỗ vào lưng nó rồi chỉ tay về phía trước. Huổi Vằn hiểu ý lững thững ra bờ suối Bạc.

    Con hổ đi rồi, Cả Pháo xuống cầu thang đến bên lão chánh tổng vẫn còn đang chết khiếp, kề sát hàm râu quai nón vào mặt hắn, dằn giọng :
    - Với tội phản dân hại nước của mày, lẽ ra phải để con hổ xé xác hoặc cho một nhát dao phát rừng, tuy chủ nhà đã tha nhưng cũng không thể để cho mày nguyên vẹn trở về bản rồi sau này vẫn chứng nào tật ấy.

    Nói xong, ông Trùm lục lâm rút con dao găm trong người cắt xoẹt một bên tai khiến lão chánh tổng rú lên lấy tay bưng thái dương. Hà Thiết trừng mắt quát :
    - Cút !

    Buổi chiều, Cả Pháo và Hà Thiết vào rừng Ken Chải đào huyệt chôn cất Nhóng. Anh ta ở bên mộ vợ đến chập tối mới về. Cả Pháo thấy vẻ rầu rĩ của anh bạn trẻ, thương lắm bảo:
    - Bỏ quách cái nhà này đi. Chú theo tôi lên núi dẹp nỗi bất công cho người nghèo.

    Hà Thiết lẳng lặng gật đầu:
    - Cho nó mồi lửa ….
    - Phải. ở đời chẳng nên lưu luyến mãi những thứ đã thuộc về quá khứ.

    Sáng hôm sau hai người dậy từ cuối canh tư. Họ vừa đi vừa nghỉ vì vết thương của ông Trùm vẫn chưa lành hẳn. Hôm ấy là một ngày âm u. Trên cao những tảng mây xám xịt, nặng nề trôi về khu rừng Cấm.

    (còn tiếp)

  3. #3
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 12

    1. Lê Văn Khải đi khỏi làng Cùa được ba hôm thì Trương Đình Tái, quyền trưởng công an đem hai dân quân đến Trại Cá bảo mẹ con bà Hai:
    - Anh Nghiên theo chúng tôi ra Uỷ ban.
    Khúc Thị Hài chột dạ bảo:
    - Nó làm gì mà các ông bắt?
    - Có chuyện đấy, đến Uỷ ban khắc rõ.

    Bà Hai lắc đầu:
    - Chắc lại chuyện thằng Khải.

    Nghiên bị dẫn ra trụ sở. Bùi Quốc Tầm đã ngồi chỡ sẵn.
    - Thằng Khải đi đâu?

    Quả nhiên không ngoài dự đoán. Thấy thái độ hách dịch của chủ tịch xã, nghiên ngứa mắt muốn quại cho hắn một phát vào mặt nhưng bắt buộc phải tỏ thái độ lễ phép một cách giả tạo:
    - Thưa ông chủ tịch, nhà tôi không có ruộng mà những bốn miệng ăn nên anh ấy phải đi kiếm việc làm.

    Tầm lại hỏi :
    - Làm ở đâu ? Lúc đi sao không ra xã trình báo ?
    - Anh ấy bảo chỉ đi ít hôm rồi lại về nên chúng tôi chưa kịp báo với ông Tái.

    Tầm hắt hơi liền mấy cái, khạc đờm nhổ xuống đất rồi sẵng giọng :
    - Những đối tượng như các anh ra khỏi làng nửa ngày cũng phải xin phép. Đấy là quy định của địa phương.Thế mà anh Khải vắng nhà đã ba ngày không lí do .Yêu cầu anh khai thật ra.
    -Tôi đã bảo là anh ấy đi tìm việc làm, khi chưa tìm được việc thì không thể nào có nơi cư trú để trình báo với các ông .
    - Anh cũng lắm lý luận gớm nhỉ? - Tầm châm chọc - Vậy tôi hỏi anh, tại sao trước khi đi anh Khải không xin phép?

    Nghiên cười nửa miệng, nhìn vị chủ tịch cố nông như nhìn một con lừa:
    - Anh ấy biết trước, có xin các ông cũng chẳng cho đi. Đói bụng đầu gối phải bò. Chẳng lẽ cứ ngồi nhà chờ chết đói?
    -Thế là rõ. - Tầm cười đắc thắng - Vậy thì anh hãy tạm xuống buồng giam dưới kia,đợi đến khi nào thằng Khải về sẽ được ra.

    Ngày thứ tám, Trương Đình Tái mang lệnh của chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Đoàn Kết đọc cho mẹ con bà Hai nghe :
    - " Từ ngày hai mươi bốn tháng ba năm 1956 , vợ hai địa chủ Khúc Đàm là Phùng Thị Thoả, con gái là Khúc Thị Hài, vợ tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận, có nợ máu với bà con bần cố nông , lập tức phải rời xóm Trại Cá ra đồng Chó Đá ở, nếu cố tình trái lệnh sẽ bị tống giam . Chủ tịch Bùi Quốc Tầm đã ký " .

    Sáng sớm ngày hai mươi nhăm, mẹ con bà Hai cho tất cả đồ đạc tuỳ thân vào đôi quang thúng . Khúc Thị Hài gánh còn bà mẹ khoác chiếc bị cói thập thững theo sau. Từ xóm Trại Cá đến đồng Chó Đá không xa lắm nhưng phải qua khu ruộng vàn hàng năm chỉ cấy một vụ còn một vụ bỏ hoá vì ngập nước. Khu đất mà xã Đoàn Kết bố trí cho các hộ địa chủ ở cách bãi tha ma chưa đầy ba chục thước. Nơi đây mười lăm năm trước, sau trận huyết chiến giữa quân áo Đen của Khúc Kiệt với lính Nhật của Hi rô si, làng Cùa đã phải chôn liền một lúc hơn bẩy chục người vô tội . Xương thịt của họ đã tan vào lòng đất làm xanh tốt hàng ngàn thế hệ cỏ cây nhưng linh hồn họ chắc gì đã được siêu thoát về nơi tịnh thổ.

    Trịnh Doãng, lão Mộc điếc cùng Đoàn Văn Đáp, cháu họ gọi phó lý Kiền bằng bác vào xóm Trại Cá dỡ ngôi nhà cũ dựng lại cho mẹ con bà Hai.

    Ba người vừa trèo lên mái lột được mấy hàng rạ đã thấy Trương Đình Tái khoác súng đến sừng sộ :
    - Ngôi nhà này Uỷ ban đã trưng dụng không được dỡ . Các anh xuống ngay .

    Đoàn Văn Đáp bảo :
    - Mẹ con bà Hai giờ không có lấy một cây tre dựng lều , xin các ông làm ơn cho người ta.
    - Không nói lôi thôi. - Quyền trưởng công an quát - Các anh cố tình phá nhà là tôi hô quân dân trói lại .

    Tối hôm ấy mẹ con bà Hai phải trải rạ nằm trên nền đất ẩm đắp tạm tấm chăn đụp. Phải mất gần ba hôm kiếm vật liệu bọn Trịnh Doãng mới dựng xong căn lều. Nó chỉ rộng hơn chiếc lều vịt của lão Ngạnh vừa đủ kê chiếc chõng và để đôi quang thúng , mỗi khi ra vào đều phải khom người nhưng dù sao cũng còn hơn phải phơi nắng phơi sương giữa trời .

    Cũng vào thời gian ấy, Lê Văn Nghiên bị giải lên huyện để công an tiếp tục điều tra về sự mất tích của Lê Văn Khải mà lãnh đạo xã Đoàn Kết nghi là anh ta đã trốn vào Nam theo địch. ở huyện người ta đối xử với Nghiên khác hẳn với Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái đã làm. Họ không tát tai hoặc thích cùi chỏ vào ngực, thậm chí không lên giọng quát tháo nhưng thực sự Nghiên thấy sợ. Đó là nỗi sợ hãi cố hữu bởi anh ta luôn biết thân phận mình chỉ là con sâu cái kiến , đang đối mặt với một thế lực có sức mạnh tập thể vô cùng lớn được duy trì bằng nguồn năng lượng đặc biệt đó là " chuyên chính vô sản " . Họ mở miệng ra là nhân danh Đảng và giai cấp vô sản, có khi chưa cần dùng đến biện pháp cứng rắn những công dân hạng hai như anh ta đã rúm người lại như con chuột nhìn thấy lão mèo già đang lặng lẽ vuốt râu .

    Ông công an mặc áo đại cán, tay đeo đồng hồ Nikles có cái cằm nhọn, ria đen nhánh nhưng thưa, thái độ rất nhã nhặn hỏi :
    - Anh cứ bình tĩnh kể lại cho chúng tôi nghe từ đầu đến cuối việc anh Khải đi khỏi làng Cùa như thế nào . Nhớ là phải thật tỉ mỉ , chính xác
    .
    Người thư ký ngồi bên cạnh đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Anh ta ghi rất nhanh khi Lê Văn Nghiên bắt đầu nói . Trong nửa giờ , người cằm nhọn vừa nghe vừa ghi sổ tay. Ông ta viết khá xấu nhất là các chữ " s " ," m " và đặc biệt chữ "k " chẳng khác gì cái chân gà. Nghiên trình bày một cách ngắn gọn, có phương pháp làm ông công an bất giác nheo mắt hỏi :
    - Anh có biết chữ không ?
    - Thưa ông, có biết chút ít .
    - Chắc là học bình dân ?

    Nghiên ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu :
    - Thưa ông, vâng .

    Ông công an khoảng trên ba mươi, trán rộng, mũi nở, mắt sáng trông có dáng của một lãnh đạo quốc gia trừ cái cằm nhọn. Thỉnh thoảng ông ta nhìn Nghiên như kiểu mèo vờn chuột. Cái nhìn tưởng là vô cảm , bất chợt thoảng qua nhưng nếu để ý sẽ thấy những tia sắc lạnh như mũi khoan thép làm ý chí đối phương tê liệt, mất hẳn khả năng phòng thủ cuối cùng phải bộc lộ bản chất . Nghĩ đến đây , Nghiên tự bảo mình : " Ta nguy mất rồi ".
    - Anh nghĩ gì thế ? - Người cằm nhọn lại phóng một tia nhìn làm Nghiên cồn cào ruột gan .
    - Tôi đang nghĩ giá mà anh Khải viết thư về cho biết đang làm việc ở đâu .

    Ông ta gật gù :
    - Nếu thế thì còn nói làm gì. Mà này, anh có viết được không ?
    - Dạ, cũng võ vẽ đôi chút...
    - Vậy hãy viết bản tường trình. - Ông công an đẩy xấp giấy, cây bút sắt cùng lọ mực tím mà người thư ký đã chuẩn bị sẵn về phía anh - Cứ bình tĩnh mà trình bầy. Nhớ dùng chữ nhỏ và đừng để mất nét. Tôi bận họp, chiều ta lại gặp nhau .

    Bản tự khai của Nghiên chỉ chừng năm trăm chữ viết gọn trong hai mặt giấy, nét đẹp như cắt làm tay thư ký há hốc mồm không tin ở mắt mình . Nội dung hoàn toàn giống với lời khai, chỉ có điều cốt yếu mà người ta đang muốn biết là Lê Văn Khải đang ở đâu thì Nghiên không viết vào . Chiều hôm ấy,Nghiên ngồi trong trại tạm giam. Ông công an điều tra không đến. Chắc vẫn bận họp . Sáng hôm sau, ông Thẩm, Nghiên nghe thấy người thư ký gọi như vậy, đến rất sớm. Vừa bước vào phòng anh ta đã thấy vị cán bộ điều tra cầm trong tay bản tự khai của mình đọc rất chăm chú hoặc đang làm ra vẻ chăm chú. Thời gian đọc khá lâu gần như ông ta đánh vần từng chữ làm Nghiên sinh nghi, ông ta đang đóng kịch hay cũng mới thoát nạn mù chữ ?
    - Anh ngồi đi. - Ông Thẩm đặt tờ giấy xuống mặt bàn rồi khẽ gật đầu - Chữ anh viết đẹp lại đúng mẹo luật nữa .
    - Ông quá khen.
    - Hình như trước đây anh cũng được học hành tử tế chứ không phải chỉ ở trình độ bình dân học vụ ?

    Nghiên thoáng nghĩ, chuyện này không thể giấu, nếu giấu lập tức ông ta sẽ liên hệ ngay đến việc mình lừa dối chính quyền , tội không nhỏ .
    - Thưa vâng, tôi đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhất Cấp .
    - Có thế chứ. Bọn trí thức tiểu tư sản các anh nói chung là thuộc thành phần bóc lột, ăn bám vào bà con bần cố nông. - Ông Thẩm vừa bẻ đốt ngón tay khùng khục vừa phân tích - Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp lớn nhằm xoá bỏ sự áp bức bóc lột , thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng " . Chính sách của nhà nước không nhằm đánh vào thân thể các anh mà để cải tạo tư tưởng cổ hủ lạc hậu trong đầu các anh. Một trong những yêu cầu tối thiểu để giảm nhẹ hình thức xử phạt là phải thành khẩn. Vậy mà từ hôm qua đến giờ anh vẫn cứ loanh quanh không cho nhà chức trách biết hiện giờ anh Khải ở đâu ?
    - Ông nói rất có lý. Tôi cũng nóng lòng muốn được ra khỏi đây về nhà giúp đỡ gia đình nhưng ngặt một nỗi từ khi đi khỏi làng đến giờ anh Khải chẳng có tin tức gì .
    - Thế này vậy. - Ông Thẩm vẫn rất bình tĩnh bảo, - Tôi để anh suy nghĩ thêm từ giờ đến sáng mai , nếu ngày mai vẫn cố tình không chịu khai ra tên Khải đi đâu, chúng tôi bắt buộc phải đưa anh lên tỉnh .

    Ngày hôm sau, ông Thẩm hoàn toàn thất vọng nhưng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh cần thiết của người cán bộ điều tra chính trị. Trước khi Lê Văn Nghiên bị hai công an dẫn đi, ông ta còn dặn :
    - Cái chính là phải thành khẩn nói hết những điều mình biết. Pháp luật tuy nghiêm khắc nhưng vẫn có phần giảm nhẹ nếu các đối tượng thực sự hối cải. Anh nhớ lấy.

    Thường thì những đối tượng có lý lịch phức tạp như Lê Văn Nghiên mà công an huyện đã chuyển tỉnh thì hiếm khi được về ngay. Anh ta vừa đến ty công an đã được đưa ngay vào trại tạm giam K4. Trong trại, sau Cải cách ruộng đất vẫn còn khoảng hơn trăm người, phần lớn là con em địa chủ cường hào, tay sai Quốc dân đảng đang chờ xử lý .

    Cũng vào thời gian ấy mẹ con bà Hai không còn thứ gì có thể ăn sống người đành phải tính đến việc đi xin. Chuyện ăn mày vào những năm giữa thập kỷ năm mươi không có gì lạ. Cái lạ là hầu hết số người lang thang khất thực trên khắp các nẻo đường đều có nguồn gốc địa chủ , cường hào hoặc phú nông đã bị tịch thu điền sản .

    Tất cả bọn họ đều mang một đặc điểm chung khi hành nghề là nón mê kéo sụp xuống che mặt , giọng nói lí nhí và không bao giờ dám nói rõ thân phận .Khúc Thị Hài trong bộ váy áo vá chằng vá đụp , vai khoác bị , cánh tay lành dắt bà mẹ lưng còng ngót nghét sáu mươi chẳng khác gì hình ảnh nàng Cúc Hoa dắt mẹ Tống Trân hành khất thời xưa . Bà Hai mệt thỉnh thoảng phải ngồi nghỉ lấy sức.

    Lúc ấy hai mẹ con trên đường vào làng Rào . Con đường hẹp lát gạch nghiêng, ở giữa gồ lên như mai rùa . nắng tháng tư trong suốt không đến nỗi gay gắt như trưa tháng sáu nhưng vì là nắng mới nên rất khó chịu với những người đi bộ đường trường . Trời trong xanh , thỉnh thoảng mới có gợn mây trông như hình mạng nhện đan bằng những sợi trắng như bông . Mặt trời lên cao , mạng nhện càng nở phình ra cho đến lúc giống hệt tấm lưới khổng lồ choán nửa bầu trời rồi mờ dần. Một đàn sếu lông xám nhịp nhàng vỗ cánh bay về phía đầm Ma theo hình mũi tên .Con đầu đàn hơi tách ra khỏi đội hình rồi bất ngờ hạ dần độ cao. Chúng bay quanh làng vài vòng kêu lên những tếng rất lạ tai sau đó tiếp tục cuộc hành trình . Qua cổng làng , mẹ con bà Hai rẽ vào một ngôi nhà ngói trông bề ngoài thì gia chủ có vẻ khá giả . Khúc Thị Hài kéo tấm khăn đen che mặt , cố ý để người ta nhìn thấy cánh tay tật nguyền .Con chó vện bằng nắm đấm cắn dai nhanh nhách . Người ra mở cổng là một bà già .
    - Bà ơi ! Bà làm ơn cho con xin chút ít . Quê con mất mùa đói lắm .

    Bà cụ già lúng búng nhai trầu hỏi :
    - Sao dạo này lắm ăn mày thế không biết ? Mẹ con nhà chị ở mạn nào đến ?
    - Quê con mãi làng Vạn , Thái Bình cơ . - Khúc Thị Hài nói dối - Cùng đường mới phải ngửa tay đi xin , mong bà mở lòng từ bi , một nắm khi đói bằng một gói khi no .

    Bà cụ vào nhà xúc bơ gạo đưa cho Khúc Thị Hài bảo:
    - Nhà này cũng sắp hết ăn rồi nhưng nhìn thấy mẹ con nhà chị nhếch nhác quá không đành .

    Bà Hai cảm động khẽ nói :
    - Đội ơn bà !
    Hai người lại thất thểu trên con đường trục giữa làng , từ xa nhìn thấy ngôi nhà gạch năm gian lợp ngói âm dương, Khúc Thị Hài chỉ tay hỏi mẹ:
    - Mình cứ liều vào trong ấy xem có được gì không?

    Bà Hai bảo :
    - Mẹ đoán nhà ấy là nhà cố nông mới được chia chẳng ăn thua gì đâu.
    Trước cửa , một người đàn ông mặt dẹt, trán thấp ,cởi trần, những dẻ xương sườn hình nan quạt trồi lên dưới lớp da vàng ệch đang húp xoàn xoạt bát cháo khoai vẫn còn bốc khói, vừa nhìn thấy ăn mày vào sân đã xua như xua tà :
    - Không có gì đâu, nhà này cũng phải húp cháo khoai trừ bữa đây .

    Khúc Thị Hài nhăn nhó .
    - Bác nhón tay làm phúc giúp kẻ cơ nhỡ một chút gọi là .
    - Về quê làm lấy mà ăn . - Người đàn ông vẫn xịt xoạt húp thứ nước lõng bõng trong chiếc bát chiết yêu , giọng rồm rộp như bị bỏng lưỡi - Đây mấy đời cố nông mà không thèm ngửa tay xin xỏ ai bao giờ nhé !
    - Bác nói thế thì chúng tôi đành chịu .
    - Không chịu cũng không được. Nhà này sáng qua đã phải đem ra chợ bán mấy cái ghế quả thực mua được thúng khoai khô, hôm nay mới có cháo húp. Mà thôi, chị chờ một tí, tôi mang cho nắm khoai. Nếu đói quá thì có thể ăn tạm. khoai phơi được nắng, thơm lắm .

    Xế chưa mẹ con bà Hai ra nghỉ dưới gốc đa làng giở khoai khô ra nhai. Ăn xong, khát quá , Khúc Thị Hài lội xuống giếng ngắt lá sen múc nước mang lên cho bà Hai uống . Đêm ấy, về đến căn lều của mình bà Hai nằm thiêm thiếp bụng sôi òng ọc .Hôm sau, lúc sắp đi, Khúc Thị Hài bảo mẹ :
    - Hôm nay bà mệt cứ ở nhà .

    Bà Hai lắc đầu :
    - Tôi già thế này ngửa tay xin người ta mới thương, một mình chị sợ rằng khó .
    - U cứ lo không đâu. Cái tay khoèo của tôi thế này mà lắm lúc cũng được việc .
    - Thời buổi thóc cao gạo kém, ăn xin như rươi, người cụt cả hai chân còn chưa ăn ai huống hồ cái tay khoèo của chị

    Hai mẹ con sang vùng Mễ Tây . Dọc đường 228 thỉnh thoảng lại gặp một toán bị gậy, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, áo quần nhếch nhác trông như quỷ nhập tràng. Khúc Thị Hài hỏi một ông mặt choắt, rậm râu, già nhất trong đám, dáng bước lòng khòng :
    - Các bác ở đâu ta ?
    - Dưới Cổ Trai .
    - Sao không vào chợ La ?
    - Vào thế đếch nào được .- Ông già buột miệng chửi - Mẹ cha chúng nó chứ ! Lão vừa mon men đến cổng mấy thằng khán thị đầu trâu mặt ngựa đã vác gậy đuổi như đuổi tà. Có tay mặt rỗ còn trẻ bị câm cứ liều xông vào bị nó nện dập ống chân .
    - ở nhà có còn ruộng vườn không ?
    - Các ông bà nông dân tịch thu hết rồi, giờ chỉ còn trơ hai cái thân già thay nhau đi xin của bố thí đây .

    Qua chợ La được một thôi đường, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Hai mẹ con vào ngồi quán đá dưới gốc cây đa cổ thụ tránh nắng. Được một lúc có ba phụ nữ ăn mặc kiểu nửa quê nửa tỉnh đạp xe ngang qua. Người lớn tuổi bảo hai chị bạn :
    - Ta vào quán này nghỉ uống chén nước .
    Trên chiếc chõng tre nức mây đen sì như dính bồ hóng , ngoài nải chuối tây đã chín vàng chỉ có ấm nước vối, một lọ thuỷ tinh kẹo bột xanh đỏ với chiếc điếu cày ghếch bên cạnh. Người phụ nữ đứng tuổi mặc áo cổ bẻ xanh sĩ lâm, chiết ly, quần láng đen, đội nón bài thơ, vai quàng chiếc túi vải, ngồi xuống ghế bảo bà chủ quán :
    - Bà cho ba bát nước vối với đĩa kẹo .
    - Các bác về đâu thế ?
    - Về tỉnh bà ạ .
    - Nước đây mời ba bác. Từ đây về tỉnh đi xe lết chả mấy, cứ thong thả cho mát .

    Nhìn thấy hai mẹ con người ăn mày, chị phụ nữ đứng tuổi thoáng giật mình, nhưng rồi chị ta lấy lại bình tĩnh rất nhanh, thái độ thản nhiên như không bảo bà chủ quán :
    - Bà mang nải chuối này với hai bát nước đưa cho mẹ con người ăn mày kia, tôi sẽ trả tiền.
    Bà Hai mắt kém lại bị quáng nắng không nhận ra người phụ nữ nhưng Khúc Thị Hài đã ngờ ngợ ngay từ khi chị ta bước vào quán. Khi người ấy đến gần hai mẹ con, bỏ khăn ra thì Khúc Thị Hài khẽ kêu lên :
    - Dì Ba !

    Người phụ nữ đặt tay lên môi ra hiệu nói khẽ rồi hỏi :
    - Sao lại đến nông nỗi này ?
    - Chúng tôi bị xã đuổi khỏi làng phải ra đồng Chó Đá ở vì thằng Khải bỏ nhà đi tìm việc , thằng Nghiên thì đang nằm trong trại tạm giam .

    Chị ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi dặn :
    - Nói chuyện ở đây không tiện . Nghe tôi dặn đây. Nếu có gì cần giúp đỡ chị hãy sang thị xã đến nhà số 15 phố Đông Sơn, hỏi bà Dương Thị Xuân .

    Trên đường về, bà Hai bảo con gái :
    - Cái người mang quan tài về liệm cho chồng mày hôm nó bị bắn đúng là cô ấy.
    - Con cứ nghĩ là dì ấy chết rồi.

    Bà Hai gật đầu :
    - Tao cũng nghĩ thế, mà... sao lại phải thay tên đổi họ nhỉ ?
    - Chắc là phần đời sau này của dì ấy có những uẩn khúc .
    - Tao chẳng biết được mà chỉ thấy cô ấy khác trước nhiều lắm .
    - Có khi "người ta" làm cán bộ bà ạ . Nay mai con phải lên tỉnh một chuyến may ra cứu được thằng Nghiên .

    *****

    Ông công an điều tra cấp tỉnh xem ra còn có văn hoá và khả năng nhẫn nại hơn nhiều so với người đồng nghiệp dưới huyện. Ông này không thuyết lý dài dòng mà đi ngay vào bản chất của sự việc :
    - Thực ra, trong thời gian qua chúng tôi đã có đầy đủ hồ sơ về anh. Việc anh Khải đi khỏi làng không báo cáo chính quyền hẳn là đã có một kế hoạch được sắp đặt từ trước. ở huyện công an, anh có ý định giấu trình độ học vấn nhằm mục đích gì ?

    Nghiên im lặng. Ông công an tiếp tục, giọng đều đều vô cảm :
    - Các anh được đào tạo rất bài bản trong hệ thống nhà trường thực dân, bị nhồi nhét toàn những tư tưởng phản động và hệ ý thức nô dịch, trong thâm tâm rất bất mãn với chính quyền mới và luôn chờ dịp để chống lại .

    Nghiên thấy đã đến lúc phải chứng tỏ thái độ của mình :
    - Lập luận của ông không đúng vì nó xuất phát từ nhận định chủ quan, mang tính áp đặt .
    - Anh dám …
    - Ông cứ bình tĩnh .- Nghiên xua tay cắt lời - Trước hết chúng tôi cùng giai cấp với ông. Bố tôi là đảng viên đảng Lao động, hoạt động Cách mạng nhiều năm và đã bị đế quốc cầm tù. Cách mạng thành công, ông ấy được cử làm chủ tịch huyện, vậy mà hồi Cải cách bị đem ra xử bắn với tội danh rất mơ hồ là " tay sai Quốc dân đảng ". Từ cái chết oan ức của cha tôi, các ông nhân danh bần cố nông, tước hết số tài ít ỏi, đuổi chúng tôi ra khỏi làng, thử hỏi đấy là thứ " đấu tranh giai cấp " gì?
    - Anh không được láo ! Nói xấu chính quyền Cách mạng là tù mọt gông.-Ông cán bộ thẩm vấn vứt ngay cái mặt nạ đạo đức giả nhìn xoáy vào Lê Văn Nghiên như muốn ăn tươi nuốt sống anh ta -Biết điều thì khai ra, thằng anh mày trốn ở đâu ?
    -Tôi đã nói rồi,tôi không biết .

    Cái kiểu khiêu khích của Lê Văn Nghiên rất khó chịu . Đó là thứ châm chọc mang mầu sắc văn hoá hơn hẳn đối phương một bậc làm ông công an phát khùng, không kìm được liền giáng cho anh ta mấy cái bạt tai .Mấy cái tát có nghề làm Nghiên nổ đom đóm mắt , máu cam chảy ra làm rớt xuống ngực áo. Anh ta cười như mếu :
    -Thì ra chuyên chính của Nhà nước dân chủ là thế này đây .
    - Đúng đấy .- Ông cán bộ điều tra cười nhạt, giọng khinh khỉnh - Nếu không biết điều thì sẽ còn rất lâu mới được nhìn thấy ánh mặt trời anh bạn ạ .

    Chiều hôm ấy, ông công an điều tra trả Nghiên về trại K4 với mệnh lệnh :
    - Tống vào phòng biệt giam, cắt khẩu phần ăn hai ngày .

    Trên đường về, ông cán bộ điều tra vẫn còn hậm hực vì gần một năm làm công việc thẩm vấn tội phạm chưa bao giờ gặp một thằng nhãi ranh miệng còn hơi sữa mà thở ra toàn lý sự như Lê Văn Nghiên .

    Hai mẹ con bà Hai lên trại thăm Nghiên nhưng không được gặp. Trên đường về họ phải rẽ vào làng Tảo An xin ăn. Bà Hai sẵn có bệnh tim , bụng đang đói. Trời vừa nắng gắt lại đổ mưa , thế là bị cảm ngã xuống ruộng . Khúc Thị Hài phải khó khăn lắm mới kéo được mẹ lên thì bà đã hôn mê. Giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết làm thế nào, chị ta đành chạy vào làng nhờ người giúp. Ông xã đội trưởng hỏi :
    - Mẹ con nhà chị ở đâu ? Làm sao phải đi ăn mày ?
    Lúc này không thể nói dối. Chị ta đành kể về thân phận mình. Nghe xong, vị xã đội trưởng chẳng những không thông cảm mà còn thản nhiên bảo:
    - Uỷ ban đã có lệnh, thân nhân của của các gia đình địa chủ phản động có nợ máu với nhân dân chết không được để chung ở nghĩa địa khu dân cư . Nếu mẹ chị chết chúng tôi sẽ cử mấy dân quân ra đào huyệt chôn .

    Khúc Thị Hài tức tưởi chạy ra đến nơi thì bà Hai đã tắt thở. Chị ta nằm phục bên xác mẹ, người cứ rung lên bần bật. Tiếng khóc bị bị nghẹn lại bởi trong người hầu như đã cạn kiệt sức lực. Có cảm giác như chẳng còn bao lâu nữa chị cũng đi theo mẹ .

    Mấy người dân quân bó bà Hai trong chiếc chiếu từ thiện rồi đào huyệt chôn ngay cạnh đường gần một bụi dứa gai . Mấy hôm sau ngôi mộ cứ to đần , thỉnh thoảng lại có người thắp hương. Đó là các bà vùng Ba Tổng đi chợ Cháy mang đất đá đắp vào mong hồn người chết phù hộ cho mua rẻ, bán đắt .

    Mẹ chết đường, con vào trại, Khúc Thị Hài bị đột quỵ nằm liệt giường gần nửa tháng mới dậy được. Cũng may trong túi vẫn còn ít tiền dì Ba cho hôm gặp ở quán Năm Gian nếu không thì chết đói. Lê Văn Khải vẫn không có tin tức gì. Chị ta định sang tỉnh một chuyến xem có hy vọng gì không, nhưng hễ cứ đứng dậy là đầu choáng mắt hoa không bước được .

    Nhịp sống của cư dân đồng Chó Đá vẫn cứ diễn ra đều đều trong nỗi nơm nớp lo sợ lúc nào đó đến lượt mình vào trại giam. Con cái địa chủ, cường hào, Quốc dân đảng thường bị dân quân làng Cùa đến bắt đi bất cứ lúc nào. Có đứa vừa lang thang xin ăn về, chưa kịp bước chân vào lều đã bị trói giật cánh khuỷu điệu xuống trụ sở Uỷ ban chỉ vì đêm qua nhà ông chủ tịch Nông hội bị chặt mất buồng chuối. Cộng đồng những kẻ ăn mày bất đắc dĩ này cũng chẳng tử tế gì vói nhau mà ngược lại luôn rình rập đề phòng nhau. Kinh nghiệm cho biết, không nên đặt hết niềm tin vào bất cứ người nào dù họ có tốt đến mấy. Phương châm hành xử khôn ngoan là chỉ có thể tin vào chính mình, vì ở đây tai vách mạch rừng. Trong hoạn nạn rất nhiều trường hợp không những không cưu mang nhau mà còn sẵn sàng bán đứng nhau để có được sự thương hại của bần cố nông. Chuyện các bà cô cạnh khoé, xoi mói nhau xảy ra như cơm bữa ở khu lều ổ chuột. Ông phó lý cựu Tưởng Đình Hàm , không phải đi tù nhưng bị tịch biên gia sản là một trong những hộ cư trú sớm nhất đồng Chó Đá. Bà phó lý mắc chứng kinh giật, tay chân lúc nào cũng run bắn, cầm bát cơm không vững . Nhà đông miệng ăn, đói triền miên nhưng ông Hàm nhất quyết không đi ăn xin mà bắt lũ con bắt cua, mò ốc, tát cá bán lấy tiền đong gạo. Những ngày đầu rất khổ. Con cái địa chủ ngồi bán hàng ở chọ Rồng chợ Từ Đường, chợ Đình không ai thèm mua. Bà con bần cố nông sợ ăn tôm cá của họ sẽ bị lây thói áp bức bóc lột, rất nhiều hôm chị em cô Xuyến phải mang về .

    Xuyến là con cả ông Hàm , xinh nhất nhà , trước Cải cách đã hứa gả cho con trai đồ Sách là anh Thiệp. Hai người quyến luyến nhau lắm , nhưng đến khi ông phó lý cựu bị qui lên địa chủ, mà đồ Sách chỉ ở mức bần nông thế là ông ta tuyên bố huỷ bỏ hôn ước. Anh Thiệp cưới cô La thành phần cố nông, gia đình cơ bản chỉ phải tội toét mắt.Có một người làng Cùa rất mê Xuyến là Nguỵ Văn Thành . Anh ta đã ngoài ba mươi mà vẫn chưa có con trai trong khi cô vợ lùn tịt đẻ liền một mạch năm ả " vịt giời " . Thành khá đẹp trai , tán gái thành thần nhưng cô vợ sẵn máu Hoạn Thư, nghe phong phanh anh ta léng phéng ở đâu là lồng đến đánh ghen. Tuy nhiên Thành cũng có trăm phương ngàn kế lừa vợ để chim chuột đám chị em quá lứa nhỡ thì, ngứa nghề. Hồi ấy gia đình ông Hàm vẫn ở xóm Đình, một lần gặp Xuyến ngoài ngòi Mác, anh ta hỏi :
    - Tình hình bên nhà thế nào ?

    Xuyến vốn ghét thói trai lơ của tay trưởng ban thông tin xã, chẳng thèm nhìn anh ta, nói trống không :
    - Hỏi làm gì ?

    Nguỵ Văn Thành lim dim mắt bảo :
    - Có cần đây giúp cho.

    Con gái ông phó lý cựu cũng không vừa liền đổi giọng :
    - Có hạ được thành phần cho nhà tôi không?

    Thành lắc đầu :
    - Nói thật nhá, ông cụ đã có tên trong danh sách năm người bị xử bắn đợt này, cô mà đồng ý …tôi có thể nói với ông Lạc miễn tội chết .
    - Chỉ phải đi tù phải không ?
    - May ra thì thoát đi tù, nếu vận động thêm được bà Sót. Bà này xem ra lập trường cứng rắn lắm.
    - Thôi thì trăm sự nhờ anh, tôi chẳng có gì ngoài tấm thân anh muốn làm sao thì làm …
    Mấy hôm sau Thành hẹn Xuyến ra chiếc lều vó của ông Khích ở ngòi Mác. Từ nửa tháng nay ông ta nghỉ việc để tham gia biểu tình đấu tranh vạch mặt địa chủ . Vừa gặp Xuyến, anh trưởng ban thông tin đã thông báo :
    - Việc nhà cô xong rồi. Tôi đã vận động mấy cốt cán chỉ giữ ở mức địa chủ thường, không có thêm cái đuôi "cường hào " hoặc "Quốc dân đảng " nhưng phải tịch thu tài sản . Chốc nữa về bảo với ông cụ có tiền nong vàng bạc gì thì giấu đi , hai ba hôm nữa là họ đuổi ra đồng Chó Đá .
    Xuyến vào trong lều , đầu tiên cô cởi tấm áo cánh gụ, cởi yếm rồi bất ngờ tụt nhanh chiếc váy để lộ ra tấm thân nõn nà làm Nguỵ Văn Thành run bắn người . Trăng đầu tháng chênh chếch rọi vào cửa lều có thể thấy rõ cặp vú mịn màng trắng toát choán cả khuôn ngực đang phập phồng. Cô gái co chân , nhích người nằm dịch vào một bên rồi bảo anh thông tin :
    - Nào anh còn đợi gì nữa. Tôi còn trinh đấy .

    Thành vẫn đứng trước lều , mặt ngẩng lên nhìn trăng , im lặng. Xuyến lại giục :
    - Chả lẽ tôi đem sự trinh tiết đổi lấy mạng sống của thày tôi mà anh còn chưa bằng lòng hay sao ?

    Người đàn ông ngồi xuống cửa lều cầm chiếc áo đặt xuống ngực cô gái khẽ bảo :
    - Em mặc váy áo vào đi rồi về .
    - Sao thế, hay là anh nghĩ lại không giúp gia đình tôi nữa?

    Thành lắc đầu :
    - Tiếc là không hạ được thành phần nhà em xuống nữa . Tôi biết ông cụ bị oan .
    Xuyến ngồi dậy mặc váy áo xong lưỡng lự một lúc rồi bảo :
    - Gia đình em chẳng biết lấy gì tạ ơn anh. Bao giờ em phải ra đây nữa ?
    - Thôi đừng ra nữa . Giờ em phải về đường tắt qua miếu Si, đừng đi cổng chính, bọn thằng Phong đang canh ở đấy .

    Chuyện hai người trong lều vó không giấu được ông cựu phó lý. Xuyến không ngờ đêm ấy, lúc cô ra khỏi nhà ông Hàm đã cử cô em bám theo . Biết nhưng ông bố vẫn âm thầm chịu đựng cho đến khi phải ra đồng Chó Đá . Một hôm cả nhà đi tát cá ở thùng Đấu, ông phó lý cựu mang dây thừng ra cây đa giữa đồng treo cổ tự tử, may mà có Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán đi chao dậm châu chấu phát hiện ra , chậm chút nữa thì không cứu được .

    2. Nghiên bị tạm giam đã hơn hai tháng. Thời gian trôi đi, cuối cùng Khúc Thị Hài thấy rõ một điều, nếu cứ chần chừ việc đi gặp dì Ba thì con trai bà ta khó mà được về. Hai chục năm qua, người đàn bà tật nguyền vẫn ôm mối hận bị cướp chồng mà không có cách nào hoá giải được . Nó như căn bệnh trầm kha , ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, cứ mỗi ngày lại làm hình hài một héo hon. Khúc Thị Hài từ lúc sinh ra đã quặt quẹo, bản tính nhu nhược , chỉ muốn an phận , biết mình không phải là đối thủ của Mạc Thị Lánh. Bà Ba là người không chịu sự ràng buộc của khuôn phép , luôn khát khao hướng tới một cái gì đó tốt đẹp hơn hoàn cảnh hiện tại cho dù chỉ là ảo tưởng. Bà Ba dám sống hết mình, sẵn sàng đập phá , nhổ toẹt vào mớ giáo lý phong kiến cổ hủ, vô nhân đạo ràng buộc thân phận người phụ nữ . Đứng trước Mạc Thị Lánh , KhúcThị Hài chỉ là cái bóng mờ nhạt , nhiều khi còn bị thần khí của cô ta làm cho biến dạng nên rất ngại giáp mặt .

    Khúc Thị Hài đến nhà 15 Đông Sơn vào buổi chiều. Lúc ấy đã tan tầm . Các công sở hết giờ làm việc. Bà Ba trong bộ quần áo cánh nhuộm nâu non, tóc búi buộc túm bằng chiếc khăn mùi xoa, chạy ra mở cổng. nhìn thấy bà Hài, dì Ba hỏi ngay :
    - Sao lâu thế mới đến ? Tôi cứ chờ mãi .

    Khúc Thị Hài chớp chớp mắt :
    - Mẹ tôi mất rồi .

    Bà Lánh hỏi dồn :
    -Mất khi nào ?Bệnh gì ?

    Khúc Thị Hài lấy ống tay áo quệt nước mắt :
    - Bị cảm nắng chết trên đường đi ăn xin .
    - Còn thằng Nghiên ?
    - Vẫn chưa được thả . Tôi lên gặp dì Ba hôm nay cũng vì việc ấy . Thôi thì trăm sự nhờ dì , mẹ con tôi không bao giờ dám quên .

    Bà Ba đứng dậy khép cửa buồng, kéo rèm che phía trong rồi ngồi xuống bên cạnh Khúc Thị Hài bảo :
    - Từ nay chị đừng gọi dì Ba hay bà Ba nữa. Tôi bây giờ là Dương Thị Xuân, đang làm Bí thư phụ nữ tỉnh. Nhà tôi là phó chủ tịch. Chiều nay bên Uỷ ban tỉnh có cuộc họp quan trọng nên giờ ông ấy vẫn chưa về .
    Khúc Thị Hài thấy nhà vắng vẻ nên hỏi :
    - Dì Ba được mấy em ?
    - Được hai. Thằng lớn đang đá bóng với lũ trẻ ngoài phố, còn con em về quê thăm bà nội từ đầu tháng chưa ra .
    - Mừng cho dì .

    Mạc Thị Lánh cau mặt :
    - Đã bảo cứ gọi là chị cho thân mật .
    - Vâng, thưa chị!

    Được rồi, việc thằng Nghiên cứ để tôi lo. Ông nhà tôi phụ trách khối nội chính có ý kiến của ông ấy là bên công an phải thả thôi. Nhưng mà nghe tôi dặn đây, không được nói với bất cứ ai ở vùng Ba Tổng là đã gặp tôi. Đời tôi cũng ba chìm bảy nổi khốn khổ lắm mới có được ngày hôm nay .
    - Có phải vì thế mà hồi ông Lái bị xử chị cũng không dám về làng Bòng ?
    - Hoàn cảnh lúc ấy bắt buộc phải nhẫn nhục. - Bà bí thư phụ nữ thở dài bảo - Cũng may ông Quảng kịp thời giữ lại, tôi mà về là bị bắt ngay .
    - Nửa đêm hôm ấy chị qua sông mang quan tài về chôn cất ông cụ phải không ?
    - Nói thực với chị, làm thế là rất mạo hiểm nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, huống hồ đấy lại là người sinh ra mình .

    Khúc Thị Hài gật đầu :
    - Cảm ơn chị cũng đã lo cho anh Vận tấm áo .

    Bà Ba cầm tay Khúc Thị Hài, giọng ngập ngừng :
    - Trước đây còn trẻ dại tôi có lỗi với chị và hai cháu nhiều lắm, giờ nghĩ lại thật xấu hổ .

    Khúc Thị Hài bảo :
    - Chuyện cũ qua rồi, người chết cũng đã yên phận , đừng nhắc lại thêm đau lòng.

    *

    Khúc Thị Hài không thể ngờ, sau khi cùng Lê Văn Vận trốn khỏi làng Cùa, Mạc Thị Lánh lại xuýt chết vì cú đâm lút cán con dao găm của người tình. Lúc ấy, trong khi Trần Phí dẫn anh em sơn tràng truy tìm Lê Văn Vận thì một toán lính khố xanh của tri châu Vi Văn Sầm đi tìm gỗ đàn hương nhìn thấy ba cái xác nằm bên bờ suối Đá Đen. Hai gã đàn ông đã chết. Người đàn bà bị đâm vào bụng tuy đã được cầm máu nhưng vẫn bất tỉnh . Viên đội người Thái lưỡng lự một lúc rồi bảo ;
    - Phải mang cô ta xuống thuyền độc mộc đưa về Chiềng Đôi để thầy mo Lủ chữa thuốc .
    - Hình như cô ta bị cưỡng hiếp .
    - Chắc là hai tên sơn tràng trần truồng kia. - Viên Đội khịt mũi nhổ nước bọt bảo- không biết kẻ nào đã giết chúng nhỉ ?
    - Ai giết cũng mặc xác chúng nó, cứ để đấy cho hổ báo về xé xác .- Một anh lính trẻ khoác khẩu súng săn hai nòng bảo - Cây gỗ tìm được hôm nay chắc quan tri châu hài lòng lắm .
    - Đây là cây đàn hương rất hiếm, có người đi rừng cả đời chưa chắc đã tìm thấy. Chuyến này thế nào anh em mình cũng được thưởng bạc trắng .
    - Thôi được, việc ấy để tôi trình quan xin cho anh em, giờ ta phải mang cái cô người kinh kia xuống thuyền. Sao mà con gái người xuôi nó đẹp thế, có khi quan lớn nhà mình cũng phải mê .
    Thuyền độc mộc chở được ba người. Bà Ba nằm thiêm thiếp, đôi môi khô se, tím ngắt, thỉnh thoảng lại ú ớ ngủ mê. Gần nửa ngày đi thuyền, toán lính khố xanh đưa Mạc Thị Lánh đến bản người Thái Chiềng Đôi. Thầy mo kiêm thầy lang Quàng Văn Lủ xem vết thương xong lắc đầu :
    - Nặng lắm , bị mất máu nhiều, không chắc nó đã sống được .

    Viên Đội đưa cho ông ta một đồng bạc trắng, ghé tai dặn :
    - Đây là ngươì của quan tri châu, ông chữa chạy tử tế sẽ có thưởng, nếu để cô ta chết coi chừng cái mạng .

    Thầy mo Quàng Văn Lủ vốn là môn đệ của tri châu Vi Văn Sầm, cứ vài ngày lại cưỡi con ngựa gầy giơ xương về châu lỵ hầu điếu đóm cho quan lớn để được hưởng sái thuốc phiện . Nhìn sắc diện bà Ba, Quàng Văn Lủ biết tình trạng vết thương không đến nỗi nào , chỉ cần chữa thuốc trong vòng một tuần là khỏi , nhưng lão phải nói thế để may ra moi được của viên tri châu mấy đồng thuốc phiện .

    Lão thầy cúng nửa mùa này đánh bạn với nàng Tiên nâu từ năm mười sáu tuổi, ngày nào không có thuốc là người phát phiền, chẳng thiết ăn uống gì, bởi vậy, tuy là thầy thuốc nổi tiếng cả mường nhưng hễ được bao nhiêu bạc lão lại nhét hết vào dọc tẩu thành ra quanh năm nghèo đói .

    Tri Châu Vi Văn Sầm là tay mê gái có hạng. Tuy đã có ba bà vợ Thái, trẻ nhất mới ba mươi mốt , nhưng khi nghe thầy đội Lò Văn Hếnh kể về cô gái người Kinh trẻ đẹp thì lão ngứa ngáy không chịu được. Bọn lính khố xanh biết ông chủ của mình ưa của ngọt liền xúm nhau vào tán dương :
    - Tháng này quan lớn có lộc, coi như "song hỷ lâm môn" .

    Lão Tri Châu nhe bộ răng vàng cười hềnh hệch rồi hỏi bọn thuộc hạ :
    - Thế nào là "song hỷ lâm môn ?"

    Lò Văn Hóng biết chữ Nho, viết một chữ "Hỉ" to tướng vào tờ giấy hồng điều cung kính trình lên Vi Văn Sầm :
    - Bẩm quan, cái vui thứ nhất là anh em chúng con đã tìm được cây đàn hương cổ thụ ở đầu nguồn suối Đá Đen. Thứ hai là mang được cô gái người kinh đẹp như tiên sa về bản Chiềng Đôi, nhưng nó bị thương , thầy mo Quàng Văn Lủ đang chữa .

    Viên Tri Châu chợt mắt sáng lên :
    - Các người làm ta sốt ruột quá, liệu đến hôm nào cái người Kinh ấy nó khỏi bệnh để ta xuống thăm ?

    Lò Văn Hóng nháy mắt với đám lính khố xanh:
    - Quan lớn cứ bình tĩnh, cô ta khỏi là chúng con đưa lên dinh ngay .

    Vi Văn Sầm lừ mắt :
    - Bé cái miệng thôi. chúng mày bép xép mấy con mẹ nhà dưới nó biết thì ta cắt lưỡi.

    Bọn lính kín đáo đưa mắt cho nhau . Ngài tri châu nổi tiếng hách dịch , hơi nhíu mày là bọn thuộc quan xanh mặt, nhưng người điều khiển lão ta lại là vợ cả, năm ấy đã ngót ngét sáu mươi, gầy đét như con cá mắm . Người trong châu kháo nhau, nhà bà ta truyền đời nuôi ma xó . Cách đây gần hai mươi năm ở bản Nháy xảy ra chuyện lạ . Ông Tòng Quang Phúng, chồng bà Ló, chị ruột bà Lả léng phéng với đứa con gái lão thợ săn người Mán. Khi cô này có mang thì cũng là lúc ông Phúng tự nhiên phát điên nhảy xuống vực Tiêu Diêu tự tử. Mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, quan tri châu lại thấy sởn gai ốc, nhưng chính mắt lão chưa bao giờ thực sự nhìn thấy loài ma chuyên gieo rắc tai hoạ cho người khác kia. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, bởi vì mụ vợ già Quàng Thị Lả của lão còn thính mũi hơn cả ma xó .

    Mấy hôm sau, dưới danh nghĩa công cán, Vi Văn Sầm cùng gã tham biện và mấy tên lính khố xanh khoác súng cưỡi ngựa xuống núi .Gần trưa cả bọn đến bản Chiềng Đôi. Vi Văn Sầm bước lên chín bậc cầu thang, vừa nhìn thấy Mạc Thị Lánh đã bủn rủn chân tay, hai mắt đờ ra như bị điểm huyệt. Lò Văn Hếnh đưa cho bà Ba bộ váy áo Thái với hàng cúc bướm bằng bạc và chiếc khăn piêu mà Vi Văn Sầm đã cho làm ở nhà cô em gái. Lánh vào buồng đến khi bước ra thì viên tri châu không còn tin ở mắt mình nữa. Một noọng Thái trắng đẹp mê hồn như từ chốn Bồng lai bỗng chốc giáng trần với đầy đủ cả xiêm y lộng lẫy làm căn nhà sàn của thầy mo Quàng Văn Lủ như toả ánh hào quang. Quan tri châu bảo :
    - Nàng có bằng lòng theo ta về châu lỵ không ?

    Bà Ba cúi đầu e thẹn đúng với điệu bộ của những cô gái chính chuyên sắp về nhà chồng. Thực ra, trong đầu bà Ba đang dự kiến một kế hoạch. Hãy cứ thoát khỏi bản Chiềng Đôi, tạm thời làm vợ bé lão già dại gái này đã, sau đó sẽ tính chuyện về quê. Vi Văn Sầm để Mạc Thị Lánh ở ngôi nhà sàn trong ngõ hẻm cuối châu lỵ gần đường đi Đà Bắc. Mỗi tuần lão đến với bà Ba vài lần nhưng ít khi dám ngủ qua đêm. Mọi cuộc truy hoan đều diễn ra ban ngày trong gian buồng che rèm thổ cẩm và sàn lát bằng tre bương đập dập lên nước nhẵn bóng. Vi Văn Sầm đã quá lục tuần nhưng chuyện phòng the thì không già chút nào. Có sâm nhung hổ cốt trợ lực, lão khoẻ như trâu, vừa leo khỏi cầu thang đã vồ lấy bà Ba đè xuống, tốc ngựơc váy lên bổ hùng hục làm sàn nhà run bần bật . Bà Ba là phụ nữ có thừa kinh nghiệm trong lúc chăn gối, tìm mọi cách chiều chuộng lão tri châu khiến lão chẳng tiếc gì bạc trắng cũng như những lời hứa hẹn. Lão dặn bọn thuộc hạ tuyệt đối giữ bí mật. Đứa nào để lộ ra là mất đầu. Thành thử một thời gian khá dài, viên tri châu dan díu với cô gái người Kinh mà cả ba bà vợ đều không biết .

    Vào một đêm tháng chạp mưa dầm gió bấc, bà Ba không ngủ được, chẳng phải vì lạnh mà bởi phải nằm một mình trong ngôi nhà vắng. Hơn tuần nay không thấy Vi Văn Sầm đến . Cô ta sợ mấy mụ sư tử Hà Đông đã ngửi thấy mùi mèo mỡ nên lúc nào cũng nơm nớp đề phòng. Có tiếng động nhẹ dưới gầm sàn . Con chó vện nằm trong cũi sủa dữ dội. Chẳng lẽ lại là trộm ? Lánh thầm nghĩ . Chúng không biết rằng đây là nhà vợ bé quan tri châu hay sao mà dám vuốt râu cọp ? Cô ta nhẹ nhàng trườn khỏi chăn đệm, đánh lửa châm vào chiếc đèn soi rồi cầm khẩu súng lục Vi Văn Sầm đưa cho để phòng bất trắc , rón rén xuống cầu thang . Trong bóng đêm nhập nhoạng bà Ba nhìn thấy một hình người ngồi dựa chân cột như là đang ngủ gật liền chĩa khẩu súng ổ quay vào hắn quát khẽ:
    - Ai ?
    T
    ừ chân cột có tiếng thì thào :
    - Nước !

    Hắn bị thương. Bà Ba thoáng nghĩ và thận trọng lại gần sờ vào vai kẻ lạ mặt. Người hắn nóng hầm hập. Đúng là đang sốt. Nghĩ vậy cô ta cúi xuống xốc nách dìu hắn lên cầu thang. Bếp lửa được chất thêm củi. Khi ánh sáng bùng lên thì bà Ba bất giác rùng mình với khuôn mặt gớm guốc của gã đàn ông. Đó là một hình nhân thì đúng hơn bởi vì cái đầu hắn trụi sạch tóc, nhẵn thín như quả dưa hấu, thậm chí cặp lông mày cũng biến mất nhưng bộ râu dê thì lại dài một cách đáng ngờ. Nhìn bộ dạng người đàn ông, Lánh thầm đoán, chắc là tù vượt ngục. Sau khi ăn xong bát cháo, khuôn mặt anh ta đã có chút sinh khí. Bà Ba rót cho chén nước nóng, đợi người đàn ông uống xong mới hỏi:
    - Bác mới vượt ngục phải không ?
    - Vâng, đã ba ngày hôm nay không có gì ăn, cảm ơn cô.
    - Ai bảo bác vào nhà tôi ?
    - Đói quá đâm liều cô ạ ! - Người đàn ông nói - Với lại từ chập tối, tôi nấp ngoài góc vườn thấy nhà chỉ có mình cô nên mới dám vào.
    - Bác liều quá. ở châu lỵ này đầy mật thám nhìn thấy cách ăn mặc với đầu tóc của bác là chúng bắt ngay.
    - Hình như cô phải phải là người Thái ?
    - Sao bác nghĩ thế ?
    - Nghe giọng thì biết, người Thái trên này nói tiếng Kinh không sõi lắm.
    - Bác tinh thật. Tên bác là gì ?
    - Cứ gọi tôi là Quảng. Cảm ơn cô, giờ tôi phải đi.
    - Bác chưa đi được, trời đang mưa.

    Quảng ngập ngừng:
    - ở đây lâu sợ liên luỵ đến cô.
    Bà Ba bảo:
    - Chuyện đâu để mai sẽ tính. Đêm nay bác cứ nghỉ ở đây.
    - Thế sao được. Tôi là đàn ông…
    - Không sao. Tôi cũng có ngủ được đâu. Năm nay rét quá.

    Bà Ba giữ người tù ở lại mấy hôm. Rất may những ngày này lão tri châu có công vụ phải xuống các bản Thái vùng Chiềng Om nên anh ta tạm thời được an toàn. Đêm thứ ba, thấy Mạc Thị Lánh chỉ trải một đệm một chăn, người tù có vẻ lúng túng hỏi:
    - Sao cô …?
    - Hôm nay rét lắm tôi muốn nằm chung.

    Người tù không thể từ chối lòng tốt của bà chủ nhưng cũng không có đủ can đảm chạm vào người cô ta. Gần sáng bà Ba vòng tay ghì chặt Trần Quảng vừa khóc vừa kể:
    - Vì hoàn cảnh bắt buộc tôi mới phải nấn ná ở đây sống kiểu già nhân ngãi non vợ chồng với lão tri châu, thế nào rồi cũng có lúc bị mấy con mụ người Thái phát hiện ra. Anh có thể cho tôi đi theo được không ?

    Trần Quảng ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Được, nhưng bây giờ đang giai đoạn giặc khủng bố mạnh, một số cơ sở Cách mạng bị vỡ, nguy hiểm lắm.

    Lánh bảo:
    - Chết tôi cũng không sợ, chỉ sợ bị cột chặt ở vùng người Thái này đến già.
    - Vậy thì tối nay ta sẽ đi.
    - Đi như thế rất nguy hiểm, lính khố xanh hoặc mật thám phát hiện ra thì gay. Tôi có cách này anh xem có được không? - Bà Ba lục trong hòm gỗ sơn then ra mấy tờ giấy đưa cho Quảng - Đây là loại giấy thông hành đặc biệt chỉ cấp riêng cho một số người trong dinh quan châu mà tôi đã lấy trộm trong cái tráp của Vi Văn Sầm. Ta phải sử dụng nó thì mới thoát.

    Trần Quảng xem qua một lượt, mừng lắm hỏi:
    - Cô cũng biết chữ à ?
    - Cũng đọc được chút ít.
    - Thế thì tốt lắm. Nếu đi trót lọt, về đến cơ sở tôi sẽ giới thiệu cô vào hoạt động trong ban phụ vận.

    Sáng hôm sau, hai người đóng giả làm một cặp vợ chồng người Thái đi chợ Bản Then. Quảng đội mũ nồi che cái đầu trọc, nói tiếng Thái khá sõi vì anh ta hoạt động ở vùng cao mấy năm nên bọn lính dõng không mảy may nghi ngờ. Nhưng đến dốc Ban thì có chuyện. Hai tên mật thám chặn những người lạ mặt trình thẻ căn cước và lục soát đồ đạc. Trong chiếc túi thổ cẩm của bà Ba có khẩu súng ổ quay. Chúng mà phát hiện ra thì chỉ có Vi Văn Sầm mới cứu được. Nhìn thấy Trần Quảng, một trong hai gã lính bảo:
    - Cho xem thẻ.

    Người tù lừ mắt:
    - Chúng mày là ai ?
    - Thằng này muốn ăn đạn à ? - Tên mật thám nheo mắt cười gằn - Tao hỏi mày, mày lại hỏi tao, thế là thế nào ?

    Bà Ba móc túi lôi ra mảnh giấy bảo:
    - Nhìn kỹ xem loại thẻ này cấp cho ai ?

    Tên mật thám vừa liếc qua đã vội rập gót chân đưa tay lên vành tai chào.
    - Xin lỗi ông bà, chúng tôi làm phận sự không biết các vị là người của quan tri châu.

    Trần Quảng cười nhạt:
    - Bọn Cộng sản trốn tù nhan nhản thì không bắt được, chỉ giỏi hạch sách người mình.
    Hai người vào chợ lẫn trong đám thanh niên Thái Trắng, quẩn quanh mấy dãy hàng tạp hoá, thấy hai tên mật thám đã đi về phía cuối dốc họ mới lẻn vào rừng. Chuyến ấy Trần Quảng và bà Ba xuống núi an toàn. Đến Hạ Lôi, hai người vào một nhà cơ sở mà Quảng đã vận động tham gia tổ chức từ bốn năm trước. Chủ nhà tiếp đón khá niềm nở. Tối hôm ấy Quảng hơi quá chén, Mạc Thị Lánh phải dìu vào ổ rơm trải ở góc nhà. Món rượu ngâm tắc kè mật ong làm anh ta bị kích động như con thú đói mồi, vồ ngay lấy bà Ba. Vào đúng lúc ấy, con chó Đốm đang nằm ở chái bếp khẽ hực lên một tiếng. Linh tính cho biết có chuyện chẳng lành, bà Ba bấm tay Quảng thì thầm:
    - Hình như có người rình ở ngoài.
    - Đi thôi .

    Quảng khe khẽ mở cánh cửa liếp phía sau. Hai người lẻn ra vườn. Trong bóng đêm lờ mờ, Lánh thấy lão chủ nhà ngoắc tay ra hiệu cho hai bóng đen ra ngoài hàng rào. Bà Ba đưa khẩu súng lục cho Quảng. Họ chạy thục mạng lên sườn đồi chẳng kịp xác định phương hướng, ước chừng năm bẩy chục thước thì gặp hàng rào gỗ. Quảng đỡ bà ba trèo qua hàng rào. Phía sau một chớp lửa loé lên. Tiếng nổ làm Mạc Thị Lánh giật nảy người:
    - Đứng lại ! Chúng mày chạy không thoát đâu.

    Bọn truy đuổi hô hét ầm ĩ, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng kíp hoặc trường mút. Quảng đẩy bà Ba đi trước rồi nép vào gốc cây cầm súng bằng cả hai tay nổ một phát về phía sau. Không ngờ viên đạn trúng mục tiêu. Chỉ nghe đến "ối" một tiếng, một trong hai tên cầm súng kíp khựng lại. Hình như đấy là lão chủ nhà. Cuộc tháo chạy đến gần sáng thì hoàn toàn mất phương hướng. Trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái đều là rừng. Trời âm u lạnh lẽo như địa phủ. Lũ vượn bạc má ngồi ôm nhau dưới tán lá tùm hum của một cây sừng trâu, mắt mở thao láo nhìn hai vị khách lạ nhưng chẳng tỏ thái độ gì. Có lẽ chúng đang đói mà thời tiết vừa mưa vừa lạnh nên không đi kiếm ăn được. Chiều hôm ấy họ gặp nhánh đường mòn dẫn đến con suối lớn. Bờ bên kia, những người thợ sơn tràng đang cốn bè.
    - Sống rồi. - Quảng khẽ reo lên.
    - Anh định theo đám sơn tràng sao ? - Lánh rùng mình khi nghĩ đến mấy thằng đầu trâu mặt ngựa ở phường Bồ Nông.
    - Không, mình chỉ xin họ ít gạo nấu cơm ăn rồi tiếp tục về thôi.

    Sau gần một tháng luồn rừng, Trần Quảng và Mạc Thị Lánh mới về đến Đan Thành. Tại đây anh ta móc nối với tổ chức cũ, nhận công tác mới và đưa bà ba vào hoạt động ở ban phụ vận với bí danh là Dương Thị Xuân.

    Tháng Chín năm Bốn Nhăm, sau khi tham gia cướp chính quyền tỉnh, bà ba được cử làm uỷ viên ban phụ vận, Quảng phụ trách ngành công an. Năm bốn bảy, quân đội Pháp từ Hải Phòng lên đánh chiếm thị xã, Uỷ ban hành chính phải rút về vùng rừng Lạc Lâm để chỉ đạo kháng chiến. Cũng thời kỳ này Quảng bỏ bà vợ hơn mình bốn tuổi ở quê do bố mẹ ép cưới từ năm anh ta mới mười hai, chính thức lấy Mạc Thị Lánh. Bà Ba lúc ấy đã ba tư không ngờ lại có ngày hạnh phúc như thế. Đêm tân hôn, hai người ở trong chiếc lán lợp cỏ tranh, vách ken phên nứa, giữa tiết tiểu hàn buốt thon thót,cô ta gục vào ngực chồng khóc tức tuởi. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc bị đánh mất từ mười mấy năm trước giờ mới tìm lại được. Trong lúc ân ái với Quảng, Lánh lại hình dung ra cuộc mây mưa làm cho đất trời nghiêng ngả trong con thuyền chài trên sông Lăng với Lê Văn Vận. Nhớ tới thằng Côi chăn vịt lần đầu tiên được phá trinh con gái mà không biết cách bị mắng là đồ vô tích sự, nhớ đến lão chánh tổng hách dịch nhưng lực bất tòng tâm … Dù sao tất cả những cái đó chỉ là ký ức của một thời vụng dại. Anh Quảng của bà Ba bây giờ mới là hiện thực. Lánh hết lòng chiều chuộng làm anh ta sướng mê tơi, đêm nào cũng lột trần truồng cô vợ trẻ vầy vò cho đến gần sáng mới ngủ thiếp đi.

    Bẩy năm sau, khi đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản thị xã, Quảng được phân công giữ chức phó chủ tịch phụ trách nội chính. Bà ba, tức tức nữ đồng chí Dương Thị Xuân, làm phó bí thư tỉnh hội phụ nữ. Thật may, thời kỳ Cải cách cả hai vợ chồng đều vô sự. Đây là điều đại phúc. Vì chỉ riêng các cơ quan cấp tỉnh trong cuộc đấu tranh giai cấp này đã có hăm chín người bị coi là có dính líu đến các tổ chức đảng phải phản động trong đó năm bị tử hình, số còn lại phải lãnh án tù từ bẩy năm đến chung thân.

    Có sự can thiệp của ông phó chủ tịch nhưng cũng phải hơn hai tháng sau Lê Văn Nghiên mới được thả. Ra khỏi trại tạm giam, người anh ta chếnh choáng như bước trên mây vì đói và tinh thần hoảng loạn. Kinh nhất là mỗi khi nhớ lại những khuôn mặt đầy sát khí hoặc lạnh như băng và hoàn toàn vô cảm của các ông cán bộ thẩm vấn. Họ là thứ công cụ vô cùng mẫn cán với chế độ không thể dùng tình cảm tác động được. Những người ấymuốn cho ai sống thì sống và nếu cần, chỉ một cái nhếch môi là tính mạng anh đi tong. Chàng trai họ Lê lếch thếch cuốc bộ về quê trong một buổi chiều nắng hanh rất đẹp. Hai bên đường những trà lúa sớm sắp được gặt. Lúa chín vàng đang uốn câu. Lũ sẻ đồng chấp chới, lúc tản ra, lúc tụ lại thành đàn bay ràn rạt, nghe rõ cả tiếng đập cánh.

    3. Một hôm ông Quyển bảo Lê Văn Khải:
    - Cháu phải đi học. Trình độ học vấn như thế mà ở mãi xó rừng này nó phí đi.

    Khải lắc đầu:
    - Cháu mà về Làng Cùa bây giờ là bị bắt ngay làm sao dám mơ tưởng đến chuyện học hành.
    - Ta đã có cách - Ông Cựu kiểm lâm bảo - Ta sẽ nhận cháu làm con nuôi và nhờ ông Nông ích Nghiêm chứng nhận vào hồ sơ.
    Khải xem ra không mấy tin tưởng vào cách làm đầy mạo hiểm của ông Quyển nhưng hoá ra ở vùng cao này sự việc được giải quyết đơn giản hơn nhiều. Chủ tịch xã Bắc Thoòng bảo ông bạn già:
    - Trước hết phải nhập hộ khẩu cho nó vào xã rồi mới làm hồ sơ cử đi học được.

    Thế là Khải thành người họ Lưu, tức là họ của ông Quyển. Từ lúc lên Bắc Thoòng đến nay đã gần hai năm, Khải không nhận được tin tức gì về gia đình. Anh ta không biết rằng, vì không có ruộng mà nhà đành dắt nhau đi ăn mày đến nỗi bà Hai chết dọc đường còn Lê Văn Nghiên phải vào trại giam chịu tội thay mình gần một năm, chỉ thiếu chút nữa thì mắc bệnh tâm thần.

    Ông Quyển và cái Thảo đưa Lê Văn Khải đến tận núi Nứa. Con cọp thành tinh đã bị phường săn bản Thí bắn hạ cách đấy nửa năm. Lúc con cọp chết người ta mới biết nó chỉ có ba chân. Bàn chân thứ tư trúng đạn bị hoại thư, nó lấy lưỡi liếm mãi cho tới khi khớp xương vỡ rời ra rồi ăn da non. Từ đó ngài chúa sơn lâm đi cà nhắc. Người kết thúc số phận nó là một thợ săn chột mắt. Thứ vũ khí ông ta sử dụng không phải là trường mát hoặc súng kíp nhồi đạn phá, mà là một cánh nỏ lắp tên thuốc độc. Ông già mặc tấm áo da hổ, đội mũ lông báo rình đúng bảy ngày ở một hẻm núi trong rừng Phạ Cốc mới phát hiện được con hùm. Mũi tên găm trúng vào bìu dái, đau quá làm nó gầm lên, lao vun vút qua bụi cây bờ suối bất kể là gai góc. Đây là mũi tên đầu có ngạnh, đuôi có cánh nhưng rất ngắn, được phóng đi từ chiếc nỏ cứng, nên tha hồ cho con thú lồng lộn, vẫn cứ lủng lẳng giữa hai chân sau. Chất độc có hoạt tính mạnh phát huy ngay tác dụng. Chưa đầy nửa giờ con hổ đã nằm phục xuống bờ suối, mắt đờ dại , mồm sàu bọt. Vị chúa rừng đã làm mưa làm gió vùng núi Nứa, sát hại bao nhiêu nhân mạng, là nỗi khiếp đảm của bà con dân bản. Nó chết rồi nhưng rất nhiều người vẫn không dám đi chợ Đồng Vài qua lối này. Có điều chắc chắn đó không phải là con hổ mà ông Quyển đã kể, vì Huổi Vằn có một đốm lông trắng như ngôi sao trên trán.

    Năm ngày sau Lê Văn Khải về Hà Nội, nộp đơn thì vào khoa toán trường Đại học sư phạm. Ngày thi chỉ còn gần một tháng. Ông giáo hướng dẫn các thí sinh ôn tập nhìn Khải chẳng có vẻ gì của một thư sinh liền bảo:
    - Sao anh không đăng ký vào lớp dự bị hoặc xin vào Trung cấp sư phạm cho đỡ vất vả ?

    Khải đứng dậy cúi đầu hỏi:
    - Thưa thầy, đề thi ra ở trình độ nào ạ ?
    - Phải học xong bậc phổ thông chín năm mới có hy vọng đỗ kỳ này.
    - Thưa … em sẽ cố gắng, nếu không được cũng đành chịu.

    Đây là khoá tuyển sinh đầu tiên của trường Đại học sư phạm, đề ra không đến nỗi khó lắm, nhưng số thí sinh trúng tuyển thấp không đủ chỉ tiêu vào khoa. Lê Văn Khải đỗ với số điểm khá cao được xếp vào học ngay hệ chính thức. Thời ấy, học đại học, sinh viên tuy được nhà nước bao cấp, nhưng mức sinh hoạt nói chung là thấp, nếu gia đình không gửi thêm tiền thì sống rất chật vật. Khải bắt đầu nghĩ đến chuyện kiếm việc làm để có thêm năng lượng bổ sung vào bữa ăn hàng ngày vốn rất đạm bạc của nhà ăn tập thể. Một buổi sáng chủ nhật, mấy anh em trong ký túc xá rủ nhau ra bến phà Đen đội than từ xà lan dưới sông đổ lên bãi. Phần lớn các nhà giáo tương lai đều "dài lưng tốn vải" không quen lao động thổ mộc, mới nửa ngày đã bỏ cuộc vào trong phố tìm nghề khác. Lê Văn Khải có khá hơn nhưng sau nửa tháng cũng phải từ biệt chân cửu vạn vì đội than vừa bụi bặm vừa đau cổ. Sau một ngày ở bến phà về trông anh ta bẩn thỉu, nhếch nhác chẳng khác gì thợ móc cống ở công ty vệ sinh. Có lần Khải làm quen được với một cô gái điếm trong đêm từ bên phà Đen cuốc bộ về ký túc xá. Cô gái còn khá trẻ, xinh xẻo, mới trốn từ Hoà Bình về sau bốn tháng bị quản thúc trong trại "phục hồi nhân phẩm" cùng hơn hai trăm chị em trong đợt làm lành mạnh môi trường xã hội ở Thủ đô. Đêm đông lá bàng rơi xào xạc trên hè phố. Những ngọn đèn đường thưa thớt treo trên cao tít toả thứ ánh sáng vàng vọt làm bóng người dài ra, đôi khi bị gió bắc đánh tạt ngang khiến mọi vật đều biến dạng thành vô số hình thù quái dị. Thỉnh thoảng một gánh phở đêm dừng lại ở một góc phố. Ông phở già rao "phở ơ … " một cách lười nhác.

    Đêm có lẽ đã khuya lắm. Gió chạy dọc hè phố. Gió xát xuống nền gạch nghe như tiếng lưỡi dao miết vào hòn đá ráp. ở một ngôi chùa nào đấy trong hẻm vẫn còn thỉnh chuông. Cô gái mảnh mai mặc bộ quần áo tân thời, dép nhựa cao gót bất chợt từ một ngõ vắng bước ra nắm lấy vạt áo dính bụi than của Khải:
    - Anh ơi ! Cho em xin chiếc bánh mi.

    Khải sững người. Từ khi ra thành phố đến giờ anh ta chưa bao giờ gặp cảnh này nên cứ lúng ta lúng túng không biết làm thế nào cho phải. Cô gái ghé tai chàng đội than thì thầm :
    - Đi với em.
    - Đi đâu ? - Khải khẽ hỏi khi ngửi thấy mùi nước hoa rẻ tiền được sức rất đậm trên người cô gái ăn sương.
    - Ra vườn hoa, em sẽ chiều anh …

    Trong túi Khải có mấy chục ngàn tiền công vừa nhận chiều nay. Anh ta nhìn ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn của cô gái biết rằng không thể không đi nhưng thấy mình ăn mặc nhếch nhác quá nên đâm ngượng :
    - Quần áo tôi … bẩn lắm, hay là để hôm khác.

    Cô gái nhoẻn miệng cười:
    - Không hề gì, anh đi với em.

    Công viên mùa đông thưa người, nửa đêm lại càng vắng. Thấp thoáng giữa những lùm cây, một vài cặp trai gái ôm nhau. Có đôi ngồi dưới gốc cây du, người đàn ông bế tình nhân trong lòng, hai tay nắn bóp bầu vú, miệng thì thầm chuyện đó. Có mùi hương rất lạ giống như hoa nhài mà lại không phải hoa nhài từ một cụm cỏ ngay chỗ Khải và cô gái ngồi thoang thoảng bay lên. Đó là thứ hoa cánh nhỏ mà dài như hình mũi tên màu trắng đục, nhuỵ tím sẫm. Dưới ánh đèn tuýp xanh nhợt, cảnh vật hiện ra vừa lạnh lẽo vừa hoang sơ, thậm chí cô đơn chẳng khác gì một khu rừng nguyên sinh thời tiền sử. Cô gái điếm có lẽ chưa quá hai mươi vầng trán hơi dô, cặp mắt dài và đôi môi mọng làm cho gương mặt đặc biệt sinh động. Cô ta gỡ cúc bấm ở cổ và nách, cởi áo dài, để lộ khuôn ngực còn rất căng được nịt chặt bằng chiếc xuchiêng trắng . Lê Văn Khải chợt thấy người nóng bừng vội quay mặt đi hỏi bâng quơ :
    - Quê em ở đâu ?

    Cô gái miễn cưỡng trả lời :
    - ở gần sở Máy chai Hải Dương. Nào, anh mở hộ em cái khuy sau lưng.
    - Cởi ra làm gì, em không lạnh à ? - Lê Văn Khải khẽ bảo khi nhìn thấy làn da tím tái của cô gái dưới ánh đèn nê ông màu nõn chuối.
    - Không. -Cô gái nhẹ nhàng đặt tay lên vai chàng sinh viên - Để cho anh xem … Chiếc khuy bật ra. Cô gái cầm tay Lê Văn Khải đặt lên ngực.

    Cặp vú khá mẩy so với khuôn ngực, có vẻ như mỗi lúc một nóng và nở ra khi bàn tay anh ta miết vào. Người Khải run lên bần bật nhưng rồi chẳng hiểu nghĩ sao anh ta lại quàng tấm áo lên người cô gái:
    - Em mặc vào đi.

    Cô gái thẫn thờ hỏi:
    - Anh không muốn ?

    Khải lắc đầu:
    - Anh thương em. Vì sao phải bỏ nhà ra đây ?

    Cô gái điếm sụt sịt khóc:
    - Bố em bị toà án Cải Cách xử tử vì gia đình thuộc thành phần tư sản phản động. Nhà cửa bị tịch biên. Mẹ cũng mất sau đó ít hôm vì bệnh tim.
    - Anh em không còn ai sao?
    - Anh cả đi bộ đội, hoà bình không thấy về, còn anh hai với bố em không hợp nhau, hồi cải cách chính anh ấy lên đấu bố.
    - Em ra Hà Nội từ bao giờ ?
    - Mới được gần một năm rồi bị công an bắt lên Hoà Bình . -Cô gái nhìn Lê Văn Khải rụt rè hỏi - Anh là công nhân bến phà Đen phải không ?

    Khải ngẫm nghĩ một thoáng rồi quyêt định nói thật:
    - Tôi đang học Đại học Sư Phạm nhưng tối nào cũng phải đi bốc vác kiếm thêm.

    Nói rồi anh ta lấy già nửa số tiền trong túi đặt vào tay cô gái :
    - Em cầm lấy đi.

    Cô gái điếm giãy nảy:
    - Không, em không lấy đâu.

    Khải phải làm mặt giận:
    - Cầm lấy ! Em đang đói kia mà.

    Bỏ nghề cửu vạn, Lê Văn Khải được một anh bạn cùng lớp giới thiệu làm gia sư cho một gia đình ở phố Hàng Vò. Học trò của anh là một thiếu nữ mười bảy tuổi bị liệt hai bàn chân, phải đi nạng, có gương mặt đẹp và cái tên cũng rất đẹp: Phi Điệp. Cô nàng mắc chứng hoang tưởng, học thì ít mà chủ yếu giành thời gian viết thư tình cho đủ loại nhân vật nổi tiếng trong các tiểu thuyết lãng mạn. Ngăn bàn của Phi Điệp có hàng trăm phong bì dày cộp dán cả tem bưu chính hẳn hoi. Đó là những bức thư tỏ tình sướt mướt kèm theo vô số lời trách móc hoặc hứa hẹn bằng thứ ngôn ngữ "Bí mật thành Ba lê" hoạc "Trà hoa nữ" mà đối tượng thường là những chàng Trixtăng, Mariuýt, Đáctanhăng, Văn Quân, Lộc hoặc Điệp … Ông bố Phi Điệp làm Đại sứ tại một nước Đông Âu, trước khi đi nhậm chức ông ta bảo Lê Văn Khải :
    - Thày mà dạy em nó đạt trình độ toán lý hoá bậc trung học gia đình sẽ có thưởng.
    - Sao hai bác không cho em Điệp đến trường ?

    Ông Đại sứ thở dài:
    - Nói mãi mà nó không nghe. Thầy biết đấy, nó bị tật bẩm sinh ở bàn chân nên mặc cảm với bạn bè.
    - Nhưng còn chuyện này, - Khải nhìn ông cán bộ ngoại giao thăm dò - chắc bác biết Điệp hay viết thư …

    Ông Đại sứ lắc đầu tỏ vẻ chán nản:
    - Đấy chính là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch còn rơi rớt lại. Tôi mà có quyền tôi sẽ ra lệnh tống tất cả bọn viết lách lăng nhăng làm mê hoặc con gái nhà lành vào trại cải tạo, vĩnh viễn phải treo bút.
    -Bác nói có lý. - Lê Văn Khải ngoài miệng tuy tán thành nhưng trong lòng thoáng giật mình - Những quan chức như thế này mà lãnh đạo quốc gia thì nền văn hoá dân tộc sẽ đi đến đâu ?

    Sáu tháng trôi qua. Trình độ học vấn của Phi Điệp vẫn dẫm chân tại chỗ, nhưng kỹ năng viết thư tình đặc biệt tiến bộ do có sự trợ giúp của Lê Văn Khải. Không hiểu nghĩ thế nào, cô học trò bàn với thày viết thư cho Ca di mô đô và chàng Vọi. Cô nàng có cả một kho từ vựng phong phú về tình yêu, hễ cứ đặt bút là tự nó trào ra nhiều lúc viết không kịp. Ví dụ, mở đầu bức thư gửi cho thằng Gù, Phi Điệp viết:

    "Cadimôđô gù khốn khổ của em ! Tại sao chàng lại dại dột si mê con bé phù thuỷ Exmêranđa để rồi phải treo cổ tự vẫn vì mụ ta ? Giá mà chàng đừng si tình, cứ bền bỉ kéo chuông ở nhà thờ Đức Bà thì biết đâu bây giờ chúng ta có thể gặp nhau. Tuy chàng hình dung cổ quái nhưng em yêu chàng hơn tất cả những người đàn ông điển trai trên đời này gộp lại. Em yêu cái bướu trên lưng chàng, yêu tâm hồn cao quý trong hình hài ma quỷ của chàng. Chàng chết đi làm cho nhân loại mất giống Cadimôđô, không phải chỉ mình em tiếc thương mà tất cả phụ nữ đa cảm còn sống và đã chết trên hành tinh naỳ đều vô cùng đau buồn. Ôi Cadimôđô khốn khổ của em!"

    Vào đầu năm thứ hai, Khải vẫn tiếp tục dạy kèm cho Phi Điệp. Giữa lúc thầy trò đang lập kế hoạch sáng tạo bức thư bất hủ gửi cho chàng Đônggioăng nổi tiếng thế kỷ mười tám là Sở Khanh thì sự nghiệp gia sư của anh sinh viên sư phạm đột ngột chấm dứt vì một sự cố ngoài ý muốn.

    Sáng hôm ấy, sinh viên trong ký túc xá đang chuẩn bị lên lớp thì dưới sân trường xuất hiện bốn người đàn ông nhà quê. Họ cứ đi đi lại lại dưới chân cầu thang như đang đợi ai đó. Quả nhiên, Lê Văn Khải vừa bước xuống, một người chân vòng kiềng đã chặn lại :
    - Anh là Lê Văn Khải ?

    Khải sững người. Đứng trước anh ta không phải ai khác mà chính là Bùi Quốc Tầm, Chủ tịch xã Đoàn kết. Trưởng công an Trương Đình Tái hất hàm ra hiệu cho hai dân quân rồi bảo Lê Văn Khải :
    - Đi theo chúng tôi !

    Biết là sự việc đã bại lộ nhưng Khải vẫn hỏi :
    - Tôi phạm tội gì mà các ông bắt ?

    Bùi Quốc Tầm trả lời cộc lốc:
    - Về nhà khắc rõ.

    Khải lắc đầu:
    -Các ông bắt người trái phép, tôi phải báo cáo với nhà trường đã.

    Trương Đình Tái nhếch môi cười rất đểu:
    - Anh không phải lo chuyện ấy. Hôm qua chúng tôi đã làm việc với ban lãnh đạo nhà trường về hành vi khai man lý lịch đi học đại học của anh.

    Trưởng công an nói đúng. Lúc này cả hiệu trưởng, hiệu phó lẫn trưởng phòng tổ chức đều đã có mặt dưới sân. Tò mò nhất là đám nữ sinh viên. Họ không biết chuyện gì xảy ra mà có cả mấy ông dân quân khoác súng đến trường đại học. Ông hiệu trưởng vỗ vai Khải thông cảm:
    - Việc này hoàn toàn do chính quyền địa phương làm, nhà trường không thể can thiệp, em đừng trách ban giám hiệu.

    Về đến làng Cùa Khải mới biết, kẻ tố cáo anh là thằng Loát, con trai bí thư đảng uỷ Lại Quang Nghinh. Thằng này học dốt nhưng vì có ông cậu làm phó ty công an nên được cử đi học lớp dự bị Đại học sư phạm. Một hôm, đến nhà ăn, nó nhìn thấy Lê Văn Khải liền viết thư về cho bố. Nghinh bàn với Bùi Quốc Tầm rồi kéo nhau sang tỉnh gặp phó ty. Nghe Tầm trình bày sự việc ông ta bảo:
    - Tội khai man lý lịch là rất nặng, có thể phải đi cải tạo tập trung vài năm. Bây giờ tôi ký cho xã một cái lệnh, các anh đem người lên trường đem nó về đây.

    Khải bị giam ở huyện công an. Đoàn Danh Thẩm, cán bộ điều tra, bắt anh ta khai tỉ mỉ từ lúc bỏ làng ra đi đến khi luồn được vào trường đại học bằng hồ sơ giả mạo. Lần này thì Thẩm có chứng cứ rõ ràng, khác hẳn thời kỳ hỏi cung Lê Văn Nghiên nên thái độ rất kẻ cả, thậm chí hách dịch thái quá làm Khải chỉ muốn nhổ vào mặt. Có sự trùng hợp là phòng giam của Khải cũng chính là chỗ giam Nghiên hơn một năm về trước.

    Khúc Thị Hài lại phải cắp nón lên nhà 15 phố Đông Sơn. Lần này bà ta được gặp cả Trần Quảng. Nghe bà Hài kể rõ sự tình ông phó chủ tịch hỏi:
    - Cuối năm năm sáu, phần lớn các đối tượng bị Đội Cải cách xử lý sai đã được minh oan, riêng trường hợp của đồng chí Lê Văn Vận chưa thấy Uỷ ban huyện báo cáo lên. Ngày mai làm việc với bên công an, kết quả thế nào tôi sẽ thông báo cho chị.

    Bà Ba trách chồng:
    - Anh Vận không phải cán bộ thường mà là chủ tịch huyện Nam Thành bị bắn oan vậy mà tại sao đến giờ vẫn chưa được phục hồi danh dự ?

    Ông Quảng nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Hình như trong thời kỳ hoạt động trước năm bốn nhăm, lý lịch của ông ấy có một vài chỗ không rõ ràng vì thế bên công an kiến nghị tạm dừng để xác minh thêm.

    Bà Ba bảo:
    - Chờ được vạ thì má sưng. Họ có biết rằng công an ngâm hồ sơ bao lâu thì con người ta ngồi trong trại bấy lâu không ? Anh đã ở trong tù anh lạ gì chuyện đó.

    Ông phó chủ tịch thấy vợ nổi nóng liền dàn hoà:
    - Thôi được, việc này cứ để tôi lo.

    Bà Hài rân rấn nước mắt:
    - Trăm sự nhờ ông cứu giúp, mẹ con tôi không dám quên ơn.

    Trần Quảng gật đầu:
    - Chị cứ yên tâm, trong tuần này cháu sẽ được về.

    Ông phó chủ tịch giữ một nửa lời hứa, mười ngày sau Lê Văn Khải ra khỏi trại giam, còn nửa kia tức là việc minh oan cho Lê Văn Vận vẫn còn vướng mắc ở một khâu nào đó nên phải gác lại.
    ở nhà được nửa tháng, Lê Văn Khải rủ Lê Văn Nghiên sang Thượng Đáp làm thợ đấu vì mấy mẹ con không có ruộng, lại những ba miệng ăn thường xuyên bị đói. Nghiên bảo:
    - Anh thử ra Hà Nội xin học lại xem sao.

    Khải lắc đầu:
    - Chú nghĩ đơn giản lắm, qua sự việc vừa rồi liệu lão Tầm có chứng nhận vào hồ sơ cho anh em mình bước ra khỏi làng Cùa một cách đàng hoàng không ?
    - Có thể là hắn đố kỵ không muốn ai hơn mình.
    - Không phải chỉ riêng lão ta mà cả Lại Quang Nghinh, Trương Đình Tái cũng vậy.

    Bà Hài nghe hai anh em bàn nhau liền gợi ý:
    - Việc đi học của Khải mẹ lại phải lên tỉnh gặp bà Ba một chuyến may ra thì được.

    Lần này Lê Văn Khải không tin tưởng lắm vào chuyến đi của mẹ. Anh ta cũng bỏ ý định làm thợ đấu, sắm chiếc thuyền và tay lưới ra sông Lăng đánh cá. Sông Lăng, cồn Vành, ngòi Mác không của riêng ai. Nghề hạ bạc có cái thú riêng của nó là tha hồ ngắm mây trời sông nước, cuộc sống đạm bạc nhưng hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào bất cứ sự ràng buộc nào. Nhưng rồi dự kiến cam chịu làm anh dân chài của Khải không thành. Anh ta chỉ lênh đênh trên sông Lăng được bốn tháng. Chuyện bắt đầu từ lúc bà Hài lên tỉnh gặp bí thư phụ nữ. ít lâu sau ông Quảng cử một phái viên về làng. Anh cán bộ an ninh này đến gặp Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái, trao cho họ những giấy tờ gì đó rồi lên xe đi ngay. Ba hôm sau, Trương Đình Tái đến nhà bảo Lê Văn Khải làm một bản sơ yếu lý lịch. Khải viết khá lâu. Anh ta phải chọn từng chữ để làm sao nó không gây ấn tượng xấu đối với các nhà tổ chức khi đọc đến những đoạn then chốt liên quan đến thành phần gia đình. Về phần họ tên bố và quá trình hoạt động, Khải cắn bút suy nghĩ mãi không biết viết thế nào cho xuôi, cuối cùng vẫn phải hạ bút viết những dòng như sau: "Lê Văn Vận, đảng viên đảng lao động Việt Nam, hoạt động cách mạng từ năm 1935. Năm 1939 bị đế quốc bắt, đi tù Yên Bái. Tháng ba năm 1941 vượt ngục tiếp tục hoạt động ở Cao Tân. Tháng chín năm 1945, chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Thời kỳ Cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng, bị xử bắn ngày 27 tháng 01 năm 1955.

    Xem đến đây Bùi Quốc Tầm cau mày:
    - Anh viết sơ yếu lý lịch thế này thì không một trường đại học nào người ta dám nhận dù là đỗ thủ khoa. Trước mắt, nếu muốn đi học phải bỏ ngay cái đoạn "thời kỳ cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng bị xử bắn …" đi, tạm thời thay bằng "chết tháng 01 năm 1955".
    - Sự thật đúng như thế cơ mà ?
    - Tôi không phủ nhận nhưng trong lý lịch ghi như thế là chính quyền nhân dân có nợ máu với gia đình ông Vận, cho dù có được minh oan đi nữa thì cũng chẳng ai dám đứng ra đảm bảo là sau này anh em nhà anh không nuôi oán hận.

    Khải vẫn còn chần chừ :
    - Tôi sợ đến một lúc nào đó lại bị đuổi ra khỏi trường vì khai man lý lịch .

    Bùi Quốc Tầm gằn giọng:
    - Anh có học mà dốt như bò. Chính quyền xã không làm việc ấy thì bố đứa nào dám thọc mũi vào. Mà tôi cũng nói để anh biết, đây là ý kiến của ông Trần Quảng, phó chủ tịch tỉnh, xã phải chấp hành, nếu không mãi mãi các anh chỉ là những tay gõ thuyền đánh cá trên sông Lăng. Thôi về đi, nhớ bảo bà Hài sáng mai ra đồng nhận ruộng.

    Lần này Khải nộp đơn thi vào Đại học Nông Lâm. Thực tình anh ta cũng tiếc ngành sư phạm nhưng không muốn trở lại trường cũ vì đã muộn gần một năm, nhưng cái chính là ngại gặp bạn bè sau vụ bị Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái lên tận ký túc xá bắt về. Đề thi tuyển thuộc loại khó nhưng Lê Văn Khải không ngại, Anh ta làm ba bài gần như trọn vẹn, đỗ thứ năm được xếp vào khoa Thú y là một ngành học khá danh giá thời bấy giờ.

    (còn tiếp)

  4. #4
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 13

    1. Làng Cùa được huyện Nam Thành chọn làm đơn vị điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Chủ tịch Bùi Quốc Tầm cho cán bộ xã đi hết lượt các gia đình vận động bà con viết đơn. Phần lớn các chủ ruộng đều không thích làm ăn tập thể, nhất là những người từng trải thường tỏ thái độ lừng chừng làm cho trưởng ban vận động Tào Văn Hỗ tức Hỗ Chột lo sốt vó, chỉ sợ không hoàn thành chỉ tiêu chín mươi tám phần trăm đã đăng ký với huyện. Những đối tượng hăng hái nhất trong cuộc ăn chung đổ lộn này chính là các gia đình trước đây vốn là địa chủ cường hào đã bị mất điền sản thời Cải cách, đang sống vật vờ cạnh bãi tha ma đồng Chó Đá. Kẻ chống đối gay gắt nhất là Trịnh Doãng.

    Doãng là con ông Cả Duệch. Ông Duệch có ba con trai. Doạng và Doan tính hạnh hiền lương, làm ăn cơ chỉ, duy có Doãng, anh thứ hai là trái tính trái nết. Doãng tuổi ất Hợi, năm lên bảy bị bệnh đậu mùa, toàn thân phủ lớp mụn to bằng hạt đậu nành, mọng nước như phỏng dạ. Những mụn ấy vỡ, nước vàng chảy ra bốc mùi khăn khẳn không chịu được. Người Doãng quắt như con mèo hen, miệng he hé chẳng khác gì cá mắc cạn hớp không khí. Ông lang ích thăm bệnh xong, lắc đầu:
    - Tôi chịu. Ông bà sắp chiếu, chẻ lạt đi là vừa.

    Ông Duệch thương con không nỡ. Thôi thì còn nước còn tát. Nghĩ vậy, ông bảo Doạng chạy ra xóm Trại Cá gọi bà phó Lễ vào xem có cứu được không, Bà phó Lễ là lang vườn kiêm nghề đỡ đẻ. Thuốc của bà toàn nước thải với bùa chú thêm ít rễ cây đốt thành tro trộn lẫn cho con bệnh uống. Doãng uống thứ nước đục lờ lờ lẫn cả tàn nhang có mùi oi khói như con đồng lên cơn khát. Ông Duệch nhìn con lắc đầu:
    - Cơ sự này hỏng rồi.

    Bà Phó Lễ mắng:
    - Phỉ phui cái mồm nhà ông. Mệnh thằng bé này lớn lắm. Nó là tướng nhà giời bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian để hầu hạ Chúa Bà ở miếu Cô Hồn nên chưa thể "đi" được.

    Quả nhiên đến chập tối Trịnh Doãng tỉnh lại. Ông Cả Duệch bắt vợ thổi một nồi xôi dành dành và thịt con gà trống hoa mang ra miếu làm lễ tạ. Doãng khỏi bệnh nhưng mặt hắn rỗ như tổ ong trông rất khó coi. Lớn lên Doãng không thích học mà chỉ khoái ra đồng Chó Đá lùa bắt chim cút và chia phe chơi trò đánh nhau. Có lần hắn bị bọn trẻ con xóm Cầu Đá dìm xuống ngòi Mác gần chết vì đêm hôm trước mò ra đồng Gà bẹp mấy chục chiếc đó tép của chúng. Dạy học ở làng Cùa bấy giờ là ông đồ Sách. Ông này vừa tham ăn vừa dữ đòn. Đứa nào mới nhập môn cũng bị nện ba roi thật đau để nhớ câu "Tiên học lễ hậu học văn". Doãng là đứa ngỗ nghịch lại lười nhất hạng, hễ vào lớp là ngủ gà ngủ vịt mơ màng đến lũ tôm cá ngoài đồng nên hay bị thầy nọc ra sập sai gã trưởng tràng quật roi mây vào mông. Doãng tức lắm, lựa hôm đồ Sách đi vắng, lẻn vào nhà vạch chim đái vào ống bút với nghiên mực. Đồ Sách mắt bị lông quặm, nhìn không rõ, chỉ thấy mùi khai khai liền chấm tay vào nghiên đưa lên ngửi, biết ngay thủ phạm là ai liền đến nhà ông cả Duệch. Ông Cả sượng mặt vì thằng con mấy dạy, trói hai tay Doãng treo lên xà nhà nện mười lăm hèo mây rồi lấy muối xát vào. Những vết lằn ngang dọc rớm máu nổi lên vừa đau vừa xót nhưng Doãng gan lì, trơ như đá, không khóc cũng chẳng van xin. Ông bố chịu phép phải tha. Doãng oằn người, cắn răng nén chịu, cúi đầu chắp tay vái đồ Sách.
    - Con cám ơn thày.

    Từ đó Doãng bỏ học chuyên đi thả ống lươn.
    Năm Giáp Ngọ bà Cả đi chợ sớm bị ma rủi chết đuối ở ngòi Mác. Ba năm sau, ông Duệch cũng qua đời vì chứng kinh giật. Bố vừa nằm xuống, cỏ chưa kịp xanh mộ Doãng đã đòi chia gia tài. Lúc ấy Doạng đã có vợ, ăn riêng nhưng ba anh em vẫn ở chung một nhà. Doạng bàn với Doan cắt cho Doãng phần đất sát đường có ngôi nhà ngang hai gian lợp lá gồi nhưng hắn không nghe. Hắn yêu cầu mọi thứ phải chia ba, anh nào không thích có thể bán cho người khác. Gay nhất là ngôi nhà chính. Doãng tranh gian giữa.Hắn lấy cót thưng lại hai bên rồi ngủ ngay trên sập gụ trước bàn thờ tổ tiên. Chị dâu không chịu được thói ngỗ ngược của ông em chồng, nói mấy câu bị hắn vả cho một cái hộc máu mồm. Ông xóm trưởng kiêm uỷ viên Nông hội sang dàn xếp, Doãng cầm con dao mác vót nan đứng giữa cửa, mặt hằm hằm, cặp môi cá ngão trề ra:
    - Kẻ nào muốn mất mạng thì vào đây ?

    Có người biết chuyện vội chạy xuống xã báo trưởng công an. Trương Đình Tái đem ba bốn dân quân đến nơi nhưng cũng phải mất gần một giờ mới giải toả được sự căng thẳng và chỉ chút xíu nữa là đổ máu.
    Vua cũng thua thằng liều. Cuối cùng anh em Doạng Doan phải chấp nhận phương án chia ba. Chia buổi sáng, chiều Doãng gọi người bán tài sản của mình.

    Doạng hốt quá sợ cơ nghiệp mấy đời của cha ông chắt bóp mới được thế này bỗng chốc sang tay người khác liền bàn với Doan vay giật mỗi nơi một ít gom đủ số tiền, tất nhiên là cao hơn so với giá nhà đất hiện thời, đưa cho thằng em đầu bò. Mấy hôm sau, Doãng tìm mua được miếng đất của ông Vệ Tuân ơ xóm Cầu Đá. Ông này thua xóc đĩa phải gán nợ đi ở nhờ. Khu đất rộng hơn hai sào có túp nhà ba gian lợp rạ. Từ đấy anh em Doạng Doãng không thèm nhìn mặt nhau.

    Không biết Doãng học thả ống lươn ở đâu vì làng Cùa đến lúc ấy mới chỉ có công nghệ kéo lưới, quăng chài, đánh giậm, móc cua bát ếch và đơm đó. Móc cua là nghề hạ đẳng lại rẻ như bèo, hai xu một giỏ, không bõ những đấng nam nhi bẩn tay. Thả lưới là khó nhất không phải ai cũng kiếm ăn được trên sông Lăng. Đánh giậm, chạy dủi tốn sức, cuối buổi cá tép thường ươn, khó bán. Đặt đó lại phải thức canh đêm, nhãng đi một tí là bọn xóm Trại Cá rình khoắng sạch. Cuối cùng chỉ thả ống lươn là sống được, thậm chí sống phong lưu nếu biết giữ độc quyền không để bí quyết rơi vào tay người khác.

    Làm ống lươn không khó. Nguyên liệu chính là một đoạn nứa ngộ đường kính cỡ bắp chân, đầu mặt trổ vài lỗ thông khí, đầu rỗng dùi hai lỗ đối nhau, lắp hom rồi xuyên qua thanh tre bằng ngón tay vót nhọn là thành cái bẫy bắt loài bò sát chuyên lẩn dưới bùn khá hiệu quả. Thứ mồi hấp dẫn nhất là ốc vặn đập dập trộn với giun đất gói lá khoai ngứa, bên ngoài chọc thủng vài chỗ để mùi tanh dẫn dụ khứu giác lươn. Bí mật nghề nghiệp của Doãng là ở công đoạn chọn vị trí cắm ống. Lươn ưa cư trú ở những ao tù nhiều bùn. Làng Cùa thuộc vùng chiêm trũng, mười hộ thì có đến bảy tám vật đất làm nhà, thành ra chỗ nào cũng có ao chuôm thùng vũng, rất thuận lợi cho Doãng hành nghề. Thường thì ban ngày hắn la cà khắp nơi, có khi lẩn vào những chỗ ngóc ngách rậm rạp quan sát bằng con mắt dày dạn kinh nghiệm. Ai không biết tưởng hắn mải chơi, vô tích sự, không chịu làm ăn. Mặc kệ, Doãng không thèm chấp. Chập tối, sau khi đã chuẩn bị đồ nghề đầy đủ, hắn khoác chùm ống lên vai đến những xó xỉnh ban ngày đã nhắm được. Thao tác của Doãng rất gọn, có khi chưa đầy ba phút đã cắm xong một ống. Những hôm tối trời, giáp mặt không nhìn thấy nhau, Doãng cứ bước phăm phăm, khỏi cần đèn đóm. Hắn thoắt ẩn thoắt hiện như ma. Đàn bà con gái rất sợ gặp Trịnh Doãng ban đêm. Hắn là hiện thân của mọi sự rủi ro. Có lần hắn vừa lỉnh kỉnh bê ống lươn đến đầu cầu Đá bắc qua ngòi Mác gặp ngay anh chàng phó bí thư đoàn đang bóp vú cô phân đoàn trưởng xóm Đình. Thấy bộ dạng Doãng, cô Mầm vốn nổi tiếng lẳng lơ tưởng là thằng Trọc hiện hình, hoảng quá rơi tõm xuống nước. Anh phó bí thư cực chẳng đã phải nhảy xuống cứu.

    Thả hết ống, Doãng về nhà ngủ. Cuối canh tư, thức dậy trong lúc cả làng còn đang ngon giấc, hắn rảo một vòng quanh các ao, thu hết những chiếc ống đã thả hồi đêm. Trời sáng, Doãng lần lượt tháo hom dốc những con lươn béo múp, vàng ươm ra chiếc rổ sề. Hắn chọn toàn con to thả vào nồi hông, chờ cô Mít đến mang ra chợ Rồng bán. Có hôm Doãng đổ ra được ba con rắn đầu bẹp nhẵn bóng, mình ngắn, màu đen sẫm sống lưng gồ lên trông rất quái dị. Ông Lang Chẫu đến xem một lúc rồi bảo:
    - Của này độc hơn cả rắn cạp nia, vô phúc bị nó cắn, sau nửa canh giờ là chỉ có đóng ván.
    Doãng sợ chết khiếp, từ đấy không dám thọc tay vào ống như trước nữa.

    Sau khi chia gia tài, Doãng được ba sào ruộng đồng Gà. Chân ruộng này thuộc loại tốt nhất làng, năm hai vụ làm chơi ăn thật nhưng phải cái mùa khô thường ít nước. Đến vụ cày cấy, Doãng một mình xoay trần ra làm, không thèm nhờ ai. Giai thoại hay được bà con nhắc đến là có lần hắn tát nước với … cọc. Vùng Ba Tổng có lệ tát nước gầu dai mỗi bên một người thành cặp. Có tàu tát cao, người ta đóng đến ba bốn cặp. Thích nhất là tát nước đêm trăng. Từng đôi, kẻ bên này, người bên kia đong đưa theo nhịp. Từng gầu nước lẫn ánh trăng sóng sánh, chao theo một đường vòng cung rồi bất ngờ bãi tung toé trên mặt ruộng, loang ra một màu trắng bạc. Rất nhiều những đôi nam nữ nên vợ nên chồng từ những đêm trăng tát nước huyền ảo như vậy.

    Nhưng với Doãng thì khác. Hắn ghét cay ghét đắng lối vần công và mọi kiểu chung chạ. Năm ấy hạn nặng. Như trên đã nói, đồng Gà thuộc diện cao, nước từ ngòi Mác chảy vào ít, các chủ ruộng phải thương lượng với nhau tát theo giờ. Doãng nhận vào lúc nửa đêm, chắc là vì không muốn thiên hạ biết cung cách làm ăn quái gở của mình. Đợi cho mọi người về hết Doãng mới lấy hai chiếc cọc tre đóng bên kia tàu tát. Sau khi buộc cố định dây thừng vào cọc, hắn thả gầu rồi vung tay chao nước. Khốn nỗi, cọc tre hoàn toàn vô cảm, không có khẳ năng điều khiển linh động như bàn tay người, thành ra, gầu vừa lên nửa chừng đã dốc miệng hết sạch nước. Nhùng nhằng mãi không ăn thua, Doãng tức mình ném cả cọc lẫn gầu xuống ngòi rồi nằm ngửa ngắm sao. Đêm ấy thưa sao. Trời sáng mờ mờ. Gió đông nam phe phẩy khiến Doãng thiu thiu. Chợt có tiếng cười từ xa. Doãng giật mình lập tức bật dậy vớ ngay cán cuốc. Hắn vốn là tay bạo gan nhưng giữa đồng không mông quạnh cũng thấy rờn rợn. Từ lâu, người ta đồn cánh đồng này thường có Mẹ Hét hiện hình thành thiếu nữ tóc trắng trêu những bà đi chợ sớm. Có lẽ mụ ta thật. Doãng nắm chắc cán cuốc từ từ quay lại … Không phải ma mà là một người con gái bằng xương bằng thịt đang đến rất gần. Hắn mê ngủ chăng ? Bởi vì người con gái đó chính là Nhụ. Bố Nhụ là ông Trản, làm nghề quăng chài, nát rượu, một lần uống say quá, vác chài ra đầm Ma ngã xuống nước chết để lại cho vợ ba cô con gái. Con bà Trản cô nào cũng béo phục phịch, hay lam hay làm và mắn đẻ. Cô chị và cô út đã lấy chồng, có con riêng Nhụ ưa nhìn nhất lại chưa cùng ai. Nhìn thấy Nhụ, Doãng sững người. Hắn có tật nói lắp, mãi mới hỏi được một câu hoàn toàn vô nghĩa:
    - Cô … cô là … người.. người... hay … ma ?

    Cô gái cười, giọng ỡm ờ:
    - Là ma đến tát nước hộ người đây. Cái gầu có tội gì mà quẳng nó xuống ngòi. Nào, lội xuống vớt lên đây tát cho.

    - Thật chứ ? - Doãng có vẻ không tin lại hỏi một câu rất thừa.
    - Ai nói dối làm gì. Mau lên kẻo trời sáng, người ta bắt gặp.

    Khỏi phải nói, đêm ấy Doãng cảm động đến mức nào. Hai người mải tát quên hẳn thời gian đến lúc vợ chồng nhà Nguyễn Đình Phán xách gầu ra đòi sòng mới biết nước đã tràn bờ. Mấy hôm sau, lúc làm đồng về, gặp Nhụ ở gốc đa Doãng khẽ chạm vào tay cô ta hỏi:
    - Nhụ có bằng lòng về ở với tôi không ?
    Cô gái tỏ ra khá bạo dạn:
    - Thích thì nhờ người mang trầu cau sang nói với mẹ người ta.

    Hắn nhờ bà Cõn làm mối thật. Ba tháng sau thì cưới. Đám cưới của vợ chồng hắn theo lối đời sống mới, chỉ ăn trầu uống nước nhưng già nửa làng Cùa đến dự. Lũ trẻ con đứa nào cũng được một cặp kẹo vừng. Riêng họ Trịnh nhà hắn không thấy ai kể cả anh em Doạng Doan.

    Cưới nhau được một năm Nhụ đẻ sinh đôi hai thằng con trai, đưa tổng số cặp sinh đôi ở làng Cùa từ năm Canh Ngọ (1930) đến lúc ấy là ba mươi bẩy. Doãng thích lắm, đặt tên là Dọng, Dõng. Hai thằng giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không thể phân biệt được thằng nào là anh, thằng nào là em.

    Còn bé mà chúng nghịch hơn cả quỷ sứ. Trong nhà có thứ gì dễ vỡ đều phải treo cao, sểnh một chút là các ông nhóc moi ra, nghịch chán chê rồi đập. Khi đã choai choai, Dọng và Dõng toàn gọi nhau bằng mày tao, không đứa nào chịu đứa nào. Nhiều hôm hai anh em đánh nhau chảy cả máu mồm máu mũi. Có lần hai thằng bảo nhau rút rơm nướng khoai. Lửa cháy to quá bén sang cả nhà bếp. Doãng tức quá, bắt nằm sấp vụt mỗi đứa năm roi quắn mông, nhưng chỉ được mấy ngày lại chứng nào tật ấy.

    Dọng và Dõng khá đẹp trai. nói năng lưu loát chứ không ngọng líu ngọng ló như bố. Điều giống bố duy nhất là chúng lười học và thói bán giời không văn tự. Dân làng Cùa vốn ghét thói ba hoa thường bảo nhau "giỏ nhà ai quai nhà ấy"

    Cuối năm năm tám, làng Cùa rộ lên phong trào hợp tác hoá. Doãng dứt khoát không viết đơn mặc dù cán bộ xã đã nhiều lần vận động. Hắn lý sự :
    - Vào hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện. Chủ trương của Đảng, Chính phủ như vậy. Ai không muốn thì thôi, vì sao các ông cán bộ lại ép bà con ?

    Chủ nhiệm Hỗ coi Trịnh Doãng là dân đầu mấu, khó cải tạo tư tưởng liền tuyên bố:
    - Những đối tượng chống lại chủ trương hợp tác hoá, ban quản trị sẽ trả ruộng ở đồng Chó Đá.
    Đồng chó Đá là địa giới giữa hai xã Đoàn Kết và Phong Trạch, sát ngay bãi tha ma, bỏ hoang đã nhiều năm, đất gan gà cằn cỗi có cấy mà chẳng có gặt. Hồi Cải cách xã đã dồn hơn hai chục hộ địa chủ, cường hào phản động ra ở, nhiều người không chịu được phải bỏ làng đi nơi khác làm ăn, giờ chuyển các hộ cá thể đến đây khác gì bắt đi đày. Doãng nuốt nước bọt đánh ực, nghiến răng, cắm phập lưỡi mác xuống bờ ruộng gầm lên:
    - Ruộng này là của cha ông họ Trịnh để lại chứ không phải của vớ được hồi Cải cách nhá. Kẻ nào dám động vào một hòn đất là ăn đòn.

    Không hiểu ban quản trị sợ Doãng hay là họ không thèm chấp thằng khùng mà các hộ cá thể khác đã tự nguyện chuyển đến vùng đất mới, riêng mấy sào ruộng của Doãng vẫn ngang nhiên "ngự" tại khu đồng Gà như cái gai trước mắt trêu ngươi các nhà chức trách. Nhưng Doãng sức mấy thi gan được với tập thể. Hợp tác xã chi công điểm đào đắp hệ thống mương máng thuỷ lợi dẫn nước vào đồng. Hắn là dân tự do chẳng thuộc tổ chức đoàn thể nào bị "cấm vận" ngay từ vụ đầu tiên. Chả lẽ cứ nằm đấy chờ nước trời mà trời lại đang đại hạn. Ruộng của vợ chồng hắn đã nứt chân chim, lúa héo đến nơi. Nóng ruột quá, nửa đêm thức dậy Doãng lẻn ra đồng. Hắn đang hì hục tháo nước máng thì cánh cờ đỏ tuần tra tóm được. Nói mãi Doãng không nghe, tay đội trưởng sấn vào giằng cuốc đắp lại bờ bị hắn tống cho một quả vào quai hàm. Phải vất vả lắm họ mới kéo được tay thả ống lươn về trụ sở hợp tác xã. Chuyện ấy Doãng bị giải lên huyện công an làm khách của dám muỗi vằn mấy đêm. Chẳng biết ở cơ quan bảo vệ pháp luật người ta nói với hắn những gì mà sau hôm được thả, dân xóm Trại Cá thấy vợ chồng hắn lên Ban quản trị xin đổi ruộng .

    Vợ chồng Doãng xoay trần ra với mấy sào ruộng xấu. Hắn sang cồn Vành cắt cây tầm bóp về làm phân xanh còn Nhụ quẩy đôi quang sảo khắp vùng Ba Tổng nhặt phân trâu bón ruộng. Không có hạt đạm nào mà lúa của hắn tốt bời bời, năng suất gấp mấy lần hợp tác xã. Khổ nhất là hồi chưa mua được trâu, Doãng phải nai lưng kéo cày.Hai vợ chồng hắn, người đi trước kẻ bước sau, nhũng nhẵng mấy ngày mới làm xong đất. ý chí quyết tâm làm giàu của hắn thật đáng nể. Trong có mấy năm, hắn vừa xây được nhà ngói ba gian bằng gạch chín, tậu được con nghé, lại bổ sung dân số cho làng Cùa hai suất đinh làm chủ nhiệm Tào Văn Hỗ tức điên, bèn triệu tập ban quản trị họp khẩn cấp chuyên bàn về lĩnh vực ao, hồ, đầm ngòi. Sau hai ngày tranh luận khá căng thẳng, cuối cùng ban chủ nhiệm cũng ra được nghị quyết tóm tắt như sau: "Các diện tích mặt nước trong làng và ngoài đồng đều thuộc sở hữu tập thể, cấm mọi hình thức đánh bắt cá. Ai vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ". Thông báo trên được gã Tuyển què trong đội Cờ đỏ kẻ chữ sơn lên bảng tin cổng làng và trước trụ sở hợp tác xã. Ngoài ra, mỗi ao chuôm, thùng, vũng còn đượccắm biển gỗ viết sơn đỏ dòng chữ ngắn gọn: "Cấm mọi hình thức đánh bắt cá".

    Xã viên kháo nhau, phen này Doãng hết đường làm ăn. Những kẻ ghen ăn tức ở thì nhìn ngôi nhà ngói đỏ của hắn nhếch mép cười nhạt. Thế nhưng, biển cắm hôm trước, sáng hôm sau vợ Doãng vẫn có lươn mang lên chợ Rồng bán. Chủ nhiệm Hỗ cáu lắm, gọi trưởng ban cờ đỏ ra lệnh:
    - Đêm nay cậu cho anh em đi kiểm tra một lượt các ao trong làng, nếu gặp tay Doãng, không nói lôi thôi, cứ điệu cổ về đây, tội vạ đâu tôi chịu.

    Phải đến tối thứ ba cánh cờ đỏ mới tóm được Doãng trong lúc hắn đang lúi húi gài ống ở cầu ao nhà Thường Rỗ. Chẳng nói chẳng rằng, thằng Cửu và thằng Hiệp quàng ngay dây thừng vào cổ Doãng trói nghiến lại, giong về trụ sở. Hắn vừa chửi vừa la:
    - Ới làng nước ơi ! Chúng nó trói người.

    Doãng bị vứt nằm queo ở nhà kho suốt một đêm. Bên ngoài có hai dân quân cầm súng đứng gác. Mới bẩy giờ sáng, chủ nhiệm Hỗ, chủ tịch Bùi Quốc Tầm, trưởng công an Trương Đình Tái và đội trưởng cờ đỏ Tiệp Cò đã về tề tựu đông đủ. Anh nào cũng hí hửng ra mặt. Một lúc sau xã đội trưởng Cung Văn Luỹ dẫn Doãng vào trụ sở. Chủ nhiệm Hỗ nghiêm giọng hỏi:
    - Anh có biết vì sao bị bắt không ?

    Doãng trừng mắt nhìn hết lượt các vị chức sắc sừng sộ:
    - Các ông bắt người vô cớ là phạm luật. Tôi sẽ đi kiện.
    - Đề nghị anh nói cho nghiêm chỉnh . - Bùi Quốc Tầm cao giọng răn đe - Vậy anh có biết hợp tác xã cấm mọi hình thức đánh bắt cá không ?

    - Biết . - Doãng nói cộc lốc
    -Tại sao vẫn cố tình vi phạm ?

    Doãng nhe răng cười rất đểu:
    - Tôi không bắt trộm cá của tập thể mà là bắt lươn. Thưa các ông cán bộ, lươn không nằm trong danh mục cấm.
    - Anh .. anh láo .. còn già mồm cãi hả ? - Chủ tịch xã đuối lý, không ngờ bị vố đau như thế nhưng vẫn cố nói liều đề vớt vát sĩ diện - Lươn cũng là …cá, thuộc tài sản hợp tác xã.
    - Này các ông ! - Doãng lại hếch cặp môi cá ngão chĩa về phía ban lãnh đạo xã - Các ông ra văn bản cấm mọi hình thức đánh bắt cá mà lại cho người rình trói thằng thả ống lươn, thế có phải là phường lừa đảo không ? Được, tôi sẽ theo vụ này lên tỉnh, tỉnh không giải quyết sẽ vác đơn lên trung ương.

    Sau chuyện ấy, chủ tịch Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ có vẻ ngại đụng chạm với Doãng. Thấy chính quyền lờ đi, hắn mặc sức tung hoành, đồng thời nghiên cứu nâng cao kỹ thuật bắt lươn lên hàng công nghệ. Có lần Doãng còn được đích thân Hỗ Chột đặt hàng một trăm ba mươi con. Chuyện có vẻ khó tin nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Một thời làng Cùa nổi tiếng khắp hàng tỉnh về làm thuỷ lợi nội đồng, được ông Trần Quảng, lúc ấy đã là chủ tịch tỉnh dẫn một đoàn cán bộ năm mươi tám người về tham quan mô hình làm ăn tiên tiến. Ông chủ tịch vốn thích món lươn om củ chuối, vậy là Doãng được triệu đến. Chế biến các món ăn từ lươn là sở trường của hắn. Người hắn thì nhếch nhác, bẩn thỉu nhưng các thứ đặc sản do hắn nấu ngon không chê được. Trước khi về ông chủ tịch bắt tay khen và đưa cho Doãng tấm danh thiếp, dặn lúc nào lên tỉnh ghé vào nhà chơi. Vì thế hắn trở nên nổi tiếng. Cánh cán bộ xã cũng có ý gờm dù hắn chỉ là anh nông dân cá thể mà đáng lẽ ra mọi người phải hết sức cảnh giác.

    Trịnh Doãng gọi bà Khúc Thị Hài bằng cô vì mẹ hắn trước đây làm con nuôi họ Khúc. Năm Cải cách vào lúc mẹ con bà Hài bị xã Nhân ái bên kia sông đuổi về làng Cùa dân xóm Trại Cá tránh như tránh hủi thì Doãng hạ hơn ba chục cây tre ở vườn vác cho anh em Lê Văn Khải làm nhà. Thỉnh thoảng hắn lại xách mấy con lươn cho bà Hài:
    - Cô kiếm mấy củ chuối tây mài ra nấu ăn tạm.
    Bà Hài chép miệng bảo:
    - Anh cứ cho luôn thế này làm cô khó nghĩ quá.
    Doãng bảo:
    - Ngày nào cháu cũng kiếm được, biếu gia đình mấy con có đáng là bao, cô đừng cả nghĩ.

    Hắn biết, nhà bà Hài đang đói, nhiều bữa chỉ ăn rau má luộc chấm muối vì không được chia ruộng, trong khi ấy, đội Lạc và Bùi Quốc Tầm lại cấm con cháu địa chủ, phú nông thả vịt và cất vó bè. Hồi ấy ông cả Duệch còn sống, thấy con trai hay qua lại nhà bà Hài liền mắng:
    - Mày cứ thậm thụt với hai thằng ấy, đội Lạc mà biết thì toi đời con ạ.

    Doãng cười nhạt:
    - Tôi trên răng dưới cát tút, chẳng liên quan gì đến chính quyền, sợ quái gì đứa nào.
    - Mày chỉ nói càn không khéo liên luỵ đến cả tao nữa.
    - Thầy là đồ hèn. - Doãng nhếch mép bảo - Nhà bà Hài với mình là đâu mà hôm ở ngoài đình thày xui lão Cau đấu bác Vận. Đúng là một phường nói điêu.
    Ông Duệch trợn mắt, há mồm, nhưng bị nghẹn mãi mới thốt ra được câu:
    - Thằng … mất dạy !

    Những năm sau này, ngoài việc thả ống lươn, thỉnh thoảng Doãng còn ra sông Lăng đánh cá với Nghiên. Hai anh chàng xấp xỉ tuổi nhau, một anh mới thoát nạn mù chữ, một anh tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp nhưng thân nhau như anh em. Sau khi Khải đi học đại học Nông nghiệp, mẹ con bà Hài được chia ruộng ở đồng Chó Đá. Doãng hay sang kéo cày cho Lê Văn Nghiên. Cày chìa vôi trượt trên đât rắn, hai gã trai dù là đang độ sung sức cũng phải mất sáu buổi mới xong. Vai Doãng trợt mấy mảnh da, sưng vù, còn Nghiên, hai bàn tay phồng rộp nước vỡ ra, xót hơn xát ớt.

    Khác với các gia đình cựu địa chủ trong làng, Nghiên làm đơn ngay đợt đầu khi có chủ trương thành lập hợp tác xã nông nghiệp để chứng tỏ mình là người chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, nhưng Bùi Quốc Tầm tuyên bố một câu xanh rờn làm anh chưng hửng:
    - Chỉ những bà con bần nông có tư tưởng tiến bộ mới đủ điều kiện gia nhập hợp tác xã. Đây là giai cấp nông dân tập thể, sau này sẽ xây dựng nông thôn thành những nông trang lớn xã hội chủ nghĩa theo mô hình tiên tiến của Liên xô và Trung Quốc. Các đối tượng khác trước mắt chưa xét đến. Anh mang đơn về đi.

    Doãng biết tin chạy đến bảo:
    - Cậu có học mà dốt bỏ mẹ. Hợp tác xã nghe nói thì hay nhưng thực ra là một thứ cha chung không ai khóc, đừng dại mà dính vào, sau này đói rã họng.

    Lê Văn Nghiên xua tay:
    - Anh toàn nói giọng phản động. Lão Tầm nghe thấy chưa biết chừng lại được mời sang huyện công an mấy ngày.
    - Tớ chỉ nói đúng sự thật chứ có nói điêu đâu mà lo. Nếu chúng nó chèn ép quá tớ sẽ sang tỉnh gặp ông Trần Quảng.
    - Anh tưởng lũ dân đen như cánh mình gặp các cán bộ đầu tỉnh dễ lắm đấy.

    Doãng móc túi chìa cho Nghiên tấm danh thiếp của chủ tịch tỉnh:
    - Có cái này đứa nào dám không cho vào.
    - Rồi anh xem, chỉ sợ đến lúc ấy lại thất vọng.

    2. Bà Hài mong ngày mong đêm nhưng xem ra việc tìm con dâu không dễ, chẳng phải vì Lê Văn Nghiên kén chọn mà cái chính là gái làng không cô nào muốn về nâng khăn sửa túi cho một anh chàng có bố bị xử tử trong Cải cách vì tội hoạt động Quốc dân đảng. Hơn nữa, bản thân Nghiên lại thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, không được kết nạp Đoàn. Trịnh Doãng bảo:
    - Tôi định giới thiệu cho cậu cô Chắt ở làng Đậu Khê con ông phó lý Bền, hơi đen một tí nhưng hay làm, tính tình dễ chịu.
    - ấy ! bác đừng làm thế. Tôi chưa có ý định lấy vợ
    - Cậu cứ chần chừ là hỏng - Doãng chúm môi nhọn lại như môi con chồn hoa thổi phù một cái rồi bảo - Hăm sáu hăm bảy rồi còn gì ?

    Lê Văn Nghiên nhìn bộ dạng cổ quái của Doãng bất giác cười. Mấy hôm sau, vào dịp làm cỏ lúa ở đồng Chó Đá, Nghiên hỏi Doãng:
    - Nghe nói trước đây bác hay kéo nhị ?

    Câu hỏi gãi đúng chỗ ngứa vì Doãng vốn thích món chầu văn, liền phán liến thoắng:
    - Chẳng những biết kéo nhị mà tớ còn gảy được đàn bầu. Hồi cuối năm năm ba, chúng tớ lập chiếu chèo, cô Sót vợ tay Lê Bản say như điếu đổ, mặc dù mặt tớ …
    - Thế thì tốt rồi. -Nghiên bảo - Giờ đang vụ nông nhàn tôi có ý định lập một đội kèn hiếu.
    - Tức là thổi kèn đám ma chứ gì ? - Doãng trợn mắt, há mồm mãi mới hỏi được.
    - Phải, từ ngày ông phó Sùng mất, ông Quản Thống đi Đông Ngàn ở với con, vùng Ba Tổng không còn phường kèn nên các đám ma nhạt nhẽo, kém phần ai oán. Ngoài tôi và bác ra ta phải chọn thêm một tay trống nữa.
    - Việc ấy khó gì. - Doãng bật ngón tay đến tách môt cái quả nhiên có ngay nhân tài xuất hiện - Thằng

    Phán con ông cửu Mẫn, tớ chỉ cần hô một tiếng là xong.
    - Như thế mới chỉ được một nửa công việc. - Nghiên lắc đầu làm Doãng ngớ ra - Vấn đề còn lại là phải xin phép chính quyền xã. Việc này tôi lo nhất vì thế nào lão Tầm và lão Hỗ Chột cũng phá.
    - Việc đếch gì phải xin phép đứa nào . - Doãng văng tục - Chúng mình toàn dân cá thể, đoàn viên không, đảng viên không, chẳng lẽ nó lại cấm được mình ?
    - Về lý thì chưa chắc đã dám cấm công khai nhưng nếu thấy ngứa mắt, nay họ gọi xuống xã "giáo dục" mai tịch thu đồ nghề thì còn làm ăn gì được. - Nghiên bảo Trịnh Doãng - Việc này tôi xuất đầu lộ diện là hỏng, bác phải kiếm lạng chè với gói thuốc xuống nói với ông Tầm.

    Doãng giãy nảy:
    - Tôi chả dại, cứ nhìn thấy bản mặt nó là muốn đấm vỡ quai hàm. Căm nhất là cái lần nó ra lệnh bọn thằng Cửu trói giam tôi một đêm trong nhà kho.

    Nghiên bảo:
    - Thù dai làm gì. Cứ nhún mình một tý, lấy được cái giấy có chữ ký với con dấu cho phép hành nghề là phần thắng về ta.
    - Nhỡ chúng nó bàn nhau nhất định không ký thì sao ?
    - Bác có cái các vi dít của ông Trần Quảng cho kia mà.
    - ờ nhỉ, thế mà mình không nhớ ra.

    *****

    Nhìn thấy Trịnh Doãng với lá đơn chữ viết loằng ngoằng như gà bới trên tay, Bùi Quốc Tầm ghét lắm bảo:
    - Các anh chỉ vẽ chuyện để chén xôi thịt của thiên hạ. Kèn trống đám ma là thứ mê tín dị đoan, những thứ hủ tục ấy người ta đang dẹp đi không được lại bới ra. Xã không duyệt đâu, thôi về đi.

    Doãng nổi tiếng làng Cùa là dân đầu bò, đuổi hắn không phải là chuyện dễ, hắn đã quyết tâm làm cái gì là làm bằng được. Nghe ông chủ tịch nói xong, Doãng vặn ngay:
    - Ông bảo là mê tín dị đoan, vậy tại sao năm ngoái cụ Tiên Nhũ mất, vợ chồng ông sang tận kẻ Bòng đón phường kèn về tế suốt một đêm ?

    Tầm nói hớ bị bẽ mặt đành giở bài hoãn binh:
    - Thôi được, để tôi họp bàn với tập thể Đảng uỷ và thường trực Uỷ ban xem họ có nhất trí không đã.

    Doãng vuốt mớ tóc húi kiểu móng lừa, hếch cái mũi đầy trứng cá đỏ như cà chua chín bảo:
    - Nói thật với các ông, lập đội kèn là nguyện vọng của bà con làng Cùa, nếu Đảng uỷ, Uỷ ban và hợp tác xã không duyệt tôi sẽ lên tỉnh gặp ông chủ tịch.

    Tầm trố mắt nhìn cái miệng cá ngão của Trịnh Doãng không tin ở tai mình:
    - Cái thứ nông dân cá thể mở miệng là chống lại chủ trương chính sách như anh sẽ có lúc người ta tống vào nhà đá, chủ tịch nào thèm gặp.

    Doãng thọc tay vào túi áo lấy ra tấm các đặt trước mặt Bùi Quốc Tầm nhìn anh ta bằng nửa con mắt :
    - Xem kỹ đi, có phải danh thiếp của ông Trần Quảng không ?

    Về danh nghĩa, Trịnh Doãng làm đội trưởng kèn đám ma nhưng thực chất Lê Văn Nghiên là người chỉ huy. Mấy hôm đầu, Lê Văn Nghiên rủ Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán mang đồ nghề ra đình Cả tập. Doãng xấu mã mà đa tài. Hắn thổi kèn điệu Lâm khốc ai oán đến nỗi mấy bà đồng bóng xóm Đình khóc rưng rức nghĩ là làng Cùa vừa mới có người về nơi chín suối. Nguyễn Đình Phán mang một cặp trống cơm và hai trống nhỡ đến hoà tấu bằng những ngón gia truyền khiến Lê Văn Nghiên nổi hứng cò cử chiếc nhị réo rắt làm cho mấy cô gái chưa chồng ngứa ngáy không chịu được, rủ nhau ra đầu đình thập thò.

    Kỹ thuật cá nhân nói chung đã khá thành thạo, vấn đề cần làm là phải hoà tấu sao cho các nhạc cụ ăn khớp nhau để khi vào đám khỏi xảy ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nghe tiếng kèn đám ma từ đình làng vọng ra chủ nhiệm Hỗ tức lắm. Anh ta đem mấy dân quân khoác súng đến bảo Lê Văn Nghiên:
    - Không được thổi kèn ở đây. Yêu cầu các anh mang đi nơi khác

    Trịnh Doãng đang phồng mồm thổi chiếc kèn loe, nghe chướng tai vặc lại:
    - Xã đã đồng ý cho chúng tôi lập đội kèn hiếu các ông còn hạch sách gì nữa ?

    Hỗ sừng sộ:
    - Thổi kèn trong làng làm mất an ninh trật tự và phá giấc ngủ của bà con xã viên. Các anh không chấp hành nội quy hợp tác xã tôi sẽ ra lệnh tịch thu đồ nghề.

    Doãng nóng mắt định gây sự, Lê Văn Nghiên bấm tay nói nhỏ:
    - Thôi về, tối mai ta mang chiếu ra đồng Chó Đá chẳng kẻ nào đuổi được.

    Tối hôm sau, ba anh em xách kèn trống ra nghĩa địa thật. Doãng thuộc loại ba trợn trên không sợ giời, dưới không sợ đất. Phán là con thầy cúng, ma quỷ nhác thấy đã phải tránh xa. Nghiên được học hành chút ít, không mê tín dị đoan. Họ ngồi trên gò đống, phía dưới là những âm hồn, giữa đêm hôm khuya khoắt say sưa hoà tấu mấy bản tang khúc quen thuộc trong tâm trạng vô cùng hứng khởi. Đêm thanh vắng, gió đông nam thổi nhẹ, đưa tiếng kèn thổi khúc "Hành vân" về làng lúc gần lúc xa, lúc khoan lúc nhặt nghe vừa du dương vừa ai oán như là một thứ bùa ngải đầy ma lực làm xao xuyến khối cô nàng đa tình.

    Lê Văn Nghiên còn kiêm thêm nhiệm vụ soạn điếu văn nếu tang chủ yêu cầu. Điếu văn anh ta viết cho ông Bẩy Hựu ở xóm Cầu Đá chết vì chứng xơ gan cổ trướng lâm ly thống thiết khiến bà con hàng xóm ai cũng thương cảm. Mấy chị trung niên chẳng có họ hàng gì cũng oà khóc như vừa bị chồng đánh oan, còn lũ trẻ con gào rống lên, có thằng khóc dữ quá đái cả ra quần.

    Doãng không đặt giá nhất định cho mỗi đám tang nhưng nói chung, các tang chủ đều biết điều trả thù lao không đến nỗi quá bèo bọt. Họ biết tầm quan trọng của phường kèn, vì đã mấy năm nay, giờ mới có được tiếng kèn nhị diễn tấu đúng âm luật ngũ cung, nhất là nghệ thuật đánh trống có một không hai trong vùng Ba Tổng của Nguyễn Đình Phán.

    Gánh kèn hiếu lần đầu tiên được người hàng tổng thỉnh đó là ông Tăng Văn Trọng phó chủ tịch xã Thanh Bình. Bà mẹ ông ta bẩy mươi ba tuổi vừa quy tiên. Tang chủ cử người sang đón anh em Trịnh Doãng từ chiều hôm trước để kịp lúc bảy giờ tối phát tang. Lê Văn Nghiên được nhờ soạn điếu văn. Ông Tăng Văn Trọng do tang ma bối rối, chỉ viết nguệch ngoạc ra quyển vở học trò vài nét đại khái về thân thế, sự nghiệp của thân mẫu, còn những chi tiết cụ thể giao cho cô con gái tên là Hảo nói với anh thợ kèn. Hảo mười chín, học hết lớp sáu rồi ở nhà làm hợp tác xã, thuộc loại đẹp gái ở làng Báng. Hai năm nay, có đến gần chục đám khá giả nhờ người mai mối nhưng ông Trọng chưa ưng ai mà có ý chờ Thạc, con trai ông bí thư huyện uỷ đang học lớp trung cấp nông lâm. Thạc mê Hảo đến mức cuồng si, những dịp nghỉ hè, ngày nào cũng đạp xe sang kẻ Báng. Ông Trọng trong ban thường vụ, phụ trách nội chính, có sở trường vận động quần chúng, nói chuyện thời sự hấp dẫn, đám thanh niên rất phục, xem như một mẫu cán bộ tuyên huấn điển hình của thời đại. Những dịp ông đăng đàn giảng nghị quyết đình làng chật cứng nam nữ đoàn viên và các đối tượng cảm tình để nghe về hai nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đến phần quan trọng nhất là "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa" và "Quyền làm chủ tập thể" , ông diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ khúc chiết đầy hào khí cách mạng rồi trích dẫn hàng loạt những câu nói nổi tiếng của các tác giả Mác xít kinh điển không sai một chữ, làm cử toạ phục lăn, nghĩ rằng chẳng mấy chốc ông trở thành nhà lý luận. Thế nhưng ông phó chủ tịch cũng là kẻ cơ hội, trong bụng đầy những toan tính vị kỷ. Tìm cách gả được Hảo cho Thạc tức là đã khai thông con đường lên huyện. Cao hơn thì chưa nói nhưng ít nhất đồng chí bí thư cũng phải xếp ông ta một chân chánh văn phòng hoặc trưởng ban khoa giáo. Phải có những cương vị như thế mới phát triển được tài năng. Làm cái anh phó chủ tịch quèn lại phải dưới trướng một gã vô học, chuyên nghề thiến lợn mà lại khệnh khạng hệt chánh Đàm ngày trước làm sao mà chịu được. Ông ta mà lên huyện thì chỉ trong vòng sáu tháng, cái chức chủ tịch của tay Kiểm đi tong. Cho nên vị phó chủ tịch không nhận lời bất cứ đám nào vùng Ba Tổng. Con Hảo đã có nơi có chốn. Thằng nào động vào tức là mó dái ngựa. Hãy coi chừng đấy các chú trống choai ạ.

    Bài điếu văn Lê Văn Nghiên chấp bút hầu như không phải sửa được viết bằng thứ chữ tròn vành rõ nét đẹp như vẽ không giống bất cứ loại chữ "bình dân học vụ" nào với lời lẽ chân thành, tình cảm thống thiết, cô Hảo đọc qua một lần mà cứ ngẩn ngơ cả người. Lựa lúc vắng khách, Hảo giả bộ xuống nhà lấy thêm trầu vỏ hỏi Nghiên :
    - Anh học đến lớp mấy mà viết điếu văn hay thế ?

    Nghiên thoáng nhìn Hảo, hai luồng mắt giao nhau, như có dòng điện chạy qua làm anh thợ kèn lúng túng:
    - à, học "bình dân" ấy mà.

    Hảo đong đưa cặp mắt đen láy như cười:
    - Anh chỉ nói đùa. Em không tin.

    Nghiên nheo mắt thì thầm:
    - Cô không tin cũng không sao nhưng đấy là hương hồn cụ bà hiện về phù họ cho tôi viết …

    Hảo còn định nấn ná thêm lúc nữa thì ông Trọng bất ngờ xuất hiện lừ mắt bảo con gái:
    - Lên nhà, anh Thạc về đấy !

    Bản "Lâm khốc" và khúc "Lưu thuỷ" của bộ ba kèn, nhị, trống nghe như dàn hoà tấu của các loại nhạc cụ dân tộc trong một đêm hội chèo. Đã lâu lắm kẻ Báng mới có được buổi tế kèn trang trọng như thế. Dân làng chen nhau vòng trong vòng ngoài như đi xem hội. Ông chủ nhà nở mày nở mặt cứ nghĩ thiên hạ nể mình, phục mình và cả sợ mình nữa nên có nghĩa vụ đến chia buồn cùng tang quyến.

    Đưa đám xong, lúc trở về, ba chàng thợ kèn vẫn lững thững bước sau linh xa thỉnh thoảng lại tấu khúc "Đò đưa" tiễn hồn người qúa cố. Bản này vốn được phát triển từ một làn điệu chèo đã lược đi phần lớn những nốt nhấn nháy và đảo nhịp nghe khá bi thương, có chỗ phảng phất như giọng điệu trong bài "Thập ân". Một số người đã rẽ vào các ngõ, nhưng nghe tiếng trống cư chần chừ chưa muốn bước. Cô Hảo mặc áo xô khăn trắng, dây chuối bện thắt lưng, mái tóc dày đen như sừng xoã chấm khoeo, giả bộ đau buồn, thương bà đận đà đi sau cánh thợ kèn, thỉnh thoảng hờ vài tiếng nhưng mắt lại đánh đáo về phía Lê Văn Nghiên. Anh ta cũng chẳng phải vô tình mặc dù vẫn giả tảng không biết gì, ra sức thổi kèn. Trịnh Doãng đúng là một tay thợ kèn đám ma bẩm sinh. Hắn thể hiện kỹ năng nghề nghiệp bằng một phong thái rất nghệ sỹ, nhất là khi bắt đầu đưa tang. Lúc ấy, đầu Doãng hơi cúi, mồm cá ngão ngậm dăm kèn hơi phùng ra, mấy ngón tay nhịp nhàng lúc bịt lúc mở trên hàng lỗ, thỉnh thoảng đảo qua đảo lại hoặc ngoáy một vòng, hệt như anh chàng hề mồi phát loa báo tin quan tân khoa sắp vinh quy bái tổ. Đặc biệt lúc vào việc, Doãng nói đâu ra đấy chẳng khác gì ông chủ đòn đám ma, chỉ mỗi tội mặt hắn hơi khó coi nên ít khi tranh thủ được cảm tình của đám chị em.

    *******

    Nghiên nhận được thư của Hảo qua một anh bạn ở làng Đậu Khê. Thư hẹn hai người sẽ gặp nhau ở quán Cây Đề đồng Quao, Nghiên đến sớm. Lúc ấy mới khoảng sáu rưỡi nhưng vì vào cuối thu nên trời đã nhập nhoạng. Đàn sẻ đã bắt đầu kéo về đậu trên mái quán tìm chỗ trú đêm. Chúng mổ nhau chí choé, thỉnh thoảng một vài con bay vút lên lượn vài vòng rồi sà xuống. Lũ chích choè vốn lắm điều bay vật vờ trên cao hoàn toàn im lặng, chỉ đến khi lần lượt đậu xuống cành cao nhất của cây đề chúng mới nhả những tiếng”chíp chíp” rời rạc như là quá mệt mỏi sau một ngày lang thang kiếm mồi. Hảo đến muộn một chút hỏi Nghiên:
    - Anh đợi em lâu chưa?

    Nghiên bảo:
    -Tôi cũng mới ra

    Hảo hỏi:
    - Anh học thổi kèn đám ma ở đâu?

    Nghiên lại bảo:
    - Cánh mình chơi theo bản nhạc ấy mà.

    Hảo tỏ vẻ ngạc nhiên:
    - Các anh còn biết cả âm nhạc?

    Nghiên cười:
    - Cái gì cũng có thể học được nếu mình chịu khó.

    Hảo:
    - Anh nói thật đi, anh là ai?

    Nghiên:
    - Tôi là dân làng Cùa, nông dân cá thể, nhà ở đồng Chó Đá.

    Hảo:
    - Anh chỉ giỏi bịa, em thấy anh rất bí hiểm. ở nông thôn ít có những người như thế.

    Nghiên:
    - Hảo nói đúng lắm, khắp vùng Ba Tổng kiếm đâu ra phường kèn đám ma như bọn này. Vì thời nay, thanh niên là phải phấn đấu vào Đoàn, hoạt động xã hội hoặc thoát ly làm người nhà nước mới đúng kiểu.

    Hảo cười rất hồn nhiên:
    - Anh viết điếu văn hay như thế chắc viết thư phải tình cảm lắm.

    Nghiên lại bảo:
    - Cũng thường thôi, với lại tôi cũng ít viết thư.

    Hảo hỏi:
    - Ngày mai anh sang nhà em có được không ?

    Nghiên lắc đầu :
    - Nhà đang có tang sang không tiện , tôi thấy ông phó chủ tịch nghiêm lắm.

    Hảo thở dài :
    - Nhưng anh chàng Thạc đang học trung cấp nông lâm thì ngày nào cũng đến ám.

    Nghiên nói khẽ:
    - Thì đồng ý người ta đi, môn đăng hộ đối thế cơ mà.

    Hảo bậm môi:
    - Cái anh này nói thế Hảo còn hẹn anh ra đây làm gì .

    Nghiên lại trêu:
    - Trông anh ta cũng cao ráo đấy chứ, lại có văn hoá nữa, khác hẳn bọn tôi, chưa thoát nạn mù chữ.

    Hảo bĩu môi cười nhạt :
    - Văn hoá gì, cũng học lớp sáu rồi bỏ như em, may có ông bố là bí thư huyện uỷ xin cho.

    Nghiên cầm tay Hảo làm người cô run lên. Lúc sắp chia tay Hảo ngập ngừng hỏi:
    - Tối mai lại ra đây được không anh ?

    Nghiên gật đầu:
    - Anh sẽ ra nhưng ... bố em không bằng lòng cho chúng ta gặp nhau đâu.

    *****

    Mấy hôm sau, lúc ở đám ông Vệ Tuân chết vì say rượu ngã xuống ao Quan về, Trịnh Doãng hỏi Lê Văn Nghiên :
    - Cậu phải lòng cái Hảo bên kẻ Báng rồi phải không?

    Nghiên chối phắt:
    - Đâu có, anh chỉ đoán mò.

    Doãng tủm tỉm cười :
    -Tối hôm hai mốt anh chị nào hẹn nhau ra quán Cây Đề đồng Quao?

    Nghiên giật mình:
    - Hôm ấy anh đi thả ống lươn à?

    Doãng chỉ ậm ừ:
    - Không đi nhưng tớ biết... Mà này, trông bộ dạng lão Trọng lúc nào cũng vênh váo, tớ chẳng ưa tí nào.
    - Chưa chi anh đã có ác cảm với người ta.
    - Thằng Doãng này nói không sai đâu . Tớ ngại là ngại cho cuộc tình duyên của các cậu. Cái Hảo là đứa con gái ngoan, nó yêu cậu thật đấy nhưng ông bố thì đếch chơi được. Hắn sẽ phá đám cho mà xem.

    Doãng nói tào lao thế mà đúng . Lê Văn Nghiên cùng anh bạn đánh trống Nguyễn Đình Phán vừa bước vào cổng, ông phó chủ tịch xã Thanh Bình đã chơi ngay một vố làm hai người chỉ còn cách độn thổ:
    - Các anh là mấy tay thợ kèn làng Cùa phải không?
    - Dạ, chúng cháu chào bác ạ.

    Ông Trọng laị hỏi:
    - Sang đây có việc gì?
    Thấy hai gã trai thiên hạ đưa mắt nhìn nhau, ông chủ nhà ra tiếp đòn quyết định :
    - Con Hảo nhà này sắp làm dâu ông bí thư huyện uỷ. Tôi đề nghị các anh đừng quấy rầy nó nữa.

    Thế là hai anh em quay gót, đi một mạch về làng chẳng biết Hảo có nhà hay không .Tối hôm ấy Nghiên viết mấy dòng thư gửi cô ta : “Hoàn cảnh nhà tôi phức tạp lắm không tương xứng với Hảo. Từ nay chúng ta chấm dứt quan hệ và mong em được hạnh phúc với chàng trung cấp nông lâm.” Nhận được thư, Hảo chẳng giữ ý nữa, sang ngay làng Cùa. Lúc ấy Nghiên đang gõ thuyền đánh lưới bén trên sông Lăng. Nhìn thấy dung mạo Hảo, bà Hài mừng lắm, trong lòng dự đoán, hai đứa chắc đã có tình ý với nhau, liền nhờ người đi gọi con trai rồi kể cho Hảo về gia cảnh. Nghe xong cô xúc động lắm nói với bà mẹ :
    - Chuyện bác trai trước là chủ tịch huyện rồi anh Khải đi học đại học Nông lâm anh ấy chẳng nói gì với cháu. Hôm bà cháu mất, anh ấy viết điếu văn làm cả họ phải khóc cháu đã sinh nghi.

    Bà Hài chép miệng;
    - Hai anh em nó đứa nào cũng tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp ở tỉnh, nhưng vì thành phần gia đình, thằng Khải khó khăn lắm mới được đi học đại học. Thằng Nghiên vì anh mà phải giam gần nửa năm, may có ông Trần Quảng gỡ cho.


    Bà Hài nói đến đây thì Nghiên về. Hảo làm mặt giận:
    - Anh Nghiên coi thường em quá .

    Nghiên tin Hảo yêu mình thật lòng nhưng biết là cô ta không thể nào vượt được quyền ông bố gia trưởng đang lập kế hoạch dùng con gái làm nhịp cầu tiến thân. Cuộc tình này hẳn là chẳng có kết thúc tốt đẹp liền giả tảng nói với mẹ nhưng thực chất là để cho Hảo biết rõ thái độ của mình:
    - Đây là cô Hảo bên làng Báng, con ông Trọng, phó chủ tịch xã Thanh Bình.

    Bà Hài bảo:
    - Tao biết rồi.

    Hảo nguýt Nghiên có ý trách:
    - Giới thiệu kiểu gì thế?
    - Tôi nói chưa hết. Nghiên tiếp tục bằng thứ giọng mà chính mình cũng thấy khó chịu – Chắc cô Hảo sang đây mời đám cưới?

    Hảo sa sầm nét mặt:
    - Anh ác lắm. Đấy bác xem, anh ấy toàn nói châm chọc.
    -Tôi không nói sai đâu. Mấy hôm trước chính ông phó chủ tịch nói như thế khi tôi và anh Phán vừa vào đến cổng.

    Hảo bổng giật mình:
    - Các anh đến hôm nào, sao em không biết?
    - Vừa đến cổng đã bị đuổi ra Hảo biết thế nào được?

    Hảo cười gằn:
    - Vì thế mà anh viết thư cho tôi đòi chấm dứt quan hệ?
    - Biết làm thế nào được, cái chính là tại hoàn cảnh gia đình tôi.
    - Làm đấng nam nhi phải chịu nhường người mình yêu thương cho kẻ khác thì hèn lắm. Thôi chào anh. Con chào bác, con về.

    Tất nhiên là bà Hài không cần đưa mắt ra hiệu thì Lê Văn Nghiên cũng phải chạy theo. Anh ta đưa Hảo ra tận quán Cây Đề. Tại đây Hảo khóc thút thít, còn Nghiên ra sức vỗ về. Anh ta vốn sợ nước mắt phụ nữ, hễ cứ thấy các cô sụt sịt là người bứt rứt như bị dị ứng khi thời tiết thay đổi. Được một lúc thì sự căng thẳng tạm thời giải toả. Lúc sắp về, Hảo dặn:
    - Từ nay nếu có sang phải báo trước để em đón.
    - Anh sợ ông phó chủ tịch lắm, lúc nào cũng lừ lừ trông ghê cả người.
    - Bây giờ làm thế nào hả anh ? Cứ nhìn thấy thằng Thạc là em đã ghét.
    - Em cứ viết thư nói thẳng với anh ta.
    - Hắn bám dai như đỉa, trong nhà bố em là nội ứng, anh bảo làm sao thoát được. Em nghĩ chỉ còn một cách.
    - Cách gì hả cô bé bướng bỉnh?

    Hảo ngập ngừng:
    - Chỉ có một cách là... có con trước với chàng thợ kèn.

    Nghiên bật cười:
    - Em không đùa đấy chứ?

    Hảo gật đầu:
    - Em nói hoàn toàn nghiêm túc. Có thế chúng ta mới được bên nhau mãi mãi.

    Nghiên từ từ kéo Hảo vào ngực, hôn lên tóc cô, thì thầm:
    - Chúng mình là những người đàng hoàng, không làm thế được. Ta phải chọn cách khác thôi em ạ.

    Mấy lần Hảo đi chơi tối về muộn, ông Trọng sinh nghi liền cử cậu con trai út là thằng Tần bí mật theo dõi. Đến lúc ấy ông ta mới ngã ngửa người ra hai đứa vẫn hò hẹn nhau ở quán Cây Đề. Khác với mọi lần, hôm ấy ông phó chủ tịch im như thóc trong bồ, lặng lẽ nghĩ cách xử lý. Thời gian chờ đợi khá căng thẳng nhưng rồi nó cũng đến khi ông bố thấy cô con gái vào buồng chải tóc mặc bộ quần áo mới. Hảo vừa ra khỏi làng lập tức có mấy bóng đen bám theo. Họ luôn giữ khoảng cách với Hảo chừng hơn trăm thước mà cô ta không hề biết. Từ kẻ Báng sang đồng Quao khá xa. Hảo vừa đi vừa chạy, đến lúc nhập nhoạng thì mất hút làm mấy bóng đen nháo nhác tìm. Lúc ấy khoảng hơn bảy giờ. Nghiên đã chờ khá lâu. Hảo vừa xuất hiện hai người đã ôm cứng lấy nhau. Cô gái khóc tức tưởi:
    - Gay rồi anh ơi, rằm tháng này nhà trai đến ăn hỏi, làm thế nào bây giờ ?

    Nghiên vuốt tóc Hảo thở gấp như bị choáng:
    - Sao nhanh thế?
    - Hình như bố em đã biết chuyện chúng mình, mấy hôm nay em thấy thái độ khác lắm.
    - Đứng im ! Các người đã bị bắt.

    Hảo và Nghiên vừa rời khỏi tay ra thì chiếc đèn pin đã rọi thẳng vào mặt.
    - à, ra cô Hảo, mời cô về, ông phó chủ tịch đang đợi ở nhà. Còn anh kia, theo chúng tôi về uỷ ban !

    Hai gã lạ mặt chắc là dân quân làng Báng. Tay khoác súng trường lừ lừ nhìn Nghiên rồi bất ngờ quàng ngay dây thừng vào người anh ta. Hảo sấn lại, quát lên:
    - Các người làm gì thế? Bỏ anh ấy ra.
    - Xin lỗi cô Hảo nhé !

    Gã cầm đèn pin giữ chặt tay cô gái bảo :
    - Đây là lệnh của ông nhà. Chúng tôi chỉ là người thừa hành.

    Nghiên bị trói hai tay vào cột quán. Trước khi đưa Hảo về, tay dân quân khoác súng vỗ vai chàng thợ kèn bảo:
    - ở đời không nên chơi trèo anh bạn ạ. Cô Hảo là con dâu ông bí thư, kẻ nào động vào là ngồi nhà đá.

    Hảo vừa bước vào nhà ông bố đã túm tóc bạt tai liền mấy cái, giọng rít lên:
    - Đồ mất dạy! thế này thì mày bôi tro trát trấu vào mặt tao còn gì.
    Cô con gái lấy tay xoa má, lẳng lặng vào buồng làm ông bố càng tức:
    - Mày không có mồm à?

    Đến lúc này Hảo không chịu được thói gia trưởng quá quắt của ông Trọng nữa, oà lên khóc:
    - Thầy sai dân quân rình mò con, trói người ta giữa đồng là phạm pháp. Ngày mai con sẽ ra xã báo với bác Kiểm.

    Ông phó chủ tịch như vừa bị cái tát điếng người, rít qua kẽ răng:
    - Có giỏi thì mày cứ đi.

    Hảo vênh mặt:
    - Con đã bảo không lấy tay Thạc, thầy cứ ép sau này đừng trách.

    Ông Trọng cười gằn:
    - Mày... mày dám...
    - Thật đấy.

    Hảo thấy bố đờ mặt ra liền tấn công tiếp:
    - Lần nào giảng nghị quyết cho thanh niên thầy cũng nói chế độ xã hội chủ nghĩa tôn trọng tình yêu hôn nhân tự do rồi phê phán hệ ý thức phong kiến lạc hậu, vô nhân đạo chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, thế mà về nhà lại ép duyên con gái, vậy chúng con phải tin vào ai?

    Rõ ràng là đang bị dồn vào thế bí nhưng ông phó chủ tịch vốn lắm mưu mẹo, biết rằng cứ đối đầu như vậy sẽ dẫn đến đổ vỡ, bèn thay đổi chiến thuật. Ông ta vốn có sở trường dùng ba tấc lưỡi chuyển bại thành thắng trong lúc nguy cấp. Có lẽ chỉ con cách đánh vào tình cảm may ra con bé cứng đầu này mới chịu nghe.
    - Hảo con có thương thầy mẹ không?
    - Sao thầy lại hỏi như vậy?
    - Là vì thầy mẹ thương mày lên muốn chọn cho mày tấm chồng tử tế, sau này có chỗ dựa suốt đời.
    - Con biết ơn thầy mẹ nhưng như thế không có nghĩa là cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy.
    - Nhà ông bí thư có mỗi cậu Thạc là con trai, lại được học hành tử tế. Mày về bên ấy là bác Sự xếp ngay cho một chân văn phòng, thiên hạ khối kẻ nằm mơ cũng không được đâu con ạ.
    - Con lạ gì tư cách anh Thạc, anh ta đã học dốt lại ỷ thế bố là bí thư huyện uỷ khinh người.

    Đã dùng mọi lý lẽ thuyế phục mà Hảo vẫn không chuyển biến, ông Trọng phải dùng đến chiêu cuối cùng :
    - Được rồi, bây giờ tao hỏi đây, mày có biết gốc gác cái thằng thổi kèn đám ma ấy thế nào không mà định đâm đầu vào?
    - Gia đình anh ấy tốt, chăm chỉ làm ăn.
    - Mày ăn phải bùa mê thuốc lú rồi con ạ. - Ông phó chủ tịch cười nham hiểm - Bố nó là Quốc dân đảng bị xử bắn hồi Cải cách. Mẹ nó là con gái lão chánh Đàm, phản động khét tiếng vùng Ba Tổng. Anh em nó đều là lũ lưu manh đi tù về.

    Hảo nhìn lên thấy vẻ mặt đắc thắng và ánh mắt thoáng chút độc địa của bố liền bảo:
    - Trừ thầy ra, cả vùng này ai mà không biết bác Vận là chủ tịch huyện bị Đội Cải cách xử oan. Con cũng xin nói rõ, mấy người thầy sai đi điều tra”báo cáo” không đúng sự thật. Trước Cải cách ruộng đất, hai người con trai bác Vận đã đỗ tú tài bán phần. Hiện nay anh Khải đang học khoa Thú y đại học Nông lâm sắp ra trường. Họ là những người có văn hoá và tư cách chứ không phải “ lũ lưu manh”.

    Ông Trọng cười mát:
    - Mày hiểu rõ lý lịch nhà người ta quá nhỉ, nhưng quyết định của thầy mẹ vẫn không thay đổi. Rằm này ông bà bí thư sẽ mang lễ sang ăn hỏi, đầu tháng tám tổ chức.
    - Thầy... thầy nhẫn tâm lắm.

    Ông phó chủ tịch hạ giọng nặng chịch:
    - Nước có phép nước, nhà có lệ nhà, cứ thế mà chấp hành, không bàn cãi lôi thôi nữa.

    Dịp ấy Thạc cũng học xong trung cấp Nông lâm mang tấm bằng xếp loại trung bình sang khoe với Hảo:
    - Anh đã có quyết định về làm việc ở phòng Nông nghiệp huyện. Cưới nhau xong bố sẽ xếp việc cho con dâu làm văn thư, thế là chúng mình mãi mãi bên nhau.

    Hảo nhìn bộ dạng anh cán bộ kỹ thuật mới ra lò, giọng lạnh lùng:
    - Nhưng anh chưa hỏi xem tôi có đồng ý hay không?
    - Em sao thế?
    - Chẳng sao cả. Đơn giản là tôi không yêu anh.

    Thạc nhăn nhó:
    - Nhưng mà tôi yêu em. Hơn nữa hai gia đình đã chuẩn bị, em phá đám còn ra thể thống gì nữa.

    Hảo lắc đầu:
    - Anh về nói với ông bà bí thư hủy đám ăn hỏi đi. Tôi đã có mang với người ta.

    Thạc bị choáng, lặng người một hồi lâu mới ngập ngừng bảo:
    - Không... sao, vì anh rất yêu em. Chuyện này chỉ hai ta biết với nhau miễn là em đồng ý làm vợ anh.

    Hảo ôm mặt khóc. Thật là phường vô liêm sỉ. Cô đã mạo hiểm đem cả danh tiết của mình đặt lên bàn đàm phán mà hắn ta vẫn trơ lỳ, bám dai hơn đỉa đói. Biết làm thế nào đây?

    Những ngày này Hảo bị giam lỏng, nhất cử nhất động đều bị giám sát chặt chẽ, không thoát ra ngoài được. Tối nào Nghiên cũng ra quán Cây Đề để rồi nửa đêm lại về túp lều ở đồng Chó Đá trong tâm trạng bần thần thảng thốt.

    Sau lễ ăn hỏi mười tám ngày thì hai bên tiến hành đám cưới. Đó là một đám cưới nửa nạc nửa mỡ. Bà con dân làng đến dự được mời ăn trầu, uống nước, hút thuốc ngoài sân kho hợp tác xã. Họ hàng thân quen và quan khách hàng huyện thì ăn cỗ trong nhà. Việc tổ chức đời sống mới do chi đoàn thanh niên đảm nhiệm. Riêng khoản văn nghệ, bây giờ người ta không nắm tay nhau nhảy “xon mì” như hồi Cải cách nữa mà chuyển sang hát " Câu hò trên bến Hiền Lương” hoặc "Tình trong lá thiếp” nghe rất mùi.

    Đến lúc sắp đón dâu, Ông Trọng mới ra lệnh mở cửa buồng. Hảo như người mất hồn, quần áo lôi thôi, tóc rối bù chẳng thèm chải. Mấy cô bạn xúm vào trang điểm gần nửa giờ mới tàm tạm giống cô dâu.

    Đêm tân hôn .Lúc ấy đã muộn lắm. Thạc say khướt vì phải chạm cốc với cánh đồng môn lớp trung cấp Nông lâm, đẩy cửa buồng bước vào thở ra toàn mùi rưọu quốc doanh. Anh ta cài chốt rồi nhảy lên gường choàng tay ôm ngang người Hảo. Cô lùi vào trong khẽ bảo:
    - Không được động vào người tôi!

    Thạc cất giọng lè nhè:
    - Cô đã là vợ tôi, tôi có quyền.

    Hảo bịt mũi xua tay:
    -Tôi sợ mùi rượu .
    Thạc quài tay vặn to ngọn đèn, mặt hằm hằm, khác hẳn thái độ khúm núm mấy hôm trước ở nhà ông Trọng.
    - Cởi quần áo ra!

    Hảo lắc đầu:
    - Anh mà động vào người tôi là tôi cắn lưỡi tự tử.
    - Mày đã nằm ngửa ra cho thằng thợ kèn nó chơi... còn ngượng cái nỗi gì?
    - Anh im đi!

    Thạc nổi khùng chửi:
    - Không ngờ nhà tao tốn bao nhiêu tiền lại rước về một con đĩ.

    Hảo tái mặt cố nén cho giọng bớt gay gắt:
    - Hãy nghe cho rõ đây. Trinh tiết một đời con gái của tôi không phải là dành cho hạng người như anh.
    - Cứ thử xem...

    Thạc dường như đã tỉnh rượu, vồ lấy Hảo xé rách toạc chiếc áo cánh bằng phin nõn. Anh ta vừa thò tay kéo chun quần thì cô lật sấp người đẩy mạnh ra rồi cắm con dao lá lúa vào yết hầu. Con dao nhỏ sắc được Hảo chuẩn bị từ trước, động tác lại quá nhanh làm Thạc trong lúc đang bị kích động không kịp đề phòng, chỉ đến khi máu từ cổ vợ thấm ướt áo gối trắng tinh thêu đôi chim hoà bình anh cán bộ kỹ thuật mới hô hoán lên. Mọi người hoảng hốt chạy vào thì Hảo đã tắt thở.

    Vụ án đêm tân hôn làm nhà bí thư Huyện uỷ mất mặt với thiên hạ. Người ta nghi Đoàn Công Thạc giết vợ nên điện cho công an tỉnh về điều tra. Con dao vấy máu còn đó. Thạc không thể thanh minh khi mà chính anh ta rút dao khỏi cổ vợ, dấu vân tay còn để lại sau khi bộ phận hình sự làm xét nghiệm. Trong khi khai với cảnh sát điều tra, anh cán bộ kỹ thuật cung cấp một chi tiết quan trọng, đó là Hảo đang có mang với một người làng Cùa là Lê Văn Nghiên. Tuy nhiên các bác sỹ pháp y lại có kết luận ngược lại. Hảo vẫn là con gái trinh. Vì thế, họ càng có thêm chứng cứ, bởi ghen tuông Thạc đã giết vợ ngay đêm động phòng.

    Vụ án ngày càng phức tạp vì công an không tìm thêm được những chứng cứ ngoại phạm nhằm gỡ tội cho con trai ông bí thư. Hơn nữa, ông Tăng Văn Trọng sau khi biết chắc chức chánh văn phòng đã tuột khỏi tầm tay liền phát đơn đề nghị công an tỉnh làm rõ cái chết oan uổng của con gái. Đoàn Công Thạc bị tạm giam tại trại Kim Chân đến tháng ba vẫn chưa xử được. Lê Văn Nghiên nhớ thương Hảo, người lúc nào cũng như bị ma ám, ăn ngủ thất thường.

    Bà Hài khuyên con trai:
    - Vợ chồng là cái duyên cái số, trời không cho đành chịu con ạ. Có trách là trách cái ông phó chủ tịch xã Thanh

    Bình hám địa vị, danh vọng ép duyên con gái đến nỗi cái Hảo thiệt thân. Tao mong toà án sớm đem cái thằng bất nhân ấy ra bắn trước bàn dân thiên hạ .

    Nghiên nhìn mẹ nét mặt rầu rầu :
    - Con nghĩ tay Thạc chưa chắc đã giết vợ mà có khi Hảo uất ức quá rồi tự sát.
    - Mày chỉ nói càn .-Bà hài trách –Con gái hơ hớ ra như thế thì việc gì nó phải chết .

    Nghiên bảo :
    - Trước hôm cưới ít lâu con có nhận lá thư . Cô ấy nói, nếu không còn cách nào khác thì ngày cưới cũng là ngày từ giã cõi đời .
    - Nó viết thế thật à?
    - Con vẫn giữ thư của Hảo đây.

    Bà Hài gạt đi :
    - Chớ có đưa ra rồi làm ơn nên oán . Bây giờ mẹ mới nhớ ra, ông bí thư Đoàn Công Sự, hồi giữa năm năm nhăm chả làm đội Cải cách bên xã Nhân ái là gì . Chính ông ta đã xúi Hoàng Đình Tằng đuổi nhà mình ra khỏi làng Bòng.

    Nghiên lại bảo :
    - Thời ấy qua rồi, mẹ không nên cố chấp . Con nghĩ ta cứ gửi bức thư này cho nhà chức trách để họ xem xét , cho dù tay Thạc có tội thật con cũng được thanh thản lương tâm.
    - Vậy thì tuỳ con.

    Hôm sau Nghiên cuốc bộ năm cây số ra bưu điện gửi bức thư của Hảo. Vừa nhận được, công an tỉnh vội đánh chiếc xe ba bánh về làng Cùa. Bà con đồng Chó Đá không biết chuyện gì xảy ra đã lo cho cho bà Hài . Hai cảnh sát hỏi Nghiên về mối quan hệ giữa anh ta và Hảo trước đây, thời gian nhận bức thư và một vài chi tiết khác. Nghiên kể xong họ ghi chép rồi bắt tay anh ta:
    - Cảm ơn anh đã giúp chúng tôi làm sáng tỏ vụ án. Chúng tôi sẽ đề nghị chính quyền biểu dương tinh thần trách nhiệm.

    Nghiên lắc đầu:
    -Tôi chả cần biểu dương mà chỉ cần các cấp có thẩm quyền xem xét tư cách của ông phó chủ tịch Tăng Văn Trọng. Vì ông ta mà Hảo phải chết oan. Có điều trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta, cho đến giờ, hình như chưa có điều khoản nào xử phạt những ông bố ép duyên con gái.

    Người công an đứng tuổi đeo quân hàm thượng uý gật đầu:
    - Anh nói đúng.

    Hảo mất được hơn một năm thì đã xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ. Khắp vùng Ba Tổng thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ . Nghiên cũng viết đơn xin tòng quân. Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ xem đơn xong bảo:
    - Đối tượng nhập ngũ đợt này phải là đoàn viên. Anh thuộc hộ cá thể lại quá tuổi không đủ tiêu chuẩn.
    Đầu năm sáu sáu lại có đợt tuyển thanh niên xung phong Trường Sơn. Nghiên nghĩ, thanh niên xung phong chọn tiêu chuẩn thấp hơn bộ đội chắc họ để mình đi. Ai ngờ Bùi Quốc Tầm lúc ấy là bí thư Đảng uỷ, nhìn thấy lá đơn, gõ gõ cán bút xuống bàn nói:
    - Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước ở hậu phương cũng quan trọng không kém gì tiền tuyến. Anh cứ về nhà yên tâm lao động sản xuất, khi nào cần chúng tôi gọi.

    Mấy lần bị hạ nhục, Nghiên cảm thấy không còn đủ kiên nhẫn chịu đựng, định viết lên đơn lên huyện tố cáo thói lộng hành và tham ô tài sản hợp tác xã của bọn Bùi Quốc Tầm và Hỗ Chột. Bà Hài khuyên:
    -Thân phận mình như con sâu cái kiến, họ có cả một bè, bàn tay không che nổi mặt trời đâu con ạ.
    - Nhưng mà họ chèn ép mình quá.
    -Thôi được, ngày mai sang mượn bác Doãng cái xe đạp đưa mẹ lên tỉnh, lần này lại phải nhờ bà Ba mới xong.

    Cũng như Lê Văn Khải đi đại học Nông lâm, lần này Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái nhìn thấy lá thư tay cùng chữ ký của ông Trần Quảng thì không còn lý do trì hoãn nữa, phải hạ bút phê ngay vào đơn và chuẩn bị hồ sơ cho Lê Văn Nghiên gia nhập thanh niên xung phong.

    Chuyến ấy vùng Ba Tổng có hơn bảy chục thanh niên nam nữ vào Trường Sơn, riêng làng Cùa có tám người.

    (còn tiếp)

  5. #5
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 14

    1. Sau khi tốt nghiệp, Lê Văn Khải được phân công về nông trường Phượng Sơn. Nông trường này ở một nơi heo hút suốt ngày chỉ nghe tiếng chim “ bắt cô trói cột’’. Rừng ở đây thoáng đãng hơn vùng Bắc Thoòng, gió cũng nhiều hơn và đặc biệt có những đồng cỏ rộng, khá bằng phẳng để chăn thả gia súc. Thanh niên nông thôn mới gia nhập đội ngũ công nhân vài năm, nhiều người chưa biết chữ nhưng rất hồn nhiên, yêu đời.

    Giám đốc Trần Kim Thang là cán bộ miền Nam tập kết từ năm Năm Tư, xem xong giấy tờ hỏi Lê Văn Khải:
    - Cậu học ngành Thú Y à?
    - Thưa Giám đốc, trong quyết định có ghi rõ đấy ạ.

    Ông Thang húng hắng họ nói giọng Quảng Ngãi vùng Ba Tơ rất nặng:
    - Ban giám đốc điều đồng chí về phòng kỹ thuật phụ trách khâu chăn nuôi.
    Trần Kim Thang có cả một bộ máy giúp việc đa số là dân xứ Quảng, trình độ học vấn phần lớn mới thoát nạn mù chữ, nghề chuyên môn là nuôi lợn, trồng chè, rất đố kỵ với dân trí thức, nhất là loại tốt nghiệp đại học như Khải. Mai Ngộ, trưởng phòng tổ chức hành chính là một người đàn ông da mặt sát xương, tóc chớm bạc, mắt như mắt mèo hoang, xem hồ sơ của Khải do nhà trường gửi về theo đường bưu điện, thấy có những chỗ không khớp nhau liền gọi anh ta đến hỏi:
    - Bố anh mất tháng giêng năm năm nhăm phải không?
    - Phải, có chuyện gì thế ạ?
    - Ông cụ chết bệnh hay là...?

    Đến lúc này thì chẳng cần giấu nữa. Khải thầm nghĩ vậy rồi nhìn thẳng vào cặp mắt soi mói của trưởng phòng Tổ chức bảo:
    - Bố tôi bị Đội Cải cách bắn oan.
    - Sao không ghi vào lý lịch?
    - Uỷ ban xã đề nghị không đưa việc ấy vào hồ sơ.
    -Tại sao xã lại làm việc tuỳ tiện như vậy?

    Lê Văn Khải bực mình vì cái kiểu vặn vẹo vô lý của tay trưởng phòng liền bảo:
    - Ông về địa phương mà hỏi, tôi không biết.

    Mai Ngộ về xã Đoàn Kết thật. Sau một tuần, ông ta đã có bộ hồ sơ đầy đủ về anh chàng bác sĩ thú y liền báo cáo với Trần Kim Thang trong buổi giao ban đầu tuần:
    - Lý lịch của tay Khải này phức tạp lắm. Anh ta được đi học là do bà mẹ có mối quan hệ vơí ông chủ tịch tỉnh. Tôi đề nghị nông trường không lên bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo mà chỉ để anh ta làm chuyên môn thuần tuý.

    Trần Kim Thang gật đầu tán thành:
    - Đồng chí Ngộ nói đúng. Đây không chỉ đơn giản là sự sắp xếp cán bộ mà nó còn liên quan đến vấn đề giai cấp. Ta mà chủ quan, hữu khuynh là kẻ thù giai cấp ngóc đầu dậy, nguy hiểm lắm.

    Trưởng phòng kỹ thuật Hà Hữu Đư, người Bắc, học trung cấp nông nghiệp, tiếp Lê Văn Khải không được mặn mà lắm. Anh ta liếc mắt đánh giá đối phương rồi chỉ chiếc bàn ọp ẹp để cốc chén ở góc phòng nói:
    - Đây là chỗ làm việc của đồng chí, có việc gì khó khăn cứ nói với tôi.

    Lê Văn Khải nhìn thấy đám cán bộ đang giả vờ bận bịu với đống giấy tờ nhưng mắt người nào cũng gườm gườm có vẻ như chả ưa gì anh nhân viên mới. Anh ta ngẫm nghĩ: “ Tiếp đón nhau kiểu này khó sống lắm đây”.

    Khải về nông trường chưa đầy hai tháng, một buổi chiều có ông khách đến tìm tại khu nhà tập thể. Viên bác sĩ thú y chưa hề biết người này, nhưng ông khách, trạc ba tư ba nhăm, đội mũ phớt, mang kính râm lại nắm khá rõ hoàn cảnh của anh ta. Sau mấy câu mang tính xã giao, người đội mũ phớt bảo:
    - Đại uý Lương Quang Tính giới thiệu về anh.
    - Vậy ra, đồng chí là...
    - Tôi được cấp trên giao nhiệm vụ phụ trách mạng lưới đặc tình vùng này. Từ nay hàng tháng anh phải báo cáo những sự việc xảy ra trong phạm vi nông trường vào ngày hai mươi tám. Địa điểm sẽ quy định sau. Nên nhớ việc này chỉ tôi với anh biết.

    Đêm hôm ấy là thứ Bảy, nằm một mình, Lê Văn Khải thầm nghĩ: “Thế là họ vẫn không tha mình”. Còn nhớ, hồi mới học năm thứ Nhất, lúc Khải đang từ nhà ăn về, một người đứng tuổi mặc thường phục bất ngờ vỗ vai hỏi:
    - Anh là Lê Văn Khải phải không?
    - Tôi đây, nhưng anh là ai?

    Người đàn ông chìa ra tấm thẻ rồi nói khẽ:
    - Theo tôi !

    Ông công an mặc thường phục dẫn Khải ra khỏi trường, đi lòng vòng một lúc thì đến bờ sông máng. Trong lòng Khải rất hoang mang, thậm chí còn sợ bị thủ tiêu. Hút gần hết điếu thuốc người công an mới vào vấn đề:
    - Chúng tôi bên An Ninh muốn mời anh cộng tác.

    Khải thở phào nhưng giọng vẫn còn căng thẳng:
    - Tôi thì giúp được các đồng chí việc gì ?
    - Có đấy.

    Người cán bộ An Ninh nhìn chàng sinh viên Nông nghiệp, cái nhìn mang hàm ý răn đe:
    - Trường Đại Học là nơi tập hợp nhiều trí thức có thành phần xuất thân thiếu cơ bản. Một số không ít còn là cán bộ lưu dung, tức là những viên chức cũ trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp và tay sai để lại. Phần lớn các đối tượng này đều ngấm ngầm chống lại đường lối sáng suốt của Đảng, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Anh là người được ngành An ninh tin tưởng chọn làm nhân viên đặc tình, hàng tháng phải có trách nhiệm báo cáo những việc xảy ra trong trường từ ông hiệu trưởng đến các anh nuôi, chị nuôi dưới nhà bếp.
    - Có nghĩa tôi phải làm công việc do thám họ ?
    - Đại loại như thế nhưng cần tuyệt đối bí mật. Người ngoài không ai được biết.

    Lê Văn Khải đã hiểu người ta muốn gì ở mình nhưng anh ta vẫn thả lời thăm dò:
    - Nếu tôi từ chối thì sao ?

    Ông Công an ném mẩu thuốc xuống máng nước cất giọng nặng trịch:
    - Tôi nghĩ anh sẽ không từ chối, vì với một sinh viên có lý lịch phức tạp như anh sẽ buộc phải nghỉ học bất cứ lúc nào nếu bên An ninh thấy cần thiết.

    Khải gật đầu một cách miễn cưỡng:
    - Tôi hiểu...

    Từ đấy anh ta bắt buộc phải làm cái việc mà mình không muốn, nghĩa là bí mật theo dõi hành vi của người khác viết thành báo cáo gửi công an dưới mật danh H3. Một lần trong trường xảy ra vụ ngộ độc thức ăn, hơn tám chục sinh viên phải vào bệnh viện. Lê Văn Khải nghe ngóng tình hình, thu thập thông tin rồi viết : “Người ta nghi ngờ ông Trần Đình Quỳ, nhân viên phòng hành chính quản trị có mâu thuẫn với ông Phạm Tất, quản lý nhà ăn sinh viên, nên đã bỏ thuốc độc vào thùng nước uống. Trưa ngày... tháng ... năm... Cũng xin lưu ý, ông Quỳ trước đây có đi lính Bảo an, thành phần gia đình hồi Cải cách là phú nông, bố làm chánh hội....’’. Ông quỳ bị tạm giam để lấy lời khai. Sau đó người ta tìm ra nguyên nhân ngộ độc là do nhà bếp mua phải thứ cá mè ươn, để tám tiếng đồng hồ mới đem nấu, cũng may không có trường hợp nào tử vong. Lần khác, một vị lãnh đạo cao cấp đến nói chuyện ở hội trường lớn. Ông ta đang thao thao bất tuyệt về tính ưu việt của hợp tác xã nông nghiệp và phong trào thi đua “ mỗi người làm việc bằng hai ’’ thì bên dưới chuyền tay nhau băng giấy pơ luya viết mấy câu lục bát :

    "Bốn người làm việc bằng hai
    Ăn thì bằng tám, nói dai bằng mười"


    Mấy ông cán bộ tổ chức vội chia nhau đi thu gom. Hoá ra ngăn bàn nào cũng có. Tất cả đều cùng một kích thước, chữ đánh máy, có cả dấu, rất dễ đọc. Xác định đây là thứ truyền đơn nói xấu chế độ, chống phá chủ trương chính sách của Đảng, công an tiến hành điều tra trên quy mô lớn. Họ bắt một số đối tượng nghi ngờ, kiểm tra toàn bộ máy chữ nhưng không tìm ra được thủ phạm. Riêng thầy Nguyễn Thúc Cơ, tốt nghiệp kỹ sư Canh nông tại Pháp, hiện đang giảng dạy bộ môn chọn giống, thường hay chèn những câu châm biếm của mình vào bài giảng phê phán một số quan điểm giáo điều duy ý chí, làm thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, là đối tượng nghi can số một, thì lại không bị thẩm tra. Thế là Lê Văn Nghiên làm một bản báo cáo chi tiết gửi ông cán bộ An ninh. Ba hôm sau thầy Nguyễn Thúc Cơ bị bắt. Từ đó nhà khoa học này không bao giờ trở lại trường đại học Nông lâm nữa.

    Cầm được tấm bằng tốt nghiệp trong tay, Lê Văn Khải những tưởng mình thoát khỏi trò chơi nguy hiểm, ai ngờ chợ chưa họp kẻ cắp đã đến. Thật là khốn nạn.

    Hồi ấy nông trường Phượng Sơn được Bộ giao kế hoạch chăn nuôi cừu Mông Cổ. Thời gian đầu loại gia súc ngoại nhập này phát triển tương đối tốt, số lượng lên đến bảy ngàn con, nhưng hai năm sau, tự nhiên chúng mắc phải chứng bệnh kỳ lạ chết hàng loạt. Trần Kim Thang sợ đàn cừu bị xoá sổ, mất chức giám đốc phải đánh xe lên Hà Nội trình báo. Người phụ trách chăn nuôi của bộ Nông trường bảo:
    - ở chỗ anh có một Bác sỹ Thú y cơ mà ?

    Trần Kim thang gật đầu chẳng cần suy nghĩ:
    - Có đấy, nhưng anh ta cứ đòi mổ thịt hết con này đến con khác để nghiên cứu trong khi ngày nào cũng có vài con chết. Cái mà chúng tôi cần là Bộ cấp ngay cho loại thuốc đặc trị nhằm duy trì số lượng chứ không phải kinh phí để tay bác sĩ non choẹt ấy thường xuyên mổ cừu lấy thịt tươi đánh chén.

    Ông Thứ trưởng phụ trách chăn nuôi tuy chẳng có chút chuyên môn nào về cừu Mông Cổ thấy thái độ của giám đốc nông trường Phượng Sơn cũng phải bất bình:
    - Muốn cứu đàn cừu khỏi chết hàng loạt thì trước hết phải biết chúng mắc bệnh gì đã, mà tìm bệnh ở gia súc không có cách nào hơn là phải mổ ra xem lục phủ ngũ tạng nó ra sao sau đó mới lên phác đồ điều trị. Anh nghĩ thế là sai rồi.
    - Chúng tôi đề nghị Bộ cử chuyên gia về nghiên cứu.

    Vị Thứ trưởng chăn nuôi gật đầu:
    - Được, nhưng tôi lưu ý, Lê Văn Khải vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong đề tài khoa học này. Kinh phí nghiên cứu sẽ do Bộ cấp.

    Chuyên gia được cử về nông trường là Nguyễn Cẩm Tú, học trước Lê Văn Khải một khoá. Hai người mổ đến con cừu thứ tư thì phát hiện ra, trong dạ dày của nó có loại giun xoăn là tác nhân gây ra cái chết hàng loạt. Giai đoạn tiếp là phải tiêm một số kháng sinh rồi tiến hành xét nghiệm gan, dạ dày và một số bộ phận nội tạng xem phản ứng với thuốc ra sao. Lại hàng chục chú cừu bị hạ sát. Trần Kim Thang tiếc đứt ruột.

    Một hôm ông ta gặp Khải gợi ý:
    - Tớ bị yếu gan, nghe nói loại bệnh này ăn gan cừu có thể khỏi, muốn xin các cậu mỗi ngày một bộ.

    Lê Văn Khải bảo:
    - Bác thông cảm lấy thịt vậy, gan là bộ phận quan trọng nhất của thí nghiệm. Nó được cắt vụn ra, rửa qua dung dịch rồi đưa vào kính hiển vi soi để tìm trứng hoặc ấu trùng giun.

    Trần Kim Thang nghe chưa hết câu đã cau mặt:
    - Nghiên với chả cứu. Các cậu định chờ đến lúc đàn cừu vào nồi hết mới công bố kết quả thí nghiệm phải không ?

    Hôm sau Giám đốc cho các nhân viên bảo vệ canh trại cừu từ sáng sớm. Lê Văn Khải và Nguyễn Cẩm Tú đến bắt cừu như mọi ngày thì liền bị ngăn lại:
    - Nông trường quy định, từ nay bất cứ ai muốn bắt cừu phải có lệnh của giám đốc.

    Lê Văn Khải bảo:
    - Chúng tôi đang làm thí nghiệm khoa học chữa bệnh cho cừu. Những con bị mổ đã có kinh phí nghiên cứu do Bộ cấp cơ mà.
    Tay bảo vệ rậm râu sâu mắt cũng là dân xứ Quảng, giọng trọ trẹ:
    - Đây không biết, các người cứ về nông trường mà hỏi.

    Hai người đạp xe về cơ quan thì thấy cửa phòng giám đốc khoá, chẳng biết đi đâu. Cẩm Tú bảo:
    -Thế này là họ cố tình phá chúng ta rồi.

    Khải cười nhạt:
    - Chị nói đúng. Có lẽ ta lên dừng công trình này lại nếu không, họ còn tiếp tục gây khó khăn.

    Cẩm Tú về Hà Nội được một tuần thì Trần Kim Thang họp ban giám đốc ra nghị quyết thanh lý đàn cừu với lý do không hợp thuỷ thổ, chết hàng loạt, gây thiệt hại cho nhà nước. Khách hàng phần lớn là các công ty thực phẩm và cửa hàng ăn uống, số còn lại phân phối cho anh chị em công nhân theo giá nội bộ.

    Cuối năm ấy, nông trường Phượng Sơn lập kế hoạch chăn nuôi lợn. Một quan chức có trách nhiệm của Bộ tỏ ra dè dặt sau vụ Trần Kim Thang thanh lý cừu, đưa ra ý kiến:
    -Tay này trình độ lớp ba, chẳng có chút kiến thức nào về quản lý kinh tế, liệu ông ta có quản nổi đàn lợn hay lại giống như hồi nuôi cừu.

    Ông Vụ trưởng Tổ chức nhận xét:
    - Hồi còn ở nhà, Trần Kim Thang là tá điền chuyên nuôi lợn cho hội đồng Quýnh. Tôi nghĩ ông ta sẽ làm được vì nuôi lợn dễ hơn nuôi cừu, hơn nữa lợn vốn là giống bản địa thích hợp với thổ ngơi.

    Vậy là chỉ trong vòng hai năm, đàn lợn lên đến ba ngàn bảy trăm con. Đây là cơ sở chăn nuôi tập thể lớn nhất miền Bắc. Phượng Sơn trở thành lá cờ đầu, là điển hình tiên tiến của ngành nông trường. Khách từ mọi nơi kéo đến tham quan học tập. Trần Kim Thang bỗng nhiên trở thành người hùng.

    Nông trường chỉ có một mình Lê Văn Khải là Bác sĩ Thú y nên anh ta khá mất thời gian với đàn lợn. Nhưng chị em chăn nuôi còn vất vả hơn nhiều. Hàng ngày họ phải thái hàng trăm cây chuối, băm một khối lượng bèo bằng đống rạ, nấu hơn hai chục chảo cám mới đủ cung cấp cho mấy nghìn chú Trư Bát Giới lúc nào cũng thi nhau gào thét vì đói. Đề tài “Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” bất chợt nảy sinh khi khải nhìn thấy mấy chú lợn choai đang tranh nhau mớ rau muống. Đây là một dự án khoa học táo bạo, thậm chí mạo hiểm, vì đến lúc ấy các cơ sở chăn nuôi từ quy mô gia đình đến tập thể, đều cho lợn ăn chín theo phương thức truyền thống. Phát hiện của Lê Văn Khải mang tính đột phá làm giảm nhẹ sức lao động của chị em, hạ giá thành sản phẩm, gây chấn động toàn ngành chăn nuôi, đưa nông trường Phượng Sơn lên đỉnh cao vinh quang. Bộ yêu cầu nông trường viết đề tài khoa học. Khải phải mất nửa tháng mới hoàn thành công trình. Anh ta chắc mẩm, từ nay mình sẽ được sống dễ thở hơn, nhưng không ngờ Trần Kim Thang chơi tiếp vố thứ hai. Đó là cuộc hội thảo khoa học ở nông trường Cao Thắng. Bộ đã ra chỉ thị, ai là chủ đề tài sẽ đọc báo cáo nhưng Trần Kim Thang rỉ tai ông thứ trưởng:
    - Báo cáo anh, tay Khải không phải đảng viên mà tính kiêu ngạo không coi ai ra gì. Đề tài này của tập thể đảng uỷ và ban giám đốc. Anh ta chỉ là người thừa hành.

    Ông Thứ trưởng người Quảng Nam, trước đây cũng là một đại đội Địa phương Quân với Giám đốc nông trường Phượng Sơn, gật đầu:
    -Thế thì cậu thay mặt ban giám đốc lên đọc đi, đọc cho rõ ràng khúc chiết vào, vì đây là đề tài cấp bộ sẽ được nhân rộng ra toàn ngành.

    Phải nói Trần Kim Thang có chất giọng tốt, đọc khá diễn cảm nên nhanh chóng thu hút được sự chú ý của các cử toạ. Bản báo cáo vừa dứt, tiếng vỗ tay rào rào, ai cũng phải thừa nhận, đó là một phát kiến vĩ đại mặc dù nó vô cùng đơn giản.

    Vào phút cuối cùng khi được ban tổ chức thông báo thay đổi người trình bày đề tài khoa học, Lê Văn Khải sững người. Anh ta nghiến chặt hai hàm răng, bàn tay tự nhiên co lại thành nắm đấm, định tống vào cái mặt thiết bì của lão Giám đốc một quả cho bõ tức nhưng rồi lại buông thõng xuống, bỏ hội trường ra ngoài trước con mắt ngạc nhiên của hàng trăm quan khách. Anh ta nhảy qua một mương dẫn nước leo lên đồi. Những vành nón trắng nhấp nhô của những cô gái trẻ giữa một vùng mênh mông, trên là bầu trời màu lam nhạt, dưới là ngút ngát nương chè làm tâm hồn chàng bác sĩ thú y trở lại thư thái. Thiên nhiên hào phóng đầy mây ngàn và gió núi xua đi phần nào nỗi uất ức trong lòng, bất giác Khải buột miệng:
    - Mặc xác các người với những báo cáo khoa học nhảm nhí ấy, ta lên trời đây.

    Thảo nguyên mênh mông xa típ tắp vẫn là cỏ xanh. Phía sau những đồi chè là dòng suối ngoằn nghoèo uốn khúc, nhìn từ trên cao chẳng khác gì con rồng xanh với rất nhiều chân choãi ra. Cách bờ suối không xa, nơi có những đám mây bạc sà xuống tận sườn núi là một đàn bò đang thong dong gặm cỏ. Nhìn bộ dạng vô tư, thanh thản của chúng Khải bỗng ao ước : “ Gía mà mình được làm kiếp bò, ngày nào cũng được gặm cỏ, uống nước mát, mặc kệ sự đời, chẳng phải nghĩ ngợi gì”.

    Về đến nông trường Phượng Sơn, trong cuộc họp giao ban, Trần Kim Thang mặt lạnh như tiền tuyên bố:
    -Đồng chí Lê Văn Khải có hành vi vô kỷ luật, bỏ hội thảo đi chơi không báo cáo. Tôi yêu cầu phải làm kiểm điểm.

    Khải không nói gì chỉ cười gằn. Nửa tháng sau, một hôm tình cờ ghé vào phòng Giám đốc, Khải thấy tờ chuyên san khoa học kỹ thuật của ngành kẹp dưới mấy cuốn tạp chí “Học tập” liền rút ra xem. Đó là số chuyên san mới nhất có in đề tài “ Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” của mình nhưng tên tác giả lại là Trần Kim Thang. Hoá ra lão ém đi là vì chuyện này. Anh ta nghĩ một lúc rồi quyết định cầm tờ chuyên san sang phòng họp đặt trước mặt ông Giám đốc:
    -Thế này là thế nào ?

    Trần Kim Thang giả bộ không biết gì, hỏi lửng lơ:
    - Chuyện gì thế đồng chí Khải ?
    - Ông đừng đóng kịch nữa.
    - Tôi cấm anh không được xúc phạm…
    - Vậy tôi hỏi, tội chiếm đoạt công trình khoa học của người khác thì pháp luật xử lý như thế nào ?

    Phòng họp có toàn thể các thành viên ban chấp hành đảng uỷ, Trần Kim Thang rất sợ mất mặt . Đang bối rối ông ta chợt nảy ra một diệu kế liền nghiêm giọng bảo:
    - Đề nghị đồng chí nói năng cẩn thẩn. Tôi hỏi đồng chí ai lãnh đạo nông trường?
    - Ông làm tôi như là trẻ con ấy .
    - Tôi hỏi nghiêm túc đấy.
    - Tất nhiên là ban giám đốc.
    - Đồng chí mới chỉ nói đúng một nửa. - Trần Kim Thang lúc này đã lấy lại được bình tĩnh thong thả phân tích theo phương pháp tam đoạn luận - Đảng uỷ nông trưòng lãnh đạo toàn diện. Ban giám đốc chỉ là những người thừa hành. Mà Đảng lãnh đạo toàn diện thì mọi thành tích đều thuộc về Đảng. Công trình khoa học đồng chí viết là do Đảng chỉ đạo, gợi ý và phân công. Tôi trên cương vị bí thư và giám đốc doanh nghiệp ghi tên vào công trình khoa học càng làm vinh dự cho tập thể chúng ta, trong đó có đồng chí và tập thể anh chị em công nhân. Đồng chí thắc mắc chuyện này là chưa dứt được cái đuôi tiểu tư sản vốn là căn bệnh làm con người chỉ thấy cá nhân mà không thấy sự nghiệp lớn của tập thể.

    Trước những lời lẽ hết sức “thuyết phục” của Trần Kim Thang, Lê Văn Khải không thể bắt bẻ được nữa. Anh ta đưa mắt nhìn hết lượt các vị lãnh đạo rồi bất ngờ tuyên bố:
    -Phải bây giờ tôi mới hiểu được chân lý Đảng lãnh đạo toàn diện.

    2. Người yêu của Lê Văn Khải là Mai Thị Xuân. Cô ta mới lên nông trường hơn một năm, người dong dỏng, dáng xinh xẻo thích ăn diện. Xuân là người chủ động tấn công anh bác sĩ thú y trước. Lúc đầu Khải có phần lạnh nhạt nhưng về sau thấy cô gái chăn nuôi thể hiện tình cảm rất nồng nàn nên cũng xiêu lòng, chỉ có điều trình độ học vấn thấp, hình như mới học hết lớp bốn. Nghĩ đi nghĩ lại Khải tự bảo: “ Đời mình rồi sẽ gắn bó mãi với đàn lợn ở vùng xanh núi đỏ này thôi, vậy thì hãy nghĩ đến một gia đình, vì tuổi cũng không còn ít nữa.”

    Mai Thị Xuân tuy là cô gái nông thôn nhưng tỏ ra là có kinh nghiệm trong trường tình. Để chài bằng được anh bác sỹ thú y đẹp trai, cô ta không từ bất cứ thủ đoạn nào. Khải được bố trí ở gian ngoài cùng của dãy nhà tập thể đội chăn nuôi. Tối nào các cô cũng đến chơi và cô nào cũng hi vọng vào một điều gì đó rất mơ hồ.

    Hôm ấy trời rét mà đêm đã khuya, Mai thị Xuân về phòng chừng nửa tiếng lại sang. Cô ta nấn ná một lúc rồi khẽ nói:
    - Hôm nay em ở đây với anh...

    Mặt Khải biến sắc. Anh ta lắc đầu bảo :
    - Em về đi. Bọn bảo vệ được lệnh của ông Thang và ông Ngộ luôn để mắt đến chúng ta đấy, chỉ cần tắt đèn là họ ập vào lập biên bản ngay.

    Xuân làm mặt giận :
    - Anh không yêu em ?

    Khải rối rít xua tay:
    - Khổ quá. Anh giữ là giữ cho hạnh phúc của chúng mình. Em làm thế này bạn bè nó coi ra gì.

    Cô gái chăn nuôi nũng nịu:
    - Nhưng em không muốn mất anh. Lúc tối, thấy cái Lý nó nhìn anh như muốn ăn sống nuốt tươi mà em gai hết cả người.

    - Thôi nào - Khải nhẹ nhàng bảo - Người ta có mắt người ta nhìn, cấm sao được.
    - Nhưng em cấm anh.
    - Được rồi anh xin nghe.

    Tình yêu của hai người đang độ chín. Khải sắp đưa Xuân về làng Cùa giới thiệu với bà Hài thì cô ta tạm thời được điều về phòng hành chính nông trường . Là đơn vị có phong trào chăn nuôi điển hình, nông trường Phượng Sơn thường xuyên có khách. Khách huyện, khách tỉnh, khách trung ương đủ loại. Có đoàn về tham quan học hỏi kinh nghiệm thực sự, có đoàn ghé qua chỉ để kiếm tạ gạo nếp hoặc vài con lợn giống, chục ký chè, lại có vị chức sắc đầu tỉnh đã chán mứ các món cao lương mỹ vị, bảo lái xe đưa về Phượng Sơn thưởng thức chim quay và ngắm cảnh núi rừng để thư giãn sau những ngày đấu đá căng thẳng.

    Lần ấy, nông trường phải đón đoàn cán bộ của uỷ ban kế hoạch. Chủ nhiệm Vũ Kiểm là nhân vật đầy quyền lực, thường xuyên thay mặt uỷ ban hành chính tỉnh duyệt kế hoạch sản xuất hàng năm của các doanh nghiệp. Anh nào muốn nhanh chóng được phân bổ chỉ tiêu kinh phí thì phải tìm cách yết kiến ông ta. Vũ Kiểm có tật ưa của nếp và thích hát chèo. Gái nông trường phần đông nhan sắc giống như Thị Nở, học hành lôm nhôm, những cô mỏng mày hay hạt lại biết tí chút văn nghệ chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

    Đinh Công Ngoã, Trưởng phòng Hành chính đồng thời là tay chân thân tín của giám đốc xuống các đội chọn mãi mới được vài cô sạch nước cản. Hắn kéo tuốt cả về nông trường làm một cuộc sát hạch cả thanh lẫn sắc. Cuộc kiểm tra khá nghiêm túc do đích thân Trần Kim Thang làm chánh chủ khảo. Các thí sinh lọt vào vòng chung kết phải cởi bỏ quần áo ngoài chỉ mặc đồ lót để xem có bệnh ngoài da không vì rất nhiều cô trông mặt thì bóng bẩy nhưng toàn thân lại mắc chứng ghẻ ruồi hoặc bị phá nước, ngồi đâu cũng gãi xoành xoạch, rất mất lịch sự.

    Chủ nhiệm Vũ Kiểm dẫn đoàn tuỳ tùng gồm sáu cán bộ kế hoạch về nông trường Phượng Sơn được đón tiếp như thượng khách. Buổi tối, trước khi bảo Mai Thị Xuân vào phòng riêng hát làn điệu chèo “ Quân tử vu dịch”và “ Đường trường phải chiều” cho ông chủ nhiệm nghe, Đinh Công Ngoã ghé tai thì thầm:
    - Giám đốc dặn, hát xong, chủ nhiệm bảo làm gì em cũng phải chiều ông ấy, sau sẽ có thưởng.

    Xuân đánh mắt liếc Ngoã nguýt dài :
    - Em ngượng lắm.

    Ngoã cười toe toét trấn an cô nhân viên mới:
    - Này, xem ra ông ấy thích em lắm đấy.

    Vũ Kiểm mới trạc tứ tuần, thân hình ngũ đoản, khoẻ như vâm. Sau khi nghe vài bài, ông ta cài chốt cửa, tắt đèn rồi bế Mai Thị Xuân lên giường vần cô ta suốt đêm, đến gần sáng thì mệt phờ, ngủ thiếp đi. Mai thị Xuân lách ra khỏi chăn, mặc quần áo, he hé cửa nhìn trời vẫn còn tối, liền lẳng lặng về phòng mình ở dãy nhà phía sau.

    Chuyến ấy, nông trường Phượng Sơn được duyệt kế hoạch bổ sung sớm nhất so với các đơn vị khác trong tỉnh. Trần Kim Thang phấn khởi lắm, xếp lương cho Mai Thị Xuân vào nghạch cán sự hai, năm mươi sáu đồng và cho đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ văn thư ngắn hạn. Hai tháng sau, Xuân về nông trường, mặt mày ủ dột làm Đinh Công Ngoã sinh nghi hỏi:
    -Sao em buồn thế ?

    Mai Thị Xuân trả lời nhát ngừng :
    -Hình như em có chửa rồi . . .

    Ngoã giật mình :
    -Chết cha ! Có.....với đứa nào ?

    Xuân giẩu mỏ rất đanh đá :
    -Lại còn phải hỏi, lão Vũ Kiểm chứ còn ai nữa.

    Trưởng phòng Hành chính ngập ngừng :
    -Anh cứ tưởng . . .

    Cô nhân viên khẽ gắt :
    -Tưởng cái gì ? Lão ấy làm hùng hục như trâu húc bờ ấy, ai mà chịu được .

    Ngoã cắn môi ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
    -Quan hệ của em với tay Khải bây giờ thế nào ?

    Xuân lắc đầu :
    -Hết rồi.
    -Được để tôi trao đổi với ông Thang, nhưng việc này em phải giữ kín .
    -Anh không phải dặn .

    Buổi chiều Giám đốc nông trường đánh com măng ca đít vuông xuống đội chăn nuôi, vào gian nhà Lê Văn Khải bắt tay anh ta :
    -Vẫn khoẻ chứ đồng chí Khải ?
    -Cám ơn bác, tôi khoẻ.

    -Này tớ hỏi thật. - Trần Kim Thang bỗng nhiên tỏ ra thân mật rất đáng ngờ - Quan hệ của cậu với cô Xuân đến đâu rồi ?

    Lê Văn Khải chưa hiểu mục đích của cuộc viếng thăm bất chợt này nên trả lời lấp lửng :
    -Người ta cứ đồn thế chứ thực ra không có gì.
    -Chuyện này là chuyện vui đừng dấu Ban giám đốc.- Trần Kim Thang cười rất tươi nói bằng giọng cha chú -Nếu các cháu đồng ý ta sẽ đứng ra làm ông mối rồi tổ chức một đám cưới đời sống mới thật rôm rả ở cơ quan nông trường.

    Anh Bác sỹ Thú y không biết được âm mưu của Trần Kim Thang, nhưng qua thái độ quá lộ liễu của ông ta tự nhiên cảm thấy sự vun vén hạnh phúc này có cái gì đó không bình thường bèn lựa lời từ chối :
    -Cảm ơn giám đốc nhưng cũng xin nói thực, tôi và cô Xuân trước đây có tìm hiểu nhau , tuy nhiên qua một thời gian thấy tính tình không hợp nên đã chấm dứt mối quan hệ.

    Giám đốc thấy kịch bản có nguy cơ đổ bể, ông ta quyết định chơi bài ngửa :
    - Nếu Ban Giám đốc đề nghị đồng chí cưới cô Xuân rồi sẽ bổ nhiệm làm phó phòng kỹ thuật đồng chí có chấp hành không ?
    Khải thấy cái đuôi chuột đã lòi ra liền cười nhạt :
    - Bây giờ Đảng uỷ lại có nghị quyết về hôn nhân và gia đình của công nhân viên chức nông trường nữa cơ đấy .

    Trần Kim Thang cười gằn :
    - Chúng tôi quan tâm đến anh mới gợi ý như vậy, không đồng ý thì thôi nhưng cấm có thái độ châm chọc.

    Nói rồi ông giám đốc hằm hằm bước ra xe, về đến nông trường lập tức gọi Đinh Công Ngoã lên phòng, đóng cửa lại bảo :
    - Việc không xong rồi. Ngày mai tôi cấp giấy, cậu đưa cô Xuân sang bệnh viện tỉnh giải quyết cái thai. Tuần sau tôi sẽ làm quyết định điều thằng Khải xuống đội 6 chăn bò.

    Lê Văn Khải không ngờ Trần Kim Thang lại dồn mình đến đường cùng nhưng anh ta vẫn phải chấp hành. Trong quyết định ghi : “Tăng cường cán bộ kỹ thuật cho cơ sở sản xuất” nhưng thực chất là đi đày đến một nơi khỉ ho cò gáy cách cơ quan nông trường hai chục cây số có tên là Trại Bông. Chăm sóc đàn bò cày hai mươi tám con là một tổ ba người. Chị Thìn ba bảy tuổi, người đẫy đà, mông to, ngực nở thuộc loại quá lứa nhỡ thì làm tổ trưởng, Lê Văn Khải bác sĩ thú y mới được bổ nhiệm chức tổ phó, ngoài ra còn có cô Sánh người được một mẩu lại thọt chân làm tổ viên. Hàng ngày, chị Thìn và cô Sánh cắt cỏ, Khải lùa bò đi chăn, đội sản xuất nào cần cày thì đếm đầu con giao cho họ, xong vụ, lại nhận về nhốt vào chuồng.

    Gần Trại Bông có hồ Thanh Thuỷ rộng hơn trăm mẫu. Chiều chiều sau khi thả bò, Lê Văn Khải lại ra ngồi dưới gốc bạch đàn ngắm mặt nước sóng sánh. Có những hôm đàn bò về chuồng đã lâu, trời nhập nhoạng anh ta anh ta vẫn còn lững thững trong rừng dẻ, chị Thìn phải lên gọi mới về ăn cơm. Chị Thìn đối xử với Khải như em trai làm anh bác sĩ thú y cảm động lắm.

    Thấm thoắt, Lê Văn Khải đã ở Trại Bông một năm ba tháng. Dịp ấy cuối tháng chạp, sắp đến Tết Nguyên Đán. Lúc này việc cày bừa đã xong, đàn bò được thả rông, cô Sánh xin nghỉ phép về ăn Tết. Trại bò chỉ còn lại chị Thìn và Lê Văn Khải. Giữa tiết tiểu hàn, trời lạnh lắm. Lũ bò bị nhốt trong chuồng nhai cỏ khô. Dãy nhà tập thể trống tuềnh toàng, gió lùa rét như cắt da. Tối nào hai chị em cũng đốt lửa sưởi đến quá nửa đêm mới ngủ. Một hôm chị Thìn ốm, Khải nấu cháo đậu xanh mang sang đặt trên chiếc bàn nhỏ đầu giường bảo:
    - Chị ăn cháo cho nóng.

    Chị Thìn ngồi dậy lắc đầu :
    - Tôi có ốm đâu mà nấu cháo.

    Khải cầm tay chị Thìn bắt mạch, bàn tay người phụ nữ nóng hầm hập, run bắn liền kêu lên:
    - Chị không ốm sao tay nóng thế? Để tôi tìm xem còn viên thuốc nào không.

    Chị Thìn tóc tai bơ phờ nhìn Khải ngập ngừng:
    -Tối mò thế này biết thuốc ở đâu mà tìm, thôi ngồi xuống đây tôi bảo.

    Thấy thái độ chị Thìn có cái gì đó khác thường, anh ta định mở cửa bước ra, nhưng nghe giọng thảng thốt của người đàn bà, liền ngồi xuống bên cạnh. Toàn thân Khải lúc này tự nhiên nóng ran. Chị Thìn lại thì thầm :
    - Tôi lạnh lắm Khải ngồi vào đây ...

    Bàn tay anh Bác sỹ Thú y run run đặt lên đùi chị Thìn. Một cái đùi to đùng chắc nịch và ấm áp hơn bất cứ thứ chăn đệm nào làm anh ta vừa thích vừa sợ . Chị Thìn cầm tay Khải áp lên bộ ngực nóng hổi đã được tháo bỏ hết cái thứ dây rợ. Khải nhắm mắt gục đầu vào tóc chị Thìn, tay mân mê cặp vú, lắng nghe nhịp đập gấp gáp của con tim người đàn bà luống tuổi. Đôi vú thật là mẩy và đàn hồi hơn cả các loại bóng cao su. Nó vừa nóng ấm vừa mát lạnh. Nó có sức mạnh tự thân điều hoà trạng thái tâm lý. Nó gợi lên tứ thơ bất chợt hoặc phác thảo một khuôn hình lập thể đầy chất cổ điển, khác hẳn vú bò, vú lợn, thậm chí cả cặp vú giang hồ của Mai thị Xuân mà không chỉ một lần cô ta đã cầm tay Khải đặt vào.

    Chị Thìn thở hổn hển nhưng không phải vì sốt cao. Chị nằm ngửa ra tuột quần xuống chân đỡ Lê văn Khải nằm lên bụng rồi thì thầm:
    - Cậu đã biết mùi đàn bà chưa?

    Khải gật đầu:
    - Biết...

    Chị Thìn lại hỏi:
    - Ngủ với bao nhiêu cô rồi?

    Khải hôn lên má chị, thật thà bảo:
    - Ngủ thì chưa.

    Chị Thìn vòng tay ôm ngang lưng chàng Bác sĩ Thú y, giọng khiêu khích:
    - Đàn ông đã hơn ba chục tuổi mà kém thế.

    - Tại tôi không thích thế thôi.

    - Thế tôi cậu có thích không?

    - Thích.- Lê văn Khải ghì chặt người đàn bà đến mức chị ta phải rên khe khẽ.
    - Tôi già rồi, cậu thích chẳng qua là ở xứ khỉ ho cò gáy này chẳng có đứa con gái nào ra hồn.

    Khải dụi mớ tóc bù xù vào ngực chị Thìn:
    -Tôi thích chị thật mà...

    Sáng ra, hai người dậy muộn. Khải ra suối xách nước người vẫn còn lâng lâng. Chị Thìn tươi tỉnh khác hẳn bộ mặt ủ rũ chiều hôm trước. Chị ta hỏi:
    - Cậu có ân hận vì chuyện hôm qua không?

    Khải thản nhiên bảo:
    - Có gì mà phải ân hận, đã bảo tôi thích chị kia mà.
    - Liệu thích được mấy hôm ,hay lai cả thèm chóng chán ?
    - Chị đừng nghĩ thế.

    Chị Thìn sụt sịt khóc :
    - Chị thuộc loại xấu gái , quá lứa nhỡ thì, chỉ cầu xin cậu một đứa con, sau này có chỗ dựa chứ không có ý rằng buộc trách nhiệm.

    Khải nhìn vẻ mặt đau khổ của người đàn bà, giọng nhoè đi:
    - Không tôi yêu chị thật lòng.

    - Đừng nói dại - Chị Thìn bỗng oà khóc, người rung lên trong tiếng nấc - Tôi không hứa hẹn gì với cậu, nhưng lúcnào muốn ngủ với tôi thì cứ sang, cửa phòng không cài chốt đâu.

    Cuối tháng hai, chị Thìn thèm của chua, biết là có chuyện liền xin nghỉ phép. Lê Văn Khải mượn được chiếc xe đạp đèo chị về nông trường bộ. Lúc sắp đi , hai người ra rừng dẻ trên bờ hồ Thanh thuỷ tìm dâu da đất. Thấy chị Thìn ăn thứ quả dại này một cách ngon lành, Khải sinh nghi bảo
    - Chị làm sao thế? Ăn nhiều dâu ra đất không tốt đâu.

    Chị Thìn cười ( Khi cười trông chị đẹp hẳn lên ):
    - Tôi có mang rồi, cảm ơn cậu.
    - Thế thì khoan hãy đi phép, ta bàn việc tổ chức đã.

    Chị Thìn rút trong túi ra mấy tờ giấy đưa cho Khải:
    - Đây là đơn xin ra Đảng và đơn xin thôi việc. Sau khi tôi về quê hai tháng, nếu không thấy lên thì cậu mang ra nông trường nộp cho ông Trần Kim Thang hoặc ông Mai ngộ.

    Khải sững sờ trước quyết định của người tổ trưởng chăn bò. Anh ta cầm tay chị khẽ bảo:
    - Chị không nên nghĩ quẩn. Tôi hứa danh dự là sẽ cưới chị đoàng hoàng .

    Chị Thìn ghì đầu Khải vào ngực giọng ngậm ngùi :
    - Chị biết tấm lòng của cậu nhưng chúng ta không có duyên phận. Cậu đã cho chị đứa con, thế là quý lắm . Chị không muốn làm hỏng sự nghiệp của một trí thức tài hoa.

    Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo :
    - Vậy để tôi đưa chị về quê.

    Người đàn bà lại lắc đầu :
    - Còn đàn bò ai trông? Cậu mà cứ gây căng thẳng với bọn Trần KimThang là bọn chúng đuổi việc đấy. Chị khuyên nên nín nhịn một thời gian. Người tốt như cậu sau này tất sẽ được đền bù. Còn điều này phải nhớ, hãy quên chị đi , không những bây giờ mà cả sau này nữa.

    Hai người nấn ná ở lại trong rừng đến nửa buổi mới ra đường. Trời vẫn còn rét đậm. Khải gò lưng đạp xe lên sườn dốc . Chị Thìn ngồi sau ôm chặt lấy eo chàng Bác sỹ Thú y. Suốt chặng đường hai người chẳng nói với nhau câu nào. Chị trùm khăn len kín mặt, thỉnh thoảng bật lên tiếng nấc. Thì ra chị vẫn khóc.

    Lấy giấy phép xong Khải lại đèo chị Thìn ra bến ô tô thị trấn . Quê chị mãi tận Thanh Hoá. Từ đây về đấy hơn ba trăm cây số. Khải chen vào mua vé. Thật may hôm ấy thưa khách . Chiếc xe chuồng gà long sòng sọc từ từ lăn bánh trên con đường cấp phối đầy bụi đỏ.

    (còn tiếp)

  6. #6
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Chương 15

    1. Sau khi Nghiên đi thanh niên xung phong , Trịnh Doãng bỏ nghề thổi kèn đám ma chuyên chú vào việc thả ống lươn . Nguyễn Đình Phán đứng ra thành lập lại phường hiếu mà một trong hai tay kèn mới được phát hiện mỗi khi cất lên làm cho thần sầu quỷ khốc là lão Mộc.

    Lão Mộc là dân ngụ cư , nguồn gốc không rõ ràng . Hôm ấy là sáng mười tám , các bà đi chợ sớm nhìn thấy một người nằm co quắp trong điếm Bài Vân cạnh chiếc tay nải nhuộm vỏ già bên trong có chiếc kèn đám ma và mấy lưỡi búa vốn là đồ nghề của người đánh gộc tre . Hình như ông chủ những vật tuỳ thân đã chết bởi dáng nằm rất không tự nhiên . Bà quản Thông hộc tốc chạy về làng báo . Được tin , lý Quỳnh vội cử người ra xem hư thực . Ông ta rất sợ phải chôn cất những xác chết vô thừa nhận trong địa hạt của mình .

    Người đàn ông chưa chết nhưng nếu không được cứu chữa kịp thời chắc chắn sẽ về chầu ông vải rất nhanh vì lúc này đang sốt cao , người nóng hầm hập như lò lửa . Người ta thương tình cho nạn nhân nằm tạm trên chiếc chõng tre trong gian nhà phụ bên cạnh đình Cả .Tầm trưa thì ông ta tỉnh lại, xưng tên là Mộc không biết là thật hay giả. Phải nói rằng, ông Mộc thuộc loại người hễ trẻ con nhìn thấy là sợ chết khiếp giống như gặp “ Ba bị chín quai “ hiện hình với diện mạo hết sức cổ quái : mái tóc rễ tre cờm cợp đã muối tiêu, đôi mắt xếch dưới cặp chân mày rậm vếch lên và hàm râu quai nón mọc vô tổ chức choán già nửa khuôn mặt dái trâu ngăm ngăm đen. Không thể đoán chính xác được tuổi nhưng căn cứ vào dáng đi và những vết hằn ở đuôi mắt, có thể áng chừng ông ta vào khoảng bốn mươi hoặc trẻ hơn một chút.

    Hình như ông Mộc còn bị điếc. Tuy vậy việc giao tiếp bằng ngôn ngữ với ông không phải hoàn toàn vô ích. Ông có khả năng nhìn miệng mà hiểu được ý nghĩa lời người đối thoại. Vậy làng Cùa thêm một công dân, dù rằng ông ta chỉ có một cái tên, hoàn toàn vô gia cư, còn nghề nghiệp tuỳ vào thời vụ, ai thuê gì làm nấy nhưng thiện nghệ nhất là đánh gộc tre. Từ lâu làng Cùa đã nổi tiếng cả huyện về nghề đan giỏ và lờ bắt cá. Nhà nào cũng trồng mấy bụi tre hoá. Đêm đông, gió lạnh từ cồn Vành thổi về làng, thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt nghe như ma quỷ nghiến răng, khiến lũ trẻ con yếu bóng vía sởn gai ốc. Những nhà có rặng tre viền quanh bờ ao, vào dịp đầu tháng bẩy, cò lửa cùng với bồ các từ thượng nguồn sông Lăng bay về làm tổ, chẳng may gặp bão, lũ cò con mới ra ràng rớt xuống hoảng hốt gọi mẹ bằng thứ giọng đặc biệt của họ nhà chim rất là ai oán. Nhưng trăng ở đây thì thật tuyệt vời. Đó không phải thứ ánh sáng trần trụi, nguyên thuỷ, nhạt thếch đầy hoang dã mà là cả một trời lụa nõn, mượt như nhung, được lọc qua ngàn vạn mắt lá xanh mơn mởn rưng rưng những hạt móc vô cùng tinh khiết. Xa xa có tiếng chích choè gọi bạn. Một chú dế cơm đang vỡ giọng gáy lanh lảnh cạnh bụi tầm xuân bên ao đình. Màn độc tấu chói tai của nó vừa dứt thì dưới ao những âm thanh hỗn tạp của lũ chẳng chuộc, ếch cốm, nhái xanh với đủ cung bậc đồng loạt rộ lên như là cãi nhau. Trong bụi dành dành, chàng cuốc si tình cất giọng khắc khoải “ cuốc cuốc” Nghe thật não nùng .

    Việc đầu tiên của ông Mộc sau khi tai qua nạn khỏi là tra cán vào ba chiếc búa và dọn dẹp gian nhà bẩn thỉu, ẩm thấp bằng tinh thần của một ông chủ thực sự mặc cho lý Quỳnh càu nhàu. Nhà chật như hũ nút. Bộ đòn khênh bằng gỗ lim, đầu chạm hình rồng nặng chình chịch choán già nửa gian, thành ra phần còn lại chưa đầy ba thước ta muốn vào phía trong phải trèo qua chiếc chõng tre ọp ẹp vốn là của lão mõ Cống mới chết vài tháng trước.

    Người làng Cùa có thói quen, cứ đến cuối thu là gọi thợ đánh gộc chuẩn bị củi đun cho mùa đông. Có nhà xếp củi thành đống to như đống rạ, tết tha hồ luộc bánh chưng. Ông Mộc đậu lại ở đây quanh năm chả lúc nào hết việc. Không ai biết quá khứ của người đàn ông ngụ cư. Ông ta kín như bưng, thảng hoặc có người hỏi chỉ nheo cặp mắt đùng đục như bị ám khói cười, một nụ cười rất ngờ nghệch, chẳng khác gì người thiểu năng trí tuệ. Thế nhưng ông ta lại có dáng vóc vậm vạp của một lực điền to xương với bàn tay bè bè phủ lớp chai vàng xỉn dày cồm cộp, xù xì giống hệt bàn tay tượng nhà mồ Tây Nguyên được nghệ nhân vạc vài nhát phác thảo bằng rìu. Với ông, đánh gộc tre đã được nâng lên hàng công nghệ độc nhất vô nhị ở ở khắp vùng hữu ngạn sông Lăng. Ai có việc cần thỉnh phải đến đấy từ mấy hôm trước. Sau một hồi vừa nói như quát , vừa lấy tay ra hiệu của gia chủ, ông Mộc nhoẻn miệng cười gật đầu, thế là xong. Sáng sớm ông xách đồ đến gọi cổng từ lúc chủ nhà còn chưa dậy. Ăn lót dạ qua loa vài củ khoai hầm hoặc nắm ngô rang , uống bát nước vối, ông thợ gộc bắt đầu công việc của một ngày làm thuê . Đồ nghề của ông Mộc sáng loáng, cái nào cũng sắc. chém phầm phập . Sau khi dùng búa Thạch Sanh chặt đứt những chùm rễ tua tủa, ông vung cuốc chim bổ từng nhát chắc nịch và chính xác tách rời các gộc tre theo trật tự từ ngoài vào trong, từ dễ đến khó bằng động tác dứt khoát. Nửa buổi nghỉ giải lao, ông " bắn" điếu thuốc lào , nhấp ngụm nước rồi lại hùng hục đào , chặt bổ cho đến lúc cơm trưa. Ông thuộc loại dễ tính, không uống rượu , có gì ăn nấy và ăn rất khoẻ. Nghĩ cũng phải , nghề thổ mộc hao tổn năng lượng, cơm nhà quê chỉ dưa cà mắm muối, sang lắm mới có đĩa cá rán, không ăn nhiều làm sao đủ sức quai búa suốt ngày . Lôi hết gộc tre lên mới chỉ được nửa công việc . Ngày hôm sau, ông Mộc còn phải dùng búa tách chúng ra làm nhiều mảnh xếp thành đống hình cũi lợn. Tối, cơm nước xong, chủ nhà trả tiền hoặc đong vào bao ruột tượng vài ống gạo. Có nhà túng khất đến mùa mới ông trả cũng gật.

    Ông Mộc là người thật thà, thích sòng phẳng, không tắt mắt , có làm có hưởng, chẳng muốn luỵ ai. Phải năm mất mùa, làng đói ít người thuê mướn, ông đóng khố ra ngòi Mác đánh giậm kiếm mớ cá lẹp đem về nấu với ngọn khoai lang húp cho qua bữa chứ không xin người ta bố thí. Những hôm trở trời trái gió , ông nằm dài đắp chiếc áo dạ lính ngủ suốt ngày, thỉnh thoảng mới nhoài dậy nhấc điếu cày kéo mồi thuốc . Với ông thuốc lào là máu thịt , là niềm đam mê đến bệnh hoạn, thiếu cơm là chịu được , hết hơi khói là ốm ngay. ở đình làng đôi khi cũng có lộc . ấy là lúc các vị chức sắc ngả mâm đánh chén hoặc là những đám hiếu, tang chủ ra mượn đòn khênh. Cuộc đời của người ngụ cư cứ thế trôi đi cùng với nhịp sống đều đều buồn tẻ của cư dân làng Cùa cho đến ngày Đội Cải cách về làng. Ba hôm sau , ông Mộc được lệnh phải cuốn gói để lấy chỗ làm nhà giam bọn địa chủ , phản động. Ông ta đến nhà Ngô Quỳnh cầu cứu nhưng ông Lý mặt khó đăm đăm , thở dai thườn thượt, ghé tai người đánh gộc thuê nói rành rọt từng tiếng:

    - Ông tìm chỗ khác mà ở. Tôi hết thời rồi, chưa biết chừng vài hôm nữa còn bị tống vào đấy cũng nên.

    Ông thất thểu bước thấp bước cao, lòng nặng trĩu, cái dáng lực điền đổ bóng xuống đường làng. Không một cán bộ Cải cách nào thèm nghe nguyện vọng có vẻ như rất chính đáng ấy. Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp vĩ đại với nhiều cuộc họp quan trọng thông qua những quyết sách có tầm chiến lược, để người ngoài tổ chức luôn rình rập bên cạnh sẽ lộ bí mật. Hơn nữa ông ta là dân ngụ cư , lai lịch không rõ dàng, rất đáng ngờ. Đội Lạc nêu vấn đề này ra trong hội nghị cốt cán.
    - Xét bề ngoài thì ông Mộc thuộc thành phần cố nông, nhưng biết đâu được kẻ địch không gài người của chúng lại trước khi rút vào Nam. Có khi ông ta giả điếc để dễ bề hoạt động chống phá.

    Lê Thị Chĩnh, một trong hai cốt cán đắc lực của Đội Cải cách tuyên bố:
    -Tôi đề nghị đuổi lão ra khỏi làng Cùa.
    - Không làm thế được.- Đội Lạc nghiêm giọng bảo – Phải giữ những thành phần đáng ngờ ấy tại địa phương để có điều kiện quản lý giám sát, nếu cần thì giam lại cùng với bọn phản động. Thả chúng là mất cảnh giác cách mạng.

    Cuối cùng thì ông Mộc được ra ở miếu Si. Miếu này trước đây thờ một bà lão bắt cua bị chết đuối ở đầm Ma, đã nhiều năm dân làng chẳng cúng tế gì nhưng không hiểu sao vẫn chưa đổ nát. Ngôi miếu nằm trên gò đất cao hơn mặt ruộng vài thước, dưới tán một cây si già, rễ quấn lòng thòng, thả xuống như những cánh tay đười ươi, người nhát gan nhìn thấy sởn tóc gáy. Chung quanh gò còn có hàng duối cổ thụ, cành lá xoè ra với đủ mọi hình thù, đứng xa trông chẳng khác gì nhưng gã quỷ lùn đang mai phục, chờ đêm xuống bắt khách qua đựờng. Nói tóm lại cảnh vật quanh miếu vô cùng bí hiểm. Từ lâu người làng Cùa không dám vãng lai trừ bọn đạo chích chuyên nghề đào tường khoét ngạch. Bị đẩy đến đường cùng, ông Mộc chẳng còn cách nào khác, thôi thì đành ở với ma vậy. Kể ra ngôi miếu khá rộng, có khi gấp hai ba lần diện tích gian nhà để đòn khênh đám ma. Trước khi nhập cư, ông quét dọn “nhà” thật sạch sẽ, quờ hết mạng nhện, hót phân dơi và chữa lại cánh cửa. Xong việc ông thắp ba lén hương cắm lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái, sau đó buộc con chó Mực ra gốc cây si rồi lên chõng đánh một giấc. Đêm ấy ông chẳng chiêm bao thấy thần phật ma quỷ nào về quấy nhiễu mà chỉ có lũ dơi bay phành phạch, hết ra lại vào có vẻ như đang tức giận vì lãnh địa do chúng sở hữu lâu nay bỗng nhiên bị một kẻ lạ mặt chiếm dụng.

    Sáng hôm sau, vươn vai đứng dậy, ông khoác chiếc áo nhà binh muôn thuở lên vai, xách đồ nghề xuống chân gò. Ông Nhiêu Chuộc đang chăn bò nhìn thấy vẫy tay nói như quát:
    - Ông Mộc đi làm cho nhà ai đấy?

    Tất nhiên là người đánh gộc không thèm nghe nhưng qua điệu bộ của ông chăn bò cũng nhoẻn miệng cười.

    Ông Mộc tá túc ở ngôi miếu cổ được vài tháng thì có chuyện xảy ra. Đêm tháng sáu nóng quá, lúc dậy đi tiểu chân bỗng vấp phải một bọc tròn tròn ngay trước cửa ra vào, ông giật thót mình miệng lẩm bẩm:
    - Lạy các ngài con là kẻ tứ cố vô thân cùng đường phải ở nhờ chỗ thần linh, mong được bề trên che chở.

    Khấn rồi nhưng trong lòng vẫn không yên, người đánh gộc khêu to ngọn đèn dầu lạc, lấy hết can đảm he hé cửa miếu nhìn ra, hy vọng “ngài” đã thăng thiên. Nhưng mà cái bọc vẫn nằm đó hình như còn đang cựa quậy. Ông Mộc run lắm, tuy nhiên tính tò mò đã thắng nỗi sợ cố hữu, đánh liều cầm chiếc búa Thạch Sanh ra tận nơi xem nó là thứ ma quỷ gì. Không phải ma quỷ hiện hình mà là một đứa bé mới đẻ được bọc mấy lần tã lót, chắc là vừa ngủ dậy đang gào khóc thảm thiết. Lưỡng lự giây lát rồi ông Mộc cũng mang đứa trẻ vào miếu, tháo chiếc váy thâm bên ngoài vì nó đã “tè” ướt cả mấy lần tã. Một thằng con trai. Ông lắc đầu lẩm bẩm:
    - Chắc con đàn bà ôn vật nào hoang thai rôì làm chuyện thất đức đây.

    Hôm sau, ông mang ít tiền dành dụm dược được ra mẹt hàng xén bà Đô mua hai hộp sữa “con chim” về pha cho thằng bé. Nó bị mẹ bỏ rơi, đói quá, lúc nào cũng đòi ăn nhưng rất lành, ăn xong là lăn ra ngủ. Hết sữa ông Mộc nấu một nồi cháo loãng, đánh nhuyễn, bỏ thêm đường phèn vậy là cậu ta có thể ăn suốt ngày.

    Được chừng hơn tháng, hết sạch gạo, ông thợ gộc nghĩ đến việc phải đi làm, nếu không cả hai bố con sẽ chết đói. Nhưng đi làm lại phải mang thằng bé theo. Nó còn bé quá, từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ chưa chắc đã được ba tháng. Đành vậy. Đói bụng đầu gối phải bò. Buổi sáng ông vác đồ nghề, địu thằng bé trước bụng đến nhà bà Cả Phê. Bà Phê có cô con dâu mới ở cữ, hai vợ chồng đòi ra ở riêng phải phá rặng tre lấy đất làm nhà. Nhìn thấy người đàn ông ngụ cư ôm đứa trẻ lầm lũi bứơc trên đường, dân làng Cùa trố mắt tưởng như trời sắp sập. Mấy bà nạ dòng chuyên ngồi lê đôi mách thì thầm hỏi nhau:
    - Lão lôi đâu ra thằng bé thế nhỉ?
    - Hay là con lão?
    - Ai mà biết đựơc tổ con chuồn chuồn.
    - Nhưng mà tôi nghi lắm. Chẳng lẽ lão ngủ với... ma?
    - Vớ vẩn.- Một con mẹ mặt quắt, da hổ giun, răng cải mả như sắp long ra khỏi cái mồm cái mồm chão chuộc bảo - Có lần tôi nhìn thấy lão đưa cho con điên ở chợ Rồng mấy bắp ngô luộc, không con mụ ấy thì con ai?

    Ông Mộc chẳng cần thanh minh và cũng chẳng cần biết thiên hạ đàm tiếu gì về mình bởi cái tai nghễnh ngãng. Thật may cô con dâu bà cả Phê thừa sữa, suốt một tuần ông ta phá hàng tre, ngày nào thằng bé cũng được bú no.

    Những ngày ấy làng Cùa vô cùng sôi động. Chuyện lão đánh gộc thuê tự nhiên có một đứa con chẳng phải là điều đáng quan tâm của nhà chức trách. Người ta còn đang bận đấu tố địa chủ, phản động truy tìm tàn dư Quốc dân đảng, chia ruộng đất và phân phát quả thực. Mới được năm sáu tháng, thằng bé đã bò lê bò la, thăm dò tất cả mọi ngóc ngách. Những lúc có việc , không phải đi quá lâu, ông Mộc thường cài cửa để nó một mình trong miếu. Cậu ta lân la bò đến làm quen với con Mực mới đẻ bốn chú cún con mũm mĩm như trong tranh. Mẹ Mực âu yếm liếm mặt thằng bé như liếm lông con mình. Thấy lũ có con bú mẹ nó cũng hoặp miệng vào vú con mực mút lấy mút để. Dần dần thành quen, mỗi khi đói bụng thằng bé lại bò đến gần ổ chó. Có lần ông Mộc nhìn thấy vội kéo cậu ta ra nhưng nó giãy đành đạch, khóc toáng lên, còn con Mực nhe nanh gầm gừ, làm ông thợ gộc chịu phép.

    Rõ ràng là cố nông nhưng ông Mộc không được chia ruộng. Người ta lấy cớ ông thuộc đối tượng ngụ cư phi nông nghiệp, lai lịch lại thiếu rõ ràng nên tất nhiên không được hưởng chính sách người cày có ruộng. Lúc thằng bé gần hai tuổi một hôm chủ tịch Bùi Quốc Tầm chợt nhớ ra liền cho người đến miếu gọi ông Mộc ra trụ sở hỏi:
    -Tên thằng con bác là gì?
    - Là thằng Nhặt.
    - Bác phải làm khai sinh cho nó

    Ông nghe mãi mới thủng hỏi lại:
    - Khai sinh để làm gì?

    Vị Chủ tịch vừa lấy tay ra hiệu vừa quát:
    - Để đến khi lớn lên nó làm công dân làng Cùa.
    - Tôi cũng là công dân tại sao không được nhập hộ tịch?- Ông Mộc trừng mắt hỏi.
    - Lý lịch của bác không rõ ràng, xã cho ở nhờ là tốt lắm rồi.
    -Thế thì đây đếch cần cái thứ khai sinh của các người nhé.

    Nói xong ông bế thằng bé về, mắt gườm gườm nhìn trước nhìn sau như là sợ người ta cướp mất. Ông còn nhớ hồi cuối năm ngoái, dịp ấy đang đánh gốc xoan cho trưởng ban nông hội Quản Văn Ngật. Buổi trưa nhà Ngật làm thịt vịt đãi hai bố con. Thằng bé ăn lưng cơm, rồi cầm đôi chân vịt mút mát nguệch ra má trông rất hề. Vừa lúc ấy Chĩnh Con từ cổng nhà Trịnh Doãng bước sang, mắt trước mắt sau có vẻ gian lắm, hình như trong tay còn dấu vật gì. Nhìn thấy thằng bé gần vại nước, cô ta vẫy tay bảo nhỏ:
    - Ra đây cô cho cái này.

    Vừa gọi Chĩnh Con vừa chìa ra trước mặt nó cặp bánh dầy gói lá sen. Bánh dầy làng Rồng bằng xôi nếp hoa vàng giã nhuyễn, nhân đậu xanh cồn Vành, từ xa đã thấy thơm lừng. Hai cánh mũi thằng bé phập phồng, ngập ngừng một thoáng, sau đó chạy ra cổng. Chĩnh Con ấn vào tay thằng bé gói bánh rồi đột nhiên ôm chầm lấy hôn hít khắp người làm nó khóc thét lên. Đúng vào thời điểm ấy, không hiểu tình cờ hay có ai mách bảo, ông thợ gộc xuất hiện gườm gườm lườm Chĩnh Con như muốn thiêu cháy cô ta rồi giật phắt thằng Nhặt giọng rít lên:
    -Tôi cấm nhà chị động vào thằng bé, rõ chưa?

    Thằng Nhặt nép vào vai bố nuôi lấm lét nhìn người đàn bà. Nó đã nín khóc nhưng toàn thân vần còn run. Tuy điếc lác nhưng ông không dễ bị bắt nạt. Từ nay ông cảnh giác với bất cứ ai đến gần thằng bé. Bây giờ nó là máu thịt, là niềm an ủi cảnh cô đơn của một kẻ vô gia cư vào lúc tuổi xế chiều bị chính đồng loại của mình ruồng bỏ. Hai bố con sống yên ổn được mấy tháng lại có chuyện xảy ra. Hình như từ lâu, Chĩnh Con đã để ý đến thằng bé nên thỉnh thoảng lại lảng vảng quanh miếu Si. Có những chiều cô ta ngồi lì dưới gốc cây duối già nhìn vào miếu mãi nhập nhoạng mới về, lâu dần thành quen đến mức nắm được cả quy luật đi lại của ông thợ gộc. Đợi cho ông Mộc quẩy đôi lọ sành xuống đến chân gò, Chĩnh Con lẩn nhanh vào gốc si khẽ khàng rút then cửa lẻn vào miếu. Thằng Nhặt đang ngủ trên chiếc võng gai mắc giữa hai cột miệng nhai tóp tép như là đang ăn một thứ gì trong mơ. Người đàn bà đứng lặng một lúc khá lâu như đang suy tính điều gì hệ trọng lăm. Cuối cùng, cô ta cúi xuống, bàn tay ngập ngừng định vuốt vào má đứa trẻ bất chợt có tiếng quát ngay phía sau:
    - Không được động đến thằng bé!

    Chĩnh Con giật mình đứng sững như trời trồng, bỗng nhiên quỳ sụp xuống vái người đánh gộc:
    - Trăm lạy bác, em muốn...

    Ông Mộc chỉ tay ra cửa:
    - Cút ra khỏi đây!

    Nhìn vào cặp mắt tối sầm của ông thợ gộc, Chĩnh Con sợ lắm nhưng vẫn cố liều đánh vào lòng từ tâm cửa người đàn ông ngụ cư:
    - Em xin bác!

    Máu hồng bào nổi lên, ông Mộc quẳng đôi quang gánh làm lọ nước đổ lênh láng trên nền miếu, vớ cây búa đại dưới gầm bàn thờ gầm lên:
    - Cút!
    Chĩnh Con sợ hết hồn, lùi dần, lùi dần, ra đến gốc si thì ù té chạy.

    Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp hoàn thành được bẩy năm thì vùng Ba Tổng gần như hết sạch tre, vì thứ cây này được nhập vào thành tài sản xã hội chủ nghĩa, các gia đình muốn sử dụng phải làm đơn xin phép đội sản xuất, nếu là công việc chung của hợp tác xã thì ai cũng có quyền chặt. Ông Mộc đâm ra thất nghiệp , nằm ườn ở nhà, định sang đầu tháng mang thằng Nhặt về bên kia sông Lăng kiếm việc làm. Ông hy vọng, bên ấy người ta chưa công hữu tre. Ngồi buồn uống rượu một mình ( Dạo này thỉnh thoảng ông thợ gộc nhấm nháp chút ít ) ông Mộc nhớ đến chiếc kèn mang theo từ mười ba năm trước vẫn cất trong chiếc túi nhuộm vỏ già treo trên đầu xà, liền bảo cu Nhặt lấy xuống. Nghe tiếng kèn đám ma cả làng nháo lên, ai cũng nghĩ đêm qua có người chết. Nguyễn Đình Phán vội chạy ra miếu Si, nhìn thấy lão ngụ cư đang lắc lư mái tóc bạc phồng mồm đi bài “ Lưu thuỷ” rất say sưa mặc dù chiếc dăm bị thủng thỉnh thoảng lại bật lên những tiếng “khè khè”. Anh ta giật mình nghĩ thầm: “ Lão điếc mà thổi kèn giỏi thật, thế mà từ trước đến nay mình không biết.”

    Mấy hôm sau đội kèn hiếu được tái lập dưới sự bảo trợ của ban quản trị hợp tác xã Đoàn Kết do Nguyễn Đình Phán làm đội trưởng. Bố con lão thợ gộc trở thành xã viên thổi kèn hưởng công điểm theo định suất như những bộ phận thợ mộc, thợ nề khác. Thằng Nhặt được thầy Phán dạy đánh trống và kéo nhị. Đội kèn đến xã nào phục vụ, cuối năm xã đó phải chuyển thóc về làng Cùa qua bộ phận kế toán. Riêng khoản xôi thịt nhà đám biếu và các bữa ăn cho thợ kèn thức đêm thì không tính.

    2. Cuối cùng thì Trịnh Doãng cũng bảo thằng Dọng viết đơn xin vào hợp tác xã. Hắn vào không phải vì thấy được lợi ích thật sự của phương thức làm ăn tập thể mà cái chính là cả làng Cùa chỉ còn mình hắn thuộc hộ cá nhân, lúc nào cũng bị thiên hạ nhìn như một kẻ phản động bị loại ra khỏi cộng đồng. Hắn biết thừa hợp tác xã là một thứ cha chung trong đó người khôn kẻ dại đều bấu vào với phương châm nói nhiều làm ít và vì thế, ăn cũng ít trừ ban chủ nhiệm, kế toán, thủ quỹ, đội trưởng và thư ký. Bọn này có trăm phương ngàn kế ăn cắp công quỹ, không bao giờ biết đến cái đói cho dù giá trị ngày công có những vụ chưa đầy hai trăm gam thóc.

    Thằng Dọng dạo này đã có tiến bộ trong nghề thả ống lươn. Một mình nó cai quản già nửa số ao chuôm làng Cùa. Nó ranh ma hơn Trịnh Doãng, thỉnh thoảng đem biếu chủ nhiệm Hỗ vài con lươn nên loại ngành nghề này tạm thời chưa bị hợp tác xã đưa vào danh mục quản lý. Hôm ấy thằng Dọng xuống Mạc Điền xem phim về muộn, bị Trịnh Doãng chửi cho một trận, gần nửa đêm mới khoác ống lươn đi thả. Nó tắt lối đình Đụn. Đình này đã bị phá hồi Cải cách chỉ còn trơ nền với mấy chục viên tảng vứt lổng chổng cùng bốn tấm bia đá. Lúc sinh thời lão Xếp Đáy bảo đã nhìn thấy con rắn mười hai mào dài gấp ba chiếc đòn càn, nằm cuộn khúc bên bụi dứa dại, riêng cái vẩy của nó cũng bằng đồng xu, lấp lánh như ánh bạc. Dân xóm Cầu Đá sợ lắm không ai dám bén bảng, nhưng bố con Trịnh Doãng thì bất chấp. Có vẻ như ma quỷ cũng phải kiềng dân thả ống lươn. Từ đình Đụn ra kho hợp tác xã chưa đầy năm chục thước. Sân kho làm trên khoảnh đất rộng, phía sau là khu đồng hoang nổi tiếng nhiều cá trê và lươn. Dọng cắm xong một ống, vừa bước lên bờ chợt thấy sân kho có bóng người liền ngồi thụp xuống căng mắt theo dõi. Được một lúc, nó men theo bờ tường bao bò vào xem bọn chúng đang àm gì. Lũ đạo chích không biết có kẻ theo dõi nên cứ lần lượt vào kho vác thóc ra ngoài. Đến lúc ấy thì Trịnh Dọng đã nhận mặt được tay Cấn thủ kho, Tào Văn Khắc, cháu gọi chủ nhiệm Hỗ bằng chú và đặc biệt có cả Bùi Quốc Tiếm, con trai chủ tịch Bùi Quốc Tầm. Thì ra chính cán bộ và nhân viên cờ đỏ hợp tác xã ăn cắp thóc của xã viên. Chả trách dân đói là phải. Dọng nghĩ vậy rồi chạy ra đường kêu lên:
    - Ới bà con ơi! Trộm vào phá kho hợp...

    Dọng không biết lúc ấy có người bám theo mình. Nó chưa hô được hết câu thì đã bị một vật cứng nện vào gáy. Bọn ăn trộm quẳng vội các bao thóc xuống sân thì thầm bàn bạc. Bùi Quốc Tiếm chạy ra bờ đầm thu đám ống lươn mang đi còn Tào Văn Khắc và mấy tay cờ đỏ nhảy qua tường xúm vào đấm đạp Trịnh Dọng một hồi cho đến khi người nhũn ra mới kéo vào sân kho.

    Sáng sớm chủ nhiêm hợp tác xã cho đánh kẻng báo động. Khi toàn thể ban quản trị và các xã viên xóm Cầu Đá kéo đến thì Trịnh Dọng đã chết. Mấy bao thóc vẫn còn vứt bên cạnh, vãi tung toé. Kế toan trưởng Cao Xuân Thọ còn tìm thấy hai bao nữa giấu trong bụi dành dành đầu đình Đụn. Tào Văn Hỗ đứng giữa sân kho tuyên bố:

    Thưa bà con, đêm qua Trịnh Dọng đã phá cửa kho lấy trộm thóc hợp tác xã. các đồng chí dân quân canh gác kịp thời phát hiện yêu cầu về trụ sở giải quyết, nhưng Dọng đã dùng hung khí chống lại người thi hành công vụ sau đó chạy về phía đình Đụn. Vì trời tối, không nhìn thấy đường hắn bị vấp ngã, đập gáy vào tảng đá kê chân cột...vậy chúng tôi thông báo để bà con biết.

    Hỗ vừa nói xong một người tóc tai bù xù từ bờ đầm rẽ đám đông chạy vào túm ngực anh ta gào lên:
    - Không phải. Con tôi đi thả ống lươn chứ không ăn trộm thóc của hợp tác xã. Các người đã giết oan nó.

    Tào Văn Hỗ đẩy Trịnh Doãng ra hất hàm cho Tào Văn Kha:
    - Bảo anh em dân quân đưa ông ấy về.
    - Tao không về !- Trịnh Doãng bị hai dân quân xóc nách kéo ra ngoài nhưng vẫn rướn cái cổ cò về phía Tào Văn Hỗ chửi – Tiên sư cha thằng chột. Chúng mày giết con ông, ông sẽ kiện đến cùng.

    Vợ Doãng, cô Nhụ ngày trước giờ mặt mũi hom hem, quần áo tả tơi, vừa hờ con vừa khóc rất thảm thiết:
    - Dọng ơi vì sao con bị chết oan hãy về báo mộng cho mẹ.

    Mãi đến gần trưa công an huyện mới về. Chủ nhiêm Hỗ cho mổ con lợn sáu chục cân bắt ở trại chăn nuôi tiếp đãi. Cuộc họp có đủ thành phần chủ chốt của Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính, ban chủ nhiệm hợp tác xã và các đoàn thể quần chúng. Sau khi thanh toán hơn chục mâm cỗ, trưởng công an Trương Đình Tái đứng lên phát biểu:
    -Trịnh Doãng nhiều năm nay là thành phần tiêu cực luôn chống đối chủ trương của Đảng và nhà nước.

    Gần đây bố con anh ta mới xin vào hợp tác nhưng vẫn chân trong chân ngoài, nhất là thằng Dọng, lợi dụng nghề thả ống lươn, ban đêm luôn rình mò trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Lần này, bị phát hiện hắn dùng dao chống lại lực lượng bảo vệ định tẩu thoát nhưng không may vấp ngã, chấn thương vùng gáy đã tử vong. Hiện trường vẫn được giữ nguyên, đề nghị các đồng chí công an khám nghiệm.

    Bí thư Bùi Quốc Tầm bị bệnh đái dắt người gầy tóp như con nhái bén cũng gắng gượng đến họp cung cấp thêm vô số thành tích bất hảo của gia đình họ Trịnh :
    - Bố con Trịnh Doãng thường kích động những phần tử bất mãn trong làng nói xấu cán bộ, chê bai hợp tác xã, gây rối trật tự trị an. Có lần bà con xóm Chùa còn nghe thấy hắn đọc mấy câu thơ sau đây rất mất lập trường:

    “Mỗi người làm việc bằng hai
    Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”.


    Đội trưởng Cung Văn Luỹ gật đầu:
    -Đồng chí Bí thư nói rất đúng. Bố con Trịnh Doãng đúng là thành phần bất hảo.

    Công an huyện sau khi xem xét hiện trường, khám nghiệm tử thi kết hợp với lời khai của các nhân chứng đã tạm thời kết luận: “Trịnh Dọng người làng Cùa sinh năm 1956 vào hồi ba giờ năm phút ngày 17 tháng 6 năm 1969 đã phá cửa kho hợp tác xã lấy trộm thóc bị lực lượng bảo vệ phát hiện liền dùng loại dao mác vót nan chống trả quyết liệt. Qua một hồi giằng co , anh ta chạy về phía đình Đụn bị trượt chân ngã gây chấn thương nặng ở vùng gáy sau đó tử vong”

    Các thủ tục hoàn tất, Tào Văn Hỗ gọi gia đình Trịnh Doãng đưa con về rồi cử bốn xã viên lên cửa hàng vật liệu kiến thiết mua cỗ quan tài gỗ tạp để khâm liệm Trịnh Dọng. Tối hôm ấy Nguyễn Đình Phán cùng bố con ông Mộc đến thổi kền thờ. Tiếng kèn thổi điệu “Lâm khốc” của lão thợ gộc vừa ai oán vừa uất hận, người làng Cùa càng nghe càng thấy xót xa. Các bà các cô đến chia buồn lúc đầu còn sụt sịt sau oà lên khóc nức nở. Mỗi lần như thế Trịnh Doãng lại trợn mắt nghiến răng còn bà Nhụ thì nằm mê man bên quan tài con trai, thỉnh thoảng khẽ rên rỉ bằng thứ giọng khản đặc “ới con ơi!”.

    Đưa đám xong, Doãng không về làng mà đi tắt đồng Chó Đá lên đường 228. Hắn cứ để nguyên bộ quần áo lấm lem chạy gằn về huyện. Người gác cổng thấy một gã mặt rỗ, quần ống thấp ống cao dáng vẻ ngơ ngác như vừa ở trại tâm thần về liền ngăn lại:
    -Anh kia, có việc gì?
    -Tôi cần gặp ông Chủ tịch huyện.
    Tay bảo vệ hỏi trống không:
    -Có việc gì?

    Doãng trợn mắt sừng sộ:
    -Việc gấp có liên quan đến tính mạng đứa bé mười bốn tuổi.
    -Thế thì anh đến nhầm chỗ rồi.- Tay gác cổng cất giọng khinh khỉnh- Những việc như thế phải sang bên công an.

    Doãng lắc đầu;
    -Tôi đếch tin công an . Bọn họ với ban chủ nhiệm hợp tác xã là một. Con tôi bị chết oan tôi phải kiện lên ông chủ tịch cho chúng nó phải đi tù.

    Ngưòi gác cổng chạy vào dãy nhà làm việc, mấy phút sau, một người đàn ông tầm thước mặc bộ quần áo Tô Châu bước ra nhìn Trịnh Doãng một thoáng rồi nói:
    - Đồng chí chủ tịch hôm nay bận họp, có việc gì mời bác vào phòng tôi.
    - Nhưng mà ông là ai?

    Người mặc đồ Tô Châu thong thả bảo:
    -Tôi là Đoàn Công Sự , Bí thư huyện uỷ.

    Doãng vừa kể vừa khóc, câu nọ vấp vào câu kia. Nghe xong ông bí thư bảo:
    Vấn đề này thuộc trách nhiệm của ngành công an. Giờ bác sang bên ấy trình bày với huyện trưởng. Tôi sẽ gọi điện sang yêu cầu họ giải quyết.
    Người thả ống lươn vừa ra khỏi cổng ông bí thư liền quay dây nói cho huyện trưởng công an:
    - Alô! Anh Thẩm đấy phải không?
    - Thưa anh có việc gì ạ?

    Bí thư huyện uỷ gắt:
    -Cái vụ sáng nay ở làng Cùa các anh làm ăn thế nào mà để tay Trịnh Doãng lên ăn vạ ở cổng huyện, may mà tôi ở nhà chứ không lôi thôi to.
    - Báo cáo anh, biên bản xét nghiệm hiện trường cho biết, lúc ba giờ đêm Trịnh Dọng phá cửa kho vác trộm thóc. Anh em dân quân phát hiện bị nó đánh lại rồi chạy trượt chân ngã, chấn thương nặng ở vùng gáy được một lúc thì chết.

    Bí thư hạ giọng ra lệnh:
    - Phải dẹp yên vụ này đi, nếu cần tạm giam tay Doãng vài ngày. Nó mà kích động một số phần tử tiêu cực kéo lên đây gây rối thì cá nhân anh phải chiụ trách nhiệm trước huyện uỷ đấy.
    - Dạ, tôi hiểu, bí thư cứ yên tâm.

    Vừa nhìn thấy Trịnh Doãng bước vào phòng, Đoàn Danh Thẩm đã hỏi:
    - Anh là Trịnh Doãng ở làng Cùa?

    Tay thả ống lươn gật đầu:
    - Phải. Hôm nay tôi lên đây để yêu cầu công an huyện trừng trị bí thư xã Đoàn Kết Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ cho tay chân đánh chết con tôi rồi vu oan nó phá cửa kho ăn trộm thóc.

    Đoàn Danh Thẩm trừng mắt:
    - Công an huyện đã về tận nơi khám xét, lấy lời khai các nhân chứng và xác định được thằng con anh đột nhập vào kho vác trộm thóc, chống lại nhân viên bảo vệ bị trượt chân ngã chấn thương sọ não. Một mình thằng Dọng không thể lấy được từng ấy thóc mà phải có bọn bên ngoài. Chúng tôi đang tiếp tục mở rộng điều tra, có kết quả sẽ thông báo cho xã.
    Doãng chĩa cặp môi cá ngão vào huyện trưởng công an :
    -Thứ nhất, con tôi khong ăn trộm thóc mà đi thả ống lươn, thứ hai, nó không ngã mà bọn ăn trộm dùng gậy đập vào gáy.
    - Anh đừng nói càn. Hiện trường gây án đã được bộ phận nghiệp vụ điều tra, xác minh và lập biên bản tại chỗ. Tôi thông cảm với tâm trạng anh lúc này nhưng chúng ta là công dân phải tôn trọng pháp luật.

    Doãng lắc đầu:
    -Tôi không tin vào thứ pháp luật của các ông.

    Đoàn Danh Thẩm cười nhạt;
    - Anh phải tin. Bởi vì pháp luật đại diện cho nền chuyên chính vô sản. Chống lại pháp luật tức là chống lại Đảng và Nhà nước chúng tôi sẵn sàng mời anh vào trại cải tạo cho đến khi nào hết hoài nghi.

    Trịnh Doãng đã có ít nhất hai lần nằm trong trại tạm giam hiểu rất rõ thế nào là công dân mất tự do. Hắn tin ông huyện trưởng đã nói là làm. Chuyến này mà bị bắt thì gay.

    Trên đường về Doãng chợt nhớ đến ông Trần Quảng. Phải rồi, có lẽ chỉ còn cách ấy. Uỷ ban hành chính tỉnh sơ tán về làng Bầu cách đây hơn chục cây số, gần gấp đôi đường ra huyện, nếu đi liền một mạch thì tờ mờ sáng là đến nơi. Tấm danh thiếp của ông chủ tịch vẫn để dưới đáy hòm lúc nào đi phải mang theo. Qua cánh đồng Chó Đá, Doãng dừng lại bên mộ thằng Dọng. Vẫn còn mấy ngọn hương lập loè. Chắc vợ hắn hoặc anh em thằng Dõng mới ra thắp cho nó. Dọng ơi con chết thật oan ức, phen này bố nhất quyết phải đòi lại công bằng để pháp luật trừng trị những kẻ vừa ăn cướp vừa la làng.

    Sắp qua cầu đá như chợt nhớ ra điều gì, Doãng quay lại miếu Si tìm lão đánh gộc sau đó lôi ông ta đến nhà Nguyễn Đình Phán. Ba người nhỏ to bàn bạc. Thằng Nhặt đứng cổng canh chừng. Gần đây Doãng mới phát hiện ra sự lạ ở đôi tai ông Mộc.Khi nói chuyện, nếu quát to, ông ta hoàn toàn điếc đặc, nhưng khẽ thì thầm lại nghe rõ, không cần phải ra hiệu.
    - Được, tôi làm nhưng ông phải chuẩn bị cái chiếu thước rưỡi.

    Nguyễn đình Phán xem ra còn lưỡng lự :
    - Bác liều quá, đêm hôm thế này nhỡ công an tóm được thì gay.

    Doãng gắt:
    - Chú sợ chết thì ở nhà.
    - Thôi, cũng đành vậy tôi thấy đúng là bác gan cóc tía, trên đời không có người thứ hai.

    Đầu canh hai, Doãng về nhà lấy lá đơn kiện do thằng Dõng viết từ sáng và tấm danh thiếp của ông Trần Quảng rồi cả bọn mang cuốc xẻng ra bãi tha ma. Trong nửa giờ, ba người đào mộ thằng Dọng, mở nắp quan tài, bọc thi thể vào tấm vải diềm bâu. Lão đánh gộc quấn chiếu, bó lạt tre rất nhanh. Xác chết trương phình đã bốc mùi làm Nguyễn Đình Phán phải bịt mũi, nhổ nước bọt. Ông Mộc ngậm rượu phun phì phì. Doãng dốc cả một lọ nước hoa mậu dịch lên khắp chiếu. Nguyễn Đình Phán đi trước, Trịnh Doãng và lão đánh gộc khênh thằng Dọng bước thấp bước cao tắt đường đồng lên đường quốc lộ. Doãng bước phăng phăng, ông Mộc yếu chân gần như bị tay thả ống lươn lôi đi, thỉnh thoảng lại vấp ngã làm chiếc võng bị kéo lệt sệt trên mặt ruộng.

    Nửa đêm về sáng, đường 228 không một bóng người. Vạn vật lặng lẽ chìm trong thứ bóng tối đặc quánh, dính nhớp nháp như nhựa hắc ín. Đã từ lâu, chiến tranh phá hoại hình như chừa vùng này ra. Hãn hữu lắm mới có chiếc máy bay lượn lờ mãi chín tầng mây. Không một tiếng chó sủa. Gà gáy xao xác báo đêm đã chuyển canh. Lúc rẽ vào làng Bầu xuýt nữa bị đám dân quân tuần tra phát hiện, Nguyễn đình Phán phải trổ tài thuyết khách cho họ xem thẻ cử tri cả bọn mới qua được vọng gác. Cũng may trời xui đất khiến thế nào, bệnh viện sơ tán lại ở kẻ Sung, đưa người ốm đi bệnh viện phải qua làng Bầu. Cánh dân quân mắt nhắm mắt mở chỉ kiểm tra giấy tờ chẳng để ý đến bọc chiếu nằm trong võng đang toả ra thứ mùi nặng âm khí.

    Khu sơ tán của uỷ ban tỉnh là vườn nhãn cổ thụ chùa Vĩnh Xương. Những dãy nhà tranh lợp giấy dầu thấp lè tè khuất dươí bóng nhãn được nối tiếp với nhau bằng hệ thống hào giao thông ngập đầu người. Sau khi xác định đúng vị trí ngôi nhà của ông chủ tịch, Nguyễn đình Phán ngoắc tay ra hiệu cho Trịnh Doãng và lão thợ gộc chuyển bó chiếu xuống đường hào. Trời mới mưa mấy hôm trước, nước ngập đến mắt cá chân. Họ bấm nhau bước thật khẽ để khỏi phát ra tiếng động. Lúc ấy đã là cuối canh tư nhưng vẫn còn tối mò. Trịnh Doãng vác bó chiếu leo lên đặt dựng đứng giữa khung cửa sổ, gài lá đơn vào khoanh lạt ở chỗ dễ nhìn thấy nhất rồi lại tụt xuống hào cùng hai ông bạn rút ra ngoài.

    Kẻng cơ quan báo thức bằng vỏ quả bom năm trăm bảng Anh treo trên cành nhãn, gõ đúng ba hồi chín tiếng nghe rất chối tai. Các cánh cửa lần lượt mở. Mấy vị ở ban tổ chức chính quyền ngại ra hố giải ở mãi cuối vườn, chẳng ông nào bảo ông nào, đều bắc “vòi” đồng loạt câu xuống hào nước. Chủ tịch tỉnh đã ngót ngét sáu mươi, sắp nghỉ hưu nhưng vẫn tập thể dục rất đều. Sau khi chạy một vòng quanh lối mòn trong vườn nhãn, Trần Quảng vào sân chùa Vĩnh Xương tập với đám thanh niên bên văn phòng ty giao thông. Bọn này hay đi chơi khuya, ngủ muộn, nhiều khi ông phải đập cửa mới uể oải dậy . Tập xong về đến cửa, Trần Quảng đã ngửi thấy mùi khăn khẳn rất lợm giọng. Ông cho rằng đó là mùi chuột chết định vòng ra phía sau tìm thì bất chợt nhìn thấy bó chiếu dựng ngay cửa sổ. Là người đã từng nếm mùi tù đày cận kề cái chết không chỉ một lần mà chủ tịch Trần Quảng cũng thấy lạnh sống lưng, mặt xám ngoét, miệng ú ớ không nói được câu nào. ít phút sau mấy công an bảo vệ hạ cái xác xuống khênh ra vườn nhãn. Người ta tìm thấy trong tay ông Chủ tịch lá đơn Trịnh Doãng đọc cho con trai viết:

    Kính gửi ông chủ tịch!
    Tôi là Trịnh Doãng, phó thường dân làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành, đã có vinh dự được nấu món lươn om củ chuối phục vụ đoàn cán bộ do ông dẫn đầu về thăm xã vì thành tích làm thuỷ lợi nội đồng ngày... tháng... năm.... Dịp ấy, ông còn chiếu cố bắt tay và cho tôi tấm danh thiếp, hẹn có việc gì cần cứ đến gặp ông. Nay tôi làm đơn này gửi lên ông để kêu oan về cái chết mờ ám của thằng Trịnh Dọng con tôi. Nó là thằng bé mới mười bốn tuổi, bản tính thật thà, từ bé đến giờ chưa hề trộm cắp của ai. Đêm ngày 17 tháng 6 lúc nó đang thả ông lươn thì nhìn thấy Tào Văn Khắc, Bùi Quốc Tiếm cùng đồng bọn mở kho ăn trộm thóc hợp tác. Sợ sự việc bại lộ, chúng xúm nhau lại đánh chết thằng Dọng rồi vu oan cho nó phá cửa kho, vác thóc ra ngoài, bị dân quân bắt đã dùng vũ khí chống lại. Công an huyện Nam thành về xã, lập biên bản xong được bí thư Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ làm thịt con lợn sáu chục cân thết đãi. Họ kết luận vụ án theo lời khai của các nhân chứng do ông Tầm và ông Hỗ sắp đặt hoàn toàn sai sự thật. Tôi đã trực tiếp lên huyện công an khiếu nại nhưng xuýt nữa bị ông Đoàn Danh Thẩm tống giam. Gia đình tôi giờ cùng đường rồi chẳng biết bày tỏ với ai nỗi oan khuất này, vì vậy đành phải mang xác Trịnh Dọng lên trình với ông, mong ông đèn giời soi xét giải nỗi oan và trùng trị những kẻ tàn ác, bất lương, vô nhân đạo đã giết chết nó.

    Kính đơn
    Trịnh Doãng đã ký

    Lúc ấy bọn Trịnh Doãng đã ra đứng ở cổng Chùa. Hắn đưa tấm danh thiếp cho người gác cổng xin được gặp ông Quảng. Anh ta nhìn hắn đầy vẻ nghi ngại:
    - Anh là thế nào với ông chủ tịch?

    Doãng ngẫm nghĩ một thoáng rồi nói bừa:
    - Là em họ.
    - Chưa đến giờ làm việc mời anh ra bên ngoài đợi một lúc.

    Cùng lúc ấy, một chiếc xe com măng ca bóp còi inh ỏi chạy từ vườn nhãn ra rồi quặt xuống làng Tào Khê. Đó là xe ông Trần Quảng. Ông Quảng từ lâu mắc chứng suy tim do thời gian tù Sơn la bị tên cai ngục Lơgiê bắt uống một loại độc dược làm co thắt động mạch vành, thỉnh thoảng huyết áp tăng vọt, những lúc làm việc căng thẳng hay bị ngất. Lần này nhìn thấy cái xác bó chiếu nhất là sau khi đọc lá đơn kêu cứu của Trịnh Doãng, ông chủ tịch bị sốc rồi đột quỵ ngay tại chỗ. Anh em cán bộ văn phòng vội đưa đi cấp cứu nhưng không kịp. Trần Quảng qua đời khi xe chỉ còn cách bệnh viện sơ tán không đầy trăm thước.

    Ông Chủ tịch mất làm Tỉnh uỷ, uỷ ban hành chính và các ngành chức năng rối lên. Người ta bận tổ chức lễ tang nhưng không quên tay thả ống lươn. Đáng lẽ Trịnh Doãng mang thằng con về ngay còn nhẹ tội, đằng này hắn cứ định xông vào tỉnh đường kêu gào khóc lóc, trong khi cái xác bó chiếu mỗi lúc một nặng mùi làm ông Chánh văn phòng phải cử ngay mấy nhân viên hành chính mang ra chôn ngoài Đống Cao rồi gọi điện báo cho ty công an. Ông Hà Văn Trai, Trưởng ty, đang ngấp nghé chân Phó Chủ tịch phụ trách nội chính vốn rất kính trọng Trần Quảng liền ra lệnh tống Trịnh Doãng vào trại giam với tội danh khủng bố. Thấy tay thả ống lươn bị bắt, Nguyễn Đình Phán vội kéo ông Mộc nhảy xuống hào giao thông chạy bán sống bán chết, khoảng nửa giờ mới ra khỏi làng Bầu. Cả hai mệt đứt hơi, ngồi thở một lúc, khát quá liền vốc nước ruộng uống. Lúc ấy mặt trời đã lên quá con sào. Nguyễn Đình Phán ghé tai lão thợ mộc nói nhỏ:
    -Ta về thôi bác, chuyến này thì Trịnh Doãng gay rồi.

    Ông Mộc dỏng tai nghe, có vẻ đã hiểu liền bảo:
    -Tôi với chú ngu hơn chó, nghe hắn xui dại, suýt nữa vào nhà đá hết lượt.

    (còn tiếp)

Similar Threads

  1. Về Bà Chiểu, rảo Hàng Bàng
    By TAM73F in forum Tùy Bút
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-21-2015, 06:48 AM
  2. Trình Làng
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 04-28-2015, 04:14 AM
  3. Hồi ức
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 02-24-2015, 03:21 AM
  4. Trận Ba Làng An
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-10-2014, 01:36 AM
  5. Làng Tôi
    By PS khoá 72G in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-13-2009, 10:10 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •