Erich Maria Remarque
Chiến hữu
Chương 11
Tôi đang trên đường đến nhà Pat. Sẽ là lần đầu tôi thăm nàng. Cho đến nay, hoặc nàng đến chỗ của tôi, hay tôi đến trước cửa nhà nàng, rồi hai đứa dẫn nhau đi nơi khác. Lúc nào cũng như là có một mình nàng thăm tôi. Tôi muốn biết thêm về nàng. Tôi muốn biết nàng sống ra sao.
Hoa nở đầy trong công viên phía sau bùng binh. Tôi nhảy qua rào, thò tay ngắt một nhánh tử đinh hương trắng.
"Cậu ấy ơi, câu đang làm gì vậy?" một giọng nói dõng dạc gióng lên.
Tôi ngước mắt nhìn. Một ông, mặt đỏ au như màu rượu chát, ria bạc vuốt sáp mượt, đang nhìn tôi, bất bình. Không phải cảnh sát hay nhân viên chăm sóc vườn hoa. Ta có thể nhận ra ngay, đấy là một sĩ quan cao cấp hồi hưu.
"Có gì khó biết đâu hở bác," tôi lễ phép trả lời. "Cháu đang hái vài chùm tử đinh hương."
Trong một thoáng, ông tắt nghẹn, không nói ra lời. Rồi ông gầm lên, thịnh nộ, "Vậy cậu không biết đây là công viên thành phố hay sao?"
Tôi mỉm cười thân ái. "Bác đừng nói rằng cháu nghĩ đây là quần đảo Canary nhé. Bác biết mà, xứ sở của những con hoàng yến xinh đẹp, ca hát véo von."
Ông tím mặt. Tôi sợ ông sẽ đột quỵ mất thôi. "Thằng ranh con, bước ra lập tức!" Ông hét toáng lên, giọng chỉ huy ở trại lính. "Cậu đang trộm cắp tài sản công cộng. Tôi sẽ cho lính bắt cậu."
Trong lúc ấy, tôi đã thu vén đủ số tử đinh hương cần thiết. "Nội ơi, đố nội đuổi kịp cháu," tôi thách thức, và nhảy qua hàng rào đối diện, biến mất.
Bên ngoài nhà Pat, tôi kiểm soát lại y phục của mình. Rồi, chầm chậm, tôi bước lên cầu thang. Căn nhà mới và hiện đại -- một tương phản rõ rệt với trại lính cũ mèm và lòe lẹt của tôi. Cầu thang trải thảm đỏ -- một thứ không hề có ở nhà Mợ Zalewski. Nói gì tới thang máy.
Pat sống ở lầu hai. Cửa gắn một biển thau nhỏ đầy vẻ long trọng: EGBERT VON HAKE, TR. T. Tôi tự động chỉnh lại cà vạt, trước khi bấm chuông.
Một cô đội mũ trắng, khoác tạp dề be bé đi ra mở cửa --không thể xếp chung một lứa với Frida, bà cô nhếch nhác mắt lé của chúng tôi. Tôi cảm thấy lúng túng. "Herr Lohkamp?" cô hỏi.
Tôi gật đầu. Nhẹ nhàng, cô dẫn tôi đến một đầu cầu thang và mở cửa. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Trung Tá Egbert von Hake đứng sẳn ở đấy, đồng phục chỉnh tề và tra vấn tôi trước tiên, bởi trên tường của tiền sảnh, một dãy chân dung các tướng lãnh, uy chương đầy ngực, nghiêm khắc nhìn xuống tôi, gã bạch đinh. Nhưng kìa Pat đã ra tới, bước chân dài uyển chuyển, và gian phòng đột nhiên trở thành một hòn đảo ấm áp, vui tươi. Tôi đóng cửa và việc trước nhất là thận trọng ôm nàng trong tay. Rồi tôi trao cho nàng bó tử đinh hương ngắt trộm. "Đây," tôi nói, "với sự ân cần của hội đồng thành phố."
Nàng cắm những cành hoa vào một chiếc bình gốm màu tươi đặt trên sàn, gần cửa sổ. Trong khi ấy, tôi liếc mắt nhìn quanh và ngạc nhiên. Màu sắc nhã nhặn, ưa nhìn; bàn ghế cũ, nhỏ gọn, đáng yêu; thảm lót sàn xanh lơ nhạt, màn cửa màu phấn tiên ngọt dịu, ghế bành ấm cúng bọc sa tanh đã ngã màu ...
"Trời đất, Pat, làm sao em có thể tìm được một căn phòng thế này?" tôi nói. Thông thường người ta trang bị phòng cho thuê với bàn ghế hư hỏng và quà sinh nhật vô dụng."
Nàng cẩn thận đẩy cái bình gốm cắm hoa vào sát tường. Tôi ngắm chiếc cổ thuôn, thanh tú, bờ vai thẳng và đôi tay có phần quá gầy guộc của nàng. Khi quỳ, trông nàng như một đứa trẻ, một cô bé cần được nâng niu chăm sóc. Nhưng cử động của nàng là cử động của một con thú duyên dáng, và khi nàng đứng lên, tựa vào tôi, nàng không còn là một em bé nữa, mắt môi nàng lại chứa một nỗi chờ mong hiếu kỳ và một niềm bí ẩn làm tôi ngây ngất điên mê, những thứ tôi tưởng không còn trong thế gian bùn lầy này.
Tôi đặt tay lên vai nàng. Thật sung sướng biết bao được chạm vào người nàng như thế. "Chúng là vật dụng của em, Bob ạ," nàng nói. "Trước đây mẹ em làm chủ ngôi nhà. Khi bà mất đi, em cho thuê bớt, chỉ giữ hai phòng cho riêng em."
"Vậy căn nhà thuộc về em, phải không? Và Trung Tá Egbert von Hake là người thuê?"
Nàng lắc đầu. "Bây giờ thì không. Em không giữ được. Em phải bán tất cả bàn ghế còn lại và cả ngôi nhà nữa. Em hiện đang ở trọ nơi đây. Nhưng anh không thích Trung Tá Egbert thì phải?"
"Không đâu. Chỉ có điều là tự nhiên anh không ưa đám cảnh sát và sĩ quan tham mưu. Hậu quả của những ngày đi lính."
Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
"Thiếu tá đứng gần chót bảng."
"Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
"À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
"Vậy anh không biết cụ ấy."
"Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
"Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
"Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
"Vâng, nhìn đây."
"Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
"Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
"Em sẽ dùng cà phê với anh."
"Nếu không, em sẽ uống trà?"
"Vâng."
"Chúng ta cùng uống trà vậy."
"Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
"Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
"Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
"Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
"Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
"Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
"Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
"Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
"Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
"Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
"Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
"Sao lại thế?"
"Em ốm."
"Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
"Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
"Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
"Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
"Em nhớ dai thật," tôi nói.
"Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
"Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
"Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
"Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
"Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
"Anh cũng thế."
"Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
"Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
"Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
"Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
Nàng lắc đầu.
"Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
"Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
"Không, can đảm chứ."
"Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
"Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
"Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
"Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
"Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
"Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
"Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
"Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
"Ngày một tháng Tám."
"Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
"Vậy anh đã có máy hát?"
"Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
"Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
"Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
"Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
"Không," nàng đáp.
"Em lại đúng," tôi nói.
Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
"Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
"Ở tiệm đàng góc phố."
À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
"Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
"Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
"Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
"Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
"Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
"Chẳng đáng chi, anh ạ."
"Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
"Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
"Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
"Không có việc gì?"
"Loại nào?"
"Thư ký văn phòng, phụ tá --"
Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
"Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
"Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
"Cái gì?"
"Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
"Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
"Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
"Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
"Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
"Ach, ơ --" tôi nói.
"Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
"Làm gì có," tôi trả lời.
Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
"Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
"Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
"Vâng?"
"Vâng, trẻ ra."
"Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
"Pros't, Bob."
Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
"Bé con," Valentin nói.
"Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
"Như khi nãy."
"Phải rồi."
Fred rót đầy ly.
"Nào, pros't, Valentin."
"Pros't,
"Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
"Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
"Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
"Vâng," anh nói.
Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
"Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
"Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
"Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
"Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
"Nước chanh."
"Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
"Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
"Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
"Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
"Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
"Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
"Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.
Erich Maria Remarque
Chiến hữu
Chương 12
Xưởng của chúng tôi trống hoắc như một vựa lúa trước mùa gặt. Vì vậy chúng tôi quyết định không bán chiếc tắc xi mà giữ nó lại, đưa đón khách một thời gian. Lenz và tôi sẽ thay nhau lái. Koster và Jupp dư sức quán xuyến công việc trong xưởng, đến khi kiếm được một công trình mới.
Tôi nhét tiền lẻ đầy túi, cầm theo giấy tờ, và lái lanh quanh tìm một bãi đáp tốt. Có một cảm giác xao xuyến của buổi ban đầu. Bất kỳ thằng ngốc nào cũng có thể chận tôi lại và ra lệnh. Chẳng phải là một cảm giác tuyệt diệu. Trôi tuột một lần nữa. Tôi không hiểu rõ, vì sao lần này tôi cảm thấy cần phải thu lượm được một điều gì khác hơn trước đây. Công việc này có lẽ không bền -- tuy nhiên, được nhìn ngắm chỗ này chỗ kia còn hơn giam mình trong văn phòng, để một tên trưởng phòng u sầu nào đấy hành hạ đến khi ta không chịu nỗi phải ném quyển sổ kế toán vào mặt hắn, rồi bị đuổi.
Tôi chọn một nơi chỉ có năm chiếc tắc xi đang đậu. Đối diện với khách sạn Waldecker Hof, tại trung tâm một khu thương mại. Ở đấy, hy vọng sẽ đắt khách.
Tôi tắt máy xe, bước ra. Từ trong chiếc xe đầu, một người cao lớn mặc áo choàng da tiến đến. Hắn gầm lên, "Cút ngay,"
Tôi bình tỉnh nhìn hắn và nghĩ rằng nếu cần, một cú móc ngược vào càm là tốt nhất. Áo choàng của hắn sẽ vướng víu khiến hắn không dơ tay đỡ kịp.
"Mày không có mũ?" hắn nhấn mạnh, nhỗ toẹt mẫu thuốc lá cùn xuống chân tôi. "Mày nên cút ngay. Ở đây đã đủ người. Không cần nữa."
Rõ ràng hắn nổi giận vì có thêm người; nhưng tôi có quyền đứng đây nếu tôi thích.
"Tôi bằng lòng đãi mấy chầu ra mắt," tôi nói.
Theo tôi nghĩ, như thế đã ổn. Thông thường ai mới vào nghề cũng phải chịu vậy.
Một cậu tài xế trẻ tuổi xuất hiện. "Được mà, bạn. Mặc kệ hắn, Gustav --"
Gustav không thích một điều gì đấy ở tôi. Tôi biết điều ấy là gì. Hắn nhận ra, tôi là một tay mơ tập tễnh vào nghề.
"Tao sẽ đếm ba tiếng --" hắn nói. Hắn cao hơn tôi một cái đầu và tin tưởng vào lợi thế ấy.
Tôi hiểu, có nói cũng bằng thừa. Một là tôi phải đi khỏi chỗ này, hay là đánh nhau. Rõ ràng như vậy. "Một," Gustav đếm, vừa cởi khuy áo choàng.
"Đừng có vô lý," tôi nói, cố gắng một lần nữa. "Anh không cảm thấy hương vị whiskey nóng bỏng ở cuống họng hay sao?"
"Hai --" Gustav gầm lên.
Tôi thấy rõ, hắn định nện cho tôi một trận đến nơi đến chốn.
"Và một là ---" Hắn đẩy mũ của hắn lệch ra sau.
"Câm đi, thằng ngốc!" tôi thình lình quát to. Gustav há mồm kinh ngạc, bước tới một bước. Chính xác ngay vị trí tôi muốn. Tôi lập tức tung nhanh -- một cú đấm mạnh như búa bổ, với sức nặng của toàn thân. Koster đã dạy tôi cú đấm ấy. Tôi không giỏi quyền Anh; tôi cho là không cần thiết -- thông thường quả đấm thứ nhất sẽ quyết định tất cả. Đây là một quả đấm hay tuyệt.
Gustav gục tại chỗ. "Không sao cả," người tài xế trẻ tuổi nói. "Anh ấy luôn luôn ước muốn như thế." Chúng tôi khênh hắn lên, đặt vào xe tắc xi của hắn. "Anh ấy sẽ tỉnh lại ngay."
Tôi cảm thấy có chút ưu tư, vì khi đấm, tôi đã để ngón cái nằm bên ngoài. Khi Gustav tỉnh dậy, hắn có thể tha hồ đập tôi tùy thích. Tôi nói cho người tài xế trẻ nghe và hỏi cậu ta, liệu tôi có nên chuồn mau. "Vô lý," cậu ta nói, "chuyện ấy đã giải quyết. Đến quán rượu và trả tiền ra mắt. Anh không phải là dân lái tắc xi chuyên nghiệp?"
"Không."
"Em cũng thế. Em là diễn viên."
"Và em thành công?"
"Người ta phải sống," cậu ấy cười to, "Và đời không hoàn toàn như trong kịch."
Nhưng chuyện ấy đã không xảy ra. Gustav đá một cái ghế và hờn dỗi ngồi phịch xuống. Cô hầu bàn đặt một cái ly trước mặt hắn. Bia mang đến. Gustav uống cạn ly. Gọi thêm một chầu nữa.
Gustav nghiêng mặt nhìn tôi. Hắn nâng ly. "Pros't," hắn nói với tôi, nhưng với nét mặt ỉu xìu như bùn.
"Pros't," tôi đáp và chạm ly.
Gustav chìa ra một gói thuốc lá. Hắn mời mà không nhìn tôi. Tôi nhón một điếu và bật lửa cho hắn. Rồi tôi gọi một chầu double kummel. Chúng tôi cùng uống. Gustav lại liếc qua.
"Đồ phá hoại," hắn nói, nhưng bằng một giọng thích hợp.
"Đồ ngu si," tôi trả lời cùng một kiểu.
Hắn quay lại, đối diện với tôi. "Quả đấm thật tuyệt."
"Hên thôi," tôi nói, và chỉ cho hắn xem ngón cái của tôi.
"Xui thật," hắn nhăn răng cười, đáp lời. "Nhân thể, tớ tên là Gustav."
"Còn tớ, Robert."
"Tốt. Vậy thì O.K chứ, Robert? Tớ tưởng cậu vừa dứt sửa mẹ."
"O.K, Gustav."
Từ đấy trở đi, chúng tôi là bạn với nhau.
Những chiếc tắc xi chầm chậm lăn bánh tới. Người diễn viên, tên là Tommy, có một mối hời đưa khách ra nhà ga; Gustav chở khách đến một nhà hàng gần nhất, tiền xe ba mươi pfenig. Anh hầu như sẽ nổi cơn tam bành, bởi vì giờ đây, với tiền lời chỉ có mười fpenig, anh phải xuống hạng chót ở cuối hàng. Tôi kiếm được một mối khá đặc biệt -- một bà người Anh muốn tham quan thành phố. Gần một tiếng đồng hồ với bà. Lượt về, tôi còn kiếm thêm vài mối nhỏ. Đến trưa, khi chúng tôi lại tụ tập nơi quán rượu và ăn bánh mì với bơ, tôi cảm thấy mình đã thạo nghề lắm rồi. Có một điều gì đó tương tự tình chiến hữu trong quân đội. Đủ mọi hạng người đáp lời sông núi tại đây. Hơn phân nửa lúc nào cũng thế, số còn lại bằng cách này cách khác cũng bị lôi cuốn vào.
Buổi chiều, khá hài lòng với bản thân, tôi lái xe vào sân xưởng sửa xe. Lenz và Koster đang chờ tôi.
"Các cậu kiếm được bao nhiêu?"
"Bẩy mươi lít dầu lửa," Jupp trả lời.
"Chỉ thế thôi?"
Lenz tuyệt vọng nhìn lên trời. "Cho một giọt nước mưa! Và một vụ đụng xe sơ sài trên mặt đường trơn trợt ngay trước cửa! Dĩ nhiên không ai bị thương. Chỉ có một mối sửa xe nhẹ nhàng."
"Nhìn đây." Tôi khoe ba mươi lăm marks trong bàn tay mình.
"Tuyệt vời," Koesler nói. "Lời hai mươi marks đấy. Chúng ta sẽ tiêu nó ngay tức thì. Phải ăn mừng chuyến 'hải trình' đầu tiên."
"Chúng ta sẽ có một bình rượu vang ướp woodruff," Lenz nói.
"Một bình?" tôi hỏi. "Cậu định nói gì thế?"
"Đúng. Pat sẽ đến."
"Pat?"
"Đừng có há mõm to đến thế," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Tụi tớ đã dàn xếp từ lâu. Tụi tớ sẽ đón cô ấy lúc bẩy giờ. Cô ấy biết tất cả. Nếu cậu không nghĩ ra được những việc đấy, tụi tớ đành phải tự tay làm mà thôi. Dù sao đi nữa, cậu quen với cô ấy qua tụi tớ mà."
"Otto," tôi nói, "có bao giờ cậu thấy một điều gì xấc xược hơn không?'
Koster cười. "Tay cậu bị gì thế, Bob? Dường như bị vẹo?"
"Chắc là sái gân rồi." Tôi kể lại câu chuyện với Gustav. Lenz nhìn tay tôi. "Hẳn thế. Nhưng, mặc dù sự thô lỗ của cậu, như một tín đồ Cơ đốc giáo và một sinh viên trường thuốc hồi hưu, tớ sẽ xoa bóp cho cậu. Vào đây, Ông Đánh Bốc."
Chúng tôi vào trong xưởng và Gottfried nắn bóp tay tôi với một chút dầu nóng. "Cậu bảo Pat rằng chúng ta sẽ ăn mừng ngày đầu tiên lái tắc xi?" tôi hỏi anh.
"Liệu mà giữ mồm giữ miệng," tôi trả lời. Bởi có lẽ, anh nói đúng. "Cậu nói cho cô ấy biết, phải không?"
"Tình yêu," Gottfried bình thản nói, "là một vật đẹp. Nhưng nó làm hỏng tính cách con người."
"Đơn côi, mặt khác, khiến người ta kém tế nhị."
"Tế nhị là một thỏa thuận ngầm để phớt lờ thất bại của nhau, thay vì lên tiếng. Đấy là một sự thỏa hiệp đáng khinh. Chẳng có một cựu chiến binh Đức nào lại hạ mình làm chuyện ấy, bé ạ."
"Vậy giả sử như cậu là tớ, cậu sẽ làm thế nào," tôi nói, "trong trường hợp có ai đấy ngoắc tay đón tắc xi và cậu nhận ra người đó chính là Pat?"
Anh mỉm cười. "Tớ sẽ chẳng bắt nàng trả tiền xe đâu, cậu nhỏ ơi."
Tôi huých anh một phát làm anh ngã khỏi chiếc ghế ba chân. "Bố khỉ. Cậu biết tớ sẽ làm gì không? Tối nay tớ sẽ đón nàng bằng xe tắc xi."
"Xuất sắc." Gottfried dơ một tay lên cao, khuyến khích. "Chỉ cần nhớ, dù cậu làm gì đi nữa, chớ đánh mất tự do. Tự do còn quý hơn cả tình yêu và cậu chỉ hiểu được điều ấy khi đã muộn. Cậu không trọn quyền sử dụng chiếc tắc xi. Tụi này muốn đón Ferdinand Grau và Valentin. Sẽ là một đêm long trọng, nhưng tuyệt vời."
Chúng tôi ngồi sau vườn một lữ quán nhỏ ở ven thành phố. Vầng trăng ướt treo thấp trên cánh rừng như một ngọn đuốc đỏ. Những cành hạt dẻ đơm hoa giống một chúc đài óng ánh nhạt, mùi tử đinh hương nồng nàn như thuốc, và trên bàn trước mặt chúng tôi, một chậu thủy tinh to chứa rượu vang ướp hương woodruff, trong bóng tối mờ ảo như một khối ngọc opal long lanh, giữ bên trong tia sáng xanh lam và xà cừ lung linh, ánh sáng cuối cùng của chiều tà. Chưa gì chúng tôi đã châm rượu vào chậu đến bốn lần.
Ferdinand ngồi ghế. Pat ngồi bên cạnh. Nàng cài một đóa lan hồng phấn mà anh mang tặng.
Ferdinand vớt một con cánh ren từ ly rượu của anh, thận trọng quệt nó lên mặt bàn.
"Hãy nhìn nó," anh nói: "con muỗi này. Mạng nhện chỉ là giẻ rách so với nó. Và chúng chỉ sống một ngày, rồi xong." Anh đưa mắt quan sát tất cả mọi người. "Người anh em, có ai biết điều gì huyền bí nhất trong thế gian này?"
"Một ly rượu đã cạn," Lenz trả lời.
Ferdinand phất tay, phủ nhận Lenz. "Điều bại hoại nhất ở thế gian này đối với loài người, Gottfried, là một tay diễu cợt." Anh quay lại nhìn chúng tôi, "Điều huyền bí nhất trên thế gian, anh em ơi, chính là thời gian. Thời gian. Tượng đài kỷ niệm mà chúng ta sống qua nhưng không thể chiếm hữu." Anh lôi từ trong túi ra một cái đồng hồ và dí sát mắt Lenz. "Nhìn đây, người lãng mạn sống trên mây. Cái vật cơ giới quỷ sứ này, kêu tíc tắc, sẽ tiếp tục kêu tíc tắc, và không có thứ gì có thể làm nó ngưng lại. Ta có thể sống còn sau một cơn tuyết lở hay một trận núi vùi -- nhưng không thể chiến thắng vật này."
"Tớ không muốn thế," Lenz tuyên bố. "Tớ muốn mình sống êm ả đến già. Và, dù sao đi nữa, tớ cũng thích sự đổi thay."
"Thời gian không chịu đựng con người," Grau nói, phe lờ anh. "Con người cũng chẳng thể chịu đựng thời gian. Do đó, con người phải chế tạo ra giấc mơ cho chính mình. Giấc mơ xưa cũ, vô vọng, bịnh hoạn của loài người, sự vĩnh cữu."
Gottfried cười to. "Căn bệnh trầm trọng nhất trong thế gian, Ferdinand, là tư tưởng. Một căn bệnh nan y."
"Nếu nó là căn bệnh duy nhất, thì cậu sẽ bất tử," Grau đáp. "Cậu, cái túi gồm có chất hữu cơ, vôi, phốt pho và một ít sắt, tồn tại trong một thoáng của trái đất, Gottfried Lenz!"
Gottfried rạng rỡ, hài lòng. Ferdinand lúc lắc cái bờm sư tử của anh. "Đời sống là một chứng bệnh, người anh em ạ, và cái chết bắt đầu từ lúc ta lọt lòng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp tim, là một giây phút chết chóc -- xô đẩy ta đến gần điểm kết thúc."
"Và mỗi ngụm rượu nữa cơ," Lenz trả lời. "Pros't, Ferdinand. Đôi khi cái chết lại là một niềm vui sướng đáng ghét. "
Grau nâng ly. Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt to rộng của anh, như một cơn bão không âm thanh. "Pros't, Gottfied, con bọ nước nhảy loi choi trên luồng chảy của thời gian. Tớ tự hỏi, không biết cái quyền năng điều khiển chúng ta nghĩ thế nào khi họ tạo dựng ra cậu."
"Hẳn là họ đã thỏa thuận với nhau," Gottfried nói. "Trong bất kỳ trường hợp nào, cậu không phải là người được quyền miệt thị những chuyện như thế. Nếu loài người bất tử, thì cậu -- con ký sinh già, sẽ thất nghiệp."
Đôi vai của Grau bắt đầu nhô lên. Anh cười to. Rồi anh quay sang Pat. "Em nghĩ sao, bông hoa bé nhỏ trên mặt nước rập rềnh?"
Sau đó Pat và tôi tản bộ riêng với nhau trong vườn. Trăng đã cao hơn và cánh đồng bơi lội trong ánh xám bạc. Bóng cây ngã dài và đen sẩm trên đấy như những tấm biển chỉ đường về một miền vô định. Chúng tôi đi đến tận hồ, rồi quay trở về. Trên đường, chúng tôi gặp Gottfried, anh bê một cái ghế trong vườn, đặt giữa những bụi tử đinh hương rậm rạp. Anh ngồi khuất bên trong, chỉ còn thấy mái tóc vàng và điếu thuốc. Bên cạnh, trên mặt đất là một cái cốc thủy tinh với những gì còn lại của bình rượu vang trắng xứ Rhine tháng Năm tẩm hương woodruff.
"Có chỗ ngồi kìa, nếu anh muốn!" Pat nói. "Trong bụi tử đinh hương."
"Cũng không tệ." Gottfried đứng lên. "Thử xem."
Pat ngồi xuống ghế. Gương mặt nàng bừng sáng giữa những đóa hoa thắm tươi.
"Tôi mê tử đinh hương lắm," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Nhớ nhà với tôi có nghĩa là nhớ tử đinh hương. Mùa xuân năm hai mươi bốn, từ Rio de Janeiro tôi đã cố trở về thật gấp gáp, chỉ vì tôi nhớ ra, hẳn là tử đinh hương đang mùa hoa nở. Khi tôi về đến nơi, dĩ nhiên là đã muộn." Anh cười. "Lúc nào cũng thế."
"Rio de Janeiro." Pat kéo một chùm hoa xuống gần. "Hai anh đều ở đấy cùng một lúc? ""
Gottfried khựng lại. Tôi rùng mình, cảm thấy một luồng buốt giá chạy dọc theo cột sống.
"Hãy nhìn trăng kìa," tôi vội vàng nói, cùng một lúc dẫm nhẹ lên chân Lenz để ra hiệu.
Từ đóm lửa ở đầu điếu thuốc của Lenz, tôi thấy một nụ cười phảng phất và ánh mắt tinh nghịch. Tôi được cứu bồ. "Không, chúng tôi không ở đấy cùng một thời gian. Lúc đấy chỉ có một mình tôi. Nhưng, còn một chút rượu woodruff này, cô nghĩ thế nào?"
"Thôi ạ." Pat lắc đầu. "Em không uống được nhiều rượu."
Chúng tôi nghe Ferdinand gọi, và quay về. Nhưng tôi đã quyết tâm là một dịp nào đó, tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề Brazil. Goffried nói đúng -- tình yêu làm hư hoại tính cách con người.
Ferdinand dềnh dàng đứng ở khung cửa. "Vào đây, các con," anh nói. "Những người như chúng ta không dính dáng gì đến thiên nhiên vào ban đêm. Thiên nhiên muốn được cô độc. Nếu là nông dân hay ngư phủ, đấy lại là một chuyện khác -- nhưng chúng ta, những cư dân thành thị, bản năng đã cùn nhụt, không thể nào." Anh đặt tay lên vai Gottfried. "Đêm là sự phản kháng của thiên nhiên đối lại bệnh hủi của văn minh, Goffried. Không một người chân chánh nào có thể chống cự lâu dài. Hắn sẽ để ý thấy rằng hắn đã bị loại khỏi sự bầu bạn im lặng của cây cỏ, muôn thú, ngàn sao, và cuộc sống vô thức." Anh mỉm nụ cười kỳ quặc của mình; người ta không bao giờ biết đấy là nụ vui hay buồn. "Vào đây, các con. Hãy sưởi ấm đôi tay bằng những hồi ức. Ach, thời kỳ tuyệt vời, khi chúng ta còn là cỏ đuôi ngựa và cá lóc -- năm mươi, sáu mươi ngàn năm trước -- Lạy Chúa, từ đấy đến nay, chúng ta sa ngã đến mực nào."
Anh cầm tay Pat. "Nếu chúng ta không có chút ý thức về cái đẹp này -- thì chúng ta đã tiêu đời." Một cách tinh tế, bàn tay hộ pháp của anh đặt tay nàng lên cánh tay anh. "Ngôi sao bạc băng qua vực thẳm hun hút -- cô có vui lòng uống một cốc rượu với người đàn ông vạn cổ này không?
Pat gật đầu. "Vâng," nàng nói. "Bất kỳ điều gì anh thích."
Khoảng mười một giờ, chúng tôi ra về. Valentin và Ferdinand ngồi tắc xi, Valentin cầm lái. Những người còn lại đi trên Karl. Đêm ấm và Koster lái vào những xóm làng say ngủ bên đường, không một dấu hiệu của sự sống-- ngoại trừ vài ngọn đèn và tiếng sủa của một con chó. Lenz ngồi trước với Otto, ca hát; Pat và tôi phục ở băng sau.
Koster lái rất cừ. Anh lượn ở những khúc quanh như chim, dễ dàng như trò chơi con trẻ. Anh không lái thô bạo như một số tay đua. Ta có thể ngủ say ở những góc chữ chi; ta không bao giờ phải chú ý đến tốc độ xe.
Chúng tôi lắng nghe tiếng bánh xe xiết trên mặt đường, thay đổi tùy theo loại. Đường tráng nhựa, như tiếng huýt sáo, đường lát đá, như tiếng sấm động. Đèn pha quét về phía trước như những con greyhounds bị kéo dãn, và bất ngờ trong đêm tối, hai hàng bạch dương run rẩy lá, một rặng dương, những cột điện tín trôi lướt, những ngôi nhà thấp lúp xúp và bờ rừng diễn hành đàng xa. Bao la trên đầu chúng tôi, với hàng triệu ngôi sao, dải ngân hà như sương lung linh, dài lướt thướt.
Xe chạy nhanh hơn. Tôi choàng mấy tấm áo khoác lên mình Pat. Nàng mỉm cười với tôi.
"Em yêu anh, thật không?" tôi hỏi
Nàng lắc đầu. "Còn anh?"
"Không. May quá, phải không?"
"Rất may."
"Như thế, sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta, em nhỉ?"
"Không," nàng trả lời và tìm tay tôi dưới những lần áo khoác.
Đường uốn một vòng cạnh hàng rầy xe lửa. Hàng rây sáng bóng. Đàng xa, một ánh đèn đỏ chập chờn. Karl hí lên và vọt tới. Đó là một con tàu tốc hành với toa ngủ và một toa ăn còn sáng đèn. Chúng tôi tuần tự bắt kịp con tàu. Từ cửa sổ, nhiều người vẫy tay. Chúng tôi không vẫy lại. Chúng tôi vượt qua. Tôi nhìn quanh. Con tàu nhả khói và những tia hoa lửa. Nó rùng rục chạy, đen ngòm trong đêm xanh. Chúng tôi đuổi kịp và qua mặt nó --nhưng chúng tôi lái về thành phố, về xe tắc xi, về xưởng sửa xe, và phòng cho thuê có trang bị bàn ghế; trong khi nó tiếp tục lướt qua những vạt rừng, những cánh đồng và sông ngòi, vào một chuyến viễn du đến những miền đất xa xôi và bát ngát hơn.
Đường phố, nhà cửa tiến gần. Karl trở nên dịu dàng, nhưng tiếng gầm của nó vẫn là tiếng của một con thú hoang. Koster không lái về nhà tôi hay nhà Pat, mà ngừng ở nghĩa trang gần đó, rõ ràng anh nghĩ, chúng tôi muốn được bên nhau. Chúng tôi xuống xe. Hai người kia phóng vèo ngay, không ngoái nhìn. Tôi liếc theo họ. Một cảm giác kỳ cục thoáng qua, rằng họ, bạn của tôi, đã bỏ đi và một mình tôi ở lại.
Tôi xua đuổi ý nghĩ ấy. "Này em," tôi nói với Pat, đang quan sát tôi như thể nàng có linh tính một chuyện gì.
"Anh theo họ đi," nàng nói.
"Không," tôi nói.
"Anh muốn đi theo họ mà, mặc dù --"
"Ach, tại sao lại ---" tôi nói, biết đấy là sự thật. "Thôi mà, em."
Chúng tôi đi ngang qua nghĩa trang; chúng tôi vẫn còn một ít cảm giác bồng bềnh, say gió và xe.
"Bob," Pat nói, "Em nghĩ, em nên về nhà em."
"Sao thế?"
"Em không muốn anh phải từ bỏ một thứ gì bởi em."
"Em nói gì thế ?" tôi nói, "anh có từ bỏ điều gì đâu?"
"Bạn anh --"
"Anh không bỏ bạn bè. Ngày mai, việc đầu tiên trong ngày là anh gặp họ."
"Nhưng, anh biết em muốn nói gì," nàng nói. "trước đây, anh đi với họ thường xuyên hơn."
"Vì lúc ấy chưa có em," tôi trả lời và mở cửa.
Nàng lắc đầu. "Cái ấy lại khác."
"Dĩ nhiên là khác, tạ ơn Chúa."
Tôi bế nàng trên tay, đi qua hành lang về phòng mình.
"Anh cần có chiến hữu," nàng nói, kề sát mặt tôi.
"Anh cũng cần có em," tôi trả lời.
"Nhưng không nhiều lắm."
"Rồi chúng ta sẽ thấy."
Tôi đẩy cửa phòng và để nàng xuống. Nàng bám vào tôi. "Em chỉ là một chiến hữu tồi, Robby."
"Hy vọng là thế," tôi nói. "Tuy nhiên, anh không muốn một người đàn bà là chiến hữu của anh. Anh muốn nàng là người tình."
"Em cũng không phải là người tình," nàng thì thào.
"Vậy em là ai?"
"Chỉ là phân nửa, không trọn vẹn. Một mảnh vụn --"
"Như thế lại hay hơn cả," tôi nói. "Sẽ khơi dậy trí tưởng tượng. Người ta mãi mãi yêu những người đàn bà ấy. Những người đàn bà hoàn hảo sớm gây nhàm chán. Những người cao sang, cũng thế. Còn những mảnh vụn đáng yêu, không bao giờ."
Bốn giờ sáng. Tôi đưa Pat về nhà nàng và đang trên đường trở lại. Trời đã rạng đông. Thoảng đâu đây mùi hương ngày mới.
Tôi đi dọc theo nghĩa trang, qua khỏi quán Café International, về nhà. Cửa quán rượu của tài xế tắc xi cạnh Phòng Thương Mại mở ra và một cô gái xuất hiện. Một cái mũ be bé, một cái áo khoác đỏ, ngắn, cũ mòn, đôi ủng cao, da bóng -- tôi sắp bước qua thì nhận ra cô ấy -- "Lisa!"
"Anh đây rồi!" nàng nói.
"Em từ đâu đến?" tôi hỏi.
Nàng làm một cử chỉ. "Em đã đợi ở đây nãy giờ. Em nghĩ, anh sẽ đi qua. Anh thường trở về nhà vào giờ này, phải không?'
"Vâng, đúng thế."
"Đi theo em nhé? " nàng hỏi.
Tôi ngập ngừng. "Anh không thể."
"Anh không cần trả tiền," nàng vội vàng nói.
"Không phải vậy đâu," tôi trả lời, không suy nghĩ. "Anh có tiền."
"Ach, vậy ra," nàng cay đắng nói, lui lại một bước.
Tôi cầm tay nàng. "Không, Lisa."
Mảnh mai và xanh xao, nàng đứng trên con đường vắng, xám. Tôi quen với nàng từ nhiều năm trước, khi tôi sống trong nhục cảm và cô đơn, không ai chăm sóc, không tình yêu. Lúc đầu nàng đầy nghi ngại, như các cô gái làng chơi ấy; nhưng rồi, sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều lần, nàng phó thác tâm tư và quý mến tôi đến mức bệnh hoạn. Đây là một liên hệ kỳ lạ -- đôi khi nhiều tuần liên tiếp, tôi không gặp nàng, rồi bất ngờ một hôm, nàng sẽ đứng ở đâu đó, chờ tôi. Dạo ấy, chúng tôi chẳng có ai hay thứ gì -- vì thế, một chút ấm áp và bầu bạn mang nhiều ý nghĩa với chúng tôi hơn là ở những hoàn cảnh khác. Đã lâu, tôi không gặp nàng -- từ khi tôi biết Pat, không một lần gặp lại.
"Thời gian vừa qua, em ở đâu, Lisa?"
Nàng nhún vai. "Có gì khác chăng? Em chỉ muốn gặp anh. Vậy, em nghĩ, em có thể cút đi, hẳn rồi."
"Thế, công việc lúc này ra sao?"
"Đừng lo," nàng nói. "Anh không cần bận tâm."
Môi nàng rung rung. Trông nàng như người ốm đói lâu ngày.
"Anh sẽ đi với em một lúc," tôi nói.
Gương mặt nghèo khổ, vô cảm, phong trần của nàng bừng sáng và gần như biến thành trẻ thơ. Trên đường đi, ở nhà tạm trú của tài xế tắc xi, tôi mua vài món ăn cho nàng. Lúc đầu, nàng không muốn và chỉ đồng ý khi tôi giải thích rằng tôi đang đói meo. Nhưng nàng để ý sao cho tôi không bị gạt và mua nhầm hàng kém phẩm chất. Nàng không chịu cho tôi mua nửa cân thịt muối;, nàng nói hơn một phần tư cân đủ rồi, nếu ta lấy thêm vài khoanh xúc xích nhỏ. Nhưng tôi nhất định mua đủ nửa cân thịt muối và hai hộp xúc xích.
Nàng sống ở một căn gác mái, phải tự sắm sửa vật dụng. Một cây đèn dầu đặt trên bàn, và cạnh giường là ngọn nến đựng trong lọ thủy tinh. Các tấm ảnh cắt từ nhật báo đính trên tường bằng kim. Trên mặt tủ áo, dăm ba cuốn tiểu thuyết trinh thám nằm chơ vơ bên cạnh một xấp hình khiêu dâm. Khách của nàng, đặc biệt những người có vợ, đôi khi thích xem chúng. Lisa lùa chúng vào ngăn kéo, và lấy ra một tấm khăn bàn đã cũ, nhưng sạch.
Tôi mở gói thức ăn. Trong khi ấy, Lisa cởi bỏ y phục. Đầu tiên là cái áo đầm, dù tôi biết rõ, đôi ủng mới là thứ làm nàng đau nhất; nàng phải đi bộ nhiều biết mấy. Nàng đứng đấy, trong đôi ủng da bóng cao tận gối và tấm áo lót đen.
"Anh thấy chân em ra sao?" nàng hỏi.
"Hạng nhất, như bao giờ."
Nàng lấy từ tủ áo ra một chiếc kimono và một đôi hài gấm của thời vàng son đã bạc màu, và mỉm cười, tuồng như biết lỗi. Nàng muốn làm vui lòng tôi. Tôi chợt có một cảm giác nghẹn ngào, trên căn gác chật hẹp này, như thể có người thân vừa mất.
Chúng tôi ăn và tôi trò chuyện với nàng, mệt mỏi. Nhưng, vì tất cả những chuyện ấy, nàng nghĩ rằng có một điều gì đổi thay. Đôi mắt nàng hoảng sợ. Giữa chúng tôi chưa bao giờ có điều gì nhiều hơn là số phận đẩy đưa. Nhưng có lẽ chuyện ấy lại càng làm nặng nợ thêm và ràng buộc chúng tôi chặt chẽ hơn những việc khác.
"Anh ra về đấy à?" nàng hỏi, khi tôi đứng lên -- như thể nàng lo lắng.
"Anh có một cái hẹn."
Nàng nhìn tôi. "Muộn thế cơ?"
"Việc làm ăn. Rất quan trọng với anh, Lisa. Một người anh cần phải gặp. Tại Astoria, thường thường vào giờ này."
Không một người đàn bà nào nhạy cảm cho bằng Lisa trong vấn đề này. Nhưng chẳng có ai khó bị lừa dối như nàng. Gương mặt Lisa rỗng tuếch.
"Anh có người đàn bà khác."
"Nhưng Lisa -- chúng ta rất hiếm khi gặp nhau -- đã gần một năm nay -- em phải hiểu --"
"Không, em không có ý nói thế. Anh đã gặp một người mà anh yêu. Anh thay đổi hẳn. Em có thể cảm thấy điều ấy."
"Ach, -- Lisa"
"Vâng, vâng. Thú nhận đi."
"Anh cũng không hiểu anh lắm, Lisa. Có lẽ --"
Nàng đứng một lúc. Rồi gật đầu: "Vâng -- vâng -- dĩ nhiên --Và em ngu quá --thật tình chúng ta chẳng có gì với nhau --" Nàng lướt bàn tay trên trán. "Em không biết tại sao em lại ..."
Tấm thân mảnh dẽ đứng trước tôi, khao khát và ẻo lả. Đôi hài gấm -- áo kimono -- những đêm dài quạnh hiu -- kỷ niệm ..."
"Au revoir, Lisa ..."
"Anh về sao? Anh không ở lại đây thêm chút nữa? Anh về thật ư?"
Tôi hiểu nàng muốn nói gì. Nhưng tôi không thể. Đặc biệt vô cùng, nhưng tôi không thể, và tôi cảm nhận tường tận việc ấy. Chưa bao giờ cảm thấy như thế. Tôi không hề có một khái niệm cường điệu nào về lòng chung thủy. Nhưng chỉ giản dị là không thể nào được nữa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi đã tiến xa biết mấy.
Nàng đứng ở ngạch cửa. "Anh về đấy ư?" Nàng chạy vào trong. "Đây, em biết anh để tiền lại cho em -- dưới tờ báo. Em không cần tiền. Đấy -- đấy -- vâng, cứ đi thôi --"
"Anh phải đi, Lisa."
"Anh đừng bao giờ trở lại."
"Ô, anh sẽ trở lại, Lisa."
"Không, không, anh sẽ không bao giờ trở lại, em biết. Và anh đừng trở lại. Nhưng đi, đi ngay đi --"
Nàng khóc. Tôi bước xuống cầu thang và không nhìn lại.
Tôi đi thật lâu trên đường phố. Một đêm kỳ lạ. Tôi vẫn tỉnh táo và không thể ngủ. Tôi đi ngang quán International, nhớ về Lisa và những năm đã trôi qua, về những thứ tôi đã quên; nhưng dường như chúng quá xa vời và không thuộc về tôi nữa. Rồi tôi lang thang đến con đường của nhà Pat. Gió thổi mạnh hơn, tất cả cửa sổ ngôi nhà của nàng chìm trong bóng tối, bình minh lần mò bước chân xám qua những khung cửa; và cuối cùng, tôi trở về nhà.
Lạy Chúa, tôi nghĩ, tôi tin rằng tôi hạnh phúc.
Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
"Thiếu tá đứng gần chót bảng."
"Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
"À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
"Vậy anh không biết cụ ấy."
"Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
"Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
"Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
"Vâng, nhìn đây."
"Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
"Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
"Em sẽ dùng cà phê với anh."
"Nếu không, em sẽ uống trà?"
"Vâng."
"Chúng ta cùng uống trà vậy."
"Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
"Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
"Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
"Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
"Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
"Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
"Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
"Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
"Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
"Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
"Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
"Sao lại thế?"
"Em ốm."
"Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
"Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
"Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
"Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
"Em nhớ dai thật," tôi nói.
"Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
"Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
"Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
"Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
"Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
"Anh cũng thế."
"Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
"Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
"Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
"Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
Nàng lắc đầu.
"Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
"Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
"Không, can đảm chứ."
"Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
"Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
"Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
"Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
"Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
"Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
"Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
"Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
"Ngày một tháng Tám."
"Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
"Vậy anh đã có máy hát?"
"Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
"Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
"Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
"Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
"Không," nàng đáp.
"Em lại đúng," tôi nói.
Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
"Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
"Ở tiệm đàng góc phố."
À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
"Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
"Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
"Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
"Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
"Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
"Chẳng đáng chi, anh ạ."
"Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
"Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
"Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
"Không có việc gì?"
"Loại nào?"
"Thư ký văn phòng, phụ tá --"
Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
"Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
"Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
"Cái gì?"
"Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
"Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
"Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
"Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
"Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
"Ach, ơ --" tôi nói.
"Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
"Làm gì có," tôi trả lời.
Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
"Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
"Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
"Vâng?"
"Vâng, trẻ ra."
"Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
"Pros't, Bob."
Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
"Bé con," Valentin nói.
"Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
"Như khi nãy."
"Phải rồi."
Fred rót đầy ly.
"Nào, pros't, Valentin."
"Pros't,
"Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
"Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
"Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
"Vâng," anh nói.
Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
"Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
"Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
"Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
"Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
"Nước chanh."
"Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
"Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
"Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
"Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
"Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
"Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
"Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.