Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 13

Tựa Đề: Erich Maria Remarque Chiến hữu

  1. #7
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 8


    Tôi đứng đối mặt bà chủ nhà. "Lại chuyện gì nữa đây?" Frau Zalewski hỏi.
    "Có chuyện gì đâu," tôi đáp. "Cháu chỉ muốn trả tiền nhà mà thôi."
    Còn ba ngày nữa mới đáo hạn, Frau Zalewski suýt nữa ngã ngửa vì kinh ngạc.
    "Chắc có âm mưu gì đây," bà nhận xét.
    Bà chống tay trên bờ hông phốp pháp, sẳn sàng chiến đấu. "À ra thế! Cậu không thích phòng của cậu sao?"
    "Có chứ, nhưng cháu thích mấy cái ghế bành gấm hơn."
    Tôi giải thích rằng, có một cô em họ sắp sửa đến thăm và tôi muốn phòng của mình lịch sự hơn. Bà rung rúc cười đến độ ngực rung rinh từng chập.
    "Em họ?" bà nhắc lại, chế diễu. "Khi nào cô ấy đến?"
    "Chưa biết khi nào," tôi nói, "nhưng, nếu cô ấy đến, dĩ nhiên sẽ đến sớm; để dùng bửa tối. Và, tuy nhiên, Frau Zalewski, tại sao lại không thể có em họ cơ chứ?"
    "Em họ có sao đâu," bà đáp; "nhưng không ai lại mượn ghế bành cho em họ."
    "Có cháu đấy," tôi phản đối. "Cháu coi trọng bà con quyến thuộc lắm."
    "Trông có vẻ thế. Cả đám hẳn là bợm nhậu mà thôi. Cậu có thể khuân ghế bành gấm về phòng. Còn ghế nhung đỏ, tạm thời dời ra phòng khách."
    "Cám ơn bác lắm. Ngày mai cháu sẽ trả lại chỗ cũ. Luôn cả tấm thảm."
    "Thảm?" Bà quay lại. "Có ai nói tiếng nào về thảm?"
    "Cháu chứ ai. Mà bác cũng vừa nói đấy thôi."
    Bà nhìn tôi, bất mãn.
    "Nhưng chúng thuộc về nhau," tôi nói. "Ghế bành đặt trên thảm, bác biết mà."
    "Herr Lohkamp," Frau Zalewski trịnh trọng tuyên bố, "đừng thấy được rồi làm tới. Như ông Zalewski quá cố thướng nói, ở đời cần phải giữ đức trung dung. Có lẽ cậu cũng nên lấy câu ấy làm điều tâm niệm."
    Tôi biết ông Zalewski quá cố, mặc dù tôn chỉ của ông, đã thực sự nhậu nhẹt đến chết. Vợ ông thỉnh thoảng nói cho tôi biết điều ấy. Nhưng bà không lấy thế làm phiền. Bà dùng ông như người khác dùng Kinh Thánh. Ông qua đời càng lâu, bà trích lời ông càng nhiều. Hiện nay, trong bất kỳ trường hợp nào, bà cũng có thể dẫn ra một câu vàng ngọc của ông -- chẳng khác gì Kinh Thánh.
    Tôi bận rộn chuẩn bị phòng ốc. Tôi đã điện thoại cho Patricia Hollmann từ chiều. Nàng bệnh và tôi không gặp nàng gần một tuần nay. Chúng tôi có hẹn lúc tám giờ tối, và tôi đề nghị ăn ở nhà, sau đó sẽ đi xem chiếu bóng.
    Ghế bành gấm và tấm thảm trông rất đẹp; nhưng ánh sáng bệch bạc, nhạt nhẽo. Vì thế tôi gõ cửa phòng của Hasse kế bên, mượn cây đèn bàn.
    Frau Hasse uể oải ngồi bên cửa sổ. Chồng chị chưa về. Mỗi ngày anh tình nguyện làm thêm hai giờ, hy vọng sẽ không bị sa thải. Nhìn chị, ta liên tưởng đến một con chim ốm. Dưới những nét nhão nhề tàn tạ vẫn là gương mặt nhỏ nhắn của một đứa trẻ -- một đứa trẻ chán nản, u sầu.
    Tôi lễ phép hỏi. Chị tươi tỉnh hẳn và đưa cây đèn cho tôi. "Ach
    Tôi biết rõ câu truyện. Về những người có thể hỏi cưới chị, nếu chị đã từ chối Hasse. Tôi biết một truyện tương tự, nhưng dưới góc nhìn của Hasse. Trong ấy có những người con gái lẽ ra anh đã gặp, nếu anh vẫn còn đơn chiếc. Có lẽ đây là câu truyện thường xảy ra nhất trên đời. Và vô vọng nhất.
    Mỗi khi Frau Hasse nhắc đến Erna, chị chỉ dùng nhóm từ "cô gái phòng bên." Chị khinh bỉ Erna vì ganh ghét nàng. Tôi có nhiều cảm tình với nàng. Nàng không phàn nàn chi về cuộc đời và hiểu rằng ta phải cố gắng, cho dù chỉ có những vụn vằn của cái gọi là hạnh phúc. Nàng cũng biết ta phải trả giá đắt cho hạnh phúc. Hạnh phúc là thứ bất định nhất và đắt giá hơn cả.
    Erna quỳ trước thùng dĩa hát và chọn vài cái cho tôi. "Anh có muốn điệu foxtrot không?"
    "Không," tôi đáp. "Tôi không biết khiêu vũ."
    Nàng ngước lên, lạ lẫm. "Anh không biết khiêu vũ ư? Vậy khi đi chơi, anh làm gì?"
    "Tôi khiêu vũ với thực quản. Cũng tốt vậy."
    Nàng lắc đầu. "Nếu ông xã tôi không biết khiêu vũ, tôi cũng bỏ ông ấy mà thôi."
    "Chị nguyên tắc gớm nhỉ," tôi trả lời. "Nhưng chị còn nhiều dĩa khác. Chỉ mấy hôm trước, chị có một dĩa hát dễ thương lắm -- giọng nữ đệm với đàn Hạ Uy Di."
    "A, bản ấy thật tuyệt vời. 'Làm sao em có thể sống xa anh?' -- phải không?"
    "Vâng, đúng rồi. Không hiểu các ông nhạc sĩ suy tư điều gì mà viết hay như thế ? Tôi đoán, họ là những người lãng mạn còn sót lại."
    Nàng cười. "Nhưng tại sao không? Anh biết đấy, một dĩa hát như thế là một loại niên biểu gia đình. Có một dạo, người ta chép thơ vào sổ lưu niệm; đời nay, người ta tặng nhau dĩa nhạc. Nếu tôi muốn nhớ lại một sự kiện, tôi chỉ cần đặt vào máy hát những dĩa nhạc thời ấy, và dĩ vãng lại ùa ạt quay về."
    Tôi nhìn xuống chồng dĩa hát dưới sàn. "Dựa vào đấy, Erna, hẳn chị có cả chồng kỷ niệm."
    Chị đứng dậy, hất mái tóc đỏ ra sau. "Vâng," chị nói, lấy chân đẩy chồng dĩa sang một bên. "Nhưng tôi sẽ sớm có một kỷ niệm đẹp."
    Tôi mở những gói thực phẩm đã mua cho bửa ăn tối và cố gắng bày biện theo khả năng của mình. Tôi không nghĩ bà bếp sẽ giúp đỡ. Tôi không thuận thảo với Frida. Thể nào bà ấy cũng sẽ làm đổ vỡ một thứ gì đó. Nhưng không đến nỗi tệ, chẳng mấy chốc tôi hầu như không thể nhận ra căn phòng của mình, nó lộng lẫy hẳn lên. Nào là ghế bành, đèn để bàn, bàn ăn phủ khăn -- tôi cảm thấy lòng bồi hồi xao xuyến.
    Tôi ra khỏi nhà, vẫn còn hơn một giờ chờ đợi. Ngoài trời, gió thổi từng cơn dài thậm thượt quanh các ngã tư. Đèn đường đã thắp. Bóng tối giữa các căn nhà xanh như biển, và quán International bập bềnh trên đó như con tàu chiến sẳn sàng chuyển hướng. Chỉ một bước tôi đã nhảy lên boong tàu.
    "Ới kìa, Robert," Rosa nói.
    "Chị làm gì ở đây?" tôi hỏi. "Chưa đi vòng nào sao?"
    "Còn sớm lắm."
    Alois nhẹ nhàng bước tới. "Một?" anh hỏi.
    "Ba," tôi nói.
    "Uống dữ thế," Rosa nhận xét.
    "Cần một thứ thật nồng," tôi nói, nghiêng cốc rượu, uống cạn.
    "Em không đàn một bản nào sao?" Rosa hỏi.
    Tôi lắc đầu. "Hôm nay không có hứng. Giông gió quá, Rosa ạ. Cháu vẫn khỏe chứ?"
    Chị cười khoe hết những cái răng vàng. "Ôi --phỉ phui! Ngày mai chị sẽ đi thăm nó. Tuần này việc làm ăn khấm khá; dê già lại cảm thấy mùa xuân. Chị sẽ đem cho cháu một chiếc áo khoác mới. Dạ đỏ."
    "Dạ đỏ! Hợp thời trang lắm," tôi nói.
    Rosa rạng ngời. "Em là một người hào hiệp, Bob."
    "Hy vọng chị nói đúng," tôi nói. "Nào, uống một ly với em nhé. Anisette, phải không?"
    Chị gật đầu. Alois đem rượu đến và chúng tôi chạm ly. "Rosa, nói cho em biết, chị nghĩ gì về tình yêu?" tôi hỏi. "Chị phải có ít nhiều kinh nghiệm."
    Chị phá lên cười sặc sụa.
    "Ui chà, về những thứ ấy, -- " rồi chị nói. "Tình yêu. Ach, Arthur của chị -- mỗi khi nghĩ đến tên vô lại hoang đàng ấy, đầu gối chị lại chảy tan thành nước. Để chị nói Bob nghe điều này, nghiêm chỉnh -- Đời người quá dài cho tình yêu. Dài quá, thế đấy. Arthur của chị đã nói thế, khi bỏ đi. Và đúng vậy. Tình yêu thì tuyệt vời. Nhưng với một người, tình yêu luôn luôn quá chán chường. Còn người kia, chỉ ngồi đấy, và nhìn đăm đăm. Điên dại."
    "Đồng ý," tôi nói "Một mặt khác, nếu không có tình yêu, người ta sẽ chẳng hơn gì một xác chết biết đi."
    "Hãy làm giống chị," Rosa trả lời, "có một đứa con. Như thế em sẽ có một đối tượng để thương yêu và cho tâm hồn được bình yên."
    "Ý không tệ lắm," tôi nói. "Chưa bao giờ xảy đến với em."
    Rosa lắc đầu, mơ mộng. "Dù Arthur của chị đã bao lần đối xử tàn nhẫn -- tuy nhiên nếu ngay lúc này anh ấy bước vào đây, với cái mũ quả dưa hờ hững trên đầu -- ôi chao, chỉ nghĩ đến thế, chị đã rưng rưng muốn khóc."
    "Nào, hãy uống mừng sức khoẻ Arthur," tôi nói.
    Rosa cười to. "Mong cho thằng khốn khiếp mạnh giỏi!"
    Chúng tôi cạn ly. "Au revoir, Rosa. Đắt khách nhé."
    "Au revoir
    Cánh cửa nhà sập mạnh.
    "Chào anh," Patricia Hollman nói, "đang suy tư đấy à?"
    "Không. Còn cô thì sao? Khỏe hơn chưa? Cô bị bệnh gì thế?"
    "Ach, không có bệnh gì đặc biệt. Cảm và sốt nhẹ mà thôi."
    Rõ ràng, trông nàng không có vẻ ốm đau hay tiều tụy. Ngược lại, chưa bao giờ tôi thấy mắt của nàng to và sáng như hôm nay, đôi má ửng hồng và dáng điệu thanh thoát, uyển chuyển như một con thú tơ non.
    "Trông cô tuyệt vời," tôi nói. "Hoàn toàn khỏe mạnh. Chúng ta sẽ tha hồ vui chơi."
    "Được lắm," nàng đáp. "Tuy nhiên, hôm nay thì không. Hôm nay, tôi không thể."
    Tôi bối rối nhìn nàng. "Cô không thể?"
    Nàng lắc đầu. "Vâng, chẳng may."
    Tôi vẫn chưa hiểu. Tôi chỉ nghĩ rằng nàng đã đổi ý, không muốn đến nhà tôi và ăn tối ở đấy.
    "Mấy phút trước tôi vừa điện thoại để nói rằng anh không cần đến. Thế nhưng anh đã đỉ rồi."
    Cuối cùng tôi cũng hiểu. "Cô định nói, thực sự cô không thể đi chơi? Nguyên buổi tối hôm nay?" tôi hỏi.
    "Vâng, hôm nay. Tôi có một cuộc phỏng vấn quan trọng. Chẳng may, người ta chỉ báo trước chừng nửa tiếng mà thôi."
    "Cô không thể đình lại? hoãn đến ngày mai? Chúng ta đã hẹn nhau tối nay!"
    "Không thể được." Nàng mỉm cười. "Công ăn việc làm mà."
    Tôi choáng váng. Tôi đã dự phòng tất cả các tình huống, ngoại trừ chuyện này. Tôi không tin dẫu một lời của nàng. Không giống công việc. Có thể nàng chỉ viện cớ. Chắc chắn rồi, không còn nghi ngờ chi nữa. Có cuộc phỏng vấn quan trọng nào lại tiến hành ban đêm hay không? Ban ngày mới là thời gian thích hợp. Và dù sao, chẳng ai lại báo một tin quan trọng trong vòng nửa tiếng. Đơn giản là nàng muốn hủy bỏ buổi hẹn với tôi, thế thôi.
    Tôi tiu nghỉu như một đứa trẻ. Chỉ đến lúc này tôi mới ý thức được mình đã thiết tha mong chờ ra sao. Tôi khó chịu vì đã bực bội, và tôi không muốn hé lộ cho nàng biết.
    "Tốt lắm," tôi nói, "vậy thì chẳng làm gì cả. Au revoir."
    Nàng nhìn tôi, dọ dẫm. "Không có chi gấp gáp. Đến chín giờ tôi mới cần có mặt ở đấy. Chúng ta có thể đi dạo một lúc. Cả tuần nay tôi không bước chân khỏi nhà."
    "Cũng được," tôi do dự. Bỗng nhiên tôi cảm thấy lòng mình trống vắng, rã rời.
    Chúng tôi đi trên đường phố. Đêm trong vắt và những vì sao lấp lánh giữa các nóc nhà. Ngang qua một bãi cỏ trống, nơi có vài bụi cây ẩn mình trong bóng tối, Patricia Hollman chợt ngừng lại.
    "Tử đinh hương," nàng nói. "Tôi ngửi mùi tử đinh hương! nhưng vô lý, dĩ nhiên, vì đâu đã đến mùa."
    "Tôi không ngửi được mùi gì cả," tôi trả lời.
    "Có mà!" Nàng nghiêng người qua lớp rào sắt.
    "Đấy là Daphne indica, hoa thụy hương, thưa cô," một giọng khàn khàn từ bóng tối vọng ra.
    Một công nhân chăm sóc hoa viên thành phố, với cái mũ vải đính phù hiệu kim loại đang đứng tựa một gốc cây. Ông chếch choáng tiến tới. Cổ một chai thủy tinh sáng lóng lanh thò ra ở miệng túi. "Chúng tôi mới trồng hôm nay," ông vừa nấc cụt vừa giải thích. "Ở đàng kia."
    "Cám ơn ông," Patricia Hollman nói và quay lại nhìn tôi. "Anh chưa ngửi thấy mùi gì sao?"
    "Có chứ, tôi dư sức ngửi được," tôi trả lời rất vô duyên. "Brandy ngon và quý."
    "Ăn nói đáo để nhỉ!" Người đàn ông trong bóng tối ợ rõ to.
    Cô gái cười lớn và hít một hơi dài. "Thật đáng yêu biết mấy, khi ta đã giam mình ở nhà một thời gian quá lâu. Rất tiếc, tôi sắp phải đi. Cái anh Binding này -- lúc nào cũng vội vã và đợi đến phút chót -- tôi nghĩ anh ấy có thể dời cuộc phỏng vấn đến mai."
    "Binding?" tôi hỏi. "Cô có hẹn với Binding?"
    Nàng gật đầu. "Với Binding và một người khác. Chính người ấy mới đáng kể. Việc rất quan trọng. Anh có tưởng tượng được không?"
    "Không," tôi trả lời. "Tôi không thể."
    Nàng cười to và tiếp tục nói. Nhưng tôi không thể lắng nghe nàng nữa. Binding -- tên ấy như một tia chớp đâm xuyên thân thể tôi. Tôi không nhận ra, dù sao nàng cũng quen biết anh ấy rất lâu trước khi quen tôi -- tôi chỉ thấy diễn ra trước mắt, chiếc Buick to lớn của anh, bóng nhoáng và đồ sộ hơn đời thường; bộ quần áo sang trọng và cái ví tiền dầy cộp của anh. Căn phòng cũ, cố ý trưng bày cho có vẻ lịch lãm, đáng thương của tôi! Không hiểu tôi đã nghĩ gì! nào đèn bàn của Hasse, ghế bành của Zalewski! Nàng không phải là người con gái dành cho tôi, dĩ nhiên. Dù sao, tôi là ai chứ? Một anh bộ hành kiết xác có lần vay mượn chiếc Cadillac, một bợm nhậu ngu khờ, chỉ có thế thôi. Hạng người ta gặp nhan nhản ngoài phố. Tôi hình dung ra cảnh người gác cửa ở quán "Chùm Nho" kính cẩn chào Binding, những căn phòng trang nhã, ấm cúng, sáng sủa, khói thuốc mờ mịt như mây, những con người khôn ngoan tài giỏi. Tôi nghe âm nhạc và tiếng cười -- cười chế nhạo tôi. Lui lại, tôi nghĩ, lui nhanh. Một ý tưởng, một hy vọng -- như thế cũng đủ lắm rồi. Sẽ rất vô lý nếu tôi để cho mình vướng mắc vì dựa vào sức mạnh ấy. Không có cách gì khác, ngoại trừ tháo lui.
    "Không chừng chúng ta có thể gặp nhau tối mai," Patricia Hollmann nói.
    "Tối mai tôi không rảnh," tôi trả lời.
    "Vậy hôm sau hay là một ngày nào đó tuần này. Trong mấy ngày sắp tới, tôi không bận gì cả."
    "Khó lắm," tôi nói. "Chiều nay chúng tôi vừa nhận một đơn hàng khẩn cấp, có lẽ mỗi ngày chúng tôi phải ở lại làm việc đến khuya, suốt tuần mới xong."
    Đấy là chuyện bịa, nhưng tôi không thể nào làm khác hơn. Có quá nhiều giận dỗi và tủi hổ trong tôi.
    Chúng tôi băng ngang công trường, đi trên con đường dẫn về nghĩa trang.Tôi trông thấy Rosa, từ phía quán International đi đến. Đôi ủng cao của chị bóng lộn. Tôi có thể ngoặt sang một con đường mới, và nếu vào một dịp khác, có lẽ tôi đã làm vậy; nhưng tôi vẫn đi thẳng về phía chị. Rosa nhìn qua vai tôi như chúng tôi là hai người hoàn toàn xa lạ. Đúng ra phải như thế; không một cô nào trong bọn sẽ chào hỏi, khi một trong hai bên có người đi kèm.
    "Chào Rosa," tôi nói.
    Quá ngạc nhiên, chị nhìn tôi trước, rồi sau đó, nhìn sang Patricia Hollmann; chị hấp tấp gật đầu và cuống quýt bước đi. Chỉ vài bước sau chị là Fritzi, ví xách lủng lẳng, môi đỏ chót và cặp hông đong đưa theo bước chân. Chị lãnh đạm nhìn xuyên qua tôi như thể tôi là một tấm kính trong suốt.
    "Gruss Gott, Fritzi," tôi nói.
    Chị nghiêng đầu như một bà hoàng và không để lộ một chút kinh ngạc nào; nhưng khi đã vượt qua, tôi nghe bước chân gấp rút của chị --chị sẽ bàn tán với Rosa về chuyện này. Tôi vẫn còn thì giờ rẽ vào một con đường nhỏ cắt ngang, tôi biết những cô gái còn lại sẽ tiếp tục đi đến - - đúng vào lượt rước khách đầu tiên của họ. Nhưng trong niềm tức giận, tôi vẫn tiếp tục đi -- tại sao tôi phải tránh né họ? Tôi biết họ còn nhiều hơn người con gái bên cạnh với Binding của cô ấy và chiếc Buick của anh ta. Cô ấy nên nhìn thấy -- tận tường.
    Họ đến kìa rồi, qua khỏi dãy đèn đường --Wally xinh đẹp, xanh xao, thon thả, thanh lịch; Lina với cái chân gỗ; Erna vạm vỡ, Marion non nớt, Margot má đỏ hồng; Kiki, anh chàng đồng tính luyến ái trong cái áo choàng lông sóc; và cuối cùng là Mimi, bà ngoại với chứng giãn tỉnh mạch, xác xơ như cú. Tôi chào từng người, và khi chúng tôi gặp Bu ở quày xúc xích, tôi lắc tay bà nồng nhiệt.
    "Anh quen biết rộng nhỉ?" Một lúc sau, Patricia Hollman nói.
    "Vâng, loại người ấy." tôi huỵt toẹt đáp lại.
    Tôi để ý rằng nàng nhìn tôi. "Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại." Một lúc sau, nàng nói.
    "Vâng," tôi đáp. "Tôi cũng nghĩ thế."
    Chúng tôi dừng lại trước cửa nhà.
    "Chúc cô may mắn," tôi nói, "và có nhiều vui thú."
    Nàng không trả lời. Phải khó khăn lắm tôi mới rời mắt khỏi cái nút bấm chuông để nhìn qua nàng. Và quả tình --tôi không tin được chính mắt mình --nàng đứng đấy, và, thay vì cau có bực bội, vành môi nàng khẻ run giật, đôi mắt long lanh tinh quái; và rồi nàng cười to, chân thành, không giữ kẻ -- chỉ đơn thuần thú vị bởi tôi.
    "Cưng ơi," nàng nói, "Ôi trời, anh còn trẻ con quá đi thôi!"
    Tôi gương mắt nhìn nàng. "Ơ kìa, nếu cô --" tôi nói. "Dù sao --" và thình lình tôi hiểu ra. "Vậy tôi đoán, cô cho rằng tôi ngớ ngẩn lắm, phải không?"
    "Cũng có thể nói như vậy."
    Trông nàng tuyệt vời, ánh đèn nhảy múa lunh linh trên mặt -- trẻ trung, vui tươi và xinh đẹp. Tôi nhanh nhẹn bước tới, kéo nàng lại gần, mặc cho nàng tha hồ suy nghĩ. Mái tóc tơ mềm của nàng phơn phớt trên má tôi, mặt nàng kề bên tôi, hương đào thơm của làn da nàng thoang thoảng; rồi đôi mắt nàng nhích lại gần hơn và thình lình, tôi cảm thấy môi nàng áp vào môi tôi...
    Nàng đã rời đi trước khi tôi nhận thức những gì vừa xảy ra... Như một con lừa khoang, tôi ngây dại đứng nhìn theo nàng. "Lạy thánh Moses!" rồi tôi kêu lên, thành lời.
    Tôi trở về, ngang qua quầy xúc xích của Bu một lần nữa. "Cho cháu một cái bockwurst lớn," tôi tươi cười nói.
    "Có mù tạt không?" Bu, mình quàng tạp dề trắng tinh, hỏi lại.
    "Thật nhiều mù tạc, bu nhé!"
    Tôi ngấu nghiến ăn tại chỗ, và nhờ Alois đem một ly bia từ International. "Con người là một sinh vật kỳ lạ, bu nhỉ?" tôi nói.
    "Bu cũng nghĩ thế," Bu hăng hái trả lời. "Có một cậu, hôm qua tới đây ăn hai cái Wieners với mù tạc rồi không có tiền trả. Đã khuya lắm, lại không có ai chung quanh, bu có thể làm gì đây? Cho nên, cháu biết, bu đành để cậu ấy đi. Thử nghĩ xem, thế mà hôm nay cậu ấy đến, trả tiền mấy cái Wieners đã nợ và khao bu một ly bia nữa chứ."
    "Đấy là một phẩm cách tiền chiến. Mà bu buôn bán ra sao, đắt hàng chứ?"
    "Ế thiu ế chảy! Hôm qua, bu chỉ bán được bẩy cặp Wieners và chín cái Bockwursts. Cháu biết, nếu không có các cô ấy, có lẽ bu đã dẹp chuyện bán buôn từ lâu."
    Các cô ấy, là những cô gái giang hồ ủng hộ bu hết mình. Khi có mối, nếu có thể, họ đưa khách đến quầy ăn một cái bockwurst trước, giúp bu kiếm thêm chút tiền.
    "Chẳng mấy lúc trời sẽ ấm lên," Bu tiếp tục, "nhưng trong cái ướt át rét mướt của mùa đông-- cứ mặc thứ y phục mà ta thích, thế nào cũng bắt được một thứ gì đó."
    "Cho cháu một cái bockwurst nữa," tôi nói; "cháu thấy yêu đời, tham sống lạ. Chuyện nhà bu ra sao rồi?"
    Bu nhìn tôi, qua đôi mắt hẹp, sáng màu hồ thủy. "Lúc nào cũng thế. Hôm kia ông ấy bán cái giường."
    Bu có gia đình. Mười năm trước, chồng bu, khi nhảy tàu, đã trượt chân té và bị cán qua người. Phải cưa cả hai chân. Tai nạn để lại một di chứng trầm trọng. Là người tàn phế, ông cảm thấy tủi nhục đến mức không bao giờ gần gũi vợ nữa. Ngoài ra, khi ở bịnh viện, ông đã mắc chứng nghiền ma túy. Từ đấy đời ông tuột dốc rất nhanh; ông vướng vào vòng đồng tính luyến ái, và chẳng bao lâu, ông -- một người chồng bình thường suốt năm mươi năm, nay chỉ kết bạn với những chàng trai ẻo lả. Để chu cấp cho họ và ma túy, hễ chộp được vật dụng nào của bu là ông lại bán tống bán tháo. Nhưng bu vẫn gắn bó với ông, dù thường hay bị đánh đập. Mỗi đêm bu túc trực ở quầy xúc xích với con trai đến tận bốn giờ sáng. Ban ngày bu giặt giũ và lau chùi. Lúc nào bu cũng khổ sở vì một chứng bệnh ở vùng bụng và bu cân nặng không đầy bốn mươi ký --tuy nhiên, chưa ai thấy bu kém phần thân thiện bao giờ. Bu tin rằng đời mình cũng chưa đến nỗi nào. Thỉnh thoảng, mỗi khi đau khổ, chồng bu lại tìm về và khóc. Đấy là những lúc hạnh phúc nhất của bu.
    "Cháu vẫn làm việc ở cái chỗ ngon lành ấy?" Bu hỏi.
    Tôi gật đầu. "Vâng. Hiện nay cháu kiếm tiền khá lắm."
    "Cố mà giữ lấy."
    "Cháu sẽ gắng, bu ạ."
    "Chị là người con ngoan," tôi nói, vì tôi thấy lòng đầy xúc động, cần làm một vài việc thiện.
    Chị nhăn nhó như khỉ ăn ớt.
    "Nói nghiêm chỉnh nhé," tôi tiếp tục, "ta gây gổ nhau mãi, để làm gì? Cuộc đời ngắn ngủi lắm, Frida, đầy tai nạn và hiểm họa. Thời buổi này, người ta cần đoàn kết. Hãy giảng hòa với nhau, nhé."
    Làm như không thấy bàn tay tôi đưa ra, chị lầm bầm nguyền rủa chuyện chè chén say sưa, và, đóng sầm cửa, biến mất.
    Tôi gõ cửa phòng George Block. Một vệt sáng kéo dài dưới ngạch cửa. Anh đang gạo bài.
    "Ra ăn, George ơi," tôi nói.
    Anh nhìn lên. Gương mặt vốn nhợt nhạt, đỏ bừng. "Tớ không đói."
    Anh nghĩ, đấy là thương hại. Do đó anh không muốn.
    "Cậu ạ, đến mà xem. Nếu không ai ăn, nó sẽ thiu thối. Làm ơn dùm tớ đi mà."
    Đi trên hành lang, tôi để ý thấy cửa phòng Erna Bonig mở hé. Bên trong, có hơi thở rất nhẹ. "À há", tôi nghĩ, và nghe tiếng khóa mở lách tách ở phòng Hasse và cũng y thế, cánh cửa xê dịch vài phân. Toàn thể nhà trọ đang canh chừng, rõ ràng vậy, cô em họ của tôi.
    Trong phòng, đèn trần gay gắt rọi xuống ghế bành gấm của Frau Zalewski. Đèn bàn của Hasse trình bày một cảnh tượng đẹp mắt, quả thơm vàng óng, xúc xich gan tuyệt hảo, cá hồi, rượu sherry...
    Khi tôi và George -- không nói ra lời-- đã yên vị trong phòng, có tiếng gõ cửa. Tôi biết chuyện gì sắp xảy ra.
    "Cậu chuẩn bị nhé," tôi thì thầm với George, và nói lớn, "Mời vào."
    Cửa mở và, Frau Zalewski háo hức bước vào với tất cả nỗi hiếu kỳ. Lần đầu trong đời, tôi được bà thân chinh giao thư tận phòng -- một bản tin thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm. Bà sửa soạn như một bà tiên-- một mệnh phụ chính cống thời vàng son xưa cũ, áo đầm ren với khăn choàng kết tua và kim cài áo với chân dung ông Zalewski quá cố đính tòng teng như mặt dây chuyền. Nụ cười mật ngọt trên mặt bà chợt đông cứng; giật nẩy mình, bà chằm chập nhìn George, đang bẻn lẻn. Tôi khoái chí cười hăng hắc. Bà nhanh chóng lấy lại bình tỉnh.
    "A ha, lỗi hẹn rồi," bà nói, châm chọc.
    "Đúng," tôi đồng ý, vẫn còn bị bộ y phục cầu kỳ của bà lôi cuốn. Thật là may, tôi không mời được nàng.
    Bảo mẫu Zalewski nhìn tôi, chì chiết. "Thế mà cháu còn cười được nữa ư? Bác đã chẳng thường nói, thay vì trái tim như người ta, trong lồng ngực cháu chỉ có chai rượu mạnh."
    "Nói chữ hay đấy," tôi đáp. "Nhưng Frau Zelewski, bác làm ơn dùm cháu chuyện này được không?"
    Bà ngần ngừ. Nhưng rồi lòng hiếu kỳ chiến thắng, và hy vọng biết thêm một thứ gì đó. Tôi mở nút chai sherry.
    Sau đó, khi tất cả đã im lắng, tôi cầm chiếc áo khoác và cái chăn, len lén đi qua hành lang đến chỗ điện thoại. Tôi quỳ trước bàn, nơi đặt điện thoại, trùm áo khoác và chăn lên đầu, nhấc ống nghe và bằng tay trái, túm cái áo khoác cho kín lại bên dưới. Như thế tôi chắc chắn không ai có thể nghe trộm. Nhà trọ Zalewski có những vành tai to tướng, tọc mạch.
    May mắn quá. Patricia Hollmann có ở nhà.
    "Cuộc phỏng vấn bí ẩn của em xong đã lâu chưa?" tôi hỏi.
    "Em về nhà khoảng một giờ rồi."
    "Tiếc quá. Nếu anh biết thế --"
    Nàng cười. "Không, cũng chẳng ích gì. Em đang nằm trên giường và lại lên cơn sốt nhẹ. May mà em về nhà sớm."
    "Sốt? Sao lại sốt, có sao không?"
    "Ach, chuyện chán lắm. Và tối nay anh làm gì thế?"
    "Anh thảo luận tình hình thế giới với bà chủ nhà. Còn em? Việc làm ăn của em có kết quả tốt?"
    "Em hy vọng thế."
    Tổ tò vò của tôi nóng kinh hồn. Nên mỗi khi nàng nói, tôi lại hé tấm chăn, hít nhanh một nhúm không khí mát lạnh bên ngoài và khép chăn lại khi đến lượt tôi, miệng áp sát ống nghe.
    "Bạn bè của em có ai tên Robert không vậy?" tôi hỏi.
    Nàng cười. "Không có ai."
    "Tiếc quá. Anh muốn nghe em gọi tên ấy. Dù sao, em cứ gọi, được không?"
    Nàng lại cười.
    "Để đùa vui," tôi nói. "Em có thể nói, thí dụ như: 'Robert là một gã khờ.'"
    "Robert là một em bé, và lạy trời xin được như thế mãi mãi."
    "Em phát âm hay tuyệt," tôi nói. "Và bây giờ, chúng ta hãy thử với tên Bob. Như: 'Bob là một - -'"
    "Bob là đệ tử của thần lưu linh," nàng chậm rãi nói, êm đềm, xa vắng; "bây giờ em phải ngủ -- em đã uống thuốc ngủ và mi mắt em nặng chĩu rồi."
    "Vâng- - tạm biệt -- em ngủ ngon nhé ---"
    Tôi đặt ống nghe xuống, vứt áo khoác và chăn sang một bên. Rồi tôi đứng dây và thình lình lạnh cứng người. Như một con ma đứng ngay sau lưng tôi, bác kế toán viên đã nghĩ hưu, sống trong căn phòng cạnh nhà bếp. Tôi làu bàu vài câu, bất bình.
    "Xuỵt!" ông chúm môi nói và cười toe toét.
    "Xuỵt!" tôi trả lời, rủa thầm ông đi về địa ngục.
    Ông chìa một ngón tay lên trời. "Tôi sẽ không tiết lộ -- chính trị, hử?"
    "Cái gì? tôi hỏi, kinh ngạc.
    Ông nháy mắt. "Đừng lo. Bản thân tôi là người Cực Hữu. Thảo luận chính trị bí mật, hử?"
    Tôi chợt hiểu. "Rất là chính trị," tôi nói, và cũng nhe răng cười.
    Ông gật đầu và khẽ nói: "Hoàng đế muôn năm."
    "Vạn vạn tuế!" tôi đáp. "Nhưng tôi có chuyện này muốn hỏi; bác có biết ai là người phát minh ra điện thoại hay không?"
    Ngạc nhiên, ông lắc cái trán hói.
    "Tôi cũng không biết," tôi nói, "nhưng người đó chắc chẳn phải là một người tuyệt vời."

  2. #8
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 9


    Tất cả đều có mặt -- Grau, Valentin, Lenz, Patricia Hollmann, nhất là Jupp --Jupp trong bộ áo liền quần, kính đua và mũ đua. Vì nhẹ cân nhất, thằng bé được làm phụ xế cho Koster. Lenz nghi ngại nhiều --anh luôn nghĩ rằng đôi tai vễnh to của Jupp sẽ tạo một lực cản lớn, một là xe sẽ giảm đi hai mươi kí lô mét tốc độ, hai là sẽ trở thành máy bay mất thôi.
    "Làm sao cô lại có cái tên rất Anh như thế?" Gottfried hỏi Patricia Hollmann, ngồi cạnh.
    "Mẹ em là người Anh. Pat cũng là tên của mẹ em."
    Tôi trố mắt nhìn anh. Trong khi tôi vẫn còn khổ sở trong vấn đề xưng hô, anh đã có thể giữa thanh thiên bạch nhật gọi nàng như thế mà không đỏ mặt. Và nàng cười, và cũng gọi lại anh bằng tên Gottfried.
    Nhưng như thế chẳng thấm vào đâu so với Ferdinand Grau. Anh hoàn toàn say mê và không rời mắt khỏi nàng. Anh trích những câu thơ êm ái và giải thích rằng nàng cần phải học vẽ. Anh lại còn đặt nàng ngồi trên một cái hộp và bắt đầu phác họa.
    "Nghe này, Ferdinand con kên kên già," tôi nói, giật phắt tập giấy vẽ trên tay anh, "cứ bám vào những người đã chết. Đừng tấn công những người còn sống. Cậu hãy giảng thêm cho tụi tớ về chân bản thể. Còn với cô ấy, tớ khá nhạy cảm đấy."
    "Thế cậu có chịu nhậu với tớ cho đến hết di hài của bà dì ông chủ quán rượu của tớ?"
    "Tớ không chắc nguyên cả di hài, nhưng một chân thì được."
    "Tốt. Vậy thì tớ sẽ làm theo ý cậu, bé ạ."
    Động cơ xe trên vòng đua nổ như súng liên thanh. Mùi dầu nhớt, xăng và dầu thầu dầu khen khét. Một thứ mùi phấn khích, tuyệt vời; âm thanh dồn dập, tuyệt diệu của những cái xe đua.
    Hai bên đường đua, thợ máy ở những điểm bảo trì hò hét loạn xị. Chúng tôi, chỉ có lèo tèo dăm ba món. Một ít dụng cụ sửa xe, bu-gi, mấy cái bánh xe dùng tạm với vỏ lốp mà chúng tôi cạy cục từ một cơ xưởng sản xuất, vài ba loại phụ tùng -- chỉ có thể thôi. Koster không đại diện cho hảng xưởng nào cả. Chúng tôi phải trả trả tiền cho tất cả mọi thứ. Vì lý do ấy, chúng tôi không thể sắm sửa nhiều.
    Otto đi tới, theo sau là Braumuller đã vận sẳn bộ áo đua.
    "Otto," anh nói, "nếu hôm nay bu-gi xe của tớ trục trặc, cậu sẽ bỏ xa. Nhưng chúng sẽ không."
    "Để rồi xem," Koster trả lời.
    Braumuller dư dứ nắm tay trước Karl. "Liệu hồn, coi chừng thằng Nutcracker của ta đấy!"
    Nutcracker là chiếc xe to và mới Braumuller đang lái. Nó rất được mọi người yêu chuộng.
    "Karl sẽ giúp cậu chạy thả ga, Oscar ơi!" Lenz nói với sang.
    Braumuller đã định trả lời bốp chát theo kiểu con nhà lính, nhưng nín ngang khi anh nhìn thấy Patricia Hollmann đang đứng với chúng tôi; anh lấy tay che mắt giả như nhìn qua viễn vọng kính, cười cười với chúng tôi và bỏ đi một nước.
    "Chiến thắng càng vinh quang hơn," Lenz nói, thỏa mãn.
    Bánh xe nghiến rào rạo đường đua. Koster phải chuẩn bị xe. Karl dự thi hạng thể thao.
    "Tụi mình không thể giúp cậu nhiều đâu, Otto," tôi nói, nhìn những thiết bị đang có.
    Anh phẩy tay. "Sẽ không cần thiết. Nếu Karl hỏng máy, nguyên một ga ra sửa xe cũng chẳng ích gì."
    "Chúng ta có nên phất cờ, để cậu biết vị trí của cậu không?"
    Koster lắc đầu. "Khởi hành tập thể mà. Ở đấy, tớ sẽ liệu chừng. Ngoài ra, Jupp biết rõ nó làm gì."
    Jupp hăm hở gật đầu. Người run lên vì kích động, thằng bé ngốn sô cô la không ngừng. Nhưng đấy chỉ tạm thời thôi. Khi khởi động, thằng bé sẽ bình tỉnh lại như một con rùa đấy thôi.
    "Nào, chúng ta bắt đầu, được ăn cả ngã về không nhé!"
    Chúng tôi đẩy Karl ra. "Chớ có đứng sững lúc khởi hành, ranh con ạ," Lenz nói, ve vuốt bộ tản nhiệt. "Đừng làm cho ông già tía của mi phải thất vọng, Karl nhé."
    Karl phóng vù đi. Chúng tôi nhìn theo.
    "Vừa xem đẫy mắt cái món kỳ khôi ấy," thình lình một giọng nói sau lưng chúng tôi cất lên. "Trời ạ, phía sau của nó trông như mông đà điểu!"
    Lenz đứng thẳng người. "Anh nói tới cái xe màu trắng, phải không?" Mặt đỏ bừng, nhưng anh vẫn bình tỉnh.
    "Vâng, đúng thế," người thợ máy cao to ở trạm bảo trì kế bên thản nhiên quay đầu lại, vừa trả lời vừa chuyền một chai bia cho bạn hắn. Lenz lắp bắp trong giận dữ, và chuẩn bị trèo qua bức ngăn thấp. May là anh chưa thóa mạ một câu nào. Tôi nắm anh lại. "Kệ tía cái thằng thối rữa ấy," tôi chửi thề, "chúng ta cần có cậu. Cậu muốn đi nhà thương trước khi trận đua bắt đầu à?" Ù lì giằng co như một con la, anh cố lách khỏi tay tôi. Anh không cho phép ai được lăng nhục Karl.
    "Xem này," tôi nói với Patricia Hollmann, "đây là con dê gàn dở tự cho mình là người lãng mạn cuối cùng. Cô có tin không, có lần anh ấy đã đề một bài thơ tặng chị Hằng?"
    Có ảnh hưởng lập tức. Đấy là vết thương nhức nhối của Gottfried.
    "Chuyện đã lâu lắm rồi, trước chiến tranh," anh tự bào chữa. "Ngoài ra, bé con, không phải là một tội ác nếu ta điên lên trong trận đua xe. Có phải thế không, Pat?"
    "Điên mê không bao giờ là một tội ác."
    Gottfried giơ tay chào. "Một câu nói cao quý."
    Tiếng động cơ xe như sấm, nhận chìm tất cả. Không khí rúng động. Đất và trời rung chuyển. Bầy xe vun vút lao ngang.
    "Đang áp chót," Lenz gầm lên. "Con lợn ỉ lại ngúng nguẫy lúc khởi hành."
    "Không sao," tôi nói. "Khởi động là khuyết điểm của Karl. Nó có thể chậm chạp lúc khởi hành, nhưng không bao giờ ngừng lại." và khi tất cả những xôn xao lắng xuống, loa phóng thanh bắt đầu rầm rì. Chúng tôi không thể tin ở tai mình. Burger, một địch thủ nguy hiểm, chơ vơ đứng lại ở vệt khởi hành.
    Đoàn xe gầm gừ quay lại. Từ xa chúng ríu rít như bầy châu chấu trên vòng đua, lớn dần và kè sát nhau trên làn đối diện, vụt qua khán đài trung ương rồi biến vào khúc quanh lớn. Vẫn sáu chiếc xe, và Koster vẫn áp chóp. Chúng tôi đã sẳn sàng. Tiếng dội và tiếng dội trở lại từ khúc quanh vọng về, giành nhau cường độ lớn nhỏ. Rồi đoàn xe vọt tới. Xe Số Một dẫn đầu khá xa, rồi xe thứ nhì và thứ ba gần với nhau, và Koster. Anh đã qua mặt chiếc xe khác ở khúc quanh và bây giờ chiếm hạng tư.
    Mặt trời ló khỏi mây. Những dãi băng rộng, sáng và xám đổ trên đường đua đột nhiên lốm đốm như da cọp. Bóng mây lướt trên biển người ở khán đài. Bão tố của động cơ xe thấm nhập vào máu như một loại âm nhạc quái dị. Lenz bồn chồn đi tới đi lui, tôi nhai nát điếu thuốc lá, và Patricia Hollmann ngước mặt ngửi không khí như một con ngựa non mỗi sáng. Chỉ có Valentin và Grau ngồi im, măc cho vầng thái dương rọi nắng lên người.
    Một lần nữa nhịp tim mênh mông của máy nổ lại trở về, vút qua khán đài chánh. Chúng tôi chú mục nhìn Koster. Anh lắc đầu. Anh không muốn thay lốp xe. Lần này anh đã tăng tốc độ lên một ít. Anh bám sát bánh xe đen của chiếc Hạng Ba. Và cứ thế, họ phóng vun vút trên đường thẳng không cùng.
    "Mẹ kiếp!" Lenz nghiêng chai, nốc một ngụm.
    "Anh ấy đã tập luyện kỹ," tôi nói với Patricia Hollmann. "Qua mặt ở khúc quanh là sở trường của anh ấy."
    "Rượu đây, Pat có muốn hớp một ít không?" Lenz hỏi.
    Tôi nhìn anh, bất mãn. Anh trố mắt nhìn lại.
    "Em thích uống trong ly hơn," nàng nói. "Em chưa biết cách uống từ chai."
    "Cô thấy chưa," Lenz với tay, lấy một cái ly. "Đấy là chỗ yếu kém của nền giáo dục hiện đại."
    Ở vòng kế, đoàn xe tách rời ra hơn. Braumuller dẫn trước. Bốn chiếc đầu bỏ xa ba trăm mét. Xe Koster phóng song song với chiếc Thứ Ba rồi biến mất đàng sau dãy khán đài. Rồi đoàn xe lại rần rộ quay về. Chúng tôi nhảy dựng lên. Xe Thứ Ba đâu rồi? Sau hai chiếc xe đầu, Otto một mình vụt tới. Đây rồi -- cuối cùng thì Xe Thứ Ba cũng loạng choạng chạy đến: hai bánh sau của nó bị nổ lốp. Lenz mĩm cười ranh mảnh -- nó dừng lại trước trạm bảo trì bên cạnh. Gã thợ máy hộ pháp chửi thề. Một phút sau, nó lại lướt vèo trên đường.
    Vòng kế tiếp, thứ tự không thay đổi. Lenz để đồng hồ bấm giờ sang một bên và tính toán.
    "Karl vẫn còn tiềm năng," anh tuyên bố.
    "Tớ e rằng, các xe kia cũng thế," tôi nói.
    "Đồ vô thần!" Anh lừ mắt, muốn nghiến nát tôi.
    Như một quái vật trong suốt thủy tinh, sự căng thẳng úp chụp trên sân đua và khán đài khi đoàn xe bắt đầu vòng đua cuối.
    "Tất cả hãy sờ vào gỗ," tôi nói, nắm cứng cán búa. Lenz ôm chặt đầu tôi. Tôi đẩy anh ra. "Ach, vậy sao, xin lỗi nhen; dĩ nhiên đầu cậu chỉ chứa rơm thôi," anh giải thích, rồi nắm vào rào chắn.
    Khi máy xe quay số vòng tối đa, tiếng rì rầm biến thành gầm rú, gầm rú biến thành hú rít, hú rít biến thành sấm động, rồi thành tiếng hát the thé ở âm vực cao. Braumuller phóng vút sát bìa đường đua; chiếc thứ nhì theo đuôi. Phà khói mù mịt và bánh sau cày xuống mặt đường, xe thứ nhì lấn vào trong, sâu hơn; người lái rõ ràng muốn qua mặt xe thứ nhất ở khúc quanh.
    "Sai lầm!" Lenz kêu to. Koster đã lao theo họ, máy nổ vù vù, xe của anh bay tít mút rìa đường đua; trong một giây, chúng tôi cứng đờ, -- dường như anh sắp bay bổng lên không, -- và rồi máy xe gầm rú và xe phóng vèo tới trước.
    "Cậu ấy đạp lút ga!" tôi hét to.
    Lenz gật đầu. "Điên."
    "Anh ấy sắp bắt kịp!" nàng nói. "Anh ấy qua mặt được rồi."
    "Cậu ấy sẽ đuổi theo Braumuller. Himmelbergott, beiliger Moses!" Lenz lại kêu to. "Cậu ấy qua mặt cái xe thứ nhì rồi và đang bám Braumuller."
    Trong lốc xoáy của cơn giông, ba chiếc xe lướt ra, lên cao; chúng tôi hò hét như điên, Valentin cũng thế; và giọng nói trầm hùng của Grau cũng tham gia -- Cơn điên của Koster đã chiến thắng, anh đã qua mặt Xe Số Hai, nó hoang phí năng lực và đánh mất tốc độ ở đường cong bên trong tròn gắt hơn; và giờ đây như một con diều hâu, anh đang rình chụp Braumuller -- thình lình hiện nay chỉ còn dẫn trước hai mươi mét và động cơ xe đang sụt sịt.
    "Tới luôn Otto! Tới luôn! Nuốt sống thằng Nutcracker!" chúng tôi la hét và vẫy tay.
    Đoàn xe biến mất ở khúc quanh cuối cùng. Lenz lớn tiếng cầu nguyện tất cả những đấng thần linh Châu Á và Nam Mỹ và phe phẩy tượng bùa của anh. Patricia Hollman tựa vào vai tôi, chăm chú nhìn ra xa, như một bức tượng tạc ở mũi chiến thuyền buồm thời cổ.
    Họ vòng trở lại. Động cơ xe của Braumuller vẫn còn khục khặc; mỗi giây phút như thế lại càng bất lợi cho anh. Tôi nhắm tịt mắt. Lenz đưa lưng ra đường đua -- chúng tôi muốn thử thách số mệnh.
    Một tiêng kêu to khiến chúng tôi quay lại, vừa đúng lúc nhìn thấy Koster cán qua mức đến, cách xe sau hai mét.
    Lenz phát cuồng. Anh vứt các dụng cụ sửa xe xuống đất và trồng chuối trên mấy cái lốp xe.
    "Hồi nãy anh nói gì thế? " khi đứng dậy bình thường, anh hùng hổ hỏi gã thợ máy cao to như Hercules ở trạm kế. "Một cái máy kỳ lạ?"
    "Ach, ông nội, đừng quang quác nữa." gã thợ máy cáu kỉnh trả lời. Và, lần đầu tiên kể từ khi quen biết, tôi thấy chàng lãng mạn cuối cùng không nổi giận khi bị lăng nhục, mà lại ôm bụng cười, co giật múa máy như bị phong xù.
    Chúng tôi chờ Otto. Anh còn bận bịu với ban tổ chức.
    Thình lình từ sau lưng chúng tôi, một giọng khàn đục gọi, "Grottfried,"
    Chúng tôi quay lại. Một con người cao lớn đồ sộ như núi, đứng đấy trong bộ đồ chật ních -- quần kẻ sọc, áo vét xám --và mũ quả dưa đen.
    "Alfons!" Patricia Hollmann reo lên.
    "Chính tôi," anh nói.
    "Chúng ta về nhất, Alfons ạ!" nàng kêu.
    "Có thế chứ. Vậy là tôi đã đến trễ, phải không?"
    "Anh chẳng bao giờ đến trễ, Alfons," Lenz nói.
    "Sự thật, tôi đến cốt để đem một ít thức ăn cho các bạn. Sườn heo chiên ăn lạnh và cốt lết muối. Cắt sẳn."
    "Đưa cho em, mời anh ngồi, anh quý mến," Gottfried kêu to. "Chúng em sẽ ăn ngay tức thì.."
    Anh mở bọc thức ăn. "Trời ơi," Patricia Hollman nói, "đủ cho cả một trung đoàn."
    "Không chắc, chừng nào ăn xong mới biết," Alfons quan sát. "Còn một ít rượu kummel nữa."
    Anh chìa ra hai chai rượu mùi. "Khui sẳn."
    "Thế mới phải, thế mới phải," cô gái nói. Alfons hiền hậu nháy mắt với cô.
    Karl nức nở từ xa chạy đến. Koster và Jupp nhảy ra. Jupp trông như Napoleon thời trẻ, vành tai tươi nhuận hồng hào. Thằng bé ôm một chiếc cúp bạc khổng lồ, thô kệch, xấu xí. "Trong cuộc đua thứ sáu,"Koster cười to và nói, "Chưa bao giờ có một món ngoại hạng nào khác."
    "Chỉ có bình đựng sữa này ư?" Alfons, rất thực tế, hỏi. "Không có tiền thưởng?"
    "Có chứ, " Otto đoan chắc với anh, "có cả tiền mặt."
    "Vậy coi như chúng ta sắp được tiêu xài thoải mái," Grau nói. "Coi như đêm sẽ rất vui."
    "Ở quán ăn của tôi?" Alfons hỏi.
    "Đương nhiên -- nhất định phải là thế," Lenz trả lời.
    "Súp đậu hòa lan, tim gan, giò lợn, tai heo" Alfons kể, và ngay cả Patricia Hollman cũng tỏ vẻ nể nang ra mặt. "Dĩ nhiên, tôi thết đãi." Alfons nói.
    Braumuller lại gần, nguyền rủa vận xui của mình, tay cầm một nắm bu-gi lem luốt dầu nhớt.
    "Bình tĩnh nào, Oscar," Lenz nói. "Giải nhất cuộc đua xe đẩy em bé lần tới chắc chắn sẽ thuộc về cậu."
    "Thế cậu có để tôi rửa hận bằng cognac không?" Braumuller hỏi.
    "Bằng ly đựng bia, nếu cậu muốn," Grau nói.
    "Đừng mong sẽ thắng, Herr Braumuller," Alfons nói. "Tôi chưa bao giờ thấy Koster say bí tỉ."
    "Tôi cũng chưa bao giờ thấy Karl trước mặt tôi," Braumuller mỉa mai, "ngoại trừ hôm nay."
    "Có thua cũng phải giữ tư cách chứ," Grau nói."Đây, mời cậu. Chúng ta cạn ly, ghi nhận sự toàn thắng của cơ khí đối với văn hóa."
    Khi chia tay, chúng tôi định đem về phần thức ăn dư. Vẫn đủ cho vài người. Nhưng chỉ còn bao giấy trống rỗng.
    "Zum Donnerwetter --" Lenz nói. "À há!" Anh chỉ vào Jupp đang cười ngượng ngập, tay hãy còn cầm một mớ thức ăn và bụng phình to như trống. "Lại thêm một kỷ lục."
    Trong bửa ăn tối ở nhà hàng Alfons', Pat được ái mộ đến mức tôi không mấy vui. Một lần nữa, tôi bắt gặp quả tang Grau đang nài xin được vẽ tranh cho nàng. Nàng cười, nói rằng nàng không có nhiều thì giờ để ngồi mẫu; chụp ảnh có lẽ sẽ tiện hơn .
    "Và như thế càng phù hợp với kỷ năng của anh ấy," tôi thân ái nói. "Có lẽ anh ấy sẽ dùng ảnh để họa nên tranh."
    "Bình tỉnh đi nào, Bob," Ferdinand ung dung trả lời, đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, mênh mông của anh đăm đăm nhìn Pat. "Rượu mạnh làm cho cậu bẳn tính -- còn tôi, thì nhân bản hơn. Đấy là sự khác biệt giữa hai thế hệ chúng ta."
    "Anh ấy hơn anh có mười tuổi chứ mấy," tôi xen vào.
    "Như thế hiện giờ đã coi như là một thế hệ," Ferdinand nói tiếp. "Cả một đời cách biệt. Một ngàn năm khác nhau. Các cậu trẻ con biết gì về hiện hữu? Các cậu e sợ cảm giác của chính mình. Các cậu không viết thư -- các cậu gọi điện thoại; các cậu không ước mơ -- các cậu đi dã ngoại cuối tuần; các cậu lý luận trong tình yêu và điên rồ trong chính trị -- một cuộc đua đáng thương."
    Tôi nghe bằng một tai; tai kia, tôi cố lắng nghe những gì Braumuller nói. Đã ngà ngà say, hắn giải thích với Patricia Hollmannn rằng chỉ cần nàng bằng lòng học lái xe với hắn, hắn sẽ chỉ dẫn tất cả mọi mánh khóe.
    Khi có dịp, tôi lập tức kéo hắn sang một bên. "Không tốt cho sức khỏe đâu, Oscar, khi một thể tháo gia quan tâm quá đáng đến phụ nữ."
    "Chẳng ăn thua gì tớ," Braumuller tuyên bố, "tớ có một thể chất tuyệt hảo."
    "Được lắm. Trong trường hợp ấy, tớ nói cho cậu biết một điều, bảo đảm không có lợi cho sức khỏe của cậu -- một cái chai rượu sẽ xáng lên đầu cậu."
    Hắn nhăn nhở cười. "Tra gươm vào vỏ đi, nhóc con. Thế cậu có biết làm cách nào nhận ra một hiệp sĩ ? Chàng luôn luôn phong lưu rất mực, ngay cả khi say sưa. Và cậu nghĩ tớ là ai, thế hả?"
    "Một tên khoe khoang khoác lác," tôi trả lời và bỏ đi, mặt kệ hắn đứng thộn ở đấy.
    Tôi không e ngại một ai trong bọn có ý định làm gì -- không hề có chuyện ấy giữa chúng tôi. Nhưng tôi không chắc lắm với nàng -- nàng có thể nghĩ rằng, một trong những người ấy xứng hợp với nàng hơn. Chúng tôi chưa hiểu về nhau đủ để tôi có thể biết chắc. Dù sao, có ai chắc chắn được điều gì?
    "Chúng ta có nên lẽn đi chỗ khác không?" tôi hỏi nàng.
    Nàng gật đầu.
    Chúng tôi tản bộ trên đường. Không khí dần dần ẩm ướt. Sương mù, xanh lục và bạc, chầm chậm giăng cao trong thành phố. Tôi cầm tay nàng, ủ bên trong túi áo choàng của tôi. Và cứ thế, chúng tôi đi bên nhau rất lâu.
    "Mệt chưa?" tôi hỏi.
    Nàng lắc đầu và mỉm cười.
    Tôi chỉ vào quán cà phê vừa qua. "Em có muốn ghé vào tiệm nào không?"
    "Không. Chưa cần đâu."
    Chúng tôi lại tiếp tục. Và rồi chúng tôi đi đến nghĩa trang. Lá lay xào xạc, không còn nhìn thấy những ngọn cây nữa. Khi sương mù tiếp tục dầy đặc, đèn ở hội chợ bắt đầu bật sáng. Từ những cây đoan, bầy thiêu thân chuyếch choáng bay ra rồi vần vũ lao vào, đập lên những chụp đèn đường ẩm ướt. Sương mù biến đổi tất cả, nâng lên và đưa xa, khách sạn đối diện đã bềnh bồng như một con tàu xuyên đại dương với những căn phòng sáng đèn soi trên mặt gương nhựa đường đen, bóng tối xám của ngôi giáo đường phía sau trở thành một chiếc thuyền ma với những cột buồm cao, mất hút trong ánh đèn đỏ -xám; và những ngôi nhà, giờ đây như một dãy xà lan, dật dờ và bắt đầu chuyển động.
    Chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng. Sương mù làm cho mọi thứ trở thành hư ảo --ngay cả chúng tôi. Tôi nhìn cô gái ---đèn đường lấp lánh trong đôi mắt mở to của nàng. "Nhích lại," tôi nói, "nhích gần anh -- kẽo sương mù cuốn mất em."
    Nàng quay mặt lại tôi. Nàng đang mỉm cười, môi hé mở; hàng răng bóng, đôi mắt to nhìn về tôi; tuy thế tôi cảm thấy nàng không nhìn tôi một mảy may -- như thể nàng đang mỉm cười với, qua khỏi tôi, phía sau tôi, luồng sương xám bạc, như thể nàng đã bị tác động một cách ma mị bởi cơn gió lùa trên đầu những ngọn cây, bởi sương móc rỉ rả lăn trên thân cây; như thể nàng lắng nghe một tiếng gọi mơ hồ, buồn bã ẩn mình sau đám cây, sau thế giới; như thể nàng cần phải đứng lên và bỏ đi lập tức, qua màn sương, vất vưởng nhưng chắc chắn, đi theo nó, theo tiếng gọi bí ẩn, huyền hoặc của trái đất và của cuộc đời.
    Tôi sẽ không bao giờ quên gương mặt ấy -- không bao giờ quên gương mặt nghiêng nghiêng của nàng, trên đó cảm xúc được tỏ bày, lòng âu yếm và thương cảm lặng lẽ dâng đầy, với sự im lặng sáng láng, như thể nở hoa -- sẽ không bao giờ tôi quên đôi môi nàng ghé vào môi tôi, đôi mắt nàng đến gần mắt tôi, chúng ngay sát trước tôi và nhìn tôi, dò hỏi, trang nghiêm, vời vợi, long lanh -- rồi chậm rải khép lại như quy hàng ...
    Chúng tôi ngồi như thế rất lâu. Dần dần gió thổi mạnh hơn và những bóng đen chập chờn trong không gian xám trước mặt. Tôi nghe tiếng chân lao xao và tiếng thì thầm giữa những bước chân. Rồi tiếng Tây Ban Cầm nghèn nghẹn. Tôi ngẩng đầu lên. Những bóng đen tiến gần, hóa ra dáng người, quây thành một vòng tròn. Im như tờ. Rồi tiếng hát thình lình vang lên: "Jesus tìm ngươi --"
    Tôi ngồi thẳng lên và lắng nghe. Cái gì thế? Chúng tôi đang ở đâu? Trên cung trăng? Đấy là một ban hợp ca, trời đất! -- một ban hợp ca giọng nữ hai bè.
    "Kẻ tội đồ, kẻ tội đồ, hãy đứng lên!" âm thanh vang dội khắp nghĩa trang thành nhịp quân hành.
    Tôi chằm chặp nhìn Pat. "Em có biết chuyện gì không?" tôi hỏi.
    "Hãy đến chốn bao dung --" bài hát tiếp tục với nhịp điệu nhanh.
    Thình lình tôi hiểu ra. "Lieber Gott! Đạo Quân Cứu Rỗi!"
    "Chớ để cho tội lỗi tràn lan --" những bóng đen thúc dục, âm thanh dồn dập lên cao.
    Ánh sáng chập chờn trong đôi mắt nâu của Pat. Môi nàng run giật, đôi vai so lên.
    Không thể cưỡng lại, bài hát chuyển sang hùng tráng --
    là phần thưởng của tội lỗi;
    Jesus gọi: -- trước khi quá trễ
    kẻ hoang đàng, đến đây sám hối.
    "Nín đi, trời ơi," thình lình một giọng nói phẫn nộ trong sương mù hét lên.
    Một thoáng im lặng vì bất ngờ. Nhưng Đạo Quân Cứu Rỗi đã quen với những thứ rắc rối. Ban hợp xướng lại bắt đầu hát với một sức mạnh mới.
    "Người sẽ làm gì trong thế giới đơn côi --" ban nhạc đồng lọat ca.
    "Ôm ấp nhau chứ còn gì nữa," tiếng nói giận dữ lại oang oang; "Ngay cả nơi đây cũng không được yên thân sao?"
    "nơi quỷ kế của Satan sẽ quyến rũ ---" một giọng lanh lảnh bất thần đáp lại.
    "Đàng ấy có ngon thì quyến rũ đây xem," từ trong sương mù, ai đó tức thì đáp lại.
    Tôi phá lên cười. Và Pat cũng không nhịn nỗi. Chúng tôi cười rũ rượi vì cuộc song đấu trong nghĩa trang này. Đạo Quân Cứu Rỗi biết rằng băng ghế nơi đây là chỗ an trú cho những cặp tình nhân cần sự tỉnh mịch không tìm đâu ra trong thành phố ồn ào. Do đó họ quyết tâm hạ đòn thuyết giảng. Họ hành quân mỗi Chúa Nhật để cứu vớt những linh hồn. Ngoan đạo, cuồng tín và to họng, những giọng hát không chuyên the thé truyền giảng niềm tin của họ, trong lúc tiếng Tây Ban Cầm bập bùng, wumba-wumba.
    Nghĩa trang trở nên sinh động. Tiếng cười khúc khích và tiếng hét hò vang lên trong sương mù. Dường như mỗi băng ghế đều có người ngồi. Cuộc nổi loạn đơn độc của tình yêu đã nhận được hậu thuẩn vô hình của những người đàn ông cùng một suy nghĩ khắp nơi. Một ban hợp ca đối lập được dựng nên. Trong số đó, hẳn phải có một cựu chiến binh yêu thích nhạc quân hành -- bởi chẳng mấy lúc đã vang lên từ những buồng phổi khỏe mạnh bài ca bất tử: "Tôi đã đến Hamburg và ngắm nhìn thế giới đẹp tươi."
    "Đừng giữ nguyên tấm lòng cứng rắn..," từ ban hợp xướng khổ hạnh, một lần nữa tiếng hát nheo nhéo lại vang lên, vì Đạo Quân Cứu Rỗi với những chiếc mũ to, vành kẹp cong đang cảnh giác cao độ.
    Nhưng cái ác đã thắng. "Em sẽ không cho biết tên, " -- mười mấy cái khí quản cường tráng ngân nga một bài đối nghịch, -- "vì em là cô gái ăn sương..."
    "Anh nghĩ mình nên ra về thì hơn," tôi nói với Pat. "Anh biết bài ấy. Lời dài lắm, và mỗi câu về sau lại càng nhảm nhí hơn câu trước. Đi thôi em"
    Thành phố lại có mặt với âm thanh huyên náo -- tiếng còi xe, tiếng bánh xe lăn trên đường. Nhưng nó vẫn giữ được vẻ duyên dáng. Sương mù biến xe buýt thành những con thú trong thần thoại, xe hơi thành những chú mèo hoang mắt sáng, và cửa sổ trưng bày hàng hóa thành hang động vui mắt của thần đèn Aladdin.
    Chúng tôi xuống phố, vòng quanh nghĩa trang, xuyên qua khu công viên giải trí. Những vòng đu quay vươn lên cao trong trời sương mù như những tháp nhạc xoay tròn, bánh xe của quỷ phun ra sắc tím, sắc vàng và những chuỗi cười, và mê cung óng ả ánh lửa xanh.
    "Mê cung thiêng liêng!" tôi nói.
    "Tại sao?" Pat hỏi.
    "Có một lần chúng ta đã vào đấy."
    Nàng gật đầu.
    "Anh có cảm tưởng đã lâu vô tận."
    "Vậy bây giờ ta nên trở lại hay không?"
    "Không," tôi nói. "đừng đi nữa. Em có muốn uống gì không?"
    Nàng lắc đầu. Trông nàng thật đáng yêu. Sương mù như một thứ nước hoa dịu nhẹ, càng làm nàng thêm xinh đẹp.
    "Em không mệt à?" tôi hỏi.
    "Không, em chưa mệt."
    Chúng tôi đi qua các quán thẩy vòng. Những ngọn đèn khí đá với ánh sáng sáng trắng, lập lòe treo đàng trước. Pat nhìn tôi. "Không," tôi nói, "hôm nay anh không thảy vòng. Không thảy cái nào hết. Cho dù có thắng nguyên hầm rượu mạnh của Alexander Đại Đế."
    Chúng tôi tiếp tục đi, băng qua quảng trường và công viên thành phố. "Hẳn có Daphne Indica đâu đây," Pat nói.
    "Vâng, ta có thể ngửi được hương thơm của nó bay qua sân cỏ. Không còn ngờ nữa. Em có nghĩ vậy không?"
    Nàng nhìn tôi. "Chắc chắn là thế," nàng nói.
    "Có lẽ đang mùa hoa nở. Khắp thành phố, đâu đâu cũng nghe hương của thứ hoa này."
    Tôi nhìn quanh, tìm một băng ghế trống. Nhưng không biết vì Daphne Indica hay vì hôm nay là Chúa Nhật, hay vì chính chúng tôi, tôi không thấy một cái ghế trống nào. Đâu đâu cũng có người. Tôi nhìn đồng hồ tay. Hơn mười hai giờ.
    "Nào," tôi nói, "về nhà anh -- nơi ấy sẽ có một mình chúng ta."
    Nàng không trả lời, nhưng chúng tôi trở về. Ở nghĩa trang, chúng tôi thấy một chuyện bất ngờ. Đạo Quân Cứu Rỗi đã gọi viện binh. Ban hợp ca giờ đây xếp hàng tư: không phải chỉ có các bà, mà còn có hai hàng sư huynh mặc đồng phục hẳn hòi. Tiếng hát không chỉ hai bè và the thé, mà bốn bè, như tiếng phong cầm. Theo điệu luân vũ, "Jerusalem thánh địa vàng" vang dội trầm hùng giữa các mộ bia.
    Bên đối phương im phăng phắc. Họ đã bị càn quét tan tành. "Kiên trì," như ngài hiệu trưởng cũ của tôi thường nói, "kiên trì và cần mẫn còn tốt hơn cả thiên tài và phóng dật."
    Tôi đóng cửa. Suy nghĩ một lúc, tôi lại bật đèn. Hành lang như một cái ống dài hun hút, vàng vọt và xấu xí.
    "Nhắm mắt lại đi em," tôi khẽ nói với Pat. "Đây là cảnh tượng chỉ dành cho những bộ thần kinh vững vàng." Tôi bế nàng trong tay, và bước bình thường, như thể chỉ có một mình tôi, chậm rãi qua những hòm xiểng và bếp ga, về phòng mình.
    "Kinh khủng quá, hở em?" tôi ngượng ngùng nói, nhìn biển nhung mềm trãi dài chào đón. Không còn ghế bành gấm, thảm, và đèn của Hasse.
    "Có gì kinh khủng đâu," Pat nói.
    "Có mà," tôi trả lời, đi đến cửa sổ. "Nhưng ít ra quang cảnh cũng đẹp mắt. Chúng ta kéo ghế bành đến gần cửa sổ nhé."
    Pat đi quanh phòng. "Không tệ lắm đâu. Tuyệt nhất, là phòng rất ấm."
    "Em lạnh ư?"
    "Em thích ấm," nàng nói. "Em không chịu được trời lạnh và mưa."
    "Trời ơi -- thế mà chúng ta ngồi ngoài đường dưới sương mù cả đêm --"
    "Nhưng như thế lại càng quý hơn khi được ngồi đây."
    Nàng vươn vai, và một lần nữa với dáng đi tuyệt đẹp, dạo một vòng quanh phòng. Tôi hổ thẹn, quan sát thật nhanh -- lạy trời, không đến nỗi bừa bãi cho lắm. Tôi nhanh trí đá hậu đôi giày đi trong nhà đã hỏng, vào gậm giường.
    Pat đứng trước tủ quần áo, nhìn lên. Trên nóc tủ có một cái va -li cũ Lenz đã cho tôi. Va-li dán đầy nhãn hiệu màu sắc từ những chuyến du lịch của anh. "Rio de Janeiro," nàng đọc; Manaos -- Santiago, Buenos Aires -Las Palmas --"
    Nàng đẩy cái va -li vào chỗ cũ và đến gần tôi. "Anh đã đi tất cả các nơi ấy?"
    Tôi ấp úng một điều gì đó. Nàng nắm tay tôi.
    "Ôi, anh kể cho em nghe với, về tất cả các thành phố ấy, phải tuyệt vời lắm, được du lịch xa đến thế --"
    Và tôi? Trước mặt tôi là nàng, đẹp, trẻ, mong chờ, một cánh bướm tình cờ lạc vào căn phòng tồi tàn xơ xác của tôi, vào cuộc đời vô nghĩa tầm thường của tôi, với tôi và tuy thế chưa hẳn đã với tôi --chỉ một hơi thở cũng có thể làm nó tỉnh dậy và vỗ cánh bay đi... Cứ đổ lỗi, cứ kết tội tôi, nhưng tôi không thể, tôi không thể nào nói Không, không thể nào nói rằng tôi chưa bào giờ đến đấy; chưa kịp đến ...
    Chúng tôi đứng bên cửa sổ, sương mù ép lại và vỡ thành từng đợt sóng vỗ vào ô kính -- và tôi cảm thấy ẩn nấp đàng sau đó những bí mật, những thứ bị lấp liếm, những thứ đã qua, những ngày kinh hoàng ẩm ướt, những hoang phế điêu tàn, những nhơ nhớp bẩn thỉu, những mảnh vụn của cuộc đời bị hủy hoại, những phức tạp, những lãng phí sức mạnh do hướng dẫn sai lầm trong một cuộc sống vô mục đích; nhưng ở đây, trước mặt tôi trong bóng tối, gần bên tôi đến mức choáng váng, là hơi thở nhẹ nhàng, là sự hiện diện không thể nào hiểu -- một sinh vật ấm áp, trong sáng -- tôi phải giữ lấy, tôi phải chiếm được.
    "Rio -- " tôi nói. "Rio de Janeiro -- một hải cảng như trong truyện thần tiên. Biển lấn cong bẩy chỗ chung quanh vịnh và thủ đô nằm trên cao, trắng và sáng chói..." Tôi bắt đầu nói về những thành phố nóng bức, những cánh đồng vô tận, thủy triều vàng của những trường giang hùng vĩ, những hòn đảo lung linh, những cá sấu, những con đường xâm lấn núi rừng, tiếng gầm của một con báo trong đêm, khi thuyền trên sông trôi êm trong sự thối rữa ngột ngạt, thơm mùi vanilla và phong lan của bóng đêm. Lenz đã kể cho tôi nghe tất cả những chuyện ấy, nhưng giờ đây hầu như chính tôi đã có mặt tại chỗ, thật lạ lùng thay sự pha trộn của ký ức và ước muốn vay mượn một chút quyến rũ cho cuộc đời tầm thường, tăm tối không có gì cả của tôi, để không đánh mất gương mặt đáng yêu khôn tả này, hy vọng đột ngột này, sự nở hoa thần diệu này mà chỉ việc ấy mà thôi, tôi cũng chẳng xứng đáng. Sau này tôi có thể giải thích tất cả, sau này khi tôi có nhiều hơn, khi tất cả mọi thứ đều vững chải hơn -- sau này, chứ không phải bây giờ.
    "Manaos," tôi nói. "Buenos Aires . .." Và mỗi chữ là một cam kết và một ước thề.
    Đêm. Bên ngoài mưa bắt đầu rơi. Những giọt mưa nhẹ nhàng, êm ái. Chúng không vỗ lộp bộp như một tháng trước đây khi chạm vào những cành đoan trơ trụi -- chúng đang lắt lay những chiếc lá non mềm; ép vào mặt lá và tí tách rơi theo lá, một lễ hội huyền bí và âm thầm xuôi chảy đến rể cây, nơi đó chúng sẽ lại được đưa lên cao và biến trở thành lá, một lần nữa đợi chờ mưa đến trong những đêm xuân vừa chớm.
    Không gian yên tỉnh. Tiếng ồn ào của đường phố đã lặng; ngọn đèn đường duy nhất leo lắt soi trên vĩa hè. Những chiếc lá non, chiếu sáng từ bên dưới, hầu như trắng muốt, hầu như trong veo, và ngọn cây là những cánh buồm sáng, long lanh...
    "Lắng nghe tiếng mưa rơi, Pat--"
    "Vâng,"
    Nàng nằm bên tôi. Mái tóc của nàng nổi bật trên nền gối trắng. Gương mặt nàng trông rất xanh xao dưới màu tóc đen thẩm. Một vai của nàng nhô lên, dưới ánh sáng nào đó, óng ả như đồng chạm, và một vệt sáng dài, hẹp rọi trên cánh tay nàng.
    "Nhìn đây --," nàng nói, và đưa hai bàn tay hứng vệt sáng ấy.
    "Anh đoán là đèn đường ngoài kia rọi vào," tôi nói.
    Nàng ngồi lên. Giờ đây, gương mặt nàng cũng được chiếu sáng, ánh sáng rơi trên đôi vai và bộ ngực nàng, vàng, như lửa mồi của những ngọn bấc vuốt sáp, thay đổi, tan chảy, chan hòa với nhau, biến thành sắc cam; những vòng tròn xanh biếc nhảy nhót xuyên qua, và rồi bất ngờ một màu đỏ ấm áp hiện lên phía sau nàng như một vầng hào quang, lướt lên cao và lang thang trên trần.
    "Đó là đèn của bảng quảng cáo thuốc lá bên đường," tôi nói.
    "Thấy chưa, phòng của anh rất đẹp," nàng nói.
    "Nó đẹp nhờ có em," tôi nói. "Nó sẽ không bao giờ trở lại như xưa -- bởi em đã hiện diện nơi đây."
    Nàng quỳ trên giường, một vùng ánh sáng xanh tái tưới đẩm cả người. "Nhưng," nàng nói, "bây giờ em sẽ thường đến đây -- thường xuyên."
    Tôi nằm im ngắm nàng. Tôi nhìn thấy mọi việc như đang xảy ra trong một giấc mơ dịu dàng, trong sáng -- thư giãn, kiên quyết, an bình và rất hạnh phúc.
    "Em như thế đẹp làm sao, Pat. Đẹp hơn trong bất kỳ bộ y phục nào."
    Nàng mỉm cười và cúi xuống. "Hẳn là anh yêu em, Robby. Yêu nhiều lắm. Em rất cần tình yêu. Em không biết em sẽ ra sao, nếu không có tình yêu."
    Nàng nhìn tôi không rời mắt. Mặt nàng kề trên mặt tôi. Phấn khích, thẳng thắn, đầy sức mạnh của đam mê.
    "Anh hãy ôm em," nàng khẽ nói, "Em cần một người giữ em trong tay. Em sợ, nếu không em sẽ ngã."
    "Em không có vẻ gì là sợ hãi," tôi nói.
    "Tuy thế lại có đấy. Em chỉ giả vờ không sợ hãi. Em thường hay sợ hãi."
    "Anh sẽ giữ em, Pat," tôi nói, vẫn còn trong giấc mơ siêu thực nửa mê nửa tỉnh ấy, giấc mơ trong sáng lững lờ ấy. "Anh sẽ giữ em thật chặt, Pat. Em sẽ ngạc nhiên."
    Nàng ấp mặt tôi trong tay nàng. "Thật ư?"
    Tôi gật đầu. Đôi vai nàng sáng lục như màu nước sâu. Với tiếng kêu tức tưởi, nàng quăng mình vào, một ngọn sóng, một ngọn sóng lóng lánh, một ngọn sóng có hơi thở mềm mại, nhẹ nhàng dâng lên và dập tắt tất cả mọi thứ.
    Nàng ngủ ngoan trong tay tôi. Tôi thường tỉnh giấc và ngắm nàng. Tôi nghĩ, đêm sẽ không bao giờ tàn. Chúng tôi đã trôi dạt tới một bến bờ nào đó của thời gian. Tất cả đã xảy ra rất nhanh, tôi không thể lý giải. Tôi biết, như một người đàn ông, tôi có thể là một chiến hữu tốt; thế nhưng tôi không thể tưởng tượng, tại sao một người đàn bà lại có thể yêu tôi. Tôi nghĩ có lẽ chuyện ấy chỉ xảy ra đêm nay, và tôi tin rằng khi thức dậy, tất cả sẽ chấm dứt.
    Đêm đen chuyển thành xám. Tôi vẫn nằm yên. Cánh tay cho Pat gối đầu đã tê dại. Nhưng tôi vẫn để yên. Chỉ đến khi nàng trở mình và tựa vào gối, tôi mới rút tay ra. Tôi rón rén bước xuống giường, đánh răng trong im lặng và cạo râu. Tôi bôi một ít eau de cologne lên tóc và vai. Thật kỳ dị, không một tiếng động trong căn phòng xám, với những ý nghĩ ấy, và những dáng cây đen sẫm bên ngoài.
    Khi quay lại, tôi thấy Pat đã mở mắt nhìn tôi. Tôi dừng chân.
    "Đến đây" nàng nói.
    Tôi đến bên nàng và ngồi xuống cạnh giường.
    "Tất cả vẫn là thực?" tôi hỏi.
    "Tại sao anh hỏi thế?" nàng nói.
    "Anh không biết. Có lẽ, bởi vì buổi sáng."
    Trời sáng hơn.
    "Em cần anh đưa dùm em những thứ của em," nàng nói.
    Tôi nhặt những mảnh lụa mỏng trên sàn. Chúng nhẹ tâng và bé xíu. Tôi ôm chúng trong tay. Ngay cả chuyện này cũng đã khác biệt, tôi nghĩ. Người có thể mặc những thứ này hẳn phải khác biệt. Tôi không bao giờ hiểu nổi, không bao giờ.
    Tôi đưa nàng những thứ ấy. Nàng quàng tay qua cổ tôi và hôn tôi. Tôi ôm nàng thật chặt. "Pat," tôi gọi tên nàng.
    Rồi tôi đưa nàng về. Chúng tôi không nói với nhau nhiều nữa. Chúng tôi đi cạnh nhau trong bình minh ánh bạc. Xe chở sữa lọc cọc trên mặt đường trải đá và nhật báo đang phân phối. Ông lão ngủ gục trước căn nhà. Hàm đánh cầm cập như không bao giờ ngưng. Những người cởi xe đạp tíu tít với các giỏ bánh mì. Mùi bánh mì mới nướng, thơm ấm tỏa trên đường phố. Tít trên cao, một chiếc máy bay lướt qua nền trời xanh.
    "Hôm nay?" bên ngoài cửa, tôi hỏi Pat.
    Nàng mỉm cười.
    "Khoảng bẩy giờ?" tôi hỏi.
    Nàng không có vẻ mệt mỏi. Nàng tươi mát như vừa có một giấc ngủ tròn đầy. Nàng hôn tôi từ giã. Tôi đứng bên ngoài, chờ đến khi đèn của phòng nàng bật sáng.
    Rồi tôi quay về. Trên đường, tôi chợt nghĩ ra nhiều thứ đáng lẽ tôi nên nói với nàng, những lời mỹ miều. Tôi lang thang trên đường, suy nghĩ về tất cả những thứ tôi nên nói và nên làm, nếu như tôi là một người khác. Rồi tôi đi ra chợ. Những chuyến xe ngựa chở đầy rau trái, thịt thà và hoa tươi đã có mặt. Tôi biết với cùng một số tiền, tôi có thể mua được nhiều gấp ba lần hoa ở chợ so với ở tiệm bán hoa. Tôi trút tất cả tiền trong túi, mua tulips. Chúng trông tuyệt vời, tươi thắm với những giọt nước còn đọng trong lòng. Tôi được một bó ôm đầy tay. Bà hàng hoa hứa sẽ giao tận nhà Pat vào khoảng mười một giở. Bà cười tôi trong khi hứa, và thêm một bó to violets.
    "Cô ấy sẽ có những người bạn này trong nửa tháng là ít," bà nói. "Chỉ cần thỉnh thoảng thả một viên aspirin vào nước."
    Tôi trao tiền cho bà. Rồi tôi thong thả đi bộ về nhà.

  3. #9
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 10


    Xe Ford đã xong, và chúng tôi không có việc mới. Chúng tôi cần phải bận rộn với công việc. Koster và tôi đi dự một cuộc đấu giá, hy vọng mua được một chiếc tắc xi. Tắc xi là thứ rất dễ bán lại sau này.
    Chỗ đấu giá là một trại chăn ngựa nằm ở phía bắc thành phố. Ngoài xe tắc xi, còn có nhiều thứ khác, một số dựng ngoài sân: vài cái giường, mấy cái bàn ọp ẹp, một lồng chim mạ vàng có chú vẹt biết nói hai tiếng "Chào em yêu!", một cái đồng hồ đế đứng, dăm ba quyển sách, vài ba cái tủ chén, một bộ lễ phục, mấy cái ghế nhà bếp, một số dụng cụ nấu nướng -- những trang bị đáng thương của một cuộc đời tan nát.
    Chúng tôi đến sớm quá; người phát mãi vẫn chưa có mặt.
    Trong khi lục soạn, tôi gặp vài quyển sách -- loại sách văn học cổ điển Hy Lạp và La Tinh, thứ rẻ tiền, đã cũ, chằng chịt những ghi chú bên lề. Trên các trang giấy úa vàng, tơi tả, không còn thi ca của Horace, bài hát của Anacreon -- chỉ có tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng của một cuộc đời đã mất. Với chủ nhân những quyển sách này, dù ai đi nữa, chúng là thiên đường trú ẩn của người ấy; người ấy giữ chúng lại cho đến giờ phút cuối -- và một khi phải gởi chúng đến đây, đời của người ấy đã tận tuyệt.
    Koster nhìn qua vai tôi. "Thật xúc động, nhỉ?'
    Tôi gật đầu. "Còn những cái này, Otto," tôi nói, chỉ vào những đồ vật khác. "Đem cả ghế nhà bếp và quần áo ra đấu giá, đâu phải là chuyện đùa?"
    Chúng tôi tiến đến chiếc tắc xi, đậu ở một góc sân. Sơn tróc và bạc màu ở nhiều chỗ, nhưng xe sạch sẽ, kể cả những phần nằm khuất bên dưới tấm chắn bùn. Một người đàn ông tầm thước, chắc nịch với cánh tay to, lỏng thỏng hai bên hông, đang đứng gần; ông ta thẩn thờ nhìn chúng tôi.
    "Cậu có xem qua máy xe chưa?" tôi hỏi Koster.
    "Đã xem, hôm qua," anh nói. "Xe tuy cũ một chút nhưng được chăm sóc kỹ."
    Tôi gật đầu. "Có vẻ như thế," tôi nói. "Xe mới rửa sáng nay, Otto. Chắc chắn người đấu giá chẳng rỗi hơi làm chuyện ấy đâu."
    Koster lắc đầu, nhìn người đàn ông thấp béo. "Ông chủ xe đấy. Hôm qua, ông ấy có đến đây. Tớ thấy ông ấy lau chùi cái xe."
    "Tội thật," tôi nói, "ông ấy trông thảm như một con chó bị chẹt xe."
    Một thanh niên băng qua sân, đi đến chiếc xe. Hắn mặc một cái áo khoác có dây lưng, và trông lọc lỏi.
    "Chắc là chiếc xe bus đây rồi," hắn nhịp nhịp cây gậy trên nắp máy xe, vừa nói với chúng tôi, vừa nói với người đàn ông. Tôi thấy ông ta chớp mắt. "Chẳng đáng gì hết, chẳng đáng gì hết," gã mặc áo có thắt lưng ngạo nghễ nói. "Nước sơn chẳng đáng xu teng. Xe cũ xì cũ xịt, nên cho vào viện bảo tàng?" Gã cười hơ hớ, tự tán thưởng câu nói khôi hài của mình và nhìn chúng tôi, chờ đợi sự đồng tình. Chúng tôi không cười. Gã quay về phía người chủ xe. "Ông định giá cái xe già cốc đế này bao nhiêu?"
    Người đàn ông nuốt nước bọt, không nói.
    "Bán theo giá đồng nát chứ?" hào hứng, gã be be nói tiếp. Gã quay lại chúng tôi: "Quý vị có ý định mua xe này ư?" Hắn nói nhỏ: "Chúng ta hãy công ký với nhau. Mua giá rẻ mạt, rồi bán ra, và chia lời. Tại sao ta phải quăng tiền ra cho họ hưởng. Nhân tiện, tên tôi là Thiess -- Guido Thiess, hảng Augeka."
    Hắn xoay tít cái gậy tre và nháy mắt đồng lỏa. Không có chi bí mật với loài sâu bọ này, tôi nổi giận nghĩ bụng; bóng người đàn ông im lìm đàng kia làm tôi bức rức.
    "Anh biết không," tôi nói lớn, "tên anh đáng lẽ không phải là Thiess."
    "Đáng lẽ không?" gã nói, khoái chí ra mặt. Rõ ràng gã đã quen với những câu tán tụng sự lanh lợi của hắn.
    "Vâng," tôi nói tiếp. "Thộn, lẽ ra anh phải được gọi bằng cái tên ấy. Guido Thộn."
    Hắn giật mình. "Đương nhiên," cuối cùng hắn nói, "Hai chọi một, đương nhiên..."
    "Nếu anh sợ, " tôi nói, "một mình tôi thôi, khi nào cũng được."
    "Cám ơn," Guido lãnh đạm trả lời, "cám ơn nhiều lắm" -- rồi lẽn đi.
    Người đàn ông thấp béo với gương mặt lo lắng vẫn đứng yên ở đấy, chăm chú nhìn cái xe như không có điều gì khác quan trọng với ông.
    "Thôi, ta đừng mua xe này, Otto," tôi nói.
    "Nếu ta không mua, thì con chó xù của cậu, Guido, sẽ mua," Koster trả lời. "Chúng ta không thể giúp gì cho ông ấy cả."
    "Đúng thể," tôi nói. "Nhưng có nhiều điều làm ta băn khoăn --"
    Phát mãi viên đến. Vội vội vàng vàng, rõ ràng ông rất bận. Mỗi ngày ông có hàng chục cuộc đấu giá. Vung tay, ông bắt đầu bán các món lặt vặt đáng thương. Ông có một khiếu khôi hài sắt đá và tính thực tiển của một người phải đối phó hằng ngày với những nỗi thương tâm nhưng vẫn không để chúng ảnh hưởng.
    Những món vụn vặt không giá trị được rao bán vài mươi xu. Phần lớn chúng được các lái buôn mua. Họ sẽ lười lĩnh dơ một ngón tay khi người phát mãi nhìn về phía họ, hay lẳng lặng lắc đầu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng lại có một đôi mắt theo dõi cái liếc mắt của người phát mãi, đôi mắt mệt mỏi của một người đàn bà, đầy hy vọng và sợ hãi, chăm chăm nhìn ngón tay của một tên lái buôn như thể đấy là ngón tay của Chúa.
    Có ba người đấu giá chiếc tắc xi -- đầu tiên, Guido, ra giá ba trăm marks, một cái giá rẻ mạt đáng xấu hổ. Người đàn ông thấp béo bước tới một bước. Môi ông mấp máy, nhưng không phát ra lời. Trong khoảng khắc, tưởng như ông sắp sửa tham gia cuộc đấu. Nhưng cánh tay buông xuống. Ông lui lại.
    Lần kêu giá thứ nhì là bốn trăm marks. Guido nâng lên bốn trăm năm mươi. Im lặng. Phát mãi viên gọi mời. "Không ai trả thêm? Hỏi lần thứ nhất . . . hỏi lần thứ hai . . ." Người đàn ông đứng cạnh xe tắc xi, mắt mở to và đầu cúi gầm, chờ tiếng búa.
    "Một ngàn," Koster nói. Tôi nhìn anh. "Nó đáng giá gấp ba lần," anh thì thào. "Tớ không thể nào nhìn thấy ông ta bị làm thịt."
    Guido cuống quít ra dấu. Khi làm ăn, hắn ta quên bẳng đi những lời sĩ nhục. "Một ngàn mốt," hắn be be rống lên, hai mắt cùng nháy chúng tôi. Nếu hắn có một con mắt khác đàng sau, có lẽ hắn cũng đã dùng nó để nháy nhó.
    "Một ngàn năm trăm," Koster nói.
    "Một ngàn năm trăm mười," Guido tuyên bố, vã mồ hôi.
    "Một ngàn tám trăm," Koster nói.
    Guido sờ lên trán và bỏ cuộc. Phát mãi viên nhãy cởn lên, kích động. Thình lình tôi nghĩ đến Pat. "Một ngàn tám trăm năm mươi," tôi buột miệng nói, không ngờ mình làm thế.
    Koster quay đầu lại, ngạc nhiên, "Tớ sẽ bù năm mươi đồng," tôi vội vàng nói. "Ít nhiều gì, nó sẽ giúp chúng ta -- nó là một sự đầu tư."
    Anh gật đầu.
    Người phát mãi nện búa, bán chiếc xe cho chúng tôi. Koster trả tiền ngay lập tức.
    "Tôi đã nói gì với các anh?" Guido đến gần chúng tôi, như chưa có chuyện gì đã xảy ra. "Chúng ta có thể mua nó với giá một ngàn marks. Chẳng mấy chốc, chúng ta sẽ gạt và loại được người thứ ba kia ."
    "Chào em yêu!" một giọng nói the thé, táo bạo vang lên từ sau lưng hắn -- chú vẹt trong cái lồng mạ vàng.
    "Chào Thộn," tôi góp vào.
    Guido nhún vai và biến mất.
    "Rất tiếc . . ." tôi nói.
    "Không sao đâu," ông trả lời.
    "Chúng tôi đáng lẽ không làm như thế," tôi nói. "Nhưng ông lại càng có ít tiền hơn."
    Ông ta gật đầu, hai tay xoắn vào nhau.
    "Xe tốt lắm, " thình lình ông bật ra, vấp váp. "Đấy là một cái xe tốt, có giá trị, thật thế; cậu không trả giá hớ đâu. Không phải vì cái xe . . . --không phải đâu . . . mà vì . . ."
    "Tôi biết," tôi nói.
    "Và chúng tôi chẳng được gì," người đàn bà nói; "người ta lấy tất cả."
    "Chúng ta sẽ lại có tiền, mẹ nó ơi," người đàn ông nói; "chúng ta sẽ lại có tiền."
    Người đàn bà không trả lời.
    "Khi sang số một qua số hai, xe sẽ gầm một chút," người đàn ông nói; "nhưng đấy không phải hư hỏng. Nó đã kêu như thế ngay từ lúc đầu." Ông như đang nói về một đứa bé. "Chúng tôi có chiếc xe này từ ba năm nay, nhưng chưa một lần bị trục trặc. Các cậu biết không, tôi ngã bệnh và một đứa đã hại tôi -- một người bạn,"
    "Một tên gian ác," người đàn bà nói, mặt ra vẻ hằn học..
    "Mẹ nó ơi, " người đàn ông kêu lên và nhìn người đàn bà. "Anh sẽ lại sớm có tiền, mẹ nó ơi, phải thế không?"
    Người đàn bà chẳng trả lời. Người đàn ông nhễ nhại mồ hôi.
    "Cho tôi xin địa chỉ của ông," Koster nói; "Đôi khi chúng tôi có thể cần một người tài xế, biết đâu đấy."
    Bằng bàn tay thô to, chất phác, người đàn ông sốt sắng viết xuống. Tôi nhìn Koster, chúng tôi đều biết, cần phải có một phép lạ trước khi chúng tôi có thể giúp đỡ được ai. Và không có phép lạ ở thời đại này. Ông ta sẽ chìm lỉm như hầu hết mọi người.
    Ông ta nói không ngừng như một người đang lên cơn sốt. Buổi đấu giá đã chấm dứt, chỉ còn chúng tôi ở lại trong sân. Ông chỉ cho chúng tôi cách khởi động xe vào mùa đông. Ông cứ trở đi, trở lại bên chiếc xe. Cuối cùng ông nín thinh. "Đi thôi, Albert," người đàn bà nói.
    Chúng tôi bắt tay ông, và họ bỏ đi. Chúng tôi đợi đến khi không còn thấy họ nữa mới mở máy xe.
    Trong khi lái khỏi nơi ấy, chúng tôi thấy một bà lão thấp bé với cái lồng chim trong tay, cố gắng xua đám trẻ con đang bám theo. Koster dừng xe lại.
    "Bà ơi, muốn cháu đưa đi không?" anh hỏi bà.
    "Thời buổi này? Bà không có tiền đi lang thang bằng tắc xi đâu!"
    "Bà không cần có xu nào," Otto nói. "Hôm nay là sinh nhật của cháu và cháu lái xe cho vui mà thôi."
    Bà giữ chặt lồng chim, nghi ngờ. "Nhưng sau đó sẽ mất một thứ gì?"
    Anh bảo đảm với bà là không, và cuối cùng bà lên xe.
    "Bu ơi, bu mua con vẹt làm gì thế?" Tôi hỏi, khi bà sắp xuống xe.
    "Cho ban đêm," bà nói. "Thức ăn của nó có đắc tiền lắm không, hở cháu?"
    "Không," tôi nói; "nhưng tại sao cho ban đêm?"
    "Nó biết nói, cháu thấy mà," bà trả lời, nhìn tôi với đôi mắt già nua, trong sáng. "Giờ thì, lúc nào trong nhà cũng sẽ có tiếng nói huyên thiên."
    "Ach, thì ra thế," tôi đáp.
    Buổi chiều, ông chủ tiệm bánh ghé qua xưởng để nhận xe. Trông ông buồn rầu, chua chát. Tôi đang ở một mình trong sân. "Ông thích màu sơn này chứ?" tôi hỏi.
    "Cũng tàm tạm," ông nhìn chiếc xe và nói, không lấy gì quả quyết.
    "Ghế bọc trông được lắm."
    "Chắc vậy..."
    Ông lẩn quẩn mãi, rõ ràng chưa muốn về. Tôi nghĩ ông sẽ đòi thêm một món gì đó -- chẳng hạn một cái kích xe, gạt tàn thuốc lá hay một thứ tương tự.
    Nhưng thực tế lại khác hẳn. Ông lê la, xem hết thứ này đến thứ kia; rồi nhìn tôi với đôi mắt vằn đỏ vì thiếu ngủ và nói: "Cứ thử nghĩ -- chỉ mấy tuần trước thôi, bà ấy hãy còn sống, còn ngồi ở đây, hạnh phúc..."
    Tôi ngạc nhiên vì bỗng dưng ông lại đa cảm như thế và tôi đoán, có lẽ cô gái bé bỏng, quê mùa đi với ông lần trước đã bắt đầu làm ông khó chịu.
    "Bà ấy là một người vợ đảm," ông nói tiếp; "một viên ngọc quý, tôi có thể nói thế. Bà ấy không bao giờ đòi hỏi một thứ gì. Bà ấy mặc hoài một cái áo choàng cũ suốt mười năm. Bà ấy tự may vá các thứ quần áo linh tinh. Và tự làm việc nhà -- không mướn ai cả."
    À há, tôi nghĩ, người mới thì không, rõ ràng như thế.
    Ông tả cho tôi nghe, bà đã tiết kiệm ra sao. Thật phi thường, hồi ức về sự cần kiệm đã ảnh hưởng sâu đậm đến con người nghiện trò chơi ky ấy. Bà không chịu chụp ảnh -- tốn nhiều tiền. Ông chỉ có một tấm, chụp chung cả nhóm trong ngày cưới, và vài ba bức ảnh chụp vội.
    Một ý tưởng chợt nảy sinh. "Ông cần nhờ người vẽ một bức chân dung cho bà," tôi nói. "Như thế ông sẽ luôn có một thứ gì đó để tưởng nhớ. Ảnh sẽ phai màu. Tôi biết một họa sĩ chuyên môn về việc này."
    Tôi giải thích cho ông ta công việc của Ferdinand Grau. Ông ta lập tức nghi ngại, và nghĩ rằng sẽ rất đắt tiền. Tôi bảo đảm -- nếu có tôi đi cùng, ông sẽ được giá đặc biệt. Ông ta cố thoái thác, nhưng tôi không để cho ông ta bỏ đi, giải thích rằng nếu ông thực sự thương vợ, số tiền ấy sẽ chẳng là bao. Cuối cùng ông ta đồng ý. Tôi gọi Ferdinand, báo trước cuộc gặp, và cùng lái xe về nhà ông để lấy hình của bà vợ.
    Từ cửa hàng, cô tóc đen chạy ùa ra, chào đón. Cô nàng lượn quanh chiếc Ford. "Màu đỏ sẽ đẹp hơn, Puppi ạ. Nhưng anh cứ vẫn làm theo ý ngông của mình."
    "Như thế được rồi," Puppi bực bội nói.
    Chúng tôi lên phòng khách trên lầu, cô tóc đen lẽo đẽo theo sau. Đôi mắt tinh nhanh của cô nàng đão khắp nơi. Ông chủ tiệm bánh khó chịu lắm. Ông không muốn tìm các tấm ảnh dưới sự dòm ngó của cô nàng. "Để chúng tôi yên thân," cuối cùng, ông nói thẳng.
    Cô nàng phụng phịu. "Gớm, người gì mà lịch sự thế!"
    Bộ ngực khiêu khích, rung rinh dưới lớp áo liền quần bó sát, cô ta ngúng nguẩy bỏ đi. Từ một quyển album bọc vải nhung xanh lục, ông chủ tiệm bánh lấy ra mấy tấm ảnh và đưa tôi xem. Trong một tấm, vợ ông là cô dâu mới, ông bên cạnh, ria mép vuốt sáp cong cong -- bà đứng đấy, cười tươi; ở một bức khác, trong đó, gầy gò héo hắt vì làm lụng, với đôi mắt thất thần, bà khép nép ngồi ở mép ghế. Hai bức ảnh nhỏ -- một cuộc đời.
    Ferdinand Grau vận áo choàng trắng, tiếp đón. Trông anh nghiêm nghị và trịnh trọng. Đấy là một thủ thuật nhà nghề . Anh hiểu, với nhiều người đang tang chế, tôn kính lòng thương tiếc của họ còn quan trọng hơn cả sự thương tiếc.
    Tường của xưởng họa treo nhiều tranh sơn dầu đóng khung, bên dưới là những tấm ảnh nhỏ, dựa theo đó tranh được vẽ nên, như thế một khách hàng nhìn thoáng qua cũng biết khả năng có thể đạt được, dù với bức ảnh mờ nhạt nhất.
    Ferdinand đưa ông chủ tiệm bánh một vòng quanh xưởng để chọn kiểu mà ông ta ưa thích nhất. Ông ta hỏi, phải chăng giá tranh không tùy thuộc vào kích thước. Ferdinand giải thích, kích cở không đáng kể bằng cách thức thể hiện. Ngay lúc ấy, ông chủ tiệm bánh chọn kiểu vẽ của bức họa to nhất.
    "Ông có khiếu thẩm mỹ, " Ferdinand khen. "Đấy là chân dung của công chúa Borghese. Tám trăm marks. Cả khung."
    Ông chủ tiệm bánh há hốc mồm. "Không khung thì sao?"
    "Bẩy trăm hai mươi,"
    Ông chủ tiệm bánh trả giá bốn trăm. Ferdinand lắc cái bờm sư tử của mình.
    "Với bốn trăm marks, giỏi lắm chỉ có tranh bán diện. Không thể có tranh chính diện, bán thân. Ông biết mà, vẽ tranh chính diện phải tốn công gấp đôi."
    Ông chủ tiệm bánh nói, nghĩ cho cùng, một bức tranh vẽ gương mặt nhìn nghiêng cũng đủ. Ferdinand lưu ý ông ta là hai bức ảnh của ông đều là ảnh chụp chính diện. "Ngay cả Titian cũng không tài nào vẽ tranh bán diện dựa vào chúng," anh nói. Ông chủ tiệm bánh toát mồ hôi; ông ta tức tối vì đã không nhìn thấy trước chuyện này khi chụp những tấm ảnh ấy. Nhưng ông ta phải nhận là Ferdinand nói đúng -- tranh chính diện có một nửa mặt nhiều hơn tranh bán diện; rõ ràng nó cần được tính giá cao hơn.
    Ông chủ tiệm bánh lưỡng lự mãi. Từ đầu đến giờ, Ferdinand vẫn kiềm chế; nay đến lúc anh bắt đầu thuyết phục. Giọng nói trầm ấm của anh rền trong xưởng vẽ to rộng. Là một chuyên viên, tôi cũng phải công nhận đấy là một công trình tuyệt vời: chẳng mấy chốc ông chủ tiệm bánh đã mềm lòng -- nhất là khi Ferdinand khơi gợi lên tác dụng choáng ngộp mà một bức tranh hoành tráng có thể gây ra trên những người hàng xóm xấu tính.
    "Tốt lắm," cuối cùng ông ta nói, "thế nhưng ông có thể bớt cho tôi mười phần trăm, vì tôi trả tiền mặt, được chứ?"
    "Được," Ferdinand trả lời; "giảm mười phần trăm -- nhưng tôi cần ba trăm marks -- ứng trước để mua màu và vải."
    Họ cò kè với nhau một lúc, cuối cùng đồng ý và bắt đầu thảo luận các chi tiết. Ông chủ tiệm bánh muốn vẽ thêm một chuỗi hạt trai và một kim cài áo đính kim cương. Trong ảnh không có.
    "Tất nhiên," Ferdinand giải thích, "cần phải vẽ nữ trang của bà. Tốt nhất ông nên đem chúng đến, lưu ở đây khoảng một giờ, để tôi có thể dựa vào đó mà vẽ cho chính xác."
    Ông chủ tiệm bánh đỏ mặt. "Hiện giờ tôi không có. Chúng đang...đang ở... Ơ, phải rồi, thân nhân của bà ấy đang giữ."
    "A, thế ư! Thật ra cũng chẳng hề chi. Kim cài áo của bà có giống như kim cài áo, thí dụ, trong bức tranh đàng kia không?" Ferdinand gợi ý.
    Ông chủ tiệm bánh gật đầu. "Nhưng không to bằng."
    "Tốt lắm. Vậy chúng ta sẽ vẽ giống như thế. Và chúng ta không cần chuỗi hạt trai. Hạt trai nào cũng giống hệt nhau."
    Ông chủ tiệm bánh cảm thấy nhẹ thở. "Vậy khi nào tranh sẽ vẽ xong?"
    "Trong sáu tuần."
    Chỉ còn lại Ferdinand và tôi trong xưởng họa.
    "Anh thực sự cần sáu tuần để hoàn tất?" tôi hỏi.
    "Ach, cậu nghĩ sao? Có lẽ bốn, năm ngày thì xong. Nhưng tớ không thể nói thế với ông ấy, vì ông ấy sẽ quy ra bao nhiêu tiền tớ kiếm được trong một giờ, và sẽ nghĩ rằng mình bị lừa. Nói sáu tuần, ông ta sẽ hài lòng. Cũng thế, tranh của công chúa Borghese -- đấy là bản chất của con người, Bob thân mến; nếu tớ nói đấy là tranh vẽ một cô thợ may, ông ấy sẽ nghĩ rằng tranh chỉ đáng giá một nửa mà thôi. Đây là lần thứ sáu, các bà quá vãng được tô điểm với nữ trang như trong bức tranh ấy. Những trùng hợp hết sức lạ kỳ, phải không? Tranh của Luise Woff, một họa phẩm tuyệt vời."
    Tôi nhìn quanh; các bức tranh bị bỏ rơi hay không đủ tiền trả -- những gương mặt bất động, những đôi mắt đã từ lâu mủn nát dưới đáy mồ, trên tường chòng chọc nhìn xuống -- tất cả những người đã từng hít thở và hy vọng...
    "Thế này mà anh không buồn sao, Ferdinand?"
    Anh nhún vai. "Khinh đời thì có. Người ta buồn khi nghĩ về cuộc đời -- khinh đời, khi chứng kiến cảnh con người xoay sở."
    "Vâng, nhưng với một số người, dù sao, còn tồi tệ hơn nữa."
    "Đúng vậy. Nhưng họ không mượn ta vẽ tranh."
    Anh đứng lên. "Nghĩ cho cùng, cũng thế mà thôi, phải không Bob, họ có quyền hưởng thụ chút ít, chuyện ấy quan trọng với họ. Nhờ thế họ mới có thể tiếp tục sống và chiến đấu trong những ngày đen tối khi họ bơ vơ. Và khi cô đơn, thực sự cô đơn, không ảo vọng, đấy là con đường dẫn đến điên rồ -- và tự sát."
    Căn phòng rộng, trơ trọi như hầm mộ dưới ánh sáng lờ mờ hư ảo. Từ phòng bên cạnh, ta có thể nghe tiếng chân người đến rồi đi -- bà quản gia. Bà ấy không hề lộ mặt khi một trong những đứa tôi đến đây. Bà ấy ghét chúng tôi vì nghĩ rằng chúng tôi muốn chia rẻ Grau với bà.
    Tôi ra về. Âm thanh huyên náo của đường phố tấp nập bên dưới chợt ấm như nước tắm trong bồn.

  4. #10
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 11

    Tôi đang trên đường đến nhà Pat. Sẽ là lần đầu tôi thăm nàng. Cho đến nay, hoặc nàng đến chỗ của tôi, hay tôi đến trước cửa nhà nàng, rồi hai đứa dẫn nhau đi nơi khác. Lúc nào cũng như là có một mình nàng thăm tôi. Tôi muốn biết thêm về nàng. Tôi muốn biết nàng sống ra sao.
    Hoa nở đầy trong công viên phía sau bùng binh. Tôi nhảy qua rào, thò tay ngắt một nhánh tử đinh hương trắng.
    "Cậu ấy ơi, câu đang làm gì vậy?" một giọng nói dõng dạc gióng lên.
    Tôi ngước mắt nhìn. Một ông, mặt đỏ au như màu rượu chát, ria bạc vuốt sáp mượt, đang nhìn tôi, bất bình. Không phải cảnh sát hay nhân viên chăm sóc vườn hoa. Ta có thể nhận ra ngay, đấy là một sĩ quan cao cấp hồi hưu.
    "Có gì khó biết đâu hở bác," tôi lễ phép trả lời. "Cháu đang hái vài chùm tử đinh hương."
    Trong một thoáng, ông tắt nghẹn, không nói ra lời. Rồi ông gầm lên, thịnh nộ, "Vậy cậu không biết đây là công viên thành phố hay sao?"
    Tôi mỉm cười thân ái. "Bác đừng nói rằng cháu nghĩ đây là quần đảo Canary nhé. Bác biết mà, xứ sở của những con hoàng yến xinh đẹp, ca hát véo von."
    Ông tím mặt. Tôi sợ ông sẽ đột quỵ mất thôi. "Thằng ranh con, bước ra lập tức!" Ông hét toáng lên, giọng chỉ huy ở trại lính. "Cậu đang trộm cắp tài sản công cộng. Tôi sẽ cho lính bắt cậu."
    Trong lúc ấy, tôi đã thu vén đủ số tử đinh hương cần thiết. "Nội ơi, đố nội đuổi kịp cháu," tôi thách thức, và nhảy qua hàng rào đối diện, biến mất.
    Bên ngoài nhà Pat, tôi kiểm soát lại y phục của mình. Rồi, chầm chậm, tôi bước lên cầu thang. Căn nhà mới và hiện đại -- một tương phản rõ rệt với trại lính cũ mèm và lòe lẹt của tôi. Cầu thang trải thảm đỏ -- một thứ không hề có ở nhà Mợ Zalewski. Nói gì tới thang máy.
    Pat sống ở lầu hai. Cửa gắn một biển thau nhỏ đầy vẻ long trọng: EGBERT VON HAKE, TR. T. Tôi tự động chỉnh lại cà vạt, trước khi bấm chuông.
    Một cô đội mũ trắng, khoác tạp dề be bé đi ra mở cửa --không thể xếp chung một lứa với Frida, bà cô nhếch nhác mắt lé của chúng tôi. Tôi cảm thấy lúng túng. "Herr Lohkamp?" cô hỏi.
    Tôi gật đầu. Nhẹ nhàng, cô dẫn tôi đến một đầu cầu thang và mở cửa. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Trung Tá Egbert von Hake đứng sẳn ở đấy, đồng phục chỉnh tề và tra vấn tôi trước tiên, bởi trên tường của tiền sảnh, một dãy chân dung các tướng lãnh, uy chương đầy ngực, nghiêm khắc nhìn xuống tôi, gã bạch đinh. Nhưng kìa Pat đã ra tới, bước chân dài uyển chuyển, và gian phòng đột nhiên trở thành một hòn đảo ấm áp, vui tươi. Tôi đóng cửa và việc trước nhất là thận trọng ôm nàng trong tay. Rồi tôi trao cho nàng bó tử đinh hương ngắt trộm. "Đây," tôi nói, "với sự ân cần của hội đồng thành phố."
    Nàng cắm những cành hoa vào một chiếc bình gốm màu tươi đặt trên sàn, gần cửa sổ. Trong khi ấy, tôi liếc mắt nhìn quanh và ngạc nhiên. Màu sắc nhã nhặn, ưa nhìn; bàn ghế cũ, nhỏ gọn, đáng yêu; thảm lót sàn xanh lơ nhạt, màn cửa màu phấn tiên ngọt dịu, ghế bành ấm cúng bọc sa tanh đã ngã màu ...
    "Trời đất, Pat, làm sao em có thể tìm được một căn phòng thế này?" tôi nói. Thông thường người ta trang bị phòng cho thuê với bàn ghế hư hỏng và quà sinh nhật vô dụng."
    Nàng cẩn thận đẩy cái bình gốm cắm hoa vào sát tường. Tôi ngắm chiếc cổ thuôn, thanh tú, bờ vai thẳng và đôi tay có phần quá gầy guộc của nàng. Khi quỳ, trông nàng như một đứa trẻ, một cô bé cần được nâng niu chăm sóc. Nhưng cử động của nàng là cử động của một con thú duyên dáng, và khi nàng đứng lên, tựa vào tôi, nàng không còn là một em bé nữa, mắt môi nàng lại chứa một nỗi chờ mong hiếu kỳ và một niềm bí ẩn làm tôi ngây ngất điên mê, những thứ tôi tưởng không còn trong thế gian bùn lầy này.
    Tôi đặt tay lên vai nàng. Thật sung sướng biết bao được chạm vào người nàng như thế. "Chúng là vật dụng của em, Bob ạ," nàng nói. "Trước đây mẹ em làm chủ ngôi nhà. Khi bà mất đi, em cho thuê bớt, chỉ giữ hai phòng cho riêng em."
    "Vậy căn nhà thuộc về em, phải không? Và Trung Tá Egbert von Hake là người thuê?"
    Nàng lắc đầu. "Bây giờ thì không. Em không giữ được. Em phải bán tất cả bàn ghế còn lại và cả ngôi nhà nữa. Em hiện đang ở trọ nơi đây. Nhưng anh không thích Trung Tá Egbert thì phải?"
    "Không đâu. Chỉ có điều là tự nhiên anh không ưa đám cảnh sát và sĩ quan tham mưu. Hậu quả của những ngày đi lính."
    Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
    "Thiếu tá đứng gần chót bảng."
    "Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
    Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
    "À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
    "Vậy anh không biết cụ ấy."
    "Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
    "Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
    Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
    Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
    "Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
    "Vâng, nhìn đây."
    "Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
    Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
    "Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
    "Em sẽ dùng cà phê với anh."
    "Nếu không, em sẽ uống trà?"
    "Vâng."
    "Chúng ta cùng uống trà vậy."
    "Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
    "Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
    "Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
    "Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
    Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
    "Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
    "Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
    Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
    Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
    Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
    "Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
    Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
    "Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
    "Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
    "Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
    Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
    Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
    "Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
    Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
    Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
    Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
    "Sao lại thế?"
    "Em ốm."
    "Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
    "Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
    Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
    Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
    "Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
    "Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
    "Em nhớ dai thật," tôi nói.
    "Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
    "Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
    "Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
    "Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
    "Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
    "Anh cũng thế."
    "Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
    "Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
    "Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
    Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
    "Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
    Nàng lắc đầu.
    "Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
    "Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
    "Không, can đảm chứ."
    "Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
    "Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
    "Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
    "Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
    Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
    "Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
    Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
    "Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
    "Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
    "Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
    "Ngày một tháng Tám."
    "Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
    "Vậy anh đã có máy hát?"
    "Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
    "Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
    "Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
    Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
    Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
    "Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
    "Không," nàng đáp.
    "Em lại đúng," tôi nói.
    Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
    "Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
    "Ở tiệm đàng góc phố."
    À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
    "Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
    Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
    Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
    "Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
    Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
    "Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
    Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
    "Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
    Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
    "Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
    "Chẳng đáng chi, anh ạ."
    "Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
    Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
    "Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
    "Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
    "Không có việc gì?"
    "Loại nào?"
    "Thư ký văn phòng, phụ tá --"
    Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
    "Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
    "Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
    "Cái gì?"
    "Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
    "Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
    "Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
    "Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
    "Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
    Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
    "Ach, ơ --" tôi nói.
    "Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
    "Làm gì có," tôi trả lời.
    Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
    Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
    "Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
    "Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
    "Vâng?"
    "Vâng, trẻ ra."
    "Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
    "Pros't, Bob."
    Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
    "Bé con," Valentin nói.
    "Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
    "Như khi nãy."
    "Phải rồi."
    Fred rót đầy ly.
    "Nào, pros't, Valentin."
    "Pros't,
    "Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
    Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
    Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
    "Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
    Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
    Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
    "Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
    "Vâng," anh nói.
    Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
    "Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
    Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
    Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
    "Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
    Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
    Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
    "Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
    "Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
    "Nước chanh."
    "Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
    "Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
    Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
    "Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
    Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
    "Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
    Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
    Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
    Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
    "Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
    "Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
    "Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
    Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
    Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
    Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
    Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
    Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.


    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 12

    Xưởng của chúng tôi trống hoắc như một vựa lúa trước mùa gặt. Vì vậy chúng tôi quyết định không bán chiếc tắc xi mà giữ nó lại, đưa đón khách một thời gian. Lenz và tôi sẽ thay nhau lái. Koster và Jupp dư sức quán xuyến công việc trong xưởng, đến khi kiếm được một công trình mới.
    Tôi nhét tiền lẻ đầy túi, cầm theo giấy tờ, và lái lanh quanh tìm một bãi đáp tốt. Có một cảm giác xao xuyến của buổi ban đầu. Bất kỳ thằng ngốc nào cũng có thể chận tôi lại và ra lệnh. Chẳng phải là một cảm giác tuyệt diệu. Trôi tuột một lần nữa. Tôi không hiểu rõ, vì sao lần này tôi cảm thấy cần phải thu lượm được một điều gì khác hơn trước đây. Công việc này có lẽ không bền -- tuy nhiên, được nhìn ngắm chỗ này chỗ kia còn hơn giam mình trong văn phòng, để một tên trưởng phòng u sầu nào đấy hành hạ đến khi ta không chịu nỗi phải ném quyển sổ kế toán vào mặt hắn, rồi bị đuổi.
    Tôi chọn một nơi chỉ có năm chiếc tắc xi đang đậu. Đối diện với khách sạn Waldecker Hof, tại trung tâm một khu thương mại. Ở đấy, hy vọng sẽ đắt khách.
    Tôi tắt máy xe, bước ra. Từ trong chiếc xe đầu, một người cao lớn mặc áo choàng da tiến đến. Hắn gầm lên, "Cút ngay,"
    Tôi bình tỉnh nhìn hắn và nghĩ rằng nếu cần, một cú móc ngược vào càm là tốt nhất. Áo choàng của hắn sẽ vướng víu khiến hắn không dơ tay đỡ kịp.
    "Mày không có mũ?" hắn nhấn mạnh, nhỗ toẹt mẫu thuốc lá cùn xuống chân tôi. "Mày nên cút ngay. Ở đây đã đủ người. Không cần nữa."
    Rõ ràng hắn nổi giận vì có thêm người; nhưng tôi có quyền đứng đây nếu tôi thích.
    "Tôi bằng lòng đãi mấy chầu ra mắt," tôi nói.
    Theo tôi nghĩ, như thế đã ổn. Thông thường ai mới vào nghề cũng phải chịu vậy.
    Một cậu tài xế trẻ tuổi xuất hiện. "Được mà, bạn. Mặc kệ hắn, Gustav --"
    Gustav không thích một điều gì đấy ở tôi. Tôi biết điều ấy là gì. Hắn nhận ra, tôi là một tay mơ tập tễnh vào nghề.
    "Tao sẽ đếm ba tiếng --" hắn nói. Hắn cao hơn tôi một cái đầu và tin tưởng vào lợi thế ấy.
    Tôi hiểu, có nói cũng bằng thừa. Một là tôi phải đi khỏi chỗ này, hay là đánh nhau. Rõ ràng như vậy. "Một," Gustav đếm, vừa cởi khuy áo choàng.
    "Đừng có vô lý," tôi nói, cố gắng một lần nữa. "Anh không cảm thấy hương vị whiskey nóng bỏng ở cuống họng hay sao?"
    "Hai --" Gustav gầm lên.
    Tôi thấy rõ, hắn định nện cho tôi một trận đến nơi đến chốn.
    "Và một là ---" Hắn đẩy mũ của hắn lệch ra sau.
    "Câm đi, thằng ngốc!" tôi thình lình quát to. Gustav há mồm kinh ngạc, bước tới một bước. Chính xác ngay vị trí tôi muốn. Tôi lập tức tung nhanh -- một cú đấm mạnh như búa bổ, với sức nặng của toàn thân. Koster đã dạy tôi cú đấm ấy. Tôi không giỏi quyền Anh; tôi cho là không cần thiết -- thông thường quả đấm thứ nhất sẽ quyết định tất cả. Đây là một quả đấm hay tuyệt.
    Gustav gục tại chỗ. "Không sao cả," người tài xế trẻ tuổi nói. "Anh ấy luôn luôn ước muốn như thế." Chúng tôi khênh hắn lên, đặt vào xe tắc xi của hắn. "Anh ấy sẽ tỉnh lại ngay."
    Tôi cảm thấy có chút ưu tư, vì khi đấm, tôi đã để ngón cái nằm bên ngoài. Khi Gustav tỉnh dậy, hắn có thể tha hồ đập tôi tùy thích. Tôi nói cho người tài xế trẻ nghe và hỏi cậu ta, liệu tôi có nên chuồn mau. "Vô lý," cậu ta nói, "chuyện ấy đã giải quyết. Đến quán rượu và trả tiền ra mắt. Anh không phải là dân lái tắc xi chuyên nghiệp?"
    "Không."
    "Em cũng thế. Em là diễn viên."
    "Và em thành công?"
    "Người ta phải sống," cậu ấy cười to, "Và đời không hoàn toàn như trong kịch."
    Nhưng chuyện ấy đã không xảy ra. Gustav đá một cái ghế và hờn dỗi ngồi phịch xuống. Cô hầu bàn đặt một cái ly trước mặt hắn. Bia mang đến. Gustav uống cạn ly. Gọi thêm một chầu nữa.
    Gustav nghiêng mặt nhìn tôi. Hắn nâng ly. "Pros't," hắn nói với tôi, nhưng với nét mặt ỉu xìu như bùn.
    "Pros't," tôi đáp và chạm ly.
    Gustav chìa ra một gói thuốc lá. Hắn mời mà không nhìn tôi. Tôi nhón một điếu và bật lửa cho hắn. Rồi tôi gọi một chầu double kummel. Chúng tôi cùng uống. Gustav lại liếc qua.
    "Đồ phá hoại," hắn nói, nhưng bằng một giọng thích hợp.
    "Đồ ngu si," tôi trả lời cùng một kiểu.
    Hắn quay lại, đối diện với tôi. "Quả đấm thật tuyệt."
    "Hên thôi," tôi nói, và chỉ cho hắn xem ngón cái của tôi.
    "Xui thật," hắn nhăn răng cười, đáp lời. "Nhân thể, tớ tên là Gustav."
    "Còn tớ, Robert."
    "Tốt. Vậy thì O.K chứ, Robert? Tớ tưởng cậu vừa dứt sửa mẹ."
    "O.K, Gustav."
    Từ đấy trở đi, chúng tôi là bạn với nhau.
    Những chiếc tắc xi chầm chậm lăn bánh tới. Người diễn viên, tên là Tommy, có một mối hời đưa khách ra nhà ga; Gustav chở khách đến một nhà hàng gần nhất, tiền xe ba mươi pfenig. Anh hầu như sẽ nổi cơn tam bành, bởi vì giờ đây, với tiền lời chỉ có mười fpenig, anh phải xuống hạng chót ở cuối hàng. Tôi kiếm được một mối khá đặc biệt -- một bà người Anh muốn tham quan thành phố. Gần một tiếng đồng hồ với bà. Lượt về, tôi còn kiếm thêm vài mối nhỏ. Đến trưa, khi chúng tôi lại tụ tập nơi quán rượu và ăn bánh mì với bơ, tôi cảm thấy mình đã thạo nghề lắm rồi. Có một điều gì đó tương tự tình chiến hữu trong quân đội. Đủ mọi hạng người đáp lời sông núi tại đây. Hơn phân nửa lúc nào cũng thế, số còn lại bằng cách này cách khác cũng bị lôi cuốn vào.
    Buổi chiều, khá hài lòng với bản thân, tôi lái xe vào sân xưởng sửa xe. Lenz và Koster đang chờ tôi.
    "Các cậu kiếm được bao nhiêu?"
    "Bẩy mươi lít dầu lửa," Jupp trả lời.
    "Chỉ thế thôi?"
    Lenz tuyệt vọng nhìn lên trời. "Cho một giọt nước mưa! Và một vụ đụng xe sơ sài trên mặt đường trơn trợt ngay trước cửa! Dĩ nhiên không ai bị thương. Chỉ có một mối sửa xe nhẹ nhàng."
    "Nhìn đây." Tôi khoe ba mươi lăm marks trong bàn tay mình.
    "Tuyệt vời," Koesler nói. "Lời hai mươi marks đấy. Chúng ta sẽ tiêu nó ngay tức thì. Phải ăn mừng chuyến 'hải trình' đầu tiên."
    "Chúng ta sẽ có một bình rượu vang ướp woodruff," Lenz nói.
    "Một bình?" tôi hỏi. "Cậu định nói gì thế?"
    "Đúng. Pat sẽ đến."
    "Pat?"
    "Đừng có há mõm to đến thế," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Tụi tớ đã dàn xếp từ lâu. Tụi tớ sẽ đón cô ấy lúc bẩy giờ. Cô ấy biết tất cả. Nếu cậu không nghĩ ra được những việc đấy, tụi tớ đành phải tự tay làm mà thôi. Dù sao đi nữa, cậu quen với cô ấy qua tụi tớ mà."
    "Otto," tôi nói, "có bao giờ cậu thấy một điều gì xấc xược hơn không?'
    Koster cười. "Tay cậu bị gì thế, Bob? Dường như bị vẹo?"
    "Chắc là sái gân rồi." Tôi kể lại câu chuyện với Gustav. Lenz nhìn tay tôi. "Hẳn thế. Nhưng, mặc dù sự thô lỗ của cậu, như một tín đồ Cơ đốc giáo và một sinh viên trường thuốc hồi hưu, tớ sẽ xoa bóp cho cậu. Vào đây, Ông Đánh Bốc."
    Chúng tôi vào trong xưởng và Gottfried nắn bóp tay tôi với một chút dầu nóng. "Cậu bảo Pat rằng chúng ta sẽ ăn mừng ngày đầu tiên lái tắc xi?" tôi hỏi anh.
    "Liệu mà giữ mồm giữ miệng," tôi trả lời. Bởi có lẽ, anh nói đúng. "Cậu nói cho cô ấy biết, phải không?"
    "Tình yêu," Gottfried bình thản nói, "là một vật đẹp. Nhưng nó làm hỏng tính cách con người."
    "Đơn côi, mặt khác, khiến người ta kém tế nhị."
    "Tế nhị là một thỏa thuận ngầm để phớt lờ thất bại của nhau, thay vì lên tiếng. Đấy là một sự thỏa hiệp đáng khinh. Chẳng có một cựu chiến binh Đức nào lại hạ mình làm chuyện ấy, bé ạ."
    "Vậy giả sử như cậu là tớ, cậu sẽ làm thế nào," tôi nói, "trong trường hợp có ai đấy ngoắc tay đón tắc xi và cậu nhận ra người đó chính là Pat?"
    Anh mỉm cười. "Tớ sẽ chẳng bắt nàng trả tiền xe đâu, cậu nhỏ ơi."
    Tôi huých anh một phát làm anh ngã khỏi chiếc ghế ba chân. "Bố khỉ. Cậu biết tớ sẽ làm gì không? Tối nay tớ sẽ đón nàng bằng xe tắc xi."
    "Xuất sắc." Gottfried dơ một tay lên cao, khuyến khích. "Chỉ cần nhớ, dù cậu làm gì đi nữa, chớ đánh mất tự do. Tự do còn quý hơn cả tình yêu và cậu chỉ hiểu được điều ấy khi đã muộn. Cậu không trọn quyền sử dụng chiếc tắc xi. Tụi này muốn đón Ferdinand Grau và Valentin. Sẽ là một đêm long trọng, nhưng tuyệt vời."
    Chúng tôi ngồi sau vườn một lữ quán nhỏ ở ven thành phố. Vầng trăng ướt treo thấp trên cánh rừng như một ngọn đuốc đỏ. Những cành hạt dẻ đơm hoa giống một chúc đài óng ánh nhạt, mùi tử đinh hương nồng nàn như thuốc, và trên bàn trước mặt chúng tôi, một chậu thủy tinh to chứa rượu vang ướp hương woodruff, trong bóng tối mờ ảo như một khối ngọc opal long lanh, giữ bên trong tia sáng xanh lam và xà cừ lung linh, ánh sáng cuối cùng của chiều tà. Chưa gì chúng tôi đã châm rượu vào chậu đến bốn lần.
    Ferdinand ngồi ghế. Pat ngồi bên cạnh. Nàng cài một đóa lan hồng phấn mà anh mang tặng.
    Ferdinand vớt một con cánh ren từ ly rượu của anh, thận trọng quệt nó lên mặt bàn.
    "Hãy nhìn nó," anh nói: "con muỗi này. Mạng nhện chỉ là giẻ rách so với nó. Và chúng chỉ sống một ngày, rồi xong." Anh đưa mắt quan sát tất cả mọi người. "Người anh em, có ai biết điều gì huyền bí nhất trong thế gian này?"
    "Một ly rượu đã cạn," Lenz trả lời.
    Ferdinand phất tay, phủ nhận Lenz. "Điều bại hoại nhất ở thế gian này đối với loài người, Gottfried, là một tay diễu cợt." Anh quay lại nhìn chúng tôi, "Điều huyền bí nhất trên thế gian, anh em ơi, chính là thời gian. Thời gian. Tượng đài kỷ niệm mà chúng ta sống qua nhưng không thể chiếm hữu." Anh lôi từ trong túi ra một cái đồng hồ và dí sát mắt Lenz. "Nhìn đây, người lãng mạn sống trên mây. Cái vật cơ giới quỷ sứ này, kêu tíc tắc, sẽ tiếp tục kêu tíc tắc, và không có thứ gì có thể làm nó ngưng lại. Ta có thể sống còn sau một cơn tuyết lở hay một trận núi vùi -- nhưng không thể chiến thắng vật này."
    "Tớ không muốn thế," Lenz tuyên bố. "Tớ muốn mình sống êm ả đến già. Và, dù sao đi nữa, tớ cũng thích sự đổi thay."
    "Thời gian không chịu đựng con người," Grau nói, phe lờ anh. "Con người cũng chẳng thể chịu đựng thời gian. Do đó, con người phải chế tạo ra giấc mơ cho chính mình. Giấc mơ xưa cũ, vô vọng, bịnh hoạn của loài người, sự vĩnh cữu."
    Gottfried cười to. "Căn bệnh trầm trọng nhất trong thế gian, Ferdinand, là tư tưởng. Một căn bệnh nan y."
    "Nếu nó là căn bệnh duy nhất, thì cậu sẽ bất tử," Grau đáp. "Cậu, cái túi gồm có chất hữu cơ, vôi, phốt pho và một ít sắt, tồn tại trong một thoáng của trái đất, Gottfried Lenz!"
    Gottfried rạng rỡ, hài lòng. Ferdinand lúc lắc cái bờm sư tử của anh. "Đời sống là một chứng bệnh, người anh em ạ, và cái chết bắt đầu từ lúc ta lọt lòng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp tim, là một giây phút chết chóc -- xô đẩy ta đến gần điểm kết thúc."
    "Và mỗi ngụm rượu nữa cơ," Lenz trả lời. "Pros't, Ferdinand. Đôi khi cái chết lại là một niềm vui sướng đáng ghét. "
    Grau nâng ly. Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt to rộng của anh, như một cơn bão không âm thanh. "Pros't, Gottfied, con bọ nước nhảy loi choi trên luồng chảy của thời gian. Tớ tự hỏi, không biết cái quyền năng điều khiển chúng ta nghĩ thế nào khi họ tạo dựng ra cậu."
    "Hẳn là họ đã thỏa thuận với nhau," Gottfried nói. "Trong bất kỳ trường hợp nào, cậu không phải là người được quyền miệt thị những chuyện như thế. Nếu loài người bất tử, thì cậu -- con ký sinh già, sẽ thất nghiệp."
    Đôi vai của Grau bắt đầu nhô lên. Anh cười to. Rồi anh quay sang Pat. "Em nghĩ sao, bông hoa bé nhỏ trên mặt nước rập rềnh?"
    Sau đó Pat và tôi tản bộ riêng với nhau trong vườn. Trăng đã cao hơn và cánh đồng bơi lội trong ánh xám bạc. Bóng cây ngã dài và đen sẩm trên đấy như những tấm biển chỉ đường về một miền vô định. Chúng tôi đi đến tận hồ, rồi quay trở về. Trên đường, chúng tôi gặp Gottfried, anh bê một cái ghế trong vườn, đặt giữa những bụi tử đinh hương rậm rạp. Anh ngồi khuất bên trong, chỉ còn thấy mái tóc vàng và điếu thuốc. Bên cạnh, trên mặt đất là một cái cốc thủy tinh với những gì còn lại của bình rượu vang trắng xứ Rhine tháng Năm tẩm hương woodruff.
    "Có chỗ ngồi kìa, nếu anh muốn!" Pat nói. "Trong bụi tử đinh hương."
    "Cũng không tệ." Gottfried đứng lên. "Thử xem."
    Pat ngồi xuống ghế. Gương mặt nàng bừng sáng giữa những đóa hoa thắm tươi.
    "Tôi mê tử đinh hương lắm," chàng lãng mạn cuối cùng nói. "Nhớ nhà với tôi có nghĩa là nhớ tử đinh hương. Mùa xuân năm hai mươi bốn, từ Rio de Janeiro tôi đã cố trở về thật gấp gáp, chỉ vì tôi nhớ ra, hẳn là tử đinh hương đang mùa hoa nở. Khi tôi về đến nơi, dĩ nhiên là đã muộn." Anh cười. "Lúc nào cũng thế."
    "Rio de Janeiro." Pat kéo một chùm hoa xuống gần. "Hai anh đều ở đấy cùng một lúc? ""
    Gottfried khựng lại. Tôi rùng mình, cảm thấy một luồng buốt giá chạy dọc theo cột sống.
    "Hãy nhìn trăng kìa," tôi vội vàng nói, cùng một lúc dẫm nhẹ lên chân Lenz để ra hiệu.
    Từ đóm lửa ở đầu điếu thuốc của Lenz, tôi thấy một nụ cười phảng phất và ánh mắt tinh nghịch. Tôi được cứu bồ. "Không, chúng tôi không ở đấy cùng một thời gian. Lúc đấy chỉ có một mình tôi. Nhưng, còn một chút rượu woodruff này, cô nghĩ thế nào?"
    "Thôi ạ." Pat lắc đầu. "Em không uống được nhiều rượu."
    Chúng tôi nghe Ferdinand gọi, và quay về. Nhưng tôi đã quyết tâm là một dịp nào đó, tôi sẽ làm sáng tỏ vấn đề Brazil. Goffried nói đúng -- tình yêu làm hư hoại tính cách con người.
    Ferdinand dềnh dàng đứng ở khung cửa. "Vào đây, các con," anh nói. "Những người như chúng ta không dính dáng gì đến thiên nhiên vào ban đêm. Thiên nhiên muốn được cô độc. Nếu là nông dân hay ngư phủ, đấy lại là một chuyện khác -- nhưng chúng ta, những cư dân thành thị, bản năng đã cùn nhụt, không thể nào." Anh đặt tay lên vai Gottfried. "Đêm là sự phản kháng của thiên nhiên đối lại bệnh hủi của văn minh, Goffried. Không một người chân chánh nào có thể chống cự lâu dài. Hắn sẽ để ý thấy rằng hắn đã bị loại khỏi sự bầu bạn im lặng của cây cỏ, muôn thú, ngàn sao, và cuộc sống vô thức." Anh mỉm nụ cười kỳ quặc của mình; người ta không bao giờ biết đấy là nụ vui hay buồn. "Vào đây, các con. Hãy sưởi ấm đôi tay bằng những hồi ức. Ach, thời kỳ tuyệt vời, khi chúng ta còn là cỏ đuôi ngựa và cá lóc -- năm mươi, sáu mươi ngàn năm trước -- Lạy Chúa, từ đấy đến nay, chúng ta sa ngã đến mực nào."
    Anh cầm tay Pat. "Nếu chúng ta không có chút ý thức về cái đẹp này -- thì chúng ta đã tiêu đời." Một cách tinh tế, bàn tay hộ pháp của anh đặt tay nàng lên cánh tay anh. "Ngôi sao bạc băng qua vực thẳm hun hút -- cô có vui lòng uống một cốc rượu với người đàn ông vạn cổ này không?
    Pat gật đầu. "Vâng," nàng nói. "Bất kỳ điều gì anh thích."
    Khoảng mười một giờ, chúng tôi ra về. Valentin và Ferdinand ngồi tắc xi, Valentin cầm lái. Những người còn lại đi trên Karl. Đêm ấm và Koster lái vào những xóm làng say ngủ bên đường, không một dấu hiệu của sự sống-- ngoại trừ vài ngọn đèn và tiếng sủa của một con chó. Lenz ngồi trước với Otto, ca hát; Pat và tôi phục ở băng sau.
    Koster lái rất cừ. Anh lượn ở những khúc quanh như chim, dễ dàng như trò chơi con trẻ. Anh không lái thô bạo như một số tay đua. Ta có thể ngủ say ở những góc chữ chi; ta không bao giờ phải chú ý đến tốc độ xe.
    Chúng tôi lắng nghe tiếng bánh xe xiết trên mặt đường, thay đổi tùy theo loại. Đường tráng nhựa, như tiếng huýt sáo, đường lát đá, như tiếng sấm động. Đèn pha quét về phía trước như những con greyhounds bị kéo dãn, và bất ngờ trong đêm tối, hai hàng bạch dương run rẩy lá, một rặng dương, những cột điện tín trôi lướt, những ngôi nhà thấp lúp xúp và bờ rừng diễn hành đàng xa. Bao la trên đầu chúng tôi, với hàng triệu ngôi sao, dải ngân hà như sương lung linh, dài lướt thướt.
    Xe chạy nhanh hơn. Tôi choàng mấy tấm áo khoác lên mình Pat. Nàng mỉm cười với tôi.
    "Em yêu anh, thật không?" tôi hỏi
    Nàng lắc đầu. "Còn anh?"
    "Không. May quá, phải không?"
    "Rất may."
    "Như thế, sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta, em nhỉ?"
    "Không," nàng trả lời và tìm tay tôi dưới những lần áo khoác.
    Đường uốn một vòng cạnh hàng rầy xe lửa. Hàng rây sáng bóng. Đàng xa, một ánh đèn đỏ chập chờn. Karl hí lên và vọt tới. Đó là một con tàu tốc hành với toa ngủ và một toa ăn còn sáng đèn. Chúng tôi tuần tự bắt kịp con tàu. Từ cửa sổ, nhiều người vẫy tay. Chúng tôi không vẫy lại. Chúng tôi vượt qua. Tôi nhìn quanh. Con tàu nhả khói và những tia hoa lửa. Nó rùng rục chạy, đen ngòm trong đêm xanh. Chúng tôi đuổi kịp và qua mặt nó --nhưng chúng tôi lái về thành phố, về xe tắc xi, về xưởng sửa xe, và phòng cho thuê có trang bị bàn ghế; trong khi nó tiếp tục lướt qua những vạt rừng, những cánh đồng và sông ngòi, vào một chuyến viễn du đến những miền đất xa xôi và bát ngát hơn.
    Đường phố, nhà cửa tiến gần. Karl trở nên dịu dàng, nhưng tiếng gầm của nó vẫn là tiếng của một con thú hoang. Koster không lái về nhà tôi hay nhà Pat, mà ngừng ở nghĩa trang gần đó, rõ ràng anh nghĩ, chúng tôi muốn được bên nhau. Chúng tôi xuống xe. Hai người kia phóng vèo ngay, không ngoái nhìn. Tôi liếc theo họ. Một cảm giác kỳ cục thoáng qua, rằng họ, bạn của tôi, đã bỏ đi và một mình tôi ở lại.
    Tôi xua đuổi ý nghĩ ấy. "Này em," tôi nói với Pat, đang quan sát tôi như thể nàng có linh tính một chuyện gì.
    "Anh theo họ đi," nàng nói.
    "Không," tôi nói.
    "Anh muốn đi theo họ mà, mặc dù --"
    "Ach, tại sao lại ---" tôi nói, biết đấy là sự thật. "Thôi mà, em."
    Chúng tôi đi ngang qua nghĩa trang; chúng tôi vẫn còn một ít cảm giác bồng bềnh, say gió và xe.
    "Bob," Pat nói, "Em nghĩ, em nên về nhà em."
    "Sao thế?"
    "Em không muốn anh phải từ bỏ một thứ gì bởi em."
    "Em nói gì thế ?" tôi nói, "anh có từ bỏ điều gì đâu?"
    "Bạn anh --"
    "Anh không bỏ bạn bè. Ngày mai, việc đầu tiên trong ngày là anh gặp họ."
    "Nhưng, anh biết em muốn nói gì," nàng nói. "trước đây, anh đi với họ thường xuyên hơn."
    "Vì lúc ấy chưa có em," tôi trả lời và mở cửa.
    Nàng lắc đầu. "Cái ấy lại khác."
    "Dĩ nhiên là khác, tạ ơn Chúa."
    Tôi bế nàng trên tay, đi qua hành lang về phòng mình.
    "Anh cần có chiến hữu," nàng nói, kề sát mặt tôi.
    "Anh cũng cần có em," tôi trả lời.
    "Nhưng không nhiều lắm."
    "Rồi chúng ta sẽ thấy."
    Tôi đẩy cửa phòng và để nàng xuống. Nàng bám vào tôi. "Em chỉ là một chiến hữu tồi, Robby."
    "Hy vọng là thế," tôi nói. "Tuy nhiên, anh không muốn một người đàn bà là chiến hữu của anh. Anh muốn nàng là người tình."
    "Em cũng không phải là người tình," nàng thì thào.
    "Vậy em là ai?"
    "Chỉ là phân nửa, không trọn vẹn. Một mảnh vụn --"
    "Như thế lại hay hơn cả," tôi nói. "Sẽ khơi dậy trí tưởng tượng. Người ta mãi mãi yêu những người đàn bà ấy. Những người đàn bà hoàn hảo sớm gây nhàm chán. Những người cao sang, cũng thế. Còn những mảnh vụn đáng yêu, không bao giờ."
    Bốn giờ sáng. Tôi đưa Pat về nhà nàng và đang trên đường trở lại. Trời đã rạng đông. Thoảng đâu đây mùi hương ngày mới.
    Tôi đi dọc theo nghĩa trang, qua khỏi quán Café International, về nhà. Cửa quán rượu của tài xế tắc xi cạnh Phòng Thương Mại mở ra và một cô gái xuất hiện. Một cái mũ be bé, một cái áo khoác đỏ, ngắn, cũ mòn, đôi ủng cao, da bóng -- tôi sắp bước qua thì nhận ra cô ấy -- "Lisa!"
    "Anh đây rồi!" nàng nói.
    "Em từ đâu đến?" tôi hỏi.
    Nàng làm một cử chỉ. "Em đã đợi ở đây nãy giờ. Em nghĩ, anh sẽ đi qua. Anh thường trở về nhà vào giờ này, phải không?'
    "Vâng, đúng thế."
    "Đi theo em nhé? " nàng hỏi.
    Tôi ngập ngừng. "Anh không thể."
    "Anh không cần trả tiền," nàng vội vàng nói.
    "Không phải vậy đâu," tôi trả lời, không suy nghĩ. "Anh có tiền."
    "Ach, vậy ra," nàng cay đắng nói, lui lại một bước.
    Tôi cầm tay nàng. "Không, Lisa."
    Mảnh mai và xanh xao, nàng đứng trên con đường vắng, xám. Tôi quen với nàng từ nhiều năm trước, khi tôi sống trong nhục cảm và cô đơn, không ai chăm sóc, không tình yêu. Lúc đầu nàng đầy nghi ngại, như các cô gái làng chơi ấy; nhưng rồi, sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều lần, nàng phó thác tâm tư và quý mến tôi đến mức bệnh hoạn. Đây là một liên hệ kỳ lạ -- đôi khi nhiều tuần liên tiếp, tôi không gặp nàng, rồi bất ngờ một hôm, nàng sẽ đứng ở đâu đó, chờ tôi. Dạo ấy, chúng tôi chẳng có ai hay thứ gì -- vì thế, một chút ấm áp và bầu bạn mang nhiều ý nghĩa với chúng tôi hơn là ở những hoàn cảnh khác. Đã lâu, tôi không gặp nàng -- từ khi tôi biết Pat, không một lần gặp lại.
    "Thời gian vừa qua, em ở đâu, Lisa?"
    Nàng nhún vai. "Có gì khác chăng? Em chỉ muốn gặp anh. Vậy, em nghĩ, em có thể cút đi, hẳn rồi."
    "Thế, công việc lúc này ra sao?"
    "Đừng lo," nàng nói. "Anh không cần bận tâm."
    Môi nàng rung rung. Trông nàng như người ốm đói lâu ngày.
    "Anh sẽ đi với em một lúc," tôi nói.
    Gương mặt nghèo khổ, vô cảm, phong trần của nàng bừng sáng và gần như biến thành trẻ thơ. Trên đường đi, ở nhà tạm trú của tài xế tắc xi, tôi mua vài món ăn cho nàng. Lúc đầu, nàng không muốn và chỉ đồng ý khi tôi giải thích rằng tôi đang đói meo. Nhưng nàng để ý sao cho tôi không bị gạt và mua nhầm hàng kém phẩm chất. Nàng không chịu cho tôi mua nửa cân thịt muối;, nàng nói hơn một phần tư cân đủ rồi, nếu ta lấy thêm vài khoanh xúc xích nhỏ. Nhưng tôi nhất định mua đủ nửa cân thịt muối và hai hộp xúc xích.
    Nàng sống ở một căn gác mái, phải tự sắm sửa vật dụng. Một cây đèn dầu đặt trên bàn, và cạnh giường là ngọn nến đựng trong lọ thủy tinh. Các tấm ảnh cắt từ nhật báo đính trên tường bằng kim. Trên mặt tủ áo, dăm ba cuốn tiểu thuyết trinh thám nằm chơ vơ bên cạnh một xấp hình khiêu dâm. Khách của nàng, đặc biệt những người có vợ, đôi khi thích xem chúng. Lisa lùa chúng vào ngăn kéo, và lấy ra một tấm khăn bàn đã cũ, nhưng sạch.
    Tôi mở gói thức ăn. Trong khi ấy, Lisa cởi bỏ y phục. Đầu tiên là cái áo đầm, dù tôi biết rõ, đôi ủng mới là thứ làm nàng đau nhất; nàng phải đi bộ nhiều biết mấy. Nàng đứng đấy, trong đôi ủng da bóng cao tận gối và tấm áo lót đen.
    "Anh thấy chân em ra sao?" nàng hỏi.
    "Hạng nhất, như bao giờ."
    Nàng lấy từ tủ áo ra một chiếc kimono và một đôi hài gấm của thời vàng son đã bạc màu, và mỉm cười, tuồng như biết lỗi. Nàng muốn làm vui lòng tôi. Tôi chợt có một cảm giác nghẹn ngào, trên căn gác chật hẹp này, như thể có người thân vừa mất.
    Chúng tôi ăn và tôi trò chuyện với nàng, mệt mỏi. Nhưng, vì tất cả những chuyện ấy, nàng nghĩ rằng có một điều gì đổi thay. Đôi mắt nàng hoảng sợ. Giữa chúng tôi chưa bao giờ có điều gì nhiều hơn là số phận đẩy đưa. Nhưng có lẽ chuyện ấy lại càng làm nặng nợ thêm và ràng buộc chúng tôi chặt chẽ hơn những việc khác.
    "Anh ra về đấy à?" nàng hỏi, khi tôi đứng lên -- như thể nàng lo lắng.
    "Anh có một cái hẹn."
    Nàng nhìn tôi. "Muộn thế cơ?"
    "Việc làm ăn. Rất quan trọng với anh, Lisa. Một người anh cần phải gặp. Tại Astoria, thường thường vào giờ này."
    Không một người đàn bà nào nhạy cảm cho bằng Lisa trong vấn đề này. Nhưng chẳng có ai khó bị lừa dối như nàng. Gương mặt Lisa rỗng tuếch.
    "Anh có người đàn bà khác."
    "Nhưng Lisa -- chúng ta rất hiếm khi gặp nhau -- đã gần một năm nay -- em phải hiểu --"
    "Không, em không có ý nói thế. Anh đã gặp một người mà anh yêu. Anh thay đổi hẳn. Em có thể cảm thấy điều ấy."
    "Ach, -- Lisa"
    "Vâng, vâng. Thú nhận đi."
    "Anh cũng không hiểu anh lắm, Lisa. Có lẽ --"
    Nàng đứng một lúc. Rồi gật đầu: "Vâng -- vâng -- dĩ nhiên --Và em ngu quá --thật tình chúng ta chẳng có gì với nhau --" Nàng lướt bàn tay trên trán. "Em không biết tại sao em lại ..."
    Tấm thân mảnh dẽ đứng trước tôi, khao khát và ẻo lả. Đôi hài gấm -- áo kimono -- những đêm dài quạnh hiu -- kỷ niệm ..."
    "Au revoir, Lisa ..."
    "Anh về sao? Anh không ở lại đây thêm chút nữa? Anh về thật ư?"
    Tôi hiểu nàng muốn nói gì. Nhưng tôi không thể. Đặc biệt vô cùng, nhưng tôi không thể, và tôi cảm nhận tường tận việc ấy. Chưa bao giờ cảm thấy như thế. Tôi không hề có một khái niệm cường điệu nào về lòng chung thủy. Nhưng chỉ giản dị là không thể nào được nữa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi đã tiến xa biết mấy.
    Nàng đứng ở ngạch cửa. "Anh về đấy ư?" Nàng chạy vào trong. "Đây, em biết anh để tiền lại cho em -- dưới tờ báo. Em không cần tiền. Đấy -- đấy -- vâng, cứ đi thôi --"
    "Anh phải đi, Lisa."
    "Anh đừng bao giờ trở lại."
    "Ô, anh sẽ trở lại, Lisa."
    "Không, không, anh sẽ không bao giờ trở lại, em biết. Và anh đừng trở lại. Nhưng đi, đi ngay đi --"
    Nàng khóc. Tôi bước xuống cầu thang và không nhìn lại.
    Tôi đi thật lâu trên đường phố. Một đêm kỳ lạ. Tôi vẫn tỉnh táo và không thể ngủ. Tôi đi ngang quán International, nhớ về Lisa và những năm đã trôi qua, về những thứ tôi đã quên; nhưng dường như chúng quá xa vời và không thuộc về tôi nữa. Rồi tôi lang thang đến con đường của nhà Pat. Gió thổi mạnh hơn, tất cả cửa sổ ngôi nhà của nàng chìm trong bóng tối, bình minh lần mò bước chân xám qua những khung cửa; và cuối cùng, tôi trở về nhà.
    Lạy Chúa, tôi nghĩ, tôi tin rằng tôi hạnh phúc.

    Nàng cười. "Cha em trước kia là thiếu tá."
    "Thiếu tá đứng gần chót bảng."
    "Anh có quen với cụ Hake không?" nàng hỏi.
    Thình lình một ý tưởng đáng sợ xâm chiếm hồn tôi. "Có phải ông ấy thấp người, hăng hái, dáng thẳng, mặt đỏ, ria bạc, và có giọng nói sang sảng? Loại người thích đi dạo trong công viên?"
    "À há!" Nàng liếc những cành tử đinh hương và rồi nhìn tôi, mỉm cười. "Không, cụ ấy cao ráo, da mặt tái và đeo kính gọng sừng."
    "Vậy anh không biết cụ ấy."
    "Anh muốn làm quen với cụ không? Cụ tử tế lắm."
    "Trời đất ơi, không đâu! Trong giây phút này, anh thuộc về giai cấp thợ máy và bà Zalewski nhiều hơn."
    Có tiếng gõ cửa. Cô hầu gái khi nãy trở lại với cái xe đẩy thấp. Tách dĩa bằng sứ mỏng tang, một dĩa bạc đựng bánh ngọt, một dĩa khác đựng những miếng bánh mì kẹp thịt bé tí hon, khăn ăn, thuốc lá, và nhiều thứ khác, có trời mới biết là gì -- hoa cả mắt, tôi ngắm nghía từng món. "Cảm ơn, Pat!" tôi nói. "Cứ y như trong phim. Anh thì đã quen với cách ăn uống trên giấy dầu trải ở bệ cửa sổ nhà bà Zelewski, em nhớ không, và cái bếp dã chiến cũ mèm cạnh đó. Hãy tha thứ cho người khách trọ ở một nơi thiếu vắng tình yêu, nếu hắn xúc động lỡ tay đánh vỡ vài ba chén ngọc."
    Nàng cười. "Anh sẽ không làm vỡ cái gì. Thanh danh của một người thợ máy chân chính không cho phép. Anh khéo tay lắm." Nàng với tay cầm cái bình sứ. "Trà hay cà phê, Bob?"
    "Trà hay cà phê? Có cả hai thứ ư?"
    "Vâng, nhìn đây."
    "Tuyệt. Như trong những cơ dinh sang trọng nhất! Chỉ còn thiếu âm nhạc."
    Nàng vươn tay bật nút một cái radio xách tay nhỏ mà tôi không chú ý. "Vậy -- anh dùng trà, hay cà phê?"
    "Cà phê, cà phê đen, Pat. Sở thích của anh đơn sơ lắm. Còn em?"
    "Em sẽ dùng cà phê với anh."
    "Nếu không, em sẽ uống trà?"
    "Vâng."
    "Chúng ta cùng uống trà vậy."
    "Từ nay em uống cà phê và sẽ quen đi. Anh dùng bánh ngọt hay bánh mì kẹp thịt?"
    "Cả hai, Pat. Ta phải tận dụng tất cả cơ hội có được. Lát nữa, anh cũng sẽ uống trà. Anh phải thử tất cả những gì em có." Nàng cười, xếp thức ăn vào đĩa của tôi. "Đủ rồi em, đủ rồi! Nên nhớ, chúng ta là láng giềng của ngài trung tá. Quân đội muốn thuộc cấp của họ phải điều độ."
    "Chỉ với chuyện rượu chè, Bob. Cụ Egbert mê bánh trứng đường lắm."
    "Thật à," tôi đáp. "Thời nay, họ tước bỏ của chúng ta biết bao nhiêu thứ." Tôi đung đẩy cái xe đựng thức ăn trên bánh cao su của nó. Rồi tự nó, êm ái, lăn nhẹ trên thảm. Tôi nhìn quanh. Tất cả đều hài hòa, xứng hợp. "Vâng, Pat," tôi nói. "Tổ tiên chúng ta đã sống như thế này."
    Nàng cười. "Anh đang nói lăng nhăng gì thế?"
    "Không lăng nhăng chút nào. Đấy là dấu hiệu của thời đại."
    "Bob, chỉ tình cờ em có được vài ba thứ vật dụng."
    Tôi lắc đầu. "Không phải tình cờ. Cũng không phải vật dụng. Chính là ý nghĩa ẩn dấu đàng sau chúng. Em không thấy được. Chỉ những người không còn thuộc về nó mới nhận ra."
    Nàng nhìn tôi. "Anh có thể sở hữu những thứ giống hệt, nếu anh muốn."
    Tôi cầm tay nàng. "Nhưng anh không muốn, Pat, chỉ đơn giản thế. Anh sẽ có cảm tưởng anh là một người bất tài, ham hố. Những người như anh phải sẳn sàng tiến tới, bất cứ lúc nào. Tụi anh đã quen vậy. Điều ấy thuộc về thời đại."
    "Đấy là một cách thuận tiện, Bob." Pat nói.
    Tôi cười. "Có lẽ. Cho anh xin một chút trà. Anh muốn thử."
    "Không," nàng nói, "chúng ta chỉ uống cà phê thôi. Nhưng anh nên ăn thêm một chút gì, lỡ khi anh cần 'tiến tới'."
    "Đúng. Nhưng Egbert thì sao -- nếu hảo bánh ngọt, thể nào cụ ấy lại chẳng mong sẽ còn lại chút gì khi cụ trở về?"
    "Có lẽ. Nhưng cụ ấy phải tính đến việc thuộc cấp trả thù. Chuyện ấy cũng thuộc về thời đại. Anh cứ tự nhiên nhé."
    Mắt nàng bừng sáng và trông nàng tuyệt vời. "Em có biết, khi phải tiến tới, có một thứ anh nhất quyết sẽ không rời bỏ?"
    Nàng không trả lời, nhưng nhìn tôi.
    "Là em," tôi nói. "Còn bây giờ, ta hãy trả thù cụ Egbert."
    Buổi trưa ở nhà kho xe tắc xi, tôi chỉ có một bát canh lót dạ, vì thế chẳng một chút khó khăn tôi thanh toán sạch các món ăn. Và với sự khuyến khích của Pat, tôi cũng uống cạn bình cà phê.
    Chúng tôi ngồi bên cửa sổ và hút thuốc. Buổi chiều đỏ rực trên những mái nhà. "Ở đây dễ chịu quá Pat," tôi nói. "Anh có thể hiểu được vì sao có người mấy tuần liên tiếp không muốn ra khỏi nhà --gần như quên hết công việc khó nhọc bên ngoài."
    Nàng mỉm cười. "Có một dạo, tưởng chừng như em sẽ không bao giờ ra khỏi đây."
    "Sao lại thế?"
    "Em ốm."
    "Đó là một vấn đề khác. Vậy em ốm ra sao?"
    "Không nặng lắm. Nhưng em phải nằm yên trên giường. Chắc em lớn nhanh quá và không đủ thực phẩm. Trước chiến tranh, cũng như sau chiến tranh, chẳng có gì cả, dĩ nhiên."
    Tôi gật đầu. "Vậy, em nằm nhà bao lâu?"
    Nàng thoáng ngần ngừ. "Khoảng một năm."
    "Đấy là một thời gian rất dài." Tôi chăm chú nhìn nàng.
    "Đã qua rồi, từ lâu. Nhưng với em, một năm ấy dài như một đời. Anh có nhớ trong quán "The Bar," có lần anh đã kể em nghe về Valentin? Rằng khi chiến tranh chấm dứt, anh ấy không bao giờ có thể quên là hạnh phúc biết bao khi ta còn sống? Ngoài ra, chẳng có điều gì quan trọng với anh ấy cả?"
    "Em nhớ dai thật," tôi nói.
    "Bởi vì em cảm thông sâu sắc. Từ đấy đến nay, rất dễ làm cho em vui. Em sợ là, Robby, em nông cạn lắm."
    "Chỉ những người tự cho mình không nông cạn, mới thật sự nông cạn."
    "Nhưng, chắc chắn em là người ấy. Em không quan tâm đến những vấn đề trọng đại trong đời. Chỉ thích cái đẹp. Những cành tử đinh hương cũng đủ làm em ngây ngất."
    "Không nông cạn đâu -- đấy là triết lý tối hậu. Tinh túy của tất cả khôn ngoan."
    "Trường hợp của em, chắc chắn là không. Em nông nỗi và phù phiếm."
    "Anh cũng thế."
    "Thua em. Anh vừa nói về sự ham hố viễn vông. Em chính là loại người ấy."
    "Anh cũng nghĩ thế," tôi nói.
    "Vâng. Em quyết tâm là em sẽ sống trong một thời gian ngắn, bằng mọi giá, theo cách em thích. Không cần biết có hợp lý hay không. Và em đã sống như thế."
    Tôi cười rộ, "Sao em lại có vẻ thách thức như thế?"
    "Em có anh chị em nào không?" tôi hỏi.
    Nàng lắc đầu.
    "Anh không thể tưởng tượng được," tôi nói.
    "Anh cũng nghĩ như thế là vô trách nhiệm sao?"
    "Không, can đảm chứ."
    "Ach, can đảm -- em không can đảm đâu. Đôi khi em cũng sợ hết vía. Như một người ngồi sai chỗ trong rạp hát, chưa thoát ra."
    "Vậy là em can đảm," tôi nói. "Người ta chỉ can đảm nếu họ biết sợ hãi. Và cũng hợp lý. Bề nào em cũng sẽ mất hết tiền. Ít nhất em còn hưởng chút ít. Nhưng em đã làm gì ?"
    "Thực ra, chẳng có gì. Chỉ sống cho em mà thôi."
    "Hay lắm! Hiếm có ai được như thế."
    Nàng mỉm cười. "Nhưng tất cả sẽ chấm dứt nay mai mà thôi. Em cần phải bắt đầu bây giờ."
    "Ô. Vậy ư? Có liên quan chút nào đến cuộc phỏng vấn của em với Binding không?"
    Nàng gật đầu. "Với Binding và Bác sĩ Max Matuscheit, giám đốc tiệm Electrola Gramophone."
    "Tốt thôi," tôi nói. "nhưng anh chắc, thể nào Binding cũng có ý khác."
    "Có đấy," nàng đáp; "Nhưng em thì không."
    "Anh cũng sẽ khuyên anh ấy đừng. Vây, khi nào em sẽ bắt đầu?"
    "Ngày một tháng Tám."
    "Như thế chúng ta không còn nhiều thì giờ. Có lẽ chúng ta nên tìm một việc làm khác. Dù sao chăng nữa, em có thể tin tưởng, tụi anh sẽ là khách hàng của em."
    "Vậy anh đã có máy hát?"
    "Không, nhưng anh sẽ mua một cái ngay lập tức. Nói thế chứ anh không thích việc làm của em."
    "Không sao đâu," nàng nói. "Em thấy dễ dàng hơn nhiều khi anh có mặt tại đây. Lẽ ra em không nên nói cho anh biết chuyện ấy."
    "Nên chứ. Em phải luôn luôn nói cho anh biết tất cả mọi chuyện."
    Nàng nhìn tôi rất nhanh. "Tốt lắm, Robby," nàng nói. Rồi nàng đứng lên, đi tới một cái tủ nhỏ. "Đố anh biết em có gì đây? Rum cho anh. Loại ngon, em tin thế."
    Nàng đặt cốc rượu trên bàn, nhìn tôi chờ đợi.
    "Anh biết rượu ngon, anh có thể ngửi được từ xa," tôi nói. "Nhưng Pat này, -- em không nghĩ là em nên tiện tặn một chút hay sao? Để trì hoản ngày đi làm?"
    "Không," nàng đáp.
    "Em lại đúng," tôi nói.
    Rượu rum, chỉ cần nhìn màu sắc, đã hỏng. Rõ ràng, thằng cha bán rượu lừa nàng. Tôi uống cạn ly.
    "Thượng hạng," tôi nói, "cho anh một ly nữa. Em mua ở đâu vậy?"
    "Ở tiệm đàng góc phố."
    À há, tôi nghĩ: dĩ nhiên, lại là một tiêm bánh ngọt mắc dịch. Tôi quyết định ra đó, mắng gã bán hàng một mẻ nên thân.
    "Pat ơi, chắc đến lúc anh phải về?" tôi hỏi.
    Nàng nhìn tôi. "Đừng đi ngay --"
    Chúng tôi đang đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng chập chờn bên dưới.
    "Cho anh xem phòng ngủ của em, được chứ?" tôi nói.
    Nàng mở cửa và bật nút đèn. Tôi đứng ngay khung cửa, nhìn vào. Bao nhiêu ý nghĩ rối bời trong đầu tôi.
    "Vậy, đấy là giường của em, Pat," cuối cùng tôi nói.
    Nàng mìm cười. "Chẳng lẽ giường của ai sao, Robby?"
    "Đúng," tôi nhìn lên. "Thật là một câu ngớ ngẩn. Anh muốn nói: như thế, đấy là nơi em ngủ. Và kia là điện thoại. Bây giờ anh đã biết. Bây giờ anh phải đi. Tạm biệt em, Pat."
    Nàng đặt hai tay lên má tôi. Sẽ thật tuyệt vời nếu đứng lại đây trong bóng tối chìm sâu, quấn quýt bên nhau dưới tấm phủ giường xanh dịu trong phòng ngủ -- nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại; không phải sự cấm đoán, cũng không phải sợ hãi, chưa phải sự khôn ngoan -- chỉ là một cảm giác ngọt ngào lấn lướt cả dục vọng.
    "Tạm biệt em, Pat," tôi nói. "Thật tuyệt. Anh đã có những giây phút tuyệt vời hơn là em tưởng. Về rượu Rum --em đã nhọc công --"
    "Chẳng đáng chi, anh ạ."
    "Với anh, rất đáng kể. Anh không quen được đối đãi như thế, Pat."
    Hắc điếm Zalewski. Tôi lẩn quẩn đứng ngồi một lúc. Tôi không muốn Pat mang ơn của Binding. Cuối cùng, tôi băng qua hành lang, đến phòng chị Erna Bonig.
    "Em có việc muốn hỏi," tôi nói. "xin cho biết hiện nay phụ nữ có dễ tìm việc hay không?"
    "Trời," Erna đáp. "Một câu hỏi phũ phàng từ một trái tim cứng rắn? Khó tìm lắm, nếu em muốn biết."
    "Không có việc gì?"
    "Loại nào?"
    "Thư ký văn phòng, phụ tá --"
    Chị lắc đầu. "Hàng ngàn người đang thất nghiệp. Cô ấy có chuyên môn gì không?"
    "Cô ấy trông tuyệt vời," tôi nói.
    "Bao nhiêu chữ?" Erna hỏi.
    "Cái gì?"
    "Cô ấy có thể ghi tốc ký bao nhiêu chữ một phút? Bằng mấy thứ tiếng?"
    "Em chẳng biết," tôi nói; "nhưng, cô ấy có phong cách đặc biệt, Erna --"
    "Em trai thân mến," Erna đáp, "chị biết cả rồi -- con nhà gia thế, khá giả, đầy năng lực, đủ mọi tính tốt. Nhưng vô vọng, em ạ. Họa may có ai quan tâm đặc biệt và vận động cho cô ấy. Em biết, dĩ nhiên. Nhưng em không muốn vậy, phải không?"
    "Hỏi gì kỳ quá," tôi nói.
    "Không kỳ như em tưởng," Erna trả lời, giọng chị có một chút cay đắng. "Chị biết mấy trường hợp như thế." Tôi nghĩ ngay đến công việc của chị và lão chủ. "Nhưng cho chị khuyên em một điều," chị nói tiếp. "Tìm thêm việc làm để cung ứng cho cả hai. Đấy là giải pháp đơn giản nhất. Cưới nhau."
    Erna nhìn tôi lạ lùng. Thình lình sức sống như vơi cạn, chị già xọp và héo hắt hẳn. "Nói cho em biết," chị nói. "chị sống một cách sung túc, sở hữu nhiều thứ mà chị không cần. Nhưng hãy tin chị -- nếu có ai muốn chung sống với chị một cách lương thiện, đàng hoàng, chị sẽ bỏ tất cả những thứ vô nghĩa này và đến với anh ấy, ở gác xép dưới nóc nhà cũng cam." Nét mặt chị bình thường trở lại. "Nhưng thôi, bỏ qua chuyện ấy -- mỗi người đều có một góc tình cảm riêng tư." Chị nháy mắt với tôi sau màng khói. "Hình như, em cũng thế?"
    "Ach, ơ --" tôi nói.
    "Coi chừng," Erna cảnh cáo. "Khi ta không ngờ, chính là lúc ta dễ dính mắc nhất --"
    "Làm gì có," tôi trả lời.
    Tôi giam mình trong phòng đến tám giờ tối -- rồi tôi chán và ra khỏi nhà, đi đến quán "The Bar" để có người chuyện vãn.
    Valentin đã có mặt. "Ngồi xuống," anh nói, "cậu uống gì?"
    "Rum," tôi trả lời. "Tớ đã mơ tưởng tới nó từ chiều."
    "Rum là sữa của người lính," Valentin nói. "Nhưng mà này, trông cậu khá lắm, Bob."
    "Vâng?"
    "Vâng, trẻ ra."
    "Thôi mà," tôi nói. "Pros't, Valentin."
    "Pros't, Bob."
    Chúng tôi đặt ly xuống bàn, nhìn nhau. Rồi cùng phá ra cười.
    "Bé con," Valentin nói.
    "Con sâu rượu mắc dịch," tôi nói. "Bây giờ chúng ta uống gì đây?"
    "Như khi nãy."
    "Phải rồi."
    Fred rót đầy ly.
    "Nào, pros't, Valentin."
    "Pros't,
    "Pros't, câu chúc tuyệt vời, hả?"
    Chúng tôi lập lại nhiều lần. Rồi Valentin đi.
    Tôi vẫn ngồi đấy. Ngoài Fred ra, không còn ai. Tôi nhìn các manh bản đồ cũ, lồng sáng, nhìn những con tàu với cánh buồm vàng, và nhớ Pat. Tôi muốn gọi nàng, nhưng tôi cố kiềm chế. Tôi không muốn nghĩ về nàng quá nhiều như thế. Tôi muốn xem nàng như một món quà không mong đợi, đầy niềm vui, đến rồi đi --không có gì khác. Tôi không muốn ươm trong đầu mình ý nghĩ là sẽ còn có gì hơn. Tôi biết rõ, mọi tình yêu đều đòi hỏi vĩnh cữu, và do đó đã có sẳn mầm móng đau khổ thiên thu. Không có gì tồn tại mãi. Không có gì.
    "Cho chúng ta một ly nữa, Fred," tôi nói.
    Một đôi trai gái bước vào. Họ uống cocktail sherry tại quầy. Người đàn bà trông mệt mỏi, người đàn ông trông đầy dục vọng. Chẳng mấy chốc, họ lại đi.
    Tôi cạn ly. Có lẽ tốt hơn nếu chiều nay tôi đã không thăm Pat. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh ấy -- căn phòng tối mờ, bóng chiều xanh lơ êm ái, và hình dáng xinh đẹp của nàng, cuộn tròn, nói bằng một giọng khàn trầm về cuộc đời và ước vọng của nàng. Chết thật. Tôi trở nên ủy mị mất rồi. Điều mà cho đến nay chỉ là một cuộc phiêu lưu phấn khởi, đã tan chảy thành sương mù tình cảm; chẳng phải nó đã nắm giữ tôi vững hơn tôi nghĩ tưởng; chẳng phải tôi chỉ mới khám phá hôm nay rằng tôi thay đổi? Vì sao tôi bỏ đi? Vì sao tôi không ở lại với nàng như dự tính? Ach, chết thật, tôi sẽ không suy nghĩ về chuyện ấy nữa, bằng cách này hay cách khác. Cái gì đến sẽ đến -- thể nào tôi cũng điên lên nếu mất nàng -- nhưng nàng có ở đấy, nàng đang ở đây -- còn chuyện gì đáng kể hơn thế hay sao? Mặc kệ tất cả. Có ích gì, cố gắng làm cho cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi an toàn hơn? Chẳng sớm thì muộn, con sóng dữ sẽ ập đến, cuốn phăng mọi thứ.
    "Uống với tớ một ly nhé, Fred?" tôi hỏi.
    "Vâng," anh nói.
    Chúng tôi uống hai ly absinths. Rồi chúng tôi thẩy sấp ngửa tiền xu thêm hai ly. Tôi thắng. Đối với tôi, như thế có điều gì không ổn. Thế nên chúng tôi tiếp tục. Nhưng phải sau năm lần, tôi mới thua. Rồi tôi thua thêm ba lần liên tiếp.
    "Tớ đang say hay sấm nổ bên ngoài?" tôi hỏi.
    Fred lắng tai. "Là tiếng sấm. Cơn bão đầu tiên trong năm."
    Chúng tôi đi ra cửa, nhìn trời. Không có gì. Tròi chỉ ấm, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm đì đùng. "Chúng ta nên uống một ly mừng tiếng sấm," tôi đề nghị. Fred bằng lòng.
    "Thứ nước cam thảo chết toi," tôi nói, đặt ly rượu cạn lên quày. Fred cũng nghĩ rằng chúng tôi nên thử một thứ khác mạnh hơn. Anh ấy đề nghị cherry brandy -- tôi muốn rum. Để tránh cãi cọ, chúng tôi tuần tự uống cả hai. Để Fred khỏi tốn công rót, chúng tôi dùng ly cở lớn. Chúng tôi đang rất mực hào hứng. Lâu lâu chúng tôi lại ra cửa để xem trời có chớp hay không. Chúng tôi thích được nhìn thấy chớp, nhưng không gặp may. Hễ chúng tôi vào trong, thì trời lại nhá sáng. Fred nói về người yêu của anh, cha cô ấy làm chủ một nhà hàng. Nhưng anh chỉ cưới cô ấy nếu cha cô chết đi và cô chắc chắn được để lại tiệm ăn. Tôi nghĩ, Fred cẩn thận quá độ, nhưng anh lý luận rằng lão già là một tay đểu cáng không thể tin tưởng, vào giờ chót, lão ấy hoàn toàn có thể hiến tặng nhà hàng cho nhà thờ Methodist. Ở chỗ này, tôi chịu thua. Ngoài chuyện ấy, có khá nhiều hy vọng cho Fred. Lão già đang cảm, và Fred tin rằng không chừng đấy là bịnh cúm, vốn rất nguy hiểm cho người cao tuổi như lão. Tôi bắt buộc phải nói, thật không may, bịnh cúm chẳng nghĩa lý gì với bợm nhậu, ngược lại là đàng khác, một bợm già, dù kiệt lực, bị cúm, vẫn có thể lành bệnh và khỏe hẳn ra, có khi còn lên cân không chừng. Fred nghĩ rằng không có nhiều khả năng như thế, và trong trường hợp ấy, cũng có thể lão sẽ bị xe buýt cán. Tôi đồng ý, bị xe cán chết dễ xảy ra hơn bị cúm chết, đặc biệt nếu đường xá trơn trợt. Do đó, Fred đi ra cửa xem trời đã mưa hay chưa. Nhưng trời vẫn khô ráo. Chỉ có tiếng sấm nổ to hơn một chút. Tôi trao anh một ly nước chanh và đến máy điện thoại. Vào phút chót, tôi nhớ là tôi không muốn gọi nàng. Tôi vẫy tay và sắp sửa nhấc mũ lên. Nhưng rồi tôi nhận ra, tôi không đội mũ.
    Khi tôi quay lại, Koster và Lenz đã ở đấy. "Thở ra cho tớ ngửi nào," Gottfried nói.
    Tôi thở ra. "Rum, cherry brandy và absinth," anh nói. "Absinth, đồ con heo."
    "Nếu cậu định nói là tớ say, cậu đã lầm," tôi nói. "Nãy giờ hai người ở đâu vậy"
    "Họp chính trị. Nhưng với Otto, buổi họp chán quá. Fred đang uống gì thế?"
    "Nước chanh."
    "Cậu cũng nên uống một ly," anh nói.
    "Ngày mai," tôi trả lời. "Bây giờ tớ sắp đi kiếm cái gì để ăn."
    Koster nhìn tôi với ánh mắt lo âu. "Đừng nhìn tớ như thế, Otto," tôi nói. "Tớ chỉ say một chút vì yêu đời. Không phải vì lo âu."
    "Vậy không sao." anh nói. "Nhưng chúng ta cùng đi ăn với nhau nhé."
    Đến mười một giờ, tôi đã tỉnh như sáo. Koster đề nghị chúng tôi ghé thăm Fred. Chúng tôi vào quán và thấy Fred nằm sóng sượt sau quày như người chết.
    "Mang anh ấy qua phòng bên," Lenz nói. "Tớ sẽ bán thay."
    Koster và tôi giúp Fred dã rượu. Chúng tôi cho anh uống một ít sữa nóng. Hiệu nghiệm tức thì. Rồi chúng tôi đặt anh ấy vào ghế, bảo anh ấy nghĩ ngơi chừng nửa giờ, Lenz sẽ trông coi mọi thứ bên ngoài.
    Gottfried quán xuyến tất cả. Anh thông thạo giá cả và cách thức pha chế. Anh lắc cái ly pha rượu y hệt như cả đời anh chẳng làm chuyện gì khác hơn.
    Một giờ sau, Fred trở lại chỗ cũ. Anh có một bao tử thép và phục hồi nhanh chóng.
    "Xin lỗi Fred," tôi nói, "đáng lẽ mình phải ăn chút gì dằn bụng trước đã."
    "Tớ khỏe rồi," anh nói. "Thỉnh thoảng làm một cú như thế lại tốt."
    "Đúng vậy." Tôi đến máy điện thoại, quay số gọi Pat. Tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, thình lình không còn quan trọng. Nàng trả lời. "Mười lăm phút nữa, anh sẽ có mặt trước cửa nhà em," tôi nói và cúp điện thoại ngay lập tức. Tôi sợ nàng mệt và không muốn nghe tôi nói. Tôi muốn gặp nàng.
    Nàng đi ra. Khi nàng mở cửa, tôi hôn lên mặt kính nơi đầu nàng đã chạm. Nàng sắp sửa nói một điều gì đó, nhưng tôi không cho nàng cơ hội. Tôi hôn nàng và hai đứa rảo bước trên đường cho đến khi đón được một chiếc tắc xi. Sấm đang nổ và chớp đang nhoang nhoáng. "Nhanh lên, mưa đến nơi," tôi giục.
    Chúng tôi ngồi vào xe. Những giọt mưa đầu tiên lác đác vỗ vào nóc xe. Xe dằn xóc trên mặt đường trải đá không đều. Thật tuyệt, với mỗi cái giật của xe, tôi lại chạm vào Pat bên tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, cơn mưa, thành phố, thưởng rượu, tất cả mọi thứ đều huy hoàng, tráng lệ. Tôi đang ở trong trạng thái rất tỉnh táo và sáng suốt thường có sau khi đã vượt khỏi cơn say. Sự chế ngự không còn, đêm bừng lên sức mạnh sâu xa và diễm lệ, không có gì có thể xảy ra, không có gì sai trái nữa.
    Mưa bắt đầu rơi nhanh hơn khi chúng tôi xuống xe. Trong khi tôi trả tiền, lề đường hãy còn lỗ chỗ từng đốm đen bởi các giọt nước, như da báo ---nhưng khi tôi với lấy nắm cửa, nó trở thành đen loang loáng bạc, mưa đã ào ạt trút.
    Tôi không bật đèn. Những tia chớp đủ soi sáng căn phòng. Bão giữa thành phố. Những chuỗi sấm nối đuôi nhau. "Lần này, chúng ta có thể hét toáng lên," tôi nói với Pat, "mà không sợ ai nghe."
    Cửa sổ rực lửa. Trong giây phút, bóng đen của cây cối trong nghĩa trang nổi bật trên nền trời trắng - xanh rồi lập tức nhấn chìm dưới tiếng nổ ầm ì của trời đêm -- trong một khoảnh khắc giữa bóng tối và bóng tối, thân thể mềm mại của Pat sáng lân tinh trước những ô kính cửa sổ -- tôi đặt tay lên vai nàng, nàng nép vào tôi, tôi cảm nhận làn môi và hơi thở của nàng, tôi không còn nghĩ ngợi điều gì.

  5. #11
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 13

    Cô gái mà cậu che che dấu dấu," Frau Zalewski nói, "cậu không cần phải lén lút nữa. Cô ấy có thể đường hoàng đến đây. Bác thích cô ấy."
    "Bác chưa hề gặp nàng," tôi trả lời.
    "Đừng lo, bác gặp rồi," Frau Zalewski nói, nhấn mạnh. "Bác đã trông thấy và thích cô ấy --thực sự, thích lắm, -- nhưng cô ấy không phải là người dành cho cậu."
    "Thật à?"
    "Bác thường tự hỏi, trong mấy cái quán nhậu của cậu, đào đâu ra được cô ấy? Nhưng dĩ nhiên, tên ma cà bông bết nhất --"
    "Cháu nghĩ là bác lạc đề rồi," tôi cắt ngang.
    "Cô ấy," bà nói, chống nạnh, "là một cô gái cho một người đàn ông có địa vị vững vàng. Nói ngắn gọn, một người đàn ông giàu có."
    Đập thẳng mục tiêu, trời, tôi nghĩ. Đúng chóc vào thứ mà tôi còn thiếu.
    "Bác có thể áp dụng câu ấy cho bất kỳ người đàn bà nào," tôi bực tức nói.
    Bà lắc những lọn tóc bạc. "Cậu chờ xem. Tương lai sẽ cho thấy."
    "Ach, tương lai!" Tôi thẩy cặp kim cài tay áo lên bàn. "Thời buổi này ai cần tới tương lai? Tại sao ta phải quan tâm tới tương lai?"
    Frau Zalewski ra vẻ đau đớn, ngúc ngoắc mái đầu đường bệ.
    "Thật vô cùng kỳ lạ, cậu và tất cả những người trẻ tuổi. Ghét bỏ quá khứ, khinh miệt hiện tại, không màng đến tương lai. Thế thì làm sao có được một kết thúc tốt đẹp chứ?"
    "Theo bác, thế nào là một kết thúc tốt đẹp?" tôi hỏi. "Một kết thúc chỉ tốt đẹp nếu những gì xảy ra trước đó tồi tệ. Vì thế một kết thúc xấu lại tốt hơn."
    "Đấy là những trái khoáy, đồi bại kiểu Do Thái," Frau Zalewski trả lời một cách nghiêm trang, rồi xoay mình quả quyết đi ra. Tay bà đã đặt trên then cửa khi bà bỗng dừng lại, như bị đóng đinh tại chỗ.
    "Lễ phục buổi tối? bà nấc lên kinh ngạc. "Cậu?"
    Mắt mở to, bà nghiền ngẫm bộ dạ phục của Otto Koster, treo ở cửa tủ áo. Tôi mượn nó, dự tính sẽ đi xem hát với Pat tối ấy.
    "Vâng, cháu chứ ai," tôi châm chọc nói. "Frau Zalewski, khả năng liên hợp của bác thật không ai sánh bằng."
    Bà nhìn tôi. Một cơn bão ý tưởng thổi qua gương mặt mập ú của bà, và chấm dứt với một nụ cười giả tạo.
    "À há!" bà nói. Và một lần nữa, "À há!" Và rồi ra khỏi phòng, ngoái qua vai nói vọng lại, với niềm thú vị, méo mó vì thú vui vô tận của đàn bà khi họ khám phá được chuyện gì! "Hóa ra là thế!"
    "Vâng, hóa ra là thế, mụ phù thủy ó đâm," tôi gầm lên, khi biết chắc bà không thể nghe. Rồi tôi quẳng cái hộp với đôi giày da bóng mới tinh của tôi xuống sàn. Một người đàn ông giàu có --- làm như tôi không biết thế.
    Tôi đến nhà Pat. Nàng ở trong phòng, đã mặc y phục chỉnh tề chờ tôi. Tôi gần như nín thở khi trông thấy nàng. Từ lúc quen nhau cho đến nay, đây là lần đầu nàng mặc áo dạ hội.
    Áo may bằng gấm bạc, từ bờ vai thẳng thả xuống những nếp mềm mại, duyên dáng. Áo có vẻ chật thế nhưng lại đủ rộng để không cản trở những bước chân đáng yêu của Pat. Thân trước ôm cao đến cổ, nhưng thân sau khoét một góc sâu. Trong tấm áo, Pat giống một ngọn đuốc bạc dưới ánh hoàng hôn xanh thẫm, thay đổi thật nhanh và thật kỳ diệu, tôn quý và xa xôi. Sau lưng nàng, như bóng tối, dâng lên bóng ma của bà Zalewski với ngón tay chỉa ra.
    "Cũng may lần đầu khi gặp nhau, em đã không mặc chiếc áo này" tôi nói, "bởi vì, anh sẽ không bao giờ dám để cho anh đứng gần em."
    "Em không tin những gì anh vừa nói, Robby." Nàng mỉm cười. "Anh thích cái áo này chứ?"
    "Không thể ngờ. Em biến thành một người đàn bà khác hẳn."
    "Thế thì có gì lạ đâu. Y phục có dụng ý như vậy."
    "Có lẽ. Nhưng nó làm anh lúng túng. Cần một người đàn ông khác, xứng hợp với em. Một người có thật nhiều tiền."
    Nàng cười. "Phần lớn những người đàn ông giàu có thì ghê tởm lắm, Robby ạ."
    "Nhưng tiền của họ, thì không?"
    "Không," nàng nói, "tiền thì không."
    "Anh đã nghĩ rằng có."
    "Thế bây giờ anh không nghĩ vậy?"
    "Chắc chắn," tôi nói. "Tiền có thể không mang lại hạnh phúc -- nhưng nó rất hữu dụng."
    "Tiền giúp cho ta độc lập, anh yêu, và còn nhiều nhiều nữa. Nhưng em có thể thay áo khác, nếu anh muốn."
    "Tuyệt đối không. Áo đẹp tuyệt trần. Từ nay trở đi, anh sẽ xếp những người may áo vào hạng cao hơn các triết gia. Họ đẹm cái đẹp vào cuộc đời, và như thế đáng giá một trăm lần hơn những sự suy tư sâu sắc nhất. Nhưng coi chừng, anh sẽ yêu em mất thôi."
    Nàng cười. Tôi len lén nhìn lại mình. Koster to lớn hơn tôi, và tôi phải dùng các kim băng giữ cho quần được ngay ngắn. Phải tự khen, vì trông được lắm.
    Chúng tôi đón tắc xi đến rạp hát. Trên đường, tôi im như thóc, mà không hiểu vì sao. Khi chúng tôi xuống xe và tôi trả tiền, tôi liếc nhìn, vì một niềm thôi thúc, người tài xế. Đôi mắt anh căng thẳng và viền đỏ, râu ria lởm chởm và trông rất mệt mỏi. Anh thản nhiên nhận tiền.
    "Ngày vui không?" tôi nhẹ nhàng hỏi.
    Anh nhìn lên, "Tàm tạm --" anh nói, không cởi mở lắm. Anh nghĩ, tôi là một người khách tò mò.
    Trong một thoáng, tôi có cảm tưởng mình cần ngồi vào ghế tài xế, bên cạnh anh và lái đi -- rồi tôi quay lại. Pat đứng đấy, mảnh khảnh và yêu kiều, một chiếc áo khoác ngắn bạc với tay xòe phủ bên ngoài áo dạ hội, xinh đẹp và đợi chờ. "Nhanh lên nào, Bob, một phút nữa sẽ bắt đầu."
    Người ta đứng đông nghẹt ở lối vào. Đấy là một Đêm Khai Mạc long trọng, hý viện sáng choang; xe hơi lũ lượt ghé vào; phụ nữ vận áo dạ hội bước xuống, nữ trang lấp lánh; đàn ông trong áo đuôi tôm, gương mặt phì nộn hồng hào, nói cười, vui nhộn, hợm hĩnh, ung dung -- và, gầm rú, len lách với nhau, những chiếc tắc xi với các bác tài mệt lả, cọc cạch lái đi.
    "Nào, Robby," Pat gọi tôi, rạng ngời và phấn khởi. "Anh bỏ quên cái gỉ hay sao?"
    Tôi đưa ánh mắt thù nghịch nhìn vào đám đông.
    "Không," tôi nói, "anh không quên gì cả."
    Rồi tôi đến quầy và đổi vé. Tôi lấy vé ngồi trong lô, dù phải trả cả gia tài. Thình lình, tôi không muốn Pat ngồi cạnh những người trơ tráo này, đối với họ, tất cả mọi thứ đều là lẽ đương nhiên. Tôi không muốn nàng thuộc về họ. Tôi muốn được một mình bên nàng.
    Lâu lắm rồi tôi không xem hát. Và nếu Pat không thích, hôm nay tôi đã chẳng đến. Tôi hầu như đánh mất các thói quen của giai cấp trung lưu --kịch nghệ, hòa nhạc, sách vở. Chúng chẳng còn thích hợp trong thời đại này. Chính trị đã cung cấp đủ tuồng tích -- những vụ bắn nhau hàng đêm là kiểu hòa nhạc mới -- và quyển sách khổng lồ của đói nghèo gây ấn tượng hơn bất kỳ thư viện nào.
    Khán giả đã ngồi chật rạp. Vừa khi chúng tôi tìm ra chỗ thì đèn tắt. Chỉ còn ánh sáng phản chiếu từ dàn đèn ở thềm sân khấu lững lờ trong rạp. Nhạc tấu lên rộn ràng, và tất cả mọi thứ dường như bay bổng và múa lượn.
    Tôi đẩy ghế của mình sát vào góc lô, nơi đấy tôi không phải nhìn thấy sân khấu hay bộ mặt nhợt nhạt của khán giả. Tôi chỉ nghe âm nhạc và nhìn ngắm gương mặt của Pat thôi.
    Âm nhạc làm không khí vui tươi, rộn ràng. Như một cơn gió nam, như một đêm ấm, như những cánh buồm lộng gió dưới ngàn sao, hoàn toàn và vô cùng siêu thực, âm nhạc của vở ca kịch Hoffmann's Tales. Nó khiến tất cả mọi thứ trở nên bao la và lộng lẫy sắc màu, dòng suối đen của cuộc đời dường như thổn thức trong đấy; không còn gánh nặng, không còn giới hạn; chỉ còn hiện hữu của vinh quang và giai điệu và tình yêu, khiến người ta không thể ý thức rằng, cùng một lúc với âm nhạc ấy, sự nghèo khó, đày đọa và tuyệt vọng đang ngự trị bên ngoài.
    Gương mặt Pat đầy bí ẩn, lung linh dưới ánh đèn sân khấu. Nàng hoàn toàn chìm đắm trong thưởng ngoạn; và tôi yêu cách nàng đã không nghiêng mình gần tôi hay nắm lấy tay tôi, vâng, nàng không một lần nhìn tôi, có vẻ không nghĩ gì đến tôi và quên bẵng tôi. Tôi ghét khi người ta pha trộn mọi thứ vào nhau, tôi ghét sự khát khao ngu dại của đôi lứa khi vẻ đẹp và sức mạnh của một tác phẩm nghệ thuật vỡ òa trước mắt; tôi ghét dáng vẻ ngây dại của những cặp tình nhân, những cử chỉ âu yếm sung sướng ngu muội, thứ hạnh phúc ngây ngô thô tục không bao giờ vượt lên khỏi chính nó; tôi ghét tất cả những lý luận về việc trở thành một trong tình yêu; dường như với tôi, chúng ta không thể là hai người cũng như không thể tách rời khỏi người kia đủ nhiều đến mức gặp lại. Chỉ những ai thường xuyên cô độc mới biết niềm vui khi gặp lại nhau. Mọi thứ khác sẽ phá vỡ ma lực của sức căng. Và còn điều gì có thể thâm nhập vòng huyền nhiệm của cô đơn cho bằng trào dâng của cảm xúc, buông thả trước một biến cố sửng sờ, tính chất vĩ đại của các thành phần, giông bão, âm nhạc về đêm? Và tình yêu ...
    Đèn sáng lóa. Tôi nhắm nghiền mắt trong giây lát. Tôi đã nghĩ gì? Pat quay lại. Tôi trông thấy người ta chen chúc nhau ra cửa. Đây là lần giải lao chính.
    "Em muốn ra ngoài không?" tôi hỏi.
    Pat lắc đầu.
    "Tạ ơn Chúa. Anh ghét cái trò mọi người há hốc mồm nhìn nhau ở ngoài ấy."
    Tôi đi tìm một ly nước cam cho nàng. Mấy vòng người bao vây bàn ăn. Âm nhạc làm một số người đói lả. Những khoanh xúc xích nóng biến mất, nhanh như một trận dịch phát ban đói khát vừa bùng nổ.
    Đây là một địa điểm tốt cho U, tôi nghĩ, chen vào giữa đám đông đến quầy và nhanh tay chộp ly nước cam cuối cùng trước một gã có bộ râu quặp. Gã càu nhàu, giận dữ.
    "Anh đã lấy hai ly rồi còn gì," tôi hòa nhã nói.
    "Nhưng tôi có cơn khát của ba người," gã đáp.
    Không có câu trả lời nhưng cũng không nhường nhịn. Cướp giật một thứ gì của người khác là một trong những thói cũ xưa nhất của nhân loại -- và luôn luôn đem đến niềm vui như nhau. Con người làm gì có từ tâm, và sẽ không bao giờ có.
    Khi tôi cầm ly nước cam về chỗ, một người đang đứng phía sau ghế của Pat. Nàng ngoái đầu lại và nồng nhiệt trò chuyện với hắn. "Đây là Herr Breuer, Robert," nàng nói.
    Herr Con Bò, tôi nghĩ thế, và nhìn hắn, trong lòng khó chịu. Nàng nói Robert, không nói Robby. Tôi đặt ly nước lên tường lan can và chờ hắn bỏ đi. Hắn vận một bộ dạ phục vô cùng sang đẹp. Nhưng hắn vẫn đứng đấy, nói mãi về việc sản xuất và về khán giả. Pat quay lại tôi. "Lúc nãy, Herr Breuer hỏi chúng ta, sau khi vản hát, có muốn đi "The Cascade" không?"
    "Nếu em muốn," tôi nói.
    Herr Brauer giải thích, không chừng ta có thể khiêu vũ ở đấy. Hắn rất lễ độ và tôi thích hắn, thật vậy. Chỉ có điều, hắn có một vẻ tao nhã và hoạt bát đáng ghét mà tôi tin rằng không thể nào không ảnh hưởng đến Pat, và bản thân tôi hãy còn thiếu sót. Thình lình -- tôi không thể tin được tai mình -- tôi nghe hắn nói với Pat, "em thương." Mặc dù có một trăm lý do tốt để hắn nói thế, nhưng tôi chỉ muốn đẩy hắn té nhào xuống ban nhạc ngay tức thì.
    Chuông reo. Nhạc sĩ chỉnh lại dây đàn. Vĩ cầm dìu dặt vài khúc sáo ngắn.
    "Đồng ý rồi, vậy ta gặp nhau ở lối ra," Breuer nói và cuối cùng, đi khỏi.
    "Tên bụi đời ấy là ai vậy?" tôi hỏi.
    "Anh ấy không phải là dân bụi đời, anh ấy là một người rất tử tế. Một người bạn cũ"
    "Anh không thích những người bạn cũ chút nào," tôi nói.
    "Anh yêu," Pat nói, "nghe này --"
    Tôi nghĩ đến Cascade, cố phỏng đoán số tiền mình có, cái tiệm đắt tiền đáng ghét.
    Tôi thuận theo với nỗi hiếu kỳ buồn thảm. Chàng Breuer này khiến tôi nhớ lại những lời nói gở của Frau Zalewksi. Anh đã chờ trước cửa.
    Tôi ngoắc một chiếc tắc xi.
    "Không cần đâu," Breuer nói. "Xe tôi có đủ chỗ."
    "Tốt," tôi nói. Sẽ kỳ cục lắm nếu không đi chung xe với anh ta. Nhưng cùng một lúc, tôi cảm thấy bực bội.
    Pat nhận ra xe của Breuer. Đấy là một chiếc Packard, đậu ở bãi đối diện. Nàng tiến về phía nó.
    "Nhưng xe sơn màu khác rồi," nàng nói, ngừng lại trước đầu xe.
    "Vâng, màu xám," Breuer trả lời. "Em không thấy đẹp hơn sao?"
    "Hơn nhiều chứ."
    Breuer quay lại tôi. "Còn anh? Anh có thích màu này không?"
    "Tôi không biết xe trước đây trông như thế nào," tôi nói.
    "Đen."
    "Màu đen cũng hay lắm."
    "Đúng. Nhưng người ta cần phải thay đổi. Mùa thu này tôi sẽ lại sơn một màu khác."
    Chúng tôi lái đến "The Cascade", một khiêu vũ trường sang trọng với một ban nhạc xuất sắc.
    "Dường như không còn chỗ nữa," tôi sung sướng nói, khi chúng tôi đến nơi.
    "Tiếc nhỉ," Pat nói.
    "Ach, ta sẽ tìm cách," Breuer tuyên bố và trao đổi vài câu với người quản lý. Có lẽ anh là khách rất quen, vì họ khuân ra một cái bàn với vài chiếc ghế; và chỉ mấy phút sau, chúng tôi đã ngồi ở vị trí tốt nhất trong phòng, nơi ấy chúng tôi có thể nhìn thấy toàn thể sàn nhẩy.
    Ban nhạc đang chơi một bài tango. Pat tựa vào lan can. "Ach, nhưng lâu lắm rồi em không khiêu vũ."
    "Breuer đứng dậy. "Mời em,"
    Nàng rạng rỡ nhìn tôi. "Anh sẽ gọi thức uống, trong khi chờ đợi," tôi nói.
    Bài tango khá dài. Thỉnh thoảng từ xa, Pat lại nhìn tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu đáp lại, nhưng không cảm thấy có gì đặc biệt. Nàng trông kiều diễm và khiêu vũ tuyệt vời. Chẳng may, Breuer cũng khiêu vũ khéo không kém và họ cùng nhau tạo thành một đôi nổi bật. Họ nhảy rất ăn ý như đã thường xuyên kết đôi với nhau từ lâu. Tôi gọi cho mình một ly rum cỡ lớn.
    Hai người trở về bàn. Breuer đi qua chỗ khác chào hỏi người quen, và trong một lúc, chỉ còn lại Pat và tôi.
    "Em quen với anh ấy bao lâu rồi?" tôi hỏi.
    "Lâu lắm. Sao anh hỏi?"
    "Ach, anh chỉ thắc mắc thôi. Em thường đến đây với anh ấy lắm nhỉ?"
    Nàng nhìn tôi. "Em không nhớ gì nữa, Robby. "
    "Người ta phải nhớ những chuyện ấy chứ," tôi ngoan cố nói, mặc dù tôi hiểu ý của nàng.
    Nàng lắc đầu và mỉm cười. Tôi yêu nàng lắm trong giây phút ấy. Nàng muốn bày tỏ cho tôi biết, nàng đã quên tất cả những chuyện cũ. Nhưng có một điều gì đấy xuyên xoáy hồn tôi, một điều lố bịch, chính tôi còn biết thế, tuy nhiên tôi không thể nào trút bỏ. Tôi đặt cốc rượu xuống bàn. "Em có thể nói cho anh nghe. Không có gì quan trọng đâu."
    Nàng nhìn tôi một lần nữa. "Bằng như ngược lại, anh nghĩ chúng ta có thể đến đây hay sao?"
    "Không," tôi nói, hổ thẹn.
    Ban nhạc lại bắt đầu chơi. Breuer đi đến. "Một bản Blues," anh nói với tôi. "Tuyệt vời. Anh không thích nhảy bản này sao?"
    "Không," tôi trả lời.
    "Phí thật"
    "Anh cần thử một lần, Robby," Pat nói.
    "Anh sẽ không thử."
    "Nhưng tại sao lại không?" Breuer hỏi.
    "Tôi không quan tâm tới chuyện nhảy nhót," tôi trả lời một cách kém thân thiện. "Tôi không bao giờ học. Không bao giờ có thì giờ. Nhưng các bạn cứ khiêu vũ, tôi ở đây tự vui lấy được rồi."
    Pat do dự.
    "Nhưng Pat --" tôi nói. "Em thích khiêu vũ mà."
    "Đúng thế -- nhưng anh có vui hay không?"
    Họ ra sàn nhảy. Tôi ra dấu cho người bồi bàn và uống cạn ly mình. Rồi tôi uể oải chống tay lên bàn và đếm từng hạt hạnh nhân tẩm muối. Ngồi cạnh tôi, là cái bóng mờ của Frau Zalewski.
    Breuer dẫn vài người đến. Hai người đàn bà đẹp và một chàng trẻ tuổi hơn, đầu hói nhẵn thín. Sau đấy, có thêm một người thứ tư. Tất cả đều sinh động, hoạt bát và tự tin. Pat quen với cả bọn bốn người.
    Tôi thấy mình nặng nề, cục mịch như hòn đất. Từ trước đến nay, lúc nào cũng chỉ có một mình tôi với Pat. Đây là lần thứ nhất tôi gặp người quen của nàng. Tôi không biết bắt đầu với họ như thế nào. Họ cử động dễ dàng và thoải mái. Họ đến từ một cuộc đời khác, nơi ấy mọi việc đều diễn tiến trơn tru, nơi ấy người ta không phải nhìn thấy những điều không muốn nhìn thấy; họ đến từ một thế giới khác. Nếu chỉ có một mình tôi nơi đấy, với Lenz hay Koster, tôi đã không khổ sở. Nhưng Pat ở đấy, Pat biết họ, và điều ấy làm cho mọi thứ dường như sai trái, khiến tôi què quặt và bắt buộc tôi phải so sánh.
    Breuer đề nghị đi nơi khác.
    "Robby," Pat hỏi khi chúng tôi đi ra, "anh có muốn về nhà không?"
    "Không," tôi nói. "Tại sao?"
    "Buồn chán với anh."
    "Không đâu. Tại sao lại buồn chán cơ chứ? Ngược lại, là đàng khác. Và em đang vui."
    Nàng nhìn tôi nhưng không nói gì.
    Tôi bắt đầu uống. Không lai rai như trước, mà nốc liên tục. Chàng hói bắt đầu để ý. Anh ta hỏi tôi uống gì. "Rum," tôi nói. "Grog?" anh ta hỏi. "Không, rum," tôi nói. Anh ta nhấp thử và mắc nghẹn. "Trời thần ơi," anh ta cung kính nói, "phải nhậu nhiều lắm mới quen được." Giờ thì hai người đàn bà cũng chú ý. Pat và Breuer đang khiêu vũ. Pat thường xuyên nhìn tôi. Tôi không nhìn nữa. Tôi biết như thế là bất công, nhưng nó đến một cách đột ngột. Và tôi cũng bực bội vì người khác nhận xét chuyện nhậu nhẹt của tôi. Không như một sinh viên, tôi không cần ai thán phục. Tôi đứng dậy, đi đến quầy rượu. Dường như Pat hoàn toàn xa lạ với tôi. Nàng cứ việc đi vào địa ngục, cùng với đám bạn của nàng. Nàng thuộc về họ. Không, nàng không thuộc về họ. Vâng nàng thuộc về họ.
    Chàng hói bám theo tôi. Chúng tôi uống vodka với anh bồi rượu. Bồi rượu luôn luôn là nguồn an ủi. Ta có thể nhậu với họ bất cứ nơi nào, và không cần trò chuyện. Anh bồi này cũng được lắm. Chỉ có anh hói là yếu xìu. Anh ta muốn san sẻ tâm sự. Một cô Fifi nào đấy làm nặng trĩu hồn anh. Nhưng chuyện ấy kể mãi rồi cũng cạn. Anh ta nói với tôi, Breuer yêu Pat đã nhiều năm nay. "Thế à?" tôi hỏi. Anh ta cười khẩy. Tôi làm anh ta im mồm bằng một ly Prairie Oyster. Nhưng tôi không thể quên những gì anh ta nói. Tôi bực tức vì mình đã bị ảnh hưởng. Tôi bực tức vì tôi đã quan tâm. Và tôi bực tức vì tôi đã không thụi một quả đấm xuống bàn. Nhưng mơ hồ ở một chốn nào đấy, tôi cảm thấy một ước muốn lạnh lùng, được hủy diệt, không phải hủy diệt người khác, mà chính tôi.
    Chẳng bao lâu chàng hói đã im lặng và biến mất. Tôi vẫn ngồi đấy. Thình lình, tôi cảm thấy một bầu vú săn chắc áp vào cánh tay mình. Đó là một trong hai người đàn bà mà Breuer giới thiệu. Cô ta ngồi cạnh tôi. Đôi mắt hạnh nhân, xanh lục pha xám, từ tốn mơn trớn tôi. Một cái nhìn không cần thêm lời -- chỉ cần hành động.
    "Tửu lượng cao như thế, thật tuyệt," một lát sau, cô ta nói. Tôi không nói gì. Cô ta thò tay sang ly rượu của tôi. Bàn tay như một con thằn lằn, lấp lánh nữ trang, khô và gân guốc. Nó di chuyển rất chậm, như đang bò. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi sẽ thanh toán cô gọn lẹ, tôi nghĩ. Cô đánh giá tôi thấp vì cô thấy tôi buồn. Nhưng cô đã nhầm. Tôi không còn yêu phụ nữ nữa -- mà chỉ còn vương vấn tình yêu. Không thể dứt khoát với ái tình, mới là điều làm cho tôi đau đớn.
    Người đàn bà ấy bắt đầu nói. Giọng cô ta dòn rụm, như thủy tinh. Tôi thấy Pat nhìn. Tôi không để tâm. Nhưng tôi cũng không để tâm đến người đàn bà ngồi cạnh. Tôi có cảm tưởng mình đang rơi tòm xuống một cái hố trơn không đáy. Không liên can gì đến Breuer và bọn người ấy. Ngay cả Pat, cũng vậy. Chính là cái bí mật thê lương, rằng thực tại có thể khơi dậy ước muốn nhưng không bao giờ cho thỏa nguyện; rằng tình yêu bắt đầu với một người nhưng không bao giờ kết thúc ở đấy; và rằng mọi thứ đều có thể có mặt: một con người, tình yêu, hạnh phúc, cuộc đời -- và tuy thế trong một cách thức kinh khủng nào đấy, luôn luôn quá ít, và càng phát triển ít hơn, chúng càng trông như nhiều hơn.
    Tôi len lén nhìn Pat. Trong chiếc áo dạ hội bạc, trẻ trung và đáng yêu, nàng lướt ngoài kia, như một đóm lửa sáng của cuộc đời; tôi yêu nàng, và nếu tôi gọi "Đến với anh," nàng sẽ đến; không có gì ngăn cách chúng tôi; chúng tôi có thể gần nhau như chỉ có con người mới có thể-- và tuy thế thỉnh thoảng mọi thứ trong một cách thức rối rắm nào đó sẽ giăng mây u ám và sẽ đầy thống khổ. Tôi không thể giải thoát nàng khỏi cái vòng lẩn quẩn của sự vật, không thể kéo nàng ra khỏi tiếp xúc với hiện hữu, nó ngự trị bên trên chúng tôi và bên trong chúng tôi và cưỡng chế chúng tôi theo những lề luật của nó, hơi thở và trôi chuyển, sự hấp dẫn đáng ngờ của thời hiện tại lập tức rớt lùi vào hư vô, ảo ảnh lung linh của đam mê trong đó sở hữu có nghĩa là lạc mất lần nữa. Không bao giờ kiểm tra, không bao giờ. Không bao giờ nới lỏng dây xích loảng xoảng của thời gian; không bao giờ có êm ái từ trong bấn loạn, -- tỉnh lặng từ trong tìm kiếm; dừng lại từ trong rơi ngã. Không cả một cơ may để tôi có thể giải thoát nàng khỏi những thứ đã có từ trước khi tôi quen nàng, từ hàng ngàn ý nghĩ, kỷ niệm, từ tất cả những thứ đã hình thành ra nàng trước khi tôi có mặt, ngay cả những người có mặt ở đây tôi cũng không thể giải thoát nàng khỏi họ...
    Bên cạnh tôi, người đàn bà vẫn nói với giọng dòn vỡ của mình. Cô ta tìm kiếm một người đồng hành cho đêm nay, một người có cuộc sống hơi khác lạ để kích thích khẩu vị, để quên đi chính bản thân cô ta và sự kiện quá đau đớn, quá hiển nhiên rằng sẽ không có gì tồn tại, không Tôi và không Bạn và ít nhất là không cả Chúng Ta. Phải chăng cô ta ở đáy hố, tìm kiếm cùng một thứ như tôi? Một bạn đồng hành, để quên đi nỗi cô đơn của cuộc đời, một chiến hữu, để chịu đựng tính cách vô nghĩa của sự sống?
    "Nào," tôi nói, "chúng ta quay lại đi. Thật vô vọng -- những gì cô muốn -- và những gì tôi muốn."
    Cô ta nhìn tôi một thoáng. Rồi ngửa mặt và cười hăng hắc.
    Chúng tôi đi thêm vài chỗ khác. Breuer hào hứng, liếng thoắng và đầy ắp hy vọng, Pat trở nên trầm lặng. Nàng không hỏi gì tôi, nàng không trách móc, nàng không cố gắng giải thích một điều gì, nàng chỉ có mặt ở đấy; đôi khi nàng khiêu vũ và như một con tàu duyên dáng, đáng yêu, lặng lờ trôi giữa một bầy con rối và nhân vật biếm họa, thỉnh thoảng lại mỉm cười với tôi.
    Kiến trúc điên rồ của hộp đêm quét cánh tay xám-vàng của nó trên vách và trên mặt mọi người. Âm nhạc như được trình tấu dưới chân đài thủy tinh chưng bày di thể. Chàng hói đang uống cà phê. Người đàn bà với đôi tay thằn lằn trân trối nhìn trước mặt. Breuer mua hoa hồng của một cô bé trông rất mỏi mệt, chia cho Pat và hai người đàn bà kia.
    "Chúng ta nên khiêu vũ với nhau một lần chứ?" Pat nói với tôi.
    "Không," tôi nói, và nghĩ đến những bàn tay đã ôm ấp nàng tối nay; "không" -- và cảm thấy mình khá ngu xuẩn và ti tiện.
    "Vâng đi mà," nàng nói và mắt nàng tối sầm.
    "Không," tôi đáp; "không, Pat."
    Rồi cuối cùng chúng tôi ra về. "Tôi đưa các bạn về nhé," Breuer nói với tôi.
    "Tốt lắm."
    Trong xe có một tấm thảm, chúng tôi phủ nó lên chân Pat. Bỗng dưng, nàng trông rất xanh xao và mệt lả. Người đàn bà ở quầy rượu dúi một mẩu giấy vào tay tôi, khi tôi đi ra. Tôi làm như không có gì hết và bước lên xe. Khi xe chạy, tôi nhìn qua cửa sổ. Pat ngồi ở một góc và bất động. Tôi còn chẳng nghe hơi thở của nàng. Breuer lái về nhà nàng. Anh biết địa chỉ của nàng mà không cần hỏi ai. Nàng xuống xe. Breuer hôn tay nàng.
    "Tạm biệt em," tôi nói, không nhìn nàng.
    "Tôi có thể thả anh xuống chỗ nào?" Breuer hỏi tôi.
    "Ngã tư tới," tôi nói.
    "Tôi sẳn lòng đưa anh về tận nhà," anh trả lời, có phần hấp tấp và lịch thiệp quá mức.
    Anh ta muốn đề phòng tôi trở lại nhà nàng. Tôi suy nghĩ không biết có nên thụi anh ta một đấm hay không. Nhưng anh ta không đáng để tôi chuốc lấy phiền não.
    "Thôi được, vậy làm ơn đưa tôi đến 'The Bar Freddy'," tôi nói.
    "Anh có thể vào cửa nơi ấy, giờ này, hay sao?' anh ta hỏi.
    "Anh thật tử tế hỏi tôi câu ấy," tôi nói; "nhưng đừng lo -- tôi có thể đến bất kỳ nơi nào."
    Vừa nói xong, tôi hối tiếc ngay. Chắc chắn anh ta đã cảm thấy quan trọng và thành công suốt đêm. Thật tội, nếu tôi phá hỏng điều ấy. Tôi từ giã anh ta, thân ái còn hơn với Pat.
    "The Bar" vẫn đông khách. Lenz và Ferdinand Grau đánh xì phé với Bollwies và vài ba người nữa. "Ngồi xuống đây, Bob, " Grottfried nói; "Đang mùa xì phé."
    "Không," tôi trả lời.
    "Xem kìa," anh nói, chỉ vào chồng tiền trên bàn. "Không cần tháu cáy. Bài đẹp lắm, toàn là 'thùng'."
    "Thôi được," tôi nói, "chia cho tớ một tay."
    Với hai con già, tôi tố và thắng bốn con bồi. "Vậy," tôi nói --"dường như cũng được mùa thấu cáy."
    "Lúc nào lại chả thế," Ferdinand trả lời, đẩy điếu xì gà sang tôi.
    Tôi không định ở lâu. Nhưng rồi tôi thấy yên tâm dần. Tôi không vui chi mấy; nhưng ít nhất chỗ này cũng là quê hương thân thiết của tôi. "Làm ơn đem đến nửa chai rum," tôi gọi Fred.
    "Thử pha thêm chút port xem sao," Lenz nói.
    "Không," tôi trả lời. "Không phải lúc thử. Tớ muốn say."
    "Thì uống rượu ngọt vậy. Cậu vừa cãi nhau với ai hả?"
    "Nói bậy."
    "Đừng chối, bé yêu. Bé làm sao gạt được bố Lenz của Bé, người thông thạo tất cả những ngõ ngách cúa trái tim. Thú nhận đi, rồi uống cho say."
    "Một người đàn ông không thể cãi nhau với một người đàn bà. Cùng lắm chỉ chuốc lấy bực dọc mà thôi."
    "Đã ba giờ sáng, khó phân biệt những việc tế nhị như thế. Tớ thì cãi tưới sượi với tất cả. Khi không cãi nhau nữa, chẳng mấy chốc sẽ chia tay."
    "Đúng," tôi nói. "Ai đang dẫn đầu thế?"
    "Cậu," Ferdinand Grau nói. "Bob thân mến, cậu đang mắc bệnh thất vọng vì đời không đẹp như lý tưởng. Đừng cố gắng chống chọi nữa. Cuộc đời tươi đẹp nhưng không hoàn hảo. Mà tớ phải nhìn nhận, dù chán đời, cậu thấu cáy tuyệt lắm. Đôi già, không thể tưởng được."
    "Có lần tớ thấy người ta đi bẩy ngàn quan cho đôi già," từ quầy rượu, Fred nói vọng lại.
    "Quan Thụy Sĩ hay quan Pháp?" Lenz hỏi.
    "Thụy Sĩ."
    "Cậu may mắn nhỉ," Gottried trả lời. "Nếu quan Pháp, hẳn cậu không dám gián đoạn cuộc chơi, phải không?"
    Chúng tôi tiếp tục khoảng một giờ nữa. Tôi thắng được khá tiền. Bollwies thua đậm. Tôi uống rượu, nhưng chỉ tổ nhức đầu. Vẫn không có khăn nâu vẫy gọi. Mọi thứ bén nhậy hơn. Dạ dầy tôi nóng rực.
    "Ngừng chơi, ăn một chút gì nào," Lenz nói. "Fred ơi, dọn cho cậu ấy bánh mì kẹp thịt và vài con cá mòi nhé. Cất tiền đi, Bob."
    "Một ván nữa thôi,"
    "Được. Ván cuối cùng. Kiểu Đôi?"
    "Kiểu Đôi," những người kia nói.
    Không mong đợi, nhưng tôi được ba lá rất tốt thêm vào con mười già sẳn có. Lá bồi, đầm và ách. Nhờ thế, tôi thắng sảnh tám của Bollwies, hắn tố cao ngất trời. Vừa chửi thề, hắn vừa chung tôi một đống tiền. "Cậu thấy chưa," Lenz nói. "Được mùa "thùng'."
    Chúng tôi ngồi ở quầy. Bollwies hỏi thăm Karl. Anh ta vẫn chưa quên Koster đã vẻ vang qua mặt xe đua của anh. Anh vẫn muốn mua lại Karl.
    "Hỏi Otto đấy," Lenz nói; "nhưng tớ nghĩ rằng cậu ấy thà bán một bàn tay cho cậu thì hơn."
    "Ôi chao, ôi chao," Bollwies nói.
    "Dĩ nhiên cậu làm sao hiểu được," Lenz trả lời, "cậu, tên lính đánh thuê ở thế kỷ hai mươi."
    Ferdinand Grau cười lớn. Fred cũng cười. Cuối cùng, tất cả chúng tôi đều cười. Không cười nhạo thế kỷ hai mươi thì có khác nào tự bắn mình. Nhưng ta không thể cười mãi. Đến một lúc nào đó, lại chảy nước mắt.
    "Cậu biết khiêu vũ không, Gottfried?" tôi hỏi.
    "Dĩ nhiên. Tớ đã có lần dạy khiêu vũ. Cậu quên cách nhảy rồi sao?"
    "Quên -- để cho chú chàng quên đi," Ferdinand Grau nói. "Quên lãng là bí quyết để trẻ trung bất tận. Người ta già đi qua kỷ niệm. Chẳng mấy khi quên đi chuyện cũ."
    "Không phải thế," Lenz nói. "mà chính vì chuyện sai quấy bị lãng quên."
    "Cậu dạy tớ nhé?" tôi hỏi.
    "Khiêu vũ? Cần một đêm thôi, Bé ơi. Phiền muộn của cậu chỉ có bấy nhiêu ư?"
    "Chẳng phiền muộn gì cả," tôi nói. "Nhức đầu."
    "Đấy là căn bệnh của thời đại, Bob," Ferdinand nói. "Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ta sinh ra đời không đầu."
    Tôi đến quán Café International. Alois đang hạ màn cửa.
    "Còn ai trong đó không?" tôi hỏi.
    "Còn Rosa."
    "Vậy ba đứa mình làm một chầu nữa."
    "Được thôi."
    Rosa ngồi cạnh quầy, đan mấy cái vớ bé xiu cho con gái. Chị khoe kiểu đan với chúng tôi. Chị vừa hoàn tất một cái áo khoác. "Công việc của chị khá không?" tôi hỏi.
    "Tệ lắm. Chẳng ai có tiền."
    "Chị muốn mượn tiền không? Đây -- tiền ăn xì phé."
    "Tiền ăn bài may mắn lắm," Rosa nói, nhổ một tí nước bọt lên đó, rồi cất đi.
    Alois đem lại ba cốc rượu. Sau đó, khi có Fritzi, lại một cốc nữa.
    "Đã đến giờ đóng cửa,"anh nói. "Tớ mệt chết đi được."
    Anh tắt đèn. Chúng tôi ra về. Ở cửa, Rosa nói lời từ biệt. Fritzi bám vào cánh tay Alois. Chị tươi tắn và nhẹ nhàng bên anh. Anh kéo lệt bệt bàn chân phẳng trên vĩa hè. Tôi đứng trông theo. Tôi thấy cách Fritzi âu yếm cúi hôn anh bồi bàn có tấm thân xiêu vẹo, đầy dầu mở. Anh ta lạnh nhạt xô chị ra. Bỗng nhiên, khi tôi quay đi, nhìn con đường vắng và những căn nhà với cửa sổ tối và bầu trời khuya giá rét, một nỗi nhớ thương Pat, cuồng điên, bỗng dưng bằng cách nào đó, ào ạt xâm chiếm hồn tôi, khiến tôi nghĩ mình sắp sửa té khuỵu. Tôi không hiểu gì hết, bản thân tôi, hành vi của tôi, và buổi tối hôm nay, tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì.
    Tôi dựa lên vách một ngôi nhà và trân trối nhìn khoảng không trước mặt. Tôi không biết vì sao tôi đã cư xử như thế. Một thứ gì đó đã bẻ gãy tôi, khiến tôi trở nên vô lý và bất công, đã quăng quật tôi tứ phía và hủy diệt tất cả những gì tôi dày công xây đắp. Tôi đứng đấy, bất lực, không biết phải làm gì. Tôi không muốn về nhà -- vì có khi ở nhà còn tệ hơn. Cuối cùng tôi nhớ ra, có thể Alfons' vẫn còn mở cửa. Tôi đến đấy và sẽ ở lại đến sáng.
    Alfons không nói chi hết khi tôi bước vào. Anh đưa tôi một cái ly thấp và tiếp tục đọc báo. Tôi ngồi xuống và tơ mơ ngủ. Ngoài tôi, không còn ai nữa. Tôi nghĩ đến Pat. Luôn luôn là Pat. Tôi nghĩ về cách cư xử của tôi. Thình lình tôi nhớ lại từng chi tiết. Mọi thứ đều chống lại tôi. Chỉ một mình tôi có lỗi. Tôi đã điên. Tôi ngây dại nhìn xuống bàn. Máu cuồn cuộn sôi trong đầu. Tôi cay đắng và nổi giận với chính mình và sự xuẩn ngốc của mình. Chỉ có tôi, một mình tôi, là người đã phá hỏng tất cả.
    Tiếng thủy tinh bất ngờ vỡ vụn. Với tất cả sức lực, tôi đấm ly rượu của tôi bể thành nhiều mảnh. "Một hình thức giải trí," Alfons nói, đứng lên.
    Anh gỡ những dầm thủy tinh khỏi tay tôi. "Xin lỗi cậu," tôi nói, "tớ quên phứt mình đang ở đâu."
    Anh đi lấy bông, băng. "Đi chơi đĩ," anh nói, "sẽ đỡ buồn hơn."
    "Không sao," tôi nói. "Chuyện đã qua. Chỉ là cơn giận dữ trong chốc lát."
    "Cậu phải giải trí để xoa dịu cơn giận, đừng nên khuấy động nó," Alfons nói.
    "Đúng," tôi nói, "nhưng cũng phải biết cách."
    Anh đặt đĩa hát có bài Miserere của nhạc kịch ll Trovatore vào máy. Trời rạng sáng rất nhanh.
    Tôi về nhà. Alfons đã rót cho tôi một ly Fernet-Branca to tướng. Những nhát rìu êm dịu bổ vào mi mắt tôi. Mặt đường không còn bằng phẳng. Đôi vai nặng như chì. Đã quá đủ, tôi đã xong.
    Tôi lò dò bước lên thềm và khuắn tay vào túi tìm chìa khóa. Trong bóng tối lù mù, tôi nghe tiếng thở -- một cái bóng nhợt nhạt, không rõ nét, ngồi thu lu trên những nấc trên cùng. Tôi nhảy ba bước liền .
    "Pat --" tôi ngỡ ngàng không hiểu, "Pat -- sao em lại ở đây?"
    Nàng khẻ cục cựa. "Em nghĩ mình đã thiếp ngủ."
    "Vâng, nhưng làm sao mà em đến đây?"
    "Em có chìa khóa nhà anh --"
    "Anh không hỏi về chuyện ấy, anh muốn nói ---" Cơn say biến mất, tôi nhìn thấy lớp thảm xác xơ của bậc thang, giấy hoa dán tường tróc lở và chiếc áo óng ánh bạc cùng đôi giày mủi thon, da bóng. "Anh muốn hỏi, làm sao em ngồi đây suốt --"
    "Em cũng tự hỏi điều ấy đã lâu."
    Nàng đứng lên và vươn vai, tự nhiên như thể ngồi ở bậc thềm trước cửa khi trời chưa sáng là một việc bình thường nhất trên đời. Rồi nàng hít ngửi. "Lenz sẽ nói -- cognac, rum, cherry, absinth --"
    "Có Fernet -- Branca nữa cơ," tôi nhìn nhận, ít ra, từ đầu cũng phải thẳng thắn. "Dù mù mắt, anh cũng thấy em là một cô gái tuyệt vời, và anh là một thằng đại ngốc, Pat ạ."
    Tôi nhanh nhẹn bế nàng lên, mở cửa và đi qua hành lang. Nàng nằm trong tay tôi, môt con diệc bạc, một con chim rã rời; tôi quay mặt để nàng không ngửi phải hơi thở nồng nặc mùi rượu của tôi, và tôi cảm thấy nàng run rẩy dù đang mỉm cười.
    Tôi đặt nàng xuống ghế bành, bật đèn và đem một tấm chăn nhỏ đến. "Nếu như anh biết, Pat -- thay vì la cà ở những nơi ấy, anh đã -- Ach, anh đần quá. Ở quán Alfons', anh có gọi điện thoại cho em và huýt sáo bên ngoài, dưới cửa sổ nhà em. Anh tưởng em không muốn, vì em không trả lời --"
    "Tại sao anh không trở lại, sau khi đưa em về?"
    "Vâng, lẽ ra anh phải hiểu --"
    "Lần tới có lẽ khá hơn, nếu anh đưa cho em chìa khóa phòng anh," nàng nói; "như thế, em sẽ không phải ngồi đợi bên ngoài." Nàng mỉm cười, nhưng đôi môi run run, và thình lình tôi chợt nhận ra ý nghĩa của những việc này với nàng, sự trở lại, sự chờ đợi, và giọng nói vui tươi, can đảm.
    "Pat," vô cùng bối rối, tôi vội vàng nói. "Em đang lạnh cóng. Em cần uống một thứ gì cho ấm người; hồi nãy ở ngoài kia, anh thấy đèn phòng Orlow còn sáng; để anh qua đó, người Nga lúc nào cũng có sẳn trà, anh sẽ trở về ngay lập tức," -- tôi thấy mình cuồng nhiệt lên --" suốt đời, anh sẽ không bao giờ quên, Pat." Từ cửa, tôi nói vọng lại và bước vội trên hành lang.
    Orlow vẫn còn thức. Anh ngồi trước tượng thờ ở góc phòng, một ngọn đèn thắp sáng phía trước; mắt anh đỏ quạch, và trên bàn, một cái ấm Nga đang bốc hơi nước.
    "Xin lỗi," tôi nói, "tôi có chuyện cần kíp bất ngờ -- anh có thể cho tôi xin một chút trà nóng không ạ?"
    Người Nga đã quen với những chuyện bất ngờ. Ông đưa tôi hai ly trà nóng, một ít đường, và sắp mấy cái bánh nhỏ vào dĩa cho tôi.
    "Tôi rất vui được giúp anh," ông nói. "Tôi thường lâm vào hoàn cảnh tương tự... Anh có muốn thêm -- một ít hạt cà phê-- để nhai không?"
    "Cám ơn anh," tôi nói, "thật thế ư, tôi xin cám ơn. Tôi thích lắm ạ."
    "Nếu anh cần chi nữa," vô cùng duyên dáng, ông nói, "tôi còn thức thêm một lúc; tôi sẽ hân hạnh giúp --"
    Khi quay về, trên hành lang tôi cắn vụn vài hạt cà phê. Chúng đánh bạt ngay mùi rượu mạnh. Pat ngồi bên đèn, đang tô phấn. Tôi ngừng lại ở khung cửa trong giây lát. Tôi cảm động trước hình ảnh nàng ngồi đấy, chăm chú nhìn vào chiếc gương nhỏ và chậm bông phấn lên má.
    "Em uống chút trà đi," tôi nói. "Trà khá nóng."
    Nàng cầm ly trà, tôi nhìn nàng uống.
    "Chỉ có quỷ sứ mới biết chuyện gì đã xảy ra tối nay, Pat ạ."
    "Ôi, nhưng em biết đấy," nàng trả lời.
    "Vậy sao? Anh không biết."
    "Và anh không cần biết, Robby. Nhưng nếu anh hỏi, em sẽ trả lời, là anh đã biết quá nhiều để thực sự thấy hạnh phúc."
    "Có lẽ," tôi nói. " Nhưng chẳng ích gì, vì càng quen biết em, anh càng trở thành trẻ nít."
    "Ô, vâng, có ích chứ. Còn hơn là anh càng lúc lại càng dễ cáu giận."
    "Đấy là một cách đánh giá vấn đề," tôi nói. "Em có cách thức tốt, giúp người khác vượt qua khó khăn. Nhưng dường như tất cả mọi thứ xảy ra dồn dập quá, bất ngờ quá."
    Nàng đặt ly xuống bàn. Tôi tựa lên giường. Tôi có cảm giác như cuối cùng, mình đã về đến nhà, sau một cuộc hành trình gian khổ.
    Lũ chim bắt đầu ríu rít. Có tiếng cửa đóng sầm lại. Đấy là Frau Bender, y tá làm ở viện mồ côi. Tôi nhìn đồng hồ tay. Nửa giờ nữa, Frida sẽ có mặt trong bếp; lúc ấy chúng tôi không thể trốn ra khỏi nhà mà không bị bắt gặp. Pat vẫn ngủ say. Hơi thở sâu và đều. Thật bậy nếu phải đánh thức nàng. Nhưng không thể nào làm khác hơn.
    "Pat --"
    Nàng lẩm bẩm một điều gì trong mơ. "Pat -- " tôi rủa thầm tất cả các phòng trọ. "Pat, đến giờ rồi. Em phải mặc y phục vào."
    Nàng mở mắt và mỉm cười, vẫn ấm áp trong giấc ngủ, như một đứa trẻ. Tôi không bao giờ ngừng ngạc nhiên trước sự thức dậy vui vẻ này, và tôi rất thích nàng như thế. Tôi chẳng bao giờ vui tươi khi thức giấc.
    "Pat -- Frau Zalewski đang đánh răng."
    "Hôm nay, em ở lại với anh --"
    "Tại đây?"
    "Vâng."
    "Ý kiến tuyệt diệu-- nhưng những thứ của em -- giày và áo của em, là thứ dành cho ban đêm."
    "Vậy em sẽ ở lại cho đến tối."
    "Còn nhà em thì sao?"
    "Chúng ta sẽ gọi điện thoại, báo cho họ biết em đang qua đêm ở một chỗ nào đấy."
    "Chúng ta sẽ gọi ngay. Em đói chưa?'
    "Chưa."
    "Dù sao chăng nữa, anh cũng sẽ chạy ù ra lấy mấy miếng bánh mì. Họ treo trên cửa hành lang. Chắc vừa đúng lúc."
    Khi tôi trở lại, Pat đứng bên cửa sổ. Nàng chỉ mang mỗi đôi giày bạc. Nắng mai êm đềm phủ lên vai nàng như một chiếc khăn san.
    "Chúng ta quên chuyện hôm qua, Pat nhé?" tôi nói.
    Nàng gật đầu mà không quay lại.
    "Chúng ta chỉ cần không đi chơi với ai nữa. Tình yêu chân thật không có chỗ cho người khác. Như thế chúng ta sẽ không cãi nhau và không lên cơn ghen nữa. Mặc cho gã Breuer và những người ấy đi về địa ngục, phải không em?"
    "Vâng," nàng nói, "và Markowitz nữa."
    "Markowitz? Ai thế?"
    "Người ngồi cạnh anh ở quầy rượu quán 'The Cascade'."
    "À há," tôi nói, bỗng nhiên vui sướng. "À há, người ấy."
    Tôi lộn trái túi áo quần. "Em nhìn đây. Dù sao chuyện ấy cũng hữu ích. Anh đánh xì phé, thắng một số tiền lớn. Tối nay chúng ta đi chơi nữa nhé. Nhưng, không đi với ai cả. Chúng ta quên họ đi, em nhé?"
    Nàng gật đầu.
    Mặt trời nhô lên trên mái Nhà Thương Mại. Các cửa kính bắt đầu lấp lánh. Tóc Pat đầy ánh sáng và đôi vai nàng óng như vàng.
    "Em nói mà anh quên mất, gã Breuer ấy, hắn làm nghề ngỗng gì thế? Anh muốn nói, nghề chuyên môn?"
    "Kiến trúc sư."
    "Kiến trúc sư," tôi nói, đau như hoạn -- tôi muốn nghe nàng nói hắn chẳng là gì cả --"Ôi, dù sao đi nữa, kiến trúc sư; là cái quỷ gì, hở Pat?"
    "Vâng, anh yêu."
    "Không có gì đặc biệt cả, phải không?"
    "Không có gì đặc biệt," Pat quả quyết nói, quay lại và cười to. "Chẳng là gì cả, tuyệt đối như thế. Chỉ là bùn đất mà thôi. "
    "Và cái chòi này, không đến nỗi nào chứ, hở Pat? Dĩ nhiên, người khác có nhà cửa đẹp hơn --"
    "Căn phòng này, tuyệt vời," nàng chặn lời tôi; "đây là một căn phòng hoàn toàn đáng yêu, em thật tình không biết có căn phòng nào khác như thế, anh yêu."
    "Và anh, Pat, anh có những thiếu sót, dĩ nhiên, và anh chỉ là một tài xế tắc xi, nhưng --"
    "Anh là một người yêu toàn hảo, -- một người giật bánh mì, một tay bợm nhậu, -- một anh yêu."
    Nàng vòng tay ôm cổ tôi. "Ach, chàng ngốc! Thật sung sướng khi ta được sống!"
    "Chỉ khi sống bên em. Thật thế."
    Bình minh dâng lên, tuyệt vời và tươi sáng. Một làn sương giăng mỏng trên những mộ bia bên dưới và trôi giạt bềnh bồng. Những chóp cây đã đầy ánh sáng. Khói cuộn lên từ ống khói trên mái nhà. Những người phát báo sớm nhất đã bắt đầu rao ơi ới trên đường. Chúng tôi nằm xuống, một giấc ngủ muộn, nửa tỉnh nửa mê, trên biên giới của giấc ngủ, chúng tôi mơ thấy mình tay trong tay -- ngây ngất, hơi thở trong hơi thở. Rồi khoảng chín giờ sáng, ông "Geheimrat Burkkhard" đích thân gọi điện cho Trung Tá Egbert von Hake; và rồi tôi gọi Lenz, nhờ anh lái tắc xi giúp tôi sáng nay.
    Anh cắt lời tôi. "Để mặc tớ lo, con ạ; chẳng phải khi không mà Gottfried này là chuyên gia thẩm định những biến đổi của trái tim nhân thế. Tớ đã tính sẳn rồi. Chúc thằng bé may mắn có nhiều niềm vui."
    "Thôi đi ông," tôi sung sướng gạt ngang và giải thích, đứng trong bếp, rằng tôi không được khỏe và muốn nằm nghĩ đến trưa. Tôi phải từ chối ba đợt tấn công của Frau Zalewski, mời tôi trà cúc, aspirin và các bịch nước đá chuồm. Rồi tôi len lén đưa được Pat vào buồng tắm, và rồi chúng tôi được bình an.

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 14

    Tuần sau, ông chủ tiệm bánh đột ngột xuất hiện trong sân xưởng sửa xe của chúng tôi.
    "Cậu ra tiếp lão ấy," Lenz nói, ném một cái nhìn độc địa qua cửa sổ, "chắc Casanova - Bánh Ngọt muốn cò kè lấy rẻ một món gì đây."
    Ông chủ tiệm bánh trông thật nảo nề. "Xe có bị trục trặc gì không?" tôi hỏi.
    Ông lắc đầu. "Không, không. Chạy ngon lành. Hệt như xe mới."
    "Tôi lại chẳng biết thế sao," tôi xác định, và chăm chú nhìn ông, tò mò hơn.
    "Cậu biết không -- " ông nói. "Chuyện là như thế này -- tôi muốn một chiếc xe khác -- to hơn --"
    Ông đảo mắt nhìn quanh sân. "Ủa, lần trước, tôi thấy một chiếc Cadillac ở đây mà?"
    Tôi lâp tức hiểu ra vấn đề. Cô tóc đen đã vòi vĩnh, mè nheo ông ta không ít.
    "Xe Cadillac? Ô, phải rồi," tôi hăng hái nói; "đáng lẽ ông phải thử nó khi có dịp. Giá rất mềm. Chỉ bẩy ngàn marks. Rẻ như quà biếu, ta có thể nói thế --"
    "Ơ, làm sao lại rẻ như quà biếu được,"
    "Rẻ như quà biếu," tôi nhấn mạnh, trong đầu thầm nghĩ đến bước tới. "Tôi có thể hỏi dò, nếu ông muốn," tôi nói; "Không chừng người mua chiếc xe ấy đang cần tiền mặt. Những chuyện như vậy, trong thời buổi này, có thể xảy ra rất nhanh. Nửa tháng thôi."
    Tôi đi vào xưởng và tóm gọn câu chuyện. Lenz nhảy dựng lên. "Tìm đâu cho ra một chiếc Cadillac cũ đây, mấy cậu? Nào, làm việc chăm lên! "
    "Để tớ tính," tôi nói; "còn cậu, cứ đợi đấy, phen này lão ấy đừng hòng thoát khỏi tay tớ."
    "Được rồi, giao cho cậu." Gottfried biến mất.
    Tôi điện thoại cho Blumenthal. Tôi không nuôi nhiều hy vọng, nhưng ít nhất tôi cũng phải thử. Ông đang có mặt tại văn phòng. "Ông có muốn bán lại chiếc Cadillac không?" tôi thẳng thừng hỏi.
    Blumenthal cười to.
    "Tôi biết một người muốn mua nó," tôi tiếp tục, "trả tiền mặt."
    "Tiền mặt," Blumenthal trả lời sau khi suy nghĩ thật nhanh. "Đấy là con chữ có tính thi ca nhất hiện nay --"
    "Đấy cũng là ý tưởng của tôi," tôi nói, thình lình cảm thấy sung sướng. "Vậy, chúng ta có thể nói chuyện với nhau?"
    "Ta luôn luôn có thể nói chuyện với nhau," Blumenthal đáp.
    "Tốt. Khi nào tôi có thể gặp ông?"
    "Chiều nay sau giờ ăn trưa, tôi không bận. Khoảng hai giờ chiều, ở văn phòng này, được không?"
    "Đồng ý."
    Tôi gác máy. "Otto," tôi hý hửng gọi Koster, "tớ không hề mong đợi, thế nhưng tớ tin là chiếc Cadillac của chúng mình sắp sửa trở về."
    Koster đẩy đống hồ sơ sang bên. "Thật sao? Ông ấy muốn bán nó?"
    Tôi gật đầu và nhìn qua cửa sổ, Lenz đang hăng say nói với ông chủ tiệm bánh. "Anh ấy đang làm hư bột hư đường," tôi bức rức nói; "anh ấy nói nhiều quá. Lão chủ tiệm bánh là chúa đa nghi; ta chỉ có thể dụ được lão nếu ta không nói gì. Tớ phải lập tức ra đó, và thay thế Gottfried."
    Koster cười. "Đúng rồi -- nhất chín nhì bù, Bob."
    Tôi nháy mắt với anh và đi ngay. Nhưng tôi không tin được chính tai mình; thật cách xa một trời một vực với những lời tán tụng hãy còn quá sớm về chiếc Cadillac, Goffried hoàn toàn chú tâm vào việc giải thích cho ông chủ tiệm bánh, cách thức thổ dân Da Đỏ ở Nam Mỹ làm bánh mì ngô.
    Tôi nhìn anh ra vẻ tán thưởng rồi quay sang ông chủ tiệm bánh; "Xui quá, ông kia không muốn bán ---"
    "Vậy tớ đã nói với cậu thế nào nhỉ?" Lenz lập tức đáp, như thể chúng tôi đã bàn bạc với nhau từ trước.
    Tôi nhún vai. "Tiếc thật -- nhưng tôi có thể hiểu --"
    Ông chủ tiệm bánh đứng ỳ ra, hoang mang. Tôi nhìn Lenz.
    "Có thể nào, cậu cố gắng gọi lại ông ấy một lần nữa? anh lập tức hỏi tôi.
    "Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể," tôi trả lời. "Tôi đã dàn xếp gặp ông ấy chiều nay. Vậy, tôi sẽ lên lạc với ông bằng cách nào?" tôi hỏi ông chủ tiệm bánh.
    "Tôi có công việc quanh đây vào lúc bốn giờ. Tôi có thể ghé qua."
    "Tốt -- Tôi sẽ có câu trả lời vào lúc ấy. Tôi hy vọng chúng ta sẽ thành công."
    Ông chủ tiệm bánh gật đầu. Rồi ông ngồi vào chiếc xe Ford và rồ máy lái đi.
    "Cậu có điên không vậy?" Goffried xổ một tràng, khi ông ta vừa khuất ở góc đường. "Tớ vừa mới bắt đầu tóm được lão, thì cậu đã thả cho lão đi, như thế đấy."
    "Luận lý học và tâm lý học, Gottfried thân mến," tôi nói, vỗ vai anh. "Cậu chẳng biết tí gì về chúng."
    Anh phủi tay tôi. "Tâm lý học -- " anh nói một cách khinh miệt. "Đòn tâm lý hay nhất là chụp lấy cơ hội. Và đấy là một cơ hội tốt. Lão sẽ không bao giờ trở lại."
    "Lão sẽ trở lại lúc bốn giờ --"
    Gottfried nhìn tôi, thương hại. "Cậu dám cá với tớ?" anh nói.
    "Dám chớ sao không," tôi trả lời, " nhưng cậu sẽ thua. Tớ hiểu lão rõ hơn cậu. Cậu phải liên tiếp nắn gân lão mới xong. Hơn nữa, tớ không thể bán cho lão một thứ mà chúng ta chưa có."
    "Ach, du lieber Gott, nếu cậu chỉ hiểu được bấy nhiêu thôi," Gottfried nói, lắc đầu, "cậu sẽ chẳng làm nên trò trống gì, Cưng ạ. Đấy là điều luật thứ nhất trong việc mua bán. Đến đây, tớ sẽ tặng cậu một bài học về các phương cách làm ăn hiện đại."
    Sau giờ ăn trưa, tôi đến văn phòng của Blumenthal. Trên đường đi, tôi có cảm giác của một chú dê non sắp sửa đến thăm một con sói già. Mặt trời chiếu gay gắt xuống mặt đường nhựa, và với từng bước chân, tôi lại càng không muốn mình bị xiên quay trên que nướng của Blumethal. Tốt nhất là đánh một trận nhanh gọn.
    "Herr Blumenthal," tôi lập tức nói khi bước qua cửa, trước khi ông bắt đầu mở miệng, "một đề nghị công bằng ngay từ đầu. Ông mua chiếc Cadillac với giá năm ngàn năm trăm marks -- bây giờ tôi trả ông sáu ngàn -- với điều kiện tôi phải là người giao xe. Công việc sẽ xong xuôi tối nay."
    Blumenthal chễm chệ ngự trên ngai, đàng sau bàn viết, đang xơi táo. Ông ngừng lại, nhìn tôi một giây.
    "Tốt," ông nói, và tiếp tục nhai.
    Tôi chờ đến khi ông quăng cái lõi táo vào giỏ rác.
    "Vậy ông đồng ý?" tôi hỏi.
    "Khoan đã." Ông lấy một quả táo từ trong ngăn kéo bàn viết. "Cậu ăn không?"
    "Cảm ơn, chưa đâu."
    Ông ngoạm một miếng táo. "Hãy ăn thật nhiều táo, Herr Lohkamp. Táo giúp ta sống lâu. Mỗi ngày ăn vài quả, ta không bao giờ phải đi bác sĩ."
    "Ngay cả khi ta bị gãy tay?"
    Ông nhoẻn cười, quăng bỏ cái lõi táo thứ nhì, rồi đứng lên.
    "Vậy ta không nên gãy tay."
    "Nghe hay lắm," tôi nói và chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Câu chuyện táo tiếc này đáng ngờ lắm.
    Blumenthal lấy một hộp xì gà từ cái tủ nhỏ và mời tôi. Đấy là xì gà Coronas tôi đã biết. "Chúng cũng kéo dài tuổi thọ sao?" tôi hỏi.
    "Không, chúng làm ngắn lại. Cân bằng những quả táo." Ông thổi ra một quầng khói mù và nhìn tôi, đầu nghiêng sang một bên như một con chim trầm mặc, nhìn từ dưới lên trên. "Cân bằng, Herr Lohkamp, luôn luôn cân bằng -- đấy là bí quyết của cuộc đời."
    "Nếu ta có thể."
    Ông nháy mắt. "Đúng thế; nếu ta có thể, đấy là bí quyết, dĩ nhiên rồi. Chúng ta biết quá nhiều, nhưng chỉ có thể làm quá ít. Bởi vì chúng ta biết quá nhiều. ---" ông cười to. "Xin tha lỗi cho tôi -- sau khi ăn trưa, tôi luôn luôn triết lý vặt."
    "Đấy cũng là thời điểm tốt nhất," tôi nói. "Bây giờ, về chiếc Cadillac; chúng ta cũng sẽ làm cho cân bằng, phải không?"
    Ông dơ một tay lên. "Khoan đã."
    Tôi cúi đầu chịu thua. Blumenthal nhận thấy và cười. "Không phải như cậu nghĩ. Tôi chỉ định khen cậu một câu. Đánh con bài chủ từ đầu, không dấu diếm gì cả. Như thế là đi đúng nước bài với lão Blumenthal này. Cậu biết tôi mong đợi gì không?"
    "Rằng tôi sẽ bắt đầu ra giá bốn ngàn năm trăm --"
    "Đúng. Nhưng nếu làm thế, cậu sẽ không đạt được kết quả. Cậu định bán xe với giá bẩy ngàn, phải không?"
    Tôi nhún vai, không cam kết gì cả. "Sao lại chính xác bảy ngàn?"
    "Bởi vì đó là cái giá cậu đã thách tôi lần đầu."
    "Ông có một trí nhớ tuyệt vời," tôi nói.
    "Về những con số. Chỉ những con số mà thôi. Thật không may. Ta đi đến kết luận này nhé -- cậu có thể lấy chiếc xe với giá đã nêu, sáu ngàn."
    Ông chìa tay và tôi chụp lấy. "Tạ ơn Chúa," tôi nói, nhẹ nhõm, "cho chúng con một dịp mua may bán đắt chờ đợi đã lâu. Dường như chiếc Cadillac cho chúng tôi may mắn."
    "Với tôi, cũng thế," Blumenthal nói. "Đừng quên, tôi cũng kiếm lời năm trăm, nhờ nó."
    "Đúng. Nhưng xin ông cho biết, vì sao ông muốn bán nó sớm vậy? Ông không vừa ý hay sao?"
    "Chỉ là dị đoan mà thôi," Blumenthal giải thích. "Tôi không bao giờ để lỡ một cơ hội làm ra tiền."
    "Dị đoan tốt," tôi trả lời.
    Ông ngúc ngoắc cái đầu hói bóng nhẫy. "Cậu không tin đâu nhỉ -- thật thế. Tôi làm vậy để tránh những điều không tốt xảy ra với tôi -- với những thứ khác. Chê bỏ một vận may hôm nay, có nghĩa là thách đố Thượng Đế. Và không ai trong chúng ta dám làm vậy."
    Lúc bốn giờ rưởi, Gottfried Lenz, vẻ mặt trịnh trọng, đặt một vỏ chai gin trên bàn, trước mặt tôi. "Cưng ơi, tớ muốn cậu đong đầy cái chai này. Tớ được miễn phí. Cậu còn nhớ chúng ta đánh cuộc thế nào không?"
    "Nhớ chứ," tôi nói. "Nhưng cậu đến sớm quá."
    Không một lời, Gottfried dí cái đồng hồ tay của anh sát mắt tôi.
    "Bốn giờ rưởi," tôi nói. "Giờ thiên văn, rõ rồi. Có điều, ai cũng có thể đi trễ. Tớ tăng tiền cược gấp đôi, hai chống một --"
    "Đồng ý," Gottfried hý hửng nói. "Nếu thắng, tớ sẽ được chung bốn chai gin. Cái đó gọi là anh hùng đấu tranh cho chính nghĩa đã mất. Danh dự lắm, Cưng ạ, nhưng cưng sai lầm rồi."
    "Cứ đợi đấy,"
    Thật tình tôi không còn tự tin như đang làm bộ. Trái lại, tôi tin chắc, ông chủ tiệm bánh sẽ không trở lại. Lẽ ra sáng nay tôi phải tìm hiểu ông ta kỹ càng hơn. Không thể nào tin tưởng ông ta.
    Khi tiếng còi tan tầm của xưởng chế tạo nệm lò xo bên kia đường inh ỏi hụ, báo năm giờ chiều, Gottfried lẳng lặng đặt thêm ba cái vỏ chai gin trên bàn, trước mặt tôi. Rồi anh tựa vào cửa sổ và chăm chú nhìn tôi. "Tớ khát quá," một lúc sau, anh nói, nhấn mạnh.
    Ngay lúc ấy, tôi nghe tiếng động cơ rầm rập rất đặc trưng của xe Ford chạy ngoài đường, và sau đó, xe của ông chủ tiệm bánh quẹo vào cổng rào của chúng tôi.
    "Nếu cậu khát, Gottfried yêu dấu của tớ," tôi chững chạc trả lời, "chỉ cần chạy đi mua hai chai rum mà tớ đã thắng cuộc. Cậu có thể tợp một ngụm miễn phí. Thấy ông chủ hiệu bánh đàng kia chưa? Tâm lý học, con ơi. Bây giờ thì, làm ơn dẹp dùm mấy cái vỏ chai gin này ngay. Sau đó, cậu có thể lái chiếc tắc xi. Cậu còn quá trẻ người non dạ với những công việc tinh tế. Mừng sức khỏe, con ơi."
    Tôi ra đón và bảo ông chủ tiệm bánh rằng, dường như chiếc Cadillac sẽ thuộc về ông. Khách hàng ra giá bẩy ngàn năm trăm, nhưng nếu trả tiền mặt, ông ấy có thể bớt còn bẩy ngàn.
    Ông chủ hiệu bánh lơ đãng đến nổi tôi phải ngừng nói. "Tôi cần gọi điện cho ông ấy lúc sáu giờ," cuối cùng tôi nói.
    "Lúc sáu giờ?" Ông chủ hiệu bánh bừng tỉnh. "Lúc sáu giờ, tôi phải --" Rồi ông ta bỗng quay lại. "Cậu đi với tôi được chứ?"
    "Đi đâu?" tôi kinh ngạc hỏi.
    "Đến nhà bạn cậu, ông họa sĩ. Tranh đã xong."
    "Ach, thì ra thế, đến xưởng họa Ferdinand Grau?"
    Ông gật đầu. "Đi với tôi, nhé? Rồi chúng ta sẽ thảo luận giá cả."
    Dường như ông không muốn đi một mình chút nào. Ngược lại, tôi cũng thấy rất thiết yếu, không nên để ông rời khỏi nơi đây một mình một lần nữa. "Được mà," do đó, tôi nói. "Hơi xa đấy -- chúng ta nên đi ngay bây giờ."
    Ferdinand Grau trông bịnh hoạn. Gương mặt xám xanh, tối và bủng. Anh đón chúng tôi ở cửa xưởng họa. Ông chủ tiệm bánh gần như không nhìn tới anh. Ông ta thiếu tự tin và nóng nảy lạ lùng. "Tranh ở đâu?" ông ta lập tức hỏi.
    Fedinand chỉ về hướng cửa sổ. Bức tranh đặt trên giá vẽ. Ông chủ tiệm bánh bước vội đến rồi dừng lại trước mặt nó, bất động. Một lúc sau, ông bỏ mũ xuống. Ông đã hối hả tới nỗi quên béng đi cái mũ.
    Ferdinand và tôi vẫn đứng cạnh cửa. "Anh khỏe không, Ferdinand?"
    Anh khoác tay, làm một cử chỉ mơ hồ.
    "Có chuyện gì không tốt chăng?"
    "Chuyện gì không tốt đâu?"
    "Khí sắc của anh tệ lắm --"
    "Hỏi gì nữa không?"
    "Không," tôi nói, "hết rồi."
    Anh đặt bàn tay hộ pháp lên vai tôi và cười với nét mặt của một con chó St. Bernard's già.
    Chúng tôi đợi một lát. Rồi chúng tôi lại gần. Tôi ngạc nhiên khi nhìn vào tranh. Chân dung được thể hiện rất sinh động, dựa theo tấm ảnh ngày cưới và tấm thứ nhì, đã mờ cũ, một thiếu phụ còn trẻ nhìn thẳng về phía trước với đôi mắt nghiêm nghị đượm nét hoang mang.
    "Vâng," ông chủ tiệm bánh đáp, không quay lại. "Đúng là bà ấy."
    Ông ta nói với bản thân nhiều hơn với chúng tôi, và tôi có cảm tưởng, ông cũng chẳng ý thức được mình đang nói.
    "Ông có cần thêm ánh sáng?" Ferdinand hỏi.
    Ông chủ tiệm bánh không trả lời.
    Ferdinand tiến tới, chỉnh lại vị trí của giá vẽ. Rồi anh lùi bước, gật đầu ra hiệu cho tôi đi qua một căn phòng nhỏ, cạnh xưởng vẽ.
    "Tôi thật không ngờ," anh nói, ngạc nhiên. "Bức tranh đã đánh động cõi lòng của cái máy giảm giá cằn cỗi ấy! Ông ta khóc nức nở --"
    "Ai cũng có lúc để cảm xúc trào dâng," tôi trả lời. "Có điều, với ông ấy, đã quá muộn."
    "Quá muộn," Ferdinand nói; "luôn luôn quá muộn màng. Việc đời cứ như thế, Bob ạ."
    Anh khoan thai đếm bước. "Hãy để ông ấy được yên tĩnh," anh nói. "Cậu nghĩ sao, trong khi chờ đợi, ta làm một ván cờ nhé?"
    "Anh có tâm hồn tươi vui lắm, Ferdinand," tôi nói.
    Anh ngừng chân. "Tại sao không? Không gây hại mà cũng không làm lợi gì cho ông ấy. Nếu cứ khăng khăng nghĩ về những chuyện buồn ấy, sẽ không ai có thể cười được nữa, Bob ạ."
    "Anh nói đúng," tôi đáp. "Vậy mình chơi trò gì nhanh một chút."
    Chúng tôi bày bàn cờ ra và bắt đầu. Ferdinand thắng một cách dễ dàng. Anh chiếu bí tôi với con tháp và con giám mục, không cần con nữ hoàng.
    "Tôi thật không hiểu anh làm cách nào," tôi nói. "Trông anh như người thiếu ngủ đã mấy đêm. Thế mà anh chơi dũng mãnh như quân cướp biển."
    "Những khi buồn, tớ luôn luôn chơi rất khá," Ferdinand trả lời.
    "Tại sao anh buồn?"
    "Ach, tớ không biết. Bởi vì màn đêm buông xuống. Tất cả những người tốt đều sầu buồn khi chiều đến. Chẳng vì lý do đặc biệt nào. Chung chung như thế thôi."
    "Nhưng chỉ khi nào họ cô độc," tôi nói.
    "Dĩ nhiên. Giờ của chập chùng bóng tối. Giờ của cô đơn quạnh quẽ. Giờ khi nhâm nhi cognac ngon nhất."
    Anh lấy ra chai rượu và hai cái ly. "Chúng ta có nên trở vào gặp ông chủ tiệm bánh không?" tôi hỏi.
    "Một phút nữa." Anh rót rượu vào cốc. "Pros't, Bob. Vì tất cả chúng ta rồi sẽ chết."
    "Pros't, Ferdinand. Vì chúng ta vẫn còn đây."
    "Ấy mà," anh nói, "đôi khi người ta lại không muốn thế. Hãy cạn một ly mừng điều đó."
    "Chí lý."
    Chúng tôi trở vào xưởng vẽ. Căn phòng tối hơn khi nãy. Ông chủ tiệm bánh với đôi vai so, vẫn còn đứng trước bức tranh. Trông ông ta lạc loài đáng thương trong căn phòng rộng, trống lốc và tôi chợt nhận ra, ông ta càng như nhỏ thó hơn.
    "Tôi đóng gói bức tranh lại cho ông nhé?" Ferdinand hỏi.
    Ông ta giật mình. "Không."
    "Vậy ngày mai, tôi sẽ cho người mang đến?"
    "Tôi có thể gởi nó lại đây, được không?" ông chủ tiệm bánh rụt rè hỏi.
    "Nhưng tại sao?" Ferdinand ngạc nhiên, và đến gần hơn. "Ông không thích nó hay sao?"
    "Có, tôi thích chứ -- nhưng tôi cần để nó lại đây."
    "Tôi không hiểu."
    Ông chủ tiệm bánh nhìn tôi, cầu cứu. Tôi hiểu -- ông ta sợ phải treo bức tranh trong nhà trước sự hiện diện của con chằng cái tóc đen. Có lẽ, ông ta cũng có một nỗi sợ hãi nào đấy với người đã khuất, sợ phải mang bà về nhà."
    "Nhưng Ferdinand," tôi nói, "tranh có thể treo tại đây, được không, nếu trả tiền xong?"
    "Thế thì, dĩ nhiên được thôi."
    Ông chủ tiệm bánh, yên lòng, lấy từ túi ra một quyển chi phiếu. Hai người đi tới bàn.
    "Còn thiếu bốn trăm marks?" ông chủ tiệm bánh hỏi.
    "Bốn trăm hai mươi," Ferdinand nói, "đã chiết giảm. Ông cần biên nhận không?"
    "Có chứ," ông chủ tiệm bánh nói, "cho ban kế toán."
    Trong im lặng, họ viết chi phiếu và biên nhận. Tôi vẫn đứng cạnh cửa sổ và nhìn quanh. Trong ánh nắng chiều, các bức chân dung bị bỏ rơi sáng lờ mờ trong những khung vàng. Chúng trông như bộ sưu tập ma quái của thế giới khác và những cái nhìn chăm chăm của chúng hướng về bức tranh bên cửa sổ, bức tranh sắp được kết nạp, bức tranh mà trên đó, buổi chiều đang rót những giọt nắng sau cùng. Không khí kỳ quặc -- hai cái bóng lom khom ở bàn, bóng tối và rất nhiều chân dung câm nín.
    Ông chủ tiệm bánh trở lại cửa sổ. Đôi mắt vằn đỏ của ông như hai viên bi ve, miệng của ông há ra nửa vời, môi dưới trễ xuống để lộ những chiếc răng ố vàng -- cách ông ta đứng đấy, vừa khôi hài, vừa buồn thảm. Ở tầng lầu ngay bên trên xưởng vẽ, một người nào đó bắt đầu gõ những phím dương cầm một bài luyện ngón, mà chuỗi âm thanh lập đi lập lại cùng một điệu. Mỏng manh và than thở. Ferdinand Grau vẫn đứng cạnh bàn. Anh đốt một điếu xì -gà. Ngọn lửa hiu hắt soi gương mặt của anh. Căn phòng tối lờ mờ dường như to rộng lên một cách ghê rợn và xanh rất thẳm, so với đóm lửa đỏ.
    "Ông vẫn có thể sửa lại một thứ gì đó, phải không?" ông chủ tiệm bánh hỏi.
    "Sửa gì cơ?"
    Ferdinand tiến đến. Ông chủ tiệm bánh trỏ vào món nữ trang.
    "Ông có thể xóa nó, được chứ?"
    Đấy là cái kim vàng cài áo to đùng mà khi đặt hàng, ông ta đã kỳ kèo cho bằng được.
    "Được chứ," Ferdinand nói, "thật tình mà nói, nó làm thô gương mặt. Tranh sẽ đẹp hơn nếu xóa nó đi."
    "Tôi cũng nghĩ vậy." Ông ta ba hoa một chập nữa. "Tôi phải trả thêm bao nhiêu?"
    Ferdinand và tôi nhìn nhau. "Không tốn xu nào cả," Ferdinand nói, quảng đại; "ngược lại, lẽ ra còn phải bù tiền cho ông. Ông thấy không, vẽ ít hơn mà."
    Ông chủ hiệu bánh ngửng đầu lên, ngạc nhiên. Trong một thoáng, dường như ông có ý định bàn sâu về chuyện ấy. Nhưng rồi ông dứt khoát: "Ach, không, đừng bận tâm -- nói cho cùng, dù sao ông đã vẽ rồi."
    "Điều ấy cũng đúng --"
    Chúng tôi ra về. Trên cầu thang bên ngoài, nhìn phiến lưng còng trước mặt, tôi cảm thấy ân hận về ông chủ tiệm bánh, về việc lương tâm của ông đã đánh bại ước muốn thủ lợi với cái kim cài áo. Tôi không muốn dẫn ông ta đi mua xe Cadillac trong tâm trạng hiện tại của ông. Nhưng rồi tôi nhớ rằng, nỗi thương tiếc, đáng tuyên dương biết bao, dành cho người vợ quá cố ấy, ít nhiều gì chỉ khởi dậy bởi cô gái tóc đen ở nhà là một con ngựa bà quá quắt, và thế là tôi lại hăng hái ngay.
    "Chúng ta có thể ghé tiệm bánh để bàn bạc," bên ngoài, ông ta nói.
    Tôi gật đầu. Rất tiện lợi cho tôi. Ông chủ tiệm bánh cứ ngỡ, trong bốn bức vách của ông, ông ta sẽ mạnh mẽ hơn -- nhưng tôi có sự ủng hộ của cô nàng tóc đen.
    Cô ta đợi sẳn ở cửa. "Chân thành chúc mừng bà," tôi nói, trước khi ông chủ tiệm bánh kịp mở miệng.
    "Mừng gì cơ?" cô ta lập tức hỏi, ánh mắt long lanh.
    "Xe Cadillac của bà," không nao núng, tôi trả lời.
    "Anh yêu!" cô ta nhảy cẫng lên, ôm chặt cổ ông ta.
    "Nhưng chuyện chưa đâu vào đâu cả," ông cố gỡ tay cô và giải thích. Nhưng cô ta vẫn đeo dính và nghịch ngợm quay ông ta vòng vòng, không để ông ta thốt một lời. Tôi lần lượt thấy sau bờ vai của ông, gương mặt ranh mãnh, con mắt nháy nhó của cô ta và sau bờ vai cô ta, cái đầu như con mọt gạo của ông ta, trách móc, phản kháng vô vọng.
    Cuối cùng ông ta cũng rứt ra được. "Chúng ta chưa đạt đến một thỏa thuận nào," ông thở hào hển.
    "Có mà," tôi hăng hái nói, "tôi bảo đảm sẽ làm hết sức để giảm năm trăm marks cuối cùng. Ông không phải trả thêm một xu nào ngoài bảy ngàn marks cho chiếc Cadillac. Ông đồng ý chứ?"
    "Dĩ nhiên," cô tóc đen nhanh nhảu nói. "Giá ấy, thật quá hời, anh yêu."
    "Nín ngay!" Ông chủ tiệm bánh dơ tay khỏi đầu.
    "Anh có điên không vậy?" cô ta tấn công. "Lúc đầu, anh nói anh sẽ mua xe, giờ thì anh đứng ỳ ra đấy, nói rằng anh sẽ không mua."
    "Không sao, ông ấy sẽ mua." Tôi can gián. "Chúng tôi đã bàn thảo với nhau."
    "Vậy thì, anh yêu -- tại sao, anh lại -- " Cô nàng õng ẹo dựa sát người ông ta. Ông ta cố gắng nhích ra nhưng cô nàng đã ép đôi vú căng phồng lên cánh tay ông. Ông ta nhăn mặt tuyệt vọng, nhưng sức kháng cự đã yếu hẳn.
    "Chiếc xe Ford -- "ông ta nói.
    "Sẽ chi trả từng phần, dĩ nhiên."
    "Bốn ngàn marks?"
    "Ông đã tốn đến ngần ấy sao?" tôi thân ái hỏi.
    "Xe Ford phải bán với giá bốn ngàn marks, trả từng phần," ông quả quyết. Cuối cùng, ông ta cũng tìm được cách trả đòn sau khi bất ngờ bị tấn công lúc đầu. "Xe tốt y như xe mới."
    "Xe mới?" tôi nói. "Sau khi được đại tu như thế?"
    "Sáng nay, chính cậu cũng nhận là xe tốt như mới mà."
    "Sáng nay, đấy lại là chuyện khác. Mới hay không -- tùy theo, ta là người bán hay người mua. Với giá bốn ngàn marks, xe Ford của ông phải có cảng bằng vàng."
    "Bốn ngàn marks, không chịu thì thôi," ông chủ tiệm bánh bướng bỉnh nói. Ông ta đã hồi phục bản tính cũ và rõ ràng, muốn sửa chữa những tình cảm ủy mị mới đây.
    "Vậy, au revoir," tôi trả lời, và quay sang cô tóc đen. "Tôi rất tiếc, bà ạ -- nhưng tôi không thể mua bán thiệt thòi như thế. Chúng tôi không lãi đồng nào với chiếc Cadillac, vì thế, tôi không thể mua vào chiếc Ford cũ với cái giá trên trời. Tạm biệt."
    Cô ta giữ tôi lại. Đôi mắt tóe lửa, cô ta tấn công ông chủ tiệm bánh khiến ông ta chẳng biết nên tiến hay lùi. "Anh đã nói hàng trăm lần là chiếc Ford không đáng giá gì hết," cuối cùng, cô ta rít lên, nước mắt đoanh tròng.
    "Hai ngàn marks," tôi nói. "Hai ngàn marks, mặc dù giá ấy chết người."
    Ông chủ hiệu bánh im lìm.
    "Nào nào, nói gì đi chứ. Anh đứng đây làm gì mà không chịu mở miệng? cô nàng tóc đen tát yêu ông ta.
    "Xin ông bà thứ lỗi," tôi nói. "Tôi phải đi lấy chiếc Cadillac. Khi tôi trở lại, có lẽ ông bà đã thảo luận xong."
    Tôi có cảm tưởng nếu tôi biến đi thì tốt hơn. Tóc đen sẽ tiếp tục công việc dùm tôi.
    Một giờ sau tôi lại có mặt ở đấy. Tôi thấy ngay, cuộc cải vã đã được giải quyết bằng cái phương pháp giản dị nhất. Y phục của ông ta hơi nhàu và một cái lông ngỗng trong chăn còn vướng trên áo khoác -- còn cô tóc đen, trái lại, mắt ngời sáng, vú rung rinh; và cô ta mỉm cười, mãn nguyện và xảo quyệt. Cô ta đã thay y phục, và mặc một chiếc áo đầm lụa mỏng, dán sát người. Khi không bị chú ý, cô ta gật đầu với tôi, và nháy mắt ra hiệu là mọi việc đều ổn thỏa.
    Chúng tôi lái thử. Tóc đen ngồi gọn gàng, thoải mái trên cái ghế rộng và liếng thoắng nói không ngừng. Tôi ước gì mình có thể quẳng cô ả qua cửa sổ, thế nhưng tôi vẫn cần sự có mặt của cô ta. Ông chủ tiệm bánh ủ rũ ngồi cạnh tôi. Ông ta thương tiếc trước cho số tiền sẽ chia tay -- có lẽ, đó là sự thương tiếc chân thành nhất.
    Chúng tôi dừng xe trước nhà ông chủ tiệm bánh, rồi đi vào. Ông ta bước qua phòng khác để lấy tiền. Trông ông ta già sụm, và tôi nhận ra, tóc của ông đã phải nhuộm.
    Tóc đen lướt tay ve vuốt cái áo đầm của ả. "Chúng ta làm chuyện ấy cừ thật, phải không?"
    "Vâng," tôi ngần ngừ nói.
    "Anh nợ em một trăm marks cho việc ấy."
    "Ach, vậy thì sao?" tôi nói.
    "Lão già keo kiệt ấy," cô ta thì thào thân mật, tiến gần tôi, "giàu có lắm. Nhưng cứ thử moi một đồng của lão! Lại còn không chịu làm di chúc nữa cơ. Và dĩ nhiên, sau khi lão đi đời nhà ma, con cái của lão sẽ hưởng trọn gia tài, còn em sẽ bơ vơ nơi đâu? Ngoài ra, chẳng vui sướng gì, lúc nào lão cũng mắng mỏ em --"
    Cô ta lại gần hơn nữa và hây hẩy cặp vú. "Vậy, ngày mai, em sẽ qua đấy lấy một trăm marks. Khi nào anh có mặt? Hoặc đi ngang đây?" Cô ta khúc khích cười. "Chiều mai, em ở nhà một mình."
    "Tôi sẽ gởi tiền cho bà." tôi nói.
    Cô ta lại rinh rích cười. "Anh đích thân mang đến, nhé. Hay là anh sợ?"
    Rõ ràng, cô ta nghĩ rằng tôi ngây thơ, và phải nói huỵch toẹt cho tôi hiểu.
    "Không sợ," tôi nói, "nhưng tôi bận. Ngày mai, tôi phải đi bác sĩ. Bịnh giang mai lâu rồi -- làm đời mất vui."
    Nhanh như cắt, cô ta lùi lại, suýt ngã lên chiếc ghế bành bọc nhung. Ngay khi ấy, ông chủ tiệm bánh đi vào. Ông ta nhìn cô ta một cách ngờ vực. Rồi ông ta đếm thành tiếng cọc tiền chất trên bàn. Chậm và lưỡng lự. Cái bóng của ông lung linh theo nhịp đếm trên nền thảm hồng. Khi tôi viết biên lai, tôi bàng hoàng nhận ra, chuyện này đã xảy ra một lần hôm nay -- chỉ có điều, Ferdinand Grau đóng vai tôi. Mặc dù việc này chẳng quan trọng gì, nhưng với tôi, quái dị quá.
    Tôi vui vì lại được ra ngoài. Không khí mềm và ấm như mùa hè. Chiếc Cadillac đậu bên lề, hóm hỉnh nháy mắt với tôi.
    "Ôi, cám ơn cưng," tôi nói, gõ gõ lên bộ tản nhiệt. "Mau về thăm anh nhé."

  6. #12
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 15
    Buổi sáng trong veo và lấp lánh trên những đồng cỏ. Pat và tôi ngồi ở bìa một khoảnh rừng thưa, ăn điểm tâm. Tôi nghĩ phép hai tuần và đang trên đường du lịch với Pat. Chúng tôi đi ra biển.
    Một chiếc Citroen nhỏ, cũ đậu ở ven đường. Chúng tôi mua trả góp nhờ chiếc Ford, và Koster cho tôi mượn đi chơi. Nó như một con lừa nhẫn nại, thồ đầy hòm xiểng trên lưng.
    "Hy vọng nó không hư bất tử dọc đường," tôi nói.
    "Không đâu," Pat trả lời.
    "Sao em biết?"
    "Tất nhiên. Đây là cuộc du ngoạn của chúng ta, Robby."
    "Có lẽ," tôi đáp. "Nhưng anh biết cái trục sau của nó. Nhìn thảm lắm. Nhất là phải chở nặng như thế."
    "Nó là anh em của Karl. Nó sẽ chịu đựng được."
    "Người anh em mắc bệnh còi xương trầm trọng."
    "Đừng chê bai nó, Robby. Nó là chiếc xe đáng yêu nhất đối với em, lúc này."
    "Em qua đây," tôi nói.
    "Để làm chi?"
    "Khó nói."
    Trên đồng cỏ, chúng tôi nằm song song bên nhau thêm một lúc. Gió từ cánh rừng thổi ra, ấm áp và dịu dàng. Gió thơm hương nhựa thông và hoa dại.
    "Robby," một lát sau Pat hỏi, "những bông hoa đàng kia, bên dòng suối, tên gì hở anh?"
    "Cỏ Chân Ngỗng," tôi trả lời, không cần nhìn lên.
    "Nhưng anh yêu! Không phải Cỏ Chân Ngỗng, hoa Cỏ Chân Ngỗng nhỏ hơn nhiều; ngoài ra, chúng chỉ nở vào mùa xuân."
    "Đúng," tôi nói. "Rau Tề."
    Nàng lắc đầu. "Em biết Rau Tề. Hoa này trông khác hẳn."
    "Vậy là Độc Cần."
    "Nhưng Robby! Hoa Độc Cần không đỏ, mà trắng."
    "Vậy anh không biết. Từ nào đến giờ, nếu bị hỏi, anh cứ nói đại ba cái tên ấy là xong. Các cô thường tin vào một trong ba cái tên ấy."
    Nàng cười to. "Tội thì thôi. Nếu biết thế, em đã bằng lòng với tên Cỏ Chân Ngỗng."
    "Độc Cần," tôi nói. "Anh thành công nhất với tên Độc Cần."
    Nàng ngồi dậy. "Phấn khởi nhỉ. Vậy anh thường được hỏi lắm sao?"
    "Không thường lắm. Và trong những trường hợp hoàn toàn khác."
    Nàng chống tay trên mặt đất. "Thật xấu hổ khi người ta chạy loanh quanh khắp nơi trên trái đất, thế nhưng lại không biết gì về nó. Ngay cả mấy cái tên vặt."
    "Em đừng buồn," tôi nói, "có một nỗi xấu hổ lớn hơn, đó là người ta lại còn không biết người ta loanh quanh chạy khắp trái đất để làm gì. Và biết thêm nhiều hay ít hơn một vài cái tên thì có quan trọng gì đâu."
    "Anh cứ nói vậy. Nhưng em tin anh chỉ nói như thế bởi lười nhác."
    Tôi trở mình. "Dĩ nhiên. Nhưng ta cũng không chiêm nghiệm đủ về sự lười nhác. Lười nhác là nền tảng của tất cả hạnh phúc và kết thúc của mọi triết lý. Đến đây em, nằm xuống. Người ta nằm quá ít. Người ta lúc nào cũng đứng, hoặc ngồi. Như vậy thể xác không được dễ chịu. Chỉ khi người ta nằm xuống, họ mới hoàn toàn hòa thuận với bản thân."
    Một chiếc xe hơi rầm rù chạy ngang rồi biến mất.
    "Có xe khác đến nữa," Pat trả lời.
    "Vâng, anh có nghe. Một chiếc Renault. Phải đầu xe trông giống mỏ heo không?"
    "Vâng."
    "Vậy đúng là Renault. Nhưng hãy lắng nghe, một chiếc xe chính hiệu sắp chạy đến. Một chiếc Lancia. Anh dám cá, nó sẽ đuổi theo hai cái xe kia như một con sói đuổi theo đôi cừu. Chỉ cần lắng nghe tiếng máy nổ. Như tiếng đàn ống nhà thờ."
    Chiếc xe lao vút qua. "Em đoán, anh biết nhiều hơn ba hiệu xe ?" Pat hỏi.
    "Dĩ nhiên. Và biết đúng, còn muốn gì hơn?"
    Nàng cười to. "Như vậy buồn lắm, hay không buồn?"
    "Không buồn gì hết. Thuận lẽ tự nhiên. Anh chuộng một chiếc xe đẹp hơn là hai mươi cánh đồng hoa."
    "Đứa con ngỗ nghịch của thế kỷ hai mươi! Em đoán, anh không phải là người đa cảm."
    "Ô, anh đa cảm chứ, em vừa nghe đấy: với xe hơi."
    Từ tàng cây linh san, một con chim cu cất tiếng. Pat bắt đầu đếm.
    "Tại sao em làm thế?"
    "Anh không biết ư? Nó gáy bao nhiêu tiếng thì ta sẽ sống thêm bấy nhiêu năm."
    "Ach, vậy à, đúng rồi. Nhưng có một con khác đang gáy nữa kìa. Khi nó gáy, hãy lắc tiền. Tiền sẽ sinh sôi nảy nở."
    Tôi móc mấy đồng lẽ trong túi ra và bụm tay lại, lắc thật mạnh.
    "Đúng là anh," Pat cười nói. "Em muốn cuộc sống, còn anh muốn tiền."
    "Để có thể sống," tôi trả lời. "Một người duy tâm chân chính phải phấn đấu để có tiền. Tiền bạc cho ta tự do về mặt tinh thần. Và tự do là cuộc sống."
    "Mười bốn," Pat đếm. "Trước đây, em nghe anh nói khác."
    "Đấy là thời kỳ đen tối của anh. Ta không nên chê bai tiền bạc. Chính tiền là thứ làm cho nhiều người đàn bà say tình. Mặt khác, tình làm cho nhiều người đàn ông tham lam. Do đó, tiền sẽ thúc đẩy lý tưởng --tình yêu chống lại vật chất."
    "Hôm nay là ngày tốt của anh," Pat nói. "Ba mươi lăm."
    "Đàn ông," tôi tiếp tục nói, "trở thành tham lam vì dục vọng của người đàn bà. Nếu không có đàn bà, sẽ không có tiền, và đàn ông sẽ là một sắc tộc anh hùng. Dưới chiến hào, không có đàn bà -- nơi ấy, cũng thế, người đàn ông có nhiều tiền đến đâu cũng không kể. Nơi ấy, anh ta chỉ được coi như một người đàn ông mà thôi. Và không nói tới chiến hào đâu nhé; anh chỉ mô tả tình yêu dưới ánh sáng thực của nó. Nó khơi dậy bản năng xấu xa của con người -- thôi thúc được sở hữu, địa vị, lợi nhuận, an nhàn. Không phải vô cớ mà những nhà độc tài muốn thuộc cấp của họ có gia đình -- vì như thế, những người ấy sẽ ít nguy hiểm hơn. Cũng không phải tự dưng mà các linh mục Thiên Chúa Giáo sống độc thân -- nếu có vợ, họ sẽ không bao giờ là những nhà truyền giáo can trường."
    "Hôm nay thật là một ngày tuyệt vời của anh," Pat nói một cách biết ơn. "Năm mươi hai."
    Tôi cất tiền vào túi và châm thuốc.
    "Em sắp ngừng đếm`hay chưa?" Tôi hỏi. "Nếu không coi chừng, em sẽ đếm hơn bẩy mươi cho xem."
    "Một trăm mới được, Robby. Một trăm là con số đẹp. Em muốn sống lâu ngần ấy."
    "Bái phục em! Em can đảm thật. Nhưng em sẽ làm gì với tất cả những năm ấy?"
    Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân. "Em có những suy nghĩ khác với anh về chuyện ấy."
    "Hẳn vậy, Nhưng bẩy mươi năm đầu là những năm gian khổ. Sau đó, chắc phải dễ dàng hơn."
    "Một trăm!" Pat tuyên bố, và chúng tôi lại lên đường.
    Biển đến với chúng tôi như một cánh buồm bạc mênh mông. Trước khi nhìn thấy biển rất lâu, chúng tôi đã ngửi được vị mặn trong gió; chân trời tươi sáng hơn và xa vời hơn; và đột nhiên, trước mắt chúng tôi, biển trải dài, cuồn cuộn, huy hoàng và vô tận.
    Con đường uốn một khúc cong gần biển. Rồi đến một cánh rừng và đàng sau rừng là một ngôi làng. Chúng tôi hỏi thăm căn nhà nơi chúng tôi dự định ở trọ. Căn nhà ấy nằm bên ngoài làng một khoảng khá xa. Koster cho chúng tôi biết địa điểm này. Anh đã ở đây cả năm trời, sau chiến tranh.
    Đó là một căn nhà nhỏ, biệt lập. Tôi lượn hai vòng, rồi đậu chiếc Citroen cạnh nhà và bóp kèn. Từ rèm cửa sổ, một gương mặt trèn trẹt nhô ra, há hốc mồm nhìn chúng tôi trong giây lát rồi biến đi. "Hy vọng đó không phải là Fraulein Muller," tôi nói.
    "Diện mạo của bà ấy ra sao, cũng không ăn nhằm chi," Pat trả lời.
    Cửa mở. May quá, người ấy không phải là Fraulein Muller mà là một bà giúp việc. Fraulein Muller, chủ nhân của căn nhà, xuất hiện một phút sau. Bà là một cô gái lỡ thời, chải chuốt, với mái tóc hoa râm. Bà mặc một chiếc áo đen che kín cổ và kim cài áo là một chiếc thánh giá vàng.
    "Mang vớ vào đi, Pat, cẩn thận vẫn hơn," tôi thì thào với Pat, sau khi thấy cái kim cài áo, và bước xuống xe.
    "Herr Koster có nói với bà về chúng tôi, phải không ạ?" tôi nói.
    "Vâng, chú ấy có đánh điện báo cho tôi rằng cô cậu sắp đến," bà cẩn thận quan sát tôi. "Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
    "Ach, khỏe lắm -- trong thời buổi này."
    Bà gật đầu và lại chú tâm tra hỏi. "Cậu quen với Koster bao lâu rồi?"
    Đã đến giờ thẩm cung, tôi nghĩ, và nói số năm tôi đã quen biết anh. Bà ra vẻ hài lòng. Pat xuất hiện. Nàng đã mang vớ. Ánh mắt của Fraulein Muller dịu lại. Dường như Pat dễ chiếm được cảm tình của người khác, hơn là tôi.
    "Vậy bà đã để dành phòng cho chúng tôi?" tôi hỏi.
    "Nếu Herr Koster gởi điện tín đặt phòng cho cậu," Fraulein Muller nhìn tôi đầy khiển trách và nói, "thì cô cậu sẽ có căn phòng đep nhất," bà nói với Pat.
    Pat mỉm cười. Fraulein Muller cũng mỉm cười. "Tôi dẫn cô đi xem nhé," bà nói.
    Hai người đi trên một lối hẹp băng qua một khu vườn nhỏ. Tôi đủng đỉnh theo sau và cảm thấy thừa thãi, bởi Fraulein Muller chỉ nói chuyện với Pat mà thôi.
    Căn phòng mà bà cho chúng tôi xem nằm ở tầng trệt, có cửa riêng mở ra vườn hoa. Tôi thích nó lắm. Phòng khá rộng, sáng sủa và ấm cúng. Nằm một bên, gần như trong một cái hốc nhỏ, là hai chiếc giường đơn.
    "Thế nào?" Fraulein Muller hỏi.
    "Đẹp lắm," Pat nói.
    "Thực ra, phải nói là tuyệt vời," tôi nói, cố lấy lòng bà. "Còn phòng kia ở đâu ạ?"
    Fraulein Muller chậm rãi quay lại. "Phòng kia? Phòng nào cơ? Cậu muốn một phòng khác à? Cậu không thích phòng này sao?"
    "Phòng tuyệt đẹp," tôi nói, "nhưng --"
    "Nhưng?" Fraulein Muller nói, hơi gắt. "Chẳng may, tôi không còn phòng nào đẹp hơn nữa."
    Tôi sắp sửa giải thích rằng chúng tôi cần hai phòng đơn, thì bà đã nói: "Nhưng vợ cậu đã nói, phòng này được lắm mà."
    Vợ cậu -- tôi có cảm giác như té lùi hai bước. Nhưng tôi vẫn còn nguyên ở vị trí cũ. Tôi len lén nhìn Pat, nàng đang tựa mình vào cửa sổ, cố nén cười khi nhìn tôi. "Nhà tôi, hẳn thế --" tôi dán mắt vào cái thánh giá vàng trên cổ áo Fraulein Muller. Tôi không dám liều lĩnh giải thích. Bà ấy sẽ rú lên và té xỉu. "Chỉ có điều, chúng tôi quen ngủ hai phòng," tôi nói."Mỗi người một phòng, ý của tôi là thế."
    Fraulein Muller lắc đầu phản đối. "Hai phòng ngủ, khi đã cưới nhau -- hẳn là phong trào hiện nay."
    "Không phải thế," tôi nói trước khi bà bắt đầu nghi ngờ. "Chả là nhà tôi rất khó ngủ. Chẳng may, tôi lại ngáy khá to."
    "Ach, phải rồi, cậu ngáy," Fraulein Muller nói, như thể đã đoán biết từ lâu.
    Tôi đang lo, không hiểu bà sẽ cho tôi một phòng trên lầu hay không, nhưng rõ ràng, hôn nhân rất mực thiêng liêng với bà. Bà mở cửa sang một phòng nhỏ bên cạnh, trong ấy không bày biện món gì, ngoại trừ một cái giường.
    "Hay tuyệt," tôi nói, "thế thì tuyệt hảo. Nhưng liệu tôi có làm phiền ai không?" tôi muốn biết, nếu chỉ có một mình chúng tôi ở tầng trệt này.
    "Cậu sẽ không làm phiền ai," Fraulein Muller nói, vẻ oai vệ biến mất. "Ngoại trừ cô cậu ra, không có một mống nào. Tất cả mọi phòng đều trống khách." Bà đứng lặng một chốc, rồi lấy lại uy nghi cũ. "Cô cậu muốn ăn tại đây hay ở ngoài phòng ăn?"
    "Tại đây," tôi nói.
    Bà gật đầu và đi ra.
    "Úi, bà Lohkamp ơi," tôi nói với Pat. "Thế cũng xong. Nhưng anh không bao ngờ được, cái ngữ ấy lại mộ đạo đến thế. Dường như bà ta không thích anh thì phải. Cũng lạ, bởi anh thường được mấy bà già quý mến."
    "Không phải bà già, Robby. Một cô gái già dễ thương."
    "Dễ thương?" tôi nhún vai. "Bà ấy không biết thẹn -- cao cả, kiêu kỳ đến thế, mà lại chẳng có con ma nào ở trọ!"
    "Bà ấy có kiêu kỳ đâu."
    "Không có với em."
    Pat cười to. "Em thích bà ấy. Nhưng bây giờ, ta nên khuân hành lý vào và lấy quần áo tắm ra chứ?
    Tôi bơi chừng một tiếng rồi lên phơi nắng trên bờ. Pat vẫn tắm dưới biển. Cái nón trắng của nàng nhấp nhô trên những ngọn sóng xanh. Vài con hải âu lượn tròn trên không. Phía chân trời, một chiếc tàu chậm chạp đi tới, một làn hơi nước kéo theo sau.
    Mặt trời cháy bỏng. Nó làm chảy mềm từng chống đối, khiến chúng trở thành buông thả, hời hợt và ngầy ngật. Tôi nhắm mắt, xoãi chân tay. Cát nóng lèo xèo. Tiếng sóng vỗ bờ xào xạc bên tai, khiến tôi nhớ lại một điều gì đó, một ngày đã xa, tôi cũng nằm như thế ...
    Đó là mùa hè, 1917. Đại đội của chúng tôi lúc ấy đóng tại Flanders và thình lình chúng tôi được mấy ngày phép ở Ostend -- Meyer, Holthoff, Bryer, Lutgens, tôi và vài người khác. Hầu hết mọi người chưa từng thấy biển, và những ngày hiếm hoi ấy -- một khoảng lặng không ngờ giữa hai đầu nỗi chết -- đã được tận hiến cho mặt trời, cát và biển. Chúng tôi ở lỳ suốt ngày trên bãi, phơi trần dưới nắng -- để có cảm giác nhẹ nhõm, không quân nhu, không súng trường, không áo trận, và hầu như đạt đến bình an. Chúng tôi đuổi bắt nhau trên cát và nhảy ùm xuống nước; chúng tôi ý thức về tay chân, về hơi thở, về những cử động, với tất cả sức sống mãnh liệt đang có -- bởi trong những giờ phút ấy, chúng tôi quên tất cả, và chúng tôi muốn quên. Nhưng buổi tối, khi hoàng hôn xuống, khi mặt trời đã lặn và bóng xám từ chân trời lan ra khắp mặt nước xanh xao, tuần tự pha trộn ở đấy cùng với tiếng gầm của sóng một tiếng động khác, lớn dần và cuối cùng nhấn chìm nó -- một âm thanh ầm ì, đáng sợ: trận mưa bom ngoài Tiền Tuyến. Rồi đột ngột, sự im lặng tím tái cắt ngang câu chuyện, người ta ngước lên trời nghe ngóng, và từ gương mặt tươi vui của các cậu học trò, mệt mỏi vì chơi đùa, bỗng lộ ra bộ mặt cứng rắn của người lính, sững sờ trong phút chốc, một nỗi buồn ẩn tàng những điều không bao giờ thổ lộ --lòng can đảm, nỗi cay đắng và tham lam của cuộc đời, ý chí tuân hành nhiệm vụ, niềm tuyệt vọng, lòng hy vọng và nỗi buồn bí ẩn của những người đã sớm được chỉ định cho cái chết. Rồi, vài ngày sau, cuộc Tổng Tấn Công bắt đầu, và đến mùng ba tháng Bảy, đại đội chỉ còn lại ba mươi hai người, và Meyer, Holthoff và Lutgens đã chết...
    "Robby!" Pat gọi.
    Tôi mở mắt. Trong một thoáng, tôi phải định thần xem mình ở đâu. Lúc nào cũng vậy, khi kỷ niệm của chiến tranh ùa về, hồn ta cứ lâng lâng nơi nao. Với những kỷ niệm khác, thì lại không như thế.
    Tôi ngồi dậy, Pat từ dưới nước đi lên. Nàng gần như lọt trong luồng nắng từ mặt trời rọi xuống nước, huy hoàng phủ trên bờ vai, và nàng ngập sâu trong ánh sáng đến nỗi có vẻ đen sậm so với nó. Theo từng bước chân, nàng nhô cao dần cho đến khi mặt trời buổi chiều khuất sau đầu nàng như một vòng hào quang.
    Tôi nhảy cẫng lên, thật siêu thực, thật rõ ràng đến đổi bức tranh trước mắt tôi như đến từ một thế giới khác --nền trời bao la, xanh ngát, bọt trắng viền ngọn sóng, và thân hình yêu kiều mảnh khảnh của nàng bên trên đó -- như chỉ có một mình tôi ở trái đất và từ dưới biển bước lên người đàn bà đầu tiên. Trong một chốc, tôi cảm thấy sức mạnh lộng lẫy im lìm của cái đẹp, và tôi biết nó mạnh hơn tất cả quá khứ nhuộm máu, nó phải mạnh hơn, nếu không thế giới sẽ sụp đổ, đắm chìm và hủy diệt trong mớ bòng bong của chính nó. Hơn thế, tôi còn có cảm tưởng rằng, chỉ đơn giản là, tôi ở đó, và Pat ở đó, rằng tôi đang sống, rằng tôi đã thoát khỏi chốn kinh hoàng, rằng tôi có đầy đủ mắt mủi tay chân và tư tưởng và nhiệt huyết, và rằng tất cả những thứ ấy quả thật là một phép mầu ngoài tầm hiểu biết của con người.
    "Robby!" Pat lại gọi và vẫy tay.
    Tôi nhặt manh áo choàng của nàng và bước nhanh đến. "Em ngâm nước quá lâu," tôi nói.
    "Em vẫn thấy ấm," nàng nói, thở dốc.
    Tôi hôn bờ vai ướt. "Em cần phải điều độ ngay từ đầu."
    Nàng lắc đầu và rạng rỡ nhìn tôi. "Em đã sống điều độ quá đủ."
    "Em nghĩ vậy?"
    "Dĩ nhiên. Quá đủ. Em định em sẽ không giữ điều độ nữa, thử thay đổi xem sao."
    Nàng cười và áp một bên má ướt lên mặt tôi. "Chúng ta sẽ không thèm sống chừng mực nữa, Robby. Không nghĩ ngợi về một điều gì, tuyệt đối không, chỉ bản thân chúng ta và mặt trời, mùa lễ và biển cả."
    "Em nói đúng," tôi nói, và cầm cái khăn tắm. "Nhưng trước hết anh phải lau cho em. Thế nhưng, em đi đâu mà da đã nâu hồng?"
    Nàng kéo áo choàng lên. "Đó là những năm sống điều độ, khi em phải phơi nắng ở ban -công mỗi ngày một giờ. Và lên giường mỗi tối đúng tám giờ. Tám giờ tối nay, em sẽ tắm nữa."
    "Để xem," tôi nói. "Con người luôn có những dự tính lớn lao. Khi thực hành lại không bằng. Cái duyên của họ nằm ở đó."
    Không tắm biển buổi tối. Chúng tôi đi bộ vào làng và lái chiếc Citroen trong ánh chiều tà -- đột nhiên Pat thấy mệt và muốn về. Tôi đã để ý thấy chuyện đó thường xảy ra cho nàng -- sức sống rạng ngời nhanh chóng kiệt quệ. Nàng yếu ớt và dễ mệt - tuy nhiên khi nhìn nàng, ta không hề có cảm tưởng ấy. Nàng luôn luôn tận dụng từng sớ nhỏ nguồn sinh lực của mình và với vẻ thanh xuân, trông như không thể nào kiệt sức; rồi thình lình đến một lúc, gương mặt của nàng trở nên xanh xao và đôi mắt trũng sâu với quầng đen -- thế là xong. Nàng không mệt mỏi từ từ, mà trong một giây.
    "Chúng mình lái về nhà đi, Robby," nàng yêu cầu, và giọng nói u buồn của nàng trầm hơn bình thường.
    "Về nhà? Về Fraulein Muller với cái thánh giá vàng trên ngực? Ai mà biết cái bà già quỷ quái ấy đang âm mưu gì?"
    "Nhà, Robby," Pat nói và mệt mỏi ngã vào vai tôi. "Đó là nhà của chúng ta."
    Tôi lái bằng một tay, còn tay kia choàng qua vai nàng. Và cứ thế chúng tôi lái chầm chậm trong hoàng hôn xanh, mù sương, và cuối cùng khi nhìn thấy những cửa sổ sáng đèn của ngôi nhà nhỏ, thu mình trong khoảng trống của thung lũng như một con thú buồn, quả tình có một điều gì đó giống như ta quay trở về tổ ấm.
    Fraulein Muller chờ sẳn. Bà đã thay y phục và thay vì chiếc áo đen bằng len, bà mặc một chiếc áo lụa đen, cắt cùng một kiểu thanh giáo. Và thay cho cái thánh giá vàng là một huy hiệu gồm ba thứ: trái tim, mỏ neo và thánh giá -- biểu tượng tôn giáo của niềm tin, hy vọng, và tình yêu.
    Rõ ràng bà tỏ ra thân thiện hơn chiều nay và bà hỏi rằng món trứng, thịt nguội và cá hun khói mà bà chuẩn bị cho bửa ăn tối có đúng ý chúng tôi không.
    "Chắc là có," tôi nói.
    "Cậu không thích sao? Cá bơn vừa hun khói." Bà nhìn tôi, khá lo ngại.
    "Dĩ nhiên," tôi nói, lạnh nhạt.
    "Cá bơn vừa hun khói nghe ngon lắm," Pat nói, nhìn tôi trách móc. "Một bửa ăn tối tuyệt hảo, đúng như ý muốn của người ta sau ngày đầu tiên ở biển, Fraulein Muller ạ. Và nếu như có thêm trà nóng nữa thì ---"
    "Vâng, hẳn rồi. Trà ngon nóng. Hân hạnh. Tôi sẽ cho người mang ra ngay, " Fraulein Muller, bớt lo âu, vội vàng đi ra, tà áo lụa sột soạt.
    "Anh không thích ăn cá sao?" Pat hỏi.
    "Anh mà không thích? Lại là cá bơn nữa chứ! Anh đã mơ tưởng tới chúng nhiều ngày qua."
    "Vậy tại sao anh lại hành động như vậy? Có phần quá đáng!"
    "Anh phải trả thù cách bà ấy đón tiếp chúng ta lúc chiều, phải không?"
    "Choáng thật!" Pat cười. "Anh không bao giờ tha thứ cho ai sao? Em đã quên chuyện ấy từ lâu."
    "Anh chưa quên," tôi nói. "Anh không quên dễ dàng như thế."
    "Vậy anh cần phải quên," Pat đáp.
    Bà giúp việc mang khay thức ăn đến. Những con cá bơn da vàng như hoàng ngọc và thơm mùi biển và khói. Lại có cả tôm tươi.
    "Anh bắt đầu quên rồi đó," tôi hăm hở nói. "Anh nhận thấy, ngoài ra, anh lại còn đói bụng khủng khiếp."
    "Em cũng thế. Tuy nhiên trước tiên, cho em xin, mau lên, trà nóng. Lạ lắm, nhưng em đang lạnh cóng người. Mà bên ngoài trời vẫn ấm."
    Tôi nhìn nàng. Nàng xanh xao, dù mỉm cười. "Anh không nói một tiếng nào hết, về chuyện em tắm quá lâu," tôi nói, và hỏi bà giúp việc: "Chị có rum không?"
    "Cái gì?"
    "Rum. Một thứ thức uống đóng chai."
    "Rum?"
    "Vâng."
    "Hả?"
    Bà ấy há hốc mồm nhìn, gương mặt phì phị, tròn vành vạnh như trăng.
    "Hả?" bà ấy hỏi, một lần nữa.
    "Tốt," tôi trả lời. "Thôi đừng để ý. Chào chị. Xin Chúa ban phước lành cho chị."
    Bà ấy biến mất. "Thật may, Pat, chúng ta có một người bạn biết lo xa," tôi nói. "Sáng nay khi khởi hành, Lenz đã thẩy vào xe một cái gói khá nặng. Hãy xem coi trong ấy có gì."
    Tôi ra xe lấy gói quà. Đó là một thùng nhỏ đựng bốn chai rum, một chai cognac và một chai port. Tôi dơ chúng lên cao. "Rum hiệu St. James nữa cơ! Các cậu ấy thật xứng đáng với lòng tin của ta."
    Tôi khui các chai rượu và rót khá nhiều vào tách trà của nàng. Tay nàng run rẩy. "Em lạnh đến mức đó à?" tôi hỏi.
    "Tạm thời thôi. Đã khá hơn lúc nãy. Rum ngon lắm. Nhưng em sẽ lên giường sớm."
    "Ngay bây giờ, Pat ạ," tôi nói. "Mình có thể đẩy cái bàn vào và ăn tại đó."
    Nàng bằng lòng. Tôi đem đến cho nàng một cái mền khác, lấy từ giường của tôi. Và tôi đẩy cái bàn vào đúng vị trí. "Có lẽ em cần một ly Grog, Pat? Như thế vẫn tốt hơn. Anh có thể pha một ly rất nhanh."
    Nàng lắc đầu. "Em thấy khỏe lại rồi."
    Tôi liếc nàng. Quả thực nàng trông khỏe hẳn. Mắt long lanh trở lại, môi đỏ au và làn da tươi sáng.
    "Không thể ngờ kết quả nhanh thế," tôi nói. "Nhờ rum, chắc vậy."
    Nàng mỉm cười. "Nhờ cái giường nữa, Robby. Trên giường, em hồi phục nhanh. Giường là chỗ an trú của em."
    "Tuyệt vời. Anh sẽ phát điên nếu anh phải lên giường sớm. Một mình, ý của anh là vậy."
    Nàng cười. "Với phụ nữ, lại khác."
    "Đừng nói là với một phụ nữ. Em không phải là một người đàn bà."
    "Vậy em là ai?"
    "Anh không biết. Nhưng không phải là một người đàn bà, Nếu em là một người đàn bà chuẩn mực, anh sẽ không thể yêu em."
    Nàng nhìn tôi. "Dù sao đi nữa, anh có thể yêu không?"
    "Ơ," tôi nói, "đó là một câu hỏi rất hay trong giờ ăn tối. Em còn câu hỏi nào tương tự nữa không?"
    "Có lẽ có. Nhưng câu này thì sao?"
    Tôi rót cho mình một ly rum. "Pros't, Pat. Có lẽ em đúng. Có lẽ không một ai trong chúng ta có thể yêu. Không như ngày xưa, anh muốn nói thế. Nhưng không phải vì vậy mà tệ hơn. Chỉ là khác biệt. Chúng ta không còn thấy như thế nữa."
    Có tiếng gõ cửa. Fraulein Muller đi vào. Bà cầm một cái bình thủy tinh bé như ngón tay chỉ có một giọt chất lỏng sóng sánh dưới đáy. "Tôi đem rum đến cho cô cậu."
    "Cám ơn," tôi nói, vô cùng xúc động và ngắm cái đê thủy tinh. "Thật quý hóa, nhưng chúng tôi đã tự lo liệu."
    "Trời ơi!" Bà mất hồn, trố mắt nhìn bốn chai rượu trên bàn. "Cô cậu uống hết ngần ấy sao?"
    "Để chửa bệnh thôi," tôi nhẹ nhàng nói và tránh nhìn vào mắt Pat. "Uống theo toa bác sĩ. Gan của tôi khô quá, Fraulein Muller ạ. Nhưng cho tôi hân hạnh được mời bà nhé?"
    Tôi khui chai port. "Mừng sức khỏe của bà! Xin chúc nhà trọ được đông khách."
    "Rất cảm ơn." Bà thở dài, khẻ cúi chào và nhấp từng chút rượu, nhỏ nhẹ như một con chim. "Ngày lễ vui nhé!" Rồi bà mỉm cười nhìn tôi, ra vẻ hiểu biết. "Rượu mạnh. Và ngon lắm."
    Ly rượu trong tay tôi suýt nữa rơi tuột trước chuyển biến này. Gò má Fraulein Muller ửng hồng, mắt long lanh và bà bắt đầu chỉ dạy những chuyện mà chúng tôi chẳng mấy quan tâm. Với bà, Pat có lòng nhẫn nại của một thiên thần. Cuối cùng, Fraulein quay lại tôi.
    "Herr Koster vẫn khỏe chứ?"
    Tôi gật đầu.
    "Thuở đó, cậu ấy rất lặng lẽ," bà nói. "Có khi suốt ngày chẳng nói một tiếng nào. Bây giờ cậu ấy vẫn như thế?"
    "Thỉnh thoảng anh ấy có trò chuyện."
    "Cậu ấy sống ở đây gần một năm. Một mình --"
    "Vâng," tôi nói. "Lúc đó người ta có khuynh hướng nói ít hơn."
    Bà long trọng gật đầu, rồi nhìn qua Pat. "Chắc cô mệt lắm."
    "Hơi mệt ạ," Pat nói.
    "Mệt vô cùng," tôi xen vào.
    "Vậy, tất nhiên tôi sẽ lui ra," bà giật mình đáp. "Tạm biệt cô cậu, ngủ ngon nhé."
    Bà ngập ngừng bước đi.
    "Anh nghĩ bà ấy còn muốn ngồi lại," tôi nói. "Lạ nhỉ, đột nhiên thay đổi, tại sao?"
    "Tội nghiệp bà ấy," Pat trả lời. "Đêm đêm cô đơn trong phòng, em chắc vậy, lo âu."
    "Ach, thế đấy
    "Vâng," nàng vuốt tóc tôi. "Hé cửa dùm em, Robby."
    Tôi ra mở cửa. Ngoài kia, trời trong hơn và một mảng trăng rơi trên lối đi, len vào phòng. Như thể vườn hoa đã chờ sẳn đến khi cửa mở -- hương đêm của những loài hoa lập tức ùa vào, mùi quế trúc, mộc tê và hồng hoa thơm ngát.
    "Nhìn kìa em," tôi nói, trỏ tay.
    Dưới ánh trăng ta có thể thấy trọn vẹn lối đi trong vườn. Những thân hoa gục đầu hai bên lề, lá ánh màu bạc cũ, và những bông hoa tươi thắm lúc ban ngày nay ngã sang màu phấn tiên, óng ánh, ma quái và nhàn nhạt. Đêm và trăng đã đánh cắp sức mạnh của sắc màu của chúng -- nhưng bù lại, hương nồng hơn, ngọt hơn.
    Tôi nhìn qua Pat. Tóc huyền xõa trên nền gối trắng, Pat mềm mại, thanh nhã và mong manh. Nàng không có nhiều sức mạnh -- nhưng nàng cũng có sự bí ẩn của một thứ gì dễ tàn phai, bí ẩn của những bông hoa trong hoàng hôn và dưới ánh trăng lung linh.
    Nàng nhỏm người lên. "Em mệt vô cùng, Robby. Tệ quá anh nhỉ?"
    Tôi ngồi trên giường, cạnh nàng. "Không đâu. Em sẽ ngủ yên."
    "Nhưng anh đâu đã muốn đi ngủ?"
    "Anh sẽ đi dạo ở bãi biển trước vậy."
    Nàng gật đầu và ngã mình xuống. Tôi ngồi đó một lúc.
    "Anh cứ để cửa mở suốt đêm nhé," nàng nói, đã say ngủ. "Như thế giống như ngủ trong vườn."
    Hơi thở của nàng sâu dần và tôi nhẹ nhàng đứng lên và đi ra vườn. Tôi đứng bên hàng rào gỗ và hút một điếu thuốc. Ở đó, tôi có thể nhìn vào phòng. Áo tắm của Pat móc trên ghế, áo đầm và mấy thứ đồ lót vứt trên đấy, và dưới đất phía trước ghế là đôi giày của nàng. Một chiếc lật nghiêng. Tôi có cảm giác như đang ở nhà khi nhìn quang cảnh ấy, và nghĩ rằng, it nhất bây giờ cũng có ai đó ở đó và sẽ ở đó, rằng tôi chỉ cần bước vài bước là có thể gặp nàng và được ở bên nàng, hôm-nay, ngày-mai, và có lẽ cả một đời --
    Có lẽ, tôi nghĩ, có lẽ -- lúc nào cũng hai chữ đó, người ta không thể tránh được. Chúng ta thiếu sự chắc chắn, mọi người và mọi thứ đều thiếu sự chắc chắn.
    Tôi ra bãi biển, đến với đại dương và gió, đến với âm thanh ầm ì với tiếng dội như tiếng bom từ xa vọng lại.


    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 16

    Tôi ngồi ở bãi biển, ngắm mặt trời lặn. Pat không ra. Cả ngày hôm nay, nàng không khỏe lắm.
    Trời tối dần, tôi đứng dậy đi về. Vừa khi ấy, qua rừng cây, tôi nhìn thấy bà giúp việc đang lúp xúp chạy tới. Bà huơ tay ra dấu và la hét một điều gì đó. Tôi không hiểu; tiếng gió và biển quá lớn. Tôi vẫy tay cho bà ấy đứng lại; tôi sẽ chạy tới chỉ trong một phút. Nhưng bà ấy tiếp tục, tay chụm quanh miệng.
    "Vợ ông ..." tôi nghe. "Nhanh lên ..."
    Tôi phóng tới. "Chuyện gì thế?"
    Tôi cuống cuồng chạy thục mạng trên con đường cát xuyên qua cánh rừng thưa dẫn về nhà trọ. Cổng rào gỗ bị kẹt; tôi nhảy qua và ào vào phòng. Pat nằm đó, ngực đẫm máu, tay nắm chặt, máu trào ra từ miệng. Fraulein Muller đứng cạnh, với khăn lông và một chậu nước.
    "Cái gì thế?" tôi la lên, đẩy bà sang một bên.
    Bà nói một câu gì đó. "Đem bông băng lại!" tôi khóc. "Vết thương ở chỗ nào?"
    Bà nhìn tôi, môi run rẩy. "Không có vết thương ..."
    Tôi cứng người. "Thổ huyết," bà nói.
    Tôi có cảm giác bị búa bổ. "Thổ huyết?" Tôi đứng lên, giật thau nước khỏi tay bà. "Đem nước đá tới, mau lên, nước đá."
    Tôi nhúng khăn vào chậu nước, và trải trên ngực Pat.
    "Nhà không có nước đá," Fraulein Muller nói.
    Tôi quay ngoắt lại. Bà thụt lùi. "Nước đá, khổ quá bà ơi! Chạy ra quán rượu gần nhất. Và gọi điện cho bác sĩ ngay lập tức."
    "Nhưng chúng tôi không có điện thoại ..."
    "Quỷ thần ơi! Chỗ nào gần đây có điện thoại?
    "Nhà Massmann."
    "Đi ngay. Nhanh lên! Gọi điện cho bác sĩ gần nhất. Bác sĩ tên gì? Nhà ở đâu?"
    Trước khi bà kịp trả lời, tôi đẩy bà. "Mau lên, mau lên, cố chạy thật mau. Bao xa vậy?"
    "Ba phút," bà nói và lật đật đi ra.
    "Đem nước đá về nhé," tôi gọi vói theo.
    Bà gật đầu và chạy đi.
    Tôi lấy thêm nước và một lần nữa nhúng khăn vào. Tôi không dám động tới Pat. Tôi không biết nàng nằm như thế là đúng cách hay không; tôi tuyệt vọng vì tôi không biết điều tôi cần biết -- nên lót gối dưới đầu nàng, hay để nàng nằm thẳng.
    Nàng nấc nghẹn, rồi trỗi dậy và phun ra một bụm máu. Hơi thở eo éo như tiếng khóc, đôi mắt hoảng loạn, nàng nuốt và nghẹn và ho, và máu lại phún ra. Tôi ôm chặt nàng, một tay luồn dưới vai. Tôi cảm nhận phiến lưng rung giật, vật vã-- thời gian như kéo dài vô tận. Rồi nàng lả ra, mềm nhũn.
    Fraulein Muller bước vào. Bà nhìn tôi, và trông như một bóng ma.
    "Chúng ta phải làm sao bây giờ?" tôi gào lên.
    "Bác sĩ sẽ đến ngay," bà thì thầm."Nước đá ... đặt lên ngực cô ấy -- và trong miệng, nếu cậu có thể ..."
    "Dựng cô ấy dậy hay để cô ấy nằm? Chúa ơi, bà làm ơn nói nhanh hơn một chút được không?"
    "Y như thế, để cô ấy nằm -- bác sĩ tới liền bây giờ."
    Tôi chườm đá vụn lên ngực Pat, và bớt lo âu, vì rồi ra tôi cũng làm được một điều gì. Tôi đập cho đá vỡ, bọc trong gạc thưa và đặt chúng lên, nhưng lúc nào tôi cũng chỉ nhìn thấy hình ảnh của đôi môi yêu dấu, đôi môi thống khổ, đôi môi, đôi môi ứa máu ...
    Kìa, tiếng nổ bành bạch của một chiếc mô tô. Tôi nhảy lên. Bác sĩ.
    "Tôi có thể giúp gì không?" tôi hỏi. Bác sĩ lắc đầu và mở túi cứu thương. Tôi đứng bên giường cạnh ông, tay nắm cứng cọc giường. Ông nhìn lên. Tôi lùi lại, mắt vẫn dán chặt vào ông. Ông khám lồng ngực Pat. Pat rên khẻ.
    "Có nguy hiểm không bác sĩ ?" tôi hỏi.
    "Vợ cậu điều trị ở đâu vậy?" ông trả lời.
    "Cái gì? Điều trị?" tôi lắp bắp.
    "Ai là bác sĩ của cô ấy?" ông ta nóng nẩy hỏi.
    "Tôi không biết ..." tôi trả lời. "Không, tôi không biết gì cả ... tôi không tin là ..."
    Ông nhìn tôi. "Nhưng cậu phải biết."
    "Nhưng tôi không biết. Cô ấy không bao giờ nói cho tôi biết gì cả."
    Ông cúi xuống, hỏi Pat. Nàng cố trả lời. Nhưng một lần nữa, cơn ho đỏ thắm lại bật ra. Bác sĩ nâng nàng lên. Nàng hớp từng ngụm không khí và thở khò khè, mệt nhọc.
    "Jaffé," nàng hổn hển nói, ồng ộc.
    "Felix Jaffé? Giáo sư Felix Jaffé?" bác sĩ hỏi. Đôi mắt nàng xác nhận. Ông quay lại tôi. "Cậu gọi điện thoại cho giáo sư được không? Có thể mời giáo sư đến không?"
    "Vâng, vâng," tôi trả lời. "Tôi sẽ gọi ngay. Rồi tôi sẽ đi đón ... Jaffé?"
    "Felix Jaffé," bác sĩ nói. "Hỏi nhân viên tổng đài số điện thoại của ông ấy."
    "Liệu cô ấy có qua khỏi không, bác sĩ ?" tôi tiếp tục hỏi.
    "Cần phải ngừng thổ huyết," bác sĩ nói.
    Tôi tìm thấy bà giúp việc và khởi chạy trên đường làng. Bà chỉ tôi căn nhà có điện thoại. Tôi hộc tốc chạy đến, gõ cửa. Một nhóm người đang quây quần uống cà phê và bia. Tôi liếc nhìn họ và không thể hiểu vì sao người ta lại có thể uống bia trong khi Pat đang xuất huyết. Tôi xin tổng đài gọi khẩn và đứng chờ bên điện thoại. Trong khi lắng nghe tiếng u u của bóng tối, tôi nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ, sống động qua phần kính lắp trên cánh cửa đi vào một căn phòng khác. Một cái đầu hói nhấp nhô tới lui, vàng vọt dưới ánh đèn, một cái kim cài áo trên lớp gấm đen của một cái áo đăng ten thít chặt, một cái càm đôi với cặp kính kẹp mủi và búi tóc cao ngất ngưởng -- một bàn tay già nua xương xẩu gân thô gõ nhịp trên bàn ... tôi không muốn nhìn, nhưng chẳng đặng đừng; nó cứ xoáy vào mắt tôi như một nguồn ánh sáng chói lòa.
    Cuối cùng tôi cũng được trả lời. Tôi xin gặp giáo sư. "Rất tiếc," bà y tá nói. "Giáo sư Jaffé đã ra ngoài."
    Tim tôi ngừng đập, rồi nện thình thịch như búa tạ. "Giáo sư đang ở đâu? Tôi cần phải nói chuyện với giáo sư ngay bây giờ."
    "Tôi không biết. Giáo sư có thể đang ở bệnh viện."
    "Xin sơ làm ơn gọi đến bệnh viện. Tôi sẽ đợi. Sơ có điện thoại khác, hẳn thế?"
    "Xin chờ một chút." Tiếng gầm rú lại bắt đầu, bóng tối không đáy, bên trên là một sợi kim loại mỏng đong đưa. Tôi giật nảy mình. Trong lồng chim phủ khăn bên cạnh tôi, một con hoàng yến ríu rít. Lại có tiếng của bà sơ. "Giáo sư Jaffé vừa rời bệnh viện."
    "Đi đâu?"
    "Tôi không thể nói, thưa ông."
    Thua. Tôi dựa lưng vào vách.
    "A-lô!" bà sơ hỏi. "Ông vẫn còn đó?"
    "Vâng. Xin hãy nghe -- sơ không biết khi nào giáo sư trở lại?"
    "Không thể biết."
    "Giáo sư không dặn dò gì sao? Hẳn giáo sư phải nói cho ai biết chứ! Nhỡ có chuyện gì xảy ra, ta mới có thể tiếp xúc với giáo sư, phải không?"
    "Có bác sĩ trực ở bệnh viện."
    "Sơ có thể nào ... không, như thế cũng chẳng ích gì, bác sĩ ấy cũng chẳng biết gì ... Thôi được, sơ ạ," tôi nói, rã rời như chết. "Nếu giáo sư Jaffé trở lại, xin giáo sư vui lòng gọi liền cho tôi, khẩn cấp." Tôi đọc cho sơ y tá số điện thoại. "Tối khẩn, xin sơ làm ơn nói dùm. Một vấn đề sống chết."
    "Ông có thể tin tưởng nơi tôi, thưa ông. " Bà lập lại số điện thoại rồi cúp máy.
    Tôi đứng đó, một mình. Những cái đầu đung đưa, mảng trán hói, cái kim cài áo, căn phòng kia, tất cả nhẳn thín như cao su, xa diệu vợi. Tôi nhìn quanh. Tôi không thể làm gì thêm, ở đây. Chỉ còn nói với họ, xin nhắn tôi nếu có ai gọi. Nhưng tôi không đành lòng rời khỏi điện thoại. Như thể buông bỏ dây cứu hộ. Bỗng nhiên tôi hiểu ra. Tôi cầm ống nghe và xin số của Koster. Chắc anh ấy đang có mặt ở đó. Không thể nào khác hơn.
    Và rồi, trong cơn náo nhiệt đêm nay, giọng nói trầm lặng của Koster vang lên. Và tôi lập tức bình tỉnh, và tôi kể tất cả cho anh nghe. Tôi biết anh ghi chép lại.
    "Được rồi," anh nói. "Tớ sẽ đi tìm ông ấy ngay. Tớ sẽ gọi lại. Đừng lo, tớ sẽ tìm được ông ấy."
    Đã xong? Trái đất ngừng quay. Lời nguyền đã giải. Tôi chạy về.
    "Sao?" ông bác sĩ hỏi, "cậu tìm được ngài giáo sư chứ?"
    "Không," tôi nói, "nhưng tôi nói chuyện với Koster."
    "Koster? Chưa bao giờ nghe đến tên này. Ông ấy nói gì? Cách chữa trị của ông ấy ra sao?"
    "Chữa trị? Anh ấy có chữa chạy gì đâu. Anh ấy đi tìm một người."
    "Tìm ai?"
    "Jaffé."
    "Lạy Chúa tôi -- vậy Koster là ai?"
    "Ach so -- xin lỗi! Koster là bạn tôi. Anh ấy đi tìm giáo sư Jaffé. Tôi không gặp được Jaffé."
    "Thật đáng tiếc!" ông bác sĩ nói, và quay lại Pat.
    "Anh ấy sẽ tìm được ông ta," tôi nói. "Nếu ông ta chưa chết, anh ấy sẽ tìm được."
    Ông bác sĩ nhìn tôi như thể tôi điên lắm, rồi nhún vai.
    Ánh đèn bao phủ căn phòng. Tôi hỏi tôi có thể làm được gì không. Bác sĩ lắc đầu. Tôi chăm chú nhìn ra cửa sổ. Pat lại mắc nghẹn. Tôi đóng cửa sổ và đứng ở ngạch cửa. Tôi canh chừng con đường.
    Bất thình lình tôi nghe tiếng la. "Có điện thoại!"
    Tôi quay ngoắt lại. "Điện thoại! Tôi có nên đi không?"
    Bác sĩ nhảy lên. "Không, để tôi đi. Tôi nói chuyện với ông ấy dễ hơn. Cậu ở đây. Đừng làm gì nhé. Tôi sẽ sớm trở lại."
    Tôi ngồi trên giường, cạnh Pat. "Pat," tôi âu yếm nói, "có bọn anh. Bọn anh sẽ chăm sóc em! Không để em bị hại. Không để cho thứ gì xâm phạm đến em. Giáo sư đang nói chuyện. Ông ấy sẽ chỉ dẫn chúng ta. Ngày mai ông ấy sẽ tới đây. Bọn anh đã lo liệu xong. Ông ấy sẽ giúp em. Em sẽ lành bệnh. Sao em không bao giờ nói cho anh biết là em mắc bệnh? Một chút xíu máu không ăn thua gì, Pat. Bọn anh sẽ đền lại. Koster đã tìm được giáo sư, Pat. Chúng ta sẽ ổn thôi."
    Bác sĩ trở lại. "Không phải giáo sư."
    Tôi đứng lên.
    "Một người bạn của cậu -- Lenz."
    "Koster chưa tìm được ông ấy?"
    "Tìm được rồi. Jaffé đã dặn cậu ấy những việc cần làm. Lenz, bạn của cậu, chuyển lời lại cho tôi. Rõ ràng và chính xác lắm. Thế bạn cậu là bác sĩ à?"
    "Không ạ. Anh ấy muốn thành bác sĩ. Còn Koster thì sao?"
    Bác sĩ nhìn tôi. "Lenz nhờ tôi nói với cậu, Koster đã lên đường mấy phút trước. Với ngài giáo sư. Hai giờ nữa, ông ấy sẽ tới."
    Tôi dựa vào thành giường. "Otto," tôi nói.
    "Vâng," bác sĩ đáp, "đó là điều sai lầm của cậu ấy. Tôi biết đường xá ở đây. Nhanh lắm cũng phải hơn ba giờ. Tuy thế ..."
    "Nếu anh ấy nói hai giờ, thì bác sĩ có thể tin được, anh ấy sẽ có mặt ở đây trong hai giờ."
    "Không thể nào. Đường ngoằn ngoèo, và hơn nữa, trời đã tối."
    "Bác sĩ sẽ thấy," tôi nói.
    "Dù sao chăng nữa ... nếu ông ấy đến được ... thì tốt lắm ..."
    Cuối cùng tôi không chịu nỗi. Tôi đi ra ngoài đồng trống. Trời đã có sương mù. Sóng biển vỗ ì ầm đàng xa. Sương móc rơi từ cành lá. Tôi nhìn quanh. Tôi không còn cô độc nữa. Về hướng nam, xa tít ngoài chân trời, đâu đó có một động cơ đang gầm rú. Xa vút ngoài màn sương, sự giúp đỡ đang bon bon trên những nẽo đường nhợt nhạt, đèn pha quét hai luồng sáng về phía trước, lốp xe xiết như tiếng huýt sáo và hai tay ai cứng như gọng kìm nắm chặt bánh lái, đôi mắt ai soi thủng màn đêm, sắc lạnh, hẳn nhiên rồi -- đôi mắt của một chiến hữu của tôi ...
    Về sau Jaffé kể lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra.
    Sau khi nói chuyện qua điện thoại với tôi, Koster gọi ngay Lenz để anh ấy chuẩn bị trước. Rồi anh và Lenz hộc tốc lái Karl đến bệnh viện của Jaffé. Y tá trực tin rằng ông ấy đã đi ăn tối. Bà cho Koster tên của vài tiệm ăn mà ông ấy thường lui tới. Koster lập tức lái đi. Anh không đếm xỉa gì đến tín hiệu lưu thông -- anh phe lờ đám cảnh sát dang tay múa chân. Anh luồn lách trong dòng xe cộ như một con ngựa sổng chuồng. Đến quán thứ tư, anh tìm được giáo sư. Jaffé nhớ ngay ra Pat. Ông bỏ dở bửa ăn và đi với anh. Họ về nhà ông lấy những vật dụng cần thiết. Và đó là chặng đường duy nhất mà Koster lái nhanh nhưng không lạng lách. Anh không muốn giáo sư hốt hoảng lúc ban đầu. Trên đường, Jaffe hỏi Koster chỗ Pat đang ở. Koster nói tên một nơi, cách đó khoảng bốn mươi kí lô mét. Anh muốn giáo sư chịu lên xe trước đã. Sau đó chuyện gì cần xảy ra, sẽ xảy ra. Trong lúc sắp xếp hành lý, Jaffe chỉ dẫn cách sơ cứu để Lenz nhắn lại chúng tôi. Rồi ông ngồi vào xe với Otto.
    "Có nguy kịch không?" Koster hỏi.
    "Nguy lắm," Jaffé nói.
    Từ lúc ấy trở đi, Koster biến thành một con quỷ trắng biết bay. Anh cho xe nhảy chồm lên và phóng vút đi. Anh lái xe táo tợn, leo hai bánh trên lề, chạy vào đường một chiều, tìm con đường ngắn nhất để ra khỏi thành phố.
    "Cậu có điên không vậy?" giáo sư rú lên khi Koster luồn ngay dưới cái cảng cao của một chiếc xe buýt, chựng lại một giây, rồi tiếp tục rồ máy hết ga.
    "Lái chậm lại," giáo sư rên, "có ích gì nếu ta gặp tai nạn?"
    "Ta sẽ không gặp tai nạn."
    "Chúng ta sẽ có tai nạn, trong hai phút, nếu cậu cứ lái theo kiểu này."
    Koster lạng sang trái, qua mặt một chiếc xe điện. "Không!" Giờ anh lái trên một con đường dài. Anh nhìn giáo sư. "Tôi biết tôi phải đưa giáo sư tới nơi an toàn. Giáo sư hãy tin tưởng vào tôi."
    "Nhưng chạy đua như thế để làm gì? Cậu chỉ đến sớm vài phút thôi."
    "Không," Koster nói, né một chiếc xe tải chở đầy đá; "chúng ta còn phải đi hai trăm bốn mươi kí lô mét nữa."
    "Cái gì, cậu nói sao?"
    "Đúng vậy ..." Xe chui tọt qua một khoảng trống giữa xe giao thư và xe buýt ... "Tôi không dám nói trước với giáo sư chuyện đó."
    "Không." Koster đã ra tới ngoại ô. Gió thổi bạt tiếng của anh. "Tôi đã hỏi dò -- xe lửa khởi hành rất trễ." Anh lại nhìn Jaffé.
    Có lẽ giáo sư nhận ra một điều gì đó trên mặt anh. "Cô ấy là người của cậu hả?" ông hét.
    Koster lắc đầu. Anh không trả lời thêm câu hỏi nào nữa. Anh bỏ lại những khu vườn nhỏ và lái vào miền quê trống trải. Xe chạy với vận tốc tối đa. Giáo sư co ro nép sau tấm kính chắn gió hẹp. Koster nhường cái mũ da của mình cho ông.
    Còi rú không ngừng. Rừng cây dội lại âm thanh nức nở của nó. Koster chỉ chậm lại khi băng qua những thôn làng khi cần. Đàng sau tiếng vọng như sấm của động cơ nổ, những dãy nhà tiếp nối vào nhau như bóng của một dây phơi quần áo, và xe phóng vút qua chúng, móc vội chúng vào trong vũng ánh sáng chói lòa và với tia đèn pha của nó, rồi biến mất vào màn đêm xa kia.
    Lốp xe bắt đầu gầm, rít, rên, huýt; máy xe vẫn cống hiến sức lực của nó. Koster cúi rạp người, dồn hết tâm trí vào những thứ ở phía trước, toàn thân của anh là một cái tai vĩ đại, một cái lọc lược tiếng sấm và những tiếng sột soạt rất khẻ, bởi lẽ mỗi tiếng gừ gừ hay nổ đánh độp hay kéo lê thê, có nghĩa là xâm lốp bị thủng và sự chết.
    Mặt đường trở nên trơn ướt. Trên một đoạn đầy đất sét, xe trượt đảo. Koster bắt buộc phải bớt tốc độ. Sau đó, để bù lại, anh chạy nhanh hơn ở những khúc ngoặt. Anh không lái bằng lý trí nữa, mà bằng trực giác. Đèn pha soi hai mảng ở khúc quanh; nhưng khi ta lái đến nơi thì khúc cong tối đen như mực. Koster phải phụ thêm đèn rọi, nhưng chùm tia quá nhỏ.
    Giáo sư im thin thít.
    Bất thình lình không khí lóng lánh trong ánh đèn pha; ánh sáng như nhuộm -- một màu bạc tái, một lớp voan đục. Đó là lần duy nhất, Jaffé nghe Koster chửi thề. Một phút sau, họ đã ở trong vùng sương mù dày đặc.
    Koster hạ tầm đèn. Họ bơi trong một khối bông nõn, bóng tối lặng lẽ lùi ra sau, những con ma trong biển sữa; không còn đường lộ nữa, chỉ là đoán chừng và may mắn, bóng tối lù lù nhô ra rồi nhỏ dần theo tiếng nổ của máy xe.
    Mười phút sau, khi đã ra khỏi chỗ ấy, gương mặt Koster hốc hác hẳn. Rồi một lần nữa, anh lại xả hết tốc độ, rạp người, lạnh lùng và tự chủ ...
    Trong phòng, không khí nỏng rin rít và nặng như chì.
    "Máu đã ngừng chảy chưa, thưa bác sĩ?" tôi hỏi.
    "Chưa," bác sĩ đáp.
    Pat nhìn tôi. Tôi mỉm cười. Nụ cười trở thành cái nhăn mặt đau thương. "Nửa giờ nữa," tôi nói.
    Bác sĩ nhìn đồng hồ tay. "Một giờ rưỡi, hoặc hai giờ. Trời đang mưa."
    Mưa nhỏ giọt tí tách trên các phiến lá của cành cây, bụi kiểng trong vườn. Tôi gương mắt cố nhìn qua màn đêm. Bao lâu rồi, từ khi chúng tôi, Pat và tôi, thức giấc giữa đêm, ra vườn, ngồi giữa các bụi hoa và dây leo và Pat khẻ hát một khúc ru em? Bao lâu rồi, từ khi ánh nguyệt bạch soi trên lối đi và Pat, như một con thú uyển chuyển, len lách theo, giữa những lùm cây?
    Dễ có đến lần thứ một trăm tôi đi ra cửa. Tôi biết làm như thế là vô ích; nhưng nó thâu ngắn đợi chờ. Trời mù sương. Tôi chửi thề; tôi biết điều ấy có nghĩa gì với Koster. Một con chim hót ngoài kia, trong bóng tối.
    "Nín đi," tôi gầm. Trong đầu tôi, một ý nghĩ nhoáng lên, loài chim mang điềm gỡ! "Mình nghĩ nhãm," tôi nói to. Một con bọ cánh cứng rè rè đâu đây -- nhưng nó không đến gần -- nó không đến gần. Tiếng kêu của nó đều đều; lúc ngừng -- lúc trở lại -- và trở lại lần nữa. Tôi bỗng run rẩy. Không phải bọ cánh cứng; đó là tiếng động của một chiếc xe đang chạy ở xa, quẹo ở các khúc ngoặt với tốc độ rất nhanh. Tôi đứng im như tượng -- tôi nín thở và há mồm ra để nghe cho rõ. Một lần nữa ... một lần nữa ... ánh đèn, tiếng u u the thé, như tiếng vo ve của một con ong bắp cày giận dữ ... Và bây giờ, rõ hơn, tôi có thể phát hiện tiếng máy ép -- và rồi đường chân trời, kéo dãn đến điểm tới hạn, bỗng vỡ thành một vô cực mềm mại, chôn vùi dưới nó sức mạnh và sợ hãi và kinh hoàng ...
    Tôi chạy vào. Bám lên cửa cho vững, "Họ sắp tới!" tôi kêu. "Bác sĩ, Pat, họ sắp tới! Tôi có thể nghe tiếng xe của họ!"
    Suốt đêm, bác sĩ đối xử với tôi như một người dở điên dở khùng. Nhưng ông cũng đi ra, nghe ngóng. "Có thể là xe của người khác," sau cùng, ông nói.
    "Không, tôi quen với tiếng máy xe."
    Ông nhìn tôi, bực dọc. Rõ ràng, ông nghĩ ông cũng là một người ái mộ xe hơi. Với Pat, ông kiên nhẫn và tận tụy như một người mẹ; nhưng mỗi lần tôi nhắc đến xe cộ, ông lại gườm gườm nhìn tôi qua cặp kính và chứng tỏ là ông thông thạo hơn. "Không thể được," ông nói cụt lủn và quay vào nhà.
    Tôi vẫn ở ngoài sân. Tôi rung lên vì kích động. "Karl! Karl!" tôi gọi. Tiếng ồm ồm, tiếng nỉ non liên tiếp xen nhau -- chiếc xe hẳn đã vào trong làng, chạy với vận tốc cực nhanh giữa những ngôi nhà. Tiếng rên rĩ yếu dần; nó ở đàng sau cánh rừng -- và bây giờ nó lại kêu lớn lên, dồn dập, chiến thắng -- một ngọn đèn pha qua sương mù: cặp đèn trước đầu xe; một tiếng động như sấm nổ ... Không thể nào tin được, bác sĩ ra đứng cạnh tôi. Thình lình ánh đèn chói đến nỗi lóa mắt chúng tôi và với tiếng thắng ren rét, xe ngừng lại trước cổng vườn.
    Tôi chạy ào ra. Giáo sư bước xuống xe lập tức. Ông không để ý đến tôi, mà đi thẳng tới bác sĩ. Koster theo sau.
    "Cô ấy ra sao rồi?" anh hỏi.
    "Vẫn còn thổ huyết."
    "Cô ấy sẽ ổn thôi," anh nói. "Cậu đừng lo nữa."
    Tôi không nói gì, chỉ nhìn anh ...
    "Cậu có thuốc lá không?" anh hỏi.
    Tôi đưa anh một điếu. "Thật tốt, cậu đã tới đây, Otto."
    Anh rít mấy hơi dài. "Tớ cũng hy vọng là thế."
    "Chắc cậu lái nhanh lắm?"
    "Cũng không tệ. Chỉ có một khúc sương mù."
    Chúng tôi ngồi cạnh nhau, trên ghế trong vườn và chờ.
    "Cậu có nghĩ rằng cô ấy sẽ qua khỏi không?"
    "Dĩ nhiên cô ấy sẽ sống sót. Thổ huyết không nguy hiểm đâu."
    "Cô ấy chẳng hề nói một lời về chuyện ấy với tớ."
    Koster gật đầu.
    "Cô ấy phải sống, Otto," tôi nói.
    Anh không nhìn lên. "Chúng ta hút thêm một điếu nữa," anh nói, "Tớ quên đem thuốc của tớ."
    "Cô ấy phải sống," tôi nói, "nếu không, tất cả chỉ là rác rưởi."
    Giáo sư đi ra. Tôi đứng dậy. "Tôi thề sẽ không bao giờ ngồi xe của cậu lái nữa," ông nói với Koster.
    "Xin giáo sư tha lỗi," anh nói, "nhưng cô ấy là vợ của bạn tôi."
    "Vậy thì?" Jaffé nói, nhìn tôi.
    "Cô ấy khỏe chưa, thưa giáo sư ?" tôi hỏi.
    Ông lạnh lùng nhìn tôi. Tôi lẫn tránh mắt ông.
    "Thế cậu nghĩ, tôi có thể đứng đây nếu cô ấy chưa khỏe hay sao?"
    Tôi cắn môi. Tôi nắm chặt hai bàn tay. Lệ dâng đầy mắt tôi.
    "Xin giáo sư thứ lỗi," tôi nói, "nhưng giáo sư xong việc quá nhanh."
    "Không bao giờ đủ nhanh cho loại việc đó," Jaffé nói, mỉm cười.
    "Tớ không thể không lo lắng, Otto," tôi nói.
    Anh nắm hai vai tôi, xoay người tôi lại, và đẩy nhẹ tôi về phía cửa. "Giáo sư cho phép chứ?"
    "Tôi ổn rồi," tôi nói. "Tôi có thể vào trong đó, được không?"
    "Được lắm, nhưng đừng trò chuyện," Jaffé trả lời. "Và thăm nhanh thôi. Cô ấy cần sự yên tịnh."
    Tôi chỉ thấy ánh sáng lờ mờ bơi lội trong làn nước. Tôi chớp mắt. Ánh sáng chập chờn, lung linh. Tôi không dám lau khô dòng lệ, tôi sợ Pat nghĩ rằng tôi khóc bởi tình hình xấu tệ. Tôi chỉ liều lĩnh mang một nụ cười vào phòng. Rồi tôi trở ra ngay.
    "Đưa giáo sư tới đây là đúng, phải không?" Koster hỏi vị giáo sư.
    "Phải," Jaffé nói.
    "Tôi có thể đưa giáo sư trở về, sáng sớm mai."
    "Tôi nghĩ, tôi chưa nên về," Jaffé nói.
    "Ở lượt về, dĩ nhiên tôi sẽ lái đàng hoàng hơn."
    "Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại một ngày để phòng hờ bất trắc. Tôi có thể ngủ trên giường của cậu, được chứ?" ông hỏi. Tôi gật đầu.
    "Tốt. Vậy tôi sẽ ngủ ở đây. Các cậu có thể tìm chỗ trú qua đêm trong làng không?"
    "Dạ được. Giáo sư cần bàn chải đánh răng và áo ngủ không?"
    "Không cần. Tôi có đủ. Tôi luôn luôn chuẩn bị cho những trường hợp khẩn cấp -- tuy chẳng phải chuyện đua xe."
    "Tôi xin lỗi," Koster nói. "Giáo sư có bực mình lắm không?"
    "Không," Jaffé nói.
    "Và tôi rất tiếci đã không nói hết mọi thứ cho giáo sư rõ."
    Jaffé cười lớn. "Cậu đánh giá giới y sĩ quá tệ. Ôi giào, thôi các cậu đi nghĩ đi. Tôi ở lại đây."
    Tôi quơ đại vài món vật dụng cần dùng cho Koster và tôi. Chúng tôi đi bộ vào trong làng.
    "Cậu mệt không?" tôi hỏi.
    "Không," anh nói. "Chúng ta ngồi chơi đâu đây một lát đã."
    Sau một giờ, tôi bắt đầu băn khoăn. "Nếu ông ấy ở lại, có nghĩa là còn nguy kịch, Otto," tôi nói. "Bằng không ông ấy ..."
    "Tớ nghĩ đó chỉ là dự phòng," Koster trả lời. "Ông ấy rất quý mến Pat. Ông ấy bảo với tớ như thế, khi đi với tớ. Ông ấy cũng là bác sĩ săn sóc cho mẹ Pat."
    "Có phải bà ấy ... "
    "Tớ không biết," Koster trả lời, thật nhanh. "Cũng có thể do một căn bệnh khác hẳn. Cậu chưa buồn ngủ à?"
    "Cậu đi đi, Otto. Tớ muốn, một lần nữa thôi .... Cậu biết mà, nhìn từ xa ..."
    "Được. Tớ sẽ cùng đi với cậu."
    "Nghe này, Otto. Đừng bận tâm -- tớ thích ngủ ngoài trời --khi thời tiết ấm áp. Tớ đã làm như thế mấy lần rồi, mới đây."
    "Trời ướt mưa."
    "Chẳng sao cả. Tớ sẽ dựng mui xe lên và ngồi trong đó một lúc."
    "Tốt lắm. Tớ cũng thích ngủ ngoài trời như thế."
    Tôi thấy mình không tài nào trốn được anh ấy. Chúng tôi lấy vài tấm chăn, nệm và quay trở lại Karl. Chúng tôi tháo then cài tấm đậy và đẩy ghế ra sau. Ta có thể nằm thoải mái ở đó.
    "Còn dễ chịu hơn những đêm ở Tiền Tuyến," Koster nói.
    Cửa sổ ngôi nhà sáng ngời qua màn sương. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bóng của Jaffe di chuyển qua lại. Chúng tôi chia nhau một gói thuốc. Cuối cùng, đèn cũng tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn đêm nhỏ.
    "Tạ ơn Chúa," tôi nói.
    Mưa rỉ rả rơi trên nóc xe. Một cơn gió nhẹ thoảng qua. Trời trở lạnh. "Nếu muốn, cậu có thể lấy cái mền của tớ, Otto," tôi nói.
    "Không -- cậu nghĩ sao chứ? Tớ đủ ấm mà."
    "Jaffé, một người có tinh thần thượng võ, hén?"
    "Vâng. Lại còn khôn ngoan. Tớ tin như vậy."
    Tôi ngồi dậy, lưng cứng đơ như que củi sau một đêm chập chờn không ngủ. Ngoài kia, trời xám và lạnh. Koster đã dậy từ lúc nào.
    "Cậu không ngủ sao, Otto?"
    "Có chứ."
    Tôi trèo khỏi xe và len lén theo con đường nhỏ trong vườn đến gần cửa sổ. Ngọn đèn đêm vẫn thắp sáng. Tôi thấy Pat nằm trên giường, nhắm mắt. Trong một giây, tôi lo rằng nàng đã chết. Rồi tôi thấy cánh tay mặt của nàng nhúc nhích. Nàng xanh mướt như tàu lá. Nhưng máu đã thôi chảy. Rồi tay nàng lại động đậy. Cùng một lúc, Jaffé, trong giường của tôi, mở mắt. Tôi lùi lại. Tôi cảm thấy an lòng; ông ấy biết rõ việc làm của mình.
    "Tớ nghĩ chúng ta nên rút lui, Otto," tôi nói với Koster; "đừng để cho ông ấy biết là chúng ta theo dõi."
    "Trong nhà ổn cả?" Otto hỏi.
    "Dựa vào những gì tớ trông thấy, ổn cả. Giáo sư ngủ say đúng mức. Trong trận oanh kích vẫn ngon giấc; nhưng nếu có một con chuột gậm nhấm ba-lô, sẽ choàng tỉnh lập tức."
    "Cậu tắm biển không?" Koster nói. "Không khí trong lành." Anh vươn vai.
    "Cậu tắm đi," tôi nói.
    "Tắm đi mà," anh kèo nài.
    Bầu trời xám rẽ ra, lộ những vệt cam - đỏ long lanh. Dọc theo chân trời, bức màn mây vén lên, ngoài xa kia là màu xanh da táo trong sáng.
    Chúng tôi nhảy tòm xuống nước và bơi. Biển xám và đỏ.
    Rồi chúng tôi trở vào. Fraulein Muller đã thức. Bà đang hái rau mùi tây trong vườn. Bà bắt đầu khi tôi trò chuyện. Một cách vụng về, tôi cố lựa lời xin lỗi, hôm qua tôi đã văng tục quá nhiều.
    Bà rấm rức khóc. "Tội nghiệp. Cô ấy đẹp quá, và trẻ quá."
    "Cô ấy sẽ sống tới một trăm tuổi," tôi nói, phật ý vì bà khóc lóc như thể Pat sắp chết tới nơi. Pat nào có sắp chết. Buổi sáng lạnh, sức sống mà biển nhanh chóng quất vào tôi, nói với tôi như thế. Pat không thể chết. Nàng chỉ chết nếu tôi đánh mất trái tim. Koster có mặt ở đây -- tôi có mặt tại đây: là chiến hữu của Pat ... chúng tôi sẽ chết trước nàng. Chừng nào chúng tôi còn sống, nàng sẽ qua khỏi. Trong quá khứ, đã như thế. Nếu Koster còn sống, tôi sẽ sống. Và do đó, nếu chúng tôi còn sống, Pat không thể nào chết.
    "Con người phải tuân theo số mạng," bà già nói, và gương mặt nâu, nhăn nhúm như quả táo khô nhìn tôi, trách móc. Rõ ràng, bà muốn trả lời câu chửi thề của tôi.
    "Tuân theo?" tôi nói. "Tại sao lại phải tuân theo? Chẳng ích gì. Ta phải trả giá đắt cho mọi thứ trong đời, hai lần, ba lần. Vậy cớ sao ta phải tuân theo?"
    "Vâng, tuân theo -- là điều tốt nhất."
    Tuân theo! còn lâu tôi mới tuân theo, tôi thầm nghĩ. Có nhiều thứ hỗ trợ cho ta. Tranh đấu, tranh đấu, là điều duy nhất trong cuộc chiến này, nơi mà, dù sao chăng nữa, cuối cùng ta cũng sẽ đến. Tranh đấu cho những gì bé bỏng mà ta yêu quý. Khi nào được bẩy mươi tuổi, họa may ta có thể tính tới việc đầu hàng.
    Koster trò chuyện với bà. Chẳng mấy chốc, bà đã mỉm cười và hỏi anh muốn ăn trưa món gì.
    "Cậu thấy chưa," Otto nói. "Đó là phần thưởng của tuổi già. Nước mắt và nụ cười -- mau thay đổi nhau. Không tiếc hận. Một điều đáng cho ta học hỏi," anh trầm ngâm nói.
    Chúng tôi đi vòng quanh nhà. "Cô ấy ngủ thêm phút nào hay phút đó," tôi nói. Chúng tôi trở lại vườn. Fraulein Muller đã dọn điểm tâm. Chúng tôi uống cà phê đen nóng. Mặt trời dâng cao, và không khí ấm áp. Những phiến lá ướt lấp lánh trong nắng. Từ biển vọng lại tiếng kêu của bầy hải âu.
    Fraulein Muller đặt một bó hoa hồng lên bàn. "Chúng ta sẽ tặng cho cô ấy," bà nói. Hoa hồng thơm mùi thơ ấu và những bức vách trong vườn.
    "Cậu biết không, Otto," tôi nói, "tớ có cảm tưởng như chính tớ đã mắc bệnh ... Tớ không còn là mình nữa. Lẽ ra tớ phải bình tĩnh hơn. Điềm đạm hơn. Một người càng bình tĩnh càng được việc."
    "Người ta không thể lúc nào cũng giữ được bình tĩnh, Bob. Tớ cũng bị một vài lần như thế. Càng lớn tuổi người ta càng sợ hãi. Như một tay cờ bạc, luôn luôn sẽ thua những canh bài mới."
    "Tôi có thể vào chưa?"
    "Chưa. Bà giúp việc còn ở trong ấy. Lau rửa và những chuyện lặt vặt khác."
    Tôi rót cà phê cho giáo sư. Dưới nắng, ông hấp háy đôi mắt và quay sang Koster. "Thực ra, tôi phải cám ơn cậu mới đúng. Nhờ cậu, ít ra tôi cũng được một ngày sống ở thôn quê."
    "Nhưng giáo sư có thể về quê thường xuyên mà," Koster nói. "Xa thành phố một đêm, sáng hôm sau quay về."
    "Có thể, có thể," Jaffé đáp. "Thế cậu chưa nhận ra rằng chúng ta đang sống trong thời đại tự - ngược đãi? Có nhiều thứ người ta có thể làm, thế nhưng lại không -- và vì sao, chỉ có trời mới biết. Hiện thời, công việc đã trở nên quan trọng một cách khiếp đảm, tôi đoán, có lẽ vì có quá nhiều người thất nghiệp, đến mức công việc tiêu diệt hết mọi thứ. Địa điểm này đáng yêu làm sao! Thế mà đã nhiều năm tôi chưa trở lại. Tôi có hai chiếc xe, một căn nhà mười phòng và rất nhiều tiền để phung phí ... và tôi đã làm gì với số tiền ấy? Nó có nghĩa lý gì so với buổi sáng mùa hè thôn dã này? Công việc, công việc, công việc... một nỗi ám ảnh kinh hoàng -- và luôn luôn với ảo tưởng rằng cuối cùng tình huống sẽ thay đổi. Và chẳng bao giờ có thay đổi. Kỳ cục quá, phải không, có người lại sống một cuộc đời như thế?"
    "Bác sĩ y khoa, theo tôi, là một trong số rất ít những người biết sống để làm gì," tôi nói. "Lấy thí dụ, một thư ký ngân hàng, thì sao?"
    "Anh bạn thân mến," Jaffé trả lời, "là một sai lầm nếu ta cho rằng tất cả mọi người đều có sở thích giống nhau."
    "Vâng," Koster nói. "Nhưng chẳng mấy khi người ta lại có một nghề nghiệp như ý."
    "Thật vậy," Jaffé đáp. "Rất khó." Ông gật đầu với tôi. "Bây giờ, cậu vào được rồi. Nhưng nương nhẹ một chút, -- đừng chạm tới cô ấy và đừng để cô ấy nói nhiều nhé ... "
    Nàng nằm giữa mấy cái gối, yếu ớt, như bị thương. Gương mặt trắng bệch; quầng mắt trũng sâu, thâm và làn môi tái nhợt. Chỉ có cặp mắt to và sáng. Rất to và rực sáng ...
    Tôi cầm tay nàng. Lạnh và dịu oặt.
    "Pat thương," tôi vụng về nói và suýt nữa đã ngồi xuống cạnh nàng khi tôi bất chợt nhìn thấy bên cửa sổ, gương mặt bì bì của bà giúp việc đang lom lom nhìn vào.
    "Chị đi chỗ khác, được không?" tôi nói, bực tức.
    "Tôi phải đóng màn cửa," bà nói.
    "Được rồi, vậy kéo màn xong rồi đi đi."
    Bà kéo hai cánh màn vàng khép lại. Tuy thế bà vẫn chưa chịu bỏ đi. Bà chậm chạp dùng kẹp, ghim chúng khít vào nhau.
    "Này chị," tôi nói, "đây không phải là kịch trường. Làm ơn biến đi."
    Bà quay lại, cao ngạo. "Chừng nào kẹp xong tôi mới đi --- mà lúc đó, chưa chắc nữa."
    "Em có nhờ bà ấy kéo màn không?" tôi hỏi Pat.
    Nàng gật đầu.
    "Ánh sáng làm đau mắt em không?" tôi hỏi.
    Nàng lắc đầu. "Tốt nhất, hôm nay anh đừng nhìn em rõ quá ..."
    "Pat," tôi hoảng hốt, "em không được nói! Nhưng nếu đó là điều em muốn ..."
    Tôi mở cửa ra ngoài, bà giúp việc rồi cũng biến mất. Tôi trở vào. Tôi không còn bực bội nữa. Tôi lại hài lòng với bà giúp việc; chính vì bà, tôi đã trải qua những giây phút đầu tiên an lành. Bởi nhìn Pat nằm ở đó như thế, quả thật chẳng dễ dàng.
    Tôi ngồi cạnh giường. "Em sẽ sớm bình phục, Pat ạ."
    Nàng mấp mấy đôi môi. "Ngày mai, anh có nghĩ như thế không?"
    "Có lẽ ngày mai chưa được đâu, phải thêm vài ngày nữa. Rồi em sẽ ngồi dậy và chúng mình sẽ lái về nhà. Đáng lẽ chúng mình đừng nên tới đây, không khí quá khắc nghiệt với em --"
    "Vâng," nàng thì thào. "Nhưng em không có bệnh, Robby. Chỉ là một tai nạn thôi --"
    Tôi nhìn nàng. Có thực là nàng không biết, vừa rồi, nàng đã đỗ bệnh? Hay nàng không muốn biết? Tròng mắt của nàng đưa qua đưa lại không ngừng. "Anh không cần phải e sợ --" nàng khẻ nói.
    Thoạt tiên tôi không hiểu nàng muốn nói gì và tại sao lại đặc biệt quan trọng là tôi không cần phải lo sợ. Tôi chỉ nhận thấy rằng nàng đang bức rức khó chịu, ánh mắt chứa đựng một vẻ phiền muộn, cấp bách lạ lùng. Rồi một ý nghĩ thình lình nảy ra. Tôi hiểu nàng đang nghĩ gì; nàng tưởng rằng tôi gớm sợ nàng vì nàng đang có bệnh.
    "Trời ơi, Pat," tôi nói, "có phải đó là lý do, có lẽ thế, khiến em không bao giờ nói cho anh biết điều gì?"
    Nàng không trả lời, nhưng tôi thấy đúng như tôi nghĩ.
    "Thật bậy bạ," tôi nói; "thế em cho anh là hạng người gì, hở?"
    Tôi cúi xuống. "Em nằm im một chút; không được cử động." Tôi hôn nàng. Môi nàng khô và nóng.
    Khi đứng lên, tôi thấy nàng khóc. Lặng lẽ không thành tiếng, với đôi mắt vẫn mở to, và gương mặt bất động. Chỉ nước mắt trào ra, ướt đẫm.
    "Trời ơi, Pat ---"
    "Em sung sướng lắm," nàng nói.
    Tôi đứng đó, nhìn nàng. Chỉ một chữ thôi, nhưng tôi chưa bao giờ nghe ai nói lên chữ ấy theo cách đó. Tôi đã biết phụ nữ, nhưng họ chỉ là những mối tình thoảng qua, những cuộc phiêu lưu, đôi khi là một giờ vui vẻ, một đêm cô đơn, chạy trốn bản thân, chạy trốn tuyệt vọng, chạy trốn trống vắng. Và tôi chẳng mong muốn một điều gì khác hơn, bởi tôi đã học được rằng, ta không thể tin tưởng vào bất cứ điều gì ngoại trừ bản thân, và chiến hữu, có lẽ. Giờ đây bỗng nhiên tôi hiểu ra, với một người, tôi có thể là một thứ gì đó, đơn giản chỉ vì tôi có mặt ở đấy, và người ấy hạnh phúc vì sự hiện diện của tôi. Diễn tả như thế nghe đơn sơ mộc mạc; nhưng nếu nghĩ kỹ, ta sẽ thấy đó là một cái gì mênh mông, bao la vô cùng tận. Cái đó có thể bẻ gẩy và biến đổi một người. Cái đó là tình yêu và tuy thế, lại còn là một điều khác hơn-- một điều dựa vào đó, người ta có thể sống. Một người không thể sống chỉ vì tình yêu. Nhưng sống cho một người khác, có lẽ ...
    Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng không thể. Thật khó tìm lời diễn đạt khi chúng ta thật sự có một điều để nói. Cho dù chúng ta có biết những từ ngữ thích hợp, chúng ta cũng e thẹn không thốt nên lời. Tất cả chữ nghĩa này thuộc về các thế kỷ khác, đã qua. Thời đại của chúng ta không có ngôn từ để mô tả cảm xúc của nó. Chúng ta chỉ có thể nói năng cụt ngủn, thô thiển -- mọi cách khác đều như giả tạo.
    "Pat," tôi nói, "cô bé can đảm thương mến --"
    Ngay lúc đó Jaffé bước vào. Ông lập tức hiểu hết sự tình. "Hạnh kiểm tốt dữ a," ông gầm gừ. "Tôi đoán mò vậy mà."
    Tôi sắp sửa viện vài lý do để bào chữa, nhưng ông đã đuổi tôi khỏi phòng mà không cần phải làm ầm ỷ gì hơn.

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Mục Tìm Chiến Hữu SĐ III Không Quân - Biên Hòa...
    By SVSQKQ in forum Tin tức đó đây
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-19-2015, 05:26 AM
  2. Paris Có Gì Lạ: Ba Chiến Hữu 50 Năm Gặp Lại
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-16-2014, 05:01 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-02-2014, 12:27 AM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-31-2014, 06:40 AM
  5. Tâm sự gửi một chiến hữu nhảy dù
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-12-2014, 04:56 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •