Remember ?

Trang 1/3 123 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 13

Tựa Đề: Erich Maria Remarque Chiến hữu

  1. #1
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu




    Ba Người Bạn (Chiến Hữu) - Erich Maria Remarque



    Ba Người Bạn (Chiến Hữu) là cuốn tiểu thuyết chiến tranh của tác giả người Đức nổi tiếng thế giới, Erich Maria Remarque.

    Erich Maria Remarque là nhà văn Đức, chuyên viết về chiến tranh, với rất nhiều tiểu thuyết lừng danh thế giới như: Ba Người Bạn (Chiến Hữu), Khải hoàn môn, Đài tưởng niệm Bia mộ đen, Một thời để yêu và một thời để chết ...vv. Các tác phẩm của ông là những bản tráng ca về tình yêu và sự khốc liệt của chiến tranh ...

    Tại Việt Nam, từ lâu nhiều tác phẩm của Erich được dịch và xuất bản ở cả hai miền Bắc và Nam. Hiện nay, vẫn có nhiều tác phẩm của ông được tái bản tại Việt Nam.

    Đọc "Ba Người Bạn" mới thấy được rằng những người lính bại trận thậm chí còn phải gánh chịu những mất mát tổn thương hơn bất cứ ai. Họ phải chịu tâm lý của kẻ bại trận trở về không được người thân, bạn bè chào đón. Đó là một cuộc chiến phi nghĩa mà chính họ cũng không biết tại sao họ phải dấn thân vào để rồi phải chứng kiến những cuộc tàn sát, những cái chết của đồng loại, của đồng đội mà đến khi chiến tranh kết thúc, họ vẫn còn bị ám ảnh. Thêm vào đấy là tâm lý bị cả xã hội ruồng bỏ, khinh miệt. Họ tay không trở về, không tiền bạc tài sản, không nhà cửa người thân, không việc làm và trở thành những kẻ ở tận đáy cùng của xã hội. Hình ảnh ba người bạn trong truyện là đại diện cho cả một tầng lớp, thế hệ "bỏ đi" ấy. Họ phải chịu tất cả những nỗi đau , mặc cảm mà xã hội không ai hiểu và thông cảm trừ những người cũng ở trong tầng lớp nghèo hèn như họ....

    Nội dung tác phẩm nói về tình bạn và tình yêu của những người lính sau chiến tranh, vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống, nhưng luôn sống và yêu hết mình. Một tác phẩm tuyệt vời mà bất cứ ai khi đọc cũng đều cảm động và khâm phục....




    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 1
    Bầu trời vàng ửng màu đồng, chưa bị che lấp bởi khói từ các cột ống khói lô nhô. Đàng sau dãy mái ngói của xí nghiệp, ánh sáng đặc biệt lộng lẫy. Mặt trời hẳn vừa mới mọc. Tôi nhìn đồng hồ; chưa đến tám giờ. Sớm mười lăm phút.
    Thế nhưng tôi vẫn mở cổng, chuẩn bị máy bơm sẳn sàng đón khách. Giờ này thường có một, hai chiếc xe hơi chạy ngang cần nạp nhiên liệu.
    Thình lình sau lưng tôi vang lên một âm thanh the thé, chát chúa -- như tiếng một cái cần cẩu rỉ sét di động dưới lòng đất. Tôi đứng im, lắng nghe. Tôi băng qua sân trở lại cổng và thận trọng mở ra.
    Một con ma -- trong bóng tối mờ ảo quờ quạng tiến tới! Một thếp vải trắng cáu bẩn quấn quanh đầu, váy vén cao phơi bày đầu gối; mình choàng tạp dề xanh lơ, chân mang dép dầy cộp, vung vẩy một cây chỗi trên tay; nó nặng chừng một tạ tây, và thực sự chính là Matilda Stoss, người lau dọn cho cơ sở của chúng tôi.
    Tôi đứng nhìn bà. Với tất cả duyên dáng của một con hà mã, bà vừa lảo đảo len giữa các bộ tản nhiệt xe hơi, vừa ậm ừ hát bản "bài ca chàng Khinh Kỵ Can Trường." Trên băng ghế cạnh cửa sổ có hai chai cognac, một chai gần cạn. Tối hôm qua chúng còn đầy. Tôi quên cất chúng vào tủ khóa.
    "Kìa Frau Stoss!" tôi phản đối.
    Tiếng hát ngưng bặt; cây chổi rơi xuống sàn. Nụ cười sung sướng tắt ngúm. Bây giờ đến lượt tôi là ông kẹ.
    "Lạy Chúa tôi!" Matilda thốt lên, hấp háy mắt. "Tôi đâu ngờ cậu tới sớm như vậy."
    "Tôi thì không ngạc nhiên chút nào. Rượu ngon chứ?"
    "Đương nhiên rồi. Nhưng thế này xấu hổ quá, Herr Lohkamp ạ." Bà lấy tay chùi quanh miệng. "Tôi chỉ chẳng hiểu tại sao ---"
    "Nào, Matilda, bác quá lời đấy. Bác chỉ say quắc cần câu mà thôi, phải không?"
    Bà cố sức giữ thăng bằng và đứng đó, chớp mắt như một con cú già. Rồi dần dần sự minh mẫn của bà trở lại. Bà tiến tới một bước, quả quyết.
    "Nói cho cùng, con người thì yếu đuối, Herr Lohkamp ạ... Đầu tiên, tôi chỉ ngửi ... rồi tôi nhấp một ngụm mà thôi, bởi vì -- cậu biết đấy, bao tử của tôi yếu lắm... và rồi... rồi tôi nghĩ Quỷ Sứ đã hớp hồn tôi. Dù sao, cậu cũng không nên tạo điều kiện cho một bà lão phạm tội, để rượu ngon hớ hênh như thế..."
    Đây không phải lần đầu tôi bắt gặp bà làm chuyện này. Bà thường đến xưởng của chúng tôi mỗi ngày hai giờ để lau chùi; và mặc dầu ta để bừa bãi một số tiền lớn, bà sẽ không đụng tới một xu teng -- thế nhưng bà có thể đánh hơi rượu schnapps tài tình như một con chuột đánh mùi thịt mỡ.
    Tôi cầm hai chai rượu đưa lên. "Lẽ tự nhiên! Bác chừa lại chai cognac của khách ... còn thứ rượu ngon, rượu của Herr Koster -- thì bác nốc sạch."
    Một nụ cười nở trên gương mặt dãi dầu sương gió. "Tin tôi đi, Herr Lohkamp; tôi là người sành rượu! Nhưng Herr Lohkamp, cậu sẽ không thóc mách lại -- tôi, một góa phụ đáng thương?"
    Tôi lắc đầu. "Lần này thì không, Matilda."
    Bà tháo kim, thả váy xuống. "Vậy tôi nên đi ngay. Kẽo Herr Koster bắt được.. " bà dơ hai tay ngang đầu.
    Tôi đến cạnh tủ thức ăn, mở cửa. "Matilda ..."
    Bà nặng nề bước tới. Tôi cầm một chai màu nâu, hình chữ nhật đưa lên.
    Bà dơ tay cao, phản đối.
    "Không phải tôi đâu," bà nói. "Thề danh dự, không phải tôi, Herr Lohkamp ạ. Tôi còn chẳng ngửi qua nữa là."
    "Thế bác không biết đó là cái gì, phải không?" tôi nói, rót vào cốc.
    "Không?" bà đáp, liếm môi. "Rum. Thời đồ đá."
    "Tuyệt lắm! Bác nghĩ sao, làm một cốc nhé?"
    "Tôi ấy à?" Bà giật nẩy người. "Thế thì quá sức, Herr Lohkamp ạ! Đầu tôi hừng hực than hồng đây. Mụ Stoss này đã uống trộm hết sạch cognac của cậu, thế mà cậu lại còn mời mụ ấy uống rum nữa! Cậu là bậc thánh, Herr Lohkamp, cậu đúng là một người như thế! Có chết tôi cũng chẳng dám đụng tới một giọt."
    "Bác chắc không, Matilda?" tôi nói, làm như sắp uống.
    "Thôi, được rồi," bà nói và nhanh tay cầm lấy cốc rượu. "Phải chụp lấy cơ hội. Ngay cả khi ta không hiểu. Chúc cậu khỏe mạnh! Tôi đoán, không chừng hôm nay là sinh nhật của cậu?"
    "Cũng đâu đó, Matilda. Đoán giỏi lắm."
    "Không, có thật không?" Bà nắm tay tôi. "Chúc cậu sống lâu trăm tuổi! Và giàu có, Herr Lohkamp.... Ôi chao, sao tôi run rẫy cả người thế này ... Tôi cần một cốc nữa để ăn mừng sinh nhật cậu. Tôi thương cậu cứ như là con đẻ ấy!"
    "Tốt lắm!"
    Tôi rót một cốc rượu nữa cho bà. Bà nốc cạn và, vẫn tiếp tục ca ngợi tôi trong khi bước ra khỏi xưởng.
    Tôi cất chai rượu, ngồi xuống bàn. Ánh nắng yếu ớt qua khung cửa chiếu trên tay tôi. Một cảm xúc kỳ lạ, một sinh nhật -- cho dù không mang một ý nghĩa nào. Ba mươi năm... Tôi nhớ laị thời kỳ tôi đã tin rằng không bao giờ mình sống tới hai mươi tuổi -- thời kỳ đó dường như đã xa xưa lắm. Và rồi....
    Tôi lấy một tờ giấy từ ngăn kéo và bắt đầu tính sổ đời mình. Tuổi ấu thơ, học đường -- một hỗn hợp khắn khít của nhiều sự vật và sự kiện -- đã quá xa vời, như một thế giới khác, không có thực. Cuộc đời thực chỉ bắt đầu từ năm 1916. Tôi vừa đăng lính -- mười tám tuổi, gầy gò, lỏng khỏng. Và một tay thượng sĩ hách xì xằng thường bắt tôi tập đi tập lại, trườn bò, trên mặt đất bùn lầy của cánh đồng vừa cày xới đàng sau trại lính ... Một buổi chiều, mẹ tôi đến thăm; nhưng bà phải chờ hơn một tiếng đồng hồ, vì tôi không sắp xếp quân trang đúng cách, do đó bị phạt bằng cách kỳ cọ bồn cầu. Bà xin phép phụ giúp tôi, nhưng bị từ chối. Bà khóc, và tôi mệt lả đến nỗi thiếp ngủ ngay giây phút được ngồi cạnh mẹ.
    1917. Flanders. Mittendorf và tôi mua một chai vang đỏ ở căng tin... Chúng tôi dự tính ăn mừng. Nhưng chúng tôi chưa kịp làm gì, sáng sớm hôm ấy, quân Anh lại bắt đầu dội bom. Gần trưa, Koster bị thương; đến chiều, Meyer và Deters tử trận. Rồi, khi màn đêm buông xuống, vừa lúc chúng tôi tưởng rằng tình hình đã lắng dịu, và sắp sửa khui rượu thì hơi độc tràn đến, ngập khắp công sự. Chúng tôi kịp thời mang mặt nạ, nhưng mặt nạ của Mittendorf hỏng, và khi anh biết được thì đã muộn. Anh lột phắt nó đi, nhưng trước khi tìm được mặt nạ mới, anh hít phải nhiều khí độc đến mức ói ra máu. Anh qua đời sáng hôm sau, sắc mặt xanh chàm.
    1918. Trong quân y viện. Mấy ngày trước có một đoàn công xa chở thương bệnh binh đến. Băng bằng giấy. Nhiều trường hợp trầm trọng. Tiếng rên xiết áo não. Xe đẩy rộn rịp cả ngày. Giường của Joseph Stoll ở cạnh giường tôi. Hai chân đã cụt, nhưng anh không biết. Anh không nhìn thấy, vì họ phủ khăn trải giường bên trên một cái giá kẽm. Dù sao anh cũng không tin, vì anh vẫn còn cảm giác đau đớn ở chân. Hai người bạn trẻ chung phòng chết trong đêm, một người chết chậm và nhọc nhằn.
    1919. Lại về nhà. Cách mạng. Đói khát. Và ngoài kia súng máy nổ từng tràng. Chiến binh đối kháng chiến binh.
    1920. Putsch°. Karl Broger bị bắn. Koster và Lenz bị bắt. Mẹ tôi nằm bệnh viện. Ung thư.
    1921...
    Tôi nghiền ngẫm hồi lâu. Không, tôi không nhớ nỗi. Không nhớ gì đã xảy ra trong năm ấy. 1922, tôi làm thợ lắp đường rầy xe lửa ở Thuringia; 1923, quản đốc phụ trách quảng cáo cho một xí nghiệp sản xuất sản phẩm cao su. Lúc đó đang thời lạm phát. Có lúc lương tháng của tôi lên đến hai trăm tỉ đồng mark. Chúng tôi thường được phát lương mỗi ngày hai lần, mỗi lần được nghĩ nửa tiếng để chạy ra phố sắm sửa trước khi tỷ giá trao đổi đô-la được công bố -- vì đến khi ấy, tiền chỉ còn trị giá phân nửa.
    Và rồi gì nữa? Những năm sau đó? Tôi đặt bút chì xuống. Không có ích gì ôn lại quá khứ. Dù sao, tôi cũng chẳng nhớ thêm gì hơn; tất cả đã trở nên rối rắm. Năm trước, vào sinh nhật của mình, tôi chơi dương cầm cho quán Café International. Ở đó, tôi gặp lại Koster và Lenz. Và hiện nay tôi đang làm việc ở Aurewo -- Auto-Repair-Workshop; Koster & Co. Lenz và tôi là "Co.," nhưng chỉ có Koster mới thực sự làm chủ. Anh là bạn học chung trường, và trong quân đội, là cấp chỉ huy đại đội của chúng tôi; rồi anh trở thành phi công, và sau đó trong một thời gian, là sinh viên; rồi là tay đua... Cuối cùng anh mua cái nhà chòi này. Lenz, sau những năm lưu lạc ở Nam Mỹ, là người đầu tiên gia nhập -- sau đó mới đến tôi.
    Tôi lục túi lôi ra một điếu thuốc. Nói cho cùng, tôi có đầy đủ lý do để hài lòng. Thật ra cũng đâu đến nỗi nào. Tôi có công ăn việc làm, tôi cường tráng dẽo dai, và khỏe mạnh... Nhưng có lẽ tốt nhất ta không nên suy nghĩ thái quá về những điều ấy -- khi cô độc, bằng mọi giá; đặc biệt về đêm. Bởi thỉnh thoảng sẽ có những thứ từ quá khứ tìm cách trồi lên và trân trối nhìn ta bằng đôi mắt chết. Chính để chống lại những lúc ấy, ta cần một chai rượu mạnh.
    °Đảo chánh
    Bản lề cánh cổng rít lên ken két. Tôi xé vụn tờ giấy với những tháng ngày trên ấy, quẳng vào sọt rác. Cửa mở toang, và Gottfried Lenz -- cao, gầy, với mớ tóc vàng như rơm và cái mũi lẽ ra phải thuộc về một người khác -- đứng chắn ngang khung cửa.
    "Bobby," anh rống lên, "anh ù kia, đứng lên! Nghiêm, chào! Thượng cấp có chuyện muốn nói với anh!"
    "Herrgott!"° Tôi đứng dậy. "Tớ hy vọng cậu không nhớ... Đừng hát hỏng gì nhé."
    "Cậu không phải là thứ duy nhất được quan tâm," Gottfried trả lời, đặt lên bàn một gói giấy, trong đó có một cái gì chạm vào nhau lanh canh. Koster bước theo sau.
    Lentz đứng cạnh tôi, hơn hẳn một cái đầu. "Sáng nay cậu gặp điều gì đầu tiên thế, Bob?"
    Tôi ngẩm nghĩ một lúc. "Một bà già múa may quay cuồng."
    "Thánh thần ơi! Đó là điềm xấu, cậu tin không! Trùng hợp với tử vi của cậu! Hôm qua tớ vừa lấy lá số cho cậu. Cậu sinh dưới cung Nhân Mã -- yếu ớt, không vững chãi, một cây sậy mong manh trong gió -- với Thổ Tinh chiếm ngự một tam cá nguyệt kém may mắn và Mộc Tinh chẳng lấy gì thuận lợi cho cả năm nay. Koster và tớ, in loco parentis°°, cậu biết đấy, vì lẽ đó tớ ra lệnh, cậu phải nhận, để bảo vệ tính mạng, trước tiên lá bùa này. Tớ có được nó từ một hậu duệ chính cống của người Incas cuối cùng. Bà ấy có dòng máu quý tộc và lòng bàn chân phẳng bẹt; bà ấy trông ghê tởm, và có tài tiên tri. 'Hỡi chàng trai da trắng xa lạ,' bà ấy nói với tớ, 'các bậc vua chúa đã mang lá bùa này; sức mạnh của mặt trời, mặt trăng và trái đất chứa trong đấy, chưa kể những hành tinh kém nổi bật khác... Đưa cho già một đô-la bạc để mua rượu nhắm và lá bùa này sẽ thuộc về cậu.' Chuỗi may mắn ấy không nên để gián đoạn, do đó, hôm nay tớ tặng lại cậu. Mong nó sẽ gìn giữ cậu và đánh đuổi Mộc Tinh thù nghịch." Anh choàng lên cổ tôi một hình tượng đen trên một sợi dây mỏng. "Đây nhé. Chống lại vận rủi....Chống lại vận rủi mỗi ngày, và đây rồi -- sáu chai rum. Quà của Otto. Mỗi giọt rượu có số tuổi gấp đôi cậu."
    Anh mở gói, sắp từng chai một cạnh nhau dưới ánh nắng ban mai. Chúng óng ánh như hổ phách. "Trông tuyệt vời," tôi nói. "Cậu mua ở đâu thế, Otto?"
    Koster mỉm cười. "Chuyện dài lắm. Nhưng này, Bob, cậu có cảm tưởng ra sao? Ba mươi tuổi?"
    Tôi lắc đầu. "Như mười sáu và năm mươi tuổi cùng một lúc. Một cách khác, khá côn đồ..."
    "Khá côn đồ! Cậu nói gì thế?" Lenz phản đối. "Ôi, đó là điều đẹp nhất trên đời. Có nghĩa là, cậu đã chinh phục thời gian và sống đến hai lần!"
    Koster nhìn tôi. "Mặc kệ anh ây, Gottfried ạ," anh nói. "Sinh nhật là gánh nặng cho lòng tự tin của con người. Nhất là vào buổi sáng. Rồi anh ấy sẽ từ từ đỡ hơn."
    Lenz cau mày. "Người đàn ông càng nghĩ ít về hắn chừng nào càng tốt chừng ấy. Cậu thấy có được an ủi chút nào chưa, Bob?"
    "Chưa," tôi đáp. "Một người đàn ông cần phải sống sao cho xứng đáng là một người tốt. Tớ cảm thấy như thế thật khó khăn và chán nản."
    "Tuyệt! Anh ấy đang triết lý, Otto! Anh ấy đã được cứu rỗi," Lenz nói. "Điều xấu nhất qua rồi -- cơn khủng hoảng đã chấm dứt -- anh ấy đã trải qua phút giây kỷ niệm sinh nhật, khi người đàn ông nhìn thẳng vào mắt mình và nhận thấy mình chỉ là một thằng ngốc đáng thương... Nào, ta hãy cụng ly cho một ngày mới với tâm trí bình an, và cho máy móc của cái xe Cadillac già được bôi mỡ trơn tru."
    Chúng tôi làm việc đến tối, rồi tắm rửa và thay y phục.
    Lenz thèm thuồng nhìn mấy chai rượu. "Khui một chai uống được chưa, Otto?"
    "Nói thật, đó là quà của Bob, không phải của tớ." Koster đáp. "Grottfried, cậu biết đấy, tặng cho người ta rồi nhắc nhặng xi như thế thì không được lịch thiệp mấy."
    "Nhưng vẫn còn hơn để cho ân nhân của mình chết khát," Lenz trả đủa, vặn cái nút bần.
    Mùi thơm ngào ngạt cả phòng.
    "Đức Mẹ ơi!" Gottfried kêu.
    Chúng tôi đua nhau ngửi.
    "Hết sảy, Otto! Chỉ có thi sĩ mới đủ lời để diễn đạt."
    "Cái nơi tăm tối này không xứng," Lenz nói. "Tớ có ý kiến... Chúng ta hãy lái xe ra một chỗ nào đó ở miền quê, đem theo những chai rượu này. Chúng ta sẽ uống cạn trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời."
    "Xuất sắc!"
    Chúng tôi đẩy chiếc Cadillac mà chúng tôi đã tận lực sửa chửa nguyên buổi chiều qua một bên, để lộ ra một vật kỳ lạ trên bốn bánh: chiếc xe đua của Otto Koster -- niềm hảnh diện của xưởng sửa xe của chúng tôi.
    Koster đã mua chiếc xe này, một xe bus cũ có nóc kềnh càng, tại một chỗ bán đấu giá với số tiền rẻ mạt gần như biếu không. Lúc ấy những tay sành điệu không ngần ngại tuyên bố rằng xe ấy xứng đáng được chưng bày ở viện bảo tàng giao thông. Bollwies, chủ nhân một công ty bán sĩ quần áo phụ nữ và tình cờ cũng là một người say mê đua xe, khuyên Otto nên sửa xe ấy thành một chiếc máy may. Nhưng không dễ gì làm nản lòng Koster. Anh tháo xe ra từng mảnh như thể là một chiếc đồng hồ, và cặm cụi với nó, đêm này sang đêm khác hàng tháng trời. Rồi một tối, anh xuất hiện ở quán rượu nơi chúng tôi thường lai vãng. Bollwies cười suýt té ghế khi thấy nó, trông nó vẫn buồn cười lắm. Để mua vui, hắn thách Otto đua. Hắn cá hai trăm mark ăn hai mươi nếu Koster nhanh hơn chiếc xe thể thao mới toanh của hắn, đường đua mười cây số, chấp Otto một. Nhưng Otto còn bảnh hơn. Anh ấy không nhận chấp và muốn nâng tiền cược lên một ngàn mark cho cả hai bên. Bollies, hớn hở, đề nghị chở anh đến bịnh viện tâm thần lập tức. Mọi người cười ầm, sẳn sàng cho trò vui. Koster lẳng lặng phản ứng bằng cách mở máy xe. Hai người ra đi để tranh thắng bại. Bollwies trở về, thất thần như vừa nhìn thấy một con rắn biển, và viết chi phiếu trả tiền và rồi thêm một chi phiếu khác. Hắn muốn mua chiếc xe ấy lập tức. Nhưng Koster chỉ cười mũi. Anh không bán nó với bất cứ với giá nào. Bề ngoài xe trông xấu xí, nhưng bên trong, mọi thứ đều tinh khôi. Cho việc lái xe hàng ngày, chúng tôi đã tái sử dụng một thùng xe kiểu xưa nhưng ngẫu nhiên vừa vặn; lớp sơn đã tróc, mấy miếng chắn bùn sứt mẻ và nắp xe cũ mười năm. Lẽ đương nhiên chúng tôi thừa sức làm tốt hơn. Nhưng chúng tôi có lý do để không làm vậy.
    "Karl," chúng tôi đặt tên thánh cho nó --Karl, con Ma Xa lộ.
    ° Chúa Trời
    °° Quyền Huynh Thế Phụ
    Karl thở phì phò trên xa lộ.
    "Otto," tôi nói, "nạn nhân đến kìa."
    Đàng sau chúng tôi, một chiếc Buick to kềnh nóng nảy bóp còi. Nó nhanh chóng vượt qua. Chẳng mấy chốc, hai bộ tản nhiệt đã sánh vai. Người đàn ông ngồi sau tay lái ném một cái nhìn lơ đãng sang chúng tôi. Đôi mắt của hắn khinh khỉnh lướt qua thằng Karl tồi tàn. Rồi hắn nhìn về hướng khác -- và quên bẳng chúng tôi.
    Vài giây sau hắn không thể nào không nhận thấy là Karl vẫn chạy song song không thua nửa bước. Hắn cựa mình ngồi thẳng, nhìn chúng tôi một cách thú vị, và nhấn ga. Karl vẫn không chịu thua. Nhỏ nhắn và nhanh nhẹn như một con terrier cạnh con bloodhound, Karl giữ vững vị trí của nó bên cạnh cỗ máy bóng lộn nước sơn và kền.
    Người đàn ông ghì chặt tay lái. Vẫn không một chút nghi ngờ, hắn ngạo nghễ nhìn chúng tôi. Hắn quyết định, rõ ràng như thế, cho chúng tôi biết xe của hắn có khả năng ra sao. Hắn đạp ga mạnh đến nỗi ống thải khí rít lên ầm ỉ. Nhưng không ích gì. Hắn không thể nào nhanh hơn. Karl, kín đáo và đáng ghét, vẫn bám dính.
    Người đàn ông nhìn chúng tôi, kinh ngạc. Hắn không thể tin nỗi mắt mình -- vận tốc trên sáu mươi dặm một giờ mà vẫn không bỏ rơi được cái xe lộc xộc cổ tích này! Hắn liếc nhìn đồng hồ tốc độ của xe mình, bối rối -- hẳn có một điều gì không ổn. Hắn cho cô nàng xả hết tốc lực.
    Hai chiếc xe kèn cựa bên nhau trên đoạn đường thẳng. Được mấy trăm mét, một chiếc xe vận tải lọc xọc chạy tới. Chiếc Buick phải lùi lại, nhường chỗ. Vừa khi cô nàng trườn tới, một chiếc xe tang lù lù hiện ra, ruy-băng của các vòng hoa phất phơ trong gió; một lần nữa, cô nàng phải lui lại. Sau đó đường mở ra thênh thang.
    Khi ấy người đàn ông đã mất đi vẻ kiêu kỳ; tức tối, môi mím chặt, hắn ngã người ra phía trước -- máu đua xe đã bốc và giờ đây cuộc đời hắn tùy thuộc vào chuyện không để cho chú cẩu lai tạp, nhỏ bé của chúng tôi đánh bại.
    Về phần mình, chúng tôi ngồi im thin thít trên ghế. Với chúng tôi, đơn giản là chiếc Buick không tồn tại. Koster bình thản canh chừng con đường trước mặt; Lenz, cho dù rất kích động, cầm một tờ nhật báo đọc, như không có gì đáng hơn để làm.
    Vài phút sau, Koster nháy mắt với chúng tôi. Một cách vô cùng tinh tế, thằng Karl giảm dần tốc độ và nàng Buick rướn tới. Những miếng chắn bùn bóng bẩy, nở nang của nó lướt qua. Ống thải khí phả khói xanh vào mặt chúng tôi. Từng chút từng chút, hắn đã bỏ xa -- mười chín mét -- rồi, như chúng tôi tiên đoán, gương mặt đỏ lựng đẫm mồ hôi nhưng hạnh phúc, gương mặt của ông chủ xe, hiện ra ở khung cửa và một nụ cười vinh quang toe toét nở. Hắn nghĩ rằng mình đã thắng.
    Nhưng hắn không dừng lại ở đấy; hắn không thể bỏ lỡ cơ hội phục hận. Hắn vẫy tay -- hững hờ, như người thắng trận.
    "Otto," Lenz cảnh cáo.
    Nhưng anh không cần phải lên tiếng; ngay lúc ấy Karl vọt tới. Máy xe gầm rú. Và bất thình lình cánh tay vẫy chào ở khung cửa biến mất -- Karl đã đáp lại lời mời; nó đã đến. Nó phóng, vững vàng đều đặn cho đến phút cuối, khi chúng tôi giành được phần đất đã mất; và rồi lần đầu tiên chúng tôi chú tâm đến kẻ lạ. Trong nỗi hiếu kỳ trong trắng, chúng tôi quan sát người ngồi sau tay lái, như muốn biết vì sao hắn lại ra tín hiệu. Nhưng hắn vẫn hướng ánh mắt về chỗ khác; và Karl, thằng bé lêu lỏng đầu đường xó chợ, bụi đường dính khắn, những miếng chắn bùn đập phành phạch, đã bỏ xa hắn với tốc độ siêu đẳng.
    "Otto, lái hay tuyệt," Lenz nói với Koster. "Tối nay thế nào cũng có người ăn không ngon. "
    Cuộc rượt đuổi là lý do khiến chúng tôi không cải biến bề ngoài của Karl. Chỉ cần Karl xuất hiện trên đường phố là có người bị khiêu khích. Đối với những loại xe khác, Karl là con quạ tật nguyền trước lũ mèo háu đói. Ngay cả những loại xe gia đình hiền hòa nhất cũng cảm thấy kích động muốn qua mặt; trước cảnh một cỗ xe cũ rích, cà rịch cà tang, lạng lờ khi trước mặt, khi sau lưng, ngay cả những con hải ly điềm đạm nhất cũng nổi máu rượt bắt. Bởi lẽ có ai biết được, dưới bề ngoài quái đản ấy, một trái tim đua tranh vĩ đại đang thổn thức?
    Lenz nhấn mạnh tính chất giáo dục của Karl; nó dạy người ta biết tôn trọng đúng mực tài sáng tạo, một thứ luôn ẩn nấp dưới bề ngoài không thấm nhiễm bởi thành kiến. Ít nhất cũng như thế, Lenz nói -- anh cũng tự cho rằng, mình là người lãng mạn cuối cùng còn sót lại.
    Chúng tôi ngừng trước một lữ quán nhỏ và bước xuống. Buổi chiều đẹp và yên ả. Trên cánh đồng mới vỡ, rảnh của những luống cày ánh màu tím thẩm; sống ửng màu nâu và vàng óng. Những cụm mây huy hoàng, tựa bầy chim hồng hạc, lênh đênh trên nền trời xanh màu vỏ táo, và mảnh mai ở giữa chúng là vầng trăng lưỡi liềm. Cành hãy còn xơ xác không lá nhưng đã hứa hẹn những mầm non, một bụi cây phỉ ôm ấp buổi chiều và giấc mơ trong vòng tay của nó. Từ lữ quán tỏa ra mùi thơm phưng phức của món gan chiên. Và củ hành. Bụng chúng tôi cồn cào.
    Lenz theo mùi thơm lần vào trong. Hài lòng, anh trở ra. "Các cậu cần xem món khoai tây chiên! Nhanh lên, kẻo người ta ăn hết phần ngon bây giờ."
    Vừa lúc ấy một chiếc xe êm ái trờ tới. Chúng tôi nhìn. Chính là chiếc Buick. Nó thắng gấp, giật nảy mình bên cạnh Karl.
    "Hay thật!" Lenz nói. Mấy lần trước, chúng tôi đã đánh nhau với thiên hạ cũng vì lý do tương tự.
    Anh chàng bước xuống. Người to lớn, nặng nề và áo khoác nâu màu lông lạc đà. Mặt không vui, anh ta nhìn Karl thật lâu rồi lấy từ túi ra một đôi găng tay vàng dầy cộp, và bước tới.
    "Cậu gọi nó là gì, một phát kiến tân kỳ?" hắn hỏi Koster, đứng cạnh, mặt chảy thiu như một lọ dấm.
    Cả ba chúng tôi nhìn anh ta nhưng không trả lời. Rõ ràng anh ta coi chúng tôi như những tay thợ máy diện quần áo láng cóng ngày Chúa Nhật, rong chơi một mình một cõi.
    "Anh vừa mới nói gì thế, phải không ?" cuối cùng Otto nói, làm ra vẻ ngờ vực, để cho hắn biết cách ăn nói lịch sự hơn một chút.
    Anh chàng đỏ mặt. "Tôi hỏi về cái xe đàng kia." anh ta ủng oẳng trả lời, hệt như lần trước.
    Lenz đứng thẳng người lại. Cái mủi to của anh giần giật. Anh đặc biệt chú trọng tới sự lễ độ của người khác. Nhưng trước khi anh kịp mở miệng, đột nhiên, như bởi một bàn tay vô hình, cánh cửa phía hành khách của chiếc Buick mở ra -- một bàn chân xinh xắn đặt xuống đất, một dáng chân thon, tiếp đến là đầu gối -- rồi một thiếu nữ bước ra và chậm rãi đi về phía chúng tôi.
    Chúng tôi bở ngở nhìn nhau. Chúng tôi không hề biết có người khác trong xe. Lenz đổi thái độ ngay lập tức. Nụ cười bừng nở trên gương mặt đầy tàn nhang của anh. Thình lình tất cả chúng tôi đều mỉm cười -- tại sao, chỉ có Trời biết.
    Anh béo nhìn chúng tôi, chưng hửng. Anh ta bối rối và rõ ràng không biết tình thế đang biến chuyển ra sao.
    "Binding," cuối cùng anh nói, hơi cúi mình, như thể cái tên ấy là thứ duy nhất anh còn biết chắc.
    Cô gái đã đến gần. Chúng tôi tỏ ra thân thiện hơn.
    "Giới thiệu cái xe đi, Otto," Lenz nói, liếc thật nhanh Koster.
    "Sao lại không?" Otto trả lời, với một tia sáng lấp lánh, hài lòng trong đôi mắt.
    "Tôi rất mong được xem qua," Binding nói, giọng hòa hoàn hẳn ra. "Chắc nó phải chạy nhanh thần tốc. Vừa mới hạ tôi đo ván kia mà."
    Hai người băng ngang sân đến bải đậu xe và Koster dở nấp xe lên.
    Cô gái không đi theo. Mảnh khảnh và lặng lẽ, nàng đứng cạnh Lenz và tôi trong ánh hoàng hôn. Tôi nghĩ Gottfried sẽ chớp lấy thời cơ và bắng nhắng như một trái bom. Những trường hợp này rất thích hợp với anh. Thế nhưng dường như anh mất đi khả năng phát ngôn. Bình thường anh có thể xun xoe như một chú gà tây --nhưng bây giờ anh chỉ đứng, không nhúc nhích, như một sư huynh dòng Carmel đang nghĩ phép.
    "Xin cô tha lỗi cho chúng tôi," cuối cùng tôi nói. "Chúng tôi không thấy cô ngồi trong xe. Nếu biết, chúng tôi đã không hành động kỳ cục như thế."
    Cô gái nhìn tôi. "Nhưng tại sao lại không nhỉ?" nàng bình thản trả lời, giọng trầm đục không ngờ. "Làm như thế có gì xấu đâu chứ."
    "Không xấu; nhưng thiếu công bình. Xe đó có thể đạt tới vận tốc khoảng hai trăm kí lô mét một giờ."
    Nàng hơi nghiêng mình tới trước và cho hai tay vào túi áo khoác. "Những hai trăm kí lô mét?" nàng hỏi.
    "Một trăm tám mươi chín phẩy hai, nói chính xác, theo sổ đăng ký." Lenz trả lời, hảnh diện như một khẩu súng vừa khai hỏa.
    Nàng cười."Thế mà chúng tôi nghĩ chỉ chừng sáu mươi hay bẩy mươi."
    "Vậy cô đã thấy," tôi nói, "cô không tài nào biết được, phải không?"
    "Không," nàng đáp, "chắn chắn chúng tôi không thể đoán biết. Chúng tôi nghĩ chiếc Buick chạy nhanh gấp đôi xe của các anh."
    "Có thể là như thế," Tôi lấy chân đá một cành cây khô sang bên. "Nhưng chúng tôi có một lợi thế lớn. Tôi e là Herr Binding đàng ấy khá bực mình với chúng tôi."
    Nàng cười to lần nữa. "Vâng, trong một lúc, dĩ nhiên. Nhưng người ta thỉnh thoảng cũng phải biết cách bỏ qua."
    "Đúng thế."
    Một khoảng im lặng. Tôi liếc Lenz. Nhưng chàng trai lãng mạn cuối cùng chỉ nhe răng cười, chun mũi, và để mặc tôi bì bỏm lội.
    Những cây bạch dương xào xạc lá. Đàng sau quán, một con gà trống gáy vang rân.
    "Thời tiết đẹp quá," cuối cùng tôi nói để phá vỡ im lặng.
    "Vâng, tuyệt vời," nàng đáp.
    "Và êm dịu lắm," Lenz thêm vào.
    "Êm dịu một cách khác thường," tôi bổ sung.
    Một khoảng im lặng theo sau. Hẳn nàng phải nghĩ, chúng tôi là một đôi cừu già ngon sơi; nhưng ý chí mạnh nhất thế giới cũng không giúp tôi nghĩ ra được chuyện gì để nói. Lenz đánh hơi.
    "Nước sốt táo," anh đoán. "Sẽ có nước sốt táo dọn kèm với gan, rõ ràng thế. Món ngon đấy."
    "Hẳn thế," tôi tán đồng và tự nguyền rủa hai đứa.
    Koster và Binding quay lại. Chỉ vài phút thôi, thế mà Binding đã biến thành một người khác. Trông anh rạng ngời như đang bay trên chín tầng mây, hẳn vì đã tìm thấy một chuyên gia, trong Koster. Anh hỏi chúng tôi có muốn ăn tối chung với bọn anh không.
    "Dĩ nhiên," Lenz đáp.
    Chúng tôi đi vào lữ quán. Ngang qua cửa, Lenz nheo mắt với tôi và hất đầu về hướng cô gái."Cô ấy bù cho mười bà phù thủy già múa may hồi sáng."
    Tôi nhún vai. "Có thể lắm -- nhưng trong trường hợp ấy, sao cậu để một mình tớ cà lăm, cà lập như thằng ngốc vậy?"
    Anh cười. "Bé ơi, đôi khi cưng phải học bơi một mình."
    "Tớ chả muốn học gì sất," tôi nói.
    Chúng tôi theo chân họ. Họ đã ngồi vào bàn. Cô hầu bàn nhanh nhẩu mang gan và khoai tây chiên đến. Cô cũng đem ra một chai to whiskey lúa mạch đen để khai vị.
    Binding tỏ ra là một tay ăn nói lão luyện. Thật lạ lùng, anh có thể thao thao bất tuyệt về những đề tài có liên quan đến xe cộ. Khi biết Otto thực sự đua xe, thiện ý của anh lại càng không giới hạn.
    Tôi nhìn kỹ. Anh là một chàng trai to lớn với lông mày rậm trên gương mặt hồng hào; khoe khoang một ít, ồn ào một ít, và rõ ràng là dễ dãi hiền hòa, như những người đã thành đạt trong đời. Tôi có thể hình dung ra anh, buổi tối trước khi đi ngủ, trịnh trọng, hài lòng, khi chiêm nghiệm về mình trước gương.
    Cô gái được xếp ngồi giữa Lenz và tôi. Nàng cởi áo choàng và bên dưới là bộ đầm xám kiểu Anh. Một chiếc khăn quàng trắng ôm khít khao quanh cổ như bâu áo. Mái tóc nâu và óng ả như tơ và dưới ánh đèn, ánh màu hổ phách. Đôi vai gầy hơi nghiêng ra trước, bàn tay thon, khá dài và xương xẩu hơn là mềm mại. Mặt hẹp và xanh xao, nhưng cặp mắt to đem đến một sức mạnh gần như đam mê. Nàng xinh lắm, tôi thấy thế -- nhưng tôi không nghĩ gì khác hơn.
    Ngược lại, Lenz sôi nổi, nồng nhiệt. Anh hoàn toàn khác hẳn với con người cũ của mình, mới đây không lâu. Bờm tóc hoe vàng của anh óng ánh như mào một con chim đầu rìu. Anh tuôn ra những câu nói đùa duyên dáng và cùng với Binding, thống lĩnh bàn ăn. Tôi chỉ việc ngồi bên và không thể làm điều gì cho người ta chú ý đến -- cùng lắm chỉ là một lần chuyền đĩa thức ăn hay mời thuốc lá. Và chạm cốc với Binding. Tôi làm thế khá nhiều lần.
    Lenz chợt vỗ tay lên trán: "Rum! Bob, ra lấy mấy chai rum sinh nhật."
    "Sinh nhật? Sinh nhật của ai thế?" cô gái hỏi.
    "Sinh nhật của tôi," tôi nói. "Tôi khổ vì nó cả ngày hôm nay."
    "Khổ? Vậy, chắc anh không muốn tôi chúc mừng đâu nhỉ, phải không?"
    "Ô, muốn chứ," tôi nói; "chúc mừng lại là chuyện khác."
    "Tốt lắm, vậy xin chúc anh tất cả những gì tốt đẹp nhất."
    Trong một thoáng, tôi giữ tay nàng và cảm thấy sức ép, ấm và khô, của nó. Rồi tôi ra ngoài lấy những chai rum. Đêm mông mênh, tĩnh mịch quanh căn nhà nhỏ. Ghế da của xe chúng tôi ẩm hơi sương. Tôi đứng nhìn về phía chân trời, nơi quầng sáng màu đỏ của đô thị hắt lên. Tôi sẽ vui lòng đứng mãi ở đây; thế nhưng tôi nghe tiếng Lenz gọi.
    Binding không uống được rum. Sau cốc thứ nhì ta có thể nhận thấy điều đó. Anh ra ngoài vườn, lảo đảo. Tôi đứng lên và đi với Lenz đến quầy rượu. Anh gọi một chai gin.
    "Một cô gái tuyệt vời, hén?" anh nói.
    "Đừng hỏi tớ, Gottfried," tôi đáp. "Tớ chẳng để ý gì mấy tới cô ấy."
    Anh chăm chú nhìn tôi một lúc với đôi mắt xanh màu hoa diên vỹ và rồi lắc mái đầu óng ả. "Vậy cậu sống để làm gì, hở bé cưng?"
    "Tớ cũng hỏi mình câu ấy từ lâu lắm rồi," tôi đáp.
    Anh cười. "Tớ đoán, cậu muốn tớ nói cho cậu biết chứ gì. Hừm, tớ sẽ không nói đâu, chỉ vậy thôi nhé. Nhưng tớ nghĩ, tớ sẽ cố tìm hiểu xem cô ấy là gì của Bé Bự, thằng chả rành tất cả mọi thứ về xe cộ, y như một quyển tự điển sống."
    Anh theo Binding ra vườn. Một lúc sau, cả hai cùng trở lại quày rượu. Tin tức phải tốt đẹp, vì Gottfried, chắc là thấy con đường thênh thang rộng mở, quá vui mừng nên đã sốt sắng kết thân với Binding. Hai người gọi thêm một chai gin mới, và một giờ sau đó, đã vỗ vai nhau như đôi tri kỷ. Lenz luôn luôn toát ra một thứ gì đó rất duyên dáng, vì thế khó có ai cưỡng lại sức hấp dẫn của anh khi anh đang vui. Thật tình mà nói, trong những lúc này, anh còn không cưỡng lại được chính mình nữa là. Đơn giản rằng anh đang ồ ạt lôi cuốn Binding và chẳng bao lâu, hai người đã kéo nhau ra góc sân dưới dàn dây leo, hò hát những bài nhạc lính. Và trong khi ấy, cô gái đã quên mất chàng trai lãng mạn cuối cùng.
    Chỉ còn lại ba người trong phòng khách của lữ quán. Không gian đột nhiên yên tỉnh. Đồng hồ cuckoo tíc tắc. Cô hầu bàn đã thu dọn xong và nhìn chúng tôi trìu mến như mẹ hiền. Một con chó săn lông nâu nằm xoãi trước lò sưởi. Thỉnh thoảng nó lại ngắt ngứ sủa trong mơ, giọng êm, thanh và áo não. Ngoài cửa sổ, gió thổi lướt thướt. Từng khúc nhạc lính thoang thoảng lùa vào; căn phòng nhỏ dường như nâng chúng tôi lên và cùng nhau bềnh bồng qua đêm thâu và qua năm tháng, qua những hồi niệm và những thứ đã nửa vời quên lãng.
    Đó là một cảm giác lạ. Thời gian như lắng đọng -- không còn là một dòng sông chảy từ miền đen tối rồi quay trở về -- nó là một hồ nước, trong đó cuộc đời lặng lờ soi bóng. Tôi nâng ly rượu. Rum lóng lánh. Tôi nghĩ đến bản kết toán của tôi sáng hôm ấy ở xưởng sửa xe. Tôi đã buồn rầu chán nản. Tôi không còn buồn nữa. Tôi nhìn Koster. Tôi nghe anh trò chuyện với cô gái; nhưng tôi không ghi nhận những lời họ nói. Tôi cảm thấy hơi ấm ban đầu của cơn say làm nóng dần huyết quản và lan tỏa ảo giác phiêu lưu. Bên ngoài, Lenz và Binding đang hợp ca bài Argonnerwald. Cạnh tôi, người con gái chưa quen đang nói -- êm ái và chậm rãi, bằng một giọng trầm, kích thích, và hơi khàn đục. Tôi uống cạn ly.
    Hai người kia trở vào. Họ đã tỉnh rượu phần nào nhờ không khí thoáng mát. Chúng tôi chia tay. Tôi giúp nàng mặc áo khoác. Nàng đứng ngay trước tôi, đôi vai nhích khẻ để đón nhận chiếc áo, đầu hơi ngã ra sau và quay sang một bên, môi hé mở một nụ cười về phía trần nhà không dành cho ai cả. Tay tôi chùng xuống một giây. Mắt tôi để đâu suốt thời gian này cơ chứ? Tôi chợt hiểu sự nhiệt tình của Lenz.
    Nàng xoay nửa người lại, dò hỏi. Tôi lập tức nâng chiếc áo khoác lên và liếc nhìn Binding, đứng cạnh bàn ăn, đỏ hồng như quả anh đào và vẫn còn chút ánh đờ đẫn trong đôi mắt.
    "Cô có nghĩ anh ấy đủ tỉnh táo để lái xe không?" tôi hỏi.
    "Tôi tin là có."
    Tôi chăm chú nhìn nàng. "Nếu anh ấy không ổn mấy, một trong ba đứa tôi có thể đưa cô về."
    Nàng cầm hộp phấn lên và mở nấp. "Không sao đâu," nàng nói."Nếu uống một chút gì đó, anh ấy lái xe còn cừ hơn."
    "Lái cừ hơn, nhưng có thể không an toàn cho lắm," tôi trả lời.
    Nàng nhìn tôi qua bờ gương nhỏ.
    "Cầu trời cho mọi chuyện được bình an," tôi nói. Phản ứng của tôi có phần thái quá, bởi cách đứng của Binding cũng không tệ. Nhưng tôi muốn làm một điều gì đó để nàng đừng biến mất vào hư không.
    "Có thể nào tôi gọi điện cho cô, sáng mai không chừng, để hỏi thăm, được không?"
    Nàng không trả lời.
    "Tôi nghĩ chúng tôi cũng có lỗi một phần trong việc nhậu nhẹt say sưa này," tôi nài nỉ. "Đặc biệt là tôi, với rum mừng sinh nhật."
    Nàng cười. "Được rồi, nếu anh muốn. Western 2796."
    Tôi lập tức ghi lại con số và ra ngoài. Chúng tôi nhìn Binding lái đi và uống ly sau chót. Rồi chúng tôi tháo xích cho Karl. Nó phóng vun vút trong sương mù tháng Ba mỏng mảnh, gió bạt mạnh và hơi thở chúng tôi dồn dập; thành phố tiến gần, dữ dội trong đêm đen, và cuối cùng nổi bật lên trong bóng tối tù mù, như một con tàu đèn đuốc sáng choang vui nhộn, quán "The Bar." Chúng tôi đem Karl đến gần và thả neo. Cognac sáng bóng như vàng, gin long lanh như ngọc biếc và rum, tự nó đã là sự sống. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế cao ở quầy rượu; tiếng nhạc xập xềnh, nhịp đập của cuộc sống rõ và mạnh; nó kiêu hãnh đập trong tim chúng tôi; sự chán chường của những căn phòng bài trí tồi tàn đang chờ đợi, niềm tuyệt vọng của sự sinh tồn, tất cả đều được quên lãng; quày của quán "The Bar" là buồng lái của Thuyền Trưởng con tàu Cuộc Sống, và chúng tôi, một lần nữa lại ra khơi.

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 2


    Hôm sau là Chúa Nhật. Tôi ngủ nướng và chỉ dậy khi nắng rọi đến bên giường. Tôi nhanh nhẹn nhảy xuống và mở tung cửa sổ. Bên ngoài trời trong và tươi mát. Tôi đặt cái bếp cồn lên bệ cửa sổ và đem ra hộp cà phê. Frau Zalewski, bà chủ nhà, cho phép tôi được pha cà phê trong phòng. Cà phê của bà rất nhạt -- nhất là khi người ta đã say bí tỉ đêm trước.
    Tôi ở trọ nhà bà đã hai năm. Tôi ưa thích địa phương này. Lúc nào cũng có chuyện để làm, vì Phòng Thương Nghiệp, tiệm Café International và Salvation Army Barracks nằm gần nhau như môi với răng. Và ngay trước nhà trọ là một nghĩa trang cũ, không sử dụng nữa. Nhiều cây to bóng mát như ở công viên, và trong những đêm tỉnh mịch, ta có thể tường chừng đang ở thôn quê. Một mặt khác, thường thì phải đến khuya mới có sự yên lặng; vì ngay bên cạnh nghĩa trang là khu giải trí với các vòng ngựa gỗ và thuyền đu.
    Đối với Frau Zalewski, nghĩa trang là một tài sản đáng giá. Khi cho thuê phòng, bà thường ca tụng không khí trong lành và tầm nhìn thoáng đãng, và do đó ra giá cao lên. "Nhưng, thưa ông, hãy nghĩ đến lợi thế ấy!" là công thức bất di bất dịch của bà.
    Tôi chậm rải mặc y phục. Điều ấy cho tôi cảm giác lười lĩnh của ngày Chúa Nhật. Tôi rửa mặt; tôi thư thả đi quanh phòng, đọc báo, pha cà phê; tôi đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống đường; tôi lắng nghe tiếng chim hót trên đầu ngọn cây ở nghĩa trang đối diện -- những ống tiêu bạc bé bỏng của Thượng Đế, chúng ríu rít phụ họa cho tiếng phong cầm rền rĩ, êm đềm và buồn thảm ở Hội Chợ bên kia. Có khoảng nửa tá áo sơ-mi và vớ, nhưng tôi chọn thật kỹ, như thể tôi có nhiều gấp hai mười lần; vừa huýt sáo tôi vừa lộn trái các túi quần áo -- tiền lẻ, dao xếp, chìa khóa, thuốc lá -- và đây rồi, mẩu giấy có ghi tên và số điện thoại của cô gái. Patricia Hollmann -- một cái tên thánh hiếm gặp, Patricia. Tôi đặt tờ giấy xuống bàn. Có thật chuyện ấy mới xảy ra hôm qua? Dường như đã xa xôi lắm -- gần như đã quên lãng qua hơi rượu xám ngọc. Đó là điều đáng kể của việc chén chú chén anh; nó đưa người ta đến gần nhau rất nhanh, nhưng cũng làm cho khoảng cách giữa đêm và ngày hôm sau dài như những năm trường.
    Tôi nhét mẩu giấy dưới chồng sách. Tôi có nên gọi nàng không? Có lẽ có--mà cũng có lẽ không. Sáng hôm sau, ta thường nghĩ khác về những chuyện như thế. Tôi khá hài lòng, thực vậy, có được chút bình yên. Đã có đủ phiền toái trong những năm gần đây. Hãy giữ một khoảng cách an toàn, Koster thường nói. Nếu để cho một điều gì đó thân cận quá, ta sẽ muốn nắm giữ. Mà ta nào có thể giữ được một điều gì.
    Vào lúc ấy, sự thù ghét thường lệ của ngày Chúa Nhật bắt đầu ở phòng bên cạnh. Tôi đi tìm cái mũ, có lẽ đã cất kỹ ở một chỗ nào đó đêm qua, và nghe lõm câu chuyện của họ. Đó là Hasse và bà vợ đang lăng mạ lẫn nhau. Suốt năm năm trời, hai người chung sống trong một căn phòng nhỏ hẹp nơi đây. Họ không phải là người xấu. Nếu họ có một căn hộ ba phòng, với gian bếp cho người vợ và thêm một đứa trẻ, có lẽ cuộc hôn nhân của họ đã diễn biến tốt đẹp. Thế nhưng nguyên một căn hộ rất đắt tiền và một đứa trẻ trong thời buổi thiếu an ninh này -- làm sao có được! Cho nên họ đành sống vật vã ở đấy, bà vợ phát cuồng và ông chồng lúc nào cũng thắt thỏm lo bị mất việc. Nếu chuyện ấy xảy ra, đời ông sẽ tàn. Ông đã bốn mươi lăm tuổi. Không ai sẽ mướn, một khi ông bị sa thải. Thật là một bất hạnh thời đại -- trước đây người ta từ từ lắng chìm và luôn luôn vẫn có một cơ hội để ngoi lên -- thế nhưng trong thời buổi này, ở bờ xa bên kia của mỗi lần sa thải, vực thẳm không đáy thất nghiệp kinh niên lại há mõm đón chào.
    Tôi cố lẽn ra, nhưng có tiếng gõ cửa và Hasse thất thểu bước vào. Ông gieo mình xuống ghế. Ông là một người hiền lành với đôi vai xuôi và râu mép thưa. Một thư ký nhún nhường, siêng năng. Nhưng nay họ là những người kém may mắn nhất. Có lẽ luôn luôn là thế. Sự khiêm nhường và tính chuyên cần chỉ được tưởng thưởng trong tiểu thuyết. Ngoài đời, họ bị bóc lột rồi quẳng sang một bên.
    Hass dơ tay lên. "Có hai người ở văn phòng sẽ bị đuổi. Chắc tôi sẽ là người thứ nhất, cậu nghĩ xem, có phải không."
    Từ kỳ lương này đến kỳ lương sau, ông sống trong nỗi lo sợ ấy. Tôi rót cho ông một cốc rượu mạnh.Toàn thân ông run lẩy bẩy. Ta có thể đoán, một ngày nào đó ông sẽ ngã quỵ. Ông không còn một chút sức kháng cự nào.
    "Và lúc nào cũng là những câu đay nghiến này," ông khẻ nói.
    Bà vợ quy chụp trách nhiệm cho ông, hiển nhiên là thế, về cuộc đời của bà. Bà bốn mươi hai tuổi, da thịt hơi nhão và nhan sắc phai tàn, nhưng dĩ nhiên chưa đến mức tang thương như ông chồng. Bà bị bệnh kinh hoảng phút chót.
    Dính líu vào cũng chẳng ích gì.
    "Hasse này," tôi nói, "Ông cứ yên lặng ở chơi nơi đây cho tới khi nào cũng được. Tôi phải ra ngoài. Có cognac trong tủ áo, nếu ông muốn. Trong đấy cũng có rum nữa. Mấy tờ báo đây nhé. Rồi chiều nay, dẫn bà ấy đi dạo, chỗ nào cũng được, miễn là ra khỏi ngôi nhà này. Xem chiếu bóng. Không đắt tiền hơn vài giờ ở quán cà phê mà còn một chút gì lưu lại sau đó. Lời vàng ngọc của ngày hôm nay là hãy quên đi, đừng nung nấu trong lòng."
    Cửa phòng của họ vẫn mở. Người đàn bà khóc tỉ tê. Tôi đi dài trên hành lang. Căn phòng kế cửa khép hờ. Lắng nghe. Một vầng phấn hương lan tỏa. Erna Bonig, thư ký riêng, sống ở đấy. Quá sang trọng so với đồng lương của chị; nhưng mỗi tuần một ngày, xếp thường đọc văn thư cho chị chép đến sáng. Và hôm sau chị sẽ rất gắt gỏng. Bù lại, chị ra ngoài khiêu vũ mỗi đêm. Khi không khiêu vũ được nữa, chị sẽ không muốn sống làm gì, chị giải thích. Chị có hai người bạn. Một người yêu chị, tặng hoa cho chị. Người kia, chị yêu và đưa tiền cho hắn.
    Phòng kế bên thuộc Bá Tước Orlov, bậc thầy kỵ mã, người Nga lưu vong, hầu bàn, phụ diễn phim và điếm đực, râu hai bên má hoa râm. Thiên tài chơi ghi-ta. Mỗi đêm ông cầu nguyện Đức Mẹ Kasan ban cho một chân tiếp tân ở một khách sạn sang bậc nhất; và ông thường khóc khi say.
    Phòng kế. Frau Bender. Y tá ở viện nuôi trẻ mồ côi. Năm mươi tuổi; chồng chết trong chiến tranh; hai con chết vì suy dinh dưỡng, năm 1918. Có một con mèo tam thể. Con mèo duy nhất của cả nhà.
    Tiếp đó -- Muller, kế toán viên đã về hưu, biên tập cho tạp chí của một hội chơi tem. Một bộ sưu tập tem biết đi, không có gì khác hơn. Một người hạnh phúc.
    Tôi gỏ cánh cửa cuối cùng. "Này, Georg," tôi nói, "vẫn không có gì mới hả?"
    Georg Block lắc đầu. Anh ấy là sinh viên học kỳ thứ tư. Để đeo đuổi việc học, anh đã làm thợ mỏ trong hai năm. Hiện nay, số vốn dành dụm gần cạn; chỉ còn đủ tiền mua thực phẩm trong hai tháng. Anh không thể trở lại mỏ -- có quá nhiều công nhân mỏ thất nghiệp. Anh cố làm đủ nghề vặt để kiếm thêm. Có lần, anh dành nguyên một tuần giao hóa đơn cho một hảng sản xuất bơ thực vật, và rồi hảng phá sản. Ngay sau đó, anh tập tành bán báo và tưởng là dễ thở. Chỉ ba ngày sau, hai tay buôn có môn bài đã tấn công, xé bỏ tất cả báo của anh, và cảnh cáo anh không được để chúng thấy anh ở địa bàn của chúng thêm một lần nữa. Đủ lắm rồi, họ cũng chật vật như anh, nào có khác. Hôm sau anh lại đi, dù phải trả tiền cho số báo đã mất ngày trước. Một người lái mô tô tông phải anh, và báo văng tứ tung xuống bùn. Thế là đi đời thêm hai đồng mark. Anh cố gắng lần thứ ba, chỉ để về nhà với tấm áo khoác rách bươm và mặt mày sưng húp. Thế là anh bỏ cuộc. Nay anh ngồi nhà cả ngày trong tuyệt vọng, học như hóa rồ, như thể việc học có đưa đến một lợi ích nào. Anh chỉ ăn mỗi ngày một bửa. Thế nhưng hoàn tất việc học hay không cũng chẳng có gì khác biệt -- nếu như thi đỗ, ít nhất cũng phải mười năm anh mới hy vọng tìm được việc làm.
    Tôi đưa anh một bao thuốc lá. "Sao không bỏ cho rồi, hở Georgie? Tớ đã, như cậu biết. Sau này nếu muốn, ta học lại mấy hồi."
    Anh lắc đầu. "Không, nếu không kiên trì ta sẽ đánh mất những kỷ năng đã có. Tớ hiểu như thế, nhờ làm thợ mỏ. Tớ không thể làm việc ở mỏ một lần nữa."
    Gương mặt xanh xao, đôi tai vễnh to, ánh mắt cận thị ngây dại, thân hình tiều tụy, ngực lép kẹp-- lạy Chúa tôi!
    "Thôi thì chúc anh may mắn, Georgie."
    Và tiếp đến là nhà bếp. Đầu lợn lòi --quà của Zalewski, người quá cố. Điện thoại. Bóng tối nửa vời. Mùi ga và mỡ lâu ngày hăng hắc. Cửa mở vào hành lang, với nhiều danh thiếp gắn cạnh nút chuông. Danh thiếp của tôi, một trong số đó, ghi: Robert Lohkamp, sinh viên ban triết, bấm hai chuông dài. Tấm thiệp cáu bẩn và ố vàng theo thời gian. "Sinh viên ban Triết." Oách nhỉ. Ngày xưa, có như thế. Tôi xuống cầu thang, đi ra quán Café Internatiional.
    International là một lổ hổng dài, tối thui, tù mù khói thuốc, với nhiều phòng ở cuối nhà. Gần cửa ra vào, cạnh quày rượu là cây đàn dương cầm. Thật đáng buồn vì nó sai giọng, có nhiều dây chùng và long mất vài phím trắng. Nhưng tôi rất mến nó vì tất cả những khiếm khuyết ấy. Nó là con ngựa già tàn tật, đã chia sẻ ít nhất một năm của cuộc đời tôi, bởi đây là chỗ tôi được thuê để chơi đàn.
    Các gian phòng phía sau, những tay chăn gia súc thỉnh thoảng tụ tập ở đó, cũng như khách vãng lai từ công viên giải trí. Các cô gái điếm thường ngồi gần cửa.
    Phòng rượu vắng tanh, trừ Alois, người bồi có gan bàn chân phẳng dẹp, đứng sau quày. "Như thường lệ?" anh hỏi.
    Tôi gật đầu. Anh mang đến một cốc rum. Tôi ngồi xuống bàn và nhìn mông lung vào khoảng không trước mặt. Một dãi ánh sáng xám rọi xéo qua ô cửa sổ trên cao, phản chiếu trên những chai rượu mạnh cài trên giá. Brandy anh đào lấp lánh như hồng ngọc.
    Alois tiếp tục tráng rửa ly cốc. Con mèo của bà chủ quán rù rù trên mặt dương cầm. Tôi chậm rãi rít mấy hơi thuốc. Không khí làm cho người ta ngầy ngật... Hôm qua, cô ấy có giọng nói đặc biệt làm sao! Hơi khàn một chút, có lẽ thế, nhưng mà, cũng dịu dàng.
    "Đem cho chúng tôi mấy tờ báo, Alois," tôi nói.
    Cửa mở kẻo kẹt. Rosa bước vào. Rosa, cô gái điếm ở nghĩa trang, còn được gọi là "con ngựa sắt" -- tên thân mật mô tả tính bất khuất của chị. Chị ấy đến, như thói quen mỗi sáng Chúa Nhật, uống một cốc sô-cô-la. Sau đó, chị sẽ đi Burgdorf thăm con.
    "Chào em, Robert."
    "Chào Rosa. Con gái chị khỏe không?"
    "Chút nữa sẽ biết. Đây --nhìn cái này." Từ một bọc giấy, chị rút ra một con búp bê má đỏ hây hây, và lấy tay ấn lên bụng nó. "Mama," con búp bê thỏ thẻ, nét mặt Rosa bừng sáng.
    "Hay nhỉ," tôi nói.
    "Đã xong đâu, đợi đấy," chị ngửa con búp bê ra sau. Đôi mắt nó cụp lại, một tiếng 'cách' vang lên khe khẻ.
    "Ơ, em không ngờ!"
    Rosa sung sướng, sẳn sàng gói con búp bê lại. "Robert, em hiểu những việc này. Chị có thể thấy. Một ngày nào đó, em sẽ là một người cha tốt."
    "Chị nghĩ thế à?" tôi nói, hoài nghi.
    Rosa hết lòng sống vì con. Cho đến ba tháng trước đây, khi con bé chưa biết đi, chị còn giữ nó trong phòng. Chị có thể làm được điều ấy, mặc dù nghề nghiệp của mình, nhờ khéo sử dụng một tủ áo nhỏ kế bên phòng chị. Đêm đêm khi trở về với người tình, chị thường viện một lý do nào đó để hắn chờ bên ngoài, trong khi chị vào nhà, hộc tốc đẩy xe em bé vào trong tủ áo, đóng lại; rồi quay ra đón khách. Nhưng trong tháng Mười Hai, con bé thường bị đẩy từ căn phòng ấm của mẹ vào tủ áo không sưởi, nên nhiễm lạnh và khóc toáng vào những lúc mẹ nó cần tiếp khách.
    Rất khó khăn cho Rosa xa rời con. Chị gửi nó ở một nhà trẻ đắt tiền, nơi ấy chị đóng vai một bà góa đáng kính-- nếu người có thẩm quyền biết sự thật, họ không đời nào chấp nhận đứa trẻ.
    Rosa đứng lên. "Thứ Sáu em đến, chắc nhé?"
    Tôi gật đầu.
    Chị nhìn tôi. "Em biết lý do, phải không?"
    "Tất nhiên."
    Tôi không có một ý niệm nào; nhưng tôi không hỏi. Đánh đàn chỗ ấy trong năm đó, tôi có quy tắc của mình. Như thế là tốt nhất. Cùng một nguyên tắc, tôi đối xử với tất cả các cô gái bằng một thái độ thân thiện như nhau. Tôi không thể làm khác hơn, ở vị thế của mình.
    "Au revoir, Robert."
    "Cheerio, Rosa."
    Tôi nán lại một lúc. Với tôi, International gần như là chỗ nghĩ ngơi thanh tẩy, thế nhưng hôm nay, vì một lý do nào đó, tôi không đạt được trạng thái mơ màng bình yên thường có những ngày Chúa Nhật. Tôi uống thêm một ly rum, vuốt ve con mèo và bỏ đi.
    Cả ngày tôi rong ruỗi khắp thành phố. Tôi không biết vì sao tôi cảm thấy bất an. Tôi bức rức không dừng lại một chỗ nào đủ lâu. Buổi chiều sắp tàn, tôi ghé xưởng sửa xe. Koster đang cắm cúi với chiếc Cadillac. Cách đây không lâu, chúng tôi mua nó với giá rẻ như bèo. Nó đã được tu sửa toàn diện và Koster sắp tô điểm những nét chấm phá cuối cùng. Đó là một sự đầu tư liều lĩnh. Chúng tôi hy vọng sẽ có lời, nhưng tôi không chắc tìm được người mua. Trong thời buổi khó khăn, người ta thường muốn xe nhỏ, không phải một chiếc to kềnh thế này.
    "Tớ sợ mình sẽ kẹt với nó, Otto," tôi nói.
    Nhưng Koster đầy hy vọng. "Chính xe cở trung mới bị kẹt, Bob ạ," anh giải thích. "Có thị trường cho loại xe rẻ tiền, và cũng có thị trường cho loại xe hạng sang. Vẫn còn rất nhiều người giàu có; hoặc những người thích phô trương."
    "Gottfried đâu rồi?" tôi hỏi.
    "Đi họp chính chị, chính em."
    "Cái ông điên. Thế anh ấy muốn gì ở những nơi đó?"
    Koster cười lớn. "Tớ nghĩ, anh ấy cũng chẳng biết. Một chút mùa xuân khơi động bầu nhiệt huyết. Và hẳn là anh ấy luôn luôn chơi trò đuổi bắt những điều mới lạ."
    "Có lẽ thế," tôi nói. "Cậu có cần tớ làm gì không?"
    Chúng tôi hí hoáy với chiếc xe cho đến khi trời tối không thấy gì được nữa. "Tớ nghĩ như thế đủ rồi, ta về thôi," Koster nói. Chúng tôi gột rửa dầu mỡ. "Đố cậu, tớ có cái gì đây," anh nói, vỗ vào cái ví da trong túi.
    "Ai mà biết."
    "Vé xem đấu quyền Anh tối nay. Hai vé. Đi nhé?"
    Tôi ngần ngừ. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên.
    "Stilling so găng với," anh nói, "Walker. Một trận gay cấn đấy."
    "Cậu đi với Gottfried đi," tôi đề nghị, cảm thấy mình là thằng khờ vì không đi xem đấu võ. Nhưng không hiểu sao, tôi chẳng thấy tha thiết.
    "Cậu có sao không?"
    "Không."
    Anh nhìn tôi.
    "Chắc tớ về nhà," tôi nói. "Cần viết thư và làm vài thứ lặt vặt. Đôi khi ta phải ..."
    "Cậu không bệnh chứ?" anh hỏi, lo lắng.
    "Không bệnh một tị nào. Có lẽ, cũng có một chút xuân thì khơi lòng nao nức."
    "Thôi được. Tùy cậu."
    Tôi rảo bước về nhà. Một lần nữa, tôi ngồi trong phòng và không nghĩ ra được điều gì muốn làm. Tôi đứng dậy, bước loanh quanh. Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao tôi muốn về. Cuối cùng, tôi bước ra hành lang, ghé thăm Georg. Trên lối đi, tôi chạm mặt Frau Zalewski.
    "Chèng đéc ơi!" bà nói, ngạc nhiên. "Cậu đấy à?'
    "Làm sao chối được," tôi nói, hơi bực mình.
    "Không lông nhông ở ngoài đường!"" Bà lúc lắc mái tóc bạc uốn lọn. "Một kỳ quan, trong những kỳ quan!"
    Tôi không ở chơi lâu với Georg. Mười lăm phút sau tôi đã quay về. Tôi lưỡng lự, không biết có nên uống một cốc rượu hay không. Tôi không thấy thèm. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngắm nhìn đường phố.
    Hoàng hôn buông nhanh xuống những cánh dơi chấp chới bên kia nghĩa trang. Nền trời phía sau Phòng Thương Nghiệp xanh như màu táo non. Đèn đường đã thắp, dù trời chưa tối hẳn -- trông chúng như đông đá. Tôi lần tay dưới chồng sách, tìm mảnh giấy có ghi số điện thoại. Cuối cùng rồi . . . Gọi điện thoại chắc cũng không hại gì. Dù sao đi nữa, hầu như tôi đã hứa. Vả lại, không chừng cô ấy vắng nhà.
    Tôi bước ra hành lang, chỗ có điện thoại, cầm ống nghe và gọi tổng đài. Trong lúc chờ đợi, tôi cảm thấy một cảm giác hy vọng dễ chịu trào dâng và ứa ra ở đầu cái ống nghe màu đen. Nàng có nhà. Rồi khi một giọng nói rất trầm và hơi khàn đột nhiên cất lên như bóng ma trong mùi mỡ và tiếng bát đĩa lanh canh từ phòng khách của Frau Zalewski -- một giọng nói từ tốn, như nghĩ ngợi từng chữ -- tất cả nỗi niềm băn khoăn của tôi tan biến. Tôi gác ống nghe, sau khi đã hẹn gặp nàng vào ngày mốt. Thình lình, cuộc đời dường như không còn vô nghĩa nữa. "Mình điên thật," tôi nghĩ, lắc đầu.
    Rồi tôi lại cầm ống nghe lên và gọi Koster.
    "Otto, cậu còn dư vé không ?"
    "Còn."
    "Tốt lắm. Vậy tớ đi."
    Sau đó, chúng tôi lang thang rất lâu trong thành phố. Những con đường, dù sáng sủa, nhưng hoang vắng. Bảng hiệu neon và đèn ở các cửa hàng thắp lên vô ích. Những tượng sáp bên trong cửa sổ một gian hàng, đầu tô vẽ, phô mình trần trụi. Trông chúng ma quái và bệnh hoạn. Nữ trang lấp lánh trong cửa kính gian hàng kế bên. Rồi một tiệm bách hóa, sáng choang, trắng lốp, nổi bật như giáo đường, tơ lụa màu sắc tươi vui như bọt biển trong cửa kính. Nhiều tượng người xanh xao, hao gầy dựng trước một rạp chiếu phim; và dọc theo đó, một cửa hàng thực phẩm phô bày sự huy hoàng của nó: trái cây đóng hộp chất cao như tháp, đào tiên nằm trong vĩ lót, ngỗng béo xỏ trên dây như phơi quần áo, các ổ bánh mì nâu xếp giữa thịt nguội và xúc xích gia vị cầu kỳ, và, ở trung tâm tất cả, pa-tê gan và cá hồi cắt lát, hồng mượt và vàng mơ.
    Chúng tôi ngồi trên ghế, gần công viên. Đêm mát lạnh và trăng treo như một ngọn hồ quang trên những nóc nhà. Đã quá nửa đêm. Công nhân sửa đường xe điện dựng lều trên mặt đường đá gần đó. Ống bễ rên xiết thổi và hoa lửa bắn như mưa xuống những bóng người lom khom, trịnh trọng. Bên cạnh đó, nồi nhựa đường tỏa khói như một cái bếp dã chiến.
    Chúng tôi đắm chìm trong suy tư.
    "Khá lạ kỳ cho một ngày Chúa Nhật, Otto nhỉ?"
    Koster gật đầu.
    "Ta hài lòng vì nó đã chấm dứt," tôi trầm ngâm nói.
    Koster nhún vai. "Có lẽ một khi ta đã quen sống trong khuôn khổ, nếu có một chút tự do, ta sẽ cảm thấy khó chịu."
    Tôi bẻ cao cổ áo khoác. "Chẳng nói lên gì mấy cho cuộc đời của chúng ta, Otto."
    Anh nhìn tôi, mỉm cười. "Lại càng ít có gì để nói, chỉ mới vài năm trước thôi, Bob."
    "Đúng," tôi đồng ý. "Tuy thế . . ."
    Máy khoan lực xịt thứ ánh xanh lục chói gắt xuống mặt đường nhựa. Lều công nhân, với ánh đèn lung linh bên trong, như một miền quê nhỏ bé, ấm cúng.
    "Theo cậu, thứ Ba này chiếc Cadillac sẳn sàng chưa?" tôi hỏi.
    "Có lẽ," Koster nói. "Sao cậu hỏi?"
    "Tớ chỉ thắc mắc . . ."
    Chúng tôi đứng dậy và quay về nhà. "Tớ có phần gắt gỏng tối nay, Otto," tôi nói.
    "Ai cũng thỉnh thoảng bị như thế," Koster nói. "Ngủ ngon nhé, Bob."
    "Tạm biệt, Otto."
    Trong phòng mình tôi tiếp tục ngồi thêm một lúc. Bỗng nhiên tôi không còn ưa thích chỗ này nữa. Ngọn đèn chùm trên trần -- xấu xí ghê gớm-- ánh sáng chói mắt; và những ghế bành, vải bọc đã mòn xơ xác; nhựa lót nền nhà, trông ảm đạm nghèo nàn; bồn rửa tay -- ta không thể mời một người đứng đắn đến đây, tôi nghĩ. Phụ nữ, chắc chắn không. Cùng lắm, một cô gái làng chơi từ quán International mà thôi.

  2. #2
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu Chương 3

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 3


    Sáng thứ Ba chúng tôi ngồi ở sân trong, ngay trước xưởng sửa xe, dùng điểm tâm. Chiếc Cadillac đã sửa xong xuôi. Lenz cầm một tờ giấy, nhìn chúng tôi đắc thắng. Là 'quản đốc phụ trách quảng cáo' cho xưởng, anh vừa đọc cho chúng tôi nghe mẩu rao vặt bán xe do chính anh soạn. Bắt đầu với dòng chữ "Sang trọng. Hãy du lịch miền Nam nắng ấm," nó là một pha tạp giữa một bản tình ca và thánh ca.
    Koster và tôi im thin thít. Ta cần thời gian để hồi phục sau một cơn lũ văn chương hoa gấm như thế. Lenz lại tưởng nhầm chúng tôi đã bị chinh phục.
    "Vừa thơ mộng vừa mạnh mẽ, hén?" anh nói, hãnh diện. "Trong thời kỳ thực dụng, cần phải lãng mạn, bí quyết nằm ở chỗ đó. Những cực đối lập hấp dẫn nhau."
    "Không đúng, khi tiền bạc dính dáng vào," tôi đáp.
    "Người ta không mua xe để tiết kiệm, em ơi," Gottfried giải thích, giọng kẻ cả. "Họ mua xe để đầu tư; và đó là lúc mà, với các doanh nhân, cái lãng mạn tình tứ bắt đầu nảy nở, bất kể ra sao chăng nữa. Còn với phần lớn công chúng, nó tắt ngúm ở đấy. Otto, cậu nghĩ sao?"
    "Ơ, cậu biết là --" Koster thận trọng bắt đầu.
    "Đừng phí thời gian bàn cãi, Otto," tôi chêm vào. "Đó là thứ rao vặt dành cho những miền sông nước hay cho kem dưỡng da, không phải cho xe hơi."
    Lenz há mồm.
    "Gượm đã," tôi tiếp tục. Cậu nghĩ tụi này có thành kiến chứ gì. Tớ đề nghị thế này -- hãy hỏi Jupp. Ba người sẽ có tiếng nói đa số."
    Jupp là nhân viên duy nhất của chúng tôi, một thiếu niên mười lăm tuổi, giống như thợ tập việc. Thằng bé phụ trách việc bơm xăng, mua thức ăn sáng cho chúng tôi, và dọn dẹp ga-ra buổi tối. Jupp có thân hình nhỏ nhắn, đầy tàn nhang, và đôi tai to nhất tôi từng thấy trong đời. Koster tuyên bố, nếu có bao giờ Jupp bị rơi khỏi máy bay, nó sẽ không hề hấn gì. Đôi tai sẽ giúp nó lượn theo gió, đáp xuống đất an toàn.
    Chúng tôi gọi thằng bé đến. Lenz đọc cho nó nghe mẩu rao vặt.
    "Em có thích mua một chiếc xe như thế không, hở Jupp?" Koster hỏi.
    "Một chiếc xe?" Jupp hỏi.
    Tôi cười to. "Dĩ nhiên, một chiếc xe," Lenz gầm lên. "Thế em nghĩ đó là cái gì, một con hà mã hay sao?"
    "Nó có bộ sang số phối hợp, bánh đà thủy lực và thắng hơi không?" Jupp hỏi, không chùn bước.
    "Ngốc tử, đương nhiên đó là chiếc Cadillac của chúng ta," Lenz khịt mũi.
    "Anh có nói thế bao giờ!" Jupp trả đũa, cười toe toét tận mang tai.
    "Gottfried, cậu thấy rồi." Koster nói. "Đó là tính lãng mạn thời hiện đại."
    "Trở về bơm xăng đi, Jupp, thằng quỷ sứ thế kỷ hai mươi."
    Cầu nhầu, Lenz lại biến vào trong văn phòng -- thêm thắt vài chi tiết kỷ thuật đủ để tương thích và bảo toàn ý thơ tình tứ của mẩu rao vặt.
    Vài phút sau, Thanh Tra Barsig xuất hiện ở cổng sân trong. Chúng tôi đón tiếp ông cực kỳ tôn kính. Ông là kỹ sư và nhân viên kiểm tra cho hãng Bảo Hiểm Phượng Hoàng -- một người có ảnh hưởng quan trọng tới việc chúng tôi được giao xe để sửa hay không. Chúng tôi có quan hệ tốt với ông. Là một kỹ sư, ông không để thứ gì lọt khỏi cặp mắt cú vọ tinh tường của mình. Thế nhưng với tư cách một người sưu tập bướm, ông mềm như cọng bún thiu. Ông có một bộ sưu tập phong phú, và có lần chúng tôi cho ông một con bướm đêm lớn một hôm bay lạc vào xưởng. Khi chúng tôi đưa nó ra, mặt ông tái xanh vì xúc động. Đó là con bướm đầu lâu, rõ ràng rất hiếm quý, mà ông vẫn hằng ao ước. Ông không bao giờ quên được điều ấy, và từ đó trở đi, luôn luôn tìm cách cho chúng tôi được chia việc theo đúng lẽ công bằng. Để đổi lại, chúng tôi bắt cho ông bất kỳ con bướm đêm nào trong tầm tay.
    "Một ly vermouth nhé, Herr Barsig?" Lenz, vừa mới nhú đầu ra, lễ phép hỏi.
    "Không uống rượu trước khi trời tối," Barsig trả lời. "Đó là nguyên tắc nghiêm nhặt của tôi."
    "Nguyên tắc cốt để phá vỡ, hoặc sẽ không có niềm vui," Lenz trả lời, vừa rót rượu vào ly. "Vì tương lai của bướm đêm phi ưng-thủy lạp, bướm lông công, và bướm đốm."
    Barsig ngần ngừ trong một thoáng.
    "Các bạn đã nói thế, làm sao tôi từ chối được," ông nói, nhận lấy ly rượu. "Nhưng trong trường hợp ấy, chúng ta cũng phải uống mừng tiểu bạch cúc." Ông cười ra vẻ ngượng nghịu. "Các bạn sẽ hài lòng khi biết, tôi đã khám phá được một loài bướm mới. Râu có lông tơ như lược."
    "Trời đất ơi!" Lenz kêu to. "Hoan nghinh! Vậy nay ngài là một người tiên phong và sẽ lưu danh hậu thế!"
    Chúng tôi cạn thêm một ly nữa, mừng loài bướm với cặp râu lược. Barsig lau bộ râu mép.
    "Tôi cũng có tin mừng cho các bạn. Đến đấy, mang chiếc xe Ford về. Cấp trên đã chấp thuận cho các bạn."
    "Tốt quá," Koster nói. "Chúng tôi sẽ làm. Còn tiền ước lượng thì sao ạ?"
    "Cũng duyệt xong."
    "Không bị cắt giảm?"
    Barsig nheo một mắt. "Ban đầu có vẻ khó khăn một chút. Nhưng cuối cùng thì . . ."
    "Một ly nữa mừng Công ty Bảo hiểm Phượng Hoàng," Lenz nói, rót thêm một đợt nữa.
    Barsig đứng lên.
    "Một nghề nghiệp kỳ quặc," ông nói trong khi ra về.
    "Các bạn nhớ người đàn bà trong chiếc xe Ford chứ? Bà ấy chết cách đây mấy hôm. Vết thương rất nhẹ và cạn. Rõ ràng chết vì mất máu."
    "Bà ấy được bao nhiêu tuổi ạ?" Koster hỏi.
    "Ba mươi bốn," Barsig trả lời; "và có mang bốn tháng. Bảo hiểm nhân thọ trị giá hai mươi ngàn marks."
    Chúng tôi lập tức đi lấy hàng, xe của người chủ tiệm bánh. Ông ta lái xe khi đã ngà hơi men và tông vào một bức tường trong đêm. Người vợ bị thương, nhưng ông ta chỉ trầy trụa qua loa mà thôi.
    Ông ta nhìn vào ga-ra khi chúng tôi chuẩn bị kéo xe. Đôi vai ú nụ, cổ bò mộng, đầu hơi chúi nghiêng tới trước. Ông ta quan sát chúng tôi một lúc lâu nhưng chẳng nói lời nào. Với gương mặt tai tái, kém sức khỏe của những người thợ nướng bánh, trong bóng tối lờ mờ, ông ta giống một con mọt gạo khổng lồ buồn thảm. Ông ta uể oải đến gần.
    "Chừng nào thì xong?" ông ta hỏi.
    "Khoảng ba tuần," Koster trả lời.
    Ông ta chỉ vào mui xe: "Dĩ nhiên gồm cả món này, phải không?"
    "Tôi không hiểu," Otto nói. "Tôi không thấy nó hỏng chỗ nào."
    Ông chủ tiệm bánh làm một cử chỉ nóng nảy. "Tôi có nói nó hỏng đâu. Ý của tôi là, tôi muốn thay cái mới. Theo tôi biết, các cậu có một mối hời, phải không? Chúng ta hiểu nhau quá mà, tôi nghĩ thế?"'
    "Chẳng hiểu một ly ông cụ nào," Koster nói.
    Anh thừa hiểu quá đi chứ. Ông ta muốn một cái mui xe mới mà chúng tôi, không phải công ty bảo hiểm, phải đài thọ. Chúng tôi dằng co một lúc, nhưng ông ta dọa sẽ hủy hợp đồng, đi tìm một xưởng khác ngoan ngoãn hơn. Cuối cùng, Koster đành nhượng bộ. Anh không bao giờ làm vậy, nếu chúng tôi không cần việc làm một cách khẩn thiết thế này.
    "Các cậu thấy chưa, sao không thỏa thuận ngay từ đầu?" ông chủ tiệm bánh nói, nụ cười quỷ quyệt. "Vài hôm nữa, tôi sẽ quay lại chọn chất liệu. Màu kem, tôi nghĩ. Màu êm dịu."
    Chúng tôi lái đi. Khi ra khỏi nơi ấy, Lenz trỏ vào nệm xe Ford. Có các vết bẩn to và đen sẩm. "Máu của bà vợ lão hãy còn đấy. Thế mà lão ta bắt chẹt cho bằng được một tấm mui mới! 'Màu kem," Chúa ơi! "Màu êm dịu'! Tớ phải ngã mũ bái phục! Tớ nghĩ lão ta dám đòi tiền bảo hiểm của hai mạng người lắm cơ. Barsig nói vợ lão ta đang có bầu, phải không?"
    Koster nhún vai. "Tớ đoán, lão sẽ nói, buôn bán là buôn bán, và chuyện này không liên hệ gì tới chuyện kia."
    "Có lẽ thế," Lenz nói, "nhưng cậu biết đấy, nhiều người có thể rút rỉa lợi lộc từ những niềm bất hạnh. Dù sao chăng nữa, chúng mình cũng sắp mất toi năm mươi đồng mark."
    Buổi chiều, tôi viện lý do để về sớm. Tôi có một cái hẹn với Patricia Hollman vào khoảng năm giờ, nhưng tôi không nói cho một ai ở xưởng sửa xe biết. Không phải tôi muốn dấu; nhưng bỗng dưng tôi cảm thấy chuyện ấy khó thành.
    Nàng cho tôi địa chỉ một quán cà phê. Tôi chưa bao giờ vào quán ấy; tôi chỉ biết đó là một cơ ngơi nhỏ và lịch sự. Không một chút nghi ngờ, tôi đi vào. Nhưng tôi giật mình kinh hoàng ngay khi bước qua cửa. Phòng đông nghẹt đàn bà con gái trò chuyện huyên thiên. Tôi đã lạc vào một quán trà tiêu biểu của nữ giới. Với một chút khó khăn, tôi cũng dành được một bàn trống. Tôi khổ sở nhìn quanh. Ngoài tôi ra, chỉ có hai người đàn ông khác và tôi không thích bề ngoài của họ.
    "Cà phê, trà hay sô-cô -la?" người bồi bàn hỏi trong lúc lấy khăn phủi những mẩu bánh vụn trên mặt bàn xuống áo tôi.
    "Một ly cognac lớn," tôi đáp.
    Hắn mang đến, cùng với một đám người, dẫn đầu bởi một bà dáng dấp lực lưỡng khó đoán tuổi, đầu đội một cái mũ tang thương.
    "Bốn người? Xin đi lối này," hắn nói, và chỉ về phía bàn tôi.
    "Khoan đã --" tôi nói. "Bàn này không còn trống. Tôi đang chờ một người."
    "Không được, thưa ông," người bồi bàn nói. "Không thể để dành chỗ vào giờ này."
    Tôi nhìn hắn. Rồi nhìn bà lực sĩ đứng cạnh bàn, tay bấu chặt thành ghế. Nhìn nét mặt của bà, tôi đành từ bỏ tất cả những ý định đối kháng. Nếu không có một bộ súng đại bác tầm gần, đừng ai hòng cản trở người đàn bà đang cương quyết chiếm hữu cái bàn này.
    "Dẫu sao, mang cho tôi một ly cognac nữa, hén?" tôi hậm hực nói với anh bồi.
    "Vâng, có ngay. Một ly to nữa?"
    "Một ly thật to, như thế này!"
    "Dĩ nhiên, thưa ông." Hắn cúi chào. "Bàn này đủ cho sáu người, ông biết đấy," hắn nói, ra vẻ hối lỗi.
    "Được rồi. Chỉ cần mang cognac ra."
    Bà lực sĩ có vẻ cũng là hội viên của hội bài trừ rượu. Bà gườm gườm nhìn ly rượu mạnh của tôi, như thể đó là một con cá ương sình. Để chọc tức bà, tôi gọi thêm một ly nữa và dương mắt nhìn lại. Bỗng nhiên tôi thấy mọi thứ đều vô lý. Tôi muốn gì ở đây nhỉ? Và tôi muốn gì với nàng? Tôi cũng không biết trong không khí náo nhiệt này, liệu tôi có thể nhận ra nàng hay không.
    Bực dọc, tôi nốc cạn ly cognac.
    "Salut," ai đó đàng sau tôi, lên tiếng.
    Tôi giật nẩy mình. Nàng đứng đấy, cười. "Anh bắt đầu thưởng thức rồi đấy à."
    Tôi đặt cốc rượu trong tay xuống bàn. Bỗng dưng tôi bối rối. Nàng khác hẳn với hình ảnh trong trí nhớ của tôi. Giữa đám đàn bà béo tốt phục phịch ở quán cà phê, trông nàng như một cô gái rừng núi Amazon, thon thả, điềm tỉnh, tươi tắn, vững vàng và ngoài tầm tay với.
    "Nơi này không bao giờ thích hợp với chúng ta," tôi nghĩ bụng, và nói: "Và cô từ đâu xuất hiện một cách bí ẩn thế? Tôi liên tục canh chừng cửa ra vào mà."
    Nàng chỉ qua bên phải. "Có một cái cửa ở đấy nữa. Nhưng tôi tới trễ. Anh có chờ lâu không?"
    "Không lâu chút nào. Giỏi lắm là hai hay ba phút. Tôi cũng vừa đến."
    Câu lạc bộ cà phê ở bàn đã im bặt. Tôi có cảm giác cái nhìn của bốn bà cố nội tỉnh như sáo đang dán sát vào lưng. "Cô muốn ngồi lại đây không?" tôi hỏi.
    Nàng liếc mắt quan sát những người chung bàn. Nàng cắn môi. Nhìn tôi với vẻ thú vị, nàng nói, "Tôi e là, quán cà phê nào cũng như nhau."
    Tôi lắc đầu. "Những quán vắng tốt hơn chứ. Chỗ này là cái hang quỷ, gây cho người ta cảm giác sút kém. Chúng ta đến bar rượu có lẽ hay hơn."
    "Bar rượu? Thế có tiệm rượu mở cửa lúc ban ngày ban mặt à?"
    "Tôi biết một tiệm," tôi nói. "Ở đó lúc nào cũng yên tỉnh. Nếu cô thích --"
    "Ô, tôi thích?"
    Tôi nhìn nàng. Trong một thoáng, tôi không hiểu ý nàng. Tôi không ghét những lời cay đắng mỉa mai nếu nó không nhắm vào tôi; thế nhưng, tôi luôn luôn có mặc cảm.
    "Được thôi, mình đến đấy," nàng nói.
    Tôi ra hiệu cho người bồi bàn. "Ba ly cognac lớn," ông ta quang quác như một con chim báo điềm gở muốn thanh toán vấn đề với khách nằm dưới mộ. "Ba đồng rưỡi."
    Nàng quay lại. "Ba ly cognac trong ba phút? Giỏi thế."
    "Có hai ly ngày hôm qua," tôi vội vàng thanh minh.
    "Đồ láo khoét!" bà lực sĩ ở bàn sau lưng, rít lên. Bà ấy nhịn từ nãy giờ đã lâu.
    Tôi quay lại và cúi chào. "Giáng Sinh vui vẻ, các bác." Rồi tôi chuồn ngay lập tức.
    "Anh đã cãi nhau với họ à?" nàng hỏi, khi chúng tôi ra khỏi quán.
    "Không hẳn thế. Tôi chỉ có ảnh hưởng không thuận lợi với các bà, trong vài trường hợp đặc biệt."
    "Tôi cũng thế," nàng đáp.
    Tôi nhìn nàng. Với tôi, nàng như đến từ một thế giới khác. Tôi hoàn toàn không hình dung nỗi nàng như thế nào và sống ra sao, ở nơi đấy.
    Trong bar rượu, vị thế của tôi vững vàng hơn. Khi chúng tôi bước vào, Fred, người pha rượu, đang đứng phía sau quầy chùi bóng cái ly rót cognac lớn. Anh chào tôi như thể mới gặp lần đầu, như thể anh không phải là người đã đưa tôi về nhà, chỉ mới hai đêm trước. Anh được đào tạo từ một trường dạy nghề giỏi, và anh giàu kinh nghiệm.
    Phòng vắng tanh chỉ trừ một bàn, như thường lệ, nơi Valentin Hauser ngồi. Tôi quen anh trong thời chiến; chúng tôi cùng chung một đại đội. Có lần anh đem ra tận tiền tuyến một lá thư mà anh nghĩ là của mẹ tôi. Anh biết tôi đang trông tin, vì mẹ tôi vừa trải qua một cuộc giải phẩu. Nhưng anh nhầm --nó chỉ là tờ quảng cáo cho một thứ nón ấm dệt bằng sợi tầm gai. Trên đường về, anh bị thương ở chân.
    Sau khi chiến tranh chấm dứt không lâu, Valentin được thừa kế một gia tài nhỏ và anh nhậu nhẹt lu bù từ đấy. Anh coi đó là bổn phận, uống để mừng vận may đã giúp anh sống sót trong chiến tranh. Anh không cần biết là đã nhiều năm trôi qua. Không ai có thể ăn mừng cho đủ, anh thường nói. Anh là một trong những người lưu giữ một ký ức siêu phàm về cuộc chiến. Những người khác đã quên hầu hết; nhưng anh còn nhớ mồn một, từng ngày, từng giờ.
    Tôi nghĩ anh uống đã khá nhiều, vì anh ngồi trong góc riêng, xa xôi, chìm lắng. Tôi dơ tay chào.
    "Salut, Valentin."
    Anh ngước lên và gật đầu. "Salut, Bob."
    Chúng tôi chọn một góc phòng. Người pha rượu đến gần.
    "Cô uống chi?" tôi hỏi.
    "Một ly Martini, có lẽ," nàng đáp. "Martini không đá."
    "Fred là chuyên viên về chuyện ấy," tôi nói.
    Fred tự cho phép mình nở một nụ cười.
    "Còn phần tôi, như thường lệ," tôi nói.
    Quán lạnh và tối, thoang thoảng mùi gin và cognac vương vãi đâu đây -- một mùi giống mùi rễ đỗ tùng và bánh mì. Một mô hình thuyền buồm bằng gỗ treo trên trần. Vách tường phía sau quầy được bọc đồng. Ánh sáng mờ ảo ở một giá đèn hắt sắc đỏ lên lớp vách đồng như thể một đám cháy ngầm đang lung linh soi bóng. Trong số các giá đèn nhỏ bằng sắt trên vách, chỉ có hai ngọn sáng hơn -- một ngọn gần Valentin và ngọn kia, gần chúng tôi. Chụp đèn bằng da mỏng làm từ bản đồ cũ và trông như những giải đất hẹp của địa cầu được chiếu sáng.
    Tôi ngượng ngập, không biết bắt đầu câu chuyện ra sao. Gần như tôi chẳng biết gì về nàng, và càng nhìn nàng, tôi càng thấy lạ lẫm. Đã từ lâu, tôi không kết giao với ai; tôi không còn thành thạo nữa. Tôi chỉ quen đàn đúm với đám bạn trai. Mới đây thôi, tiệm cà phê quá ồn ào -- và bây giờ ở đây, thình lình bỗng quá yên tỉnh. Không khí lắng đọng làm tăng trọng lượng từng con chữ khiến ta ngại ngùng không dám hé môi. Tôi ao ước phải chi tôi đang ở quán cũ...
    Fred mang rượu đến, và chúng tôi nâng ly. Rum nồng đậm và có hương vị nắng mới. Điều đó đáng kể đấy chứ. Tôi cạn ly và lập tức gọi thêm.
    "Cô thích chỗ này không?" tôi hỏi.
    Nàng gật đầu.
    "Hay hơn tiệm bánh ngọt phải không?"
    "Tôi ghét tiệm bánh ngọt," nàng nói.
    "Thế tại sao chúng ta lại gặp ở đấy, thay vì những chỗ khác?" tôi ngạc nhiên hỏi.
    "Tôi không biết." Nàng bỏ nón xuống. "Tôi chẳng nghĩ ra nơi nào khác."
    "Cô thích chỗ này lại càng tốt. Chúng tôi thường đến đây. Vào buổi tối, hầu như nơi này là nhà của chúng tôi."
    Nàng mỉm cười. "Chẳng phải như thế đáng thương lắm sao?"
    "Không," tôi nói, "phù hợp với thời đại."
    Fred đem đến cho tôi ly rượu thứ nhì. Anh đặt một điếu Havannah xanh lục lên bàn, cạnh cốc rượu. "Herr Hauser gửi anh."
    Từ góc của mình, Valentin ra dấu và nâng ly.
    "Ba mươi mốt tháng Bảy, mười bẩy," anh nói, giọng khàn đặc.
    Tôi gật đầu chào và cũng nâng ly.
    Anh luôn luôn phải uống mừng một điều gì đó. Có một đêm, tôi gặp anh ở một lữ quán vùng quê, đang uống rượu thưởng trăng; một ngày ở chiến hào, anh uống khi tình thế đặc biệt tồi tệ, và anh biết ơn vì mình còn sống và còn ngồi ở đấy.
    "Anh ấy là bạn cũ," tôi giải thích với nàng. "một người bạn thời chiến. Anh ấy là người duy nhất tôi biết có thể tinh luyện một chút hạnh phúc từ một nỗi bất hạnh lớn. Anh ấy không biết làm gì với đời mình nữa --do đó anh ấy vui sướng chỉ vì anh ấy còn sống."
    Nàng đăm chiêu nhìn tôi. Một vệt sáng rơi trên vầng trán và đôi môi nàng. "Tôi có thể hiểu điều ấy," nàng nói.
    Tôi ngước mắt. "Ơ, làm sao có thể? Cô còn trẻ quá mà."
    Nàng mỉm cười. Nụ cười lãng đãng trong ánh mắt mà thôi. Nét mặt gần như không đổi; chỉ trong trẻo hơn, như thể tỏa sáng từ bên trong.
    "Còn trẻ quá," nàng nói. "thật là một câu phát biểu! Với tôi, ta không bao giờ quá trẻ. Ta chỉ luôn luôn quá già!"
    Tôi im lặng trong chốc lát.
    "Từ một bình diện khác, có nhiều thứ để nói lắm " sau cùng tôi đáp, và ra hiệu cho Fred mang thêm một chút gì nữa để uống. Nàng tự tin và độc lập trong cách nghĩ; so với nàng, tôi có cảm giác mình giống một súc gỗ ngu si. Tôi muốn khởi đầu một cuộc đối thoại nhẹ nhàng vui tươi, một cuộc đối thoại lý thú, thứ mà ta thường nhớ đến khi còn lại một mình. Lenz có thể làm được chuyện ấy; còn với tôi, câu chuyện luôn luôn trở nên vụng về, khó nhọc. Cũng không sai lắm khi Gottfried thường nói, trong vai trò một người chiêu đãi, tôi có trình độ của một bà giám đốc sở bưu điện.
    May mắn thay Fred là một người bạn đầy hiểu biết. Thay vì loại ly nhỏ xíu như cái đê khâu thường ngày, anh mang đến một cốc vang to và đầy. Giúp anh khỏi mất công đi tới đi lui nhiều lần và tôi không ra vẻ uống quá nhiều. Tôi phải uống, nếu không tôi không thể nào thoát khỏi sự tẻ nhạt, trì độn này.
    "Cô không dùng thêm Martini sao?" tôi hỏi nàng.
    "Thế anh đang uống gì đấy?"
    "Cái này à? Rum."
    Nàng nhìn ly rượu của tôi. "Cùng một loại như thứ anh vừa uống."
    "Vâng," tôi nói. "Phần lớn tôi chỉ uống rum."
    Nàng lắc đầu. "Tôi không thể tin rằng nó có mùi vị thơm ngon."
    "Thật tình tôi không còn biết nó thơm ngon ra sao nữa," tôi nói.
    Nàng nhìn tôi. "Vậy anh uống làm gì?"
    "Rum," tôi nói, -- vui mừng vì vớ được một thứ mà tôi có thể ba hoa, --"rum không liên quan gì đến hương vị. Nó không phải chỉ là một thức uống --nó còn là một người bạn. Một người bạn giúp cho mọi việc dễ dàng hơn. Nó thay đổi thế giới. Và cho nên ta uống, dĩ nhiên là thế --" tôi đẩy cốc rượu sang một bên. "Nhưng tôi có nên gọi cho cô một ly Martini nữa hay không?"
    "Gọi rum, thì hơn." nàng nói. "Tôi nên thử một lần cho biết."
    "Tốt lắm," tôi nói, "nhưng đừng thử hôm nay. Rum rất nặng cho người mới tập. Làm ơn cho một ly cocktail Bacardi," tôi gọi với sang Fred.
    Fred mang đến các thứ. Anh còn mang một dĩa hạnh nhân tẩm muối và cà phê rang đen. "Để chai rum của tôi lại đây, anh nhé?"
    Dần dần mọi thứ bắt đầu mang một sắc thái mới. Cảm giác thiếu an toàn biến mất, chữ nghĩa nối gót theo nhau. Tôi không còn xét đoán từng chút những gì mình nói. Tôi tiếp tục uống và cảm thấy một con sóng lớn, ấm áp, mềm mại ập đến và ôm ấp tôi; những giờ đen tối đong đầy hình ảnh và cuộc diễn hành lặng lẽ của những giấc mơ len lén trở về, xếp chồng lên vùng phong cảnh ảm đạm xám xì của cuộc sống gieo neo. Vách của quán rượu lùi vào và thình lình, không còn là quán rượu nữa -- mà là một góc nhỏ của trái đất, một địa đàng để nương náu, một hầm trú ẩn, bên ngoài đó trận chiến muôn đời của sự hổn loạn diễn ra gay gắt và bên trong, hai đứa tôi ngồi an trú, xô dạt vào nhau một cách bí ẩn qua hoàng hôn của thời gian.
    Nàng cuộn mình trên ghế, một thiếu nữ xa lạ, huyền bí, như thể trôi nổi đến đây từ bờ bên kia cuộc đới. Tôi nghe tiếng mình nói, nhưng như thể không phải là tôi, như thể giờ đây có một người khác đang trò chuyện, một người mà tôi ước muốn được trở thành. Lời nói không còn trung thực nữa, chúng mang những ý nghĩa mới, lấn ép vào nhau, nhiều vùng đất màu sắc rực rỡ hơn những sự kiện xẩy ra trong đời tôi. Tôi biết chúng cũng không thực, chúng biến thành những mơ tưởng viễn vông và dối trá; nhưng tôi bất cần -- sự thật nhạt nhẻo buồn tẻ, và chỉ có ý nghĩa cùng với vẻ quyến rũ mê hoặc của những giấc mộng mới chính là cuộc sống.
    Ánh sáng lung linh trong cái chum đồng đặt trên quày. Thỉnh thoảng Valentin lại nâng ly và nói thầm một con số tháng ngày với khoảng không trước mặt. Âm thanh náo động của đường phố văng vẳng lọt vào, đôi lúc bị ngắt quảng bởi tiếng còi xe như tiếng của loài ác điểu. Mỗi khi có người mở cửa, chúng lại gào to. Dai dẳng như một mụ già ghen tuông.
    Trời đã tối khi tôi đưa Patricia Hollman đến tận nhà. Tôi thong thả cuốc bộ trở về. Bỗng nhiên tôi cảm thấy cô độc và trống vắng. Cơn mưa phùn đang rắc hạt. Tôi ngừng chân trước một khung kính cửa hàng. Tôi đã uống quá nhiều. Tôi có thể cảm nhận điều ấy. Không, tôi đâu đã chuyếch choáng, quay cuồng --nhưng tôi biết chắc là thế.
    Tôi thấy nóng bức. Tôi mở cúc áo choàng và đẩy mũ ra sau. Tôi bắt gập mình gục thiếp một lần nữa. Kệ bố chúng mày -- tất cả những lời mắc gió tôi đã phun ra! Chúng chẳng mang một ý nghĩa nào. Mà tôi cũng không nhớ gì; đấy mới là điều tai hại nhất. Tại đây, một mình trên đường, xe buýt rầm rộ lao qua, tất cả mọi thứ đều mang một vẻ khác biệt so với lúc tôi còn ngồi trong vùng nửa sáng nửa tối của quán rượu. Tôi tự nguyền rủa mình. Ấn tượng ban đầu của nàng về tôi mới đẹp làm sao! Chắc chắn nàng đã nhận ra. Nàng gần như không uống gì cả. Và nàng đã cho tôi một cái nhìn kỳ lạ khi chia tay...
    Herrgott! tôi quay ngoắt lại và do đó, đụng phải một lão béo lùn -- "Ê?" tôi cáu kỉnh nói.
    "Mắt để trên đầu hay sao mà không nhìn thấy bố đây, hở thằng cán chổi?" lão béo quát.
    Tôi trân trối nhìn lão.
    "Thế đằng ấy chưa bao giờ trông thấy loài người, hả?" lão ta sừng sộ nói tiếp.
    Lão lọt đúng tầm nhắm của tôi.
    "Con người hả, thấy rồi," tôi đáp, "nhưng thùng bia biết đi thì chưa."
    "Quân khốn khiếp!" lão nói.
    "Lão mập khờ," tôi đáp lại.
    Lão trịnh trọng nhấc mũ. "Chào đằng ấy, nhé." lão nói, và chúng tôi chia tay.
    Những câu xã giao đó làm tôi tỉnh ra, nhưng nỗi ưu phiền vẫn còn đó. Quả tình càng tỉnh táo, tôi càng bực bội. Tôi thấy mình ngu ngốc không tả. Nhưng rồi, dần dần tôi không còn khó chịu với bản thân: tôi khó chịu với tất cả mọi thứ -- kể cả nàng. Chính vì nàng mà tôi đã say mèm. Tôi bẻ cao cổ áo. Nàng thích hay không thích một điều gì về tôi, tôi cũng không cần --dẫu sao, nàng là ai cơ chứ? Buổi hẹn hò dù có kết quả xấu tệ đến mấy, tôi cũng không quan tâm -- chuyện gì xảy ra, đã xảy ra. Không thể làm gì khác để cứu vãn. Và cũng thế, không chừng . . .

  3. #3
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu Chương 4

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 4

    Thời tiết trở nên ấm ướt và mưa dầm suốt mấy ngày. Rồi trời trong và nắng ấm mang theo cái nóng âm ỉ. Sáng thứ Sáu, khi đến xưởng sửa xe, tôi gặp Matilda Stoss, chổi kẹp nách, đứng giửa sân như một con hà mã bị thôi miên.
    "Xem kìa, Herr Lohkamp, có lộng lẫy không chứ? Mỗi lần như thế, lại là một phép mầu."
    Tôi bàng hoàng - cây mận già cạnh máy bơm xăng tưng bừng nở hoa, chỉ trong một đêm.
    Nó đứng đấy, còng queo, trơ trọi, suốt cả mùa đông; chúng tôi thường máng vỏ xe cũ và đặt các can nhớt lên cành cho dễ chiết; nó được dùng như một cái giá rất tiện nghi để cất đủ thứ, từ giẻ lau xe cho đến nắp đậy máy xe. Vài ngày trước, các bộ áo liền quần thợ máy của chúng tôi hãy còn bừa bãi phơi trên đấy; chiều hôm qua cũng không có gì đáng chú ý; thế mà giờ đây, chỉ trong một đêm, nó đã biến đổi, như chuyện thần tiên, thành một vầng mây hồng và trắng lung linh, một vầng mây những bông hoa tươi thắm, như một đàn bướm bỗng nhiên đáp xuống chỗ làm việc lem luốc của chúng tôi.
    "Và hương thơm!" bà ấy nói, mắt đảo tròn phấn khởi. "Tuyệt diệu! Cứ như là mùi rượu rum."
    Tôi không ngửi được gì cả, nhưng tôi hiểu ngay. "Theo tôi, thơm như cognac của khách hàng," tôi đề nghị.
    Bà ấy thẳng tay bác bỏ. "Herr Lohkamp, chắc cậu bị cảm lạnh. Hoặc là gai thịt trong mũi, có lẽ thế? Thời buổi này, gần như ai cũng có gai thịt trong mũi. Không, mũi của già Stoss này thính như chó săn; tin tôi đi, đó là mùi rum, rum lâu năm."
    "Được rồi, Matilda . . ."
    Tôi rót một cốc rum và đi ra cây xăng. Jupp đã ngồi sẳn nơi đấy. Cạnh thằng bé, nhiều cành hoa mận cắm trong một lọ mứt cũ bằng thiếc han rĩ. "Cái này để làm gì thế?" tôi ngạc nhiên hỏi.
    "Dành cho quý cô quý bà," Jupp giải thích. "Nếu họ đổ đầy bình, họ sẽ được biếu một cành. Cháu đã bán được chín mươi lít xăng rồi đấy. Cái cây này giá trị tương đương với vàng. Nếu không có nó, chắc chúng ta phải làm một cây hoa giả."
    "Cháu thật giỏi buôn bán," tôi nói.
    Thằng bé cười hể hả. Nắng xuyên qua vành tai của nó, trông như ô cửa kính nhuộm.
    "Cháu còn được chụp ảnh hai lần," thằng bé nói tiếp. "Trước cây hoa."
    "Tốt lắm, cháu sẽ sớm thành tài tử xi-nê," tôi nói, và đi tới ổ sửa xe, nơi Lenz từ dưới gầm xe Ford chui ra.
    "Bob," anh nói. "tớ mới nhớ một chuyện. Thể nào chúng ta cũng sẽ bận rộn với cô bạn của Binding."
    Tôi chăm chú nhìn anh. "Cậu nói gì thế?"
    "Thì y như tớ vừa nói. Mà sao cậu lại nhìn chòng chọc thế?"
    "Đâu có --"
    "Có mà, cậu nhìn tớ chòng chọc. Tên họ đầy đủ của cô ấy là gì nhỉ? Pat -- nhưng Pat gì mới được?"
    "Tớ không biết."
    Anh đứng thẳng người. "Cậu không biết? nhưng cậu có viết địa chỉ của cô ấy. Tớ nhìn thấy tận mắt."
    "Tớ làm mất mẩu giấy ấy rồi," tôi giải thích.
    "Làm mất!" Anh ôm mái tóc vàng bằng cả hai tay. "Sau khi tớ phải bỏ ra suốt một giờ ở ngoài sân với Binding! Làm mất! Ơ, không chừng Otto biết."
    "Otto cũng không biết đâu," tôi nói.
    Anh nhìn tôi. "Đồ nửa mùa chết tiệt! Cậu còn tệ hơn thế. Hôm ấy, cậu không biết à, đấy là một thiếu nữ tuyệt vời. Hergott!" Anh đăm đăm nhìn trời. "Khi chỉ một lần duy nhất trong đời, một điều tốt đẹp xảy đến với chúng ta, thì một thằng cả đẩn xúi quẩy như cậu lại làm lạc mất địa chỉ."
    "Tớ có thấy cô ấy tuyệt vời chỗ nào đâu," tôi nói.
    "Bởi vì cậu là một thằng ngốc," Lenz đáp; "một thằng khờ, không nhận thức được điều gì có giá trị cao hơn một cô gái điếm ở tiệm cà phê International. Cậu là nhạc công dương cầm, thế thôi. Một lần nữa, tớ nói cho cậu biết, cô gái ấy, là một điều may mắn không ngờ, thật thế. Dĩ nhiên, cậu chẳng biết cóc khô gì. Cậu có nhìn vào mắt cô ấy không? Hẳn là không, cậu còn mãi ngắm ly rượu của cậu."
    "Ô, cậu nín đi," tôi chặn lại, bởi nhắc tới rượu, anh chạm đúng chỗ nhược của tôi.
    "Và đôi tay của cô ấy," anh tiếp tục, không màng tới tôi --" thon dài, như tay của một cô gái hai dòng máu --Gottfried hiểu những chuyện này, Gottfried biết mà. Lạy thánh Moses! Cuối cùng con cũng đã gặp nàng, với những thứ một người phụ nữ cần có -- đẹp, dĩ nhiên, và quan trọng hơn cả, khí sắc --" Anh tự ngắt lời. "Cậu có biết, chẳng hạn, khí sắc là gì không?"
    "Là không khí, thứ ta bơm vào bánh xe," tôi nói.
    "Cố nhiên," anh nói một cách thương hại. "Không khí, cố nhiên! Khí sắc, vẻ tinh tuyền, rạng rỡ, ấm áp, huyền bí -- là những thứ tạo nên cái đẹp của một linh hồn và làm nó trở nên sống động. Nhưng cậu cần quái gì, khí sắc của cậu là mùi rượu rum --"
    "Nín ngay, không thì tớ sẽ phang một cái gì đó lên đầu cậu đấy," tôi gầm lên.
    Nhưng Gottfried vẫn tiếp tục nói và tôi không làm gì cả. Dĩ nhiên anh không biết chuyện gì đã xảy ra và mỗi chữ của anh cắm trúng tâm điểm -- nhất là những chữ tả chuyện nhậu nhẹt. Tôi gần như đã quên, tôi đã an ủi mình một cách khá hữu hiệu; thế nhưng giờ đây anh lại đào bới lên tất cả. Anh ca tụng và ca tụng cô gái đến khi tôi cảm thấy mình đã vĩnh viễn đánh mất một điều vô cùng quý báu.
    Sáu giờ chiều, vẫn phiền muộn tôi đến Café International. Đấy là nơi trú ẩn xưa nay của tôi; Lenz nói đúng.
    Tại đấy, tôi ngạc nhiên trước khung cảnh nhộn nhịp. Các loại bánh kem ướp lạnh và bánh nho khô bày trên quày, và Alois- bàn chân dẹp, tất tả bê một khay đầy ly tách cà phê khua lanh canh vào phòng trong.
    Tôi chựng lại. Cà phê, cả bình to ư? Hẳn phải có một bầy đàn lén lút say sưa ở đâu đây.
    Nhưng bà chủ quán giải thích. Hôm nay ở phòng sau có tiệc từ giả Lilly, bạn của Rosa. Tôi vỗ trán. Tất nhiên, tôi đã được mời! Và tôi là người đàn ông duy nhất, như Rosa ngụ ý -- vì Kiki, chàng trai ẻo lả, cũng có mặt, nhưng không kể. Tôi chuồn ra ngoài, mua một bó hoa, một trái thơm, một cái lúc lắc của trẻ con, và một thanh sô cô la.
    Rosa đón tôi với nụ cười của bậc nữ lưu. Chị vận một chiếc áo đầm vải dầy, cổ khoét rất sâu và ngự ở đầu bàn. Răng vàng của chị lại lấp lánh. Tôi hỏi thăm cháu bé, và đưa cái lúc lắc nhựa cùng với phong sô cô la. Rosa rạng rỡ.
    Với trái thơm và bó hoa, tôi quay sang Lilly; "Chúc chị những điều tốt lành nhất."
    "Cậu ấy luôn luôn là một người hào hoa phong nhã," Rosa nói; "Bob ơi, đến đây, ngồi giữa chúng tôi nhé."
    Lilly là bạn thân của Rosa. Có một bề dầy sự nghiệp sáng chói. Chị là gái điếm trụ ở khách sạn, là ước vọng xa vời của những cô điếm trẻ. Gái điếm ở khách sạn không cần kiếm khách ngoài phố --cô ta thuê phòng trọ và chiêu khách tại đấy. Rất ít người đạt được vị trí này -- họ không đủ y phục hay vốn liếng để kiên nhẫn đợi khách. Đúng thế, Lily chỉ hành nghề ở một khách sạn tỉnh lẽ; nhưng theo thời gian, chị đã để dành gần bốn ngàn marks. Bây giờ chị muốn lấy chồng. Chồng tương lai của chị có cửa hàng sửa ống nước. Anh biết rõ về chị, nhưng chấp nhận. Và anh không cần lo lắng cho tương lai; khi một người trong bọn lập gia đình, họ là những người đáng tin cậy. Họ đã có đủ những thăng trầm trong đời.
    Lilly sẽ cử hành đám cưới ngày thứ Hai. Hôm nay Rosa tổ chức một buổi tiệc nhẹ chia tay. Các cô có mặt đầy đủ để gặp Lily lần cuối. Một khi có chồng, chị ấy sẽ khó lòng đến đây.
    Rosa rót cà phê cho tôi. Alois, nhanh nhẩu tiến đến với một cái bánh khổng lồ rắc đầy quả phúc bồn tử, hạnh nhân và bạch chỉ. Chị cắt một lát to, đặt trước mặt tôi.
    Tôi biết mình phải làm gì. Tôi thành thạo nếm một miếng và bày tỏ sự ngạc nhiên cao độ.
    "Donnerwetter°, chắc chắn không thể nào mua ở tiệm!"
    "Chị tự làm đấy," Rosa sung sướng nói. Chị nấu ăn rất ngon và thích được mọi người tán thưởng. Món ra-gu Hung Gia Lợi và bánh nho khô của chị không ai sánh kịp. Dòng dõi Bohemia của chị, đâu phải là thừa.
    Tôi nhìn quanh. Các cô ngồi ở bàn, những người hái nho trong vườn của Chúa, những bậc thầy thấu hiểu bản chất của con người, những chiến sĩ của ái tình: Wally, người đẹp, áo lông chồn trắng đã bị cuỗm mất trong một phi vụ về đêm mới đây; Lina chân gỗ, thế nhưng lúc nào cũng tìm được mối; Fritzi, người vui tính, yêu thương chàng Alois- bàn chân dẹp, mặc dù chị có thể xây tổ ấm với một người khác, nhưng chị vẫn khước từ; Margot đôi má hồng, lúc nào cũng mặc y phục nữ gia nhân và do đó luôn luôn kiếm được khách hàng thông thái; Marion trẻ nhất bọn, rạng rỡ và phóng túng; Kiki, không được coi như đàn ông vì anh mặc quần áo đàn bà và tô son điểm phấn; Mimi, con người đáng thương, bốn mươi lăm tuổi và bị giãn tỉnh mạch, đi bộ là một việc khó khăn cho chị; vài cô hầu rượu, vài người khách buổi tối mà tôi không quen; và cuối cùng, nhân vật danh dự thứ nhì, thấp bé, tóc bạc và nhăn nheo như một quả táo mùa đông -- "Bu," người mà ai cũng trao gởi nỗi lòng, người an ủi và giúp đở tất cả các cô gái giang hồ. Bu của quày xúc xích ở góc đường Nikolaistrasse, ban đêm là căn bếp di động, là cơ quan đổi tiền, nơi đấy, ngoài xúc xích Frankfort, bà còn dấm dúi bán thuốc lá và bao cao su, và cũng cho vay, nếu cần.
    Tôi hiểu phép lịch sự. Hôm nay, không được nhắc tới cửa tiệm, không được có những lời nham nhở; quên đi sức mạnh khét tiếng của Rosa đã tạo cho chị ấy hỗn danh "con ngựa sắt"; quên đi cuộc thảo luận về đề tái ái tình của Fritzi và Stefan Grigoleit, người buôn gia súc; quên đi vũ khúc của Kiki quanh giỏ brezel °° mỗi sớm mai. Cuộc chuyện trò ở đây phải thích đáng trong một buổi họp của các hiền mẫu.
    "Chị chuẩn bị xong chưa, Lilly?" tôi hỏi.
    Chị gật đầu. "Chị sắm sửa tư trang cô dâu đã từ lâu."
    "Tư trang của chị ấy, thật tuyệt," Rosa nói. "Có cả tấm trải lưng ghế và tay ghế!"
    "Tấm trải lưng và tay ghế? Để làm gì?" tôi hỏi.
    "Ô hay, Bob này!" Rosa nhìn tôi trách móc đến độ tôi phải lập tức giải thích rằng, lẽ dĩ nhiên, tôi biết chúng là gì: những miếng ren, hoặc chỉ móc để trang hoàng bàn ghế, biểu tượng của một chút sang trọng trưởng giả, biểu tượng thiêng liêng của tình yêu trong hôn nhân và thiên đàng đã mất. Không một ai trong họ làm gái mãi dâm vì bản chất; họ là những hoang tàn đổ nát của tầng lớp trung lưu. Tham vọng thầm kín của họ không phải là sự trụy lạc, mà là giường chiếu của hôn nhân. Nhưng không đời nào họ thú nhận điều ấy.
    Tôi ngồi xuống ghế dương cầm. Rosa chỉ chờ mong thế. Chị ấy, giống như cả bọn, rất ưa chuộng âm nhạc. Như một lời chia tay, tôi đàn những bản mà Rosa và Lilly yêu thích nhất. Bài mở đầu là "Lời nguyện cầu của nàng trinh nữ." Tên của bản nhạc có lẽ không thích hợp chút nào với nơi chốn này, nhưng nó là một bản nhạc vui tươi, hào hứng. Tiếp theo là những bản, "Dạ khúc của bầy chim," "Ánh sáng trên núi cao," "Khi tình yêu chết," " Bạc triệu của anh hề," và cuối cùng, "Mái nhà yêu dấu." Rosa đặc biệt yêu thích bản nhạc ấy. Gái điếm là hạng người mà cùng một lúc, vừa cứng rắn nhất vừa yếu mềm nhất. Mọi người đều cất tiếng ca. Kiki hát giọng nữ trầm.
    Lilly đứng lên. Chị phải đi gặp chú rễ của mình. Rosa hôn chị một cái rõ to. "Chúc chị may mắn. Đừng nghĩ ngợi nhiều."
    Tay xách nách mang quà cáp, chị ra về. Có trời chứng giám, vẻ mặt của chị khác hẳn khi xưa. Nét khắc nghiệt, thường thấy ở những người phải tiếp xúc với sự đê tiện của loài người, đã hoàn toàn biến mất; gương mặt của chị trở nên hiền thục; quả thật lại có một chút băng trinh.
    Chúng tôi đang đứng ở cửa vẫy tay tiễn Lilly, bỗng nhiên Mimi bật khóc. Chị cũng có chồng, nhưng chồng chị mất vì bệnh sưng phổi trong thời chiến. Chị than vãn, nếu anh ấy chết trận, chị đã có một ít tiền hưu bổng và không phải lang thang đầu đường xó chợ.
    Rosa vỗ lưng chị. "Thôi đừng buồn nữa, Mimi. Vào uống thêm một chút cà phê."
    Cả đám quay vào tiệm International như một bầy gà mái lục tục vào chuồng. Nhưng bầu không khí thích hợp không còn nữa. "Bob ơi, chơi thêm vài bản trước khi kết thúc," Rosa nói. "Một bài giúp chúng ta sôi động."
    Rồi đến lượt tôi ra về. Rosa dúi thêm bánh vào túi tôi. Tôi biếu cho con trai của "Má", vừa chuẩn bị xong xuôi quày xúc xích bán đêm.
    °Donnerwetter: một tán thán từ
    °°brezel: pretzel (bánh bột mì cọng nhỏ, thường uốn tréo cong queo hình quả tim)
    Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì. Dù sao đi nữa, tôi cũng không muốn đến "The Bar"; hay rạp chiếu phim. Còn xưởng sửa xe thì sao? Tôi nhìn đồng hồ tay. Tám giờ. Giờ này có lẽ Koster đã trở lại; nếu anh ấy có ở đấy, hẳn Lenz sẽ không càm ràm tôi hằng giờ về nàng. Tôi đi.
    Có ánh đèn trong nhà xe. Không chỉ nhà xe mà thôi -- toàn thể sân trong sáng rực. Koster ở đấy một mình.
    "Rọi đèn làm chi, hở Otto?" tôi hỏi. "Bán được xe Cadillac rồi hở?"
    Koster cười. "Không, Gottfried chỉ chiếu đèn xem chơi, thế thôi."
    Tất cả đèn pha chiếc Cadillac đều bật sáng và xe được đẩy nhếch tới trước để chùm đèn xuyên qua cửa sổ vào sân và rọi thẳng lên cây mận. Nó đứng đấy, đẹp tuyệt trần, trắng xóa như phấn bảng và bóng đêm như mặt hồ đen thẩm lấm láp vỗ hai bên.
    "Một sự trình bày ngoạn mục," tôi nói. "Thế cậu ấy đang ở đâu?"
    "Mua thức ăn."
    "Tốt," tôi nói. "tớ cảm thấy hơi chán. Có lẽ chỉ vì đói."
    Koster gật đầu. "Bob, hãy ăn khi có thể; đó là quy tắc đầu tiên của người lính già. Hồi chiều này, tớ cũng bồng bột lắm -- tớ đã ghi danh đua xe với Karl."
    "Cái gì?" tôi nói. "Lần thứ sáu?"
    Anh gật đầu.
    "Nhưng, chết nỗi, Otto, tất cả những xe chiến đấu nhất sẽ tham dự lần ấy."
    Anh lại gật đầu. "Hạng xe thể thao, tranh với Braumuller."
    Tôi xắn tay áo, "vậy hãy làm việc ngay, Otto! Tắm táp người thương cho nhiều vào."
    "Chờ một tí," chàng lãng mạn cuối cùng vừa bước vào và nói. "Ăn trước đã." Anh bày bửa tối ra, phô-mai, bánh mì, xúc xích hun khói cứng như đá, và cá mòi. Trong khi ăn, chúng tôi uống bia lạnh. Chúng tôi ngấu nghiến như một đám thợ đập lúa đói khát. Rồi chúng tôi bắt đầu với Karl. Suốt hai giờ, chúng tôi mầy mò, kiểm tra và vô dầu mỡ không sót chỗ nào. Sau đó, Lenz và tôi ngồi xuống ăn thêm đợt hai. Gottfried cũng bật đèn pha chiếc Ford. Trong vụ đụng xe, một bên đèn vẫn còn nguyên. Từ khung xe méo mó, nó ngước lên, đăm đăm nhìn trời.
    Lenz quay lại, mãn nguyện. "Vậy, đem mấy chai rượu ra. Chúng ta phải ăn mừng ngày lễ của Cây Hoa."
    Tôi đặt chai cognac, chai gin, và hai cốc thủy tinh lên bàn.
    "Còn cậu thì sao?" Gottfried hỏi.
    "Tớ không uống."
    "Cậu nói gì? Sao thế?"
    "Tại vì tớ chán mấy thứ rượu chè mắc dịch này rồi."
    Lenz ngẫm nghĩ lời tôi. "Thằng con nhà mình uống quá đô rồi, Otto," cuối cùng anh nói với Koster.
    "Vậy để mặc hắn, nếu hắn không muốn thì thôi," Koster trả lời.
    Lenz rót đầy ly của mình. "Mấy hôm nay, đôi khi hắn lại điên điên."
    "Có những chuyện còn tệ hơn," tôi nói.
    Trăng đã lên cao, to và đỏ, bên trên nóc nhà máy phía đối diện. Chúng tôi ngồi im một lúc.
    "Này, Gottfried," cuối cùng tôi bắt đầu, "cậu tự cho mình là chuyên viên trong lãnh vực tình yêu --"
    "Chuyên viên ư? Trời, tớ chỉ là thầy đời," Lenz khiêm tốn đáp.
    "Tốt. Vậy cậu cho tớ biết nhé: có phải khi yêu, người ta luôn luôn hành xử như một thằng ngu?"
    "Theo ý cậu, thế nào là một thằng ngu?"
    "Như nửa tỉnh nửa say, ba hoa, khoác lác và lừa gạt."
    Lenz phá lên cười. "Bé cưng ơi! tất cả chỉ là một sự dối lừa. Một sự dối lừa tuyệt diệu của Bà Mẹ Thiên Nhiên. Thí dụ nhé, hãy nhìn cây mận kia. Nó đang tô điểm cho nó đẹp hơn là về sau. Thật khủng khiếp nếu tình yêu dính dáng ít nhiều với sự thật. Tạ ơn trời, các nhà luân lý không thể nào kiểm soát tất cả mọi chuyện."
    Tôi nhỏm dậy. "Anh muốn nói, nếu không có một chút gian dối thì sẽ không đi đến đâu?"
    "Tuyệt đối không, con ạ."
    "Thế nhưng một người đàn ông có thể tự làm cho mình trở nên lố bịch," tôi nói.
    Lenz toét miệng cười. "Ghi nhớ điều này, con trai ơi: không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ một người đàn ông lại trở thành lố bịch trong mắt của người đàn bà, khi anh ta làm bất cứ chuyện gì vì nàng. Ngay cả những hành động ấu trĩ nhất. Làm bất kỳ điều gì cậu muốn -- trồng chuối ngược, nói những câu nhảm nhí nhất, huyênh hoang như một con công, hát dưới cửa sổ nhà nàng -- tất cả đều được, ngoại trừ một điều: đừng bao giờ khô khan, thẳng thừng, vô tri như miếng ngói. Đừng bao giờ duy lý, thực dụng."
    Tôi bắt đầu phấn khởi. "Otto, cậu nghĩ thế nào?"
    Koster cười. "Có lẽ cậu ấy nói đúng."
    Anh đứng dậy, đi đến Karl và dở nắp đậy. Tôi đem ra một chai rum, một cốc thủy tinh và đặt chúng lên bàn. Otto mở máy. Động cơ rồ lên, trầm và khỏe. Lenz gác cả hai chân lên bệ cửa sổ và chăm chú nhìn màng đêm.
    Tôi kéo ghế ngồi cạnh. "Có bao giờ cậu say khi ở cạnh một người đàn bà?"
    "Thường lắm," anh trả lời, không cựa ngoạy.
    "Và?"
    Anh liếc tôi. "Cậu muốn nói, và rồi làm rối tung cả lên? Đừng bao giờ xin lỗi. Đừng bao giờ nói. Gởi hoa. Đừng viết gì. Chỉ hoa mà thôi. Hoa che phủ mọi thứ. Kể cả những nấm mồ."
    Tôi nhìn anh. Anh không cử động. Ánh sáng trắng ngoài kia phản chiếu trong mắt anh, long lanh. Máy xe vẫn nổ đều, gầm gừ khe khẻ, như thể mặt đất dưới chân chúng tôi đang rung động.
    "Ơ, thế thì tớ có thể uống vài giọt cũng được," tôi nói và mở chai rượu.
    Koster tắt máy xe. Rồi anh quay sang Lenz. "Trăng sáng đủ cho chúng ta có thể nhìn thấy ly rượu, Gottfried ạ. Thế thì, tắt đèn rọi được không? Đèn xe Ford, ấy mà. Cái xe quái quỷ, với cái đèn pha xéo xẹo như mắt lác làm cho tớ nhớ lại thời chiến. Chẳng phải đùa, khi những chùm đèn ấy rọi theo máy bay của ta."
    Lenz gật đầu. "Và nó cũng nhắc nhở tớ -- ối chào, thôi không nói. "Anh đứng lên và tắt hết đèn xe.
    Trăng đã lên cao quá nóc nhà máy và lơ lửng như một chiếc đèn lồng Trung Hoa vàng giữa những cành trên ngọn cây mận. Nhánh cây đung đưa nhè nhẹ trong gió thoảng.
    "Thật lạ thường," Lenz nói, sau một lúc im lặng, "người ta dựng tượng đài cho đủ hạng người -- thế sao ta lại không thỉnh thoảng dựng một cái cho mặt trăng hay một cây hoa?"
    Tôi về sớm. Khi mở cửa hành lang, tôi nghe tiếng nhạc phát ra từ máy hát của chị thư ký Erna Bonig. Một giọng nữ nhẹ nhàng, trong sáng. Rồi tiếng vĩ cầm run run da diết và tiếng ghi-ta êm đềm. Và tiếng hát lại ngọt ngào vút lên như không kềm được niềm vui đang òa vỡ. Tôi lắng nghe lời ca. Thật lạ kỳ, đi trong hành lang tối, giữa cái máy khâu của Frau Bender và hòm xiểng của gia đình Hasse, người ca sĩ hát dịu dàng đến thế.
    Tôi ngắm đầu con lợn rừng treo trên cửa bếp.Tôi nghe chị giúp việc khua bát đĩa lịch kịch bên trong. "Làm sao em có thể sống xa anh?" một tiếng hát đàng sau cánh cửa, chỉ cách vài bước chân, vang lên.
    Tôi nhún vai, bước vào phòng mình.
    Từ phòng kế, tiếng cải cọ phát ra sôi nổi. Vài phút sau, có người gõ cửa và Hasse bước vào.
    "Tôi có làm phiền chú lắm không?" anh hỏi, mệt mỏi.
    "Hoàn toàn không," tôi nói. "Anh uống một chút gì nhé?"
    "Có lẽ không nên. Tôi chỉ cần ngồi đây một chốc."
    Anh thẩn thờ nhìn về phía trước.
    "Như chú thế mà khỏe," anh nói. "Chỉ một thân, một mình --"
    "Ach, đừng nói nhảm," tôi đáp. "Luôn luôn trơ trọi thế này, cũng không ra gì -- anh hãy tin tôi."
    Anh lọt thõm trong chiếc ghế bành. Đôi mắt đờ đẩn dưới ánh sáng tù mù từ ngọn đèn đường hắt vào. Đôi vai hẹp, tròn. . .
    "Tôi đã hình dung cuộc đời khác hẳn," một lúc sau, anh nói.
    "Chúng ta đều như thế," tôi nói.
    Nửa giờ sau, anh trở về phòng mình để làm lành với vợ. Tôi biếu anh vài điếu thuốc và một chai rượu vỏ cam đã vơi nửa, nằm trong tủ của tôi, từ một buổi tiệc nào đó đã lâu -- vị khó chịu, ngòn ngọt, nhưng khá thích hợp với anh. Anh nào biết gì về rượu với trà.
    Khẻ khàng, gần như không một tiếng động, anh bước ra, một chiếc bóng đi vào bóng tối, như đã bị hủy diệt. Tôi đóng cửa phòng sau lưng anh. Một mảnh âm nhạc từ hành lang lênh đênh trôi vào --vĩ cầm và banjos.
    Tôi ngồi cạnh cửa sổ. Bên ngoài, nghĩa trang nằm dưới ánh trăng xanh. Những chùm sáng màu mè phóng từ các bảng quảng cáo điện leo quá ngọn cây và các mộ bia sáng ngời trong bóng tối. Chúng im lặng và không có vẻ đáng sợ. Xe lướt qua, bóp kèn và các luồng đèn quét loang loáng trên những dòng chữ đã phai mờ theo mưa gió.
    Tôi ngồi một lúc lâu và nghĩ về mọi thứ. Một trong những thứ đó là, cách chúng tôi trở về từ chiến trường, như những người thợ mỏ sống sót sau tai nạn, trẻ trung và tan vỡ ảo mộng về tất cả mọi thứ, trừ bản thân. Chúng tôi tiến hành chiến tranh với ý định chống lại sự dối trá, ích kỷ, tham lam và ù lì của trái tim, nguyên nhân của tất cả những gì nằm lại phía sau; chúng tôi trở nên chai đá, không còn tin tưởng vào một ai hay một điều gì, trừ các chiến hữu kề cận hay những thứ như -- bầu trời, cây cối, trái đất, bánh mì, thuốc lá, những thứ chưa bao giờ biết lừa gạt con người -- và rồi được gì? Tất cả đều sụp đổ, đồi trụy và lãng quên. Và với những người chưa bị bỏ quên, chỉ còn lại sự bất lực, tuyệt vọng, thờ ơ và rượu mạnh. Thời của những giấc mơ vĩ đại cho tương lai của nhân loại đã qua. Những tay chuyên thọc gậy bánh xe, những người ích kỷ đã chiến thắng. Thối nát . . . Khốn khổ . . .
    Cậu thế mà khỏe, chỉ một thân một mình. Hasse nói thế. Cũng đúng -- một người cô độc không thể nào bị ruồng bỏ. Nhưng thỉnh thoảng, ban đêm, toàn thể cơ cấu giả tạo bị sụp đổ, cuộc đời trở thành một giai điệu nức nở không nguôi; từ âm thanh muôn thủa rền rỉ một cách vô nghĩa của phong cầm, dâng lên một cơn lốc của những ao ước hoang dại, những thèm muốn, những nỗi buồn thê thảm và những niềm hy vọng, bơ vơ đi tìm đối tượng. Ach, một chút hơi ấm, thứ nhu cầu đáng thương này--có thể nào có đôi tay và một gương mặt cúi chào đâu đấy? Hay nó cũng chỉ là sự giả dối, đầu hàng, và trốn chạy? Như thế thì, có gì không, ngoài nỗi cô đơn?
    Tôi đóng cửa sổ. Không, không có gì. Bởi với bất cứ điều gì hơn thế, chỉ có rất ít đất đứng bên dưới chân ta.
    Nhưng sáng hôm sau tôi dậy sớm và, trước khi đi làm, gỏ cửa đánh thức ông chủ một cửa hàng hoa. Tôi chọn một bó hoa hồng và nhờ ông gởi đi ngay. Tôi có cảm giác khá lạ kỳ khi chậm rãi viết tên người nhận --Patricia Hollmann -- lên tấm thiệp.

  4. #4
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Chiến hữu - Chương 5

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 5


    Trong bộ y phục tồi tàn nhất, Koster ra sở thuế. Anh cố xin miễn giảm. Chỉ còn Lenz và tôi ở lại xưởng.
    "Gottfried," tôi nói, "bây giờ đến lượt cái Cadillac cũ!"
    Tối qua, rao vặt của chúng tôi đã in trên báo. Như thế, hy vọng hôm nay sẽ có khách -- giả sử, nếu có ai muốn mua. Dù sao, cũng phải chuẩn bị sẳn sàng.
    Trước tiên, chúng tôi đánh bóng lớp sơn. Nó sáng đẹp hẳn ra, như thể phải tốn thêm hàng trăm marks. Rồi chúng tôi thay thứ nhớt có độ đậm đặc nhất. Piston không còn tuyệt hảo nữa, kêu khục khặc. Nhưng nhờ chất lượng của nhớt bù đắp, động cơ nổ rất êm. Và chúng tôi cũng tra đầy đủ nhớt ở hộp số và cầu sau để chúng vận hành trơn tru.
    Rồi chúng tôi lái cô ấy ra ngoài. Có một quãng đường rất xấu ở vùng này. Chúng tôi tăng tốc độ lên năm mươi kí lô mét một giờ. Xe khua lạch cạch. Chúng tôi xả bớt một phần tư đơn vị áp suất ở lốp xe. Xe êm hơn. Chúng tôi xả thêm một phần tư đơn vị nữa. Giờ thì không còn một tiếng động nào.
    Chúng tôi lái về xưởng, bôi mỡ bò vào nắp máy hãy còn cọt kẹt, lót một chút viền cao su, thêm nước nóng vào bộ tản nhiệt cho máy nổ dễ dàng, và phun dưới gầm xe một lớp dầu tẩy bụi để nơi đấy cũng sạch tinh tươm. Rồi Gottfried đưa tay lên trời. "Lạy trời xin gởi khách đến! Người khách giàu sụ, hãy đến đây! Chú rể chờ cô dâu như thế nào, chúng tôi mong đợi người như thế ấy!"
    Cô dâu vẫn cho chúng tôi đợi dài cổ. Vì thế chúng tôi đẩy chiếc xe xì khói của ông chủ tiệm bánh vào ổ sửa và bắt đầu tháo trục trước. Chúng tôi làm việc suốt mấy tiếng đồng hồ không trò chuyện. Rồi tôi nghe Judd ở cây xăng khởi sự huýt sáo "Có cái gì đi tới . . ."
    Tôi đu lên, nhìn qua cửa sổ. Một người đàn ông nhỏ bé đi vòng quanh chiếc Cadillac. Ông ta có vẻ đứng đắn và đáng kính.
    "Gottfried, nhìn kìa," tôi khẻ nói, "cậu nghĩ có phải là cô dâu đấy không?"
    "Chắc thế," Lenz nói, sau khi liếc qua. "Hãy nhìn nét mặt của ông ta. Không có ai ở đấy, thế mà ông ta đã lộ vẻ nghi ngờ. Cố lên. Tở ở đây thủ trại, -- và sẽ ra đó nếu cậu cần. Đừng quên những bí quyết, nhé."
    "Vâng." Tôi bước ra.
    Người đàn ông nhìn tôi với đôi mắt đen, bình thản.
    Tôi tự giới thiệu: "Lohkamp."
    "Blumenthal."
    Đó là bí quyết đầu tiên của Gottfried -- tự giới thiệu. Anh nói, như thế sẽ tạo một không khí thân mật ngay lập tức. Bí quyết thứ nhì là bắt đầu câu chuyện một cách thận trọng, để khách nói trước và chỉ tham dự đúng lúc.
    "Herr Blumenthal, ông đến xem chiếc Cadillac, phải không?" tôi hỏi.
    Blumenthal gật đầu.
    "Xe kia kìa, thưa ông," tôi nói, và chỉ tay.
    "Tôi thấy mà," Blumenthal trả lời.
    Tôi liếc ông ta thật nhanh. Mình phải coi chừng, tôi nghĩ thầm, đây là một ông khách láu cá.
    Chúng tôi băng qua sân. Tôi mở cửa xe và khởi động máy. Rồi tôi giữ im lặng để Blumenthal có đủ thì giờ quan sát. Thế nào ông ta cũng tìm ra một điều gì đấy để chê bai; rồi tôi sẽ bắt chuyện.
    Nhưng Blumenthal không xem xét; ông ta cũng không chê bai. Cũng như tôi, ông không nói gì và chỉ đứng ỳ ra như tượng gỗ. Không biết làm gì hơn, tôi chỉ còn cách đem hết vốn liếng của mình ra dùng.
    Tôi bắt đầu mô tả chiếc Cadillac, chậm rãi và có lớp lang như mẹ nói với con, đồng thời tìm cách khai thác. Nếu ông ta là một người giỏi kỷ thuật, tôi sẽ nói nhiều về động cơ và trục xe; nếu ông ta chẳng biết chi, tôi sẽ nói về tiện nghi và các món trang bị lăng nhăng.
    Thế nhưng ông ấy vẫn kín như bưng. Ông ấy để mặc tôi nói cho đến khi tôi cảm thấy mình rỗng tuếch như một cái bong bóng.
    "Thế ông cần dùng xe để làm gì? Lái trong thành phố hay đi du lịch?" cuối cùng tôi hỏi, hy vọng sẽ tìm ra manh mối.
    "Làm đủ thứ," Blumenthal nói.
    "À há. Và ông sẽ tự lái lấy hay cho tài xế lái?"
    "Tùy chuyện."
    Tùy chuyện. Ông này chẳng khá gì hơn một con vẹt. Rõ ràng, ông ta là một thầy tu dòng Trappists.°
    Để ông ấy linh hoạt hơn, tôi cố thuyết phục ông thử làm một điều gì. Thông thường sau đó, khách sẽ cởi mở hẳn ra. Tôi sợ ông sẽ ngủ gục mất thôi.
    "Một chiếc xe to như thế này nhưng nắp của nó lại nhẹ một cách không ngờ," tôi nói. "Ông thử hạ xuống mà xem. Chỉ cần một tay cũng đủ."
    Nhưng Blumenthal nghĩ là không cần. Ông có thể thấy được điều ấy mà không cần phải thử.
    Tôi đóng cửa xe nghe một cái rầm và lắc mạnh cái tay nắm cửa. "Xe không hư gì cả. Chắc chắn vô cùng. Ông lắc thử nhé."
    Blumenthal không thử. Rõ ràng lắm, cần gì phải thử. Một lão gàn bát sách.
    Tôi đưa ông ấy tới cửa sổ xe. "Cửa quay lên, hạ xuống nhẹ như lông hồng. Vị trí nào cũng giữ chính xác. "
    Ông ta không nhúc nhích.
    "Và kính loại không vỡ," tôi tiếp tục nói, hầu như tuyệt vọng. "Một lợi điểm không lường. Ở đàng kia là chiếc Ford đang sửa . . . ." tôi kể câu chuyện của bà vợ ông chủ hiệu bánh, thêm thắt chút đỉnh, thành thử lại có một đứa trẻ cũng bị thương.
    Nhưng Blumenthal cứ vững như bàn thạch.
    "Tất cả xe hơi đều gắn kính không vỡ," ông ta chặn lại, "như thế có gì đặc biệt đâu."
    "Không phải xe nào cũng có kính không vỡ," tôi bẻ lại, khá chua ngoa, "cùng lắm là kính trước, ở vài loại xe. Nhưng không một xe nào có cửa sổ hai bên to như thế bằng kính không vỡ."
    Tôi bóp kèn và xoay ra mô tả những tiện nghi bên trong -- khoang chứa hành lý, ghế ngồi, các túi bọc, bảng điều khiển; tôi kể lể từng chi tiết; thậm chí còn đưa cho ông ấy cái bật lửa, và lợi dụng thời cơ, mời ông ấy một điếu thuốc, hy vọng có thể lấy lòng -- nhưng ông ấy từ chối.
    "Tôi không hút, cám ơn." ông ta nói, nhìn tôi với vẻ buồn chán đến đổi tôi chợt nghĩ -- có lẽ ông ta không muốn mua bán gì cả, ông ta chỉ lạc đường và muốn mua một thứ hoàn toàn khác --một cái máy đơm khuy hay một cái radio -- và chỉ lẩn quẩn nơi đây trong lúc chưa biết quyết định ra sao.
    "Ta lái thử một vòng nhé, Herr Blumenthal," cuối cùng, quá mệt, tôi đề nghị.
    "Lái thử?" ông ấy nói, như thể tôi vừa nói "ga xe lửa."
    "Vâng ạ, lái thử. Ông cần phải thử, dĩ nhiên, để xem xe chạy như thế nào. Nó cứ như một tấm ván lướt trên mặt đường. Không chừng phải nói là vèo vèo như trên đường rầy. Và máy xe mạnh đến nổi nó lôi cái thân xe nặng như thế, dễ dàng như lôi một cọng lông chim --"
    "Ach, lái thử --." Ông ta làm một cử chỉ dè bỉu. Lái thử không chứng tỏ được gì. Ta chỉ khám phá những trục trặc mãi về sau mà thôi."
    Dĩ nhiên, tên bộ hạ sừng xỏ của quỷ Satan kia, tôi tức tối nghĩ thầm; bộ ngươi nghĩ rằng ta sẽ ngoan ngoãn khai báo cho ngươi hay sao?
    "Nếu thế thì thôi," tôi từ bỏ mọi hy vọng. Ông ta chẳng muốn chiếc xe, rõ ràng thế.
    Nhưng ông ta bỗng quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào mắt tôi, và nhẹ nhàng, cương quyết, mau mắn hỏi: "Xe giá bao nhiêu?"
    "Bẩy ngàn marks," tôi trả lời nhanh như chớp, tỉnh bơ không nháy mắt. Không thể cho ông ta thấy là tôi do dự, dù chỉ trong một giây. Tôi hiểu. Một giây chần chừ có thể làm mất toi cả ngàn bạc. "Bẩy ngàn đồng chẳn," tôi quả quyết, thầm nghĩ, "ông mà trả năm ngàn thì đây bán đứt."
    Nhưng Blumenthal không trả giá. Ông ta chỉ khịt mũi: "Đắt quá!"
    "Dĩ nhiên!" tôi nói, và cho rằng như thế đã xong, về phần mình.
    "Tại sao lại là 'dĩ nhiên;?" Blumenthal hỏi, đột nhiên đầy tính người.
    "Herr Blumenthal," tôi trả lời, "Về chuyện giá cả, ông có bao giờ gặp ai trả lời khác hơn thế không?"
    Một nụ cười hoài nghi trùm lên mặt ông ta. "Đúng. Nhưng quả tình là giá quá cao."
    Tôi không thể tin nỗi tai mình. Đây rồi, cuối cùng, đúng giọng điệu mà tôi mong đợi. Bày tỏ một sự thích thú. Hay đây chỉ là trò giật gân bất ngờ của lão?
    Ngay lúc đó, một chàng trai ăn mặc bảnh bao bước qua cổng. Anh ta lôi từ túi quần ra một tờ báo, kiểm lại số nhà, và bước đến bên tôi, "Ở đây có bán xe Cadillac phải không?"
    Tôi gật đầu và mất hồn nhìn chiếc gậy tre vàng và đôi găng tay da heo.
    "Tôi có thể xem nó không?" anh chàng nói, vô cùng bình thản.
    "Đúng là ở đây," tôi nói; "nhưng ông vui lòng chờ một lát được không, tôi đang bận chút việc. Mời ông vào trong kia ngồi nhé."
    Chàng trai đỏm đáng lắng nghe qua tiếng nổ êm ái của máy xe, lúc đầu có chê bai, nhưng sau đó nét mặt ra vẻ hài lòng, và để tôi dẫn vào văn phòng.
    "Thằng nỡm," tôi gầm vào mặt hắn và vội vàng quay trở lại với Blumenthal.
    °Trappists: một chi nhánh của dòng tu Cistercian, tuân theo luật khổ hạnh thiết lập ở La Trappe năm 1664.
    "Nếu ông lái nó, dù chỉ một lần, ông sẽ có suy nghĩ khác về giá bán," tôi nói. "Ông cứ thử, bao lâu cũng được. Hay một buổi tối nào đó, tôi có thể gọi điện thoại và đến nhà chở ông đi, nếu ông thấy như thế tiện hơn."
    Nhưng cơn phấn khởi phù du đã vụt bay. Một lần nữa, Blumenthal lại đứng ỳ ra như phỗng đá.
    "Đừng bận tâm," ông ta nói, "tôi phải đi ngay. Khi nào muốn thử, tôi vẫn có thể gọi lại cơ mà."
    Tôi nhận ra, tôi không thể làm gì hơn. Không thể thuyết phục lão một chuyện gì.
    "Thôi được," tôi tuyên bố, "nhưng có thể nào ông cho tôi xin số điện thoại, để tôi còn báo cho ông biết, khi có ai đó tỏ ra ưa thích chiếc xe."
    Blumenthal nhìn tôi một cách đầy ý nghĩa. "Từ thích đến mua là một sự cách biệt khá lớn."
    Ông ta lấy ra một hộp xì gà và mời tôi. Ông ta phì phèo -- hiệu Corona-Coronas hẳn hoi, trời ạ! Chắc ông ta có cả núi tiền. Nhưng giờ đây, tôi cũng chẳng màng. Tôi nhận điếu xì gà.
    Ông thân ái bắt tay tôi và bỏ đi. Tôi nhìn theo và nguyền rủa ông, một cách nhẹ nhàng nhưng tới nơi tới chốn. Rồi tôi quay trở lại văn phòng.
    "Sao rồi?" tôi được chào đón bởi chàng trai lịch lãm, Gottfried Lenz. "Cậu đánh giá tớ thế nào? Thấy cậu khổ sở quằn quại ở đấy, tớ nghĩ tớ cần giúp một tay. May làm sao Otto thay y phục ở đây để ra sở thuế. Thấy bộ đồ lớn của cậu ấy đang treo, tớ mặc vào, nhảy qua cửa sổ và trở lại -- một khách hàng nghiêm chỉnh. Tớ diễn xuất cũng khá, hén?"
    "Đại ngốc thì có" tôi trả lời. "Lão ấy láu cá còn hơn hai đứa mình gộp lại. Thấy điếu xì gà này không? Một đồng năm mươi xu một điếu. Cậu làm ông triệu phú co giò chạy mất."
    Gottfried giật điếu xì gà trên tay tôi, đưa lên mũi ngửi và châm lửa. "Tớ cứu cậu thoát khỏi một tay lừa đảo thì có. Triệu phú không hút loại xì gà này. Họ hút thứ giá hai mươi bốn shilling một điếu."
    "Vớ vẫn," tôi trả lời, "những đứa bịp bợm không mang tên Blumenthal. Chúng tự xưng là Bá tước Blumenau này nọ chứ."
    "Lão sẽ trở lại," Lenz nói, lạc quan như thường lệ, thổi phù vào mặt tôi khói điếu xì gà của tôi.
    "Lão không trở lại," tôi quả quyết." Nhưng cậu lấy ở đâu ra cái gậy tre và đôi găng thế nhỉ?"
    "Đồ mượn ấy mà. Trên đường đi, ở tiệm Benn. Tớ quen với một cô bán hàng ở đấy. Không chừng tớ sẽ mua cây gậy. Tớ thích nó."
    Hài lòng với chính mình, anh múa tít cây gậy to.
    "Gottfried," tôi nói. "Thật uổng phí. Cậu biết không -- cậu nên đầu quân vào một gánh ca nhạc tạp kỹ. Đấy mới là nơi thích hợp cho cậu."
    "Có người gọi điện thoại cho cậu," Frida, bà giúp việc mắt lác của Frau Zalewski nói, khi tôi bất ngờ trở về nhà, vào giờ ăn trưa.
    Tôi quay ngoắt lại, "Hồi nào?"
    "Khoảng nửa tiếng trước. Một cô gái."
    "Thế cô ấy nói chi?"
    "Đến tối cô ấy sẽ gọi lại. Nhưng tôi bảo cô ấy rằng chẳng ích gì, cậu không bao giờ có mặt ở nhà buổi tối."
    Tôi trố mắt. "Cái gì? Bác bảo cô ấy như thế à? Herrgott, đã đến lúc cần có người dạy cho bác cách sử dụng điện thoại."
    "Tôi biết cách dùng điện thoại mà," Frida ngạo nghễ. "Và hầu như cậu có ở nhà đêm nào đâu."
    "Chuyện ấy chẳng ăn nhập gì tới bác," tôi rủa. "Lần sau, không chừng bác sẽ bảo cô ấy là vớ của tôi thủng đầy lổ."
    "Tôi sẽ nói, nếu cậu muốn," Frida trả đũa, cặp mắt viêm đỏ nhìn tôi đầy ác ý. Chúng tôi là kẻ thù lâu đời của nhau.
    Tôi chỉ muốn nhấn bà ta vào nồi súp, nhưng cố kiềm chế, mò trong túi lấy ra một đồng mark, ấn vào tay bà ta và hỏi bằng giọng cầu hòa: "Cô ấy có xưng tên không?"
    "Không," Frida đáp.
    "Thế giọng nói của cô ấy ra sao? Có phải hơi trầm và khàn?"
    "Tôi không biết," Frida lãnh đạm nói, như thể tôi chưa bao giờ dúi một đồng mark nào vào tay bà ta.
    "Bác đeo cái nhẫn đẹp quá," tôi nói, "thật ưa nhìn; nào, bây giớ bác cố nhớ xem."
    "Không," Frida trả lời và một vẻ đắc thắng độc địa sáng trên mặt.
    "Vậy bác cút xéo ngay," tôi nói và bỏ đi.
    Đúng sáu giờ tôi lại có mặt ở nhà. Khi mở cửa, tôi nhìn thấy một quảng cảnh lạ thường. Frau Bender, đứng ở hàng lang, các bà các cô trong nhà vây quanh. "Tới đây nào," Frau Bender nói.
    Nguyên nhân của cuộc tụ tập là một em bé chừng sáu tháng, điểm trang đầy nơ, nằm trong nôi. Frau Bender mang bé từ viện mồ côi về. Đó là một đứa trẻ hoàn toàn bình thường, thế nhưng các bà các cô cúi nhìn, xuýt xoa trầm trồ một cách lố bịch như thể đây là đứa bé đầu tiên được tạo ra trên cõi đời này. Họ tắc lưỡi, vờn những ngón tay trước mắt sinh vật nhỏ bé ấy, và dẫu môi âu yếm. Ngay cả Erna Bonig, trong chiếc kimono thêu rồng, cũng tham gia vào cuộc liên hoan tình mẫu tử cao thượng này.
    "Thằng bé trông hấp dẫn làm sao, phải không?" Frau Zaleuski hỏi, cặp mắt ướt rượt.
    "Hai mươi hay ba mươi năm nữa mới có thể nói," tôi trả lời, vừa liếc về phía máy điện thoại. Lạy trời đừng ai gọi vào lúc này, khi họ còn chùm nhum ở đấy.
    Tôi nhìn. Nó là một em bé cũng như những em bé khác. Tôi chẳng thấy nó có gì xuất sắc. Cùng lắm, nó có đôi tay cực kỳ bé bỏng, và thật lạ lùng nếu ta nhớ rằng, ta cũng đã từng có lần nhỏ xíu như thế.
    "Tội nghiệp thằng bé," tôi nói, "nó chẳng biết những gì sẽ chờ đón. Tôi không hiểu, đến thời của nó, sẽ có loại chiến tranh nào."
    "Đừng kinh khủng như thế," Frau Zalewski đáp. "Thế cháu không có xúc cảm nào hay sao?"
    "Có nhiều là đàng khác," tôi giải thích, "nếu không, cháu đã chẳng có những ý nghĩ ấy." Và như thế, tôi lui về phòng mình.
    Mười phút sau chuông điện thoại reo. Tôi nghe tên tôi và ra khỏi phòng. Đúng như tôi nghĩ, cả đám vẫn còn đấy! Chẳng những thế, họ còn không nói nhỏ lại trong khi tôi phải dí ống nghe vào tai và nhận ra tiếng Patricia Holmann, cám ơn tôi về bó hoa. Ngược lại, đứa bé, rõ ràng là người hiểu biết nhất bọn, và đã chán cái trò khỉ ấy, thình lình khóc ầm lên.
    "Xin lỗi," tôi tuyệt vọng nói . "Tôi không nghe được gì cả, ở đây có một em bé đang quấy khóc; tuy không phải là em bé của tôi."
    một tình huống khó xử; mắt tôi phải giận dữ liếc nhìn tổ hợp các bà mẹ, trong lúc môi phải thốt những từ thân thiện vào ống nói; từ đỉnh đầu đến chóp mũi, tôi là hậu thân một cơn bão tố, từ mũi đến cầm, là cảnh trí mùa xuân ươm nắng; thật là một điều huyền nhiệm rằng, mặc dù tất cả những thứ ấy, tôi cũng đã thành công trong việc hẹn gặp lại nàng buổi tối hôm sau.
    "Bác cần phải gắn một buồng điện thoại cách âm," tôi nói với Frau Zalewski.
    Nhưng bác đã sẳn sàng. "Tại sao phải thế?" bác phản ứng ngay. "Bộ cháu có nhiều thứ cần phải che dấu lắm sao?"
    Tôi không nói nữa và biến đi. Không ích lợi gì, cãi nhau với những bản năng làm mẹ đang kích động. Họ có sự ủng hộ của toàn thế thế giới.
    Đêm ấy, lũ chúng tôi sẽ tụ họp ở nhà Gottfried. Tôi ăn tối ở một quán nhỏ rồi ra đi. Trên đường, để ăn mừng, tôi tự thưởng cho mình một chiếc cà vạt mới, mua từ một cửa hàng thời trang. Tôi không ngừng ngạc nhiên vì sự việc đã diễn ra êm đẹp, và tôi tự nhắc nhở rằng, ngày mai tôi phải nghiêm trang như một ông giám đốc nhà vĩnh biệt.
    Tư gia của Gottfried là nơi đáng cho ta thưởng ngoạn. Ở đấy trưng bày những lưu niệm anh ấy mang về từ Nam Mỹ. Các tấm chiếu bằng cói màu sắc tươi vui treo trên vách, nhiều mặt nạ, một cái thủ cấp phơi khô, các lục bình hình dạng cổ quái, các ngọn giáo và, như những tác phẩm thời kháng chiến, một bộ sưu tập chiếm trọn một bức vách: ảnh các thiếu nữ da đỏ và thổ dân Creoles -- da nâu, đáng yêu, những sinh vật uyển chuyển với nét duyên dáng và hững hờ không thể tả.
    Ngoài Lenz và Koster, còn có Braumuller và Grau. Oscar Braumuller, rám nắng, tóc đỏ như đồng, ngồi trên tay ghế sô pha, thích thú ngắm những bức ảnh của Gottfried. Anh ấy là tay đua cho một hảng xe hơi và bạn vong niên của Koster. Anh ấy tham dự cuộc đua thứ sáu, cuộc đua mà Otto đã ghi danh với Karl. Ferdinand Grau, to lớn, béo phì và ngà ngà say, ngồi ở bàn. Khi trông thấy tôi, anh đưa bàn tay hộ pháp ra.
    "Bob," anh nhừa nhựa nói, "cậu định làm gì ở đây với bọn trời đánh này hử? Ở đây không có gì cho cậu. Đi ngay. Cho toàn mạng. Khi còn đủ thì giờ."
    Tôi liếc về phía Lenz. Anh ấy nháy mắt với tôi. "Ferdinand đang xỉn. Từ hai ngày nay, anh ấy uống cho những người quá cố yêu dấu. Anh ấy vừa bán một bức tranh truyền thần và túi rủng rỉnh xu."
    Ferdinand là họa sĩ. Và có lẽ anh ấy đã chết đói từ lâu, nếu như không có sở trường độc đáo. Theo yêu cầu của tang gia hiếu thảo, chỉ dựa trên ảnh chụp của người đã mất, anh vẽ những tấm chân dung sống động tuyệt vời. Anh kiếm sống bằng cách đó -- thực tình mà nói, khá giả. Tranh phong cảnh tuyệt đẹp của anh, không ma nào mua. Việc này làm cho câu chuyện của anh nhuốm màu sắc bi quan.
    "Lần này là một ông chủ quán rượu, Bob ạ," anh nói; "một ông chủ quán rượu có bà cô giàu sụ trong ngành dầu, dấm." Anh rùng mình. "Kinh khiếp quá!"
    "Ferdinand này," Lenz phản đối. "cậu không nên dùng những từ ngữ nặng nề như thế. Cậu sống nhờ lòng hiếu để, một trong những đức tính cao đẹp nhất của con người."
    "Không đúng," Ferdinand tuyên bố, "tôi sống nhờ vào mặc cảm tội lỗi. Hiếu thảo gì đây ? chẳng qua chỉ là lòng ân hận. Người ta muốn bù đấp lại những ước muốn và hành vi xấu xa mà họ đã gây ra cho thân nhân của họ lúc sinh tiền." Anh chậm rãi lấy tay vuốt vầng trán đam mê. "Cứ nghĩ xem, bao nhiêu lần ông chủ quán rượu của tớ đã ao ước bà cô của ông ấý chết phức đi! Để chuộc lỗi, giờ đây ông ấy đặt tớ vẽ tranh cho bà bằng những màu sắc đẹp đẽ nhất và treo lên tường bên trên sô pha. Ông ta thích bà ấy như thế hơn. Lòng hiếu thảo! Nhân loại chỉ nhớ tới những đức tính hiếm hoi của họ khi đã quá trễ. Và người ta sẽ an ủi bằng cách nghĩ rằng họ có thể cư xử tồi tệ còn hơn thế, và coi đó như là điều công chính. Con người muốn người khác có những đức tính -- đức hạnh, nhân từ và độ lượng -- để họ có thể lợi dụng."
    Lenz nhoẽn cười. "Cậu đang tấn công vào nền tảng của xã hội, Ferdinand."
    "Nền tảng của xã hội là lòng ganh tỵ, sợ hãi và thối nát," Grau bẻ lại. "Loài người xấu xa nhưng lại yêu thích điều thiện -- do người khác làm." Anh chìa ly rượu của mình cho Lenz. "Vậy nên, hãy rót cho tớ thêm một ly và đừng nói suốt cả đêm. Để cho người khác được góp lời với."
    Tôi leo qua ghế sô pha đến chỗ Koster đứng. Một ý tưởng đột nhiên nảy sinh trong đầu. "Otto, xin giúp tớ việc này, Tớ muốn sử dụng chiếc Cadillac tối mai."
    Đang mãi mê nhìn ngắm ảnh một vũ công Creole ăn mặc phong phanh, Braumuller ngừng lại.
    "Thế, cậu đã biết quẹo cua?" anh gạn hỏi. "Tớ nghĩ cậu chỉ biết lái một đường thẳng bong, nếu có ai kềm tay lái cho cậu."
    "Đừng lo, Oscar," tôi trả lời, "tụi tớ sẽ cho cậu hít bụi trong cuộc đua thứ sáu."
    Braumuller cười ngoặt ngoẽo gần như tắc thở.
    "Sao, có được không, Otto?" tôi thúc hối.
    "Xe không có bảo hiểm, Bob," Koster nói.
    "Tớ sẽ lái chậm như rùa bò và bóp kèn om trời như xe buýt. Chỉ vài kí lô mét khỏi thành phố."
    "Otto khép mắt lại cho đến lúc chúng chỉ còn là hai vạch nhỏ và anh mĩm cười. "Theo tớ, được đấy Bob."
    "Cậu muốn chiếc xe, tớ đoán, để đi đôi với cái cà vạt mới?" Lenz vừa bước tới, hỏi.
    "Nín đi," tôi nói, xô anh sang một bên.
    Nhưng anh không buông tha.
    "Bé ơi, cho xem nào!" Anh mân mê mảnh lụa. "Đẹp. Thằng bé của chúng ta đĩ trai thế. Tớ nghi hắn sẽ dự hội chiêu thê."
    "Hôm nay cậu chẳng làm gì được tớ đâu, đồ nghệ sĩ thay áo," tôi trả lời.
    "Hội chiêu thê?" Ferdinand Frau ngẩng đầu. "Và tại sao chú ấy không dự hội chiêu thê được nhỉ?" Anh trở nên sống động và quay lại nhìn tôi. "Đi đi, Bob. Cậu có đủ điều kiện. Một tính chất đơn giản cần thiết cho tình yêu. Cậu sở hữu điều ấy. Gìn giữ nó. Đấy là quà tặng của thượng đế. Không bao giờ có lại, một khi đã mất."
    "Tuy thế, đừng lo lắng nhiều, Bob," Lenz cười toe toét. "Chẳng có gì phải hổ thẹn khi ta sinh ra đời ngờ nghệch. Chết khờ dại mới xấu hổ."
    "Gottfried, nín đi!" Chỉ với một cái nhấc tay, Grau đã đẩy anh ấy sang một bên. "Đừng can dự vào, đồ lãng mạn cuối mùa. Chẳng ai thèm thương hại cậu."
    "Ferdinand ạ, nếu cần, cậu cứ nói." Lenz đáp. "Nói ra được, thường sẽ nhẹ lòng hơn."
    "Cậu, một người cáo bệnh trốn việc," Grau tuyên bố. "Chính cậu, là người đáng thương, theo chủ nghĩa thoát ly, xa vời thực tế."
    "Thế thì tất cả chúng ta đều cá mè một lứa," Lenz cười. "Chúng ta chỉ sống bằng ảo tưởng và tín nhiệm."
    "Vâng, đúng thế," Grau nói, nhìn chúng tôi dưới hàng chân mày dầy rậm. "Bằng ảo vọng dựa vào quá khứ, và niềm tin vay mượn ở tương lai." Rồi anh quay lại tôi. "Tính chất mộc mạc," tớ đã nói như thế, Bob. Chỉ có những ai ganh tỵ mới gọi điều ấy là sự khờ dại. Cậu đừng lo bị thua thiệt. Đấy không phải là một khuyết điểm; đấy chính là tài năng."
    Lenz muốn cắt ngang, nhưng Ferdinand vẫn tiếp tục. "Cậu biết tớ muốn nói gì. Một lòng can đảm tròn vẹn, chưa bị xói mòn bởi sự nghi ngờ và khôn ngoan quá mức. Parsifal ngu ngốc. Nếu là một người thông minh sắc sảo, hẳn ông ta chẳng thể dành được Chén Thánh. Chỉ có những người khờ khạo mới thành tựu trong đời; những người khác, nhìn thấy quá nhiều chướng ngại và do dự trước khi bắt đầu. Trong những lúc khó khăn, sự ngây thơ chân chất là món quà vô giá nhất -- là chiếc áo tàng hình, che giấu mối hiểm nguy mà những người khôn ngoan vượt bực thường đâm đầu vào như bị thôi miên."
    Anh tợp một ngụm rượu và nhìn tôi bằng đôi mắt xanh, mênh mang, như một mảng trời trên gương mặt anh. "Đừng bao giờ muốn biết quá nhiều, Bob. Càng ít chừng nào, càng dễ sống chừng ấy. Kiến thức giải phóng chúng ta -- nhưng làm chúng ta đau khổ. Nào, hãy uống với tớ để chúc tụng sự đơn giản, khờ dại và những thứ tùy thuộc vào nó -- tình yêu, niềm tin ở tương lai, ước mơ có hạnh phúc; hãy uống để chúc tụng sự ngu ngơ tuyệt vời, chúc tụng một thiên đàng đã mất..."
    Mụ cứng rắn và thô kệch; trong khi, Grau, mặc dù thân hình đồ sộ, lại nhạy cảm và mong manh. Anh không thể thoát khỏi tay mụ và có lẽ, anh cũng chẳng màng. Anh mới bốn mươi hai tuổi.
    Mặc dù tôi biết anh chỉ say sưa, nhưng tôi vẫn rùng mình rất khẻ. Anh không thường đến đây; anh hay uống trong xưởng vẽ một mình. Như thế lại càng gục nhanh.
    Một nụ cười lướt qua mặt, anh ấn ly rượu vào tay tôi.
    "Uống đi, Bob. Và tự cứu. Hãy nghĩ về những điều tớ vừa nói."
    "Vâng, Ferdinand ạ."
    Lenz mở máy hát. Anh có một chồng đĩa nhạc của người da đen và anh cho máy chạy những bài -- về Mississippi, về mùa thu hoạch bông vải, và về những đêm oi ả trên sông nước nhiệt đới xanh rờn.

  5. #5
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Chiến hữu Chương 6



    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 6

    Patricia Hollman sống trong một chung cư to, màu vàng, cách lòng đường một vệt cỏ hẹp. Trước cửa chính là ngọn đèn đường. Tôi đậu chiếc Cadillac ngay dưới đó. Trong ánh sáng lung linh, nó trông như một chị voi đen, khổng lồ, bóng như sơn mài.
    Tôi đã hoàn thiện bộ cánh của mình. Ngoài cà vạt, còn thêm mũ và găng tay mới. Tôi cũng mặc chiếc áo khoác nâu của Lenz, dệt bằng thứ len Shetland thượng hạng. Trang bị như thế, tôi hy vọng sẽ xóa bỏ vĩnh viễn, nếu chẳng may, bất kỳ ấn tượng say sưa ban đầu.
    Tôi bóp còi. Lập tức, như hỏa tiến lao khỏi bệ phóng, đèn lần lượt chớp sáng ở năm khung cửa sổ, từ thấp lên cao. Thang máy bắt đầu kêu rầm rì. Tôi nhìn nó hạ thấp, như một chiếc giỏ mây sáng trưng từ trời cao thả xuống. Nàng mở cửa và bước nhanh xuống mấy bậc thềm. Nàng vận một chiếc áo lông ngắn và một cái váy bó sát màu nâu.
    "Chào anh!" Nàng đưa tay. "Rất vui có dịp ra ngoài. Tôi ở nhà suốt ngày hôm nay."
    Tôi thích cách nàng bắt tay -- chặt hơn ta tưởng. Tôi ghét những người đưa bàn tay mềm oặt như cá ươn.
    "Thế, tại sao cô không nói trước?" tôi trả lời. "Tôi có thể đón cô từ trưa."
    "Vậy, anh có nhiều thì giờ rỗi rảnh nhỉ?" nàng cười.
    "Không hẳn thế. Nhưng tôi có thể sắp xếp để ra về sớm."
    Nàng hít một hơi dài. "Không khí tuyệt vời -- như hương Xuân."
    "Cô tha hồ hít thở," tôi nói. "Cô có muốn ra khỏi thành phố, đi qua rừng? Cô thấy đấy, tôi có một chiếc xe hơi." Tôi hững hờ chỉ chiếc Cadillac, làm như nó là một xe Ford cũ.
    "Cadillac?" Ngạc nhiên, nàng nhìn tôi. "Xe của anh?"
    "Vâng, tối nay. Những lúc khác, nó thuộc về xưởng. Chúng tôi đang o bế nó, hy vọng sẽ kiếm được một vố để đời."
    Tôi mở cửa xe. "Cô nghĩ sao, nếu chúng ta ghé 'Chùm Nho' và ăn tối ở đấy trước?"
    "Tất nhiên sẽ ăn tối, thế nhưng, sao lại chọn 'Chùm Nho'?"
    Tôi bối rối nhìn nàng. "Chùm Nho" là quán ăn sang trọng duy nhất mà tôi biết.
    "Quán mở cửa," tôi nói. "Đấy là tất cả những gì tôi biết. Và tôi nghĩ chúng ta có bổn phận với chiếc Cadillac."
    Tôi choáng váng. Ý tưởng của tôi về một buổi tối nghiêm túc tan biến vào khoảng không. "Thế thì cô nên đề nghị một nơi nào," tôi nói. "Những chỗ tôi biết đều có phần luộm thuộm. Tôi không nghĩ chúng xứng đáng với cô."
    "Làm sao anh biết?"
    "Tôi có thể thấy --"
    Nàng nhìn tôi thật nhanh: "Chúng ta cứ thử, xem sao."
    "Được thôi," tôi đành buông bỏ toàn bộ kế hoạch của mình. "Vậy, tôi biết một chỗ, nếu cô không dễ khiếp đảm. Chúng ta sẽ đến quán Alfons'."
    "Alfons điều hành một quán bia lộ thiên," tôi nói; "anh ấy là bạn thân của Lenz."
    Nàng cười to. "Vậy, Lenz có bạn khắp nơi."
    Tôi gật đầu. "Anh ấy kết bạn dễ dàng. Cô đã chứng kiến điều ấy, với Binding."
    "Vâng, quả thế." nàng trả lời. "Nhanh như chớp."
    Chúng tôi lái đi.
    Alfons là một người nặng nề to lớn, it lời. Lưỡng quyền cao ... Mắt nhỏ ... Tay áo xắn lên... Bắp thịt như khỉ đột... Nếu không vừa ý một người nào, kể cả thành viên Công Đoàn Thể Thao Tổ Quốc, anh sẽ đích thân quẳng gã ấy ra đường. Với các khách hàng thực sự khó chơi, anh có một cây búa, dấu dưới quầy. Quán tọa lạc ở một địa điểm tiện nghi; cạnh bịnh viện. Giúp Alfons đỡ phí chuyển thương.
    Với bàn tay đầy lông, anh lau cái bàn gỗ thông màu nhạt.
    "Bia?" anh hỏi.
    "Whisky, và một ít thức ăn," tôi nói.
    "Còn quý cô thì sao?" Alfons hỏi.
    "Quý cô cũng gọi whisky," Patricia Hollmann nói.
    "Anh tự xẻ thịt?" tôi hỏi.
    "Tất nhiên."
    "Nhưng có lẽ cô ấy hợp với một món nhẹ nhàng hơn, Alfons."
    "Không hẳn đâu," Alfons phản đối. "Hãy để cô ấy xem miếng sườn."
    Anh gọi người hầu bàn đem ra một phần sườn. "Một chị lợn béo tốt," anh bảo. "tôi chọn hai con hạng nhất."
    "Đúng là món chính hẩu," Patricia Hollmann trả lời chắc nịch, trước sự ngỡ ngàng của tôi, như thể đã lăn lộn trong nghề lâu năm.
    Alfons nháy mắt. "Vậy ta gọi hai phần?"
    Nàng gật đầu.
    "Hay lắm! Tôi sẽ đích thân chọn thịt."
    Anh bỏ vào bếp.
    "Tôi xin lấy lại nỗi ngờ vực về quán ăn này," tôi nói. "Cô đã nhanh chóng làm xiêu lòng Alfons. Anh ấy tự tay chọn thịt -- thông thường, anh ấy chỉ làm như thế với khách rất quen."
    Alfons trở lại. "Tôi cũng thêm vào một đòn xúc xích tươi."
    "Ý không tệ lắm," tôi nói.
    Alfons nhìn chúng tôi một cách độ lượng. Whisky được đem ra. Ba cái ly. Một cho Alfons.
    "Nào, pros't!" anh nói. "Cầu trời cho con cái chúng ta có cha mẹ giàu có."
    Chúng tôi chạm ly. Cô gái không nhấm nháp. Nàng nghiêng ly uống một mạch.
    “Chọn đúng món ngon,” Aflons nói và chậm rãi đi về quày.
    “Cô có thích hương vị của loại whisky này? Tôi hỏi.
    Nàng lắc đầu. “Hơi mạnh một chút. Nhưng tôi không thể để Alfons thất vọng.”
    “Đương nhiên,” nàng nói. “Nhưng dường như anh ấy không có nhược điểm.”
    “Có đấy.” Tôi chỉ tay vào cái bàn đặt cạnh quầy rượu. ”Kia kìa.”
    “Cái gì thế? Máy hát?”
    “Không phải máy hát. Hợp xướng thánh ca. Alfons rất yêu nhạc hợp xướng. Chưa bao giờ thích nhạc khiêu vũ hay nhạc cổ điển – hoàn toàn là hợp xướng mà thôi. Hợp xướng giọng nam, giọng nam và nữ – tất cả các dĩa hát ở đấy đều là thánh ca. Kia -- cô thấy không. Anh ấy đang đi tới."
    “Ăn được không?” Alfons hỏi.
    “Cứ như mẹ nấu ở nhà,” tôi đáp.
    “Cô ấy cũng thích chứ?”
    “Món sườn heo ngon nhất đời tôi,” cô gái dõng dạc nói.
    Alfons gật đầu thỏa mãn. “Bây giờ tôi sẽ chơi dĩa nhạc mới nhất. Sẽ làm các bạn ngạc nhiên.”
    Anh ấy đi tới chỗ máy hát. Tiếng kim sột soạt cào lên mặt dĩa và một ban hợp xướng nam vút cao giọng hát vui tươi bài “Im lặng của Núi Rừng.” Quả là một sự im lặng náo nhiệt.
    Từ đầu, cả quán đều im phăng phắc. Alfons có thể rất nguy hiểm nếu có ai tỏ ra thiếu tôn kính. Anh đứng ở quày, đôi tay lông lá đỡ lấy càm. Nét mặt anh thay đổi theo của âm nhạc. Anh mơ màng – như một con khỉ đột có thể mộng mơ. Hợp xướng thánh ca tạo ra một hiệu quả vượt bực cho anh; anh trở nên dịu dàng và đa cảm như một con bê. Khi anh còn trẻ và nóng tính hơn, vợ anh thường để sẳn ở máy hát một trong những dĩa nhạc yêu chuộng nhất của anh, để nhỡ khi anh hung hăng và xuất hiện với cây búa, chị có thể vặn nhạc lên; rồi anh sẽ hạ búa, lắng nghe và bình tâm. Không cần phải làm như thế nữa: vợ anh đã mất và chân dung của chị treo trên quày rượu. Ferdinand Grau vẽ bức tranh ấy, đấy là lý do Ferdinand luôn luôn có bàn ăn miễn phí ở đây– ngoài ra, Alfons đã lớn tuổi và chín chắn hơn xưa.
    Dĩa nhạc chấm dứt. Alfons tiến đến.
    “Tuyệt diệu,” tôi nói.
    “Nhất là ca sĩ chính giọng nam cao, ” Patricia Hollmann phụ họa.
    “Chính xác,” dường như đã quay về tình trạng cũ, Alfons nói.
    “Thế ra cô cũng biết ít nhiều. Người ca sĩ giọng nam cao ấy, thật đặc biệt, không lẫn được với ai."
    Chúng tôi đứng trên vĩa hè. Những ngọn đèn đường trước quán lay lắt chiếu ánh sáng và bóng tối lên mê cung cành lá của một gốc cây già. Những cành cây vốn đã óng mượt màu xanh lục và trong vùng sáng chập chờn bất định từ bên dưới, dường như cây cao hơn và to ra -- như thể ngọn của nó mất hút trong vũng tối u buồn trên cao -- giống một cánh tay khổng lồ, vươn dài trong ước muốn mãnh liệt nắm bắt bầu trời.
    Patricia Hollmann khẻ rùng mình.
    "Cô lạnh à?" tôi hỏi.
    Nàng bẻ cao cổ áo và dấu đôi bàn tay vào ống tay áo. "Chỉ thoảng qua. Trong quán ăn khá ấm áp."
    "Cô mặc không đủ," tôi nói. "Ban đêm trời vẫn lạnh."
    Nàng lắc đầu. "Tôi không thích mặc những thứ y phục dầy cộp, nặng nề. Sẽ tuyệt khi trời ấm trở lại. Tôi không chịu được lạnh. Nhất là ở thành phố."
    "Trong xe Cadillac sẽ ấm hơn," tôi nói. "Tôi đã cẩn thận mang theo một tấm chăn nhỏ."
    Tôi giúp nàng ngồi vào xe và phủ chăn lên gối nàng. Nàng kéo chăn lên cao. "Tuyệt quá! Giờ tôi ấm lắm rồi. Cái lạnh làm ta khổ sở."
    "Không chỉ cái lạnh." Tôi xoay tay lái. "Bây giờ chúng ta đi chơi nhé?"
    Nàng gật đầu. "Vâng ạ."
    "Đi đâu?"
    "Chạy chầm chậm. Đi đâu không thành vấn đề."
    "Đúng thế."
    Tôi nổ máy xe và chúng tôi lái chậm và loanh quanh không mục đích trong thành phố. Đó là lúc mật độ giao thông dầy đặc nhất trong đêm. Xe chúng tôi nhẹ nhàng lăn bánh, động cơ nổ êm đềm. Chiếc xe cũng có thể là con tàu im ả lướt trên dòng kênh vui vẻ của cuộc đời. Những con đường lần lượt trôi qua -- những cánh cửa màu sắc tươi sáng, những ánh đèn, từng dãy đèn đường, buổi tối nhu nhã dịu dàng sủi bọt hương đời, đêm sáng lung linh trong cơn sốt nhẹ, và trên tất cả, giữa những mái nhà, là bầu trời bao la, xám màu chì mà ánh đèn thành phố hắt lên.
    Cô gái ngồi im lặng cạnh tôi; qua khung cửa xe, ánh sáng và bóng tối thay nhau phơn phớt trên mặt nàng. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn nàng; nàng làm tôi nhớ đến đêm đầu tiên gặp gỡ. Nét mặt nàng giờ đây nghiêm nghị hơn, xa lạ hơn, tuy rất xinh đẹp; đó chính là nét mặt đã khiến tôi xúc động và không thể nào quên. Với tôi, dường như nó mang một bí ẩn nào đó của sự tỉnh lặng tìm thấy trong những sự vật, gần gụi với thiên nhiên -- cây cỏ, trời mây, loài vật-- và đôi khi, ở một người đàn bà.
    Chúng tôi đã lái đến ngoại ô, đường xá thưa vắng hơn. Gió thổi mạnh thêm. Như gió muốn đẩy xua đêm phia trước. Ở một quảng trường, nơi các ngôi nhà nhỏ đang yên giấc trong những khu vườn con, tôi dừng xe.
    Patricia Hollmann làm một cử chỉ như vừa tỉnh giấc.
    "Đáng yêu thế," sau một chốc, nàng nói. "Nếu sở hữu một chiếc xe, tôi sẽ lái chầm chậm khắp nơi như thế mỗi đêm. Có một điều gì đó siêu thực khi ta lướt đi không tiếng động. Ta vừa tỉnh thức vừa mơ màng. Và rồi, tôi có thể hình dung, có người không muốn gặp ai, vào buổi tối -- "
    Tôi lấy trong túi ra gói thuốc lá. "Người ta cần một thứ gì đó vào buổi tối, hử?"
    Nàng gật đầu. "Buổi tối, vâng. Thật kỳ quặc, khi màn đêm buông xuống."
    Tôi xé bao thuốc. "Thuốc lá Mỹ, cô thích chứ?"
    "Vâng, có còn hơn không."
    Tôi quẹt diêm cho nàng. Trong một thoáng, đóm lửa ấm áp, gần gủi của que diêm thắp sáng gương mặt nàng và bàn tay tôi và đột nhiên, tôi có cảm giác điên rồ là chúng tôi thuộc về nhau, đã từ lâu.
    Tôi hạ kính xe cho khói thuốc thoát ra.
    "Cô muốn lái xe không?" tôi hỏi. "Chắc cô sẽ thấy thú vị."
    Nàng quay lại. "Tôi muốn chứ; nhưng tôi không biết lái."
    "Cô thực sự không biết?"
    "Không. Tôi chưa học bao giờ."
    Tôi nhìn thấy cơ hội. "Nhưng Binding hẳn đã dạy cô từ lâu," tôi nói.
    Nàng cười. "Binding yêu xe của anh ấy lắm. Không cho ai đến gần."
    "Ngốc thế," tôi tiếp tục, vui vì có dịp dè bỉu anh Béo. "Còn tôi, tất nhiên sẽ cho cô lái."
    Tôi để tất cả những lời dặn dò của Koster bay theo gió và bước xuống xe, đổi chỗ với nàng. Nàng bức rức. "Nhưng đã nói, thực tình tôi không biết lái."
    "Cô sẽ lái." tôi trả lời. "Chỉ có điều, cô chưa biết cách mà thôi."
    Tôi chỉ nàng cách sang số và dùng bàn đạp. "Rồi đấy," tôi nói, "cô lái đi."
    "Đương nhiên là không." Tôi nhanh tay đẩy cần, vào số.
    "Chao ơi!" Patricia Hollmann kêu. "Nó chạy."
    "Thì xe làm ra để chạy mà. Đừng sợ. Nhấn thêm ga, có tôi trông chừng."
    Nàng tuyệt vọng ôm chặt tay lái và lo lắng dán mắt vào con đường trước mặt. "Chúa ơi, chúng ta chạy nhanh lắm, phải không?"
    Tôi liếc đồng hồ tốc độ. "Cô đang lái hai mươi lăm cây số một giờ. Trên thực tế, chỉ chừng hai mươi. Lái đường trường như thế là 'siêu' lắm đấy."
    "Tôi có cảm giác như tám mươi cây số một giờ."
    "Coi chừng," tôi nói, "cảnh sát kìa."
    "Tôi có nên dừng lại không?"
    "Trễ rồi."
    "Và nếu họ bắt được, chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi không có bằng lái."
    "Thì cả hai đứa ngồi tù."
    "Trời đất ơi!" kinh hoảng, nàng nhấp thắng.
    "Nhấn ga!" tôi nói. "Nhấn mạnh vào. Chúng ta phải vượt qua, nhanh và kiêu hảnh. Táo tợn là cách đối phó tốt nhất."
    Người cảnh sát không mảy may để ý đến chúng tôi. Cô gái thở phào nhẹ nhỏm.
    "Tôi chưa bao giờ biết cảnh sát giao thông có thể giống như rồng phun lửa thế đấy," nàng nói, khi đã bỏ xa anh ta chừng một trăm mét.
    "Họ chỉ giống thế khi chúng ta đến gần họ." Tôi từ từ hãm phanh. "Có con đường nhỏ và vắng đây rồi. Chúng ta sẽ thực tập nghiêm chỉnh. Trước hết, hãy rồ máy chạy rồi ngừng."
    Patricia làm xe tắt máy mấy lần. Nàng mở thêm vài cúc chiếc áo khoác lông thú. "Nóng cả người! Nhưng tôi phải cố tập."
    Nàng ngồi, sốt sắng và chăm chú quan sát những gì tôi làm. Sau đó, kêu khẻ đầy lo lắng, nàng bẻ lái quẹo ở các góc phố và nàng rất e sợ những ánh đèn xe ngược chiều, như thể chúng là quỷ sứ, và hảnh diện sau khi vượt qua. Chẳng bao lâu, trong khoảng không gian nhỏ bé lờ mờ soi bởi ánh điện của bảng đồng hồ xe, cảm giác của tình đồng đội, thứ tình cảm bừng nở khi ta gặp những vấn đề kỹ thuật và thực dụng, đã phát sinh; và một giờ rưỡi sau đó, khi đổi chỗ và tôi lái về, chúng tôi trở nên quen thuộc như đã rút gan ruột, chia sẻ tất cả dĩ vãng cho nhau.
    Tôi dừng xe ở vùng Nikolaistrasse. Chúng tôi đậu ngay dưới tấm quảng cáo phim màu đỏ. Nhựa đường ánh lên, tím tái. Trên vĩa hè là một vũng đen bóng loáng.
    "Thế là," tôi nói. "Bây giờ ta xứng đáng được uống một chút gì đó. Chúng ta nên đi chỗ nào đây?"
    Patricia Hollmann nghĩ ngợi. "Chúng ta hãy trở lại cái quán rượu dễ thương có chiếc thuyền buồm," nàng đề nghị.
    Tôi chợt hoảng. Chàng trai lãng mạn cuối cùng, chắn chắn thế, đang ngồi trong quán ấy. Tôi có thể hình dung ra nét mặt của anh...
    "Ach," tôi gạt đi, "chỗ ấy không phải là nơi xuất sắc nhất. Có những quán hay hơn nhiều."
    "Tôi không biết -- tôi nghĩ, vừa mới đây, quán ấy được lắm mà."
    "Thật sao?" tôi ngạc nhiên hỏi. "Cô cho là vừa mới đây, quán ấy được lắm?"
    "Vâng," nàng cười to, trả lời. "Rất được."
    Quả thế, tôi nghĩ, và thật đáng đời tôi.
    "Nhưng giờ này chắc quán đông người," tôi cố vớt vát.
    "Ta cứ thử ," nàng đáp.
    "Vâng, ta có thể." Tôi cân nhắc những gì nên làm.
    Khi đến nơi, tôi nhanh nhẹn bước khỏi xe. "Tôi vào xem sao. Tôi sẽ trở lại ngay."
    Không một ai quen biết ở đấy, ngoại trừ Valentin. "Thế Gottfried đã đến chưa?" tôi hỏi.
    "Tiếc nhỉ," tôi lấy lại hơi thở. "Phải chi tôi gặp họ thì hay lắm."
    Tôi trở lại xe. "Chúng ta liều một phen," tôi giải thích. "Hôm nay không đến nỗi tệ lắm." Và để phòng hờ, tôi đậu chiếc Cadillac cách một góc đường, trong bóng tối tù mù nhất.
    Nhưng chúng tôi ngồi chưa đầy mười phút đã thấy mái tóc vàng như rơm của Lenz xuất hiện nơi quày. Chán thật, nhưng đành thôi. Chỉ cần một hai tuần nữa cũng tạm đủ cho tôi, thế mà...
    Dường như Gottfried không muốn ở lại. Tôi tưởng chừng mình đã thoát nạn thì nhìn thấy Valentin chỉ trỏ về hướng tôi. Cho đáng kiếp lời gian dối của tôi.
    Lúc Gottfried nhận ra chúng tôi, nét mặt của anh xứng đáng làm mẫu cho các diễn viên yêu nghề học hỏi. Mắt anh lòi ra như hai quả trứng luộc và tôi sợ cho hàm của anh há to quá sẽ rụng rơi. Thật đáng tiếc, lúc ấy không có một nhà sản xuất nào có mặt trong quán "The Bar"; nếu có, tôi chắc chắn ông sẽ mời Lenz đóng phim ngay -- trong một vai, thí dụ, cảnh con rắn biển bất thần hiện ra gầm rống trước chàng thủy thủ đắm tàu.
    Chẳng mấy chốc Gottfried đã lấy lại bình tỉnh. Tôi khẩn khoản nhìn, mong anh biến đi. Anh đáp lại bằng một nụ cười gian ác, chỉnh áo khoác và tiến đến.
    Tôi biết những gì sẽ xảy ra và tấn công anh tức thì.
    "Thế cậu đã gặp Fraulein Bomblatt ở nhà chưa?" tôi hỏi, hóa giải những gì anh có thể nói.
    "Vâng, gặp rồi." anh trả lời không để lộ ra, dù bằng một cái chớp mắt, rằng cho đến phút giây ấy, chưa bao giờ anh nghe nói đến Fraulein Bomblatt. "Cô ấy gởi lời chào thân ái đến cậu và mong là sáng mai, cậu sẽ gọi điện cho cô ấy ngay."
    Đối đáp cừ khôi. Tôi gật đầu. "Tớ sẽ gọi. Tớ hy vọng cô ấy sẽ mua chiếc xe."
    Lenz há mồm định nói tiếp. Tôi đá vào ống chân anh dưới gầm bàn và tặng anh một cái nhìn khiến anh phải ngưng nói và mỉm cười giả lả.
    Chúng tôi uống vài ly. Tôi chỉ uống sidecars
    Gottfried tỉnh táo. "Tớ vừa ghé nhà cậu," anh nói. "Tìm cậu. Sau đó tớ qua khu công viên. Họ có một vòng quay ngựa gỗ mới. Mọi người nghĩ sao, đi đến đấy nhé?" Anh nhìn Patricia Hollmann.
    "Lập tức." nàng hân hoan trả lời.
    "Vậy chúng ta hãy đi ngay." tôi nói.
    Trước nhất là những chiếc phong cầm -- trạm tiền canh của công viên giải trí. Âm thanh ngọt ngào, rền rỉ, buồn nảo nề. Trên lớp nhung phủ đã sờn, đôi khi có một con vẹt hay một chú khỉ con, lạnh cóng trong bộ áo quần vải chéo go màu đỏ ... Rồi đến giọng rao lanh lảnh của chủ nhân các quầy bán chén dĩa, dao cắt kiếng, kẹo Thổ Nhỉ Kỳ, bóng bay và vải may áo lớn ... Ánh sáng lạnh xanh và mùi của những ngọn đèn khí đá ... Thầy bói, chiêm tinh gia, lều bán bánh tiêu đen, trụ xích đu tiên, những trò tạp lục -- và sau cùng, là ngọn tháp quay tít, lấp lánh, đèn đuốc sáng choang như lâu đài, với âm nhạc đinh tai, vui nhộn của những vòng kéo quân ...
    "Nào các bạn ơi, lên tàu," Lenz gào lên, tóc bồng bềnh, nhảy ùa đến trò xe lửa lượn quanh công viên. Đó là nơi ban nhạc sôi động nhất. Cứ giáp một vòng, từ sáu cái hốc mạ vàng lại có sáu chàng nhạc sĩ thổi kèn nhô ra, quay sang hướng đông rồi hướng tây, thổi một tràng tí toe, múa tít nhac cụ rồi rút vào chỗ cũ.
    Chúng tôi ngồi trong một con thiên nga to và quay nhấp nhô. Thế gian lấp lánh và loang loáng vút qua, cuộn lại và ngã ra sau vào một đường hầm tối đen, qua đó chúng tôi bị quăng quật, xô đẩy vào tiếng trống dồn dập, để rồi lập tức được chào đón lần nữa bởi giọng kèn và ánh sáng huy hoàng.
    "Tiến lên!" Gottfried dẫn đường đến một vòng đu bay với phi cơ và phi thuyền. Chúng tôi ngồi vào một khinh khí cầu xì gà và lượn ba vòng.
    Gần hụt hơi, chúng tôi lại trèo xuống. "Và bây giờ, bánh xe của quỷ," Lenz nói.
    Bánh xe của quỷ là một cái dĩa phẳng dẹp, to rộng, hơi dầy ở giửa, quay càng lúc càng nhanh, trên đó ta phải cố đứng vững. Gottfried lên dĩa cùng với hai mươi người khác. Anh loi choi như một thằng điên và được tán thưởng nhiệt liệt. Vào phút cuối, chỉ còn lại anh và một chị bếp, người có bàn tọa to như mông một con ngựa thồ. Nhà chị tinh ranh này, khi trò chơi trở nên khó khăn hơn, đã trụ lại ở tâm điểm trong khi Gottfried quay lặt lè chung quanh chị. Những người kia đã rơi khỏi dĩa. Sau cùng định mệnh cũng tóm được chàng lãng mạn cuối cùng; anh lảo đảo ngã vào tay chị bếp, và họ ôm nhau lăn lông lốc ra bìa. Khi anh gặp lại chúng tôi, chị đang trên tay anh. Anh gọi chị, không vấp víu, Lina. Lina cười ngượng ngập. Anh hỏi chị muốn uống gì với anh. Lina trả lời, nghe nói bia là thức giải khát tốt nhất. Hai người biến mất vào quán bia lộ thiên Bavarian.
    "Còn chúng ta thì sao? Giờ chúng ta đi đâu?" Patricia Hollmann hỏi, mắt long lanh.
    "Mê cung của ma quỷ," tôi nói, chỉ vào một gian hàng rộng.
    Mê cung là con đường đầy bất ngờ. Sau vài bước, mặt đất chao đảo dưới chân, những bàn tay trong bóng tối thò ra chộp lấy tay ta, những hình tượng đeo mặt nạ nhảy xổ từ trong góc, tiếng ma tru quỷ hờn --- chúng tôi cười vang, nhưng có một lần, nàng sửng người lùi lại trước một đầu lâu thần chết dưới ánh đèn xanh lục. Trong một chốc, nàng tựa vào tay tôi, hơi thở phơn phớt lên má tôi, tôi có cảm tưởng như tóc nàng mơn man trên môi tôi -- rồi ngay tức thì, nàng lại cười dòn tan và tôi để nàng rời khỏi tay tôi.
    Tôi để nàng rời khỏi tay tôi -- nhưng có một thứ gì đó trong tôi không thể. Rất lâu sau khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi vẫn còn cảm giác của đôi vai nàng trên tay tôi, mái tóc mềm mại, làn da thơm mùi đào.
    Tôi cố không nhìn nàng. Thình lình nàng trở nên một thứ gì khác biệt.
    Lenz đã chờ sẳn. Anh chỉ còn một mình.
    "Lina đâu rồi?" tôi hỏi.
    "Đang kết thân," anh trả lời, hất đầu về hướng quán bia, "với một ông thợ rèn."
    "Xin chia buồn," tôi nói.
    "Có hề chi," Gottfried trả lời. "Bây giờ chúng ta hãy đến một nơi nghiêm chỉnh cho cánh đàn ông."
    Chúng tôi đến một quầy, nơi đó ta thảy các vòng cao su cứng vào móc và có thể thắng được nhiều thứ.
    "Thế thì," Lenz vừa nói với Patricia Hollmann, vừa đẩy mũ lệch ra sau, "bây giờ chúng tôi sẽ sưu tập những món tư trang về nhà chồng cho cô."
    Anh thẩy trước và thắng một cái đồng hồ báo thức. Tiếp theo, tôi được một con gấu bông. Ông chủ quầy giao hàng và ba hoa chiêu dụ thêm khách mới. "Ông sẽ sớm đổi thái độ cho mà xem," Gottfried cười khảy, và thắng được một cái chảo; tôi, con gấu bông thứ nhì. "Sao mà ác thế," ông chủ quầy nói, đưa những thứ ấy cho chúng tôi.
    Ông ta không biết mình đang ở trong tình huống nào. Lenz là người liệng bom giỏi nhất đại đội; vào mùa đông khi không bận việc, chúng tôi luyện tập hàng tháng không ngừng, thẩy nón của chúng tôi lên đủ các loại móc, cột. Thẩy vòng ở đây chỉ là trò trẻ con, so với chuyện ấy. Không một chút khó khăn, Gottfried lại thắng một lọ cắm hoa thủy tinh, còn tôi, một chục đĩa hát. Ông chủ quán lẳng lặng đùa chúng qua quày và xem xét lại những cái móc của ông.
    Lenz nhắm, thẩy và thắng một bình cà phê, giải nhì. Một đám đông hiếu kỳ tụ tập chung quanh. Tôi thẩy liên tiếp ba vòng vào cùng một móc. Lợi phẩm: tranh bà thánh Magdalene sám hối lộng khung vàng.
    Ông chủ quầy, vẻ mặt như đang ở phòng khám răng, từ chối không cho chúng tôi chơi nữa. Chúng tôi đã định ngưng, nhưng cử tọa kích động. Họ nhất quyết đòi ông ta phải cho chúng tôi tiếp tục. Họ muốn thấy ông ta thua sạch. Khi cuộc huyên náo lên đến cao điểm, Lina bổng dưng xuất hiện với ông thợ rèn. "Khách lúc nào cũng nên thua, hử?" chị bi bô, "không bao giờ nên thắng, hử?" Ông thợ rèn trầm giọng phụ họa.
    "Được rồi," Lenz đề nghị, "mỗi đứa thẩy thêm một lần nữa thôi."
    Tôi thẩy trước. Một bồn rửa mặt với bình nước và vĩ đựng xà phòng. Rồi đến lượt Lenz. Anh lấy năm vòng. Anh thẩy liên tiếp bốn vòng vào cùng một móc. Trước khi thẩy vòng thứ năm, anh dừng lại, như một chàng nghệ sĩ, lấy một điếu thuốc lá. Ba người bật diêm mời. Ông thợ rèn vỗ vai anh. Lina nhằn góc khăn tay của chị, hồi hộp. Rồi Gottfried nhắm và thảy cái vòng cuối cùng, nhẹ nhàng sao cho nó không bật ra mà nằm yên trên bốn cái vòng trước. Nó dính. Tiếng vỗ tay như sấm. Chúng tôi đã đoạt giải nhất -- một cái xe đẩy em bé, nóc hồng và gối bọc ren.
    Ông chủ quầy, nguyền rủa, đẩy xe ra. Chúng tôi chất những món kia vào và bước qua gian hàng bên cạnh. Lina đẩy chiếc xe nôi. Ông thợ rèn nói đùa mãi về nó, khiến tôi nghĩ mình nên lùi lại ra sau cùng với Patricia Hollman.
    Ở quầy kế, ta chỉ cần thảy vòng lên các chai rượu vang. Nếu vòng dính cổ chai nào, ta được chai ấy. Chúng tôi ra đi với sáu chai rượu. Lenz, rất phong nhã, tặng tất cả cho ông thợ rèn.
    Còn một gian hàng tương tự. Nhưng chủ nhân đã linh cảm một điều gì không ổn, tuyên bố đóng cửa ngay khi chúng tôi trờ đến. Ông thợ rèn gây gổ. Ông đã nhìn thấy những chai bia sẳn sàng chờ đợi. Nhưng chúng tôi từ chối. Người chủ quày chỉ có một tay.
    Với đám đông bám theo, chúng tôi ra đến xe Cadillac.
    "Làm sao bây giờ?" Lenz gãi đầu. "Chắc phải cột cái xe đẩy em bé phía sau."
    "Hẳn rồi," tôi nói, "nhưng cậu phải ngồi trong ấy, giữ cho nó khỏi lật."
    Patricia Hollmann phản đối. Nàng sợ Lenz sẽ thực sự làm như thế.
    "Được," Lenz nói, "thế thì chúng ta chia phần. Hai chú gấu bông thuộc về cô. Mấy cái dĩa nhạc cũng thế. Nhưng còn cái chảo thì sao?"
    Cô gái lắc đầu. "Vậy, đem về tiệm sửa xe," Gottfried nói. "Bob, cậu nhận đi. Cậu là sư phụ chuyên trị món trứng luộc. Còn bình cà phê thì sao?"
    Nàng gật đầu về hướng Lina. Chị bếp đỏ mặt. Gottfried trang trọng giao cho chị như đang phát thưởng. Rồi anh lôi ra cái bồn rửa mặt. "Bộ dụng cụ vệ sinh? Phần của anh bạn đây, có ai nói gì không? Anh ấy sẽ cần dùng chúng khi làm việc. Đồng hồ báo thức, cũng rứa. Mấy ông thợ rèn là chúa ngủ mê."
    Tôi đưa Gottfried lọ hoa. Anh chuyển sang Lina. Chị lắp bắp từ chối. Mắt chị dán vào bức Magdalene sám hối. Chị ấy sợ, nếu nhận bình hoa, có thể chị ấy sẽ không được bức tranh.
    "Tôi rất ưa chuộng nghệ thuật," chị bật ra lời.
    "Fraulein," Lenz hỏi, quay một vòng kiểu cách, "cô nghĩ sao?"
    Patricia Hollmann cầm bức tranh, đưa cho chị bếp.
    "Tranh đẹp lắm, Lina." nàng mỉm cười nói.
    "Treo trên đầu giường và chiêm bái mỗi ngày," Lenz nói.
    Lina chụp bức tranh. Chị nấc lên, đầy lòng biết ơn.
    "Và bây giờ, tới phiên ngươi," Lenz vẻ suy tư, nói với cái xe đẩy em bé.
    Chúng tôi leo vào xe Cadillac. "Cứ như lễ Giáng Sinh ấy," Lina nói, sung sướng giữa đống đồ tạp nhạp của mình, chìa bàn tay đỏ giả từ.
    Ông thợ rèn kéo chúng tôi riêng một bên. "Nhìn đây," ông nói. "nếu có khi nào các cậu cần nắn gân một đứa nào -- tớ ngụ ở số mười sáu đường Leibnitzstrasse, sân sau, cầu thang thứ hai bên trái. Nếu đông hơn, tớ sẽ dẫn theo nguyên băng."
    "Đồng ý," chúng tôi trả lời và lái đi.
    Khi chúng tôi quẹo ở một góc công viên, Gottfried chỉ qua cửa sổ. Kìa, chiếc xe đẩy của chúng tôi -- một em bé thứ thiệt nằm trong ấy, và một thiếu phụ xanh xao bên cạnh, vẫn còn háo hức, ngắm nhìn.
    "Được quá nhỉ?" Gottfried nhận xét.
    "Tặng chị ấy mấy con gấu bông một thể!" Patricia Hollmann kêu lên. "Chúng thuộc về nhau."
    "Có lẽ, một con thôi nhé," Lenz nói. "Cô phải giữ lại một."
    "Không, cả hai."
    "Được rồi," Lenz nhảy ra khỏi xe, quẳng hai con gấu bông vào tay thiếu phụ, và, trước khi chị ấy có thể nói nên lời, chạy như ma đuổi.
    "Vậy," anh nói, hơi thở dồn dập, "bây giờ tớ bắt đầu phát gớm cho lòng cao thượng của tớ. Thả tớ xuống quán International. Tớ cần gấp một ly brandy."
    Anh xuống xe và tôi đưa nàng về. Lần này khác hơn trước. Nàng đứng ở khung cửa và ánh sáng của những ngọn đèn lung linh trên nét mặt. Trông nàng thật yêu kiều. Tôi ước mình có thể vào nhà với nàng.
    "Tạm biệt cô," tôi nói, "ngủ ngon nhé."
    "Tạm biệt anh."
    Nàng đưa tay cho tôi rồi bước lên những bậc thang. Tôi nhìn nàng cho đến khi đèn tắt. Rồi tôi lái chiếc Cadillac đi. Tôi cảm thấy tuyệt vời. Không như những đêm khác, khi ta điên mê một cô gái nào đó. Có một điều gì êm đềm ở đấy. Êm đềm, và ước vọng được một lần buông thả.
    Tôi đến International gặp Lenz. Quán hầu như trống không. Ở một góc, Fritzi ngồi với bạn, Alois chàng hầu bàn. Họ đang cãi nhau. Gottfried ngồi trên sô-pha gần quày rượu, với Mimi và Wally. Anh rất được cả hai ưa thích, nhất là Mimi đáng thương.
    Chẳng bao lâu những cô gái bỏ đi. Hẳn để kiếm khách; bây giờ là thời điểm thích hợp nhất. Mimi thở dài, rên rỉ vì chứng giãn tỉnh mạch của chị. Tôi ngồi xuống cạnh Gottfried.
    "Giờ thì cậu tha hồ xỉ vả tớ," tôi nói.
    "Về cái gì cơ chứ, Bob?" anh trả lời trước sự ngơ ngác của tôi. "Những gì cậu làm đều đúng cả."
    Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm, vì anh ấy bình thản. "Tớ cư xử tệ quá, không như trước đây," tôi nói.
    Anh vẫy tay. "Vớ vẫn."
    Tôi gọi rum.
    "Cậu biết đấy," rồi tôi nói, "Tớ không hề biết một tí gì về cô ấy. Tớ cũng không biết mối liên hệ giữa cô ấy với Binding ra sao. Anh ấy có nói gì với cậu không?"
    Anh nhìn tôi. "Cậu lo chuyện ấy ư?"
    "Không."
    "Tớ cũng nghĩ là không. Này, dù sao đi nữa, cái áo khoác vừa với cậu lắm."
    Tôi đỏ bừng hai má.
    "Cậu không cần phải đỏ mặt. Cậu đúng lắm. Ước gì tớ được như cậu."
    Tôi im lặng một lúc.
    "Sao lại thế, Gottfried?" cuối cùng, tôi hỏi.
    Anh nhìn tôi. "Bởi vì tất cả những thứ khác đều là đồ bỏ, Bob ạ. Bởi vì không có cái gì xứng đáng trong thời buổi này. Hãy nhớ lời Ferdinand nói với cậu hôm qua. Chẳng sai nhiều lắm đâu, lão họa sĩ vẽ tranh xác chết ấy ... Ôi chào, dù sao đi nữa, hãy đến cái thùng thiếc bể đàng ấy, đàn vài bản quân hành cũ."
    Tôi chơi bài "Ba đóa Huệ" và "Argonnerwald"! Trong căn phòng quạnh quẽ, chúng nghe rờn rợn yêu ma, khi ta nhớ lại nơi chốn ta đã thường hò hát thủa xưa.

  6. #6
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Erich Maria Remarque Chiến hữu

    Erich Maria Remarque

    Chiến hữu

    Chương 7


    Hai hôm sau từ văn phòng riêng Koster bước ra nói, "Bob, Blumenthal của cậu vừa gọi. Cậu cần lái chiếc Cadillac đến chỗ ông ấy lúc mười một giờ. Ông ấy muốn thử xe."
    "Vậy chứ tớ đã nói gì?" Lenz từ hốc, dưới gầm chiếc Ford, nói vọng lên. "Tớ đã nói ông ấy sẽ trở lại. Phải luôn luôn tin tưởng vào Gottfried."
    "Cậu nín đi, đây là một trường hợp quan trọng," tôi hét lại. "Otto, tớ có thể giảm giá tối đa là bao nhiêu?"
    "Tối đa hai ngàn. Tuyệt đối không quá hai ngàn hai trăm. Và rồi, nếu không xong, hai ngàn năm trăm. Còn như cậu thấy mình phải thương lượng với một kẻ dở hơi, hai ngàn sáu. Nhưng bảo ông ấy, trong trường hợp này, chúng ta sẽ nguyền rủa ông ấy đời đời kiếp kiếp."
    "Tốt lắm."
    Chúng tôi lau đến khi xe bóng lộn. Tôi ngồi vào xe. Koster đặt tay lên vai tôi. "Bob, nhớ rằng nhiệm vụ của cậu như của một chiến sĩ. Bảo vệ danh dự của xưởng sửa xe, đổ máu nếu cần. Chết đứng, tay vẫn nắm ví tiền của Blumenthal."
    "Đúng thế," tôi nhoẽn cười.
    Lenz lấy trong túi ra một cái mề đai và đưa trước mặt tôi. "Cầm lá bùa, Bob."
    "Được," tôi đỡ lấy.
    "Abracadabra, lạy thần Siva," Gottfried lẩm nhẩm cầu nguyện, "xin thần hãy ban cho người ngốc nghếch đáng thương này sức mạnh và can đảm! Khoan đã -- đây, tốt hơn hết cậu hãy cầm nó theo. Này, nhổ ba lần vào nó."
    "Xong ngay," tôi nói; nhổ xuống chân anh và lái đi, ngang qua Jupp đang hí hửng vẫy ống dẫn xăng.
    Trên đường đi, tôi mua một ít cẩm chướng và cắm rất mỹ thuật trong các lọ thủy tinh của xe -- một quan tâm dành cho Frau Blumenthal.
    Chẳng may Blumenthal lại tiếp tôi ở văn phòng, không ở tư gia. Tôi phải đợi mười lăm phút. Anh Hai ơi, tôi nghĩ, em út biết tỏng mánh khóe ấy rồi; anh Hai chẳng thể làm em út mất kiên nhẫn đâu. Ở phòng đợi, tôi rút đóa cẩm chướng trên ve áo, biếu cô thư ký xinh đẹp và gạn hỏi tình hình. Buôn hàng len, luân chuyển tốt, sáu nhân viên giúp việc, một đối tác đang chờ, công ty Meyer và Son là địch thủ đáng gờm nhất, Meyer con lái xe Essex thể thao đỏ, hai chỗ ngồi -- nghe đến đấy thì Blumenthal gọi tôi vào.
    Vừa nhìn thấy tôi, ông ta đã nã cả đôi súng.
    "Bạn trẻ ơi," ông nói, "tôi không có nhiều thì giờ. Lần trước, giá của cậu thách cao như mơ. Bây giờ, thành thực mà nói, chiếc xe giá bao nhiêu?"
    "Bẩy ngàn marks," tôi đáp.
    Ông quay phắt đi. "Nếu thế, không còn gì để bàn."
    "Chẳng cần đâu," ông ngắt lời. "Lần trước tôi đã xem đầy đủ."
    "Có nhiều thứ để xem," tôi giải thích. "Ông nên xem qua chi tiết. Nước sơn bóng, thượng hạng của Voll và Ruhrbeck, tốn hai trăm năm mươi marks, nhíp xe --mới tinh, giá ca-ta-lô sáu trăm marks --tổng cộng là tám trăm năm mươi marks. Nệm xe, bọc bằng nhung sọc tốt nhất --"
    Ông gạt ngang. Tôi lại nói tiếp. Tôi mời ông xem những phụ tùng sang trọng, mui da đẹp tuyệt, bộ tản nhiệt mạ kền, những cái chống xóc hiện đại, sáu mươi marks một cặp. Như một người mẹ chiến đấu để giành lại đứa con, tôi cố thuyết phục Blumenthal đến gần chiếc Cadillac. Tôi biết, như Antaeus, nếu có thể chạm vào mặt đất, tôi sẽ có sức mạnh mới. Giá cả dường như sẽ bớt phần mắc mỏ, nếu như ta có thể trình ra món hàng cụ thể.
    Nhưng Blumenthal cũng hiểu, sức mạnh của ông nằm sau bàn viết. Ông tháo gọng kỉnh và trả đòn đích đáng. Chúng tôi quầng nhau như hổ với trăn. Blumenthal là trăn. Trước khi tôi có thể lấy lại thế thủ, ông ta đã kỳ kèo giảm được một ngàn năm trăm marks.
    Tôi trở nên bồn chồn, lo sợ. Tôi lần trong túi, nắm chặt miếng bùa may của Gottfried.
    "Herr Blumenthal," tôi nói, cơ hồ mệt lã, "một giờ chiều rồi; ông có muốn ăn trưa." Bằng mọi giá, tôi muốn thoát khỏi văn phòng này, nơi giá cả như tuyết tan.
    "Hai giờ tôi mới ăn trưa," Blumenthal chẳng hề nao núng, giải thích. "Nhưng xem nào, nói cho cậu biết. Không chừng chúng ta có thể lái thử xe." Tôi thở ra nhẹ nhỏm.
    Chúng tôi lái về nhà ông. Trước sự ngạc nhiên của tôi, một khi ngồi vào xe, ông thay đổi thành một người khác. Ông vui vẻ kể cho tôi một chuyện tiếu lâm mà tôi đã biết, về Hoàng đế Franz Josef. Tôi kể cho ông, chuyện người tài xế xe điện; rồi ông kể chuyện người Saxon lạc đường; tôi lập tức kể chuyện những người tình Tô Cách Lan. Chỉ đến khi đã đến trước nhà ông, chúng tôi mới nghiêm trang trở lại. Ông yêu cầu tôi chờ ông vào nhà, để dẫn bà vợ ra.
    "Cô Béo yêu dấu ơi," vỗ tay lên bộ tản nhiệt, tôi nói với chiếc Cadillac, "thể nào cũng có sự tinh ma quỷ quái ẩn náu bên trong những câu chuyện tiếu lâm ấy. Nhưng đừng lo, chúng tôi sẽ tìm cho em một mái nhà. Ông ấy sẽ mua em --khi người Do Thái quay lại, hắn sẽ mua. Khi người Thiên Chúa Giáo quay lại, còn lâu lắm hắn mới mua. Hắn sẽ thử xe năm lần bẩy lượt để khỏi tốn tiềntắc xi, rồi thình lình hắn sẽ nhớ ra, hắn cần mua một giàn bếp mới thay vì mua xe. Không, không, người Do Thái được lắm, họ biết họ muốn gì. Nhưng bạn thân ơi, nếu tôi phải bớt mấy trăm bạc nữa cho lão, dòng dõi trực hệ của Judas Maccabaeus hiếu chiến, tôi xin thề, suốt đời tôi sẽ không bao giờ uống một ly rượu mạnh nào nữa."
    Frau Blumenthal xuất hiện. Tôi nhớ lời khuyên của Lenz và thay đổi từ một chiến sĩ thành một hiệp sĩ. Blumenthal chào đón sự thay đổi ấy bằng một nụ cười đểu cáng. Ông ta là sắt thép. Thay vì buôn hàng len, lẽ ra ông ta nên buôn xe lửa mới phải.
    Tôi dàn xếp để ông ngồi băng sau, và Frau Blumenthal ngồi cạnh tôi.
    "Bà cần tôi lái đi đâu, thưa bà?" tôi mềm mỏng nói.
    "Bất cứ chỗ nào cậu thích," bà nói với nụ cười của một người mẹ.
    Tôi bắt đầu nói. Giao dịch với một khách hàng vô tư hồn hậu là một niềm vui. Tôi hạ thấp giọng, cốt không cho Blumenthal nghe rõ. Như thế tôi sẽ tự nhiên hơn. Nội việc ông ấy ngồi sau lưng tôi, cũng đủ mệt rồi.
    Chúng tôi tấp vào lề. Tôi bước xuống, chăm chú nhìn địch thủ. "Herr Blumenthal, dù sao, ông cũng phải nhìn nhận rằng xe chay êm như bôi mỡ."
    "Làm sao êm như bôi mỡ được, cậu ơi," ông trả lời, thân thiện một cách đáng ngờ. "khi bị sở thuế ăn gần hết? Thuế xe rất cao. Cậu đã nói."
    "Herr Blumenthal," tôi gọi tên ông, cố sửa chữa tình hình. "ông là một doanh gia, cho nên tôi có thể trình bày thẳng. Đấy không phải là thuế, mà là đầu tư. Thử hỏi, trong thời buổi này, công việc kinh doanh cần điều gì hơn hết? Ông biết đấy -- không phải là tiền vốn, như ngày xưa: mà là tín dụng. Và bằng cách nào ta có được tín dụng? Bằng cách tạo ra một bộ mặt tốt đẹp. Cadillac hiện nay đại diện cho giai cấp trung lưu -- vững chãi, khôn ngoan, tiện nghi mà chẳng lỗi thời -- nó là một quảng cáo sống cho bất kỳ loại thương nghiệp nào."
    Blumenthal thích thú, quay sang vợ. "Cậu ấy có đầu óc Do Thái, hử? Này người bạn trẻ," ông vẫn nói một cách thân tình, "quảng cáo tốt nhất cho sự vững mạnh thời nay là một bộ đồ lớn tồi tàn và một vé xe buýt. Nếu hai đứa chúng tôi có được số tiền to như tiền nợ của tất cả xe đang lưu hành, chúng tôi đã ngồi yên, nghĩ ngơi cho khỏe. Tin tôi đi. Bảo đảm."
    "Một chiếc Cadillac như thế này sang hơn nhiều hiệu xe khác, chẳng hạn Essex, phải thế chăng Frau Blumenthal? Con trai nhà Meyer and Son lái một chiếc Essex, nhưng tôi không nghĩ rằng một cái xe trượt tuyết đỏ hoét là một quà tặng---"
    Tôi nghe Blumenthal khịt mũi, và tôi tiếp tục nói nhanh: "Ngoài ra, màu xe hợp với bà lắm, thưa bà -- màu xanh cobalt đi với tóc vàng --"
    Blumenthal cười hăng hắc như một bầy khỉ chí chóe trong chuồng. "Meyer và Son; tinh ranh -- ma mãnh --" ông rên. "Và bây giờ lại đến tán tỉnh --nịnh đầm--"
    Tôi liếc ông. Không thể nào tin được; tôi đã đánh trúng yếu huyệt.
    Ngay lập tức, tôi bồi thêm: "Herr Blumenthal, cứ ngắt lời nếu tôi nói sai. Với một người đàn bà, nịnh đầm không phải là nịnh đầm. Mà là ngợi khen, một điều chẳng may lại quá hiếm hoi trong thời buổi này. Người đàn bà không phải là cái bàn, cái ghế bằng thép; nàng là bông hoa -- nàng chẳng cần thật dụng; nàng ưa thích ánh nắng ấm áp vui tươi của lời khen tặng. Mỗi ngày nói một câu ca tụng nàng còn tốt hơn suốt kiếp buồn bã làm thân nô lệ cho nàng. Tin tôi đi. Tôi cũng bảo đảm. Và dù sao, điều tôi nói không phải là tâng bốc mà là một sự kiện khoa học hẳn hoi. Màu xanh thẩm quả thật hợp với mái tóc vàng."
    "Hống hay tuyệt, sư tử," Blumenthal nói, tươi nét mặt. "Herr Lohkamp, nhìn đây! tôi có thể dễ dàng cò kè bớt thêm một ngàn mark --"
    Tôi lùi lại. Đồ yêu quái tinh ma, tôi nghĩ; tôi bị thấm đòn như dự đoán. Tôi hình dung mình lang thang suốt đời không một giọt rượu, và tôi nhìn Frau Blumenthal bằng đôi mắt nai tơ đoạn trường.
    "Nhưng, ba nó ơi --" bà nói.
    "Mình ạ," ông trả lời. "Anh muốn nói là, anh có thể -- nhưng anh sẽ không. Cách thương thảo của cậu khiến con người thương gia trong tôi rất thú vị. Có lẽ hơi một chút ngông cuồng, nhưng cũng thế, nhắc đến Meyer và Son rất khéo. Thế thân mẫu của cậu là người Do Thái?"
    "Không."
    "Thế cậu đã làm việc trong ngành buôn lẽ?"
    "Vâng."
    "Thấy chưa. Vì thế cậu mới có cung cách ấy. Cậu thuộc chi nhánh nào nhỉ?"
    "Linh hồn," tôi trả lời. "tôi dự định làm thầy giáo."
    "Herr LohKamp," Blumenthal nói. "Đáng nễ! Nếu bị thất nghiệp, cậu đến gặp tôi nhé."
    Ông viết chi phiếu, trao cho tôi. Tôi không thể tin vào mắt mình. Trả trước nữa cơ! một phép mầu!
    "Herr Blumenthal," tôi nói, cảm kích, "xin phép được biếu ông vài cái gạt tàn thủy tinh và một tấm thảm cao su."
    "Tuyệt vời," ông nhận xét. "Ngay cả lão Blumenthal này cũng được tặng quà." Rồi ông mời tôi ngày mai đến ăn tối.
    Frau Blumenthal nở nụ cười bao dung của mẹ hiền. "Sẽ có cá măng nhồi nấm." Bà dịu dàng nói.
    "Món ngon nhỉ," tôi nói. "Và tôi sẽ lái xe đến. Ngày mai, việc đầu tiên của chúng tôi sẽ là chăm chút nó một lần cuối, trước khi giao."
    Tôi bay về xưởng như chim nhạn. Nhưng Lenz và Otto đã ra ngoài ăn trưa. Tôi cần phải điều độ lại vinh quang của mình. Chỉ một mình Jupp ở đấy.
    "Bán được chứ?" thằng bé hỏi.
    "Cháu muốn biết lắm, phải không?" tôi nói. "Một đồng đây, mua đồ về chế máy bay mà chơi."
    "Thế nghĩa là bán được rồi," Jupp cười toe toét.
    "Chú ra ngoài kiếm cái gì ăn," tôi nói; "nhưng nếu cháu láu táu học lại câu gì cho hai người kia trước khi chú về, thì ốm đòn."
    "Herr Lohkamp," thằng bé hứa, tung hứng đồng tiền, "cháu sẽ im như một nấm mồ."
    "Trông cháu như một nấm mồ," tôi nói và nhấn thêm ga.
    Khi tôi về ngang qua cổng, Jupp ra hiệu. "Cái gì thế?" tôi hỏi. "Không giữ được mồm miệng à?"
    "Herr Lohkamp! làm gì có, cháu vẫn im như thóc! " nó cười. "Có điều, lão Ford đang ở trong ấy."
    Tôi đậu chiếc Cadillac ngoài sân và đi vào ga-ra. Ông chủ tiệm bánh cắm cúi xem sổ hàng mẫu. Ông mặc chiếc áo khoác kẻ ô với một vòng băng tang rộng bản. Bên cạnh ông là một sinh vật xinh đẹp, mắt đen lúng liếng, khoác áo choàng viền lông thỏ và đi một đôi giày da bóng trông chẳng vừa chân. Họ tự tiêu khiển với những sắc màu. Cô gái da ngâm thích sơn vec-ni màu chu sa chói mắt; nhưng ông chủ tiệm bánh phản kháng, ông hãy còn trong thời kỳ tang chế. Ông đề nghị một màu xám -vàng nhàn nhạt.
    "Ach, màu này ư," cô gái da sậm bĩu môi; "một chiếc Ford phải sơn thật nổi bật. Nếu không, nó chẳng giống ai."
    Cô gái đưa mắt dọ hỏi, và nhún vai khi ông chủ tiệm bánh phản đối, nhăn mặt và nháy mắt với chúng tôi. Một cô nàng nhỏng nhảnh! Cuối cùng họ đồng ý màu lục xám của cây mộc tê. Cô gái thích mui xe lợp màu tươi cho hợp với nước sơn. Nhưng ông chủ tiệm bánh cương quyết --phải có một chút tang tóc ở đâu đấy. Ông nhất quyết chọn da thuộc màu đen - và như thế ngẫu nhiên lại có lợi hơn, không những ông đã không phải trả tiền cho cái mui xe mới, da lại đắc hơn vải.
    Hai người ra về. Nhưng họ mắc kẹt lại ngoài sân. Vừa nhìn thấy chiếc Cadillac, cô nàng da sậm đã chạy ùa đến. "Ô kìa, Puppi, một chiếc xe tuyệt vời! Đúng thứ xe mà em thích."
    Chẳng mấy chốc, cô nàng đã mở cửa ngồi vào, rạng ngời vì sung sướng. "Ghế êm làm sao! Y như ghế bành trong câu lạc bộ. Khác hẳn với xe Ford!"
    "Về thôi em," Puppi bẳn gắt nói.
    Lenz thúc tôi -- tôi cần hành động ngay, rao bán xe cho lão chủ tiệm bánh. Tôi khinh khỉnh nhìn Gottfried và không nói. Anh ấy thúc mạnh hơn. Tôi thúc lại và quay mặt đi.
    Một cách khổ nhọc, cuối cùng ông chủ tiệm bánh cũng lôi được viên huyền ngọc của ông ra khỏi xe, và, mặt mày sưng sỉa, cố ý làm ra vẻ bực dọc, ra về.
    Chúng tôi quan sát họ. "Một người nhanh nhẩu," tôi nói. "Sửa xe -- vợ mới -- tớ ngã mũ bái phục!"
    "Ối giào" Koster nói, "ông ấy đâu đã nếm đủ vui buồn với cái ngữ ấy."
    Họ chưa khuất khỏi góc đường, Gottfried đã lồng lộn. "Bob, cậu có điên không, để lỡ một cơ hội như thế? Tại sao, đây là một trường hợp điển hình cho ta chớp lấy thời cơ!"
    Nhìn mặt Gottfried lúc ấy mới vui làm sao. Mắt tròn xoe như hai cái dĩa bàn. "Đừng đùa với chuyện thiêng liêng." Anh lắp bắp nói.
    Tôi phớt lờ, quay sang Koster. "Otto, từ giả nàng Cadillac nhỏ nhắn của chúng ta. Cô bé không thuộc về chúng ta nữa. Từ giờ trở đi, cô ấy sẽ cho thương nghiệp quần lót vay vẻ đẹp bóng bẩy huy hoàng. Hy vọng cô ấy có một cuộc đời tốt đẹp. Có lẽ sẽ không oai hùng như khi còn với chúng ta -- nhưng an toàn hơn."
    Tôi lôi tờ chi phiếu ra. Lenz gần như ngã quỵ. "Không! Cái gì thế? Cậu định nói là -- đã trả tiền?" anh thều thào, giọng khản đặc.
    "Đố mấy anh chàng tay mơ, giá bán là bao nhiêu?" tôi hỏi, ve vẩy tờ chi phiếu. "Đoán đi nào."
    "Bốn," Lenz hét to, nhắm mắt.
    "Bốn rưởi," Koster nói.
    "Năm," Jupp đàng cây xăng, gào lên.
    "Năm rưởi," tôi hét to.
    Lenz giật tờ chi phiếu từ tay tôi. "Không đời nào. Coi chừng chi phiếu không tiền bảo chứng."
    "Herr Lenz," tôi tự hào nói, "chi phiếu ấy xịn cũng y như cậu đang mất hồn. Ông bạn Blumenthal của tớ trị giá gấp hai mười lần số tiền ấy. Bạn tớ, các cậu biết, là người sẽ cùng tớ thưởng thức món cá măng nhồi nấm tối mai. Lấy chuyện ấy làm thí dụ. Thiết lập một tình bạn keo sơn, được trả tiền trước, và được mời ăn tối -- đó là nghệ thuật bán hàng. Bây giờ, cho phép cậu nghĩ chân."
    Gottfried cố thu lại bình tỉnh. Anh vớt vát một lần chót. "Quảng cáo của tớ, và lá bùa."
    Tôi trả lại anh tấm mề đai. "Thẻ bài đeo cổ chó của cậu đây. Tớ chẳng hề nhớ."
    "Cậu bán xe giỏi như thánh, Bob." Koster nói. "Cảm ơn Chúa, chúng ta thanh lý được cái xe trợt tuyết ấy. Với số tiền này, chúng ta khấm khá hẳn."
    "Cậu có thể ứng cho tớ năm mươi đồng không?" tôi hỏi.
    "Một trăm. Xứng đáng."
    "Thế, tớ đoán, cậu không muốn ứng trước cái áo choàng xám của tớ ?" Gottfried hỏi, hi hí cặp mắt.
    "Thế, cậu muốn nằm nhà thương không, hở cái tên ba đá, khốn khổ, lẽo mép?" tôi phản công.
    "Này các cậu, tớ tính là hôm nay mình đóng cửa về sớm," Koster đề nghị. "Chúng mình đã kiếm đủ tiền cho một ngày, và không nên thách thức Chúa. Tập đua với Karl, các cậu nghĩ sao?"
    Jupp đã bỏ cây xăng từ lâu. Thằng bé xoa tay hớn hở. "Herr Koster, vậy cháu được toàn quyền, phải không ạ?"
    "Không, Jupp," Otto nói, cười vang."Cháu cũng đi theo."
    Trước tiên, chúng tôi lái đến ngân hàng, ký thác tấm chi phiếu. Lenz cứ bồn chồn mãi đến khi biết chắc mọi việc êm xuôi. Rồi chúng tôi phóng vun vút đi, tàn lửa bay trong ống thải khói.

Trang 1/3 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Mục Tìm Chiến Hữu SĐ III Không Quân - Biên Hòa...
    By SVSQKQ in forum Tin tức đó đây
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 03-19-2015, 05:26 AM
  2. Paris Có Gì Lạ: Ba Chiến Hữu 50 Năm Gặp Lại
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-16-2014, 05:01 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 10-02-2014, 12:27 AM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-31-2014, 06:40 AM
  5. Tâm sự gửi một chiến hữu nhảy dù
    By dnchau in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-12-2014, 04:56 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •