Remember ?

Trang 3/19 đầuđầu 1234513 ... cuốicuối
kết quả từ 13 tới 18 trên 112

Tựa Đề: Hồi ký TÔI TÌM TỰ DO - Nguyễn Hữu Chí ( Hữu Nguyên )

  1. #13
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)
    Hữu Nguyên


    KỲ 12

    Khi tôi bước lại, đám đông vẫn chăm chú lắng nghe những lời anh ta nói, không một ai để ý đến tôi. Tôi kiếm một chỗ ngồi xuống, cách anh khá xa. Anh đưa mắt nhìn tôi, nét mặt dửng dưng, coi tôi như một anh chàng tân tòng, khoái nghe chuyện kiếm hiệp, thế thôi! Anh có gương mặt khả ái, nước da trắng như da con gái, môi đỏ, răng trắng, với hàm râu quai nón, tuy cạo nhẵn nhụi, nhưng vẫn để lại một lớp mờ mờ xanh. Dưới chân anh là đôi guốc mộc. Bộ dáng của anh là bộ dáng của một tay thợ mộc. Nghe giọng nói của anh tôi biết anh là người Hà Nội. Trước mặt anh là hai chiếc điếu cầy, một vốc thuốc lào cỡ vài “bi”, một bình nước trà tự chế, một chiếc đĩa đựng mấy chiếc kẹo, và hai chiếc ly nhỏ xíu. Thời điểm đó cả nước đều đói, trong tù lại càng đói khổ hơn. Vì vậy, chỉ nhìn thoáng qua những thứ “xa xỉ” trước mặt anh, tôi hiểu ngay, tất cả đều dành cho anh, anh được hưởng sự ưu đãi của tất cả mọi người, chỉ vì anh biết kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung, cho dù, anh nhớ truyện không bằng một phần trăm so với tôi. Nhưng tại sao lại hai chiếc ly, và hai chiếc điếu cầy? Ngoài anh ra, còn ai trong đám đông mấy chục người đang ngồi nghe truyện được hưởng cái ân huệ hút thuốc lào, nhai kẹo và uống nước trà?…

    Sau mấy phút bồn chồn, do dự, không biết mình có nên lên tiếng hay không, cuối cùng tôi đánh bạo:

    - Ông bạn tha lỗi, tôi nghe ông kể truyện chưởng của Kim Dung, nhưng ông kể sai nhiều quá…

    Tôi vừa nói đến đó, lập tức đám đông bạn tù cùng quay ra nhìn tôi, rồi la hét, mắng tôi ầm ĩ. Người nào nhẹ nhàng lịch sự thì cũng một tiếng quát, “Im đi mày! Biết gì mà nói.” Người nào tức giận thì hét lên, “Cút cha mày ra chỗ khác. Ông đập bỏ mẹ mày bây giờ”. Riêng anh bạn đang kể chuyện thì lại tỏ ra bình tĩnh, dù nét mặt của anh đầy vẻ ngạc nhiên. Anh thong thả hỏi tôi:

    - Tôi kể sai chỗ nào?

    Tôi chưa kịp lên tiếng, thì đám đông đã nhao nhao: “Kệ cha nó, đại ca cứ kể đi. Tụi em nghe đang hay…” Một người khác, mặc chiếc áo bằng bao tải gạo, quát: “Thằng này là thằng nào, bỗng dưng phá đám vậy? Cút cha mày ra chỗ khác đi!”

    Một người ngồi đối diện với người kể chuyện có tấm lưng và chiếc đầu trọc to lớn lạ lùng. Y cởi trần, chỉ mặc một chiếc quần lót nhỏ xíu, nên tôi thấy rõ, cả người y chỗ nào cũng xâm trổ. Trên lưng y là một thanh mã tấu to chình ình, chạy dài từ phía phải bên trên, xuống phía trái bên dưới. Chuôi mã tấu có một chùm tua bay phất phới. Lưỡi mã tấu có một đường máu đỏ chạy dài, vài giọt máu đỏ nhỏ xuống từ mũi, trông thật linh động. Y không hề quay hẳn lại, nhưng với nét mặt nghiêng của y, tôi biết tiếng rít qua hai hàm răng nghiến chặt, được cất lên từ trong cổ họng của y:

    - Ê, Dũng Cụt, tống cổ thằng này ra khỏi lán…

    Một tiếng dạ thật lớn, rồi một người cao to, có bộ vó dềnh dàng, mái tóc để dài bồng bềnh như nhân vật Ruồi Trâu trong phim tôi coi ở ngoài Bắc, bước về phía tôi. Nhìn y, tôi không hiểu y “cụt” ở chỗ nào? Tôi hoảng hốt, đang tính đứng dậy “tự giác” bước ra ngoài, thì tiếng anh chàng kể chuyện cất lên, vẫn rất nhẹ nhàng:

    - Minh Tồ, mày để tao hỏi nó đã…

    Nghe vậy, Dũng Cụt dừng bước, nhìn Minh Tồ như chờ lệnh. Minh Tồ không nói gì, chỉ gật đầu. Đám đông ngồi im phăng phắc. Trông bộ vó kềnh càng của Dũng Cụt, và thái độ ngoan ngoãn của y đối với Minh Tồ, tôi biết, Minh Tồ giống như một loại “vua tù” trong lán tù cải tạo. Sau này, tôi mới biết, Minh Tồ gốc Hải Phòng, cũng đi bộ đội, thuộc tiểu đoàn đặc công tinh nhuệ, trực thuộc sư đoàn. Trong trận đánh vô Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng, anh bị trọng thương, nên khi rút quân, anh bị đơn vị bỏ lại, rồi rơi vào tay một đơn vị lính Mỹ. Tức giận trước sự phản bội của đồng đội VC, và thấy lính Mỹ đối xử rất tử tế, tận tình chữa trị những vết thương chí mạng trên người anh, nên anh xin hồi chánh. Sau đó, anh tình nguyện đi lực lượng Delta Force cho Mỹ, và trở thành một tay anh chị khét tiếng với biệt danh Minh Mã Tấu. Năm 1968, Minh Mã Tấu khét tiếng với vụ cướp xe tiền từ Đà Nẵng vô Huế…

    Anh chàng kể chuyện quay sang tôi, nhắc lại câu hỏi lúc trước:

    - Tôi hỏi anh, tôi kể sai chỗ nào?

    Liếc mắt nhìn Dũng Cụt và Minh Tồ, tôi nghĩ ngay, nếu tôi nói dài dòng, vòng vo, tôi sẽ bị Dũng Cụt xách cổ liệng ra ngoài lán ngay lập tức. Vì vậy, tôi phải nói sao thật ngắn gọn, về những tình tiết thật lôi cuốn, hấp dẫn trong truyện của Kim Dung để chinh phục Minh Tồ trong vòng một phút đồng hồ. Hít một hơi thở, thu hết can đảm, tôi ba hoa xích đế, vừa dựa vào truyện của Kim Dung, vừa thêm thắt theo trí tưởng tượng của mình:

    - Anh vừa kể đến Tứ Hộ Pháp Vương của Minh Giáo, nhưng anh kể tên của họ sai hết, biệt hiệu của họ cũng sai… Anh phải biết, Trong Minh Giáo, cao nhất có Giáo chủ, kế đến là Tả Hữu Sứ, rồi đến Tứ Hội Pháp Vương, gồm có bốn vị. Đệ nhất vương là Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà. Bà này ngoại hình ẻo lả, nhan sắc xinh đẹp, lại có thuật trụ nhan, nên trăm tuổi có lẻ, mà trông vẫn như mệnh phụ mới ngoài 30 tuổi. Bà chuyên dùng ám khí là bông hoa mai bằng thép. Mỗi khi giao đấu, bà thường ngậm bông hoa thép trong miệng rồi vận nội lực thổi ra đằng miệng, bảo đảm trong vòng trăm thước, bách phát bách trúng, không một cao thủ nào thoát chết. Vì thế, bà có biệt hiệu Kim Hoa. Bà lại có tài bơi lội, nín thở giao đấu dưới nước cả ngày không thèm lên bờ, nên được phong tặng là Tía Sam Long Vương. Đó là đệ nhất vương. Đệ nhị vương là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Tay này vốn gốc người Tây vực, cao lớn gấp rưỡi người thường, vai tròn như vai hổ, lưng dài như lưng vượn, đầu to như đầu sư tử, mắt xanh biếc, tóc lại vàng hoe nên y mới có biệt hiệu Kim Mao, nghĩa là lông vàng. Còn Sư Vương nghĩa là vua sư tử, còn Tạ Tốn là tên của y. Đệ tam vương là Bạch Mi Ưng Vương Hân Thiên Chính. Tay này cũng có thân hình cao to khác thường, lại có cặp lông mày dài, bạc như cước, phủ kín cả hai bên mắt, trong khi tóc của y vẫn đen như mun, lại thêm nội ngoại công của y đều đạt đến mức tam hoa tụ đỉnh, lư hoả thuần thanh, mỗi khi xuất thủ giết ai, thì nhanh như một con chim ưng, vai không hề động, mắt không hề chớp, nên có biệt danh Bạch Mi Ưng Vương. Đệ tứ vương là Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu. Tay này võ công thần sầu qủy khốc, khinh công đệ nhất trần gian, ngay cả Giáo Chủ Minh Giáo cũng phải nghiêng mình bái phục. Nhờ khinh công cao siêu, nên khi y đến cũng như khi y đi, chẳng thấy hình bóng, ngoại trừ chỉ nghe thấy một tràng cười của y. Vậy nên y mới có biệt danh Vi Nhất Tiếu. Tuy võ công tuyệt luân, nhưng y vẫn chưa thỏa mãn, nên tìm kiếm được một bí kiếp võ công thượng thừa, y ngày đêm tập luyện, muốn một sớm một chiều thành công, chẳng may, tàu hỏa nhập ma, kinh kỳ huyết mạch chạy loạn xạ ngầu. Với người khác, như vậy, không chết cũng tàn tật. Với y, nhờ nội lực cao siêu, tài trí hơn người, nên y kịp chế ngự lửa ma trong huyệt đan điền. Có điều lâu lâu, chân hỏa bốc lên, tựa như hỏa diệm sơn trong tim trong gan, chỉ có máu tươi của người mới có thể dập tắc. Những khi như vậy, y phải kiếm người hút máu thì mới hết bệnh. Vậy nên người đời tặng y biệt danh Thanh Dực Bức Vương có nghĩ là Ông Vua Dơi Xanh, chuyên hút máu người….

    Đọc đến đây, tôi kính mong quý độc giả tha lỗi cho tôi tội ba hoa khoác lác. Nhưng lúc đó, trong hoàn cảnh tù đầy, phần thì tuổi tôi còn trẻ, nên rất háo thắng. Cái gì tôi biết mà không nói ra được thì cứ ấm ức tựa như bò đá. Sau này từng trải, được học hỏi nhiều, biết ngoài bầu trời này còn bầu trời khác, nên khiêm cung, ít nói đi rất nhiều, trăm phần chỉ còn một, hai mà thôi.

    Trở lại câu chuyện, lúc đó, tôi mạnh dạn ba hoa, tiếng Hán xen lẫn tiếng Việt, chọn toàn chỗ đắc ý nhất để kể, lại còn thêm thắt, chắp vá, đem râu ông nọ cắm cằm bà kia, là vì tôi thấy cả đám đông tù nhân mấy chục mạng, đều say sưa nghe anh chàng kia kể truyện chưởng, trong khi tôi biết chắc, kiến thức về truyện chưởng của Kim Dung, tôi mười phần, anh chưa được một.

    Nhìm đám đông im phăng phắc nghe tôi ba hoa, miệng ai cũng há hốc, mắt ai cũng sáng long lanh, ngay cả Minh Tồ cũng xoay hẳn người lại nghe tôi nói, tôi biết tôi đã chinh phục được họ. Nhưng chiến thắng này chưa thể là 100%, vì tôi mới kể có một đoạn quá ngắn. Tôi muốn kể với họ ít nhất 10, 15 phút nữa về truyện Cô Gái Đồ Long. Khi đó, tôi mới khảm sâu vào trong tâm trí của họ tất cả những cái hay tuyệt vời, hay rụng rời của Kim Dung. Vì vậy, tôi phải tung ra một câu hỏi, và câu hỏi này không chỉ dành cho anh chàng kể chuyện non nớt kia, mà dành cho tất cả mọi người. Tôi muốn khuấy động lòng tò mò của họ, dựa trên những tình tiết tuyệt vời tôi vừa kể, để rồi chính họ sẽ không tài nào trả lời được. Người trả lời được câu hỏi của tôi, chỉ có mình tôi mà thôi!

    - Bây giờ, tôi xin hỏi tất cả mọi người một câu hỏi. Tại sao trong Tứ Hộ Pháp Vương, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà lại được đứng đầu? Tại sao một người con gái liễu yếu đào tơ, lại có thể qua mặt được ba vị Pháp Vương kia, trong khi cả ba đều là anh hùng, chọc trời khuấy nước một phương, võ công đã khủng khiếp, mưu trí lại tuyệt vời, thêm vào đó lại dầy công hãn mã gầy dựng lên Minh Giáo?

    Đúng như tôi đoán, tất cả mọi người, kể cả anh chàng kể truyện chưởng, đều im lặng nhìn tôi như bị tôi thôi miên. Sau một thoáng im lặng, tất cả mọi người đều ầm ĩ, đòi tôi trả lời. Nhìn nét mặt, ánh mắt, của mọi người và của Minh Tồ, tôi hiểu ngay, đối với họ, anh chàng kể truyện chưởng kia đã bị gạt ra ngoài rìa. Với họ bây giờ, tôi mới là thần tượng, là người họ ngưỡng mộ, say đắm…

    Minh Tồ cất tiếng, giọng vẫn kẻ cả, nhưng không giấu giếm tình thân mật:

    - Ê, ông bạn hỏi vậy là ông biết tỏng, chỉ có ông mới trả lời nổi…

    Đám đông ồ lên tán thành lời tuyên bố của Minh Tồ. Dũng Cụt lúc này cũng đã ngồi xuống ngay bên cạnh tôi từ lúc nào. Hai tay của y thu lại để trong lòng, trông ngoan ngoãn như một người học trò ngồi trong lớp học. Anh chàng kể truyện, lặng lẽ đẩy chiếc điếu cầy cùng gói thuốc lào đến trước mặt tôi, rồi nói giọng chân thành:

    - Ông anh làm một “bi” thuốc lào cho tỉnh táo, rồi kể cho tụi tôi nghe… Ông anh tha cho tôi cái tội “múa rìu qua mắt thợ”… Chẳng qua là không có…

    Nói đến đó, anh chàng ngừng lời, nhìn tôi lúng túng. Tôi hiểu, anh muốn nói câu “không có chó bắt mèo ăn c…”, nhưng nghĩ nói vậy là xúc phạm một “thần tượng” mà anh thực tâm kính phục. Trông anh, tôi biết anh phải ngoài 40. Còn tôi lúc đó, mới có ngoài 25 tuổi. Tiếng “ông anh” của người Hà Nội khi nói với một người kém tuổi mình, là biểu lộ một sự nể trọng đặc biệt.

    Minh Tồ lúc đó cũng vội vã vê thuốc lào bỏ vô nõ, rồi bật quẹt, châm đóm đưa cho tôi với thái độ rất chân thành. Tôi khoan khoái đón chiếc điếu cầy, kéo một hơi thật đã, rồi lim dim hai mắt, nhìn mọi người qua làn khói thuốc đang bao phủ như sương như khói. Tất cả mọi người đều ngước mắt nhìn tôi chờ đợi trong im lặng và thành khẩn.

    Tôi thoáng nghĩ đến nhà văn Kim Dung trong nỗi niềm bâng khuâng, không biết ông là ai, ở đâu, liệu ông có biết, những truyện ông đã viết, có thể giúp một thằng tù oắt con, làm đảo lộn tôn ti trật tự trong một nhà tù ở tận nơi đèo heo hút gió của núi rừng Kàtum???

    còn tiếp

  2. #14
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 13


    Trong lòng tôi lúc đó, tôi thầm cảm ơn nhà văn Kim Dung vô cùng. Đúng ra thì không phải chỉ có lúc đó, mà ngay từ những giờ phút đầu tiên, khi tôi chúi mũi đọc truyện Cô Gái Đồ Long trong Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương, tôi đã bị nhà văn Kim Dung chinh phục hoàn toàn, từ thể xác đến tâm hồn. Và chỉ nguyên những trang truyện của Kim Dung lúc đó thôi, đã khiến tôi yêu thương vô cùng cuộc sống của Miền Nam Tự Do. Tôi thấy tất cả những khốn khổ của cuộc đời tôi, những nguy hiểm tôi đã trải qua trên con đường về với Tự Do, quả thật không hề uổng phí. Trong những năm tháng sau này được sống ở Miền Nam Tự Do, tuy ngắn ngủi có hơn 3 năm trời, nhưng tôi thấy mình chìm ngập trong hạnh phúc. Tôi nhớ ngày đó, tôi được Đại Uý Hiệu bên Đài VOA (bên Cư Xá Thành Tín, đường Hồng Thập Tự) làm giúp cho cái thẻ, được vô hồ bơi Lido ở Hạnh Thông Tây. Mỗi ngày hai lần, tôi vừa đạp xe đến hồ bơi, vừa say sưa đọc những bài thơ tình của Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư… Những bài thơ tình của những nhà thơ trên mảnh đất Miền Nam Tự Do mới trác tuyệt, lóng lánh một cách cao quý làm sao… Nhiều lúc, đọc những vần thơ trác tuyệt đó, tôi thấy tôi sướng như muốn điên lên được, tôi muốn hét lên cho tất mọi người biết, tôi đang được hạnh phúc, đang được sống với những vần thơ tuyệt đẹp, được trải lòng mình dưới ánh sáng lung linh lóng lánh của thơ… Tôi nhớ ngày đó, yêu thơ của Nguyên Sa quá, tôi đã tìm đủ mọi cách hỏi thăm, tìm kiếm, và khi biết được ông tên thật là Trần Bích Lan, tôi đã lần đến Hội Nhà Văn VN, rình rập và rồi được thấy nhà thơ Nguyên Sa một lần. Khi thấy ông, tôi ngạc nhiên hoàn toàn. Ông khác hẳn những gì tôi đã thêu dệt trong trí tưởng tưởng của mình. Ông thi sĩ thần tượng của tôi trông mập mạp, giống như một ông ba Tàu. Gương mặt của ông béo tốt, hạnh phúc, không có chút đường nét khắc khổ phong trần nào của một thi sĩ. Từ đó, tôi thầm nhủ với lòng, tôi sẽ mãi mãi chọn cho mình cuộc sống “bên kia dốc Cầu Mơ”, giống như nhan đề một cuốn truyện của nhà văn tài hoa Duyên Anh. Tôi sẽ không cho phép sự tò mò chiến thắng lòng quyết tâm của tôi. Tôi hiểu rằng, trong đời sống, có những lúc, nhưng nơi, những chuyện, những người,… thà được sống mãi mãi trong tưởng tượng, để được hạnh phúc viên miễn, còn hơn vì tò mò, đi tìm đến một sự thật….

    Khi viết những dòng chữ này, tôi không hề có ý nói nhà thơ Nguyên Sa là một người đàn ông xấu trai. Tôi chỉ muốn nói, hình ảnh của ông khác hẳn hình ảnh tôi đã thêu dệt, đã tưởng tượng. Và cũng chính vì mang trong mình tâm trạng của một gã thích “sống ở bên kia dốc cầu mơ” để hạnh phúc với những gì mình thêu dệt, nên sau này, khi có cơ hội được gặp nhiều nhà văn, nhà thơ tôi ngưỡng mộ như Du Tử Lê, Mai Thảo, Hoàng Hải Thủy, tôi vẫn cố gắng né tránh, mặc dù trong lòng, lúc nào tôi cũng háo hức, mong đợi…

    Hết nghĩ đến ông Kim Dung, tôi lại nghĩ đến thầy tôi, lúc nào cũng cấm không cho tôi đọc truyện, vì sợ tôi đọc truyện cấm thì nguy hiểm đến cả nhà, mà đọc truyện của “nhà nước” thì bị tuyên truyền, đầu độc, trở thành thằng nghịch tử chống lại cha mẹ, rồi sau này thành nạn nhân cộng sản, mãi mãi sống trong ân hận. Tôi biết, những lo ngại của thầy tôi không phải không có lý. Ngày xưa còn bé, tôi đã say sưa ngốn những cuốn truyện như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy; tôi đã đọc thuộc lòng những bài thơ của Xuân Diệu, Tố Hữu; tôi đã từng giật giải thi đọc bài thơ dài cả trăm câu “30 năm đời ta có đảng” của Tố Hữu; tôi đã từng say sưa thao thao bất tuyệt như một con vẹt nói về cái hay, cái đẹp, cái trong sáng của thơ Tố Hữu… Sau này, khi đã thoát khỏi bờ mê bến lú, nhìn lại những ngày tháng đó, tôi luôn luôn thở dài, vừa ngao ngán, xấu hổ, vừa thương hại cho chính mình.

    Trở lại buổi chiều hôm đó, tại trại cải tạo Kà Tum, sau điếu thuốc lào say bủn rủn chân tay, tôi khoan khoái chiêm ngưỡng những cặp mắt nôn nóng chờ đợi của những người bạn tù. Tôi hắng giọng một cách điệu nghệ, uống một ngụm nước trà, kéo dài giây phút hạnh phúc, khi thấy nhất cử nhất động của mình đều được mấy chục cặp mắt nhìn theo… Khi không thể để mọi người chờ đợi lâu được nữa, tôi cất tiếng:

    - Trong Tứ Hộ Pháp Vương Minh Giáo, cả ba vị hộ pháp kia đều là đàn ông, đều là những tôn sư võ học, danh tiếng lẫy lừng suốt mấy chục năm, được cả hắc bạch hai đạo nghiêng mình kính nể. Đứng về vị thế trong võ lâm, các vị hộ pháp đều có thể ngang hàng với bất cứ chưởng môn nhân nào của các đại môn phái. Thậm chí, ngay cả chưởng môn nhân của phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, khi nghe đến tên tuổi của các vị hộ pháp, cũng phải giật mình kiêng nể mấy thành. Tuy nhiên, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà được đứng đầu Tứ Hộ Pháp Vương vì bà đã có công đả bại Hàn Thiên Diệp, cứu sống Giáo Chủ Minh Giáo, trong một trận thách đấu vô cùng hi hữu, nguy hiểm, mà Giáo Chủ Minh Giáo đã cầm chắc cái chết…

    Sau đó, trong thời gian gần hai tiếng đồng hồ, tôi thong thả kể cho các bạn tù nghe, mối huyết hải thâm thù giữa Hàn Thiên Diệp với Giáo Chủ Minh Giáo như thế nào, cuộc thách đấu trả thù cho cha dưới hàn băng đầm của Hàn Thiên Diệp ra sao, chuyện Giáo Chủ Minh Giáo tuy võ công thần sầu qủy khốc, nhưng vì không biết bơi, và vì đã hứa với thân phụ của Hàn Thiên Diệp, không mời bất cứ cao thủ nào thay thế mình trong cuộc thách đấu, nên Giáo Chủ Minh Giáo đành tính chuyện nhận lời thua cuộc, ra làm sao… Giữa giây phút thập tử nhất sinh đó, Đại Ỷ Ty, tức Tía Sam Long Vương đã xuất hiện, giao đấu và đả bại Hàn Thiên Diệp, cứu sống Giáo Chủ, để rồi sau đó, tình yêu giữa Đại Ỷ Ty và Hàn Thiên Diệp, đã nảy nở ra làm sao…

    Vì trong truyện chưởng của Kim Dung, các tình tiết luôn giăng mắc, chồng chéo, cuộc đời của các nhân vật luôn tiềm ẩn mối quan hệ nhân quả, nên bất cứ ai đã đọc, đã nghe, đều thích thú theo dõi, không tài nào dứt bỏ được. Nhờ đọc tất cả những pho truyện chưởng của Kim Dung, nên từ buổi chiều hôm đó trở đi, mỗi tối, tôi lần lượt kể từng đoạn truyện chưởng cho bạn tù nghe. Đánh đổi lại, các bạn tù đã dành cho tôi một sự ưu đãi đặc biệt. Ngoài chuyện quà cáp, thuốc lào, thuốc lá, trà bánh được cung phục riêng cho tôi vào mỗi tối khi kể chuyện, tôi còn được hưởng đặc ân khỏi phải lao động làm phần việc của mình. Vì yêu thích truyện chưởng Kim Dung, mấy người bạn tù trong đội thợ xẻ, thợ mộc đã xin với quản giáo cho tôi về đội mộc bằng được. Sau đó, tất cả mọi người trong đội mộc tình nguyện thay phiên nhau cưa mỗi người mỗi ngày một mạch gỗ, để tôi khỏi phải động chân động tay, làm phần việc của mình. Mỗi tối, đúng giờ, anh em bạn tù kéo đến lán tôi rầm rập, để lắng nghe tôi kể truyện chưởng trong khoảng 2 tiếng đồng hồ.

    Trong số những người say mê nghe truyện chưởng, có anh chàng Minh Tồ là một nhân vật đặc biệt, tôi muốn dành vài đoạn để nói về anh. Như trong số báo trước, tôi đã nói, anh có biệt danh là Minh Mã Tấu, vì sau lưng anh là hình chiếc mã tấu to như mã tấu thật, được xâm một cách rất nghệ thuật nên trông linh động vô cùng. Trên tấm ngực to như cánh phản của anh là một bàn thờ với đầy đủ lư hương, nhang khói, đèn cầy, trái cây,… và dòng chữ, tôi nhớ không rõ, nhưng đại khái: Mẹ ơi, con sẽ về! Trên hai cánh tay của anh là hai vết thẹo hình dung kỳ dị chạy dài từ khuỷu tay đến gần cổ tay. Sau này, trở thành bạn thân, anh có kể cho tôi biết, anh là người rất khoái xâm trổ. Vì vậy cả thân hình anh, chỗ nào cũng có hình dáng xâm trổ, không thứ này thì thứ khác. Khi chiêu hồi về với VNCH, anh có đi lính Delta Force cho Mỹ. Vì hận cộng sản, nên trên hai cánh tay, anh đã cho xâm trổ hàng chữ “Sát Cộng” cùng với hình con dao găm, với máu VC đang chảy ròng ròng. Tôi có hỏi anh làm sao xâm trổ được máu VC, thì anh cười hềnh hệch bảo, nó cũng giống máu mọi người, chỉ khác là cho thêm hình ngôi sao 5 cánh, và búa liềm là ai cũng hiểu, đó là máu Việt cộng.

    Sau tháng 4 năm 1975, anh tìm đường trở về Hải Phòng, tính gặp lại cha mẹ và người thân, nói lời vĩnh biệt trước khi vượt biển vượt biên. Không may, anh bị cộng sản phục kích bắt sống. Đến khi vô tù, cộng sản phát hiện ra dòng chữ “Sát Cộng” trên hai cánh tay anh, chúng đã đánh hội đồng anh một trận khủng khiếp. Nhờ có võ nghệ gia truyền, nên anh gồng mình chịu đòn và thoát chết. Sau trận đòn, viên giám độc trại giam quẳng cho anh một hộp lưỡi lam và ra lệnh cho anh, trong thời gian đúng 24 giờ đồng hồ, anh phải nạo bỏ hai dòng chữ “Sát Cộng”. Bằng không, chúng sẽ đem anh bắn bỏ. Ngay đêm hôm đó, một mình anh, ngồi đốt ngọn đèn dầu, hơ lưỡi lam để sát trùng, rồi chậm rãi và lạnh lùng, anh lạng từng miếng da có dòng chữ “Sát Cộng”.

    Hình ảnh một người tù thản nhiên không một tiếng rên la, không một tiếng xuýt xoa, lạnh lùng dùng lưỡi lam lạng từng miếng da, dưới ngọn đèn bập bùng, trong khi máu chảy chan hòa, đã khiến nhiều người, tù nhân lẫn quản giáo, vệ binh, nhìn anh bằng cặp mặt vừa kính phục, vừa kiêng nể, e dè.

    Anh Minh Tồ là người không biết chữ. Đó là chuyện thật lạ lùng, nhưng là sự thật. Chính bản thân tôi đã từng ngồi viết thư hộ anh. Trước khi gặp tôi, anh Cẩn, cũng là hồi chánh viên, thường viết thư hộ anh. Tuy có biệt danh Minh Mã Tấu trong giới giang hồ, nhưng trong tù, anh em vẫn gọi anh là Minh Tồ, có lẽ phần anh to con, tính tình đôn hậu đến độ ngốc nghếch, phần anh không biết chữ. Nhưng điều đặc biệt hơn cả ở anh Minh Tồ là sức khỏe tuyệt luân, giống như Hạng Võ, và võ nghệ siêu quần của anh.

    còn tiếp

  3. #15
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 14

    Chủ Nhật tuần này là ngày Mother’s Day, một ngày lễ vô cùng ý nghĩa, tạo cơ hội và điều kiện cho tất cả những người con có dịp nghĩ tới Mẹ, để rồi có một nghĩa cử nào đó, biểu lộ tình yêu thương, lòng biết ơn của mình dành cho Mẹ. Và khi nhận được những nghĩa cử thương yêu của con mình, người Mẹ cũng sẽ có dịp bồi hồi xúc động nhớ tới những kỷ niệm êm đềm với Mẹ của mình trong những năm tháng khi mình còn ở tuổi ấu thơ, hoa niên… Khi đó, trong những đường nét kỷ niệm êm đẹp lung linh với mỗi người Mẹ, ai ai cũng đều thấy mình như bé lại, trẻ lại, để rồi trong niềm hạnh phúc đậm đà của tuổi thơ hồn nhiên, ta mới thấy thấm thía, “Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương”…

    Trong niềm hạnh phúc đón mừng ngày Mother’s Day, hôm nay, tôi xin được tâm sự với các bạn về người Mẹ muôn ngàn đau khổ của tôi…

    Ngay khi đặt chân đến Sàigòn, được về sống chung với người chị ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận, tôi đã may mắn và hạnh phúc biết được, ở Miền Nam tự do có ngày Lễ Vu Lan, là ngày tưởng nhớ tới Mẹ. Rồi trong một dịp tình cờ, khi ghé tiệm sách Khai Trí, tôi được đọc cuốn sách Bông Hồng Cài Áo của thầy Thích Nhất Hạnh. Khi đó, tôi bồi hồi xúc động biết rằng, có một phong tục đáng yêu và ý nghĩa, nếu một người con còn có Mẹ, sẽ được cài một bông cẩm chướng màu hồng trên áo; còn ai đã mất Mẹ thì cài bông hoa màu trắng…

    Ngày đó, đọc những trang sách đó, tôi thấy cuộc sống của người dân Miền Nam sao có những hạnh phúc giản dị, tỉ mỉ từng li từng tí, mà vô cùng ý nghĩa. Thì ra người dân Miền Nam được sống hạnh phúc, sung sướng và ý nghĩa, ngay từ những đường nét rất nhỏ nhoi, mềm mại, nhẹ nhàng, trong từng giây từng phút trôi qua của cuộc đời…. Từ một bông hoa cài trên áo, một tà áo dài trên đường phố, một trận mưa tháng sáu bong bóng vỡ đầy tay, những câu thơ tình đẹp hơn cả tình yêu, những trang sách tuổi hoa dắt tuổi thơ vào mộng mơ, những cuốn truyện kiếm hiệp khiến người đọc bồi hồi, say sưa trong niềm hạnh phúc…. Có thể nói, mỗi giây, mỗi phút trôi qua, người Miền Nam nào cũng sống trong hạnh phúc, nhưng có thể mỗi người không nhận ra được những hạnh phúc thiêng liêng mà họ đang có… Và chính trong những ngày tháng êm đềm, hạnh phúc đó, tôi mới thấy thương xót vô cùng cho những người dân, những trẻ thơ ở Miền Bắc, trong đó có cha mẹ, cô bác, anh chị em, bạn bè của tôi…

    Trong thời gian gần 4 năm sống ở Miền Nam, tôi có thói quen hay vô tiệm sách Khai Trí coi “cọp” sách. Hôm đó, khi đọc cuốn Bông Hồng Cài Áo, tôi vô cùng xúc động nhớ đến Mẹ của tôi…

    Như tôi đã kể với các bạn, thầy của tôi có ba người vợ. Mẹ của tôi là người vợ thứ ba. Nhưng vì những ngang trái của cuộc đời, những éo le của hoàn cảnh vợ cả, vợ lẽ, mà tôi không thể thưa với các bạn ở đây, Mẹ của tôi đã phải xa tôi ngay từ khi tôi mới lọt lòng. Tôi lớn lên bằng sữa của những dì, những thím, những cô, những bác,… trải dài từ Đồng Văn đến Phủ Lý, từ Đọi Đệp đến làng Đầm, cùng với những khói lửa của cuộc chiến tranh, những khốn khổ của quê hương đất nước trong những năm tháng tiêu thổ kháng chiến…

    Trong những năm tháng đầu tiên của thời thơ ấu, tôi cứ đinh ninh, Mẹ của anh tôi là Mẹ của tôi. Khi khôn lớn một chút, tôi chỉ ngạc nhiên và tủi thân, không hiểu sao Mẹ của tôi lại không yêu thương tôi bằng yêu thương anh của tôi. Cho đến một ngày nọ, trong khi đang chạy nhảy ngoài đường, bỗng nhiên có một người đàn bà đến nắm tay tôi rồi hỏi:

    - Cháu có phải tên là Chí, con của ông xếp Văn không?

    Nghe hỏi, tôi vừa ngạc nhiên, vừa giật mình, vì hai tiếng “xếp Văn”, cả thầy tôi lẫn anh tôi đều cấm tôi không bao giờ được dùng. Anh tôi bảo đó là “tiếng của chế độ cũ”, nói ra sẽ bị nhà nước bắt bỏ tù. Nghe người đàn bà hỏi vậy, tôi vội giật tay lại, rồi bỏ chạy về nhà. Về đến nhà, tôi hổn hển kể lại cho Mẹ của anh tôi nghe. Nghe qua, Mẹ của anh tôi hiểu ngay, liền dặn tôi nói những câu tôi phải nói… mà sau này tôi mới biết là những câu rất thương tâm…

    Lúc đó tôi mới lên chín, lên mười. Tôi đâu có hiểu được những oan trái của cuộc đời, những khốn khổ của hoàn cảnh, và những éo le của tình cảm, khiến cho chính những người thân yêu làm khổ nhau còn hơn cả kẻ thù của nhau. Chỉ biết rằng, chiều hôm đó, Mẹ của tôi đã bước vô căn nhà của ông anh tôi, với lòng mong mỏi chỉ để được gọi tôi một tiếng “Con”, và được tôi gọi một tiếng “Mẹ”, để được ôm hôn tôi một lần,…. trước khi giã từ, nhưng tất cả, Mẹ tôi đều không toại nguyện. Thậm chí, ngay cả tờ giấy 5 đồng bạc, Mẹ cố trao cho tôi, tôi cũng cương quyết trả lại, kèm theo là những lời nói cay độc mà người lớn đã dậy cho tôi….

    Tôi nhớ buổi chiều hôm đó, anh cùng cha khác mẹ của tôi, chị dâu của tôi, và cả Mẹ của anh tôi, đều cư xử thật lạnh nhạt, nếu không nói là hắt hủi đối với Mẹ của tôi. Còn tôi, bé bỏng chửa biết gì, nên vẫn ngồi trên lòng Mẹ của anh tôi, trong khi Mẹ của tôi ngồi bất động ở vỉa hè, đắm đuối nhìn tôi trong xa xôi cách trở… và lặng lẽ khóc…

    Chiều hôm đó, khi hoàng hôn sắp tắt, sau mấy tiếng đồng hồ ngồi bất động ở vỉa hè, không một ly nước, một miếng cơm, Mẹ của tôi lặng lẽ ra về. Bóng một người đàn bà, với chiếc nón cầm tay, ra đi trong hoàng hôn và nước mắt, đã làm tôi thấy thương xót vô cùng, nhưng tôi sợ anh, sợ Mẹ của anh tôi, nên tôi lặng im nhìn theo bóng của Mẹ khuất sau hàng rào dâm bụt…

    Tôi biết, con đường mà Mẹ tôi ra về sẽ đi qua một cái đập chắn ngang giòng sông Châu. Chẳng hiểu nhờ linh cảm thúc dục, hay tình Mẫu Tử thiêng liêng có một động lực, một sức mạnh kỳ bí, bỗng dưng tôi lẻn ra khỏi nhà, men theo con đường nhỏ trong thôn, chạy vội ra bờ sông. Đứng ở bờ sông, nhìn về phía tay trái là chiếc đập cách chỗ tôi đứng khoảng 300 thước, tôi lặng lẽ chờ đợi bóng dáng của người đàn bà đã nhận tôi là Con xuất hiện!…

    Tôi không nhớ là bao lâu, nhưng phải nói là lâu lắm, tôi mới trông thấy bóng dáng Mẹ của tôi đi ngang chiếc đập. Lúc đó, hoàng hôn sắp tắt, nhưng mặt trời phía tây vẫn còn chiếu lấp lánh trên mặt sông, hắt lên ráng chiều trên đập, nên tôi vẫn thấy rõ bóng Mẹ của tôi đi vội vàng, cô đơn, trong khi gió sông lộng thổi… Tuy xa, nhưng tôi vẫn còn thấy rõ chiếc ruột tượng màu vàng của Mẹ bay lất phất… Chẳng hiểu sao trong giây phút đó, tôi linh cảm, chính người đàn bà đang đi trên đập, đang dần dần cách xa tôi, là Mẹ ruột đã đẻ ra tôi… Một chút gì như hụt hẫng, như chới với, như réo gọi trong lòng, khiến tôi muốn la lên hai tiếng: “Mẹ Ơi!”… Nhưng rồi hình ảnh nghiêm khắc của hai Mẹ con người anh cùng cha khác Mẹ bỗng hiện ra, khiến tôi im lặng, nhìn bóng Mẹ khuất dần sau mấy hàng quán ở bên kia sông… Tôi đứng đó, bất động, nhìn mặt sông sóng vỗ, gió thổi… bóng đêm dần bao trùm vạn vật, để rồi thấy miệng mặn mặn…. Thì ra tôi đã khóc từ lúc nào không biết…

    Sau này lớn khôn, tôi mới biết rõ, chiều hôm đó, tôi đã “vĩnh biệt” người Mẹ ruột thịt của tôi trong suốt 7 năm trời sau đó. Trong suốt thời gian 10 năm trước đó và cả 7 năm sau đó, không một ai nói rõ cho tôi biết, Mẹ của tôi là ai. Hôm nay, khi viết những dòng chữ này, tôi không hề oán trách một ai. Tôi chỉ thấy thương xót cho Mẹ của tôi, và tủi cho thân phận éo le của chính mình. Trong nỗi niềm đau xót và cô đơn của mình, tôi viết những dòng này, với lòng ấp ủ nỗi quan hoài, chỉ muốn các bạn hãy hiểu, trong cuộc đời của chúng ta, rất nhiều khi, những nỗi niềm khổ đau, xót xa, uất ức, hận thù lại đến từ chính những người thân thương nhất của mình. Và xin các bạn hãy hiểu, chỉ vì chủ nghĩa cộng sản, mà trong cuộc sống muôn vàn cơ cực mấy chục năm ở Miền Bắc trước đây, và ở cả hai miền đất nước trong suốt 31 năm qua, đã có hàng triệu nỗi khổ đau, xót xa, buồn thương, uất ức, còn thê thảm gấp ngàn lần nỗi khổ đau tôi phải gánh chịu…

    Tôi hiểu, phần lớn những người con có Mẹ khi ở gần, không thấy được hết niềm hạnh phúc họ đang có. Riêng tôi, trong suốt nửa thế kỷ qua, ngay cả sau khi tôi đã gặp lại Mẹ khi tôi 17 tuổi, tôi vẫn mãi mãi đi tìm niềm hạnh phúc được ôm lấy Mẹ mà hôn, được sà vào lòng Mẹ mà nhõng nhẽo… nhưng tất cả vĩnh viễn ngoài tầm tay với….

    Trong những năm sóng gió của cuộc đời, đất nước nghiêng ngửa dưới gót sắt của chủ nghĩa cộng sản, cả hai Mẹ con tôi đã nhiều lần ngồi khóc âm thầm, vì lần nào hai mẹ con được đoàn tụ, lần đó cũng chứa mầm ly biệt; trong mỗi hạnh phúc ngắn ngủi luôn luôn báo hiệu gông cùm xiềng xích, thậm chí tử biệt sinh ly, sẽ đến với tôi. Sau 1975, trong những lần vượt ngục, trốn chạy cộng sản, tôi vội vàng tìm đến với Mẹ, nghỉ lại một vài ngày để rồi ra đi tìm đường vượt biên, và khi vượt biên bất thành, tôi lại trở lại tá túc một vài đêm trong sự yêu thương xót xa đầy nước mắt của Mẹ… Thời gian đó, có những đêm đang ngủ, chợt giật mình thức giấc, tôi thấy Mẹ ngồi đó, im lìm bất động nơi cuối giường, khóc âm thầm, thương xót cho đứa con mà Mẹ đã không được nuôi, và bây giờ Mẹ cũng không đủ sức che chở, trong khi nguy hiểm đang bủa vây tứ phương tám hướng…

    Ai sinh ra làm người phụ nữ, người đó đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phải hy sinh rất nhiều. Khi người phụ nữ được làm vợ, làm mẹ, những hy sinh, những thiệt thòi lại càng nhiều không kể xiết. Và trong muôn ngàn nỗi khổ đau, hy sinh mà những người vợ, người mẹ trên trái đất phải gánh chịu, người Vợ Việt Nam, người Mẹ Việt Nam, luôn luôn chịu đựng những khổ đau, hy sinh nhiều gấp bội, vì lịch sử Việt Nam có nhiều nỗi oan trái, bi phẫn hơn; văn hóa Việt Nam có nhiều quan niệm khiến người phụ nữ Việt Nam thiệt thòi hơn, khổ đau hơn…

    còn tiếp

  4. #16
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 15

    Hôm nay, khi viết những dòng chữ này gửi tới các bạn, tôi đã bước vào tuổi 55. Và kể từ khi đứng ở bờ sông Châu của buổi tối hôm đó, muốn cất tiếng gọi hai tiếng “Mẹ ơi!” mà không dám gọi, cho đến nay đã 45 năm trôi qua. Trong suốt 45 năm đó, càng ngày tôi càng nhận thấy rõ ràng một điều, chính cuộc đời đau khổ đầy oan trái của Mẹ, và hoàn cảnh éo le của tôi, đã khiến tấm lòng của tôi luôn luôn nhạy cảm, dễ dàng rung động, xót xa, đau đớn với nỗi đau, nỗi thiếu thốn của tất cả những người chung quanh, cho dù họ là những người dưng nước lã. Tôi thương xót một người đàn bà ở làng tôi, vì chửa hoang nên bị cả làng hắt hủi; tôi khóc thương cho một người mẹ già, lưng còng, bán có mấy cây mía ở chợ, cũng bị cán bộ thuế nông nghiệp tịch thu; tôi nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm, khi nhìn thấy những trẻ em đói khát đứng chầu trực cơm thừa canh cặn, dọc theo đường tôi hành quân vô Nam… Đất nước tôi tươi đẹp, nhưng sao tôi thấy dân tộc tôi khốn khổ, thiếu thốn trăm vạn điều…

    Tối hôm đó, trở về nhà, trong đầu óc tôi đầy ắp hình ảnh Mẹ. Tôi không tâm sự được với ai, nhưng lòng tôi thổn thức vô cùng. Tôi muốn hỏi Thày tôi thật nhiều nhưng không dám. Trong những năm tháng của tuổi ấu thơ, tôi không thể ngờ được, Mẹ của tôi vẫn âm thầm, để ý theo dõi cuộc sống của tôi. Mẹ của tôi hiểu rằng, rồi sẽ đến một ngày, tôi sẽ đủ khôn lớn để hiểu được tình yêu thiêng liêng của Mẹ dành cho tôi lớn lao đến mức nào. Mẹ của tôi biết rằng, với thời gian và sự khôn lớn, tôi sẽ hiểu được những éo le, khổ đau mà mẹ tôi phải gánh chịu. Tôi sẽ yêu thương, tìm đến với Mẹ trong tấm lòng đau đớn của một người con…

    Quả nhiên, bảy năm sau, khi tôi đi học trọ cách nhà tôi gần chục cây số, Mẹ đã tìm đến tận nơi tôi học, và hai mẹ con chúng tôi đã đoàn tụ. Ngay sau đó, tôi đã theo Mẹ tôi đi Đọi, Đệp là quê của Mẹ, rồi tôi theo Mẹ tôi lên Hà Nội, nơi Mẹ tôi đang ở, để Mẹ tôi dẫn đi nhận họ hàng bên nội, bên ngoại.

    Những năm đó, Miền Bắc đang sống trong cảnh thiếu thốn cùng cực, vì tất cả lương thực, thực phẩm đều bị nhà nước thu mua, để đánh đổi vũ khí, đưa vô Miền Nam. Chế độ cộng sản đã rất xảo quyệt, ngụy tạo “hình ảnh người bộ đội hy sinh xương máu chống Mỹ cứu nước” ở Miền Nam, để bắt người dân ở Miền Bắc phải đổ mồ hôi, nước mắt, phải “thắt lưng buộc bụng” để dành lương thực, thực phẩm cho “Miền Nam thắng Mỹ”. Tất cả những cảnh bom đạn của máy bay Mỹ thả xuống các làng mạc, thành phố, đều được nhà nước chụp hình, thổi phồng và tuyên truyền, nhằm khích động lòng căm thù của mọi tầng lớp trong xã hội Miền Bắc.

    Nhớ lại những ngày tháng thiếu thốn, đói khát ấy, tôi thấy thật rùng mình kinh hoàng, vì đói khát triền miên cùng với không biết bao nhiêu bi kịch hiện ra ở khắp mọi làng quê, thôn xóm, thành phố, thị trấn của Miền Bắc. Đảng và nhà nước kiểm soát tất cả sự sống của người dân, qua chế độ tem phiếu. Mỗi tháng, mỗi người lớn, được 13 kí lô lương thực, trẻ em được 7, 8 kí. Dù người lớn hay trẻ em, trong tiêu chuẩn lương thực luôn luôn phải có phần ăn độn chiếm tới một nửa là khoai, sắn, hoặc bột mì. Đó là trên lý thuyết. Trên thực tế, tuỳ theo tình hình của cửa hàng lương thực, tỷ lệ độn khoai, sắn, hoặc bột mì sẽ tăng lên. Dù là gạo, khoai, sắn, hay bột mì, tất cả đều chung một điểm là chất lượng rất tồi tệ. Mối mọt, sâu bọ, sỏi đá, hoặc độ ẩm, được trộn lẫn để tăng trọng lượng. Vì vậy, tiêu chuẩn là 13 kí lô một tháng, nhưng thực tế, người dân nhận được ít ỏi hơn thế rất nhiều. Vì có quá nhiều mối mọt, sâu bọ, nên mỗi khi đi mua lương thực về là phải đem phơi nắng, để mối mọt, sâu bọ bò đi. Đó là với những con mối mọt, sâu bọ còn sống. Với những con đã chết, thì khi vo gạo, rửa khoai, rửa sắn, mới có thể vớt chúng ra được. Còn bột mì thì thật khủng khiếp vì quá nhiều sâu bọ. Đem bột mì trộn với nước lạnh, rồi nắm lại thành từng cục, bỏ vào nước đun sôi. Vớt ra từng cục vừa hôi khủng khiếp lại vừa cứng như đá. Vậy mà vẫn phải ăn, phải nuốt. Chính vì phải ăn những miếng bột mì luộc như vậy trong suốt những năm tháng dài, nên sau này, mỗi khi nghĩ tới bột mì là tôi thấy ghê. Sau này, vô đến Miền Nam, và ngay cả khi sang đến Úc, tôi vẫn sợ không dám ăn bánh bao, vì chỉ nghĩ đến nó là thứ bánh làm bằng bột mì là tôi đủ sợ, cho dù đó là thứ bột mì hảo hạng, có bột chua làm cho nó thật xốp, thật mềm và bên trong lại có nhân trứng, thịt, mộc nhĩ, thật ngon lành.

    Để có được 13 kí lô lương thực đó trong nhà cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tôi nhớ, trong những năm tháng khốn khổ thời đó, mỗi tháng 2 lần, tôi phải dậy từ tinh mơ mờ đất, mang một cái thúng, hay một cái bao bằng vải, đi bộ từ 5 đến 10 cây số để đến cửa hàng lương thực của huyện nhà, hay huyện bên, xếp hàng, chờ mua. Cho đến bây giờ, đã 40 năm có lẻ trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cái sân gồ ghề ở cửa hàng lương thực huyện. Ở đó, vào những buổi sáng sớm, trời còn mờ sương, không khí lạnh buốt, hàng trăm con người xếp hàng rồng rắn, ngủ vạ ngủ vật, chờ đến giờ mở cửa. Hầu hết những người đến đó đều thuộc loại đói kinh niên, và luôn phong phanh trong những manh quần áo vá chằng và đụp. Mua được mấy chục kí lô lương thực bao giờ cũng hết một ngày trời, vừa đi vừa về, vừa chờ đợi. Khốn khổ như vậy, nhưng nếu mua được, dù cho có độn 70%, 80% với khoai lang, khoai mì, hay bột mì, thì vẫn còn là may mắn. Vì nhiều khi, xếp hàng gần đến lượt mình, thì cửa hàng tuyên bố hết lương thực. Khi đó, đành phải tiu nghỉu ôm thúng không, túi không, cùng chiếc bụng lép kẹp, đi bộ về nhà, để rồi một hai ngày sau, bi kịch xếp hàng mua lương thực đó lại tiếp diễn.

    Nhưng nếu đó là bi kịch đối với tôi trong những ngày tháng đó, thì tôi cũng mong các bạn hãy hiểu rằng, ở Miền Bắc thời đó, bi kịch ấy vẫn là điều vô cùng may mắn mà hàng triệu thanh thiếu niên Miền Bắc khác mơ ước mà không được. Tôi biết rất rõ, nhiều bạn bè của tôi lúc đó, chỉ biết ăn rau, ăn khoai, trong suốt nhiều tháng, thậm chí cả năm, chỉ trông thấy hạt cơm có một, hai lần, trong dịp tết nhất hay ngày giỗ. Tôi nói là được trông thấy hạt cơm, mà không nói là được ăn cơm, vì quả thực có những người tuy trông thấy hạt cơm, nhưng chẳng bao giờ được ăn cơm.

    Sống trong cuộc sống khốn khổ và thiếu thốn, thường những người làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, bao giờ cũng là những người phải chịu đựng thiếu thốn, đói khát nhiều hơn cả. Và cũng trong cuộc sống thiếu thốn, tình nghĩa yêu thương giữa những người ruột thịt được dịp chứng minh, khiến mọi người biết nhường cơm, xẻ áo cho nhau. Nhưng cũng chính trong hoàn cảnh thiếu thốn đó, chế độ cộng sản đã cố tình nhào nặn một cách tinh vi, khiến bản năng sinh tồn thú vật trong con người bị đánh thức, được dịp tung hoành, nên con người với con người trở nên tàn nhẫn, độc ác, sẵn sàng tranh giành từng miếng cơm, manh áo, rồi lòng ghen ghét, sự đố kỵ, được dịp bùng cháy, thiêu đốt lương tâm con người cả ban ngày lẫn ban đêm.

    Trong thời gian hành quân vô Miền Nam, các đơn vị bộ đội đều được cấp phát đầy đủ gạo, đồ hộp của Tàu, của Nga. Tuy không dư giả, nhưng sung túc gấp trăm lần so với đời sống của dân chúng vào lúc đó. Nhất là tại những vùng thôn quê từ Ninh Bình, Thanh Hóa, trở vô đến Quảng Bình, là những nơi thiếu thốn cùng cực, khổ sở gấp bội so với những thiếu thốn cùng cực ở Miền Bắc quê tôi. Tại những tỉnh ở miền Trung Việt Nam, bất cứ nơi đâu, khi dừng quân, nấu nướng, dùng bữa, chúng tôi đều chứng kiến cảnh hàng trăm trẻ em, hầu hết đều trần truồng, đứng chầu trực để xin các đồ ăn thừa của bộ đội. Tôi không biết các đơn vị bộ đội khác đối xử với những trẻ em xin ăn đó như thế nào, nhưng đơn vị của tôi thời đó đã có nghiêm lệnh, đồ ăn thừa phải đem chôn, tuyệt nhiên không được cho bất cứ ai. Trước mệnh lệnh dã man đó, hầu hết chúng tôi đều không tuân hành. Chúng tôi tìm đủ mọi cách, bí mật chia xẻ những đồ ăn chúng tôi có cho cha mẹ của các em.

    Cả Miền Bắc lúc đó sống trong đói khát, thiếu thốn. Qua đường lối tuyên truyền đầy thâm độc của chế độ cộng sản, tất cả mọi người đều đinh ninh nguyên nhân của mọi sự thiếu thốn là do “Mỹ Nguỵ” ở Miền Nam gây nên. Tất cả những thanh thiếu niên sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, đều có ảo tưởng, tin một cách thật thà, Mỹ đã xâm lăng Miền Nam, nhân dân Miền Nam đang sống đọa đầy dưới gót sắt của Mỹ, nên đau khổ, thiếu thốn gấp trăm ngàn lần nhân dân Miền Bắc.

    Thêm vào đó, những bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan viên, Huy Cận, Tế Hanh, Anh Xuân; những truyện ngắn, tiểu thuyết của Anh Đức, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Quang Sáng; rồi phim ảnh tuyên truyền của cộng sản Việt Nam, cộng sản Nga, cộng sản Tàu… đã nhịp nhàng có trước có sau, theo thời gian đầu độc mọi người dân Miền Bắc, khiến cho tầng lớp thanh niên khi lên đường xâm lăng Miền Nam đều tin tưởng, họ đang thực hiện một lý tưởng, theo đuổi một hoài bão, “giải phóng Miền Nam khỏi sự xâm lăng của đế quốc Mỹ”…

    May mắn cho tôi, nhờ được gia đình giáo dục, nhờ những món quà được các anh chị ở Miền Nam gửi cho, qua ngả Pháp, và những tấm ảnh chụp cảnh gia đình từ thời Pháp thuộc, đã giúp tôi sớm hiểu được cái chế độ tôi đang sống ở Miền Bắc là chế độ độc tài; và Miền Nam, nơi tôi đang được lệnh xâm lăng, chính là vùng đất của tự do, vùng đất có thân nhân ruột thịt của tôi đang sống hạnh phúc, trong đó có anh Quảng, một thần tượng của tôi khi còn bé, và là một trong những người đầu tiên vượt tuyến vô Nam…

    còn tiếp

  5. #17
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 16


    Kể từ khi viết hồi ký, tôi có được cái may mắn, nhận được những cú điện thoại, những email khuyến khích của quý độc giả. Trong số đó, có những vị trước kia ở cùng một tổng, một làng với tôi ở ngoài Bắc. Có vị cùng tắm chung trên dòng sông Châu, và cũng có vị từng đặt chân lên núi Đọi, núi Đệp quê hương của Mẹ tôi… Rồi Chủ nhật vừa qua, có một vị gọi điện thoại hỏi tôi về những kỷ niệm của tuổi học trò ở Miền Bắc dưới chế độ cộng sản. Trước đây hai tháng, cũng có một vị thân hữu trong cộng đồng, hỏi tôi câu hỏi tương tự. Vì vậy, hôm nay, tôi xin kể lại những kỷ niệm tuổi học trò của tôi.

    Tôi là một người rất hiếu học, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, nên chỉ được học hết lớp 8 thì tôi phải nghỉ học để kiếm sống. Nhưng trong thời gian 8 năm trên ghế nhà trường, tôi cũng có nhiều kỷ niệm vui buồn, đến bây giờ vẫn còn nhớ như in trong óc.

    Trong những năm tiểu học, tôi là một đứa trẻ rất tinh nghịch, nên tôi bị thầy giáo đánh đòn như cơm bữa. Lớp tôi học nằm cạnh một vườn khoai mì, mà ngoài Bắc gọi là cây sắn. Dùng cây sắn làm roi thì hay bị gẫy, nên mỗi khi tôi nghịch ngợm, đáng bị đánh đòn, là thầy giáo sai học trò ra vườn sắn bẻ cả chục cây đem vào lớp. Như đã kể trong những số báo trước, tôi là người đa cảm, rất dễ xúc động, nhưng lại rất lì đòn, vì tôi mê được làm anh hùng ngay từ khi còn bé. Mà muốn làm anh hùng, thì điều đầu tiên phải biết gồng mình chịu đòn. Vì tâm tâm niệm niệm như thế, nên mỗi lần bị thầy giáo đánh đòn, tôi đều nghiến răng chịu đau, nhất định không kêu la xin xỏ.

    Ngồi học trong lớp, tôi ít khi để ý đến lời thầy giảng, mà chỉ hay coi trộm truyện. Vì hay đọc truyện, nên tôi đọc bài rất lưu loát. Mỗi khi có phái đoàn giáo viên của huyện, của tỉnh về thăm trường (hay còn gọi là thăm quan), là cô giáo, thầy giáo lôi tôi lên đọc bài trước lớp. Tôi coi đó là một vinh dự và thích thú lắm.

    Khi tôi bắt đầu lên học cấp 2, tức là từ lớp 5 đến lớp 7, thì máy bay Mỹ bắt đầu oanh tạc Miền Bắc. Đó là thời gian vất vả nhất của tuổi học trò. Vì trường cấp 2 ở ngay phố huyện, nên lệnh của trên phòng giáo dục huyện bắt trường tôi phải đi “sơ tán” (giống như di tản), nghĩa là chúng tôi phải bỏ trường lớp, đi xuống vùng thôn quê cách đó khoảng 4, 5 cây số, dựng lên trường lớp bằng mái tranh, vách đất. Cực khổ nhất là phải đào giao thông hào chi chít từ trong lớp học ra đến bên ngoài.

    Có thể nói cả Miền Bắc từ năm 1965 trở đi, đâu đâu cũng thấy giao thông hào và hầm hố tránh bom. Giao thông hào đào từ trong mỗi lớp học, tỏa mạng ra các hầm trú ẩn. Chung quanh lớp cũng phải đắp các ụ đất cao một thước tám, ngang khoảng thước hai. Những ụ đất này chạy quanh lớp học, chỉ chừa có vài lối ra vô là cửa ngõ của các giao thông hào. Giao thông hào thì sâu khoảng thước rưỡi, ngang khoảng thước hai. Ngoài ra mỗi lớp học phải làm 5 hầm tránh bom, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 12 học sinh. Để làm những hầm tránh bom, phụ huynh và học sinh phải làm chung, vì rất tốn kém và vất vả. Đầu tiên là đào một hố sâu khoảng một thước, chiều ngang 3 thước, chiều dài 5 thước. Sau đó đóng cọc tre hai bên san sát dính liền, mỗi cọc cao khoảng 2 thước rưỡi, một đầu vót nhọn cắm sâu vào đất khoảng nửa thước, đầu kia có ngàm, để hai chân cọc đóng xoãi hai bên, còn hai đầu cọc thì khớp lại với nhau giống như mái nhà. Tiếp theo là buộc lạt tre, đặt phên tre, rồi đổ đất bùn trộn với rơm, dầy từ một thước đến thước rưỡi. Cuối cùng là phủ những lớp cỏ ngụy trang lên trên.

    Dọc theo các con đường làng, các đường mòn tới lớp học, rồi chung quanh lớp, đều có các hố cá nhân. Những hố này đều sâu từ thước rưỡi đến hai thước, đường kính thước rưỡi. Ở thành phố, thị xã, thủ đô Hà Nội, mỗi hố cá nhân thường được đổ bằng xin măng, có nắp đậy. Còn ở thôn quê thì hố thường bằng đất, không có nắp.

    Ngoài hệ thống hầm hố ra, mỗi học sinh thời đó đều phải có mũ rộng vành bện bằng rơm. Những cọng rơm được ngâm nước cho mềm, rồi kết lại với nhau giống như kết tóc đuôi sam. Sau đó, từng chuỗi rơm to bằng ngón tay cái được quấn và khâu thành hình chiếc mũ. Các thày cô giáo vẫn thường dậy chúng tôi, đội mũ rơm thì giúp cho đầu của mình khỏi bị bom bi, hay miểng bom. Như vậy mũ rơm để bảo vệ đầu. Còn bảo vệ thân thể thì có một chiếc khiên bằng rơm (lâu ngày, tôi quên mất tên gọi của nó nên tạm gọi là khiên rơm). Chiếc khiên này cũng được bện bằng rơm, nhưng thay vì khổ nhỏ như ngón tay cái, thì rơm bện cho chiếc khiên phải to và tròn cỡ cổ chân. Sau khi bện xong, thì quấn từng vòng thật chặt thành một chiếc khiên rơm hình bầu dục, rồi thêm hai chiếc dây, hay hai quai bằg rơm ở hai bên để đeo lên vai. Khi đeo xong, chúng tôi sẽ có được một chiếc khiên che kín phía lưng. Nhìn chung, vào thời đó, những chiếc mũ rơm, khiên rơm là như vậy, nhưng mỗi địa phương, hình dáng, cách thức của mũ rơm, khiên rơm có khác. Thậm chí có nơi, không có rơm, thì người dân dùng bẹ ngô, hay cây cỏ…

    Học sinh chúng tôi thời đó cũng được dậy rằng, nếu nghe tiếng kẻng hay còi báo động, kịp nhảy xuống hố cá nhân tránh bom, thì nhớ đậy nắp hầm bằng chiếc khiên rơm. Như vậy, chỉ trừ khi trái bom rơi trúng miệng hầm, còn không thì mạng sống của chúng sẽ rất an toàn. (!!!) Tôi còn nhớ ngày đó, có mấy ông cán bộ huyện đội hay xuống trường học của chúng tôi, bắt cả trường phải thực tập màn báo động máy bay Mỹ oanh tạc. Có hôm mùa đông lạnh lẽo, trời mưa tầm tã cả tuần lễ, giao thông hào, hầm hố đều ngập nước, nhưng cán bộ huyện đội tới ra lệnh báo động, chúng tôi vẫn phải chạy nháo nhào dưới mưa để chui vào những hầm hố đầy nước… khiến đứa nào cũng run cầm cập, quần áo ướt như chuột. Ngoài chuyện nước, bùn, đôi khi còn có cả chuột, cóc nhái, rắn rết,… sống cũng có mà chết cũng có, trong các hầm hố, giao thông hào. Những thứ này quả là cả một ác mộng đối với học trò, nhất là với nữ sinh.

    Về công dụng của chiếc mũ rơm, khiên rơm, tôi nhớ có lần, cán bộ huyện đội lên lớp giải thích, mỗi miểng bom hay viên bom bi bắn ra trong không khí, chúng sẽ xoay tít theo chiều kim đồng hồ. Một khi gặp rơm, chúng sẽ cuốn sợi rơm theo chiều quay, nên mỗi sợi rơm sẽ có công dụng như chiếc phanh (thắng), làm giảm tốc độ và rồi chặn đứng viên bom bi hay miểng bom lại. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ thoát chết. (!!!)

    Vào lúc đó, chúng tôi chẳng biết, những chiếc nón rơm, khiên rơm đó có hữu hiệu trong việc tránh bom bi hay miểng bom như lời cán bộ huyện đội nói không, nhưng chúng tôi ai ai đi học cũng không thể nào quên được hai thứ “bùa hộ mạng” cồng kềnh và nặng nề đó.

    Để minh họa phần nào hình ảnh người học sinh Miền Bắc trong những chiếc khiên rơm, mũ rơm, tôi xin gửi tới các bạn tấm hình dưới đây. Tôi cũng xin thưa, khi cho bà xã coi tấm hình này, tôi đã giải thích đứt lưỡi, bằng tất cả ngôn ngữ tôi có, cộng với sự thật thà đến ngây ngô, ngờ nghệch của tôi, nhưng vợ tôi vẫn nhất định không tin, những học sinh trong hình mặc những tấm khiên rơm đó là để chống bom bi. Vợ tôi bảo, các em học sinh đeo chiếc khiên rơm đó là để cho khỏi lạnh, chứ không phải để chống bom bi. Vì vậy, nếu quý độc giả nhìn hình, mà không tin những gì tôi viết trong bài này, điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Chỉ mong, nếu quý vị có cơ hội, xin hãy hỏi chuyện những người Việt từng sống ở Miền Bắc trong giai đoạn 1964-1972, thì có thể phần nào tin những điều tôi đã viết… Như vậy, quý vị sẽ thấy thương xót cho tuổi trẻ Việt Nam ở Miền Bắc trong những năm tháng cách đây ngót 40 năm. Và cũng xin quý vị hãy hiểu rằng, tất cả những khổ ải đó chỉ bằng phần ngàn, phần vạn, so với những khổ ải không có trong hình, do cộng sản gây ra cho quê hương, dân tộc VN, trong suốt 60 năm qua…

    còn tiếp

  6. #18
    BaNai's Avatar
    Status : BaNai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Feb 2014
    Nguyên quán: Maryland, USA
    Posts: 218
    Thanks: 6
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 17


    Tuần qua, có một số vị độc giả cho biết, rất thích thú và ngạc nhiên khi thấy tấm hình những học sinh Việt Nam đeo khiên rơm, đội mũ rơm trên đường đến trường. Với đông đảo người dân Miền Nam, đó là hình ảnh lạ lùng, hiếm thấy, và cũng không có mấy người tưởng tượng ra nổi. Sự thực, trong những năm tháng đó, ở khắp các trường học trên lãnh thổ Miền Bắc, đâu đâu cũng thấy cảnh “muôn người như một” đội mũ rơm, đeo khiên rơm khi đi học. Tất cả học sinh Miền Bắc thời đó đều nghèo khổ, túng thiếu, quần áo vá chằng vá đụp, cùng những gương mặt xanh xao đói khát kinh niên, cộng với guồng máy tuyên truyền được chế độ cộng sản tận dụng tối đa để nhào nặn con người, đã làm tê liệt hết mọi đường nét ngây thơ, hồn nhiên của tuổi trẻ.

    Dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” thời đó (cũng như từ xưa tới nay), ngoài những bài học thường xuyên thuần túy về đường lối chính sách của đảng, tất cả các môn học khác đều được chính trị hóa tối đa, kể cả những môn thuần túy khoa học tự nhiên như toán, lý, hóa. Trong văn chương cận và hiện đại, học sinh chúng tôi chỉ học văn thơ của những nhà văn, nhà thơ cách mạng, trong đó văn thơ của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chế Lan Viên luôn luôn chiếm hàng đầu. Chương trình học, từ cấp 1, cấp 2, cấp 3 đến đại học, đều ở dạng “chính trị đồng tâm”, có nghĩa, từ khi còn nhỏ cho đến khi lớn lên, chúng tôi cùng học văn thơ cách mạng, nhưng nhỏ ở lớp dưới thì học ít, lớn ở lớp trên thì học nhiều. Học sinh cấp 1 học một vài bài thơ, bài văn trích của các lãnh tụ cộng sản. Lên cấp 2 học lại, nhưng sâu hơn, rộng hơn. Lên cấp 3 lại tiếp tục học. Đối với các nhà văn nhà thơ thuộc các trào lưu tư tưởng khác thì cộng sản không cho học, hoặc nếu có học cũng nặng về phê phán, chỉ trích những tư tưởng mà cộng sản coi là lệch lạc, sai trái. Thậm chí, đối với ngay cả những nhà văn nhà thơ cổ điển, hay những nhân vật lịch sử sống cả ngàn năm trước, cũng đều bị cộng sản nhào nặn để đánh giá, phê phán, dưới lăng kính chủ nghĩa cộng sản. Xin đơn cử một thí dụ, khi phân tích về Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, những người trí thức cộng sản đã tìm đủ mọi cách để gán ghép cho Nguyễn Du những đặc điểm có tính giai cấp của một người cộng sản. Đối với thơ văn thời Pháp, cộng sản chỉ khai thác những tác phẩm được cộng sản coi là có “giá trị hiện thực phê phán”, nghĩa là mô tả những tội ác, những xấu xa, hủ bại của chế độ “phong kiến thực dân”; hoặc kể lại những cảnh khốn khổ, những bi kịch của người dân nghèo. Với các môn khoa học tự nhiên, cộng sản cũng có chính sách nhằm tuyên truyền và đầu độc tuổi trẻ Việt Nam. Tất cả các nhà khoa học có công đối với nhân loại, đều được đánh giá dưới lăng kính giai cấp, chủng tộc và đảng tính. Nghĩa là ưu tiên vinh danh những khoa học gia nào là đảng viên cộng sản, hoặc là người Nga, Ba Lan, Hung Gia Lợi… là những nước cộng sản; hoặc xuất thân từ thành phần lao động, giai cấp công nhân nghèo khổ.

    Bên cạnh nội dung giáo dục thuần túy tuyên truyền, cộng sản còn có cả một mạng lưới đoàn thể ngoại vi dầy đặc nhằm kiểm soát và hướng dẫn tư tưởng thế hệ trẻ, là tổ chức thiếu nhi và đoàn thanh niên. Cả hai tổ chức này đều đặt nền tảng tư tưởng cho giới trẻ, khiến cho một học sinh, ngay từ khi mới cắp sách đến trường, đã lọt vô cạm bẫy của cộng sản. Và trên con đường phát triển trí tuệ, tài năng và tay nghề, bất cứ học sinh nào, nếu đã không được kết nạp vào thiếu nhi, thì sẽ không bao giờ được kết nạp vào đoàn thanh niên. Và nếu đã không được kết vào đoàn thanh niên, thì người học sinh đó có học giỏi, có chịu khó, có tinh thần tiến thủ đến đâu đi nữa, người đó cũng khó có thể tiến thân. Sống trong xã hội cộng sản, hai chữ “đạo đức” phải được hiểu là “đạo đức cách mạng”. “Tài và đức” là thước đo giá trị của mỗi người đã trở thành “hồng và chuyên” trong chế độ cộng sản. Và khái niệm “hồng”, tức là “đạo đức cách mạng”, hoàn toàn xa cách, thậm chí trái ngược, với khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” của truyền thống dân tộc Việt Nam.

    Một người học sinh dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” được dậy rằng, muốn có “đạo đức cách mạng”, họ phải sẵn sàng vì quyền lợi của đảng, chấp nhận “phi nhân, bất nghĩa, vô lễ, bất trí, bất tín”. Chế độ cộng sản luôn luôn dậy người học sinh, “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chỉ là những sản phẩm xa xỉ của chế độ phong kiến và tư bản.

    Song song với trường học và các đoàn thể ngoại vi, cộng sản còn có cả một mạng lưới kìm kẹp và nhuộm hồng trí tuệ của tuổi trẻ qua hàng trăm hội đoàn, đoàn thể khác. Thậm chí, ngay cả gia đình, nền tảng đáng tin cậy cuối cùng của tuổi trẻ trên căn bản cùng huyết thúc, cũng bị cộng sản phá vỡ. Kết quả, ngay cả những câu hỏi ngây thơ, những thắc mắc chân tình của tuổi trẻ đối với cha mẹ hay anh chị trong nhà, cũng rất ít khi có được câu trả lời đúng đắn, nếu không nói là cha mẹ, anh chỉ đã chủ động trả lời gian dối, chủ động tuyên truyền lừa bịp. Bằng sự kìm kẹp tư tưởng, bằng chế độ tem phiếu, bằng mạng lưới công an chìm nổi và các hội đoàn, đoàn thể, cộng sản VN đã thực sự gieo rắc sự sợ hãi, gian dối, bao che tội lỗi, và đồng lõa với tội ác trên khắp quê hương Miền Bắc. Vì vậy, nếu ở Miền Nam, có ai than thở băn khoăn cho thế hệ trẻ khi viết “bò non gặm cỏ cháy”, thì ở Miền Bắc, tôi phải nói, “bò non gặm cỏ độc”.

    Một ai đó đã nói, con người là sản phẩm của tuyên truyền. Câu này rất đúng vì có thể nói hầu hết mọi người sinh ra và lớn lên trong xã hội cộng sản, họ đều dễ dàng trở thành những cán bộ tuyên truyền cộng sản. Điều này khiến họ vừa là nạn nhân của chế độ cộng sản, lại vừa là thủ phạm gây ra những nạn nhân khác sống chung quanh họ. Vì bản chất của chế độ cộng sản là phi nhân, gian trá và lừa lọc, nên không sớm thì muộn, đến một lúc nào đó, hầu hết những nạn nhân của chế độ cộng sản đều tỉnh ngộ, thức tỉnh. Nhưng ngay cả khi họ thức tỉnh, sự tê liệt về ý chí, cùng những tội lỗi mà họ đã phạm, và nỗi xấu hổ trước sự nông cạn về trí tuệ khiến họ mắc lừa cộng sản, đã khiến họ tiếp tục sa lầy trong vũng bùn cộng sản…

    Một trong những kỷ niệm ám ảnh mãnh liệt nhất và có sức tàn phá khủng khiếp nhất đối với thế hệ trẻ Miền Bắc chúng tôi là cái chết của Hồ Chí Minh. Để có thể hiểu được mức độ tàn phá của cái gọi là “thần tượng” Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ Miền Bắc như thế nào, xin các bạn hãy nhìn vào thực tế, tại hải ngoại hiện nay, trong cộng đồng của chúng ta, vẫn có những người Việt khoa bảng lớn tuổi, điên cuồng bênh vực Hồ Chí Minh là người Việt yêu nước. Họ vẫn nằng nặc không tin Hồ Chí Minh đã có nhiều vợ và có con; HCM là chánh phạm tạo nên những thảm kịch thời cải cách ruộng đất; HCM đã tạo ra những cuộc thủ tiêu rùng rợn các đảng phái quốc gia thời 9 năm kháng chiến. Có thấy được sự cuồng tín bênh Hồ Chí Minh bằng mọi giá của tầng lớp khoa bảng thân cộng sản tại hải ngoại, qúy vị mới thông cảm cho những học sinh nghèo khổ, lớn lên sau rặng tre làng, bị nhào nặn dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” đã ngây thơ tin tưởng vào “thần tượng” Hồ Chí Minh như thế nào…

    Tôi còn nhớ ngày Hồ Chí Minh chết là ngày 3 tháng 9 năm 1969. Trong suốt những ngày, những tuần lễ sau đó, đi đến đâu, tôi cũng thấy những lễ truy điệu, những buổi đọc “di chúc” của Hồ Chí Minh. Rồi những bài hát, những bài thơ, những bài văn “thương tiếc Hồ Chí Minh” xuất hiện nhan nhản ở khắp mọi nơi, qua mọi hình thức. Tại các nhà thờ, chùa chiền, hãng xưởng nhà máy, các hợp tác xã, các trường học, đều thấy những gương mặt u ám, buồn bã, và cả những “giọt nước mắt thương tiếc”. Trong số đó, tôi biết hầu hết những người lớn tuổi biết rõ cộng sản là gì, thì đều phải đóng kịch để sống còn với chế độ. Sau này tôi được nghe kể, lúc đó, nhiều cô, nhiều bà có kinh nghiệm muốn “khóc thương Bác” thật mùi mẫn, thì chỉ cần nghĩ đến những người thân thương khi qua đời, là khóc ngon lành.

    Nhưng đó là đối với người lớn. Với tuổi trẻ Việt Nam, ngây thơ lớn lên giữa cả rừng cạm bẫy và gian dối, lại bị guồng máy tuyên truyền của cộng sản nhào nặn, nên ngày đó, nhiều học sinh nhất là nữ sinh đã khóc “thương Bác” rất mùi mẫn. Thêm vào đó, nước mắt bao giờ cũng hay lây, nên cảnh các nữ sinh sụt sịt khóc trong những buổi truy điệu Hồ Chí Minh là cảnh tôi thường thấy.

    Và một người khi còn trẻ, đã tin, đã yêu thương, tôn thờ một thần tượng, để rồi một ngày kia, nhận ra mình bị lừa, nhận ra thần tượng đó là thủ phạm của không biết bao nhiêu tội ác, thì khi đó, chính mình vừa thất vọng, vừa căm hận, vừa xấu hổ. Đời người chỉ sống có một lần, và chỉ một lần có tuổi thanh xuân. Vĩnh viễn không bao giờ mình được đi lại những năm tháng tuyệt vời đó. Vậy mà chính những năm tháng tuyệt vời đó, mình lại ấp ủ tôn thờ một tên đồ tể, thử hỏi còn nỗi đau đớn nào lớn hơn, quằn quại thê thảm hơn?… Nhất là khi nhiều người khi nhận biết được điều đau đớn đó là lúc tuổi của họ đã xế chiều, tội lỗi của họ đã ngập đầu, và hai tay của họ đã chót nhúng chàm độc….

    còn tiếp

Trang 3/19 đầuđầu 1234513 ... cuốicuối

Similar Threads

  1. Trả lời: 4
    Bài mới nhất : 07-09-2020, 04:51 PM
  2. Tiếng hát Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết ♫
    By BachMa in forum Nhac Trữ Tình
    Trả lời: 22
    Bài mới nhất : 06-07-2020, 04:19 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 12-23-2014, 10:23 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-31-2014, 06:40 AM
  5. Chia Buồn GĐ KQ Tống Hữu Gia
    By khongquan2 in forum Phân Ưu
    Trả lời: 2
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 01:46 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •