Ba Người Bạn (Chiến Hữu) - Erich Maria Remarque



Ba Người Bạn (Chiến Hữu) là cuốn tiểu thuyết chiến tranh của tác giả người Đức nổi tiếng thế giới, Erich Maria Remarque.

Erich Maria Remarque là nhà văn Đức, chuyên viết về chiến tranh, với rất nhiều tiểu thuyết lừng danh thế giới như: Ba Người Bạn (Chiến Hữu), Khải hoàn môn, Đài tưởng niệm Bia mộ đen, Một thời để yêu và một thời để chết ...vv. Các tác phẩm của ông là những bản tráng ca về tình yêu và sự khốc liệt của chiến tranh ...

Tại Việt Nam, từ lâu nhiều tác phẩm của Erich được dịch và xuất bản ở cả hai miền Bắc và Nam. Hiện nay, vẫn có nhiều tác phẩm của ông được tái bản tại Việt Nam.

Đọc "Ba Người Bạn" mới thấy được rằng những người lính bại trận thậm chí còn phải gánh chịu những mất mát tổn thương hơn bất cứ ai. Họ phải chịu tâm lý của kẻ bại trận trở về không được người thân, bạn bè chào đón. Đó là một cuộc chiến phi nghĩa mà chính họ cũng không biết tại sao họ phải dấn thân vào để rồi phải chứng kiến những cuộc tàn sát, những cái chết của đồng loại, của đồng đội mà đến khi chiến tranh kết thúc, họ vẫn còn bị ám ảnh. Thêm vào đấy là tâm lý bị cả xã hội ruồng bỏ, khinh miệt. Họ tay không trở về, không tiền bạc tài sản, không nhà cửa người thân, không việc làm và trở thành những kẻ ở tận đáy cùng của xã hội. Hình ảnh ba người bạn trong truyện là đại diện cho cả một tầng lớp, thế hệ "bỏ đi" ấy. Họ phải chịu tất cả những nỗi đau , mặc cảm mà xã hội không ai hiểu và thông cảm trừ những người cũng ở trong tầng lớp nghèo hèn như họ....

Nội dung tác phẩm nói về tình bạn và tình yêu của những người lính sau chiến tranh, vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống, nhưng luôn sống và yêu hết mình. Một tác phẩm tuyệt vời mà bất cứ ai khi đọc cũng đều cảm động và khâm phục....




Erich Maria Remarque

Chiến hữu

Chương 1
Bầu trời vàng ửng màu đồng, chưa bị che lấp bởi khói từ các cột ống khói lô nhô. Đàng sau dãy mái ngói của xí nghiệp, ánh sáng đặc biệt lộng lẫy. Mặt trời hẳn vừa mới mọc. Tôi nhìn đồng hồ; chưa đến tám giờ. Sớm mười lăm phút.
Thế nhưng tôi vẫn mở cổng, chuẩn bị máy bơm sẳn sàng đón khách. Giờ này thường có một, hai chiếc xe hơi chạy ngang cần nạp nhiên liệu.
Thình lình sau lưng tôi vang lên một âm thanh the thé, chát chúa -- như tiếng một cái cần cẩu rỉ sét di động dưới lòng đất. Tôi đứng im, lắng nghe. Tôi băng qua sân trở lại cổng và thận trọng mở ra.
Một con ma -- trong bóng tối mờ ảo quờ quạng tiến tới! Một thếp vải trắng cáu bẩn quấn quanh đầu, váy vén cao phơi bày đầu gối; mình choàng tạp dề xanh lơ, chân mang dép dầy cộp, vung vẩy một cây chỗi trên tay; nó nặng chừng một tạ tây, và thực sự chính là Matilda Stoss, người lau dọn cho cơ sở của chúng tôi.
Tôi đứng nhìn bà. Với tất cả duyên dáng của một con hà mã, bà vừa lảo đảo len giữa các bộ tản nhiệt xe hơi, vừa ậm ừ hát bản "bài ca chàng Khinh Kỵ Can Trường." Trên băng ghế cạnh cửa sổ có hai chai cognac, một chai gần cạn. Tối hôm qua chúng còn đầy. Tôi quên cất chúng vào tủ khóa.
"Kìa Frau Stoss!" tôi phản đối.
Tiếng hát ngưng bặt; cây chổi rơi xuống sàn. Nụ cười sung sướng tắt ngúm. Bây giờ đến lượt tôi là ông kẹ.
"Lạy Chúa tôi!" Matilda thốt lên, hấp háy mắt. "Tôi đâu ngờ cậu tới sớm như vậy."
"Tôi thì không ngạc nhiên chút nào. Rượu ngon chứ?"
"Đương nhiên rồi. Nhưng thế này xấu hổ quá, Herr Lohkamp ạ." Bà lấy tay chùi quanh miệng. "Tôi chỉ chẳng hiểu tại sao ---"
"Nào, Matilda, bác quá lời đấy. Bác chỉ say quắc cần câu mà thôi, phải không?"
Bà cố sức giữ thăng bằng và đứng đó, chớp mắt như một con cú già. Rồi dần dần sự minh mẫn của bà trở lại. Bà tiến tới một bước, quả quyết.
"Nói cho cùng, con người thì yếu đuối, Herr Lohkamp ạ... Đầu tiên, tôi chỉ ngửi ... rồi tôi nhấp một ngụm mà thôi, bởi vì -- cậu biết đấy, bao tử của tôi yếu lắm... và rồi... rồi tôi nghĩ Quỷ Sứ đã hớp hồn tôi. Dù sao, cậu cũng không nên tạo điều kiện cho một bà lão phạm tội, để rượu ngon hớ hênh như thế..."
Đây không phải lần đầu tôi bắt gặp bà làm chuyện này. Bà thường đến xưởng của chúng tôi mỗi ngày hai giờ để lau chùi; và mặc dầu ta để bừa bãi một số tiền lớn, bà sẽ không đụng tới một xu teng -- thế nhưng bà có thể đánh hơi rượu schnapps tài tình như một con chuột đánh mùi thịt mỡ.
Tôi cầm hai chai rượu đưa lên. "Lẽ tự nhiên! Bác chừa lại chai cognac của khách ... còn thứ rượu ngon, rượu của Herr Koster -- thì bác nốc sạch."
Một nụ cười nở trên gương mặt dãi dầu sương gió. "Tin tôi đi, Herr Lohkamp; tôi là người sành rượu! Nhưng Herr Lohkamp, cậu sẽ không thóc mách lại -- tôi, một góa phụ đáng thương?"
Tôi lắc đầu. "Lần này thì không, Matilda."
Bà tháo kim, thả váy xuống. "Vậy tôi nên đi ngay. Kẽo Herr Koster bắt được.. " bà dơ hai tay ngang đầu.
Tôi đến cạnh tủ thức ăn, mở cửa. "Matilda ..."
Bà nặng nề bước tới. Tôi cầm một chai màu nâu, hình chữ nhật đưa lên.
Bà dơ tay cao, phản đối.
"Không phải tôi đâu," bà nói. "Thề danh dự, không phải tôi, Herr Lohkamp ạ. Tôi còn chẳng ngửi qua nữa là."
"Thế bác không biết đó là cái gì, phải không?" tôi nói, rót vào cốc.
"Không?" bà đáp, liếm môi. "Rum. Thời đồ đá."
"Tuyệt lắm! Bác nghĩ sao, làm một cốc nhé?"
"Tôi ấy à?" Bà giật nẩy người. "Thế thì quá sức, Herr Lohkamp ạ! Đầu tôi hừng hực than hồng đây. Mụ Stoss này đã uống trộm hết sạch cognac của cậu, thế mà cậu lại còn mời mụ ấy uống rum nữa! Cậu là bậc thánh, Herr Lohkamp, cậu đúng là một người như thế! Có chết tôi cũng chẳng dám đụng tới một giọt."
"Bác chắc không, Matilda?" tôi nói, làm như sắp uống.
"Thôi, được rồi," bà nói và nhanh tay cầm lấy cốc rượu. "Phải chụp lấy cơ hội. Ngay cả khi ta không hiểu. Chúc cậu khỏe mạnh! Tôi đoán, không chừng hôm nay là sinh nhật của cậu?"
"Cũng đâu đó, Matilda. Đoán giỏi lắm."
"Không, có thật không?" Bà nắm tay tôi. "Chúc cậu sống lâu trăm tuổi! Và giàu có, Herr Lohkamp.... Ôi chao, sao tôi run rẫy cả người thế này ... Tôi cần một cốc nữa để ăn mừng sinh nhật cậu. Tôi thương cậu cứ như là con đẻ ấy!"
"Tốt lắm!"
Tôi rót một cốc rượu nữa cho bà. Bà nốc cạn và, vẫn tiếp tục ca ngợi tôi trong khi bước ra khỏi xưởng.
Tôi cất chai rượu, ngồi xuống bàn. Ánh nắng yếu ớt qua khung cửa chiếu trên tay tôi. Một cảm xúc kỳ lạ, một sinh nhật -- cho dù không mang một ý nghĩa nào. Ba mươi năm... Tôi nhớ laị thời kỳ tôi đã tin rằng không bao giờ mình sống tới hai mươi tuổi -- thời kỳ đó dường như đã xa xưa lắm. Và rồi....
Tôi lấy một tờ giấy từ ngăn kéo và bắt đầu tính sổ đời mình. Tuổi ấu thơ, học đường -- một hỗn hợp khắn khít của nhiều sự vật và sự kiện -- đã quá xa vời, như một thế giới khác, không có thực. Cuộc đời thực chỉ bắt đầu từ năm 1916. Tôi vừa đăng lính -- mười tám tuổi, gầy gò, lỏng khỏng. Và một tay thượng sĩ hách xì xằng thường bắt tôi tập đi tập lại, trườn bò, trên mặt đất bùn lầy của cánh đồng vừa cày xới đàng sau trại lính ... Một buổi chiều, mẹ tôi đến thăm; nhưng bà phải chờ hơn một tiếng đồng hồ, vì tôi không sắp xếp quân trang đúng cách, do đó bị phạt bằng cách kỳ cọ bồn cầu. Bà xin phép phụ giúp tôi, nhưng bị từ chối. Bà khóc, và tôi mệt lả đến nỗi thiếp ngủ ngay giây phút được ngồi cạnh mẹ.
1917. Flanders. Mittendorf và tôi mua một chai vang đỏ ở căng tin... Chúng tôi dự tính ăn mừng. Nhưng chúng tôi chưa kịp làm gì, sáng sớm hôm ấy, quân Anh lại bắt đầu dội bom. Gần trưa, Koster bị thương; đến chiều, Meyer và Deters tử trận. Rồi, khi màn đêm buông xuống, vừa lúc chúng tôi tưởng rằng tình hình đã lắng dịu, và sắp sửa khui rượu thì hơi độc tràn đến, ngập khắp công sự. Chúng tôi kịp thời mang mặt nạ, nhưng mặt nạ của Mittendorf hỏng, và khi anh biết được thì đã muộn. Anh lột phắt nó đi, nhưng trước khi tìm được mặt nạ mới, anh hít phải nhiều khí độc đến mức ói ra máu. Anh qua đời sáng hôm sau, sắc mặt xanh chàm.
1918. Trong quân y viện. Mấy ngày trước có một đoàn công xa chở thương bệnh binh đến. Băng bằng giấy. Nhiều trường hợp trầm trọng. Tiếng rên xiết áo não. Xe đẩy rộn rịp cả ngày. Giường của Joseph Stoll ở cạnh giường tôi. Hai chân đã cụt, nhưng anh không biết. Anh không nhìn thấy, vì họ phủ khăn trải giường bên trên một cái giá kẽm. Dù sao anh cũng không tin, vì anh vẫn còn cảm giác đau đớn ở chân. Hai người bạn trẻ chung phòng chết trong đêm, một người chết chậm và nhọc nhằn.
1919. Lại về nhà. Cách mạng. Đói khát. Và ngoài kia súng máy nổ từng tràng. Chiến binh đối kháng chiến binh.
1920. Putsch°. Karl Broger bị bắn. Koster và Lenz bị bắt. Mẹ tôi nằm bệnh viện. Ung thư.
1921...
Tôi nghiền ngẫm hồi lâu. Không, tôi không nhớ nỗi. Không nhớ gì đã xảy ra trong năm ấy. 1922, tôi làm thợ lắp đường rầy xe lửa ở Thuringia; 1923, quản đốc phụ trách quảng cáo cho một xí nghiệp sản xuất sản phẩm cao su. Lúc đó đang thời lạm phát. Có lúc lương tháng của tôi lên đến hai trăm tỉ đồng mark. Chúng tôi thường được phát lương mỗi ngày hai lần, mỗi lần được nghĩ nửa tiếng để chạy ra phố sắm sửa trước khi tỷ giá trao đổi đô-la được công bố -- vì đến khi ấy, tiền chỉ còn trị giá phân nửa.
Và rồi gì nữa? Những năm sau đó? Tôi đặt bút chì xuống. Không có ích gì ôn lại quá khứ. Dù sao, tôi cũng chẳng nhớ thêm gì hơn; tất cả đã trở nên rối rắm. Năm trước, vào sinh nhật của mình, tôi chơi dương cầm cho quán Café International. Ở đó, tôi gặp lại Koster và Lenz. Và hiện nay tôi đang làm việc ở Aurewo -- Auto-Repair-Workshop; Koster & Co. Lenz và tôi là "Co.," nhưng chỉ có Koster mới thực sự làm chủ. Anh là bạn học chung trường, và trong quân đội, là cấp chỉ huy đại đội của chúng tôi; rồi anh trở thành phi công, và sau đó trong một thời gian, là sinh viên; rồi là tay đua... Cuối cùng anh mua cái nhà chòi này. Lenz, sau những năm lưu lạc ở Nam Mỹ, là người đầu tiên gia nhập -- sau đó mới đến tôi.
Tôi lục túi lôi ra một điếu thuốc. Nói cho cùng, tôi có đầy đủ lý do để hài lòng. Thật ra cũng đâu đến nỗi nào. Tôi có công ăn việc làm, tôi cường tráng dẽo dai, và khỏe mạnh... Nhưng có lẽ tốt nhất ta không nên suy nghĩ thái quá về những điều ấy -- khi cô độc, bằng mọi giá; đặc biệt về đêm. Bởi thỉnh thoảng sẽ có những thứ từ quá khứ tìm cách trồi lên và trân trối nhìn ta bằng đôi mắt chết. Chính để chống lại những lúc ấy, ta cần một chai rượu mạnh.
°Đảo chánh
Bản lề cánh cổng rít lên ken két. Tôi xé vụn tờ giấy với những tháng ngày trên ấy, quẳng vào sọt rác. Cửa mở toang, và Gottfried Lenz -- cao, gầy, với mớ tóc vàng như rơm và cái mũi lẽ ra phải thuộc về một người khác -- đứng chắn ngang khung cửa.
"Bobby," anh rống lên, "anh ù kia, đứng lên! Nghiêm, chào! Thượng cấp có chuyện muốn nói với anh!"
"Herrgott!"° Tôi đứng dậy. "Tớ hy vọng cậu không nhớ... Đừng hát hỏng gì nhé."
"Cậu không phải là thứ duy nhất được quan tâm," Gottfried trả lời, đặt lên bàn một gói giấy, trong đó có một cái gì chạm vào nhau lanh canh. Koster bước theo sau.
Lentz đứng cạnh tôi, hơn hẳn một cái đầu. "Sáng nay cậu gặp điều gì đầu tiên thế, Bob?"
Tôi ngẩm nghĩ một lúc. "Một bà già múa may quay cuồng."
"Thánh thần ơi! Đó là điềm xấu, cậu tin không! Trùng hợp với tử vi của cậu! Hôm qua tớ vừa lấy lá số cho cậu. Cậu sinh dưới cung Nhân Mã -- yếu ớt, không vững chãi, một cây sậy mong manh trong gió -- với Thổ Tinh chiếm ngự một tam cá nguyệt kém may mắn và Mộc Tinh chẳng lấy gì thuận lợi cho cả năm nay. Koster và tớ, in loco parentis°°, cậu biết đấy, vì lẽ đó tớ ra lệnh, cậu phải nhận, để bảo vệ tính mạng, trước tiên lá bùa này. Tớ có được nó từ một hậu duệ chính cống của người Incas cuối cùng. Bà ấy có dòng máu quý tộc và lòng bàn chân phẳng bẹt; bà ấy trông ghê tởm, và có tài tiên tri. 'Hỡi chàng trai da trắng xa lạ,' bà ấy nói với tớ, 'các bậc vua chúa đã mang lá bùa này; sức mạnh của mặt trời, mặt trăng và trái đất chứa trong đấy, chưa kể những hành tinh kém nổi bật khác... Đưa cho già một đô-la bạc để mua rượu nhắm và lá bùa này sẽ thuộc về cậu.' Chuỗi may mắn ấy không nên để gián đoạn, do đó, hôm nay tớ tặng lại cậu. Mong nó sẽ gìn giữ cậu và đánh đuổi Mộc Tinh thù nghịch." Anh choàng lên cổ tôi một hình tượng đen trên một sợi dây mỏng. "Đây nhé. Chống lại vận rủi....Chống lại vận rủi mỗi ngày, và đây rồi -- sáu chai rum. Quà của Otto. Mỗi giọt rượu có số tuổi gấp đôi cậu."
Anh mở gói, sắp từng chai một cạnh nhau dưới ánh nắng ban mai. Chúng óng ánh như hổ phách. "Trông tuyệt vời," tôi nói. "Cậu mua ở đâu thế, Otto?"
Koster mỉm cười. "Chuyện dài lắm. Nhưng này, Bob, cậu có cảm tưởng ra sao? Ba mươi tuổi?"
Tôi lắc đầu. "Như mười sáu và năm mươi tuổi cùng một lúc. Một cách khác, khá côn đồ..."
"Khá côn đồ! Cậu nói gì thế?" Lenz phản đối. "Ôi, đó là điều đẹp nhất trên đời. Có nghĩa là, cậu đã chinh phục thời gian và sống đến hai lần!"
Koster nhìn tôi. "Mặc kệ anh ây, Gottfried ạ," anh nói. "Sinh nhật là gánh nặng cho lòng tự tin của con người. Nhất là vào buổi sáng. Rồi anh ấy sẽ từ từ đỡ hơn."
Lenz cau mày. "Người đàn ông càng nghĩ ít về hắn chừng nào càng tốt chừng ấy. Cậu thấy có được an ủi chút nào chưa, Bob?"
"Chưa," tôi đáp. "Một người đàn ông cần phải sống sao cho xứng đáng là một người tốt. Tớ cảm thấy như thế thật khó khăn và chán nản."
"Tuyệt! Anh ấy đang triết lý, Otto! Anh ấy đã được cứu rỗi," Lenz nói. "Điều xấu nhất qua rồi -- cơn khủng hoảng đã chấm dứt -- anh ấy đã trải qua phút giây kỷ niệm sinh nhật, khi người đàn ông nhìn thẳng vào mắt mình và nhận thấy mình chỉ là một thằng ngốc đáng thương... Nào, ta hãy cụng ly cho một ngày mới với tâm trí bình an, và cho máy móc của cái xe Cadillac già được bôi mỡ trơn tru."
Chúng tôi làm việc đến tối, rồi tắm rửa và thay y phục.
Lenz thèm thuồng nhìn mấy chai rượu. "Khui một chai uống được chưa, Otto?"
"Nói thật, đó là quà của Bob, không phải của tớ." Koster đáp. "Grottfried, cậu biết đấy, tặng cho người ta rồi nhắc nhặng xi như thế thì không được lịch thiệp mấy."
"Nhưng vẫn còn hơn để cho ân nhân của mình chết khát," Lenz trả đủa, vặn cái nút bần.
Mùi thơm ngào ngạt cả phòng.
"Đức Mẹ ơi!" Gottfried kêu.
Chúng tôi đua nhau ngửi.
"Hết sảy, Otto! Chỉ có thi sĩ mới đủ lời để diễn đạt."
"Cái nơi tăm tối này không xứng," Lenz nói. "Tớ có ý kiến... Chúng ta hãy lái xe ra một chỗ nào đó ở miền quê, đem theo những chai rượu này. Chúng ta sẽ uống cạn trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời."
"Xuất sắc!"
Chúng tôi đẩy chiếc Cadillac mà chúng tôi đã tận lực sửa chửa nguyên buổi chiều qua một bên, để lộ ra một vật kỳ lạ trên bốn bánh: chiếc xe đua của Otto Koster -- niềm hảnh diện của xưởng sửa xe của chúng tôi.
Koster đã mua chiếc xe này, một xe bus cũ có nóc kềnh càng, tại một chỗ bán đấu giá với số tiền rẻ mạt gần như biếu không. Lúc ấy những tay sành điệu không ngần ngại tuyên bố rằng xe ấy xứng đáng được chưng bày ở viện bảo tàng giao thông. Bollwies, chủ nhân một công ty bán sĩ quần áo phụ nữ và tình cờ cũng là một người say mê đua xe, khuyên Otto nên sửa xe ấy thành một chiếc máy may. Nhưng không dễ gì làm nản lòng Koster. Anh tháo xe ra từng mảnh như thể là một chiếc đồng hồ, và cặm cụi với nó, đêm này sang đêm khác hàng tháng trời. Rồi một tối, anh xuất hiện ở quán rượu nơi chúng tôi thường lai vãng. Bollwies cười suýt té ghế khi thấy nó, trông nó vẫn buồn cười lắm. Để mua vui, hắn thách Otto đua. Hắn cá hai trăm mark ăn hai mươi nếu Koster nhanh hơn chiếc xe thể thao mới toanh của hắn, đường đua mười cây số, chấp Otto một. Nhưng Otto còn bảnh hơn. Anh ấy không nhận chấp và muốn nâng tiền cược lên một ngàn mark cho cả hai bên. Bollies, hớn hở, đề nghị chở anh đến bịnh viện tâm thần lập tức. Mọi người cười ầm, sẳn sàng cho trò vui. Koster lẳng lặng phản ứng bằng cách mở máy xe. Hai người ra đi để tranh thắng bại. Bollwies trở về, thất thần như vừa nhìn thấy một con rắn biển, và viết chi phiếu trả tiền và rồi thêm một chi phiếu khác. Hắn muốn mua chiếc xe ấy lập tức. Nhưng Koster chỉ cười mũi. Anh không bán nó với bất cứ với giá nào. Bề ngoài xe trông xấu xí, nhưng bên trong, mọi thứ đều tinh khôi. Cho việc lái xe hàng ngày, chúng tôi đã tái sử dụng một thùng xe kiểu xưa nhưng ngẫu nhiên vừa vặn; lớp sơn đã tróc, mấy miếng chắn bùn sứt mẻ và nắp xe cũ mười năm. Lẽ đương nhiên chúng tôi thừa sức làm tốt hơn. Nhưng chúng tôi có lý do để không làm vậy.
"Karl," chúng tôi đặt tên thánh cho nó --Karl, con Ma Xa lộ.
° Chúa Trời
°° Quyền Huynh Thế Phụ
Karl thở phì phò trên xa lộ.
"Otto," tôi nói, "nạn nhân đến kìa."
Đàng sau chúng tôi, một chiếc Buick to kềnh nóng nảy bóp còi. Nó nhanh chóng vượt qua. Chẳng mấy chốc, hai bộ tản nhiệt đã sánh vai. Người đàn ông ngồi sau tay lái ném một cái nhìn lơ đãng sang chúng tôi. Đôi mắt của hắn khinh khỉnh lướt qua thằng Karl tồi tàn. Rồi hắn nhìn về hướng khác -- và quên bẳng chúng tôi.
Vài giây sau hắn không thể nào không nhận thấy là Karl vẫn chạy song song không thua nửa bước. Hắn cựa mình ngồi thẳng, nhìn chúng tôi một cách thú vị, và nhấn ga. Karl vẫn không chịu thua. Nhỏ nhắn và nhanh nhẹn như một con terrier cạnh con bloodhound, Karl giữ vững vị trí của nó bên cạnh cỗ máy bóng lộn nước sơn và kền.
Người đàn ông ghì chặt tay lái. Vẫn không một chút nghi ngờ, hắn ngạo nghễ nhìn chúng tôi. Hắn quyết định, rõ ràng như thế, cho chúng tôi biết xe của hắn có khả năng ra sao. Hắn đạp ga mạnh đến nỗi ống thải khí rít lên ầm ỉ. Nhưng không ích gì. Hắn không thể nào nhanh hơn. Karl, kín đáo và đáng ghét, vẫn bám dính.
Người đàn ông nhìn chúng tôi, kinh ngạc. Hắn không thể tin nỗi mắt mình -- vận tốc trên sáu mươi dặm một giờ mà vẫn không bỏ rơi được cái xe lộc xộc cổ tích này! Hắn liếc nhìn đồng hồ tốc độ của xe mình, bối rối -- hẳn có một điều gì không ổn. Hắn cho cô nàng xả hết tốc lực.
Hai chiếc xe kèn cựa bên nhau trên đoạn đường thẳng. Được mấy trăm mét, một chiếc xe vận tải lọc xọc chạy tới. Chiếc Buick phải lùi lại, nhường chỗ. Vừa khi cô nàng trườn tới, một chiếc xe tang lù lù hiện ra, ruy-băng của các vòng hoa phất phơ trong gió; một lần nữa, cô nàng phải lui lại. Sau đó đường mở ra thênh thang.
Khi ấy người đàn ông đã mất đi vẻ kiêu kỳ; tức tối, môi mím chặt, hắn ngã người ra phía trước -- máu đua xe đã bốc và giờ đây cuộc đời hắn tùy thuộc vào chuyện không để cho chú cẩu lai tạp, nhỏ bé của chúng tôi đánh bại.
Về phần mình, chúng tôi ngồi im thin thít trên ghế. Với chúng tôi, đơn giản là chiếc Buick không tồn tại. Koster bình thản canh chừng con đường trước mặt; Lenz, cho dù rất kích động, cầm một tờ nhật báo đọc, như không có gì đáng hơn để làm.
Vài phút sau, Koster nháy mắt với chúng tôi. Một cách vô cùng tinh tế, thằng Karl giảm dần tốc độ và nàng Buick rướn tới. Những miếng chắn bùn bóng bẩy, nở nang của nó lướt qua. Ống thải khí phả khói xanh vào mặt chúng tôi. Từng chút từng chút, hắn đã bỏ xa -- mười chín mét -- rồi, như chúng tôi tiên đoán, gương mặt đỏ lựng đẫm mồ hôi nhưng hạnh phúc, gương mặt của ông chủ xe, hiện ra ở khung cửa và một nụ cười vinh quang toe toét nở. Hắn nghĩ rằng mình đã thắng.
Nhưng hắn không dừng lại ở đấy; hắn không thể bỏ lỡ cơ hội phục hận. Hắn vẫy tay -- hững hờ, như người thắng trận.
"Otto," Lenz cảnh cáo.
Nhưng anh không cần phải lên tiếng; ngay lúc ấy Karl vọt tới. Máy xe gầm rú. Và bất thình lình cánh tay vẫy chào ở khung cửa biến mất -- Karl đã đáp lại lời mời; nó đã đến. Nó phóng, vững vàng đều đặn cho đến phút cuối, khi chúng tôi giành được phần đất đã mất; và rồi lần đầu tiên chúng tôi chú tâm đến kẻ lạ. Trong nỗi hiếu kỳ trong trắng, chúng tôi quan sát người ngồi sau tay lái, như muốn biết vì sao hắn lại ra tín hiệu. Nhưng hắn vẫn hướng ánh mắt về chỗ khác; và Karl, thằng bé lêu lỏng đầu đường xó chợ, bụi đường dính khắn, những miếng chắn bùn đập phành phạch, đã bỏ xa hắn với tốc độ siêu đẳng.
"Otto, lái hay tuyệt," Lenz nói với Koster. "Tối nay thế nào cũng có người ăn không ngon. "
Cuộc rượt đuổi là lý do khiến chúng tôi không cải biến bề ngoài của Karl. Chỉ cần Karl xuất hiện trên đường phố là có người bị khiêu khích. Đối với những loại xe khác, Karl là con quạ tật nguyền trước lũ mèo háu đói. Ngay cả những loại xe gia đình hiền hòa nhất cũng cảm thấy kích động muốn qua mặt; trước cảnh một cỗ xe cũ rích, cà rịch cà tang, lạng lờ khi trước mặt, khi sau lưng, ngay cả những con hải ly điềm đạm nhất cũng nổi máu rượt bắt. Bởi lẽ có ai biết được, dưới bề ngoài quái đản ấy, một trái tim đua tranh vĩ đại đang thổn thức?
Lenz nhấn mạnh tính chất giáo dục của Karl; nó dạy người ta biết tôn trọng đúng mực tài sáng tạo, một thứ luôn ẩn nấp dưới bề ngoài không thấm nhiễm bởi thành kiến. Ít nhất cũng như thế, Lenz nói -- anh cũng tự cho rằng, mình là người lãng mạn cuối cùng còn sót lại.
Chúng tôi ngừng trước một lữ quán nhỏ và bước xuống. Buổi chiều đẹp và yên ả. Trên cánh đồng mới vỡ, rảnh của những luống cày ánh màu tím thẩm; sống ửng màu nâu và vàng óng. Những cụm mây huy hoàng, tựa bầy chim hồng hạc, lênh đênh trên nền trời xanh màu vỏ táo, và mảnh mai ở giữa chúng là vầng trăng lưỡi liềm. Cành hãy còn xơ xác không lá nhưng đã hứa hẹn những mầm non, một bụi cây phỉ ôm ấp buổi chiều và giấc mơ trong vòng tay của nó. Từ lữ quán tỏa ra mùi thơm phưng phức của món gan chiên. Và củ hành. Bụng chúng tôi cồn cào.
Lenz theo mùi thơm lần vào trong. Hài lòng, anh trở ra. "Các cậu cần xem món khoai tây chiên! Nhanh lên, kẻo người ta ăn hết phần ngon bây giờ."
Vừa lúc ấy một chiếc xe êm ái trờ tới. Chúng tôi nhìn. Chính là chiếc Buick. Nó thắng gấp, giật nảy mình bên cạnh Karl.
"Hay thật!" Lenz nói. Mấy lần trước, chúng tôi đã đánh nhau với thiên hạ cũng vì lý do tương tự.
Anh chàng bước xuống. Người to lớn, nặng nề và áo khoác nâu màu lông lạc đà. Mặt không vui, anh ta nhìn Karl thật lâu rồi lấy từ túi ra một đôi găng tay vàng dầy cộp, và bước tới.
"Cậu gọi nó là gì, một phát kiến tân kỳ?" hắn hỏi Koster, đứng cạnh, mặt chảy thiu như một lọ dấm.
Cả ba chúng tôi nhìn anh ta nhưng không trả lời. Rõ ràng anh ta coi chúng tôi như những tay thợ máy diện quần áo láng cóng ngày Chúa Nhật, rong chơi một mình một cõi.
"Anh vừa mới nói gì thế, phải không ?" cuối cùng Otto nói, làm ra vẻ ngờ vực, để cho hắn biết cách ăn nói lịch sự hơn một chút.
Anh chàng đỏ mặt. "Tôi hỏi về cái xe đàng kia." anh ta ủng oẳng trả lời, hệt như lần trước.
Lenz đứng thẳng người lại. Cái mủi to của anh giần giật. Anh đặc biệt chú trọng tới sự lễ độ của người khác. Nhưng trước khi anh kịp mở miệng, đột nhiên, như bởi một bàn tay vô hình, cánh cửa phía hành khách của chiếc Buick mở ra -- một bàn chân xinh xắn đặt xuống đất, một dáng chân thon, tiếp đến là đầu gối -- rồi một thiếu nữ bước ra và chậm rãi đi về phía chúng tôi.
Chúng tôi bở ngở nhìn nhau. Chúng tôi không hề biết có người khác trong xe. Lenz đổi thái độ ngay lập tức. Nụ cười bừng nở trên gương mặt đầy tàn nhang của anh. Thình lình tất cả chúng tôi đều mỉm cười -- tại sao, chỉ có Trời biết.
Anh béo nhìn chúng tôi, chưng hửng. Anh ta bối rối và rõ ràng không biết tình thế đang biến chuyển ra sao.
"Binding," cuối cùng anh nói, hơi cúi mình, như thể cái tên ấy là thứ duy nhất anh còn biết chắc.
Cô gái đã đến gần. Chúng tôi tỏ ra thân thiện hơn.
"Giới thiệu cái xe đi, Otto," Lenz nói, liếc thật nhanh Koster.
"Sao lại không?" Otto trả lời, với một tia sáng lấp lánh, hài lòng trong đôi mắt.
"Tôi rất mong được xem qua," Binding nói, giọng hòa hoàn hẳn ra. "Chắc nó phải chạy nhanh thần tốc. Vừa mới hạ tôi đo ván kia mà."
Hai người băng ngang sân đến bải đậu xe và Koster dở nấp xe lên.
Cô gái không đi theo. Mảnh khảnh và lặng lẽ, nàng đứng cạnh Lenz và tôi trong ánh hoàng hôn. Tôi nghĩ Gottfried sẽ chớp lấy thời cơ và bắng nhắng như một trái bom. Những trường hợp này rất thích hợp với anh. Thế nhưng dường như anh mất đi khả năng phát ngôn. Bình thường anh có thể xun xoe như một chú gà tây --nhưng bây giờ anh chỉ đứng, không nhúc nhích, như một sư huynh dòng Carmel đang nghĩ phép.
"Xin cô tha lỗi cho chúng tôi," cuối cùng tôi nói. "Chúng tôi không thấy cô ngồi trong xe. Nếu biết, chúng tôi đã không hành động kỳ cục như thế."
Cô gái nhìn tôi. "Nhưng tại sao lại không nhỉ?" nàng bình thản trả lời, giọng trầm đục không ngờ. "Làm như thế có gì xấu đâu chứ."
"Không xấu; nhưng thiếu công bình. Xe đó có thể đạt tới vận tốc khoảng hai trăm kí lô mét một giờ."
Nàng hơi nghiêng mình tới trước và cho hai tay vào túi áo khoác. "Những hai trăm kí lô mét?" nàng hỏi.
"Một trăm tám mươi chín phẩy hai, nói chính xác, theo sổ đăng ký." Lenz trả lời, hảnh diện như một khẩu súng vừa khai hỏa.
Nàng cười."Thế mà chúng tôi nghĩ chỉ chừng sáu mươi hay bẩy mươi."
"Vậy cô đã thấy," tôi nói, "cô không tài nào biết được, phải không?"
"Không," nàng đáp, "chắn chắn chúng tôi không thể đoán biết. Chúng tôi nghĩ chiếc Buick chạy nhanh gấp đôi xe của các anh."
"Có thể là như thế," Tôi lấy chân đá một cành cây khô sang bên. "Nhưng chúng tôi có một lợi thế lớn. Tôi e là Herr Binding đàng ấy khá bực mình với chúng tôi."
Nàng cười to lần nữa. "Vâng, trong một lúc, dĩ nhiên. Nhưng người ta thỉnh thoảng cũng phải biết cách bỏ qua."
"Đúng thế."
Một khoảng im lặng. Tôi liếc Lenz. Nhưng chàng trai lãng mạn cuối cùng chỉ nhe răng cười, chun mũi, và để mặc tôi bì bỏm lội.
Những cây bạch dương xào xạc lá. Đàng sau quán, một con gà trống gáy vang rân.
"Thời tiết đẹp quá," cuối cùng tôi nói để phá vỡ im lặng.
"Vâng, tuyệt vời," nàng đáp.
"Và êm dịu lắm," Lenz thêm vào.
"Êm dịu một cách khác thường," tôi bổ sung.
Một khoảng im lặng theo sau. Hẳn nàng phải nghĩ, chúng tôi là một đôi cừu già ngon sơi; nhưng ý chí mạnh nhất thế giới cũng không giúp tôi nghĩ ra được chuyện gì để nói. Lenz đánh hơi.
"Nước sốt táo," anh đoán. "Sẽ có nước sốt táo dọn kèm với gan, rõ ràng thế. Món ngon đấy."
"Hẳn thế," tôi tán đồng và tự nguyền rủa hai đứa.
Koster và Binding quay lại. Chỉ vài phút thôi, thế mà Binding đã biến thành một người khác. Trông anh rạng ngời như đang bay trên chín tầng mây, hẳn vì đã tìm thấy một chuyên gia, trong Koster. Anh hỏi chúng tôi có muốn ăn tối chung với bọn anh không.
"Dĩ nhiên," Lenz đáp.
Chúng tôi đi vào lữ quán. Ngang qua cửa, Lenz nheo mắt với tôi và hất đầu về hướng cô gái."Cô ấy bù cho mười bà phù thủy già múa may hồi sáng."
Tôi nhún vai. "Có thể lắm -- nhưng trong trường hợp ấy, sao cậu để một mình tớ cà lăm, cà lập như thằng ngốc vậy?"
Anh cười. "Bé ơi, đôi khi cưng phải học bơi một mình."
"Tớ chả muốn học gì sất," tôi nói.
Chúng tôi theo chân họ. Họ đã ngồi vào bàn. Cô hầu bàn nhanh nhẩu mang gan và khoai tây chiên đến. Cô cũng đem ra một chai to whiskey lúa mạch đen để khai vị.
Binding tỏ ra là một tay ăn nói lão luyện. Thật lạ lùng, anh có thể thao thao bất tuyệt về những đề tài có liên quan đến xe cộ. Khi biết Otto thực sự đua xe, thiện ý của anh lại càng không giới hạn.
Tôi nhìn kỹ. Anh là một chàng trai to lớn với lông mày rậm trên gương mặt hồng hào; khoe khoang một ít, ồn ào một ít, và rõ ràng là dễ dãi hiền hòa, như những người đã thành đạt trong đời. Tôi có thể hình dung ra anh, buổi tối trước khi đi ngủ, trịnh trọng, hài lòng, khi chiêm nghiệm về mình trước gương.
Cô gái được xếp ngồi giữa Lenz và tôi. Nàng cởi áo choàng và bên dưới là bộ đầm xám kiểu Anh. Một chiếc khăn quàng trắng ôm khít khao quanh cổ như bâu áo. Mái tóc nâu và óng ả như tơ và dưới ánh đèn, ánh màu hổ phách. Đôi vai gầy hơi nghiêng ra trước, bàn tay thon, khá dài và xương xẩu hơn là mềm mại. Mặt hẹp và xanh xao, nhưng cặp mắt to đem đến một sức mạnh gần như đam mê. Nàng xinh lắm, tôi thấy thế -- nhưng tôi không nghĩ gì khác hơn.
Ngược lại, Lenz sôi nổi, nồng nhiệt. Anh hoàn toàn khác hẳn với con người cũ của mình, mới đây không lâu. Bờm tóc hoe vàng của anh óng ánh như mào một con chim đầu rìu. Anh tuôn ra những câu nói đùa duyên dáng và cùng với Binding, thống lĩnh bàn ăn. Tôi chỉ việc ngồi bên và không thể làm điều gì cho người ta chú ý đến -- cùng lắm chỉ là một lần chuyền đĩa thức ăn hay mời thuốc lá. Và chạm cốc với Binding. Tôi làm thế khá nhiều lần.
Lenz chợt vỗ tay lên trán: "Rum! Bob, ra lấy mấy chai rum sinh nhật."
"Sinh nhật? Sinh nhật của ai thế?" cô gái hỏi.
"Sinh nhật của tôi," tôi nói. "Tôi khổ vì nó cả ngày hôm nay."
"Khổ? Vậy, chắc anh không muốn tôi chúc mừng đâu nhỉ, phải không?"
"Ô, muốn chứ," tôi nói; "chúc mừng lại là chuyện khác."
"Tốt lắm, vậy xin chúc anh tất cả những gì tốt đẹp nhất."
Trong một thoáng, tôi giữ tay nàng và cảm thấy sức ép, ấm và khô, của nó. Rồi tôi ra ngoài lấy những chai rum. Đêm mông mênh, tĩnh mịch quanh căn nhà nhỏ. Ghế da của xe chúng tôi ẩm hơi sương. Tôi đứng nhìn về phía chân trời, nơi quầng sáng màu đỏ của đô thị hắt lên. Tôi sẽ vui lòng đứng mãi ở đây; thế nhưng tôi nghe tiếng Lenz gọi.
Binding không uống được rum. Sau cốc thứ nhì ta có thể nhận thấy điều đó. Anh ra ngoài vườn, lảo đảo. Tôi đứng lên và đi với Lenz đến quầy rượu. Anh gọi một chai gin.
"Một cô gái tuyệt vời, hén?" anh nói.
"Đừng hỏi tớ, Gottfried," tôi đáp. "Tớ chẳng để ý gì mấy tới cô ấy."
Anh chăm chú nhìn tôi một lúc với đôi mắt xanh màu hoa diên vỹ và rồi lắc mái đầu óng ả. "Vậy cậu sống để làm gì, hở bé cưng?"
"Tớ cũng hỏi mình câu ấy từ lâu lắm rồi," tôi đáp.
Anh cười. "Tớ đoán, cậu muốn tớ nói cho cậu biết chứ gì. Hừm, tớ sẽ không nói đâu, chỉ vậy thôi nhé. Nhưng tớ nghĩ, tớ sẽ cố tìm hiểu xem cô ấy là gì của Bé Bự, thằng chả rành tất cả mọi thứ về xe cộ, y như một quyển tự điển sống."
Anh theo Binding ra vườn. Một lúc sau, cả hai cùng trở lại quày rượu. Tin tức phải tốt đẹp, vì Gottfried, chắc là thấy con đường thênh thang rộng mở, quá vui mừng nên đã sốt sắng kết thân với Binding. Hai người gọi thêm một chai gin mới, và một giờ sau đó, đã vỗ vai nhau như đôi tri kỷ. Lenz luôn luôn toát ra một thứ gì đó rất duyên dáng, vì thế khó có ai cưỡng lại sức hấp dẫn của anh khi anh đang vui. Thật tình mà nói, trong những lúc này, anh còn không cưỡng lại được chính mình nữa là. Đơn giản rằng anh đang ồ ạt lôi cuốn Binding và chẳng bao lâu, hai người đã kéo nhau ra góc sân dưới dàn dây leo, hò hát những bài nhạc lính. Và trong khi ấy, cô gái đã quên mất chàng trai lãng mạn cuối cùng.
Chỉ còn lại ba người trong phòng khách của lữ quán. Không gian đột nhiên yên tỉnh. Đồng hồ cuckoo tíc tắc. Cô hầu bàn đã thu dọn xong và nhìn chúng tôi trìu mến như mẹ hiền. Một con chó săn lông nâu nằm xoãi trước lò sưởi. Thỉnh thoảng nó lại ngắt ngứ sủa trong mơ, giọng êm, thanh và áo não. Ngoài cửa sổ, gió thổi lướt thướt. Từng khúc nhạc lính thoang thoảng lùa vào; căn phòng nhỏ dường như nâng chúng tôi lên và cùng nhau bềnh bồng qua đêm thâu và qua năm tháng, qua những hồi niệm và những thứ đã nửa vời quên lãng.
Đó là một cảm giác lạ. Thời gian như lắng đọng -- không còn là một dòng sông chảy từ miền đen tối rồi quay trở về -- nó là một hồ nước, trong đó cuộc đời lặng lờ soi bóng. Tôi nâng ly rượu. Rum lóng lánh. Tôi nghĩ đến bản kết toán của tôi sáng hôm ấy ở xưởng sửa xe. Tôi đã buồn rầu chán nản. Tôi không còn buồn nữa. Tôi nhìn Koster. Tôi nghe anh trò chuyện với cô gái; nhưng tôi không ghi nhận những lời họ nói. Tôi cảm thấy hơi ấm ban đầu của cơn say làm nóng dần huyết quản và lan tỏa ảo giác phiêu lưu. Bên ngoài, Lenz và Binding đang hợp ca bài Argonnerwald. Cạnh tôi, người con gái chưa quen đang nói -- êm ái và chậm rãi, bằng một giọng trầm, kích thích, và hơi khàn đục. Tôi uống cạn ly.
Hai người kia trở vào. Họ đã tỉnh rượu phần nào nhờ không khí thoáng mát. Chúng tôi chia tay. Tôi giúp nàng mặc áo khoác. Nàng đứng ngay trước tôi, đôi vai nhích khẻ để đón nhận chiếc áo, đầu hơi ngã ra sau và quay sang một bên, môi hé mở một nụ cười về phía trần nhà không dành cho ai cả. Tay tôi chùng xuống một giây. Mắt tôi để đâu suốt thời gian này cơ chứ? Tôi chợt hiểu sự nhiệt tình của Lenz.
Nàng xoay nửa người lại, dò hỏi. Tôi lập tức nâng chiếc áo khoác lên và liếc nhìn Binding, đứng cạnh bàn ăn, đỏ hồng như quả anh đào và vẫn còn chút ánh đờ đẫn trong đôi mắt.
"Cô có nghĩ anh ấy đủ tỉnh táo để lái xe không?" tôi hỏi.
"Tôi tin là có."
Tôi chăm chú nhìn nàng. "Nếu anh ấy không ổn mấy, một trong ba đứa tôi có thể đưa cô về."
Nàng cầm hộp phấn lên và mở nấp. "Không sao đâu," nàng nói."Nếu uống một chút gì đó, anh ấy lái xe còn cừ hơn."
"Lái cừ hơn, nhưng có thể không an toàn cho lắm," tôi trả lời.
Nàng nhìn tôi qua bờ gương nhỏ.
"Cầu trời cho mọi chuyện được bình an," tôi nói. Phản ứng của tôi có phần thái quá, bởi cách đứng của Binding cũng không tệ. Nhưng tôi muốn làm một điều gì đó để nàng đừng biến mất vào hư không.
"Có thể nào tôi gọi điện cho cô, sáng mai không chừng, để hỏi thăm, được không?"
Nàng không trả lời.
"Tôi nghĩ chúng tôi cũng có lỗi một phần trong việc nhậu nhẹt say sưa này," tôi nài nỉ. "Đặc biệt là tôi, với rum mừng sinh nhật."
Nàng cười. "Được rồi, nếu anh muốn. Western 2796."
Tôi lập tức ghi lại con số và ra ngoài. Chúng tôi nhìn Binding lái đi và uống ly sau chót. Rồi chúng tôi tháo xích cho Karl. Nó phóng vun vút trong sương mù tháng Ba mỏng mảnh, gió bạt mạnh và hơi thở chúng tôi dồn dập; thành phố tiến gần, dữ dội trong đêm đen, và cuối cùng nổi bật lên trong bóng tối tù mù, như một con tàu đèn đuốc sáng choang vui nhộn, quán "The Bar." Chúng tôi đem Karl đến gần và thả neo. Cognac sáng bóng như vàng, gin long lanh như ngọc biếc và rum, tự nó đã là sự sống. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế cao ở quầy rượu; tiếng nhạc xập xềnh, nhịp đập của cuộc sống rõ và mạnh; nó kiêu hãnh đập trong tim chúng tôi; sự chán chường của những căn phòng bài trí tồi tàn đang chờ đợi, niềm tuyệt vọng của sự sinh tồn, tất cả đều được quên lãng; quày của quán "The Bar" là buồng lái của Thuyền Trưởng con tàu Cuộc Sống, và chúng tôi, một lần nữa lại ra khơi.

Erich Maria Remarque

Chiến hữu

Chương 2


Hôm sau là Chúa Nhật. Tôi ngủ nướng và chỉ dậy khi nắng rọi đến bên giường. Tôi nhanh nhẹn nhảy xuống và mở tung cửa sổ. Bên ngoài trời trong và tươi mát. Tôi đặt cái bếp cồn lên bệ cửa sổ và đem ra hộp cà phê. Frau Zalewski, bà chủ nhà, cho phép tôi được pha cà phê trong phòng. Cà phê của bà rất nhạt -- nhất là khi người ta đã say bí tỉ đêm trước.
Tôi ở trọ nhà bà đã hai năm. Tôi ưa thích địa phương này. Lúc nào cũng có chuyện để làm, vì Phòng Thương Nghiệp, tiệm Café International và Salvation Army Barracks nằm gần nhau như môi với răng. Và ngay trước nhà trọ là một nghĩa trang cũ, không sử dụng nữa. Nhiều cây to bóng mát như ở công viên, và trong những đêm tỉnh mịch, ta có thể tường chừng đang ở thôn quê. Một mặt khác, thường thì phải đến khuya mới có sự yên lặng; vì ngay bên cạnh nghĩa trang là khu giải trí với các vòng ngựa gỗ và thuyền đu.
Đối với Frau Zalewski, nghĩa trang là một tài sản đáng giá. Khi cho thuê phòng, bà thường ca tụng không khí trong lành và tầm nhìn thoáng đãng, và do đó ra giá cao lên. "Nhưng, thưa ông, hãy nghĩ đến lợi thế ấy!" là công thức bất di bất dịch của bà.
Tôi chậm rải mặc y phục. Điều ấy cho tôi cảm giác lười lĩnh của ngày Chúa Nhật. Tôi rửa mặt; tôi thư thả đi quanh phòng, đọc báo, pha cà phê; tôi đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống đường; tôi lắng nghe tiếng chim hót trên đầu ngọn cây ở nghĩa trang đối diện -- những ống tiêu bạc bé bỏng của Thượng Đế, chúng ríu rít phụ họa cho tiếng phong cầm rền rĩ, êm đềm và buồn thảm ở Hội Chợ bên kia. Có khoảng nửa tá áo sơ-mi và vớ, nhưng tôi chọn thật kỹ, như thể tôi có nhiều gấp hai mười lần; vừa huýt sáo tôi vừa lộn trái các túi quần áo -- tiền lẻ, dao xếp, chìa khóa, thuốc lá -- và đây rồi, mẩu giấy có ghi tên và số điện thoại của cô gái. Patricia Hollmann -- một cái tên thánh hiếm gặp, Patricia. Tôi đặt tờ giấy xuống bàn. Có thật chuyện ấy mới xảy ra hôm qua? Dường như đã xa xôi lắm -- gần như đã quên lãng qua hơi rượu xám ngọc. Đó là điều đáng kể của việc chén chú chén anh; nó đưa người ta đến gần nhau rất nhanh, nhưng cũng làm cho khoảng cách giữa đêm và ngày hôm sau dài như những năm trường.
Tôi nhét mẩu giấy dưới chồng sách. Tôi có nên gọi nàng không? Có lẽ có--mà cũng có lẽ không. Sáng hôm sau, ta thường nghĩ khác về những chuyện như thế. Tôi khá hài lòng, thực vậy, có được chút bình yên. Đã có đủ phiền toái trong những năm gần đây. Hãy giữ một khoảng cách an toàn, Koster thường nói. Nếu để cho một điều gì đó thân cận quá, ta sẽ muốn nắm giữ. Mà ta nào có thể giữ được một điều gì.
Vào lúc ấy, sự thù ghét thường lệ của ngày Chúa Nhật bắt đầu ở phòng bên cạnh. Tôi đi tìm cái mũ, có lẽ đã cất kỹ ở một chỗ nào đó đêm qua, và nghe lõm câu chuyện của họ. Đó là Hasse và bà vợ đang lăng mạ lẫn nhau. Suốt năm năm trời, hai người chung sống trong một căn phòng nhỏ hẹp nơi đây. Họ không phải là người xấu. Nếu họ có một căn hộ ba phòng, với gian bếp cho người vợ và thêm một đứa trẻ, có lẽ cuộc hôn nhân của họ đã diễn biến tốt đẹp. Thế nhưng nguyên một căn hộ rất đắt tiền và một đứa trẻ trong thời buổi thiếu an ninh này -- làm sao có được! Cho nên họ đành sống vật vã ở đấy, bà vợ phát cuồng và ông chồng lúc nào cũng thắt thỏm lo bị mất việc. Nếu chuyện ấy xảy ra, đời ông sẽ tàn. Ông đã bốn mươi lăm tuổi. Không ai sẽ mướn, một khi ông bị sa thải. Thật là một bất hạnh thời đại -- trước đây người ta từ từ lắng chìm và luôn luôn vẫn có một cơ hội để ngoi lên -- thế nhưng trong thời buổi này, ở bờ xa bên kia của mỗi lần sa thải, vực thẳm không đáy thất nghiệp kinh niên lại há mõm đón chào.
Tôi cố lẽn ra, nhưng có tiếng gõ cửa và Hasse thất thểu bước vào. Ông gieo mình xuống ghế. Ông là một người hiền lành với đôi vai xuôi và râu mép thưa. Một thư ký nhún nhường, siêng năng. Nhưng nay họ là những người kém may mắn nhất. Có lẽ luôn luôn là thế. Sự khiêm nhường và tính chuyên cần chỉ được tưởng thưởng trong tiểu thuyết. Ngoài đời, họ bị bóc lột rồi quẳng sang một bên.
Hass dơ tay lên. "Có hai người ở văn phòng sẽ bị đuổi. Chắc tôi sẽ là người thứ nhất, cậu nghĩ xem, có phải không."
Từ kỳ lương này đến kỳ lương sau, ông sống trong nỗi lo sợ ấy. Tôi rót cho ông một cốc rượu mạnh.Toàn thân ông run lẩy bẩy. Ta có thể đoán, một ngày nào đó ông sẽ ngã quỵ. Ông không còn một chút sức kháng cự nào.
"Và lúc nào cũng là những câu đay nghiến này," ông khẻ nói.
Bà vợ quy chụp trách nhiệm cho ông, hiển nhiên là thế, về cuộc đời của bà. Bà bốn mươi hai tuổi, da thịt hơi nhão và nhan sắc phai tàn, nhưng dĩ nhiên chưa đến mức tang thương như ông chồng. Bà bị bệnh kinh hoảng phút chót.
Dính líu vào cũng chẳng ích gì.
"Hasse này," tôi nói, "Ông cứ yên lặng ở chơi nơi đây cho tới khi nào cũng được. Tôi phải ra ngoài. Có cognac trong tủ áo, nếu ông muốn. Trong đấy cũng có rum nữa. Mấy tờ báo đây nhé. Rồi chiều nay, dẫn bà ấy đi dạo, chỗ nào cũng được, miễn là ra khỏi ngôi nhà này. Xem chiếu bóng. Không đắt tiền hơn vài giờ ở quán cà phê mà còn một chút gì lưu lại sau đó. Lời vàng ngọc của ngày hôm nay là hãy quên đi, đừng nung nấu trong lòng."
Cửa phòng của họ vẫn mở. Người đàn bà khóc tỉ tê. Tôi đi dài trên hành lang. Căn phòng kế cửa khép hờ. Lắng nghe. Một vầng phấn hương lan tỏa. Erna Bonig, thư ký riêng, sống ở đấy. Quá sang trọng so với đồng lương của chị; nhưng mỗi tuần một ngày, xếp thường đọc văn thư cho chị chép đến sáng. Và hôm sau chị sẽ rất gắt gỏng. Bù lại, chị ra ngoài khiêu vũ mỗi đêm. Khi không khiêu vũ được nữa, chị sẽ không muốn sống làm gì, chị giải thích. Chị có hai người bạn. Một người yêu chị, tặng hoa cho chị. Người kia, chị yêu và đưa tiền cho hắn.
Phòng kế bên thuộc Bá Tước Orlov, bậc thầy kỵ mã, người Nga lưu vong, hầu bàn, phụ diễn phim và điếm đực, râu hai bên má hoa râm. Thiên tài chơi ghi-ta. Mỗi đêm ông cầu nguyện Đức Mẹ Kasan ban cho một chân tiếp tân ở một khách sạn sang bậc nhất; và ông thường khóc khi say.
Phòng kế. Frau Bender. Y tá ở viện nuôi trẻ mồ côi. Năm mươi tuổi; chồng chết trong chiến tranh; hai con chết vì suy dinh dưỡng, năm 1918. Có một con mèo tam thể. Con mèo duy nhất của cả nhà.
Tiếp đó -- Muller, kế toán viên đã về hưu, biên tập cho tạp chí của một hội chơi tem. Một bộ sưu tập tem biết đi, không có gì khác hơn. Một người hạnh phúc.
Tôi gỏ cánh cửa cuối cùng. "Này, Georg," tôi nói, "vẫn không có gì mới hả?"
Georg Block lắc đầu. Anh ấy là sinh viên học kỳ thứ tư. Để đeo đuổi việc học, anh đã làm thợ mỏ trong hai năm. Hiện nay, số vốn dành dụm gần cạn; chỉ còn đủ tiền mua thực phẩm trong hai tháng. Anh không thể trở lại mỏ -- có quá nhiều công nhân mỏ thất nghiệp. Anh cố làm đủ nghề vặt để kiếm thêm. Có lần, anh dành nguyên một tuần giao hóa đơn cho một hảng sản xuất bơ thực vật, và rồi hảng phá sản. Ngay sau đó, anh tập tành bán báo và tưởng là dễ thở. Chỉ ba ngày sau, hai tay buôn có môn bài đã tấn công, xé bỏ tất cả báo của anh, và cảnh cáo anh không được để chúng thấy anh ở địa bàn của chúng thêm một lần nữa. Đủ lắm rồi, họ cũng chật vật như anh, nào có khác. Hôm sau anh lại đi, dù phải trả tiền cho số báo đã mất ngày trước. Một người lái mô tô tông phải anh, và báo văng tứ tung xuống bùn. Thế là đi đời thêm hai đồng mark. Anh cố gắng lần thứ ba, chỉ để về nhà với tấm áo khoác rách bươm và mặt mày sưng húp. Thế là anh bỏ cuộc. Nay anh ngồi nhà cả ngày trong tuyệt vọng, học như hóa rồ, như thể việc học có đưa đến một lợi ích nào. Anh chỉ ăn mỗi ngày một bửa. Thế nhưng hoàn tất việc học hay không cũng chẳng có gì khác biệt -- nếu như thi đỗ, ít nhất cũng phải mười năm anh mới hy vọng tìm được việc làm.
Tôi đưa anh một bao thuốc lá. "Sao không bỏ cho rồi, hở Georgie? Tớ đã, như cậu biết. Sau này nếu muốn, ta học lại mấy hồi."
Anh lắc đầu. "Không, nếu không kiên trì ta sẽ đánh mất những kỷ năng đã có. Tớ hiểu như thế, nhờ làm thợ mỏ. Tớ không thể làm việc ở mỏ một lần nữa."
Gương mặt xanh xao, đôi tai vễnh to, ánh mắt cận thị ngây dại, thân hình tiều tụy, ngực lép kẹp-- lạy Chúa tôi!
"Thôi thì chúc anh may mắn, Georgie."
Và tiếp đến là nhà bếp. Đầu lợn lòi --quà của Zalewski, người quá cố. Điện thoại. Bóng tối nửa vời. Mùi ga và mỡ lâu ngày hăng hắc. Cửa mở vào hành lang, với nhiều danh thiếp gắn cạnh nút chuông. Danh thiếp của tôi, một trong số đó, ghi: Robert Lohkamp, sinh viên ban triết, bấm hai chuông dài. Tấm thiệp cáu bẩn và ố vàng theo thời gian. "Sinh viên ban Triết." Oách nhỉ. Ngày xưa, có như thế. Tôi xuống cầu thang, đi ra quán Café Internatiional.
International là một lổ hổng dài, tối thui, tù mù khói thuốc, với nhiều phòng ở cuối nhà. Gần cửa ra vào, cạnh quày rượu là cây đàn dương cầm. Thật đáng buồn vì nó sai giọng, có nhiều dây chùng và long mất vài phím trắng. Nhưng tôi rất mến nó vì tất cả những khiếm khuyết ấy. Nó là con ngựa già tàn tật, đã chia sẻ ít nhất một năm của cuộc đời tôi, bởi đây là chỗ tôi được thuê để chơi đàn.
Các gian phòng phía sau, những tay chăn gia súc thỉnh thoảng tụ tập ở đó, cũng như khách vãng lai từ công viên giải trí. Các cô gái điếm thường ngồi gần cửa.
Phòng rượu vắng tanh, trừ Alois, người bồi có gan bàn chân phẳng dẹp, đứng sau quày. "Như thường lệ?" anh hỏi.
Tôi gật đầu. Anh mang đến một cốc rum. Tôi ngồi xuống bàn và nhìn mông lung vào khoảng không trước mặt. Một dãi ánh sáng xám rọi xéo qua ô cửa sổ trên cao, phản chiếu trên những chai rượu mạnh cài trên giá. Brandy anh đào lấp lánh như hồng ngọc.
Alois tiếp tục tráng rửa ly cốc. Con mèo của bà chủ quán rù rù trên mặt dương cầm. Tôi chậm rãi rít mấy hơi thuốc. Không khí làm cho người ta ngầy ngật... Hôm qua, cô ấy có giọng nói đặc biệt làm sao! Hơi khàn một chút, có lẽ thế, nhưng mà, cũng dịu dàng.
"Đem cho chúng tôi mấy tờ báo, Alois," tôi nói.
Cửa mở kẻo kẹt. Rosa bước vào. Rosa, cô gái điếm ở nghĩa trang, còn được gọi là "con ngựa sắt" -- tên thân mật mô tả tính bất khuất của chị. Chị ấy đến, như thói quen mỗi sáng Chúa Nhật, uống một cốc sô-cô-la. Sau đó, chị sẽ đi Burgdorf thăm con.
"Chào em, Robert."
"Chào Rosa. Con gái chị khỏe không?"
"Chút nữa sẽ biết. Đây --nhìn cái này." Từ một bọc giấy, chị rút ra một con búp bê má đỏ hây hây, và lấy tay ấn lên bụng nó. "Mama," con búp bê thỏ thẻ, nét mặt Rosa bừng sáng.
"Hay nhỉ," tôi nói.
"Đã xong đâu, đợi đấy," chị ngửa con búp bê ra sau. Đôi mắt nó cụp lại, một tiếng 'cách' vang lên khe khẻ.
"Ơ, em không ngờ!"
Rosa sung sướng, sẳn sàng gói con búp bê lại. "Robert, em hiểu những việc này. Chị có thể thấy. Một ngày nào đó, em sẽ là một người cha tốt."
"Chị nghĩ thế à?" tôi nói, hoài nghi.
Rosa hết lòng sống vì con. Cho đến ba tháng trước đây, khi con bé chưa biết đi, chị còn giữ nó trong phòng. Chị có thể làm được điều ấy, mặc dù nghề nghiệp của mình, nhờ khéo sử dụng một tủ áo nhỏ kế bên phòng chị. Đêm đêm khi trở về với người tình, chị thường viện một lý do nào đó để hắn chờ bên ngoài, trong khi chị vào nhà, hộc tốc đẩy xe em bé vào trong tủ áo, đóng lại; rồi quay ra đón khách. Nhưng trong tháng Mười Hai, con bé thường bị đẩy từ căn phòng ấm của mẹ vào tủ áo không sưởi, nên nhiễm lạnh và khóc toáng vào những lúc mẹ nó cần tiếp khách.
Rất khó khăn cho Rosa xa rời con. Chị gửi nó ở một nhà trẻ đắt tiền, nơi ấy chị đóng vai một bà góa đáng kính-- nếu người có thẩm quyền biết sự thật, họ không đời nào chấp nhận đứa trẻ.
Rosa đứng lên. "Thứ Sáu em đến, chắc nhé?"
Tôi gật đầu.
Chị nhìn tôi. "Em biết lý do, phải không?"
"Tất nhiên."
Tôi không có một ý niệm nào; nhưng tôi không hỏi. Đánh đàn chỗ ấy trong năm đó, tôi có quy tắc của mình. Như thế là tốt nhất. Cùng một nguyên tắc, tôi đối xử với tất cả các cô gái bằng một thái độ thân thiện như nhau. Tôi không thể làm khác hơn, ở vị thế của mình.
"Au revoir, Robert."
"Cheerio, Rosa."
Tôi nán lại một lúc. Với tôi, International gần như là chỗ nghĩ ngơi thanh tẩy, thế nhưng hôm nay, vì một lý do nào đó, tôi không đạt được trạng thái mơ màng bình yên thường có những ngày Chúa Nhật. Tôi uống thêm một ly rum, vuốt ve con mèo và bỏ đi.
Cả ngày tôi rong ruỗi khắp thành phố. Tôi không biết vì sao tôi cảm thấy bất an. Tôi bức rức không dừng lại một chỗ nào đủ lâu. Buổi chiều sắp tàn, tôi ghé xưởng sửa xe. Koster đang cắm cúi với chiếc Cadillac. Cách đây không lâu, chúng tôi mua nó với giá rẻ như bèo. Nó đã được tu sửa toàn diện và Koster sắp tô điểm những nét chấm phá cuối cùng. Đó là một sự đầu tư liều lĩnh. Chúng tôi hy vọng sẽ có lời, nhưng tôi không chắc tìm được người mua. Trong thời buổi khó khăn, người ta thường muốn xe nhỏ, không phải một chiếc to kềnh thế này.
"Tớ sợ mình sẽ kẹt với nó, Otto," tôi nói.
Nhưng Koster đầy hy vọng. "Chính xe cở trung mới bị kẹt, Bob ạ," anh giải thích. "Có thị trường cho loại xe rẻ tiền, và cũng có thị trường cho loại xe hạng sang. Vẫn còn rất nhiều người giàu có; hoặc những người thích phô trương."
"Gottfried đâu rồi?" tôi hỏi.
"Đi họp chính chị, chính em."
"Cái ông điên. Thế anh ấy muốn gì ở những nơi đó?"
Koster cười lớn. "Tớ nghĩ, anh ấy cũng chẳng biết. Một chút mùa xuân khơi động bầu nhiệt huyết. Và hẳn là anh ấy luôn luôn chơi trò đuổi bắt những điều mới lạ."
"Có lẽ thế," tôi nói. "Cậu có cần tớ làm gì không?"
Chúng tôi hí hoáy với chiếc xe cho đến khi trời tối không thấy gì được nữa. "Tớ nghĩ như thế đủ rồi, ta về thôi," Koster nói. Chúng tôi gột rửa dầu mỡ. "Đố cậu, tớ có cái gì đây," anh nói, vỗ vào cái ví da trong túi.
"Ai mà biết."
"Vé xem đấu quyền Anh tối nay. Hai vé. Đi nhé?"
Tôi ngần ngừ. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên.
"Stilling so găng với," anh nói, "Walker. Một trận gay cấn đấy."
"Cậu đi với Gottfried đi," tôi đề nghị, cảm thấy mình là thằng khờ vì không đi xem đấu võ. Nhưng không hiểu sao, tôi chẳng thấy tha thiết.
"Cậu có sao không?"
"Không."
Anh nhìn tôi.
"Chắc tớ về nhà," tôi nói. "Cần viết thư và làm vài thứ lặt vặt. Đôi khi ta phải ..."
"Cậu không bệnh chứ?" anh hỏi, lo lắng.
"Không bệnh một tị nào. Có lẽ, cũng có một chút xuân thì khơi lòng nao nức."
"Thôi được. Tùy cậu."
Tôi rảo bước về nhà. Một lần nữa, tôi ngồi trong phòng và không nghĩ ra được điều gì muốn làm. Tôi đứng dậy, bước loanh quanh. Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao tôi muốn về. Cuối cùng, tôi bước ra hành lang, ghé thăm Georg. Trên lối đi, tôi chạm mặt Frau Zalewski.
"Chèng đéc ơi!" bà nói, ngạc nhiên. "Cậu đấy à?'
"Làm sao chối được," tôi nói, hơi bực mình.
"Không lông nhông ở ngoài đường!"" Bà lúc lắc mái tóc bạc uốn lọn. "Một kỳ quan, trong những kỳ quan!"
Tôi không ở chơi lâu với Georg. Mười lăm phút sau tôi đã quay về. Tôi lưỡng lự, không biết có nên uống một cốc rượu hay không. Tôi không thấy thèm. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngắm nhìn đường phố.
Hoàng hôn buông nhanh xuống những cánh dơi chấp chới bên kia nghĩa trang. Nền trời phía sau Phòng Thương Nghiệp xanh như màu táo non. Đèn đường đã thắp, dù trời chưa tối hẳn -- trông chúng như đông đá. Tôi lần tay dưới chồng sách, tìm mảnh giấy có ghi số điện thoại. Cuối cùng rồi . . . Gọi điện thoại chắc cũng không hại gì. Dù sao đi nữa, hầu như tôi đã hứa. Vả lại, không chừng cô ấy vắng nhà.
Tôi bước ra hành lang, chỗ có điện thoại, cầm ống nghe và gọi tổng đài. Trong lúc chờ đợi, tôi cảm thấy một cảm giác hy vọng dễ chịu trào dâng và ứa ra ở đầu cái ống nghe màu đen. Nàng có nhà. Rồi khi một giọng nói rất trầm và hơi khàn đột nhiên cất lên như bóng ma trong mùi mỡ và tiếng bát đĩa lanh canh từ phòng khách của Frau Zalewski -- một giọng nói từ tốn, như nghĩ ngợi từng chữ -- tất cả nỗi niềm băn khoăn của tôi tan biến. Tôi gác ống nghe, sau khi đã hẹn gặp nàng vào ngày mốt. Thình lình, cuộc đời dường như không còn vô nghĩa nữa. "Mình điên thật," tôi nghĩ, lắc đầu.
Rồi tôi lại cầm ống nghe lên và gọi Koster.
"Otto, cậu còn dư vé không ?"
"Còn."
"Tốt lắm. Vậy tớ đi."
Sau đó, chúng tôi lang thang rất lâu trong thành phố. Những con đường, dù sáng sủa, nhưng hoang vắng. Bảng hiệu neon và đèn ở các cửa hàng thắp lên vô ích. Những tượng sáp bên trong cửa sổ một gian hàng, đầu tô vẽ, phô mình trần trụi. Trông chúng ma quái và bệnh hoạn. Nữ trang lấp lánh trong cửa kính gian hàng kế bên. Rồi một tiệm bách hóa, sáng choang, trắng lốp, nổi bật như giáo đường, tơ lụa màu sắc tươi vui như bọt biển trong cửa kính. Nhiều tượng người xanh xao, hao gầy dựng trước một rạp chiếu phim; và dọc theo đó, một cửa hàng thực phẩm phô bày sự huy hoàng của nó: trái cây đóng hộp chất cao như tháp, đào tiên nằm trong vĩ lót, ngỗng béo xỏ trên dây như phơi quần áo, các ổ bánh mì nâu xếp giữa thịt nguội và xúc xích gia vị cầu kỳ, và, ở trung tâm tất cả, pa-tê gan và cá hồi cắt lát, hồng mượt và vàng mơ.
Chúng tôi ngồi trên ghế, gần công viên. Đêm mát lạnh và trăng treo như một ngọn hồ quang trên những nóc nhà. Đã quá nửa đêm. Công nhân sửa đường xe điện dựng lều trên mặt đường đá gần đó. Ống bễ rên xiết thổi và hoa lửa bắn như mưa xuống những bóng người lom khom, trịnh trọng. Bên cạnh đó, nồi nhựa đường tỏa khói như một cái bếp dã chiến.
Chúng tôi đắm chìm trong suy tư.
"Khá lạ kỳ cho một ngày Chúa Nhật, Otto nhỉ?"
Koster gật đầu.
"Ta hài lòng vì nó đã chấm dứt," tôi trầm ngâm nói.
Koster nhún vai. "Có lẽ một khi ta đã quen sống trong khuôn khổ, nếu có một chút tự do, ta sẽ cảm thấy khó chịu."
Tôi bẻ cao cổ áo khoác. "Chẳng nói lên gì mấy cho cuộc đời của chúng ta, Otto."
Anh nhìn tôi, mỉm cười. "Lại càng ít có gì để nói, chỉ mới vài năm trước thôi, Bob."
"Đúng," tôi đồng ý. "Tuy thế . . ."
Máy khoan lực xịt thứ ánh xanh lục chói gắt xuống mặt đường nhựa. Lều công nhân, với ánh đèn lung linh bên trong, như một miền quê nhỏ bé, ấm cúng.
"Theo cậu, thứ Ba này chiếc Cadillac sẳn sàng chưa?" tôi hỏi.
"Có lẽ," Koster nói. "Sao cậu hỏi?"
"Tớ chỉ thắc mắc . . ."
Chúng tôi đứng dậy và quay về nhà. "Tớ có phần gắt gỏng tối nay, Otto," tôi nói.
"Ai cũng thỉnh thoảng bị như thế," Koster nói. "Ngủ ngon nhé, Bob."
"Tạm biệt, Otto."
Trong phòng mình tôi tiếp tục ngồi thêm một lúc. Bỗng nhiên tôi không còn ưa thích chỗ này nữa. Ngọn đèn chùm trên trần -- xấu xí ghê gớm-- ánh sáng chói mắt; và những ghế bành, vải bọc đã mòn xơ xác; nhựa lót nền nhà, trông ảm đạm nghèo nàn; bồn rửa tay -- ta không thể mời một người đứng đắn đến đây, tôi nghĩ. Phụ nữ, chắc chắn không. Cùng lắm, một cô gái làng chơi từ quán International mà thôi.