Remember ?

Trang 4/9 đầuđầu ... 23456 ... cuốicuối
kết quả từ 19 tới 24 trên 49

Tựa Đề: Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG

  1. #19
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default


  2. #20
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Bản Lãnh SVSQKQ



    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Nhì
    Chương 15
    Bản Lãnh SVSQKQ
    Tình Hoài Hương
    ***



    Hồng Hạnh ơi,
    Nhân ngày lễ Thanksgiving, anh kể hầu em vài chuyện “buồn cười nhỉ” do các bạn sưu tầm thiệt vui, và chuyện thật trong đời sống của anh (về những ngày xa quê hương) nhen em: hy vọng em sẽ cười, hết hờn giận anh nhé. Hi hi... Mặc dù anh biết có thể là em không muốn đọc thư anh (vì anh “hư” quá, đôi lúc anh làm điều sai quấy, khiến em đau buồn mà). Nhưng anh cứ viết tiếp cho em thư nầy, em có thể đọc khi vui, lúc buồn hay nhớ nhung… đến “ai đó”… Bởi vì:
    Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
    Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên
    (Thế Lữ)
    * Anh bắt đầu kể chuyện tiếu lâm mà bạn hoặc anh đã sưu tầm nè:
    Một hôm tui đi vào khu shopping, thấy ba cô gái đẹp đi ngược chiều với tui. Trong đó có một cô mặc quần Jeans đã quên kéo zipper lên. Đi gần tới ba cô, tui nhìn lên trời nói: "Everybody checks your zipper, please!"
    Cả ba cô nhìn xuống, cô mặc quần jeans xoay vào tường rồi kéo zipper lên. Cô liền chạy theo tui nói rất nhỏ: "You too!"
    Vì nghe không rõ, tui tưởng "thank you", nên tui nói: "No problem."
    Tức quá cô ta chỉ ngón tay ngay đó và nói: "You too."
    Tui quê quá nhìn cô cười hi...hi... rồi kéo zipper lên, mà quên xoay vào tường.
    * Một phụ nữ toàn diện là phụ nữ: sáng diện, trưa diện, chiều diện! Tối diện. Vậy thì: Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó. Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó. Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó. Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe nó. Đáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến. Mặc dù ta biết: Tình yêu là vĩnh cửu. Và chỉ duy nhất một thứ được phép thay đổi: Ðó là người yêu. Do đó: Sau lưng người đàn ông thất bại là người đàn bà xúi dại. Sau lưng người đàn ông thành công là người đàn bà ngồi không. Sau lưng người đàn ông thành đạt là người đàn bà đánh bạc. Sau lưng người đàn ông long nhong là người đàn bà long đong. Sau lưng người đàn ông ngoại tình là người đàn bà ngồi rình. Sau lưng người đàn ông bất lực là người đàn bà rất bực. Sau lưng người đàn ông yếu đuối là người đàn bà...chán chuối...(*) ha ha ha ...
    ***
    Sau đây là những chuyện có thật của khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân; anh vào chuyện nhen:
    * Các anh đang học bay ở Randolph AFB (Texas). Ở ngay đầu sân bay, có một trại chăn nuôi mấy chục ngàn con “gà Tây” (Turkey). Ông chủ trại tên Joseph lầm lì, đã làm một cái chòi gác cao ngất, ông đặt một khẩu súng đại liên 20 trên đó. Ông doạ:
    - Tôi sẽ bắn rơi tất cả chiếc máy bay nào, mà bay sà xuống thấp. Liệu hồn.
    Vì trại của ông chăn nuôi vài ngàn con gà Tây, chúng rất sợ tiếng phi cơ gầm rú, khi đáp xuống, hoặc khi cất cánh. Chúng sợ hãi inh ỏi kêu quang quác, bay tán loạn, và tịt ngòi nín thở ngừng đẻ trứng. Khiến trang trại của ông thường bị thua lỗ đậm. Nên ông ta tức giận vô cùng và cương quyết làm “căng” như vậy! Thật ra, khoá sinh không quân cũng có lắm anh khoái chí thích chọc ghẹo, tinh nghịch quá chừng! Họ ưa bay là là sát mái nhà, rượt đuỗi đàn gà của ông ta nhốn nháo chạy té re, xịt cả phân ra ngoài. Cho nên ông ta mới giận dữ, hăm doạ ấy mà. Thế là, trường ban lệnh cấm: Các anh không được bay dưới thấp quá 300 feets.
    * Có một lần, các anh đi học Ground School (học lý thuyết dưới đất) thì bọn Mỹ gốc Xì, được trường thuê mướn quét dọn phòng ốc, đã đình công. Họ đòi tăng lương, nên không chịu làm việc. Lớp các anh có mười người sĩ quan tốt nghiệp ra trường cả. Lên lớp, ông đại úy Mỹ rất “kỳ thị chủng tộc”. Y nhấn mạnh từng câu nói:
    - Tụi Xì đình công. Thì tụi bay phải làm thay tụi nó, quét dọn lớp cho sạch sẽ.
    Vinh đứng ra chất vấn nó:
    - Tại sao?
    - Tụi bây cũng là coloured people.
    - Chính phủ ông mời chúng tôi sang đây, là đi học bay. Vậy thì, dù chúng tôi có là da màu chăng nữa. Không làm.
    - Chúng tôi vẫn là Guest. Chứ không phải là Servant của mấy ông.
    - Ông không được nói thế.
    Các anh khoá sinh Không-quân Việt Nam và hai anh Đại Hàn cương quyết không chịu làm. Thế là tên đại-uý tức mình, chưởi mắng các anh đủ thứ tiếng lóng. Nó gọi người Việt Nam là Goddamn Gook. Hoà đã gây lộn với thằng Mỹ ấy khá lâu. Chính Thanh dũng cảm đi lại gần nó, Thanh lầm lì không nói không rằng, anh từ từ lấy cái ghế đẩu gần đó, kéo sát lại. Vì Thanh chỉ cao đến ngực thằng Mike, (trong khi Mike cao 1m98). Thanh từ từ leo lên ghế, giơ thẳng cánh tay thoi một cú đấm rất mạnh vào giữa mặt thằng kia. Mike xịt toé máu mũi, văng máu tùm lum, tà la. Thấy vậy, cả mười khoá sinh sĩ quan Việt Nam và Hàn Quốc bao vây nó lại. Thằng Mỹ sợ quá, vừa la vừa co giò chạy lên “méc” ông chỉ huy trưởng.
    Ông Đại Tá và ban quân huấn xuống ngay. Các bạn đẫy anh và Vinh ra nói chuyện, vì dù sao tiếng Anh của hai anh cũng có đủ khả năng đối chất lưu loát. Công nhận người Mỹ thật hay! Mike biết lỗi, nó đi bắt tay từng người, xin lỗi cả lớp. Nó từ tốn gọi tụi anh là các "ông sĩ quan" đàng hoàng. Từ đó, Mike thân thiện, hiểu biết hơn, không có thái độ khinh khi người da màu nữa. Tuy nhiên, vì Thanh phạm kỹ luật nhà trường, nên bị báo cáo về Việt Nam. Họ “đì” Thanh “tới bến” hoài. (Sau nầy không cho Thanh đi bay. Nhờ đó mà Thanh còn sống sót đến bây giờ. Nay Thanh làm đủ thứ nghề, chạy xe ôm, sữa xe đạp... Cuối cùng, Thanh cũng ra đi vĩnh viễn, vì bệnh ung thư yết hầu).
    * Thường thường, vào hai buổi chiều Thứ Bảy, Chủ Nhật cuối tuần, thì nhà trường có những chuyến xe bus quân sự miễn phí, họ chở các sinh-viên sĩ-quan Không-quân ưa đi ra bờ biển chơi. Hay đi về những thành phố gần đó để ăn uống, giải trí. Thế nên, cứ chờ đến cuối tuần là bọn anh vui vẻ ra bờ biển, ngồi trong các bar uống nước, uống bia, hay dùng tí xíu rượu nhẹ giải khuây. Các anh đang ngồi nhâm nhi bia, và tán dóc, hỏi đố nhau, mỗi thằng chêm một vài câu vô hại, có lợi để vui vẻ khoái chí cười ha hả:
    Tại các quán kia, có những cô gái tóc vàng, mắt xanh, họ còn rất trẻ, và dĩ nhiên đa số họ khá đẹp, các em ấy là sinh-viên, đi làm thêm partimes mùa Hè, họ muốn tự lập và tự tin để kiếm tiền mua sắm, xài vặt, hoặc đóng tiền học. Vì thế, các quán bar luôn luôn vui vẻ ồn ào nhộn nhịp, đông đúc. Ầm ỉ hết biết. Đến quán uống bia, hay uống nước ngọt, thì các anh thích ngồi gần cửa ra vào, cho thoáng. Và; hầu hết các anh Không-quân nầy ưa bày cho các em gái những ý hay, nên các anh được sự mến mộ của mấy em tiếp viên. Ví dụ như bạn anh nói với mấy em:
    - To give a shine to hair: Add one teaspoon of vinegar to hair, then wash hair (muốn cho tóc được óng ả: bỏ một muỗng cà phê giấm lên tóc, rồi gội sạch).
    - To avoid smell of cabbage while cooking: Keep a piece of bread on the cabbage in the vessel while cooking (muốn làm bớt mùi bắp cải khi nấu: để một miếng bánh mì trên bắp cải trong nồi khi nấu.)
    - To boil eggs quickly : Add salt to the water and boil. (muốn luộc trứng nhanh chóng: bỏ muối vào nước và đun sôi.)
    - To whiten white clothes: Soak white clothes in hot water with a slice of lemon for 10 minutes. (muốn tẩy trắng quần áo màu trắng: ngâm quần áo màu trắng vào nước nóng có bỏ một lát chanh trong vòng 10 phút).
    - To rid the smell of fish from your hands: Wash your hands with a little apple vinegar. (để tẩy hết mùi tanh của cá trên tay: rửa tay bằng một chút giấm táo) vân vân ...
    - Hi hi hi... ha ha ha...
    Thế nên, có một nhóm Hoologans bất cần đời, coi người khác như pha, đi đâu chúng cũng dàn hàng ngang, giạng chân ra, rú xe mô tô có phân khối lớn, khói bay mù mịt, bóp còi kêu inh ỏi. Tụi nó to cao, dềnh dàng, vạm vỡ, mặt mày bặm trợn, nghênh ngang và xâm vô thân thể chằn chịt những hình thù dị hợm trông quái đản, chẳng giống ai. Vì thế, chúng thấy đám sinh viên Việt Nam hào hoa lịch sự, được các cô vui vẻ tiếp đãi ân cần nồng hậu. Thế là, “tụi nó” tức giận, chễm chệ ngồi lên cái bàn nầy, mà gác chân qua bàn kia, chúng “phồng man trợn mắt” quyết tìm cách gây hấn với “tụi anh”. Lần nào tụi anh cũng gặp bốn năm tên ngồi đối diện “nghênh” chiến. Hoặc đi ngang qua bàn các anh ngồi, chúng cố ý đụng bàn, đá ghế, phà thuốc lá thẳng vô mặt các anh, làm đổ ly nước ngọt, hay ly bia lên lưng, lên vai các anh. Chúng tỉnh bơ lỏ mắt ra “nghinh” với mình nữa chứ. Hiền nói:
    - Tao đã nói mà: Tụi mình “xuất quân” yên hùng anh dũng từ Việt Nam qua Mỹ vào cái ngày đầu tháng một tây, ấy là ngày Chủ nhật, thì luôn luôn có “thứ 6 ngày 13” ; nên tụi mình bị xúi quẫy, xui xẽo hết biết.
    - Xui cái gì! Sợ “rúm ró” bọn côn đồ, thì nói…
    - Không phải là sợ, nhưng mình dây dưa với bọn du thủ du thực, du đãng làm gì; nhất là do mình mang bộ quân phục Không-quân thật không có lợi. Nếu mình mặc thường phục thì chưa chắc à, ai sợ ai.
    Nghĩ phận mình nhỏ con, nhất là vì trên người đang mang bộ quân phục Không-quân, nên các anh không muốn gây ra rắc rối phiền phức, hay kết bè cánh, tạo “băng đãng” tại địa phương xa lạ làm gì, cho mệt; cho nên tụi anh đành phải nhịn nhục. Nhưng trong lòng mỗi đứa đều cảm thấy ấm ức, bực bội, tức giận kinh khủng! Chả lẽ mình hèn, cứ cúi đầu chịu nhục, nhút nhát ru rú trong nhà không dám thò mặt ra phố, để cho chúng nó lên mặt vênh váo ăn hiếp mình hoài sao ta!? Về trường bay, tụi anh vẫn hậm hực, tức giận, sôi nổi bàn tán chuyện nầy. "Ông nội Vinh" giận nhất, hăm he phải tìm cách nào đó, để "phục thù rửa hận" mới thôi. Thanh niên khóa sinh giơ thẳng hai tay lên trời, đồng ý với Vinh cái rụp: “give me five”.
    Khi đó hai anh sinh viên sĩ quan Không-quân gốc Đại Hàn trong trường bay, tướng tá của họ oai phong lẫm liệt, trông vạm vỡ ngon lành. Họ là hai võ sư Đệ Tứ Đẵng Karatedo và Taekwondo. Hai anh nầy thường nghe tụi anh kể lại chuyện nhóm Hoologans. Một hôm họ nói với tụi anh:
    - Để chúng tôi “trị tội” bọn “mất dạy” kia cho. Yên trí đi.
    Tưởng là họ chỉ nói đùa cho yên chuyện, nhưng thế rồi, một buổi chiều Thứ Bảy cuối tuần, các anh sinh viên sĩ quan Không-quân vui vẻ hớn hở đi cùng hai anh Đại Hàn, ra quán bar. Vì hai anh Đại Hàn là người Á Châu, nên người Mỹ nhìn thoáng qua coi vóc dáng diện mạo của hai anh nầy, họ không thể phân biệt quốc tịch chủng tộc người Việt Nam và Đại Hàn khác nhau gì mấy. Hai anh kia bàn tính:
    - Nếu có đụng độ trong quán. Các bạn cứ chạy ra phía ngoài, gọi mấy chiếc taxi, các bạn ngồi hết trong xe trước. Chờ sẵn chúng tôi ở trên xe đó nhe. Còn trong quán, thì để chúng tôi “làm gỏi” mấy tên “cao bồi, du đãng” nầy một lát, là “xong béng”. Rồi khi thấy hai đứa tôi chạy ra khỏi cửa, thì mình cùng nhau dzọ lẹ, cho xe taxi chạy vù về căn cứ bay. Nha.
    Hôm sau, bọn “cu bồi kia” vào quán vẫn thấy đám anh ngồi nguyên ở chỗ cũ. Theo thường lệ chúng vẫn ngang nhiên đi lui đi tới, nghêng ngang đá bàn, đá ghế, và “cà nghinh, cà bật”, ngổ ngáo, bặm trợn. Coi chẳng giống con giáp nào, chẳng giống con cầy con lợn nào. Hai anh Đại Hàn ngồi ở bàn kế bên bàn các anh, họ nháy mắt nheo mày nháy nhó với tụi anh, gật gù tủm mỉm cười cười.
    Vinh bình thản kêu cô tiếp viên tính tiền. Mấy anh Việt Nam nhẹ nhàng thối lui, cùng ra ngồi chờ sẵn trong ba chiếc taxi để cửa xe mở toang, rồ máy xe chờ sẵn. Không nói chẳng rằng, hai anh Đại Hàn từ từ đứng dậy, ung dung tới bên hỏi chuyên bọn chúng; rồi nhanh như chớp hai anh nhào vô bọn chúng. Họ “nện” cho mấy tên kia một trận đòn đích đáng, họ “dợt” mấy tên kia những cú chưởng huyền bí tung lên ném xuống, như mèo vờn chuột, thiệt nên thân. Bảo đảm không đẹp mắt không ăn tiền! Thiệt là xem những chiêu tuyệt hảo hơn coi phim Hàn Quốc. Rồi hai anh Đại Hàn kéo nhau chạy ra xe. Cả nhóm anh sung sướng cười nói hớn hở vui vẻ thoải mái quá chừng. Xe chạy riết về căn cứ Không-quân. Nhưng khổ nỗi, khi hai anh Đại Hàn vừa ban “hậu ơn”, cho chúng bài học xứng đáng nhớ đời xong, họ vừa chạy ra xe taxi, hai anh Đại Hàn cứ la to:
    - Việt Nam muôn năm. Việt Nam muôn năm!
    - Good boy!
    Ngày hôm sau, các báo địa phương đăng tin thú vị:
    - Có một nhóm sinh-viên sĩ quan Không-quân Việt Nam vào quán bar, họ bị các tay kia làm nhục nhiều lần. Nay họ đã ẩu đả với bọn Hooligans. Khiến có mấy tên bị thương nhẹ. Một tên gãy xương quai hàm. Một tên gãy tay. Một tên long đầu gối, què chân. Từ đây xin đừng ai dụng chạm, hay “kỳ thị” đến người Việt Nam nữa nhé.
    Tin nầy chấn động cả thành phố nhỏ. Thật hả hê sung sướng vui mừng trong dạ làm sao! Trong bụng tụi anh đều mở cờ tung bay phất phới, hân hoan vui vẻ không thể tả! Có điều hơi phiền toái là: Tin đó được đưa lên tận phòng Tùy Viên Quân Sự Việt Nam, (tại Toà Đại Sứ Mỹ). Than ôi! Ít lâu sau, có một ông sĩ quan liên lạc bay đến. Ông mời cả nhóm Việt Nam lên phòng hội. Khi tụi anh vừa bước vào phòng, ông ta lịch sự chỉ ghế mời khoá sinh Không-quân Việt Nam ngồi. Ông lắc đầu, nhướng mày lên, cười cười:
    - Các anh cứ thú thật với tôi đi. Ai đã đánh mấy thằng Mỹ bị thương? Chứ các anh nhỏ con, làm sao mà đánh đấm tơi bời cái bọn có dao găm kia. Đến nỗi chúng bị gãy tay, lọi giò, gãy răng đó? Hở?
    Tụi anh đành kể lại hết và thú nhận. Ông ta cười vang không nói gì. Mọi chuyện rồi cũng ổn thoả thôi. Về sau, mỗi lần có người Châu Á đi ra phố, đa số thị dân đều đón tiếp ân cần, trịnh trọng. Vì họ nghĩ: Người Việt Nam bé nhỏ nầy, nhưng Việt Nam là “Hero. Võ công cao cường”. Đám “cu bồi” đó chẳng dám hó hé quậy tưng trời như xưa nữa. Mấy anh khoá sinh Không-quân Việt Nam đã dẹp sạch lũ Hooligans ngoài bờ biển thật rồi. Nhân đó, tên Vinh đẹp "giai" nhà ta, được qúy nàng mắt xanh siêng năng tận tình, vui vẻ ưu ái chiếu cố âu yếm “vuốt ve cưng nựng” nhiều hơn (anh nhờ đó mà “hưởng lộc tí xái”! Hi hi hi…).
    * Đến giờ vào lớp rồi em ạ, thế nên trước khi anh bước vào những câu chuyện định mệnh sầu đắng, anh xin dừng bút tại đây & tạm biệt em nhé. Không quên chúc em vui vẻ, trẻ đẹp và siêng năng chăm chỉ học tập, cho anh nhờ… Anh gởi lời kính thăm ba má của em, các anh chị luôn an mạnh. Nhen. Anh nhớ em nhiều.
    Anh,
    LPH

    ***
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  3. #21
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Muốn Học Khoá Huấn Luyện về NAVY

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Nhì
    Chương 16


    Muốn Học Khoá Huấn Luyện về NAVY
    Tình Hoài Hương
    ***



    Em gái thương,
    Lâu nay, do anh quá lu bu bận rộn đủ thứ chuyện trên trời dưới đất linh tinh, nên anh ít viết thư gởi về em gái và gia đình. Thông cảm hen. Trước là anh kính lời hầu thăm ba má, anh cầu mong ba má chúng mình luôn dồi dào sức khoẻ, bình an (có lẽ ba má ưa nhắc đến thằng con giang hồ, ham lãng du phiêu bồng đó đây nơi xứ người, mà quên đường về cố hương, hay sao? Nên anh cứ hách xì nhảy mũi, nóng ruột quá đi. Nên hôm nay anh mới viết thư cho em đây). Hãy thưa với ba má là anh vẫn bình thường (anh chỉ nói với em câu sau nầy: Anh khoẻ re như con bò kéo xe), để trong tuổi già ba má vui vẻ, đừng lo âu gì cho anh hết. Nhen em. Sau là anh gởi lời thăm các anh chị, các cháu. Riêng em gái út cưng ưa nhõng nhẽo, thì “hay ăn chóng nhớn” học hành chăm chỉ, xinh tươi, ngoan hiền, thùy mị; em không “lí lắc giống con khỉ” như xưa, he he he… thì lúc nào trở về quê hương, anh sẽ tặng cho em những món quà bất ngờ… Em chịu chưa? Bây giờ anh trở về chuyện phi công nghe:
    Đợt 23.-
    Em à, nếu anh muốn chuẩn bị đi học khoá huấn luyện về NAVY (Hoa tiêu Hải Quân Naval Aviator) tuyệt vời, mà anh thường ấp ủ (xây mộng giang hồ qua bốn bể “ở trong lòng”). Nếu anh muốn được gắn cánh bay vàng của Hải-quân Navy Wings of Gold, thì ít nhứt anh phải có khái niệm về ngành nghề mình yêu thích. Anh cần biết sơ lược về các nhu cầu thiết yếu bắt nguồn từ đâu: các tiêu chuẩn, cơ cấu tổ chức của ngành Không-quân Hải-quân ra sao.

    Nầy em, hãy nghe anh đọc và dịch ra từng đoạn từ sách vở. Nhân đó, cô em học trường đầm từ nhỏ ở Tiểu học (Primaire) – Trường Trung học (Secondaire) – cho tới năm em lên lớp Đệ Nhị (Tú tài: Secondaire Supérieure), thì em xin chuyển ra đi học tại trường Việt, để em có thể trau dồi thêm môn Việt-văn, vì em có ước nguyện sau khi lớn lên, em sẽ dạy môn Văn, Sử, Điạ… là môn em rất yêu thích. Ngoài ra ở trường Việt, em học thêm sinh ngữ B (Anh-văn là sinh ngữ phụ của em, và môn Toán, là hai môn học em yếu kém) nhé: Vã chăng đây cũng là một trong những đợt anh phải học đấy.

    1/ Three Training Squadron (VT-3) - With World War II raging in the Atlantic and Pacific Oceans both Show and the demand for trained pilots at its peak, the first to bear the name Training Squadron Three Squadron was created. On February 15, 1943 (one week after the beginning of the massive air raids Bougainville and Rabaul Against Solomon in the Islands).
    *(1) Huấn Luyện VT-3 - Với Thế Chiến thứ II diễn ra ác liệt ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cho thấy sự nhu cầu đòi hỏi đào tạo phi công ở mức độ cao điểm, đã trở thành một ưu tiên. Phi đội huấn luyện đầu tiên mang tên VT-3 được thành lập. Vào ngày 15 Tháng 2 năm 1943 (một tuần sau khi bắt đầu các cuộc không kích lớn tại thành phố Bougainville, và căn cứ chủ lực Rabaul ở phía Nam quần đảo Solomon).
    2/ Training Squadron Three Detachment 8-B (VN3D8-b) was under the command of LT Organized Thomas Bradbury at Saufley Field USN, Pensacola, Florida. VN3D8-B was relocated to Whiting Field, Milton, Florida on July 1, 1943 and was later joined by VN3D8-a form from Training Squadron Chevalier Field to Three. (Interesting to note, naval training squadrons Second World War là khi the Identified by the designator "VN".

    *(2)- Huấn luyện VT-3, Biệt Đội 8-B (VN3D8-b) được tổ chức dưới sự chỉ huy của LT Thomas Bradbury USN tại Saufley Field, Pensacola, Florida. VN3D8-B đã được chuyển tới Whiting Field, Milton, Florida vào ngày 01 Tháng 7 năm 1943, và sau đó được tham gia vào VN3D8-A từ Chevalier Field. (Quan trọng cần lưu ý, các phi đội huấn luyện Hải Quân trong Chiến tranh thế giới thứ II đã được xác định bởi các thiết kế "VN").

    3/ The "VT" designator, used by current Naval training squadrons, was used to denote Torpedo Bomber squadrons.) Throughout the costly struggle with the Axis forces, Training Squadron Three continued to train pilots in order replace those lost in combat/training operations and to man the units which would be needed for the final campaigns against the Japanese mainland.
    On Sept. 2, 1945, following months of punishment by American forces, the Japanese military government signed the terms of surrender, and the struggle which had claimed the lives of millions came to a sudden halt. Eighteen months later in 1947, with little need for multiple training squadrons with which to train an enormous invasion force, VN-3 was decommissioned. VN-3 took its place in annals of Naval History as a squadron which took great pride in preparing the cream of America's youth for the defense of this nation and its ideals.

    *(3)- Thiết kế huy hiệu "VT", hiện tại còn dùng ở trường huấn luyện Hải Quân Mỹ, trước đó cũng được dùng cho các phi đội ném bomb Torpedo. Trong suốt cuộc chiến tranh tốn kém với các lực lượng Axis, huấn luyện VT-3 tiếp tục đào tạo các phi công, để thay thế những người bị mất trong chiến tranh/huấn luyện, và điều hành với các đơn vị, sẽ là cần thiết cho các chiến dịch cuối cùng chống lại Nhật Bản.
    Vào ngày 02 tháng chín năm 1945, sau nhiều tháng trừng phạt của lực lượng Mỹ, chính phủ quân đội Nhật Bản đã ký kết điều kiện đầu hàng, và các cuộc đấu tranh đó đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người đã bị ngưng đột ngột. Mười tám tháng sau vào năm 1947, với nhu cầu cho nhiều phi đội huấn luyện, mà để đào tạo một lực lượng xâm lược to lớn, VN-3 đã được cho ngừng hoạt động. VN-3 đã diễn ra trong ghi chép lịch sử của Hải Quân như một phi đội mà mất niềm tự hào lớn, trong việc mơ ước của giới trẻ Mỹ bảo vệ cho quốc gia và lý tưởng của nó.

    4/ The current Red Knights of Training Squadron Three picked up the torch lit by their predecessors on May 1, 1960 and continued the legacy of "Training the Best for America's Defense". On that day Training Squadron Three (VT-3) was commissioned at South Whiting Field. Although the country was not at war (the Vietnam War would not reach its height until 8 years later) the squadron was tasked--utilizing the T-28 Trojan - to prepare a younger generation of student naval aviators in radio instruments, formation flying, and air-to-air gunnery.
    In 1965, the air-to air gunnery was discontinued and flight familiarization and basic instrument training were added in its place.

    *(4) Hiện nay Huấn luyện VT-3 Red Knights cầm ngọn đuốc thắp sáng bởi những người tiền nhiệm của họ vào ngày 01 tháng 5 năm 1960 và tiếp tục di sản "Đào tạo tốt nhất cho quốc phòng Mỹ". Ngày đó huấn luyện VT-3 được ủy quyền tại South Whiting Field. Mặc dù đất nước đã không có chiến tranh (Chiến tranh Việt Nam sẽ không đạt được tỷ lệ cao cho đến 8 năm sau) phi đội được giao nhiệm vụ - sử dụng máy bay Trojan T-28 - để chuẩn bị cho một thế hệ trẻ của sinh viên phi công Hải Quân trong các dụng cụ radio, bay hợp đoàn, và không chiến. Năm 1965, máy trang bị súng phòng không: không còn tiếp tục và được thay thế các dụng cụ huấn luyện.
    ***

    Hẳn là em mệt đừ rồi vì tiếng Anh tiếng U phải không? Thế em mới biết thương anh và các bạn của anh (đang ở nơi đất khách quê người, luôn luôn phải đương đầu với “chông gai, thử thách và bão tố” ập xuống đời trai: từ chuyện chữ nghĩa, học với hành); “rồi hành với học” đến đừ đẫn ê ẩm dật dờ thân xác & ngao ngán! Nói chơi vậy chớ chẳng phải như vậy đâu nghe em. Em đừng tưởng bở, làm biếng, em không trau dồi Anh-ngữ, thì lúc anh về, em sẽ bị anh cú cho u đầu, sưng chù vù cả trán nữa. Đến đây, anh lại sực nhớ chuyện ngày xưa: anh kèm em học môn Toán và Anh văn, lúc đó sao anh nóng như lửa ha (vì cái ngu “dốt đặc cán mai” của em), anh tức giận đã cú nhiều lần lên đầu, và búng trán em mấy cái. Khiến em lấy tay xoa lia lịa trên đầu tóc em đã bù xù (mới bị anh cú), và cái trán của em sưng u một cục. Em khóc thiệt to hu hu hu như bò rống, nước mắt nước mũi tùm lum.

    Anh ngẩn người nhìn em có chút thương cảm, lúng túng và hối hận. Em liếc thấy anh đang xìu mặt xuống, thì được trớn em càng khóc la to hơn, phụng phịu giận dỗi nhảy đành đạch. Khi đó anh nói: “Ái chà! con nhỏ nầy dữ thiệt à nghen”. Anh muốn hạ giọng an ủi em xí, nhưng nghĩ lại mình không nên dỗ dành "con nhỏ" làm gì, cho nó lên mặt làm tới, làm nư, làm tàng, làm dóc... tổ, thì cái ngu vẫn đeo bám, khiến em chẳng thể thông minh hơn. Anh cầm cây thước xỉ xỉ tới trước mặt em, khiến em sợ anh đánh đòn, đã chạy vô núp trong phòng, mà thút thít khóc. Bi giờ nghĩ lại, anh cảm thấy thương em làm sao ấy. Anh trai nầy xin lỗi muộn nhen. Anh đã được “tiêm nhiễm” ở xứ Mỹ văn minh tiến bộ, nên không có chuyện anh sau khi trở về nhà, anh sẽ “ăn hiếp em” như dạo ấy nữa. Đừng lo nha.

    Em biết không, trở ngại lớn nhất trên đường đời, làm cho anh nhụt chí mềm lòng khi muốn đi tới thành công, trước tiên là vì do tính anh, tuy con trai đàn ông đó, nhưng coi vậy mà có chút đa tình ủy mị trong tình cảm. Ngay cả lòng tự trọng và cố chấp cũng cản trở bước tiến của anh không ít. Anh bị những thứ “tự tôn” làm cho mờ mắt, anh đã không thành công ở lãnh vực nào đó. Anh có thể vạch ra cho mình một con đường tươi sáng, thành đạt mà anh đã chọn, nhưng vì lòng tự trọng đã trói chặt bản thân anh. Ví dụ thứ nhất về chuyện tình của anh với Huyền Nị, mà em cũng như gia đình mình đã tưởng “anh chị” sẽ có kết cuộc tốt đẹp. Ừ! Cũng là chữ “kết” đó; nhưng kết quả chỉ là kết thúc. Nào ai có ngờ… nhỉ!

    Do nghe theo ý kiến và sự nài nỉ ỷ ôi của Huyền Nị chỉ thích sau nầy anh trở thành một “luật gia” thao thao bất tuyệt nổi đình nổi đám! Thì đó, anh đã đi học Luật Khoa hơn một năm, một nghề mà anh không cảm thấy hứng thú và yêu thích, nên anh chán quá sức, vì mình không có tài hùng biện, thì phải! (thay vì anh thích đăng vô Không Quân). Ngay bước đầu anh biết chọn ngành Luật là sai, mà vì tình yêu, ủy mị, nể nang, nghe Huyền Nị, anh chưa chính chắn suy nghĩ. Có thể về sau nầy, lúc cả hai đã thành vợ chồng rồi, “ngựa cũ quen đường xưa”, nàng vẫn “quen thói chỉ huy” chồng. Anh thì... lấy lòng khoan dung, nhu nhược, yếu thế hơn, vì những giọt nước mắt của nàng lấn áp. Do quá tình cảm, anh vẫn nể mà “xót xa rung động”, để rồi anh sai hoài, tiếp tục lún sâu vô sự điều khiển, và cảm nghĩ của riêng nàng, thì anh không có cách gì gỡ ra được. Thử hỏi, lúc đó anh là “cái thứ gì”, ngoài việc anh trở thành một con rối, một hình nộm vô tri vô giác? Nên xa… là phải không nào.

    Bây giờ anh trở lại chuyện chính về ngành Naval Aviator tại Pensacola thuộc Tiểu Bang Florida, nơi mà anh đã có dịp học và hành… là một cuộc chiến dài và đơn độc, tự bản thân mình kiên trì đấu tranh, nhẫn nại mà tự vươn lên. Dù anh học và hành chưa giỏi hơn ai ở vài lãnh vực nào đó. Anh không thể ỷ lại, nhờ thầy thôi thúc và nâng vực anh đứng thẳng lên trên đôi chân (sau những lần sai phạm, vấp ngã). Ví như khi anh leo núi quá chậm, cảm thấy mệt mỏi, đuối sức, ấy là lúc anh chán nãn làm sao! Trong thâm tâm anh mong ước: phải chi ở trên đỉnh núi kia, có bậc thầy đã dày dạn kinh nghiệm, từng trải, người ấy đang thòng sợi dây xuống giúp, cho anh run rẩy cột sợi dây vô thân (cột vô thân thể, hay “cột cổ” mà lôi anh lên, cho thắt họng anh nghẹt thở đây!?).

    Em có nhớ hồi xưa lúc còn nhỏ, chúng mình đi ra góc cầu Huỳnh Thúc Kháng ở Huế, tại bờ sông chúng ta coi một người đàn ông đã treo thân tòn ten trên nhánh cây đa, hai tay và hai chân ông ta thòng xuống. Khi gió lùa qua, thân hình ông ta lắc lư, đu đưa… đầu gục xuống, cổ ngoẹo qua một bên, hai con mắt dường như muốn lồi ra ngoài, nhưng ghê gớm nhất là cái lưỡi le dài ơi là dài trên khuôn mặt tím bầm. Thật kinh khủng. Chúng ta rất sợ, đã ù té chạy, hoảng hốt đến nỗi té lăn cù, trầy trợt nhiều chỗ ở cánh tay, bàn tay, đầu gối chảy nhiều máu, mà chúng ta không hề biết đau. Em còn nhớ không vậy!?

    Nay, dù đã lớn khôn, nghĩ đến lúc anh sẽ bị “thắt họng”; bỗng dưng anh vẫn sợ điếng hồn… Nên, anh phải kiên trì tự vươn lên, để vượt qua trở ngại từ ngọn núi đá... là bản ngã che chắn của chính mình. Đây là ngọn núi lớn đầu tiên trong đời, mà anh phải kiên định cương quyết vượt qua. Anh biết rằng: Khi anh đã leo được lên đỉnh núi ấy, (như lớp đàn anh, và bao chàng sinh viên sĩ quan Không-quân khác); Đấy là lúc anh có thể phát huy hết khả năng, để đạt đến kết quả mỹ mãn, không những cho nhiều buổi học và hành bây giờ, mà sẽ ứng dụng phong phú cho cuộc đời mai sau.

    Hẳn là em cũng thừa biết “cái triết lý vụn” của anh: Ngọn núi càng cao, càng hiểm trở, thì tính hiếu chiến hiếu thắng từ anh (& đa số chàng trai) ai cũng muốn chiến thắng chiếm hữu nó càng dâng cao độ. Anh có cảm tưởng khi anh đã đứng trên chóp núi, nhìn bao quát chung quanh, nhìn xuống chân phía dưới mặt đất, thì dường như anh có hào hứng, vui vẻ và hân hoan mà tin tưởng: khi mình lái chiếc phi cơ chạy trên đường băng, chuẩn bị sẵn sàng để cất cánh bay bổng vào không trung. Vì, sau khi ra trường đời, anh cần vượt qua nhiều ngọn núi cao, càng cao… và khó khăn hơn bây giờ gấp bội.

    Việc học hôm nay không những nhằm mục đích rèn luyện trí óc, mà còn luyện tập thân thể khoẻ mạnh cường tráng: ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, xem tivi coi thời sự, đọc báo, v.v... Tất cả mọi thứ đó không những vừa luyện tập, vừa tập trung để nhớ và nghe bên ngoài; mà còn lắng nghe được nội tâm của người khác (hoặc chính mình) muốn gì. Nghĩa là chính ta biết mở rộng vòng tay trong đời sống, biết được giá trị của lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Việc nầy, tuy quá phức tạp lẫn khô khan, nhưng anh và hầu hết mọi người đã thành công rồi nhen:

    Đợt 24.-
    Anh trở về chuyện thực tế nha: Sau khi vào cổng trường, ta có thể nhìn bao quát chung quanh, nào là: barracks, hangars, mess hall… trước khi đến viện bảo tàng. NAS vẫn, đã, và đang tiếp tục làm nhiệm vụ như từ trước tới ngày nay. Trong building ở NAS (Naval Air Station) có một viện bảo tàng đồ sộ và quy mô “Museum of Naval Aviation” chưng bày khoảng 150 phi cơ đủ thời đại, phong phú và đa dạng của Navy, Marine Corps, Coast Guard Aviation, Naval Flight Officers, Blue Angels Navy Flight Demonstration Squadron… trên một diện tích 350,000 square feet of exhibit space & outside its 37- acre grounds. Họ mở cửa cho dân vô xem free từ 9am tới 5pm.
    * Trong chương trình nầy, khoá sinh phải học bơi thêm và bơi thành thạo với Hải-quân: (lại bơi ếch, bơi ngửa, bơi sấp, bơi tự do, v.v…). - Học ở “Dilbert Dunker”, mô hình giả có cái mỏ hình cung giống buồng lái của máy bay (trong hồ bơi). Nói tới “Dilbert Dunker” thì khỏi chê: người ta đặt anh ngồi vào một cái ghế sắt tương tự như cockpit (phòng lái) của phi cơ nhỏ T-34, gài dây an toàn shoulder harness và safety belt, kéo anh lên tuốt trên đỉnh của giàn phóng, cao khoảng chừng 10 m, khi huấn luyện viên thổi tu huýt, họ buông cái ghế cho rơi theo đường ray chúi xuống chừng 60/° vào hồ bơi. Cái ghế lật úp. Nước bắn tung tóe tùm lum. Anh phải đếm thầm: “One thousand one, one thousand two, … one thousand five”, rồi anh nhanh nhẹn tháo gỡ dây an toàn ở bụng và vai ra.

    Hai chân ngồi chồm hổm lên ghế, hai tay vói thẳng lên miếng gỗ, giả làm windshield (kính che gió), anh ngửa đầu ra phía sau, rồi hai tay gồng lên ở phía trước buồng lái, hai chân tống thẳng cẳng đạp mạnh ra khỏi cái “Dilbert Dunker”. Tứ chi vẫy vùng trong nước như con ếch, anh cố ngoi đầu từ dưới đáy hồ lên khỏi mặt nước. Ôi Giời ạ! Chúng tôi là sinh viên sĩ quan Không-quân trên bờ, phi cơ và người chỉ ở trên phi đạo, để vút bay lên không trung bao la, ngút ngàn, rộng mênh mông giữa bầu trời thênh thang lồng lộng gió. Chớ có cho "tàu bè" cỡi sóng chạy vun vút trên biển như "ba te đi dạo” bằng tàu thủy, thanh nhàn ngao du trên tàu, trên ghe thuyền đâu, mà phải học, phải sợ đắm sợ chìm, rồi miệt mài học cho bù đầu trọc óc hỉ! Vậy mà bắt buộc khóa sinh sinh viên sĩ quan Không-quân như khoá các anh sắp sữa hoàn tất việc học “lái tàu bay”, gần trở về quê hương, vẫn phải bù đầu, bù óc thức thâu đêm suốt sáng học những môn nầy đấy.

    Thư đã quá dài, anh phải tạm ngừng bút nơi đây. Đành hẹn em thư sau nhé. Nhớ cho anh kính lời thăm ba má và đại gia đình, mong họ giữ gìn sức khoẻ, và em phải ngoan ngoãn hiền lành thùy mị, học giỏi nữa ha.
    Anh trai,
    Thiệu

    ***
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. #22
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Hai Lối Sống & Một Cuộc Đời

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Nhì
    Chương 17

    Hai Lối Sống & Một Cuộc Đời
    Tình Hoài Hương
    ***



    Hồng Hạnh yêu thương,
    Lâu rồi, quả thật từ quá lâu từ bốn năm rồi em nhỉ… hôm nay anh rất vui mừng khi nhận thư em, trong đó có đoạn em đã viết thế nầy:
    … Ngày. Tháng. Năm... Rồi cũng dần qua. Dần qua. Dần qua... Cho đến một sớm mai nào đó, em thức dậy với nỗi bàng hoàng, & dày vò kinh khủng. Em chợt thấy những xôn xao, đê mê, rộn ràng của một thời trẻ dại đã vụt xa bay trong niềm luyến lưu, hoài mong, đau buốt, ray rứt, muộn phiền, bùi ngùi, và tiếc ngẩn.

    Phải! Không bàng hoàng sao được!? Khi tất cả cảnh vật và con người đã đổi thay… Một tiếng chim ca. Một cánh hoa vừa hé nở buổi Xuân sang. Một cụm mây trắng dập dềnh bồng bềnh qùy gối trên mặt nước hồ Xuân Hương. Một giọt sương tí tách rớt trên đầu lá ngoài cửa sổ nhà em. Một hơi thở nồng nàn từ trời cao giao hoà với đất thấp trên đồi thông luôn reo vi vu. Một cảnh hoàng hôn đượm buồn lướt thướt mưa phùn lặng lẽ rơi. Hay buổi bình minh rạng rỡ vươn lên nơi chân trời muà Hạ. Một chiều Thu giông gió thổi lá úa lả tả bay tràn ngập trước ngưỡng cửa. Như thổi về những dự định sông hồ của chàng trai phong sương. Lúc em biết anh đang ươm tơ vàng đi dệt mộng sông hồ, duỗi bước quan hà qua muôn dặm sơn khê ngút ngàn xa hun hút ở đất khách. Thì… em có nụ cười thân thiện, kèm giọt nước mắt từ viền mi luyến thương, em hoài nhớ về người ấy... Thú thật là em quá hân hoan vui mừng đó, anh à.

    Em mong rằng tất cả và tất cả những chuyện u buồn xưa, ngày nay đã chẳng còn, để anh không nãn chí chồn chân, nhen. Vì vậy, xin cho em say đắm tìm về chút mùi hoài hương xưa nồng thắm, đã trôi tuột ra ngoài vòng tay quắt quay nỗi nhớ nhung… (đã vô tình vỗ cánh xa bay…). Tuy nhiên, em thắc mắc một điều: Xin anh cho em biết: tại sao hồi ấy anh không tiếp tục học trên đại học Đà Lạt, mà anh đi lính vậy!? Hở anh?

    Đọc đến đây, bỗng dưng anh… anh thèm khóc. Anh đã gục đầu vào hai bàn tay, đôi vai rung lên, nức nở mà nước mắt không thể chảy ra, (không giống như khi xưa anh đã òa khóc lúc bị chị Tư của em cấm anh không được yêu em), thì bây giờ hình như nước mắt đã khô cạn từ lâu. Tình cảm ấy nhẹ nhàng như hai giọt sương rung rinh lóng lánh, lâng lâng dịu êm trong giếng mắt em. Ngày đó anh xa em, như đã nói ở đoạn trước: (trong đại học xá anh dọn ra ở riêng trên đường Võ tánh, anh chẳng thèm lên đại học ghi chép bài vở, mặc Q. Hà viết lách, ghi bài, đem về phòng riêng cho anh, Hà ở lại đến khuya...). Anh làm phó chủ tịch tổng hội sinh viên, Thạch chủ tịch. Hà là thư ký, Nguyễn Cầu thủ quỹ. Ban đầu nhóm anh cùng nhau sinh hoạt chung khá tử tế, hoà nhã vui vẻ.

    Dù vậy, anh vẫn rất phiền muộn vì mất em, sau đó anh buồn vì giữa anh và Thạch thường có những bất đồng nội bộ. Rồi tuần khác anh xích mích to tiếng cải nhau với Thạch. Đó là vì chuyện Thạch không muốn cho Quyên Hà lên đài phát thanh Đà Lạt, để Hà vừa đánh đàn piano, vừa đơn ca, (mỗi tuần một lần, trong chương trình phát thanh của sinh viên đại học). Công nhận trong Viện có mấy bạn khác, nhất là Thạch thì đàn và hát rất hay. Thật ra, Hà hát dỡ ẹt, đàn cũng quá tệ; nhưng nàng muốn “lên khuôn” có tham vọng và danh vọng cho người khác tôn thờ chiêm ngưỡng, thì họ càng yêu mến mình. Phần anh biết điều Thạch nhận xét về Hà là đúng, nhưng anh muốn lấy lòng nâng bi “tôn” người đẹp lên cao. Thật thà mà nói anh muốn chiếm đoạt trái tim nàng, nên anh cương quyết để Hà vô đài phát thanh thu âm. Thạch nhún vai bĩu môi nói:
    - Hà mà “đánh với đấm” gì, cái ngữ ấy.

    Nên chi… anh đã mất bạn thân. Trước chuyện anh buồn do ly biệt em, (kể từ sau khi anh bị gia đình em, và chính em xa lánh, ruồng bỏ anh). Giấc mơ tình yêu càng to lớn, khi tan tành thì những mãnh vỡ càng nhiều và còn to. Sau chuyện anh và Thạch gay gắt mích lòng coi như trầm trọng nầy, anh và Hà càng gắn bó thân mật với nhau. Chứ không thể nói là “phát sinh” nẩy nở tình yêu. Xa em rồi, anh không biết gì, hay đã làm gì nữa! Quen với ai? Tại sao? Tại sao anh ra nông nỗi nầy! Đời anh coi như xuống dốc thảm thương. Anh đem đời mình vất đi, lọt xuống vực thẳm.
    Nói như thế, có phải tự vì muốn bào chữa là mình quá giàu tình cảm, ủy mị, mà đâm ra nhu nhược không? Những đêm dài anh đốt đời mình trong ly cà phê đắng và khói thuốc. Anh nằm la cà ở những động hút xách, hầu giết dần cuộc đời chán chường không thấy tương lai. Ôi! Anh cứ ngủ vùi trên giường đến trưa, có người nấu cơm tháng đem tới nhà gõ cửa. Ăn uống rồi anh lờ đờ đi tắm rửa, thay quần áo xong, là anh lừ đừ lửng thửng đi ra phố với đầu óc dật dờ rỗng tuếch.

    Anh lấy đêm làm ngày, nhiều đêm anh tụ tập năm bảy đứa cù bơ cù bất đi ăn xôi ở Thủy Tiên, đi ngông vòng quanh bờ hồ nghêu ngao ca hát và “đú đởn”. Khi những tiếng xe thổ mộ đầu tiên lọc cọc lạch cạch chuẩn bị hàng hoá đi họp chợ, xe ngựa lóc cóc chạy trên đường vắng ngắt và giá lạnh, sương mịt mùng che phủ các lối đi. Vài lần tụi anh chẳng biết có bị khùng không? mà đã đi bộ ba vòng bờ hồ Xuân Hương, vị chi là đi 18km, đi từ đầu canh một đến lúc hừng đông. Đi, đi, đi… nói nói nói… ca hát nghêu ngao, quậy tưng bừng trong đêm khuya vắng trên đồi Cù. Cứ thế tụi anh đi, đứng, nằm, ngồi, ngoài trời khuya như ma trơi đi ăn đêm, ngỏ hầu chờ sáng, không biết chán. Rồi bọn anh quay về khu bến xe cũ, ngồi la cà ở cà phê Đomino, nhìn những giọt cà phê đen tí tách nhỏ xuống ly, nhấp vị đắng dâng lên đầu môi, anh lại cảm thấy xót xa cay đắng dật dờ buồn bã khôn nguôi.

    Thông thường, tụi anh cặp với ba bốn ca sĩ (hạng bét) vài cô ca ve (cũng thế) để có người mà “hót”, mà tán dóc, phét lác trêu ghẹo bù khú. Duy có một điều: Ngày anh em mình đi chơi với nhau lần cuối cùng ở thác Datanlania, anh nghĩ giữa anh và em đã có một vực thẳm sâu hun hút, một bức tường thành gia đình gia giáo kiên cố, em không thể vượt qua mà vươn lên được, em không hề biết là nỗi đau khổ của anh dâng lên cao vút. Thì tất cả hình ảnh đàn bà, con gái khác: chỉ là cái bình phong, cái bóng mờ khuất sau lưng. Họ như khúc gỗ không mặn nồng xương thịt, (kể cả Hà, là cô gái khá đẹp, lý tưởng đầy ước mơ của đa số sinh viên & các ông ở thời buổi ấy. Vậy mà anh cũng chẳng thèm chọn cô ta).
    Anh dùng họ để che đậy nội tâm rực lửa tình sầu. Anh bám víu vào họ, để khỏa lấp khoảng trống đầy muộn phiền, anh che đậy vết thương lòng luôn ứa máu, ngỏ hầu không muốn chìm sâu vô sự đau khổ thêm. Thế là anh buông mình vào những cuộc chơi, để tìm quên, quên, quên… (Anh muốn quên ai, thì em biết rồi há)! Anh không thiết tha điều gì, hầu che đậy nỗi hận, và niềm đau đớn, đắng cay ngút ngàn trong lòng. Vì, thú thật em chính là tình yêu của anh. Em là tình đầu và là tình cuối. Ngoài em ra, anh chẳng hề yêu ai.

    Ôi! Anh không bao giờ quên cái buổi trưa chở Quyên Hà và Hồng Ánh lắc lư ở trên xe vespa của anh. Bất ngờ anh thấy em ngồi trên xe lam, em nhìn anh sửng sốt, kinh hoàng. Cái nhìn của một người bàng hoàng tuyệt vọng, oán hờn, khinh bỉ người khác ra sao, thì em nhìn anh cũng tương tự như thế! Lòng tan nát, anh hổ thẹn cúi gầm mặt xuống như kẻ gian, mặc dù lúc đó anh chưa “làm gì nên tội” với mấy nường kia. Anh vội vã rồ máy phóng xe vespa chạy đi thật nhanh. Vì anh nghĩ: “quả thật anh không xứng đáng với lòng tin yêu và chung thủy của em, người con gái ngoan hiền còn trẻ, quá trẻ và vì sự trong sáng rạng ngời từ trong tư tưởng cùng thể chất ấy, em đã yêu anh... mà thường chảy những giọt nước mắt long lanh ràng ruạ trên đôi má hoen màu, để lánh xa anh”.

    Bề ngoài thì coi anh hư hỏng như vậy, nhưng thật ra trong lòng anh âm thầm “khắn khít tình cảm với em”. Anh ước mong vô vàn… van xin cho anh và em có một cơ hội thuận tiện, có một dịp may mắn, để chúng mình sống đằm thắm yên bình, vui vẻ hạnh phúc tuyệt vời trong happy ending. Chứ đừng kết thúc cuộc tình duyên trong bi thảm, sầu đắng! Nhưng quả thật là anh không còn dịp may nào nữa. Em hoàn toàn lẫn tránh, lạnh lùng xa cách anh. Anh không còn cơ may thuận tiện nào, để tỏ lộ sự bứt rứt, bồn chồn, băn khoăn từ tấm chân tình yêu quý em, mà anh rất thành thật muốn trao gởi về em.

    Thế là anh bệ rạc lún sâu vào những canh bạc, để tìm quên. Vâng! Tết đó anh còn ở trên Trần Bình Trọng, tụi anh chung nhau đánh bài tối ngày sáng đêm. Anh đánh cặp với mấy thằng bên sư phạm, bên phân khoa triết, lúc ăn lúc thua. Anh có thủ sẵn một sợi dây chuyền hai lượng vàng y, (má cho anh, má nói anh để dành, đề phòng nếu má chưa kịp chuyển tiền phòng trọ, ăn học & tiêu xài lên cho anh, thì anh cầm đỡ nó mà xoay xở, rồi khi má chuyển tiền lên, thì anh đi chuộc lại). Mỗi ngày anh cứ lấy xe vespa ra tiệm vàng Bùi thị Hiếu cầm sợi dây chuyền, anh lấy xấp tiền, chạy về đánh bài tiếp.
    Ăn bạc thì anh chạy ra chuộc nó lại. Bỏ sợi dây chuyền vô bóp chưa nóng túi, thì thua bài; anh lại chạy ra cầm sợi dây chuyền. Cứ xoành xoạch cả ngày và đêm như thế. Đến nỗi khi thằng con bà chủ tiệm vàng thấy anh vừa chạy vô tiệm, là nó chả thèm nhìn, chả thèm cười nói gì, nó cầm sẵn xấp tiền đưa anh, rồi nó cầm sợi dây chuyền cất vào tủ vàng, nó biết anh đã “chai mặt, chẳng có hồn”, nên nó không viết giấy tờ cam đoan biên nhận (như mấy lần trước) gì ráo.

    Tụi anh đánh bài luôn trong hai ba tuần lễ nghỉ Tết, khi nào mệt không thể ngồi, thì anh đi ngủ chập chờn ở xó xĩnh trong nhà ông bà Tạo chủ chứa bài lấy tiền xâu. Liền đó có tay khác chầu rìa điền vào thay thế ngay. Cơm nước cà phê ở dưới tầng hầm đưa lên, có vợ chồng ông Tạo nấu cho bọn đánh bài ăn ba bữa, dĩa cơm và thức ăn gì đó chẳng biết, tụi anh ăn đại khái, chứ chẳng cảm thấy no nê & ngon miệng. Đa số tiền bạc của tụi anh thua, là nằm gọn ở trong túi dày cộm của “ông bà xâu”, rồi họ lại cho bọn anh vay bạc có lãi cao, mà đánh bài; chớ bọn sinh viên ít có thằng nào hí hửng ra về vì ăn bạc cả.

    Mê bài bạc chơi hoài, chơi mãi, tất nhiên anh thua sạch, cháy túi, chẳng còn gì cả để chuộc lại sợi dây chuyền! Thấy bọn sinh viên Bửu, Tâm, Long, Thành, Tân, vân vân... ủ rũ nằm nhà co quắp, đói meo, anh “nổi máu anh hùng rơm” lên, bèn chạy tới Ấp Ánh Sáng tìm ông Thượng-sĩ Hồ, ông nầy mê chiếc xe vespa của anh lắm, cứ đòi mua, lúc trước anh không chịu. Anh đem xe đến, ban đầu anh chỉ dự định “cầm” ít ngày, rồi chuộc lại thôi. Nhưng đến nơi, nghe lời ông ta “ngon ngọt dụ dỗ", anh đồng ý bán rẻ rề cho ông Hồ. Chiếc xe vespa đời mới trị giá 50.000$ mà ba má mua cho anh, là “gia tài” cuối cùng trong đời sinh viên! Anh giao giấy tờ và chiếc xe, rồi kêu taxi ra về.
    Anh bao taxi đưa cả “đồng bọn lu la” đi ăn khuya ở đường Phan Đình Phùng, gần rạp ciné Ngọc Hiệp, bao cho chúng nó ăn cơm Tàu một bữa no nê, cho bỏ tức những ngày đói khổ trắng tay vì cờ bạc. Rồi anh cho mỗi thằng ít tiền còm tiêu vặt. Anh lo trả nợ nần (do cờ bạc mà gây ra). Tiền không còn dư bao nhiêu, anh đành mướn phòng trọ nhỏ hơn trên Võ Tánh, trả tiền nhà trước bốn tháng, để ngày ngày anh có thể đi bộ đến đại học cho gần.

    Anh lại bắt đầu sống một ngày buồn tẻ như mọi ngày trống trải, bê tha, đơn điệu vô vàn làm sao. Biết là bệ rạc tồi tệ như thế, mà anh vẫn lao đầu vô... các động tiên nằm dài, phần lớn anh nằm đó nghe mấy cha nội lão luyện kể chuyện tiếu lâm, chuyện bù khú, hơn là hút. Anh tấp vào quán cà phê, ngồi lì đến khi đói bụng, anh đi kiếm chút gì ăn qua loa, rồi ghé vào chỗ nầy chỗ nọ. Mấy lần anh đi nhảy, đi chơi với ca sĩ Ly, và Lan, cùng thằng Giàu, Minh, Lộc, là sinh viên, và hai ba thằng cù bơ cù bất nữa. Tụi nó “bu bám” theo anh và tôn anh lên “đại ca”. Hê hê hê! Thằng Lân và Lý có chiếc xe MGA, tụi nó chất bia lên xe chạy trước, nhóm kia đi bộ theo sau.
    Thường tụi anh tụ tập khá khuya, hầu hết tiệm ăn trên phố đã đóng cửa, thành thử tụi anh lo thủ sẵn mồi. Khuya lắm, khi sương mù dày đặt bao phủ thành phố tĩnh mịch, che khuất cảnh vật. Đi mỏi chân, thì tất cả tụi anh ngồi xuống bờ cỏ ven đường, lấy két bia và tí mồi ra nhậu. Gần sáng anh về ngủ chung một giường với hai nữ ca sĩ áo quần xộc xệch nằm hai bên, đầu tóc bù xù, mặt mày trôi tuột phấn son coi lem luốt vì thấm sương giá, "bọn nó" tha hồ chọc phá nhào nắn anh, bắt anh nằm giữa làm “cục nhưn”. Anh tỉnh queo chẳng có hứng thú gì, chỉ nằm “độn” mà vật vờ ngủ đến sáng.

    Cứ như thế, anh buông thả cuộc đời mình lờ đờ trôi đi, như con thuyền dập dềnh bấp bênh trôi trên dòng sông, anh đã đem đời anh vứt xuống vực thẳm rồi. Những đêm dài đốt đời trong ly cà phê đắng và khói thuốc, nằm la cà ở những động hút xách, hầu giết dần sự chán chường. Cho đến cái đêm định mệnh mưa to gió lớn... anh tình cờ gặp em đi với "ai đó" vô tiệm ăn Mỹ Hương! Ấy là lúc trái tim anh đã tan nát vỡ vụn và đời anh hoàn toàn sụp đổ. Vì, anh biết chắc chắn anh đã mất em.

    Như anh đã kể trên: anh đang học năm thứ Hai trên viện Đại-học Đà Lạt, mà suốt đêm đi la cà, lêu lổng. Ban ngày ít khi anh lên đại học, nếu anh có lên viện không phải để học, mà để thanh toán những phần tử phá bĩnh, có ý định chi phối thành phần tổng hội sinh viên cũ. Họ là một nhóm sinh viên mới từ Sài Gòn lên. Nghe tin nhóm đó có ý định tổ chức họp sinh viên Đà Lạt, mà không xin phép, nghĩa là không có ý kiến của Tổng Hội cũ. Với tư cách là Phó Chủ Tịch của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam, anh đã cảnh báo họ nhiều lần. Họ không sợ. Các anh đã muốn yên, họ không tha. Bọn họ cứ “chọc mũi dùi” vào quậy phá các sinh viên trên Đà Lạt hoài. Tức điên người. Không chịu nỗi.
    Hôm đó anh vừa đi lên con dốc viện, chợt thấy trên đại học có một nhóm chừng bốn, năm tên sinh viên đi ngược lại. Tay cầm đầu tên là Chân. Chúng cầm dây xích, dao, cầm gậy nhọn. Anh đã chuẩn bị từ trước, nên anh kêu bọn: Điều, Độ, Trương Anh, Bích đen, v.v... lên chận chúng ở dốc gần đại học. Thấy chúng nó vừa ló dạng ở đầu dốc, tụi anh rượt đuỗi, đánh chúng một trận tả tơi. Thế là chúng bỏ "vũ khí" chạy có cờ.

    Mấy "thằng bạn hờ lơ tơ mơ, cù bơ" trên kia (của anh) chạy theo bọn đó, phần anh rượt theo tên cầm đầu, thằng Chân đứng lại giơ cao đoạn dây xích lên quay vù vù, nó định đập vô đầu anh. May là anh né khỏi, anh bay người tới đá mấy cú “song phi lao” vào mặt, vào ngực hắn. Thằng Chân hụp xuống lấy con dao nhíp kẹp dưới ống quyển, hắn xông tới quơ lên. Thế là con dao ghim vô bắp chuối anh, máu bắt đầu chảy. Anh bị thương nên không thể chạy nhanh, nhưng anh cứ rượt theo hắn. Hắn chạy trối chết vào cổng đại học, hắn xộc vô toà nhà của cha Lập (Viện-trưởng) núp. Sau nửa buổi, cha viện-trưởng mời anh lên, cha ôn tồn giản hoà. Một cuộc giàn xếp được tổ chức giữa hai phe nhóm. Vì rất nể cha Viện-trưởng, nên "phe chúng ta" uể oải miễn cưỡng bắt tay bọn chúng. Lúc ra tới cổng đại học, anh chỉ tay vô bọn chúng, nói:
    - Ngày mai, tao còn thấy bọn mầy lãng vãng ở đây. Đừng trách tao ác nghen.

    Chúng nó sợ teo người hết dám chọc ghẹo ai ở Đà Lạt, lo kéo cả băng “chuồn” trở về Sài Gòn. (Ồ, thì ra hồi anh học năm đầu khóa Chiến Tranh Chính Trị, có một nhóm ở Sài Gòn lên, tay cầm đầu ấy tên là Chân. Bi giờ hỏi ra anh mới biết, thằng Chân chính là anh họ của cô tình nhân mới Trân Thư của anh. Thiệt ngao ngán)!!! Buồn cười nhỉ!

    Một thời gian khá lâu lúc anh còn học Y Khoa ở Sài Gòn, trước khi lên học tại Đà Lạt, anh có quen thằng tên Đại-công-tử, là tay giang hồ đàn anh khét tiếng thời bấy giờ. Nay nó đã trốn lên ẩn nấp ở Đà Lạt. Mấy lần, khi đến phòng trọ thăm nó, anh thấy nó ngồi lầm lì, im lìm câm nín ở góc nhà. Suốt ngày im lặng, nó hậm hự luôn tay cắm cúi mài liếc con dao. Dù dao đã bén, mà nó vẫn mài miết. Anh khuyên bảo:
    - Đừng vì thù, mà trả thù dai dẵng như vậy. Rồi thù nầy chất chồng lên thù kia. Em hãy sống bình an, ngay cả trong tâm hồn em cũng cần lặng yên.

    Sau ít lâu, thấy nó tội nghiệp, {vì anh biết thật tình nó muốn sám hối, quyết chí tu thân sửa mình, không muốn quậy nữa. Nó xếp con dao sáng loáng vô xó góc, không mài con dao bảy (loại dao to, dài chừng 30cm, rất sắc bén, thường dùng đi rừng). Nên anh đã cho nó ăn ngủ ở nhờ free mấy tháng trong phòng mình}. Khi thằng Đại rất tự trọng không muốn làm phiền anh, nó vừa dọn đi khỏi phòng trọ của anh, nó ở chỗ khác mới có năm ngày, thì bị bọn thằng Xì Rô, và vài người khác (giả dạng mặc đồ quân nhân, mà không phải sinh viên), kéo nhau ra chận đường nó ở gần vũ trường Maxim’s. Chúng chém thằng Đại chừng năm sáu dao gì đó. Khá may, nó chỉ bị thương. Sau khi ngã từ trên taluy cao xuống đất, nó bị trầy trụa, bị trúng ba lát dao không nặng lắm vào lưng, và mấy lát dao ở tay, chân, (như sau nầy anh kể lại cho Duyên Anh đã viết về “Vết thù trên lưng ngựa hoang” của nó).

    Lúc đó anh cùng ca sĩ Ly, và một nhóm đàn em của thằng Đại, đang nằm hút ở “Vòm anh Hai ghen”. Nghe thằng Hi chạy về báo tin, "chúng tôi" chạy ra, thì tất cả đã tan hàng. Chỉ còn lẻ tẻ mấy bà con cô bác đứng xầm xì, xôn xao to nhỏ bàn tán. Anh hỏi thăm, đã biết nó đi nhà thương. Anh chạy lên bệnh viện dáo dác tìm kiếm và hỏi thăm. Họ nói:
    - Đúng là có một người bị mấy vết chém trên lưng, tay, chân, nhưng không nặng lắm. Ông ấy vừa đi khỏi đây.

    Khuya ấy sắp tàn, khi trở về phòng trọ, anh thấy trên ổ khoá của phòng mình có một vật gì đen đen, treo tòn ten trên hai cái khuy của ổ khoá. Nhìn kỹ, thì anh chợt rùng mình, sợ kinh khủng! Đó là hai quả lựu đạn MK2. Theo thói quen thường nhật khi nào đi ra khỏi nhà, thì anh bấm thêm ống khóa ở hai khuy ốc vít móc bên ngoài. Nhưng sao hôm ấy, tự dưng anh chỉ khoá ống khoá chìm ở trong cánh cửa, mà không móc thêm ổ khoá bấm ở ngoài. Thế nên bọn nó tưởng là anh đang ngủ trong phòng. Mất hồn, anh chạy bộ từ phòng trọ lên dinh Tỉnh Trưởng (lúc đó là Trung-tá Phấn). Tửng bưng sáng, anh xin gặp Trung-tá và trình bày sự việc. Ông cho xe jeep chở chuyên viên bên quân đội đến tháo gỡ “của nợ giết người khủng khiếp” ấy đi. Ông nhìn anh trầm ngâm hồi lâu, rồi từ tốn khuyên:
    - Rõ ràng có người muốn giết em. Cách tốt nhất là: em hãy mau trốn đi khỏi chỗ nầy, em tạm thời “chui” vào trong quân đội. Em mới có thể sống sót. Chứ không thì trước sau gì có ngày em cũng bị... toi, ngoẻo đó.

    Anh đã hiểu. Chỉ còn duy nhất một con đường anh phải thu xếp, ổn định cuộc sống khá hơn, không thể sống bệ rạc bừa bãi, buông thả, đã “thả nổi” cuộc sống mình bê tha quá tệ như hiện nay. Mặc dù thời sinh viên mình chỉ góp tay “trừng trị” cái bọn côn đồ du đãng thôi, ấy thế mà cũng bị vạ lây! Cộng thêm vào niềm đau đớn khi mất người anh yêu, là mất tất cả, anh chẳng còn mảy may hy vọng gì, mà nấn ná ở lại Đà Lạt! Thời gian rối rắm nầy, anh không thể gặp “em yêu”, em lẫn trốn anh, anh không thể thấy em. Đôi khi anh muốn gặp em để giải thích cho em rõ hoàn cảnh éo le hiện tại. Anh ân cần muốn cùng em, đề nghị chúng mình nên ngồi bên nhau vui vẻ êm đềm trò chuyện, hầu tìm một biện pháp dung hoà thích hợp cho đôi ta.
    Nhứt là khi anh nghe em ân cần dịu dàng thỏ thẻ nói lời hay ý đẹp bên tai mình, thì anh rất bình tĩnh lắng nghe và suy nghĩ. Ôi! Làm như cái số kiếp chúng mình đã vĩnh viễn phân lìa rồi hay sao em ạ. Hễ anh thấy “em yêu” đi với các bạn gái, thì y như rằng, em không nhìn thấy anh. Ngược lại... có thể em cũng vậy! Phải không nào? Cuộc rượt đuổi vô vọng trong bóng tối như sự trốn tìm mãi hoài tiếp diễn. Vậy, anh mong em thông cảm, xin hãy nghe anh kể lại chuyện cũ đời xưa riêng anh một lần duy nhất, và có thể là cuối cùng nhé. Có một điều em không hề biết: nỗi đau khổ từ ngày mất em dâng cao ngút ngàn ra sao. Hết thật rồi. Rất phù du...
    ***
    Sau bốn năm chia lià em, bây giờ, anh đang đứng trên bon tàu Hàng Không Mẫu Hạm nhìn ra đại dương mênh mông xanh thẳm, bầu trời rộng thênh thang bao la nầy tưởng nhớ lại dĩ vãng, rồi so sánh: quá khứ, hiện tại, tương lai… mà cân nhắc, suy nghĩ, chọn lựa... Anh đã “phản bội quá khứ” ngoảnh mặt đi về hướng đời tách bạch khác, nơi chân trời phía trước mặt đang có một cuộc sống đổi mới, hoàn toàn tươi sáng rạng rỡ & có tương lai, và chắc chắn có hạnh phúc hơn. Anh đã để lại trên đời sống mình một lỗ hổng khổng lồ, một vết sẹo kinh hoàng trong quá khứ & tình cảm.
    Từ nay anh không thể trở về để sửa lại dĩ vãng. Càng không muốn quay nhìn lui quá khứ, mà chỉ nhìn tới phía trước. Anh như con rắn khi lột da xong, nó thản nhiên bò đi, chẳng cần biết nó đã vất lớp da khô đét ở chỗ nào; như anh đã trút bỏ quá khứ muộn phiền áo não không do dự vậy. Em có thấu hiểu cho anh chăng? Đích thực cuộc sống mới hiện tại trong đời anh là: từ khi anh đăng vô Không-quân, nơi nầy đã rạng rỡ bừng dậy sự tin tưởng, tràn đầy hy vọng qua những tháng năm học hành ở quân trường, lúc anh thực hành trên máy bay. Anh phải thực hiện ước mơ nầy cho bằng được mọi giá phải trả.
    Nếu thiếu lòng kiên nhẫn chịu đựng và cần cù, thì có thể không thành công bất cứ việc gì. Anh đã đọc được mấy câu rất hay ở đâu đó thế nầy: "Thời gian hàn gắn gần như mọi sự. Hãy để cho thời gian có thì giờ". (Time heals almost everything. Give time time) & “Hãy chôn quá khứ, để hiện tại không bị xáo trộn”. (Make peace with your past so it won’t screw up the present). Phải không em yêu!?

    Đến đây, anh nói lời tạm biệt, mong thư em lắm, để thân mời em xem cuộc hành trình tuyệt vời của các anh sinh viên sĩ quan Không-quân đang tiếp diễn mỗi ngày trên đất khách quê người, anh sẽ nối tiếp ở thư sau nhé em yêu. Anh rất nhớ em, xin phép hôn… lại em nhen. Chịu hông?
    Lữ Phi Hành
    *
    Tình Hoài Hương
    Trân trọng kính mời độc giả xem tiếp chương sau.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  5. #23
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Trên Hàng Không Mẫu Hạm

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Nhì
    Chương 18



    Làm Sao Mà Quên Được
    Nhạc và Lời: Phạm Duy
    Giọng ca: TTMD
    Trên Hàng Không Mẫu Hạm
    Tình Hoài Hương
    ***



    Đợt 25.-

    Em gái thương,
    Con tàu dềnh dàng rất to lớn, bự sư không thể tả, và đồ sộ ấy khá tự tin & kiêu hãnh! Vì được thiết kế hoàn hảo tuyệt vời như một “mê cung cao sang, đài các” được "quý phái" mệnh danh là: “Hàng Không Mẫu Hạm”. Ngoài việc con tàu thiết kế nguy nga như một “cung đình thủy giới uy nghi tráng lệ ở đại dương bao la và hùng vĩ”, thì con tàu đã trang trí tối tân, đầy đủ tiện nghi. Maps trên tàu cho ta thấy rất nhiều phòng ốc, có những cánh cửa hình trái xoan dày và êm, chống ẩm không thể thấm nước, mọi thứ rộng rãi, sạch sẽ.
    Điểm chính đáng vô cùng đặc biệt ngoài sự con tàu có rất nhiều phòng ốc, tàu Hàng Không Mẫu Hạm có thể chứa nhiều phi cơ, xe hơi, máy móc,... có công kỹ nghệ tối tân nhưng cũng phức tạp, có máy phát điện to lớn riêng, để cung cấp cho toàn bộ con tàu thêm tiện nghi hoàn hảo. Nhiều kho hàng chứa thực phẩm tươi sống và đông lạnh to lớn. Trên tàu có nhà hàng, có bệnh viện, nhiều khu giải trí hữu ích lành mạnh; không khác gì một thành phố nổi, đầy đủ tiện nghi mà lênh đênh uốn lượn trên sóng cả ba đào giữa đại dương mênh mông.
    Động cơ tàu là một cổ máy có công suất rất cao, có lực đẩy lên khoảng 90.000 tấn, tốc độ 35 dặm/h. Bon tàu xiên góc (angled deck) lợi hơn bon thẳng (fore-and-aft deck): vì dễ điều khiển phi cơ cất cánh và đáp, nhìn bon tàu trống trải, thì mình cảm thấy thoải mái, thênh thang, an toàn khi phi cơ lớn đáp trên tàu dễ dàng.
    Ngoài ra, tàu Hàng Không Mẫu Hạm có các điểm chính:
    - Trung tâm điều khiển toàn diện bay (Primary Flight Control).
    - Kiểm soát Không-lưu (Air Traffic Control).
    - Đường Băng (Flight Desk) .
    - Gian chứa máy bay (Hangar Bay).
    - Có giàn phóng máy bay đặt dưới đường băng, khi phi cơ vô ở gian chứa máy bay rồi, cánh phi cơ có kỹ thuật tuyệt hảo, ấy là hai cánh phi cơ được xếp lại gọn gàng, rotor của máy bay trực thăng được xếp lại ngay ngắn. Thiệt ngộ và dễ thương! Ở trong Hangar, khi phi cơ được đưa lên sàn tàu chuẩn bị cất cánh, thì có người chịu trách nhiệm điều khiển đội bay, là người “kiểm soát đường băng” ở văn phòng đài chỉ huy được gọi là Running Hand, trong tay họ có những cây đinh ghim đủ màu, có mô hình “The Ouija Board” chứa nhiều phi cơ giả, & các đường băng (giống hệt như ở trên sàn tàu nầy, nhưng mô hình được thu nhỏ lại khoảng 70%), cho người điều hành không lưu có thể nhìn tổng quát, mà điều khiến mọi hoạt động trên sàn tàu. Họ (cơ trưởng của bộ phận nhiên liệu, vũ khí, hậu cần, v.v…) túc trực quanh đó, cũng phải đội mũ bảo hiểm, mang mặt nạ, găng tay…. Để bảo đảm họ không bị thương vong.
    Đợt 26.- Các kỹ sư Hải Quân sáng tạo ra hệ thống Rainbow tinh vi, tuyệt vời cho mình phân biệt rõ về việc:
    * Mặc áo giáp nỉ màu vàng: chịu trách nhiệm khi phi cơ cất cánh, hạ cánh. Hướng dẫn phi cơ di chuyển (Yellow Shirts: Aircraff Handlers).
    * Mặc áo giáp nỉ màu trắng: điều khiển phi cơ hạ cánh. (Việc hạ cánh trên tàu nhanh hơn trên phi đạo gấp 2 hoặc 3 lần).
    * Mặc áo giáp xanh: Nhân viên bảo trì thiết bị, có bổn phận móc phi cơ vô giàn phóng & chịu trách nhiệm ngăn ngừa tai nạn. (Green Shirts Equipment Opeators).
    * Mặc áo giáp nâu: nhân viên cơ khí, có nhiệm vụ coi sóc phi cơ trên đường băng. (Brown Shirts: Plane Captains).
    * Mặc áo giáp tím: nhân viên tiếp nhiên liệu cho phi cơ (Purple Shirts: Fuel Technicians).
    * Mặc áo giáp đỏ: nhân viên lo vũ khí, đạn dược... (Red Shirts: Weapons Handlers).
    Mọi người trên tàu cộng tác với nhau thân tình & ăn ý, sít sao, chặt chẽ, tinh tường. Vì trên sàn bay rất ồn ào, dù có phóng mười mấy cái loa mà gào lên rõ to, nhưng ai ai cũng điếc chả ai thèm nghe; nên họ phải dùng cử chỉ lưu loát, nhanh nhẹn & dứt khoát, nhịp nhàng (ra hiệu bằng tay như ngôn ngữ người câm) để giao tiếp với nhau, mà điều khiển phi cơ: cho phi cơ di chuyển lên phía trước, hoặc lái qua trái, qua phải... Cơ trưởng đứng bên cánh trái của phi cơ, ra hiệu cho phi công quay máy, viên phi công đã liên lạc với đài kiểm soát, anh ta hai tay ôm cần lái, cần ga... đã gật đầu ra hiệu sẵn sàng di chuyển, sẵn sàng cất cánh tại giàn phóng, thì nhân viên quan sát toàn bộ đường băng vẫy mạnh tay ra hiệu GO cho phi cơ cất cánh trơn tru.
    * Đây gọi là Trung-tâm điều khiển Bay (Primary Flight Control), là đầu não của các bộ phận quan trọng, liên kết với nhau trên Hàng Không Mẫu Hạm, (nằm trên tầng cao của tháp chỉ huy). Luôn luôn có hệ thống tin tức cập nhật, chính xác từng phút thích hợp (integrated Ship information System) ở trên tháp chỉ huy; gọi tắt: ISIS. Nó liệt kê chính xác số lượng phi cơ đã rời tàu, đang hiện hữu & cập nhật các phi vụ, cùng mỗi phi công đang thực hành phi vụ.
    * Trung tâm Kiểm Soát Không Lưu trên tàu: CATCC (Carrier Air Traffic Control Center) nằm ở dưới đường băng. Nếu thời tiết xấu, tầm nhìn bị hạn chế, thì họ phải dùng radar theo dõi máy bay & dùng đến CATCC giúp phi công quay phi cơ trở lại sàn tàu chính xác & bảo đảm an toàn.
    Khi chuẩn bị mọi việc xong, sĩ quan phụ trách giàn phóng gọi là Shooter (xạ thủ) ra lệnh cho phi công chuyển qua chỗ cất cánh ở khu vực mũi tàu. Nơi đây có nhiều luồng khí đẩy mạnh hơn, việc phóng máy bay trên tàu quan trọng chính là: sử dụng hơi nước. Cỗ máy nầy sẽ kéo máy bay chạy dọc theo đường băng, cho đến khi nào phi cơ bay vọt lên không trung.
    Giàn phóng dài 300 feet, gồm piston cylinder nằm song song ngay ở mặt bon tàu, nối kết phi cơ với piston, được đặt trong một cái rãnh chạy dọc theo đường băng; Từ cách hướng dẫn, vận hành, thiết bị… được nối vô mũi của càng đáp trước và nối vô giàn phóng. Thanh định vị giữ phi cơ đúng, thì giàn phóng hơi nước có áp suất cao, và điều chỉnh sẽ chính xác. (Tùy theo trọng lượng của chiếc phi cơ ấy). Nếu áp suất thấp, thì Module (còn gọi là bubble “bong bóng”) được lắp vô đường băng, phải kiểm soát lại việc phóng phi cơ ra sao. Ngược lại, nếu áp suất quá lớn, phi cơ sẽ bị gãy cái càng đáp. Thật là một việc quá "nhạy cảm" phức tạp, rắc rối, khó khăn, nhiêu khê trăm bề.
    Trước khi cất cánh, ở phía sau tàu mở lên, thanh giằng (gần bánh xe ở trên phi cơ) là các bộ máy hơi nước liền mở ra, để chuẩn bị phóng phi cơ bay đi. Viên phi công thấy hai hình chữ nhật trước mặt ghi: FLY = GO & FRI-FLY = NO go. Phi công giơ tay chào lần cuối, rồi nhấn nút EJECT – lập tức cái thanh định vị được nhân viên điều hành ở bon tàu tháo ra, áp suất hơi nước di chuyển về phía giàn phóng. Chính lúc ấy viên phi công bị đẩy nhanh lướt vun vút theo phi cơ vùn vụt bay đi quá mau!
    Mà điểm đặc biệt nhất là trên bon tàu đã chứa khoảng trăm người di chuyển đang làm việc, nếu không cẩn thận lúc di chuyển, có thể gây ra thảm hoạ. Mục đích của tàu HKMH là cho phóng phi cơ đi, và cho phi cơ về đáp. Tàu đựng khá nhiều phi cơ tối tân, có sàn bay rắn chắc (phi đạo) rộng rãi, sạch sẽ, bằng phẳng, đường băng song song với trục dài của sàn tàu, đường băng thoải mái chìa ra phía trước sàn tàu. Tuy kích cở đường băng ngắn, nhưng vừa đủ kích thước an toàn vững chắc, đầy uy lực để viên phi công tự tin cho phi cơ khi cất cánh ngược chiều gió, tạo sức đẩy tăng vọt lên nhanh, & khi chạy về phía đằng trước mũi tàu với tốc độ 35knot (65km/h). Anh lấy làm lạ và vẫn ngạc nhiên một điều là: dù vận tốc rất nhanh của chiếc phi cơ vun vút lướt bon bon trên mặt băng như vậy, thì sức mạnh & sức gió thần tốc của phi cơ lướt nhanh đang vun vút chạy theo đà, thế mà những nhân viên đứng trên bon tàu trống trải kia không bị cuốn hút theo chiếc tàu bay, là sao nhỉ?
    Trong khi anh đứng trên phía ngoài buồng lái chăm chú quan sát và học tập, hoặc thực hành, anh thấy những tốp sĩ quan điều không mặc áo màu vàng, màu đỏ, màu xanh… áo có pha dính chất lân tinh lấp lánh sáng chói, (áo lóng lánh để dễ nhìn thấy khi làm việc về đêm). Họ là những người lo kỹ thuật cơ hữu, thay động cơ, khung phòng, sửa chữa, có trình độ hiểu biết sâu rộng về kỹ thuật cao và rất giỏi, họ có đầy đủ kinh nghiệm dày công tu luyện, họ nhanh nhẹn tinh tường, làm việc nhịp nhàng ăn khớp với nhau (perfect teamwork). Họ làm tiền phi cho phi cơ sắp cất cánh, & kiểm soát hậu phi, khi phi cơ vất vả trở về.
    Khi "Tàu về"... Một người cơ trưởng đứng dưới đất nhanh nhẹn dùng hai cánh tay ra dấu hiệu, lanh lẹ hướng dẫn phi công lái phi cơ vô taxiway. Một người nữa đứng chờ đợi, tay cầm hai cục gỗ to, khi phi cơ ngừng hẳn lại, thì ông ta sẵn sàng chêm cục gỗ ấy vô bánh xe của phi cơ cho an toàn, rồi sau đó mới tính cho phi cơ "vô nhà nghỉ ngơi". Ngoài việc lo bảo trì định kỳ, khung phòng, cơ trưởng còn sửa chữa động cơ, thủy điều, điện, vân vân… Đôi lúc ở bên trái phi cơ, anh thấy một tài xế lái chiếc xe hơi, có móc cái rờ mọt đựng hành lý. Khi phi cơ ngừng hẳn lại, cánh cửa từ khoang tàu bay mở ra, phi hành đoàn trong phi cơ bắt đầu bước xuống cầu thang.
    Đợt 27.- Khi hạ cánh
    Ba khối dây cáp to, (mỗi khối dây cáp có nhóm pulicap nối với các đường ống thủy lực có piston ở bên trong) có đường kính 2 inches giăng ngang đường băng 15 feet, khối dây cáp chặn nầy nối liền đến hệ thống thủy lực. Khi hạ cánh đuôi phi cơ phải móc vô được một thanh kim loại dài 7 feet với sợi dây cáp, gọi là móc đuôi (tail-hook). Cái móc đuôi khi đã móc được vô khối dây cáp rồi, các sợi dây cáp sẽ giữ phi cơ có tốc độ 150 dặm/h hoàn toàn ngừng lại, êm ru.
    Trước tiên, khoá sinh nhìn hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS), cho hoa tiêu biết độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên hàng không mẫu hạm để hạ cánh. Anh bấm nút cho cái móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft), ở dưới bánh xe sau đuôi phi cơ hạ xuống và thò ra. Trên sàn tàu chạy song song dọc hai đường băng dài (tạm gọi là phi đạo) sơn màu vàng, có ba sợi dây cáp cũng sơn màu vàng giăng ngang bon tàu. Khi mấy bánh xe trước của phi cơ vừa chạm xuống sàn tàu, cái móc đuôi có hình dạng như cây "inox" dài, đầu cây móc hàn dính vô đáy gầm đuôi dưới bánh xe phi cơ, còn đầu kia là cái móc inox hình chữ C tự động móc vô mấy sợi dây đã giăng ngang nơi các ụ cáp. Ba sợi dây móc nầy tinh vi, dẽo dai, bền chắc và ngoạn mục ấy, có bổn phận và uy lực dùng để “cản, kéo" phi cơ dừng lại đúng lúc, và chính xác trên bon tàu. Nghĩa là thứ dây nhợ nầy dường như có một phép mầu nhiệm: sẽ “rị tàu bay” đứng lại như ông thần. Trường hợp dây móc bị hụt, cả ba dây cáp tréo cẵng ngỗng, phi cơ không thể ngừng trên sàn tàu, bắt buộc phi công phải cho phi cơ cất cánh bay trở lên trời.
    Con tàu HKMH luôn luôn di động, bồng bềnh, chồng chành, chao đảo trôi nổi lay động, rung rinh thường xuyên trên mặt biển, không lúc nào đứng yên, thật vất vả vô cùng khi phi công lái máy bay đáp xuống con tàu với tốc độ 150 dặm/h. Tuy rằng trên đường băng 800 feet có sợi dây cáp giăng ngang, vẫn khiến anh phi công dày kinh nghiệm và lão luyện có chút vất vả lo âu nhọc nhằn. Làm sao không!
    Viên phi công bay trên trời rồi đáp xuống con tàu đã vậy, anh áo trắng LOS ở dưới đất liên lạc với phi công qua radio, phải đứng ở đuôi tàu, anh ta dùng gậy đèn (lighted wands), để điều khiển phi cơ hạ cánh trên mẫu hạm, anh lo điều khiển ra tín hiệu hạ cánh LSO (Landing Sirnal Officer). Anh ta cũng khá căng thẳng đầu óc và không kém lo lắng mệt mỏi tột cùng như anh lái tàu bay!
    * Những ánh đèn màu di chuyển chớp tắt được gọi là Meatball , gồm 12 màu xanh, 9 màu vàng, 12 màu đỏ:
    * Tín hiệu đèn đỏ: tránh phi công va chạm khi đáp, phi cơ phải giữ góc tiếp xúc với đường băng khoảng 15 đến 18 giây.
    * Tín hiệu đèn xanh: Phi cơ tiếp xúc với đường băng 3,5/o.
    * Tín hiệu đèn vàng: chớp chớp theo dõi phi cơ lên xuống, hoặc phi cơ bị chệch ra khỏi các góc, không đúng với đường băng.
    * LSO tín hiệu màu đỏ: Give Up là cho biết phi cơ bay quá cao, hoặc quá thấp.
    Đợt 28.- Học
    - Khóa sinh tập dượt đáp phi cơ theo kính chiếu trên đất liền MFCLP (Mirror Field Carrier Landing Practice) - nhiều đợt tập dượt trên đất liền, trên loại tàu chiến hạm như một căn cứ Không-quân ở biển.
    - Học an ninh phi hành áp dụng trên tàu (carrier safety), trắc nghiệm lý thuyết về vòng đáp trên tàu.
    - Học các bộ phận trợ phi (flight support) trên Hàng Không Mẫu Hạm: hệ thống kính chiếu trên tàu (operation of the mirror landing system).
    - Học các cơ chế, tốc độ, sử dụng chân đáp, cánh phụ, móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft).
    - Học loại phi cơ A là attack aircraft yểm trợ không địa.
    - Học lúc máy bay cất cánh từ Hàng Không Mẫu Hạm.
    - Học phi cơ Skyraider có speed brakes ở hai bên hông, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, dùng để đáp Hàng Không Mẫu Hạm. Trong chương trình nầy, khoá sinh học bơi thêm và bơi thành thạo với Hải-quân: (lại bơi ếch, bơi ngửa, bơi sấp, bơi tự do, v.v…).
    - Học cách rời tàu. Học cách thoát ra khỏi lòng máy bay khi lâm nguy.
    - Học Abandon Ship Drill (bỏ tàu khi bị chìm), ấy là học để biết hành xử làm sao, khi phi cơ bị lật… được thầy chu đáo ân cần dạy rất kỹ lưỡng.
    - Học báo cáo lấy cao độ và xuống cao độ vào vòng đáp (climbing and letdown).
    - Học đáp khẩn cấp (giả máy tắt) từ cao độ cao (simulated high altitude emergency), vòng đáp ở các sân bay phụ (outlying fields) & đáp hạ cánh phụ (full flap landing) sao cho an toàn.
    ***
    Đợt 29.- Hành
    Huấn luyện viên cho từng tốp khóa sinh thực hành, và biểu diễn trước nhiều lần cho nhuần nhuyễn. Khoá sinh leo lên cockpit (buồng lái giả), được cài đặt trên một đường rây, đặt trên chiều cao của hồ bơi, từ cockpit cách mặt nước khoảng chừng 10 mét, nghĩa là cao bằng bon tàu nhìn xuống mặt biển ra sao, thì cockpit cũng giống như vậy. Cockpit có ghế ngồi, có dây an toàn, có panel cản lại. Nói chung là: có đầy đủ mọi thứ cần thiết, để bảo vệ an toàn cho khoá sinh thực tập. Cockpit giống hệt như một buồng lái phi cơ thứ thiệt.
    *.- Sau đó học cất cánh và xử dụng. Lúc mở máy là một vấn đề khó khăn phức tạp không ít, nếu khoá sinh thò tay nhấn primer lâu quá, thì carburetor bị flooded (ngộp). Nếu ít (nhanh, mau) quá, là bị bắt lửa sớm (backfire). Lúc nào ông cơ trưởng cũng theo dõi từng động tác của phi công, ông ta tinh ý biết ngay là có vấn đề trục trặc, ông vội vã leo lên "phi cơ", coi butterfly valve có bị bung ra không, xăng có rò rỉ ở đâu không, & có bị sút dây hoặc cháy gì không.
    * Lúc cất cánh, anh phải bình tĩnh nhanh nhẹn vận dụng hết sức lực, mắt lướt nhìn tổng quát tất cả đồng hồ phi kế, tai lắng nghe hiệu lệnh, tay ôm cần lái, cần ga... giữ phi cơ chạy thẳng trên một đường gạch màu vàng dài, chạy suốt theo đường băng đã vạch sẵn trên sàn tàu, khi thấy sau đuôi phi cơ xịt ống lửa quyện khói ngùn ngụt phụt ra, ấy là lúc chân mặt của anh kềm bánh lái thật mạnh, "gồng mình" cho bánh đuôi hỏng lên, nhanh chóng làm sao cho bánh đuôi hỏng lên, mới dễ giữ phi cơ chạy thẳng được.
    * Đáp, phải giữ đúng three-point attitude để luôn chạm bánh ba điểm. Chạm bánh rồi, ôm cần lái vào bụng, hai chân luôn làm việc, giữ phi cơ chạy thẳng, chân trái đạp mạnh hơn.
    Đợt 30 .-
    Trong Không-Lực Việt Nam (VNAF) từ năm 1963 đến 1965, chỉ có 74 người đặc biệt tuyển chọn, để đi học US Naval Aviator (Phi-công Hải-quân. Đeo cánh Vàng) Còn bên USAF hay VNAF, chỉ đeo cánh Bạc. Thế nên, các phi công do US Navy đào tạo, đều đòi hỏi kỷ năng và tài nghệ khá cao. Sau khi kiểm soát kỹ càng, các học viên mang dù, được gài chặt vào ghế rồi. Huấn luyện viên hỏi:
    - Ready?
    Khoá sinh tự tin đưa ngón tay cái “thumb up”. Ông thầy gật đầu kéo cái chốt. Thế là hai buồng lái giả nầy tuột băng băng bon bon xuống “dốc rây” dựng đứng cao tít trên không trung, rơi tõm rất nhanh xuống nước. Sau đó buồng lái lật ngược, chổng mông lên. Học viên “tá hoả tam tinh” như bị trời giáng cho một cú búa tạ vào đỉnh đầu. Nguy hiểm thật.
    Một lần khác, khoá sinh học cách thoát ra khỏi máy bay khi đáp xuống biển, có một phi cơ bị lật ngửa. Viên khoá sinh bị dây đai nịt an toàn cột chặt vào ghế. Nhưng ông huấn luyện viên biết cách điều khiển sự nguy hiểm ấy trong nháy mắt. Nhân đó thầy tập họp khoá sinh lại, thực hành về điều “mắt thấy tai nghe miệng đọc” liền.
    Đợt 31.-
    Điều đầu tiên là: khoá sinh bình tĩnh ngồi yên, chứ mình càng loay hoay vì nóng ruột, hồi hộp, nôn nóng, lo âu bao nhiêu, càng dễ phạm sai lầm khi nhìn mọi việc xảy ra chung quanh. Tiếp theo sau đó, anh mới thao tác từng việc một, anh phải đếm thầm: “One thousand one, one thousand two… one thousand five”... , rồi nhanh nhẹn tháo gỡ dây an toàn bụng và vai. Mặc nước bọt xoáy tùm lum. Khoá sinh tháo dây an toàn, dây radio, ngồi chồm hỗm lên ghế mà đạp rất mạnh. Thoát ra bên hông, anh nhanh chóng bơi ngay ra xa, để tránh chiếc phi cơ tạo ra lực kéo, lôi mình tụt vùn vụt xuống nước sâu hơn.
    Nhớ hồi xưa khi ba có chiếc xe hơi. Mặc dù xe hơi có chú tài xế Bảy chăm sóc, nhưng tính anh khi lái xe đi đâu, là anh đi một vòng quanh xe kiểm soát kỹ, trước khi leo lên xe ngồi lái. Ở trường bay cũng thế! Trước khi điều hành phi cơ, tự mình phải cẩn thận đi xem xét mọi thứ, việc nầy gọi là Pre-Flight check.
    Bên Không-quân cũng thế! Khoá sinh đi một vòng kiểm soát từng bánh xe, từng chong chóng, xem xét hết mọi ngỏ ngách phi cơ cẩn thận. Xem có rịn rỉ dầu nhớt ở đâu không. Vì khi mình mở công tắc lên rồi, chỉ cần chậm năm giây. Là nó “nổ cái đùng”, toi mạng như chơi. Thậm chí anh còn cẩn trọng mở bình xăng ra, coi màu xăng ra sao nữa: Vì em có biết không, mỗi loại máy bay, có một màu xăng rất khác nhau, khác hẳn, riêng biệt, chắc chắn khoá sinh cần phải học thuộc lòng:
    - Xăng màu tím: để dùng dành tiêng cho phi cơ phản lực.
    - Xăng màu xanh lá cây: để dùng cho phi cơ cánh quạt một động cơ.
    - Xăng màu vàng: để dùng cho phi cơ cánh quạt nhiều động cơ.
    Ấy thế mà, có lần anh thoát chết đó em à. Hôm ấy, chả hiểu sao, thay vì nhân viên có trách nhiệm điều hành đổ xăng máy bay cho loại cánh quạt. Nhưng họ lại lầm lẫn đổ loại xăng máy bay phản lực vào phi cơ anh sẽ lái. Khi mở nắp bình xăng ra xem, anh thấy xăng khác màu quy định. Anh mất hồn mất vía, lập tức anh vội chạy rất nhanh lên phòng điều hành, yêu cầu họ kiểm soát mấy chiếc phi cơ ấy lại. Anh không nhận chiếc máy bay nầy. Họ và anh lật đật chạy xuống chiếc phi cơ sai lầm kia. Đúng y bon vì sự bất cẩn trọng đại đó! Tốp lính bảo trì có lẽ không biết về việc lẫn lộn xăng nhớt. Có lẽ họ quên, hay họ chả để ý, không rõ. Nên thay vì họ cho chiếc xe bơm xăng chạy vào khu máy bay phản lực, (cách đó vài chục mét). Họ lại lầm lẫn chạy xe quẹo vào khu vực đậu máy bay cánh quạt. Hú hồn hú vía em nhỉ! Tối hôm đó anh bỏ ăn mất ngủ, lật đật về phòng trùm mền mà lạnh toát người run lập cập ... trước tiên anh nghĩ đến ba má, anh chị, nghĩ đến em gái út Hồng Hạnh, anh chồm dậy viết và gởi em lá thư tâm tình, mặt vẫn xanh như tàu lá chuối.
    * Đợt 32.- Lần Đầu Tiên
    Anh đứng trên bề cao của trường tập, cao khoảng hai mươi mét, chiều cao tương tự như trên bon tàu của Hàng Không Mẫu Hạm nhìn xuống mặt biển, anh bình tĩnh xếp hai cánh tay tréo qua hai bên vai, sẵn sàng trong tư thế chuẩn bị. Khi thầy hô “nhảy”, anh nhắm mắt, toàn thân nhảy thẳng đứng xuống nước cái ùm. Vì sao thân thể lại cứng đơ thẳng đứng (như thân cây chuối từ trên cao tít bị dộng xuống biển)!? Vì nếu anh đang đứng ở trên độ cao ngất kia, mà anh giăng ngang hai cánh tay ra, cũng như giăng xoạc hai chân ra, khi thân thể mình va đập mạnh vô nước, với tốc độ quá cao, nhanh kinh hoàng đó, mình có thể bị gãy tay, gãy chân như thường. Em có hiểu không?
    Như đã nói ở trên: Bên Không-quân có đường phi đạo dài độ 3 miles, để phi cơ đáp xuống. Còn bên Hải-quân, chỉ có cái bon tàu Hàng-không Mẫu-hạm luôn bập bùng, lênh đênh, bềnh bồng, chiều dài chừng 200’ Yellow Zone hay Landing Zone, thì trên Hàng-không Mẫu-hạm, chỉ dài độ 30mét thôi. Cách nhau độ 10mét, có một dây cáp. Nếu máy bay đáp trong phạm vi nầy, dây cáp sẽ tự động bật lên. Và cái hook đằng sau đuôi máy bay, sẽ bấm vào kéo máy bay lại, để phi-cơ đáp xuống. Lúc anh thực tập đằng sau mỗi chiếc máy bay của US Navy, đều có gắn cái Hook, (tức là cái móc). Khi nào, phi cơ chạm xuống bon tàu, sợi dây cáp tự động bật lên, để “níu” chiếc phi cơ lại. Nếu anh đáp vượt ra ngoài dây cáp thứ nhất, còn hai sợi nữa. Chung qui, có tất cả độ 90 foots (độ chừng 30 mét) để phi cơ đáp xuống.
    Nếu lọt ra ngoài, một là: Anh phải tống ga cất cánh bay vút lên trở lại. Hai là: Lùi vào Safety Barrier ở cuối bãi đáp, nơi đây có tấm lưới nylon đặc biệt, mới có thể níu kéo chiếc máy bay đứng lại, (bất cứ loại máy bay gì). Rồi tấm lưới ấy đành phải phế thải nó đi. Dù một tấm lưới chi phí ít nhất là một trăm ngàn dollars! Mỹ giàu kinh khủng chưa em? Thứ ba là mình và phi cơ lao xuống biển, đi mút mùa lệ thuỷ thăm hà bá chơi. Ha ha ha!!!
    Cất cánh cũng vậy, nếu ở dưới đất, có thể chạy theo chiều dài của phi đạo. Lúc nào đủ tốc độ, tự động chiếc máy bay sẽ bay bổng lên. Anh chỉ cần kéo nhẹ cần lái, là OK. Còn bên US Navy không được. Mỗi khi muốn cất cánh, thì cái Canopy (cái mũi bằng Plexiglass, một loại nhựa trong) phải để chiếc máy bay đậu ở trên hai cái bệ phóng. Hai bánh xe của phi cơ gắn lên đó (là cái Catapult). Bậc phóng rất mạnh. Có thể đủ sức đẩy những chiếc phi cơ nặng cả chục tấn.
    Anh ngồi an toàn ở trong buồng lái. Lúc thấy người đều khiển ra hiệu lệnh. Anh tống ga hết sức, chân đạp hết thắng, - đồng thời tống hết ga. - Phi cơ gầm thét. Như muốn vọt tới, mà bị dùng dằng níu giữ kềm lại. Lúc nầy anh rất căng thẳng về tinh thần (mấy lần đầu nó giật hai bên thái dương anh tưng tưng), và thể chất tăng cao độ. Khi có dấu hiệu xuất phát, máy thủy điều dưới bon tàu, sẽ phóng chiếc máy bay đi. Tốc độ kinh hoàng nhất. Nghĩa là, phi cơ chỉ cần rời bệ phóng vài giây, là đã đủ tốc độ để bay rồi. Thật ra, anh đi vào chi tiết mong cho chuẩn xác, chứ ngay cả ai được huấn luyện bên Không-quân (USAF) cho dù là phi công, chưa chắc họ đã nhớ hết những chi tiết, những thứ lặt vặt mà anh kể em nghe đâu.
    Anh ngừng bút nhe. Nhớ cho anh kính lời thăm ba má và đại gia đình, mong họ giữ gìn sức khoẻ, và em phải ngoan ngoãn hiền lành thùy mị, học giỏi nữa ha.
    Anh trai,
    Thiệu
    ***
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  6. #24
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Những Cánh Cửa "Vũ Môn"

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Nhì
    Chương 19


    Những Cánh Cửa "Vũ Môn"
    Tình Hoài Hương
    ***



    Đợt 33.-
    Tóm lại, Phi Hành cùng bạn hữu đã tới các trường, các lớp, những nơi cần thiết học tập và thực hành hầu như đầy đủ các bộ môn:
    - Trường Sinh Ngữ Quân Đội Không-quân Hoa (General & Specialized) tại căn cứ Không-quân Lackland, San Antonio, Texas.
    - Trường quân sự Hải quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida.
    - Trường huấn luyện phi cụ IPIS tại Randolph AFB, Texas.
    - Trường dạy Khu-trục tại Hurlburt Field ở Florida.
    - Trường bay Hải quân Hoa Kỳ Corpus Christi, Texas.
    - Trường Hải quân Hoa Kỳ, học về cao đẳng phi hành (Advanced Taining) căn bản trên phi cơ T-34B, & phi cơ T – 28 B / C ; có chong chóng ba cánh, và phi cơ A D-6 Skyraider VT-30, Corpus Christi, Texas. * tại trường Saufley Field và Whiting Field (Pensacola, FlA).
    - Học lớp UPT (I-28 Air Force) trên phi cơ T – 28 A Trojan – Keesler AFB, MS tại Randolph (Texas). V.v…

    Trong cánh cửa "vũ môn" ấy, Hành thích học và thực tập nhứt là loại phi cơ C 130, vì nó bệ vệ an toàn, do có hệ thống động cơ, thủy điều, điện… Những thứ đó có thể thay thế, khi một trong những bộ phận nào đó có chút trục trặc. C 130 thật kỳ diệu, đặc biệt có thể gắp bốn động cơ; chứa được 28,000 gallons xăng JP4 trong cánh, hai bình xăng phụ Pylon Tank.

    Đợt 34.-
    Việc đầu tiên, người chịu trách nhiệm máy móc leo lên nóc check hệ thống cánh quạt lớn, lên ‘tail skid’ check cánh quạt đuôi, rồi anh cơ phi (cơ khí viên phi hành) kiểm soát lại dầu máy, dầu hộp số, coi nó có ở ngay cái vạch an toàn không, anh cẩn thận chu đáo coi hết từ trên xuống dưới, hai bên thân tàu, vân vân... Xong xuôi, anh ra dấu hiệu an toàn 100% - để phi công sẵn sàng chuẩn bị đi "quay cuồng với máy bay" trên không trung bao la. Hành đến bàn sĩ quan trực lập phi trình, điền sổ phi vụ lệnh, ghi nhận toạ độ, coi toạ độ, sau đó anh leo lên phi cơ ngồi gọn gàng trên ghế trái trên phi cơ làm "hoa tiêu chính". Gài dây an toàn, Hành để quyển check list trên đùi xong, anh đội mũ, đeo ống nghe để liên lạc với đài kiểm báo và nhân viên dưới đất. Một tay anh vói lên đầu cần kiểm soát các cầu chì bên hộp trái, và bên phải. Rồi Hành tìm nút overhead panel, để khởi động GTC; kiểm soát 32 cái đồng hồ trước mặt giữa vị trí của phi công chính và phi cơ phụ. Lúc trước thầy làm tới đâu, Hành phải ghi nhớ và học thuộc lòng các động tác. Hôm nay Hành cũng làm y chang như thầy.

    Đợt 35.-
    Những lần sau Hành tập bay solo với bốn chiếc khác, tập bay hợp đoàn (Formation Flight). Hành bay qua Tampa (FLA) vài ba lần. Vì nhà ông thầy ở vùng đó. Theo chương trình suốt thời gian bay, thỉnh thoảng Hành được đi bay không hành nhiều lần. Nghĩa là đến cuối tuần vào chiều Thứ Sáu, Hành lên phòng khí tượng làm Flight Plan (bản đồ bay). Mình có quyền chọn địa điểm nào mình ưa thích, để bay đến đó. Hành báo cho thầy biết nơi mình sẽ đến. Ông thầy chỉ có việc bỏ vào túi xách phi hành (Flight Bag) mấy bộ quần áo. Ông thầy điềm đạm và ung dung lên sân bay chờ Hành. Hành thường chọn bay đến Oklahoma, vì nơi đó có gia đình bà chị đang sinh sống. Sáng thứ Bảy, Hành gọi phone báo cho chị biết tin. Anh chị sẽ lái xe chạy lên phi trường đón em về nhà họ, Hành ở chơi trọn kỳ week-end. Chiều Chủ Nhật, anh chị đưa em trở lại phi trường, Hành sẽ cùng ông thầy bay trở về trường học.

    Bình thường đi bay, ban ngày trời trong xanh gió nhẹ… thật là lý tưởng cho người phi công bay bằng mắt thường, nghĩa là mình dễ điều khiển con tàu, dựa theo cảnh vật bên ngoài mình trông thấy dường như quen thuộc, dễ dàng nhận xét mình đang ở nơi nào hơn, và theo giác quan mình cảm nhận rõ ràng từng vị trí. Ví như nhờ ta nhìn thấy đường chân trời, nên biết mình đang cho phi cơ bay chúi xuống; hay ngóc đầu lên, máy bay đang nghiêng, hay bình phi, v.v… Đó là bay theo mắt trần của mình, nên còn gọi là Visual Flight. Dĩ nhiên cũng có nhiều khi máy bay lướt nhẹ qua những đám mây mỏng lưa thưa, lúc đó làm cho Hành thêm vui tươi hứng khởi, mình có cảm giác lâng lâng, bềnh bồng, lả lướt, khoái cảm nên thơ, thú vị biết chừng nào; đâu cần mộng mơ lãng mạn, mà tưởng như mình đang len lỏi, đùa vui, nắm vuốt dãi áo lụa trắng ngà, mềm mại của các nàng tiên nữ duyên dáng xinh như mộng đang uyển chuyển, phất phơ trong điệu vũ khúc nghê thường trên chốn bồng lai tiên cảnh… đào nguyên! ái dà dá da... thiệt là thích ơi là thích.

    Còn về đêm trời đẹp, nhờ có ánh đèn xa xa của thành phố nầy, thành phố nọ mà mình đã thăm viếng hoặc bay qua vài lần, nhờ vậy mình có thể định vị của máy bay được. Dù có… gay go hơn ban ngày! Ngược lại, bay phi cụ (Instrument Flight) là phi công chỉ bay theo, và căn cứ vào những cái phi kế thôi! Tất nhiên họ phải tin tưởng tuyệt đối vào những cái đồng hồ đỏ quoạch nầy, để uyển chuyển linh động, nhịp nhàng mà điều khiển máy bay, cốt yếu là mình giữ phi cơ bay thăng bằng, lên xuống, hay nghiêng, quẹo, ... đều dựa theo mấy cái đồng hồ! Nó cũng tương tợ như là... "phù chú linh thiêng của vị thần hộ mệnh" ấy mà!
    Mấy tay "lão luyện" nầy khá giỏi, có nhiều năm trong nghề bay, có nhiều kinh nghiệm, thì tay lái "vững vàng tuyệt chiêu" lắm rồi! Hành nghe nói mấy tay bay phi cụ là họ có card trắng hay xám gì đó. Khi phi trường bị đóng cửa vì thời tiết xấu, hạn chế nhiều loại máy bay, những tay được mang card loại nầy họ chỉ cần thông báo với đài kiểm soát card của mình màu gì… số mấy... là họ được quyền cất cánh ngay. Mấy tay “săn bão” chắc cũng thuộc hàng “sư tổ, đại sư phụ” của mấy “ngài phi cụ” nghen!

    Còn Hành, bay đêm nay coi như Visual Flight thôi, vì thời tiết khá trong lành. Tốt nhứt là bay lúc trời sáng sủa là an toàn hơn. Có tầm nhìn cao (Visibility), dù trong lúc bay Hành liếc nhìn vào phi cụ, nhưng không phải chỉ chăm chú bay theo phi cụ không thôi! Do trong tâm trí anh cứ mãi thắc mắc định hỏi thầy, hay tìm tòi học hỏi nơi sách vở, nơi bạn bè, nhưng rồi anh cứ quên hoài quên huỹ, cứ lu bu chuyện nọ chuyện kia, nên Hành không nhớ hỏi thầy, hoặc nhờ các niên trưởng chỉ giáo thêm về sự thắc mắc, mà anh chưa khi nào dám thực hành, chuyện như vầy: Tất cả các loại phi cơ khi bay trên không trung bao la, các huấn luyện viên kỳ cựu đều có thể bay lên, bay xuống, bay thẳng tới trước, quẹo gắt, lật ngửa, thậm chí máy bay úp sấp, hay chổng ngược đuôi lên trời dễ dàng, rồi vèo một cái vút bay thẳng đứng lên trời cao. Mọi việc họ đều thao tác tuyệt vời. Thế nhưng Hành không thể biết: các loại phi cơ ấy có thể bay thụt lùi như mình “de xe lại” được không nhỉ?

    Đợt 36.-
    Sau bao tháng ngày trầy trật bận rộn, nhọc nhằn lo "học và hành", nay Hành bay gần như thành thạo. Bây giờ nhớ lại, cảm giác lâng lâng trong hạnh phúc nhẹ nhàng êm ái của thuở ấy dường như hãy còn nguyên vẹn. Khoá sinh được biết năm vừa rồi có một sinh viên Việt Nam bay đêm như thế, khi sắp về đến sân bay bỗng nhiên phi cơ của anh ta bị lật ngửa. Phi cơ lao xuống khu rừng bên cạnh. Anh ta bị vertigo! (tạm coi như choáng váng, không nhận biết vị thế thật sự của máy bay như thế nào, mà anh chỉ tin vào cái “ảo giác sai lầm” - lúc đó như: về độ cao, sự thăng bằng…). Nhân khi nói đến vertigo, một hiện tượng có thể xảy đến với bất kỳ một phi công nào khi bay… lỡ bị lọt vào trong mây do thời tiết xấu, hay trong đêm tối mịt mùng không một ánh trăng sao! Thì… chao ơi, có lẽ hầu hết ai ai cũng cảm thấy lo lắng như mình. Thật khổ hết biết!

    Khi đã nhuần nhuyễn, thành thạo, và thành công, nghĩa là có trường dạy đưa tặng Hành cái "bằng cấp bay bổng" hẳn hoi, thì sinh viên sĩ quan Không-quân chờ đợi... lúc nào có đủ ba người, họ mới tổ chức lễ phát bằng & có buổi tiệc linh đình. Họ tiễn khoá sinh sĩ quan Không-quân trở về bên US Air Force, để... một lần nữa cần phải học bay bổ túc thêm:
    - Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
    - Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
    - Học Landing Signal Officer (LSO).
    - Học sử dụng cờ màu (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands)
    - Học điều khiển phi cơ hạ cánh trên Mẫu Hạm.
    - Flight Deck Officer (FDO).
    Vì nguyên nhân sau: Chương trình bay với US Navy đã được đặt ra, do từ ông Nguyễn Cao Kỳ đề xướng, khi ông lên làm Phó Tổng Thống, ông nói:
    - Nếu Mỹ sợ dư luận trong nước, và quốc tế, về việc các phi công Mỹ đang ở Việt Nam bị bắn rơi, bị bắt làm tù binh ngoài miền Bắc nước Việt Nam. Hãy xin cho phi công Việt Nam đi bay thay thế. Họ sẽ được huấn luyện bởi US Navy. Họ sẽ được cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm ở ngoài khơi biển Đông. Họ sẽ tiến vào bờ, (nơi vùng đất liền nào đó), để đánh phá các mục tiêu của địch đã định. Sau đó, họ sẽ tự động bay thoát đi, bằng cách là phi cơ ấy quay trở lại với con tàu Mẹ. Tôi tin chắc họ sẽ thành công.

    Hồi đầu Mỹ chịu, nhưng ở miền Nam Việt Nam phải tuyển toàn những người có trình độ Anh-văn cao. Có thể hình tốt, nhứt là những người hoàn toàn tự nguyện mới được. Vì thế, Hành và một số ít bạn được gởi đi học thêm ở US Navy. (Rồi không hiểu vì sao... một thời gian lâu lắm, lúc về sau nầy, lại có lệnh “ngưng” chương trình US Navy ấy. Kể ra, từ năm 1964 cho đến 1967, có tất cả 74 người đi học ở trường Võ Bị Hải-quân Không-Hành, thi đậu chỉ có 40 người, trong đó có Lữ Phi Hành) * Có thể do chi phí "quá tải" nặng kinh khủng khi muốn đào tạo một phi công US Navy, nên họ lo việc "chi tiền" không xuể, chịu không nỗi chăng? Vì thời gian huấn luyện những phi công US NAVY nầy khá dài, tốn kém đủ mọi thứ gần gấp rưỡi gấp hai khi học bên US Air Force. Muốn huấn luyện thành thục một phi công bên Không-quân, kể cả thời gian học Anh-văn ở Lackland AFB, cho đến khi ra trường thường chỉ cần mười tám tháng * Còn muốn đào tạo một phi công US Navy phải mất ít nhứt hai năm.

    Đó là chưa kể phi công ấy phải học “chuyền sâu”, tức là phi công ấy đi học bổ túc nầy, huấn luyện nọ..., để anh ta có thể bay loại phi cơ thông dụng tại Việt Nam, (là loại khu trục cơ A.1.E Skyraider). Loại Skyraider học lái 8 giờ bay trên không trung. (Phi cơ nầy mang 8,000lbs, 4 đại bác 20mm; 12 dàn ngoài có thể mang 500lbs. 3 dàn trong mang 3,000lbs).
    * Không hiểu tại sao hồi ấy và hiện nay tại Việt Nam không thể có loại phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom? (mỗi dàn có 6 quả bom nặng 500lbs). Phi cơ A-4E không cần có dù-đuôi khi đáp trên Hàm Không Mẫu Hạm. Mà, nếu bom napalm thả trúng ngay trên súng địch rất hữu hiệu, chính xác, (vì sức nóng rợn người của bom sẽ làm “co dúm” hoặc cong queo nòng súng)!? Thì ta cần gì phải nhọc công mệt nhoài "đánh với đấm"??? Nếu “phe ta” có phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom, là tuyệt vời quá rồi còn gì!
    * * *
    Tình Hoài Hương
    Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau

    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

Trang 4/9 đầuđầu ... 23456 ... cuốicuối

Similar Threads

  1. Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 273
    Bài mới nhất : 09-01-2020, 10:31 PM
  2. Trả lời: 27
    Bài mới nhất : 04-03-2020, 04:58 AM
  3. Góc Thơ VUI Tình HOÀI HƯƠNG
    By Tinh Hoai Huong in forum Vui cười
    Trả lời: 136
    Bài mới nhất : 08-22-2019, 06:04 PM
  4. Huấn Luyện Khỉ Hái Dừa
    By hieunguyen11 in forum Video, clip ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-24-2014, 06:40 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •