Remember ?

Trang 3/6 đầuđầu 12345 ... cuốicuối
kết quả từ 13 tới 18 trên 49

Tựa Đề: Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    thuyguyen530's Avatar
    Status : thuyguyen530 v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2013
    Posts: 22
    Thanks: 0
    Thanked 5 Times in 2 Posts

    Default Bài viết sai lạc , không giá trị.

    Trích Nguyên văn bởi Tinh Hoai Huong View Post
    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 22


    Xệ Cánh Bay


    Phi Hành muốn thân thiện, trầm ngâm kể lại câu chuyện có thật trong “đời phi công hụt” cho các bạn & “cố nhân” lặng lẽ lắng nghe, mà bùi ngùi đồng cảm, ân cần ngồi lại chia sẻ với mình, như người bạn đường tri kỷ kỳ phùng. Chuyện đau buồn như sau:

    Ngày 19 tháng 7 năm 1967, đúng 3 giờ chiều. Hành mặc chiếc áo bay, đội mũ bay, ôm cánh dù nặng trịch, tay cầm bản đồ, đèn bấm đi check mấy cục than dẫn điện coi có bị gì không, anh sợ rằng nếu bị mất lửa thì khi mở máy nó sẽ bị ngộp xăng. Kiểm soát cẩn thận xong xuôi đâu đó, Hành chờ giờ TOT (time on target) chính xác xong anh mở máy, cánh quạt quay, luồng khói xanh bùng lên khi động cơ nổ. Hanh rung đùi, dẫu sao thì mình vẫn khoan khoái vui vẻ hãnh diện, vì:

    Lóp ngóp bơi trong áo rộng thùng thình
    lại cứ tưởng rằng mình bảnh, mình chi rằng đích thực
    mình giây
    Cho nên nó mới ra cái nông nỗi này:
    Nhác xem phi lệnh có tên đà run như cầy sấy
    vừa mới thấy có mang: nào bom, nào hỏa tiễn,
    nào đạn ca nông
    không rét sao mà chưn lẩy bẩy
    gặp ai cũng ỉ ôi năn nỉ: Mầy, mầy đi giùm tao
    dù vẫn biết chẳng thằng nào nó khứng
    đành nai lưng mũ vác mũ ra tàu
    nhớ anh cơ trưởng ảnh bế ảnh bồng ảnh thả
    vào trong cốc-pít
    mặt nạ dưỡng khí mang vào thì hì hà hì hít
    hít thật nhiều vì cảm thấy thiếu hơi.
    (1)

    Hành lái phi cơ đến đầu sân và standby để xin phép rời phi đạo. Đèn phi trường nhấp nháy trong phòng lái đèn lân tinh quay qua quay lại long lanh. Hành trang bị đủ mọi thứ cần thiết xong, anh hân hoan vui vẻ cất cánh bay cùng với ông thầy. Bay được vài ba giờ, thầy kêu Hành quay trở về sân bay. Lúc đó có hai chiếc A.1.E khác đang chờ. Thầy bảo:
    - Anh cứ tiếp tục làm phi-đội-trưởng, hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia đi ra Range, để thực tập. Anh bay solo! Chúc may mắn và bình an.
    - Cám ơn thầy.

    Thế là thầy xuống khỏi phi cơ. Khi tay lái đã được điều chỉnh chính xác, ấy là lúc phi cơ bình phi, là người phi công được thảnh thơi nhàn hạ khoan khoái tí chút. Cùng bay với Hành hôm đó có bạn Linh, và Hạ, cả nhóm sắp hàng chờ anh. Khi cất cánh xong, Hành nghe số 2 và số 3 báo là họ đang bay sát theo Hành. Anh yên trí dẫn họ ra đi làm các thao tác được qui định. Sau khi Hành ném hết bom, bắn hết đạn. Phi cơ của Hành xăng còn ít thôi, thì anh báo cho hai bạn biết, và dẫn họ về. Đến gần sân bay, anh báo tin cho Hạ đáp xuống trước, phi cơ Hạ đang tà tà rề rề… rẽ về đường Taxiway. Bấy giờ đến phiên Linh đáp xuống phi đạo, nhưng anh ta đáp thật gần, và chậm quá sức.

    Phần Hành đang bay sà sà trên đầu phi cơ của Linh. Nhìn bao quát anh thấy rõ những ngôi nhà to, những loạt đèn lung linh lóng lánh đủ màu sắc nhấp nhô, những con đường sóng lượn quanh thành phố, kể cả vô vàn chiếc xe hơi đủ màu đang ùn ùn chạy đi chạy về, khiến anh rợn người toát mồ hôi, hoa cả mắt. Bỗng dưng anh chợt nhớ tới bài thơ “Phi Đạo”:
    Có nhiều cậu học trò còn luống cuống
    Mới “sô lô” thấy phi đạo đã run
    Tháo mồ hôi trống ngực đập lung tung
    Mới va chạm đã bung ào một cái!!

    Lắm bạn bỏ bay lâu thì cũng vậy
    Đáp bị bung khi mình chẳng muốn bung
    Mới đầu thì nghe tức tối quá chừng
    Đáp vài cái lấy lại ngay phong độ

    Những anh Mẽo lái tàu to quá cỡ
    Đáp cái nào cũng tóe lửa thấy ghê!!
    Tạo tiếng kêu kít kít đến phát ê
    Thân phi đạo rung rinh như muốn vỡ

    Các bạn ơi! đừng bực mình nhăn nhó
    Những khi sân có đèn đỏ xi nhan
    Phải chờ cho cờ lia chớ vội vàng
    Đừng đáp đại ắc xi đăng đấy bạn!
    Nếu kẹt quá thấy mình cần rất khẩn
    (2)

    Hành làm autorotation (tự động quay) đáp ép buộc khi máy của phi cơ đã bị tắt, thì bây giờ coi như chiếc phi cơ chỉ là thứ đồ vô ích vất đi, không còn xử dụng được. Tuy nhờ cánh quạt (rotor) lúc đó vẫn quay, nên chiếc phi cơ rớt lài lài 45/o. Phi cơ cũng không thể vọt lên cao. Nhưng lúc đó do quá bất thần, lúng túng, bàng hoàng và sợ hãi, lạnh người từ trên gáy kéo dài xuống toàn sống lưng mình; vì những điều không may. Thiệt là quá căng thẳng! Phen nầy chắc là toi mạng thiệt rồi.

    Hành không nhớ control cánh quạt, vì thế phi cơ rớt xuống quá nhanh. Hành không thể liên lạc với đài Air traffic control, cũng không thể liên lạc với hai tần số UHF và VHF. Máy bộ đàm Motorola cà giựt rè rè rột rạt, bực mình hết sức. Hành nhớ hình như mình đã kéo cần lái để flare, nhưng chẳng hiểu sao kim RPM của rotor và engine cứ dính chặt, cứng đơ không chịu split, nó cứ nằm ù lì một chỗ, chẳng hề nhúc nhích cụ cựa. Kim đồng hồ RPM thì rung giật nhảy không ngừng.

    Hành tính làm môt cú đáp autotouchdown trên taxiway, nhưng suy nghĩ cho cùng thì không thể được, vì sẽ gây nguy hiểm chết người cho rất nhiều từ phi cơ đang đậu trên parking, và những phi công, những nhân viên khác đang ở dưới đất. Trong tích tắc ấy, Hành thầm nghĩ:
    - “Nếu mình bớt ga để đáp xuống. Thế nào cũng đáp ngay trên đầu phi cơ của Linh. Chắc chắn mình và cả mấy phi cơ gần đấy sẽ nổ tung banh xác”, càng chết hết cả đám Không-quân đang đứng ở dưới đất, họ lóng ngóng xôn xao nhìn lên, lo lắng chỉ chỏ kia kìa.

    Vì thế anh vội vàng tống ga để có thể vút bay lên trời tiếp, (như mình đã từng làm việc tương tự trước đây). Nhưng, vì do Hành quá quen tay lái với các loại T-28 rồi. Khổ một điều rất quan trọng là: hồi trưa nay, anh đã từng bay lên cao độ 5.000 bộ, để thử nghiệm nó rồi. Vì, khi đang bay bình phi mà mình muốn hạ cánh cản, và bánh xe xuống rồi, thì chiếc máy bay sẽ trở thành khá nặng nề, coi như vô dụng giống đống sắt vụn, không thể dễ dàng điều khiển máy bay nữa.

    Nhưng nếu anh tống ga vút phọt lên trời lúc đó, thì sức quay của cánh quạt sẽ tạo nên một lực đẫy rất mạnh. Khiến chiếc phi cơ có thể lật ngửa ra tức khắc. Hoặc phi cơ sẽ chúi mũi đâm sầm đầu cắm phụp xuống đất, là nổ liền lập tức. Còn nếu như phi cơ đang ở độ cao chuẩn mực, mình có thể dễ dàng “go” được. Nghĩa là trên không trung rộng thênh thang đó, mình sẽ kéo phi cơ trở lại vị trí bình thường. Dĩ nhiên là mình phải cần có ít nhất là 200 bộ, mới có thể cứu chữa một tình huống vô cùng gay cấn hiểm nghèo phức tạp ấy. Đằng nầy, Hành đang ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng đáp, nên phi cơ chỉ ở cao độ chừng hơn 100 bộ thôi. Cho nên Hành vội tống ga rất mạnh, là do vậy.

    Hậu quả là chiếc phi cơ chập chờn chao đảo, rung giật tưng bừng. Phi cơ nghiêng hẳn qua một bên. Hiện tượng đó gọi là: Torque Roll. Thế là điều cuối cùng Hành chỉ kịp nhìn thấy bầu trời lăn lộn quay cuồng chao đảo, ngả nghiêng, chới với quay vun vút bay tùng phèo. Hành nghe một tiếng nổ rất to rất dữ dội, long trời lở đất bùng lên, nghe choáng váng đinh tai nhức óc. Cánh phi cơ đã chạm xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo. Cánh quạt bị bứt ra bay đi khá xa. Phi cơ lật qua bên phải. Rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất”. Cách nơi anh đáp xuống chừng 2 kilomets.
    (Anh biết điều nầy, là khi Hành đã nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, họ chụp lại toàn cảnh tai nạn lúc bấy giờ. Hành thấy chiếc máy bay cuả mình vừa ngồi lái, giống như những miếng vỏ cây đại thụ nhăn nhúm vỡ vụn, chúng bay lả tả rải rác khắp nơi từ phía đầu đến phía cuối phi đạo). Thật quá kinh hoàng. Đường phi đạo rộng thênh thang lo gì đáp vội, để tự mang hoạ vô thân thế nầy!?

    Riêng về phần Hành đang bị buộc cứng vào ghế ngồi bởi sợi dây nịt an toàn. Nhưng anh chả hiểu làm sao cái ghế tự động văng ra ngoài bãi cỏ? “nó ngồi” thẳng đứng? Hành ngồi y nguyên trên ghế còn đầy đủ cả mũ bay, cái mũ đội hơi chúi xuống mắt. Có dù đeo sau lưng. Sau cú đáp khiếp đảm “kinh hoàng dị tộc chẳng giống con giáp nào” đó, mắt Hành dường như toé lửa, trăm ngàn ông sao bung ra ở khoé mi. Hành cảm thấy đau nhói kinh khủng cùng khắp thân thể, nhưng anh vẫn còn tỉnh táo trước sự việc chớp nhoáng xảy ra trong tích tắc. Hành nghe thoang thoảng mùi cỏ ẩm. Mùi khét, và làn gió nhẹ phe phẩy thổi mơn man trên mặt mình. Hành nhắm mắt lại, chỉ kịp kêu:
    - Chúa ơi!

    Gió vẫn thổi man mác vào mặt mình lành lạnh, anh lại mở mắt ra dáo dác nhìn chung quanh, Hành mới biết mình còn sống. Anh chỉ thấy toàn các mãnh sắt vụn. Những đám khói nho nhỏ đang bập bùng bốc lửa trong buổi hoàng hôn. Đó là những ống dẫn dầu thủy điều bị cháy. Anh ngồi ở ghế bay, một mình chơ vơ lạc loài trên bãi cỏ có nhiều vệt lửa cháy bập bùng. Máu trào ra góc đầu bên thái dương dưới mũ bay, Hành cảm thấy một cánh tay bên phải cuả mình đã tê buốt đang nằm ở tư thế khác thường. Hành nghĩ nó đã gãy nát rồi.

    Những tiếng nổ chát chúa và to như tràng cà nông đại bác bắn vô núi để lấy đá, kèm theo những luồng lửa đỏ, và khói đen xám cuồn cuộn từ đằng sau đuôi phi cơ xịt tới. Hành thấy hai xe chữa lửa hú còi inh ỏi, chớp đèn liên tục, hai xe police và xe cứu thương emergency landing đồng loạt cặp song song gần đường phi đạo. Các xe ấy ập sát vào chỗ xảy ra tai nạn. Hành còn thấy hai y tá Mỹ (Corpsmans) vội vàng lui cui chạy nhanh vào chỗ anh đang ngồi. Mấy người Mỹ khác vừa chạy, vừa dập tắt các đám cháy nhỏ. Một người Mỹ rối rít hỏi to:
    - Phi công ở đâu rồi? Phi công ở đâu rồi?
    - Tôi ở đây. Đây!
    - Are you OK?
    - Okay.

    Họ chạy vào. Mặt Hành lúc đó đầy dầu nhớt, máu me. Họ vội tháo dây an toàn rồi nhẹ nhàng cẩn thận
    đỡ anh ra khỏi chiếc ghế. Hành cố gắng đứng lên, nhưng bị đau thấu tim, toàn thân sụm xuống không thể bước đi được! Như vậy Hành mới biết là mình đã bị gãy luôn chân bên phải. Họ vội vàng lấy cái dù mở rộng ra mà lót trên cỏ. Họ dìu Hành từ từ ngả mình nằm tạm xuống trên đám cỏ xanh.

    Khi vào đến nơi có thể tạm cấp cứu, ngay lập tức có một “đạo quân” bác sĩ, y tá vây quanh bên mình. Họ lanh lẹ cắt hết quần áo bay, nhưng có chiếc giày bên chân phải của Hành là không cởi ra được, vì đã bị một khúc ống inox dài đâm xuyên thủng: từ bên nầy qua thấu bên kia gót bàn chân cuả anh. Bỗng nhiên anh thấy có bốn ông Mỹ lực lưỡng tiến đến. Họ đè anh ra rõ mạnh. Ông bác sĩ lấy cái kềm, kẹp cứng cây inox, rút ra. Chao ơi! Lúc đó Hành cảm thấy đau đớn thấu trời xanh, rợn tóc gáy, Hành muốn đứng tim, óc muốn phọt ra mà chết tươi. Sau đó, họ cấp tốc lo cứu thương cho anh.

    Hành vẫn nằm trên nền gạch ở góc phi trường. Anh thấy Hạ và Linh đứng nhìn xuống. Hành còn mỉm cười hơi gật gật nháy mắt nheo mày với “tụi nó”. Hành thấy “hai ông tướng” thân mến cùng bay của mình thì lắc đầu lia lịa, muốn gãy cổ. Mặt họ xanh mét lộ vẻ thất vọng, ngậm ngùi, bồn chồn, lo lắng, buồn thiu. Hạ thì lấy hai tay bụm mặt lại quay đi. Anh nghĩ:
    - “Chắc là mình bị thương nặng lắm. Hay sao đây”, nhưng mà cổ nhân đã có câu:
    “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
    (Người ta sinh ra, ai mà không chết.
    Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).

    Thây kệ cha nó, đến nước đứt đuôi con nòng nọc rồi, tới đâu thì tới. Họ đã tiêm vào người Hành hai mũi thuốc morphine giảm đau. Thế mà anh cưỡng lại, vì sợ nếu Hành ngủ đi, mình sẽ không còn sức lực để thức dậy nữa. Sau khi thấy Hành còn tỉnh táo, ông bác sĩ trực hỏi:
    - Anh có muốn đi bằng trực thăng không?
    - Tùy ông.
    Thấy Hành còn “tỉnh queo”, thế là ông ta cho chiếc xe cứu thương đến, họ nhẹ nhàng cẩn thận đặt Hành nằm lên cán thương, hai y tá khiêng cáng thương leo lên xe. Xe hụ còi inh ỏi trong suốt lộ trình, xe chạy rất nhanh trên freeway đến Eglin AF Hospital, cách nơi xảy ra tai nạn độ chừng nửa giờ. Lúc đó là 19giờ 55’. Họ cấp tốc mang Hành vào phòng cấp cứu đặc biệt. Màu drap trải giường trắng, bộ quần áo trắng, trong phòng sơn màu trắng, tất cả mọi thứ ở đây đều mang màu sắc trắng bong, khiến Hành có cảm tưởng như mình sẽ nằm liệt trong bệnh viện toàn màu trắng tinh lạnh lẽo, mà hãi hùng.

    Một lô bác sĩ chuyên khoa khác xúm lại bên anh cùng nhau chẩn đoán, tốp nầy tiến tới khám thì tốp kia lui ra góc phòng biên chép. Tốp thì xem: Tai. Mũi. Họng. Răng. Hàm. Mặt. Tốp khác lo khám nội khoa. Ngoại khoa. Tóm lại là họ khám chu đáo, tỉ mỉ chăm chú rất lâu, rất kỹ; nhưng tháo vát nhanh nhen và nhịp nhàng. Vì thấy sức đề kháng của Hành quá mạnh, nên bác sĩ lại tiêm cho anh mũi thuốc thứ ba, mà bác sĩ thấy anh còn tỉnh táo, họ kinh ngạc trợn mắt nhìn nhau. Tất cả đều lui ra, nhường chỗ cho các bác sĩ chấn thương chỉnh hình ở lại. Họ chụp ảnh. Hành biết chắc mình đã bị gãy cánh tay phải, & gãy từ xương đùi xuống mắt cá bên chân phải.
    ***

    Chừng khoảng 21:30’ hôm sau Hành chợt tỉnh dậy, thấy mình nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt (speccial Care Unit). Chung quanh có nhiều bác sĩ, y tá. Họ khá mừng rỡ vỗ tay reo lên. Bác sĩ hỏi:
    - How are you?
    A ha! Ai cũng hỏi Hành có thoải mái không? Ui cha! Nhìn xuống thân thể lúc đó, thấy mình hoàn toàn như một cái “xác ướp Mummy” vậy. Bên cạnh có đủ thứ dụng cụ máy móc, phát khiếp. Lâu lâu có y-tá đến hút đàm, dịch truyền, dây truyền máy giăng mắc chi chít. Vân vân... Bị thương chảy rất nhiều máu, Hành thường khát khô cổ họng, thèm uống nước vô cùng. Họ chỉ lấy miếng bông gòn thấm chút nước trong cái ly thủy tinh, mà thấm thấm trên đôi môi nức nẻ khô lông lốc, anh tức bực ghê lắm, nhưng đành chịu. Ước gì lúc nầy mình được nốc một ly cối nước đá lạnh ừng ực xuống cổ, thì khoái khẩu biết chừng nào!

    Thế là xong! Tàn kiếp giang hồ, thoả chí tang bồng hồ thỉ chí nam nhi mà bấy lâu nay Hành hằng vọng tưởng ước ao nhe! Hết lướt mây cỡi gió rồi, hết tự do "lả lướt bay bướm" trên nền trời bao la bát ngát thênh thang. Tự dưng Hành nghĩ tới má với những hàng nước mắt khi trước, má đã tiễn đưa mình lên đường "tòng quân", nay má ơi... có lẽ má đang mỉm cười:
    - Hết thời trai rồi cu tí ơi! Từ nay con ở yên bên má hen.
    Hành phì cười vì những ý nghĩ đó, đến nước nầy rồi mà trong đầu óc lãng mạn nầy còn "dệt ra" những lời vu vơ đó sao? Cũng có thể lắm chứ... Hành không còn thú tự do vẫy vùng đôi cánh tung bay trong gió bạt ngàn. Mất hết rồi niềm tự hào sãng khoái, khi anh vi vút bay vào không gian trò chuyện với chị hằng nga xinh đẹp, với muôn vì sao khuya lấp lánh! Còn đâu nữa lúc bay trong bầu trời đêm huyễn hoặc, thân thiết và mê đắm bao la, mênh mông!? Chao ôi là tủi hờn biết bao! Nhưng: Cái buổi hậu phi mới biết đá vàng
    bước xuống thang là anh muốn té
    ngũ chi ê ẩm, mặt mày xây xẩm, đầu gối lỏng le
    không phải xì-ke mà cứ như anh xì-ke thiếu thuốc
    mắt hoa đầu buốt trời đất cuồng quay
    đi khám định kỳ ắt phen này i-náp
    (1)

    Sau một tuần vật lộn với nhiều phen đau thể xác, Hành bàn giao chức vụ Trưởng-đoàn Khóa-sinh cho Hạ điều hành. Bác sĩ Mỹ đứng bên cạnh theo dõi. Luôn miệng hỏi:
    - Are you comfortable?
    - Are you OK?
    Ôi! Lại hỏi mình có thoải mái không hoài à? Trên thái dương và mí mắt Hành bị rách một đường, họ phải may mấy mũi. Gãy tay. Nhìn thân hình bị bó bột trắng xoá, từ bàn chân phải lên tới bụng, tràn qua đùi bên trái. Họ chỉ chừa cho một cái lỗ khoét ở giữa, để anh cần “làm việc” vệ sinh cá nhân. Phía nơi háng của anh bị thương nặng, do dây và móc dù đã kéo bên tinh hoàn phải ra. Thì ra Hành giống Adolf Hitler (là một người ăn kiêng và chỉ duy nhất có một… tinh hoàn). Hô hô hô… Thú thật vào giờ phút nầy Hành quá ngao ngán, chẳng nhớ gì về việc thèm... kiêng ăn, uống, hoặc có cử... cử chỉ thèm thuồng rục rịch nhúc nhích sờ mó gì đến ai. Ui xà, nếu có mười nàng tiên lượn quanh, thì anh cũng chắp hai tay mà vái lia lị như tế... tế sao.

    Có thể ông Trời tàn nhẫn “bắt vạ” Hành chỉ sót lại "nửa quả tẻo teo", thì còn phong độ gì để “làm ăn cái giống chi đây” hử Trời! Chân phải Hành bị treo lên cục tạ to, dùng làm cán cân. Nghĩa là người ta định kéo giãn khúc xương gãy bên chân nầy, cho bằng với chân bên kia. Chắc là bây giờ anh “muối mặt mo” như: Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất I, tự coi mình là người mẫu mực trong chuyện vệ sinh thân thể. Bà từng tuyên bố rằng: “cho dù bẩn hay sạch, thì cứ mỗi ba tháng, bà mới tắm một lần”... cho “phỉ nhổ đời trai tráng” hết thời, rũ liệt teo tóp như mình sao ta!?

    Lẽ ra theo chế độ sĩ quan, Hành được xếp nằm ở trong phòng chăm sóc riêng. Một phòng chỉ có một người nằm. Nhưng bác sĩ thấy nếu cho anh nằm trong đó, thì quá vắng lặng rất buồn. Không có phương tiện giải trí gì, sợ Hành sẽ bị trầm cảm nặng chăng. Bác sĩ mới ra lệnh cho y tá đẫy Hành ra nằm chung với nhiều bệnh nhân ở phòng công cộng. Ngoài nầy, có hai dãy giường của Hạ-sĩ quan và Binh-sĩ. Rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giải trí vui vẻ và nhộn nhịp! Mà bây giờ anh cần phải vui vẻ náo nhiệt, chứ nếu Hành chìm trong bóng tối và sự im lặng triền miên, có lẽ không sớm thì muộn, anh sẽ tress, bị điên mất.

    Ngoài phòng rộng và đông vui nầy có những người đi lại được (ambulatory). Có một ti vi rất to, cỡ 50”, để cho anh em toàn phòng xem chung. Bên cạnh Hành có đủ thứ tiện nghi dụng cụ máy móc. Mỗi giường đều có gắn tấm ri đô khi mình cần sử dụng vệ sinh riêng tư. Hành bấm chuông gọi y-tá đến. Cô ta mang “bô” Bed Pan tới, cô ta bỏ ra ngoài kéo màn lại. Mình “tự do thao tác” làm trời làm đất gì sau tấm màn ấy, thì làm. Khi xong việc, Hành bấm chuông, cô y tá mở tấm màn kéo về một góc, cô đến toilet dọn dẹp ngăn nắp, rồi mang bao đựng cái “bô”, đem đi. Buổi sáng, buổi chiều, đều có bác sĩ đến thăm, họ khám bệnh nhân kỹ càng, cho thuốc uống đều đặn, chăm sóc chí tình, chu đáo.

    Mỗi ngày, vào buổi sáng họ đưa cho bệnh nhân một tờ thực đơn có ghi ba món ăn và nước uống. Mình thích phần ăn nào, thì check V vào đó. Ngày mai họ nấu cho ăn. Nói chung họ cho ăn khá ngon. Bệnh nhân cứ ăn, ngủ, và xem Ti vi riết. Phát chán! Mấy lần sau ngày Hành bị tai nạn, ông thầy dạy bay của Hành vào thăm. Thầy mang nguyên một thùng carton lớn, đựng toàn những cuốn Play Boy. Thầy nói:
    - Tôi thương anh lắm! Gửi tặng anh. Những thứ nầy tôi đã “sưu tầm” hơn mười năm rồi.

    Thế là Hành cứ nằm đó, mà “nghiên cứu” hết mấy trăm tập play boy. Nhờ thế vốn liếng sinh ngữ trong anh ngày càng khá hơn. Mỗi tuần các bạn đến an ủi, giúp đỡ, thăm "thương binh" một lần. Đám bạn sinh viên sĩ quan Việt Nam như: Trần Thế Vinh, Phan Quang Tuấn, Trương Công Thành, Trần Quốc Trung, Vũ Tùng, Trương Đông Đình, Hoàng Quốc Huấn, Huỳnh Lô, Trần Văn Bời v.v… đều đến thăm bạn. Ngay cả ông đại úy sĩ quan liên lạc từ Mississippi cũng bay qua thăm Hành. Khi trước còn nằm ở trong phòng kín, đầy oxy, Hành đã bỏ hút thuốc lá một thời gian khá lâu. Nhưng cũng do mấy “ông bạn hiền” thương xót anh bị gãy cánh bay ưa đến thăm, họ đã tạo cho anh có dịp tha hồ hút với hít.

    Họ đẫy băng ca đưa Hành ra nằm ngoài sân phơi nắng mà “nghiên cứu, nghiền ngẫm” cái sự đời cu tí nha ta. Rồi họ đưa thuốc lá, biểu Hành nằm đó ngắm trời, ngắm cây cỏ hoa lá… mà hút hít, để viết thư tình, làm thơ tình, cho vui. Dĩ nhiên! Còn thú vui nào bằng thú vui “hút hít” chứ! Sau đó ui cha! Hành đâm ra ghiền hút thuốc nặng, anh hút ngày một gói thuốc lá “con lạc đà”. Đúng là cỡi trên con lạc đà thì quá đã! Thời gian Hành ra ở phòng ngoài (phòng bệnh nhân điều trị) anh nhờ mấy bà thiện nguyện mua dùm thuốc lá và hút liên miên, hút đã đời... mà bây giờ chẳng có ai gần bên cằn nhằn, cấm đoán như người yêu cũ thuở xa xưa ở Đà Lạt, nàng phụng phịu, ưa hờn dỗi nhăn mặt nhíu mày!

    Ở đây có bà Louise thích “chăm sóc đặc biệt” cho các anh chàng "độc thân vui tính và đào hoa" như Hành nhất. Lâu lâu, bà ta đẫy anh vào phòng tắm gội đầu, lau mình, rồi dần dần bà thân mật vui vẻ phừng phưng “tắm rửa” kỳ cọ kỹ lưỡng, tay bà mân mê kích thích đủ thứ nơi, đủ thứ chỗ kín đáo rất nhột nhạt phừng phưng và nhúc nhích cụ cựa kia. Đám sinh viên sĩ quan rất sợ vì cái tính dâm kinh khủng của bà. Bà hỏi Hành:
    - Thích “massage therapy” ở chỗ đó đó hoài không?
    - Ô lá là... Ai... ái!

    Hành mệt mỏi nằm ở bệnh viện Hurlburt hơn ba tháng. Một hôm, từ ở bệnh viện mới (cũng gọi là Hurlburt Hospital # 2). Người ta dời Hành về đó. Ở đây sướng lắm! Phòng ốc cao ráo, có một cửa lớn, một cửa sổ thoáng mát. Hành có thể đứng ngắm rặng núi mờ mờ xa xa, góc kia anh nhìn mặt trời lặn xuống đường chân trời, mà không sợ làm phiền ai. Mỗi phòng hai người, đầy đủ tiện nghi, trang bị tối tân. Giường loại mới có nút bấm tự động, để mình tự điều khiển giường cho mình ngồi lên cao, hoặc nằm xuống thấp an toàn theo ý thích. Khỏi cần nhờ trợ y giúp đỡ. Có chuông điện ngay trên góc giường. Có ti vi và toilet ngay kế trong phòng sát bên chiếc bàn nhỏ, có tủ quần áo, đồ dùng sạch ơi là sạch.

    Hành nằm dưỡng thương riết, khổ sở nhất là sự ngứa ngáy da non từ bên trong lớp băng bột dày cui, không biết làm sao để gải cho đã ngứa, và anh nằm dài thân một bên muốn tê bại người như thế quá ê ẩm. Nhiều tháng sau họ đã cắt bột chung quanh bụng Hành, và chân phải, chỉ còn bó bột ở trên cánh tay phải. Thế nên, mỗi lần muốn di chuyển đi dâu, Hành chỉ cần tựa người trên chiếc xe lăn, hoặc cây nạng và thong thả đi một mình. Vã chăng, cái số kiếp Trời gieo trong đời mình phải cưu mang cái “định mệnh sầu đắng” rồi hay sao!? Vì chiều hôm đó như thường lệ, Hành từ giường của mình đang nằm, anh
    ngồi dậy rồi đứng lên nhảy cò cò, để vào toilet, do yếu bên chân trái và cũng ỷ y hoặc vô ý, nên anh đã bị trượt té. Chân phải đang bị thương lại đập rất mạnh vào bồn cầu, khiến nó sưng tấy lên liền, đến nỗi chật cứng ống quần pirama của nhà thương. Nguyên cái chân phình to và "nẩy nở" nhanh đến khiếp!

    Nghe tiếng động mạnh, mọi người chung quanh gần phòng Hành liền hớt hãi chạy vào. Họ đỡ Hành nằm lên giường. Y tá, bác sĩ, bu quanh anh khám nghiệm. Họ mang Hành đi chụp X Ray, chích cho mấy mũi thuốc gì đó khiến anh đã ngủ vùi. Vài ngày sau, bác sĩ trưởng khoa điều trị đến. Ông nói:
    - Tôi thấy cái đùi của anh vừa chớm lành. Nay đã bị gãy tung ra hết rồi. Cả cánh tay của anh nữa. Anh sẽ không đi đứng bình thường. Sẽ bị tật. Sau nầy anh có muốn đi bay lại không?
    - Sure!
    - Vậy thì anh phải mổ lại. Để tôi làm việc với anh chu đáo tỉ mỉ, nhưng anh phải cẩn thận hon. Sau nầy về quê nhà, tôi nghĩ anh vẫn còn khả năng đi bay được. Anh nghĩ sao?
    Một liều, ba bảy cũng liều thôi, cái mạng nầy cùi từ khuya rồi, cần chi sợ lở nữa, nên Hành vội vã gật đầu cái rụp.
    - Nếu anh đồng ý. Hãy ký tên vào tờ cam kết.
    Không ngại ngần anh cầm bút ký cái rẹt. Thế là sau khi cho thử nghiệm lại đủ mọi thứ, họ chở Hành đến trung tâm chỉnh hình. Y tá lột hết quần áo, làm vệ sinh, xoa thuốc tím lên những nơi sắp mổ. Họ đắp lên người Hành tấm drap trắng tinh, thơm thơm mùi thuốc sát trùng. Họ cột đầu tóc Hành bằng chiếc khăn trùm kín mít. Họ cho anh nằm lên bàn mổ. Hành nằm ngửa nhìn sửng sốt năm cái đèn sáng choang. Hai bên toàn những dụng cụ mổ bằng loại inốc bóng loáng, đủ thứ máy móc tối tân với kéo, kềm, búa, cưa, kim chỉ... Y như là một xưởng kim khí, hay xưởng hàn gì đó. Chứ không phải là bệnh viện. Nhìn mấy miếng bạch kim (platinum) cùng một hàng ốc vít (jewett screw). Toàn thân anh bây giờ đã có giá trị kim tiền (platinum), mình an toàn về sự giàu có để giữ của quý trong người, mà không sợ ai phát hiện, mà ăn trộm ăn cướp những miếng bạch kim nầy, là cái chắc! Một tuần sau, đến phiên mổ cánh tay phải của anh, họ cũng làm tương tự như trên. Tuy thân anh bây giờ đã giàu xụ, nhưng anh cảm thấy chán nãn tột cùng cho cái thân thể phiền muộn của mình!
    * * *

    Thời gian nằm ở mấy bệnh viện Hành đọc nhiều bài, nghe cũng quá nhiều chuyện tiếu lâm, vui hết biết. Nhưng có chuyện tiếu lâm nầy, khiến Hành ngao ngán phì cười, sao nhân vật chính trong truyện ấy không phải là tôi nhỉ: “Có một ông đang đi máy bay thì mắc mót ỉa đái gì, chả biết! Ông liền bần thần chạy tới chạy lui, nhưng toilet Nam đều có người dùng. Một nữ tiếp viên cảm thấy hơi ngại cho cha này, cô sợ ông ta “vãi” ra đấy những bãi mìn, thì thúi um cả làng, làm sao mà nữ tiếp viên bốc hốt dọn dẹp cho xuễ! Thế nên nữ tiếp viên thương “tình cảnh I e” của ông ta, cô bèn cho ông ta vào nhà vệ sinh nữ, tiếp viên mỉm cười, kèm theo lời dặn dò cẩn thận:
    -- Ông đừng nhấn nút bậy bạ nha.
    Ông bạn không nhớ nghe lời vàng ngọc. Ông khách sau khi thoải mái làm nhiệm vụ thải chất xú uế ra ngoài xong, ông liền nhấn nút W W (viết tắt của chữ Warm Water là nước ấm). Thế rồi một làn nước ấm áp dễ chịu liền xịt vào chỗ ông vừa bài tiết.
    Ông này bèn thì thầm:
    - Đàn bà sao sướng thế…
    Ông bèn nhấn tiếp nút thứ 2 có chữ W A (viết tắt của chữ Warm Air nghĩa là khí ấm) thế rồi một làn khí ấm áp sấy khô, chỗ cần làm khô của ông ta.
    Ông ta huýt gió vui vẻ:
    - Trời ạ! thế giới này còn có những chuyện thế à?
    Ông ta nhấn tiếp cái nút có chữ P P (viết tắt của chữ Powder Puff nghĩa là xịt bột thơm). Thế rồi một làn bột nhẹ nhàng bắn ra, làm thơm tho cái chỗ đó của ông ta. Cuối cùng, không ngăn được tò mò, ông ta nhấn vào nút có chữ A T R!!!
    Tỉnh dậy thấy nằm trong bệnh viện, cha nội ấy hét tướng lên.
    - Sao tui ở đây? Tui nhớ là tui đang ở trên máy bay mà?
    Cô y tá trả lời:
    - Thì đúng vậy! Sau khi ông hưởng hết những hạnh phúc trong phòng vệ sinh đó, thì ông đã táy máy nhấn lầm cái nút ATR (viết tắt chữ Automatic Tampon Remover) nghĩa là: gắp băng vệ sinh tự động ra. Thế nên bây giờ ông đã làm cho “của qúy của ông” đang ngao du ở dưới bốn cầu, ông đau đớn nằm chóc ngóc nơi đây, và sẽ hiu quạnh đời trai buồn bã mà thôi! Tôi đã cẩn thận dặn dò ông trước rồi, nhưng ông không nghe lời. Xin lỗi!
    ***

    Hạnh vẫn sống âm thầm, buồn lặng và đầy nhớ nhung trường cũ, nhớ về những ngày tự do, còn khoẻ mạnh. Khi mà anh có thể lái “con chim sắt” để cùng mình chắp đôi cánh, tự do vẫy vùng trong bầu trời thênh thang. Cuộc sống hào hùng nầy luôn vẫy gọi, níu kéo mình muốn quay về bến mơ, từ thời vàng son hoài hương xưa cũ ấy. Hành siêng viết mỗi ngày một lá thư, gởi nhiều quà cáp và hình ảnh từ khi anh mới sang Mỹ, lúc trở về USAF. Tiếp sau khi anh bị thương đến Trân Thư. Nhưng, ở đời luôn có những cái “nhưng, bị, tại, vì, do...” đầy bất nhân bám riết đời anh, tại sao thế nhỉ!? Dạo trước khi bị “xệ cánh”, thì ít nhất mỗi tuần anh nhận được hai lá thư của Trân Thư từ Việt Nam gởi sang Mỹ, nàng kể biết bao chuyện vui, và liên tục rền rĩ cam kết hứa hẹn đủ thứ chuyện yêu đương đầy ứ.

    Nhưng mà... sau khi Trân Thư xem nhiều hình ảnh Hành bị thương... bị gãy tay, gãy chân nằm bệnh viện, mất một ít “của quý” đến ngày nay… một năm rồi, thì hầu như sự liên lạc thưa thớt dần dần, và mất hút tăm hơi. Trân Thư ít liên lạc thư từ với người tình, lời thư của Trân Thư viết đã tỏ lộ sự nhạt nhẽo, hững hờ, trống vắng. Chẳng còn tha thiết đậm đà thăm hỏi, Thư có vẻ như đã “trở mặt làm ngơ” xa cách, vô duyên sao đâu.

    Hành thật buồn. Người ta nói: “xa mặt cách lòng” cũng đúng. Và, càng đúng hơn khi “con người ấy” đã hững hờ tàn nhẫn quay lưng, vô nhân đạp trên đớn đau của người khác, mà xéo bước... “Ai mà phụ nghĩa quên công. Thì đeo trăm cánh hoa hồng, chẳng thơm”. Hành hiểu tình đời thường trắng trợn và bạc bẽo đến thế! Mém chút nữa thì anh “ca” bài thơ hát nói cho Trân Thư nghe:
    Mưa thu vần vũ hiên lầu.
    Đôi ta thấm lệ nỗi sầu hoen mi.
    Kẻ Nam người Bắc làm chi.
    Buồn trêu ngọn cỏ tình si hỡi chàng.

    Tình yêu đã chết
    Nhớ thương về tôi viết một đôi hàng.
    Lưng tròng mắt lệ nhỏ giọt đường trăng.
    Tàn mộng ước băn khoăn nơi đất tạm.
    Bước giang hồ gập ghềnh muôn dặm.
    Kẻ lữ hành gian khổ khắp nơi.
    Lặng lẽ tim đau không thốt nên lời.
    Chàng lãng tử bị phụ rồi hôm đó.
    Vẳng nghe tiếng âm vang trong gió.
    Những đêm dài than thở thương đau.
    Tình ơi đã chết từ lâu...
    (3)

    (1) Trần Văn Minh
    (2) Kha Lang Da
    (3) Tinh Hoai Huong
    (4) Câu chuyện có thật, nhưng tên của các anh trong truyện chỉ là: "tên giả".
    ***


    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bài đầu ngô mình sở lúc đi là A1 lúc về là trực thăng , . Tác giả nói là dùng tên giả nhưng lại trưng toàn nhân vật có that . Đề nghị HQPD xoá bài này.

  2. #2
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default v/v tên & phi cơ

    Cám ơn anh thuynguyen530.

    Thưa anh, nếu không lầm thì ngay ở đoạn đầu truyện dài, tôi đã có ghi v/v nhân vật chính xin đề nghị dấu tên: Cám ơn “bạn đường” (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ” (nên bạn ấy xin đề nghị dấu tên).
    * * Chuyện thật tên giả = Tôi không ghi rõ ba anh: (có lý do riêng, ý của nhân vật chính: dè dặt, không muốn phiền hà đụng chạm đến ai khi cùng lái ba phi cơ lúc ấy. Vậy nên tôi phải tôn trọng).
    * - Đọc lại đoạn trước : Hành quay trở về sân bay. Lúc đó có hai chiếc A.1.E khác đang chờ. Thầy bảo:
    - Anh cứ tiếp tục làm phi-đội-trưởng, hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia đi ra Range, để thực tập. Anh bay solo! Chúc may mắn và bình an.
    - Cám ơn thầy.

    * - & đoạn sau : Cánh phi cơ đã chạm xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo. Cánh quạt bị bứt ra bay đi khá xa. Phi cơ lật qua bên phải. Rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất”. Cách nơi anh đáp xuống chừng 2 kilomets.
    (Anh biết điều nầy, là khi Hành đã nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, họ chụp lại toàn cảnh tai nạn lúc bấy giờ.

    Thưa anh, tôi thiết nghĩ hai đoạn nầy: do người lái & hai loại phi cơ khác nhau, không có gì sai anh ạ .
    Vậy, mong anh thuynguyen530 thấu tình đạt lý về những điều người ấy đã yêu cầu, mà thông cảm nhé !
    Kính báo

    THH
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  3. #3
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 23
    Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng
    Tình Hoài Hương
    ***



    Quê hương trái đất nửa vòng.
    Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về
    ”.
    Trên không trung có vầng trăng sáng toả vằng vặc như chiếc dĩa bạc soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hành đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vô xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”, thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ chiếu đi chiếu lại những cuộc biểu tình gay gắt cũ sôi sục đêm ngày: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù, mù… mịt trời đất, hầu hết diễn ra ở miền Nam Việt Nam.
    Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hành, không biết làm gì hơn là tối ngày Hành soạn va ly ra coi những gói quà to tướng sẽ đem về tặng thân nhân ở quê nhà. Hành dùng chất vitriol rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hành lại bồi hồi thở vắn than dài, thẩn thờ đóng lại mấy cái va ly. Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam lâu lắm rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình "ta cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về VN, các bạn đã đến chia tay anh, họ xúm lại chọc quê:
    - Thôi, yên trí đi, mầy cứ ở lại Mỹ an giấc nghìn thu hen.
    - Nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
    - Còn sống, thì mầy chộp cổ ngay một con Mẽo, con Xì… là "xong bén đời giai”.
    - Tầm bậy! Sao xúi hắn an giấc ngàn thu?
    - Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn Xuân cả.
    - Vậy thì đừng biểu nó: An giấc ngàn Đông nghen?
    - Hãy an giấc ngàn hạ xuống, để tàn đời trai cho rùi.
    - Xuân, Hạ, hay với Thu?
    - Ư hừ!
    - Mầy théc méc mần chi hỉ! Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao tôm gốp thùng bẹc két rủng rỉnh "xung xướng” đem tiền Mỹ đi dzìa Việt Nam nè.
    Những buổi tối, Hành nằm thao thức hằng giờ đăm đăm xem thời sự trên tivi, nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Hành nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”. Hành mòn mỏi chờ đợi chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam mau chóng chấm dứt, giảm bớt cường độ giao tranh. Hoặc là: đụng độ dữ dội giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc tạm lắng xuống, thì bằng mọi giá anh phải xin đi về Việt Nam. Mấy bạn Mỹ thường trêu:
    - Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? khi chiến tranh đang xảy ra liên miên?
    Đại bàng có bay xa bao nhiêu cũng phải dừng cánh, đàn ông có đi xa bao lâu cũng phải có ngày trở về nhà. Ở Việt Nam có thể có người muốn đi du lịch ra ngoại quốc, còn anh trải qua nhiều tháng năm sống "lây lất" ở nước ngoài rồi, nay anh nôn nao mòn mỏi ngóng trông mau chóng "tung cánh chim tìm về tổ ấm”, hạnh phúc thay khi có ngày mình được trở về quê mẹ thân yêu. Hành quyết chí gởi thư đến căn cứ Không-quân đòi họ cho phép anh trở về quê hương. Vì ít nhiều gì, Hành vẫn mang canh cánh bên lòng mối tình hoài hương. Vã lại, toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của mình ở Việt Nam mà. Cũng có thể là Hành còn nghĩ đến chút tình với Trân Thư.
    Ngày ngày... chẳng biết làm gì ngoài việc giết thì giờ nhàn rỗi quá chán ngán, Hành cùng những anh quân nhân thương binh Không-quân Mỹ xúm lại coi thời sự trên ti vi, lúc nầy đài Mỹ chiếu đi chiếu lại chuyện lạ bốn phương "hot" nhất: ông Jean Bedel Bokassa đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ông qua Việt Nam hồi thập niên 1950, Jean Bedel Bokassa (thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi Châu) sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách xa thủ đô M’Baiki (Phi Châu Xích Đạo - Equatorial Africa). Năm 1950, Trung-sĩ-nhất Bokassa là quân tình nguyện của Lục-quân Pháp, thuộc binh chủng lính Lê Dương (Légion étrangère), khi ấy Trung Phi vẫn là thuộc địa của Pháp. Năm 1953, ông Trung-sĩ-nhất Bokassa 32 tuổi, đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Thời gian sang Việt Nam tham chiến, chàng Lê-dương Bokassa tây đen tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành), nơi Cầu Gành có một máy nước công cộng. Ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn Huệ nghèo gánh nước mướn ở Tân Thuận Đông. Họ thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh ta đóng quân gần cầu Tân Thuận. Khi Huệ có bầu, thì Bokassa buộc phải rời khỏi Việt Nam quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm thăng trầm trôi qua, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức Tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cộng-Hoà Trung-Phi. Tháng 1 năm 1966, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự lên làm tổng thống. Hoàng đế Jean Bedel Bokassa sực nhớ đến người tình cũ và con gái, ông bèn gởi một văn thư nhờ bộ Ngoai Giao Pháp, chuyển đến Bộ Ngoại Giao miền Nam Việt Nam Cộng Hoà: xin họ giúp ông tìm con gái ruột tên Nguyễn thị Martine. Bộ Ngoại Giao ráo riết tìm kiếm, nhưng không thể tìm ra Martine.
    Họ bèn đem một cô gái lai da đen 19 tuổi tên Baxi (con bà Nguyễn Thị Thân ở Xóm Gà, Gia Định) giả làm con gái Tổng-thống Bokassa. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, cô gái nầy làm thủ tục xuất ngoại. Tổng-thống vui mừng tổ chức buổi tiếp nhận con rất long trọng. Phần bà Huệ sanh con gái có làn da ngăm đen, và hơi ngà ngà, thì bà vui buồn lẫn lộn. Thời gian mấy năm đầu, thỉnh thoảng Bokassa và bà Huệ có liên lạc trao đổi tin tức, sau đó do hoàn cảnh mỗi người, nhất là không gian và thời gian xa cách biền biệt góc biển chân trời, dần dần họ vắng bặt tin tức. Lớn lên, Martine là một cô gái nghèo khổ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chịu khó giúp mẹ làm việc vất vả khuân vác tại nhà máy Xi-măng Hà Tiên.
    Nào ngờ, khi biết tin ấy, cậu ruột của cô gái Nguyễn Thị Martine đã đến toà soạn nhật báo Trắng Đen trình bày tự sự, kèm y chứng thư đầy đủ chính xác giấy tờ hộ tịch. Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả? Tin nầy đến tai vua Cộng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gởi văn thư khác, xin Tổng-thống Thiệu cho “cả hai cô công chúa” đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Phái đoàn đại diện cao cấp Cộng hòa Trung Phi lại sang Việt Nam & còn có: ông bà chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, một tùy viên sứ quán Pháp đại diện Bộ Ngoại giao Pháp, và thông dịch viên. Họ đi Trung Phi.
    Tổng thống nhận ra người tình cũ, và con gái “công chúa Martine”, nên càng vui mừng khôn xiết, ông ra lệnh tiếp đãi phái đoàn Việt Nam như thượng khách. Ông không ngần ngại nhận "cô Baxi giả công chúa" kia làm con gái nuôi. Bà Huệ trở về Việt Nam. Khi đó bà Huệ đã có chồng vẫn được lãnh trợ cấp mỗi tháng 200,000$ tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn do Tổng thống Bokassa cấp dưỡng. Thời điểm đó số tiền nầy rất lớn. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Hai nàng lọ lem sau những năm tháng trong đêm tối hãi hùng đói khổ ở quê nhà, hôm nay đã tót lên đỉnh cao sang, phú quý trong ngôi vị công chúa. Thật là đời lên hương ngát, “xung xướng” tê người. Chuyện duy nhất có thật, bàng hoàng thiệt.
    ***
    Từ sự cương quyết của Hành, và do Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, & Hạm-đội thứ Bảy can thiệp, lúc đó họ mới cho Hành biết: sẽ đưa anh trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng, vì cứ bay “nhảy cóc” từ chỗ nầy đến nơi khác, như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang anh ra phi trường khi Hành còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh & hai thùng carton to bự sư đựng quà dành riêng cho cô bồ, hai thùng nữa dành cho gia đình, xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định cách uống thuốc. Một mình Hành là “thượng khách chễm chệ” trên chiếc phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có: Phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không lo về việc ẩm thực. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dùng của Hành. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. & Lữ Phi Hành. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
    Bay đến Colorado, nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, Hành nằm tại bệnh viện hai tuần. Hành ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày thanh bình và trời quang mây tạnh, Hành được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi dàn dựng quay phim, họ đưa anh "oai dũng" hí hửng leo lên... ti vi nữa. Tình cờ mà tức cười thật. Họ bảo:
    - Anh cứ “giả đò, làm bộ làm tịch” như mình chính xác là thương phế binh gốc người Hoa sống ở Mỹ nhe. Anh cầm phone vui vẻ gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh, nhe.
    Thiệt tình! Xạo hết chỗ nói. Nằm tại San Francisco hai tuần, thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hành đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô nằm trong bệnh viện đợi thêm hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán và ớn bệnh viện lên tới cần cổ! Chỉ mong chờ bớt chiến sự ở miền Nam Việt Nam, thì anh mới được trở về, sẽ tính sau. Ngày đêm mòn mỏi chờ đợi... rồi đợi chờ, trông ngóng đợi chờ hoài mãi. Hành cảm thấy quá căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, hết sức oãi và lâu quá chừng chừng!
    Thế rồi buổi sáng Thứ Bảy khoảng đầu tháng Tư, năm Mậu Thân 1968, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh chạy chầm chậm trên phi đạo, họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 hai xe chạy rề rề theo. Hai anh lính phi công Mỹ, (ở bên xe cứu thương), liền nhanh nhẹn nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Chạy bộ rất nhanh, họ bưng cái cáng thương trống không ở trên phi cơ xuống, họ chạy qua bên chiếc C-130 để "trao trả" cái cáng nầy cho Việt Nam. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ lanh lẹ khiêng sẵn cáng “áp tải thương binh Lữ Phi Hành” tụt nhanh xuống đất. Họ giao cáng thương cho người đứng dưới đất ở Việt Nam nhận. Lúc ấy, từ trên cửa phi cơ họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hành qua xe cứu thương ở Việt Nam, khi phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề.
    Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ. Vì lúc nầy tất cả xe cứu thương, phi cơ, ai ai cũng đinh ninh mình đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo, (mà lúc còn ở ngoại quốc mỗi ngày Hành nhìn trên ti vi các nơi, đều chiếu những đoạn thời sự nóng bỏng ở Tết Mậu Thân). Thế nên phi hành đoàn đã gồnh mình tới miền chiến tranh đang ì ầm, phải cẩn thận cảnh giác tối đa, họ dám liều mình mà bay trên không phận miền Nam, thì đã làm một nghĩa cử cao đẹp, rất can đảm phi thường và anh hùng rồi. Hành hết lòng cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn thì cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway. Họ đưa Hành qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
    - Are you crazy?
    - Coming back to Việt Nam?
    Phi Hành hoảng hốt la lên:
    - Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
    Họ vội quay đầu xe, đem Hành bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May quá! nếu mà ông Mỹ kia không lên tiếng nói ra, chắc là anh sẽ “bị” quay trở về Mỹ mất rồi! Vô bệnh viện Cộng Hoà gặp bác sĩ Thành khám anh rất kỹ. Ông định cho Hành xuống nằm ở bệnh xá Không-quân, nhưng Hành năn nỉ bác sĩ:
    - Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà lắm. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
    - ... OK.
    Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hành về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hành mặc bộ quần áo ở bệnh viện vui vẻ háo hức hân hoan chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người đi lui đi tới tấp nập, cảnh vật nhộn nhịp huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hành bảo hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, mấy thùng quà bước vô nhà trước Hành. Ba của anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ông đứng lên, dáo dác nhìn hai anh binh sĩ lạ, rồi ông nghiêng mình nhìn kỹ. Một lát sau ông liền chạy đến, ôm chầm lấy con trai lấp ló sau lưng mấy người lính, ông kêu lên rất to:
    - Trời ơi! Thằng Hành đã về rồi nè. Má sắp nhỏ ơi...
    Ba khóc. Hành khóc... má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ con, hôn chùn chụt và khóc rống lên hu hu hu.... Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ mà khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì anh không hề báo trước về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Hành muốn dành cho gia đình mình một sự ngạc nhiên thú vị mừng vui tuyệt vời. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ, kinh hoảng mà đầy nước mắt hân hoan vui mừng trào lên bờ mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó. Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay quay trở về quê hương, hoá ra Hành vẫn thấy nhỏ ha.
    Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho “em Trân Thư iêu rấu” biết tin "ngày trở về (của anh thương binh)... anh bước lê trên quãng đưởng đê, đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe...". Hành nóng lòng nóng ruột nôn nao đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ. Hành đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Trân Thư chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít một mảy may gì! Nét ưu tư, lỡ làng dường như hằn rõ lên gương mặt Thư đã héo hon rồi. Thế là, Hành và cô ta lúng túng, e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói những câu chuyện hết sức vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, gượng ép, ngượng ngùng và xa lạ, chả ra môn ra khoai. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay sượng sùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của anh. Sau khi Thư cho Hành biết: cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan Thanh Giản, cô ta vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ.
    Cuộc gặp gỡ nầy chưa đầy mươi phút. Hành hẹn Thư hôm sau sẽ lên đón cô ta đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự... nhẹ gật đầu. Bây giờ mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, anh kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thư trả lời anh rất chính xác, nên anh chuẩn bị tinh thần từ cái nhìn xa lạ, hững hờ dè dặt đầu tiên, chỉ sau hơn hai năm xa cách biền biệt, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! dĩ nhiên có nhiều thay đổi khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thật, không chung thuỷ, thì tình ấy như một món hàng, chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài, tình cảm dễ dàng thay đổi trong chớp nhoáng, bạc bẽo theo.
    Hành đã biết ngay từ dạo ở Mỹ, nhưng anh còn "bán tín bán nghi", khi Thư nghe hung tin anh báo bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ, hoặc gởi điện tín tấp nập hỏi thăm người yêu rối rít. Đằng nầy... lúc Hành vừa qua Mỹ trước khi anh bị tai nạn, mỗi tuần Thư viết cho anh ít nhất vài ba bốn lá thư dài. Nhưng sau khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mươi bốn tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu cô ta mới "nhỏ giọt" có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ anh luôn suy nghĩ: chẳng lẽ Thư bây giờ sinh tệ như: “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”! Thì cũng phải... Hành bây chừ chẳng khác nào: "Làm trai cho đáng sức trai. Khom lưng chống gối gánh hai “hạt vừng”. Khổ nỗi người ta làm trai còn chống gối vì hai "hạt vừng", còn tôi đây chỉ còn "một hột" cũng chả xong...
    Buổi sáng, Hành lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thư, anh chỉ đậu xe ở xa xa. Vì Thư nói:
    - Không muốn cho người nhà biết chuyện hẹn hò nầy.
    Lúc bấy giờ chân phải của anh đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột, nhưng còn chống nạn đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, anh không đi nạng, nếu ai không nhìn kỹ, thì ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng. Vì, tay phải của Hành vẫn còn bó bột đặt ở độ cong 90/o. Nên chiếc nạng bình thường được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, mà làm điểm tựa, cho anh đi vững vàng chắc chắn hơn nhờ có thêm cái nạng.
    Thư lấm lét nhìn anh, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên Hành cũng cảm thấy xốn xang lúng túng ngượng ngùng không kém. May là Hành lo xa, đã mặc bộ đồ bay màu xám đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo, mà cô ta còn tỏ thái độ lấm lét ngượng ngùng ái ngại rụt rè như thế. Nếu chẳng may anh chỉ là tên lính quèn, nghèo xơ nghèo xát; thì ắt hẳn... (hồi xưa & bây giờ) Thư chả bao giờ ngó nửa con mắt, hay tự động làm quen Hành trước, giống như hồi Hành ở Đà Lạt đâu nhỉ!
    Hai người đến tiệm ăn Sing Sing ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thư bước vào tiệm, thì hầu như tất cả thực khách thân ái và đầy cảm tình dồn mắt nhìn về phía "tụi tôi". Một thiếu úy phi công lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, đậu trước nhà hàng rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích ái mộ về sự phô trương, lác mắt vì thời thế tạo anh hùng thế thời phải thế. Chắc ai ai cũng nghĩ anh bị tai nạn xe cộ. Vì, nếu là phi công thì... ít khi có ai què quặt, hoặc lành lặn trở về nhà sau một phi vụ không chiến. Hôm qua, lần đầu tiên mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó Hành nhớ mang máng hình như câu nầy:... "Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá" - (hay là... “ngập ngừng ngượng ngùng cay đắng... phải không em Thư ui!).
    Hành đăm chiêu mà mỉm cười, vụng về vướng vít tí chút khi tay ôm cái nạng gỗ cho nó dựa vô góc tường, rồi lết đít ngồi xuống ghế, kéo rề rề theo cái chân què muốn lặt lià lặt lọi. Thư thản nhiên gần như dửng dưng nhìn, cô tự động ngồi xuống đối diện với anh, đầu cô ta luôn cúi gầm xuống mặt bàn, lâu lâu cô ta liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, gian gian mà lúc nầy Hành không thể hiểu nỗi. Thư chẳng thèm nhìn thẳng vào mặt anh, không hề hỏi thăm thương tích của “anh yêu” ra sao rồi? Hoặc giả nếu cô ta có "vờ như" ân cần vui vẻ, nói câu an ủi vỗ về nào (khác hẳn như hồi xưa cô ưa liếng thoắng). Thì anh sẽ tin ngay, không bao giờ nghĩ xấu về những "hành vi lố bịch" lúc bấy giờ của "cô em Bắc Kỳ nhớn nhớn"... dành cho anh đây chẳng qua là một "tai nạn nghề nghiệp". Hành ngao ngán lẫn thất vọng, kín đáo thở dài, anh cũng chả cần hỏi thăm ở quê nhà Thư "thay lông đổi cánh" tới đâu!?
    Cứ thế, cả hai người cúi gầm đầu im lặng ăn ăn, húp húp và uống uống... mệt nghỉ. Hành nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc. Ăn qua loa cho xong, anh lặng lẽ đứng dậy khập khễnh từng bước đi tính tiền. Hai người lụp chụp lật đật đi ra khỏi tiệm. Ngồi trong xe, sự riêng tư bây chừ lại có vẻ lố bịch vô duyên nên cả hai người càng khó chịu hơn. Chả bù cho ngày xưa trước khi Hành đi Mỹ, thì một tay anh cầm lái, còn một tay Hành vòng qua kẹp cổ nàng bóp bóp, nắn nắn chỗ nầy chỗ nọ... Còn Thư thì tay bận rộn ôm ôm, rờ mó cổ, bấu víu tai tóc và rờ bụng nắn ngực của anh, dù nhột ơi là nhột nhưng Hành rất khoái. Thỉnh thoảng cô chồm qua hôn anh chùn chụt, miệng nói tía lia: "em yêu anh, em nhớ anh nhiều".
    Nhưng... gặp nhau lần nầy thiệt quá tệ và xa lạ, bẽ bàng đến độ xót xa, dường như Hành và Thư chưa hề có một thời gian thân mật đậm đà yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao ta?! Bi giờ coi Thư có thái độ quá dị hợm, xa lắc xa lơ, bẽ bàng, trơ trẽn đến độ thê thảm. Trước khi thả Thư xuống lề đường gần nhà cô ta, vì Thư muốn vậy. Hành cố gặn hỏi:
    - Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
    Hoàn toàn im lặng, không có câu trả lời, không một cái lắc đầu hay gật đầu. Càng tệ hại hơn không có cái liếc nhìn, mà cô ta chỉ cúi gầm xuống đất.
    - Cho anh xin số phone nha.
    Lắc đầu quầy quậy. Im lặng. Không cho. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây Phi Hành và Trân Thư: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau tê tái và tủi hờn thê thảm hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
    Sông sâu có thể bắc cầu.
    Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
    Sông sâu còn có kẻ dò.
    Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.
    (*)
    Ngay lúc đó, Hành quẹo xe lái một mạch vào bệnh xá Không-quân. Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của anh. Sau khi khám xong, ông Thiếu-tá bác sĩ cho biết:
    - Mọi việc đều ổn. Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
    - Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
    - Anh đến đây bằng cái gì?
    - Em tự lái xe hơi đến.
    Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
    - Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vô đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
    Thiếu-tá bác sĩ quá chu đáo ân cần chăm sóc bệnh nhân, Hành đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế Trung-sĩ vừa đưa anh ra khỏi cổng Phi Long, Hành liền bảo chú dừng lại, anh cho chú ta ít tiền, và nói:
    - Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng vậy, chú cứ đậu xe chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gởi xe nơi người bạn. Đơn vị anh ấy làm ở phòng an ninh phi trường. Rồi chú chỉ chở tôi vô bệnh xá thôi hen. OK?
    Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hành còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
    * * *
    Dẫu sao thì trong lòng Hành cũng ấm ức bứt rứt bực tức không vui, ba bốn tuần nay anh ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thư. Có mấy lần Hành lái xe đến đậu thẳng ở bên sát mé cổng. Khi bấm chuông, thì Hành thấy Thư hăng hái vui vẻ bước ra thềm. Rồi... chợt Thư ngước nhìn thấy Hành, nên cô ta vội vã thụt lùi, vụt lui nhanh vô phía phòng khách. Chờ một lúc khá lâu, Hành bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh ú ớ:
    - Cô Thư... đi vắng rồi.
    Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa... vẫn cứ thế! Dĩ nhiên Hành thất vọng và thật buồn. Nhưng thôi, anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi, thì nếu mình cố giằng co níu kéo, lại càng vô ích mà thêm mang nhục. Dù rằng anh rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thư và Hành: nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa, không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu hai người có tình cờ hay hữu ý gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu, dị hợm nói xấu nhau chả ra gì. Thật là anh đã rất lầm khi yêu Trân Thư. Một mối tình không xứng đáng với lòng tin yêu nồng nhiệt thân thiết của mình.
    Một ngày kia, Thư phone đến thì biết Hành đi vắng nhà, Cô ta khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà bánh... nhiều thật nhiều mà anh đã gởi tặng Thư từ lúc còn ở Mỹ. Ba má anh nói Thư ráng ở lại chút, chờ Hành về, hai người ngồi lại nói chuyện phải trái sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
    - Không. Cháu bận.
    Người ơi gặp gỡ làm chi
    Để rồi hai đứa chia ly hai đường. (
    *)
    Sau cú quay giò lái chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”, Hành sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường, thất vọng và hụt hẫng biết bao! Hành trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới, Thư nhờ bạn thân là Hiền gọi phone tới nhà gặp anh, lấy cớ “bắn tin”:
    - Thư lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, vì bà dì của Thư mắc nợ ông chồng của Thư.
    Bỗng dưng anh sảng khoái cười xoà kha kha kha. Úi trời đất qủi thần thiên địa ơi! Gạt đứa con nít có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “nàng Kiều lâm nạn thời nay”! Nợ của bà dì, thì mắc mớ chi mà cháu gái họ xa xôi (nếu dùng củ cà nông bắn đi, chưa chắc đã trúng tới họ với hàng) mà cháu hờ… ấy phải nai lưng ong nuột nà ra, để gánh vác, đỡ đần cho bà dì có một đàn con cháu lít chít (chứ không phải do nợ của cha mẹ mình, hoặc cô ta... mắc phải ông chồng cao cấp, danh giá giàu sang, nên trừ cấn cho dứt điểm "món nợ hồi môn" ấy!? đành “hy sanh” cuộc đời son trẻ, tương lai rạng rỡ, hạnh phúc tình yêu)?! Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế, mà không biết ngượng mồm loa mép dãi? hả trời!!!
    Ngày Thư làm đám cưới, là đúng vào ngày đầu năm dương lịch, ngày ấy không xa ngày Hành đến bên cổng nhà nhìn Trân Thư núp lén sau rèm không muốn gặp mình bao lâu, Hành đã lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn sớm hơn một giờ. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể trờ tới. Hành để ý quan sát tỉ mỹ thật kỹ: Rõ ràng Trân Thư không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, bâng khuâng thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân phận mình khi phải “ hy sanh bán mình” chuộc nợ cho "bà dì khả ố" nào cả. Ngược lại Thư đang hân hoan, hí hửng, khoan khoái, ung dung vui vẻ lí lắc rìu rịt cặp tay chồng. Nói đúng ra, cô ta chẳng hề có chút nào "bị" gượng ép, bị bắt buộc lấy chồng; để trả nợ đậy cho bà dì. Trái lại, coi cô ta rất lả lơi, hí hửng tình tứ nép sát vô ngực chồng, hai anh chị một già một trẻ dung dăng dung dẽ tiến vô vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Không hiểu ở trong nhà thờ Trân Thư có thở than cùng Chúa:
    Người đâu gặp gỡ làm chi.
    Để cho khổ thế còn gì tuổi xuân?
    Chúa ơi! Con khổ vô ngần.
    Chúa mà không giúp là thân con tàn.
    Con đang thiếu nợ trăm ngàn.
    Nhìn đồ “chồng” sắm hai hàng lệ rơi.
    Con quỳ lạy Chúa trên trời.
    Giúp cho con trốn được người con yêu.
    (*)
    Hành ngồi trong xe hơi, lặng câm thừ người ra suy nghĩ miên man, buồn bã mất mươi phút. Khi nhìn thấy sự thật rõ mồn một và hiểu ra… anh vui vui chút ít, nên kết thúc xong một chuyện tình mà Hành cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”. Dẫu sao thì... khi xưa, đã rất nhiều lần anh giăng rộng vòng tay ra ôm ấp, ghì siết Trân Thư đắm đuối si dại tình tự. Hành cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời luyến ái dài, khá dài khoảng trên một năm rưỡi cùng nhau yêu cuồng... cũng đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuống quít, hay hờn ghen nho nhỏ về chuyện xa xưa. Hành đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng, vô duyên tệ lậu của đời mình. Ha Ha Ha!!! Anh mạnh dạn lái xe đi về nhà, cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế, chẳng lẽ anh “rên”:
    Người đi một nửa hồn tôi mất...
    Một nửa hồn kia... đứng chưởi thề!
    (*)
    Mãi về sau nầy khi an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị ông chồng già khú đế nhưng giàu sang đầy danh vọng xong. Năm 2005, bà ta gọi phone về nhà anh, tò te ỏn ẻn nỉ non tha thiết nói:
    - Lúc em xa anh, mà đi lấy chồng đó; không ai hiểu được em đâu.
    - Thì vâng! Anh hiểu! Hô hô hô!!!
    *

    (*) sưu tầm đó đây
    ***
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  4. #4
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Có Anh, có Tui... Chớ còn Ai Vô Đây!


    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Thứ Ba
    Chương 24

    Có Anh, có Tui... Chớ còn Ai Vô Đây!
    Tình Hoài Hương
    ***


    Phi Hành vô cùng mệt mỏi vì cứ "nằm lì" ở bệnh viện Cộng Hoà suốt tháng nầy qua tháng khác, cho đến khi vài khóa sinh đàn em qua Mỹ hoàn tất việc học hành xong & trở về Việt Nam thỉnh thoảng đến thăm, họ kể cho Hành nghe biết bao chuyện vui ở quân trường Mẹ cũ. Ở đó, đã có Anh, có Tui... chớ còn Ai vô đây. Bỗng dưng... khiến Hành như bừng tỉnh cơn mê, gợi nhớ biết bao điều về thuở vàng son vang bóng. Nhớ ơi là nhớ! Đêm đêm anh nằm bắt chân chữ ngũ (một chân tàn tật và vắt cánh tay què lên trán) anh không biết làm gì hơn, là thường loay hoay nhớ, rồi thả trí óc mơ mộng, bâng khuâng suy nghĩ, muộn phiền hồi tưởng về thời gian học ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang; & khi anh qua bên Mỹ học bay, là tuyệt vời vui vẻ lắm:
    Sau nầy, Hành được anh em đã thụ huấn ở quân trường cho biết: họ bổ túc thêm những sự kiện cần thiết khác, mà đôi khi Hành vô tình đã quên, như: Về việc tuyển mộ thanh niên vào Không Quân chia ra nhiều giai đoạn: Giai đoạn trước năm 1969 (Việt Nam hoá chiến tranh) ứng viên phi hành phải hội đủ điều kiện:
    - Ít nhất học lực Tú Tài I.
    - Từ mười tám tuổi (18) trở lên không cần sự ưng thuận của người giám hộ.
    - Đầy đủ sức khoẻ: cao trên 1m68, nặng 50 kí lô, "pignet" tương đối, tai, mũi, họng, răng, tất cả đều phải tốt. Nhất là đôi mắt phải 20/20. Ứng viên được bác sĩ khám vô cùng kỹ lưỡng.
    Khi tuyển vào Không-Quân, có thể nói là gắt gao, bạn sẽ phải ký giấy cam kết phục vụ trong quân đội, hưởng quy chế hiện dịch, mình không thể giải ngũ trước hai mươi lăm năm (25t). Ngoại trừ vi phạm quân kỷ, hay bị bệnh tật đau ốm triền miên. Khoá sinh sẽ thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Tại đây, tên của khoá được đặt tùy theo năm (thí dụ: nhập ngũ tháng 1/1963, thì tên của khoá học ấy sẽ gọi là: Khoá 63 A, những khoá sau đó lấy tên kế tiếp: 63 B - 63 C ... Khoá của bạn Hành có số ứng viên khá đông, nhưng chỉ tuyển được bảy mươi (70) người. Sau đó có một anh ghi trong khai sanh có tên Tây là: Robert Trương Công Thành, nên anh bị loại vào giờ phút chót, chỉ vì cái tên Tây, tên Pháp… (hỡi Robert là anh Rô Bẹc ơi!).
    * Trường hợp điển hình của anh Trần Lương thuộc dân Rochefort, mà mãi đến sau nầy anh mới được điều chỉnh vô ở khóa 65. Có thể anh Lương hồi đó ham vui, thèm của lạ, (hi hi hi…) nên anh bị mấy bà đầm xinh xinh đẹp đẹp bu bám theo “dzụ khị” mời anh đi Tây học nghề, tiện thể anh có dịp tha hồ “chiêm ngắm” dung nhan những kiều nữ mặt hoa da phấn mắt xanh, tóc vàng. Anh là dân Ốc-xe, đi với một đám dân Rốt-sơ-pho, đầu năm 1955 anh Lương “đậu” với chức Binh Nhi.̀ Lần lượt, bạn bè anh xin đi học bay, học làm bác sĩ, kỹ sư, thuyền trưởng, họ làm quan gần hết. Riêng anh Lương bị cầm chân… vì nhu cầu công vụ, mãi đến đầu năm 1965 anh Lương muộn màng được ưu ái “thưởng” cho chính mình theo học bay khoá 65B.
    Ra Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, anh Lương nếm sơ qua đủ “mấy món ăn chơi” của tiến trình đội mũ có giây bạc. Tóm lược sơ qua cuộc đời binh nghiệp hai mươi năm- ba tháng- hai mươi ba ngày của anh Lương thì thế nầy: Anh không có bằng cấp, không chứng chỉ quân sự, hay chuyên nghiệp nào từ bậc thấp nhứt đến cao nhứt trong Không Quân. Vì: do bà xã bả tài lanh gởi mấy thứ giấy “thông hành hợp lệ” đó qua thế giới bên kia cho Diêm Vương nghiên cứu, thưởng thức tài năng cuả người dân ở miệt trên trần đời hết rồi. Chắc mai nầy qua bển, anh Lương sẽ có đầy đủ hồ sơ quân vụ ngon lành. Ha?
    Nói về việc bay bổng thì Hành được anh Lương thú vị kể cho nghe:
    - Lương không có hân hạnh được Không Quân cho đi học bay, vì anh bị cận thị. Nhưng trước khi đi Không Quân, thuở thanh bình Lương cũng đã từng leo… lai rai trên mấy chiếc Piper Cub rùi. Dạo đó dù sao anh Lương cũng lớn tuổi hơn anh em cùng khóa với bạn & tôi, nên chắc là anh không bị "dần" nhiều đâu nhỉ! Cái “Lễ Độ” là... "dạy một xíu" cho đàn em, chứ không phải là lễ độ với người lớn tuổi, hay thâm niên quân vụ hơn mình đâu! Cũng tựa như trong phái võ ấy mà, kẻ nào vô học sau, thì phải gọi người trẻ nhập môn sớm nhứt trước mình là: “đại sư huynh” vậy mà! Nếu anh bị "quần" nhiều, là do anh hổng... hên đó! Vì tôi (Thiệu...) nhớ anh Phước (Nùng là cận vệ của xếp) cũng ra đấy học điều chỉnh, mà ảnh đâu có bị ai phạt vạ gì ha! Anh ấy còn lái xe jeep chạy ven vòng đai... bắn chó nữa đó. Dù sao thì thời đó vui quá, anh Lương nhỉ. Ở đâu cũng có quý niên trưởng đàn anh, có bạn hữu, có anh, có tui… chớ còn ai vô đây”!
    ***
    … Vừa xuống máy bay, mới bước vào ngưỡng cửa Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, ai ai cũng náo nức xôn xao, vui vẻ háo hức chờ đợi. Theo truyền thống của Trung-Tâm Huấn-luyện Không Quân Nha Trang, ngày vào quân trường là ngày quan trọng nhứt đối với sinh viên sĩ quan Không Quân. Gọi là "buổi chào mừng quân trường". Sau đó họ gỡ Alpha của anh ra, và huấn nhục mình lại theo truyền thống của binh chủng Không Quân. Tại quân trường Không-Quân Nha Trang, các sinh viên sĩ quan được huấn nhục theo truyền thống Không Quân, rất cá biệt. Hoàn toàn khác với quân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hay quân trường Võ Khoa Thủ Đức.
    Trung-tâm của bộ chỉ huy sinh viên sĩ quan Không-Quân Nha Trang gồm có cấp Đại Đội, Trung Đội... để dìu dắt sinh viên sĩ quan đàn em. Đối với sinh viên sĩ quan đàn anh sẵn sàng "đón rước" khoá đàn em (ngoại trừ khoá đàn anh, mà trên đàn em một khoá, thì không được can dự).
    Bỏ xuống bên lề những quân trang, ta được cán bộ tập hợp lại điểm danh xong, là bắt đầu chạy bộ về sân cờ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân (vì không có vũ đình trường như ở các quân trường khác), bạn bắt đầu chạy vòng quanh doanh trại. Dĩ nhiên các sinh viên sĩ quan chạy theo cán bộ hết lời doạ nạt, hò hét… Họ phải "rền vang hò hét” muốn bể cả Trung Tâm Huấn Luyện, là những "hung thần hét ra lửa" bất đắc dĩ mà. Cho đến khi nào đa số khoá sinh nằm gục, rơi rớt lả tả dọc đường, anh em nào còn chút sức khoẻ, thì dìu những anh em ngã gục kia về chỗ nghỉ ngơi giây lát. Và bạn lại tiếp tục bị hành hạ như thế, không kể ngày hay đêm.
    Bắt đầu ngày hôm sau: Sáng. Trưa. Chiều. Tối, bạn đều phải “tập” hít đất, nhảy xổm... đến khi mọi người đều mệt lã, thì cán bộ cho tạm nghỉ mươi phút. Mục đích cuả Trung Tâm Huấn Luyện là muốn tân sinh viên sĩ quan có một cơ thể tráng kiện, một tinh thần vững chắc, sẵn sàng nhận lãnh mọi trách nhiệm do thượng cấp giao phó (dù quá vô lý). Trong lúc huấn luyện, tất nhiên có nhiều hình phạt, lời nói của cán bộ nghe rất chói tai, bất công... buộc tân khoá sinh thi hành không điều kiện. TTHL có mục đích rèn luyện con người khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần & những hình phạt sẽ hoàn toàn không làm thương tổn đến sinh viên sĩ quan. Phải nói là… ngược lại.
    Điều quan trọng nữa là trước khi học bay, hồ sơ an ninh của mình chính xác rõ ràng minh bạch, và tuỳ theo tài khoá, các sinh viên sĩ quan được gởi đi học ở Mỹ: Về các loại máy bay cánh quạt, hay trực thăng, (hoặc theo học những lớp phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang). Sau khi qua giai đoạn căn bản quân sự, các sinh viên sĩ quan được học Anh-ngữ, chờ đợi du học, hay học bay Cessna tại Nha Trang. Hoặc giả suốt đời làm sinh viên sĩ quan "Đại Cồ Niên Trưởng" tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân.
    Trong hai tháng huấn nhục, khoá sinh không được vào câu lạc bộ rong chơi trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Ngoại trừ những ngày cuối tuần, hay ngày lễ, khóa sinh mới được tiếp thân nhân ở trạm tiếp liên gần cổng quân trường.
    - Ngày gắn Alpha là ngày rất quan trọng, tân sinh viên sĩ quan mặc đại lễ, quỳ gối dưới nền xi măng (không được phép kê bất cứ vật gì dưới gối à nha, nếu tự ý làm thì coi chừng a lê hấp... ra rìa), để sinh viên sĩ quan cán bộ đàn anh đến gắn Alpha trước sự hiện diện của Chỉ Huy Trưởng, toàn thể Bộ Chỉ Huy, các sĩ quan cán bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Từ đó tân sinh viên sĩ quan mới được phép xuất trại cuối tuần, họ vui vẻ ung dung đi ra phố, giống như các sinh viên sĩ quan đàn anh vậy. Dĩ nhiên, trước đó bạn được huấn thị những điều không được phép làm, như: đi xe đạp, xe gắn máy, xích lô. Quân phục chỉnh tề. Đi đứng dõng dạc. Không được vào những quán ăn bên lề đường. Tới những khu phố "cấm". Nhất là nắm tay người đẹp... dung dăng ở nơi công cộng. (PH)
    ***
    Ngoại trừ những khoá đặc biệt vì đông quá, thiếu huấn luyện viên dạy về môn “Căn Bản Quân Sự”. Nên họ đã gởi quý anh đó đi học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, ngày 10/9/1967, để học giai đoạn I. Ấy là khoá đầu tiên của Không Quân gởi qua trường Bộ Binh Thủ Đức. Học xong giai đoạn 1, bên trường Bộ Binh Thủ Đức không cho họ quay trở lại trường Không Quân. Buộc lòng họ phải "trốn" về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân). Anh Phúc trở về TTHL KQ Nha Trang 21/1/1968, gọi là khoá 68 A. Cuối năm 1968 và giữa năm 1969, vì nhu cầu “bành trướng” Không Quân mong muốn ngành Không Quân được phát huy hơn, nên có việc tuyển chọn sĩ quan, hay sinh viên sĩ quan Không Quân từ các quân trường Thủ Đức, Đồng Đế hay Quang Trung. Nhiều Hạ-sĩ-quan Không Quân sau khi nhập ngũ, họ đã cố gắng học thêm, nên khi có bằng Tú Tài I, họ được tuyển vào sinh viên sĩ quan phi hành, hoặc không phi hành (nếu là “Không Phi Hành” thì điều kiện sức khoẻ dễ dàng hơn tí). Ngoại trừ những Hạ Sĩ Quan lão thành đi Không Quân từ thời xa xưa (trước năm 1956) thì có thể được theo học khoá Sĩ Quan đặc biệt, không phi hành (theo cấp số, nghề nghiệp như Navigator, không lưu...)
    Quân số mỗi khoá tuỳ thuộc vào con số ứng viên, có đầy đủ sức khoẻ. Trung Tâm Giám Định Y khoa Không Quân lúc nào cũng bận rộn kinh khủng. Vì họ phải lo thêm cho các sĩ quan Không Quân phi hành cần khám định kỳ hàng năm nữa. Sáu tháng học đầu tiên, khoá của anh Phúc bị ăn hiếp mọi mặt... Về sau, may sao có Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tuyền (chức vụ thời bấy giờ) làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khoá Sinh, ông đã mạnh dạn thay đổi cục diện. Thiếu Tá Tuyền làm "cách mạng", là để sinh viên sĩ quan có quyền tự trị, tự điều hành và tránh những vụ (rất hiếm hoi, chỉ có ít người tham nhũng, ăn chận), họ quá hành hạ sinh viên sĩ quan (như từ lúc trước thời 1965). Vì vậy các khoá sinh viên sĩ quan Không Quân vào học sau nầy, có một cuộc sống trong quân trường tạm gọi "ung dung thoải mái” hơn qúy đàn anh lão thành của họ. (TVP)
    * * *
    Trở lại chuyện huấn luyện sinh viên sĩ quan: một hình phạt trong thời kỳ huấn nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, mà anh Lôi Thiên “thích nhất” là:
    - “Xoãi Cánh trên bãi cát. Đếm sao trên trời”.
    - Có bị phạt gì đâu! một niên trưởng thấy mình bị mấy cán bộ quần như con gà chết. Thế là ông kéo mình ra chỗ khác... xa xa... cho nằm xoãi hai tay hai chân trên cát, nhìn trời mà đếm sao. Sao trên trời đếm đếm bao giờ cho hết, có ai kiểm soát nào. Nên anh Lợi không thích sao được!!! Niên trưởng này thuộc khoá 68B chế ra cái màn phạt này. Mấy ông Niên Trưởng khoá 65 quá may mắn, những năm sau nầy họ phạt anh Liêm ít nhất cũng 100 cái (nhẩy xổm, hít đất...), còn nhiều trò mới lạ, có những tên rất kêu như:
    - “Quan Công ngồi ghế đẩu”.
    - “Phượng Hoàng rũ cánh”...
    - “Móc giò lên tủ”.
    - “Móc giò lên đà ngang trần nhà, miệng ngậm một lúc mười điếu thuốc đang cháy... (vì trong thời gian huấn nhục, không ai dám lén lút hút thuốc lá). Mấy ổng cán bộ nói:
    - Không Quân là dân sang hào hoa phong nhã lả lướt nên không xài bạc lẻ (mặc dù trong túi họ không có một đồng xu. Ừ phải. Thời buổi nầy ai thèm xài đồng xu như ở thời Khang Hy chớ. Thành thử tối thiểu phải là 100). Ai làm được thì làm, nếu không làm nỗi, thì mình cứ nằm chình ình ra đó, mấy ổng phải chuyển qua hình phạt khác. Nghĩ lại mà ớn, nhưng để lưu luyến nhiều kỷ niệm vui vui ở quân trường... Nhắc lại chuyện xưa, anh Liêm cũng chỉ để nhớ những "kỷ niệm" khó quên thôi. Đâu cũng vậy, trong một tập thể cũng có "vài con sâu làm rầu nồi canh", dù họ hơi đi quá trớn, muốn nổi danh là "hung thần" tự biên, tự diễn… thế thôi. Ngày nay bạn & tôi gặp lại nhau, không ai hận thù, không hờn oán, đôi khi nhắc lại chuyện cũ, cười với nhau, coi như những kỷ niệm xa xưa. Thì đó, có tui chớ còn ai vô đây nà! (Liêm, & Lôi Thiên).
    * Nghĩ đi, nghĩ lại chuyện đã xảy ra hơn bao nhiêu năm qua, nhiều lúc tôi thấy có một cái gì ngồ ngộ... tự ta tủm tỉm cười. Bạn LD chắc cũng có những giây phút ấy? Nếu ai không vào quân ngũ, thì không bao giờ có những cảm giác ấy! Vì vậy anh tkdf đã có bài thơ “Tự Trách”:
    Tưởng như mọi chuyện ở ngoài đời.
    Bước chân vào lính, mới hỡi ơi!
    Ớt cay, mật ngọt, ông cứ nuốt.
    Nhai vào, mới biết nóng bờ môi.
    Tôi bảo ông nuốt, sao ông nhai.
    Cãi lời cán bộ, phạt gấp hai.
    Thế chờ, xuống đất, chân móc tủ.
    Ngu quá, bảo nuốt, sao lại nhai?

    * Anh Lôi Thiên nằm xoãi cánh đếm sao trên trời, sao trời thì đếm làm răng hết sao… Còn tui thì bị cán bộ bắt đứng đếm:
    - Một ông lặt cỏ, hai ông lặt cỏ, ba ông lặt cỏ...
    * Đếm cho đúng 100 ông mà không trật, thì cán bộ cho vào hàng. “LD tui” cứ phải đứng đếm đi đếm lại hoài, mà cứ trật tới trật lui... Tới bây giờ mỗi lần nhớ tới, bạn ấy và tôi đếm đi đếm lại… mà chưa bao giờ đếm được tới 100 ông…
    * LD đứng một chỗ đếm 100 ông lặt cỏ, vẫn còn đỡ khổ, đàn em Luckyluke bị đứng theo kiễu con nhà võ: “Phượng Hoàng sa bãi c...”; là đứng hai tay giăng ra như cánh chim, một chân co lên, mà đếm: “Một ông lặt cỏ, hai ông cỏ lặt, ba ông...” Đếm tới khoảng 20, thì chân em run, mắt “em” hoa... Nếu đếm sai, hoặc lỡ nói lái chữ “cỏ lặt”, thì bị "thưởng" thêm 50 nhảy công lực. Riêng anh Lôi Thiên phè cánh nhạn đếm sao trời, thì quá đã: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông...” Chưa kể buổi trưa nắng, “em” bị chống tay thế chân chờ trên đường nhựa, ta bị phỏng cả hai tay (sau này rút kinh nghiệm, “em” thủ hai miếng gỗ, để tránh bị phỏng tay là hết đường viết lách, cầm đũa ăn, uống, v.v...).
    Nguy hiểm nhất là nhìn mặt trời. Đúng là quái chiêu, như NT Nghịch Nhĩ đã viết, hư mắt như chơi! Còn ai bị cạo đầu, thì bị chơi ngay một đường ranh ở chính giữa đầu ta, như xa lộ không đèn, Ôi! “Tóc chẻ hai sầu chia đôi ngã”. Cứ mỗi lần nhắc tới vụ “huấn nhục”, là “em” vừa tức vừa buồn cười!!! Nhưng có lẽ nhờ vậy mà qúy anh Không quân đã học hỏi được nhiều điều hay, và nhẫn nhục đấy. Phải thế không; Thưa quý anh khả kính ơi!
    ***
    Riêng về anh Phúc sau ngày mất nước 30/4:
    Trở về chuyện của anh Phúc lúc nhỏ: lúc ấy tôi mới lên năm tuổi, tôi đã chứng kiến tám mươi ba (83) dân phu đào kinh dẫn thuỷ nhập điền, bị tàn sát bằng mã tấu. Họ nằm chết la liệt, ngổn ngang cạnh Quốc Lộ 4, gần nhà ông nội của tôi. Trước đó tôi thường nghe nội, ba tôi kể lại:
    - Những hành động dã man của Vẹm, thì không thể nào tả hết. Trong số đó có người anh của nội bị bắt, đem đi chôn sống nơi nào. Sau 30/4 bọn ác ôn lại tái diễn thảm kịch kinh hoàng. Họ giết hại ông nội, còn tịch thu tài sản, đồ đạc, mấy ngàn giạ lúa ba tôi vừa mua vài tháng trước. Chẳng những vậy, má tôi bị truy tố, vu khống má hoạt động cho CIA, vì trong nhà có những tấm "mui xe GMC", ba tôi mua, để che lúa khi trời mưa. Tất cả ruộng vườn đều bị tịch thu, nhà cửa bị bọn chúng chiếm đóng. Bà nội chín mươi (90) tuổi, cùng cả nhà phải đi xuống ở nhà sau. Cũng may, nhờ bên ngoại giúp cho bữa đói bửa no, nên đại gia đình chúng tôi cố gắng sống lăn lóc qua ngày.
    - Ba tôi ngày xưa làm nghề gỗ, thường đi Túc Trưng mua gỗ đem về cưa ra bán, đến khi bà Nhu dành độc quyền khai thác, ba tôi đổi sang hành nghề bán lúa gạo nuôi đàn con tám đứa. Cho đến giờ phút nầy, tôi không hối hận về những việc làm ngày xưa, mà cho là mình làm đúng, tiếc rằng "mãnh hỗ nan địch quần hồ". Tôi có nên xoá bỏ hận thù không? Sao? bao nhiêu gia đình tan nát vì lũ người không ra người? ngợm không ra ngợm kia, mà xóa bỏ ranh giới giẹp tan hận thù, coi đành sao ta? Gia đình vợ con tôi xa nhau đúng 14 năm 3 tháng và 10 ngày, tôi qua Mỹ đây năm 75, sống lây lất từng ngày, lấy hạnh phúc gia đình của bạn bè làm niềm vui, cho đến năm 1989 vợ và con bé gái mới sang Mỹ. Sau đó chúng tôi có thêm thằng nhóc, nay ngoài hai mươi tuổi. May mắn cho tôi… nếu tôi ở lại, chắc chắn bị giết bởi những tên CS/30. Bọn nó rình ngày rình đêm ở cư xá Thanh Đa (nhà tôi) cũng như ở quê tôi, chờ tôi trở về.
    Sự thật tôi không muốn đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau ngày “mất nước”, khi chúng tôi đi theo gia đình đứa em vợ định ra cổng Phi Long, nhưng bị Quân-cảnh chận lại, năn nỉ thì nó bắn liên tục ba tràng M16, buộc lòng tôi phải leo xuống xe, không nói một lời từ biệt ai. Đến trưa tôi được lịnh di tản về Cần Thơ, mãi lo gọi điện thoại về Sài Gòn xem vợ con về tới nhà chưa. Nhưng tất cả tổng đài đều không ai trả lời. Thất vọng quá, tôi vừa bước ra cửa phòng Quân Báo của Tr/tá Bích, Tr/tá Huynh PĐ Phó 518 di chuyển (taxi) ngang qua. Thấy tôi, ông ngừng xe lại bảo tôi leo lên chiếc AD5 phía sau, để trở về Tân Sơn Nhứt. Tôi là người sau cùng và thứ hai mươi ba trên chiếc AD5 chật hẹp. Vì lên sau cùng, nên chịu khó cong người và ép mình ở phía sau đuôi, giữa hai sợi dây cáp điều khiển phi cơ.
    Khi đến Utapao, tôi tìm mọi cách trở về Việt Nam, thế nhưng cả Thái Lan và Mỹ đều không cho. Tôi đành phải qua Guam. Tại đây tôi chần chờ chưa chịu sang Mỹ, cho đến khi đám người đòi về Việt Nam trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín làm loạn, đốt phá doanh trại, treo hình già Hồ và cờ CS, tôi tự nghĩ: tôi có thể trở về để chịu khổ với gia đình và vợ con tôi. OK. Nhưng tuyệt đối tôi không thể cúi đầu, nịnh bợ chạy theo VC, nên tôi đi Mỹ ngày 4/6/75.
    Thật ra vợ con tôi có dịp rời VN ngày 25/4/75, nhưng hôm đó ông Thiệu "mượn" chiếc phi cơ ấy đi Đài Loan, rồi ngày 27/4/75 vợ tôi đổi ý, không muốn đi, thà ở lại sống chết bên nhau, vất vả lắm tôi mới thuyết phục vợ. Tôi đinh ninh vợ con có tên trong danh sách chuyến bay đã ấn định, chúng tôi không chen lấn, từ từ sắp hàng. Khi tới phiên thì chỉ còn một chỗ cho vợ tôi mà thôi. Ông Đại/Tá NvR, Chánh Văn Phòng Tướng Tư Lịnh Không Quân không cho đứa con gái vừa tròn 7 tháng lên máy bay, ông viện dẫn đứa nhỏ đó dù ngồi trên lòng mẹ, cũng tính một chỗ ngồi? Vì chỗ quen biết với vợ chồng tôi, ông “hứa "lèo" sáng mai có chuyến khác sẽ dành ưu tiên cho vợ con tôi.
    Ôi!!! Ngày mai… không bao giờ đến; vì đây là chuyến cuối cùng. Đúng là "cái số bốc cứt". Sau nầy, nhiều người cho tôi biết "chỗ ngồi của vợ con tôi trên máy bay ấy, thì "bị ai đó" đem bán cho đám Ba Tàu Chợ Lớn?! Vô cùng trớ trêu, khuya ngày 29/4/75 VC ào ạt pháo vô phi trường TSN, một trong những người liều chết cất cánh bay lại là tôi!, để bảo vệ hàng ngàn người trong TSN (có “hắn ta” trong đó). Chỉ có một điều về KQ thì phi cơ Skyraider thường bay hợp đoàn ít nhất từ hai chiếc trở lên, mỗi chiếc đều mang bom đạn tối đa từ 6 đến 10 trái bom. Trong lịch sử KQ chưa có ai cất cánh một mình, ngoại trừ tôi (vì phi trường bị pháo, bất đắc dĩ tôi phải cất cánh một mình).
    "Ông ta" khác một trời một vực với các bạn của tôi hằng thân quý, nhất là khác hẳn anh cố Tr/Tá Phạm Văn Thặng, người đàn anh khả kính của tôi, anh từng sống chết với đồng đội tình như anh em, có thể nói còn hơn vậy nữa. Đời tôi gắn liền với anh ấy, dù khi anh còn sống hay đã chết. Mỗi năm vào ngày giỗ của anh, lòng tôi bâng khuâng muộn phiền, đứng ngồi không yên, buồn man mác như đã mất đi những gì quý báu, vì tôi thương anh lắm! Tôi luôn nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm ngày nào... Ở những nơi đó, đã có anh. Có tui… chớ còn ai vô đây!
    * * *
    Tình Hoài Hương

    Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  5. #5
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Tai Nạn Trực Thăng Rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt...



    Huấn Luyện Phi Hành

    Phần Thứ Ba
    Chương 25
    Tai Nạn Trực Thăng Rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt...
    Tình Hoài Hương
    ***



    Những ngấn nước to tròn long lanh mòng mọng rung rinh đậu trên cánh hoa anh đào mỏng manh, đang e lệ đung đưa trong gió rì rào. Bầy thiên nga (xe đạp nước làm thành con vịt trời bằng gỗ buộc chặt ở cọc cắm) thong thả lắc lư, quay lui quay tới trên hồ Xuân Hương loang loáng ánh bạc. Nhà hàng Thủy Tạ trắng toát in bóng xuống mặt hồ phẳng như phiên gương trong suốt như pha lê. Trời thanh thoáng tươi mát lạ thường giao hòa với gợn sương ẻo lả, uốn éo vật vờ bay lên trên không trung. Bên kia hồ bình minh đã lấp ló ở đọt thông ba lá, vài cánh bằng lướt gió tung mây vút bay qua thành phố thơ mộng, trông ngoạn mục vô cùng...
    Hồng Hạnh ghé vô nhà hàng Thủy Tạ ăn sáng trước khi đi thăm anh chị Thuyền. Nhà hàng hữu tình ẩn hiện trong làn sương đục mờ mờ dật dờ là là trên mặt hồ như ngái ngủ, mùi cà phê tỏa ra thơm phưng phức. Hạnh thích nơi nầy, không vì chủ nhân tươi cười xinh lịch, vui vẻ đon đả chào mời khách, mà cũng là nơi đây phong cảnh có xí lãng mạn, trữ tình nổi tiếng vào hàng thứ nhì, thứ ba ở thành phố, qua cách họ pha cà phê ngon, vừa ý khách, với nhạc chọn lọc dịu êm, dìu dặt nhè nhẹ vẳng lên, không ồn ào chói tai khiến mình khó chịu.
    Sau khi cô tiếp viên đặt trên bàn tách cà phê sữa nóng, dĩa bánh “sừng trâu” (le Croissant), Paté Chaud trước mặt, thì Hạnh mở tờ báo ra đọc. Những bàn trống ở trong phòng đã có lác đác năm ba cặp ngồi bên nhau rôm rả chuyện trò về thơ, văn, chuyện tiếu lâm vui nhộn, kèm những tiếng cười sảng khoái vô tư lự qua câu thơ vui, khiến Hạnh tủm tỉm cười, chú ý lắng nghe:
    Nhớ người xưa ngày cũ,
    Dưới lằn đạn đi anh uy vũ can trường.
    Cánh bằng bay anh lướt gió muôn phương.
    Em đứng đợi tường vi bên cửa sổ.
    Thân chiến binh một đời vẫn nhớ.
    Tấm lòng trai muôn thuở sắc son.
    Mây hoàng hôn trải mưa nắng nước non.
    Hình ảnh đó khắc ghi từng kỷ niệm.
    Tiếng đàn ai chiều nay dạo phím.
    Cho em nhớ về màu áo lính ngày xưa.
    Thương sao... nói mấy cho vừa.
    (1)
    Ồ! thật thú vị, dân Đà Lạt hầu như say trong hồn núi phách lá rừng thông rì rào reo vi vu thơ mộng, Đà Lạt diễm ảo nét đào nguyên thấp thoáng mờ ảo trong sương, trong gió mơ màng thi vị qua tiếng chim líu lo hót trên cây, nên đa số ai ai cũng có thể "nhã nhạc buông thơ" hết cả sao cà? Có một anh ngồi bên trái góc bàn, vui vẻ ngâm nga trích đoạn thơ của thi-sĩ Không-quân Trần Ngọc Nguyên Vũ:
    Đời phiêu-bạt mang-mang hồn Thục-Đế
    Tiếng Đỗ-Quyên mãi vọng chốn quê nhà
    Như nhắc nhở trong ta còn món nợ
    Đừng để rồi năm tháng sẽ phôi-pha.
    Những món suốt đời không trả hết
    Nợ ba-sinh nợ những mối chân-tình
    Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy-thác
    Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu-linh.
    Lời nhắc nhở năm canh dài khắc-khoải
    Con tim ta mang nặng mối u-hoài
    Trong cuộc sống đã bao lần tự hỏi
    Gánh được gì cho đất nước trên vai.

    Hạnh ngồi một mình nơi góc nhà hàng khuất bóng, cũng cảm thấy ngại ngùng e ấp, nên đã lấy tờ báo giơ lên cao khỏi tầm mắt, để những bạn trẻ kia không nhìn thấy Hạnh “tò mò lom lom ngó trộm” họ… tình cờ Hạnh làm khán thính giả nghe bao cảm khúc tuyệt vời, lòng cảm thấy hân hoan, vui thích, khi nghe một anh Trung-úy Biệt Động Quân dí dỏm kể chuyện tiếu lâm về "Hứa Chữ và Tào Tháo":
    - Một hôm Hứa Chữ đi qua doanh trại, thấy Tháo ngồi buồn bực cạnh ba vò rượu. Chữ bèn hỏi:
    - Có việc gì mà chủ tướng buồn vậy, lại trượt lô à?
    Tháo tu ực một hơi hết vò rượu, rồi nói:
    - Ta vừa phát hiện tin động trời: thằng Tào Thực con ta là Gay…
    Hứa Chữ gần xỉu, hét lên:
    - Hết hồn chim én!
    Tháo vác vò thứ hai uống một hơi, rồi nói tiếp:
    - Ta còn phát hiện thêm tin kinh dị nữa: thằng Tào Chương, cũng là Gay nốt!
    Hứa Chữ:
    - i don’t believe in my “tai...”
    Tháo vác vò thứ ba lên tu nốt, lại nói:
    - Tin nữa là: thằng Tào Phi, cũng là Gay luôn...
    Hứa Chữ không bình tĩnh nỗi, gào lên:
    - Trời ơi, thế nhà Tào đại nhân... không có ai thích đàn bà cả sao?
    Tháo chậm rãi trả lời:
    - Có chứ, Vợ ta... (2)
    Ha ha ha... Họ cười ngất. Hạnh phải cúi xuống che miệng khúc khích cười. Một anh phi công nhấp tách cà phê xong, hóm hỉnh:
    - Đàn ông thú vị nhất là: Đàn ông muốn hư hỏng, phải có tiền. Đàn bà muốn có tiền, phải hư hỏng. Đàn bà thích nhiều thứ ở một người đàn ông. Đàn ông thích một thứ ở nhiều người đàn bà. Đàn ông lúc nào cũng muốn, nhưng không phải lúc nào cũng có thể. Đàn bà lúc nào cũng có thể, nhưng không phải lúc nào cũng muốn. (2)
    Họ chọc ghẹo nhau qua những vần thơ vui vui. Người con trai phong trần xoa xoa đôi bàn tay, ứng khẩu:
    Ui! Chuyện tình yêu làm sao ai biết?
    Mời nhau uống cà phê vui rồi xĩu!?
    Ai nhũ ngày đó anh đi Phan Thiết
    Em Đà Lạt! Làm sao mình “tìm hiểu”?
    (1)
    Một cô gái mặc áo dài hồng, bên ngoài khoác manto đen:
    Nay mời đến nhà em. Tuy chân chất.
    Nghèo lắm! Không có gì ta sợ mất.
    Anh thấy: Từ trong nhà ra ngỏ ngoài.
    Ở cuối xóm lên tít đầu ghềnh coi...
    (1)
    Một anh mặc quần áo Nhảy Dù ngồi ở bàn khác với hai bạn mặc thường phục, (có lẽ không phải anh ta đi chung với nhóm phi công kia) vui góp vần thơ tiếp theo liền:
    Nhà sạch sẽ, thanh tao và tươm tất.
    Cà phê Chồn e đắng. Em pha mật.
    Anh cho thêm thỏi đường kèm “ông Thọ”
    Sữa ông ấy là sữa thật! không lừa
    Âu rất vui khi nghĩ đến sữa nầy.
    Uống vào rồi... mình thấy đời hương ngát.
    Dù đi Lính đôi ba lần anh bị phạt.
    Em phương xa hic hic yêu thương ngay...
    (1)
    Những chuyện tiếu lâm bộc phát và câu thơ bông đùa đối đáp của họ không hại ai, nghe cũng vui tai. Tuổi trẻ hồng lên đức mến và ngọt ngào hương vị mùa Xuân, thật đáng yêu làm sao! Hạnh tủm tỉm cười, đứng lên đủng đỉnh ra khỏi nhà hàng, nhìn lên bầu trời trong xanh và dõi theo những cánh chim vi vút trong không gian vừa đủ lạnh, cô cảm thấy mình có niềm vui lâng lâng. Hạnh chạy xe honda đi thăm gia đình anh chị Thuyền và cháu Châu Ngọc Bích, Châu Ngọc Diệp ở Nha Địa Dư, chị đang chuẩn bị khóa cửa để chuẩn bị đi đâu đó. Thế là chuyến đi thăm nầy chưa đúng lúc rồi! Mấy anh chị em trở vô nhà nói năm ba câu chuyện cần, rồi Hạnh hẹn anh chị ngày mai đến nhà em ăn lẫu dê, (do cô em út đãi bốn gia đình anh chị khác ở gần trong thành phố nữa).
    Không muốn anh chị mất thì giờ, Hạnh lên xe Honda chạy trước họ. Lúc lái xe ngang qua cầu đúc nhỏ, gần khu bệnh viện của ông bác sĩ ngoại quốc Soigné nổi tiếng xưa nay, đối diện khu bệnh viện có một cái am miếu âm u sơn son thiếp vàng, hương trầm khói tỏa nghi ngút, lúc nào đi ngang đây, Hạnh cũng nghe tiếng kinh mỏ êm êm đều đều tụng niệm. Đi qua khỏi cầu đúc một đoạn ngắn, nơi có chòm thông xanh và mấy hàng ghế đá nhìn qua đồi Cù, Hạnh thấy gần sát khu nhà hàng Thuỷ Tạ một chiếc trực thăng đậu ở dưới bãi cỏ quay chong chóng vù vù. Sau đó, có bốn anh phi công mặc quần áo cam & quần áo xám lúi húi chạy xuống những bậc cấp. Họ leo lên chiếc trực thăng, có anh còn ngoái cổ, hoặc cúi xuống thò nửa thân hình lắc lư ra khỏi lòng phi cơ, họ lưu luyến ưu ái vẫy vẫy tay chào bạn, sau đó họ đóng cửa phi cơ. Trực thăng nổ máy ầm ầm, chong chóng quay tít mù, sức gió từ cánh quạt xô những hàng hoa anh đào, hoa mimosa, hàng cây xá lỵ ngả nghiêng gần như sắp nằm rạp xuống đất.
    Chiếc máy bay nhẹ nhàng nhấc bổng thân tàu lên khỏi mặt đất, anh phi công tài hoa lái trực thăng cho bay lượn vòng rộng ra xa xa, rồi vút một cái, phi cơ đứng sững một chỗ trên không trung, tiếng máy nổ tạch... tạch... tạch... phi cơ từ từ nghiêng mình vút lên cao, lượn bay tỏa ra thành mấy vòng tròn, khi thì bay thu hẹp lại (bay quanh trên nóc nhà hàng Thủy Tạ). Phi cơ ung dung, uyển chuyển lả lướt, bay bướm trồi lên, hụp xuống, nghiêng cánh bên nầy, chao cánh bên kia, giống như chiếc lá vàng uốn lượn trong không gian ngan ngát Thu vàng. Hạnh trầm trồ khen ngợi, thật lả lướt đẹp mắt người nhìn!
    Lúc đó Hạnh đã chạy xe Honda tới ngang qua khu thao trường đối diện với Thủy Tạ. Bên lan can và phía trong những khung cửa kính, những anh và các cô gái xinh xinh đẹp đẹp lố nhố đứng ngồi, cười nói rôm rả huyên thuyên, những bàn tay “ái nữ” cầm khăn hồng, khăn tím, khăn trắng, giơ lên vẫy chào lia lịa. Bỗng, một tiếng nổ long trời lở đất gầm rú, to kinh khủng. Mọi người sững sờ, bàng hoàng tột đỉnh, chẳng biết chuyện động trời gì đã xảy ra ở đâu!? Hạnh hoảng hốt, giật nẩy mình, toàn thân lạnh toát, mất hồn mất vía, run rẩy như cầy sấy, hai đầu gối va vô nhau lộp cộp. Do bị bất ngờ, không hiểu sao xe honda leo lên lề đường hồi nào, mà cô không hề hay biết? Hạnh té chúi nhủi xuống mặt đường nhựa, xe honda gầm rú, bánh xe vẫn quay tít mù. Giống như có ai bồng cô ngồi phịch xuống lề đường. Toàn thân Hồng Hạnh ê ẩm, nhức nhối, đau rần, đùi và cánh tay bị tươm máu trầy trụa thương tích, ở bờ ngực nghèn nghẹt nhoi nhói đau. Mặt tái xanh Hạnh run bần bật, nhưng hai mắt cô vẫn dán chặt vô chiếc trực thăng.
    Bất ngờ, bàng hoàng, sợ hãi đến tột độ, khi cô vô tình trực tiếp thấy nguyên nhân của dữ kiện, nhìn rõ sự kiện đã xảy ra trước mắt mình, dù chỉ trong tích tắc thoáng chốc chớp nhoáng quá nhanh thật sự hãi hùng. Chiếc máy bay bị lâm nạn chao đảo, nghiêng bên nầy, nghiêng bên kia, chòng chành uốn lên uốn xuống, y như chiếc lá vàng bay từ trên ngọn cây cao tà tà rơi xuống lúc trời vừa lặng gió. Trực thăng từ từ chúi đầu xuống bồng bềnh, chơi vơi. Mặt hồ bỗng trồi lên lõm xuống, tung toé nước, lan nhiều vòng sóng tròn xoáy tít, sóng cuồn cuộn (giống như sóng biển tấp vô bãi cát) sóng chồm vô tận bờ cỏ, mặt nước dậy sóng bắn vọt lên cao.
    Trong khoan máy bay Hạnh thấy rõ mấy phi công lố nhố, loay hoay, cuống quýt cố tìm lối thoát thân. Một người gục vào ô cửa dòng máu từ thái dương chảy ra nhoè nhoẹt khung kính. Mấy bàn tay kia chới với đưa lên hoảng hốt, tuyệt vọng đấm đấm đấm vô cánh cửa kính. Cuối cùng chỉ còn mấy lóng tay yếu ớt rụng rời nhè nhẹ cào cào cào... và mất hút.
    Do phi cơ bay vòng tròn quá gần nóc nhà, chẳng ngờ đuôi máy bay quệt vô chém trúng cột thu lôi (bằng gạch xây thẳng lên cao). Hình như chiếc trực thăng không đành cam chịu số phận đột ngột phũ phàng đau xót bị vùi thây trong lòng hồ buốt giá, nó lại nhô lên hụp xuống chòng chềnh thêm vài lần bồng bềnh, chao đảo, nghiêng ngả trên mặt hồ như chiếc thuyền con cỡi trên biển bạc đầu. Mặt hồ Xuân Hương lại dậy sóng, nước bung lên trời như những ngọn pháo bông khổng lồ vọt lên cao ngất, thành vòi rồng ly ty từng đợt nước trắng xoá tóe tỏa ra, nước rơi mạnh xuống mặt hồ. Sau đó phi cơ dần dà chìm xuống, chìm xuống, lún dần, lún dần xuống lòng hồ mất hút, trên hồ vẫn lăn tăn bọt bong bóng nước đục ngầu đó đây kêu bụp bụp.
    Bây giờ, tuy chỉ trải qua tích tắc một khoảnh khắc thời gian rất ngắn chưa tàn một phần ba điếu thuốc, chiếc trực thăng méo mó cong queo coi hết sức vô duyên, trơ trẽn đã cắm đầu xuống đáy hồ, chỉ còn chút đuôi máy bay chổng ngược lên khỏi mặt nước đen thui. Hạnh thấy cây cột thuỷ lôi cụt lủn, trơ trẽn lạ, vô duyên tệ, làm xấu xí dị hợm, mất thẩm mỹ, thiệt khó chịu người nhìn. Cửa nẽo tường vách của khu nhà hàng bể toang hoang, Hạnh cảm thấy ghét cay ghét đắng cái nhà hàng mang tên Thuỷ Tạ độc đáo, duyên dáng và "lừng danh" xưa, nay coi như “ô-danh” mất rồi. Toàn bộ cuốn phim diễn ra chính xác, cùng với nỗi hãi hùng kinh dị tột đỉnh, là nguyên vẹn không bao giờ phai mờ trong tâm trí cô.
    Điện ở trong nhà hàng và cột thu lôi liên tục xì xì xẹt xẹt, nổ lốp bốp, nổ hoài… Mùi khét và khói tỏa ra, hôi ơi là hôi. Trong nhà hàng người ta rú ré to thật to, họ nhốn nháo bò lê bò la, chạy lui chạy tới rầm rầm, la hét, khóc than, kêu gọi nhau ơi ới, nghe man rợ lắm. Thì ra một góc vách tường ở phía ngoài Thủy Tạ bị sập, vài ba người bị thương, một người té xuống hồ.
    Bây giờ cô mới sực nhớ xe honda của mình nằm chình ình bên lề bị bể cái bửng còn nổ máy xịch xịch, Hạnh dợm đứng lên thì biết mình bị trặc chân, thương tích không nhẹ mà cũng chẳng nặng qua những vết xây xát khắp hai tay. Cô uể oải đựng xe đứng lên, tắt máy, rồi từ từ leo lên ngồi trên yên xe Honda. Hình như cô bị một cú xốc hay sao, mà cảm thấy bải hoải chân tay run rẩy, rụng rời, không thể nhấc tay chân lên nỗi, hầu đạp nổ máy xe honda để chạy về nhà? Hạnh vẫn ngồi ù lì, thừ người ra ngố ngáo, ngu ngơ dòm ngó lung tung, run run, bồi hồi, lồng ngực như có tảng đá đè lên, nghẹt thở, mệt kỳ lạ. Hạnh rất buồn khi thấy cảnh đau thương vô hạn (của người xa lạ) mà vô tình mình đã tận mắt chứng kiến, đồng thời cô cũng vui mừng khi mình may mắn đã ra khỏi nhà hàng, (trước lúc xảy ra tai nạn khủng khiếp). Nếu cô không gấp đi thăm anh chị của mình, thì liệu rằng Hạnh còn có thể còn sống mà làm chứng nhân một sự kiện nầy không nhỉ?
    Lâu lắm…, Hạnh rã rời đứng lên mới biết máu tươm ra ở đầu gối sưng to như đầu gối con voi, mắc cá chân sưng vù. Cũng do băn khoăn, thắc mắc, hiếu kỳ, bâng khuâng vô cớ, nên cô bỏ buổi đi dạy học về chiều. Không hiểu những người bị lâm nạn kia có phải là những anh chàng vui tính mà hồi sáng tình cờ Hạnh đã nghe họ kể chuyện tiếu lâm, đọc thơ, vui vẻ ngâm nga ca hát đó không nhỉ!? Tiếc thương thay! Hạnh thẫn thờ nhìn sững mặt hồ, lòng buồn vời vợi, đau xót lạ lùng, ngẩn ngơ tiếc nuối một cái gì đó vừa mất ngoài tầm tay của mình, mà cô biết chắc đấy không phải là của mình, nhưng vẫn cứ tiếc thương! Hạnh “đa cảm” giống như họ là những người thân yêu trong gia tộc!
    Hồng Hạnh im lặng nghe thiên hạ chỉ chỏ ồn ào xôn xao bàn tán. Hầu hết người hiếu kỳ từ chỗ nầy chỗ nọ trong thành phố Đà Lạt đã tập trung đông đảo quanh khu vực hồ Xuân Hương (càng lúc người ta càng bu lại quanh khu nầy đông đen), có thể nói là họ nôn nao, băn khoăn kỳ lạ! Dù bây giờ chỉ còn chút xíu cái đuôi phi cơ lấp ló khỏi mặt nước, họ cũng như Hạnh không thể làm gì hơn là trơ mắt ra nhìn. Nghe họ đoán già đoán non, nói sai, phét lác tán hưu tán vượn, mà cô chẳng cần lưu tâm hoặc đính chính. Hạnh nhìn vô trong nhà hàng Thủy Tạ coi người ta lo chạy lên chạy xuống cầu thang, ra vào, kêu réo nhau inh ỏi lo tắt hết điện hoặc làm gì đó. Hạnh ngẩn ngơ nhìn chằm chằm chút đuôi trực thăng, mà ngao ngán lắc đầu xuýt xoa tiếc rẻ thở dài hoài.
    Việc cứu cấp những anh phi công coi như trớt quớt, hỏng tiệt mất rồi. Từ khi xảy ra biến cố đột ngột đến giờ cũng khá lâu, nửa giờ sau mới có xe cảnh-sát hụ còi báo động, bên Quân-cảnh phối hợp tăng cường giữ trật tự, họ ráo riết giăng kẽm gai rào từ ngoài đường vô cầu gỗ tới Thủy Tạ. Thời gian chậm chạp nặng nề trôi qua, chiếc phi cơ rơi xuống hồ khoảng 10:30’ sáng, dân chúng bu quanh khu hồ bên Thủy Tạ nhiều lắm, thế mà ba giờ chiều mới có bốn người dân địa phương biết bơi lội thiện nguyện thay quần áo ngắn, họ leo lên trên nóc nhà Thủy Tạ, họ bước ra cầu thang nhảy tủm xuống hồ, bơi quanh quanh đuôi máy bay, lặn xuống trồi lên vài ba lần. Rồi họ bò vô bãi cỏ, ngồi nhìn ra mặt hồ phẳng lặng. Vài người trong nhóm bơi lội đó nói to:
    - Nước rất lạnh. Lạnh như ở xứ tuyết.
    - Đáy hồ sâu lắm.
    - Không thể ở dưới đó lâu hơn.
    - Máy bay đóng kín cửa.
    Dân tụ tập tại khu vực nầy càng lúc càng đông đen hơn cho đến khi tối mịt, hoàn toàn không thấy gì, thì họ cùng Hạnh mệt lử, bần thần, ngơ ngẩn như người mất trí, ngố ngáo, hụt hẩng, cô uể oải, khấp kha khấp khểnh dẫn xe honda xuống lề đường nổ máy, không thể hiếu kỳ thêm, cô rã rời mệt mỏi chạy xe chầm chậm về nhà, bụng đói cồn cào, cổ họng khát khô lông lốc.
    ***
    Ba giờ chiều ngày hôm sau, khi nắng tươi vẫn chan hoà trên vạn vật. Hạnh chở hai chú con trai nhỏ xíu đi ra bờ hồ, để coi người ta vớt xác). Mấy mẹ con ngồi chết trân trên xe honda, nơi thảm cỏ xanh rờn sát hàng kẽm gai chằng chịt giăng nhiều vòng. Một chiếc xe GMC từ hướng phi trường Cam Ly chở thợ lặn ở Nha Trang lên Đà Lạt. Họ chụp hình đuôi máy bay, chụp hình địa thế và khu vực máy bay rơi, chụp khu Thủy Tạ, vân vân... Ba anh thợ lặn thay quần áo người nhái, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cần thiết nghề nghiệp cấp cứu ngồi vô ca nô. Anh lái ca nô chở thợ lặn ra giữa lòng hồ, ca nô chạy rất chậm quanh quanh chiếc phi cơ. Họ chỉ chỏ, bàn tính, rồi mấy tay thợ lặn nhảy tủm xuống nước làm việc lâu lắm.
    Bốn giờ chiều, thợ lặn trồi lên đưa cái xác thứ nhứt lên bờ. Họ đặt người chết nằm dưới cỏ, loay hoay mở áo quần anh pilot ra, họ cầm sổ ghi chép cẩn thận, làm gì đó, thật lâu, chụp hình... (vì dân chúng ngồi tuốt ngoài hàng rào rất xa, không ai trông thấy rõ). Hai anh lính quân y đem cáng thương đến, họ nâng cái xác lên đặt anh ta nằm ngay ngắn trên băng ca, rồi khiêng anh ta từ trong lối Thủy Tạ đi ra ngoài xe hồng thập tự (đậu ở trước mặt thao trường, nơi Hạnh bị té xe hôm qua) giữa hàng hàng lớp lớp người chào tống biệt đông đúc, người ta đứng chật như nêm ở suốt hai bên vệ đường tò mò chen lấn nhìn xem.
    Anh pilot dáng cao ráo, đeo đồng hồ Omega, hai bàn tay thõng xuống, đung đưa, lắc lư, bên trong là áo thun trắng, ở ngoài anh pilot mặc bộ đồ bay xám, chật căng cứng, coi anh mập ú (vì chương phình). Mặt mày anh sáng sủa, mũi cao, miệng rộng và hai bàn tay anh sưng húp, bầm tím, tím thẫm một cách ghê rợn. Đôi mắt anh ta trợn trừng, tóc dính bệt vô trán. Mũ bay úp trên ngực anh nhúc nhích, lắc lư, nước trên thân thể anh pilot vẫn chảy theo từng nhịp đi của hai người khiêng cáng. Mọi người hiếu kỳ đi xem giạt ra hai bên lề nhìn anh pilot nằm bất động, họ tò mò chạy theo mấy anh lính khiêng cáng. Trên xe hồng thập tự có hai anh lính chờ sẵn ở chiếc xe quân-y đang nổ máy. Họ đỡ cáng, xúm nhau đẫy cáng thương vô xe lanh lẹ gọn gàng, đóng xe sập cửa lại vút chạy đi về hướng Cam Ly.
    Hai anh lính lại đem chiếc băng ca đi ra hồ. Non nửa giờ sau, cuộc vớt xác vẫn tái diễn như lần đầu. Mọi người dự kiến đều chán nãn lắc đầu, ngao ngán tiếc thầm cho kiếp trai trí thức, hào hoa và phong trần. Chỉ vì... vài phút đa tình, lả lướt, bay bướm, nay bốn chàng trai lãng tử đã trở thành người thiên cổ! Do sơ ý lo bông đùa, phi công đã bay lui bay tới mấy vòng lả lơi, vẫy tay từ biệt với mấy người đẹp, người yêu ngồi ngoài balcon ở nhà hàng. Họ quên tiệt... quên mất là nhà hàng Thủy Tạ có cây cột thu lôi đá cao lênh khênh chọc trời kia. Thật là những bàn tay vẫy chào oan uổng vĩnh biệt! Đáng giá nghìn năm thương đau, ân hận dày vò người thân suốt cả cuộc đời "Khuýp Danh" mất rồi. Đau đớn thay!
    Giếng mắt khô lệ đã tuôn tràn.
    Tự đáy sầu trỗi tiếng than van.
    Ta vẫn khóc bên hồ hiu quạnh.
    Thụy như mưa tiếng sấm nổ vang.
    Mặt đối gương lên tiếng gọi mời.
    Phiến lá lưa thưa chân dung người.
    Bạc đầu xanh mắt buồn phớt lạnh.
    Vó ngựa chùng đại mạc chiều mưa.
    Đường trăng Tố Nữ khăn sô thưa.
    Khuýp danh hờn giăng mắc tơ mưa.
    Trời hoang lạnh vòng tang gió cuốn.
    Là chút tình riêng ta tiễn đưa!
    Ta muốn cười lớn giọng dưới mưa.
    Ôi! tình sao bỗng chín giọt sầu.
    Dòng sông rẽ nhánh chia hai nửa.
    Ly biệt đẵm lệ nhỏ thơ buồn...
    (1)
    Trên đây là chuyện hoàn toàn có thật 100% một chiếc trực thăng đã bị rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt, vô cùng “vô duyên òm, lãng nhách lạ”. Rồi, Tháng 9 năm 1973 - sau tai nạn rợn người kia, có thêm một chiếc trực thăng thứ hai rớt xuống gần công viên khu chợ Đà Lạt, gần cây xăng Shell, nơi bến bãi xe đò rước khách đi các Tỉnh miền Tây, miền Trung khác. Sau lưng bến xe và cây xăng nầy là ba dãy khu nhà Ấp Ánh Sáng, nhìn qua cầu ông Đạo và góc hồ Xuân Hương.
    Thật vô cùng may mắn! Đó là nơi tập trung đông đúc dân chúng tấp nập đi các nơi, đi phố, đi chợ. Nhưng khi chiếc phi cơ trực thăng thứ hai nầy do người Mỹ lái bị rớt xuống, chỉ bị thương nặng mấy người đi bộ. Kể cũng lạ! Hôm sau lúc đi chợ, Hạnh thấy chiếc trực thăng nằm chúi sát bên góc đường lên phố Hoà Bình, trực thăng dựa mũi lên mấy bờ tường đá. Những cây anh đào gãy cành, bật gốc còn nguyên, chưa ai kịp thu dọn. Ngoài ra không thấy gì, trong trực thăng sạch sẽ, đẹp mắt, trống trơn.
    *
    Tình Hoài Hương

    (1) Thơ tình Hoài Hương
    (2) Sưu tầm lượm lặt.

    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  6. #6
    Tinh Hoai Huong's Avatar
    Status : Tinh Hoai Huong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Posts: 1,081
    Thanks: 58
    Thanked 58 Times in 17 Posts

    Default Chất Độc AGENT ORGANGE (Diethymethyl-Dioxine)

    Huấn Luyện Phi Hành
    Phần Ba
    Chương 26


    Chất Độc AGENT ORGANGE (Diethymethyl-Dioxine).
    Tình Hoài Hương
    ***



    Hoàng Năm Tony vui lắm, nhẹ hẳn người khi anh đã ly dị với Phùng, anh tự do thì-thầm nói chuyện phone với người yêu xưa suốt. Vì đúng như lời Ayana nói: nhờ thủ tục “đầu tiên” nên anh mới “có tiền mua tiên cũng được”! anh ưa viết thư, (hoặc phone) tâm tình những chuyện trên trời dưới quận:
    Em yêu,
    Dù đôi ta đang ở nơi hai phương trời xa xôi và cách biệt vô vàn, nhưng anh hoàn toàn tin tưởng ở em. Vì anh biết chắc rằng: Không có việc gì trên cõi đời nầy, mà chúng mình không làm được, miễn là hai người có quyết tâm. Anh khuyên em hãy bình tĩnh vững tin. Mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày (năm nhuận có ba trăm sáu mươi sáu ngày. Cũng như có tháng chỉ có hai mươi tám, ba mươi ngày, ba mươi mốt ngày. Mỗi ngày có hai mươi bốn giờ, mỗi giờ có sáu mươi phút, mỗi phút có sáu mươi giây). Năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào… đều có mặt anh ở bên cạnh em suốt 49 năm qua. Chúng mình đã song hành đến tận bây giờ, thì còn ngại ngần gì nữa. Phải không em? Chúng mình sẽ dìu nhau đi đến chân trời góc bể, sẽ đi hết cuộc đời vắn vỏi còn lại. Nghe em! Anh vẫn tâm nguyện là sẽ chờ đợi em, ở bên cạnh em mãi. Bây giờ anh sẽ kể nhiều chuyện hữu ích cho em nghe, trước là mở rộng kiến thức, sau là giải trí nghen em.
    Hôm xưa anh và em đi thăm, ủy lạo một số đồng bào ở trong làng “Hoà Bình Từ Dũ bị số phận bạc đãi”, em đã hỏi về việc: Chất độc màu da cam “Agent Organge” là gì, tại sao? Bây giờ, nghiên cứu ra, anh trả lời em nè:
    * Vụ thứ nhứt.- Agent Organge có từ hồi Bộ-chỉ-huy quân-sự Mỹ ở Việt Nam. Gọi là Operation Ranchhand. Họ đã dùng loại phi cơ trực thăng UH-1-B. C-123. C-130 - để rải đều nó xuống miền Nam Việt Nam một số hoá chất “Diệt Cỏ”, mang tên là "Agent Organge". Tên hoá chất khoa học nầy là Dioxine rất độc. Có một thời đã gây nhiễm độc cho những con tôm ở ngoài khơi Việt Nam. Con tôm ở dưới nước còn bị ảnh hưởng, thì nói gì đến con người, hay cây cỏ. Ha em!
    * Sự việc chất độc kia được phát hiện, là nhờ cậu con trai Đô-đốc Trung-tướng Hải-quân, Tư Lệnh Lực-lượng Hỗn-hợp ở Thái Bình Dương. Đó là ông Fleet Admiral Zumwalt, nguyên là người chỉ huy thực hiện chương trình Ranchhand. Con trai ông nầy bị nhiễm độc, và chết sau đó vài năm. Còn di chứng để lại là một đứa cháu nội dị tật bẩm sinh của ông. Sau khi ông giải ngũ rời quân đội, chính ông là người đứng ra khởi kiện chính phủ và quân đội Hoa Kỳ (toà án Brooklyn New York). Toà án tuyên bố ông Fleet Admiral Zumwalt thắng kiện. Họ bồi thường cho ông Fleet Admiral Zumwalt gần mười hai tỷ USD, cho toàn bộ Cựu Chiến Binh Mỹ (thì phải)!
    Bên Mỹ họ không hề hay biết vụ nầy, cho đến năm 1995 mới lòi ra! Từ đó có những phong trào rầm rộ vác đơn đi kiện, đòi bồi thường. Dow Jones Chemical phải bỏ tiền ra “trám miệng” dư luận. Chính hãng nầy có lần phải bồi thường cho Ấn Độ, vì đã để rò rỉ chất độc Cobalt, làm cho một số thường dân bị chết, bị thương tật. Họ đã cắn răng bỏ ra vài trăm triệu USD, làm dịu dư luận thế giới là gì!
    -* Ở Việt Nam và Campuchia (còn gọi là Khu R - ở Khu Mỏ Vẹt) từ thập niên 1960 – đã có chất độc Diocine, loại hoá chất rất độc. Mục đích chính là họ rải thuốc Agent Organge làm khai quang bụi rậm, rừng rậm, diệt sạch cỏ. Chất độc A.O nầy trông có vẻ hiền lành lắm! Nhưng thật ra nó ngấm ngầm tấn công vào hệ thống gene của những ai đã từng sống, từng sinh hoạt trong những vùng bị rải thuốc. Không ngờ nó làm biến dạng gene con người quá dễ sợ, dị dạng ghê gớm. Vì thế mà sinh ra quái thai. Nhưng thuở ấy người ta chưa thấu rõ nguyên do, họ cứ đổ vấy đổ vá, đổ lỗi cho “chuyện ái ân” là những kẻ ưa “phong tình bậy bạ lăng nhăng vung vít” thêm ở bên ngoài, mà biến dạng gene ra "quái thai" cái cớ sự nông nỗi ấy. Thật ra ít có ai biết. Loại thuốc Agent Organge nầy không bị phân tán. Nó tồn tại rất lâu dài. Tức là nó vẫn sống sau khi cây cối, rừng rú đã chết hết, đất trở thành hoang mạc, cằn cỗi, trơ trơ khô khan như nham thạch. Ấy thế mà thuốc vẫn tồn tại ngấm sâu vô lòng đất, hoà tan trong nước, tấn công vô bất cứ nơi nào: từ các ông già, bà lão, trai, gái, già trẻ lớn bé… nó không tha ai. Thế nên vụ việc nầy rất ảnh hưởng đến sông ngòi, lan tràn theo gió bay đi muôn phương. Dù càng đi xa, thì chất độc càng yếu dần, chứ chưa chắc thuốc đã hết công hiệu! Nói chung, sau khi các nhà khoa học nghiên cứu kỹ càng, thì họ kết luận A.O là một yếu tố khoa học rất độc hại, vô cùng nguy hiểm. Kinh khủng chưa em?
    Biết bao nhiêu đứa trẻ tại Mỹ sinh ra không có tay chân, hoặc bị bệnh liệt não, bệnh to đầu, hay bại liệt từ thuở sơ sinh. Tại Việt Nam số người bị chất độc A.O nhiều gấp ngàn lần so với bên Mỹ. Vì, theo bản đồ quân sự Mỹ, thì có đến 35% trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam đã bị rải hoặc phun thuốc diệt cỏ. Tóm lại chất thuốc diệt cỏ nầy có tên là Diethymethyl-Dioxine rất độc hại. Từ đó, ngay cả những người đã lập gia đình ở các khu vực chung quanh vùng đó, đã sinh ra toàn quái thai (như thập niên 1960, phụ nữ dùng thuốc ngừa thai mang tên Thalidomide không thể ghi trong lịch sử Y-học hiện đại!). Không có bút mực nào tả hết sự dã man kinh hoàng dị tật khủng khiếp từ chất Diethymethyl-Dioxine!
    * Vụ thứ Hai.- Một ông tỷ phú quốc tịch Mỹ thường đi chiếc máy bay nhỏ du lịch nhiều nơi trên thế giới. Nơi nào... ông ta cũng để lại vài “dấu tích kỷ niệm luyến ái ngọt ngào” là một đứa con rơi. Khi ông ta gần chết, thì có nhiều phụ nữ đã đệ đơn xin toà án công nhận: cho người con ruột (của họ) thừa kế gia tài của người cha tỷ phú. Quả thực “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”! Thuở ấy có một bà xồn xồn ở Ninh Thuận (Việt Nam) hổng biết tòn ten làm sao mà bà ta “vớ” được “ông Trùm tỷ phú”!? Bà ta nhờ một ông Việt Nam làm đơn, xin thừa kế tài sản cho con trai. Ai ngờ, có ông XX quen biết bà, ông XX lại là một tay lưu manh ngoại hạng. Ông XX nhờ một luật sư Mỹ lo phụ trách chuyện nầy. Qua các thủ tục trắc nghiệm cần thiết, hầu tòa, v.v… họ đã thắng kiện.
    Theo lệnh toà án, nhà bank Mỹ đã chuyển vô bank ông kia một số tiền ban đầu là một triệu tám trăm ngàn đồng USD. Sau khi thanh toán, chia chác với nhau, họ ung dung cầm đưa cho bà ta tám mươi ngàn đồng USD. Bắt bà nầy ký tên và thêm một câu thòng: “Tôi đã nhận đủ tiền, không kiện cáo thưa gởi gì!” Bà nầy vốn nhà quê ít học, chữ i chữ tờ chữ cu chữ cò Việt Nam còn chưa thông, bà ta chả phân biệt rành rõi. Huống hồ chi đến chữ Anh với chữ “U…raway”. Nên bà ta “xung xướng”, run run cầm cây bút cứ hí hoáy ký bừa cái rẹt. Ồ! Có những tám mươi ngàn đồng dollars ở Việt Nam, bà ta sướng tê người rồi! Từ nay bà ta phè cánh nhạn! Bà ta “giàu được trung được hiếu; khó mất thảo mất ngay”. Cần chi nữa! Bấy giờ người ta mới phát hiện ra “hắn” còn làm ăn gian lận nhiều vụ khác. Thế là báo chí “moi móc ra” Ôi! Đồng tiền làm mờ mắt và táng tận lương tri con người, em nhỉ!
    Vụ thứ ba.- Năm 1966, có một cô bé bị cháy phỏng hết cả người, mà ông nhiếp ảnh gia Nick Út, là phóng viên của AFP đi công tác tại Đà Nẵng, đã chụp hình (ông hiện giờ định cư tại Úc). Ông được giải thưởng Pulitzer về nhiếp ảnh. Cô bé đó đã được đưa qua Canada chữa trị lành lặn. Cô lớn lên, nay làm “đại sứ thiện chí” của Unicef. Bị napalm cháy cũng ghê gớm lắm. Nhưng so với chất độc màu da cam, là chuyện nhỏ! Vì, nếu bị cháy, thì có thể còn lọc cắt lớp da cũ. Nuôi lớp da khác thay thế. Phải không nhỉ?! Tôi tin có Thiên Chúa, (hoặc Phật Mẫu phù hộ), cho nên cô ấy gặp cơ may tốt lành. Đối với tôi, lòng tin đã có và sẽ có trong mỗi tôn giáo cũng tốt, khi mình đã lựa chọn. Nhưng có lần anh đã nói: - Cứ nhắm mắt mà sống chết vì đạo. Thì xin lỗi, anh chưa đến cái mức đó đâu. Có những điều anh chưa hiểu nỗi sự “mầu nhiệm”, thì cũng cắn răng chấp nhận theo ông bà cha mẹ, vì họ đã vô đạo từ thời trước, tuân theo sử sách viết thì họ cho là “giáo điều” rồi! Vã lại khi còn tấm bé anh không tự chọn. Thật ra, anh nhận thấy đạo nào cũng toàn vẹn, là tấm bình phong gìn giữ con người với con người – khuyên mọi người tốt lành trong lãnh vực hướng thiện, ôn nhu, chí tình, bác ái, vị tha, ăn hiền ở lành, tránh dữ, làm việc thiện. Nhất là không phạm tội. Còn chuyện khác chỉ là phần “hồn” của niềm tin mà thôi.
    Em đã thẳng thắng trả lời:
    - Hèn gì... coi anh có vẻ lơ tơ mơ. Em nghĩ: Con người sinh ra trong thiên nhiên, tất phải trọn vẹn. Nếu con người có hư hỏng, một phần là do ở xã hội”. Nhưng, xã hội cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng của gia đình đó, thời đó và xã hội đó, anh à.
    - Ừa... Chỉ có má anh là “cuồng tín” nhất. Ba anh thì không đến nỗi nào. Riêng anh nhắc nhở các con nên giữ đạo. Vì, đạo nào cũng mong muốn con người hướng thiện. “Nhân vi sơ, tính bản thiện” mà! Cần có đạo đức tốt nên tuân phục. Ngoài ra, anh không buộc các con phải siêng năng, sốt sắng đi lễ đọc kinh cầu nguyện luôn miệng. Anh nghĩ đôi khi anh thật tức đó em. Chỉ cần mình sai phạm một lỗi lầm nào đó, ví dụ như khi ai uống rượu say lỡ "ngộ sát" giết người, vì lạc tay lái cán chết người chẳng hạng, thì muôn đời ở tù, là “Lục Quân Việt Nam”, khi chết ta bị sa xuống chín tầng ngục đời đời kiếp kiếp. Chả có cơ hội thống hối ăn năn, chẳng có hình phạt tù chung thân khổ sai, như khi còn ở trên thế trần đã đành. Chết rồi cũng bị “Trời tru đất diệt”. Ức thiệt.
    Trầm ngâm giây lát, anh bảo:
    - Anh không tin đấng tối cao lại nghiêm trọng “ác”, như trong giáo luật do tiền nhân định ra đâu. Phô trương đạo đức ra bề ngoài đọc kinh ra rã, mà bên trong lòng rỗng tuếch, thì có ra gì. Anh nghĩ đấng quyền năng ấy rất bao dung, bác ái, rộng lượng, khoan hoà và khoan đãi, ngài yêu thương, luôn vị tha khoan hồng dung thứ cho kẻ có tội. Đại khái, anh còn nhớ Chúa đã nói: “Nếu có ai tát con bên má nầy, thì con hãy đưa má kia cho người ấy tát” mà em. Hoặc là "con tha tội cho người khác không chỉ bảy lần, mà phải tha trên bảy mươi bảy lần" nữa, em à. Vậy ta im lặng nhẹ thở dài, nghe em:
    - Bây giờ đám con ta lo bương chải kiếm sống đủ mệt muốn tắt thở. Còn thì giờ đâu suốt ngày đêm sáng tối lo đọc kinh. Mình phải đối diện và phải trả lời về hành vi của mình trước mặt Chúa thôi. Nội cái “đời” không mình đã mất hết giờ chạy bộ muốn bá thở, mệt hụt hơi. Em không thấy bi giờ ta ra đường, hầu hết mọi người phải mang mặt nạ, bịt kín mặt mũi, để chống “ám khí” bụi bặm bốc lên ở lưng trời ngút ngàn, không bao giờ tan nhạt đi sao. Anh làm gì có xe hơi, hoả tiễn để phóng cho kịp “trào lưu văn hoá tiến bộ cuả loài người chớ”. Hả em. Hu hu...
    Vụ thứ tư.- Nhân nói đến xe hơi, xe cúp, em nghe có một anh đại học tốt nghiệp về ngành computer. Anh ta rất giỏi đã “móc nối” với một nhóm khác tiêu thụ trên ba ngàn năm trăm cái bằng lái xe giả. Họ làm tinh vi đến nỗi sau nhiều năm nghiên cứu, so sánh với tài liệu gốc, sở Giao-thông Vận-tải mới phát hiện ra đó là bằng giả. Ớn quá không hỉ!?
    - Đúng quá rồi còn gì. Nên, từ nay trở đi cảnh sát sẽ gác 24/24 các “cửa nẽo” nơi đi ra đi vô thành phố, đẫy mạnh việc kiểm soát giấy tờ xe, bằng lái xe, kính chiếu hậu, nón bảo hiểm. Ui chà! Thế là người bán tha hồ chặt đẹp nha, nón bảo hiểm tăng vùn vụt như diều gặp gió. Họ làm mạnh như vậy, may ra dân mình đi vào nề nếp giao thông tốt. Em về Việt Nam, em chẳng dám đi bộ, càng không dám chạy xe cúp, chớ nói là lái xe. Thậm chí em thấy nhiều người (chắc là ở Tỉnh xa đến) họ thấy một hàng xe chạy dài dài trên đường một chiều. Vậy mà họ cứ cố len vô để chạy ngược chiều. Mới quái lạ thiệt à nhe.
    * - Khó khăn về việc nón bảo hiểm là: em ngồi chờ mà đội cái “nồi cơm điện” lên đầu, giữa trời nắng chang chang, nóng hầm hập là nhức đầu ngộp thở chết mất. Có nhiều bất tiện lắm: Ví dụ thứ nhứt: cả gia đình đi ăn tiệm chung chẳng hạn, nhà nào cũng có ít nhất năm bảy cái mũ bảo hiểm. Khi đến nơi thì làm sao? treo tòn ten nón nơi xe, sẽ mất toi liền đó em. Vì thế mỗi người phải tự xách kè kè theo bên hông.
    *Bất tiện hai là: Rủi ai làm nghề “chạy xe ôm”, họ phải sắm ít nhất hai cái mũ bảo hiểm, một mũ cho người lái xe ôm, một mũ cho một khách hàng đội nữa.
    *Ba là: nếu người dân trong vùng (khu phố, quận huyện, thành phố) bắt buộc đội nón bảo hiểm, họ chỉ chạy xe ra vô gần gần khu chợ chồm hổm, cũng phải xách nón theo, nhứt là luôn luôn lo lắng đề phòng bị mất cắp mũ.
    *Bốn là: ví dụ cô dâu sáng sớm chạy xe cúp đi làm tóc, uốn tóc, trang điểm để lên xe hoa, buộc lòng cô ta phải để đầu trần.
    *Năm là: ngàn học sinh, sinh viên đến trường có cả ngàn cái mũ bảo hiểm. Nếu để mũ ngoài xe là không bảo đảm, mang mũ vô lớp thì kềnh càng, không có chỗ cất, không có chỗ ngồi học? thật bất tiện. Bao giờ tất cả người ta chạy xe gắn máy trên “xa lộ an toàn” có đầy đủ mũ bảo hiểm. Hy vọng Việt Nam "ngàn năm mây bay" ít ai bị tai nạn, họ sẽ giống hệt như bên BangKok, Singapore rất nghiêm trang chỉnh tề chấp hành luật giao thông, là điều rất mừng.
    *
    Tình Hoài Hương

    ***
    Ghi thêm:
    Bổ túc về “chất độc màu da cam” từ trích dẫn nguyên văn dưới của ông Trương Vinh
    :
    Cảnh phun thuốc trên đám rừng già 3 C-123 cât cánh từ phi trường Nakhon Phanom, Thailan bay thẳng một mạch tới Đèo Ban Raving, từ đĩnh đèo nầy lấy hướng nam bay thẳng một lèo xuống tận 3 biên giới Việt Miên Lèo, trước hết qua Tchepone, ngang con sông Xêsamou Sêkông qua Mường-May, Mường Sao, Saravane, Bản Phya-Ya, tới Bản Tà Xẽng, Saravane dông cao nguyên Boloven, Bãn Đông, đến phu lưu song và các chi nhánh sông Mêkông, tỉnh Mường Nồng trở về Thailan đáp xuống lại phi trường Nakhon-Phanom
    - Ánh đèn pin liên-tục qua lại trong bóng đêm, thỉnh-thoảng dừng lại một tụ điểm như xoi-mói tìm kiếm những gì khác lạ nơi cặp càng bằng nhôm, với vô số vòi-phun, chi-chít nằm xen kẻ, trải dài gần 15 thước mỗi bên, cho đến tận đầu cánh. Tôi đang kiểm soát tiền phi cho một phi-vụ khai hoang, mà mục tiêu là khu rừng già nằm bao phủ trên tuyến đường sắt Trãng-Bom, Long-Khánh.
    - Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
    Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn động lại trong thùng, dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
    - Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình than của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh.
    Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
    Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng”có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá Trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc đọc giã nghe hơi chõi lỗ tai?
    Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mõng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lỏng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới
    Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tỉnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy; Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nữa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
    Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi” Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương
    Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt; Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc…sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nử” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi… (Vinh Truong).
    *
    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

Trang 3/6 đầuđầu 12345 ... cuốicuối

Similar Threads

  1. Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...
    By Tinh Hoai Huong in forum Truyện ngắn
    Trả lời: 273
    Bài mới nhất : 09-01-2020, 10:31 PM
  2. Trả lời: 27
    Bài mới nhất : 04-03-2020, 04:58 AM
  3. Góc Thơ VUI Tình HOÀI HƯƠNG
    By Tinh Hoai Huong in forum Vui cười
    Trả lời: 136
    Bài mới nhất : 08-22-2019, 06:04 PM
  4. Huấn Luyện Khỉ Hái Dừa
    By hieunguyen11 in forum Video, clip ngắn
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 08-24-2014, 06:40 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •