Remember ?

Trang 3/3 đầuđầu 123
kết quả từ 13 tới 16 trên 16

Tựa Đề: Alexis Zorba - Con Người Chịu Chơi

  1. #13
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 81



    Lão già nhỏ bé uống cạn ly và chẳng bao lâu bình tĩnh trở lại. Lão ngồi trên giường tôi, dựa lưng vào tường.

    Tôi nói:

    - Kính thưa Ðức Cha, tiếng súng lúc đó là tiếng súng lục nào vậy?

    - Cha không biết con ạ... Cha làm việc tới nửa đêm và đi ngủ, khi cha nghe thấy, trong phòng cha Demetrios bên cạnh...

    Zorba cười rộ lên:

    - A! A! Mi có lý, Zaharia!

    Ðức giám mục cúi đầu, lẩm bẩm:

    - Chắc có một tên trộm nào đó.

    Trong hành lang, những tiếng thét đã im bặt và tu viện lại chìm vào yên lặng. Bằng cặp mắt hiền từ, sợ hãi, đức giám mục nhìn tôi có vẻ khẩn khoản:

    - Con có buồn ngủ không, con? Lão hỏi.

    Tôi thấy rõ ràng là lão không muốn đi và ở một mình trong phòng mình. Lão sợ. Tôi trả lời:

    - Không, con không buồn ngủ, cha cứ ở lại đây.

    Chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Zorba tựa vào gối, đang cuộn một điếu thuốc.

    Ðức giám mục bảo tôi:

    - Con có vẻ một thanh niên có học thức. Ở đây cha không kiếm được ai để trò chuyện. Cha có ba lý thuyết giúp đời sống cha thoải mái. Cha muốn chia sẻ với con, con ạ.

    Lão không chờ tôi đáp, bắt đầu nói thẳng một hơi:

    - Lý thuyết thứ nhất của cha là: Hình thể các đóa hoa có ảnh hưởng tới màu sắc của chúng; màu sắc của chúng ảnh hưởng tới đặc tính chúng. Cũng vậy mỗi một bông hoa có một hiệu quả trên thân thể con người và do đó, trên linh hồn hắn. Vì thế chúng ta phải hết sức thận trọng khi đi qua một cánh đồng đang nở hoa.

    Lão ngừng nói như để chờ ý kiến của tôi. Tôi thấy lão già nhỏ bé thơ thẩn qua một cánh đồng, cắm cúi tìm hình thể và màu sắc hoa trên mặt đất với một sự kích thích bí mật. Lão già đáng thương hẳn phải run lên vì một niềm sợ hãi huyền bí: Vào Mùa Xuân, cánh đồng hẳn đầy thiên thần và quỉ dữ muôn màu.

    - Ðây là lý thuyết thứ hai của cha: Bất cứ ý tưởng nào có một ảnh hưởng đích thực đều có một đời sống đích thực. Nó hiện hữu ở đây. Nó không bay lượn chập chờn trong không gian. Nó có một thân thể thực - một đôi mắt, một cái miệng, hai chân, một cái bụng. Nó là đàn ông hay là đàn bà, nó theo đuổi những người đàn ông hay những người đàn bà. Vì lẽ đó Tân Ước mới nói: “Ngôi lời trở thành xác thịt...”

    Lão lại lo lắng nhìn tôi.

    - Lý thuyết thứ ba của cha, lão vội vã nói vì không chịu nổi sự im lặng của tôi, đó là: Vĩnh cửu có thực ngay cả trong cuộc đời phù du của chúng ta, có điều chúng ta rất khó khám phá ra nó một mình. Những âu lo thường nhật khiến chúng ta lầm lạc. Chỉ có đôi ba người, những tinh hoa của nhân loại mới, có thể đạt được vĩnh cửu, dầu trong cuộc sống không bền trần gian. Vì tất cả những người khác có thể hư mất, Thượng Ðế thương hại họ và gửi cho họ tôn giáo - và như thế đám đông có thể sống vĩnh cửu.

    Lão dứt lời và rõ ràng nhẹ nhõm vì đã nói. Lão ngước cặp mắt ti hí trụi lông mi và nhìn tôi cười. Như thể lão muốn nói: “Ðó, ta cho con tất cả những gì ta có, lấy đi!” Tôi vô cùng xúc động khi thấy lão già nhỏ bé đã hiến cho tôi trọn vẹn kết quả của một đời lão, khi vừa mới quen tôi.

    Lão rơm rớm nước mắt.

    - Con nghĩ sao về những lý thuyết của ta?

    Lão vừa hỏi vừa cầm tay tôi trong hai bàn tay lão và nhìn vào mắt tôi. Tôi có cảm tưởng rằng câu trả lời của tôi sẽ cho lão thấy cuộc đời lão có chút ích lợi nào hay không.

    Tôi biết rằng trên chân lý còn có bổn phận khác quan trọng hơn và nhân đạo hơn rất nhiều. Tôi đáp:

    - Những lý thuyết này có thể cứu vớt được bao linh hồn.

    Khuôn mặt vị giám mục rạng rỡ. Ðó là sự biện minh cho tất cả cuộc đời lão.

    - Cám ơn con, lão thì thầm trong khi âu yếm xiết tay tôi.

    Zorba từ trong góc nhẩy xổ ra.

    - Tôi có một lý thuyết thứ tư! Hắn la to.

    Tôi lo âu nhìn hắn. Vị giám mục quay sang hắn:

    - Nói đi, con, cầu Chúa ban phước lành cho lý thuyết của con! Lý thuyết thế nào?

    - Hai lần hai là bốn! Zorba nghiêm trang nói.

    - Và lý thuyết thứ năm, ông già, Zorba nói tiếp: Hai lần hai không phải là bốn. Hãy chọn lý thuyết nào phù hợp với mình!

    - Tôi không hiểu, vị giám mục ấp úng trong khi đưa mắt hỏi tôi.

    - Tôi cũng vậy! Zorba vừa nói vừa phá lên cười.

    Tôi quay sang lão già đáng thương đang bối rối, và nói sang chuyện khác. Tôi hỏi:

    - Thưa Cha, hiện nay cha đang nghiên cứu gì ở tu viện đây?

    - Cha ghép lại những thủ bản cũ của tu viện, con ạ, và trong những ngày gần đây, cha sưu tập tất cả những hình dung từ thiêng liêng mà giáo hội đã dùng để trang điểm Ðức Mẹ Ðồng Trinh.

    - Cha già rồi, cha không thể làm gì khác. Cha cảm thấy khuây khỏa trong khi kê cứu tất cả những trang sức bằng danh từ của Ðức Mẹ Ðồng Trinh, và do đó quên đi những khổ não của thế gian.

    Kỳ 82



    Gã chống tay lên gối và bắt đầu lẩm bẩm như thể mê sảng:

    “Ðóa hồng không bao giờ tàn, mảnh đất mầu mỡ, cây nho, suối, nguồn của phép lạ, cây thang lên trời, cầu, chìa khóa thiên đàng, bình minh, ánh sáng vĩnh cửu, cột lửa, nguyên soái vô địch, tháp bất di dịch, pháo đài bất khả xâm phạm, an ủi, hoan lạc, gậy cho kẻ mù lòa, mẹ của những trẻ mồ côi, bàn, thực phẩm hòa bình, thanh bình, sữa và mật...

    - Lão già mê sảng rồi, Zorba nói khẽ, để tôi đắp chăn cho lão khỏi cảm lạnh...

    Hắn đứng dậy, ném một tấm chăn lên người lão và sửa lại gối cho ngay ngắn.

    - Tôi nghe người ta nói có bẩy mươi bẩy loại điên hắn nói, loại này hẳn phải là thứ bẩy mươi tám.

    Ngày ló rạng. Chúng tôi nghe thấy tiếng mõ gỗ. Tôi nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ. Trong ánh sáng đầu tiên của bình minh, tôi trông thấy một tu sĩ gầy gò, đội một cái mũ trùm đầu dài, vừa chậm rãi đi vòng quanh sân vừa cầm một cái búa nhỏ gõ vào một tấm gỗ có âm điệu cực kỳ êm ái. Âm thanh của mõ gỗ ngân lên trong không khí buổi mai, đầy dịu dàng, du dương và mời mọc. Chim họa mi đã thôi hót và những con chim đầu tiên của ngày bắt đầu ríu rít kêu trong lùm cây.

    Tôi lắng nghe, mê mẩn tâm thần vì hòa khúc ngọt ngào và khuyến dụ của cái mõ gỗ. Ngay cả trong sự suy đồi, tôi nghĩ, một nhịp đời đã lên cao vẫn còn có thể duy trì được hình thức bân ngoài, oai nghiêm và cao nhã xiết bao! Tinh thể đã bỏ đi, nhưng còn để lại trú sở vẹn toàn mà, tự bao thế kỷ, từ từ chuyển hóa thành một nơi an trú thoải mái tựa một cái vỏ hến.

    Những nhà thờ chính tòa người ta gặp trong đô thị náo nhiệt và vô thần giống hệt như những cái vỏ hầu hến rỗng ruột này, tôi nghĩ. Những con quái vật tiền sử chỉ còn để lại những bộ xương, bị xoi mòn vì mưa nắng.

    Người ta gõ cửa phòng. Chúng tôi nghe thấy cái giọng chơn chớt của cha phụ trách khoản đãi khách vọng vào.

    - Mời các huynh dậy đi thôi, đến giờ hát kinh kỳ-đảo buổi sáng rồi đấy!

    Zorba nhẩy lên:

    - Tiếng súng lục nào đó hồi đêm qua? Hắn nổi đóa hỏi.

    Hắn chờ một lát. Yên lặng. Lão thầy tu hẳn còn phải đứng sau cửa bởi chúng tôi có thể thấy hơi thở rộn ràng của y. Zorba giậm chân, tức tối hỏi lại:

    - Tiếng súng lục nào đó?

    Chúng tôi nghe thấy bước chân vội vã đi ra. Zorba nhẩy một bước tới cửa. Hắn mở toang cửa ra:

    - Quân đê tiện bẩn thỉu! Hắn vừa la lớn vừa nhổ bọt về phía lão thầy tu bỏ chạy. Cha cố, sơ vã, thầy tu, giáo khu lý sự viên, những tên giữ đồ thánh, tao phỉ nhổ lên bọn chúng bay tuốt hết!

    Và hắn lại nhổ bọt. Tôi nói:

    - Ði thôi, có mùi máu phảng phất đâu đây.

    - Không phải máu, Zorba càu nhàu. Nếu ông muốn, ông đi nghe hát kinh kỳ-đảo buổi sáng đi, ông chủ. Tôi đi quanh quẩn xem có khám phá ra điều gì không?

    - Ði thôi! Tôi lợm giọng nhắc lại. Bác làm ơn đừng có xen vào việc gì không phải của mình cho tôi nhờ.

    - Nhưng đây chính là việc tôi muốn xen vào đó! Zorba la lên.

    Hắn suy nghĩ giây lát rồi mỉm cười một cách tinh quái:

    - Ma quỉ đã cho ta một đặc ân. Tôi nghĩ nó đang đem sự việc về một mối. Ông có biết phát súng đó làm tu viện tốn bao nhiêu tiền không? Bẩy ngàn đồng.

    Chúng tôi xuống sân. Hương thơm của cây trổ hoa, sự êm đềm của buổi mai, diễm phúc tuyệt trần. Zaharia rình mò đợi chúng tôi. Gã chạy tới nắm lấy cánh tay Zorba.

    - Ðồng chí Canararo, gã run run thì thầm. Lại đây, chúng ta đi đằng này.

    - Tiếng súng lục nào đó? Chúng nó giết ai? Nói đi thầy tu, nói không tôi bóp cổ chết bây giờ!

    Cằm gã thầy tu run lên. Gã nhìn quanh. Sân vắng các phòng đều đóng kín; những luồng sóng nhạc lan truyền sang cánh cửa giáo đường đang mở rộng.

    - Cả hai người theo tôi, gã lẩm bẩm, Sodom và Momorrah!

    Chúng tôi len lén men theo tường vượt qua sân và ra khỏi vườn. Cách tu viện chừng trăm thước là nghĩa địa. Chúng tôi bước vào.

    Chúng tôi nhảy qua mộ. Zaharia đẩy cánh cửa nhỏ của giáo đường và chúng tôi vào theo gã. Ở giữa, trên một cái chiếu, một thân thể nằm ngay đơ, một cái áo tu sĩ phủ lên trên. Một ngọn nến cháy ở gần đầu, một ngọn ở chân tử thi.

    Tôi cúi xuống nhìn xác chết.

    - Tiểu tăng! Tôi rùng mình lẩm bẩm. Chú tóc vàng của Cha Demetrios!

    Thượng đẳng thiên sứ Michael cánh cửa mở rộng, gươm rút ra khỏi bao và chân đi dép đỏ sáng chói trên cửa giáo đường.

    - Thượng đẳng thiên sứ Michael! Gã thầy tu la lên. Xin hãy cho lửa và lưu hoàng xuống, thiêu tất cả chúng đi! Thượng đẳng thiên sứ Michael, đá cho chúng một cái! Xin ngài hãy rời khỏi thánh tượng! Giơ gươm lên và đập chúng! Ngài không nghe thấy tiếng súng lục sao?

    - Ai giết gã? Ai? Demetrios? Nói đi, đồ râu xồm!



    Kỳ 83



    Gã thầy tu vùng khỏi tay Zorba và nằm sấp dưới chân tượng thượng đẳng thiên sứ. Gã nằm bất động một lát đầu ngẩng lên, mắt trợn trừng, miệng há hốc, chăm chú rình rập thánh tượng.

    Ðột nhiên gã nhẩy cỡn lên vì sung sướng.

    - Tôi sẽ thiêu chúng! Gã quả quyết tuyên bố. Thượng đẳng thiên sứ đã cử động, tôi đã trông thấy, ngài đã ra dấu cho tôi!

    Gã lại gần thánh tượng và dán cặp môi dầy lên thanh gươm của thượng đẳng thiên sứ.

    - Cảm tạ Chúa! Gã nói, tôi được an ủi!

    Zorba lại nắm lấy cánh tay gã thầy tu, hắn nói:

    - Lại đây, Zaharia. Bây giờ bạn làm điều tôi đã nói với bạn.

    Và hắn quay sang tôi:

    - Cho tôi xin tiền, ông chủ, tôi sẽ đi ký giấy tờ một mình. Trong đó, tất cả bọn chúng đều là lang sói, còn ông là một con cừu non, chúng sẽ ăn thịt ông. Ðể đấy cho tôi. Ông đừng lo, tôi sẽ trị bọn chúng, những con heo thiến mập. Ðến trưa, chúng ta sẽ rời khỏi đây với cánh rừng trong túi. Ði thôi, bạn Zaharia!

    Họ lén trở lại tu viện. Tôi đi dạo dưới những rặng thông.

    Mặt trời đã lên cao, sương lóng lánh trên những phiến lá. Một con sáo bay trước mặt tôi, đậu trên cành cây lê dại, vẫy đuôi, há mỏ, và hót lên đôi ba tiếng diễu cợt.

    Qua rặng thông tôi nhìn thấy những tu sĩ xếp hàng ra sân, đầu cúi xuống, những tấm khăn đen vắt trên vai. Tế thức đã chấm dứt, bây giờ họ đang đi tới phòng ăn.

    Tôi tự nhủ: “Tiếc thay một sự khắc khổ như thế, và một sự cao nhã như thế từ nay không có linh hồn!”

    Tôi mệt mỏi, đêm qua không ngủ được, tôi nằm dài trên cỏ. Những cây đổng-thảo dại, cây kim-tước-chi, cây mê-điệt, cây đan-sâm dâng hương trong không gian. Côn trùng bay vo ve, đói khát, chúng lăn xả vào những đóa hoa như quân cướp biển và hút mật hoa. Xa xa, rặng núi lấp lánh, trong suốt, thanh thản, như một đám hơi nước di động trong ánh mặt trời thiêu đốt.

    Tôi nhắm mắt, tâm hồn lắng dịu. Một niềm hân hoan lặng lẽ, bí ẩn tràn ngập tôi - như thể tất cả cái phép lạ xanh xung quanh này là Thiên Ðàng, như thể tất cả vẻ tươi mát này, sự nhẹ nhàng này, nỗi say sưa ngây ngây này là Thượng Ðế. Thượng Ðế thay đổi hình dung trong từng giây phút. Sung sướng thay cho kẻ nào có thể nhận biết ngài dưới tất cả những mặt nạ ngài mang! Khi thì ngài là một ly nước lạnh, khi thì ngài là một đứa trẻ nhẩy nhót trong lòng ta, hoặc là một người đàn bà quyến rũ, hay có thể chỉ là một cuộc đi dạo buổi mai.

    Dần dần, vạn vật xung quanh tôi, không thay đổi hình thể, trở thành mộng. Tôi hân hoan. Trần gian và thiên đàng chỉ là một. Một bông hoa trong cánh đồng với một giọt mật lớn trong lòng hoa, đó là hình ảnh cuộc đời hiện ra với tôi. Và tâm hồn tôi, một con ong man rợ hút nhụy hoa.

    Ðột nhiên tôi bị lôi ra khỏi niềm vĩnh phúc này một cách tàn bạo. Tôi nghe thấy tiếng bước chân và những tiếng thì thầm sau lưng tôi. Ðồng thời một giọng nói vui vẻ vang lên:

    - Ông chủ, chúng ta đi thôi!

    Zorba đứng trước mặt tôi và đôi mắt nhỏ của hắn lóe lên một tia sáng ma quái.

    - Chúng ta đi? Tôi nói một cách khoan khoái. Xong xuôi tất cả rồi à?

    - Tất cả! Zorba vừa nói vừa vỗ vào túi trên chiếc áo khoác ngắn của hắn. Cánh rừng đây rồi. Mong nó mang lại may mắn cho chúng ta! Và đây là bẩy ngàn đồng Lola đã nuốt của chúng ta!

    Hắn móc túi trong lấy ra một tập giấy bạc. Hắn nói:

    - Ông cầm lấy! Tôi trả nợ của tôi, tôi không còn mắc cỡ trước mặt ông nữa. Trong đó có cả bít tất, xắc tay, nước hoa và dù của mụ Bouboulina. Cả đậu phọng cho con két! Và cả halva mà tôi đã mang về cho ông nữa!

    - Giữ lấy đi, Zorba! Tôi tặng bác đó, tôi nói. Hãy tới đốt một cây nến to bằng người bác để tạ tội Ðức Mẹ Ðồng Trinh mà bác đã xúc phạm.

    Zorba quay lại. Cha Zaharia đang tiến về phía chúng tôi trong tấm áo choàng dơ dáy, đang ngã mầu xanh, và đôi giầy ống vẹt gót. Gã dắt hai con la đến cho chúng tôi.

    Zorba đưa cho hắn một tập giấy bạc:

    - Chúng ta chia nhau, cha Joseph. Bạn có thể mua một trăm kí lô cá thu muối và bạn sẽ nhồi nhét cho đến khi bụng bạn căng lên như cái trống. Cho đến khi bạn mửa ra và bạn sẽ thoát khỏi cá thu mãi mãi và mãi mãi! Nào chìa tay ra!

    Gã thầy tu vồ lấy những đồng tiền bẩn thỉu và giấu trong ngực áo. Gã nói:

    - Tôi sẽ mua dầu hỏa!

    Zorba hạ thấp giọng và ghé vào tai gã thầy tu, ra lệnh:

    - Phải chờ đến đêm, khi tất cả bọn chúng ngủ say và gió thổi mạnh. Bạn tưới dầu ở bốn góc.

    Kỳ 84



    Bạn chỉ cần những giẻ, hay bùi nhùi, hoặc bất cứ cái gì bạn tìm thấy vào dầu hỏa và châm lửa. Hiểu chưa?

    Gã thầy tu run rẩy.

    - Ðừng run như vậy, ông bạn! Thượng đẳng thiên sứ chẳng ra lệnh cho bạn sao? Hãy đặt đức tin vào dầu hỏa và thánh sủng của Chúa! Chúc bạn may mắn!

    Chúng tôi lên yên. Tôi nhìn tu viện lần cuối cùng. Tôi hỏi:

    - Bác có biết được điều gì mới lạ không, Zorba?

    - Về phát súng lục phải không? Ðừng lo âu về chuyện đó, ông chủ. Gã Zaharia đó có lý: Sodom và Momorrah! Demetrios đã giết chết gã thầy tu đẹp trai đó. Sự thực như vậy đó!

    - Demetrios? Tại sao vậy?

    - Ðừng tìm hiểu chuyện đó làm gì, ông chủ, toàn là rác rưởi và nhơ nhớp thối tha.

    Hắn quay về phía tu viện. Những tu sĩ đang ra khỏi phòng ăn, đầu cúi xuống, tay khoanh trước ngực, và trở về khép mình trong phòng riêng. Hắn kêu lên:

    - Hãy nguyền rủa tôi đi! Các đức cha!



    19



    Người đầu tiên chúng tôi gặp khi chúng tôi đặt chân xuống bãi biển của chúng tôi đêm đó là mụ Bouboulina, đang ngồi co ro trước cửa lều chúng tôi. Khi đèn đã được thắp lên và tôi trông thấy mặt mụ, tôi hoảng sợ.

    - Bà làm sao đó, bà Hortense? Bà ốm à?

    Từ lúc niềm hy vọng vĩ đại - hôn nhân - lóe lên trong tâm trí mụ, mụ ngư nữ già của chúng ta đã mất hết tất cả vẻ quyến rũ mơ hồ không diễn tả được của mụ. Mụ cố gắng xóa tất cả quá khứ và nhổ đi tất cả những chiếc lông lòe loẹt mà mụ trang điểm bằng những chiến lợi phẩm của các quan Thổ Nhĩ Kỳ, quan tổng đốc Thổ Nhĩ Kỳ và những thủy sư đô đốc. Mụ không có một ước vọng nào cao hơn ước vọng trở thành một người đàn bà tầm thường nghiêm trang và khả kính, một người đàn bà đức hạnh. Mụ không tô điểm son phấn nữa, không trang điểm nữa, mụ để tự nhiên: một kẻ đáng thương muốn được lấy chồng.

    Zorba không hé răng. Hắn bứt rứt xoắn bộ ria mới nhuộm. Hắn cúi xuống, nhóm bếp và đun nước để pha cà phê.

    - Tàn nhẫn! Mụ ca kỹ già đột nhiên cất giọng khàn nói.

    Zorba ngẩng đầu lên, nhìn mụ. Cặp mắt hắn trở nên dịu dàng. Hắn không thể nghe một người đàn bà nói với mình bằng một giọng nói bi thảm mà không xúc động. Một giọt nước mắt đàn bà có thể dìm ngập hắn.

    Hắn không nói gì hết, xúc đường và quay ly cà phê.

    - Tại sao để tôi mong mỏi quá lâu như vậy trước khi cưới tôi, mụ ngư nữ già nói. Tôi không dám thò mặt ra với làng nước nữa. Tôi bị sỉ nhục! Sỉ nhục! Tôi sẽ tự tử!

    Tôi nằm dài trên giường, mệt mỏi chống tay lên gối, tôi thưởng thức màn bi hài kịch này.

    - Tại sao anh không mang những vòng hoa cưới về?

    Zorba cảm thấy tay mủm mỉm của mụ Bouboulina run rẩy trên đầu gối mình. Cái đầu gối này là tấc đất vững vàng cuối cùng mà kẻ đáng thương đã đắm tàu một ngàn lẻ một lần này có thể bám vào.

    Zorba hình như hiểu điều đó và lòng hắn bớt nghiêm khắc hơn. Nhưng một lần nữa, hắn vẫn không nói gì cả. Hắn rót ra ba tách cà phê.

    - Tại sao anh không mang những vòng hoa đám cưới về, anh yêu? Mụ run run nhắc lại.

    - Ở Candia không có vòng hoa nào đẹp hết. Zorba trả lời bằng một giọng khắc bạc.

    Hắn trao cho mỗi người một tách và thu mình trong một góc.

    - Anh đã viết thư về Nhã Ðiển nhờ họ gửi về cho những vòng hoa đẹp hơn, hắn nói tiếp. Anh cũng gửi mua những cây nến trắng nữa và bánh hạnh nhân với chocolat.

    Hắn càng nói, trí tưởng tượng của hắn càng bị kích thích. Cặp mắt hắn sáng lên và giống như một thi sĩ trong giây phút sáng tạo mãnh liệt, Zorba bay lên những đỉnh cao nơi mộng và thực lẫn lộn và giống nhau như hai giọt nước. Hắn ngồi xổm, nghỉ ngơi sì sụp thổi cà phê. Hắn châm điếu thuốc thứ hai - ngày hôm nay tốt ngày, hắn đã có cánh rừng trong túi, hắn đã trả nợ và hắn cảm thấy hài lòng. Hắn để cho trí tưởng tượng lôi cuốn:

    - Ðám cưới của chúng ta phải thật lớn, Bouboulina yêu quí của anh. Em sẽ thấy tấm áo cưới mà anh đã gửi mua cho em đẹp thế nào! Chính vì lý do đó mà anh mới ở lại Candia lâu đến như vậy, em yêu. Anh cho gọi hai bà chủ tiệm may y phục phụ nữ lớn ở Nhã Ðiển tới và bảo họ: “Người đàn bà mà tôi sắp cưới vô song ở cả Ðông phương lẫn Tây phương! Nàng là hoàng hậu của bốn đại cường quốc nhưng hôm nay nàng là góa phụ, Tứ Cường đã chết và nàng bằng lòng lấy tôi làm chồng. Vậy tôi muốn áo cưới của nàng cũng phải độc nhất vô nhị: phải toàn bằng lụa, ngọc trai, và sao bằng vàng!” Hai bà phó may kêu lên: “Nhưng như thế sẽ đẹp quá! Tất cả những khách mời sẽ bị lóa mắt hết! Thây kệ họ! Anh nói, như thế thì đã làm sao? Miễn là người yêu tôi vừa lòng thì thôi!”



    Kỳ 85



    Mụ Hortense tựa lưng vào vách lắng nghe. Một nụ cười rộng, đầy thịt nở ra trên khuôn mặt nhăn và xệ của mụ, và giải băng đỏ quanh cổ mụ muốn đứt ra.

    - Em muốn nói thầm với anh câu này, mụ vừa thì thầm vừa say đắm đưa mắt nhìn Zorba.

    Zorba nháy tôi và cúi xuống.

    - Tối nay em mang lại cho anh cái này, vợ tương lai của hắn thì thầm trong khi cái lưỡi nhỏ của mụ gần lọt vào cái tai lông lá của hắn.

    Mụ lấy trong áo nịt ngực ra một cái khăn tay thắt gút một đầu, và chìa cho Zorba.

    Hắn thò hai ngón tay ra nhón cái khăn tay và đặt lên đầu gối phải, đoạn quay ra cửa, hắn nhìn biển.

    - Anh không cởi nút ra xem, Zorba? Mụ nói. Em thấy anh không có vẻ gì là vội vã cả?

    Hắn đáp:

    - Ðể anh uống cà phê và hút điếu thuốc đã. Anh không cần phải cởi, anh biết trong này có cái gì rồi.

    - Cởi ra đi, cởi ra đi! Mụ ngư nữ già khẩn khoản.

    - Trước hết để anh hút xong điếu thuốc đã, anh đã nói như thế mà.

    Và hắn đưa mắt nhìn tôi trách móc như muốn nói: “Lỗi tại ông hết!”

    Hắn chậm rãi hút, thở khói qua lỗ mũi và nhìn biển. Hắn nói:

    - Ngày mai sẽ có một cơn gió Ðông Nam. Thời tiết thay đổi. Cây cối căng lên, ngực các thiếu nữ cũng vậy, vú không chịu nằm trong áo nịt ngực nữa. Mùa Xuân ba que xỏ lá! Một phát minh của ma quỉ.

    Hắn nín lặng. Một lát sau hắn thêm:

    - Ông có để ý điều này không, ông chủ: tất cả mọi sự tốt đẹp trên thế gian này đều là phát minh của quỷ: đàn bà đẹp, mùa Xuân, lợn sữa quay, rượu - tất cả đều do ma quỷ làm ra cả! Chúa chỉ tạo ra tu sĩ, trai giới, và đàn bà xấu, khiếp!

    Trong khi nói vậy hắn đưa mắt dữ tợn nhìn mụ Hortense đáng thương, đang thu mình trong một góc, lắng nghe hắn:

    - Zorba! Zorba! Mụ van xin hắn luôn miệng.

    Nhưng hắn lại đốt một điếu thuốc khác và lại tiếp tục nhìn biển. Hắn nói:

    - Mùa Xuân là thời ma quỉ Satan ngự trị. Những cái thắt lưng giãn ra, áo nịt ngực mở cúc, bà già thở dài... Ê! Bỏ tay ra, Bouboulia!

    - Zorba! Zorba!... mụ đàn bà đáng thương lại khẩn khoản van xin.

    Mụ cúi xuống, cầm lấy cái khăn tay nhỏ và ấn vào tay Zorba.

    Hắn liệng điếu thuốc đi, nắm cái nút và cởi ra. Hắn xòe bàn tay ra và nhìn.

    - Cái gì đây, mụ Bouboulina? Hắn ghê tởm hỏi.

    - Nhẫn, những cái nhẫn nhỏ, cưng. Những cái nhẫn cưới, mụ ngư nữ già run run thì thầm. Người làm chứng có mặt ở đây, đêm đẹp quá, Thượng Ðế nhìn chúng ta... Chúng ta hãy đính hôn đi, Zorba của em!

    Zorba hết nhìn tôi, mụ Hortense, lại nhìn những cái nhẫn. Một bầy quỷ đang giao chiến trong hắn và trong giây lát, chưa có con nào thắng thế. Mụ đàn bà đáng thương nhìn hắn một cách sợ hãi.

    - Zorba! Zorba của em!... Mụ âu yếm gọi.

    Tôi nhổm dậy trên giường và chờ đợi. Trong tất cả những con đường mở rộng trước mặt hắn, Zorba sẽ lựa chọn con đường nào?

    Ðột nhiên, hắn lắc đầu. Hắn đã quyết định. Khuôn mặt hắn sáng lên. Hắn vỗ tay và đứng phắt dậy. Hắn la:

    - Chúng ta hãy ra ngoài kia! Chúng ta hãy ra ngoài trời sao, để Chúa có thể nhìn thấy chúng ta! Ông cầm lấy cái nhẫn, ông chủ; ông có biết tụng thánh ca không?

    - Không, tôi vui vẻ đáp. Nhưng điều đó quan trọng gì!

    Tôi nhảy xuống giường và giúp mụ đàn bà đứng dậy.

    - Tôi biết. Tôi quên chưa nói với ông rằng trước kia tôi đã từng là lễ sinh! Tôi theo cha dự những đám cưới, lễ rửa tội, tống táng, tôi thuộc lòng những bài hát lễ. Lại đây, Bouboulina của anh, trương buồm lên, cái thuyền buồm Pháp quốc của anh, lại đứng bên phải anh!

    Trong tất cả những con quỷ của Zorba, con quỷ khôi hài tốt bụng lại thắng thế. Zorba thương hại mụ ngư nữ già, lòng hắn quặn đau khi hắn nhìn thấy cặp mắt mờ đục của mụ chăm chú nhìn hắn với xiết bao âu lo.

    - Thây kệ, hắn lẩm bẩm trong khi quyết định, ta còn có thể đem lại vui vẻ cho giống cái, hăng hái lên!

    Hắn lao ra ngoài bãi, nắm lấy cánh tay mụ Hortense, trao nhẫn cho tôi, quay ra biển và bắt đầu tụng thánh ca:

    “Cảm tạ Chúa trong thế giới không cùng, Amen!”

    Hắn quay sang tôi nói:

    - Ông hãy làm công việc của ông! Ông chủ!

    - Ðêm nay không có ai là “ông chủ” hết, tôi nói. Tôi là phù rể chính của bác.

    - Ðược rồi, ông hãy ráng cho nhanh nhẹn. Khi tôi kêu: Ô ê! Ô ê! Thì ông trao nhẫn cho chúng tôi.

    Hắn lại bắt đầu tụng thánh ca bằng cái giọng lừa ồ ề của hắn:

    - Vì tên đầy tớ trai của Chúa, Alexis, và kẻ hầu gái của Chúa, Hortense, đính hôn với nhau, và vì sự cứu rỗi của họ, chúng con khẩn cầu Chúa!

    - Kyrie eleison! Kyrie eleison! Tôi vừa run run hát vừa khó khăn lắm mới giữ mình khỏi cười và khóc.

    - Còn một câu xướng nữa, Zorba nói, trời đánh nếu tôi nhớ! Nhưng thôi chúng ta làm lẹ lên.

    Hắn nhẩy cẫng lên như con choi choi và la to:

    - Ô ê! Ô ê! Vừa chìa bàn tay hộ pháp về phía tôi. Em cũng chìa tay ra, hắn nói với vị hôn thê của hắn.

    Kỳ 86



    Bàn tay mập mạp, xù xì vì giặt giũ và việc nội trợ, run run chìa ra về phía tôi. Tôi đeo nhẫn cho họ, trong khi Zorba, hoàn toàn như mất trí, la lên như một giáo sĩ Thổ Nhĩ Kỳ:

    - Kẻ tôi tớ trai của Chúa, Alexis, đã đính hôn với tớ gái của Chúa, Hortense, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Ðức Thánh Thần, Amen! Kẻ tớ gái của Chúa, Hortense, đã đính hôn với tớ trai của Chúa, Alexis... Thôi, xong rồi! Lại đây cưng, để anh cho em cái hôn đoan chính đầu tiên của đời em!

    Nhưng mụ Hortense đã ngồi sụp xuống đất. Mụ ôm lấy chân Zorba và khóc. Zorba thương hại lắc đầu:

    - Ðáng thương thay cho đàn bà! Họ điên cuồng làm sao! Hắn lẩm bẩm.

    Mụ Hortense đứng dậy, dũ váy và mở vòng tay ra. Zorba kêu lên:

    - Ê, không được! Hôm nay là thứ ba trước tuần Chay, hãy ngoan ngoãn! Bây giờ đang là tuần Chay.

    - Zorba của em..., mụ đắm đuối thì thầm.

    - Hãy kiên nhẫn, em yêu. Hãy đợi cho đến lễ Phục Sinh, chúng ta sẽ ăn thịt, và đập những trái trứng đỏ tươi đã. Bây giờ, đến giờ em phải về rồi đó. Dân làng sẽ nói sao khi họ nhìn thấy em đi vơ vẩn vào giờ này!

    Bouboulina khẩn khoản nhìn hắn. Zorba nói:

    - Không! Không! Hãy chờ đến lễ Phục Sinh đã! Ði với chúng tôi, ông chủ.

    Hắn cúi xuống nói khẽ vào tai tôi:

    - Ðừng để chúng tôi đi một mình, vì Chúa! Tôi không được vui.

    Chúng tôi đi về phía làng. Bầu trời long lanh, mùi biển mặn nồng bao bọc chúng tôi, những con chim đêm rúc lên. Mụ ngư nữ già, níu lấy cánh tay Zorba, để hắn dìu đi, sung sướng nhưng thất vọng.

    Cuối cùng mụ đã tới cái bến mà mụ ao ước bao lâu nay. Suốt đời mụ, mụ đã ca hát và nhẩy múa, chơi bời phóng đãng, nhạo báng những người đàn bà đoan trang, nhưng trái tim mụ tan nát. Khi mụ đi trong những phố phường ở Alexandria, Beirut, Constantinpole, phấn son ngào ngạt, quần áo sặc sỡ, lòe loẹt, và nhìn thấy những người đàn bà vạch vú cho con bú, vú mụ cũng ngứa và căng lên, núm vú cứng lại cũng đòi hỏi một cái miệng trẻ thơ nhỏ xíu. “Lấy chồng, lấy chồng, có một đứa con...,” đó là giấc mơ trìu mến suốt đời của mụ. Nhưng mụ không bao giờ thổ lộ những khát vọng đau đớn này với bất cứ kẻ nào. Bây giờ, cảm tạ Chúa, hơi muộn nhưng còn hơn không; mụ đang ghé bến xiết bao mong ước dầu bị sóng gió dập vùi.

    Chốc chốc mụ lại đưa mắt lên nhìn trộm gã thô kệch to lớn đang đi cạnh mụ. Mụ nghĩ thầm: “Hắn không phải là một ông quan Thổ Nhĩ Kỳ với mũ fez búp vàng, hắn cũng không phải là một đứa con trai đẹp trai của quan Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cảm tạ Chúa như thế còn hơn không! Hắn sẽ là chồng mình, chồng mình thực sư, cảm tạ Chúa!”

    Zorba cảm thấy mụ đè nặng trên cánh tay hắn và hắn vội vã dìu mụ tới làng để mau thoát khỏi mụ. Và mụ đàn bà đáng thương lảo đảo trên đường đá, những móng chân mụ muốn tuột ra, những chai ở bàn chân làm mụ đau nhưng mụ không nói gì cả. Tại sao nói? Tại sao than thở? Dẫu sao, tất cả đều tuyệt vời!

    Chúng tôi vượt qua cây Vả Của Cô và khu vườn của góa phụ. Chúng tôi dừng lại khi những ngôi nhà đầu tiên của làng hiện ra.

    - Ngủ ngon nhé, cưng của em, mụ ngư nữ già vừa âu yếm nói vừa kiễng chân lên cho tới môi vị hôn-phu.

    Nhưng Zorba không cúi xuống.

    - Hay để em quì xuống hôn chân anh vậy, anh yêu! Mụ Bouboulina vừa nói vừa định nhào xuống đất.

    - Không! Không! Zorba cản lại. Hắn cảm động ôm lấy mụ. Chính anh phải hôn chân em mới phải cưng ạ. Chính anh phải quì xuống mới phải... nhưng anh làm biếng quá. Ngủ ngon nhé!

    Chúng tôi từ biệt mụ và lặng lẽ trở về, hít hương thơm của đêm tận đáy phổi. Zorba đột nhiên quay sang hỏi tôi:

    - Chúng ta phải làm gì bây giờ, ông chủ? Cười hay khóc? Ông làm ơn cho biết.

    Tôi không trả lời. Cổ họng tôi cũng se lại, và tôi không biết vì sao: vì đã khóc hay cười.

    Zorba đột nhiên nói:

    - Ông chủ, cái lão thần ba que không để một người đàn bà nào than thở tên là gì nhỉ? Tôi có nghe nói sơ qua về gã. Hình như gã thường nhuộm râu và xăm những trái tim, những mũi tên, và những ngư nữ trên cánh tay; gã thường hóa trang thành bò mộng, thiên nga, cừu, lừa... Thành bất cứ con gì mà những con đĩ thích. Tên gã là gì nhỉ?

    - Tôi chắc bác muốn nói đến Zeus. Ðiều gì làm cho bác nhớ Zeus?

    - Cầu cho gã được yên giấc ngàn thu! Zorba vừa nói vừa giơ tay lên trời. Chắc chắn gã đã gặp những lúc khổ cực! Gã phải chịu đau khổ biết bao nhiêu! Ðó là một kẻ tuẫn giáo vĩ đại, tin tôi đi, ông chủ. Ông đã nuốt tất cả những gì những cuốn sách nhảm nhí của ông nói, nhưng ông hãy thử nghĩ giây lát xem những người viết sách là những người thế nào! Hừ! Một bọn lên mặt học giả! Chúng biết gì về đàn bà và những kẻ chạy theo đàn bà? Không biết gì hết!

    - Tại sao bác không viết, Zorba, để giải thích cho chúng tôi những bí ẩn của thế giới! Tôi chế nhạo.
    Kỳ 87



    - Tại sao? Vì lý do đơn giản là tôi sống tất cả những bí ẩn mà ông nói đó, và tôi không có thì giờ để viết. Khi chiến tranh, khi đàn bà, khi rượu chè, khi đàn santuri: hỏi thì giờ đâu mà cầm cây bút cùn mằn này. Vì thế công việc này rơi vào tay bọn cạo giấy! Tất cả những kẻ nào thực sự sống những bí ẩn của đời sống đều không có thời giờ để viết, và tất cả những kẻ nào có thì giờ thì lại không sống những bí ẩn ấy! Ông nghe thủng chưa?

    - Ta hãy trở lại đề tài cũ! Zeus làm sao?

    - A! Gã đáng thương! Zorba thở dài. Tôi là người duy nhất hiểu rõ điều làm gã đau khổ. Gã yêu đàn bà, dĩ nhiên, nhưng không phải như các ông tưởng, những ông cạo giấy! Không phải thế chút nào! Gã hiểu tất cả đau khổ vì lẽ gì, và gã hy sinh vì họ! Khi gã thấy ở một xó xỉnh nào đó một mụ gái già đang mòn mỏi vì khát vọng và hối tiếc, hay một thiếu phụ trẻ đẹp - hoặc dầu nàng không đẹp chút nào chăng nữa, dầu nàng là con quỷ dạ xoa - không thể ngủ được vì chồng nàng xa vắng, gã sẽ làm dấu, gã tử tế đó, thay đổi quần áo, mang bất cứ hình dáng nào người đàn bà có trong trí, và đi vào phòng nàng.

    “Thường thường gã không thích để ý tới những mối tình bỡn cợt. Không! Gã thường mệt lử cò bợ luôn và điều đó rất dễ hiểu: làm sao có thể thỏa mãn được từng ấy con dê cái? A! Zeus! Con dê đực đáng thương. Ðã hơn một lần gã chán chường, gã cảm thấy khó chịu, ông đã bao giờ nhìn thấy một dê đực sau khi đã phủ mấy con dê cái chưa? Nó sùi bọt mép, mắt lờ đờ và có ghèn. Nó ho, và không đứng nổi. Ðó, gã Zeus đáng thương hẳn luôn luôn ở trong trạng thái khốn khổ đó. Rạng ngày gã nhủ thầm trên đường trở về: ‘A! Lạy Chúa tôi! Cho đến bao giờ tôi mới có thể đi nằm và ngủ no chán? Tôi không đứng nổi nữa!’ Và gã không ngừng chùi bọt mép.

    “Nhưng thình lình gã nghe thấy một tiếng thở dài: dưới kia trên mặt đất, một người đàn bà đã liệng khăn trải giường, gối, chạy ra ngoài bao lơn, gần như trần truồng và thở dài đủ làm quay cánh quạt cối xay lúa. Lập tức bạn Zeus của tôi lại động lòng trắc ẩn.

    “Thật khốn khổ, ta lại phải xuống trần gian! Gã rên rỉ. Có một người đàn bà đang than thân trách phận! Ta phải xuống an ủi nàng!

    “Và cứ như thế đàn bà làm gã kiệt quệ hoàn toàn. Gã bị đau thận, gã bắt đầu ói mửa, trở nên tê bại và gã chết. Chính lúc đó Chúa Cứu Thế, người thừa kế của gã tới. Chúa nhìn thấy tình trạng khốn khổ của lão già nên ngài kêu lên: ‘Hãy tránh xa đàn bà!’”

    Tôi thán phục trí tuệ mẫn nhuệ của Zorba và tôi ôm bụng cười.

    - Ông cứ cười đi, ông chủ! Nhưng nếu quỉ thần độ trì cho công việc của chúng ta thành công - việc đó đối với tôi hầu như không thể được, nhưng biết đâu - ông có biết tôi sẽ mở một cửa hàng gì không? Một sở giới thiệu hôn nhân. Vâng..., đúng như vậy. “Sở Hôn Nhân Zeus” Lúc đó những người đàn bà đáng thương không vớ nổi một tấm chồng đều có một cơ hội cuối cùng: gái già, đàn bà vô duyên, đui què, mẻ sứt, và tôi sẽ tiếp tất cả trong một phòng khách nhỏ, trên tường đầy hình những chàng thanh niên khỏe mạnh đẹp trai và tôi sẽ nói với họ: “Xin các bà hãy lựa chọn, lựa chọn người nào bà thích, và tôi sẽ thu xếp để hắn trở thành chồng bà.” Rồi tôi kiếm bất kỳ gã nào hao hao giống bức hình, cho gã ăn mặc giống như vậy, dúi cho gã tiền và bảo gã: “Tới số nhà đó, phố đó, kiếm mụ đó và tán tỉnh mụ cho thật dữ vào. Ðừng ghê tởm, tôi trả tiền mà. Rót vào tai mụ tất cả những lời đường mật một người đàn ông thường nói với một người đàn bà mà mụ đáng thương đó chưa bao giờ được nghe. Hãy thề nguyền cưới mụ. Cho mụ khốn khổ đó một chút lạc thú, thứ lạc thú những con chó cái và ngay cả con sâu cái kiến cũng biết.”

    “Và nếu đôi khi có một vài con dê già thuộc loại Bouboulina của chúng ta - Xin Chúa ban phước lành cho mụ - không ai thèm đến an ủi dầu trả bao nhiêu vàng bạc cũng thế thôi, được rồi, tôi làm dấu và tôi, giám đốc sở hôn nhân, tôi sẽ thân hành đến! Lúc đó ông sẽ nghe thấy những đứa ngu ngốc bên hàng xóm nói: ‘Nhìn kìa! Thiệt là một lão dâm đãng! Lão không có mắt để ngó cũng không có mũi để ngửi nữa à, hở trời?’ - Có chứ, đồ lừa, ta có mắt chứ! Có chứ bọn nhẫn tâm, ta có mũi chứ! Nhưng ta còn có lòng tốt nữa và ta thương hại mụ! Và khi người ta có một tấm lòng tốt thì mắt mũi chẳng dùng để làm gì trên thế gian. Khi gặp cơ hội, chúng chẳng kể số gì!”

    - Rồi, khi tôi đã hoàn toàn bất lực vì những điên cuồng của tuổi trẻ và ngoẻo. Thánh Pierre-giữ-chìa-khóa sẽ mở cửa Thiên Ðàng cho tôi và bảo: “Vào đây, Zorba đáng thương, vào đây, kẻ tuẫn đạo vĩ đại Zorba. Vào nằm cạnh đồng chí Zeus của ngươi! Nghỉ ngơi cho khỏe đi, dũng sĩ, ngươi đã vất vả khó nhọc nhiều trên thế gian! Ta ban phước lành cho ngươi!”

    Zorba tiếp tục nói. Trí tưởng tượng của hắn giăng bẫy và hắn sa vào bẫy chính hắn đặt ra. Dần dần hắn tin vào những truyện thần tiên của hắn. Khi chúng tôi đi qua cây Vả Của Cô, hắn thở dài. Rồi dang tay ra như thuyết pháp, hắn nói:

    - Ðừng lo phiền, Bouboulina của tôi, cái tàu mục nát và bị bạc đãi! Ðừng lo phiền, tôi sẽ an ủi em! Tứ Cường đã bỏ em, nhưng tôi, Zorba, tôi sẽ không bỏ em!

    Khi chúng tôi về đến bãi thì đã quá nửa đêm. Gió nổi lên. Từ Phi Châu xa xôi kia cơn gió nồm nóng ấm thổi tới làm căng phồng cây cối, cây nho và những bộ ngực của Crete. Toàn thể hải đảo, nằm dài bên bờ nước, hồi sinh dưới những đợt gió ấm làm nhựa dâng lên trong cây, Zeus, Zorba và cơn gió nồm trộn lẫn với nhau, và trong đêm tối, tôi trông thấy rất rõ - một khuôn mặt đàn ông râu đen, và tóc trơn bóng, cúi xuống kề cặp môi đỏ và ấm áp lên mụ Hortense, Trái Ðất.

    Kỳ 88



    20



    Vừa về tới lều, chúng tôi đi ngủ liền. Zorba khoái chí xoa tay vào nhau:

    - Ngày hôm nay tốt ngày, ông chủ! Có thể ông sẽ hỏi tôi muốn ám chỉ gì khi dùng chữ “tốt ngày?” Tôi định ám chỉ nhiều thứ lắm. Này nhé: Sáng hôm nay chúng ta ở mãi tận đâu đâu, tận trên tu viện và chúng ta đã bỏ tu viện và tu viện trưởng vào rọ - hẳn lão phải nguyền rủa chúng ta! Sau đó, chúng ta trở xuống, thấy mụ Bouboulina và tôi đính hôn. Này, nhìn nhẫn đây. Vàng nhất đấy... Mụ nói mụ còn hai bảng Anh mà lão đô đốc người Anh cho mụ vào cuối thế kỷ trước. Mụ nói mụ giữ để cho đám táng mụ, nhưng bây giờ mụ thích đưa cho thợ kim hoàn để làm nhẫn cưới hơn. Con người thật kỳ quái!

    - Ngủ đi, Zorba! Bình tĩnh lại đi nào! Ngày hôm nay như thế là quá đủ rồi. Ngày mai chúng ta sẽ phải tổ chức một cuộc lễ nghiêm trọng: Trồng cây trụ đầu tiên. Tôi đã cho mời giáo trưởng Stephanos tới.

    - Ông làm vậy phải lắm, ông chủ, không đến nỗi tệ. Ðể lão tới, để lão tư tế râu dê đó tới, để cả đám hương mục trong làng tới đây nữa; chúng ta sẽ phân phát cho họ những ngọn đèn cầy nhỏ và họ sẽ thắp lên. Những việc như thế này rất dễ kích động và có lợi cho công việc của chúng ta. Ðừng để ý tới những việc tôi làm; tôi có một Thượng Ðế riêng và một con quỉ riêng. Nhưng những kẻ khác...

    Hắn cất tiếng cười. Hắn không ngủ được. Ðầu óc hắn sôi nổi. Lát sau hắn nói:

    - A, Nội ơi, chúc nội an giấc ngàn thu! Ông tôi cũng là một lão dâm đãng, hệt như tôi vậy. Tuy nhiên, lão du côn đó đã tới Thánh Mộ và đã trở thành một hadji (*).Có Chúa biết tại sao! Khi lão trở về làng, một ông bạn nối khố của lão, một gã chuyên ăn trộm dê, một kẻ chưa từng làm một việc gì đứng đắn trong đời, bảo lão: “Sao, bạn già, anh không mang về cho tôi một mẩu Thánh Giá ở Thánh Mộ sao? - Sao anh biết là tôi không mang gì về cho anh? Ông nội quỉ quái của tôi nói. Anh tưởng tôi quên anh sao? Tối nay tới nhà tôi và dẫn lão tư tế lại để lão ban phước lành cho và tôi sẽ trao lại cho anh. Mang thêm một con lợn sữa quay nữa, và rượu, tối nay chúng ta tổ chức tiệc mừng”.

    “Tối hôm đó ông trở về và cắt ở cánh cửa đã hoàn toàn mục nát ra một miếng gỗ, không lớn hơn một hạt gạo, bọc trong một nắm bông, giỏ lên hai ba giọt dầu và chờ đợi. Lát sau, người bạn đó tới cùng lão tư tế, con lợn sữa và rượu. Lão tư tế lấy khăn choàng cổ ra và ban phước lành. Cuộc lễ trao gỗ quí chấm dứt, sau đó cả ba ngấu nghiến con lợn sữa. Ông muốn tin tôi hay không tùy ý ông chủ! Gã du côn quì xuống trước miếng gỗ cửa sau đó gã đeo ở cổ, từ hôm đó, gã trở thành một người khác. Gã thay đổi hoàn toàn. Gã lên núi nhập bọn với tụi Armatoles và Klephts, gã đốt những làng mạc Thổ Nhĩ Kỳ. Gã xông xáo một cách gan dạ giữa những trận mưa đạn. Tại sao gã phải sợ hãi nhỉ? Gã đã có một miếng Thánh Giá lấy từ Thánh Mộ trên mình, không súng đạn nào đụng tới gã được.”

    Zorba phá cười lên. Hắn nói:

    - Tư tưởng là tất cả. Ông có đức tin? Lúc đó một miếng cửa mục trở thành thánh tích. Ông không có đức tin. Toàn thể Thánh Giá trở thành một cánh cửa mục.

    Tôi thán phục người đàn ông này mà đầu óc vận động xiết bao quả quyết và liều lĩnh, và tâm hồn, bất cứ chỗ nào người ta đụng tới, đều tóe lửa.

    - Bác đã bao giờ ra trận chưa, Zorba?

    - Tôi làm sao biết được? Hắn cau mày hỏi. Tôi không nhớ. Trận nào?

    - Tôi muốn nói đã bao giờ bác ra trận vì tổ quốc chưa?

    - Ông không thể nói chuyện khác được sao, hả? Tất cả những chuyện tầm bậy đã qua, không nên nhắc tới nữa.

    - Bác gọi những chuyện đó là những chuyện tầm bậy à, Zorba? Bác không biết xấu hổ sao? Bác nói về tổ quốc như vậy à?

    Zorba ngẩng đầu lên nhìn tôi. Tôi đang nằm trên giường và ngọn đèn dầu soi sáng trên đầu tôi. Hắn nghiêm nghị nhìn tôi một lúc lâu, đoạn, nắm chặt lấy ria mép. Cuối cùng hắn nói:

    - Ông ngây thơ và thông thái dởm... xin ông miễn chấp. Tất cả những gì tôi nói với ông thẩy đều như những chuyện tào lao cả.

    - Sao vậy? Tôi phản đối. Tôi hiểu rất rõ, Zorba, đừng quên điều đó!

    - Vâng, ông hiểu với cái đầu ông. Ông nói: “Cái này đúng, cái kia sai; cái này phải, cái kia không phải; anh có lý hay anh nhầm”. Nhưng cái đó đưa chúng ta tới đâu? Tôi, trong khi ông nói, tôi quan sát tay ông, ngực ông. Và chúng làm gì? Chúng câm lặng. Chúng không nói gì cả. Như thể chúng không có một giọt máu nào. Vậy thì ông hiểu bằng cái gì? Bằng cái đầu ông à? Hừ!

    (*) Tước phong cho tín đồ Hồi Giáo nào đã đi hành hương tới La Mecque. Một số tín đồ Cơ Ðốc Giáo Ðông Phương hay chính thống giáo Hy Lạp cũng nhận được trước ấy sau khi hành hương tới Thánh Ðịa - C.W.



    Kỳ 89



    - Nào, nói tiếp đi, nói cho rõ ràng, Zorba đừng lảng tránh câu hỏi! Tôi nói để khiêu khích hắn. Tôi chắc bác chẳng bận tâm bao nhiêu với tổ quốc, đồ giá áo túi cơm!

    Hắn nổi giận đấm một cú vào vách làm những bi đông sắt kêu loảng xoảng. Hắn la lên:

    - Người đứng trước mặt ông đây xưa đã có lần rứt tóc để thêu nhà thờ Saint-Sophia đeo trước ngực làm bùa hộ mệnh. Vâng, ông chủ, tôi đã thêu bằng những bàn tay hộ pháp vụng về này và bằng những sợi tóc này, vào thời đó, đen như mun. Tôi, người đang nói với ông đây, thường lang thang trong những rặng núi đá ở Maccedonia với Pavlos Melas (*) - lúc đó tôi là một gã khổng lồ, cao hơn cả lều này, với váy ngắn, mũ fez đỏ, đồ trang sức bằng bạc, bùa hộ mệnh, Yataghan (**) bao đạn và súng lục. Tôi trang bị đầy sắt, bạc và đinh. Khi tôi đi, nó phát ra tiếng kêu xoang xoảng như cả một đạo quân xuống phố! Này, nhìn đây! Nhìn đây!

    Hắn cởi áo chemise và tụt quần xuống.

    - Ðem đèn lại đây! Hắn ra lệnh.

    Tôi mang đèn lại gần tấm thân gầy gò và rám nắng: với những vết sẹo sâu hoắm, vết đạn và những lát kiếm, thân thể hắn đúng là một cái rá lọc.

    - Nào bây giờ nhìn phía bên kia!

    Hắn quay lại và chìa cho tôi xem lưng.

    - Không có ngay cả một vết xước trên lưng. Ông hiểu gì không? Thôi bây giờ đem đèn đi.

    - Chuyện tầm bậy vô nghĩa! Hắn tức tối gào lên. Thật nhục nhã! Khi nào người đàn ông sẽ thực sự trở nên một người đàn ông? Chúng ta mặc quần chùng áo-lượt, cổ cồn, mũ mãng nhưng chúng ta vẫn là con lừa, con sói, con cáo, con lợn. Người ta nói chúng ta được dựng lên theo hình ảnh của Thượng Ðế! Ai? Chúng ta à? Khoác lác phỉnh gạt!

    Những kỷ niệm kinh hoàng hình như trở lại tâm trí hắn và mỗi lúc hắn một trở nên tức tối thêm. Hắn lẩm bẩm qua hàm răng lung lay trống hổng những lời nói khó hiểu.

    Hắn đừng dậy, vồ lấy bình nước, tu một hơi, sau đó hắn có vẻ tỉnh táo và dịu dần. Hắn nói:

    - Bất cứ chỗ nào ông đụng tới tôi, tôi đều đau đớn muốn thét lên. Người tôi đầy vết thương, sẹo và cục u và ông nói với tôi về đàn bà! Khi tôi khám phá tôi thực sự là một người đàn ông, tôi không thèm quay lại để nhìn họ nữa. Tôi đụng chạm tới họ một phút, như vậy đó, qua đường, như một con gà trống, rồi tôi lại tiếp tục đi. Tôi tự nhủ: “Những con chồn hôi bẩn thỉu. Chúng muốn hút hết sinh lực của ta. Khiếp! Cho chúng đi về cái nhà bò đi!”

    “Ðoạn tôi vác súng lên đường! Tôi đi vào chiến khu như một giải phóng quân comitadji. Một hôm, vào lúc nhọ mặt người, tôi vào một làng Bảo-Gia-Lợi và nấp vào một chuồng bò. Ðó chính là nhà của một tên tư tế, một tên biệt động quân comitadji khát máu, dã man. Ban đêm, hắn cởi bỏ áo thầy tu, mặc quần áo kẻ chăn chiên, đeo khí giới và xâm nhập những làng Hy Lạp lân cận. Hắn trở về trước khi trời sáng, gọt sạch bùn và máu và vội vã đến nhà thờ đọc lễ Mi-sa cho tín đồ. Trước đó mấy hôm hắn đã giết một giáo viên Hy Lạp đang ngủ trong giường. Bởi vậy tôi vào chuồng bò tên tư tế, nằm trên đống phân, sau hai con bò và chờ đợi. Vào lúc sẩm tối, tên thầy tư tế vào chuồng bò cho mấy con vật của hắn ăn. Tôi chồm lên hắn và chọc tiết hắn như chọc tiết một con cừu, cắt tai hắn bỏ vào túi. Tôi sưu tầm tai Bảo-Gia-Lợi, ông rõ chưa; bởi vậy tôi lấy tai tên thầy tư tế và tẩu thoát.

    “Mấy hôm sau tôi trở lại chính làng đó, giữa trưa, giả dạng làm một người bán hàng rong. Tôi giấu vũ khí trong núi và tôi xuống làng mua bánh, muối và giầy cho các đồng chí của tôi. Trước một căn nhà, tôi trông thấy năm đứa con nít mặc quần áo đen, đi chân đất nắm tay nhau đi ăn xin. Ba đứa con trai. Ðứa lớn nhất không quá mười tuổi, đứa nhỏ nhất, hãy còn ẵm. Ðứa con gái lớn ôm nó trong tay, hôn nó và nựng nó để nó khỏi khóc. Tôi không hiểu tại sao và có lẽ do thiên khải, tôi lại gần chúng: “Các cháu là con cái nhà ai? Tôi hỏi chúng bằng tiếng Bảo-Gia-Lợi.

    “Ðứa con trai lớn nhất ngẩng cái đầu nhỏ bé lên: “Con thầy tư tế mà người ta cắt cổ hôm nọ trong chuồng bò,” nó trả lời.

    “Nước mắt tôi giàn giụa. Trái đất quay cuồng như cái chong chóng. Tôi dựa lưng vào tường và nó ngừng lại. ‘Lại đây, các cháu, tôi nói, lại gần đây.’”

    “Tôi lần thắt lưng móc túi tiền ra; nó đầy tiền Thổ Nhĩ Kỳ, medjidie. Tôi quì xuống và đổ hết tiền trên mặt đất. ‘Này, lấy đi! Tôi la, lấy đi! Lấy đi!’”

    “Những đứa trẻ ngồi thụp xuống đất và lượm những đồng tiền Thổ và medjidie. ‘Cho các cháu đó, cho các cháu đó! Tôi la, lấy hết đi!’”

    “Ðoạn tôi để lại cho chúng cái giỏ với tất cả những thứ tôi đã mua: ‘Tất cả những cái này nữa, cho các cháu đó! Lấy tất cả đi!’”

    “Và tôi chuồn thẳng. Tôi chạy ra khỏi làng, cởi áo chemise ra, nắm lấy nhà thờ Saint-Sophia tôi đã thêu, xé ra từng mảnh, tung lên trời và vắt giò lên cổ chạy.

    “Và tôi vẫn còn chạy...”

    (*) Một sĩ quan xuất sắc trong trận chiến tranh chống lại những Comitadjis Bảo Gia Lợi.

    (* *) Trường kiếm Thổ Nhĩ Kỳ - N.H.H.

    Kỳ 90



    Zorba tựa vào vách và quay lại nhìn tôi, hắn nói:

    - Tôi được giải thoát như vậy đó.

    - Giải thoát khỏi tổ quốc?

    - Vâng, khỏi tổ quốc, hắn nói bằng một giọng quả quyết và trầm tĩnh.

    Rồi một lát sau:

    - Giải thoát khỏi tổ quốc, giải thoát khỏi thầy tu, giải thoát khỏi tiền bạc. Tôi gạn lọc. Càng ngày tôi càng gạn lọc kỹ. Tôi làm nhẹ gánh nặng của tôi bằng cách đó. Tôi ghê tởm tôi. Làm sao nói cho ông hiểu? Tôi tìm thấy sự giải thoát của chính tôi, tôi trở thành một người đàn ông.

    Cặp mắt Zorba long lanh, cái miệng rộng của hắn cười một cách mãn nguyện.

    Sau khi im lặng một lát, hắn lại tiếp tục nói. Tâm hồn hắn tràn trề, hắn không thể chỉ huy được nó nữa.

    - Có một thời tôi thường nói: người này là một tên Thổ Nhĩ Kỳ, một tên Bảo-Gia-Lợi, người kia là một người Hy Lạp. Vì tổ quốc, tôi đã làm những điều khiến ông phải dựng tóc gáy lên, ông chủ. Tôi đã cắt cổ người ta, trộm cướp, đốt phá làng mạc, hãm hiếp đàn bà con gái, giết trọn nhiều gia đình. Tại sao? Vì họ là dân Bảo Gia Lợi hay Thổ Nhĩ Kỳ. “Ghê! Cút xéo đi! Quân thô bỉ!” Ðôi khi tôi rủa thầm tôi như vậy: “Cút xéo đi, quân đê tiện!” Ngày nay tôi nói: người nầy là một người chính trực, kẻ kia là một tên chó đẻ. Hắn có thể Bảo Gia Lợi, Thổ Nhĩ Kỳ hay Hy Lạp điều đó không quan trọng. Hắn tử tế hay xấu xa? Ðó là điều duy nhất tôi thắc mắc ngày hôm nay. Và bây giờ già cả, tôi xin thề có miếng bánh cuối cùng mà tôi ăn, tôi cảm thấy dường như tôi sẽ không thắc mắc về điều đó nữa. Dẫu hắn tử tế hay xấu xa, tôi cũng thương hại hắn, thương hại tất cả mọi người. Khi tôi trông thấy một người, dầu tôi làm bộ tỉnh bơ như kẻ coi trời bằng vung, tôi vẫn dứt từng khúc ruột. Kìa, gã đáng thương kia, tôi nghĩ thầm, gã cũng ăn uống và làm ái tình, gã cũng sợ hãi, dù gã là ai: gã cũng có Thượng Ðế và ma quỉ của gã, và gã cũng sẽ ngoẻo củ tỏi và nằm cứng đơ dưới ba tấc đất và làm mồi cho dòi bọ. Thật khốn khổ! Anh em bốn bể một nhà; anh em bốn bể làm quà cho sâu!”

    “Và nếu đó là một người đàn bà, thì tôi muốn khóc lòi con mắt ra. Các hạ không ngừng chế nhạo tôi sao quá yêu thương đàn bà. Tại sao ông lại muốn tôi không yêu thương họ khi họ chỉ là những sinh vật yếu đuối chẳng hiểu điều mình làm và chịu trận tức thì khi ta vừa túm được một bên vú nàng?”

    “Một lần khác tôi vào một làng Bảo Gia Lợi. Một tên Hy Lạp, một hương mục trong làng, thấy tôi. Tên khốn kiếp đó tố giác tôi và chúng vây căn nhà tôi ở trọ. Tôi leo qua sân thượng và truyền từ nóc nhà nọ qua nóc nhà kia như con mèo. Nhưng trăng lên, chúng nhìn thấy bóng tôi. Chúng leo lên nóc nhà và bắt đầu bắn như mưa bấc. Phải làm sao bây giờ? Tôi nhẩy xuống một cái sân và thấy một người đàn bà Bảo Gia Lợi đang ngủ. Nàng nhỏm dậy, phong phanh trong tấm áo ngủ, thấy tôi định mở miệng la lên, nhưng tôi giơ tay ra nói khẽ: ‘Làm ơn! Làm phúc! Ðừng kêu!’ Và tôi chụp lấy ngực nàng. Nàng tái xanh và muốn ngất đi: ‘Vào trong nhà,’ nàng thì thầm. ‘Vào trong kẻo họ nhìn thấy chúng ta... ’ ’”

    “Tôi vào nhà, nàng siết chặt tay tôi: ‘Ông là người Hy Lạp?’ Nàng hỏi ‘Vâng. Hy Lạp. Ðừng tố cáo tôi.’ Tôi ôm lấy eo nàng, nàng không nói gì cả. Tôi ngủ với nàng và tim tôi run lên vì khoái cảm dịu dàng. Tôi thầm nhủ: Ðó thấy chưa thằng chó Zorba, đó là một người đàn bà, đó là ý nghĩa của nhân tình! Nàng là người gì? Bảo Gia Lợi? Hy Lạp? Papu! Hay gì nữa cũng thế thôi! Nàng là một con người, một con người có miệng, có vú, và biết yêu thương. Mi không biết xấu hổ vì đã giết tróc sao? Ðồ đê tiện bẩn thỉu?”

    “Tôi nghĩ thầm như vậy trong khi tôi ở bên nàng, trong hơi ấm của nàng. Nhưng tổ quốc, con đĩ dại, nó đâu chịu để tôi yên. Sáng hôm sau tôi ra đi trong bộ quần áo mà góa phụ Bảo Gia Lợi đã cho tôi. Nàng mở rương lấy quần áo cũ của chồng cho tôi, và nàng ôm lấy đầu gối tôi, năn nỉ tôi trở lại.”

    “Vâng, tối hôm sau tôi trở lại. Tôi là một người ái quốc, nghĩa là một con dã thú, ông hiểu chưa, tôi trở lại với một thùng dầu hôi và tôi phóng hỏa đốt làng. Tội nghiệp, chắc nàng cũng chết cháy cùng với những kẻ khác. Tên nàng là Ludmilla.”

    Zorba thở dài. Hắn châm một điếu thuốc, hít hai ba hơi rồi quẳng đi.

    - Ông nói tổ quốc à?... Ông tin những chuyện vớ vẩn mà những cuốn sách nhảm nhí của ông kể với ông! Ông phải tin vào tôi đây này. Khi nào còn có những tổ quốc, con người còn là một con thú, một con thú dữ... Nhưng đội ơn Thượng Ðế! Tôi đã giải thoát khỏi tất cả những thứ đó. Ðối với tôi thế là hết, không còn gì nữa! Còn ông?

  2. #14
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 91



    Tôi không trả lời. Tôi ghen ghét người đàn ông trước mặt tôi. Hắn đã sống bằng xương máu - bằng cách tranh đấu, giết tróc, ôm ghì - tất cả những điều mà tôi gia công học hỏi bằng giấy và mực.

    Tất cả những vấn đề tôi cố gắng giải quyết lần lần trong cô đơn và dính chặt trên ghế, người đàn ông này đã giải quyết dứt khoát giữa núi non lồng lộng và với một lưỡi gươm.

    Tôi nhắm mắt, tuyệt vọng.

    - Ông ngủ sao, ông chủ? Zorba phật lòng hỏi. Khốn nạn, thế mà tôi cứ ngồi đó mà nói với ông như một tên điên.

    Hắn càu nhàu nằm xuống và chỉ một lát sau tôi nghe thấy hắn ngáy.

    Suốt đêm tôi không chợp mắt. Một con họa mi chúng tôi nghe thấy lần đầu tiên đêm nay đã dồn đầy cảnh cô độc của chúng tôi một nỗi sầu vô hạn và đột nhiên tôi cảm thấy nước mắt trào ra.

    Tôi ngạt thở. Tôi trở dậy lúc bình minh, và từ cửa lều, tôi ngắm biển và đất. Dường như trái đất đã thay đổi trong một đêm. Trước mắt tôi, trên cát, một bụi gai mới hôm qua đây còn ảm đảm tối mầu, thế mà bây giờ đã đầy những bông hoa trắng nhỏ. Trong không khí phảng phất hương thơm dịu dàng của hoa chanh và cam từ vườn xa. Tôi bước ra ngoài mấy bước. Tôi say sưa không biết chán cái phép lạ muôn đời tái hồi này.

    Thình lình tôi nghe thấy sau lưng tôi một tiếng kêu hân hoan. Tôi quay lại. Zorba đã thức dậy, mình trần lao ra khỏi lều. Hắn cũng đang xúc động vì mùa xuân mới. Hắn kinh ngạc la lên:

    - Cái gì đó? Cái phép lạ kia kìa, ông chủ, cái phép lạ màu xanh chuyển động đàng kia người ta gọi là gì? Biển? Biển? Còn cái mang tạp-dề xanh xanh điểm hoa kia? Trái đất? Nghệ sĩ nào đã tạo nên chúng? Tôi xin thề với ông, đây là lần đầu tiên tôi trông thấy đó, ông chủ!

    Cặp mắt hắn đầm đìa lệ.

    - Ê! Zorba! Bác điên rồi hả?

    - Tại sao ông cười? Ông không thấy gì sao? Có cái kỳ diệu đằng sau tất cả những cái đó, ông chủ!

    Hắn lao ra ngoài, bắt đầu nhẩy múa và lăn lộn trong cỏ như một con ngựa con vào mùa xuân.

    Mặt trời xuất hiện. Tôi chìa lòng bàn tay ra cho ấm. Những cành cây đâm chồi nẩy lộc, những bộ ngực căng tròn, tâm hồn cũng trổ bông như một cái cây; người ta cảm thấy thân thể và tâm hồn được nhồi nặn cùng bằng một chất liệu.

    Zorba đứng lên, tóc hắn đầy sương đọng và đất. Hắn la:

    - Lẹ lên, ông chủ! Chúng ta phải mặc quần áo cho thật bảnh! Hôm nay là ngày chúng ta được ban phước lành. Lão tư tế và các hương mục sắp đến bây giờ. Nếu họ thấy chúng ta bò lê bò càng trong cỏ như thế này thì sẽ đẹp mặt cho Công ty lắm đấy! Bởi vậy hãy phô cổ cồn giả và cà vạt ra! Hãy phô những chiếc mặt nạ nghiêm trang ra! Có đầu óc hay không chẳng quan trọng gì, chỉ cần có một cái mũ cho bảnh chọe vào là được! Thế giới này là một thế giới điên cuồng, đáng phỉ nhổ!

    Chúng tôi mặc quần áo, thợ thuyền đến, chẳng bao lâu những hào mục cũng tề tựu đông đủ.

    - Hãy nghiêm chỉnh. Ông chủ, cố mà nhịn cười! Chúng ta không được tỏ ra lố bịch mới được.

    Thầy tư tế Stephanos đi đầu trong tấm pháp y dơ dáy với những cái túi sâu. Trong những buổi lễ giáng phúc, mai táng, hôn nhân, rửa tội, ông ta đã ném vào trong những cái vực thẳm đó tất cả những cái gì người ta biếu: nho, bánh vòng, bánh chả phó mát, thịt viên, kẹo..., tất cả, và buổi tối, vợ ông ta, mụ Pappadia.

    Sau thầy tư tế Stephanos là các hương mục: Kondomanolio, lão chủ quán café, người tưởng mình biết cả thế giới vì lão đã đi tới tận La Canea và đã trông thấy tận mắt hoàng tử George; bác Anagnosti, với cái áo chemise rộng tay trắng xóa, lão giáo viên trang nghiêm đạo mạo, với cây gậy ngắn, và cuối cùng, Mavrandoni, với dáng đi nặng nề, chậm chạp. Lão mặc một cái áo chemise đen, đi ủng đen và chít một cái khăn tay đen trên đầu. Lão nhếch mép chào chúng tôi. Cay đắng và dữ tợn, lão đứng một mình, lưng quay ra biển.

    - Nhân danh Jesus Christ Chúa chúng tôi! Zorba nghiêm trang nói.

    Hắn dẫn đầu đám rước và tất cả nói theo hắn trong sự tâm niệm thành kính.

    Những kỷ niệm cổ xưa về những nghi thức pháp thuật nổi dậy trong những lồng ngực nông dân này. Tất cả đều đổ dồn cặp mắt về phía thầy tư tế như thể họ chờ đợi lão tiếp xúc và yểm trừ những sức mạnh vô hình. Hàng ngàn năm trước những phù thủy đã giơ tay lên, vẩy nước thánh vào không khí, lẩm bẩm những câu chú bí hiểm và toàn năng và những tà ma chạy trốn trong khi những phúc thần từ nước, đất, không gian hiện ra phò trợ con người.



    (*) sẽ đeo mục kỉnh lên và vừa lôi các thứ ra vừa gặm nhắm dần.

    (*) Tước vị dành cho một thầy tư tế Hy Lạp (Pappas). - N.H.H.



    Kỳ 92



    Chúng tôi đi tới cái hố đào gần biển để trồng trụ cột thứ nhất. Thợ thuyền nâng một thân cây thông lớn và trồng nó thẳng trong hố. Thầy tư tế Stephanos mặc áo choàng lễ, cầm bình hương, chăm chú nhìn thân cây và bắt đầu đọc thần chú: “Cầu cho nó được trồng trên một tảng đá vững chắc để không gió và nước nào có thể làm nó lung lay... Amen!”

    - Amen! Zorba vừa rống lên vừa làm dấu.

    - Amen! Những hương mục lẩm bẩm.

    - Amen! Thợ thuyền nói sau cùng.

    - Cầu Chúa ban phước lành cho công việc của các con và cho các con của cải của Abraham và Isaac! Thầy tư tế Stephanos chúc, và Zorba dúi vào tay lão một tờ giấy bạc.

    - Ta ban phước lành cho ngươi! Thầy tư tế mãn nguyện nói.

    Chúng tôi trở lại lều. Zorba tiếp họ rượu vang và những món ăn tuần chay - mực ma rang, bạch tuộc rán, dầu ngâm ô-liu. Sau khi đã ăn uống no say, những quan viên chậm rãi đi dọc theo bờ biển trở về. Nghi lễ pháp thuật đã chấm dứt.

    - Chúng ta tổ chức hay đấy chứ! Zorba vừa nói vừa xoa tay vào nhau.

    Hắn cởi quần áo, khoác bộ quần áo làm việc lên và vớ lấy một cuốc chim. Hắn quát bọn thợ:

    - Nào, các bạn! Làm dấu đi rồi làm việc!

    Suốt ngày, Zorba không ngẩng đầu lên. Hắn say sưa với công việc. Cứ năm mươi thước, bọn thợ lại đào một cái hố và chôn một cây cột, làm thành một đường thẳng hướng về phía đỉnh núi, Zorba trắc lượng, tính toán và ra lệnh. Cả ngày hắn không ăn, không hút, không nghĩ. Hắn hoàn toàn miệt mài trong công việc. Hắn thường nói với tôi:

    - Chính bởi người ta làm việc nửa vời, diễn tả tư tưởng nửa vời, tội lỗi hay thánh thiện nửa vời mà thế giới mới ở trong tình trạng hỗn loạn như ngày nay. Hãy đi đến cùng, đập dữ dội vào, đừng sợ hãi và bạn sẽ chiến thắng. Thượng Ðế ghét tên bạn - quỉ sứ hơn tên thượng đẳng - quỉ sứ gấp một triệu lần!

    Buổi tối sau khi làm việc trở về, hắn nằm dài trên cát, mệt lả. Hắn nói:

    - Tôi sẽ nằm ngủ tại đây trong khi chờ đợi rạng đông và chúng tôi sẽ làm việc trở lại. Tôi sắp cắt toán làm việc đêm.

    - Tại sao phải hấp tấp vậy, Zorba?

    Hắn lưỡng lự một lát.

    - Tại sao ư? À, tôi muốn biết độ dốc tôi tìm có đúng không. Nếu không đúng, chúng ta lúa đấy, ông chủ. Càng biết sớm chừng nào càng hay cho chúng ta chừng ấy, ông thấy không?

    Hắn ăn uống vội vàng, hau háu, rồi, lát sau bãi biển vang lên tiếng ngáy như sấm động của hắn. Còn tôi, tôi thức khá lâu, theo dõi cuộc du hành của những vì sao qua bầu trời. Tôi thấy cả bầu trời từ từ thay đổi vị trí cùng với tất cả những chùm tinh tú của nó - và sọ tôi, tựa đỉnh đài quan sát, cũng di động theo, đồng thời với những chùm sao. “Hãy chiêm ngắm đường đi của tinh tú như thể bạn cũng cùng quay theo chúng...” Câu trên của Marcus Aurelius khiến tâm hồn tôi ngập tràn hòa điệu.



    21



    Hôm nay là ngày lễ Phục Sinh, Zorba chải chuốt bảnh bao. Hắn đi đôi vớ len dầy mầu hoa cà mà theo lời hắn, là của một trong những mụ tình nhân ở Macedonia đan cho. Hắn lo lắng đi đi lại lại trên một đụn cát gần bãi của chúng tôi. Ðưa tay lên trên hàng lông mày rậm, hắn ngong ngóng trông về phía làng xa.

    - Mụ đến chậm quá, con hải cẩu già; mụ đến chậm quá, con đàn bà lẳng lơ; mụ đến chậm quá, lá cờ cũ tả tơi...!

    Một con bướm non bay phấp phới và muốn đậu lên ria Zorba; nhưng hắn nhột, khịt khịt mũi và con bướm bình thản bay đi, mất hút trong ánh mặt trời.

    Hôm nay, chúng tôi chờ đợi mụ Hortense đến để mừng lễ Phục Sinh với mụ. Chúng tôi đã cho quay một con cừu, trải một tấm vải trắng trên bãi cát, nhuộm vài trái trứng. Nửa đùa cợt, nửa trang nghiêm, chúng tôi dành cho mụ một cuộc tiếp đãi trọng vọng. Trên bãi biển cô liêu này, mụ ngư nữ mập lùn, phấn son ngào ngạt, hơi vữa ra này gieo trên chúng tôi một vẻ lôi cuốn kỳ lạ. Khi mụ vắng mặt, chúng tôi cảm thấy hình như thiếu một cái gì - một mùi eau de Cologne, một chấm đỏ, một dáng đi nhún nhẩy, đong đưa như dáng một con vịt bầu, một giọng nói khàn khàn và hai con mắt xanh mờ đục.

    Chúng tôi chặt hai cành đào kim-nhưỡng và nguyệt quế và dựng lên một khải hoàn môn mà mụ phải đi qua. Trên khải hoàn môn, chúng tôi cắm bốn lá cờ ố Anh, Pháp, Ý, Nga - và ở giữa, trên cao, một tấm vải trắng sọc xanh. Chúng tôi không có súng thần công vì không phải là thủy sư đô đốc, nhưng chúng tôi đã mượn hai cây súng trường và định ngồi trên đụn cát chờ khi nào con hải cẩu già của chúng tôi vừa núng na núng nính xuất hiện trên đường là chúng tôi nhất tề bắn một loạt. Chúng tôi muốn làm hồi sinh trên bãi biển cô liêu này một cái gì của dĩ vãng vàng son của mụ, để mụ đáng thương đó sống giây lát trong ảo tưởng và tưởng mình lại trở thành một thiếu phụ trẻ trung môi hồng với bộ ngực rắn chắc, giầy ban bóng lộn và tất lụa là. Sự Phục Sinh của Chúa có giá trị gì nếu nó không phải là dấu hiệu hồi sinh của tuổi trẻ và niềm hân hoan trong chính chúng ta? Nếu nó không thể khiến cho một mụ đàn bà hoa nguyệt tìm thấy lại tuổi đôi mươi!
    Kỳ 93



    - Mụ đến chậm quá, con hải cẩu già; mụ đến chậm quá, con đàn bà lẳng lơ; mụ đến chậm quá, lá cờ cũ rách tả tơi... Zorba vừa cằn nhằn luôn miệng vừa kéo đôi tất mầu hoa cà lúc nào cũng chỉ chực tuột xuống lên.

    - Lại đây ngồi Zorba! Lại đây hút một điếu thuốc dưới bóng cây này. Mụ đến ngay bây giờ đấy mà!

    Hắn sốt ruột đưa mắt nhìn lần cuối về phía đường làng và đến ngồi dưới gốc minh-quyết. Gần đến trưa trời nóng gắt. Xa xa, chúng tôi nghe thấy tiếng reo vui, linh động của những hồi chuông Phục Sinh. Thỉnh thoảng gió lại đưa âm thanh của đoàn thất huyền Crete. Cả làng nao nức ồn ào như một bọn ong lúc xuân về.

    Zorba lắc đầu.

    - Thế là hết. Tôi thường cảm thấy tâm hồn tôi phục sinh vào mỗi ngày lễ phục sinh, đồng thời với đấng Chirst, nhưng tất cả đã hết rồi! Bây giờ chỉ có xác thịt của tôi phục sinh. Dĩ nhiên, luôn luôn có kẻ bao ta một chầu nhậu, rồi một kẻ khác; và họ bảo: “Hãy ăn chút xíu này, và ăn thêm miếng nữa lấy thảo”, lúc đó tôi sẽ nhồi nhét tôi bằng một thứ thực phẩm béo bổ, ngon lành hơn, và không hoàn toàn trở thành cặn bã. Có một cái gì còn lại, có một cái gì được cứu chuộc và trở thành khí sắc vui vẻ, những vũ khúc, những bài hát, những cuộc cãi lộn nữa, và chính cái đó tôi gọi là sự phục sinh.

    Hắn cau mày đứng dậy nhìn về phía chân trời cau mày:

    - Có một đứa trẻ đang chạy về phía chúng ta, hắn nói và chạy đến đón đứa trẻ đó.

    Ðứa trẻ kiễng chân lên và nói thầm với Zorba. Hắn nhảy lên, tức tối la:

    - Ốm? Ốm à? Cút ngay đi nếu không tao đập chết bây giờ.

    Ðoạn hắn quay lại phía tôi:

    - Ông chủ, tôi phải chạy tới làng để xem con mụ hải cẩu làm sao... vài phút thôi... cho tôi xin hai quả trứng đỏ để tôi đập với mụ. Tôi sẽ trở về ngay!

    Hắn bỏ hai trái trứng vào túi, kéo đôi tất màu hoa cà lên để chạy biến.

    Tôi bước xuống đụn cát và nằm trên đá sỏi mát lạnh. Một cơn gió hiu hiu nổi lên, biển gợn sóng, hai con hải âu đậu trên những đợt sóng nhỏ và bắt đầu đong đưa, cổ xù lông, sung sướng theo nhịp sóng biển.

    Tôi có thể tưởng tượng nỗi hân hoan và sự mát lạnh của nước dưới bụng chúng. Nhìn những con hải âu, tôi thầm nghĩ: “Tìm cho ra cái nhịp điệu tuyệt đối, và buông thả theo một cách hoàn toàn tin tưởng đó là con đường nên theo”.

    Khoảng một giờ sau Zorba trở về vuốt ria mép với một vẻ hài lòng:

    - Mụ bị cảm lạnh, thật tội nghiệp. Không sao hết. Mấy ngày gần đây, trong suốt Tuần Thánh, đêm nào mụ cũng đi lễ nửa đêm, dầu mụ là dân Tây Âu. Mụ đi lễ vì tôi, mụ nói vậy. Và mụ đã bị cảm lạnh. Bởi thế, tôi đã giác cho mụ, lấy dầu của cây đèn dầu thoa cho mụ, tôi cho mụ uống một ly rhum. Ngày mai mụ sẽ khỏe mạnh như thường. Hê, con mụ vô tích sự, mụ có những ngộ nghĩnh của mụ: Ông phải nghe mụ kêu gù gù như bồ câu mái trong khi tôi xoa bóp cho mụ - mụ nói mụ bị nhột quá!

    Chúng tôi ngồi xuống ăn và Zorba rót rượu ra ly.

    - Chúc mụ mạnh khỏe! Cầu ma quỉ bắt mụ đi càng muộn chừng nào càng hay chừng đó! Hắn dịu dàng nói.

    Chúng tôi ăn uống lặng lẽ trong giây lát. Gió đã mang đến cho chúng tôi, tựa như tiếng vo ve của con ong, những âm thanh xa xôi và say đắm của cây thất huyền cầm. Chúa lại hồi sinh trên những mảnh sân cao trong làng. Con cừu và bánh phục sinh biến thành những bản tình ca.

    Khi Zorba đã ăn uống no say, hắn nghiêng cặp tai voi lông lá ra nghe:

    - Thất huyền cầm... hắn lẩm bẩm. Họ đang khiêu vũ trong làng.

    Hắn đứng phắt dậy. Rượu đã bốc lên đầu hắn:

    - Cô độc như những con chim tu hú, chúng ta làm gì ở đây bây giờ? Chúng ta hãy đi nhảy! Ông không thương con cừu chúng ta vừa ăn sao? Ông nỡ để nó trở thành hư mất như vậy sao? Chúng ta đi nào! Hãy để nó trở thành khúc hát và điệu vũ! Zorba đã phục sinh!

    - Chờ một chút, bác Zorba trời đánh, bác điên rồi sao?

    - Danh dự mà nói, tôi bất cần! Nhưng tôi thương hại con cừu, tôi thương hại những trái trứng đỏ, những bánh giáng sinh và kem phó mát! Tôi xin thề với ông nếu tôi chỉ ngốn có bánh và ô-liu, tôi sẽ nói: “Ồ! Chúng ta đi ngủ thôi, chúng ta cần gì phải đi dự hội? “Chỉ có bánh và ô-liu, có phải thế không? Thế thì chúng ta có thể hy vọng gì được ở chúng? Nhưng tôi xin nói với ông, làm phí phạm những thức ăn như thế này là một tội lỗi! Chúng ta hãy đi mừng lễ Phục Sinh, ông chủ!

    - Hôm nay tôi không hứng. Bác đi một mình đi, và nhảy hộ tôi với!


    Kỳ 94



    Zorba nắm lấy cánh tay tôi và dìu tôi đứng dậy:

    - Chúa đã sống lại, bạn ơi! À! Nếu tôi còn trẻ như ông! Luôn luôn lao đầu tới trước! Trong công việc, rượu, tình yêu, và không sợ cả Thượng Ðế lẫn quỉ thần. Ðó chính là tuổi trẻ.

    - Con cừu đang nói đó, Zorba! Nó đã trở thành man rợ, nó đã trở thành con chó sói!

    - Bạn ơi, con cừu đã trở thành Zorba, chính Zorba nói, tôi xin cam đoan như vậy! Nghe tôi đây, sau này ông có thể nguyền rủa tôi cũng được. Tôi là một Sinh Bá nhà Hàng Hải. Tôi không có ý nói đã phiêu bạt khắp thế giới, không, không phải thế! Nhưng tôi đã trộm cắp giết người, nói dối, ngủ với vô thiên ủng đàn bà và đã phạm tất cả mọi điều răn. Có bao nhiêu tất cả? Mười à? A! Tôi muốn có hai mươi, năm mươi, một trăm để tôi vi phạm luôn thể. Tuy nhiên nếu có một Thượng Ðế tôi sẽ không sợ khi phải trình diện trước mặt ngài. Tôi không biết phải giải thích thế nào để ông có thể hiểu. Tôi cho rằng tất cả những điều đó không có một chút quan trọng nào cả. Thượng Ðế mà thèm để ý tới những con sâu đất và cân nhắc tất cả những việc chúng làm ư? Và giận dữ, lôi đình, và lo buồn bởi vì người ta lầm lạc và trèo lên con sâu cái hàng xóm hoặc nuốt một miếng thịt vào ngày Thứ Sáu thiêng liêng ư? Xì! Ði đi, mấy ông cha cố chuyên húp súp sùm sụp!

    - Ðược rồi, Zorba, tôi nói để chọc tức hắn, được rồi, Thượng Ðế sẽ không hỏi bác ăn gì, nhưng chắc chắn ngài sẽ hỏi bác đã làm gì!

    - Tôi, tôi xin nói với ông, ngài cũng không thèm hỏi vậy nữa. Tại sao mi biết vậy, tên Zorba dốt đặc cán mai kia? Ông sẽ hỏi như vậy. Tôi biết chứ! Chắc chắn như vậy, bởi vì, nếu tôi có hai đứa con trai, một đứa khôn ngoan, ngăn nắp, tằn tiện, hiếu thảo, còn đứa kia du-đãng, tham ăn, sống ngoài vòng pháp luật và chuyên môn chạy theo đàn bà, tôi cũng chấp nhận cả hai đứa, dĩ nhiên. Nhưng tôi không biết tại sao tôi thích đứa thứ hai hơn. Có lẽ vì nó giống tôi chăng? Nhưng ai có thể nói được rằng tôi giống Thượng Ðế hơn lão tư tế Stephanos suốt ngày đêm luồn cúi và ki cóp tiền?

    “Thượng Ðế cũng thích hưởng lạc, giết tróc, phạm những điều bất công, làm ái tình, thích những cái bất khả, y hệt tôi. Ngài ăn cái gì ngài thích, chiếm đoạt người đàn bà nào ngài muốn. Nếu ông trông thấy một người đàn bà duyên dáng đi qua, tươi như hoa, trái tim ông đập thình thịch. Ðột nhiên, mặt đất nở ra và nàng biến mất. Nàng đi đâu? Ai cướp nàng? Nếu nàng là một người hiền thục người ta sẽ nói: Thượng Ðế đã bắt nàng. Nếu nàng là một người tai quái, người ta sẽ nói: Ma quỉ đã bắt mụ đi. Nhưng tôi, ông chủ, tôi đã nói với ông và tôi xin nhắc lại: Thượng Ðế và ma quỷ chỉ là một!”

    Tôi nín thinh, bặm môi như thể muốn ngăn chặn cho những chữ khỏi thoát ra. Những chữ và một tiếng thét lớn. Và tiếng kêu đó muốn diễn tả điều gì? Nguyền rủa, hân hoan, tuyệt vọng hay giải thoát? Tôi không biết.

    Zorba cầm cây gậy, trật mũ hơi lệch sang một bên, nhanh nhẹn nhìn tôi thương hại và cặp môi hắn rung động giây lát hình như hắn muốn nói thêm một điều gì. Nhưng hắn không nói gì cả và vội vã bước đi đầu ngẩng cao, hướng về phía làng.

    Trong ánh nắng buổi xế chiều, tôi trông cái bóng to lớn của hắn vung vẩy cây gậy trên đá cuội. Toàn thể bãi biển trở nên sống động khi Zorba đi qua. Tôi lắng tai nghe một hồi lâu, bước chân hắn xa dần rồi mất hẳn. Thình lình, tôi vùng dậy khi chợt thấy mình cô đơn? Tại sao? Ðể đi đâu? Tôi không biết. Tâm trí tôi không quyết định. Chính thân thể tôi nhẩy lên. Chính nó, một mình nó quyết định, không hỏi ý kiến tôi.

    - Tiến lên! Nó ra lệnh.

    Tôi đi về phía làng một cách quả quyết và vội vã. Thỉnh thoảng tôi dừng lại và hít thở hương xuân. Ðất có mùi hoa cúc, và càng tiến về gần những mảnh vườn tôi càng chìm ngập vào những luồng hương thơm của hoa chanh, hoa cam và nguyệt quế. Ở phương Tây, ngôi sao hôm bắt đầu nhẩy nhót một cách hân hoan trong bầu trời tím.

    “Biển, đàn bà, rượu, làm việc say mê!” tôi miễn cưỡng lẩm bẩm những lời nói của Zorba trong khi bước đi, “Biển, đàn, bà, rượu, tình yêu, không sợ Trời đất quỉ thần chi ráo... đó là tuổi trẻ!” Tôi nhắc đi nhắc lại như để thêm can đảm, và tôi tiếp tục tiến bước.

    Thốt nhiên, tôi đứng dừng ngay lại như thể tôi đã đến nơi mong muốn. Ở đâu? Tôi nhìn quanh: Tôi đang đứng trước nhà góa phụ. Sau hàng rậu lau say và lê gai, tôi nghe thấy một giọng đàn bà dịu dàng ngân lên nho nhỏ. Tôi lại gần, rẽ lá nhìn vào. Dưới tàn lá cam, có một người thiếu phụ mặc đồ đen, ngực nở nang. Nàng vừa cắt những cành trổ hoa vừa cất tiếng hát. Trong ánh hoàng hôn, tôi trông thấy bộ ngực nửa trần của nàng sáng lóa.
    Kỳ 95



    Hơi thở tôi tắc nghẹn. Tôi nghĩ thầm: “Ðó là một con dã thú, một con dã thú và nàng biết điều đó. Ðứng trước nàng, đàn ông là những sinh vật yếu đuối đáng thương, điên cuồng, phi lý xiết bao! Tựa như một vài côn trùng - con ngựa trời, châu chấu, nhền nhện - nàng cũng ăn tươi nuốt sống những con đực vào lúc rạng đông.”

    Góa phụ đã cảm thấy sự hiện diện của tôi? Nàng đột nhiên ngừng hát và quay lại. Cặp mắt chúng tôi giao nhau, chớp nhoáng. Ðầu gối tôi quỵ xuống, như thể tôi đã trông thấy một con cọp cái sau rậu lau.

    - Ai đó? Nàng hỏi, giọng tắc nghẹn.

    Kéo tấm khăn quàng cổ xuống che ngực, nàng sa sầm nét mặt.

    Tôi sắp sửa dời chân đi, nhưng những lời nói của Zorba chợt dâng lên ngập hồn tôi. Tôi thu hết can đảm. “Biển, đàn bà, rượu...” Tôi trả lời:

    - Tôi đây. Tôi đây. Mở cửa cho tôi.

    Những lời nói đó vừa thốt ra, một nỗi kinh hoàng choáng ngập lấy tôi. Tôi lại sắp bỏ chạy. Nhưng tôi chế ngự tôi, xấu hổ cùng mình.

    - Tôi là ai?

    Nàng rón rén bước một bước thận trọng, vươn cổ ra, nheo mắt lại để nhìn cho rõ hơn và bước thêm một bước nữa, cúi đầu phía trước, nghe ngóng.

    Thình lình khuôn mặt nàng tươi tỉnh. Nàng thè đầu lưỡi ra và liếm môi.

    - Ông chủ? Nàng hỏi bằng một giọng dịu dàng hơn.

    Nàng tiến lên thêm một bước, thu mình lại như sẵn sàng chồm lên.

    - Ông chủ phải không? Nàng cất tiếng khàn khàn hỏi.

    - Vâng.

    - Vào đi!

    Rạng đông. Zorba đã trở về và đang ngồi trước lều. Hắn vừa hút thuốc vừa ngó mông ra biển, như hắn đang chờ đợi tôi.

    Vừa thấy tôi, hắn ngẩng đầu lên và nhìn tôi chăm chú. Hai cánh mũi hắn hấp hiu như mũi con chó săn. Hắn vươn cổ ra, hít mạnh vào... hắn đánh hơi tôi. Trong giây lát khuôn mặt hắn rạng ngời như thể hắn đã ngửi thấy hương thơm của góa phụ trên thân thể tôi.

    Hắn chậm rãi đứng lên, cười bằng tất cả con người hắn và chìa tay ra.

    - Xin ban phước lành cho ông! Hắn nói.

    Tôi lên giường nhắm mắt ngủ. Tôi nghe thấy biển thở dài trầm lặng, theo một tiết điệu êm du, và tôi cảm thấy mình bồng bềnh trên sóng tựa một cánh hải âu. Cứ như thế, được ru một cách êm ái, tôi chìm vào trong giấc ngủ và mộng: Tôi trông thấy một thiếu nữ da đen khổng lồ ngồi xổm trên mặt đất và tôi có cảm tưởng dường như đó là một ngôi đền cổ vĩ đại bằng đá hoa cương. Tôi đi quanh nàng để tìm lối vào một cách tuyệt vọng. Tôi chỉ lớn bằng ngón chân út của nàng. Ðột nhiên, khi tôi đi vòng qua gót chân, tôi trông thấy một cánh cửa đen, giống như một cái động. Một giọng nói lớn vang lên ra lệnh: “Ði vào!”

    Và tôi đi vào.

    Vào quãng trưa tôi thức dậy. Mặt trời tràn vào qua khuôn cửa sổ, nhuộm trắng tấm khăn trải giường, chiếu lên tấm gương nhỏ treo trên tường mãnh liệt đến nỗi dường như nó sắp làm tấm gương vỡ thành muôn ngàn mảnh.

    Giấc mơ thấy thiếu nữ da đen khổng lồ trở lại tâm trí tôi, biển thì thầm, tôi lại nhắm mắt, và tôi cảm thấy sung sướng. Thân thể tôi lâng lâng và thỏa mãn, tựa một con thú nằm dài dưới ánh mặt trời, liếm mép sau khi đã ăn tươi nuốt sống con mồi. Tâm hồn tôi, cũng tựa như một thân thể, nghỉ ngơi, mãn nguyện. Hình như nó đã tìm thấy một lời giải đáp đơn giản một cách kỳ diệu cho những vấn đề sinh tử, phức tạp đã dầy vò nó.

    Tất cả niềm hân hoan đêm qua một lần nữa lại òa vỡ trong cùng thẳm con người tôi, lan ra thành những dòng nước mắt và chan chứa tưới lên mảnh đất mà tôi đã được tạo thành. Khi tôi nằm như thế, mắt nhắm lại, dường như tôi nghe thấy con người tôi rạn vỡ và tăng trưởng. Ðêm đó, lần đầu tiên, tôi cảm thấy rõ ràng rằng tâm hồn cũng là xác thịt, nhẹ nhàng hơn, trong suốt hơn, và có lẽ tự do hơn, nhưng cũng là xác thịt. Và xác thịt cũng là tâm hồn, hơi trầm trệ hơn, kiệt lực hơn bởi đường dài, và trĩu xuống vì gánh nặng di sản ngàn đời.

    Tôi cảm thấy một bóng đen rơi trên mình tôi. Tôi mở mắt ra: Zorba đang đứng trên ngưỡng cửa và nhìn tôi một cách hài lòng.

    - Cứ ngủ đi, cứ ngủ đi, bạn... hắn nói một cách dịu dàng với vẻ ân cần của một bà mẹ. Hôm nay vẫn còn là ngày lễ, cứ ngủ đi!

    - Tôi ngủ đã đủ rồi, tôi vừa nói vừa ngồi dậy.

    - Ðể tôi quậy cho ông một trái trứng, Zorba mỉm cười nói. Bổ lắm!

    Tôi không trả lời, chạy ra bãi, leo xuống biển và phơi mình dưới ánh mặt trời. Nhưng tôi hãy còn cảm thấy một hương thơm dìu dịu và bền lâu trong mũi, trên môi, và ở đầu những ngón tay. Hương thơm hoa cam hay dầu nguyệt quế, mà những người Crete thường hay xức lên tóc.

    Ðêm qua nàng đã cắt một ôm hoa cam để tối nay mang dâng lên Chúa, lúc dân làng đang khiêu vũ dưới những cây bạch dương ở công trường và khi nhà thờ vắng vẻ. Bức bình phong in hình thánh tượng ở phía trên giường nàng đầy hoa chanh và qua những cánh hoa, thấp thoáng khuôn mặt ảo não của Ðức Mẹ Ðồng Trinh, với cặp mắt hồ đào mở rộng.



    Kỳ 96



    Zorba xuống cho tôi một tách trứng, hai trái cam lớn và một cái bánh ngọt Phục Sinh nhỏ. Hắn lặng lẽ và sung sướng hầu tôi, như một bà mẹ săn sóc con trai chinh chiến trở về. Hắn nhìn tôi một cách âu yếm và bỏ đi:

    - Ðể tôi đi dựng mấy cột trụ.

    Tôi bình thản nhai nuốt đồ ăn trong ánh sáng mặt trời và cảm thấy một nguồn hạnh phúc xác thịt sâu xa như thể tôi đang lướt trên mặt biển mát lạnh và xanh ngắt. Tôi không để cho tâm trí tôi lủng loạn niềm hân hoan xác thịt này và nhét vào khuôn của nó, biến nó thành tư tưởng. Tôi để toàn thể thân thể tôi hoan lạc từ đầu tới chân, tựa một con thú. Tuy nhiên, thỉnh thoảng trong cơn xuất thần, tôi nhìn quanh tôi, trong tôi, cái phép lạ của cuộc đời nào. Tôi tự nhủ: “Cái gì đang xẩy ra? Làm sao thế giới có thể thích nghi với chân tay và bụng chúng ta một cách hoàn hảo đến thế.” Một lần nữa, tôi lại nhắm mắt và lặng thinh. Ðột nhiên, tôi đứng dậy, đi vào lều, cầm lấy tập bản thảo “Ðức Phật” và mở ra. Tôi đã hoàn tất nó. Cuối cùng, Ðức Phật nằm dưới gốc cây đang trổ hoa. Ngài giơ tay lên và ra lệnh cho ngũ đại đã làm nên ngài - địa, thủy, hỏa, phong, không, tan biến.

    Tôi không cần khuôn mặt này của nổi dày vò của tôi nữa, tôi đã vượt qua nó, tôi đã hoàn thành công việc của tôi đối với Ðức Phật - tôi cũng giơ tay lên và ra lệnh cho Ðức Phật tiêu hủy trong tôi.

    Vội vã, với sự giúp đỡ của những chữ và sức mạnh phù thủy của chúng, tôi liền tiêu hủy thân ngài, tâm ngài và tinh thần ngài. Tôi viết nguệch ngoạc những dòng chữ cuối cùng trên tờ giấy một cách không thương tiếc, thốt lên tiếng kêu cuối cùng và viết tên tôi bằng nét bút chì đỏ. Thế là xong.

    Tôi lấy một sợi dây lớn buộc chặt tập bản thảo lại. Tôi cảm thấy một niềm hân hoan kỳ lạ, như thể tôi đang trói chặt chân tay một kẻ thù đáng sợ, hay như những kẻ mọi rợ khi họ buộc chặt thân thể những kẻ thương yêu để họ khỏi bò ra khỏi mồ và biến thành ma quỷ.

    Một cô bé con, chân đất chạy đến tôi. Nó mặc một chiếc váy vàng và nắm chặt trong tay một trái trứng đỏ. Nó dừng lại nhìn tôi, sợ hãi.

    - Sao! Tôi vừa hỏi nó vừa mỉm cười khuyến khích, em muốn gì nào?

    Nó thở hổn hển và trả lời bằng một giọng đứt hơi.

    - Bà sai tôi đi mời ông tới. Bà nằm liệt giường. Có phải ông là Zorba không?

    - Ðược rồi. Tôi sẽ tới.

    Tôi dúi một trái trứng đỏ vào bàn tay nhỏ bé kia của nó; nó nắm tay lại và chạy biến.

    Tôi đứng dậy và đi theo con đường làng. Tiếng ồn ào trong lòng ngày càng lớn lên: những âm thanh dịu dàng của đàn thất huyền, những tiếng la hét, súng nổ, những bài hát vui nhộn. Khi tôi tới công trường, các thanh niên và thiếu nữ đã hợp nhau dưới những tàn lá mới của những cây bạch dương và đang sửa soạn khiêu vũ. Những bô lão ngồi trên những chiếc ghế dài xung quanh, cằm chống lên gậy, ngắm nhìn. Những bà cụ già đứng đằng sau lưng. Fanurio, tay chơi đàn thất huyền thiện nghệ, một bông hồng tháng tư dắt sau tai, đi đi lại lại giữa những người đang khiêu vũ, bàn tay phải kéo cung đàn có gắn những cái lục lạc ồn ào.

    - Chúa đã sống lại thật! Tôi nói to khi đi qua.

    - Chúa đã sống lại thật! Tất cả đồng thanh vui vẻ trả lời.

    Tôi đưa mắt nhìn quanh một vòng thật nhanh. Những thanh niên cường tráng, thon, mặc quần cụt phồng và tấm khăn choàng đầu mà những tua rủ xuống trán và thái dương tựa những búp tóc quăn. Những thiếu nữ, với những đồng tiền vàng quanh cổ, khăn quàng cổ trắng thêu, mắt nhìn xuống run lên vì chờ đợi.

    - Ông không thèm ở lại đây với chúng tôi à, một vài người cất tiếng hỏi. Nhưng tôi đã đi qua.

    Mụ Hortense nằm trong chiếc giường rộng của mụ đồ đạc duy nhất trung thành của mụ. Gò má mụ đỏ ửng lên vì cơn sốt và mụ ho. Khi nhìn thấy tôi, mụ thở dài một cách não ruột:

    - Còn Zorba đâu? Zorba đâu?

    - Hắn không được khỏe. Từ hôm mà bà bị đau, hắn cũng ốm luôn. Hắn cầm ảnh bà trước mặt và thở dài mỗi khi nhìn.

    - Nói nữa đi, nói nữa đi... mụ ngư nữ già vừa nói vừa khép mắt lại một cách sung sướng.

    - Hắn nhờ tôi đến hỏi xem bà có cần gì không. Tối nay thế nào hắn cũng tới, hắn nói vậy, mặc dầu hắn chưa được khỏe. Hắn không thể chịu xa cách bà lâu hơn nữa.

    - Nói nữa đi, làm ơn nói nữa đi...

    - Hắn đã nhận được một bức điện tín từ Nhã Ðiển gửi về. Áo cưới đã may xong, và những vòng hoa cũng vậy. Người ta gửi tầu và chẳng bao lâu sẽ tới đây..., những cây nến trắng và những giải bông hồng.

    - Nói tiếp đi, nói tiếp đi...

    Giấc ngủ chụp lấy mụ, hơi thở của mụ thay đổi; mụ bắt đầu mê sảng. Căn phòng có mùi eau-de-cologne, nước đái quỉ và mồ hôi. Qua khung cửa sổ mở rộng mùi nồng của phân gà và thỏ ngoài sân lọt vào. Tôi đứng dậy và lặng lẽ ra khỏi phòng. Tới cửa tôi đụng phải Mimitho. Hôm đó gã mang giầy và quần cụt mới tinh. Gã giắt sau tai một cọng hoắc hương. Tôi bảo gã:

    - Mimitho, chạy tới làng Kalo và mời ông thầy thuốc lại đây!


    Kỳ 97



    Mimitho đã rút ủng ra trước khi tôi nói hết câu - gã không muốn làm hư nó trên đường đi, và gã kẹp nó dưới nách.

    - Tới kiếm ông thầy thuốc, hỏi thăm ông ta và bảo ông ta trèo lên lưng con ngựa cái của ông ta và đến đây ngay. Nói với ông ta rằng bà bị ốm nặng. Mụ đáng thương đó bị cảm lạnh, mụ lên cơn sốt và đang hấp hối. Nói với ông ta vậy, đừng quên nhé. Thôi, bây giờ đi đi!

    - Hốp! Hốp! Ði gấp!

    Gã nhổ vào tay, sung sướng xoa vào nhau, nhưng không nhúc nhích. Gã vui vẻ nhìn tôi.

    - Ði đi, tôi đã bảo mà!

    Gã vẫn không nhúc nhích. Gã nháy tôi và cười một cách quỉ quái. Gã nói:

    - Ông chủ, tôi đã mang tới chỗ ông một chai nước hoa cam làm quà tặng.

    Gã ngừng lại một lát. Gã chờ tôi hỏi ai đã gửi cho tôi, nhưng tôi nín thinh. Gã quang quác nói:

    - Ông không muốn biết ai đã gửi cho ông à, ông chủ? Ðể ông xức tóc, bà ấy nói vậy, để cho nó thơm!

    - Ði nhanh lên! Ðừng bép xép!

    Gã cười, nhổ vào tay lần nữa:

    - Hốp! Hốp! Ði gấp! Chúa đã sống lại.

    Và gã biến mất.



    22



    Dưới những cây bạch dương, cuộc khiêu vũ Phục Sinh đã hào hứng đến tột độ, một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai ngăm ngăm đen, tạc độ hai mươi, hai má phủ một lớp lông tơ chưa bao giờ biết tới con dao cạo, hướng dẫn cuộc khiêu vũ. Trong cổ áo chemise mở rộng, ngực gã lấm chấm những đốm đen, đầy lông quăn. Ðầu gã ngã về phía sau, chân gã đập trên mặt đất như một cặp cánh: thỉnh thoảng gã lại liếc một thiếu nữ nào đó, và lòng trắng mắt gã lóe lên, bất động, lo âu trên khuôn mặt sạm đen.

    Tôi say sưa và đồng thời sợ hãi. Tôi vừa từ nhà mụ Hortense trở về. Tôi đã gọi một người đàn bà đến trông nom mụ và an tâm đến xem cuộc khiêu vũ Crete. Tôi lại gần bác Anagnosti và ngồi cạnh lão trong ghế dài. Tôi ghé vào tai lão hỏi:

    - Gã thanh niên dẫn đầu cuộc khiêu vũ kia là ai vậy?

    Bác Anagnosti cười. Lão thán phục nói:

    - Gã tựa thượng đẳng thiên sứ chở linh hồn chúng ta đi, tên du đãng. Ðó là Sifakas, gã chăn chiên. Suốt năm, gã trông nom súc vật trên núi và chỉ xuống núi nhìn người ta khiêu vũ vào dịp lễ Phục Sinh.

    Ðoạn lão thở dài lẩm bẩm:

    - Ôi, nếu còn trai tráng! Nếu tôi còn trẻ như gã, xin thề danh dự với ông, tôi sẽ tấn công Constatinople như vũ bão.

    Gã thanh niên lúc lắc đầu và thốt lên một tiếng kêu be be, phi nhân, giống hệt như một con cừu động cỡn. Gã hét:

    - Chơi đi! Chơi đi, Fanurio! Chơi cho đến khi nào Thần Chết chết luôn!

    Thần Chết chết trong từng giây phút và hồi sinh trong từng giây phút, như đời sống. Tự ngàn năm trước, thanh niên và thanh nữ đã khiêu vũ dưới tàn lá dịu dàng của cây đương độ xuân - bạch dương, tùng bách, sồi, tiêu huyền, thốt nốt mảnh mai - và họ còn tiếp tục khiêu vũ hàng ngàn năm nữa, khuôn mặt bị tàn phá bởi khát vọng. Những khuôn mặt đổi thay, lụn tàn trở về cát bụi; nhưng những khuôn mặt khác vươn lên, thay thế. Chỉ có một vũ công duy nhất, nhưng có vô vàn mặt nạ, bất tử và luôn luôn ở tuổi đôi mươi.

    Gã thanh niên đưa tay lên vuốt ria, nhưng gã không có một sợi nào. Gã lại la lớn:

    - Chơi đi! Chơi đi, bạn Fanuria, nếu không tôi nổ tung bây giờ.

    Gã chơi thất huyền vung tay, cây thất huyền vang lên, những cái chuông ngân theo nhịp và gã thanh niên nhẩy lên, đập chân vào nhau ba lần trên không, cao bằng đầu người, đầu mũi ủng đụng vào đầu người bên cạnh, gã tuần phu Manolakas.

    - Hoan hô, Sifakas! Mọi người la lên và những thiếu nữ run rẩy và cúi mặt xuống.

    Nhưng gã thanh niên, lặng lẽ, không nhìn ai hết.

    Man rợ và kỷ luật, gã tì mu bàn tay trái lên háng thon và nhẩy nhót, mặt bẽn lẽn cúi gằm xuống đất.

    Ðột nhiên, cuộc khiêu vũ ngừng lại khi lão phù thủy Androulio vừa chạy vào công trường, tay giơ lên trời.

    - Mụ góa! Mụ góa! Mụ góa! Lão hổn hển la.

    Gã tuần phu Manolakas là người đầu tiên bỏ cuộc khiêu vũ, lao tới. Từ công trường người ta có thể nhìn nhà thờ hãy còn trang hoàng bằng cành đào kim nhưỡng và nguyệt quế. Những vũ công ngừng lại, máu bốc lên đầu, những lão già, từ băng đứng nhỏm dậy. Farunio đặt cây thất huyền vào lòng, lấy bông hồng Tháng Tư xuống và ngửi.

    - Ðâu, cố Androulio? Họ tức tối gầm lên. Mụ đâu?

    - Trong nhà thờ, con khốn kiếp vừa mới bước vào; mụ ôm một ôm hoa chanh.

    - Tới đó đi anh em ơi! Gã tuần phu vừa la vừa xông lên đầu tiên.

    Ngay lúc đó, góa phụ xuất hiện trước ngưỡng cửa nhà thờ, đầu chít khăn choàng đen. Nàng làm dấu.
    ỳ 98



    Những tiếng nói vang lên trên công trường.

    - Khốn kiếp! Thối thây! Sát nhân! Nó cả gan dám chường mặt ra đây! Nó đã làm nhục cả làng!

    Một số gã tuần phu chạy tới nhà thờ, những kẻ khác, đứng trên cao, bắt đầu lấy đá ném nàng. Một hòn đá trúng vai nàng. Nàng thét lên, lấy tay che mặt và lao về phía trước, cúi xuống để chạy trốn. Nhưng những thanh niên đã đi tới cửa nhà thờ và Manolakas đã rút dao găm ra.

    Góa phụ lùi lại vừa thốt lên những tiếng kêu sợ hãi, gập mình xuống để che chở mặt và lảo đảo chạy vào nhà thờ. Nhưng lão Mavrandoni đã đứng án ngữ trên ngưỡng cửa, tay dang ra, chặn mất lối vào.

    Góa phụ nhẩy sang bên trái và ôm lấy thân cây trắc bá lớn trong sân. Một hòn đá rít lên trong không khí, trúng đầu nàng và làm rớt cái khăn choàng đầu. Tóc nàng rũ rượi và xõa xuống vai.

    - Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Nàng vừa hét, vừa ôm chặt lấy cây trắc bá.

    Ðứng nối đuôi nhau trên công trường, những thiếu nữ gặm khăn hau háu nhìn cảnh tượng đang xảy ra trước mắt. Những mụ già, dựa lưng vào tường, la the thé:

    - Giết nó đi! Giết nó đi!

    Hai thanh niên nhẩy xổ vào túm lấy nàng, áo khoác ngoài của nàng toạc ra, vú nàng sáng lóa, trắng muốt như tuyết. Máu từ đỉnh đầu chẩy xuống trán, má và cổ.

    - Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Nàng hổn hển.

    Máu chẩy, ngực sáng lóa đã kích thích các thanh niên. Những con dao được rút ra khỏi thắt lưng.

    Manolakas hét:

    - Dừng lại! Nó là của tao!

    Mavrandoni, vẫn còn đứng trên ngưỡng cửa nhà thờ, giơ tay lên. Tất cả dừng lại. Lão trang nghiêm nói:

    - Manolakas, máu của em họ ngươi kêu gào. Cho nó được an nghỉ!

    Tôi nhẩy xuống khỏi bờ tường lao mình về phía nhà thờ; chân tôi vấp phải hòn đá và tôi ngã xuống đất.

    Ngay lúc đó, Sifakas đi qua. Gã cúi xuống, nắm lấy cổ tôi xách lên như người ta xách một con mèo và đặt tôi đứng lên. Gã nói:

    - Mi muốn kiếm gì ở đây, hử, đồ công tử bột? Xéo đi!

    - Anh không thương bà ta sao, Sifakas? Tôi hỏi. Hãy thương hại mụ!

    Gã dân miền núi mọi rợ phá lên cười:

    - Tôi có phải đàn bà đâu mà nói thương hại! Tôi là một người đàn ông!

    Và phắt một cái, gã đã ở trong sân nhà thờ.

    Tôi theo gã bén gót nhưng mệt thở không ra hơi. Bây giờ tất cả đang vây quanh góa phụ. Một sự im lặng nặng nề bao trùm. Người ta chỉ nghe thấy hơi thở tắt nghẹn của nạn nhân.

    Manolakas làm dấu, tiến lên một bước và giơ dao lên, những mụ già đứng trên tường, la eo éo một cách sung sướng. Những thiếu nữ kéo khăn quàng xuống che mặt.

    Góa phụ ngẩng lên trông thấy lưỡi dao trên đầu nàng, rống lên như một con bò cái tơ. Nàng gục xuống gốc cây trắc bá và rụt đầu vào. Tóc nàng xõa trên mặt đất, khuôn cổ trắng ngần của nàng lấp lánh sáng mờ.

    - Con xin khẩn cầu lẽ công bằng của Chúa! Lão Mavrandoni thét lên và gã cũng làm dấu.

    Nhưng ngay lúc đó, một tiếng nói lớn vang lên sau lưng chúng tôi:

    - Bỏ dao xuống, quân sát nhân!

    Tất cả đều sửng sốt quay lại. Manolakas ngẩng đầu lên; Zorba đang đứng trước mặt gã, khoa tay một cách phẫn nộ, Hắn hét:

    - Các ông không biết xấu hổ sao? Can đảm quá! Cả làng xúm lại để giết một người đàn bà! Coi chừng kẻo các ông làm ô danh toàn thể đảo Crete đó!

    - Hãy lo lấy việc của người Zorba! Ðừng xem vào việc của chúng tôi! Mavrandoni gầm lên.

    Ðoạn lão quay sang đứa cháu nói:

    - Manolakas, nhân danh Chúa và Ðức Mẹ Ðồng Trinh, đánh!

    Manolakas chồm lên. Gã túm lấy góa phụ xô nàng xuống đất, kê đầu gối trên bụng nàng và giơ cao con dao găm của gã. Nhưng trong chớp mắt Zorba đã chụp được cánh tay Manolakas và với cái khăn cuốn quanh bàn tay, hắn cố gắng tước con dao.

    Góa phụ quì gối, dáo dác nhìn quanh để tìm đường thoát thân, nhưng dân làng đã chặn hết lối đi. Họ đứng thành một vòng tròn quanh sân và trên ghế dài; khi họ thấy nàng định tìm lối thoát, họ tiến lên một bước và vòng vây thắt chặt dần.

    Trong khi Zorba lặng lẽ chiến đấu một cách khéo léo, gan dạ và bình tĩnh. Tôi đứng gần cửa nhà thờ lo lắng theo dõi trận đấu. Manolakas mặt đỏ tía tai vì cuồng nộ, Sifakas và một gã khổng lồ nữa lại gần để định giúp sức gã. Nhưng Manolakas giận dữ, trừng mắt:

    - Lui ra! Lui ra! Không ai được lại gần đây hết! Gã hét.

    Gã lại điên cuồng lao vào Zorba. Gã dùng đầu tấn công hắn như một con bò mộng.

    Zorba bặm môi không nói năng gì cả. Hắn giữ chặt cánh tay phải gã tuần phu như một cái kềm, và né sang phải sang trái để tránh những cú bổ đầu của gã tuần phu. Tức giận như điên, Manolakas nhẩy tới và ngậm lấy tai Zorba ra sức cắn xé. Máu vọt ra.

    - Zorba! Tôi kinh sợ vừa la lên vừa lao tới để cứu hắn.

    - Tránh ra ông chủ! Hắn hét! Ðừng can thiệp vào chuyện này.
    Kỳ 99



    Hắn nắm tay và giáng cho Manolaskas một cú như trời giáng vào bụng dưới. Lập tức con dã thú rời ra. Răng nó nhả ra, rời cái tai bị rách một nửa, và khuôn mặt đỏ tía của gã trở thành trắng bệch. Bằng một cú thần tốc, Zorba xô dụi gã xuống đất; tước lấy dao và bẻ gẫy làm đôi.

    Hắn lấy khăn tay thấm máu chảy ròng ròng từ tai. Ðoạn hắn lau mặt đầm đìa mồ hôi và tất cả khuôn mặt hắn lem luốc máu. Hắn đứng thẳng lên, đưa mắt liếc quanh: cặp mắt hắn mọng đỏ. Hắn hét lên với góa phụ:

    - Ðứng lên! Ði với tôi!

    Và hắn hướng về cổng nhà thờ.

    Góa phụ đứng dậy; nàng thu hết sinh lực, lấy đà phóng tới trước. Nhưng nàng không có thì giờ. Tựa một con ó, lão Mavrandoni chồm lên nàng, dúi nàng xuống, quấn mái tóc đen dài của nàng ba vòng quanh cổ tay và, bằng một nhát dao, lão cắt phăng đầu nàng.

    - Tôi chịu trách nhiệm về tội lỗi này! Lão hét to, và quăng đầu nạn nhân lên thềm nhà thờ. Ðoạn lão làm dấu.

    Zorba quay lại. Hắn điên cuồng, bứt một nắm ria mép. Tôi lại gần và nắm lấy cánh tay hắn. Hắn cúi xuống, trừng trừng nhìn tôi. Hai giọt nước mắt lớn đọng trên mi mắt hắn.

    - Ta đi thôi, ông chủ! Hắn nghẹn ngào nói.

    Tối hôm đó, Zorba không chịu ăn uống gì cả. Hắn nói: “Cổ họng tôi se lại, không có gì lọt xuống được!” Hắn rửa tai bằng nước lạnh, nhúng một nắm bông vào rượu saki và băng lại. Tay ôm lấy đầu, hắn ngồi trên nệm, trầm ngâm.

    Nằm dài trên mặt đất, tay chống cằm, tôi cảm thấy nước mắt ấm từ từ lăn xuống má. Ðầu óc tôi không vận chuyển, tôi không nghĩ ngợi gì hết. Tôi tựa một đứa trẻ đang lúc quá đau buồn, tôi khóc.

    Thình lình Zorba nổi xung ngẩng đầu lên. Hắn bắt đầu la, theo đuổi những tư tưởng yếm thế:

    - Theo tôi, ông chủ, mọi sự xẩy ra trên cõi đời này đều bất công! Bất công! Tôi, con sâu của trái đất, con ốc sên Zorba tôi không thừa nhận! Tại sao những người trẻ phải chết và những kẻ già cỗi tiếp tục sống! Tại sao những trẻ thơ chết? Tôi có một đứa con trai, tên Dimitri, tôi mất nó năm lên ba và không bao giờ tôi tha thứ cho Thượng Ðế điều đó! Ngày tôi từ trần, nếu ngài dám cả gan trình diện trước mặt tôi, và nếu quả thật ngài là một Thượng Ðế đứng đắn, ngài sẽ xấu hổ! Vâng, ngài sẽ phải xấu hổ trước mặt tôi, con ốc sên Zorba!

    Hắn nhăn mặt như thể hắn bị đau. Máu từ vết thương hắn lại chẩy ra. Hắn bặm môi để khỏi la lên. Tôi nói:

    - Chờ chút, Zorba! Tôi sẽ thay băng cho.

    Tôi lại rửa tai hắn bằng rượu saki, lấy chai nước hoa cam mà góa phụ gửi cho tôi và tôi thấy để trên giường tôi, và nhúng miếng bông gòn vào đó.

    - Nước hoa cam? Zorba vừa hỏi vừa hít lấy hít để. Nước hoa cam? Xức lên đầu tôi, vậy đó, tốt lắm! Ðổ lên tay tôi nữa, đổ hết đi, nữa!

    Hắn tỉnh táo dần. Tôi nhìn hắn, kinh ngạc. Hắn nói:

    - Tôi có cảm tưởng như đang đi vào khu vườn của bà góa.

    Và hắn bắt đầu than thở.

    - Phải mất bao nhiêu năm, bao nhiêu năm dài đằng đẵng trái đất mới có thể thành công trong công việc tạo nên một tấm thân như vậy! Người ta nhìn nàng và thầm nhủ: “Ôi, ước gì ta mới hai mươi tuổi và tất cả đàn ông biến mất và chỉ còn có một mình ta với người đàn bà này tồn tại trên trái đất và cùng nhau tạo nên những đứa trẻ, cho đông đúc lại trần gian! Không, không phải những đứa trẻ, chúng là những thần thánh đích thực!” Thế mà bây giờ...

    Hắn đứng nhỏm dậy. Hai mắt giàn giụa nước mắt.

    - Tôi không thể chịu nổi, ông chủ. Tôi phải đi dạo, tôi phải trèo xuống ngọn núi này đôi ba lần đêm nay cho mệt tôi đi, cho tôi nguôi đi một chút... Ôi, góa phụ trời đánh! Tôi cảm thấy cần phải hát tặng cho ông nghe một khúc bi ca (*)!

    Hắn lao ra ngoài, đi về hướng núi và biến mất trong bóng tối.

    Tôi nằm dài trên giường, tắt đèn và một lần nữa lại bắt đầu, theo thói quen khốn nạn và phi nhân của tôi, chuyển vị thực tại, rút máu mủ xương thịt nó và giản lược nó thành ý tưởng trừu tượng, nối kết nó với những định luật tổng quát cho đến khi tôi đi đến cái kết luận khủng khiếp cho rằng tất cả những gì xẩy ra đều thiết yếu. Hơn nữa, hữu ích cho hòa điệu đại đồng. Cuối cùng tôi đi đến cái an ủi tối hậu và ghê gớm này: đúng là tất cả những gì đã xẩy ra đều phải xẩy ra.

    Cuộc tàn sát góa phụ đi vào đầu óc tôi - tổ ong trong đó từ vài năm nay tất cả nọc độc đều đã trở thành mật ong - và đảo lộn nó. Nhưng lập tức triết lý của tôi xâm chiếm lời khuyến cáo đáng sợ này, bao bọc nó bằng hình ảnh, xảo thuật và khiến nó trở thành vô hại. Cũng thế những con ong lấy sáp bao bọc bởi những con ong đất đói khát đến ăn trộm mật.



    (*) Mirologue: Bài ai ca, vãn ca khóc điếu người thân thích theo cổ tục Hy Lạp, ngày nay, người ta hát như những khúc bi ca. - C.W.
    Kỳ 100



    Vài giờ sau, góa phụ yên nghỉ trong ký ức tôi, trầm lặng, thanh thản và biến thành biểu tượng. Nàng đã bị bao bọc bằng sáp, nàng không thể trải rộng niềm kinh hoàng trong tôi và làm tê liệt óc não tôi.

    Những biến cố kinh khủng của ngày hôm đó lan rộng, trải ra trong không gian và thời gian, đồng nhất với những nền văn minh vĩ đại đã biến mất, những nền văn minh đồng nhất với định mệnh trái đất, trái đất, đồng nhất với định mệnh vũ trụ - và như thế, trở lại góa phụ, tôi thấy nàng khuất phục những định luật vĩ đại, hòa giải với những kẻ sát hại nàng, im lìm và thanh thản.

    Thời gian đã tìm thấy trong tôi ý nghĩa đích thực của nó: Góa phụ đã chết hàng ngàn năm trước, thời văn minh Aegea, và những thiếu nữ Cnossos (*) tóc quăn đã chết, buổi sáng hôm nay, bên bờ biển vui tươi này.

    Giấc ngủ xâm chiếm tôi, như một ngày kia, chắc chắn - không có gì chắc chắn hơn - cái chết và tôi nhẹ nhàng chuồi vào bóng tối. Tôi không biết khi nào Zorba trở về cũng chẳng biết hắn có về hay không nữa. Sáng ra, tôi thấy hắn trên núi, quát tháo nạt nộ bọn thợ.

    Không việc gì họ làm mà hắn hài lòng cả. Hắn thải ba công nhân cứng cổ, tự tay cầm cuốc và bắt đầu mở con đường hắn đã đánh dấu để trồng cột giữa những bụi rậm và đá. Hắn trèo lên núi, gặp mấy tiều phu đốn thông và bắt đầu chửi bới như sấm sét. Một người cười và lẩm bẩm điều gì đó. Zorba lao vào gã.

    Buổi tối hắn đi xuống mệt lả, tả tơi và ngồi cạnh tôi bên bờ biển. Khó khăn lắm hắn mới mở miệng được; cuối cùng khi hắn nói, hắn nói về gỗ làm nhà, dây cáp và than non; hắn giống như một tên thầu khoán tham lam, vội vã phá hoại nơi thầu, cố gắng càng khai thác được nhiều lời bao nhiêu càng hay bấy nhiêu và bỏ đi nơi khác.

    Ðã có lúc, ở trạng thái tự an ủi đã đạt được tôi sắp nói với hắn về góa phụ; Zorba chìa bàn tay hộ pháp ra bịt miệng tôi lại:

    - Ông im đi! Hắn nói bằng một giọng câm lặng.

    Tôi nín thinh, xấu hổ. “Ðó là một người đàn ông đích thực, tôi vừa nhủ thầm vừa ao ước nỗi đau khổ của Zorba. Một người đàn ông máu nóng và cứng xương, khi đau khổ, cho nước mắt giàn giụa chảy, khi sung sướng, không làm hả hơi nguồn hân hoan của mình bằng cách lọc nó qua cái rây mắt nhỏ của siêu hình học.

    Ba bốn ngày trôi qua như vậy, Zorba làm việc liên miên, không ăn, không uống, không thở. Hắn đang đặt nền móng. Một buổi tối, tôi nói với hắn mụ Bouboulina hãy còn đau, thầy thuốc không đến, mụ kêu tên hắn trong cơn mê sảng.

    Hắn nắm tay lại.

    - Tốt lắm, hắn trả lời.

    Hôm sau, vào lúc rạng đông, hắn tới làng trở về ngay.

    Tôi hỏi:

    - Bác gặp mụ chưa? Mụ ra sao?

    - Không sao cả, mụ sắp chết.

    Và hắn xoạc cẳng bước lên núi.

    Buổi tối hôm đó, không ăn uống gì cả, hắn lấy cây gậy và đi ra.

    Tôi hỏi:

    - Bác đi đâu đó? Ðến làng hả?

    - Không. Tôi đi dạo một chút. Tôi trở về ngay.

    Hắn rảo bước về phía làng một cách quả quyết.

    Tôi mệt, và leo lên giường ngủ. Tâm trí tôi lại bắt đầu duyệt lại toàn thể trái đất, kỷ niệm dâng lên, sầu đau trở lại, tư tưởng tôi bay trên những ý tưởng xa vời nhất và cuối cùng trở lại trụ trên Zorba.

    “Nếu trên đường hắn đụng phải Manolakas, tôi nghĩ, tên khổng lồ Crete này sẽ nhẩy xổ vào hắn ngay. Hình như trong những ngày gần đây gã nhốt mình trong nhà. Gã xấu hổ không dám thò mặt ra ngoài làng và không ngừng đe rằng nếu gã bắt được Zorba ‘gã sẽ cắn xé hắn như một con cá trích’. Ngày hôm qua, vào lúc nửa đêm, một người thợ còn gặp hắn, võ trang, lảng vảng quanh lều. Nếu họ gặp nhau đêm nay thế nào cũng sẽ có một cuộc tàn sát.”

    Tôi đứng phắt dậy, mặc quần áo và vội vã đi xuống đường làng. Ðêm dịu dàng, ẩm ướt, phảng phất mùi hoa thập tự dại. Một lát sau, tôi trông thấy Zorba chậm chạp bước, như thể mệt mỏi lắm. Thỉnh thoảng hắn ngừng lại, chăm chú nhìn sao, nghe ngóng; đoạn hắn lại bước đi nhanh hơn, và tôi nghe thấy cây gậy của hắn trên đá.

    Hắn lại gần vườn góa phụ. Không khí ngát mùi hoa chanh và kim ngân. Ngay lúc đó, trong rặng cam trong vườn, thánh thót vang lên tiếng hót đứt ruột của con họa mi, tiếng trong veo như nước suối. Nó hót và tiếp tục hót trong đêm tối với vẻ đẹp sững sờ khiến người ta muốn đứt hơi luôn. Zorba đứng dừng lại hắn cũng kinh ngạc vì sự dịu dàng quá mức.

    Thốt nhiên lau say hàng rào lay động; những chiếc lá sắc cọ vào nhau san sát như những lưỡi dao cạo thép.

    - A, mi đây rồi! Một giọng nói man rợ gầm lên. A, lão già lẩm cẩm! Ta thấy mi đây rồi!

    Tôi lạnh người. Tôi đã nhận ra giọng nói.

    Zorba tiến lên một bước, giơ cao cây gậy và đứng lại. Dưới ánh sao, tôi thấy rõ từng cử động của hắn.

    ––––––-

    (*) Kinh đô của Crete thượng cổ, cường thịnh vào thế kỷ XXI trước công nguyên ố N.H.H.

  3. #15
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 101



    Phắt một cái, một gã to lớn từ đám lau nhảy vọt ra.

    - Ai đó? Zorba vừa quát lên vừa vươn cổ ra.

    - Ta, Manolakas.

    - Ði đường mi đi, đi đi!

    - Mi đã sỉ nhục ta, Zorba!

    - Tôi không sỉ nhục anh, Manolakas, đi đi, kìa! Anh thuộc loại to con, vâng, nhưng vận may đã muốn vậy... sự rủi may bao giờ cũng mù quáng, anh không biết như vậy sao?

    - May hay không may, mù quáng hay không mù quáng, Manokalas nói (và tôi nghe thấy răng hắn nghiến ken két), ta phải rửa nhục. Ngay đêm nay. Có dao không?

    - Không, Zorba đáp. Tôi chỉ có một cây gậy.

    - Ði kiếm dao của mi đi. Ta đợi ở đây. Ði đi!

    Zorba không nhúc nhích.

    - Mi sợ à? Giọng Manokalas kéo dài ra, nhạo báng. Ði đi, kìa.

    - Ta làm gì bằng dao mới được chứ? Zorba hỏi, hắn bắt đầu nổi nóng. Ta làm gì bằng dao hả? Mi còn nhớ ở nhà thờ mi có một con dao còn ta tay không, mi nhớ không? Vậy mà hình như ta thắng thì phải?

    Manokalas gầm lên:

    - Mi lại còn nhạo ta nữa hả? Mi chọn lúc khéo quá, bởi vì ta có khí giới và mi không có. Lấy dao lại đi, tên Macedonia bẩn thỉu, rồi chúng ta sẽ đọ sức.

    - Ném dao của mi đi, ta ném cây gậy của ta, rồi chúng ta sẽ đọ sức! Zorba đáp, giọng run lên vì tức giận. Kìa, mau đi, tên Crete bẩn thỉu!

    Zorba giơ tay lên, ném cây gậy đi, tôi nghe thấy nó rơi trong đám lau say.

    - Ném dao của mi đi! Zorba lại hét.

    Tôi nhẹ nhàng nhón gót lại gần. Dưới ánh sao tôi kịp nhận thấy con dao lóe lên khi nó cũng rơi vào giữa bụi lau.

    Zorba nhổ vào tay.

    - Nhào vô! Hắn vừa thét vừa nhảy vọt lên lấy đà.

    Nhưng trước khi họ có đủ thời giờ để nắm lấy nhau, tôi lao vào giữa hai người.

    - Dừng lại! Tôi la. Tới đây, Manolakas! Cả bác nữa, Zorba! Tới đây! Các ông không biết xấu hổ sao?

    Hai địch thủ chậm rãi lại gần, tôi cầm lấy bàn tay phải mỗi người.

    - Bắt tay nhau đi! Cả hai người đều là những người tốt và dũng cảm, các ông hòa giải với nhau đi!

    - Hắn đã làm nhục tôi... Manolakas vừa nói vừa cố co tay lại.

    - Không ai có thể sỉ nhục bạn một cách dễ dàng như vậy được, Manolakas! Cả làng đều biết lòng dũng cảm của bạn. Hãy quên chuyện xảy ra ở nhà thờ bữa nọ đi. Ðó là một giờ bất tường. Bây giờ, chuyện đã thuộc về quá khứ, không nên nhắc đến nữa! Và rồi bạn đừng quên rằng Zorba là một khách lạ, một người Macedonia, và thượng cẳng chân hạ cẳng tay trên một người khách phương xa đến xứ chúng ta là một điều vô cùng nhục nhã cho dân Crete chúng mình... Nào, chìa tay ra cho hắn, vậy đó, đó mới là lòng dũng cảm đích thực, và đến lều chúng tôi, chúng ta sẽ uống một ly rượu, nướng một thước xúc xích để làm khắng khít tình bạn của chúng ta, xếp Manolakas!

    Tôi vòng tay ôm ngang lưng Manolakas và dìu gã đi xa một chút. Tôi nói thầm với gã:

    - Lão đáng thương đó già rồi, bạn nên nhớ điều đó. Một người trai tráng, võ dõng như bạn mà làm khó một người vào tuổi lão coi không được!

    Manolakas hơi nguôi giận. Gã nói:

    - Thôi được, để vui lòng ông.

    Gã bước tới Zorba, chìa bàn tay hộ pháp của gã ra nói:

    - Nào, bạn Zorba, những chuyện gì đã qua, cho nó qua luôn, tay bạn!

    - Bạn đã nhai nuốt tai tôi, tôi mong nó mang lại cho bạn nhiều may mắn! Tay tôi đây!

    Họ xiết tay nhau thật lâu, thật mạnh, mỗi lúc một mạnh thêm và nhìn vào mắt nhau. Tôi sợ họ sắp đánh nhau nữa.

    Zorba nói:

    - Bạn xiết mạnh lắm Manolakas, bạn khỏe thật!

    - Tay xiết cũng mạnh lắm, thử xem bạn có thể xiết tay tôi mạnh hơn nữa không nào?

    - Ðủ rồi! Tôi la. Nào chúng ta hãy uống mừng tình bạn của chúng ta nào!

    Tôi đi giữa, Zorba bên phải, Manolakas bên trái tôi, và chúng tôi quay về bãi biển của chúng tôi.

    - Mùa màng năm nay sẽ tốt lắm đây... tôi nói để thay đổi câu chuyện. Mưa nhiều.

    Không ai góp chuyện cả. Họ vẫn còn ấm ức trong bụng. Tất cả hy vọng của tôi bây giờ nằm trong rượu. Chúng tôi về đến lều. Tôi nói:

    - Rất hân hạnh được bạn ghé tới tệ xá, xếp Manolakas, Zorba nướng xúc xích và kiếm cái gì uống đi.

    Manolakas ngồi trên một tảng đá trước lều. Zorba lấy một nắm cành nhỏ, nướng xúc xích và rót ba ly rượu.

    - Chúc các ông mạnh khỏe! Tôi vừa nói vừa nâng ly. Chúc bạn mạnh khỏe, xếp Manolakas! Chúc bác mạnh khỏe, Zorba! Cụng ly nào!

    Họ cụng ly, Manolakas đổ một vài giọt rượu xuống đất. Gã nghiêm trang nói:

    - Máu tôi sẽ đổ như rượu này nếu có bao giờ tôi giơ tay đánh anh, Zorba!

    - Máu tôi cũng sẽ đổ như rượu này, Zorba vừa nói vừa đổ một vài giọt rượu xuống đất theo đúng điệu, nếu tôi không quên hoàn toàn cái tai mà anh đã nhai, Manolakas!
    Kỳ 102



    23



    Rạng đông, Zorba ngồi dậy và đánh thức tôi:

    - Ông dậy chưa?

    - Có chuyện gì đó Zorba?

    - Ðêm qua tôi nằm mơ. Một giấc mơ kỳ cục. Tôi tưởng chúng ta sắp đi du lịch đến nơi rồi. Nghe đây, ông sắp cười nôn ruột cho mà xem. Có một con tàu lớn bằng cả một tỉnh đậu trong hải cảng. Nó kéo còi, sắp sửa rời bến. Tôi từ làng vừa đi vừa chạy tới cho kịp chuyến tàu, tôi xách một con két trên tay. Tôi tới tàu và trèo lên boong. Viên thuyền trưởng chạy lại. “Vé! Y kêu lên. Bao nhiêu? Tôi vừa hỏi vừa thò tay vào túi lấy một nắm tiền. Một ngàn drachma .Ông làm ơn lấy tám trăm thôi được không? Tôi hỏi. Không, một ngàn. Tôi chỉ có tám trăm, lấy đi. Một ngàn, không kém một xu. Nếu không xuống tàu gấp! Tôi tức giận nói: Nghe đây, thuyền trưởng, vì quyền lợi của ông lấy tám trăm tôi đưa cho ông đi, nếu không tôi sẽ thức dậy và thế là ông mất hết tất cả!”

    Zorba phá lên cười:

    - Con người thực là cái máy kỳ cục! Hắn kinh ngạc nói. Mình nhét cho nó đầy bánh, rượu, cá, củ cải đỏ và từ nó phát ra tiếng thở dài, tiếng cười và mộng mị. Giống như một cái xưởng chế tạo. Tôi tin chắc rằng có một thứ phim nói trong đầu chúng ta.

    Ðột nhiên hắn nhảy xuống khỏi giường:

    - Nhưng tại sao lại có con két? Hắn lo lắng la lên. Con két đi với tôi, thế là nghĩa lý gì? A, tôi e rằng...

    Hắn chưa kịp nói rứt câu. Một người đưa tin, lùn, tóc đỏ hoe, đúng là hiện thân của quỉ sứ, hổn hển chạy vào lều.

    - Lạy Chúa tôi! Mụ đáng thương kêu gào đòi bác sĩ! Mụ nói mụ sắp chết, vâng, sắp chết, và cái chết của mụ sẽ đè nặng lên lương tâm các ông, mụ nói.

    Tôi cảm thấy xấu hổ. Trong nỗi tuyệt vọng mà góa phụ đã xô chúng tôi xuống, chúng tôi đã hoàn toàn quên mất người bạn già.

    - Mụ đang đau dữ lắm, thật tội nghiệp, gã tóc đỏ tiếp tục ba hoa nói, mụ ho đến nỗi toàn thể lữ quán của mụ lung lay. Vâng, đúng là một thứ ho lừa! Khụ! Khụ! Cả làng đều rung động!

    Tôi la lên:

    - Im đi! Ðừng mang chuyện đó ra làm trò cười!

    Tôi đi lấy một mảnh giấy và viết một bức thư:

    - Ði mau, mang lá thư này tới thầy thuốc và đừng trở lại cho đến khi chính mắt bác trông thấy ông ta leo lên con ngựa cái của ông ta. Bác hiểu chưa? Thôi, bây giờ đi đi!

    Gã cầm lấy lá thư nhét vào thắt lưng và chạy không nói một lời.

    - Chờ tôi một lát, tôi cùng đi với bác, tôi nói.

    - Tôi vội lắm, hắn đáp, và bước ra ngoài.

    Một lát sau, tôi cũng đi về phía làng. Khu vườn vắng vẻ của góa phụ dâng hương trong không gian. Mimitho đang ngồi co ro trước nhà, tiu nghỉu như một con chó bị đòn. Gã gầy dộc hẳn đi! Cặp mắt gã đỏ ngầu và trũng sâu, thiêu đốt. Gã quay lại, nhìn ra tôi và lượm một hòn đá.

    - Em làm gì ở đây, Mimitho? Tôi vừa hỏi vừa đưa mắt buồn rầu nhìn khu vườn.

    Tôi nhớ tới hai cánh tay ấm áp và toàn năng choàng qua cổ tôi... Hương thơm của hoa chanh và dầu nguyệt quế phảng phất trong không gian. Chúng tôi lặng thinh. Trong ánh hoàng hôn tôi trông thấy cặp mắt đen láy nồng nàn khát vọng, hàm răng đánh bằng lá hồ đào, bóng, sắc nhọn và trắng muốt.

    Mimitho càu nhàu:

    - Tại sao ông hỏi tôi vậy? Ði đi, đi lo công chuyện của ông đi.

    - Em muốn hút không?

    - Tôi không hút nữa. Tất cả các ông đều là bọn bẩn thỉu. Tất cả! Tất cả! Tất cả!

    Gã ngừng lại, hổn hển, có vẻ đang kiếm một chữ mà gã tìm chưa ra.

    - Bẩn thỉu... Khốn nạn... Dối trá... Sát nhân...

    Dường như cuối cùng gã đã tìm thấy danh từ gã muốn kiếm, gã có vẻ thoải mái, vỗ tay.

    - Sát nhân! Sát nhân! Sát nhân! Gã la lên bằng một giọng chát chúa và phá lên cười.

    Tim tôi se lại:

    - Em có lý, Mimitho, em có lý, tôi vừa lẩm bẩm vừa vội vã bỏ đi.

    Tới cổng làng, tôi trông thấy lão Anagnosti đứng chống gậy, mỉm cười chăm chú nhìn hai con bướm vàng đuổi bắt nhau trên đám cỏ xuân. Bây giờ lão đã già và lão không còn lo lắng về đồng ruộng và vợ con, lão có thì giờ đưa mắt vô tư nhìn thế giới xung quanh. Trông thấy bóng tôi trên mặt đất, lão ngẩng đầu lên.

    - Ngọn gió nào đã đưa con lại đây sớm như vậy? Lão hỏi.

    Nhưng chắc hẳn lão đã trông thấy khuôn mặt lo âu của tôi và không chờ đợi tôi trả lời, lão nói tiếp:

    - Mau lên con, mau lên con. Lão không biết con có thể thấy mụ còn sống hay không... Ôi, thật tội nghiệp!

    Cái giường rộng đã dùng quá lâu, người bạn đồng hành trung kiên nhất của mụ Hortense, đã được khiêng ra giữa gian phòng nhỏ bé của mụ và choán hết cả gian phòng. Trên đầu mụ, con két, cố vấn riêng tận của mụ, cúi xuống, tư lự và lo âu với cánh xanh, mũ trùm đầu vàng và cặp mắt tròn độc ác. Nó cúi xuống nhìn bà chủ của nó đang nằm rên rỉ và nó nghiêng cái đầu giống hệt đầu người về một bên để lắng nghe.
    Kỳ 103



    Không, không, không phải là những tiếng thở dài hoan lạc mà nó đã rất quen, mà mụ thường thốt ra trong lúc làm ái tình, cũng không phải là tiếng gù gù dịu dàng của con bồ câu mái, cũng không phải là tiếng cười khêu gợi.

    Mồ hôi lạnh nhỏ giọt đầm đìa trên khuôn mặt bà chủ nó, tóc như xơ gai, không gội, không chải, bết vào thái dương, những sự quằn quại trên giường, đó là những cái con két lần đầu tiên nhìn thấy và nó yên lặng. Nó muốn kêu to: “Canavaro! Canavaro!” Nhưng tiếng nói không thoát ra khỏi cổ họng.

    Bà chủ đáng thương của nó rên rỉ, cánh tay tàn úa, bệu bạo đưa tấm khăn trải giường lên và để nó rơi xuống; mụ ngộp thở. Không phấn son, hai má song húp, mụ có mùi mồ hôi chua và thịt bắt đầu ôi. Ðôi giầy ban vẹt gót, méo mó của mụ, thò ra dưới gầm giường và lòng người ta quặn đau khi nhìn thấy chúng. Ðôi giầy ban này khiến người ta xúc động hơn cả chính chủ nó.

    Zorba ngồi trên đầu giường, nhìn đôi giầy và mắt hắn không thể dời đi chỗ khác được. Hắn bặm môi để nước mắt khỏi trào ra. Tôi đi vào, ngồi sau lưng hắn, nhưng hắn không nghe thấy tôi.

    Mụ đàn bà đáng thương thở một cách khó khăn. Zorba gỡ một cái mũ trang hoàng bằng những bông hồng vải để quạt cho mụ. Hắn đưa bàn tay hộ pháp qua lại rất nhanh và vụng về, như thể hắn đang cố gắng quạt cho đống than ướt bắt lửa.

    Mụ mở mắt, kinh sợ, nhìn quanh. Tất cả đều tối đen, mụ không nhận ra người nào, kể cả Zorba đang quạt cho mụ bằng cái mũ hoa.

    Tất cả đều tối đen và đáng sợ xung quanh mụ; những đám hơi nước xanh từ đất bốc lên và thay đổi hình thể, trở thành những cái miệng chế nhạo, những đôi chân cong như cái móc, những đôi cánh đen.

    - Mụ bấm móng tay vào cái gối đã hoen ố vì nước mắt, nước bọt và mồ hôi và mụ hét lên:

    - Tôi không muốn chết! Tôi không muốn!

    Nhưng hai người khóc mướn trong làng đã nghe phong phanh tình trạng của mụ và vừa đến. Họ lẻn vào phòng và ngồi dưới đất, dựa lưng vào tường.

    Con két nhận thấy họ, bằng cặp mắt tròn xoe của nó, nó tức giận, vươn cổ ra và kêu: “Canav...” Nhưng Zorba, phát khùng, đập vào lồng và con chim nín tắp.

    Một lần nửa tiếng hét tuyệt vọng lại nổi lên:

    - Tôi không muốn chết! Tôi không muốn!

    Hai gã thanh niên non choẹt, rám nắng thò đầu vào cửa, chăm chú ngó con bệnh, hài lòng, chúng nháy nhau và biến mất.

    Chẳng bao lâu sau, người ta nghe thấy trong sân những tiếng kêu quang quác sợ hãi và tiếng đập cánh; một người nào đó đang đuổi bắt gà.

    Mụ đàn bà khóc mướn đầu tiên, mụ Malamatenia, quay sang đồng bạn:

    - Dì đã thấy chúng nó chưa? Chúng vội vàng quá, những quân chết đã chết khát; chúng đang vặn cổ gà và nhai rau ráu. Cả tụi vô lại trong làng đã tụ tập, trong sân, chẳng bao lâu nữa chúng nó sẽ nhào vô vơ vét hết!

    Ðoạn, quay về phía giường người đang hấp hối, mụ sốt ruột lẩm bẩm:

    - Chết đi, bạn già! Lẹ lên, lẹ lên để chúng tôi cũng có cơ hội nhặt nhạnh một cái gì.

    Dì Lenio chúm cái miệng móm nhỏ xíu, nói:

    - Nói thật chứ, mệ Malamatenia, chúng làm vậy là phải... “Nếu mi muốn ăn cái chi, hãy xoáy; nếu mi muốn cái chi, hãy lấy trộm!” Mẹ tôi thường khuyên tôi như vậy. Chúng ta chỉ có việc hát thật mau những bài vãn ca để nhặt nhạnh một nắm gạo, một chút đường, một cái xoong, và rồi chúng ta có thể cầu phước cho vong hồn mụ. Mụ không có cha mẹ, con cái, vậy thì ai sẽ ăn những con gà và con thỏ của mụ? Ai sẽ uống rượu của mụ? Ai sẽ thừa hưởng tất cả những cuộn chỉ, lược và kẹo bánh này? Hê! Tôi xin thú thực với mệ Malamatenia, Chúa tha thứ cho tôi, đời là thế, tôi cũng muốn nhặt nhạnh!

    - Chờ chút đã, đừng hấp tấp quá như vậy! Mệ Malamatenia vừa nói vừa nắm cánh tay đồng bạn. Tôi cũng thế, tôi xin thề, tôi cũng có ý nghĩ đó, đây không sợ gì phải giấu qué đâu nhé, nhưng hãy chờ cho đến lúc mụ chết xong xuôi đã.

    Trong khi đó mụ đàn bà hấp hối lục lọi điên cuồng dưới gối. Vừa khi cảm thấy nguy hiểm tới, mụ lục rương lấy ra cây thánh giá bằng xương trắng bóng mà mụ hoàn toàn quên mất bao năm nay giữa những chiếc chemise rách và những tấm giẻ nhung, tận dưới đáy hòm, như thể đấng Christ là một phương thuốc người ta chỉ dùng trong trường hợp trọng bệnh và vô tích sự chừng nào người ta còn sống mạnh, ăn, uống, và làm ái tình được.

    Cuối cùng mụ mò thấy cây thánh giá, mụ ghì nó vào bộ ngực đầm đìa mồ hôi.

    - Giê-su yêu dấu, Giê-su yêu dấu của tôi... mụ vừa thì thầm một cách say đắm vừa ghì lấy người tình cuối cùng của mụ.

    Lời nói của mụ, nửa Pháp nửa Hy Lạp, nhưng đầy dịu dàng và đam mê, vô cùng lộn xộn. Con két nghe mụ nói. Nó cảm thấy rằng giọng nói của mụ đã thay đổi, nhớ lại những đêm dài thức trắng trước kia và phấn khởi kêu lên bằng một giọng khàn khàn, tựa một con gà trống kêu gọi mặt trời:

    - Canavaro! Canavaro!
    Kỳ 104



    Zorba lần này không buồn cử động để bắt nó ngậm miệng nữa. Hắn nhìn người đàn bà đang khóc lóc và hôn hít Chúa Gia-tô trong khi một vẻ dịu dàng bất ngờ dàn trải trên khuôn mặt bị tàn phá của mụ.

    Cửa mở, lão Anagnosti, mũ cầm nơi tay, rón rén bước vào. Lão lại gần người bệnh, cúi xuống và quì gối. Lão nói với mụ:

    - Xin bà tha thứ cho tôi, tha thứ cho tôi, và Chúa sẽ tha thứ cho bà. Tha thứ cho tôi nếu đôi khi tôi nói với bà một lời nghiệt ngã. Chúng tôi chỉ là người.

    Nhưng người đàn bà thân mến bây giờ nằm im lặng chìm đắm trong một niềm vĩnh phúc khôn tả, và mụ không nghe thấy những lời nói của lão Anagnosti. Tất cả những dầy vò của mụ đã biến mất - tuổi già bất hạnh, những đàm tiếu, những lời nghiệt ngã mà mụ phải chịu, những buổi chiều buồn bã ngồi trên ngưỡng cửa một mình và đan những đôi vớ quê mùa như một người đàn bà lương thiện tầm thường, người đàn bà Ba Lê thanh lịch này, người đàn bà uốn éo quyến rũ này, người, trong lúc đắc thời, đã khiến cho Tứ Cường nhẩy tưng tưng trên đùi và được bốn hạm đội dàn chào!

    Biển xanh mầu thiên thanh, sóng trào bọt, những pháo đài nổi ngả nghiêng, những lá cờ đủ mầu sắc phất phới trên những cột buồm. Người ta ngửi thấy mùi chim đa đa quay và những con cá hồng trên rá sắt, trái cây ướp lạnh được mang lại trong những chén pha lê và những nút champagne vọt lên trần thiết giáp hạm.

    Râu đen, hung, xám, vàng, bốn thứ hương thơm: nước hoa đổng thảo, eau de Cologne, xạ hương, long diên hương, những cánh cửa buồng kim loại đóng lại, những rèm cửa nặng nề hạ xuống, ánh sáng được thắp lên. Mụ Hortense nhắm mắt. Tất cả cuộc đời tình ái, tất cả cuộc đời dầy vò của mụ, a! Lạy Chúa, nó chỉ tồn tại giây phút nữa thôi...

    Mụ chuyển từ lòng này sang lòng khác, ôm trong tay những binh phục thêu vàng, luồn ngón tay vào những hàm râu thơm nức. Mụ không nhớ nổi tên họ. Như con két của mụ, mụ chỉ nhớ Canavaro, bởi chàng là người trẻ nhất trong bọn và tên chàng là cái tên duy nhất con két có thể phát âm. Những tên khác phức tạp, khó khăn và vì thế trôi vào quên lãng.

    Mụ Hortense thở dài và say đắm ghì lấy tượng Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự.

    - Caranavo của em, Canavaro yêu dấu của em..., mụ vừa mê sảng vừa ghì chặt tượng Chúa vào bộ ngực vữa nhão của mụ.

    Dì Lenio nói khẽ:

    - Mụ bắt đầu không biết mình nói gì. Chắc mụ đã trông thấy thần hộ mệnh và mụ thất kinh..., chúng mình hãy cởi khăn ra và lại gần chút nữa.

    Mệ Malamatenia cự nự:

    - Chết chửa dì không còn kính sợ Chúa Trời một tí nữa sao, hở? Dì muốn hát vãn ca trong khi mụ hãy còn sống ư?

    Dì Lenio càu nhàu:

    - Ha, mệ Malamatenia, thay vì nghĩ tới cái rương và quần áo của mụ, tới hàng họ cửa tiệm, tới gà qué với thỏ trong sân, mệ ngồi đó mà nói phải chờ cho mụ thở hơi cuối cùng! Không! Ăn cỗ phải đi trước, thật đấy!

    Nói đoạn, mụ đứng lên và mụ kia tức tối đi theo. Họ cởi khăn vuông đen, xõa mớ tóc bạc lưa thưa và níu lấy thành giường. Dì Lenio ra hiệu bằng cách thốt lên một tiếng kêu chát chúa dài, làm người ta sởn gai ốc:

    - I i i i i!

    Zorba nhào tới, túm tóc hai mụ già và đẩy họ lùi lại. Hắn quát:

    - Ngậm mõm lại, mấy con mụ quạ khoang! Không thấy mụ vẫn còn sống à? Cút đi!

    Mệ Malamatenia vừa càu nhàu vừa chít khăn lại:

    - Lão già lẩm cẩm! Không biết lão ở đâu chui ra thế này, đồ phá đám!

    Mụ Hortense, mụ ngư nữ già cực kỳ truân chuyên, nghe thấy tiếng kêu inh ỏi bên giường. Ảo tượng dịu dàng tan tác, soái hạm chìm nghỉm; chim quay, rượu champagne, râu thơm nức biến mất và mụ lại ngã xuống giường lâm chung hôi hám, ở góc biển chân trời. Mụ cố gượng ngồi dậy như thể mụ muốn trốn thoát, nhưng mụ lại rơi mình xuống và rên rỉ một cách thảm thiết, thê lương...

    - Tôi không muốn chết! Tôi không muốn!

    Zorba cúi xuống, sờ bàn tay hộ pháp chai cứng lên vầng trán nóng bỏng của mụ và vuốt những sợi tóc lòa xòa dính vào mặt mụ xuống; cặp mắt chim của hắn giàn giụa nước mắt. Hắn thì thầm:

    - Em đừng nói nữa, đừng nói nữa, em yêu; anh đây, Zorba đây, đừng sợ!

    Và đây rồi ảo tưởng trở lại như một con bướm mầu xanh nước biển khổng lồ phủ hết cái giường. Kẻ hấp hối siết bàn tay hộ pháp của Zorba từ từ duỗi tay ra và vòng quanh khuôn cổ đang cúi xuống của hắn. Môi mụ mấp máy:

    - Canavaro của em, Canavaro yêu quí của em...

    Tượng Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự rơi tuột khỏi gối, rơi xuống đất. Một giọng đàn ông vang lên trong sân:

    - Ê! Anh em, bỏ gà vào nồi đi, nước sôi rồi!


    Kỳ 105



    Tôi ngồi trong góc phòng, thỉnh thoảng nước mắt lại trào ra. Ðời là thế, tôi tự nhủ, sặc sỡ, rời rạc, lãnh đạm, đồi bại. Tàn nhẫn. Những nông dân dã man Crete vây quanh mụ ca kỹ già nua đến từ địa cầu trái đất này và nhìn mụ chết với một nỗi vui vẻ man rợ như thể mụ không phải là con người.

    Như thể một con chim ngoại quốc khổng lồ tạp sắc gẫy cánh rơi xuống bãi biển này và họ xúm lại ngó nó chết. Một con công, một con mèo xứ Angora, một con hải cẩu đau ốm...

    Zorba nhẹ nhàng gỡ cánh tay của mụ Hortense quàng quanh cổ. Hắn đứng dậy, xanh mét. Hắn lấy mu bàn tay chùi nước mắt. Hắn nhìn con bệnh nhưng không thấy gì cả. Hắn chùi nước mắt một lần nữa và kịp nhìn thấy mụ lay động hai bàn chân mềm nhão, sưng phù và miệng méo mó một cách kinh hoàng. Mụ vật vã một lần, hai lần, khăn trải giường tuột xuống đất và mụ hiện ra mình trần, đẫm mồ hôi, sưng phù, vàng tái. Mụ hét lên một tiếng chát chúa, chói tai tựa một con gà khi bị cắt tiết, đoạn mụ nằm bất động, mắt mở lớn, kinh sợ và đờ đẫn.

    Con két nhẩy xuống từng dưới lồng bíu lấy nan sắt, nhìn Zorba chìa bàn tay hộ pháp vuốt mắt mụ với một vẻ dịu dàng vô hạn.

    - Tất cả lẹ lên! Mụ mất rồi, những mụ khóc mướn vừa la the thé, vừa nhào tới giường.

    Họ thốt lên một tiếng kêu dài, ngả người về phía trước và phía sau, nắm tay và đấm ngực. Dần dần sự lay động bi ai và buồn tẻ đã tạo ra trong họ một trạng thái thôi miên nhè nhẹ, những buồn đau cũ của riêng họ tràn ngập tâm trí họ như nọc độc, vỏ bao trái tim rạn vỡ và bài vãn ca trào ra.

    “Nằm dưới đất, không thích hợp với ngươi...”

    Zorba ra sân. Hắn muốn khóc, nhưng xấu hổ trước mặt những người đàn bà. Tôi nhớ có lần hắn bảo tôi: “Tôi không xấu hổ nếu khóc trước mặt những người đàn ông. Giữa đàn ông với nhau, có một sự đồng nhất nào đó, đúng không? Ðó không phải là một điều nhục nhã. Nhưng trước mặt đàn bà, ta phải luôn luôn tỏ ra dũng cảm. Bởi vì nếu chúng ta cũng khóc lóc thì những kẻ đáng thương đó sẽ ra sao? Tận thế mất rồi!”

    Họ tắm mụ bằng rượu, mụ già khâm liệm mở rương quần áo sạch sẽ ra thay cho mụ, dội một chai eau de Cologne lên người mụ. Từ những vườn lân cận những con ruồi bay tới, đẻ trứng trong lỗ mũi, quanh mắt và trong mép mụ.

    Hoàng hôn xuống. Bầu trời về phương Tây đẹp một vẻ đẹp thanh thản. Những đám mây nõn đỏ tía, viền vàng, êm ả bay qua cái tím ngắt của trời chiều, lúc trông như những con tầu, khi nom tựa những con thiên nga, quỉ sứ dị kỳ làm bằng bông len và lụa xơ. Thấp thoáng qua kẽ lau lách trong sân người ta trông thấy những cánh sóng vàng lóa của biển động.

    Hai con quạ béo từ một cây vả gần đó hạ xuống và đi đi lại lại trên sân lát đá. Zorba tức giận lượm một hòn sỏi và xua đuổi chúng.

    Cuối sân, những kẻ cắp ở vườn ruộng của làng đang tổ chức một bữa tiệc khủng khiếp. Họ đã khiêng cái bàn lớn trong bếp ra, sục sạo khắp nơi tìm bánh, đĩa chén, muỗng nĩa. Họ đang mang từ dưới hầm lên một hũ rượu vang, luộc gà. Bây giờ, đói meo và sung sướng, họ cụng ly nhau ăn uống ngon lành lắm.

    - Chúa cứu vớt linh hồn mụ! Và cầu cho tất cả những việc mụ làm trôi theo dòng nước hết!

    - Và cầu cho tất cả những tình nhân mụ trở thành thiên thần và chở linh hồn mụ tới thiên đàng!

    - Phải ngó ngàng tới lão Zorba một chút, Manolakas nói. Lão đang liệng mấy con quạ kìa! Bây giờ lão thành người góa vợ rồi, mời lão lại đây uống một ly để tưởng nhớ con gà mái của lão! Ê! Xếp Zorba, ê đồng bào!

    Zorba quay lại thấy bàn đầy đồ ăn, những con gà bốc hơi nghi ngút trong đĩa, rượu lóng lánh trong ly, những gã trai tráng khỏe mạnh rám nắng với những khăn choàng cổ quấn quanh đầu, đầy vô tư và trẻ trung.

    - Zorba! Zorba! Hắn lẩm bẩm. Hãy đứng vững! Ðây là lúc ta kỳ vọng nơi ngươi!

    Hắn lại gần, uống một hơi hết một ly rượu, rồi một ly thứ hai, rồi một ly thứ ba và ăn một cái đùi gà. Họ nói với hắn, nhưng hắn không trả lời. Hắn ăn uống như gió cuốn, hau háu, nhồm nhoàm uống từng hơi dài, lặng lẽ. Hắn đăm đăm nhìn về phía buồng nơi người bạn già của hắn nằm bất động và lắng nghe bài vãn ca thoát ra từ cửa sổ mở rộng. Thỉnh thoảng, điệu tang tóc gián đoạn và người ta có thể nghe thấy những tiếng la thét cãi nhau và cánh cửa tủ mở ra khép vào và những bước chân nặng nề, nhanh nhẹn như họ đang đánh nhau. Ðoạn bài vãn ca lại cất lên ảo não, tuyệt vọng, dịu dàng như tiếng ong bay.

    Những mụ hát mướn đang chạy đi chạy lại trong phòng người chết, hát vãn ca trong khi lục lọi như điên cuồng mọi xó xỉnh. Họ mở chạn, tìm thấy vài cái muỗng, một chút đường, một hộp cà-phê và loukoums (*).

    Dì Lenio vồ lấy hộp cà-phê và loukoums. Mệ Malamatenia chụp lấy đường và muỗng. Mệ nhẩy lên và cũng nhón được hai viên loukoums, bỏ tuốt vào mồm và bài vãn ca lần này nghẹn ngào, ngắc ngứ qua những thỏi đường.

    “Cầu cho hoa mưa rơi trên vai ngươi và táo rơi vào lòng ngươi...”



    (*) Kẹo thơm Thổ Nhĩ Kỳ. - C.W
    Kỳ 106



    Hai mụ đàn bà khác lẻn vào phòng nhào tới cái rương, thò tay vào và chụp lấy một vài cái khăn tay nhỏ xíu, hai ba cái khăn bông, ba đôi vớ, một cái nịt vớ, nhét vào áo lót quay về phía người chết nằm trên giường và làm dấu.

    Mụ Malamatenia nhìn hai mụ già ăn cắp rương và nổi giận:

    - Hát tiếp đi dì, hát tiếp đi, tôi trở lại liền! Mụ hét lên với dì Lenio, và mụ cũng dúi đầu vào trong rương.

    Những miếng giẻ sa tanh, một cái váy mầu hoa cà lỗi thời, một đôi giày săng đan đỏ cổ lỗ sĩ, một cây quạt gãy, một cây dù đỏ thắm mới tinh và tận dưới đáy, một cái mũ thủy sư đô đốc hình tam giác. Một món quà ngày xưa người ta tặng cho mụ Bouboulina. Khi chỉ có một mình trong nhà mụ thường đội lên, nghiêm trang và buồn rầu ngắm mình trong gương.

    Có người lại gần cửa. Mấy mụ già lảng ra, dì Lenio lại bíu lấy giường người chết và bắt đầu vừa đấm ngực vừa la:

    “...và những bông cẩm chướng đỏ thẫm đeo quanh cổ ngươi...”

    Zorba bước vào, nhìn người chết, bây giờ đang nằm im lặng, êm ả, vàng vọt và phủ đầy ruồi, tay khoanh trước ngực, và một giải băng lụa nhỏ quanh cổ.

    “Một hòn đất, hắn nghĩ, một hòn đất biết đói khát, cười nói, ôm hôn. Một cục bùn khóc lóc. Và bây giờ? Quỉ sứ nào đem ta ra tới trần gian và quỉ sứ nào đem chúng ta đi?”

    Hắn nhổ bọt và ngồi xuống.

    Ngoài sân bọn thanh niên đã hợp lại khiêu vũ. Gã chơi thất huyền cầm tuyệt kỹ, Fanurio, đã đến và họ dẹp bàn ghế qua một bên, quẳng những thùng dầu, thùng đựng nước, chậu giặt, dọn chỗ để khiêu vũ.

    Những hương mục xuất hiện: bác Anagnosti với cây gậy dài đầu uốn cong và áo chemise trắng rộng; Kondomanolio, tròn quay và dơ dáy; vị giáo viên với một cái nghiên mực lớn trong thắt lưng và một quản bút xanh giắt sau tai. Lão Mavrandoni không có mặt, lão đã đi vào trong núi như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật.

    - Rất sung sướng được gặp lại các con! Bác Anagnosti vừa nói vừa giơ tay lên. Rất sung sướng vì các con vui đùa! Ăn uống đi, cầu Chúa ban phước lành cho các con! Nhưng không được la hét. Người chết có thể nghe, các con nên nhớ, người chết có thể nghe.

    Kondomanolio giải thích:

    - Các bác tới để làm bản kê khai của cải của người chết để chia cho những người nghèo trong làng. Các con đều ăn uống, no say cả, thế là đủ rồi! Không được khuân tất cả đồ đạc ở đây đi, nếu không... Nhìn đây!

    Nói đoạn lão khua cây gậy trong không khí, vẻ đe dọa.

    Ðằng sau ba quan viên xuất hiện một bọn chừng chục mụ đàn bà đầu bù tóc rối, chân đất, quần áo rách như tổ đỉa. Mỗi người cắp một cái bị không và khoác một cái giỏ trên lưng. Họ lén lút đi tới, rón rén, im lặng.

    Bác Anagnosti quay lại, thấy họ và tức giận:

    - Ê! Bọn cha căng chú kiết kia, bước đi cho mau! Sao! Ðịnh nhào vô cướp hả? Người ta kê khai tất cả, lần lượt từng thứ một rồi chia đều cho người nghèo trong trật tự và công bằng. Bước đi cho mau, nghe rõ chưa?

    Vị hương sư móc thắt lưng lấy ra cái nghiên mực bằng đồng, giở một tờ giấy khổ lớn ra rồi đi tới cửa tiệm nhỏ để bắt đầu làm bản kê khai.

    Nhưng ngay lúc đó, người ta nghe thấy một tiếng động chát chúa ố như thể có người đập trên những cái hộp sắt, như thể những cuộn chỉ rơi xuống, ly tách xô vào nhau và bể. Và trong bếp, người ta nghe thấy tiếng nhộn nhạo om sòm của xoong chảo, đĩa bát và muỗng nĩa.

    Lão Kondomanolio vừa lao vào bếp vừa vung cây gậy. Những mụ già, đàn ông, con nít nhào vào như gió qua cửa, leo cả qua cửa sổ, trèo qua giậu và nhẩy từ bao lơn xuống, mỗi người lấy cái họ có thể vồ lấy được: xoong, chảo, nệm, thỏ... Một vài kẻ gỡ cả cánh cửa và vác trên lưng. Mimitho cũng lấy đôi giầy ban của người quá cố, buộc vào một sợi dây đeo quanh cổ ố trông tựa như mụ Hortense ngồi cưỡi trên vai gã và chỉ có đôi giầy mụ có thể trông thấy rõ...

    Vị hương sư cau mày, thu cái nghiên mực vào thắt lưng, gấp tờ giấy tinh tuyền lại đoạn lẳng lặng không nói một lời với vẻ cao kỳ bị sỉ nhục nặng nề vượt qua ngưỡng cửa và khuất dạng.

    Bác Anagnosti đáng thương vừa gầm thét, van xin đám dân nghèo ngừng lại vừa khua gậy dọa nạt họ:

    - Nhục nhã lắm! Nhục nhã lắm! Người quá cố đang nghe các người đó, biết không?

    - Tôi có phải đi gọi thầy tư tế đến không? Mimitho hỏi.

    - Thầy tư tế nào? Ðồ khùng! Kondomanolio điên tiết quát. Mụ là dân Tây Âu; mi không thấy mụ làm dấu thế nào à? Bằng bốn ngón tay - như thế này - đồ bị trục xuất khỏi giáo hội! Thôi hãy đem chôn mụ xuống đất đi, trước khi mụ bắt đầu hôi thối và gieo bệnh truyền nhiễm khắp làng!

    - Mụ bắt đầu có đầy sâu, coi đây, tôi xin thề có Chúa! Mimitho vừa kêu lên vừa làm dấu.

    Kỳ 107



    Bác Anagnosti, tiên chỉ trong làng, lắc cái đầu cao nhã.

    - Mi lấy làm lạ lắm à? Ðồ ngốc! Quả thực con người đầy sâu bọ từ ngày mới sinh ra đời, nhưng người ta không nhìn thấy đấy thôi. Khi chúng thấy người ta bắt đầu hôi thối, chúng chui ra khỏi lỗ liền - trắng bóc, trắng tựa những con bọ phó mát!

    Những vì sao thứ nhất hiện ra và hãy còn treo lơ lửng trong thinh không, lung linh, như những cái chuông bằng bạc. Suốt đêm không ngân nga.

    Zorba hạ cái lồng két xuống khỏi đầu giường người chết. Con chim mồ côi thu mình trong một góc, khiếp sợ. Nó mở mắt thao láo nhìn nhưng không hiểu đâu vào đâu cả. Nó vùi đầu vào cánh và co quắp lại.

    Khi Zorba gỡ lồng của nó, con két nhỏm dậy. Nó muốn nói, nhưng Zorba vươn tay ra chặn.

    - Im đi, hắn thì thầm một giọng nghẹn ngào, im đi! Ði với ta.

    Zorba cúi xuống nhìn kẻ quá vãng. Hắn nhìn mụ thật lâu, cổ họng se sắt.

    Hắn nghiêng mình xuống như định hôn mụ, nhưng hắn tự kìm hãm mình.

    - Thôi chúng ta đi, trăm sự nhờ trời! Hắn lẩm bẩm.

    Hắn nhặt cái lồng két lên và bước ra sân. Hắn trông thấy tôi và lại gần.

    - Chúng ta đi thôi..., hắn vừa nói khẽ vừa nắm cánh tay tôi.

    Hắn có vẻ trầm tĩnh, nhưng môi hắn run run.

    - Tất cả chúng ta cùng đi con đường đó..., tôi nói để an ủi hắn.

    - Chờ một lát, tôi nói. Họ sắp chôn mụ. Chúng ta chờ một lát xem... Bác không thể nán lại một vài phút nữa à?

    - Ðược rồi..., hắn nghẹn ngào trả lời.

    Hắn đặt cái lồng xuống đất và khoanh tay lại.

    Từ phòng người chết bác Anagnosti và Kondomanolio đầu trần đi ra. Họ làm dấu. Sau họ, bốn người trong số những vũ công, với những bông hồng mùa Xuân hãy còn giắt sau tai, vui vẻ, nửa tỉnh, nửa say, mỗi người nâng một góc tấm cửa trên đó họ đặt thi thể mụ già. Theo sau là gã chơi đàn thất huyền với nhạc cụ của gã, chừng một chục đàn ông nữa, ngà ngà say, hãy còn nhai tóp tép và năm sáu người đàn bà, mỗi người cầm một cái xoong hay một cái ghế. Mimitho đi sau cùng với đôi giầy ban vẹt gót đeo quanh cổ.

    - Sát nhân! Sát nhân! Sát nhân! Gã la lên một cách đùa giỡn.

    Một cơn gió nóng, ẩm ướt, nổi lên và biển động. Gã chơi thất huyền nâng cung đàn. Tươi mát, hân hoan, nhạo báng, giọng hát của gã dâng lên trong đêm oi nồng:

    “Tại sao, ôi vầng dương, sao mi lặn quá vội vàng?...

    - Ta đi thôi! Zorba nói, thế là hết...



    24



    Chúng tôi lặng lẽ đi qua những đường phố hẹp trong làng. Những nhà không có đèn làm thành những chấm đen trong đêm tối. Ðây đó một con chó sủa, một con bò thở dài. Từ xa vẳng đến, trong hơi gió, những âm thanh vui tươi của những cái lục lạc thất huyền cầm, trào vọt như nước xối nhí nhảnh.

    Tôi nói để phá tan sự im lặng khó thở:

    - Zorba cơn gió này là gió nào thế? Gió nồm phải không?

    Nhưng Zorba đi trước, tay cầm cái lồng két như một cái đèn lồng, không trả lời. Khi chúng tôi về đến bãi, hắn quay lại hỏi:

    - Ông có đói không, ông chủ?

    - Không, tôi không đói, Zorba.

    - Ông có buồn ngủ không?

    - Không.

    - Tôi cũng vậy. Ta hãy ngồi trên bãi sỏi một lát. Tôi có vài điều muốn hỏi ông.

    Cả hai chúng tôi đều mệt mỏi, nhưng chẳng ai chịu đi ngủ cả. Chúng tôi muốn đánh mất niềm cay đắng của ngày hôm nay. Giấc ngủ đối với chúng tôi tựa một cuộc chạy trốn trong giờ phút hiểm nghèo và chúng tôi đều xấu hổ nếu đi ngủ.

    Chúng tôi ngồi bên bờ biển. Zorba kẹp cái lồng giữa hai đầu gối và trầm ngâm hồi lâu. Một chòm sao đáng sợ xuất hiện sau rặng núi, một con thú trăm ngàn mắt với một cái đuôi xoắn trôn ốc. Thỉnh thoảng một vì sao tách ra và rụng xuống.

    Zorba ngây ngất nhìn trời, miệng há hốc như thể đây là lần đầu tiên hắn nhìn thấy nó. Hắn lẩm bẩm:

    - Trên đó còn có thể xảy ra chuyện gì nữa?

    Một lát sau, hắn quyết định nói, giọng hắn vang lên sâu thẳm, xúc động trong đêm oi nồng:

    - Ông chủ, ông có thể cho tôi biết tất cả những cái này có ý nghĩa gì? Ai đã tạo ra chúng? Tại sao? Và nhất là (tới đây giọng Zorba run lên vì tức giận và sợ hãi) tại sao người ta chết?

    - Tôi không biết, Zorba! Tôi trả lời, xấu hổ như thể người ta hỏi một điều đơn giản nhất, thiết yếu nhất mà mình không giải thích được.

    - Ông không biết! Zorba kinh ngạc kêu mắt trợn tròn giống hệt như đêm tôi thú thực với hắn tôi không biết nhẩy.


    Kỳ 108



    Hắn yên giọng một lát rồi thình lình la to:

    - Vậy thì tất cả những cuốn sách nhảm nhí trời đánh mà ông đọc, để làm gì? Tại sao ông đọc những cuốn sách ấy? Nếu chúng không nói về điều đó, chúng nói gì?

    - Chúng nói về sự hoang mang của con người không thể trả lời câu hỏi của bác, Zorba.

    - Ồ, thây kệ sự hoang mang của chúng! Hắn vừa hét lên vừa giậm chân xuống đất một cách tức tối.

    Con két giật mình vì những tiếng hét này:

    - Canavaro! Canavaro! Nó kêu như người ta kêu cứu.

    - Mi ngậm mõm lại! Zorba vừa hét vừa đấm vào cái lồng.

    Hắn quay sang tôi:

    - Tôi muốn ông nói cho tôi hay chúng ta từ đâu tới và chúng ta sẽ đi đâu. Từ bao nhiêu năm nay ông hao mòn tiều tụy trên những pháp thư, chắc ông phải ngốn hai ba ngàn kí lô giấy rồi, và từ đó ông rút ra được gì?

    Giọng nói của hắn kinh sợ đến nỗi tim tôi run lên vì tuyệt vọng. A! Tôi muốn có thể trả lời hắn xiết bao!

    Tôi cảm thấy sâu xa rằng cái đỉnh cao nhất mà con người có thể đạt tới không phải là Trí Thức, cũng không phải là Ðức Hạnh, lòng Từ Thiện hay sự Chiến Thắng. Nhưng là một cái gì cao viễn hơn, hùng vĩ hơn và tuyệt vọng hơn: sự Kinh Hoàng thiêng liêng.

    - Ông không trả lời sao? Zorba lo âu hỏi.

    Tôi cố gắng cho người bạn đồng hành của tôi hiểu thế nào là sự Kinh Hoàng thiêng liêng:

    - Chúng ta là những con sâu nhỏ, Zorba, những con sâu nhỏ, nhỏ xíu trên phiến lá nhỏ của một cây vĩ đại. Cái lá nhỏ đó là trái đất của chúng ta. Những cái lá khác là những vì sao mà bác thấy di động ban đêm. Chúng ta mò mẫm đi trên cái lá nhỏ của chúng ta trong khi cẩn thận xem xét nó một cách lo lắng. Chúng ta ngửi xem nó lành hay độc. Chúng ta nếm và thấy nó ăn được. Chúng ta nện chân xuống và nó kêu la như một sinh vật.

    “Một vài kẻ, những kẻ gan góc nhất, đi tới tận mép lá. Từ đó, chúng ta cúi xuống, mắt mở lớn nhìn vào khoảng không. Chúng ta run. Chúng ta đoán dưới chúng ta có một vực thẳm ghê sợ nào. Xa xa, chúng ta nghe thấy tiếng rì rào của những phiến lá khác của cái cây khổng lồ, chúng ta cảm thấy nhựa từ rễ dâng lên và tim chúng ta nở ra. Cúi mình như thế trên vực thẳm, với tất cả thân thể, với tất cả tâm hồn, chúng ta run lên vì kinh ngạc. Từ lúc đó khởi đầu...”

    Tôi ngừng lại. Tôi muốn nói: “từ lúc đó khởi đầu thi ca,” nhưng chắc chắn Zorba không hiểu nổi. Tôi nín lặng.

    - Cái gì khởi đầu? Zorba lo lắng hỏi. Tại sao ông ngừng lại?

    - ...Khởi đầu nỗi nguy hiểm cùng cực, Zorba. Người chóng mặt và mê sảng, kẻ sợ hãi; họ cố tìm một lời giải đáp để trấn an mình, họ nói: “Thượng Ðế.” Lại có kẻ ở tận mép lá, bình tĩnh, can đảm nhìn vực thẳm và nói: “Tôi thích.”

    Zorba suy nghĩ một lúc lâu. Hắn cố gắng hiểu. Cuối cùng hắn nói:

    - Ông biết không, tôi nghĩ tới cái chết từng giây phút. Tôi nhìn cái chết và tôi không hề sợ hãi. Tuy nhiên không bao giờ, không bao giờ tôi nói: “Tôi thích nó.” Không, tôi không thích nó chút nào! Tôi không đồng ý!

    Hắn yên lặng nhưng bỗng lại nổi giận:

    - Không, tôi không thuộc loại giơ đầu ra cho thần Chết như một con cừu và nói: “Làm ơn chặt đầu tôi đi để tôi lên thẳng Thiên Ðàng!”

    Tôi lắng nghe Zorba, bối rối. Hiền Nhân nào cố gắng dạy môn đồ sẵn sàng làm tất cả những gì luật ra lệnh phải làm? Nói: “vâng” trước tất yếu, biến cái không thể tránh được thành ý chí tự do? - Có lẽ đó là con đường nhân loại đưa tới giải thoát. Ðó là con đường thảm thương, nhưng không có con đường nào khác.

    Nhưng sự phản kháng? Phản ứng kiêu hãnh anh hùng rơm của con người để chinh phục tất yếu, để bắt luật lệ ngoại tại tuân phục luật nội tâm để khước từ tất cả sự hữu và sáng tạo một thế giới mới theo luật của tâm hồn mình, nghịch lại những luật lệ phi nhân của thiên nhiên ố một thế giới trong sạch hơn, tốt hơn, đạo đức hơn thế giới hiện tại?

    Zorba nhìn tôi, thấy rằng tôi không có gì để nói với hắn nữa, hắn nhẹ nhàng cầm lấy cái lồng để khỏi đánh thức con két, đặt nó cạnh đầu nằm và duỗi thẳng cẳng trên sỏi đá. Hắn nói:

    - Ngủ ngon nhé, ông chủ! Thế đủ rồi.

    Một cơn gió nồm mạnh từ Phi Châu xa xôi thổi lại. Cơn gió làm rau trái và những bộ ngực Crete căng lên và tăng trưởng. Tôi cảm thấy nó lướt qua trán tôi, môi tôi, cổ tôi, và tựa một trái cây, đầu óc tôi vỡ và nở ra.

    Tôi không thể và cũng không muốn ngủ. Tôi không nghĩ ngợi gì hết. Tôi chỉ cảm thấy một cái gì, một người nào đó trưởng thành trong tôi trong đêm oi nồng này. Tôi sống một cách sáng suốt cái kinh nghiệm kỳ lạ này: tôi thấy tôi đổi thay. Ðiều luôn luôn xảy ra trong phần sâu kín tối tăm nhất của lòng tôi lần này phơi ra ngoài ánh sáng, lồ lộ trước mắt tôi. Ngồi thu mình bên bờ biển, tôi ngắm cái phép lạ này xảy ra.

    Sao mờ nhạt, bầu trời sáng dần, và trên nền xán lạn, núi non, cây cối và chim hải âu hiện ra như được vẽ bằng những nét đan thanh.
    Kỳ 109



    Mấy ngày trôi qua. Lúa đã chín và những bông nặng trĩu xuống. Trên những cây ô-liu, những con ve sầu cứa không khí, những con côn trùng lóng lánh bay vù vù trong ánh sáng thiêu đốt. Một làn hơi nước từ biển bốc lên.

    Sáng nào Zorba cũng lặng lẽ tới núi từ sớm tinh mơ. Việc đặt dây cáp sắp kết thúc. Cột trụ đã trồng, dây cáp đã căng và những ròng rọc đã được móc vào. Zorba làm việc trở về vào lúc hoàng hôn, mệt lả. Hắn nhóm lửa, sửa soạn bữa ăn và chúng tôi ăn tối. Chúng tôi tránh đánh thức những con quỉ kinh khủng đang ngủ trong chúng tôi - tình yêu, cái chết, sự sợ hãi. Không bao giờ chúng tôi nói về góa phụ hay mụ Hortense hoặc Thượng Ðế. Lặng lẽ, chúng tôi ngắm biển xa xa.

    Trước sự im lặng của Zorba, những tiếng nói vĩnh cửu và phù phiếm một lần nữa lại nổi lên trong tôi. Một lần nữa ngực tôi lại choáng ngợp kinh hoàng. Tôi tự hỏi: “Thế giới này là gì? Mục đích của nó ra sao và bằng cách nào những kiếp sống phù du của chúng ta có thể hiệp trợ nhau đạt tới? Mục đích của con người là cùng với vật chất tạo ra nguồn hân hoan, theo Zorba; tạo ra tinh thần, theo những kẻ khác; nhưng nó đồng qui trên một bình diện khác. Nhưng tại sao? Nhằm mục tiêu nào? Và khi thân thể tiêu tan, có còn lại chút gì của cái ta gọi là linh hồn chăng? Hay không còn lại gì hết và khát vọng bất tử không thể làm nguôi được của chúng ta bắt nguồn không phải từ sự kiện chúng ta bất tử, nhưng từ sự kiện qua cuộc đời ngắn chẳng đầy gang của chúng ta, chúng ta phục vụ cho một cái gì bất tử?

    Một hôm tôi trở dậy tắm rửa. Trái đất dường như cũng trở dậy và tắm gội. Nó rực rỡ, mới tinh khôi. Tôi đi về làng. Bên trái tôi, biển xanh chàm im lìm. Bên phải, phía xa xa, cánh đồng lúa lấp lánh như một đạo quân võ trang trường thương bằng vàng. Tôi đi qua cây Vả của Cô, phủ đầy lá xanh và những cây vả nhỏ xíu, vượt qua vườn của góa phụ thật nhanh, không quay lại, và đi vào làng. Lữ quán nhỏ bây giờ bỏ hoang, vắng vẻ. Cánh cửa ra vào và cửa sổ không còn nữa; chó tha hồ chạy rông trong sân, phòng ốc trống trơn. Trong sạch. Chỉ còn lại một đôi giầy băng-túp rách tả tơi, vẹt gót với một búp len đỏ nằm trong một góc nhà. Trung thành, nó còn giữ lại hình thể chân bà chủ nó. Ðôi giầy băng-túp khốn khổ này, trắc ẩn hơn tâm hồn con người, chưa quên bàn chân thân yêu và bị bạc đãi vô cùng.

    Tôi trở về nhà hơi muộn. Zorba đã nhóm lửa và sửa soạn làm bếp. Khi hắn ngẩng đầu lên đón tôi, hắn biết ngay tôi đã đi đâu. Hắn cau mày. Sau biết bao ngày im lặng, tối nay hắn mở khóa trái tim và nói như muốn tự minh oan:

    - Tất cả mọi đau buồn đều bửa trái tim tôi ra làm đôi. Nhưng nó, tên bị rạch mặt sứt sẹo và đầy vết thương đó, nó khép miệng lại trong nháy mắt và không ai nhìn thấy vết thương đã thành sẹo, vì thế tôi chịu đựng lì lợm.

    - Bác quên mụ Bouboulina đáng thương nhanh quá, Zorba, tôi nói bằng một giọng khá tàn bạo, ngoài ý muốn.

    Zorba bực tức, hét to:

    - Một con đường mới, những dự định mới! Tôi đã thôi hồi tưởng cái gì đã xảy ra ngày hôm qua, thôi thắc mắc cái gì sẽ xảy ra ngày mai. Cái gì đang xảy ra ngày hôm nay, trong giây phút này, đó mới chính là cái tôi quan tâm. Tôi nói: Mi đang làm gì đó Zorba? Ta đang ngủ. Vậy, hãy ngủ cho ngon! Mi đang làm gì đó Zorba? Ta đang làm việc. Vậy hãy làm việc cho hăng. Mi đang làm gì đó, Zorba? Ta đang hôn một người đàn bà. Vậy, hãy hôn nàng cho say đắm, Zorba! Và hãy quên tất cả, không còn kẻ nào khác trên trần gian, chỉ có nàng và mi thôi, hôn đi!

    Một lát sau, hắn tiếp:

    - Khi mụ Bouboulina còn sống, không có một thứ Canavaro nào làm mụ sung sướng bằng tôi, lão Zorba tả tơi này. Tại sao vậy? Ông sẽ hỏi tôi. Bởi vì tất cả những tên Canavaro trên thế giới, trong khi hôn mụ, vẫn còn bận tâm về hạm đội của họ, về đảo Crete, về vua chúa của họ và vợ con họ. Nhưng tôi, tôi quên hết tất cả, tất cả, và mụ, con đĩ, mụ hiểu điều đó lắm - và hãy ghi nhớ điều đó, nhà đại thông thái, đối với đàn bà, không có lạc thú nào lớn hơn. Người đàn bà thực thụ, nghe kỹ lấy để mà biết đường mà xử thế, sung sướng nhiều lạc thú nàng ban cho hơn là lạc thú nàng nhận được từ người đàn ông.

    Hắn cúi xuống để thêm củi vào bếp lửa và im lặng.

    Tôi nhìn hắn và rất sung sướng. Tôi cảm thấy những giây phút sống trên bãi biển cô tịch này đơn giản, nhưng đầy giá trị nhân bản sâu xa và bữa ăn của chúng tôi mỗi buổi chiều tựa những nồi xúp mà thủy thủ thường nấu khi đổ bộ xuống một bãi biển hoang vắng - với cá, sò, hành và rất nhiều hạt tiêu - những nồi xúp này ngon hơn bất cứ một món nào khác và vô song trong việc bồi dưỡng tâm hồn con người. Ở đây, tại địa cầu trái đất chúng tôi cũng giống như hai kẻ đắm tàu.

    - Ngày mốt chúng ta sẽ khánh thành đường dây cáp treo, Zorba nói theo dòng tư tưởng của hắn. Tôi không đi trên mặt đất nữa, tôi bay bổng, tôi cảm thấy những cái ròng rọc trên vai tôi!

    Tôi hỏi:

    - Bác có nhớ cái mồi bác ném ra để nhử tôi trong quán café ở Piraeus không, Zorba? Bác nói bác biết nấu những món xúp tuyệt vời - và tình cờ đó lại là món tôi thích nhất. Bác có biết thế không?






    Kỳ 110



    Zorba lắc đầu với vẻ khinh khỉnh:

    - Tôi không biết ông chủ! Tự nhiên tôi nẩy ra ý nghĩa đó. Xem cách ông ngồi trong góc quán café, im lặng, xa cách, cắm cúi đọc cuốn sách nhỏ mạ vàng - tôi không biết tại sao chỉ cảm thấy ông thích súp, thế thôi. Tự nhiên tôi nẩy ra ý nghĩ đó, chẳng nên tìm hiểu làm gì!

    Hắn im lặng lắng tai nghe:

    - Im, có người đang đi lại!

    Chúng tôi nghe những bước chân hấp tấp và hơi thở hổn hển của người đang chạy. Thình lình, dưới ánh lửa leo lét, một tu sĩ áo rách, đầu trần, râu đỏ hoe và ria con kiến hiện ra. Gã mang theo gã một mùi dầu hôi hắc. Zorba kêu to:

    - Ê, mời cha vào đây, cha Zaharia! Sao cha đến nông nỗi này!

    Gã thầy tu ngồi sụp xuống đất, gần ngọn lửa. Cằm gã run run.

    Zorba cúi xuống và nháy gã:

    - Vâng, gã thầy tu đáp.

    Zorba la:

    - Hoan hô ông thầy tu! Bây giờ chắc chắn bạn sẽ lên Thiên Ðàng; không xẩy vào đâu được! Và bạn sẽ lên Thiên Ðàng với một thùng dầu hôi trong tay.

    - Amen! Gã tu sĩ vừa lẩm bẩm vừa làm dấu.

    - Chuyện đó xẩy ra thế nào? Bao giờ? Kể đi!

    - Tôi nhìn thượng đẳng thiên sứ Michael, đồng chí Canavaro. Ngài ra lệnh cho tôi. Nghe đây này: tôi ngồi bóc vỏ đậu trong bếp, cửa đóng kín. Có mỗi một mình tôi. Các Cha đã đi dự kinh vãn khóa, yên lặng hoàn toàn. Tôi nghe thấy chim hót bên ngoài tựa những thiên thần. Tôi rất bình tĩnh, tôi đã sửa soạn tất cả và tôi giấu nó trong tiểu giáo đường trong nghĩa trang, dưới Bàn Thánh, để cho thượng đẳng thiên sứ Michael ban phước lành cho nó.

    Thế rồi trưa hôm qua, tôi ngồi lột vỏ đậu trong bếp đầu óc tôi chỉ nghĩ đến Thiên Ðàng. Tôi nhủ thầm: “Lạy Chúa Giê-su, con cũng xứng đáng được lên Nước Thiên Ðàng lắm chứ, và con bằng lòng ngồi lột vỏ đậu trong bếp Thiên Ðàng đời đời!” Ðó, tôi nghĩ đến điều đó và nước mắt tôi trào ra. Thình lình tôi nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu tôi. Tôi hiểu ngay. Tôi vừa cúi xuống vừa run lên vì sợ hãi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng nói: “Zaharia, ngẩng đầu lên, đừng sợ!” Nhưng tôi run và ngã dúi xuống đất. “Ngẩng đầu lên, Zaharia!” tiếng nói lại cất lên. Tôi ngẩng đầu lên và tôi thấy: cửa mở, trên ngưỡng cửa thượng đẳng thiên sứ Michael đang đứng, giống hệt hình vẽ ngài trên cửa giáo đường của tu viện, giống hệt: cánh đen, dép săng-đan đỏ và một vầng hào quang vàng. Có điều thay vì cầm gươm, ngài lại cầm một bó đuốc cháy: “Chào Zaharia!” Ngài bảo tôi. “Con là tôi tớ của Chúa” tôi đáp, xin ngài cứ sai khiến! “Cầm lấy bó đuốc cháy này và cầu Chúa phò trợ cho ngươi!” Tôi chìa tay ra và cảm thấy lòng bàn tay rát bỏng. Nhưng thượng đẳng thiên sứ đã biến mất. Tôi chỉ nhìn thấy một tia lửa xẹt ngang bầu trời tựa một ngôi sao băng.

    Gã thầy tu lau mồ hôi trên mặt, gã đã trở nên tái xanh. Gã nghiến răng như thể gã lên cơn sốt rét.

    Zorba hỏi:

    - Sao nữa? Can đảm lên, Zaharia! Sau đó ra sao?

    - Ngay lúc đó, các Cha đọc kinh vãn khóa trở về và đi vào phòng ăn. Khi đi qua, tu viện trưởng đá tôi như đá một con chó và cả bọn thầy tu cười. Tôi lặng thinh. Từ khi thượng đẳng thiên sứ đi qua, trong không khí phảng phất mùi lưu huỳnh, nhưng không ai nhận thấy. Họ ngồi vào bàn ăn. Lão thư lại nói: “Kìa Zaharia không lại ăn à?” Tôi câm như hến.

    “Bánh của thiên thần đủ cho y rồi!” Demetrios, tên thú dâm nói. Bọn cha cố lại cười. Thế là tôi đứng lên đi thẳng tới nghĩa địa. Tôi nằm sấp dưới chân thượng đẳng thiên sứ. Tôi cảm thấy bàn chân ngài đặt trên cổ tôi suốt mấy giờ đồng hồ. Thời gian trôi qua nhanh như chớp. Giờ khắc và những thế kỷ sẽ trôi qua trên Thiên Ðàng như vậy. Ðã đến nửa đêm. Tất cả đều yên lặng. Bọn thầy tu đã đi ngủ hết. Tôi đứng dậy. Tôi làm dấu và hôn chân thượng đẳng thiên sứ. “Xin vâng lĩnh ý Chúa!” Tôi nói. Tôi cầm lấy thùng dầu, mở nút. Tôi nhét đầy giẻ vào trong áo. Tôi đi ra.

    “Ðêm đen như mực. Trăng chưa lên. Tu viện tối om như địa ngục. Tôi vào sân, trèo lên thang, tôi đến phòng tu viện trưởng, tôi đổ dầu trên cửa ra vào, cửa sổ, tường. Tôi chạy tới phòng Demetrios. Bắt đầu từ đây tôi đổ dầu tràn ngập các phòng và dọc theo hành lang bằng gỗ dài - đúng ý như bạn bảo tôi. Ðoạn tôi vào nhà thờ, châm một ngọn đèn cầy từ cái đèn chầu của Chúa và phóng hỏa!”

    - Cảm tạ Chúa! Gã vừa rống lên vừa làm dấu. Cảm tạ Chúa! Trong giây lát toàn thể tu viện đã ở trong biển lửa. “Lửa Ðịa Ngục!” Tôi la lên và chạy vắt giò lên cổ. Tôi ráng sức chạy và tôi nghe thấy tiếng chuông rung, bọn thầy tu la hét... Tôi chạy miết..




    Dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu và nhà văn Henry Miller (1891-1980) tại tư gia của ông ở Big Sur, Calif, năm 1980. Miller là tác giả một văn phẩm mà Nguyễn Hữu Hiệu dịch là “Thời Của Những Kẻ Giết Người” đã in trên Khởi Hành trước 1975.
    (Hình: Tài liệu của Viên Linh)

  4. #16
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 111



    - Trời sáng. Tôi trốn trong rừng. Tôi run. Mặt trời mọc và tôi nghe thấy bọn thầy tu sục sạo kiếm tôi trong bờ bụi. Nhưng Chúa đã cho một đám sương mù xuống phủ lấy tôi và chúng không thấy tôi.

    Ðến chiều tôi nghe thấy một tiếng nói vang lên: “Trốn xuống biển mau! -Thượng đẳng thiên sứ, xin dẫn dắt con!” Tôi kêu lên và lên đường. Tôi không biết đi đường nào, nhưng thượng đẳng thiên sứ dẫn dắt tôi, khi thì bằng những tia chớp, khi thì bằng một con chim đen trong rặng cây, hay bằng một con đường xuống núi. Và tôi cố sức chạy theo ngài, hoàn toàn phó mặc cho ngài. Và lòng tốt của ngài thật vô biên! Tôi đã thấy bạn, bạn Canavaro thân mến! Tôi được cứu rồi!

    Zorba không nói gì cả, nhưng trên khuôn mặt hắn một nụ cười rộng ngoác, xác thịt nở từ mép đến tận hai cái tai lừa lông lá của hắn.

    Bữa tối đã sẵn sàng, hắn nhấc nồi xuống khỏi bếp. Hắn hỏi:

    - Zaharia, bánh thiên thần là gì?

    - Tinh thần, gã tu sĩ vừa trả lời vừa làm dấu.

    - Tinh thần? Nói cách khác, gió? Gió đâu có nuôi dưỡng con người, ông bạn lại đây ăn bánh súp cá và một chút thịt cho nó lại người. Bạn đã làm được một việc hay! Vậy hãy ăn đi!

    - Tôi không đói, gã thầy tu nói.

    - Zaharia không đói, nhưng còn Joseph? Hắn cũng không đói nữa sao, Joseph?

    Gã tu sĩ nói khẽ như gã đang tiết lộ một bí ẩn lớn lao:

    - Joseph, tên bị nguyền rủa đó đã bị đốt cháy, cảm tạ Chúa!

    - Ðốt cháy? Zorba vừa la lên vừa cười. Hắn bị đốt cháy ra sao? Bao giờ? Bạn có nhìn thấy không?

    - Ðồng chí Canavaro, hắn bị đốt cháy lúc tôi châm nến ở ngọn đèn chầu của Chúa. Chính mắt tôi trông thấy hắn từ miệng tôi vọt ra như một giải băng đen viết chữ lửa. Ngọn lửa của cây đèn cầy bắt vào người hắn, hắn quằn quại như một con rắn và cháy thành than. Dễ chịu biết bao! Cảm tạ Chúa! Tôi có cảm tưởng tôi đã đi vào Thiên Ðàng rồi!

    Gã từ bên bếp lửa, nơi gã ngồi co ro, đứng lên:

    - Tôi ra ngủ ngoài bãi biển tôi được lệnh làm như vậy.

    Gã đi dọc theo bờ nước và mất hút trong đêm tối.

    Tôi nói:

    - Bác phải chịu trách nhiệm về gã, Zorba. Nếu những tu sĩ kia tìm thấy gã, gã đi đời mất.

    - Họ không thể tìm thấy gã, ông đừng lo, ông chủ. Tôi biết rõ trò chơi này lắm. Sáng sớm mai, tôi sẽ cạo râu cho gã, cho gã mặc quần áo thực sự con người và đưa gã xuống thuyền. Ðừng bận tâm về gã, không đáng gì cả, súp có ngon không? Hãy thưởng thức bánh của con người và đừng lo âu khắc khoải về bất cứ điều gì cả!

    Zorba ăn rất ngon lành, uống và vuốt ria. Bây giờ hắn muốn nói:

    - Ông có để ý không, ông chủ? Con quỉ của gã đã chết. Và bây giờ gã hoàn toàn trống rỗng, tội nghiệp, hoàn toàn trống rỗng, bỏ đi! Bây giờ gã giống như bất kỳ kẻ nào khác!

    Hắn suy nghĩ giây lát đoạn tiếp:

    - Ông chủ, ông có nghĩ rằng con quỉ của gã là...

    - Dĩ nhiên, tôi đáp. Ý tưởng đốt nhà thờ đã ăn sâu trong đầu óc gã, gã đã đốt và bình tĩnh trở lại. Ý tưởng đó muốn ăn thịt, uống rượu chín mùi và trở thành hành động. Zaharia khác không cần rượu hay thịt. Nó trưởng thành bằng cách chay tịnh.

    Zorba nghiền ngẫm hồi lâu:

    - Hay! Tôi tin rằng ông có lý, ông chủ, tôi nghĩ có lẽ tôi phải có tới năm hay sáu con quỉ trong tôi!

    - Tất cả chúng ta đều có, Zorba đừng sợ. Chúng ta càng có nhiều quỉ bao nhiêu, càng hay bấy nhiêu. Chỉ cần qua những đường lối khác nhau chúng cùng hướng về một mục đích giống nhau.

    Những lời nói ấy làm Zorba hoảng sợ. Hắn chúi đầu vào giữa hai đầu gối và suy nghĩ. Cuối cùng hắn ngẩng đầu lên hỏi tôi:

    - Mục đích nào?

    - Làm sao tôi biết được Zorba? Bác hỏi những câu khó quá. Làm sao tôi giải thích được?

    - Ông hãy nói thật giản dị để tôi có thể lãnh hội. Cho đến nay tôi luôn luôn để những con quỉ của tôi tự do muốn làm gì thì làm, muốn đi đường nào thì đi - vì thế người chê tôi bất lương, kẻ khen lương thiện, người bảo tôi gàn, kẻ cho tôi khôn ngoan như Solomon. Tôi là tất cả những thứ ấy và còn là nhiều thứ khác nữa, đúng là một thứ hổ loan. Ông hãy soi sáng giúp tôi, ông chủ... mục đích nào?

    - Theo tôi, Zorba - nhưng tôi có thể nhầm lẫn - có ba loại người: Có những kẻ coi việc sống đời mình là mục đích, như họ nói, ăn uống, làm ái tình, làm giầu, trở nên nổi tiếng. Rồi, có những kẻ coi là mục đích, không phải đời họ, mà là đời của tất cả mọi người. Họ cảm thấy tất cả chỉ là một và cố gắng khai hóa họ, hết sức thương yêu họ cà giúp đỡ họ. Cuối cùng, có những kẻ mà mục đích là sống cuộc sống của toàn thể vũ trụ: tất cả, con người, thú vật, cây cối, tinh tú, chúng ta chỉ là một, chúng ta chỉ là một thực thể cùng chiến đấu một cuộc chiến khủng khiếp. Cuộc chiến nào? - biến đổi vật chất thành tinh thần.


    Kỳ 112



    Zorba gãi đầu:

    - Sọ tôi cứng quá, ông chủ, tôi không rõ lắm... À, nếu ông có thể nhẩy những điều ông vừa nói thì tôi hiểu liền!

    Tôi thất kinh, cắn môi. Tất cả những tư tưởng tuyệt vọng này, ước gì tôi có thể nhẩy múa chúng! Nhưng tôi không thể nhẩy, đời tôi đã hỏng rồi.

    - Hay nếu ông có thể kể tất cả những điều đó thành một truyện thần thoại. Như Hussein Aga. Ðó là một lão già Thổ Nhĩ Kỳ, ở bên cạnh nhà tôi. Già lắm, nghèo lắm, không vợ, không con, hoàn toàn trơ trọi một mình. Quần áo tả tơi, nhưng rất bóng vì sạch sẽ. Chính tay lão giặt giũ, làm bếp, lau chùi sàn nhà. Buổi tối lão thường đến chơi nhà chúng tôi. Lão hay ngồi trong vườn với bà tôi và mấy bà lão khác và đan vớ.

    “Lão Hussein Aga là một người thánh thiện. Một hôm lão đặt tôi lên đầu gối lão và đặt tay lên tôi như thể lão ban phước lành cho tôi: Alexis, lão nói, ta sắp nói với con một điều bí ẩn. Nhưng bây giờ hãy còn bé quá chưa có thể hiểu nổi, nhưng khi nào con lớn lên con sẽ hiểu. Nghe lão đây, con: bẩy tầng trời cũng như bẩy tầng đất đều không đủ để chứa Thượng Ðế. Nhưng tâm hồn con người chứa đựng được Ngài. Bởi vậy hãy cẩn thận, Alexis, chớ có bao giờ làm thương tổn tâm hồn con người!”

    Tôi lẳng lặng nghe Zorba. Ước gì tôi chỉ mở miệng khi ý tưởng trừu tượng đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó - khi nó trở thành một truyện thần thoại! Nhưng đỉnh cao đó chỉ có những đại thi hào mới đạt được, hay một dân tộc, sau bao thế kỷ cố gắng lặng lẽ.

    Zorba đứng dậy.

    - Tôi đi thăm cái khúc củi cháy dở của chúng ta đã lại người chưa và ném cho gã cái mền để gã khỏi cảm lạnh. Tôi sẽ mang theo cái kéo, có việc phải dùng đến nó.

    Hắn vừa đi vừa cười dọc theo mé biển. Trăng vừa mọc và trải một ánh sáng xanh ngoét, bệnh hoạn trên trái đất.

    Ngồi một mình bên ngọn lửa tàn, tôi cân nhắc những lời nói của Zorba - ý nghĩa phong phú và toát ra một hương vị ấm áp của trần gian. Người ta có cảm tưởng chúng bốc lên từ lòng hắn và vẫn còn giữ được sức nóng nhân loại. Lời nói của tôi bằng giấy. Chúng từ đầu tôi xuống, hơi vấy một giọt máu. Và nếu chúng có một chút giá trị nào là nhờ giọt máu đó.

    Nằm sấp trên mặt đất, tôi đang cời than ấm, thì Zorba trở về, tay buông thõng, vẻ thảng thốt.

    - Ông chủ, đừng hoảng hốt...

    Tôi đứng nhỏm dậy.

    - Gã thầy tu chết rồi, hắn nói.

    - Chết rồi?

    - Tôi thấy gã nằm trên một tảng đá, trong ánh trăng chan hòa. Tôi quì xuống và bắt đầu cắt râu gã và phần ria còn lại. Tôi mặc sức cắt, cạo, gã không nhúc nhích. Hứng chí tôi cạo trọc đầu gã. Tôi cắt đi ít ra là nửa ký râu tóc. Lúc đó khi tôi trông thấy gã bị cạo trọc lóc như một con cừu tôi phá lên cười. “Này, signor Zaharia! Tôi vừa cười vừa lay gã, dậy mà xem phép lạ của Ðức Mẹ Ðồng Trinh!” Tha hồ lay, gã không thèm cựa quậy! Tôi lại lay nữa. Không ăn thua gì cả! Chẳng lẽ gã đáng thương đó chết! Tôi tự nhủ. Tôi cởi áo gã, banh ngực ra và đặt tay lên phía trái tim. Xem có tiếng thình thịch không? Không có gì cả! Bộ máy không chạy nữa.

    Hắn càng nói, càng vui vẻ. Cái chết đã khiến hắn lặng đi trong giây lát, nhưng hắn đã đặt nó vào vị trí của nó ngay.

    - Bây giờ chúng ta phải làm gì, ông chủ?

    Tôi nghĩ chúng ta nên đốt gã. Kẻ nào giết người bằng dầu hôi sẽ chết bằng dầu hôi. Tân Ước chẳng nói vậy là gì? Với quần áo bẩn thỉu khô cứng và tẩm đầy dầu hôi, gã sẽ bắt lửa như Judas vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh.

    - Bác muốn làm gì thì làm, tôi khó chịu nói.

    Zorba trầm ngâm suy nghĩ. Cuối cùng hắn nói:

    - Thực là bực mình, bực mình ghê gớm... Nếu tôi châm lửa gã, quần áo gã sẽ cháy như một bó đuốc, nhưng tội nghiệp gã chỉ có da bọc xương! Ốm nhom như gã, phải mất một thời gian lâu lắm mới cháy thành than được. Trên người gã không có nổi một chút mỡ để giúp ngọn lửa.

    Hắn lắc đầu, thêm:

    - Nếu Thượng Ðế hiện hữu, ông có nghĩ rằng ngài đã biết trước tất cả việc này và tạo ra cho gã mập mạp với thật nhiều mỡ để gỡ rối cho chúng ta không? Ông nghĩ sao?

    - Ðừng lôi kéo tôi vào việc này. Bác muốn làm gì thì làm, nhưng làm nhanh lên.

    - Tốt nhất là có một thứ phép lạ nào đó xẩy ra! Bọn thầy tu phải tin rằng Thượng Ðế trở thành một bác phó cạo, sau khi cạo cho gã ngài đã giết gã để trừng trị gã về tội đã gây tổn thất cho tu viện.

    Hắn gãi đầu:

    - Nhưng phép lạ nào? Phép lạ nào bây giờ? Ðây là chỗ ta trông cậy nơi ngươi, Zorba!

    Mảnh trăng lưỡi liềm sắp lặn đang lơ lửng trên đường chân trời, vàng ửng như một miếng kim loại nung đỏ.


    Kỳ 113



    Mệt mỏi, tôi đi ngủ. Khi tôi trở dậy vào lúc bình minh, tôi trông thấy Zorba đang pha cà phê bên tôi. Cặp mắt hắn mọng đỏ vì đã thức đêm. Nhưng đôi môi chề ra như môi dê của hắn mỉm cười một cách ranh mãnh.

    - Ðêm qua tôi không ngủ, ông chủ, tôi phải làm vài việc.

    - Việc gì, lão ba que xỏ lá?

    - Tôi làm phép lạ.

    Hắn cười và đặt ngón tay lên:

    - Tôi không nói đâu! Ngày mai là ngày khánh thành đường dây cáp. Những con heo thiến mập sẽ đến ban phước lành, lúc họ sẽ báo phép lạ mới của Ðức Bà Trừng Phạt - vĩ đại thay uy quyền Ðức Mẹ!

    Hắn đưa tôi cà phê, tôi tiếp:

    - Ông biết không, tôi sẽ là một tu viện trưởng tốt. Nếu tôi mở một tu viện, tôi cá với ông là tôi sẽ làm cho tất cả những tu viện khác phải đóng cửa và sẽ cướp hết khách hàng của họ. Bạn thích nước mắt ư? Một miếng bọt biển nhỏ thấm nước đặt sau những thánh tượng và tất cả những ông thánh của tôi sẽ khóc theo ý muốn. Sấm sét ư? Tôi sẽ nhét vào gầm Bàn Thánh một bộ máy phát ra tiếng nổ như pháo. Ma quỉ ư? Hai gã tu sĩ tâm phúc của tôi quấn khăn trải giường đêm đêm đi đi lại lại trên nóc tu viện. Và hàng năm, vào ngày lễ Ðức Mẹ tôi tụ tập một bọn què quặt, mù lòa và tê liệt cho người ta thấy họ lại nhìn thấy ánh sáng và đứng dậy nhẩy múa ca ngợi Ðức Bà!

    -Tại sao ông cười, ông chủ? Trước kia tôi có một ông chú, ông thấy một con la sắp chết. Người ta bỏ nó trong núi cho nó chết. Chú tôi mang về nhà. Buổi sáng nào ông cũng mang nó đi ăn cỏ và buổi tối lại dẫn nó về. Dân làng kêu: “Kìa, cha nội Haralambos, cha nội định làm gì với con lừa sống dở chết dở đó?”

    - Tôi dùng nó để mở xưởng chế tạo phân lừa. Này, ông chủ, trong tay tôi, tu viện sẽ trở thành một xưởng chế tạo phép lạ!



    25



    Suốt đời tôi không bao giờ quên được buổi chiều trước ngày mồng một Tháng Năm. Ðường dây cáp đã sẵn sàng, cột trụ, dây cáp và ròng rọc sáng chói trong ánh mặt trời ban mai. Những thân cây thông lớn đã được chất đống trên đỉnh núi và thợ thuyền đã túc trực trên đó chờ lúc móc thân cây vào dây cáp và thả xuống biển.

    Một lá cờ Hy Lạp lớn phất phới trên đỉnh cột ở điểm khởi hành trên núi và một lá trên đỉnh cột ở mức đến, trên bờ biển. Trước cửa lều, Zorba đã đặt một thùng vang nhỏ. Cạnh đó, một công nhân đang quay một con cừu béo trên một cây sắt nhọn. Sau lễ ban phước lành và lễ khánh thành, quan khách phải uống một ly rượu và chúc mừng chúng tôi trịnh trọng.

    Zorba cũng đã tháo lồng két và đặt nó trên một tảng đá cao gần cột trụ thứ nhất.

    - Cũng như tôi thấy chủ nó vậy, hắn vừa lẩm bẩm vừa nhìn nó một cách dịu dàng.

    Hắn móc túi lấy một nắm đậu phộng cho con két.

    Zorba mặc bộ quần áo diện nhất của hắn: áo chemise mở nút, veston xanh lá cây, quần dài xám, giầy gót cao su mềm. Quá hơn nữa, hắn còn lấy sáp chuốt bộ ria lúc này đã bắt đầu bạc mầu.

    Như một đức ông tiếp đón những công hầu bá tử khác, hắn lăng xăng chạy ra chào mừng những thân hào đang lục đục đến, và giải thích cho họ thế nào là đường sắt treo, đâu là lợi ích mà làng sẽ thâu lượm được, và Ðức Mẹ Ðồng Trinh trong ân sủng vô biên của Ðức Mẹ - đã mang lại cho hắn ánh sáng để thực hiện kế hoạch này ra sao. Hắn nói:

    - Ðó là một công trình quan trọng. Phải tìm độ dốc cho chính xác - cả một khoa học! Tôi đã moi óc hàng mấy tháng trường, nhưng vô hiệu quả. Hiển nhiên là đối với những công việc vĩ đại, đầu óc con người chưa đủ, cần phải có sự phò trợ của Thượng Ðế... Ðức Mẹ Ðồng Trinh thấy tôi lao khổ và Ðức Mẹ thương hại tôi: “Tội nghiệp Zorba, Ðức Mẹ nói, hắn không phải là một kẻ xấu, hắn làm tất cả vì lợi ích của làng, ta phải giúp hắn một tay mới được.” Ôi, phép lạ!

    Zorba ngừng lại và làm dấu ba lần...

    - Ôi, phép lạ! Một đêm, trong lúc tôi đang ngủ, một thiếu phụ mặc quần áo đen đến trước mặt tôi - đó là Ðức Mẹ Ðồng Trinh. Ðức Mẹ cầm trong tay một đường sắt treo kiểu mẫu, không lớn hơn chừng này. Ðức Mẹ nói: “Zorba, ta mang cho mi kiểu mẫu từ trên Thiên Ðàng. Ðây, theo độ dốc này và hãy nhận phước lành của ta!” Nói xong, Ðức Mẹ biến mất. Tôi hốt hoảng thức dậy, chạy tới chỗ thí nghiệm, và tôi thấy gì? Ðường dây tự nó đã mắc đúng độ dốc chính xác! Và nó ngào ngạt mùi an-tức-hương, chứng tỏ rằng bàn tay Ðức Mẹ đã chạm đến!

    Kondamanolio há miệng định hỏi, thì từ con đường đá lởm chởm, năm tu sĩ cưỡi la đã lần lượt kéo ra. Một người thứ sáu, vác một cây thánh giá gỗ lớn trên vai vừa chạy vừa la hét đằng trước họ. Chúng tôi cố gắng đoán xem y la hét gì, nhưng đành chịu.

    Chúng tôi nghe thấy những bài thánh ca. Ðám tu sĩ vẫy tay, làm dấu, móng lừa phản chiếu ánh sáng từ núi đá.


    Kỳ 114



    Tu sĩ đi chân đất đến gần chúng tôi, mồ hôi đầm đìa. Y nâng cây thánh giá lên cao, kêu to:

    - Hỡi tín đồ Cơ Ðốc Giáo, phép lạ! Hỡi tín đồ Cơ Ðốc Giáo, phép lạ! Các cha đang mang Ðức Mẹ Ðồng Trinh tới. Quì xuống và tôn kính ngài!

    Dân làng, hương mục và thợ thuyền xúc động chạy tới vây quanh tu sĩ làm dấu. Tôi đứng lên một chỗ. Zorba đưa mắt nhìn tôi thật nhanh, cặp mắt hắn sáng như sao. Hắn nói:

    - Ông cũng lại gần đi, ông chủ. Lại nghe phép lạ của Ðức Mẹ Ðồng Trinh rất nhiệm màu!

    Gã thầy tu hổn hển, bắt đầu kể:

    - Quì xuống, tín đồ Cơ Ðốc Giáo, nghe phép lạ thiêng liêng! Nghe đây, tín đồ Cơ Ðốc Giáo! Ma quỉ đã bắt hồn tên Zaharia đáng nguyền rủa và ngày hôm kia, thúc đẩy hắn lấy dầu tưới khắp tu viện. Nửa đêm, các cha trông thấy lửa. Các cha vội vàng thức dậy. Tu viện, hành lang, phòng các cha đều cháy. Các cha vừa rung chuông vừa kêu: “Xin cứu giúp chúng con! Ðức Bà Trừng Phạt!” và các cha sách bình và thùng chạy lại. Rạng ngày lửa tắt.

    Các cha tới tiểu giáo đường quì trước tượng thánh mẫu mầu nhiệm kêu gào: “Ðức Mẹ Ðồng Trinh Trừng Phạt! Xin Ðức Mẹ nâng dáo lên và đánh kẻ có tội!” Rồi các cha tụ họp trong sân và nhận thấy sự vắng mặt của Zaharia, tên Judas. Các cha la lên: “Chính hắn đã đốt chúng ta! Chính hắn đã đốt chúng ta! Và các cha đi kiếm hắn. Các cha lục soát suốt ngày, nhưng không thấy gì cả. Nhưng sáng hôm nay, các cha tới tiểu giáo đường một lần nữa và các cha thấy gì, các bạn? Một phép lạ kinh khủng! Zaharia nằm chết dưới chân tượng thánh mẫu và ở đầu ngọn dáo của Ðức Mẹ Ðồng Trinh hãy còn dính một giọt máu lớn!”

    - Kyrie eleison! Kyrie eleison! (*) dân làng kinh sợ lẩm bẩm.

    (*) “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con!” - N.H.H

    - Chưa hết đâu; gã tu sĩ vừa nói tiếp vừa nuốt nước bọt. Khi các cha cúi xuống nhấc tên Zaharia bị nguyền rủa lên, các cha thất kinh: Ðức Mẹ Ðồng Trinh đã cạo tóc, râu ria hắn - giống như một mục sư Thiên Chúa Giáo!

    Cố gắng lắm mới nhịn cười được, tôi quay sang nói khẽ với Zorba:

    - Ðồ bất nhân!

    Nhưng hắn chăm chú nhìn gã thầy tu, mắt mở lớn, đầy trang nghiêm và không ngớt làm dấu, tỏ sự kinh ngạc:

    - Lạy Chúa, Chúa cao cả thay, lạy Chúa, Chúa cao thay! Tuyệt diệu thay, công việc của Chúa!

    Ngay lúc đó những tu sĩ khác đến và xuống la. Cha phụ trách khoản đãi khách ôm tượng thánh mẫu; ông trèo lên một tảng đá và tất cả chạy lại, chen lấn nhau quì trước Ðức Mẹ Ðồng Trinh nhiệm màu. Sau cùng, lão Demetrios to béo bưng một đĩa quyên tiền và vẩy lên những cái đầu cứng rắn của dân quê một thứ nước màu hồng. Ba tu sĩ đứng xung quanh lão ta tụng thánh ca, bàn tay lông lá khoanh trước bụng, mồ hôi vã ra những hột lớn trên mặt lão. Lão Demetrios to béo nói:

    - Chúng tôi rước Ðức Mẹ đi vòng quanh những làng mạc ở Crete để những tín đồ có thể quì trước Ðức Thánh Mẫu và dâng lễ vật. Chúng tôi cần tiền, rất nhiều tiền để trùng tu tu viện...

    - Những con heo thiến mập! Zorba càu nhàu. Chúng lại định nhân cơ hội đó kiếm chác đây!

    Hắn lại gần tu viện trưởng:

    - Thưa Ðức tu viện trưởng tất cả đã sẵn sàng cho buổi lễ. Cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh ban phước lành cho công việc của chúng tôi!

    Mặt trời đã lên cao, không một đợt gió, trời nóng như thiêu. Những tu sĩ đứng xung quanh cột cờ cao. Họ lấy vạt áo rộng lau mồ hôi trán và bắt đầu đọc kinh cầu cho “sự xây dựng nhà cửa!”

    “Lạy Chúa, lạy Chúa, xin Chúa xây dụng cụ này trên đá rắn chắc để cho gió mưa không thể làm hư hoại được...”

    Họ nhúng cây ngù rảy nước thánh vào cái bát đồng và rảy lên đồ vật người ta, cột trụ và cuối cùng, dân quê, thợ thuyền và biển.

    Ðoạn, thận trọng như nâng giấc một người đàn bà đau ốm, họ nâng tượng thánh mẫu lên và đặt cạnh con két và đứng vây quanh. Bên kia là các vị hào mục, ở giữa là Zorba. Tôi đứng lảng ra gần biển và chờ đợi.

    Cuộc thí nghiệm được thực hiện với ba thân cây: Tam vị nhất thể. Tuy nhiên người ta thêm một cây thứ tư để tỏ lòng cám ơn Ðức Bà Trừng Phạt.

    Tu sĩ, dân làng và thợ thuyền làm dấu.

    - Nhân danh Ðức Chúa ba ngôi và Ðức Mẹ Ðồng Trinh! Họ lâm râm khẩn cầu.

    Bước một bước, Zorba đã ở cạnh cột trụ thứ nhất. Hắn kéo dây và hạ cờ xuống. Ðó là dấu hiệu những người thợ trên đỉnh núi chờ đợi. Toàn thể khán giả lùi lại và chú mục hướng về đỉnh núi.

    - Nhân danh Ðức Chúa Cha! Tu viện trưởng kêu to.

    Không thể tả được cái gì xảy ra lúc đó. Tai họa nổ tung như sấm sét. Những người dự lễ không kịp chạy. Toàn thể cơ cấu lung lay. Những thân cây thông mà thợ thuyền đã móc vào dây cáp lao xuống với một sức hung hăng ma quỉ. Tia lửa tóe ra, mảnh gỗ bắn tung trong không gian, và chỉ vài phút sau khi thân cây xuống thấp hơn chút nữa, nó chỉ còn lại một khúc củi gần cháy thành than.


    Kỳ 115



    Zorba lấm lét nhìn tôi. Tu sĩ và dân làng rút lui một cách thận trọng. Những con la bị cột bắt đầu hí lên. Lão Demetrios to lớn quị xuống, hổn hển.

    - Lạy Chúa, xin Chúa thương xót chúng con! Lão sợ hãi cầu nguyện.

    Zorba giơ tay lên, quả quyết:

    - Không sao hết. Cây đầu tiên bao giờ cũng vậy. Bây giờ máy đã trơn rồi... Nhìn đây!

    Hắn phất cờ, ra hiệu lần nữa và bỏ chạy.

    - Và Ðức Chúa Con! Tu viện trưởng run run kêu lên.

    Thân cây thứ hai đã thả xuống. Cột trụ lung lay, thân cây phóng nhanh, nhẩy nhót như một con cá heo và lao về phía chúng tôi. Nhưng nó không đi xa, nó tan tành ở lưng chừng núi.

    - Ma quỉ bắt nó! Zorba vừa lẩm bẩm vừa ngậm ria. Ðộ dốc trời đánh này chưa đúng!

    Hắn nhẩy tới cột trụ và điên cuồng phất cờ ra hiệu lần thứ ba. Những tu sĩ lúc bấy giờ đứng sau những con la của họ, làm dấu. Những hương mục thấp thỏm đứng chờ, sẵn sàng chạy.

    - Và Ðức Chúa Thánh Thần! Tu viện trưởng ấp úng cầu nguyện vừa vén áo lên chuẩn bị.

    - Nằm xuống! Zorba hét lên trong khi chuồn thật mau.

    Những tu sĩ nằm sấp xuống đất, dân làng chạy vắt giò lên cổ.

    Thân cây nhẩy lên một cái, rồi lại rơi xuống đường dây cáp, xẹt ra những chùm tia lửa và trước khi chúng tôi kịp trông thấy cái gì xảy ra, nó lướt qua sườn núi, bãi biển, cắm sâu xuống biển, tung bọt lên mãi tận ngoài xa.

    Cột trụ lung lay một cách đáng sợ. Nhiều cột ngả xuống. Những con la dứt đứt dây cương chạy trốn.

    Zorba nổi xung la lên:

    - Không sao hết! Không sao hết! Bây giờ máy đã trơn tru, có thể bắt đầu thực sự được rồi!

    Hắn phất cờ một lần nữa. Người ta cảm thấy hắn tuyệt vọng và vội vã muốn thấy tất cả những cái đó kết liễu ngay.

    - Và Ðức Mẹ Trừng Phạt! Cha tu viện trưởng lắp bắp trong khi ba chân bốn cẳng chạy tới tảng đá.

    Thân cây thứ tư lao xuống. Một tiếng “rắc!” khủng khiếp vang lên, rồi một tiếng “rắc!” thứ hai và tất cả cột trụ, tiếp theo nhau sụm xuống như một cỗ bài tây.

    - Kyrie eleison! Kyrie eleison! (*) dân làng, thợ thuyền vừa la hét vừa bỏ chạy tán loạn.

    Một mình Ðức Mẹ Ðồng Trinh đứng thẳng trên bệ đá, dáo trong tay, nghiêm khắc và lạnh lùng nhìn đám người phía dưới. Bên cạnh Ðức Mẹ lông xanh dựng cả lên, con két đáng thương run rẩy, thừa chết thiếu sống.

    Những tu sĩ ôm lấy Ðức Mẹ Ðồng Trinh, đỡ Demetrios đang rên rỉ đứng dậy, tụ tập la, cưỡi lên và rút lui. Người thợ phụ trách quay thịt, trong lúc hoảng hốt, đã bỏ con cừu chạy và thịt bắt đầu khét.

    - Con cừu sắp cháy thành than mất! Zorba vừa lo lắng kêu lên vừa nhào tới để quay cái xiên nướng.

    Tôi ngồi xuống bên hắn. Không còn ma nào trên bãi, chúng tôi hoàn toàn cô độc. Hắn quay lại nhìn tôi một cách dụt dè, lưỡng lự. Hắn không biết tôi sẽ có thái độ nào đối với tai biến đó, cũng không hiểu cuộc phiêu lưu này sẽ kết thúc ra sao.

    Hắn cầm lấy con dao cúi xuống con cừu, xẻo một miếng, nếm, lập tức lôi ngay con vật ra khỏi đống lửa và dựng xiên nướng vào một thân cây. Hắn nói:

    - Chín rồi, chín rồi ông chủ! Ông có muốn dùng một miếng không?

    - Mang cả rượu và bánh lại đây nữa, tôi đáp, tôi đói rồi.

    Zorba nhanh nhẩu lao tới lăn cái thùng rượu nhỏ lại gần con cừu, mang lại một ổ bánh trắng và hai cái ly.

    Mỗi người chúng tôi cầm một con dao, cắt hai miếng thịt, những lát bánh lớn và bắt đầu nhồm nhoàm ăn.

    - Ngon quá phải không, ông chủ? Nó tan trong miệng! Ở đây không có cỏ tươi, súc vật quanh năm ăn thuần những cỏ khô, vì thế thịt nó mới ngon như vậy. Thịt ngon như thế này, trong đời tôi, tôi chỉ được ăn có mỗi một lần. Tôi còn nhớ đó là hồi tôi thêu nhà thờ Saint-Sophia bằng tóc tôi và mang trên mình như bùa hộ mệnh. Tôi đã kể cho ông nghe rồi, chuyện cũ rích!

    - Kể đi, kể đi!

    - Chuyện cũ rích ấy mà, ông chủ! Những cái ngông cuồng Hy Lạp, những cái ngông cuồng điên rồ!

    - Kể đi Zorba, tôi thích!

    - Một buổi chiều tụi Hung Gia Lợi vây chúng tôi. Tôi nhìn thấy chúng đốt lửa trên sườn núi, xung quanh chúng tôi. Ðể làm chúng tôi sợ, bọn chúng bắt đầu đánh não bạt và hú lên như một bầy chó sói. Ít ra phải có tới ba trăm tên. Trong khi đó chúng tôi chỉ có hai mươi tám mống thêm Rouvas, xếp chúng tôi - Chúa cứu vớt linh hồn ông ta, nếu ông ta chết, ông ta là một thanh niên bảnh lắm! Ê, Zorba, ông ta nói, đặt cừu lên xiên nướng đi! Thưa, đào lỗ quay ngon hơn đại úy, tôi nói. Tùy, muốn làm sao thì làm, nhưng phải làm nhanh lên, anh em đói rồi!” Chúng tôi đào một cái lỗ đặt con cừu xuống đó, phủ một lớp than hồng lên trên, lấy bánh trong túi dết ra và ngồi quanh ngọn lửa. “Ðây rất có thể là con cừu cuối cùng của chúng ta ăn! Xếp Rouvas nói, ở đây có ai sợ không?” Cả bọn chúng tôi phá lên cười. Không ai thèm trả lời ông ta. Chúng tôi lấy bình rượu ra. “Mừng xếp!” Chúng tôi uống, uống nữa đoạn lôi con cừu ra khỏi lò. A, con cừu tuyệt làm sao, ông chủ! Khi tôi nghĩ tới nó, tôi còn chẩy nước miếng ra! Nó tan ra như kẹo loukoum. Không ngần ngại, chúng tôi nhai ngấu nghiến “Trong đời tôi chưa bao giờ được ăn con cừu nào ngon hơn!” Xếp của chúng tôi nói.


    Kỳ 116



    “Xin Chúa cứu vớt chúng con!” Và dầu chưa hề uống rượu bao giờ, ông ta uống một hơi cạn ly. “Các bạn hãy hát một bài hát Klepht!” Ông ta ra lệnh. “Những quân ở trên kia, chúng nó tru tréo như chó sói, chúng ta hãy ca hát như những con người. Bắt đầu bằng bài Lão Dimos”. Chúng tôi ăn ngấu nghiến, uống một chầu nữa. Rồi tiếng hát nổi lên, lớn dần, lớn dần, vang vọng qua những khe suối: “Ta đã là quân cướp Klepht trong bốn mươi năm, anh em ơi!...” Chúng tôi hát to và hăng hái. Ðại úy nói: “Hê! Hê! Vui quá! Miễn là nó kéo dài! Này, Alexis, nhìn thử cái lưng con cừu một chút... Nó nói gì?” Tôi bắt đầu cạo lưng con cừu và lại gần lửa để nhìn cho rõ hơn: “Thưa đại úy, tôi không thấy mồ mả gì cả, tôi la. Tôi cũng không thấy người chết. Chúng ta có thể thoát trùng vây lần nữa, anh em ơi! Ước gì Thượng Ðế nghe thấy lời mi, xếp của chúng tôi, người vừa lập gia đình, nói. Làm sao tôi có được một đứa con trai! Sau đó, muốn ra sao thì ra!”

    Zorba cắt một miếng thịt lớn quanh trái cật. Hắn nói:

    - Con cừu đó tuyệt vời lắm, nhưng con cừu này cũng chẳng kém gì!

    - Rót rượu nữa đi, Zorba. Rót đến tận miệng ly và chúng ta hãy uống cạn!

    Sau khi cụng ly, chúng tôi thưởng thức rượu, một thứ rượu vang hảo hạng Crete, hồng thắm như máu thỏ rừng. Uống rượu đó, là cảm thông với máu trái đất và người ta trở thành một thứ ba bị ăn thịt trẻ con! Mạch căng sinh lực, lòng đầy nhân từ. Con cừu trở thành sư tử. Người ta quên đi những cái ti tiện của cuộc sống, những khuôn khổ nhỏ hẹp gẫy vụn. Hợp nhất với người vật và Thượng Ðế, người ta trở thành một với vũ trụ.

    Tôi nói:

    - Chúng ta cũng thử nhìn cái lưng cừu này và xem nó nói gì nào. Bắt đầu đi, Zorba!

    Hắn mút những miếng thịt lưng rất cẩn thận, nạo sạch nó bằng con dao của hắn và lại gần lửa chăm chú nhìn.

    - Mọi sự đều tốt lành. Chúng ta sẽ sống một ngàn năm, ông chủ; chúng ta có một tấm lòng sắt đá!

    Hắn cúi xuống, xem xét cái lưng một lần nữa:

    - Tôi thấy một cuộc du lịch, một cuộc du lịch vĩ đại. Tôi nhìn thấy ở cuối cuộc hành trình là một ngôi nhà lớn có rất nhiều cửa. Chắc đó phải là kinh đô của một vương quốc nào, ông chủ. Hoặc tu viện nơi tôi sẽ là một tên gác cửa và buôn lậu, như chúng ta đã nói.

    - Rót rượu nữa đi, Zorba, và dẹp những lời tiên tri đi. Tôi xin nói cho bác biết, ngôi nhà lớn nhiều cửa đó là gì: Ðó là trái đất với những nấm mồ Zorba. Ðó là chặng cuối của cuộc hành trình. Chúc bác mạnh khỏe, đồ ba que xỏ lá!

    - Chúc ông mạnh khỏe, ông chủ! Người ta nói rằng vận may mù quáng. Nó không biết đi ngả nào, nó đụng vào người đi đường và người bị nó húc phải, được người ta gọi là kẻ có số đỏ! Cho cái thứ may mắn kiểu đó xuống địa ngục, chúng ta không cần, phải không ông chủ?

    - Chúng tôi không cần, Zorba! Chúc bác mạnh khỏe!

    Chúng tôi uống và ăn hết con cừu. Thế giới phiêu bồng hơn, biển tươi cười, trái đất lắc lư như boong một con tàu, hai con hải âu đi trên đá sỏi, chuyện trò như người ta.

    Tôi đứng dậy la lớn:

    - Lại đây Zorba, dạy tôi nhảy!

    Zorba nhảy lên, khuôn mặt hắn sáng ngời:

    - Nhảy hả ông chủ? Nhảy hả? Tuyệt diệu! Lại đây!

    - Nào bắt đầu đi Zorba, cuộc đời tôi đã thay đổi! Cố lên!

    - Ðể bắt đầu, tôi sẽ dạy ông điệu Zéimbékiko. Một vũ điệu man rợ, hùng dũng; chúng tôi, dân comtadji, chúng tôi thường nhảy trước khi lâm trận.

    Hắn cởi giầy, tất màu hoa cà, chỉ giữ lại áo chemise. Nhưng cảm thấy vẫn còn vướng vít, hắn cởi luôn cả chemise. Hắn ra lệnh cho tôi:

    - Nhìn chân tôi, ông chủ chú ý nhé!

    Hắn duỗi chân ra, đầu ngón chân chạm nhẹ mặt đất, đoạn duỗi chân kia; những bước chân lẫn vào nhau một cách tàn bạo, hân hoan, mặt đất vang dội như mặt cái trống.

    Hắn nắm lấy bả vai tôi, nói:

    - Nào, bạn, cả hai chúng ta cùng nhảy.

    Chúng tôi miệt mài nhảy. Zorba sửa cho tôi trang nghiêm kiên nhẫn, và rất đỗi dịu dàng. Tôi trở nên bạo dạn và cảm thấy những bàn chân nặng nề của tôi mọc cánh.

    - Hoan hô! Ông là một tay lỗi lạc! Zorba vừa la vừa vỗ tay làm nhịp. Hoan hô bạn trẻ! Cho sách vở bút mực đi đời nhà ma! Cho tài sản lời lãi đi đời nhà ma! Cho thợ thuyền và những tu viện đi đời nhà ma! Bây giờ ông có thể nhảy và học ngôn ngữ của tôi, tại sao chúng ta lại không có thể đối thoại được với nhau?

    Hắn nện sỏi bằng chân không và vỗ tay:

    - Ông chủ, tôi có nhiều điều muốn nói với ông. Tôi chưa hề yêu ai như yêu ông. Tôi có nhiều điều muốn nói với ông, nhưng lưỡi tôi không đạt đến. Bởi thế, tôi sẽ nhảy chúng! Ông hãy tránh ra kẻo tôi giẫm lên mất! Tiến lên! Hốp! Hốp!


    Kỳ 117



    Hắn nhẩy lên không, tay chân hắn như mọc cánh. Hắn càng nhẩy vút lên không, trên cái bối cảnh trời đất non nước này, hắn càng giống một thượng đẳng thiên sứ nổi loạn. Bởi vũ khúc của Zorba đầy thách đố, bướng bỉnh và nổi loạn.

    Dường như hắn đang la hét với trời: “Mi không làm gì được ta hết ngoài việc giết ta. Ðược rồi, giết ta đi, ta bất cần. Ta đã cho nỗi phiền muộn của ta tuôn ra rồi, ta đã nói tất cả những gì ta muốn nói rồi: ta đã có thì giờ nhẩy múa và ta không cần mi nữa!”

    Trong khi nhìn Zorba nhẩy múa, lần đầu tiên tôi hiểu nỗ lực chiến thắng trọng lực dị thường của con người hắn. Tôi khâm phục sức chịu đựng bền bỉ của hắn, sự khéo léo và niềm kiêu hãnh của hắn. Những bước chân hùng hổ và khéo léo của Zorba viết lại trên sỏi đá lịch sử quỉ quái của nhân loại.

    Hắn ngừng lại, ngắm đường dây cáp treo đổ thành những đống nối tiếp nhau. Mặt trời đang lặn, bóng đổ dài ra. Zorba quay sau tôi, và với cử chỉ quen thuộc của hắn, che miệng bằng lòng bàn tay.

    - Ô! Là! Là! Ông chủ, ông có trông thấy những tia lửa từ của quỉ đó tóe ra như mưa không?

    Chúng tôi phá lên cười.

    Zorba chồm lên tôi, ôm chầm lấy tôi và hôn tôi. Hắn dịu dàng nói:

    - Ông cũng đùa giỡn nữa à? Ông cũng đùa giỡn nữa à, ông chủ? Hoan hô, ông bạn!

    Chúng tôi lăn lộn cười, vật nhau vui vẻ một lúc lâu. Rồi, cả hai chúng tôi buông mình xuống đất, nằm dài trên sỏi, ôm nhau ngủ.

    Sáng sớm, tôi thức dậy và rảo bước đi dọc theo bờ biển về phía làng. Tim tôi đập rộn ràng. Trong đời tôi, ít khi tôi cảm thấy vui như vậy. Ðó không phải là một nỗi vui thông thường, đó là một sự khoan khoái phi phàm, phi lý và không thể chứng minh được. Lần này tôi mất hết tất cả tiền bạc, thợ thuyền, đường dây sắt treo, xe chở quặng! Chúng tôi đã thiết lập một hải cảng nhỏ để xuất cảng than và bây giờ chúng tôi không có gì để xuất cảng. Mất hết tất cả.

    Vậy mà chính vào giây phút đó, tôi có một cảm thức bất ngờ về giải thoát. Như thể trong mê lộ tối tăm và buồn thảm của tất yếu, tôi đã khám phá ra tự do đang nô giỡn một mình trong góc. Và tôi nô giỡn với nó.

    Khi tất cả đều đi ngược ý mình, còn có nỗi hân hoan nào lớn hơn mang tâm hồn mình ra thử thách xem nó đủ sức chịu đựng và can đảm? Một kẻ thù vô hình và toàn năng - kẻ gọi là Thượng Ðế, người kêu là ma quỉ - dường như lao vào tấn công chúng ta; nhưng chúng ta vẫn đứng vững. Mỗi lần khi trong thâm tâm chúng ta là những kẻ chiến thắng, mặc dù bên ngoài thảm bại hoàn toàn, con người đích thực cảm thấy một niềm kiêu hãnh và hân hoan vô tả. Tai họa ngoại tại biến thành một diễm phúc tối thượng và vững vàng.

    Tôi nhớ có một buổi chiều Zorba kể với tôi:

    -Một đêm, trên một ngọn núi tuyết phủ ở Macedonia, một trận cuồng phong khủng khiếp nổi lên. Nó lay chuyển cái lều nhỏ nơi tôi trú và muốn lật úp nó. Nhưng tôi đã làm cho nó trở nên vững chắc. Tôi ngồi một mình bên bếp lửa. Tôi cười cợt và la lên thách thức cơn gió: “Mi không vào lều của ta được, ta không mở cửa cho mi đâu, mi không dập tắt ngọn lửa của ta được, mi không lật úp lều của ta được đâu!”

    Với những lời nói đó của Zorba, tôi hiểu con người phải cư xử cách nào và hắn phải dùng ngôn ngữ nào với tất yếu quyền năng và mù quáng.

    Tôi đi nhanh trên bãi biển, tôi cũng nói với kẻ thù vô hình, tôi la: “Mi không vào tâm hồn ta được, ta không mở cửa cho mi đâu, mi không dập tắt ngọn lửa của ta được, mi không lật nhào ta được đâu!”

    Mặt trời chưa nhô lên khỏi núi. Mầu sắc pha trên nước - xanh da trời, xanh lá cây, hồng và sắc xà cừ; sâu trong nội địa, giữa những cây ô-liu, những con chim nhỏ thức giấc và hót ríu rít, ngây ngất vì ánh sáng ban mai.

    Tôi đi men theo mé nước để gửi lời từ biệt bãi biển cô liêu này, để ghi khắc nó vào tâm trí tôi và mang nó đi theo với tôi.

    Tôi đã biết nhiều nỗi hân hoan trên bãi biển này. Cuộc sống của tôi với Zorba đã mở rộng lòng tôi; một đôi lời của hắn đã khiến tâm hồn tôi lắng dịu. Người đàn ông này với bản năng không thể sai lầm và cặp mắt nguyên thủy sắc như diều hâu, đã đi bằng những con đường tắt chắc chắn và đã đến chóp đỉnh của nỗ lực - vượt qua cả nỗ lực, mà không hụt hơi.

    Một đám đàn ông, đàn bà đi qua, mang những giỏ đầy thực phẩm và những chai rượu vang lớn. Họ tới vườn để tổ chức ngày lễ mồng một tháng năm. Một thiếu nữ cất tiếng hát và giọng nàng trong như nước suối. Một cô bé, ngực non sớm nhú, hổn hển chạy vượt qua tôi và ẩn trên một tảng đá cao. Một người đàn ông râu đen, xanh xao và tức giận, đuổi theo cô bé...

    - Xuống ngay, xuống ngay..., ông ta hét bằng một giọng khàn khàn.


    Kỳ 118



    Nhưng cô bé, má đỏ au, giơ tay lên gập lại sau gáy và nhẹ nhàng đong đưa tấm thân ướt đẫm, tiếp tục hát:

    “Hãy nói với em trong tiếng cười, hãy nói với em trong tiếng khóc.

    Hãy nói rằng anh không yêu em, em cóc cần đâu.”

    - Xuống mau, xuống mau..., người đàn ông có râu hét, và cất giọng khàn khàn của ông ta lúc năn nỉ, lúc dọa nạt. Thình lình ông ta nhẩy lên, ôm lấy chân cô bé, ghì chặt. Cô bé khóc nức nở như thể cô ta chỉ chờ cử chỉ tàn bạo này để khóc cho nguôi.

    Tôi rảo bước. Tất cả những niềm vui bất chợt này xáo động lòng tôi. Mụ ngư nữ già trở lại tâm hồn tôi, mập mạp, thơm phức và thỏa thích vì hẳn mụ đã trương lên và xám ngoét. Da mụ chắc rạn nứt, thể dịch chắc đã rịn ra và những con sâu chắc chắn bây giờ đang bò lổn nhổn trên người mụ.

    Tôi lắc đầu kinh hoàng. Ðôi khi trái đất trở nên trong suốt và chúng ta trông thấy kẻ thống trị cuối cùng của chúng ta, con sâu, đêm ngày làm việc trong những xưởng thợ dưới đất của nó. Nhưng chúng ta vội quay mặt đi, bởi con người có thể chịu đựng được tất cả, trừ con sâu trắng nhỏ xíu đó.

    Ở cổng làng, tôi gặp người phát thư đang sửa soạn thổi cái kèn đồng của lão.

    - Một lá thư, ông chủ! Lão vừa nói vừa trao cho tôi một phong bì mầu xanh.

    Tôi giật mình, sung sướng, khi nhận ra nét chữ thanh nhã. Tôi vội vã qua làng, đi vào rừng ô liu và mở lá thư ra một cách bất nhẫn. Bức thư vắn tắt và được viết hối hả. Tôi đọc một hơi:

    “Chúng tôi đã tới biên thùy Georgia; chúng tôi đã thoát bọn Kurds, tất cả đều tốt đẹp. Cuối cùng, tôi hiểu thế nào là hạnh phúc. Câu cách ngôn: Hạnh phúc là làm tròn bổn phận, và bổ phận càng khó khăn bao nhiêu, hạnh phúc càng lớn bấy nhiêu, bây giờ tôi mới hiểu nổi, bởi vì bây tôi mới thực sự sống nó.

    “Trong vài ngày nữa, những sinh vật bị xua đuổi và sống dở chết dở này sẽ tới Batum, và tôi vừa nhận được một bức điện tín: ‘Những con tầu đầu tiên đã xuất hiện!’

    “Hàng ngàn người Hy Lạp thông minh, cần cù, với những người vợ háng rộng và những đứa con mắt sáng quắc chẳng bao lâu nữa sẽ được di cư tới Macedonia và Thrace. Chúng ta sắp truyền một dòng máu mới và can trường vào những mạch máu cổ của Hy Lạp.

    “Thú thực tôi hơi mệt, nhưng đáng kể gì? Chúng tôi đã chiến đấu, thưa thầy, và đã chiến thắng. Tôi sung sướng.”

    Tôi giấu lá thư và bước vội, tôi cũng sung sướng. Tôi theo con đường dốc cheo leo lên núi, vò nát giữa những ngón tay một cọng bách-lý-hương đang trổ hoa thơm ngát. Ðã gần đến trưa, bóng thu vào chân tôi. Một con két bay trên cao, cánh nó vỗ quá nhanh nên dường như bất động. Một con đa đa nghe thấy bước chân tôi, lao ra khỏi bụi và cất cánh bay vù vù trong không khí.

    Tôi sung sướng. Nếu tôi có thể, tôi đã cất tiếng hát lên để cảm xúc của tôi lắng xuống, nhưng tôi chỉ thốt lên được những tiếng kêu không rõ ràng. “Mi làm sao thế? Tôi tự hỏi một cách chế giễu. Mi ái quốc đến thế kia, vậy mà mi không biết nhỉ? Hay mi yêu quí bạn mi quá? Mi không biết xấu hổ sao? Hãy chế ngự mình và bình tĩnh lại đi.”

    Nhưng tôi, lòng lâng lâng khoan khoái, tôi tiếp tục vừa đi theo con đường mòn vừa la hét. Tôi nghe thấy tiếng lục lạc. Dê đen, nâu và xám hiện ra trên những tảng đá, trong ánh mặt trời chan hòa. Con dê đực đi đầu, cổ cứng ngắc. Mùi nó hôi nồng không gian.

    Một tên chăn dê nhẩy lên một tảng đá, đưa ngón tay vào miệng huýt sáo gọi tôi:

    - Ê, bạn! Bạn đi đâu? Bạn đuổi theo ai?

    - Tôi có việc bận! Tôi vừa nói vừa tiếp tục trèo.

    - Dừng lại một lát! Lại đây uống một chút sữa dê giải khát đã! Gã chăn dê lại hét, trong khi nhẩy từ tảng đá nọ qua tảng đá kia.

    - Tôi có việc bận! Tôi lại la. Tôi không muốn dừng lại nói chuyện làm cụt hứng niềm vui của tôi.

    - Ê! Bạn chê sữa của tôi nhé! Gã chăn dê giận dỗi nói. Thôi bạn đi đi, chúc bạn may mắn, khỏi cần!

    Gã lại đưa tay lên miệng huýt gió, và dê, chó, gã chăn dê khuất sau những tảng đá.

    Chẳng bao lâu, tôi tới đỉnh núi. Lập tức như thể đỉnh núi này là mục tiêu của tôi, tôi trở nên bình tĩnh. Tôi nằm dài trên một tảng đá trong bóng mát và nhìn đồng bằng và biển xa xa. Tôi hít thở thẳm sâu, không khí phảng phất mùi đan sâm và bách lý hương.

    Tôi đứng dậy, hái một ôm đan sâm làm gối và tôi lại nằm xuống. Tôi mệt. Tôi nằm nhắm mắt lại.

    Trong giây lát thần trí tôi bay bổng tới những cao nguyên tuyết phủ ở cuối trời. Tôi cố gắng tưởng tượng một đám đàn ông, đàn bà, bò đang hướng về miền Bắc và bạn tôi đi đầu, như con cừu đực đầu đàn. Nhưng chẳng bao lâu tâm trí tôi tối sầm lại và tôi cảm thấy muốn ngủ không thể nào cưỡng lại được.


    Kỳ 119



    Tôi muốn chống lại. Tôi không muốn bị chìm vào giấc ngủ. Tôi giương mắt thao láo. Một con quạ đậu trước mặt tôi trên một tảng đá, ngay trên đỉnh núi. Bộ lông xanh đen của nó sáng lóa trong ánh mặt trời và tôi thấy rõ cái mỏ vàng lớn của nó. Tôi lượm một hòn đá ném nó. Con chim bình tĩnh và khoan thai dang cánh.

    Tôi mở mắt ra, không thể chống lại lâu hơn nữa và giấc ngủ bỗng chụp lấy tôi trong chớp nhoáng.

    Tôi ngủ có lẽ không quá vài giây thì bỗng thốt lên một tiếng kêu và ngồi nhỏm dậy. Ngay lúc đó con quạ bay qua đầu tôi. Tôi tựa vào vách đá, toàn thân run rẩy. Một giấc mơ tàn bạo đã cắt ngang tâm trí tôi như một lưỡi gươm.

    Tôi thấy tôi đang ở Nhã Ðiển, một mình đi dọc theo phố Hermes. Mặt trời thiêu đốt, phố xá vắng vẻ, những cửa tiệm đóng cửa, cô độc hoàn toàn. Khi đi gặp nhà thờ Kapnikarea, tôi trông thấy bạn tôi, xanh xao hổn hển, từ công trường Lập Hiến chạy lại phía tôi. Bạn tôi bị một người rất cao gầy bước những bước khổng lồ đi theo. Bạn tôi mặc bộ quần áo ngoại giao chỉnh tề. Hắn nhận ra tôi và gọi tôi từ đàng xa, giọng hết hơi:

    - Kìa, thầy! Thầy mạnh giỏi? Biết bao năm nay tôi không được gặp thầy. Tối nay mời thầy lại chúng ta sẽ nói chuyện.

    - Ở đâu? Tôi cũng la rất lớn như thể bạn tôi ở rất xa và tôi phải hét rất lớn hắn mới có thể nghe thấy.

    - Công trường Ðoàn Kết, sáu giờ tối nay. Tại quán café “Suối Thiên Ðàng.”

    Tôi đáp:

    - Ðược rồi, tôi sẽ đến.

    - Thầy nói thầy sẽ đến, nhưng thầy không đến đâu, hắn nói bằng một giọng trách móc.

    Tôi la lớn:

    - Chắc chắn tôi sẽ đến! Ðưa tay đây!

    - Tôi vội lắm.

    - Tại sao vội? Ðưa tay đây!

    Hắn chìa tay ra, bỗng cánh tay hắn tuột ra khỏi vai và bay qua không khí tới nắm tay tôi.

    Tôi kinh hoàng vì bàn tay lạnh giá của hắn, hoảng hốt thức dậy và hét lên.

    Ngay lúc đó tôi chợt thấy con quạ liệng trên đầu tôi. Môi tôi dường như tiết ra nọc độc.

    Tôi quay về phương Ðông, đăm đăm nhìn chân trời như muốn xuyên qua khoảng cách và nhìn... Bạn tôi, tôi chắc chắn hắn đang trong cơn hiểm nghèo, tôi gọi to tên hắn ba lần:

    - Stavridaki! Stavirdaki! Stavridaki!

    Như thể tôi muốn cho hắn thêm can đảm. Nhưng tiếng nói của tôi chìm mất trong một vài sải tay trước mặt tôi và tan loãng trong không gian.

    Tôi cất bước trở về. Tôi chạy bổ xuống núi, cố gắng di chuyển nỗi đau đớn của tôi bằng sự mệt mỏi. Trí óc tôi nỗ lực nối kết một cách vô ích những mảnh thông điệp huyền bí mà đôi khi xuyên qua được thân thể và đi tới linh hồn. Trong tận cùng con người tôi, một sự xác thực sơ khai, sâu thẳm hơn lý trí, hoàn toàn thú vật, tràn ngập kinh hoàng. Sự xác thực mà một loài vật như cừu và chuột cảm thấy trước khi trận động đất phát khởi. Trong tôi thức giấc tâm hồn những con người đầu tiên như nó còn nguyên vẹn trước khi hoàn toàn tách lìa khỏi vũ trụ, khi nó còn cảm thấy chân lý một cách trực tiếp, không có sự can thiệp méo mó của lý trí.

    Tôi lẩm bẩm:

    - Hắn đang gặp nguy hiểm! Hắn đang gặp nguy hiểm! Hắn sắp chết! Có thể chính hắn cũng không ý thức được điều đó, nhưng tôi biết, tôi biết chắc chắn.

    Tôi chạy xuống núi, tôi loạng choạng trên một đống đá và ngã xuống đất, lôi cuốn theo những viên sỏi. Tôi đứng dậy, tay chân trầy chợt, vấy máu. Áo tôi rách, nhưng tôi cảm thấy khuây khỏa.

    “Hắn sắp chết, hắn sắp chết!” Tôi tự nhủ và cổ họng tôi se lại.

    Con người, kẻ bất hạnh, đã dựng xung quanh cuộc hiện hữu nhỏ bé đáng thương của hắn một thành lũy cao mà hắn tưởng là kiên cố lắm. Hắn ẩn náu trong đó và cố gắng mang lại một chút an ninh và trật tự. Một chút hạnh phúc. Tất cả mọi sự đều phải đi theo con đường đã vạch sẵn, tập quán tôn nghiêm, tuân theo những luật lệ đơn giản và an toàn. Trong hàng rào được phòng thủ để chống lại những cuộc xâm nhập khốc liệt của huyền bí này, những sự xác thực nhỏ nhoi của hắn lết đi một cách vững vàng như những con rết trăm chân. Chỉ có một kẻ thù ghê gớm, khủng khiếp và không đội trời chung: sự Ðại Xác Thực. Thế mà bây giờ sự Ðại Xác Thực ấy đã vượt qua những bức tường thành ngoài cùng và sẵn sàng lăn xả vào tâm hồn tôi.

    Khi về đến bãi biển của chúng tôi, tôi đứng lại thở một lát. Dường như tôi đã rút về đến chiến tuyến phòng thủ thứ hai của tôi và tôi đã trấn tĩnh lại. Tôi nhủ thầm: “Tất cả những thông điệp này đều phát sinh từ nỗi xao xuyến bên trong của chúng ta, và đã mặc bộ y phục sáng chói của biểu tượng. Nhưng chính chúng ta đã tạo ra chúng...” Tôi trở nên bình tĩnh hơn. Lý trí đã vãn hồi trật tự trong lòng tôi, hớt cánh con dơi lạ lùng, hớt cánh nó, hớt cánh nó cho đến khi biến nó thành một con chuột quen thuộc.

    Khi về đến lều, tôi cười sự ngây thơ của tôi! Tôi xấu hổ vì tâm trí tôi hoảng hốt quá nhanh như vậy. Tôi lại rơi xuống thực tại thường nhật, tôi đói khát, tôi cảm thấy kiệt lực, và những vết thương mà đá đã gây ra nhức nhối. Nhưng trên hết, tôi cảm thấy vô cùng an tâm; kẻ thù khủng khiếp đã thâm nhập vào những bức tường thành bên ngoài đã bị chặn đứng bởi chiến tuyến phòng thủ thứ hai của tâm hồn tôi.


    Kỳ 120



    26

    Thế là hết. Zorba thu dọn dây cáp, dụng cụ, xe goòng nhỏ, sắt vụn và gỗ để làm nhà và chất thành một đống trên bãi biển để chờ thuyền đến chở đi.

    Tôi nói:

    - Tôi tặng bác đó, Zorba. Của bác hết tất cả. Chúc bác may mắn.

    Zorba nuốt nước bọt như thể hắn muốn nén một tiếng nức nở.

    Hắn thì thầm:

    - Chúng ta chia tay nhau ư? Ông định đi đâu, ông chủ?

    - Tôi sắp đi ngoại quốc, Zorba. Hãy còn khá nhiều giấy má cho nó gậm nhấm, cái con dê ở trong tôi.

    - Ông chưa sửa đổi mình sao, ông chủ?

    - Có chứ, Zorba, nhờ bác, nhưng tôi đang đi con đường của bác, tôi sắp làm với sách vở điều bác đã làm với những trái anh đào; tôi sắp ngốn sách vở đến độ buồn nôn, tôi sẽ mửa ra và sẽ thoát khỏi nó mãi mãi.

    - Và tôi sẽ ra sao khi không có ông bầu bạn, ông chủ?

    - Ðừng phiền não, Zorba, chúng ta sẽ còn gặp lại nhau, biết đâu, sức mạnh con người thật khủng khiếp. Một ngày kia chúng ta sẽ thực hiện dự định vĩ đại của chúng ta; chúng ta sẽ xây một tu viện của riêng chúng ta, không Thượng Ðế cũng chẳng ma quỉ gì ráo, chỉ có những con người tự do; và bác sẽ đứng ở cổng. Zorba, tay cầm một chùm chìa khóa thật lớn để mở và đóng cổng, hệt như Thánh Peter...

    Zorba, ngồi bệt dưới đất, lưng dựa vào lều, rót rượu không ngừng, uống cạn và không nói gì cả.

    Ðêm đã xuống, chúng tôi dùng bữa xong. Chúng tôi nhắp rượu từng ngụm nhỏ và chuyện trò với nhau lần cuối cùng.

    Sáng sớm mai chúng tôi sẽ chia tay.

    - Vâng, vâng..., Zorba vừa nói vừa bứt ria và cạn ly. Vâng, vâng...

    Trời đầy sao, đêm trên đầu chúng tôi lai láng, xanh biếc; trong chúng tôi, tâm hồn chúng tôi muốn nguôi sầu, nhưng tự kìm hãm.

    “Hãy nói với hắn lời từ biệt mãi mãi, tôi nghĩ. Hãy nhìn hắn thật kỹ; không bao giờ, không bao giờ nữa mắt ngươi còn thấy lại Zorba!”

    Chút nữa thì tôi lao vào bộ ngực già nua của Zorba và nức nở khóc, nhưng tôi xấu hổ. Tôi cố gắng cười để che đậy cảm xúc, nhưng tôi không đạt được mục đích. Cổ họng tôi se lại.

    Tôi nhìn Zorba đang vươn cái cổ như cổ chim mồi ra lặng lẽ uống. Tôi nhìn hắn và mắt tôi mơ màng. Cuộc đời, miền bí ẩn tàn khốc là gì? Người ta gặp nhau để biệt ly như những chiếc lá mà gió cuốn bay; cặp mắt cố ghi giữ uổng công hình ảnh của khuôn mặt, thân thể hay cử chỉ của “người yêu dấu” trong một vài năm ta không còn nhớ được đôi mắt chàng xanh hay đen.

    “Nó phải được làm bằng đồng, nó phải được làm bằng thép, cái tâm hồn con người! Tôi kêu thầm trong tôi. Nó không được làm bằng hư không!”

    Zorba uống, giữ cái đầu to lớn thẳng, bất động. Dường như hắn lắng nghe trong đêm những bước chân lại gần hay dời xa trong tận cùng con người hắn.

    - Bác đang nghĩ gì đó, Zorba?

    - Ông muốn tôi nghĩ gì, ông chủ? Không nghĩ gì hết. Không nghĩ gì hết. Tôi không nghĩ ngợi gì hết!

    Lát sau, hắn lại rót rượu đầy ly:

    - Chúc ông chủ mạnh khỏe!

    Chúng tôi cụng ly. Cả hai chúng tôi cùng hiểu rằng một nỗi buồn tê tái như thế này không thể kéo dài lâu hơn nữa. Chúng tôi phải bật khóc hay say sưa hoặc bắt đầu nhẩy một cách cuồng dại.

    - Chơi đàn đi, Zorba! Tôi đề nghị.

    - Tôi đã nói rồi mà, ông chủ. Cây santuri cần một tâm hồn vui vẻ. Tôi sẽ chơi trong một tháng, có thể trong hai tháng, trong hai năm, tôi không biết! Tôi sẽ hát hai kẻ ly biệt nhau mãi mãi thế nào!

    - Mãi mãi! Tôi kinh sợ la lên.

    Tôi đã thầm nhủ cái tiếng không thể cứu vãn được này trong tôi, nhưng tôi không chờ đợi nghe nói ra. Tôi sợ hãi.

    - Mãi mãi! Zorba vừa nhắc lại vừa nuốt nước miếng một cách khó khăn. Vâng, mãi mãi. Ðiều ông vừa nói rằng chúng ta sẽ còn tái ngộ, xây dựng tu viện của chúng ta là những lời an ủi không xứng đáng, tôi không chấp nhận! Tôi không muốn vậy. Sao? Chúng ta có phải là đàn bà yếu đuối đâu mà phải cần những lời an ủi? Vâng, mãi mãi!

    - Có thể sẽ ở lại đây với bác..., tôi nói, thất kinh vì sự dịu dàng man rợ của Zorba. Có thể tôi sẽ đi với bác. Tôi tự do!


    Kỳ 121



    Zorba lắc đầu:

    - Không, ông không tự do. Cái dây trói buộc của ông dài hơn người khác một chút. Có thế thôi. Ông có một sợi dây trói buộc dài, ông chủ, nhưng ông không bao giờ cắt đứt nó. Và khi người ta không cắt đứt sợi dây đó...

    - Một ngày kia tôi sẽ cắt đứt nó! Tôi nói một cách thách đố, bởi những lời nói của Zorba đã đụng vào một vết thương hé miệng trong tôi và tôi đau đớn.

    - Khó lắm, ông chủ, khó lắm. Muốn vậy, phải có một chút điên; điên, ông nghe chưa? Phải liều lĩnh! Nhưng ông, ông có một cái đầu rắn chắc và nó sẽ thắng ông. Ðầu óc là một tên chủ tiệm bán thực phẩm sổ sách, tôi đã chi bao nhiêu, tôi đã thu bao nhiêu nó ghi giữ tiền, đây là lời của tôi, đây là lỗ lã! Ðó là một tên lái buôn, có con thận trọng; nó không chịu chơi hết mình, nó luôn dè sẻn dành dụm lại. Nó không bao giờ cắt đứt sợi dây. A, không! Nó nắm thật chặt lấy, quân chó đểu! Nếu sợi dây tuột khỏi tay nó, nó hỏng, lúa đời, thật đáng thương! Nhưng nếu ông không cắt đứt sợi dây, nói tôi nghe, đời có còn hương vị gì? Hương vị nước ốc ao bèo! Không phải là rượu rhum khiến ta nhìn thấy mặt trái của đời!

    Hắn nín lặng, tự chuốc rượu uống, nhưng đổi ý kiến.

    - Ông phải thứ lỗi cho tôi, ông chủ, tôi là một kẻ quê kệch vụng về. Những chữ dính vào răng tôi như bùn dính vào chân. Tôi không thể đặt những câu hoa mĩ và khen tặng. Tôi không thể làm được. Nhưng ông hiểu, ông chủ.

    Hắn cạn ly và nhìn tôi:

    - Ông hiểu! Hắn la lớn như thể thình lình cơn giận dữ bỗng tràn ngập hắn. Ông hiểu, và chính vì thế ông bất an. Nếu ông không hiểu, ông đã sung sướng! Ông thiếu cái gì? Ông còn trẻ thông minh, ông có tiền, có sức khỏe, ông là một kẻ trung hậu nhân từ; ông không thiếu gì hết. Không thiếu gì hết, thế mới giận chứ! Trừ một điều duy nhất - điên cuồng. Và khi thiếu cái đó, ông chủ...

    Hắn lắc cái đầu to lớn và lại im lặng.

    Tôi suýt bật khóc. Tất cả những điều Zorba nói đều đúng. Lúc còn nhỏ, tôi đầy những rung động điên cuồng những ước vọng vượt quá con người và thế giới không thể chứa đựng nổi tôi.

    Dần dần, với thời gian tôi trở nên khôn ngoan. Tôi thiết định những giới hạn, tách biệt cái khả thể khỏi cái bất khả, nhân loại khỏi thần linh, tôi giữ chặt cái diều của tôi để nó khỏi thoát bay.

    Một ngôi sao băng lớn rạch ngang trời; Zorba giật nẩy mình, trợn tròn mắt, như thể lần đầu tiên hắn nhìn thấy một ngôi sao băng.

    - Ông thấy ngôi sao không? Hắn hỏi.

    - Có.

    Chúng tôi yên lặng.

    Hốt nhiên Zorba vươn cao cái cổ khẳng khiu căng lồng ngực ra và thốt lên một tiếng kêu man rợ và tuyệt vọng. Và lập tức tiếng kêu đó biến thành tiếng nói của con người, và từ đáy lòng Zorba dâng lên một điệu Thổ Nhĩ Kỳ buồn bã, đầy thê lương và cô đơn.

    Lòng đất cũng bửa ra làn đôi, nọc độc êm ái dịu dàng của Ðông Phương trào ra. Tôi cảm thấy trong tôi bao nhiêu dây nhợ còn nối kết tôi với can đảm và hy vọng mục nát dần:

    Iki kiklik tependé otiyor

    Otme dé, kiklik, bemin dertim yetiyor, aman! Aman!

    Sa mạc, cát mịn ngút mắt. Không khí rung động, hồng,xanh, vàng; thái dương nổ vỡ, tâm hồn thốt lên một tiếng điên cuồng và mừng quýnh vì bởi không có tiếng thét nào đáp lại. Mắt tôi đầm đìa lệ.

    “Ðôi đa đa hót trên non;

    Mày đừng hót nữa đa đa, sầu riêng đã đủ héo hon ta rồi, aman, aman!”

    Zorba nín lặng. Hắn lấy ngón tay quyệt phắt những giọt mồ hôi trên trán. Hắn cúi xuống, đăm đăm nhìn mặt đất.

    Một hồi lâu sau tôi hỏi.

    - Bài hát Thổ Nhĩ Kỳ đó là bài nào thế, Zorba?

    - Bài hát của người chăn giữ lạc đà. Ðó là bài hát tên chăn lạc đà hát trong sa mạc. Bao năm qua tôi không nhớ nó. Thế mà tối nay...

    Hắn ngẩng đầu lên nhìn tôi; giọng hắn tắc nghẹn cổ họng hắn se lại.

    - Ông chủ, đã đến giờ ông đi ngủ rồi đó. Ngày mai ông phải dậy từ sớm để đến Candia kịp chuyến tầu. Chúc ông ngủ ngon!

    - Tôi không buồn ngủ, tôi đáp. Tôi sẽ thức với bác. Ðây là buổi tối cuối cùng chúng ta sống với nhau.

    - Chính vì lẽ đó chúng ta phải sớm kết thúc nó! Hắn vừa la vừa úp cái ly không, dấu hiệu hắn không muốn uống nữa. Ðó, như vậy đó, như những người đàn ông đích thực dứt hẳn thuốc lá, rượu hay cờ bạc. Như một vị anh hùng Hy Lạp, một Palikari.

    “Cha tôi cũng là một Palikari dũng cảm. Ðừng thèm nhìn tôi. Tôi chỉ là một kẻ yếu đuối cạnh cha tôi. Tôi không bén gót cha tôi. Cha tôi là một trong những người Hy Lạp ngày xưa mà người ta thường nhắc đến. Khi ông bắt tay người ta, ông gần như nghiền nát xương người ta ra.
    Kỳ 123



    Trên mặt sau bưu thiếp là hình Zorba, tươi tỉnh, mặc quần áo tân lang, với cái mũ trùm đầu lông thú, một cây gậy lịch sự và một cái áo khoác dài mới tinh. Ðu vào cánh tay hắn là một người đàn bà Tư Lạp Phu xinh xắn không quá hai mươi lăm tuổi, một con ngựa rừng cái hông háng đồ sộ, vẻ thách thức, bướng bỉnh, chân cao, ngực nở. Dưới bức hình thêm vài chữ như gà bới của Zorba:

    “Tôi, Zorba và cái công việc bất tận, đàn bà - lần này nàng tên là Lyuba.”

    Suốt mấy năm đó tôi du lịch ở ngoại quốc. Tôi cũng có công việc bất tận của tôi. Nhưng nó không có ngực nở, không có áo khoác mới, không có heo cho tôi.

    Một hôm ở Bá Linh, tôi nhận được một bức điện tín:

    “Tìm thấy một viên đá xanh tuyệt vời. Tới ngay, Zorba.”

    Ðó là thời kỳ nạn đói lớn đang hoành hành ở Ðức. Ðồng mark sụt xuống quá thấp đến nỗi muốn mua một vật nhỏ nào, ngay cả một con niêm, người ta bắt buộc phải mang hàng va-li tiền. Ðói lạnh, quần áo rách, giầy lủng lỗ khắp nơi và những gò má Ðức hồng hào trở nên xanh xao. Gió bấc thổi và người ngả xuống lòng phố tựa những chiếc lá úa trước cuồng phong. Người ta nhét vào miệng trẻ những miếng cao su để nhá cho bớt khóc. Ban đêm cảnh sát phải gác trên những cây cầu để ngăn những bà mẹ khỏi ôm con nhảy xuống sông cho thoát nợ.

    Lúc đó đang vào Mùa Ðông, tuyết đổ. Trong một căn phòng kế phòng tôi, một giáo sư Ðức chuyên dạy Ðông Phương ngữ cố sưởi ấm mình bằng cách cầm một cây cọ, và theo một tập quán vất vả ở Viễn Ðông, chép lại mấy bài cổ thi Trung Quốc hay một câu châm ngôn của Ðức Khổng Tử. Ðầu cây cọ, khuỷu tay nâng cao và tim của nhà bác học làm thành một hình tam giác.

    Ông ta thường nói với tôi:

    - Sau một vài phút, mồ hôi bắt đầu từ nách tuôn ra. Tôi sưởi ấm bằng cách đó.

    Chính trong những ngày cay đắng này tôi nhận được bức điện tín của Zorba. Trước hết, tôi phẫn nộ. Hàng triệu người đang suy đồi, tồi tệ bởi họ không có nổi ngay cả một mẩu bánh để nâng đỡ thân thể và tâm hồn họ và đây bức điện tín mời tôi vượt hàng ngàn cây số để xem một viên đá xanh đẹp đẽ! Xéo đi, cái đẹp! Nó vô tình và không quan tâm mẩy may tới nỗi thống khổ của con người!

    Nhưng chẳng bao lâu, tôi hốt hoảng: Cơn giận dữ của tôi đã lắng xuống, tôi kinh sợ nhận thấy trước tiếng kêu gọi phi nhân của Zorba, một tiếng kêu phi nhân khác trong tôi đang vỗ cánh muốn xa bay.

    Tuy nhiên tôi không đi. Tôi không nghe theo tiếng la thét thần thánh và man rợ dâng lên trong tôi: Tôi không hành động một cách phi lý và cao nhã. Tôi nghe theo tiếng nói ôn hòa, lạnh lùng, nhân loại của luận lý. Bởi thế tôi cầm bút viết cho Zorba, giải thích lý do.

    Và hắn trả lời:

    “Xin ông thứ lỗi cho tôi, ông là một tên cạo giấy, ông chủ. Ông cũng có thể thấy một viên đá xanh đẹp đẽ ít nhất là một lần trong đời ông, kẻ đáng thương, và ông không nhìn. Ðôi khi rảnh rỗi tôi tự hỏi: “Ðịa Ngục có hay không?” Nhưng hôm qua, khi nhận được thư ông, tôi nói: “Chắc chắn phải có một cái địa ngục cho một vài tên cạo giấy như ông!”

    Từ đó hắn không viết thư cho tôi nữa. Những biến cố kinh khủng mới lạ chia cách chúng tôi. Thế giới tiếp tục lảo đảo như một kẻ bị thương, như một tên say rượu. Mặt đất mở ra và tình bằng hữu và những lo âu cá nhân đều bị lấp vùi.

    Tôi thường nói với các bạn tôi về tâm hồn vĩ đại này. Chúng tôi thán phục phong độ kiêu hãnh và chắc chắn, ở bên kia lý trí, của con người thất học này. Những đỉnh cao tinh thần chúng tôi phải mất nhiều năm tháng nỗ lực lao khổ để khắc phục, Zorba nhảy phắt một cái đã tới. Lúc đó chúng tôi bảo nhau: “Zorba là một tâm hồn lớn!” Hoặc hắn nhảy qua những đỉnh cao này, khi ấy chúng tôi nói: “Zorba điên!”

    Thời gian trôi qua như vậy, bị đầu độc một cách êm ái bởi kỷ niệm. Một bóng đen khác, bóng bạn tôi, đổ trên tâm hồn tôi. Nó không bao giờ rời bỏ tôi - bởi chính tôi không muốn rời bỏ nó.

    Nhưng tôi không nói với ai về cái bóng này. Tôi nói với nó trong thầm lén, và nhờ nó, tôi hòa giải với cái chết. Nó là cây cầu bí mật của tôi bắc qua bên bờ kia. Khi linh hồn tôi vượt qua, tôi thấy nó mệt mỏi và xanh xao; nó không đủ sức để bắt tay tôi nữa.


    Kỳ cuối



    Tôi la lên:

    - Quan trọng gì đâu? Tình yêu mạnh hơn cái chết.

    Hắn lại mỉm cười chua chát, nhưng không nói gì cả. Tôi cảm thấy thân thể hắn tan rã trong bóng tối, trở thành tiếng nức nở, thở dài và chế lời diễu cợt.

    Hương vị cái chết đọng trên môi tôi trong nhiều ngày. Cái chết đã đi vào đời tôi với một khuôn mặt quen thuộc thân yêu, như một người bạn đến đón ta và kiên nhẫn ngồi chờ trong một góc cho đến khi ta làm xong công việc.

    Nhưng bóng của Zorba luôn luôn lởn vởn quanh tôi ghen tuông.

    Một đêm, tôi ngồi một mình trong nhà tôi bên bờ biển trên đảo Aegina. Tôi cảm thấy sung sướng, cửa sổ hướng ra biển mở rộng, ánh trăng đi vào, biển thở dài, nó cũng sung sướng. Thân thể tôi mệt mỏi một cách khoái lạc vì bơi quá nhiều, say giấc điệp.

    Ðột nhiên giữa hạnh phúc chứa chan đó, Zorba hiện lên trên giấc mơ của tôi vào lúc bình minh. Tôi không nhớ nổi hắn nói gì cũng không nhớ tại sao hắn tới. Nhưng khi tỉnh dậy, trái tim tôi muốn nổ tung ra. Không biết tại sao, mắt tôi đầm đìa nước mắt. Tôi vô cùng ao ước phục hồi lại cuộc sống chúng tôi đã sống bên nhau trên bờ biển Crete, bắt trí nhớ tôi hồi tưởng và thu thập tất cả những lời nói, tiếng la hét, điệu bộ, tiếng cười, tiếng khóc, những bước nhẩy của Zorba tản mác trong đầu óc tôi, để bảo toàn chúng.

    Ước vọng này mãnh liệt đến nỗi tôi sợ hãi thấy đó là dấu hiệu chỉ ở một nơi nào đó trên trái đất, Zorba đang hấp hối. Bởi vì tôi cảm thấy tâm hồn tôi ràng buộc mật thiết với tâm hồn hắn đến nỗi không thể người này chết mà người kia không bị lay động và kêu gào đau đớn.

    Tôi lưỡng lự giây lát không muốn thu góp tất cả những kỷ niệm của tôi về Zorba và biến nó thành lời. Một sự sợ hãi trẻ con choáng ngợp tôi. Tôi tự nhủ: “Nếu ta làm như vậy, như thế có nghĩa là Zorba thật sự đang trong cơn hiểm nghèo. Ta phải chống lại bàn tay vô hình thúc đẩy tay ta.”

    Tôi chống cự hai ngày, ba ngày, một tuần lễ. Tôi chuyên chú vào việc viết lách khác, du ngoạn suốt ngày và đọc rất nhiều. Với chiến lược đó tôi cố lẩn tránh sự hiện diện vô hình. Nhưng toàn thể tâm trí tôi tập trung với một cảm thức lo âu nặng trĩu trên Zorba.

    Một hôm, tôi ngồi trên sân thượng nhà tôi, trên mặt biển. Lúc ấy vào giữa trưa. Mặt trời thiêu đốt và tôi đang ngắm sườn núi trần trụi và duyên dáng của đảo Salamis. Thình lình, bị thúc đẩy bởi bàn tay thần thánh, tôi lấy giấy, nằm dài trên sân cát nóng bỏng của sân thượng và bắt đầu thuật lại những lời nói và việc làm của Zorba.

    Tôi viết một cách say mê, vội vàng làm sống lại quá khứ, cố gắng nhớ lại và phục sinh trọn vẹn Zorba một cách trung thành. Tôi cảm thấy nếu hắn biến mất chính tôi là kẻ hoàn toàn phải chịu trách nhiệm, vì thế tôi làm việc ngày đêm để vẽ chân dung bạn tôi một cách vẹn toàn.

    Tôi làm việc như những tên phù thủy của những bộ lạc man di ở Phi Châu vẽ hình tổ tiên mà trông thấy trong mộng lên vách động, cố gắng vẽ càng giống chừng nào càng hay chừng ấy, để linh hồn tổ tiên có thể nhận ra thể xác và nhập vào.

    Trong vài tuần lễ huyền sử vàng son về Zorba đã hoàn tất.

    Hôm đó, vào lúc xế chiều, tôi lại ngồi trên sân thượng ngắm biển. Trên lòng tôi là tập bản thảo đã hoàn tất.

    Tôi cảm thấy hân hoan và nhẹ nhõm như vừa cất được một gánh nặng. Tôi giống như một bà mẹ vừa sinh nở và bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay.

    Sau rặng núi Peloponnesus, mặt trời đỏ rực đang lặn. Ngay lúc đó Soula, một cô thôn nữ nhỏ bé mang thư từ trên tỉnh gởi về cho tôi, lên sân thượng. Cô ta trao cho tôi một lá thư và chạy biến. Tôi hiểu. Ít ra hình như tôi hiểu, bởi vì, khi tôi giở lá thư ra đọc, tôi không đứng nhỏm dậy và thốt lên một tiếng kêu, tôi không kinh hoàng. Tôi biết chắc. Tôi biết rằng vào giây phút đích xác, trong khi tôi đặt tập bản thảo trên đùi và nhìn mặt trời lặn, tôi sẽ nhận được lá thư này.

    Bình thản, tôi đọc lá thư. Lá thư từ một làng gần Skoplije ở Serbia gửi đến, và được viết tàm tạm bằng tiếng Ðức. Tôi dịch:

    “Tôi là giáo viên trong làng và tôi viết để báo cho ông tin buồn rằng Alexis Zorba, chủ nhân hầm đá trắng ở đây, mất vào hồi 6 giờ chiều Chủ Nhựt tuần trước. Trong lúc hấp hối, ông ta mời tôi tới. Ông ta nói:

    “- Lại đây, ông thầy giáo. Tôi có một người bạn ở Hy Lạp. Khi tôi chết rồi, viết cho ông ấy rằng cho đến phút cuối cùng, tôi rất tỉnh táo và nghĩ đến ông ấy và tôi không hề hối hận mảy may về bất cứ việc gì tôi làm. Nói với ông ấy tôi mong ông ấy được khỏe mạnh và đã đến lúc ông ấy phải tỏ ra thông minh.

    “- Nghe thêm đã. Nếu một gã tư tế đến để tôi xưng tội và làm phép bí tích cho tôi, bảo lão hãy xéo cho mau và ban cho tôi sự nguyền rủa của lão! Tôi đã làm vô khối và làm vô khối chuyện trong đời tôi, nhưng tôi thấy như thế vẫn chưa đủ. Những người như tôi phải sống hàng ngàn năm. Chúc ông ngủ ngon!

    “Ðó là những lời cuối cùng của ông ta. Ngay sau đó ông ta ngồi nhỏm dậy trên giường, xô khăn trải giường và muốn đứng dậy. Chúng tôi chạy lại ngăn ông ta - Lyuba, vợ ông ta, tôi cùng với vài người hàng xóm khỏe mạnh khác. Nhưng ông ta gạt phắt chúng tôi ra, nhẩy xuống giường và đi tới cửa sổ. Ở đó, ông ta bám lấy khuôn cửa, nhìn về dẫy núi xa xa, mở to mắt và bắt đầu cười, đoạn hí lên như một con ngựa. Ông ta đứng như vậy, móng tay cắm sâu vào khuôn cửa sổ mà chết.

    “Vợ ông ta, Lyuba, nhờ tôi viết cho ông rằng bà gửi lời chào ông, rằng người quá cố thường nói với bà ta về ông, và ra lệnh cho bà gửi biếu ông cây santuri làm kỷ niệm sau khi ông ta mất.

    “Do đó bà góa phụ yêu cầu ông, khi nào ông có dịp qua làng chúng tôi, xin mời ông quá bộ tới nghỉ đêm tại nhà bà, và buổi sáng khi ông ra đi, ông mang theo cây santuri.”

    (Hết)



    André Rieu - Zorba's Dance (Sirtaki)

Trang 3/3 đầuđầu 123

Similar Threads

  1. Cười chút chơi !
    By DnThuy in forum Vui cười
    Trả lời: 315
    Bài mới nhất : 10-18-2014, 09:22 PM
  2. Tôi đưa em đi chơi.......
    By KiwiTeTua in forum Vui cười
    Trả lời: 3
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 11:03 PM
  3. Dân Chơi Ả Rập (Saudi Arabia)
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 06:59 PM
  4. Chơi đòn Cẩu Xực Xí Quách ở World Cup 2014
    By hieunguyen11 in forum Linh Tinh
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-27-2014, 04:16 AM
  5. Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi
    By loibangTQLC in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-06-2011, 06:17 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •