Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 16

Tựa Đề: Alexis Zorba - Con Người Chịu Chơi

  1. #7
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 24



    Tôi hoan hỷ, tôi biết điều đó. Trong khi an hưởng hạnh phúc chúng ta khó lòng ý thức được hạnh phúc. Chỉ khi nào nó đã qua đi và chúng ta nhìn lại đằng sau chúng ta mới đột nhiên cảm thấy - đôi khi thảng thốt - chúng ta đã sung sướng biết chừng nào. Nhưng tôi, trên bãi biển Crete này, tôi sống trong hạnh phúc và tôi biết rằng tôi hạnh phúc.

    Một vùng biển xanh thẫm, bao la, trải rộng đến tận duyên hải Phi Châu. Thường thường có một cơn gió nồm rất nóng, gió Livas, thổi từ miền cát cháy xa xôi tới. Buổi sáng, biển tỏa hương thơm như một trái dưa đỏ; buổi trưa, nó bốc hơi và lặng như tờ với những lượn sóng gờn gợn như bờ ngực mới nhú. Buổi chiều nó thở dài và có mầu của hoa hồng, của rượu nho, của cà dái dê, xanh thẫm.

    Xế trưa, tôi đùa giỡn bằng cách bốc cát vàng và để nó luồn, nóng và mềm, qua những kẽ ngón tay. Bàn tay - một cái đồng hồ cát qua đó cuộc đời chạy trốn và hư mất. Nó tự hư mất. Tôi nhìn biển, chờ đợi Zorba và cảm thấy thái dương tôi nổ vỡ vì hạnh phúc.

    Tôi nhớ một hôm, cháu gái tôi, Alka, một con bé bốn tuổi, trong lúc chúng tôi đang nhìn vào một cửa hàng đồ chơi vào tối hôm cuối năm, quay lại và nói với tôi nhận xét lạ lùng này: “Chú Ogre ơi, cháu sung sướng quá muốn mọc sừng đây này!” Tôi giật mình. Kỳ diệu thay cuộc đời và giống nhau làm sao mọi tâm hồn, khi cắm rễ thật sâu xuống, gặp gỡ và hòa hợp với nhau! Bởi tôi nhớ ngay tới một cái đầu Ðức Phật khắc trong gỗ mun mà tôi đã trông thấy trong một viện bảo tàng xa xôi. Ðức Phật đã giải thoát và thấm nhuần niềm hoan hỷ tối thượng, sau bẩy năm khắc khoải. Gân hai bên thái dương ngài căng phồng đến nỗi tung ra khỏi da và trở thành đôi sừng mạnh mẽ xoắn lại như hai cái lò so bằng thép.

    Cơn mưa nhỏ tạnh vào lúc xế chiều, bầu trời trở nên quang đãng. Tôi đói và hân hoan vì đã đói, bởi bây giờ Zorba sắp đến, nhóm lửa và bắt đầu nghi lễ nấu nướng.

    - Lại một câu chuyện bất tận nữa đây! Zorba thường nói khi đặt nồi lên bếp lửa. Không phải chỉ riêng đàn bà - quân khốn kiếp - mới là chuyện bất tận, cả cái việc ăn uống này nữa chứ.

    Trên bãi biển này lần đầu tiên tôi cảm thấy cái thú của một bữa ăn. Buổi tối, Zorba nhóm lửa giữa hai tảng đá và làm bếp; chúng tôi nhập cuộc ăn uống, câu chuyện trở nên sôi nổi hào hứng; cuối cùng tôi ý thức được rằng ăn cũng là một chức vụ tinh thần và thịt, bánh, rượu là những nguyên liệu tạo nên tinh thần.

    Sau một ngày làm việc cực nhọc, trước khi ăn uống Zorba buồn tẻ, gắt gỏng, gặng mãi mới moi được của hắn vài tiếng. Cử chỉ của hắn uể oải và khó thương. Nhưng khi hắn vừa ném than vào máy, theo lời hắn nói, toàn thể bộ máy trì trệ và mệt lử của thân thể hắn sống động trở lại, lấy trớn và bắt đầu làm việc. Mắt hắn sáng ngời, trí nhớ tràn trề, chân hắn mọc cánh và nhẩy múa.

    - Hãy nói cho tôi biết anh làm gì với cái anh ăn, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Có kẻ biến đồ ăn thành mỡ và phân, kẻ biến nó thành công việc và khí sắc vui vẻ, và kẻ khác, thành Thượng Ðế, như tôi nghe người ta nói. Vậy có ba loại người. Tôi, tôi không thuộc loại tệ nhất cũng chẳng thuộc loại tốt nhất. Tôi ở giữa hai loại đó. Cái tôi ăn, tôi biến nó thành công việc và tính khí vui vẻ. Không đến nỗi dở lắm!

    Hắn nhìn tôi một cách tinh quái và cất tiếng cười.

    - Còn về phần ông, ông chủ, tôi nghĩ có lẽ ông cố gắng biến cái ông ăn thành Thượng Ðế. Nhưng ông không hoàn toàn thành công và điều đó dày vò ông. Trường hợp ông cũng giống như trường hợp con quạ.

    - Trường hợp con quạ làm sao, Zorba?

    - Ông biết chứ, trước kia nó đi một cách oai phong, thoải mái, như một con quạ vậy. Nhưng một hôm tự nhiên nó nẩy ra ý muốn vừa đi vừa vênh váo như con đa đa. Từ khi đó, con chim đáng thương quên ngay cả cách đi riêng của mình. Nó bị lẫn lộn hết, ông thấy không? Nó chỉ còn nước đi khập khiễng.

    Tôi ngửng đầu lên. Tôi nghe tiếng chân Zorba đang lên khỏi đường hầm. Lát sau tôi thấy hắn tiến đến gần, mặt thuỗn ra, nhăn nhó, hai cánh tay dài đong đưa, thõng thẹo.

    - Chào ông chủ! Hắn thều thào nói.

    - Chào Zorba. Hôm nay công việc ra sao?

    Hắn không đáp.

    - Tôi đi nhóm bếp và làm cơm đây, hắn nói.

    Hắn lấy một ôm củi trong góc, đi ra ngoài xếp những thanh củi một cách khéo léo thành một đống giữa hai tảng đá và nhóm lửa. Hắn đặt cái nồi đất lên trên, đổ nước, bỏ vào đó hành, cà chua và gạo và bắt đầu nấu. Trong thời gian đó tôi trải một tấm khăn lên cái bàn tròn thấp, cắt những lát bánh mì dầy, và rót rượu từ trong hũ ra cho đầy quả bầu trang trí nhiều hình vẽ mà bác Anagnosti đã tặng cho chúng tôi ít lâu sau khi chúng tôi đến đây.

    Zorba quì gối trước bếp, mở mắt lớn nhìn ngọn lửa và giữ im lặng.

    - Bác có con chưa, Zorba? Ðột nhiên tôi hỏi hắn.

    Hắn quay lại:

    - Tại sao ông lại hỏi tôi điều ấy? Tôi có một đứa con gái.

    - Lập gia đình chưa?

    Kỳ 25



    Zorba cười.

    - Tại sao bác lại cười, Zorba?

    - Ðiều đó không cần phải nói. Dĩ nhiên là lập gia đình rồi. Nó cũng không phải là đứa đần độn gì. Hồi đó tôi đang làm việc tại một mỏ đồng ở Pravishta miền Chalcidice. Một hôm tôi nhận được thư của em Yanni tôi. À quên! Tôi chưa nói với ông là tôi có một đứa em, thuộc loại người khôn ngoan, biết phân biệt phải trái, ngồi nhà cho vay lãi, hay đi nhà thờ, giả đạo đức, một người rất phải phép, một rường cột của xã hội. Em tôi bán tạp hóa ở Salonica. “Anh Alexis, nó viết cho tôi, con Phrosco con gái anh đã hư hỏng rồi. Nó đã làm ô danh của chúng ta. Nó có một thằng nhân tình, nó đã có với thằng kia một đứa con. Danh tiếng nhà ta thế là đi đời. Tôi sắp về làng vặn họng nó.”

    - Và bác đã làm gì, Zorba?

    Zorba nhún vai.

    - Hừ! Ðàn bà! Tôi nói rồi xé bức thư.

    Hắn ghế cơm, cho thêm chút muối rồi cười khẩy.

    - Nhưng đợi chút ông sẽ thấy khía cạnh khôi hài của câu chuyện đó. Hai tháng sau, tôi lại nhận được một lá thư thư hai của thằng em ngốc nghếch: “Chúc anh mạnh giỏi và vui vẻ, anh Alexis thân mến”, thằng ngốc đó viết. “Danh dự nhà ta đã được phục hồi, bây giờ anh có thể ngẩng cao đầu lên, người đàn ông đó đã cưới con Phrosso rồi!”

    Zorba quay lại và nhìn tôi. Nhờ ánh sáng của điếu thuốc lá, tôi thấy hai mắt hắn long lanh. Hắn lại nhún vai.

    - Hừ! Ðàn ông! Hắn nói với vẻ khinh miệt khó tả.

    Một lát sau, hắn tiếp:

    - Người ta có thể mong đợi gì ở đàn bà? Họ phải có con với người đàn ông đầu tiên. Người ta có thể mong đợi gì ở đàn ông? Họ phải sa vào bẫy. Ông hãy nhớ điều tôi nói, ông chủ.

    Hắn bắc nồi xuống và chúng tôi bắt đầu dùng bữa ăn chiều.

    Zorba lại chìm đắm vào suy tưởng. Một mối lo âu nào đó đang dầy vò hắn. Hắn nhìn tôi, mở miệng ra rồi lại ngậm lại. Qua ánh đèn dầu, tôi nhận thấy rõ ràng vẻ lo lắng sầu muộn trong mắt hắn.

    Tôi không chịu nổi nhìn thấy hắn như vậy. Tôi hỏi.

    - Zorba, bác có điều gì muốn nói với tôi, cứ nói đi. Dặn ra đi sau đó bác sẽ thấy dễ chịu ngay.

    Zora vẫn lặng thinh. Hắn nhặt một hòn sỏi, cố ném lọt qua cửa sổ.

    - Ðể yên mấy cục đá đó đi! Nói đi nào!

    Zorba vươn dài khuôn cổ nhăn nheo ra.

    - Ông có tin tôi không, ông chủ? Hắn hỏi, lo lắng nhìn vào mắt tôi.

    - Có, Zorba, tôi đáp. Dù bác làm bất cứ điều gì, bác cũng không thể sai lầm. Dù bác có muốn lầm đi nữa, bác cũng không thể lầm lạc được. Bác giống như một con sư tử hay một con sói. Loại thú này không bao giờ xử sự như những con cừu hay con lừa, chúng không bao giờ đi ngược lại bản chất chúng. Bác cũng thế; bác là Zorba đến tận đường tơ kẽ tóc.

    Zorba lắc đầu:

    - Nhưng tôi mù tịt không biết chúng ta sẽ đi đâu! Hắn nói.

    - Tôi biết, bác đừng lo âu gì về điều đó. Cứ việc tiến tới!

    - Hãy lập lại điều ấy một lần nữa đi, để tôi thêm can đảm, ông chủ! Hắn la lên.

    - Tiến tới!

    Cặp mắt Zorba long lanh.

    - Bây giờ tôi có thể nói ông, hắn nói. Từ mấy hôm nay, tôi có một dự định to tát trong đầu; một ý nghĩ ngông cuồng. Liệu chúng ta có thể thực hiện ý tưởng đó không?

    - Bác cần gì phải hỏi tôi? Chính vì lý do đó chúng ta cần đến đây: để thực hiện những ý tưởng.

    Zorba vươn cổ ra sung sướng và sợ hãi nhìn tôi:

    - Ông hãy nói rõ, ông chủ! Hắn la to. Mình không đến đây vì than sao?

    - Than là một cái cớ để dân địa phương khỏi thắc mắc. Ðể họ tưởng lầm mình là những nhà thầu đứng đắn và không tiếp đón chúng ta bằng cách liệng cà chua. Bác hiểu chưa, Zorba?

    Zorba há hốc miệng sững sờ. Hắn cố gắng hiểu, hắn không dám tin tưởng vào một niềm hạnh phúc lớn lao nhường ấy. Ðột nhiên, hắn hiểu. Hắn lao tới và nắm lấy vai tôi:

    - Ông có nhảy không? Hắn hỏi tôi một cách say sưa. Ông có nhảy không?

    - Không.

    - Không à?

    Hắn buông thõng hai tay, sửng sốt.

    - Ðược lắm, lát sau hắn nói. Thế thì tôi sẽ nhảy, ông chủ. Xin ông ngồi ra xa một chút để tôi khỏi đụng vào ông. Ô, ê! Ô, ê.

    Hắn nhào lộn một cái rồi nhảy phóng ra khỏi lều, liệng cả giầy, áo ngoài, áo trong, xắn quần lên tới đầu gối và bắt đầu nhảy múa. Mặt hắn hãy còn than lem luốc. Lòng trắng mắt hắn sáng lên.

    Hắn lao vào điệu vũ, vỗ tay, nhảy nhót, nhào lộn trong không gian, rơi xuống trên hai đầu gối rồi vọt lên, hai chân co lại như thể hắn là cao su. Thốt nhiên hắn phóng mình lên thật cao như muốn chế ngự những định luật lớn của thiên nhiên và bay bổng. Người ta nhận thấy rằng trong cái thân thể mọt đục ấy, tâm hồn đang phấn đấu để lôi cuốn xác thịt đi và lao mình vào bóng tối như một vẩn thạch. Nó lay động thân thể đang rơi trở lại vì không thể ở quá lâu giữa không trung, nó lay động thân thể lần nữa, một cách tàn nhẫn, lần này cao hơn một chút nhưng cái thân thể đáng thương hại lại rơi xuống, hổn hển.



    Kỳ 26



    Zorba cau mày, khuôn mặt hắn có vẻ lo âu trầm trọng. Hắn không la thét nữa. Nghiến răng hắn gắng sức đạt cái bất khả.

    - Zorba! Zorba! Thế đủ rồi! Tôi thét lên.

    Tôi sợ rằng tấm thân già nua ấy sẽ không chịu đựng nổi ngần ấy bạo lực, có thể tan tác thành muôn ngàn mảnh và rải rác theo gió bốn phương.

    Tôi rất có thể la to nữa, nhưng có để làm gì đâu. Làm thế nào Zorba có thể nghe tiếng la của trái đất? Lòng hắn đã trở thành lòng chim.

    Tôi hơi xao xuyến dõi mắt theo điệu vũ man rợ và tuyệt vọng. Khi còn nhỏ, tôi thường để óc tưởng tượng lôi cuốn và kể cho các bạn nghe những chuyện viển vông thái quá mà chính tôi cũng tin tưởng.

    “Ông nội của mày chết như thế nào?”, một hôm tụi bạn học ở trường làng hỏi tôi.

    Và liền khi đó, tôi dựng lên ngay một huyền thoại; và càng dựng đứng lên bao nhiêu, tôi càng tin tưởng bấy nhiêu.

    “Ông nội tớ có chòm râu bạc và hay đi giầy cao-su. Một hôm ông tớ từ nóc nhà nhảy xuống. Nhưng khi chạm đất ông tớ lại nhảy vọt lên như một trái banh và lên cao hơn nóc nhà nữa, lên cao, lên cao mãi cho đến khi mất hút trong những đám mây. Ðó ông tớ chết như vậy đó.”

    Sau khi dựng lên huyền thoại đó, mỗi lần đến nhà thờ Thánh Minas nhỏ bé và nhìn thấy phía dưới bình phong có thánh tượng hình ảnh đấng Ky Tô Thăng Thiên, tôi chỉ cho chúng bạn thấy và nói:

    “Kìa, ông tớ đi giầy cao su đó!”

    Tối hôm nay, sau bao nhiêu năm, khi nhìn Zorba nhảy lên không, tôi sống lại một cách kinh hoàng câu chuyện trẻ con, sợ nhìn thấy Zorba biến mất trong mây.

    - Zorba! Zorba! Ðủ rồi! Tôi kêu lên.

    Bây giờ Zorba ngồi xổm trên mặt đất thở hổn hển. Nét mặt hắn rạng ngời hân hoan. Mớ tóc xám dính bết vào trán và mồ hôi hòa với bụi than, chảy dòng dòng trên má và cằm.

    Tôi cúi nhìn hắn, lo âu.

    - Nhảy múa làm tôi nhẹ nhõm, lát sau hắn nói với tôi, như thể người ta đã trích huyết tôi vậy. Bây giờ tôi có thể nói được rồi.

    Hắn trở vào lều, ngồi trước bếp than hồng và nhìn tôi, vẻ mặt rạng rỡ.

    - Cái gì khiến bác nhảy múa như vậy?

    - Tôi có thể làm gì hơn, ông chủ? Niềm hân hoan làm tôi ngộp thở, tôi phải tìm một lối thoát cho bớt căng thẳng chứ... Và phải tìm lối thoát bằng cách nào? Bằng lời nói à? Hừ!

    - Niềm hân hoan nào?

    Hắn sa sầm nét mặt. Môi hắn bắt đầu run.

    - Niềm hân hoan nào? Thế thì điều ông vừa nói với tôi, ông đã nói như nói với không khí như vậy sao? Ông không hiểu ngay cả chính ông nữa à? Ông đã nói rằng chúng ta không đến đây vì than. Ông đã nói điều đó như thế, phải không? Chúng ta đến đây để cho qua thì giờ. Chúng ta che mắt thiên hạ, để họ không cho chúng ta là những kẻ điên khùng và họ không ném cà chua vào chúng ta! Nhưng khi không có ai và không ai có thể trông thấy chúng ta, chúng ta sẽ cả cười khoái trá có phải thế không? Tôi xin thề rằng tôi cũng muốn như vậy, nhưng tôi không ý thức được điều đó rõ ràng. Ðôi khi tôi nghĩ đến than, đôi khi đến mụ Bouboulina, đôi khi đến ông... một sự hỗn độn thường xuyên. Khi tôi đào được một đường hầm tôi nói: “Than là cái ta muốn!” Và từ đầu đến chân, tôi trở thành than. Nhưng sau đó, khi công việc xong xuôi, khi tôi đùa giỡn với mụ nái sề ấy, chúc mụ may mắn! Tôi nói, mang mẹ nó hết tất cả than bùn và tất cả mấy lão chủ treo cổ - bằng sợi dây băng quanh cổ mụ - cả Zorba nữa! Tôi điên đầu. Rồi khi tôi ở một mình và không có việc gì làm, tôi nghĩ đến ông, ông chủ ạ, và tôi rất đau lòng. Lương tâm tôi nặng trĩu: “Xấu hổ lắm, Zorba, tôi kêu lên như thế, xấu hổ lắm, mi chế nhạo con người lương thiện kia và bòn rút tiền bạc của hắn, cho đến bao giờ mi mới hết là một tên đê tiện? Ta chán mi lắm rồi đó!”

    “Ông chủ, thú thực với ông tôi không biết tôi ở đâu nữa. Ma quỉ lôi kéo tôi một đàng, Thượng Ðế lôi kéo tôi một nẻo, về phần cả hai, họ xâu xé tôi ở giữa. Bây giờ, ông chủ, ông nói đúng quá và tôi thấy rõ điều đó. Tôi hiểu rồi! Mình đã đồng ý với nhau! Bây giờ hãy gây mối bất hòa! Ông còn bao nhiêu tiền nữa? Ðem cho hết đi! Ăn nhẵn hết đi cho rồi!”

    Zorba chặm mồ hôi và nhìn quanh. Bữa cơm chiều còn lại hãy còn chõng trơ trên cái bàn con. Hắn vươn cánh tay dài của hắn ra:

    - Xin phép ông chủ, hắn nói. Tôi lại đói rồi.

    Hắn cầm lấy một mẩu bánh mì, một củ hành và một nắm ô liu.

    Hắn ăn ngấu nghiến, dốc trọn bầu rượu vào miệng mà không cho bình chạm vào môi, và rượu chảy òng ọc qua cổ họng hắn. Zorba tặc lưỡi, thỏa mãn.

    - Tôi cảm thấy rất hăng hái.

    Kỳ 27



    Hắn nháy tôi và hỏi:

    - Tại sao ông không cười, ông chủ? Hắn hỏi tôi. Tại sao ông nhìn tôi? Tôi như vậy đó. Trong tôi có một con quỉ hò hét và tôi làm theo lời nó. Mỗi lần tôi xúc động sắp ngộp thở là nó la: “Nhẩy đi!” Và tôi nhảy múa. Và như vậy tôi thấy nhẹ nhõm. Một lần khi thằng bé Dimitraki của tôi chết ở Chalcidice, tôi cũng đứng dậy như hồi nãy và tôi nhảy. Bạn bè và họ hàng thân thích nhìn thấy tôi nhảy múa trước thi hài thằng bé, họ lao tới để ngăn tôi. “Zorba điên rồi! Họ la lên như vậy. Zorba điên rồi!” Nhưng lúc đó nếu tôi không nhảy múa, tôi sẽ phát điên vì đau khổ. Bởi vì đó là thằng con trai đầu lòng của tôi, nó vừa được ba tuổi, mất nó tôi không chịu đựng nổi. Ông chủ, ông có hiểu điều tôi nói không hay là tôi đang nói chuyện với đầu gối đây?

    - Tôi hiểu, Zorba ạ, tôi hiểu, bác không phải nói với đầu gối đâu.

    - Lại một lần khác... Lúc đó tôi đang ở Nga, gần Novo Rossisk... Vâng tôi cũng tới đó vì hầm mỏ. Lần này, mỏ đồng.

    “Tôi đã học được năm sáu tiếng Nga vừa đủ để làm ăn: ‘Không, vâng, bánh mì, nước, tôi yêu cô, lại đây bao nhiêu?’ Tôi kết bạn với một tên Nga, một anh chàng Bôn-sơ-vích hung hăng. Mỗi buổi chiều, chúng tôi đều đến một tửu quán ở bến tầu, người ta mang xuống không thiếu gì rượu Vodka và điều ấy khiến chúng tôi thêm hứng. Khi chúng tôi bắt đầu vui vẻ, cõi lòng chúng tôi rộng mở. Hắn thuật cho tôi từng chi tiết về tất cả những gì đã xẩy đến cho hắn trong thời kỳ cách mạng Nga, còn tôi, tôi cho hắn biết tất cả mọi công việc và hành động của tôi. Chúng tôi cùng say sưa, ông thấy chứ, và chúng tôi trở thành anh em.

    “Bằng những cử chỉ, chúng tôi cố gắng tìm cách thỏa thuận với nhau. Hắn nói trước, khi tôi không hiểu, tôi quát bảo hắn: ‘Stop!’ Thế là hắn đứng lên nhảy múa. Ông chủ, ông hiểu chứ? Nhảy múa để diễn tả điều hắn muốn nói. Và tôi cũng làm như vậy. Bất cứ điều gì chúng tôi không thể nói được bằng miệng, chúng tôi nói bằng chân, bằng tay, bằng bụng hay bằng những tiếng la hét man rợ như: Hai! Hai! Hô la! Ô-ê!

    “Gã người Nga bắt đầu: Họ đã cầm súng như thế nào, chiến tranh bùng nổ như thế nào, và họ đã đến Novo Rossisk thế nào. Khi tôi không hiểu nổi nữa điều hắn nói với tôi, tôi đưa tay lên và la: “Stop!” Tức thì tên người Nga phóng mình lên và hắn bắt đầu nhảy múa! Hắn nhảy múa như bị ma làm. Và tôi nhìn tay, chân, ngực, mắt hắn, tôi hiểu hết: Họ đã vào Novo Rossisk và giết các ông chủ họ ra sao, họ đã cướp phá các cửa tiệm như thế nào, họ đã vào các nhà và bắt cóc đàn bà như thế nào. Lúc đầu, mấy mụ này khóc lóc, mấy con đĩ, họ tự cào cấu mặt mũi và họ cấu xé cả bọn đàn ông, nhưng dần dần họ thuần thục, họ nhắm mắt, rồi họ kêu ẳng ẳng vì thỏa mãn. Ðàn bà, hừ...

    “Và sau đó đến lượt tôi. Ngay từ mấy tiếng đầu, có lẽ mặc dù hắn hơi đần độn và đầu óc hắn làm việc không chỉnh, tên người Nga đã la lên: ‘Stop!’ Tôi chỉ chờ có thế. Tôi phóng mình tới, xô bàn ghế ra và tôi bắt đầu nhảy múa. Ôi! Ông bạn thân mến của tôi! Con người đã sa đọa quá thấp, loài người, chao ôi! Tội nghiệp. Họ đã để thân xác họ trở thành câm lặng và họ chỉ nói bằng miệng. Nhưng ông mong đợi cái miệng nói điều gì chứ, cái miệng đó? Nó có thể nói được gì? Nếu ông có thể thấy tên Nga kia đã lắng nghe tôi, từ đầu đến chân và hắn đã hiểu tôi trọn vẹn thế nào! Tôi đã mô tả cho hắn thấy, bằng cách nhảy múa, những hoạn nạn, những chuyến du-lịch của tôi, tôi đã lấy vợ bao nhiêu lần, học được bao nhiêu nghề - thợ đào đá, thợ mỏ, phu khuân vác, thợ đồ gốm, comitadji (*) tay chơi đàn santuri, người bán hạt bầu rang, thợ rèn và buôn lậu; người ta bỏ tù tôi như thế nào, tôi đã vượt ngục như thế nào và tôi đã đến Nga ra sao...

    “Hắn đã hiểu hết tất cả, tất cả, mặc dù hắn đần độn như vậy. Chân tay tôi nói, tóc tai và quần áo tôi nói. Và con dao nhỏ đeo ở thắt lưng tôi cũng nói nữa. Khi tôi dứt lời, cái anh chàng đại ngốc ấy ôm chầm lấy tôi, hắn hôn tôi, tụi tôi rót rượu Vodka đầy ly, tụi tôi khóc cười trong tay nhau. Tờ mờ sáng chúng tôi chia tay và loạng choạng leo lên giường ngủ. Và buổi chiều chúng tôi lại gặp nhau.

    “Ông cười hả? Ông không tin tôi sao ông chủ? Ông đang tự nhủ: Lão Sinh Bá nhà hàng hải đang thêu dệt chuyện gì đây? Có thể nói bằng cách nhẩy múa được không? Tuy nhiên, tôi dám đoan chắc là ma quỉ và thần thánh bắt buộc phải nói với nhau bằng cách đó.

    “Nhưng tôi thấy ông buồn ngủ rồi. Ông yếu ớt quá, ông không có sức chịu đựng. Vậy, ông hãy đi ngủ đi mai ta sẽ lại trở lại câu chuyện. Tôi có một dự định, một dự định huy hoàng vĩ đại. Ngày mai tôi sẽ trình bày với ông. Tôi sắp đốt thêm một điếu thuốc nữa và có thể sẽ ngụp xuống biển. Tôi đang bốc cháy. Tôi phải lo dập tắt. Ông ngủ ngon nhé!”

    (*) Ðoàn viên trong các hội giải phóng Macédoine. G.c.D.

    Kỳ 28



    Khuya lắm tôi mới ngủ được. Ðời tôi hỏng rồi, tôi nghĩ. Nếu tôi có thể lấy một tấm khăn xóa hết tất cả những gì tôi đã học, tất cả những gì tôi đã thấy, đã nghe và nhập môn trường Zorba, học vỡ lòng tự mẫu vĩ đại, tự mẫu chân chính, thì con đường tôi đã chọn lựa sẽ khác biết bao!

    Tôi sẽ luyện tập ngũ quan một cách hoàn hảo, và toàn thể thân thể tôi nữa để nó có thể hưởng thụ và hiểu biết. Tôi sẽ tập chạy, tập vật lộn, tập bơi lội, cưỡi ngựa, chèo thuyền, lái xe, bắn súng. Tôi sẽ thỏa mãn xác thịt tôi bằng tâm hồn. Cuối cùng tôi sẽ hòa giải hai kẻ nghịch thù truyền kiếp trong tôi...

    Ngồi trên tấm nệm tôi nghĩ đến cuộc đời đang đi đến chỗ hoàn toàn lãng phí của tôi. Qua khung cửa mở, dưới ánh sao, tôi lờ mờ nhận thấy Zorba đang ngồi xổm trên một tảng đá như một con dạ điểu. Tôi thèm được như hắn. Chính hắn, đã tìm thấy chân lý, tôi nghĩ. Con đường đó là chánh đạo.

    Vào thời đại khác, sơ khai và sáng tạo hơn, Zorba hẳn đã là một tù trưởng. Hắn đã đi tiên phong mở đường khai lối bằng một lưỡi rìu. Hoặc hắn là một thi sĩ đãng tử nổi tiếng, thăm viếng các lâu đài, và tất cả mọi người - lãnh chúa, mệnh phụ phu nhân và nô tỳ chăm chăm nhìn vào cặp môi dày đón lời ca hắn... Trong thời đại bạc bẽo này, hắn đói khát rình mò xung quanh các hàng dậu như một con sói, hoặc hắn sa sút đến độ trở thành thằng hề của một tên cạo giấy nào đó.

    Tôi thấy Zorba hốt nhiên đứng dậy. Hắn cởi áo ném lên lớp đá cuội rồi hắn lao xuống biển. Chốc chốc, dưới ánh trăng non mờ ảo, tôi thấy cái đầu to lớn của hắn trồi lên rồi lại biến mất. Thỉnh thoảng, hắn la lên một tiếng, sủa, hí, bắt chước tiếng gà gáy - tâm hồn hắn trong đêm hoang vắng trống trơn này có ái lực quay về với loài thú vật.

    Âm thầm tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã thấy Zorba mỉm cười tươi tắn đến kéo chân tôi.

    - Dậy đi ông chủ, hắn nói, để tôi thú thực dự định của tôi với ông. Ông đang nghe đấy chứ?

    - Tôi đang nghe.

    Hắn ngồi xếp bằng tròn dưới đất và bắt đầu giải thích hắn sẽ thiết lập một đường sắt từ trên đỉnh núi xuống tới bờ biển như thế nào; do đó chúng tôi có thể chuyển gỗ cần dùng cho các đường hầm xuống và chúng tôi sẽ bán gỗ còn lại làm gỗ cất nhà. Chúng tôi quyết định mướn một khu rừng thông thuộc tu viện nhưng việc chuyên chở đắt đỏ và tìm không đủ la.

    Zorba đã tưởng tượng cách đặt đường sắt treo dây cáp lớn, cột trụ và ròng rọc.

    - Ðồng ý? Hắn hỏi tôi khi hắn dứt lời; ông tán thành chứ?

    - Tôi tán thành, Zorba, đồng ý.

    Hắn đốt lò than, đặt ấm nước lên bếp, pha cà phê cho tôi, ném một cái mền lên chân tôi, để tôi khỏi bị lạnh rồi hắn thích chí ra đi.

    - Hôm nay chúng ta đào một đường hầm mới. Tôi đã tìm ra được một lớp than đá hay lắm! Ðúng là kim cương đen!

    Tôi giở bản thảo Ðức Phật ra, tôi cũng chui vào những đường hầm của riêng tôi. Tôi viết suốt ngày, và càng tiến tới, tôi cảm thấy mình giải thoát. Cảm xúc của tôi hỗn độn: khuây khỏa, kiêu hãnh, chán chường. Nhưng tôi để mặc cho công việc lôi cuốn, vì tôi biết rằng, ngay khi tôi hoàn thành tập bản thảo này, niêm phong và buộc lại, tôi sẽ tự do.

    Tôi đói. Tôi ăn mấy trái nho khô, vài hạt hạnh nhân với một mẩu bánh mì. Tôi đợi Zorba trở về, mang theo tất cả những của báu làm vui lòng người - một tiếng cười trong trẻo, lời nói tử tế, những thức ăn ngon lành.

    Gần tối, hắn hiện về và sửa soạn bữa ăn. Chúng tôi ăn nhưng tâm trí chúng tôi để đâu đâu. Hắn quì gối, cắm những thanh củi nhỏ xuống đất, giăng một sợi dây bên treo một cái hộp diêm vào mấy cái ròng rọc nhỏ, cố gắng tìm kiếm để cho sợi chỉ nghiêng cách nào cho tất cả khỏi đổ.

    Hắn giải thích:

    - Nếu nghiêng quá là chúng ta thất bại liền. Mà nghiêng ít quá cũng không được. Phải tìm độ dốc chính xác. Và muốn thế, ông chủ, chúng ta cần phải có rượu và óc phán đoán.

    - Mình có thiếu gì rượu, tôi vừa nói vừa cười nhưng còn óc phán đoán...

    Zorba phá lên cười:

    - Ông chẳng khờ dại chút nào, ông chủ, hắn vừa nói vừa âu yếm nhìn tôi.

    Hắn ngồi xuống nghỉ và châm một điếu thuốc.

    Hắn vui vẻ lại và bắt đầu thích trò chuyện.

    - Nếu đường sắt treo thành công, hắn nói mình sẽ cho hạ hết cả rừng cây, mở một nhà máy, xẻ ván, đẽo cọc, làm ván lót hầm mỏ, mình sẽ mang thúng ra mà hốt bạc và sau đó mình sẽ đặt một tàu buồm rồi thu xếp hành lý chuồn thẳng và dong buồm vòng quanh thế giới!

    Mắt Zorba sáng ngời, chứa đầy hình ảnh những người đàn bà ở các hải cảng xa xôi, các đô thị, ánh đèn ngày lễ, những tòa nhà đồ sộ, máy móc, tầu bè.



    Kỳ 29



    - Ðầu tôi bạc rồi, ông chủ, và răng tôi bắt đầu lung lay tôi không còn thì giờ để phí phạm nữa. Ông còn trẻ, ông còn có thể kiên nhẫn được. Tôi xin chịu. Tôi nói thật đấy, càng già bao nhiêu tôi trở nên man rợ bấy nhiêu.

    Ðừng để ai đến lải nhải với tôi rằng tuổi già khiến con người trầm tĩnh và nhụt nhuệ khí! Hoặc khi thấy chết chóc, hắn vươn cổ ra bảo rằng: “Xin hãy vui lòng chặt đầu tôi đi để tôi về chầu trời!” Tôi càng sống lâu bao nhiêu, tôi càng nổi loạn bấy nhiêu. Tôi không chịu đầu hàng đâu, tôi muốn chinh phục thế giới!

    Hắn đứng dậy, gỡ cây santuri trên vách:

    - Ðến đây một chút nào, đồ quỉ, hắn nói. Mi làm gì mà trơ ra đó trên vách không nói một lời? Hãy ca lên một chút coi.

    Tôi không bao giờ chán nhìn Zorba với bao thận trọng, với bao dịu dàng lấy cây santuri ra khỏi bao vải bọc. Hắn có vẻ như đang bóc vỏ một trái vả hay khỏa thân một người đàn bà.

    Hắn đặt cây santuri lên đầu gối, nghiêng mình nhẹ vuốt mấy sợi dây đàn - như thể hắn muốn hỏi ý kiến cây đàn về điệu nhạc mà cả hai sẽ ca hát, như thể hắn đang van lơn cây đàn tỉnh giấc, như thể hắn đang cố dỗ dành cây đàn bầu bạn với tâm hồn phiêu đãng mệt mỏi vì cô đơn của hắn. Hắn dạo thử một khúc: Khúc nhạc không thành tiếng, hắn bỏ, rồi lại bắt đầu một bản khác; dây đàn nghiến ken két như thể chúng bị đau đớn, như thể chúng không muốn cất tiếng. Zorba tựa vào vách, chặm mồ hôi tự nhiên vã đầm đìa trên trán.

    - Nó không muốn... hắn vừa lẩm bẩm vừa kinh sợ cây santuri. Nó không muốn!

    Hắn cẩn thận bọc cây đàn lại, như thể đó là một con dã thú và hắn sợ nó có thể cắn; hắn thong thả đứng dậy treo nó lên vách.

    - Nó không muốn... hắn lại lẩm bẩm, nó không muốn... Không nên ép uổng nó.

    Hắn lại ngồi xuống đất, vùi mấy trái lật vào than, rót đầy mấy ly rượu. Hắn uống, uống nữa, bóc vỏ một trái lật rồi trao cho tôi.

    - Ông có hiểu gì không, ông chủ? Hắn hỏi tôi. Tôi chịu. Mọi vật hình như đều có một linh hồn - Gỗ đá, rượu mà chúng ta uống, đất mà chúng ta giẫm chân lên. Tất cả, tất cả mọi sự, ông chủ.

    Hắn nốc cạn ly rồi lại rót đầy.

    - Cuộc đời thực đĩ thõa! Hắn càu nhàu, con đĩ! Nó giống y như con mụ Bouboulina.

    Tôi bật cười.

    - Xin ông lắng nghe tôi, ông chủ, đừng cười. Cuộc đời giống y như con mụ Bouboulina. Nó già rồi, phải không? Ðược lắm nhưng nó không kém cay đâu. Nó biết những mánh lới làm ông điên đầu. Khi nhắm mắt lại, ông sẽ tưởng tượng mình đang ôm trong tay một thiếu nữ đôi mươi. Chắc chắn như thế, bạn ơi khi bạn đang hành sự và đã tắt hết đèn đóm đi.

    “Ăn thua gì nếu ông bảo tôi rằng mụ đã chín nẫu rồi, mụ đã có một cuộc sống bê tha phóng đãng, mụ đã chơi bời với các thủy sư đô đốc, với bọn lính thủy, lính săng đá, với bọn nhà quê, với phường xướng ca tứ chiếng, với các mục sư, dân chài, cảnh sát, giáo viên, nhà truyền giáo, các thẩm phán tòa hòa giải! Và sau đó? Ðiều đó ra sao? Mụ quên lẹ lắm, cái con đàn bà lẳng lơ dâm đãng ấy mà! Mụ không nhớ đến một tình nhân cũ nào cả. Tôi không nói giỡn đâu, mỗi lần mụ lại trở thành một con bồ câu ngây thơ, một con ngỗng trắng tinh, một con bồ câu mái bé nhỏ và mụ thẹn thùng, tin tôi đi, mụ e lệ thật, mụ run rẩy như thể đây mới là lần đầu tiên. Người đàn bà là một điều huyền bí ông chủ ạ! Dù họ có thể sa ngã hàng ngàn lần, một ngàn lần họ vươn lên như một trinh nữ. Nhưng tại sao thế, đố ông biết đấy? Này, bởi vì họ không nhớ bao giờ.

    - Nhưng con két nó nhớ Zorba, tôi nói để trêu hắn. Nó la mãi một cái tên mà không phải là tên bác. Ðiều đó không làm bác điên đầu sao, khi bác cùng mụ ấy lên bẩy từng trời bỗng nghe con két nó kêu: “Canavoro! Canavoro!”? Bác không nổi nóng mà nắm cổ nó và vặn họng nó sao? Ðã đến lúc bác phải dạy nó kêu: “Zorba! Zorba!” rồi đấy.

    - Ô, điều đó đáng kể gì! Zorba vừa kêu lên vừa giơ hai bàn tay to lớn lên bịt tai lại. Tại sao ông lại muốn tôi vặn họng nó chứ? Nhưng tôi quí nó khi nó gọi cái tên mà ông nói! Ban đêm mụ treo con két ở đầu giường, con đĩ đó, và vừa khi thấy chúng tôi bắt đầu tỏ bầy, bởi vì nó có đôi mắt đâm thủng bóng tối, con quỉ con đó, nó bắt đầu kêu: “Canavoro! Canavoro!”.

    “Và liền đó, ông chủ ạ, tôi xin thề, nhưng làm thế nào ông hiểu điều đó được khi ông đã bị mục nát bởi đống sách nhảm nhí của ông!

    - Tôi xin thề với ông rằng, tôi cảm thấy mình đi giầy bóng láng, mũ lông trên đầu và có hàm râu mượt đượm mùi long-diên-hương. Boungiorno! Buona sera! Mangiate macaroni! Tôi trở thành Canavora thật sự. Tôi leo lên chiếc soái hạm bị lũng ngàn lỗ đạn của tôi và a lê... đốt lò súp-de lên! Loạt súng thần công bắt đầu!”



    Kỳ 30



    Zorba cười vang. Hắn nhắm mắt trái và nhìn tôi bằng mắt kia.

    - Ông thứ lỗi cho tôi, ông chủ, hắn nói, nhưng tôi giống ông nội tôi, quan ba Alexis. Thượng Ðế đã rước linh hồn người rồi! Khi được trăm tuổi thọ, chiều chiều ông tôi thường ngồi trước cổng dòm trộm mấy cô ả gánh nước. Mắt cụ đã yếu nên cụ không còn phân biệt được rõ, cụ bèn gọi các cô lại: “Cháu là đứa nào nhỉ? - Xenio, con gái Mastrandoni - Lại gần đây chút nữa cho già rờ một tí nào! Ðến đây đừng sợ mà! Cô ta nén cười và giữ vẻ nghiêm trang bước lại gần. Thế là ông tôi đưa tay lên mặt cô gái rờ rẫm một cách chậm rãi, dịu dàng và thèm khát. Và nước mắt cụ tuôn rơi. “Tại sao nội khóc thế hở nội?” Một lần nọ, tôi hỏi cụ.

    “Hừ! Con tin rằng không có gì đáng khóc hở con, khi ta đang chết dần và để lại sau ta bao nhiêu là gái đẹp?”

    Zorba thở dài.

    - Ôi, tội nghiệp tôi, hắn nói, bây giờ cháu hiểu ông rồi! Tôi thường tự nhủ: “Chao ôi! Khốn khổ quá! Ước sao tất cả đàn bà đẹp cùng chết một lượt với ta!” Nhưng những con đĩ đó sẽ tiếp tục sống; chúng nó sẽ sống cuộc đời tươi đẹp, đàn ông sẽ ôm chúng vào lòng và hôn chúng, và Zorba nay sẽ trở thành cát bụi để bọn chúng giẫm lên.

    Hắn khều mấy trái lật ở bếp ra, bóc vỏ và chúng tôi cụng ly. Chúng tôi ngồi như vậy một lúc lâu, nhậu nhẹt và thong thả nhai tóp tép như hai con thỏ lớn, và chúng tôi nghe thấy biển đang gầm thét ngoài kia.



    7



    Chúng tôi ngồi im lặng bên lò than hồng cho tới khuya. Một lần nữa tôi lại cảm thấy hạnh phúc là một điều giản dị và đạm bạc vô cùng: Một ly rượu nho, một trái lật nướng, một cái lò sưởi tồi tàn, tiếng sóng rì rào. Không có gì khác nữa. Và cảm thấy rằng đó là điều hạnh phúc, chỉ cần có một tấm lòng đơn giản và thanh đạm.

    - Bác đã lấy vợ bao nhiêu lần rồi, Zorba? Tôi hỏi. Cả hai chúng tôi đều hơi ngà ngà say, không phải quá chén cho bằng vì cái hạnh phúc khó tả kia trong chúng tôi. Mỗi người theo cách riêng, chúng tôi đều thâm cản rằng chúng tôi chỉ là hai con côn trùng phù du bé nhỏ bám riết vào vỏ địa cầu, chúng tôi đã tìm ra một xó thuận tiện bên bờ biển, sau đám lau sậy, gỗ ván, và thùng dầu hỏa không, nơi đó chúng tôi ôm lấy nhau, chúng tôi có trước mặt mình vài điều thú vị và thực phẩm và trong mình sự thanh thản, tình thương yêu và sự an bình.

    Zorba không nghe tôi hỏi. Ai biết tâm trí hắn đang phiêu lãng trên đại dương nào mà tiếng nói của tôi không đạt tới. Tôi vươn tay ra và mấy đầu ngón tay chạm vào hắn.

    - Bác đã lấy vợ bao nhiêu lần rồi, Zorba? Tôi gạn hỏi.

    Hắn giật mình. Lần này hắn nghe thấy. Vừa khua bàn tay hộ pháp hắn vừa trả lời.

    - Ồ! Bây giờ ông muốn tìm kiếm cái gì nào! Rốt cục, tôi cũng chỉ là một thằng đàn ông. Như tất cả mọi người tôi đã phạm phải điều Xuẩn Ngốc Vĩ Ðại. Ðó là tên tôi đặt cho việc hôn nhân. Mong rằng những ai đã lập gia đình thứ lỗi cho tôi. Vâng, tôi đã phạm phải điều Xuẩn Ngốc Vĩ Ðại, tôi đã cưới vợ!

    - Ðược rồi, nhưng bao nhiêu lần mới được chứ?

    Zorba bứt rứt gãi đầu. Hắn suy nghĩ một lát.

    - Bao nhiêu lần nhỉ? Cuối cùng hắn nói: Ðoan chính chỉ có một lần, một lần mà thôi. Nửa đoan chính hai lần. Bất chính một ngàn, hai ngàn, ba ngàn lần không chừng. Ông muốn tôi tính sổ cách nào?

    - Kể sơ qua về những cuộc hôn nhân của bác, Zorba. Ngày mai Chủ Nhật, chúng ta sẽ cạo râu, mặc quần áo đẹp nhất của chúng ta và mình đến mụ Bouboulina. Chúng ta sẽ không có việc gì làm vậy thì chúng ta có thể thức suốt đêm nay. Kể đi!

    - Kể gì chứ? Ðó không phải là những điều người ta đem ra kể, ông chủ! Những vụ kết hôn hợp pháp đều vô vị, đó là một món ăn thiếu mắm muối. Kể gì chứ? Thật không còn chút thú vị nào khi người ta hôn nhau mà từ trên thánh tượng có các vị thánh dòm xuống và ban phúc lành. Trong làng chúng tôi, người ta bảo: “Chỉ có miếng thịt ăn trộm mới có hương vị”. Vợ ông không phải là miếng thịt ăn trộm. Bây giờ, những vụ kết hợp bất chính làm sao mà nhớ hết được? Con gà trống có ghi sổ không? Ông nghĩ coi! Và tại sao nó phải làm vậy? Tuy nhiên, khi tôi còn trẻ, tôi có tật lấy một lọn tóc của mỗi người đàn bà ăn nằm với tôi. Do đó, luôn luôn tôi có cây kéo trong mình. Ngay cả khi tôi đi lễ nhà thờ, cây kéo cũng ở trong túi tôi! Chúng ta là đàn ông chúng ta không bao giờ biết được cái gì sẽ xảy đến cho chúng ta phải không?

    “Thế rồi cứ như thế, tôi làm được một sưu tập các lọn tóc: Ðen có, hoe vàng có, đỏ hung có, đôi khi cũng có vài lọn tóc bạc. Nhờ gom góp lâu ngày, tôi nhồi đầy được một cái gối. Vâng, một cái gối, và tôi gối đầu lên ngủ; nhưng chỉ về Mùa Ðông thôi. Mùa Hè nó nóng lắm. Rồi, sau đó ít lâu, tôi đâm ra chán ngấy: Nó bắt đầu có mùi, bởi thế tôi đốt đi”.

    Zorba phá lên cười:

    - Ðó là cuốn sổ kế toán của tôi, ông chủ, hắn nói. Và nó đã cháy rụi. Tôi đã ngán thứ đó đến cỡ rồi. Tôi đã tưởng không có nhiều như vậy, và rồi tôi lại thấy thứ đó không chấm dứt cho nên tôi ném cây kéo.

  2. #8
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 31



    - Còn những vụ kết hợp nửa đoan chính, Zorba?

    - À những vụ đó à, những vụ đó không kém phần quyến rũ, hắn thở dài. Ôi chao! Những người đàn bà tư-lạp tuyệt vời, ước chi các em sống ngàn năm! Tự do làm sao! Không có những câu: “Anh đi đâu? Tại sao anh về vậy? Anh ngủ ở đâu?” Họ không hỏi ông câu nào cả và ông cũng không hỏi họ gì cả. Tự do mà!

    Hắn với tay lấy cái ly, nốc cạn, bóc vỏ một trái lật. Hắn vừa nhai vừa nói:

    - Có một nàng tên là Sophinka, và nàng nữa tên Noussa. Tôi quen với Sophinka tại một thôn lớn gần Novo Rossisk. Lúc ấy vào mùa Ðông, tuyết rơi, tôi đi tìm việc làm ở một hầm mỏ, và khi ngang qua làng đó, tôi dừng lại.

    Hôm đó, là ngày phiên chợ, và từ khắp các làng vùng lân cận, đàn ông đàn bà đều đổ về mua bán. Một nạn đói kinh khủng, trời rét như cắt, dân làng đem bán tất cả những gì họ có, cho đến cả những thánh tượng, để mua bánh mì.

    “Tôi len lỏi vào chợ khi tôi thấy một thôn nữ cao độ hai thước với đôi mắt mầu xanh nước biển, và đùi với mông đó... một con ngựa cái, thực thế!... Tôi chết đứng.

    “Này, Zorba đáng thương ơi! Tôi tự nhủ, đời mày tàn rồi!”

    “Tôi bắt đầu đi theo nàng. Và tôi nhìn nàng không chán... không thể nào dời mắt đi chỗ khác được! Ông phải thấy đôi mông nàng đong đưa qua lại như chuông nhà thờ ngày lễ Phục Sinh! “Tại sao lại đi tìm những hầm mỏ, hở ngốc tử? Tôi tự nhủ. Mi đã lầm đường rồi. Tại sao lại phí thì giờ quí báu ở đó, quân thay đổi ý kiến như chong chóng! Kia mới là hầm mỏ thực cho mi: Hãy chui mình vào đó và đào những đường hầm!”

    “Cô gái dừng lại, mặc cả, mua một mớ củi, khuân lên - Jesus, hai cánh tay! Và ném hết lên xe ngựa. Cô mua một ít bánh mì và năm sáu con cá sấy. “Bao nhiêu tất cả?” Nàng hỏi “Dữ vậy...?” Nàng gỡ hoa tai bằng vàng để trả tiền. Vì nàng hoảng kinh. Ðể cho một người đàn bà thế hoa tai của mình, những món trang sức của họ, những miếng xà phòng thơm, những lọ nước hoa... Nếu nàng bỏ tất cả những thứ ấy thì đời không còn gì nữa! Cũng như thể ông nhổ lông một con công đi. Ông có tâm địa nào nhổ lông một con công không? Không bao giờ! Không, chừng nào Zorba còn sống, tôi tự bảo, việc ấy không thể xẩy ra. Tôi mở túi bạc và trả tiền. Ðó là vào thời kỳ mà đồng rouble (*) đã trở thành mớ giấy lộn. Với một trăm drachma (**) người ta có thể mua được một con la, và với mười drachma, được một người đàn bà.”

    “Thế là tôi trả. Con đĩ rạc quay lại, liếc nhìn tôi. Ả cầm tay hôn. Nhưng tôi, tôi rút tay lại. Sao, nàng cho tôi là một cụ già à? ‘Spassibla! Spassibla!’ ả nói với tôi như thế; thế có nghĩa là: ‘Cám ơn! Cám ơn!’ Và ả nhảy lên xe ngựa; nàng cầm dây cương và dơ cao chiếc roi. ‘Zorba, lúc ấy tôi tự nhủ kìa, ông bạn, nàng sắp lọt khỏi tay mi rồi đó!’ Phóc một cái, tôi ở bên cạnh nàng trên xe ngựa. Nàng không nói gì. Nàng cũng không quay lại nhìn tôi. Một roi ngựa và thế là chúng tôi lên đường.”

    “Trên đường nàng đã hiểu rằng tôi muốn lấy nàng. Tôi ấp úng dăm ba câu tiếng Nga, nhưng đối với những chuyện này, không cần phải nói nhiều. Người ta nói với nhau bằng mắt, bằng tay, bằng đầu gối. Sau cùng, chúng tôi về đến làng và dừng lại trước isba của nàng. Chúng tôi xuống xe. Lấy vai đẩy một cái, thiếu nữ mở cổng và chúng tôi bước vào. Chúng tôi quăng củi xuống sân, lấy cá và bánh mì rồi chúng tôi chui vào phòng. Có một bà lão nhỏ thó ngồi bên lò sưởi nguội lạnh. Bà lão run cầm cập. Bà ta quấn mình trong những cái bị, những tấm giẻ rách, những tấm da cừu, nhưng bà cũng vẫn run như thường. Trời lạnh như cắt, mẹ kiếp! Tôi khom mình, lấy một ôm củi bỏ vào lò sưởi và nhóm lửa. Bà lão mỉm cười nhìn tôi. Cô con gái bà đã nói với bà điều gì, nhưng tôi không hiểu. Tôi gầy lửa, bà lão đã được sưởi ấm và bà hồi sinh dần.”

    “Trong lúc đó, thiếu nữ dọn bàn ăn. Nàng mang ra một ít rượu Vodka, và chúng tôi uống. Nàng châm lửa cái samovar và pha trà, chúng tôi ăn và chia phần ăn cho bà lão. Ðoạn nàng nhanh nhẹn dọn giường trải drap sạch, đốt ngọn đèn chong trước thánh tượng Ðức Mẹ Ðồng Trinh và làm dấu Thánh giá ba lần. Và nàng ra dấu gọi tôi; chúng tôi quì trước bà lão và hôn tay bà. Bà lão đặt đôi bàn tay xương xẩu lên đầu chúng tôi vừa thì thầm điều gì. Có lẽ bà ban phúc lành cho chúng tôi. ‘Spassibla! Spassibla!’ Tôi la, và, phóc một cái, tôi đã ở trên giường với con đĩ non.”

    Zorba nín lặng. Hắn ngẩng đầu lên và nhìn về phía biển xa.

    - Nàng tên Sophinka..., lát sau hắn nói, và lại rơi vào im lặng.

    - Sao nữa? Tôi sốt ruột hỏi hắn. Sao nữa?

    - Không có “sao nữa” gì hết! Ông có cái tật “sao nữa” với “tại sao” kỳ quá, ông chủ! Những điều đó không kể lại được mà! Ông thấy không! Người đàn bà là một dòng suối mát: người ta nghiêng xuống thấy bóng mình, và người ta uống; người ta uống cho đến khi xương kêu răng rắc. Rồi, kẻ khác lại đến và y cũng khát: y cúi xuống thấy bóng mình và y uống. Rồi một kẻ khác nữa...

    (*) Ðơn vị tiền Nga.
    (**) Ðơn vị tiền Hy Lạp - G.c.D.

    Kỳ 32



    Người đàn bà, quả thực là một dòng suối mát.

    - Rồi sau đó, bác có bỏ ra đi không?

    - Vậy ông muốn tôi phải làm gì chứ? Ðó là một dòng suối, tôi đã nói với ông như thế, và tôi một kẻ qua đường: tôi lại ra đi. Tôi lại ở lại với nàng ba tháng. Cầu Thượng Ðế phò trợ cho nàng, tôi không có gì ta thán nàng hết! Nhưng sau đó ba tháng, tôi nhớ ra là tôi đang đi tìm hầm mỏ. “Sophinka, tôi nói với nàng vào một buổi sáng, anh, anh có công việc, anh phải ra đi.” “Ðược rồi,” Sophinka bảo, “Anh đi đi. Em sẽ đợi anh trong một tháng, và nếu sau một tháng anh không trở lại, em tự do. Anh cũng thế. Cầu Thượng Ðế ban phước lành cho anh!” Tôi ra đi.

    - Và sau một tháng bác có trở lại...?

    - Ông ngốc quá, ông chủ, xin ông thứ lỗi cho! Zorba la lên. Làm sao mà trở lại được? Mấy con đĩ có bao giờ để mình yên đâu? Mười ngày sau, ở Kuban, tôi gặp Noussa.

    - Kể đi! Kể đi!

    - Ðể lần khác, ông chủ. Không nên trộn lẫn họ, những kẻ đáng thương! Chúc em khỏe mạnh, Sophinka.

    Hắn nốc một hơi cạn ly. Rồi tựa lưng vào tường và nói:

    - Ðược rồi, tôi sẽ kể ông nghe về Noussa. Tối nay đầu óc tôi đầy Nga. Hàng đi! Chúng ta sẽ làm cạn mấy cái hầm tầu!

    Hắn chùi bộ ria mép và quạt than.

    - Vâng như tôi đã nói với ông, tôi đã quen biết với cô ta ở làng Kuban. Lúc đó vào mùa Hạ. Hàng núi dưa hấu và dưa gang. Tôi cúi xuống lượm một trái và không ai nói gì cả. Tôi bổ nó ra làm đôi và úp mặt vào.

    “Tất cả đều dồi dào ở Nga, ông chủ, tất cả đều đầy đống. Hãy lựa chọn và lấy! Và không chỉ có dưa hấu dưa gang mà cả cám bơ, và đàn bà. Qua đường, ông thấy một trái dưa hấu, ông lấy đi. Ông thấy một người đàn bà, ông cũng lấy đi. Không phải như ở đây, ở Hy Lạp, nơi ông nhón một miếng vỏ dưa gang nhỏ xíu họ sẽ lôi ông ra tòa, và khi ông chạm vào một người đàn bà, anh em nàng sẽ xô tới, rút dao ra băm vằm thịt ông nát như tương. Khiếp! Bọn đê tiện bủn xỉn... Hãy tự treo cổ lên đi! Hỡi bọn nhớp nhúa! Hãy đến Nga một chút nếu bay muốn thấy bay có thể sống như những đại lãnh chúa như thế nào!

    “Tôi đi qua làng Kuban và tôi thấy một người đàn bà trong vườn rau. Tôi thích nàng. Ông nên biết rằng, ông chủ, người đàn bà Slave họ không giống những cô ả Hy Lạp ốm o, tham lam, bán xẻ ái tình bằng ống nhỏ giọt và tìm đủ mọi cách để bòn rút và cân thiếu lường gạt ông.”

    “Người đàn bà Slave, ông chủ, họ cân già cho mình. Trong giấc ngủ, trong tình yêu, trong việc ăn uống; họ rất gần với thú vật với đồng ruộng và với đất đai. Họ cho, họ cho một cách rộng rãi, họ không như mấy cô ả Hy Lạp gùn ghè, keo kiệt ấy đâu! Tôi hỏi nàng: ‘Cô tên gì?’ Với đàn bà ông thấy không, tôi đã học được một ít chút tiếng Nga.’Noussa, còn anh?’ ‘Alexis. Tôi thích cô lắm, Noussas. Nàng chăm chú nhìn tôi như người ta ngắm nghía một con ngựa trước khi mua. ‘Anh cũng vậy, anh không có vẻ một thằng con trai khờ khạo,’ nàng bảo tôi thế. ‘Anh có hàm răng chắc chắn bộ ria mép rậm, lưng rộng, hai cánh tay khỏe mạnh. Tôi thích anh.’ Chúng tôi không nói gì nhiều hơn nữa, không cần thiết. Chúng tôi thỏa thuận với nhau trong nháy mắt. Tôi phải đi ngay đêm đó về nhà nàng trong bộ quần áo diện nhất. ‘Anh có áo khoác bằng lông thú không?’ Nàng hỏi tôi. ‘Có, nhưng với sức nóng này...’’ ‘Không sao. Mang nó theo, như thế trông có vẻ sang trọng.’”

    “Thế rồi đêm hôm đó tôi ăn mặc như một chú rể, tôi cầm áo lông thú trên tay, tôi cũng mang theo một cây gậy đầu bịt bạc và tôi ra đi. Nhà nàng là một ngôi nhà kiểu quê rộng lớn, với những nhà phụ, bò cái, máy ép nho, hai đống lửa nhóm trong sân, những nồi niêu bắc trên bếp lửa. ‘Cái gì đang sôi đấy?’ Tôi hỏi. ‘Ðấy là nước dưa hấu.’ ‘Và đây?’ ‘Nước dưa gang.’ Xứ lạ quá! Tôi tự bảo mình, mi nghe chứ! Nước dưa hấu và nước dưa gang; đó là Ðất Hứa! Vĩnh biệt cái nghèo! Về phần mi đó, Zorba ơi, mi rơi trúng chỗ rồi, như chuột sa chĩnh gạo.”

    “Tôi leo lên cầu thang, một cầu thang gỗ thật to kêu ken két. Trên bậc đầu cầu thang cha mẹ Noussa ngồi. Họ mặc loại quần cụt xanh lá cây và đeo thắt lưng đỏ có búp tua; họ đội mũ trùm đầu lớn. Họ thực giầu sang. Họ dang tay và ôm tôi hôn lấy, hôn để. Tôi bị thấm đầy nước bọt. Họ nói với tôi thực nhanh và tôi không hiểu gì cả, nhưng qua nét mặt họ, tôi thấy rằng họ không muốn điều xấu cho tôi.”

    “Tôi bước vào phòng và tôi thấy gì? Các bàn ăn la liệt thức ăn và rượu nặng trĩu như những cái thuyền buồm. Mọi người đều đứng - họ hàng đàn ông, đàn bà và trước mặt là Noussa trang điểm, ăn mặc chỉnh tề với bộ ngực nhô ra như mỏm thuyền. Rực rỡ tuổi trẻ và sắc đẹp. Nàng thắt một cái khăn đỏ quanh đầu và ở giữa có thêu một cái lưỡi liềm và cái búa. ‘Hỡi tên Zorba số đỏ tội lỗi lút đầu, tôi thì thầm với mình, phần thịt đó của mi đó ư? Phải chăng đó là cái thân xác mi sắp ôm trong tay đêm nay? Thượng Ðế tha thứ cho cha mẹ mi, người đã mang mi vào thế gian này!’”

    “Tất cả chúng ta nhào vào yến tiệc ăn uống ngon lành, đàn bà cũng như đàn ông. Chúng tôi ăn như lợn và uống như hũ chìm. ‘Còn mục sư đâu?’ Tôi hỏi cha Noussa đang ngồi bên cạnh tôi và dường như ông ta sắp nổ tung vì nhồi nhét quá nhiều. ‘Mục sư ban phúc lành cho chúng tôi đâu?’ ‘Không có mục sư, ông trả lời tôi, phun cả nước bọt ra, không có mục sư. Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng.’”

    Kỳ 33

    “Nói đoạn ông vừa đứng dậy vừa ưỡn ngực, nới cái thắt lưng đỏ và giơ tay lên ra hiệu im lặng. Ông cầm ly rượu đầy tràn, và ông nhìn thẳng vào mắt tôi. Rồi ông bắt đầu nói liên tu bất tận: Ông dành cho tôi một bài diễn thuyết. Ông ấy nói gì? Có Trời biết! Tôi đứng phát mệt. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng hơi chếnh choáng. Tôi ngồi xuống và kề đầu gối tôi vào đầu gối Noussa đang ngồi bên phải tôi.

    “Ông lão vẫn chưa chịu ngừng, mồ hôi tháo ra như tắm. Thế là tất cả nhào đến bao quanh ông ta, ôm ghì lấy lão để bắt lão ngừng nói. Lão không nói nữa. Noussa ra hiệu cho tôi: ‘Nào bây giờ, anh nói đi!’

    “Ðến lượt tôi đứng dậy và tôi đọc một diễn từ nửa Nga nửa Hy Lạp. Tôi nói gì? Trời đánh nếu tôi biết tôi nói gì. Tôi chỉ nhớ là cuối cùng tôi nhào vào mấy bản hát thảo khấu Klepht (*).Tôi bắt đầu rống lên lộn xộn, vô ý nghĩa không ra chi tiết:

    Bọn thảo khấu đã bò xuống núi để trộm ngựa.

    Chúng không tìm thấy ngựa đâu

    Chúng bèn bắt Noussa!

    Ông thấy không, ông chủ, tôi cũng biết tùy cơ ứng biến đấy chứ.

    Và chúng rút đi, chúng rút đi...

    (Chúng đã rút đi, má ơi!)

    Ôi ! Em Noussa của tôi!

    Ôi! Em Noussa của tôi!

    Vai!

    “Và, vừa rống ‘Vai’ xong, tôi nhẩy bổ vào Noussa và hôn nàng.

    “Tất cả chỉ muốn có thế! Như thế tôi ra dấu hiệu mà họ đã chờ đợi và họ, thực ra chỉ chờ đợi có điều đó, mấy gã to lớn râu đỏ nhào tới tắt đèn.

    “Bọn đàn bà, mấy con đĩ, bắt đầu kêu ăng ẳng, làm như sợ hãi lắm. Nhưng liền đó trong bóng tối, họ bắt đầu kêu những tiếng nho nhỏ: ‘Hi! Hi! Hi!’ Họ thích bị cù nhột và cười cợt.

    “Cái gì đã xảy ra, ông chủ, chỉ có Trời biết. Nhưng tôi tin là ngài cũng không biết nữa vì nếu không ngài đã cho sét quay chín chúng tôi rồi. Ðàn ông đàn bà lẫn lộn, lăn lóc dưới đất. Tôi bắt đầu đi tìm Noussa, nhưng làm sao có thể tìm thấy nàng? Tôi gặp một cô khác và tôi làm công việc với cô ta.

    “Tờ mờ sáng, tôi thức dậy để ra đi với vợ tôi. Trời còn tối và tôi không thấy rõ. Tôi nắm lấy một cái chân, tôi lôi ra. Không phải chân của Noussa. Tôi nắm lấy một chân khác - không phải! Tôi kéo một chân khác - cũng không phải nữa! Tôi nắm lấy một chân khác, rồi một chân khác nữa, và sau cùng, sau biết bao lộn xộn, tôi tìm được chân của Noussa, tôi kéo ra, tôi gỡ nàng ra khỏi ba tên quỉ sứ to lớn đã đè bẹp nàng, tội nghiệp, và tôi đánh thức nàng dậy: ‘Noussa,’ tôi gọi nàng, ‘Chúng ta đi thôi!’

    “Ðừng quên chiếc áo lông của anh nhé! Nàng đáp. ‘Ði!’ Và chúng tôi lên đường.”

    - Sao nữa? Tôi gạn hỏi hắn vì thấy hắn lại im lặng.

    - Ðấy ông trở lại với những “sao nữa?” của ông rồi! Zorba đổ quạu vì những câu hỏi đó.

    Hắn thở dài.

    - Tôi sống với nàng sáu tháng. Kể từ ngày ấy - có trời chứng giám - tôi không còn sợ gì hết. Không sợ gì hết, tôi xin nhắc lại với ông như thế! Không sợ gì hết trừ một điều, sợ ma quỉ hay Thượng Ðế, xóa mờ sáu tháng ấy trong ký ức tôi. Ông hiểu không? Tôi hiểu rồi! Ông phải nói như vậy.

    Zorba nhắm mắt lại. Hắn có vẻ rất xúc động. Ðó là lần thứ nhất tôi thấy hắn bị vồ chụp quá mãnh liệt bởi một kỷ niệm xa xôi.

    - Bác yêu nàng Noussa đó đến thế cơ à? Lát sau tôi hỏi hắn.

    Zorba mở mắt ra.

    - Ông còn trẻ, ông chủ, hắn nói, ông còn trẻ, ông không hiểu nổi đâu. Khi tóc trên đầu ông bạc trắng như tôi, chúng ta sẽ khơi lại chuyện muôn thuở này.

    - Câu chuyện muôn thuở nào?

    - Ðàn bà, trời ơi! Phải nhắc lại với ông bao nhiêu lần nữa mới được chứ? Ðàn bà là một câu chuyện muôn thuở. Bây giờ, ông giống như mấy con gà trống non hấp tấp phủ mấy con gà mái đoạn phồng diều lên, leo lên đống phân mà lên tiếng gáy và diễu võ giương oai. Chúng không nhìn thấy mấy con gà mái mà chúng nhìn mào chúng! Vậy thì làm sao chúng hiểu nổi thế nào là tình yêu? Không hiểu một chút nào hết.

    Hắn khinh bỉ nhổ xuống đất. Rồi hắn quay đầu đi; hắn không muốn nhìn tôi.

    - Sao nữa, Zorba, tôi lại hỏi hắn. Noussa ra sao?

    Zorba, mắt chìm đắm về miền biển xa, đáp:

    - Một buổi tối trở về, tôi không thấy nàng đâu nữa. Nàng đã trốn đi cùng tên lính đẹp trai vừa đến làng được mấy hôm. Thế là hết! Tim tôi bị bửa làm đôi. Nhưng nó cũng dính liền lại rất nhanh, quân gian xảo. Hẳn ông đã thấy những cánh buồm vá víu những mảnh đỏ, vàng, đen, lại với nhau bằng sợi chập đôi và không bao giờ rách ngay cả trong những cơn giông tố bão bùng dữ dội nhất? Tim tôi cũng giống như vậy đó. Muôn lỗ rách, ngàn mảnh vá: nó không còn biết sợ gì nữa hết!

    - Và bác không thù hận gì Noussa sao, Zorba?

    - Tại sao? Tại sao lại thù oán nàng? Ông muốn nói gì thì nói, đàn bà lại là một chuyện khác, ông chủ... một chuyện khác hẳn. Họ không phải là giống người! Tại sao lại thù oán họ? Ðàn bà là một cái gì không thể hiểu được, tất cả mọi luật lệ của nhà nước và tôn giáo đều lầm to. Không nên đối xử với đàn bà như vậy, không! Luật pháp và tôn giáo quá cứng rắn, ông chủ, quá bất công! Nếu có bao giờ tôi phải soạn luật, tôi sẽ không soạn cùng một thứ luật cho đàn ông và đàn bà. Mười, một trăm, một ngàn giới luật cho đàn ông. Ðàn ông, là đàn ông, sao!

    (*) Klepht: bọn thảo khấu ở miền núi Olympe và Pinde. G.c.D.

    Kỳ 34

    Hắn có thể chịu đựng được. Nhưng không một giới luật nào cho đàn bà. Bởi vì - tôi phải nói với ông bao nhiêu lần nữa, ông chủ? - đàn bà là một sinh vật yếu đuối. Hãy uống chúc mừng Noussa, ông chủ! Và chúc mừng người đàn bà!... Và mong rằng Thượng Ðế cho đàn ông chúng ta khôn ngoan hơn!

    Hắn uống, giơ cánh tay lên và bất thần giật mạnh xuống như thể hắn đang sử dụng một cái rìu.

    - Hoặc ngài phải cho chúng ta khôn ngoan hơn, hắn nhắc lại, hoặc phải giải phẫu chúng ta. Nếu không, tin tôi đi: chúng ta sẽ đi đời nhà ma!



    8

    Hôm nay, mưa nhỏ hạt và trời đất giao hòa trong một nỗi dịu dàng vô hạn. Tôi nhớ tới một bức chạm lõm trong đá xám sẫm Ấn Ðộ. Người đàn ông vòng tay ôm người đàn bà và kết hợp với nàng với xiết bao ôn nhu nhẫn nhục đến nỗi người ta có cảm tưởng - thời gian đã gậm nhấm và hầu như đã đục khoét đôi thân thể - nhìn thấy hai côn trùng ôm ghì lấy nhau trên đó một cơn mưa bụi bắt đầu rơi và thấm ướt cánh chúng. Siết chặt nhau như vậy, chúng đang bị mút trở lại vào trong cái miệng phàm ăn của đất, một cách chậm rãi.

    Ngồi trong lều tôi ngắm trời ảm đạm, đất tối mầu và biển sáng một mầu xanh chàm. Ðầu ghềnh cuối bãi không một bóng người, không một dáng buồm, không một cánh chim. Chỉ có mùi đất thâm nhập vào qua khuôn cửa sổ.

    Tôi đứng lên và chìa tay ra mưa như một tên hành khất. Thốt nhiên tôi muốn khóc. Một nỗi u sầu nào đó, không phải của chính tôi, nhưng sâu thẳm và tối tăm hơn, đang dâng lên từ đất ẩm: nỗi kinh hoàng của một con thú đang vô tư gặm cỏ, thình lình, ngẩng đầu lên, không thấy gì hết, nhưng đánh hơi thấy trong không khí mình đã bị vây hãm và không thể đào thoát.

    Tôi muốn thét lên một tiếng, biết rằng điều đó sẽ khiến tôi nhẹ nhõm, nhưng tôi xấu hổ.

    Mây mỗi lúc một thêm lũng thấp. Tôi nhìn qua khung cửa sổ; tim tôi run lên nhè nhẹ.

    Khoái cảm u sầu là những giờ phút mưa bụi gieo rắc trong ta! Tất cả những kỷ niệm cay đắng vùi sâu chôn chặt trong lòng bỗng dội về tâm trí - bạn bè ly biệt, nụ cười người yêu đã nhạt phai, hy vọng đã gẫy cánh như những con bướm đêm chỉ còn lại con sâu. Và con sâu đó đã đậu trên những phiến lá của tim tôi mà gặm nhấm.

    Qua màn mưa và đất thấm nước, hình ảnh bạn tôi lưu đầy trong rặng Caucasus dần dần hiện ra. Tôi cầm bút, cúi mình trên giấy, và bắt đầu nói với hắn để xé rách tấm lưới mỏng của mưa và để thở.

    Bạn thân mến,

    Tôi viết cho anh lá thư này trên bãi biển cô liêu ở Crete nơi chúng tôi đã đến. Ðịnh mệnh và tôi, và tôi lưu lại dăm tháng để chơi: thủ vai nhà tư bản, chủ nhân một mỏ than bùn, nhà kinh doanh. Nếu trò chơi của tôi thành công, lúc đó tôi sẽ nói đây không phải là một trò chơi, nhưng tôi đã làm một quyết định thay đổi cuộc đời.

    Anh còn nhớ, lúc ra đi, anh gọi tôi là một con “mọt sách”! Ðiều đó khiến tôi giận đến nỗi tôi quyết định bỏ sách vở trong một thời gian - hay mãi mãi? - và lao mình hành động. Tôi thuê một trái đồi nhỏ chứa mỏ than, tôi mộ thợ, mua xẻng cuốc, đèn đất, thúng mủng, xe chuyên chở. Tôi khai hầm và chui vào. Làm như vậy đó, để chọc tức anh. Và bằng cách đào xới và làm đường hầm trong lòng đất, con mọt sách trở thành một con chuột chũi. Tôi mong anh tán thành cuộc hóa thân này.

    Những nguồn vui của tôi ở đây thật vĩ đại bởi chúng quá đơn giản và làm bằng những yếu tố vĩnh cửu: không khí trong lành, mặt trời, biển và bánh mì. Buổi tối, ngồi xổm theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ trước mặt tôi, một Sinh Bá Nhà Hàng Hải nói chuyện. Hắn nói và thế giới mở rộng ra. Ðôi khi, khi lời nói chưa đủ hắn chồm lên và nhẩy múa. Và khi nhẩy múa chưa đủ, hắn đặt cây santuri lên đầu gối và bắt đầu chơi.

    Ðôi khi hắn chơi một điệu man rợ và người ta cảm thấy ngột ngạt, bởi người ta chợt nhận thấy đời mình vô vị, khốn khổ và không xứng đáng với con người. Ðôi khi một điệu nhạc đau đớn và người ta cảm thấy cuộc đời đi qua và lọt như cát qua kẽ ngón tay và không có sự cứu chuộc.

    Tim tôi chao qua chao lại trong ngực như con thoi của một bác thợ dệt. Nó dệt những tháng ngày này mà tôi đang sống ở Crete, và - xin Thượng Ðế tha thứ - tôi tin rằng tôi hạnh phúc.

    Ðức Khổng Tử nói: “Nhiều kẻ tìm hạnh phúc cao hơn con người; những kẻ khác, thấp hơn con người. Nhưng hạnh phúc vừa tầm vóc con người.” Ðúng lắm. Học trò thân mến và sư phụ tôi, đó là hạnh phúc của tôi hôm nay; tôi đo đi, đo lại, lo âu, để xem tầm vóc hiện tại của tôi ra sao. Bởi vì anh biết điều này hơn ai, tầm vóc con người không phải luôn luôn đồng nhất.

    Tâm hồn con người biến đổi biết bao tùy theo khí hậu, niềm im lặng, nỗi cô đơn, hay bạn bè trong đó con người sống!

    Nguyễn Hữu Hiệu



    Kỳ 35



    Nhìn từ trong nỗi cô đơn của tôi, con người hiện ra với tôi không phải như những con kiến, nhưng ngược lại, như những con quái vật khổng lồ, những con khủng long hay dực thủ long, sống trong một bầu không khí đầy acid carbonic và thực vật hư thối từ đó sinh ra tạo vật. Một rừng rậm phi lý, không thể hiểu được.

    Những ý niệm về “quốc gia” và “chủng tộc” mà anh thích, những ý niệm về “siêu quốc gia” và về “nhân loại” đã lôi cuốn tôi, ở đây cũng cùng có một giá trị đó dưới hơi thở toàn năng của hủy hoại. Chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi được đưa lên mặt để nói vài tiếng, và đôi khi không được vài tiếng, mà chỉ là những âm thanh không rõ ràng: một tiếng “a!” một tiếng “ừ!” - sau đó chúng tôi bị hủy hoại. Và ngay cả những ý tưởng cao viễn nhất, nếu bị đem ra mổ xẻ, người ta sẽ thấy những ý tưởng đó không là gì khác hơn những hình nộm nhồi cám và giấu trong cám, một cái lò-xo bằng thép.

    Anh hiểu tôi khá nhiều để ý thức rằng những suy tưởng này không hề làm tôi chạy trốn, trái lại là những bùi nhùi không thể thiếu được cho ngọn lửa nội tâm tôi. Bởi vì, nói như Ðức Phật, bậc thầy của tôi: “Ta đã thấy.” Và vì tôi đã thấy và đã giao hảo, trong nháy mắt với người đạo diễn vô hình, đầy vui vẻ và tiếu ngạo, từ nay tôi có thể thủ vai trò của tôi trên trái đất đến kỳ cùng, nghĩa là có mạch lạc và không nản lòng. Bởi vì sau khi thấy, tôi còn cộng tác với tác phẩm mà tôi đang thủ trên sân khấu của Thượng Ðế.

    Vì thế, trong khi đưa mắt nhìn lên sân khấu vũ trụ, tôi thấy anh ở nơi xa xôi đó, trong những thành lũy thần thoại của rặng Caucasus, cũng đang thủ vai trò của anh; tôi có thể thấy anh đang tranh đấu cứu vớt muôn ngàn sinh linh của dòng giống chúng ta trong cơn hiểm nghèo. Một Prometheus giả hiệu, tuy nhiên, phải chịu những cực hình rất hiện thực trong khi tranh đấu chống lại những sức mạnh mù quáng của đói khát, giá lạnh, bệnh tật, cái chết. Nhưng kiêu ngạo như anh, đôi khi anh phải hoan hỉ vì những sức mạnh mù quáng nhiều đến thế và bất khả khắc phục: vì thế chủ đích sống hầu như vô vọng của anh trở nên anh hùng hơn và tâm hồn anh thâu thái được một vẻ cao cả bi thảm hơn.

    Chắc chắn anh phải coi cuộc đời anh đang sống như một hạnh phúc. Và bởi anh coi nó như vậy, nó sẽ như vậy. Anh phải thửa hạnh phúc theo vóc dáng anh; và vóc dáng anh hiện nay - cảm tạ Thượng Ðế! - vượt quá tôi. Bậc thầy chân chính không mong mỏi một phần thưởng nào lớn lao hơn phần thưởng này: đào luyện được một đồ đệ vượt quá mình.

    Về phần tôi, tôi luôn luôn quên, chê bai phỉ báng mình, lạc lõng, đức tin của tôi là một tấm khảm bất tín. Ðôi khi tôi muốn ký một giao kèo: đổi tất cả đời mình lấy một phút sống ngắn ngủi. Nhưng anh, anh cầm chắc bánh lái và anh không bao giờ quên, ngay cả trong những khoảnh khắc dịu dàng nhất của cuộc nhân sinh này, hướng anh đã vạch ra.

    Anh còn nhớ ngày cả hai chúng ta vượt Ý Ðại Lợi trên đường về Hy Lạp? Chúng ta đã quyết định đổ bộ xuống vùng Pontus lúc ấy đang lâm nguy, anh nhớ không? Chúng ta vội vã bước xuống một tỉnh lỵ - Chúng ta chỉ còn một giờ để đáp chuyến tầu khác. Chúng ta đi vào một khu vườn rậm rạp gần ga. Có những cây lá to bản, cây chuối, lau tre lá sắc kim thẫm, bầy ong bám vào một cành trổ hoa sung sướng run rẩy nhìn chúng hút nhụy hoa mình.

    Chúng ta bước tới trong xuất thần câm lặng, như trong một giấc mộng. Ðột nhiên, ở chỗ rẽ của một đường hoa, hai thiếu nữ xuất hiện, vừa đọc sách vừa dạo gót. Tôi không còn nhớ các cô đẹp hay xấu. Tôi chỉ nhớ một cô tóc vàng, một cô tóc nâu, và cả hai đều mặc áo mùa xuân.

    Và với sự bạo dạn người ta có trong mơ, chúng ta lại gần các cô và anh nói: “Bất kỳ các cô đọc cuốn sách gì, chúng tôi cũng xin thảo luận với các cô.” Các cô đang đọc Gorki. Rồi, hấp tấp bởi chúng ta có rất ít thì giờ, chúng ta nói về tình yêu, về khổ cực, về sự nổi loạn của tâm hồn, về tình yêu...

    Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi hân hoan và sầu muộn của chúng ta. Chúng ta và hai thiếu nữ không quen biết kia đã trở thành bạn cố tri, thành tình cố cựu, tự hồi nào; chúng ta chịu trách nhiệm về thân tâm họ, và chúng ta vội vã vì chỉ vài giây phút nữa thôi, chúng ta sắp phải lìa họ mãi mãi. Trong không khí rung động, chúng ta ngửi thấy sự cưỡng đoạt và cái chết.

    Con tầu tới, huýt còi. Chúng ta giật mình, như tỉnh mộng. Chúng ta siết tay nhau. Làm sao có thể quên được mười ngón tay níu nhau tuyệt vọng, mười ngón tay chẳng muốn rời xa? Một cô xanh xám tái tê, một cô cười khan run rẩy.

    Và tôi nói với anh lúc ấy, tôi còn nhớ: “Hy Lạp, Tổ quốc, Bổn phận, nghĩa lý gì? Ðó chỉ là những danh từ. “Chân lý là đây!” Và anh trả lời: “Hy Lạp, Tổ quốc chúng ta, bổn phận không có nghĩa lý gì, nhưng chính vì cái vô nghĩa đó chúng ta sẵn sàng chịu hủy hoại.”

    Nhưng tại sao tôi lại viết điều đó cho anh? Ðể anh thấy rằng tôi chẳng hề quên một giây phút nào chúng ta sống với nhau. Và cũng nhân cơ hội diễn tả cái mà vì thói quen đè nén cảm xúc tốt (hay xấu) của chúng ta, tôi chưa bao giờ có thể phát lộ với anh khi chúng ta sống với nhau.

    Bây giờ vì anh không còn ở trước tôi và không thể nhìn thấy mặt tôi, và bây giờ vì tôi không sợ tỏ ra yếu đuối hay lố bịch, tôi có thể nói với anh rằng tôi rất yêu anh.



    Kỳ 36



    Tôi đã viết xong bức thư. Tôi đã trò chuyện với bạn tôi, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi gọi Zorba. Nép mình dưới một tảng đá cho khỏi ướt, hắn đang thử mẫu đường sắt treo của hắn.

    - Ði, Zorba, tôi gọi. Ðứng lên đi dạo một vòng trong làng chơi.

    - Ông có vẻ vui vẻ, ông chủ. Trời mưa, ông không muốn đi một mình sao?

    - Không, và tôi cũng không muốn mất vui. Nếu chúng ta đi cùng với nhau thì sẽ không sao cả. Ði đi.

    Hắn cười, nói:

    - Tôi rất sung sướng vì ông cần tôi. Ta đi nào!

    Hắn mặc áo choàng len kiểu Crete với mũ trùm đầu nhọn mà tôi đã cho hắn và chúng tôi lội bùn đến con lộ lớn.

    Trời mưa. Những đỉnh núi bị che phủ. Không có một hơi gió; đá cuội sáng bóng. Ðồi than bùn bị ngộp dưới sa mù. Như thể khuôn mặt đàn bà của trái đồi bị khâm liệm trong nỗi ảo não thế nhân, như thể nàng tàn tạ trong mưa.

    - Lòng người đau đớn khi trời đổ mưa, Zorba nói. Không nên oán trách trời!

    Hắn cúi xuống chân một hàng rào và hái những bông thủy tiên dại đầu mùa. Hắn nhìn những bông hoa một lúc lâu, mê man không biết chán, như thể lần đầu tiên hắn nhìn thấy những bông thủy tiên; hắn nhắm mắt hít một hơi, thở dài rồi đưa cho tôi.

    - Ước gì người ta biết những đất đá, cỏ hoa, mưa móc nói gì! Có thể chúng kêu gọi, kêu gọi chúng ta và chúng ta không nghe thấy. Khi nào tai người ta sẽ mở rộng, ông chủ? Khi nào người ta có cặp mắt mở rộng để nhìn? Khi nào chúng ta sẽ mở vòng tay ôm tất cả - đá, hoa, mưa, con người? Ông nghĩ sao ông chủ? Sách vở nhảm nhí của ông nói sao về điều đó?

    - Ma quỉ bắt chúng, tôi nói, dùng thành ngữ ưa chuộng của Zorba. Ma quỉ bắt chúng. Sách vở chỉ nói có vậy.

    Zorba nắm lấy cánh tay tôi.

    - Tôi sắp nói cho ông nghe ý tưởng của riêng tôi, ông chủ, nhưng ông không được nổi giận: mang tất cả những cuốn sách nhảm của ông ra chất đống lên và đốt đi. Sau đó, ai biết, ông đâu ngu dại gì, ông là một mẫu người tốt... ông cũng có đôi chút lợi ích cho nhân quần!

    “Hắn có lý, hắn có lý! Tôi la thầm trong tôi. Hắn có lý, nhưng tôi không thể làm được điều đó!”

    Zorba lưỡng lự và đăm chiêu. Ðoạn hắn nói:

    - Tôi thấy một điều...

    - Ðiều gì? Nói đi!

    - Tôi không biết rõ. Tôi chỉ biết tôi biết một điều, thế thôi. Nhưng nếu tôi cố gắng nói, tôi sẽ quay rối bời hết. Ðể hôm nào vui vẻ, tôi sẽ nhảy điều đó ông coi.

    Trời bắt đầu mưa lớn. Chúng tôi đến làng. Những cô thiếu nữ dẫn cừu từ đồng cỏ về, những bác thợ cầy đã cởi ách bò, bỏ cánh đồng cầy dở dang, những thiếu phụ chạy theo con trong phố hẹp. Một sự kinh hoàng cuồng nhiệt nổ vỡ trong làng khi cơn mưa rào tới. Những người đàn bà thốt lên những tiếng kêu lanh lảnh và mắt họ cười; những hạt mưa lớn bám vào những hàm râu cứng, những bộ ria vểnh cong của bọn đàn ông. Một mùi cay nồng bốc lên từ đất đá và thảo dã.

    Ướt như chuột lột, chúng tôi đâm bổ vào quán café hàng thịt “Khiêm Tốn.” Quán đông nghẹt. Người chơi bài belote, kẻ to tiếng tranh luận, như gọi nhau từ núi nọ qua núi kia. Xung quanh một cái bàn nhỏ trong cùng, trên một băng gỗ, những bô lão ngồi chễm chệ: bác Anagnosti với chiếc áo chemise trắng rộng tay; Mavrandoni lặng lẽ trang nghiêm, hút điếu cày, mắt trừng trừng ngó xuống đất, lão giáo viên đứng tuổi, đạo mạo, tỳ trên cây gậy lớn, lắng nghe một gã khổng lồ tóc tai rậm rạp vừa từ Candia về đang mô tả những kỳ quan của chốn đô hội với một nụ cười kẻ cả. Lão chủ quán café, đứng sau quay vừa nghe và cười trong khi vẫn để mắt nhìn những bình nấu café xếp hàng trên bếp lò.

    Khi thấy chúng tôi vào, bác Anagnosti đứng dậy:

    - Xin mời các ông lại đây, đồng bào, lão nói. Sfakianonikoli đang kể cho chúng tôi nghe tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở Candia. Tức cười lắm, mời các ông lại cả đây.

    Lão quay sang lão chủ quán café.

    - Hai raki, Manolaki! Lão nói.

    Chúng tôi ngồi xuống. Gã mục đồng rừng rú co vòi vào và nín lặng khi thấy khách lạ.

    - Rồi sao nữa, sếp Nikoli, bác cũng tới cả nhà hát nữa à? Lão giáo viên hỏi để khiến gã mở miệng. Bác thấy ra sao?

    Sfakianonikoli chìa bàn tay hộ pháp ra, cầm lấy ly rượu, tợp một hơi hết, lấy can đảm.

    - Không tới nhà hát à? Hắn la lớn. Tôi tới mạnh chứ. Hết chỗ này nghe nói tới Kotopouli lại nghe chỗ kia nhắc tới Kotopouli! Thế rồi một buổi tối, tôi làm dấu và nói: mình cũng phải tới đó coi mới được. Xem cô ả mặt ngang mũi dọc ra sao mà chúng cứ làm ồn lên mãi. Hết Kotopouli lại đến Kotopouli.

    - Và bác thấy gì, bác đỏ? Bác Anagnosti hỏi. Kể đi coi nào!



    Kỳ 37



    - Không có gì hết. Nghe nói mãi về “nhà hát”, người ta tưởng đó phải là cái gì ghê gớm lắm. Nhưng không có gì hết. Thật uổng tiền. Nó giống như một thứ quán rượu, tròn quay, như một cái chuồng cừu, đầy người ta, ghế và đèn. Tôi không biết mình ở đâu, mắt tôi bị chói lòa và tôi không thấy gì cả. “Chúa ơi! Tôi tự nhủ, chúng sắp trù yếm mình đây.

    Mình phải chuồn gấp.” Ngay lúc đó, một con đĩ, ngúng nguẩy như một con chim chích chòe lại gần tôi và nắm lấy tay tôi. “Ô hay! Cô dẫn tôi đi đâu thế này?” Tôi hỏi ả. Nhưng ả cứ dẫn tôi đi, dẫn tôi đi không thèm để ý đến lời tôi nói với ả, cuối cùng ả rẽ và bảo tôi: “Ngồi xuống!” Tôi ngồi. Ở đâu cũng có người ta: Trước mặt, sau lưng, hai bên tôi và lên tận trần nhà. “Mình sắp chết ngộp, tôi tự nhủ, chắc chắn mình sắp chết đến nơi rồi, ở đây chẳng có chút khí trời nào!” Tôi quay sang hỏi người bên cạnh: “Ông bạn có thể cho biết những permadonnas (*) sẽ ra bằng cửa nào?” “Kia, từ phía thong kia”, y vừa nói vừa chỉ cho tôi tấm màn.

    (*) Tiếng đọc sai của chữ prima dona, đào chính, G.c.D.

    Ðúng như vậy! Bằng đầu có một tiếng chuông reo, tấm màn kéo lên và con Kotopouli (*) mà họ nói đứng lù lù trên sân khấu. Nhưng đừng hỏi tại sao họ gọi cô ả là một con gà tơ: Cô ả là một mụ đàn bà, từ đầu đến đuôi! Cô ả vừa bắt đầu vừa đi vòng quanh vừa vẫy đuôi. Cô ả đi qua đi lại, rồi sau đó, thiên hạ phát chán họ vỗ tay và cô ả chạy trốn”.

    (*) Một nữ kịch sĩ Hy Lạp nổi tiếng. Pouli có nghĩa là gà tơ - G.c.D.

    Dân làng ôm bụng cười, Sfakianonikoli cau có và có vẻ mắc cỡ. Gã quay ra cửa.

    - Trời mưa! Gã nói để thay đổi câu chuyện.

    Mọi người đều nhìn theo mắt gã. Ngay lúc đó, váy đen vén lên đến tận đầu gối, tóc xõa xuống vai, một người chạy ngang qua. Da thịt lồ lộ, quần áo dán vào người cho thấy một thân hình rắn chắc, khêu gợi.

    Tôi giật nẩy mình, “Dã thú nào đây?” Tôi nghĩ thầm. Nàng có vẻ mềm dẻo, nguy hiểm, một con thú nuốt đàn ông.

    Thiếu phụ quay đầu lại một lát và cặp mắt long lanh liếc vào quán café.

    - Ðức Mẹ Ðồng Trinh! Một gã trẻ măng râu lún phún như lông tơ ngồi gần cửa sổ lẩm bẩm.

    - Chém cha cái ngòi mìn! Manolaks, người tuần phu, gầm lên. Ngọn lửa mi đốt lên thiêu đốt đàn ông mi không bao giờ dập tắt.

    Gã thanh niên ngồi gần cửa bắt đầu ngâm nga nho nhỏ, mới đầu êm dịu, do dự; rồi dần dần giọng hắn trở nên ồ ồ:

    Chiếc gối góa phụ có hương mộc qua.

    Ta cũng bén mùi từ đó đêm thường chẳng ngủ.

    - Câm họng đi! Mavrandoni vừa thét lên vừa vung vẩy cái xe điếu.

    Gã thanh niên nín tắp. Một lão già cúi xuống thì thầm với Manolakas, người tuần phu:

    - Bác anh nổi giận rồi đó. Nếu vô phúc mụ rơi vào tay lão, lão sẽ chặt mụ ra làm trăm mảnh, tội nghiệp! Cầu Thượng Ðế phò trợ cho mụ.

    - Ê, bác Androulio, Manolakas nói, theo tôi biết, bác cũng chạy theo mụ góa. Bác, phụ thủ nhà thờ, bác không biết xấu hổ sao?

    - Ê, không! Tao nhắc lại với mày: Cầu Thượng Ðế phò trợ cho mụ! Lẽ nào mày không thấy trẻ con sinh trong làng ta hồi này đây? Chúng nó đẹp như thiên thần. Mày có biết tại sao không? Ðó là nhờ mụ góa! Mụ có thể nói là tình nhân của cả làng: Mi tắt đèn và mi tưởng tượng không phải là vợ mi mi ôm trong mà chính là mụ góa. Vì lẽ đó, mày có để ý không, làng ta mới cho ra đời được những đứa trẻ kháu khỉnh như vậy.

    Cha Adroulio lặng thinh một lát, đoạn lẩm bẩm:

    - Sung sướng thay những cặp đùi nào được ghì mụ! A! Bạn ơi! Nếu tôi mới hai mươi tuổi như Pavli, con Mavradoni!

    Họ quay ra cửa. Trời mưa xối xả. Nước chảy òng ọc trên sỏi; thỉnh thoảng chớp sáng lóe trên trời. Zorba đứt hơi từ lúc góa phụ đi qua. Hắn không chịu nổi nữa và hắn ra hiệu cho tôi:

    - Tạnh mưa rồi, ông chủ. Chúng ta đi thôi!

    Một gã thiếu niên đi chân đất, đầu bù tóc rối với cặp mắt man rợ mở lớn, hiện ra ở cửa. Những họa sĩ vẽ thánh tượng trình bày thánh St. John the Baptist như vậy, cặp mắt vô cùng lớn vì đói khát và kinh cầu.

    - Kìa, Mimiko! Một vài người vừa cười vừa la lên.

    Làng nào cũng có một kẻ ngây ngô, và nếu không có, họ sẽ cố tạo ra một kẻ để giải trí. Mimiko là kẻ ngây ngô của làng này.

    - Các bạn ơi, gã lắp bắp la lên bằng cái giọng cà lăm và đàn bà của gã, các bạn ơi, mụ góa Sourmelina mất con cừu. Ai tìm thấy sẽ được thưởng năm lít rượu vang.

    - Xéo đi! Lão Mavrandoni quát, xéo đi!

    Mimiko sợ hãi, chúi vào góc, gần cửa ra vào.

    - Ngồi xuống, Mimiko, lại đây uống một ly raki cho ấm bụng! Bác Ananosti thương hại bảo. Làng chúng ta sẽ ra sao nếu không có một thằng boom?

    Một người đàn ông vẻ bệnh hoạn, mắt xanh lợt hiện ra ở ngưỡng cửa, hổn hển, tóc bết vào vầng trán và nhỏ giọt.

    - Chào Pavli! Manolakas kêu, chào người anh em họ! Vào đây.



    Kỳ 38



    Mavrandoni quay lại, cau mày nhìn con.

    “Con trai ta đó sao? Lão tự hỏi. Kẻ bất thành nhân dạng đó? Không biết nó giống ma quỉ nào? Ta muốn túm lấy cổ nó, nâng lên và ném nó xuống đất như ném một con mực ma!

    Zorba như đỉa phải vôi. Góa phụ đã đốt cháy đầu óc hắn và hắn không thể ngồi trong bốn bức tường này.

    - Chúng ta đi thôi, ông chủ, chúng ta đi thôi chứ! Hắn thì thầm từng giây. Chúng ta chết thiêu trong này mất!

    Hình như đối với hắn mây đã tan và mặt trời lại ló dạng.

    Hắn quay sang lão chủ quán café, làm bộ thản nhiên hỏi:

    - Bà góa đó là ai vậy?

    - Một con ngựa cái, Kondomanoli đáp.

    Lão để một tay lên môi và đưa mắt ý nhị nhìn Mavrandoni, một lần nữa lại trừng trừng ngó xuống đất.

    - Một con ngựa cái, lão nhắc lại. Thôi đừng nói đến mụ kẻo chúng ta lại bị nguyền rủa đọa đầy!

    Mavrandoni đứng dậy và quấn xe điếu quanh cổ điếu cầy.

    - Xin vô phép, lão nói. Tôi về. Pavli, đi về!

    Lão dìu con đi. Họ đi qua mặt chúng tôi và biến mất ngay sau màn mưa. Manolakas đứng lên đi theo họ.

    Kondomanolio ngồi xuống ghế của Mavrandoni.

    - Tội nghiệp Mavrandoni, lão nói khẽ để những bàn bên cạnh khỏi nghe thấy. Lão đến chết vì tức mất. Thật là đại họa xảy đến cho nhà lão. Hôm qua chính tai mình nghe thấy Pavli nói với lão: “Nếu tôi không lấy được mụ, tôi sẽ tự tử!” nhưng con đĩ đó không thèm gã. Mụ gọi gã là “thò lò mũi xanh!”

    - Chúng ta đi thôi, Zorba nhắc lại. Mỗi một chữ nói về góa phụ lại khiến hắn càng thêm bốc lửa.

    - Thì đi! Tôi vừa nói vừa đứng dậy.

    Mimiko thò ra khỏi xó của gã và chuồn theo chúng tôi.

    Sỏi đá sáng lóng lánh, những khuôn cửa đẫm nước trở nên đen thẫm, những mụ già nhỏ thó đi ra với những cái thúng để tìm ốc sên.

    Mimiko lại gần, nắm lấy cánh tay tôi.

    - Cho một điếu thuốc ông chủ, gã nói. Nó sẽ mang lại may mắn cho ông trong tình yêu.

    Tôi cho gã điếu thuốc. Gã chìa bàn tay gay guộc, cháy nắng ra.

    - Cho tôi xin chút lửa nữa!

    Tôi cho gã lửa; gã rít vào đến tận đáy phổi, thở khói qua lỗ mũi và lim dim mắt.

    - Sướng như quan Thổ Nhĩ Kỳ! Gã lẩm bẩm.

    - Em đi đâu?

    - Tới vườn nhà mụ góa. Mụ nói mụ sẽ cho tôi ăn nếu tôi đi rao tin về con cừu của mụ.

    Chúng tôi đi nhanh. Mây hơi tan, mặt trời ló ra. Cả làng tươi tỉnh, tắm gội mát mẻ.

    - Em có thích bà góa không, Mimiko? Zorba hỏi, sùi bọt mép.

    Mimiko quang quác nói:

    - Tại sao tôi lại không thích mụ? Bộ tôi không chui ra từ một cái ống cống như mọi người hay sao?

    - Từ một cái ống cống? Tôi kinh ngạc kêu lên. Em muốn nói gì vậy, Mimiko?

    - À, từ lòng mẹ.

    Tôi sửng sốt. Chỉ có một Shakerspeare, trong những giây phút sáng tạo nhất, tôi nghĩ, mới có tể tìm được một thành ngữ hiện thực sống sượng đến thế để miêu họa cái huyền bí, tối tăm và nhơ nhớp của sự sinh đẻ.

    Tôi nhìn Mimiko. Cặp mắt gã to, ngây dại và hơi lé.

    - Hàng ngày em làm gì? Mimiko?

    - Ông muốn tôi làm gì? Như một ông quan Thổ Nhĩ Kỳ. Buổi sáng, tôi thức dậy, tôi ăn chút bánh. Rồi tôi đi làm thuê cho người ta, tôi làm bất cứ việc gì, bất cứ ở đâu. Tôi chạy việc vặt, đổ thùng, vun phân trâu ngựa, và đi câu với cần câu của tôi. Tôi ở nhà dì tôi, mẹ Lenio, khóc mướn. Có lẽ ông biết mụ. Người ta còn chụp hình mụ nữa. Tối tôi trở về nhà, ăn một đĩa súp và uống một chút rượu. Nếu không có rượu, tôi uống thả cửa nước của Chúa Trời cho đến khi bụng trương lên như cái trống mới thôi. Sau đó ngủ thẳng cẳng!

    - Em không lấy vợ sao, Mimiko?

    - Tôi? Tôi đâu có khùng! Bạn nói gì đó? Tôi phải chuốc của nợ vào người sao? Một người đàn bà cần có giầy dép! Tôi biết kiếm nó ở đâu? Nhìn đây, tôi đi chân không đây này.

    - Em không có giầy ống sao?

    - Sao tôi không có? Tôi có một đôi. Dì Lenio tôi kéo từ chân một thằng cha chết năm rồi. Nhưng tôi chỉ đi vào lễ Phục Sinh để đến nhà thờ cười ngó thầy tư tế. Sau đó, tôi rút giầy ra, vắt lên cổ và trở về.

    - Em thích gì nhất, Mimiko?

    - Trước hết là bánh mì. A, tôi thích bánh mì biết chừng nào. Nóng hổi và giòn tan, nhất là bánh bột mì! Sau đó, rượu vang. Sau rốt, ngủ.

    - Còn đàn bà?

    - Sì! Ăn, uống và đi ngủ, chỉ có thế. Còn tất cả chỉ là phiền nhiễu.

    - Và bà góa?

    - Kệ xác mụ là hay hơn cả! Vade retro Satanas?

    Gã nhổ ba lần và làm dấu thánh giá.

    - Em biết đọc không?

    - Nhìn xem tôi đâu ngu dại đến cỡ đó! Khi tôi còn nhỏ người ta lôi tôi đến trường, nhưng may mắn cho tôi, tôi bị đậu lào và trở thành ngốc nghếch. Tôi được xếp đặt để thoát ra như vậy đó.

    Zorba đã phát ngấy vì những câu hỏi của tôi; hắn chỉ nghĩ tới sương phụ.

    - Ông chủ... Hắn vừa nói vừa nắm cánh tay tôi. Ðoạn hắn quay sang Mimiko ra lệnh cho gã đi trước:

    - Chúng ta có chuyện riêng muốn nói.

    Kỳ 39



    Hắn hạ thấp giọng, và có vẻ xúc động:

    - Ông chủ, hắn nói, đây là lúc tôi trông cậy vào ông. Ðừng làm nhục giống nam nhi! Ma quỉ, hay Thượng Ðế, đã cho ông món thượng hạng này; ông có răng, vậy đừng từ chối!

    Vươn tay ra và nắm lấy! Tại sao Hóa Công cho chúng ta tay? Ðể lấy đồ vật! Vậy, hãy lấy đi. Ðàn bà, trong đời tôi, tôi đã thấy không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng mụ gái quá trời đánh này làm đổ quán siêu đình như chơi (*)!

    (*) Bản Anh và Pháp dịch: “Nhưng mụ gái góa trời đánh này làm rung chuyển lầu chuông”. (Mais cette veuve, elle ferait crouler des clochers, la maudite! (Yvonne Gauthier) - But that damned widow makes the steeples rock! (Carl Wildman). “Làm rung chuyển lầu chuyển lầu chuông” là một thành ngữ dùng để chỉ sức hủy hoại của đàn bà nên tôi tưởng có thể chuyển suôn sẻ sang Việt ngữ: “Làm đổ quán “siêu đình” mà không thiệt hại gì cho nguyên tác và hy sinh tinh thần Hy Lạp. G.c.D.

    - Tôi không muốn nhiễu sự, tôi giận dữ trả lời.

    Tôi bực tức bởi trong thâm tâm tôi cũng thèm muốn tấm thân toàn năng đi qua trước mặt tôi như một con dã thú động tình, nhỏ giọt xạ hương.

    - Ông không muốn nhiễu sự? Zorba ngạc nhiên hỏi, vậy ông muốn gì mới được chứ?

    Tôi không trả lời.

    - Ðời là một sự phiền nhiễu, Zorba nói tiếp. Chết, không. Sống, ông có biết điều đó nghĩa là gì không? Thoát khỏi tình trạng thắt lưng buộc bụng và kiếm tìm huyên náo.

    Tôi lặng thinh. Tôi biết rằng Zorba có lý, tôi biết điều đó lắm, nhưng tôi không dám. Ðời tôi đã đi vào con đường lầm lạc và sự giao tiếp của tôi đối với con người chỉ là một cuộc độc thoại nội tâm. Tôi đã sa đọa quá thấp đến nỗi nếu phải lựa chọn giữa việc yêu một người đàn bà và đọc một cuốn sách hay về ái tình, chắc chắn tôi chọn cuốn sách.

    - Ðừng tính toán nữa, ông chủ, Zorba tiếp. Hãy bỏ rơi những con số, triệt hạ cái bàn cân thổ tả, đóng cửa tiệm buôn lại, tôi xin nói với ông như thế. Bây giờ là lúc ông sắp cứu rỗi hay đánh mất linh hồn. Nghe tôi nói đây, ông chủ, lấy hai đồng, đồng vàng chứ đừng lấy đồng giấy, đồng giấy không làm lóa mắt, gói lại trong một tấm khăn tay và nhờ Mimiko gửi cho bà góa. Dậy nó điều nó phải nói: “Ông chủ mỏ gửi lời chào bà và gửi bà tấm khăn nhỏ bé này. Ông nói của ít nhưng tình nhiều. Ông cũng nói là bà đừng lo âu về chuyện con cừu: Nếu mất nó xin bà đừng lo phiền. Có chúng tôi đây, đừng sợ! Ông mới thấy bà đi qua quán café và từ đó, ông chỉ tơ tưởng đến bà mà thôi.”

    “Ðó! Rồi tối đó ông gõ cửa nhà mụ. Phải rèn sắt khi nó còn nóng. Nói với mụ là ông lạc đường, trời lại tối quá, ông cần một cái đèn lồng. Hoặc thình lình ông bị váng vất khó chịu và cần một ly nước. Hoặc, hay hơn nữa, ông mua một con cừu khác mang đến cho mụ và nói: “Thưa bà, đây là con cừu bà đã mất. Tôi đã tìm thấy cho bà đây!” Tin tôi đi ông chủ bà góa sẽ thưởng ông và ông sẽ đi vào...! Nếu tôi có thể ngồi sau yên ngựa ông! Ông sẽ đi vào Thiên Ðàng trên lưng ngựa. Không có một thiên đàng nào ngoài thiên đàng đó, tôi xin cam đoan với ông như vậy! Ðừng có nghe lời bọn thầy tu, không có thiên đàng nào khác!”

    Có lẽ chúng tôi đang đi đến gần nhà góa phụ vì Mimiko thở dài và bắt đầu ca hát nỗi u sầu bằng cái giọng cà lăm của gã:



    Phải có rượu cho trái lật và mật cho trái hồ đào.

    Cho chàng trai một cô gái và cho cô gái một chàng trai.



    Zorba rảo bước. Hai cánh mũi hắn hấp hiu. Hắn ngừng lại hít một hơi dài, và nhìn thẳng vào mắt tôi.

    - Sao nữa? Hắn hỏi.

    Và hắn lo âu chờ đợi.

    - Ði thẳng! Tôi nghiêm khắc trả lời và đi thật nhanh.

    Zorba lắc đầu, càu nhàu điều gì tôi không nghe thấy.

    Khi chúng tôi về đến lều, hắn ngồi xếp bằng, đặt cây santuri lên đầu gối, và cúi đầu, chìm đắm trong suy tưởng. Dường như hắn đang lắng nghe vô số những bài hát và cố gắng lựa một bản hay nhất, hoặc tuyệt vọng nhất. Cuối cùng hắn chọn xong và cất tiếng hát một điệu ai oán. Thỉnh thoảng, hắn liếc nhìn tôi. Tôi cảm thấy tất cả những gì hắn không thể nói với tôi bằng lời, hắn diễn tả bằng santuri. Rằng tôi đang làm hỏng đời tôi, rằng sương phụ và tôi là hai con côn trùng chỉ sống trong giây phút dưới ánh mặt trời, để rồi chết đi mãi mãi. Không bao giờ nữa! Không bao giờ nữa!

    Zorba đứng phắt dậy. Hắn chợt nhận thấy rằng hắn tốn công vô ích. Hắn dựa vào vách, châm một điếu thuốc, và lát sau, hắn nói:

    - Ông chủ, tôi sắp thố lộ với ông một điều bí ẩn mà một hodja (*) một hôm đã nói với tôi ở Salonica; tôi sắp thố lộ với ông, dầu điều đó không ích lợi chi cả.

    (*) Người thánh thiện Thổ Nhĩ Kỳ. G.c.D.

    “Hồi đó, tôi bán hàng rong ở Macedonia. Tôi đi vào các làng mạc bán kim chỉ, thánh truyện, cánh kiến trắng, hồ tiêu. Tôi có một giọng ca thiên phú, đúng là một con họa mi. Ông phải biết rằng đàn bà cũng bị giọng hát lôi cuốn nữa. Và họ không bị lôi cuốn bởi cái gì, đồ đĩ? Có trời biết lòng dạ họ ra sao! Ông có thể đui què mẻ sứt, nhưng nếu ông biết hát, ông sẽ làm họ xiêu lòng ngay.

    “Tôi cũng còn bán hàng rong ở Salonica và tôi qua lại ngay cả những khu Thổ Nhĩ Kỳ. Và giọng tôi đã mơn trớn quyến rũ một người đàn bà Hồi Giáo giầu có, con gái của một ông quan Thổ, đến nỗi nàng mất ăn mất ngủ. Thế rồi nàng gọi một lão trượng hodja đến và cho lão một nắm mejidies (*) đầy, nàng nói với lão: “Aman (**)!Tới bảo tên bán hàng rong Giaour (***) tới, đây, Aman! Tôi phải nhìn thấy hắn. Tôi không chịu nổi nữa!”

    (*) Tiền Thổ Nhĩ Kỳ, do Abbdul-Medjid thiết định, có giá trị bằng 4 drac me 20 lepta.

    (**) Tán thán từ Hồi Giáo chỉ sự khan khoản, van nài.

    (***) Tiếng Hồi Giáo chỉ người khác tôn giáo, đặc biệt người Cơ Ðốc Giáo - G.c.D.

    40



    Hodja đến kiếm tôi: “Nghe đây, tên Cơ Ðốc Giáo trẻ tuổi, lão bảo tôi, đi với lão. Tôi không đi, tôi trả lời. Lão muốn dẫn tôi đi đâu? Có con gái của một Thổ quan tựa nước suối mát đợi cậu trong phòng, cậu bé Cơ Ðốc Giáo, đi!”

    Nhưng tôi biết rằng, ban đêm, họ giết dân Cơ Ðốc Giáo trong những khu Thổ. “Không, tôi không đi, tôi nói - Mi không sợ Thượng Ðế sao, Giaour? Tại sao tôi phải sợ? Bởi vì, chú bé Cơ Ðốc Giáo ơi, kẻ nào có thể ngủ với một người đàn bà và không làm, phạm một tội trọng. Khi một người đàn bà gọi mi đến để chung chăn gối mà mi không đến, con ơi, con sẽ mất linh hồn! Người đàn bà đó sẽ thở dài trước mặt Thượng Ðế vào ngày phán xét cuối cùng, và tiếng thở dài của người đàn bà đó sẽ xô mi xuống Ðịa Ngục, dù mi là ai và bất kể tất cả những nghĩa cử đẹp đẽ mà mi đã thực hiện!

    Zorba thở dài.

    - Nếu Ðịa Ngục có thật, hắn nói, tôi sẽ xuống Ðịa Ngục chính vì lý do đó. Không phải vì tôi đã trộm cắp, giết người hay ngủ với vợ những kẻ khác, không, không! Tất cả những điều đó không có nghĩa lý gì hết, Thượng Ðế chí tôn sẽ tha thứ tất những điều đó. Nhưng tôi sẽ sa Ðịa Ngục bởi vì, đêm đó, một người đàn bà chờ đợi tôi trong giường mà tôi không đến...

    Hắn đứng dậy, nhóm lửa và sửa soạn làm bếp. Hắn liếc nhìn tôi bằng nửa con mắt và mỉm cười khinh bỉ:

    - Không có kẻ điếc nào tệ cho bằng kẻ không muốn nghe.

    Và cúi xuống, hắn bắt đầu thổi gỗ ẩm một cách giận dữ.



    9



    Ngày thâu ngắn dần, ánh sáng sụp xuống rất nhanh, tinh thần trở nên bứt rứt vào mỗi buổi xế chiều. Nỗi sợ hãi cổ sơ xâm chiếm chúng tôi - nỗi sợ hãi của tổ tiên thấy trong những tháng mùa đông mặt trời mỗi ngày tắt một sớm hơn vào mỗi buổi chiều. “Ngày mai, nó sẽ lặn mãi mãi mãi,” họ tuyệt vọng nghĩ, và suốt đêm trên những đỉnh cao họ sống trong tuyệt vọng hãi hùng.

    Zorba cảm thấy nỗi lo âu này sâu xa hơn và cổ sơ hơn tôi. Ðể trốn thoát nỗi bứt rứt đó, hắn chỉ ra khỏi hầm mỏ lúc sao đã thắp sáng ở trên trời.

    Hắn đã vớ được một mạch than non không thải ra nhiều tàn, không ướt, giầu nhiệt lượng. Hắn hài lòng lắm. Bởi vì, trong chốc lát, lời lãi đã chịu nhiều biến thái kỳ diệu trong trí tưởng tượng của hắn: Nó trở thành những cuộc du lịch, đàn bà và những phiêu lưu mới. Hắn bất nhẫn chờ đợi ngày hắn kiếm được một gia tài, ngày đôi cánh của hắn đủ lớn - “đôi cánh” là danh từ hắn dùng để gọi tiền - để xa bay. Do đó qua nhiều đêm ròng hắn thí nghiệm máy cáp chở đồ nhỏ xíu của hắn, tìm độ dốc đúng nhất, để những thân cây hạ xuống êm ái, hắn nói, như được chuyên chở bởi những thiên thần.

    Một hôm hắn lấy một tờ giấy dài, bút chì mầu và vẽ núi rừng, đường sắt treo và những thân cây treo trên dây cáp đi xuống, mỗi thân cây có hai cánh lớn màu xanh da trời. Trong cái vịnh tròn nhỏ, hắn vẽ những con thuyền đen với những thủy thủ xanh như những con két và những thương đoàn chở những thân cây màu vàng. Bốn tu sĩ đứng ở bốn góc, và từ miệng họ bay lên những giải băng hồng chữ đen viết hoa: “Ôi Chúa cao cả thay và kỳ diệu thay những công trình của Chúa!”

    Từ mấy hôm nay, Zorba nhúm lửa một cách vội vã, hắn sửa soạn bữa ăn, ăn xong hắn chuồn gấp tới con đường về làng. Lát sau hắn cau có trở về.

    - Bác lại đi đâu nữa đó, Zorba? Tôi hỏi hắn.

    - Ông chủ đừng quan tâm, hắn nói và lảng sang chuyện khác.

    Một buổi tối trở về, hắn lo âu hỏi tôi:

    - Thượng Ðế có hay không? Ông nói sao về điều đó, ông chủ? Nếu có - tất cả đều có thể - ông tưởng tượng ra ngài ra sao?

    Tôi nhún vai không trả lời.

    - Tôi không nói đùa đâu ông chủ, tôi tưởng tượng Thượng Ðế giống hệt tôi. Chỉ lớn hơn, mạnh hơn, điên rồ hơn. Và trên tất cả, bất cứ. Ngài ngồi thoải mái trên những tấm da cừu mềm mại, và lều của ngài là bầu trời. Nó không làm bằng những bi-đông ét săng cũ như lều chúng ta, nhưng bằng mây. Trong bàn tay phải ngài cầm, không phải một đoản kiếm cũng chẳng phải một cái cân - những dụng cụ này dành cho bọn đồ tể và chủ tiệm tạp hóa - ngài cầm một miếng bọt biển đẫm nước, như một đám mây mưa. Bên phải ngài là Thiên Ðàng, bên trái là Ðịa ngục. Khi một linh hồn nhỏ nhoi khốn khổ bị điệu tới, hoàn toàn trần truồng, nó đã mất bộ áo khoác ngoài - tôi muốn nói thân thể - nó run ray. Thượng Ðế vừa nhìn nó vừa cười thầm, nhưng ngài giả bộ ông Ba-Bị quát: “Lại đây, lại đây, quân khốn kiếp!”

    Và ngài bắt đầu lấy khẩu cung. Lính hầu quì sụp dưới chân Thượng Ðế van xin: “Xin mở lượng khoan hồng cho con!” Và nó bắt đầu đọc tội lỗi của nó. Nó đọc một thôi một hồi liên tu bất tận. Thượng Ðế cho thế là quá đủ rồi. Ngài ngáp. “Thôi ngừng lại đi, ngài quát, mi làm ta nhức đầu mất!” Và ngáp! Một cú bọt biển và ngài xóa mọi tội lỗi. “Ði đi, chuồn mau vào Thiên Ðàng!” Ngài nói với linh hồn. “Peterkin, cho cả kẻ đáng thương này vào với!”

    “Bởi vì, ông phải biết, ông chủ, Thượng Ðế là một đấng chúa tể, và một đấng chúa tể quí phái có nghĩa là: tha thứ!”

  3. #9
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 41



    Tôi còn nhớ buổi tối hôm đó tôi cười trong khi Zorba tuôn ra những lời nói bậy bạ. Nhưng cái tính cách “quí phái” của Thượng Ðế thành hình và chín mùi trong tôi, bác ái, bao dung và toàn năng.

    Một buổi tối khác khi trời mưa và chúng tôi thu mình trong lều, nướng trái lật trong lò than, Zorba quay lại và nhìn tôi một lúc lâu như thể hắn muốn soi sáng một điều huyền bí lớn lao nào. Cuối cùng, hắn không chịu nổi nữa:

    - Ông chủ, tôi muốn biết ông có thể nhìn thấy gì nơi tôi? Ông chờ đợi gì mà không xách tay tôi quẳng ra ngoài? Tôi đã nói với ông rằng họ gọi tôi là “Mildew” bởi vì bất cứ nơi nào tôi tới, tôi phá hoại hoàn toàn... Công việc của ông sẽ đi đến chỗ tan hoang. Quẳng tôi ra, tôi xin nói với ông như vậy!

    - Tôi quí bác, tôi đáp. Ðừng đòi hỏi gì hơn.

    - Ông không hiểu rằng óc tôi không có trọng lượng chính xác sao, ông chủ? Có thể nó hơi nặng một chút, hoặc hơi nhẹ hơn, nhưng quả thật nó không có trọng lượng đúng mực! Thấy không, đây là vài điều sẽ khiến ông hiểu: bấy lâu nay ngày đêm mụ góa không lúc nào để tôi yên. Không, không phải vì tôi, tôi xin thề. Ma quỉ bắt mụ, tôi nói vậy. Không bao giờ tôi rớ tới mụ, đó là điều chắc chắn. Mụ không phải để cho tất cả mọi người. Tôi cũng không muốn mụ ngủ một mình. Như thế không được, ông chủ, tôi không thể chịu được điều đó. Bởi thế tôi lảng vảng quanh vườn nhà mụ. Ông biết tại sao không? Ðể xem có ai tới ngủ với mụ không thì tôi mới có thể an tâm!

    Tôi bật cười.

    - Ðừng cười, ông chủ! Nếu một người đàn bà ngủ trơ trọi một mình, đó là lỗi của tất cả bọn đàn ông chúng ta. Tất cả chúng ta sẽ phải báo cáo vào ngày phán xét cuối cùng. Thượng Ðế có thể tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, như trước kia đã có lần chúng ta nói ố ngài có sẵn miếng bọt biển trong tay. Nhưng tội lỗi này, ngài không thể tha thứ được. Khốn khổ thay cho người đàn bà mà lại không làm, ông chủ! Khốn khổ thay cho người đàn bà nào có thể ngủ với một người đàn ông mà lại không làm! Ông hãy nhớ lời lão hodja!

    Hắn lặng thinh giây lát.

    - Khi một người chết đi có thể trở lại trần gian dưới một hình thể khác được không? Ðột nhiên hắn hỏi.

    - Tôi không tin, Zorba.

    - Tôi cũng vậy. Nhưng nếu có thể được đi, thì lúc đó những người mà tôi nói đó, những người đã khước từ không chịu phục vụ, những kẻ đào ngũ ái tình, sẽ trở lại trần gian ông có biết như gì không? Như những con la!

    Hắn lại im lặng và suy nghĩ. Thình lình cặp mắt hắn sáng lên.

    - Biết đâu, hắn nói, kích động vì khám phá của hắn, có thể tất cả những con la mà chúng ta thấy trên thế giới hôm nay lại chẳng phải là những quân ngu độn, những kẻ đào ngũ, trong suốt đời chúng là đàn ông và đàn bà và đồng thời không phải. Và vì lẽ đó chúng luôn luôn đá hậu. Ông nghĩ sao về điều đó, ông chủ?

    - Rằng óc bác hơi nhẹ, Zorba, tôi vừa cười vừa đáp. Ðứng dậy lấy cây santuri xuống đi!

    - Tối hôm nay không có santuri, ông đừng giận, ông chủ. Tôi tiếp nói, nói những điều vô nghĩa, ông có biết sao không? Bởi tôi có rất nhiều điều lo lắng. Ðường hầm mới, ma quỉ bắt nó, sắp khiến tôi lên ruột. Và ông ngồi đó mà nói với tôi về chuyện santuri...

    Nói đoạn, hắn cời những trái lật ra khỏi đống than, trao cho tôi một nắm và rót rượu raki đầy ly của chúng tôi.

    - Cầu Thượng Ðế nghiêng bàn cân về phía bên phải! Tôi vừa nói vừa cụng ly.

    - Về phía bên trái! Zorba sửa lại. Về phía bên trái! Cho đến nay, bên phải chưa tạo ra được cái gì hay ho cả.

    Hắn uống một hơi hết dòng lửa nóng và nằm dài trên giường.

    - Ngày mai, hắn nói, tôi phải có rất nhiều sức mạnh. Tôi phải chiến đấu chống lại một ngàn con quỉ. Chúc ông ngon giấc.

    Ngày hôm sau, ngay từ lúc tờ mờ sáng, Zorba đã chui xuống mỏ. Họ đã mở sâu đường hầm vào trong lớp mạch mỏ tốt, nước từ trần nhỏ xuống, thợ thuyền lội bì bõm trong bùn đen.

    Từ hai ngày trước Zorba đã sai thợ khuân gỗ để làm chắc đường hầm. Nhưng hắn lo ngại. Những thân cây không được lớn và với bản ngăn sâu thẩm khiến hắn cảm thấy tất cả điều gì đang xẩy ra trong mê cung dưới đất này như chính trong thân thể hắn, cảm thấy rằng những cây gỗ này không chắc chắn. Hắn có thể nghe những tiếng nghiến ken két, rất nhỏ, những người khác chưa nghe thấy ố như thể những cây chống đỡ trần rên xiết dưới sức nặng.

    Một điều khác làm tăng thêm nỗi lo âu của Zorba ngày hôm nay: lúc hắn sửa soạn xuống hầm, cha Stephanos, thầy tư tế của làng, cưỡi la đi qua, vội vã hướng về tu viện bên cạnh ban phép bí-tích cho một dì phước đang hấp hối. May mắn thay Zorba đã có đủ thì giờ nhổ ba lần xuống đất trước khi thầy tư tế chào hỏi hắn.

    - Chào cha! Hắn quạu quọ đáp lời chào của thầy tư tế.

    Và hạ thấp giọng hơn chút nữa, hắn lẩm bẩm:

    - Cầu cho lời nguyền rủa của mi trên ta!



    Kỳ 42



    Tuy nhiên hắn cảm thấy những câu thần chú này chưa đủ và hắn tức tối đi xuống đường hầm mới.

    Một mùi than non và acetylene nặng mùi xông lên. Thợ thuyền đã khởi sự củng cố đà ngang và chống hầm. Zorba chào họ, cộc cằn, cau có; hắn xắn tay áo và bắt tay làm việc.

    Mười mấy người bắt đầu cuốc sâu vào mạch than và đánh đống than dưới chân, những người khác lấy xẻng xúc lại và chở ra ngoài trên những xe goòng nhỏ.

    Thốt nhiên Zorba dừng lại, ra hiệu cho những người khác làm theo và vểnh tai nghe. Như kỵ mã hợp nhất với con ngựa, như thuyền trưởng với tầu mình, Zorba cũng trở thành một với mỏ. Hắn có thể cảm thấy những chi nhánh của đường hầm như những mạch máu trong da thịt hắn, và điều gì những khối than đen tối không thể cảm, Zorba cảm thấy với ý thức sáng suốt của con người.

    Sau khi lắng cặp tai voi, lông lá ra nghe, hắn chăm chú ngó vào đường hầm. Ðúng lúc đó tôi tới. Như có dự cảm, như bị thúc đẩy bởi một bàn tay vô hình, sáng nay tôi choàng thức dậy. Tôi vội vã mặc quần áo và lao ra ngoài, không hiểu tại sao mình lại hấp tấp thế và đi đâu; nhưng thân thể tôi không lưỡng lự hướng về hầm mỏ. Tôi tới lúc Zorba đang lo âu nghe ngóng.

    - Không có gì hết... một lát sau hắn nói. Có lúc tôi thấy hình như... Ðừng quan tâm. Làm việc đi các bạn.

    Hắn quay lại, thấy tôi và mím môi:

    - Ông chủ làm gì ở đây sớm vậy?

    Hắn lại gần tôi:

    - Sao ông không lên hút thở trong lành, ông chủ? Hắn nói khẽ. Hôm khác ông hãy lại đây đi dạo.

    - Có chuyện gì đó, Zorba?

    - Không có gì hết... tôi có một vài ý tưởng. Sáng hôm nay tôi gặp một ông thầy tư tế. Ông đi đi!

    - Nếu có gì nguy hiểm mà tôi lại bỏ đi thì có phải là xấu hổ không?

    - Vâng, Zorba đáp.

    - Bác có đi không?

    - Không.

    - Sao nữa?

    - Cái Zorba làm một chuyện, hắn cáu kỉnh đáp, cái những kẻ khác lại làm là một chuyện khác. Nhưng vì ông cảm thấy rằng bỏ đi là điều xấu hổ thì đừng đi nữa. Cứ ở đây. Thây kệ!

    Hắn cầm búa và đứng đầu ngón chân để đóng đanh vào cái khung trần. Tôi lấy cây đèn đất trên một cái giá và đi đi lại lại trong bùn nhìn mạch mỏ đen lóng lánh. Những khu rừng bao la đã bị nuốt chửng hàng triệu năm về trước. Ðất đã nhai, tiêu hóa, biến đổi những đứa con của mình. Cây cối trở thành than bùn, than bùn trở thành than đá và Zorba đến...

    Tôi treo đèn vào chỗ cũ và ngắm Zorba làm việc. Hắn hoàn toàn để hết tâm trí vào công việc: hắn không nghĩ đến điều gì khác, hắn làm một với đất, với cái cuốc và than đá. Hắn, cây búa và đanh đã đoàn kết trong cuộc tranh đấu với gỗ. Hắn đau đớn với hầm trần

    - Hoan hô Zorba, tiến tới! Tôi bị lôi cuốn bởi một sự thán phục ngây thơ, kêu lên.

    Nhưng hắn không hề quay lại. Làm sao lúc này hắn có thể trò chuyện với một con mọt sách, thay vì cầm búa, lại cầm trong tay một mẩu bút chì cùn mằn? Hắn đang bận, hắn không muốn nói chuyện. “Ðừng nói với tôi khi tôi đang làm việc, một buổi tối hắn nói với tôi. Tôi có thể tan vỡ! - Tan vỡ tại sao vậy, Zorba? - Ðó ông lại “tại sao” với “sao nữa” rồi! Như một đứa con nít. Làm sao giải thích? Tôi hoàn toàn bị lôi cuốn bởi công việc, căng thẳng, cứng nhắc từ đầu tới chân, dán chặt vào đá hay than hoặc cây santuri. Nếu ông thình lình đụng vào tôi hay nói với tôi và tôi cố gắng quay lại, tôi có thể vỡ tung. Ðó bây giờ ông rõ chưa?”

    Tôi nhìn đồng hồ, mười giờ.

    - Ðến giờ nghỉ tay ăn sáng rồi, các bạn! Tôi nói. Các bạn làm việc quá giờ rồi.

    Thợ thuyền bèn liệng ngay dụng cụ vào một góc, lau khuôn mặt đẫm mồ hôi, sửa soạn ra khỏi đường hầm. Zorba, hoàn toàn chìm đắm trong công việc không nghe thấy. Dầu hắn nghe thấy, hắn cũng không nhúc nhích. Một lần nữa hắn lại lo âu lắng nghe.

    - Chờ chút, tôi nói với bọn thợ, hút điếu thuốc đã.

    Tôi lục túi, xung quanh tôi thợ thuyền chờ đợi.

    Thình lình Zorba giật nẩy mình. Hắn dán tai vào vách đường hầm. Dưới ánh đèn đất tôi thấy miệng hắn há hốc, méo xệch.

    - Sao thế, Zorba? Tôi hỏi.

    Nhưng ngay lúc đó, hầu như tất cả trần hầm run rẩy trên chúng tôi.

    - Chạy đi! Zorba la lên bằng một giọng ồ ồ. Chạy đi!

    Chúng tôi ùa về phía lối ra, nhưng chúng tôi chưa tới sườn gỗ thứ nhất thì đã nghe thấy một tiếng gẫy lớn hơn ở trên đầu. Trong khi đó Zorba đang nâng một thân cây lớn để chêm vào như một trụ chống cây đà. Nếu hắn làm kịp, có thể hắn sẽ chống đỡ được cái trần hầm thêm vài phút nữa và cho chúng tôi đủ thì giờ chạy thoát.

    - Chạy đi! Zorba lại la lên, nhưng lần này giọng hắn bị tắc nghẹn như nó phát ra tự lòng đất.

    Tất cả, với sự hèn nhát thường xâm chiếm con người vào những giây phút nghiêm trọng, chúng tôi túa ra ngoài hoàn toàn quên mất Zorba. Nhưng vài giây sau tôi trấn tĩnh lại và chạy trở lại đường hầm.

    - Zorba! Tôi thét lớn, Zorba!



    Kỳ 43



    Hình như tôi thét lớn, nhưng sau đó tôi hiểu rằng tiếng thét không thoát ra khỏi cổ họng. Sự sợ hãi đã bóp nghẹt giọng tôi.

    Tôi xấu hổ cùng mình. Tôi lao về phía hắn hai cánh tay mở rộng, Zorba đã chống chắc cây trụ đỡ trượt trong bùn, và đang chạy về phía lối ra. Trong bóng tối theo đà lôi cuốn, hắn đâm sầm vào tôi và chúng tôi ngã vào tay nhau ngoài ý muốn.

    - Chạy mau! Hắn la bằng giọng tắc nghẹn. Chạy mau lên!

    Chúng tôi chạy và ra tới ngoài ánh sáng. Bọn thợ bị một phen sợ mất mật, đang tụm lại tại cửa hầm và nhìn vào trong, mặt xanh như chàm đổ.

    Chúng tôi nghe thấy một tiếng gẫy thứ ba, lớn hơn, như cây bị đánh gẫy trong một trận bão. Rồi thình lình, một tiếng gầm kinh khủng nổi lên như một tiếng sấm, rung chuyển cả triền núi và hầm sụp xuống.

    - Lạy Chúa! Họ vừa lẩm bẩm vừa làm dấu.

    - Các người đã để cả cuốc ở trong đó rồi phải không? Zorba tức giận hỏi.

    Bọn thợ nín khe.

    - Tại sao không mang nó theo? Hắn lại giận dữ quát lên! Can đảm thật, các người đã vãi đái cả ra quần rồi, ta biết! Thế là đi đời dụng cụ!

    - Bây giờ không phải là lúc lo lắng cho mấy cái cuốc, Zorba, tôi can thiệp. Chúng ta hãy sung sướng vì tất cả đều bình yên vô sự! Xin cảm tạ bác, Zorba nhờ bác tất cả mới còn sống sót.

    - Tôi đói! Zorba nói. Nó nạo ruột tôi.

    Hắn lấy cái túi dết đựng đồ ăn sáng hắn đã đặt trên một tảng đá, mở ra, lấy ra bánh, ô-liu, hành, một củ khoai tây luộc và một bầu rượu nhỏ.

    - Ăn thôi! Hắn nói miệng đầy đồ ăn.

    Hắn ngốn rất nhanh, như thể hắn đột nhiên bị mất rất nhiều sức mạnh và bây giờ muốn bồi bổ lại.

    Hắn lặng lẽ cúi xuống ăn. Hắn lấy bầu rượu, ngửa cổ ra và để rượu òng ọc chảy xuống cổ họng khô khát.

    Thợ thuyền cũng lấy lại can đảm, mở túi dết của họ và bắt đầu ăn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh Zorba, và vừa ăn vừa nhìn hắn. Họ muốn quì xuống chân hắn và hôn tay hắn, nhưng họ biết hắn cộc cằn và kỳ cục, nên không ai dám làm trước.

    Cuối cùng Michelis, người trọng tuổi nhất, có bộ ria rậm, xám, quyết định, nói:

    - Nếu không có thầy ở đấy, thầy Alexis, con cái chúng tôi giờ đây đã là những trẻ mồ côi.

    - Câm đi! Zorba nói, miệng đầy đồ ăn và không một người nào dám hó hé một lời nào nữa.



    10



    “Vậy thì ai đã tạo ra cái mê lộ của do dự này, cái đền của kiêu mạn này, cái bình tội lỗi này, cái cánh đồng gieo rắc muôn ngàn giả trá này, cái cánh cửa Ðịa Ngục này, cái lẵng hoa đầy xảo quyệt này, cái thuốc độc giống như mật ngọt này, cái dây xích trói buộc vào chúng sinh trần gian này: đàn bà?”

    Ngồi trên mặt đất gần lò than hồng tôi lặng lẽ, chậm rãi chép ca khúc Phật giáo này. Tôi cố gắng chồng chất thần chú này lên thần chú khác để xua đuổi khỏi tâm trí hình ảnh một tấm thân đàn bà đẫm nước mưa mà trong suốt những đêm đông lạnh ẩm đã đi đi lại lại trước mắt tôi với hông háng đong đưa. Tôi không biết tại sao ngay sau khi hầm mỏ bị sụp đổ, khi đời tôi gần như bị chặn đứng lại, tôi cảm thấy góa phụ nổi lên trong máu tôi; nàng kêu gọi tôi như một con dã thú, khẩn khoản và trách móc.

    - Hãy đến, hãy đến mau! Nàng kêu. Ðời qua như một tia chớp. Mau lên chứ, vội vàng lên mấy chứ, trước khi quá muộn màng!

    Tôi biết rõ rằng đó là Mara, Ma vương trong hình thể một người đàn bà đùi và hông mạnh mẽ. Tôi chiến đấu chống lại. Tôi chuyên chú viết “Ðức Phật” như những người man rợ trong hang động khắc với một miếng đá nhọn hay vẽ bằng mầu đỏ và trắng những mãnh thú đói khát rình mò quanh họ. Họ cũng cố gắng, bằng cách khắc vẽ những con thú này, đóng chặt chúng trên vách đá. Nếu họ không làm vậy, chúng sẽ lao vào.

    Từ ngày tôi thiếu chút nữa bị đè bẹp, góa phụ không ngừng lởn vởn trong bầu không khí cô đơn thiêu đốt của tôi, mời mọc tôi và đong đưa hông háng một cách khêu gợi. Ban ngày, tôi khỏe, tâm trí tôi tỉnh thức, nào Ma Vương hiện ra trước Ðức Phật, nó mặc hình thức đàn bà ra sao, nó tỳ bộ ngực rắn chắc lên đầu gối khổ hạnh sư như thế nào, cuối cùng, Ðức Phật thấy nỗi hiểm nguy, huy động tất cả sức mạnh và đuổi Ma Vương chạy tán loạn ra sao. Và tôi cũng đuổi được nó chạy tán loạn nữa.

    Mỗi dòng chữ viết mang lại cho tôi tin tưởng mới, tôi lấy can đảm, tôi cảm thấy Ma Vương rút lui, bị diệt trừ bởi phép mầu phù thủy của ngôn ngữ. Ban ngày tôi chiến đấu với tất cả sức mạnh, nhưng ban đêm, tâm trí tôi buông rơi khí giới, cửa lòng mở ngỏ và sương phụ bước vào.

    Buổi sáng, tôi thức dậy, mệt lả vì chiến bại và cuộc chiến lại bắt đầu. Khi tôi ngẩng đầu lên thì đã xế chiều; ánh sáng bị rượt đuổi, đã chạy trốn, bóng tối thình lình chụp xuống tôi. Ngày thâu ngắn dần, lễ Giáng Sinh sắp tới. Tôi lao mình vào cuộc chiến. Tôi tự nhủ: “Ta không đơn độc. Một sức mạnh vĩ đại, ánh sáng, cũng chiến đấu. Nó cũng khi thất bại, khi chiến thắng. Nhưng nó không tuyệt vọng. Ta chiến đấu và hy vọng với ánh sáng!”



    Kỳ 44



    Dường như, và ý nghĩ này khiến tôi thêm can đảm, tôi cũng tuân theo một nhịp điệu phổ quát vĩ đại trong khi chiến thắng chống lại góa phụ. Vật chất gian giảo đã lựa chọn thân thể này, tôi nghĩ, để làm tắt nguội dần ngọn lửa tự do chập chờn trong tôi.

    Tôi thầm nhủ: “Thiêng liêng hay sức mạnh bất diệt biến đổi vật chất thành tinh thần. Mỗi người đều có trong mình một phân tử của cơn lốc thần thánh này chính vì thế hắn thành công trong việc biến cải cơm nước và thịt cá thành tư tưởng và hành động. Zorba có lý: “Hãy nói cho tôi biết anh làm gì với cái anh ăn, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai!”

    Cho nên tôi tinh tấn biến đổi cái khát vọng xác thịt mãnh liệt này thành Ðức Phật một cách đau đớn.

    - Ông nghĩ gì đó, ông chủ? Ông có vẻ tâm thần bất định, Zorba nói với tôi như vậy vào đêm áp lễ Giáng Sinh. Hắn có một ý tưởng sắc bén về con quỉ nào tôi đang chiến đấu.

    Tôi giả vờ không nghe thấy. Nhưng Zorba không chịu bỏ cuộc một cách dễ dàng như thế.

    - Ông còn trẻ quá, ông chủ, hắn nói.

    Và đột nhiên giọng hắn có một âm điệu cay đắng và tức tối:

    - Ông còn trai trẻ và cường tráng, ông ăn uống được, ông hút thở không khí tốt lành của biển, ông tích lũy sức mạnh - nhưng ông làm gì với tất cả những sức mạnh ấy? Ông ngủ một mình, như thế rất hại cho sinh lực! Ông tới đó ngay đêm nay đi - phải đấy, đừng lôi thôi mất thì giờ! Mọi sự trên đời này đều đơn giản, ông chủ. Tôi phải nhắc lại với ông điều đó bao nhiêu lần nữa? Ðừng phức tạp hóa mọi sự!

    Tập bản thảo “Ðức Phật” mở rộng trước mặt, tôi lần giở từng trang trong khi nghe Zorba nói và tôi biết rằng những lời nói đó mở ra cho tôi một con đường chắc chắn, quyến rũ và rất nhân loại để noi theo. Và cùng với những lời nói đó, Ma vương, tên môi giới xảo trá cũng đang lên tiếng gọi.

    Tôi lẳng lặng nghe, cương quyết chống lại và lần giở những trang bản thảo. Tôi huýt gió để che giấu cảm xúc. Nhưng Zorba, thấy tôi vẫn im lặng, la lên:

    - Ðêm nay là đêm Giáng Sinh, ông bạn, mau lên, tới kiếm mụ trước khi mụ đi lễ nhà thờ. Ðêm nay Chúa sinh ra đời, ông chủ, ông cũng phải ban phép lạ nữa chứ!

    Tôi giận dữ đứng dậy:

    - Thế đủ rồi, Zorba, tôi nói. Mỗi người đi theo con dốc riêng của mình. Người ta tựa như một cái cây. Có bao giờ bác gây lộn với cây vả vì nó không tạo ra trái anh đào không? Vậy thì đừng nói nữa! Gần nửa đêm rồi. Thôi chúng ta cũng tới nhà thờ để xem Chúa sinh ra đời.

    Zorba chụp cái mũ trùm đầu Mùa Ðông dầy cộm lên đầu:

    - Ðược rồi! Hắn nói một cách chán nản, chúng ta đi! Nhưng tôi muốn ông phải biết rằng Ðức Chúa Trời hẳn sẽ hài lòng hơn nhiều nếu tối nay ông tới nhà mụ góa như thượng đẳng thiên sứ Gabriel. Nếu Ðức Chúa Trời cùng đi theo con đường như ông, ông chủ, ngài không bao giờ tới nhà Ðức Mẹ Mary thì Chúa đã chẳng bao giờ giáng sinh. Nếu ông hỏi tôi Ðức Chúa Trời đi theo con đường nào, tôi xin thưa: Con đường dẫn tới Ðức Mẹ Mary. Mary chính là góa phụ.

    Hắn nín lặng và chờ đợi câu trả lời uổng công. Hắn xô mạnh cửa và đi ra. Hắn lấy đầu gậy đập những viên sỏi một cách bực tức.

    - Ðúng, đúng, hắn bướng bỉnh nhắc lại, Mary chính là góa phụ!

    - Thôi, lên đường! Tôi nói. Ðừng có la lối!

    Chúng tôi bước đi vững vàng trong đêm đông. Bầu trời thật thanh tịnh, những vì sao long lanh, lớn, thấp, trông như những quả cầu lửa treo ở trên không. Vì chúng tôi đi dọc theo bờ biển, đêm tựa như một con thú lớn màu đen nằm dài bên mé nước.

    “Từ đêm nay, tôi tự nhủ, ánh sáng mà Mùa Ðông đã đẩy lui bắt đầu thắng thế. Như thể nó được sinh ra hôm nay cùng với Ðức Chúa Con”.

    Tất cả dân làng tụ họp trong cái vòm ấm áp và thơm ngát của nhà thờ. Ðàn ông đứng phía trước và đàn bà tay khoanh trước ngực, đứng sau. Cha Stephanos, cao lớn, điên tiết vì bốn mươi ngày chay tịnh trong tấm áo hai vạt bằng vàng nặng, xoặc cẳng chạy hết chỗ này đến chỗ kia, lúc lắc bình hương, hát vang lên và hấp tấp muốn thấy Chúa ra đời để trở về nhà lăn xả vào đĩa súp béo, xúc xích thơm ngon và những miếng thịt bốc khói...

    Nếu Kinh Thánh nói: “Hôm nay ánh sáng ra đời”, điều đó không làm cho tâm hồn con người xúc động; ý tưởng không thể trở thành thần thoại và không thể chinh phục thế giới. Nó chỉ diễn tả một hiện tượng vật lý thông thường và không kích thích óc tưởng tượng của chúng ta - tôi muốn nói linh hồn của chúng ta. Nhưng ánh sáng, sinh ra giữa Mùa Ðông đó trở thành một hài nhi, hài nhi đã trở thành Chúa Trời, và đã hai mươi thế kỷ nay, linh hồn chúng ta ôm ấp nó trong lòng và cho nó bú...

    Nghi lễ thần bí chấm dứt vào lúc quá nửa đêm một chút. Chúa đã giáng sinh. Dân làng, đói meo, sung sướng chạy về nhà để ăn tiệc và cảm thấy tận đáy lòng sự huyền bí của Giáng Sinh. Bụng là nền móng vững chắc; bánh, rượu và thịt là những cái cốt yếu đầu tiên; chỉ với bánh, rượu và thịt người ta mới có thể tạo ra Thượng Ðế.

    Tinh tú long lanh, vĩ đại như những thiên thần trên nóc nhà thờ trắng toát. Giải Ngân Hà, tựa một dòng sông, chảy từ đầu đến cuối trời. Một vì sao xanh lấp lánh trên đầu chúng tôi như một viên ngọc bích. Tôi thở dài, xao xuyến.

    Kỳ 45



    Zorba quay sang tôi:

    - Ông có tin điều đó không, ông chủ? Tin rằng Thượng Ðế trở thành người ta, sinh ra trong chuồng bò? Ông tin điều đó hay là ông cóc cần đời?

    - Khó nói lắm, Zorba, tôi nói. Tôi không thể nói là tôi tin cũng có thể nói là không tin. Còn bác?

    - Tôi cũng vậy. Tôi không hiểu ra sao nữa. Khi còn nhỏ xíu, tôi không tin những truyện thần tiên bà tôi kể, tôi không tin một mảy may. Tuy nhiên tôi run lên vì xúc động, tôi cười, khóc như thể tôi tin lắm. Khi cằm lún phún râu, tôi gạt những truyện ấy đi và đôi khi chế nhạo. Nhưng bây giờ, lúc về già - hình như tôi đang trở nên nhu nhược, phải không ông chủ? - một cách nào đó tôi lại tin vào những điều đó trở lại... Ðầu óc con người thật kỳ cục!

    Chúng tôi lên đường tới nhà mụ Hortense và chúng tôi sải như những chú ngựa đói đánh hơi thấy tầu ngựa.

    - Những giáo phụ ma lanh ác! Zorba nói. Họ nắm lấy bụng mình thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi họ? Trong bốn mươi ngày, họ nói chúng ta không được ăn thịt, không được uống rượu chay tịnh. Tại sao? Ðể chúng ta khao khát thèm thuồng rượu thịt. A! Mấy con heo thiến mập mạp họ biết tất cả những mánh khóe bịp bợm!

    Hắn cố gắng đi mau hơn nữa.

    - Nhanh lên, ông chủ, hắn nói, con gà tây chắc phải chín tới nơi rồi.

    Khi bước vào căn phòng nhỏ của mụ già với cái giường lớn cám dỗ, chúng tôi thấy bàn ăn được phủ bằng một tấm khăn trắng và trên đó chú gà tây nghi ngút khói nằm ngửa và hai chân dang ra; từ lò than hồng tỏa ra một hơi ấm rất dịu dàng.

    Mụ Hortense đã cuộn tóc xong và mụ mặc một cái áo mặc trong nhà dài màu hồng lợt với hai ống tay áo rộng và những đường ren tua. Một giải băng rộng bằng hai đầu ngón tay, mầu vàng tối nay, thắt quanh khuôn cổ nhăn nheo của mụ. Mụ đã xịt nước hoa cam đẫm người.

    “Mọi sự trùng hợp với nhau hoàn hảo làm sao trên trần gian này! Tôi nghĩ. Trần gian này tương hợp tốt đẹp làm sao với tâm hồn con người. Ðây là một ca kỹ già đã sống một cuộc đời phóng đãng; bây giờ trôi giạt lên bờ biển cô liêu này, mụ đã gói ghém trong gian phòng tồi tàn này tất cả mọi ân cần thiêng liêng và sự ấm áp của đàn bà”.

    Bữa ăn, thịnh soạn và cầu kỳ, lò than hồng, tấm thân trang điểm, chưng diện, mùa hoa cam - với xiết bao nhanh chóng và xiết bao đơn giản, tất cả những lạc thú xác thịt nhỏ bé rất con người này biến đổi thành một nỗi hân hoan vĩ đại của tâm hồn!

    Hốt nhiên, mắt tôi đầm đìa lệ. Tôi cảm thấy tôi không hoàn toàn cô đơn, ở đây, trên bãi biển tịch liêu, trong buổi tối thiêng này. Một sinh vật đầy tận tâm, dịu dàng và nhẫn nại đàn bà đang lại gần tôi: Ðó là người mẹ, người chị, người vợ. Và tôi, tôi tưởng mình không cần gì hết, đột nhiên cảm thấy mình cần tất cả mọi sự.

    Zorba chắc cũng có một cảm xúc tương tự bởi chúng tôi vừa đến hắn đã lao tới mụ ca kỹ tô lục chuốt hồng và ghì chặt lấy mụ.

    - Chúa đã ra đời! Hắn kêu lên. Xin chào em, giống cái!

    Hắn quay sang tôi vừa cười:

    - Thấy chưa, ông chủ, đàn bà thật là một sinh vật gian giảo! Ðến Thượng Ðế mà mụ cũng dỗ ngon dỗ ngọt được!

    Chúng tôi ngồi vào bàn, chúng tôi ngấu nghiến ăn uống; thân thể chúng tôi thỏa mãn và linh hồn chúng tôi run lên vì khoái cảm. Zorba lại trở nên linh hoạt.

    - Ăn và uống, hắn tiếp tục kêu to. Ăn và uống, ông chủ, và phấn khởi lên. Hát lên đi, ông bạn cũng hát lên đi, như những kẻ chăn chiên: “Vinh danh thay Ðấng Vô Cùng...!” Chúa đã ra đời, đó là một điều ghê gớm lắm. Hát lên đi để Chúa Trời nghe thấy và vui vẻ!

    Hắn đã phục hồi niềm yêu đời, và không có gì ngăn trở được hắn.

    - Chúa đã ra đời, ông Salomon khôn ngoan, ông bác học cạo giấy của tôi. Ðừng chi ly vụn vặt, ngài đã ra đời hay chưa ra đời! Bạn ơi, ngài đã ra đời, đừng có gàn dở! Nếu ông lấy một cái kính hiển vi nhìn nước mình uống - một ông kỹ sư đã nói với tôi điều đó - ông sẽ thấy nước đầy vi trùng, rất nhỏ mà mắt trần không thấy. Ông sẽ không uống và ông sẽ chết khát. Ðập vỡ cái kính hiển vi, ông chủ đập vỡ nó đi, và những con vi trùng sẽ biến mất ngay lập tức, ông có thể uống và giải khát!

    Hắn quay sang người bạn đồng hành lòe loẹt của chúng tôi, và nâng cái ly đầy ắp của hắn lên:

    - Bouboulina yêu quí của tôi, cựu chiến hữu của tôi, tôi sẽ uống ly rượu này mừng em! Trong đời tôi, tôi đã thấy nhiều mặt gỗ khắc: Chúng bị đóng đinh vào mũi tầu thuyền, tay ôm ngực, mà và môi son đỏ. Chúng đi qua khắp các mặt biển, ghé vào tất cả các bến, và khi con tàu hư nát, chúng trở lại đất liền và cho đến giây phút cuối cùng của đời chúng, chúng dựa vào vách một quán rượu của ngư phủ, nơi những thuyền trưởng tới.

    “Bouboulina của tôi, tối nay thấy em trên bờ biển này, khi đã no say, mắt mở rộng, tôi thấy em giống như khắc diện của một con tàu. Và tôi là cái bến cuối cùng của em, tôi là quán rượu mà những thuyền trưởng tới. Lại đây, dựa vào tôi, hạ buồm xuống! Tôi uống ly rượu Crete này mừng em, ngư nhân của tôi!”



    Kỳ 46



    Mụ Hortense xúc động, xiêu xiêu, cất tiếng khóc và tựa vào vai Zorba.

    - Ông sẽ thấy, ông chủ, Zorba thì thầm với tôi, tôi sắp gặp nhiều cái phiền nhiễu vì lời nói mật ngọt của tôi. Con đĩ, mụ không buông tha tôi tối nay đâu. Nhưng, ông muốn gì, tôi thương hại những kẻ đáng thương này, vâng, tôi thương hại họ!

    “Chúa đã ra đời! Hắn la to với ngư nhân mỹ nữ của hắn. Mừng cho sức khỏe của chúng ta!”

    Hắn luồn cánh tay dưới cánh tay mụ và cả hai cùng uống cạn ly, tay choàng lấy nhau, và nhìn nhau say đắm.

    Bình minh chắc cũng chẳng còn bao lâu khi tôi rời căn buồng ngủ ấm áp với cái giường rộng và một mình cất bước trở về nhà. Cả làng đều ăn uống no say, và bây giờ yên ngủ, cửa ra vào và cửa sổ khép kín dưới những vì sao vĩ đại Mùa Ðông.

    Trời lạnh, biển xô ầm, sao mai treo ở phương đông, nhấp nháy lấp lánh. Tôi đi dọc theo bờ nước, chơi đùa với sóng. Chúng cố trào lên để làm ướt tôi và tôi lảng tránh. Tôi sung sướng và tôi tự nhủ:

    “Ðây là chân hạnh phúc: Không có bất cứ một tham vọng nào và làm việc quần quật như trâu ngựa như thể mình có tất cả mọi tham vọng. Sống xa cách con người, không cần họ, tuy nhiên thương yêu họ. Dự lễ Giáng Sinh và, sau khi ăn uống say sưa, một mình tránh xa mọi cạm bẫy, có tinh tú ở trên đầu, đất bên tay trái, biển bên phải mình; và, hốt nhiên trực ngộ rằng, trong tâm ta cuộc đời đã viên thành cái phép lạ tối hậu của nó: Nó đã trở thành một truyện thần tiên.”

    Ngày qua ngày. Tôi cố gắng làm bộ gan dạ cứng cỏi, tôi la hét vang lừng, giả ngây giả ngô, nhưng trong những nếp gấp cuối cùng của hồn tôi, tôi biết tôi buồn. Trong suốt tuần lễ hoan lạc này, những kỷ niệm dâng lên và dồn đầy ngực tôi với âm nhạc xa vắng và người thân yêu. Hơn một lần, tôi lại thấy thần thoại cổ xưa này có vẻ đúng: Lòng người ta là một cái hố đầy máu me. Những kẻ thân yêu đã chết nằm trên miệng hố cúi xuống để uống máu và hồi sinh; và họ càng thân yêu với mình bao nhiêu, họ càng uống máu mình nhiều bấy nhiêu.

    Ngày cuối năm. Một đám trẻ trong làng, mang một con tầu giấy lớn, kéo nhau đến tận lều chúng tôi cất tiếng hát những khúc kalanda (*) bằng giọng chát chúa và vui vẻ của chúng:

    (*) Bài hát năm mới.

    Thánh Basil đã đến từ Caesarea, đô thị cố hương...

    Ngài đã đứng ở đây, trên bãi biển Crete nhỏ hẹp này bên biển xanh chàm. Ngài tỳ mình trên gậy và cây gậy của ngài bỗng phủ đầy hoa lá, và bài hát năm mới vang lên:

    Chúc dân Cơ Ðốc Giáo một năm hạnh phúc!

    Gia chủ, chúc nhà ngài đầy lúa gạo, dầu ô-liu và rượu vang

    Chúc vợ ngài chống đỡ mái nhà ngài như một cột trụ cẩm thạch;

    Chúc con gái lấy chồng sinh hạ chín trai một gái;

    Chúc những đứa cháu ngài giải phóng Constantinople, kinh đô của những vua ta!

    Zorba say sưa nghe. Hắn chụp lấy cái trống cơm của bọn trẻ và đánh như điên cuồng.

    Tôi ngắm nhìn và lẳng lặng nghe. Tôi cảm thấy một phiến lá nữa lìa khỏi tim tôi, một năm nữa qua. Tôi bước thêm một bước nữa về phía cái hố tối tăm.

    - Ông làm sao thế, ông chủ? Zorba hỏi trong lúc hát vang lên và đập trống cơm cùng lũ trẻ, ông già đi một tuổi. Tôi, trong những ngày như hôm nay, tôi lại trở thành một đứa trẻ con; tôi tái sinh, như Ðấng Christ. Không phải ngài sinh ra mỗi năm một lần sao? Tôi cũng vậy.

    Tôi nằm dài trên giường và nhắm mắt lại. Tâm hồn tôi tối nay man rợ, tôi không muốn nói.

    Tôi không thể ngủ. Tôi cảm thấy cần phải kiểm điểm lại những việc làm của tôi ngay đêm nay. Toàn thể đời tôi hiện ra, vụt nhanh, rời rạc và bất định như mộng huyễn. Tôi chiêm ngắm nó và thất vọng. Tựa một áng mây nõn bị tấn công tới tấp bởi gió đỉnh cao, đời tôi thường xuyên thay hình đổi dạng. Nó tan tác, kết tụ lại và hóa thân - thiên nga, chó, quỉ sứ, bọ cạp, khỉ - và mây không ngừng xơ xác tả tơi, gió cuốn bay cầu vồng pha sắc.

    Ngày rạng. Tôi không mở mắt. Tôi cố gắng tập trung vào ước vọng mãnh liệt đập vỡ cái vỏ của trí óc và đi sâu vào dòng khe mù mịt nguy hiểm nơi mỗi một giọt nhân loại rơi xuống bị cuộn đi ngay hòa trộn với đại dương. Tôi nóng nảy muốn xé rách tấm màn và xem năm mới sẽ mang lại điều gì cho tôi...

    - Chào ông chủ, chúc ông chủ một năm mới hạnh phúc!

    Tiếng nói của Zorba tàn bạo xô tôi xuống đất. Tôi mở mắt và đủ thì giờ nhìn thấy Zorba ném một trái thạch lựu lớn vào ngưỡng cửa. Hạt nó như những viên hồng ngọc trong suốt bắn vào đến tận giường tôi. Tôi lượm vài hạt ăn và cổ họng tôi mát lạnh.

    - Tôi hy vọng chúng ta kiếm được nhiều tiền và bị các cô mỹ miều cướp đi! Zorba vui vẻ kêu lên.

    Hắn rửa mặt cạo râu, mặc bộ quần áo đẹp nhất - quần dạ xanh, áo ngoài bằng vải len thô mầu nâu, trên đó khoác một tấm áo ấm da, dê cạo nửa lông. Hắn đội mũ trùm đầu Nga làm bằng da cừu con ở Astrakhan, vuốt ria lên và nói:

    - Ông chủ, tôi sắp làm một cuộc ra mắt ở nhà thờ như một đại diện của công ty. Không phải vì lợi ích của hầm mỏ mà họ coi chúng ta như những hội viên hội tam điển. Tôi không mất mát gì! Và tôi làm thế để tiêu khiển.



    Kỳ 47



    Hắn cúi xuống và nháy mắt.

    - Có thể tôi cũng sẽ thấy bà góa, hắn lẩm bẩm.

    Thượng Ðế, lợi ích của công ty và góa phụ hòa hợp với nhau trong tâm trí Zorba. Tôi nghe thấy bước chân nhẹ nhàng của hắn dời xa. Tôi đứng phắt lên. Sức quyến rũ đã mất linh nghiệm, tâm hồn tôi lại bị giam cầm trong ngục tù của xác thịt.

    Tôi mặc quần áo và đi xuống mé nước. Tôi đi thật nhanh. Tôi vui vẻ như thể thoát khỏi một nỗi nguy hiểm hay một tội lỗi. Ước vọng tọc mạch do thám và tìm hiểu tương lai trước khi nó sinh ra sáng nay đột nhiên hiện ra với tôi như một tội phạm thượng.

    Tôi nhớ một buổi mai khi tôi khám phá thấy một con kén trong lần vỏ một thân cây, ngay lúc con bướm đục rách màng bọc và sửa soạn chui ra. Tôi đợi một lát nhưng nó chậm quá mà tôi thì hấp tấp vội vàng. Bực tức, tôi cúi xuống và thổi vào để sưởi ấm nó. Tôi cố sưởi ấm nó càng nhanh càng hay, và phép lạ bắt đầu hiện ra trước mắt tôi, theo một nhịp điệu nhanh hơn tự nhiên. Màng bọc mở, con bướm từ từ lết ra, và không bao giờ tôi quên được nỗi kinh sợ của tôi lúc ấy: đôi cánh của nó chưa mở và nhăn nheo; toàn thân run rẩy, nó cố gắng khép cánh lại. Cúi mình trên con bướm, tôi trợ giúp nó bằng hơi thở của tôi. Vô ích. Một sự nẩy nở kiên nhẫn là điều cần thiết và sự mở phơi đôi cánh phải là một quá trình tiệm tiến trong ánh mặt trời. Bây giờ thì đã quá muộn. Hơi thở của tôi đã thúc bách con bướm xuất hiện, nhăn nheo, trước hạn kỳ. Nó dãy giụa, tuyệt vọng, vài giây sau, chết trong lòng tay tôi.

    Cái thi thể nhỏ bé đó, tôi tin rằng đó là cái gánh nặng nhất trên lương tâm tôi. Bởi vì ngày nay tôi ý thức được rằng cưỡng bách những định luật vĩ đại của thiên nhiên là một trọng tội. Chúng ta không được vội vàng, chúng ta không được bất nhẫn, nhưng chúng ta phải tuân theo cái nhịp điệu vĩnh cửu một cách tin tưởng.

    Tôi ngồi trên một tảng đá lặng lẽ nghiền ngẫm tư tưởng đầu năm mới này. A! Ước gì con bướm nhỏ bé đó có thể bay lượn chập chờn trước mặt để chỉ đường cho tôi mãi mãi.



    11



    Tôi đứng lên sung sướng như thể nhận được quà tặng năm mới. Gió lạnh, trời trong vắt và biển sáng ngời.

    Tôi theo con đường về làng. Lễ mi-sa hẳn đã chấm dứt. Trong khi bước đi, tôi băn khoăn tự hỏi, với một cảm xúc phi lý, ai là kẻ thứ nhất - Hên hay sui? - tôi sẽ gặp đầu năm mới này. Ước gì là một đứa trẻ tay ôm đầy đồ chơi năm mới, tôi nghĩ, hay một cụ già tráng kiện với chiếc áo chemise trắng tay thêu, hài lòng và kiêu hãnh vì đã làm tròn bổn phận trên đời một cách can đảm. Tôi càng tiến lên, càng về gần đến làng bao nhiêu, tôi càng bối rối bấy nhiêu.

    Thốt nhiên đầu gối tôi muốn quỵ xuống: trên đường làng, dưới rặng ô-liu, đi với một bước đi nhún nhẩy, quần áo đỏ, tấm khăn choàng đen trên đầu, sương phụ hiện ra với dáng người duyên dáng, thanh thanh.

    Dáng đi uyển chuyển của nàng đúng là dáng đi của một con báo đen và trong không khí dường như phảng phất có mùi hắc của xạ hương. “Ước gì ta có thể trốn thoát!” tôi nghĩ. Tôi cảm thấy rằng khi con mãnh thú này nổi giận lên nó sẽ tàn bạo vô cùng và cách hay nhất là chạy trốn. Nhưng chạy trốn bằng cách nào? Góa phụ lại gần. Sỏi đá trên đường hình như nghiến lạo xạo như có một đoàn quân đi qua. Nàng trông thấy tôi, nghiêng đầu, tấm khăn choàng đầu của nàng tuột xuống và tóc nàng phô ra, đen mướt như mun. Nàng đưa mắt say đắm não nùng nhìn tôi và mỉm cười. Cặp mắt nàng có vẻ dịu dàng man rợ. Vội vàng nàng sửa lại khăn, như thể xấu hổ vì đã để cho người thấy sự bí ẩn sâu thẳm nhất của người đàn bà: tóc nàng.

    Tôi muốn nói, chúc nàng năm mới, nhưng cổ họng tôi tắc nghẹn, như ngày hầm mỏ bị sụp và đời tôi bị nguy khốn. Lau lách quanh vườn nàng rung động, mặt trời mùa Ðông rơi trên những trái chanh ửng vàng và những trái cam lá xanh thẫm. Cả khu vườn rực rỡ như thiên đàng.

    Góa phụ dừng lại, vươn cánh tay ra, xô cổng. Ðúng lúc đó, tôi đi qua nàng. Nàng quay lại, cau mày nhìn tôi thật nhanh.

    Nàng để ngỏ cổng và tôi thấy nàng khuất sau rặng cam, đong đưa hông háng khi bước đi.

    Vượt qua cánh cổng đó, cài then cửa, chạy theo nàng, ôm lấy eo nàng, lẳng lặng không nói một lời kéo nàng tới cái giường góa phụ rộng thênh thang của nàng, như thế gọi là hành động như một người đàn ông! Ông nội tôi chắc đã làm vậy, và tôi cũng mong cháu tôi sẽ làm như vậy. Nhưng tôi đứng ngây ra đó, cân nhắc và suy nghĩ...

    “Trong cuộc đời khác, tôi vừa lẩm bẩm vừa mỉm cười cay đắng, trong một cuộc đời khác ta sẽ khu xử khá hơn!”

    Kỳ 48



    Tôi đi sâu vào trong khe núi nhiều cây cối, cảm thấy tâm hồn nặng trĩu như đã phạm phải một tội lỗi tầy đình. Tôi lang thang đây đó, trời lạnh, tôi run lên. Tôi tha hồ gạt ra khỏi tư tưởng sự đong đưa, nụ cười, bộ ngực của góa phụ, những hình ảnh ấy vẫn không ngừng trở lại và tôi ngộp thở.

    Cây cối đã trút hết lá, nhưng những lộc non đã nhú, căng phồng, đầy nhựa. Trong mỗi lộc non, người ta đã cảm thấy sự hiện diện của những mầm mới, của hoa trái tương lai, nằm chờ đợi và sẵn sàng vươn ra ngoài ánh sáng. Dưới những lớp vỏ cây khô, cái phép lạ vĩ đại của mùa Xuân đang âm thầm sửa soạn đêm ngày giữa mùa Ðông giá.

    Hốt nhiên tôi thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Trước mặt tôi, trong một lũng khuất, một cây hạnh đào táo bạo đã trổ hoa giữa mùa Ðông mở đường cho ngàn cây và báo hiệu mùa Xuân tới.

    Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Tôi hít một hơi dài hương thơm hơi cay cay của nó. Tôi bỏ đường lớn và đến ngồi thu mình dưới những cành đơm hoa.

    Tôi ngồi đó một lúc lâu, không suy nghĩ gì hết, vô tư lự và sung sướng. Tôi ngồi trong vĩnh cửu, dưới một gốc cây của Thiên Ðàng.

    Thình lình một tiếng nói lớn thô lỗ xô tôi xuống đất.

    - Ông làm gì trong cái hang đó, ông chủ? Tôi tìm ông mãi. Gần đến trưa rồi đó, chúng ta đi thôi.

    - Ði đâu?

    - Ði đâu? Ông hỏi tôi đi đâu ư? Tới nhà mụ Lợn Sữa, dĩ nhiên! Ông không đói sao? Con lợn sữa đã ra khỏi lò! Thơm quá sức... làm người ta chẩy cả nước miếng. Thôi đi!

    Tôi đứng dậy, vuốt ve thân cây hạnh rắn chắc đầy bí ẩn đã tạo ra phép lạ trổ bông này. Zorba đi trước, nhẹ nhàng, khoái hoạt và đói meo. Những nhu cầu căn bản của con người - đồ ăn, thức uống, đàn bà, sự nhảy múa - không bao giờ cạn và cùn nhụt trong thân thể mạnh mẽ và khát khao của hắn.

    Tay hắn cầm một cái gói bọc giấy hồng, buộc bằng một sợi dây vàng.

    - Quà tặng năm mới? Tôi vừa hỏi vừa mỉm cười.

    Zorba cất tiếng cười, cố gắng che giấu cảm xúc.

    - Vâng, chiều mụ một chút, mụ đáng thương đó! Hắn nói không quay lại. Nó sẽ làm mụ nhớ tới dĩ vãng vàng son... Mụ là một người đàn bà, chúng ta chẳng thường nói thế là gì? - một sinh vật luôn luôn than thân trách phận.

    - Một tấm ảnh?

    - Rồi ông sẽ thấy... rồi ông sẽ thấy, đừng hấp tấp quá. Tự tôi làm lấy. Chúng ta đi nhanh lên nào!

    Mặt trời bữa trưa làm người ta vui vẻ đến tận xương tủy. Biển cũng sung sướng sưởi ấm trong ánh mặt trời. Xa xa, một hòn đảo nhỏ hoang liêu, bị bao trùm trong một làn sương mỏng, trông như được nhấc lên khỏi mặt biển và đang trôi nổi.

    Chúng tôi về gần đến làng, Zorba lại gần tôi, hạ thấp giọng nói:

    - Ông biết không, ông chủ, đương sự đang ở nhà thờ. Tôi đứng đằng trước, gần ban hát, thình lình tôi thấy thánh tượng sáng rực. Ðức Chúa, Ðức Mẹ Ðồng Trinh, mười hai thánh tông đồ, tất cả chói sáng... “Cái gì đây? Tôi vừa tự hỏi vừa làm dấu thánh giá. Mặt trời chắc?” Tôi quay lại thì ra bà góa!

    - Ðủ rồi Zorba, thế đủ rồi! Tôi vừa nói vừa rảo bước.

    Nhưng Zorba chạy theo tôi:

    - Tôi đã thấy mụ gần, ông chủ. Mụ có một nốt ruồi trên má đủ khiến ông điên đầu. Thêm một điều bí ẩn nữa: những nốt ruồi trên má những người đàn bà!

    Hắn mở to mắt, có vẻ kinh ngạc.

    - Ông có để ý điều đó không, ông chủ? Da rất mịn màng tự nhiên có một chấm đen. Thế đủ làm ông điên đầu rồi! Ông có hiểu gì không, ông chủ? Sách vở của ông nói sao về điều đó?

    - Ma quỉ bắt chúng, sách với vở!

    Zorba cất tiếng cười, hài lòng.

    - Có thế chứ, hắn kêu lên. Có thế chứ, ông bắt đầu hiểu biết rồi đó.

    Chúng tôi đi quanh qua quán café, không dừng lại.

    Mụ già tử tế của chúng tôi đã làm cho chúng tôi một con lợn sữa và đang đứng chờ chúng tôi trên ngưỡng cửa.

    Mụ lại quấn giải băng mầu hoàng yến quanh cổ, và trát bự phấn, môi bôi một lớp son đỏ chót như vậy mụ đủ khiến người ta mất vía. Vừa thấy chúng tôi, tất cả xác thịt mụ dường như run lên vì cảm xúc, cặp mắt nhỏ bé của mụ đảo lên một cách ranh mãnh và chăm chú nhìn vào bộ ria uốn cong của Zorba.

    Cánh cửa trông phố ra vừa khép, Zorba ôm lấy eo mụ.

    - Năm mới hạnh phúc! Bouboulina của tôi, lão nói. Nhìn xem tôi mang cho em cái gì đây! Và hắn hôn lên gáy mập ú và đầy vết nhăn của mụ.

    Kỳ 49



    Mụ ngư nữ già bị nhột một lát nhưng mụ không lạc hướng mục tiêu. Mắt mụ dán chặt vào món quà. Mụ nắm lấy, cởi dây buộc, nhìn và thốt lên một tiếng kêu vui vẻ.

    Tôi cúi xuống nhìn: trên một tấm bìa dầy, lão Zorba quỉ quái đã vẽ bốn chiến hạm vĩ đại, treo đầy cờ trên một mặt biển xanh chàm bằng bốn mầu: đỏ hung, vàng, xám và đen. Ðằng trước những chiến hạm, trôi nổi trên sóng, hoàn toàn khỏa thân, trắng toát, tóc chẩy dài, ngực ngửa lên trời, với một cái đuôi cá xoắn ốc và một giải băng vàng quanh cổ là một ngư nữ, mụ Hortense! Mụ cầm bốn sợi dây kéo bốn chiến hạm phất phới cờ Anh, Nga, Pháp và Ý. Trong mỗi một góc tranh treo một bộ râu, một đỏ hung, một vàng, một xám và một đen.

    Mụ ca kỹ già hiểu ngay lập tức.

    - Tôi đây! Mụ vừa nói vừa chỉ ngư nữ một cách kiêu hãnh.

    Mụ thở dài:

    - A! Ngày xưa ta cũng là một Ðại Cường Quốc!

    Mụ gỡ tấm gương tròn nhỏ treo trên đầu giường gần lồng con két, và treo tác phẩm của Zorba lên. Dưới lớp phấn dầy, cặp má mụ hẳn phải tái đi.

    Trong lúc đó Zorba đã lẻn xuống bếp. Hắn đói. Hắn bưng lên cái đĩa có con lợn sữa, đặt một chai rượu trước mặt và rót ba ly rượu.

    - Ăn đi thôi! Hắn vừa ăn vỗ tay vừa. Chúng ta hãy bắt đầu với cái nền tảng - cái bụng. Sau đó, cưng ơi! Chúng ta sẽ săn sóc tới gì ở phía dưới!

    Nhưng không khí bị nhiễu loạn bởi những tiếng thở dài của mụ ngư nữ già. Mỗi đầu năm mới, mụ cũng có ngày phán xét cuối cùng nhỏ bé của mụ. Mụ nhìn lại quá khứ, cân nhắc đời mụ và thấy nó phí phạm. Trong cái đầu lưa thưa tóc này, những đô thị lớn, những người đàn ông, quần áo lụa là, những chai rượu champagne, những chòm râu thơm ngát, trong những ngày trọng đại, bước ra khỏi những nấm mồ dĩ vãng của mụ và kêu gào.

    - Tôi không đói chút nào, mụ bẽn lẽn thì thầm. Tôi không đói chút nào... không đói chút nào...

    Mụ quì trước lò than hồng, cời than, cặp má xệ của mụ phản chiếu ánh lửa. Một lọn tóc mụ xõa xuống trán, lướt qua ngọn lửa. Mùi tóc cháy lợm giọng tràn ngập gian phòng.

    - Tôi không muốn ăn... mụ lại lẩm bẩm, khi thấy rằng chúng tôi chẳng để ý gì đến mụ cả.

    Zorba bứt rứt nắm chặt tay. Tâm trí hắn bối rối trong chốc lát. Hắn có thể để mụ muốn càu nhàu trong miệng thế nào cũng được trong lúc chúng tôi lăn xả vào con lợn quay. Tôi nhìn khuôn mặt rám nắng và thấy những làn sóng trái ngược thoảng qua trên nét mặt linh động của hắn.

    Ðột nhiên, nét mặt hắn cố định. Hắn đã quyết định. Hắn quì xuống đặt hai tay lên đầu gối ngư nữ và nói bằng một giọng bi thiết lắm:

    - Nếu em không ăn, mỹ nhân ơi, thì đã đến ngày tận thế rồi. Hãy tội nghiệp con lợn con đáng thương, cưng ơi, và ăn cái chân nhỏ xíu này!

    Và hắn ấn vào miệng mụ cái chân lợn giòn và phủ đầy bơ.

    Hắn ôm mụ trong tay, đỡ mụ đứng lên, và nhẹ nhàng đặt mụ xuống ghế giữa chúng tôi.

    - Ăn đi, ăn đi cưng, để thánh Basil vào làng chúng ta! Nếu không em biết đó, ngài sẽ không vào đâu! Ngài sẽ trở về quê ngài ở Caesarea. Ngài sẽ lấy lại giấy mực, bánh trái này, quà tặng này, đồ chơi trẻ em này, mang cả con lợn sữa này nữa và đem đi hết! Bởi thế, há cái miệng xinh xinh của em ra, Bouboulina của tôi, và ăn đi nào!

    Hắn thò hai ngón tay ra và cù nách mụ. Mụ ngư nữ già cười hinh hích vì sung sướng, lau cặp mắt đỏ hoe và trệu trạo nhai cái giò heo giòn tan...

    Ngay lúc đó, hai con mèo động tình bắt đầu gào thét trên mái nhà trên đầu chúng tôi. Chúng gào thét bằng một giọng oán hận khôn tả, giọng của chúng lên, xuống đầy dọa nạt. Thốt nhiên nghe thấy chúng lăn xả vào cào xé nhau...

    - Meo, meo... Zorba vừa kêu vừa nháy mụ ngư nữ già.

    Mụ mỉm cười và siết tay hắn dưới gầm bàn. Cổ họng mụ mở ra và mụ bắt đầu vui vẻ ăn.

    Mặt trời lặn, tia sáng lọt vào qua khuôn cửa sổ nhỏ và đậu trên chân mụ già. Chai rượu đã cạn. Xoắn ria lên như ria con mèo hoang, Zorba ghé lại gần “giống cái” của hắn. Mụ Hortense co quắp, rụt đầu rụt cổ lại, rùng mình khi thấy hơi thở nồng mùi rượu phả trên thân mình.

    - Lại một điều bí ẩn gì nữa đây, ông chủ? Zorba vừa nói vừa quay lại. Tất cả đều đi ngược lại với tôi. Khi còn là một đứa con nít, trông tôi giống như một ông cụ non. Tôi đần độn, ít nói nhưng có giọng của một người lớn. Họ bảo tôi giống ông nội tôi! Nhưng càng già cả bao nhiêu, tôi càng dại dột bấy nhiêu. Hai mươi tuổi tôi bắt đầu làm những việc điên rồ. Ô, không có gì đặc biệt lắm, những việc mà tất cả mọi người đều làm vào tuổi ấy. Bốn mươi tuổi, tôi bắt đầu cảm thấy thực sự trẻ trung và lao vào những việc điên rồ nhất. Và bây giờ, hơn sáu mươi tuổi đầu - sáu mươi lăm, ông chủ, nhưng ông đừng nói hở ra cho người ngoài nghe nhé - vâng, hơn sáu mươi tuổi đầu rồi, nói thực với ông, tôi coi trời bằng vung!



    Kỳ 50



    Hắn nâng ly lên và trịnh trọng quay về phía nương tử của hắn.

    - Chúc em mạnh khỏe, Bouboulina của tôi, hắn nghiêm trang nói. Tôi mong em năm nay mọc vài cái răng, và đôi mày thanh nhã, da dẻ tươi mát như một trái đào! Và em sẽ liệng đi mấy giải băng lôi thôi này đi! Tôi cũng chúc em có một cuộc cách mạng khác ở Crete và Tứ Cường lại trở lại với hạm đội của họ, Bouboulina yêu quí, và mỗi hạm đội có một thủy sư đô đốc râu quăn và thơm tho. Và em, ngư nữ của tôi, em lại trồi lên mặt sóng một lần nữa, hát điệu hát mê hồn của em. Và mong sao những hạm đội đó tan tành trên hai trái núi đá tròn trĩnh và hoang dã này!

    Nói đoạn, hắn đặt bàn tay hộ pháp lên bộ ngực chẩy xệ và mềm nhẽo của mệnh phụ phu nhân.

    Zorba lại sôi nổi trở lại, giọng nói của hắn trở nên ồ ồ vì dục vọng. Tôi cất tiếng cười. Một hôm, trong rạp chiếu bóng, tôi thấy một ông quan Thổ Nhĩ Kỳ đùa giỡn trong một quán rượu ở Paris. Ông ta đặt một cô bán hàng tóc vàng trên đùi. Khi ông ta say, búp tua len trên mũ fez từ từ nâng lên, bất động khi nó nằm ngang, và đột nhiên vọt thẳng lên.

    - Ông cười gì đó, ông chủ? Zorba hỏi.

    Nhưng mệnh phụ phu nhân hãy còn nghĩ đến điều Zorba nói hồi nãy.

    - Ồ, anh cho rằng có thể thế được không? Mụ hỏi. Tuổi trẻ qua đi... không bao giờ trở lại.

    Zorba xích lại gần hơn nữa, hai cái ghế kề nhau.

    - Nghe anh nói đây, cưng, hắn vừa nói vừa đồng thời cố cởi cái cúc thứ ba, cái cúc quyết định của tấm áo cánh của mụ Hortense. Nghe đây, để anh nói về món quà vĩ đại mà anh sắp cho em; có một bác sĩ mới - bác sĩ Voronoff - biết làm phép lạ, họ nói vậy. Ông ta cho em một phương thuốc, chẳng biết thuốc nước hay thuốc bột, khiến em sẽ trở lại tuổi đôi mươi, cùng lắm là hai mươi lăm. Em đừng khóc, em yêu, anh sẽ gửi sang Âu Châu mua cho em...

    Mụ ngư nữ già giật nẩy mình lên. Da đầu đỏ nhạt của mụ sáng bóng qua mớ tóc thưa. Mụ quàng hai cánh tay mập mạp quanh cổ Zorba.

    - Nếu là thuốc nước, cưng của em, mụ vừa nói vừa dụi vào Zorba như một con mèo cái, nếu lá thuốc nước, anh gửi mua cho em một bình. Nếu là thuốc bột...

    - Một bao lớn, Zorba miệng nói, tay cởi cái nút thứ ba.

    Những con mèo, im tiếng một lát, lại bắt đầu kêu gào. Một giọng than thở và van nài, một giọng tức giận và đe dọa.

    Mệnh phụ phu nhân của chúng ta ngáp và cặp mắt trở nên đờ đẫn.

    - Anh có nghe thấy mấy con vật dơ dáy đó không? Chúng biết mắc cỡ... mụ vừa thì thầm vừa ngồi lên đùi Zorba.

    Mụ ngồi tựa lưng vào người hắn và thở dài. Mụ hơi quá chén và mắt mụ mơ màng.

    - Em đang nghĩ gì đó, con miêu con của anh? Zorba hỏi, hai tay chụp lấy ngực mụ.

    - Alexandria... mụ ngư nữ phiêu bạt lẩm bẩm. Alexandria... Beirut... Constantinople... dân Thổ Nhĩ Kỳ, dân Ả Rập, kem nước đá pha rượu, dép mạ vàng, mũ fezz đỏ...

    Mụ lại thở dài.

    - Khi Ali Bey ở lại đêm với em - trời ơi ria, lông mày, cánh tay! - chàng gọi bọn đánh trống thổi sáo đến, ném tiền cho họ qua cửa sổ và họ chơi trong sân nhà em mải cho tới tảng sáng. Hàng xóm ghen ghét muốn chết: “Ali Bey đêm nay ở lại với bà...”

    “Sau đó, ở Constantinople, quan Thổ Suleiman không cho em ra ngoài ngày Thứ Sáu. Y sợ Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đi lễ đền thờ thấy em và bị lóa mắt bởi sắc đẹp của em, cướp em đi mất. Buổi sáng, khi y ra đi, y cắt ba tên mọi khổng lồ canh cửa không cho một người đàn ông nào lại gần em... A! Suleiman yêu quí của em!”

    Mụ lấy trong áo ngực ra một chiếc khăn tay lớn kẻ ô vuông và ngậm nó, thở phì phì như con rùa nước.

    Zorba gỡ mụ ra bằng cách đặt mụ lên cái ghế bên cạnh và tức tối đứng dậy. Hắn đi đi lại lại trong phòng hai ba lần và hắn cũng thở phì phò; căn phòng đột nhiên trở nên quá chật chội đối với hắn. Hắn lượm cây gậy, lao ra ngoài sân, bắc thang dựa vào tường và tôi thấy hắn leo lên thang, hai bậc một như điên cuồng.

    - Bác định đập ai đó, Zorba? Tôi la, quan Thổ Nhĩ Kỳ Suleiman hả?

    - Mấy con mèo trời đánh, hắn gào lên, chúng không chịu để tôi yên một lát!

    Và phóc một cái, hắn nhảy lên mái nhà.

    Mụ Hortense say bí tỉ, đầu tóc rũ rượi, bây giờ đã nhắm nghiền cặp mắt được hôn biết bao lần lại, và một tiếng ngáy đứt đoạn phát ra từ cái miệng móm của mụ. Giấc ngủ đã nâng mụ lên và đưa mụ tới những kinh thành Ðông Phương -trong những khu vườn rào kín, những khuê phòng thâm u của những quan Thổ Nhĩ Kỳ đa tình. Giấc ngủ để mụ đi qua tường và mang lại cho mụ những giấc mộng. Nó đưa mụ vượt biển và mụ thấy mình đang câu. Mụ quăng xuống bốn dây câu và bắt được bốn chiếc thiết giáp hạm vĩ đại.

    Ngáy và thở ầm ầm, mụ ngư nữ già mỉm cười sung sướng trong giấc ngủ, và có vẻ tươi mát vì tắm trong biển.

  4. #10
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 51



    Zorba đi vào tay khua cây gậy.

    - Ngủ rồi hả? Hắn hỏi khi nhìn thấy mụ. Con đĩ nó ngủ rồi hả?

    - Vâng, thưa quan Thổ Nhĩ Kỳ Zorba, tôi trả lời. Mụ được bác sĩ Voronoff chuyên cải lão hoàn đồng - giấc ngủ - mang đi rồi. Bây giờ, mụ mới có hai mươi tuổi và mụ đang đi dạo ở Alexandria, Beirut...

    - Cho mụ cút xéo đi cho rảnh mắt, con đĩ thối tha, Zorba càu nhàu và nhổ xuống đất. Nhìn nó cười kìa! Không biết nó cười cái gì, con đĩ rạc dài? Chúng ta đi thôi ông chủ, đi!

    Hắn chụp mũ lên đầu và mở cửa. Tôi nói:

    - Ăn uống như heo rồi sau đó bỏ đi để mụ trơ trọi một mình. Làm như thế coi không được chút nào!

    - Mụ không trơ trọi một mình đâu. Zorba gào lên, mụ đang ở bên quan Suleiman, ông không thấy sao? Mụ đang ở trên chín tầng mây, đồ đàn bà bẩn thỉu! Ði, ông chủ. Ði ngay khỏi nơi này!

    Chúng tôi ra ngoài gió lạnh. Mặt trăng đang lướt qua một bầu trời quang đãng.

    - A, đàn bà! Zorba kêu lên một cách khinh bỉ. Hừ! Nhưng không phải lỗi họ, đó là lỗi của chúng ta, của những tên khờ dại, những tên ngốc nghếch, những tên Suleiman và những tên Zorba!

    Hắn nói tiếp một cách giận dữ sau khi ngừng một lát:

    - Không, cũng không phải lỗi của chúng ta nữa, đó là lỗi của một kẻ duy nhất, một kẻ Khờ Dại Ngốc Nghếch vĩ đại, tên quan Thổ Nhĩ Kỳ Suleiman Vĩ Ðại... ông có biết đó là ai không?

    - Nếu ngài hiện hữu, tôi trả lời, nhưng nếu ngài không hiện hữu thì sao?

    - Chúa ơi, thế thì chúng ta lãnh đủ chứ sao?

    Chúng tôi lặng lẽ bước nhanh một lúc lâu. Chắc chắn Zorba đang nghiền ngẫm những ý nghĩ tàn bạo trong đầu vì hắn lấy cây gậy đập tung mấy hòn sỏi và nhổ bọt không ngừng.

    Thình lình hắn quay sang tôi:

    - Ông nội tôi - mong cụ an nghỉ! - hắn nói, cụ biết nhiều về đàn bà. Cụ yêu họ lắm, tội nghiệp cụ, và họ khiến cụ điên đảo. Cụ nói với tôi: “Cháu Alexis, ông khuyên cháu một điều: Hãy nghi ngờ đàn bà. Khi Chúa Trời muốn tạo ra một người đàn bà với một cái xương sườn của Adam, ma quỉ biến thành con rắn và nó nhẩy lên ăn trộm cái xương sườn và chạy trốn. Chúa Trời rượt theo, nhưng con rắn luồn qua kẽ ngón tay và chỉ để lại cho ngài cặp sừng. “Một người nội trợ giỏi, Chúa Trời nói, có thể khâu bằng cái thìa! Ta sẽ tạo ra một người đàn bà với cặp sừng của quỉ!” Và ngài làm như vậy; vì lẽ đó ma quỉ thắng tất cả chúng ta, Alexis! Bất cứ chỗ nào chúng ta đụng tới một người đàn bà, chúng ta đều vớ phải sừng ma quỉ. Hãy nghi ngờ đàn bà, con! Người đàn bà còn ăn trộm táo vườn Ðịa Ðàng và giấu vào ngực áo và bây giờ ưỡn ngực ra nhởn nhơ đi qua đi lại. Ðồ mắc dịch! Nếu con ăn những trái táo đó con sẽ hư mất. Nếu con không ăn, con còn hư mất hơn nữa. Vậy ông có thể khuyên con điều gì, hả con? Làm cái gì con thích!” Ông nội tôi nói với tôi như vậy, nhưng tôi không trở nên khôn ngoan đến cỡ đó. Tôi cũng đi con đường như ông tôi - tôi đi với ma quỉ!

    Chúng tôi vội vã vượt qua làng. Ánh trăng rối loạn. Hãy tưởng tượng bạn đang say sưa, ra ngoài hóng gió, và bạn thấy thế giới đột nhiên biến đổi. Những con đường đã trở thành những dòng sông sữa, những hố sâu, những vết bánh xe lún sâu đầy vôi, đồi núi tuyết phủ. Tay, mặt, cổ người ta phát quang như bụng một con đom đóm. Và vầng trăng treo trên ngực, người ta tựa một tấm huy chương ngoại quốc.

    Chúng tôi lặng lẽ rảo bước. Say sưa vì ánh trăng, say sưa vì rượu, chúng tôi không cảm thấy chân mình chạm mặt đất. Ðằng sau chúng tôi làng mạc ngủ yên, chó trèo lên mái nhà sủa trăng. Tự nhiên không hiểu vì sao, chúng tôi cũng muốn vươn cổ ra và tru lên...

    Bây giờ chúng tôi đi qua nhà mụ góa, Zorba dừng lại. Rượu, đồ ăn ngon, trăng đã làm hắn điên đảo. Hắn vươn cổ ra và, bằng giọng con lừa, hắn hí lên một đôi câu tục tĩu, mà trong lúc hứng khởi, hắn ứng khẩu ra:

    Tôi yêu thân thể xinh đẹp của em, từ trên xuống dưới!

    Nó nhận được cây kim và làm nó trở nên vô dụng ngay!

    - Lại một cái sừng ma quỉ, hắn nói. Chúng ta đi thôi, ông chủ!

    Ngày sắp rạng khi chúng tôi về đến lều. Tôi ngã xuống giường, mệt lả. Zorba rửa mặt, châm lò và pha café. Hắn ngồi xổm trước cửa, đốt một điếu thuốc và bắt đầu hút một cách bình thản, thân thể ngay ngắn, bất động, và nhìn ra biển. Nét mặt hắn trang nghiêm và tư lự. Hắn giống một bức tranh Nhật Bản mà tôi khổ hạnh sư, mặc y phục mầu da cam ngồi xếp bằng; khuôn mặt bóng lọng như gỗ rắn chắc đẽo khắc tỷ mỉ, đen đúa vì mưa; cổ vươn thẳng, mỉm cười, vô úy, nhìn vào đêm tối trước mặt...



    Kỳ 52



    Tôi nhìn Zorba dưới ánh trăng và thán phục thái độ gan dạ và đơn giản hắn thích nghi với thế giới xung quanh, cách thân thể và tâm hồn hắn hợp thành một toàn thể hòa điệu, và tất cả mọi sự, đàn bà, bánh, nước thịt, giấc ngủ, kết hợp một cách hân hoan với xác thịt hắn và trở thành Zorba. Chưa bao giờ có một cuộc giao hảo thân thiện đến thế giữa một người và vũ trụ.

    Vầng trăng lúc này sắp lụn tàn, tròn và xanh xao. Một vẻ dịu dàng khôn tả bao trùm mặt biển.

    Zorba liệng mẩu thuốc lá, vươn tay lấy cái giỏ, lấy ra dây, cuộn chỉ, mấy mảnh gỗ nhỏ, thắp ngọn đèn dầu và lại bắt đầu thí nghiệm đường sắt treo. Cúi mình trên món đồ chơi nguyên sơ, chìm đắm trong những con toán chắc hẳn phải khó khăn lắm, vì hắn luôn luôn gãi đầu một cách điên cuồng và chửi thề.

    Ðột nhiên, hắn chán ngấy. Hắn đá đường sắt treo và nó sụp đổ trên mặt đất.



    12



    Giấc ngủ xâm chiếm tôi. khi tôi thức dậy, Zorba đã đi rồi. Trời lạnh, tôi không muốn bước xuống giường chút nào. Tôi với tay lấy một cuốn sách tôi thích và đã mang theo để trên kệ sách đầu giường: tập thơ Mallarmé. Tôi đọc chậm rãi và ngẫu nhiên. Tôi gấp sách lại, lại mở ra và cuối cùng ném xuống. Lần đầu tiên trong đời tôi, tất cả những thứ đó dường như thiếu máu, vô vị, vô hương và không có chất người. Những chữ xanh xao trống rỗng, treo trong khoảng không. Một thứ nước cất hoàn toàn tinh khiết, không có vi trùng, nhưng cũng không có dưỡng chất. Vô sinh.

    Cũng như trong những tôn giáo đã mất những hơi thở sáng tạo buổi đầu, thần thánh chỉ còn là những thi tứ hay những vật trang trí tô điểm cho nỗi cô độc của con người và tường vách, thứ thi ca này cũng vậy. Hứng khởi mãnh liệt của tâm hồn chất chứa đất đai và hạt giống đã trở thành một trò chơi trí thức hoàn toàn, một kiến trúc hư không, bác học và phức tạp.

    Tôi lại giở cuốn thơ ra và bắt đầu đọc. Tại sao những bài thơ này đã đầu độc tôi trong bấy nhiêu năm? Thi ca thuần túy! Cuộc đời trở thành một trò chơi sáng suốt, trong trẻo, không vấy một giọt máu. Môi trường nhân loại nặng trĩu dục vọng, vẩn đục, bất tịnh - nó được cấu tạo bởi tình yêu, xác thịt, tiếng kêu gào tuyệt vọng. Hãy để nó thăng hoa thành ý tưởng trừu tượng và, trong cái nồi nấu của tinh thần, bằng nhiều quá trình của khoa luyện kim, hãy để nó bị lọc mất tính cách vật chất và bốc hơi!

    Tất cả những thứ này ngày xưa đã mê hoặc tôi bao nhiêu, sáng hôm nay chỉ còn là những trò leo dây múa rối tinh thần và xảo thuật lừa bịp khéo léo đối với tôi bấy nhiêu! Luôn luôn, vào buổi suy tàn của tất cả mọi nền văn minh, nỗi khắc khoải của con người chấm dứt như vậy - bằng những trò lường gạt ảo thuật khéo léo: thi ca thuần túy, âm nhạc thuần túy, tư tưởng thuần túy. Con người cuối cùng - kẻ đã giải thoát mình khỏi mọi đức tin, mọi ảo tưởng không chờ đợi gì nữa, không sợ hãi gì nữa - thấy đất sét mà mình được nặn ra bị giản lược vào tinh thần, và tinh thần này không còn mảnh đất nào buông rễ để hút mầu mỡ và tự nuôi dưỡng. Con người cuối cùng đã tự làm trống rỗng mình; không còn hạt giống, không còn phân, không còn máu. Tất cả mọi sự đều trở thành danh từ, tất cả mọi danh từ đều trở thành những xảo thuật âm nhạc. Con người cuối cùng còn đi xa hơn thế nữa: hắn ngồi trong nỗi cô đơn tuyệt đối và phân tích âm nhạc thành những phương trình toán học.



    Kỳ 53



    Tôi thảng thốt. “Ðức Phật chính là con người cuối cùng!” Tôi kêu lên. Ðó là ý nghĩa bí ẩn và kinh khủng của ngài. Ðức Phật là tâm hồn “thuần túy” đã trống rỗng hóa mình; trong ngài là hư không, ngài là hư không. “Hãy làm trống rỗng thân các người, trống rỗng tinh thần các người!” Ngài kêu. Bất cứ nơi nào ngài đặt chân tới nước không vọt lên, cỏ không mọc, hài nhi không ra đời nữa.

    “Ta phải bao vây ngài, bằng cách huy động những chữ và khả năng chiêu hồn của chúng, tôi nghĩ, bằng cách cầu đảo những âm tiết phù thủy và ném một đạo bùa lên ngài để đẩy ngài ra khỏi lòng ta! Ta phải tung lên ngài cái lưới hình ảnh, chụp bắt ngài và giải thoát ta!”

    Việc viết “Ðức Phật” không còn là một trò chơi văn chương. Ðó là một cuộc tử chiến chống lại một sức mạnh hủy hoại vĩ đại ẩn náu trong tôi, một cuộc quyết đấu với hư không vĩ đại đang tiêu hủy lòng tôi, và sự cứu chuộc của tâm hồn tôi tùy thuộc vào kết quả của cuộc quyết đấu tay đôi này.

    Tôi cầm tập bản thảo, vui vẻ và cương quyết. Tôi đã tìm thấy mục tiêu, bây giờ tôi biết tôi phải đánh chỗ nào! Ðức Phật là con người cuối cùng. Chúng ta, chúng ta mới ở bước khởi đầu; chúng ta chưa ăn chưa uống cũng chưa yêu thương đủ; chúng ta chưa sống. Ngài đã đến với chúng ta quá sớm, ông già yếu ớt hết hơi này. Chúng ta phải trục xuất ngài càng nhanh chừng nào càng hay chừng ấy!

    Tôi tự nhủ như vậy và bắt đầu viết một cách hân hoan. Không, tôi không viết. Ðó không phải là viết: Ðó là một trận chiến thực sự, một cuộc săn đuổi tàn nhẫn, một cuộc công hãm và một đạo bùa để xua con quái vật ra khỏi hang ẩn trú. Quả thực nghệ thuật của một bùa phép kỳ diệu. Những sức mạnh giết người nương náu trong lòng chúng ta, xung lực giết tróc, phá hoại, thù hận, làm nhơ nhuốc độc hại. Rồi, với tiếng sáo mơ màng, nghệ thuật hiện ra và giải thoát chúng ta.

    Tôi viết, tôi săn đuổi và chiến đấu suốt ngày. Buổi tối, tôi kiệt lực. Nhưng tôi cảm thấy tiến bộ và đã chế ngự được nhiều tiền đồn của địch quân. Bây giờ tôi nóng ruột chờ Zorba trở về để ăn, ngủ lấy lại sức để tái chiến lúc bình minh.

    Trời tối mịt khi Zorba trở về. Mặt hắn rạng rỡ. Hắn cũng đã tìm thấy lời giải đáp cho một điều gì, tôi nghĩ thầm và tôi chờ đợi.

    Mấy hôm trước đây, bực mình với hắn, tôi giận dữ nói:

    - Vốn hụt đi rồi đấy, Zorba. Cái gì phải làm thì phải làm nhanh lên! Cho dây sắt treo bắt đầu chạy đi; nếu than không thành công, chúng ta bỏ để làm gỗ. Nếu không thì hỏng bét cả đấy.

    Zorba gãi đầu:

    - Vốn hụt đi ư, ông chủ! Hắn hỏi. Thế thì hỏng quá!

    - Chúng ta đã ăn hết tất cả, Zorba! Bác thử xoay xở xem sao. Công việc thí nghiệm dây cáp treo đi đến đâu rồi? Không có gì may mắn hơn à?

    Zorba cúi đầu không trả lời. Buổi tối hôm đó hắn cảm thấy xấu hổ. “Cái đường sắt treo trời đánh! Hắn càu nhàu. Ta sẽ thắng mi cho mà coi!” Và chiều nay hắn trở về, khuôn mặt rạng rỡ vì thành công.

    - Tôi thấy rồi, ông chủ! Hắn là từ xa. Tôi đã tìm thấy độ dốc chính xác! Nó tuột khỏi tay tôi, cố gắng chạy trốn, nhưng tôi đã bắt được nó, ông chủ!

    - Vậy thì khởi sự ngay đi, Zorba! Bác cần những gì nào?

    - Sáng sớm mai, tôi phải ra tỉnh mua những vật liệu cần thiết: Dây cáp bằng thép lớn, ròng rọc, mang-trục, đanh, móc... Ðừng lo, tôi sẽ trở về trước khi ông thấy tôi đi!

    Hắn nhóm lửa, sửa soạn bữa ăn, và chúng tôi ăn uống ngon lành. Ngày hôm đó cả hai chúng tôi cùng làm việc được.

    Sáng hôm sau tôi đi với Zorba tới tận làng. Chúng tôi nói chuyện với nhau về mỏ than, trang nghiêm như những người đầu óc thực tiễn. Khi đi xuống một con dốc, Zorba đá một hòn đá lăn xuống đồi. Hắn dừng lại một lát, kinh ngạc như thể lần đầu tiên trong đời hắn thấy một cảnh tượng lạ lùng như vậy. Hắn quay sang nhìn tôi, và tôi thấy một vẻ sợ hãi thoáng qua mắt hắn.

    - Ông có để ý thấy không, ông chủ? Cuối cùng, hắn nói. Trên dốc, những hòn đá trở nên sống động trở lại.

    Tôi không nói gì hết nhưng tôi cảm thấy hân hoan vô cùng. Tôi nghĩ: “Ðó là cách những đại tiên tri thấu thị và những đại thi hào nhìn vạn vật - như nhìn thấy lần thứ nhất. Mỗi buổi mai, họ nhìn thấy một thế giới mới trước mắt họ; không phải họ thực sự thấy nó, họ sáng tạo ra nó.”

    Vũ trụ đối với Zorba, như đối với những người đầu tiên, là một ảnh tượng nặng trĩu và dầy đặc; tinh tú lướt qua đầu, biển xô ầm vào thái dương hắn. Hắn sống trực tiếp với đất, nước, thú vật và Thượng Ðế, không qua một sự can thiệp méo mó của lý trí.

    Mụ Hortense đã được báo trước và mụ đang chờ chúng tôi trên ngưỡng cửa. Mụ thoa son, trát phấn, và lo lắng. Mụ trang điểm như một chợ phiên vui nhộn tối thứ bảy. Con la đứng ở trước cửa; Zorba nhảy lên lưng nó rồi cầm cương.

    Kỳ 54



    Mụ ngư nữ già bẽn lẽn lại gần và đặt bàn tay mập ú lên ức con vật như muốn ngăn cản không cho người yêu ra đi.

    - Zorba... mụ vừa âu yếm gọi vừa kiễng chân lên, Zorba...

    Zorba quay mặt đi chỗ khác. Hắn không ưa những lời lẽ lẩm cẩm giữa đường phố như thế. Mụ đàn bà đáng thương nhìn thấy cặp mắt hắn và sợ hãi. Nhưng tay mụ vẫn tỳ trên ức con la, khẩn khoản, dịu dàng.

    - Em muốn gì? Zorba gắt hỏi.

    - Zorba, mụ van nài, hãy ngoan ngoãn... Ðừng quên em nhé, Zorba... hãy ngoan ngoãn...

    Zorba giật cương, không trả lời. Con la cất bước đi.

    - Ði may mắn nhé, Zorba! Tôi nói to. Ba ngày thôi đấy, bác nghe rõ chưa? Không được quá đâu đấy!

    Hắn quay lại, vẫy vẫy bàn tay hộ pháp. Mụ ngư nữ già khóc và nước mắt mụ đào thành những luống trong lớp phấn.

    - Tôi xin hứa mà, ông chủ! Zorba la lên. Tôi đi đây.

    Và hắn khuất dạng dưới những cây ô-liu. Mụ Hortense tiếp tục khóc, nhưng vẫn mải miết nhìn ánh tấm chăn đỏ tươi mà mụ đặt rất cẩn thận để cho người yêu ngồi được thoải mái lấp lánh và tắt dần qua vòm lá tráng bạc. Lát sau ánh tấm chăn cũng biến mất. Mụ Hortense đưa mắt nhìn quanh: thế giới hoang vắng trống trải.

    Tôi không trở lại bãi biển. Tôi cảm thấy buồn và hướng về rặng núi. Khi tôi tới con đường lên dốc, tôi nghe thấy tiếng kèn trompette. Lão phát thư báo hiệu cho mọi người biết lão đến làng.

    - Ông chủ! Lão vừa gọi vừa vẫy tôi.

    Lão lại gần và đưa cho tôi một bó báo, tạp chí văn nghệ và hai lá thư. Tôi bỏ ngay một lá vào túi để đọc tối nay, khi ngày chấm dứt và tâm trí lắng dịu. Tôi biết ai viết cho tôi, và tôi muốn triển hạn nguồn vui của tôi để nó kéo dài hơn nữa.

    Lá thư kia, tôi nhận ra nhờ nét chữ sắc sảo, đột ngột và những con tem ngoại quốc. Lá thư này đến từ Phi Châu, từ một ngọn núi hoang vu gần Tangangyika, do một người bạn học cũ của tôi - Karayannis gửi.

    Hắn là một thanh niên kỳ lạ, dữ dội, ngăm ngăm đen, răng rất trắng. Một cái răng nanh của hắn chìa ra như răng lợn lòi. Hắn không bao giờ nói: hắn la. Hắn không bao giờ thảo luận: hắn tranh luận. Hắn sớm rời bỏ quê hương hắn, đảo Crete, nơi hắn là một giáo sư thần học và một tu sĩ. Hắn tán tỉnh một cô sinh viên và một hôm người ta bắt gặp họ đang hôn nhau ngoài đồng; người ta la ó đả đảo họ. Ngay ngày hôm đó, ông giáo sư trẻ tuổi dục áo thầy tu và lên lầu. Hắn tới nhà một người chú ở Phi Châu, lao mình vào công việc, mở một xưởng chế tạo dây thong và kiếm được rất nhiều tiền. Thỉnh thoảng hắn viết cho tôi, và mời tôi tới ở với hắn sáu tháng. Trong khi mở mỗi lá thư hắn và ngay trước khi đọc nữa, tôi cảm thấy từ xấp thư dầy cộm, bao giờ cũng được khâu lại với nhau, bốc lên một cơn cuồng phong khiến tóc tôi dựng đứng lên. Tôi luôn quyết định sang Phi Châu thăm hắn, nhưng không bao giờ đi cả.

    Tôi bỏ đường đi, đến ngồi trên một tảng đá, bóc thư và bắt đầu đọc:

    “Khi nào anh quyết định đến đây thăm tôi, đồ con hầu bám vào đá Hy Lạp kia? Anh nữa, anh cũng trở thành một thứ người hay la cà ở quán rượu như tất cả những tên Hy Lạp đê tiện khác. Anh ngụp lặn trong những quán café như trong sách vở của anh, và thói quen của anh, những ý thức hệ quí báu của anh. Hôm nay là Chủ Nhựt, tôi không phải làm việc; tôi ở tại nhà tôi, trong khu điền địa của tôi, và tôi nghĩ đến anh. Mặt trời thiêu đốt như một cái hỏa lò. Không một giọt mưa. Ở đây, khi trời đổ mưa, vào Tháng Tư, Tháng Năm và Tháng Sáu, đúng là một trận đại hồng thủy.

    Tôi hoàn toàn cô độc và tôi thích vậy. Không thiếu những tên Hy Lạp ở đây (có nơi nào mà không có giống rệp này) nhưng tôi không muốn giao thiệp với họ. Họ ghét tôi, bởi vì các ông mẫu quốc thân mến, mong ma quỉ bắt các ngài đi, ngay cả nơi đây, các ngài cũng đem bệnh cùi của các ngài, những đam mê chính trị của các ngài, tới cho chúng tôi. Chính trị, đó là cái làm tiêu vong Hy Lạp. Có cả bài bạc, dĩ nhiên, nạn mù chữ và những tội lỗi của xác thịt.

    “Tôi ghét dân Âu Châu; chính vì lẽ đó tôi lang thang ở đây, trong rặng Usumbara này. Tôi ghét dân Âu Châu, nhưng trên tất cả, tôi ghét dân Hy Lạp và tất cả những gì là Hy Lạp. Không bao giờ tôi đặt chân lên xứ Hy Lạp của anh nữa đâu. Tôi sẽ chết ở đây. Tôi đã xây xong mộ tôi, trước lều của tôi, trên sườn núi hoang vắng. Tôi đã đặt cả mộ chí nữa và chính tay tôi khắc bằng chữ hoa lớn:

    “Ðây là nơi an nghỉ của một người Hy Lạp ghét dân Hy Lạp”

    “Tôi phá lên cười, tôi nhổ, tôi nguyền rủa, tôi khóc khi tôi nghĩ tới Hy Lạp. Ðể không phải nhìn thấy dân Hy Lạp và tất cả những gì Hy Lạp, tôi vĩnh viễn rời xa tổ quốc. Tôi đến đây, tôi đã dẫn dắt định mệnh - không phải định mệnh dẫn dắt tôi: con người làm điều hắn muốn! - tôi dẫn dắt định mệnh tôi đến đây, tôi làm việc và tôi làm việc quần quật như một tên mọi. Tôi đổ mồ hôi và tôi tiếp tục đổ từng suối mồ hôi. Tôi chiến đấu với đất, với gió, với mưa, với thợ thuyền, với nô lệ đen và đỏ của tôi.



    Kỳ 55



    “Tôi không có một nguồn vui nào. Có chứ, một nguồn vui: làm việc. Với thân thể và tinh thần tôi, nhất là với thân thể. Tôi thích mệt lả, vã mồ hôi, nghe xương tôi kêu răng rắc. Một nửa tiền của tôi liệng đi, tôi phung phí bằng cách nào và ở bất cứ nơi nào tôi thích.

    Tôi không là nô lệ của tiền bạc: tiền bạc là nô lệ của tôi. Tôi là nô lệ của công việc, tôi kiêu hãnh nói thế. Tôi đốn cây: tôi ký giao kèo với bọn Ăng Lê. Tôi chế tạo thừng; bây giờ, tôi trồng cả bông nữa. Ðêm qua, giữa đám da đen của tôi, hai bộ lạc Wa'yao và Wa'ngoni - đánh nhau vì một mụ đàn bà: một con đĩ. Vì tự ái, anh thấy không. Hệt như ở bên Hy Lạp. Chửi rủa, huyên náo, tai vạ bất ngờ, máu đã đổ. Bọn đàn bà đang đêm chạy đến đánh thức tôi đến phân xử. Tôi nổi giận, tôi bảo chúng cút đi cho rảnh, rồi tới cảnh sát Anh. Nhưng chúng không chịu đi, đứng suốt đêm ngoài cửa nhà tôi kêu gào. Sáng sớm, tôi đi ra và làm trọng tài phân xử.

    “Sáng sớm mai, Thứ Hai, tôi sẽ trèo lên rặng Usumbara, với rừng, núi, nước mát và cỏ xanh vạn niên. Thôi, đồ Hy Lạp đê tiện, bao giờ mi mới chịu bỏ rơi Âu Châu, con đĩ ngồi trên những sông ngòi lớn, kẻ gian dâm với tất cả vua chúa của trần gian”? Khi nào mi mới chịu đến để chúng ta cùng trèo lên rặng núi hoang vắng và trinh tuyền này?

    “Tôi có một đứa con với một mụ da đen: một đứa con gái. Mẹ nó, tôi đã đuổi đi rồi: mụ cho tôi mọc sừng công khai, giữa thanh thiên bạch nhật, dưới mỗi cây xanh hàng xóm. Tôi chán mụ quá và tôi đã đuổi mụ đi rồi. Nhưng tôi giữ lại con nhỏ; nó được hai tuổi. Nó đi, nó bắt đầu nói và tôi dạy nó nói tiếng Hy Lạp; câu đầu tiên tôi dạy nó là: “Tao nhổ vô mặt các người, quân Hy Lạp, tao nhổ vào mặt các người quân Hy Lạp!”

    “Nó giống tôi, con ranh con. Nó chỉ có cái mũi tẹt, rộng là giống mẹ nó thôi. Tôi yêu nó, nhưng giống như anh yêu một con chó hay một con mèo. Ðến đây và kiếm một đứa con trai với một mụ đàn bà Usumbara. Chúng ta sẽ cho chúng nó cưới nhau một ngày kia, để làm vui lòng chúng ta, và để làm vui lòng chúng nó nữa.

    Thôi, chúc ma quỉ đi với anh, và với tôi, bạn thân mến!

    Carayannis, Servus diabolicus Dei.

    Tôi để lá thư mở rộng trên đầu gối. Ước vọng ra đi mãnh liệt một lần nữa lại xâm chiếm tôi. Không phải tôi cần đi. Tôi hoàn toàn thoải mái trên bờ biển Crete này, tôi cảm thấy sung sướng và tự do. Tôi không thiếu gì hết. Nhưng tôi luôn luôn bị dầy vò bởi một ước vọng mãnh liệt: thấy và sờ mó đất đai và biển càng nhiều càng hay trước khi tôi chết.

    Tôi đứng dậy, thay đổi ý kiến và thay vì trèo núi, tôi vội vàng rảo bước xuống bờ biển. Tôi cảm thấy lá thư kia trong túi áo trên chiếc áo khoác ngoài, và tôi không cầm lòng được nữa. “Ðủ rồi, tôi nghĩ, tiền vị của nỗi hân hoan ngọt ngào và kinh hoàng này kéo dài đủ rồi.”

    Tôi về đến lều, nhóm lửa, pha café, ăn bánh với bơ, mật ong và mấy trái cam. Tôi cởi quần áo nằm dài trên giường và mở lá thư:

    “Sư phụ và đệ tử tân tòng của tôi!

    “Ở đây tôi có nhiều việc nặng nề và khó khăn, đội ơn “Thượng Ðế” - tôi nhốt chữ nguy hiểm giữa hai ngoặc kép (như nhốt một con mãnh thú giữa chắn song sắt), để thầy khỏi bực mình ngay sau khi giở lá thư của tôi. Vâng, một công việc rất khó khăn, đội ơn “Thượng đế”! Một nửa triệu dân Hy Lạp đang nguy khốn ở miền Nam nước Nga và trong rặng Caucasus. Ða số chỉ biết nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hay tiếng Nga, nhưng tim họ nói tiếng Hy Lạp một cách cuồng tín. Họ là nòi giống ta. Chỉ cần nhìn họ - cách cặp mắt họ sáng lên, tham lam vô độ, tọc mạch, vẻ tinh quái và đầy nhục dục của môi họ khi họ cười, cách họ thu xếp để trở thành chủ nhân và có nông nô làm việc cho họ trên lãnh thổ mênh mông này của nước Nga - là thầy đủ hiểu họ đúng là con cháu của Odysseus thân yêu của thầy. Bởi thế ta đến đem yêu thương cho họ và không thể để họ bị tiêu diệt.

    “Bởi vì họ đang bị họa tiêu diệt. Họ đã mất tất cả những gì họ có, họ đói khát, trần truồng. Một mặt họ bị bọn Bolchevik theo dõi; một mặt bị dân Kurds rình mò. Khắp nơi, dân di cư lũ lượt đổ dồn về định cư tại một vài tỉnh ở Georgia và Armenia. Không có thực phẩm, thuốc men, quần áo. Họ tập trung trong những hải cảng, lo lắng, đăm đăm hướng về phía chân trời xem có tầu Hy Lạp đến đón họ trở về với Mẹ - Hy Lạp. Một phần của nòi giống ta, nghĩa là một phần tâm hồn chúng ta đang trong cơn khủng hoảng.

    “Nếu ta phó mặc họ với số phận họ, họ sẽ bị tiêu diệt. Chúng ta cần phải có nhiều tình thương yêu và hiểu biết, nhiệt tâm và đầu óc thực tiễn - những đức tính mà thầy mong muốn thấy đoàn kết xiết bao - để đi đến cứu họ và bứng họ trồng trong mảnh đất tự do của chúng ta, nơi sẽ ích lợi nhất cho nòi giống ta - nghĩa là trên biên thùy Macedonia, và xa hơn nữa, trên miền biên giới Thrace. Ðó là cách duy nhất khiến chúng ta cứu vớt được hàng trăm ngàn dân Hy Lạp và chúng ta sẽ cứu vớt được chúng ta cùng với họ. Bởi vì ngay sau khi đến đây, tôi vẽ một vòng tròn, theo cách thầy dạy tôi, và gọi vòng tròn đó là: “Bổn phận của tôi.” Tôi nói: “Nếu ta cứu vớt được cả vòng tròn này ta sẽ được cứu vớt; nếu ta không cứu vớt được nó, ta sẽ hư mất!” Mà, trong vòng tròn đó có năm trăm ngàn dân Hy Lạp!

    Kỳ 56



    “Tôi đi khắp các tỉnh, các làng, tôi tập trung dân Hy Lạp, tôi viết báo cáo và điện tín, tôi cố gắng tìm cách khiến những sĩ quan hải quân của chúng ta ở Nhã-Ðiển gửi tầu bè, thực phẩm, quần áo, thuốc men đến và chuyên chở những sinh vật khốn khổ này về Hy Lạp.

    Nếu chiến đấu với nhiệt tình và lòng kiên quyết là hạnh phúc, thì tôi hạnh phúc. Chẳng biết có phải tôi đã ‘thửa’ hạnh phúc tôi theo vóc dáng của tôi như thầy đã nói đó không; lạy trời, bởi vì nếu thế tôi có một vóc dáng vĩ đại. Tôi còn muốn trải cái vóc dáng của tôi với những biên cương xa tắp của Hy Lạp đồng thời cũng là giới hạn của hạnh phúc tôi. Nhưng thôi, dẹp lý thuyết đi! Thầy đang nằm dài trên bờ biển Crete, thầy nghe biển và đàn santuri, thầy có thì giờ, tôi thì không. Tôi bị ngấu nghiến bởi hành động và tôi sung sướng vì điều đó. Hành động, thầy bất động thân mến của tôi, hoạt động không có một sự cứu chuộc nào khác.

    “Ðề tài suy tưởng của tôi bây giờ, quả thực, rất đơn giản và hợp nhất, tôi tự nhủ: dân ở Pontus và dân Caucasus, nông dân ở Kars, thương gia lớn bé ở Tiflis, Batum, Navo Rossik, Rostov, Odessa, Crimea là đồng bào ta, họ là máu mủ ta: đối với họ cũng như đối với chúng ta, kinh đô Hy Lạp là Constantinople. Chúng ta cùng có một lãnh tụ. Thầy gọi người là Udysseus, những người khác gọi là Constantinos Palaeologos (*) - không phải người đã bị giết ở dưới chân thành Byzantium, nhưng là người khác, người đã hóa thành cẩm thạch và vẫn còn đang đứng trơ trơ chờ Thiên Thần Tự Do. Xin thầy cho phép, tôi gọi vị lãnh tụ của dòng giống chúng ta là Acritas (**).Tôi thích tên này hơn; nó có vẻ khắc khổ và hiếu chiến hơn. Khi nào tôi nghe thấy nhắc tới tên đó, tôi cảm thấy trong tôi hình ảnh của Hellene vĩnh cửu vươn lên, võ trang cùng mình, đang chiến đấu không ngừng trên những quan ải, biên giới. Trên tất cả mọi biên giới: quốc gia, trí thức, tinh thần. Và nếu người ta thêm Degenis, người ta càng vẽ dòng giống chúng ta một cách hoàn hảo hơn, cái tổng hợp kỳ diệu giữa Ðông Phương và Tây Phương này.

    “Bây giờ tôi đang ở Kars; tôi đến để tập trung dân Hy Lạp ở tất cả những làng mạc lân cận. Chính hôm tôi tới, dân Kurds đã bắt giữ trong vùng Kars một linh mục và một giáo viên Hy Lạp và đã đóng móng họ như những con la. Những vị linh mục sợ hãi đã trốn cả vào trong nhà tôi ở trọ. Luôn luôn chúng tôi nghe thấy tiếng đại bác bọn Kurds mỗi lúc một gần thêm. Tất cả đều hướng vào tôi như thể tôi là kẻ duy nhất có đủ sức mạnh cứu vớt họ.

    “Tôi định mai đi Tiflis, nhưng bây giờ, trước hiểm họa, tôi xấu hổ nếu bỏ ra đi. Bởi thế tôi ở lại. Người Chiến Sĩ của Rembrant, người Chiến Sĩ của tôi, đã chẳng từng làm như vậy hay sao? Chắc chàng đã ở lại; vậy tôi cũng ở lại. Nếu bọn Kurds vào thành phố, dĩ nhiên là đúng lý tôi là người đầu tiên bị đóng móng sắt. Tôi chắc không bao giờ, thưa thầy, thầy lại nghĩ học trò của thầy có thể chấm dứt cuộc đời như vậy.

    “Sau một cuộc thảo luận liên tu bất tận kiểu Hy Lạp, chúng tôi quyết định rằng tất cả tối nay tập trung, với la, ngựa, bò, cừu, đàn bà, trẻ con, và sáng sớm tất cả chúng tôi sẽ cùng khởi hành về phương Bắc. Tôi sẽ đi tiên phong, con cừu đực đầu đàn hướng dẫn bầy cừu.

    “Một cuộc di dân tộc trưởng của một dân tộc qua những rặng núi và bình nguyên có những cái tên thần thoại! Và tôi, tôi sẽ là một thứ Moses - Moses giả hiệu - dẫn dắt dân được chọn tới Ðất Hứa, như những kẻ ngây thơ gọi Hy Lạp. Dĩ nhiên, để xứng đáng với sứ mệnh có tính cách Moses này và để khỏi làm thầy xấu hổ, tôi phải bỏ những cái xà cạp dạ thanh lịch mà thầy thường chế diễu và quấn chân tôi bằng những dải da cừu. Lẽ ra tôi còn phải có một chòm râu dài gợn sóng, trơn mượt và nhất là hai cái sừng. Nhưng rất tiếc về điểm này tôi không thể làm thầy vừa lòng được. Thay đổi tâm hồn với tôi dễ hơn thay đổi y phục. Tôi mang xà cạp, râu ria cạo nhẵn nhụi như một cái lõi bắp cải và tôi chưa lập gia đình.

    “Thưa thầy, tôi hy vọng thầy nhận được lá thư này vì có thể đây là lá cuối cùng. Biết đâu. Tôi không tin vào những mãnh lực bí mật bảo vệ con người, như người ta nói. Tôi tin vào những sức mạnh mù quáng đánh tả đánh hữu, không quỉ quái, không mục đích, giết bất cứ kẻ nào trên đường chúng. Nếu tôi lìa trần gian (tôi nói ‘lìa’ để khỏi làm thầy và chính tôi sợ nếu dùng chữ chính xác), vậy, nếu tôi lìa trần gian, tôi mong thầy khỏe mạnh và sung sướng, thầy thân mến của tôi! Tôi xấu hổ phải nói lên điều này, nhưng tôi phải nói, vậy xin thầy thứ lỗi cho tôi: tôi cũng yêu thầy lắm lắm.”

    Và, ở dưới, tái bút viết thảo bằng bút chì:

    “T.B. Tôi không bao giờ quên điều chúng ta đã đồng ý với nhau hôm tôi ra đi. Nếu tôi phải “lìa bỏ” trần gian này, sẽ báo cho thầy rõ, thầy hãy nhớ, bất cứ thầy ở đâu; xin thầy đừng sợ.”



    (*) Ðại Ðế cuối cùng của Ðế Quốc Ðông La Mã (1448-1423)

    (**) Basilius Digenes Acritas: vị anh hùng Byzance thế kỷ thứ 10. Digenes có nghĩa là song sinh (cha Hồi Giáo và mẹ Thiên Chúa Giáo, Hy Lạp và Ðông Phương) còn Acritas là tráng sĩ phòng vệ biên thùy của Ðế Quốc - G.c.D.



    Kỳ 57



    13



    Ba ngày, bốn ngày, năm ngày trôi qua: Zorba vẫn biệt tăm.

    Ngày thứ sáu, tôi nhận được một lá thư dầy từ Candia gửi về, đúng là một lá thư dông dài huyên thuyên nói chuyện trên trời dưới đất. Thư được viết trên những tờ giấy hồng thơm phức và trong góc tờ giấy có hình một trái tim bị một mũi tên xuyên qua.

    Tôi cẩn thận giữ gìn nó và tôi ghi lại một cách trung thành, giữ tất cả những thành ngữ trau chuốt rải rác đây đó trong thư. Tôi chỉ sửa lại những lỗi chính tả đáng yêu, Zorba cầm bút như một cái cuốc, hắn tấn công tờ giấy một cách tàn bạo, vì thế, tờ giấy thủng nhiều lỗ và bắn đầy mực.

    Kính thưa ông chủ, nhà tư bản!

    “Tôi cầm bút trước hết để hỏi xem sức khỏe của ông có được dồi dào như ý, còn về phần chúng tôi, cảm ơn Thượng Ðế, chúng tôi vẫn được như thường.

    “Lâu nay tôi ý thức được rằng tôi không đến thế gian này để trở thành một con ngựa hay một con bò. Chỉ có những con vật mới sống để ăn. Ðể thoát khỏi sự buộc tội trên, ngày đêm tôi tạo ra những công việc. Tôi phó mặc cơm áo hàng ngày cho một tư tưởng, tôi đảo ngược những phương ngôn tục ngữ và nói: ‘Thà làm con cuốc ốm nhom bơi lội trên ao hơn làm một con sẻ tròn quay trong lồng.’

    “Nhiều kẻ là những nhà ái quốc và điều đó không nguy hại gì cho họ cả. Tôi không phải là một nhà ái quốc, và sẽ không bao giờ là một nhà ái quốc, dầu điều đó nguy hại cho tôi thế nào mặc lòng. Ða số tin vào Thiên Ðàng và giữ một con lừa cột chắc ở đây. Tôi không có lừa, tôi tự do; tôi không sợ địa ngục, nơi con lừa của tôi phải chết; tôi cũng không hy vọng ở Thiên Ðàng, nơi nó sẽ phè phỡn tọng đầy xa-trục thảo. Tôi không có học thức, tôi không biết diễn tả, như ông hiểu tôi, ông chủ.

    “Nhiều kẻ sợ tính cách phù phiếm của sự vật! Tôi đã vượt qua điều đó. Nhiều kẻ suy nghĩ lao lung; tôi không cần suy nghĩ. Tôi không vui vẻ vì điều thiện cũng chẳng bực tức vì điều ác. Nếu tôi nghe nói người Hy Lạp đã lấy Constantinople, điều đó đối với tôi cũng chẳng khác nào người Thổ Nhĩ Kỳ đang chiếm Athenas.

    “Nếu căn cứ vào những lời nói nhăng nói cuội của tôi, ông cho rằng tôi đã trở nên hư đốn, xin ông hãy viết cho tôi. Tôi tới những nhà hàng ở Candia mua dây cáp về làm đường sắt treo và tôi đùa cợt.

    “Tại sao ông đùa cợt vậy, ông bạn? Người ta hỏi tôi. Nhưng làm sao có thể giải thích cho họ hiểu? Tôi cười bởi vì ngay lúc tôi dang tay ra để thử xem dây thép có tốt không, tôi nghĩ về bản thể con người, tại sao hắn đến trần gian này và hắn dùng để làm gì... không để làm gì hết, theo tôi. Không có gì khác biệt nếu tôi có vợ hay không có vợ, tôi lương thiện hay bất lương, tôi là quan Thổ Nhĩ Kỳ hay một tên phu khuân vác. Chỉ có tôi sống hay chết mới khác biệt mà thôi. Nếu ma quỉ hay Thượng Ðế triệu hồi tôi - ông muốn gì, ông chủ? đối với tôi ma quỉ và Thượng Ðế đều cá mè một lứa - tôi sẽ chết, tôi sẽ trở thành một xác chết hôi thối, tôi sẽ đầu độc mọi người và họ bắt buộc phải vùi tôi dưới ba tấc đất để khỏi chết ngạt.

    “Nhân đây, tôi sắp hỏi ông một điều làm tôi sợ hãi - điều duy nhất - và nó không cho tôi an nghỉ ngày đêm: tôi sợ tuổi già, ông chủ. Cầu trời tránh cho chúng ta khỏi điều đó! Chết chóc không có nghĩa gì hết, chỉ phào! Một tiếng và ngọn nến tắt là xong. Nhưng tuổi già là một điều ô nhục.

    “Tôi coi như một điều vô cùng nhục nhã khi phải thú nhận rằng mình già, và tôi cố gắng hết sức để người không biết rằng mình già: tôi nhẩy nhót, khiêu vũ, thận tôi đau xóc, nhưng tôi vẫn nhẩy. Tôi nhậu, tôi choáng váng, trời đất quay cuồng nhưng tôi không chịu ngồi xuống, và tôi làm như không hề hấn gì. Tôi vã mồ hôi, tôi nhào xuống biển, tôi cảm lạnh, tôi muốn ho gu! Gu! Cho thoải mái, nhưng tôi xấu hổ, ông chủ, tôi dằn cơn ho. Có bao giờ ông nghe thấy tôi ho không? Không bao giờ! Và không phải chỉ khi có mặt người khác, như người ta nghĩ, mà cả khi chỉ có một mình tôi nữa, tôi cũng không ho. Tôi xấu hổ trước Zorba, ông chủ, tôi xấu hổ trước hắn!

    “Một hôm, trên núi Athos - bởi tôi cũng có lên đó nữa, và tôi thà chặt bàn tay phải còn khỏe hơn! - tôi gặp một tu sĩ, Cha Lavrentio, sinh quán ở Chios. Thật là một kẻ đáng thương, lão tưởng đó là một quỉ trong lão và lão đặt tên nó là Hodja. ‘Hodja muốn ăn thịt ngày Thứ Sáu thiêng liêng! Cha Lavrentio đáng thương vừa rống lên vừa đập đầu xuống thềm nhà thờ. Hodja muốn ngủ với một người đàn bà, Hodja muốn giết tu viện trưởng. Ðó là Hodja, chứ không phải tôi!’ Và lão đập đầu trên tảng đá.

    “Tôi cũng vậy, ông chủ, tôi cũng có một con quỉ trong tôi và tôi gọi nó là Zorba. Tên Zorba bên trong không muốn già chút nào, và hắn không già, sẽ mãi mãi không già. Hắn là một ông ngáo ộp, tóc đen như mun, có ba mươi hai số (số: 32) răng, và một con mắt nhỏ đỏ đòng đọc sau tai. Nhưng tên Zorba bên ngoài, gã vô phước đó, hơi già đi và có vài sợi tóc bạc. Hắn teo lại và nhăn nheo, răng hắn rụng và cái tai voi của hắn đầy lông trắng của tuổi già, những cái lông dài!”

    Kỳ 58



    “Làm sao bây giờ, ông chủ? Tới bây giờ hai tên Zorba đánh nhau? Kẻ nào thắng? Nếu tôi sớm ngoẻo, hay lắm, tôi không lo âu gì cả. Nhưng nếu tôi tiếp tục sống dai dẳng, tôi lúa rồi. Tôi lúa rồi, ông chủ, một ngày kia tôi sẽ trở thành đê hèn nhục nhã.

    Tôi sẽ mất tự do: Con dâu tôi và con gái tôi ra lệnh cho tôi chăm nom một con khỉ con, một con quái vật kinh khủng, hậu duệ của chúng, để nó đừng phải bỏng đừng ngã, đừng chơi bẩn. Và nếu có chơi bẩn, chúng sẽ bắt rửa ráy cho nó! Khiếp!

    Ông cũng sẽ phải chịu số phận nhục nhã tương tự, ông chủ, dầu ông còn trẻ. Ông hãy coi chừng! Hãy nghe điều tôi nói với ông, hãy theo con đường như tôi. Không có cách cứu chuộc nào khác; hãy đi vào trong núi, khai mỏ than, đồng, sắt, kẽm, kiếm cho thật nhiều tiền và cho họ hàng kính nể chúng ta, cho tất cả những tên tai mặt lớn ngả mũ chào chúng ta. Nếu chúng ta không thành công, ông chủ, thà chết, thà bị chó sói, hùm beo hay bất cứ con mãnh thú nào trong rừng ăn thịt còn hơn. Vì lẽ đó Thượng đế chí tôn sinh ra mãnh thú để vồ những kẻ như chúng ta, để họ khỏi trở nên quá đê hạ.”

    Chỗ này Zorba vẽ bằng bút chì mầu một người cao lớn, ốm nhom, đang chạy dưới rặng cây xanh với bầy con sói đỏ đeo bén gót, và ở dưới hàng chữ: “Zorba và bẫy Tội Trọng” viết bằng chữ lớn.

    Ðoạn hắn viết tiếp:

    “Căn cứ vào thư tôi, chắc ông cũng hiểu tôi là kẻ bất hạnh như thế nào. Chỉ khi nào nói với ông nỗi u uẩn của tôi mới có cơ khuây khỏa đôi phần. Bởi ông cũng giống hệt như tôi, có điều ông không biết đấy thôi. Ông cũng có một con quỉ trong ông, nhưng ông không biết tên nó, và, vì không biết ông ngộp thở. Ðặt tên cho nó, ông chủ, và ông sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

    Tôi đã nói tôi là một kẻ bất hạnh. Tôi có thể nhìn thấy rõ rằng tất cả trí thông minh của tôi chủ là sự ngu dại không hơn không kém. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi cũng trải qua những ngày có những ý nghĩ cực kỳ cao viễn, và nếu tôi có thể thực hiện điều đó Zorba bên trong ra lệnh, cả thế giới sẽ sửng sốt!

    Thấy rằng tôi không ký giao kèo hữu hạn với đời tôi, tôi phải phanh xuống con dốc nguy hiểm nhất. Ðời người là một con đường có lên đèo xuống dốc. Tất cả những người khôn ngoan đều tiến lên với một cái thắng. Nhưng tôi, và đây là giá trị của tôi, ông chủ, tôi phá hủy cặp thắng của tôi từ lâu rồi, bởi sự lắc xóc không làm tôi sợ hãi chút nào. Thợ máy chúng tôi gọi sự trật đường ray là xóc. Trời đánh nếu tôi để ý tới những cái lắc xóc này. Ðêm ngày tôi đâm bổ hết ga về phía trước tôi làm bất cứ điều gì tôi thích: Thây kệ nếu tôi tan như xác pháo. Tôi có gì để mất? Không có gì cả. Bằng cách nào đi nữa, dầu tôi thung dung bước tới, cuối cùng tôi không phải xuôi tay nhắm mắt sao? Dĩ nhiên là có! Vậy chúng ta hãy đốt giai đoạn!

    Tôi chắc bây giờ ông đang cười tôi, ông chủ, nhưng tôi cứ viết cho ông những sự u mê của tôi, hay, nếu ông thích, những suy tư của tôi hay những sự yếu đuối của tôi thì cũng vậy - quả thực tôi không thấy có sự khác biệt nào giữa ba điều ấy - tôi cứ viết và ông, ông cứ cười nếu ông thích. Tôi cũng cười khi nghĩ rằng ông cười tôi, và vì thế sự tiếu ngạo không bao giờ dứt trên thế gian. Mỗi người đều có cái điên cuồng riêng, nhưng nỗi điên cuồng lớn nhất, theo tôi, là không có một nỗi điên cuồng nào.

    Bởi thế tôi đang xem xét nỗi điên cuồng của tôi ở đây, tại Candia, và tôi viết tỉ mỉ cho ông, ông chủ, bởi tôi muốn hỏi ý kiến ông. Ông còn trẻ thật, nhưng ông đã đọc sách thánh hiền và ông đã thành, xin ông thứ lỗi, một ông cụ non; vì thế, tôi cần những lời khuyên bảo của ông.

    Vâng, tôi nghĩ rằng mỗi người có một hơi hám riêng của mình. Chúng ta không phân biệt được vì những hơi hám trộn lẫn với nhau và chúng ta không biết mùi nào của ông, mùi nào của tôi, thực thế... Chúng ta chỉ biết rằng có một mùi hôi thối lắm và đó là cái người ta gọi là “nhân loại”, tôi muốn nói: Mùi hôi thối nhân loại. Không thiếu gì những kẻ hít lấy hít để cái mùi đó như thể đó là mùi lan huệ. Riêng tôi, mùi đó làm tôi muốn mửa. Nhưng thôi, đó là chuyện khác.

    Tôi chỉ muốn nói - và tôi lại sắp nhả thắng một lần nữa - rằng những con đàn bà đĩ thõa có những cái mũi ướt như mũi chó, và chúng đánh hơi thấy ngay người đàn ông nào thèm muốn chúng và người nào không thèm chúng. Bởi thế trong bất cứ thành phố nào tôi đặt chân tới, ngay cả bây giờ, già cú đế và xấu xa như một con khỉ đột, quần áo lôi thôi, tôi cũng luôn luôn có hai ba con đàn bà chạy theo đuôi. Chúng hít hơi tôi, mấy con chó. Cầu Thượng Ðế ban phước lành cho chúng!

    Ngày đầu tiên tôi an toàn đến Candia vào lúc nhọ mặt người. Tôi chạy ngay tới mấy tiệm buôn nhưng tất cả đều đóng cửa. Tôi vào một lữ quán, cho la ăn tôi cũng ăn uống, rửa ráy. Tôi châm một điếu thuốc và đi dạo một tua. Tôi không biết một ma mãnh nào trong tỉnh và cũng chẳng ma nào biết tôi; tôi hoàn toàn tự do. Tôi có thể huýt gió trong phố, cười nói một mình. Tôi mua một ít passa-tempo (*), tôi nhằn, nhổ và mặc sức lang thang. Ðèn đường bật sáng, đàn ông uống rượu khai vị, đàn bà trở về nhà, không khí ngát mùi son phấn, xà phòng thơm, rượu hồi hương và souvlakia (**).Tôi tự nhủ: “Này lão Zorba kia, mi hy vọng sống với hai cánh mũi phập phồng đó bao lâu nữa? Mi không còn nhiều thì giờ để hít thở không khí nữa đâu đấy nhé. Tiếp tục đi, ông bạn già, hít thở cho thẳm sâu vào!”



    (*) Hạt bầu rang.

    (**) Găm thịt nướng - G.c.D



    Kỳ 59



    “Tôi tự nhủ như vậy trong khi đi lên đi xuống cái công trường lớn mà ông đã biết. Ðột nhiên, tôi nghe thấy tiếng kêu la, khiêu vũ, trống, và mấy điệu hát Ðông Phương.

    Tôi lắng nghe và chạy tới nơi huyên náo. Ðó là một quán café - ca nhạc. Tôi chỉ muốn có thế. Tôi bước vào quán, ngồi xuống một cái bàn nhỏ ngay phía trước. Tại sao tôi lại phải dụt dè? Như tôi đã nói với ông, chẳng có ma nào biết nói, tôi hoàn toàn tự do!”

    “Một mụ đàn bà to lớn vụng về đang nhẩy trên bục, mụ vén váy ưỡn ẹo, nhưng tôi không để ý. Tôi gọi một chai bia, rồi một con gà mái tơ đến ngồi bên tôi. Nàng dễ thương, da hung nâu, trát phấn lòe loẹt bằng một cái bay. “Nội cho phép?” Nàng vừa cười vừa hỏi.

    “Máu tôi bốc lên đầu. Tôi phát điên muốn vặn cổ nó ngay, con bé trơ tráo! Nhưng tôi dằn lòng, tôi cảm thấy thương hại cái ‘giống cái’, tôi gọi bồi:

    ‘Hai chai champagne!’

    Ông chủ phải thứ lỗi cho tôi! Tôi đã tiêu phí tiền ông, nhưng thực là một điều sỉ nhục ghê gớm, phải cứu vãn danh dự của tôi, phải bắt con bé ngạo mạn này quì trước mặt chúng ta! Bắt buộc phải làm như vậy. Tôi không biết bao giờ ông lại để tôi thiếu tự vệ như vậy, vào giây phút khó khăn này! Bởi vậy, ‘Hai chai champagne, bồi!’

    Rượu champagne tới, tôi cũng gọi bánh ngọt đàng hoàng và lại gọi thêm champagne nữa. Một gã mang hoa nhài đi tới, tôi mua cả thúng và đổ vào lòng con ranh con dám sỉ nhục chúng ta.

    Chúng tôi uống hết ly này đến ly khác, nhưng tôi xin thề, ông chủ, tôi không hề đụng tới con nhỏ. Tôi biết thân tôi. Khi tôi còn trẻ, việc đầu tiên tôi làm là cấu véo và đùa giỡn với họ. Bây giờ già cả, việc đầu tiên mà tôi làm là chi tiền, nịnh đầm, tiêu tiền như rác. Ðàn bà thích được chiều chuộng như vậy. Mấy con đượi phát điên lên vì những cung cách đó, và ông tha hồ gù lưng, lẩy bẩy, xấu như ma, họ quên hết. Họ không nhìn thấy gì khác, mấy con đĩ, ngoài bàn tay vung tiền như nước. Bởi vậy, như tôi đã nói, tôi tiêu mất một món tiền lớn - cầu Thượng Ðế ban phước lành cho ông và trả lại cho ông gấp trăm lần, ông chủ, - và con đượi không chịu rời tôi ra nữa. Nó xích lại dần dần, nó kề cái đầu gối nhỏ bé của nó vào hai cẳng chân xương xẩu to lớn của tôi. Nhưng tôi giống như hệt một tảng băng, mặc dầu bên trong tôi nóng bỏng và bứt rứt. Ðó là cái làm cho đàn bà điên đầu, ông phải biết điều đó phòng khi gặp trường hợp tương tự, rất có lợi cho ông: Ðể họ cảm thấy rằng ông đang sôi sục bên trong tuy nhiên ông không thèm đụng tới họ!”

    Ðã quá nửa đêm. Ðèn bắt đầu tắt, quán café-ca nhạc đóng cửa. Tôi móc túi lấy ra một tờ giấy một ngàn drachma, trả tiền và cho bồi một món tiền nước hậu hỹ. Con nhỏ bám sát lấy tôi. “Anh tên gì? nó hỏi tôi bằng một giọng đắm đuối mê mệt - Ông nội!” Tôi bực mình đáp!

    “Con đĩ non véo tôi một cái rõ đau và thì thầm: “Ði với em... đi với em...”

    “Tôi cầm bàn tay nhỏ xíu của nó, siết chặt một cách rất điệu và trả lời: “Ði thì đi, cục cưng của tôi...” Giọng của tôi khàn khàn.

    “Phần còn lại, ông có thể tưởng tượng lấy, ông chủ. Chúng tôi làm công việc của chúng tôi. Rồi chúng tôi lăn ra ngủ. Khi tôi thức dậy, ít ra là mười hai giờ trưa rồi. Tôi nhìn quanh, và tôi thấy gì? Một gian phòng nhỏ xinh xinh, sạch sẽ, ghế bành, lavabo, xà bông thơm, ve lọ to nhỏ, gương lớn gương con, váy màu sặc sỡ mắc trên tường và đủ thứ hình: thủy thủ, sĩ quan, tướng tá, cảnh sát vũ nữ, đàn bà với một bộ đồ duy nhất trên giường, một đôi dép nhỏ. Và bên cạnh tôi, trên giường một con cái ấm áp, thơm tho, tóc rối.”

    “A! Zorba, tôi vừa khẽ nhủ thầm vừa nhắm mắt lại, mi đã vào Thiên Ðàng ngay khi còn sống! Ðây là một nơi thú vị, đừng có nhúc nhích!”

    “Ông chủ, tôi đã có lần nói với ông rằng mỗi người có một thiên đàng riêng. Với ông, Thiên Ðàng sẽ chứa đầy sách và những bình mực lớn. Với kẻ khác, nó sẽ chứa đầy những thùng rượu vang, rhum, cognac. Với kẻ khác nữa, nó chất hàng đống tiền. Thiên Ðàng tôi là một gian phòng nhỏ thơm ngát với những xiêm y rực rỡ, những bánh xà phòng thơm, một cái giường rộng với những cái lò-xo thật tốt và bên cạnh tôi, một người đàn bà.”

    “Tội lỗi thú thực được tha thứ nửa phần.” Suốt ngày tôi không thò mặt ra ngoài. Ông thử nghĩ xem đi đâu? Làm gì mới được chứ? Tôi đang sung sướng nơi đây! Tôi sai người tới một lữ quán thượng hạng đặt thức ăn và họ mang tới cho chúng tôi một khay thực phẩm, toàn những đồ ăn bổ dưỡng: Trứng cá muối đen, thịt sườn, cá, nước chanh vắt, cadaif (*).Chúng tôi lại làm ái tình một lần nữa và ngủ thêm một giấc. Buổi tối chúng tôi thức dậy, mặc quần áo và khoác tay nhau tới quán café-ca nhạc nơi nàng làm việc.



    (*) Bánh ngọt Thổ Nhĩ Kỳ gồm hạnh nhân, hạt đỏ, mật ong...

    Kỳ 60



    “Ðể nói vắn tắt và khỏi làm rườm tay ông, chương trình này vẫn tiến hành đều. Nhưng ông đừng lo, ông chủ, tôi vẫn để ý chăm lo công việc của chúng ta. Thỉnh thoảng tôi ngó qua các cửa hàng. Tôi sẽ mua dây cáp và tất cả những vật dụng cần thiết, ông hãy an tâm. Sớm hơn một ngày hay chậm hơn một tuần, ngay cả một tháng đi nữa thì cũng có gì quan trọng đâu? Như người ta nói, con mèo trong lúc vội vàng, đẻ con không què thì thọt. Vậy chúng ta đừng hối hả. Vì lợi ích của ông, tôi chờ cho tai tôi thính, tinh thần tôi tỉnh táo để khỏi bị lường gạt. Dây cáp phải là thứ tốt nhất nếu không chúng ta mất nghiệp. Vậy hãy kiên nhẫn một chút, ông chủ, và hãy tin cậy nơi tôi.”

    “Nhất là ông đừng lo cho sức khỏe của tôi. Những cuộc phiêu lưu rất có ích cho tôi. Trong vòng vài ngày tôi đã trở thành một thanh niên đôi mươi trở lại. Tôi khỏe đến nỗi tôi sắp mọc lại răng, thận tôi hơi bị đau, nhưng bây giờ tôi khỏe như vâm. Mỗi buổi sáng soi gương, tôi ngạc nhiên sao tóc mình chưa đen bóng trở lại như giầy đánh xi từ đêm qua.”

    “Nhưng có thể ông sẽ tự hỏi tại sao tôi lại viết cho ông tất cả những điều đó. Bởi vì đối với tôi ông gần như một vị linh mục nghe xưng tội và tôi không xấu hổ khi thú nhận với ông tất cả tội lỗi của tôi. Ông có biết tại sao không? Theo tôi biết, tôi làm việc phải hay trái, ông đều coi như không. Ông cũng có một miếng bọt biển thấm nước, như Thượng Ðế chí tôn, và pháp! Phốp! Thiện ác tốt xấu bị xóa hết. Ðó là điều khiến tôi có can đảm nói với ông hết. Bởi thế, ông nghe đây!”

    “Ðầu óc tôi đảo điên và tôi sắp hoàn toàn mất trí. Vậy xin ông cầm bút viết cho mấy chữ ngay sau khi nhận được lá thư này. Tôi sẽ tiếp tục ngồi trên dầu sôi lửa bỏng cho đến khi nhận được thư trả lời của ông. Tôi nghĩ rằng từ bao năm nay tên tuổi tôi đã bị xóa trong cuốn sổ của Thượng Ðế. Trong sổ của ma quỉ cũng vậy. Chỉ có trong cuốn sổ của ông, tôi nghĩ là còn ghi tên tôi, bởi vậy tôi không còn ai ngoài các hạ để giải bầy; vậy xin lắng nghe điều tôi sắp thố lộ. Và đây là câu chuyện xẩy ra:

    Hôm qua, có một cuộc lễ trong một thôn làng gần Candia, ma quỉ bắt tôi nếu tôi biết ngày lễ ông thánh nào! Lola - a! Quả thật tôi đã quên chưa giới thiệu nàng với ông: Tên nàng là Lola - nàng bảo tôi:

    ‘Ông Nội ơi!’ (Nàng lại gọi tôi là ông nội, nhưng bây giờ đó là một cái tên âu yếm, ông chủ). ‘Ông Nội ơi, em muốn đi xem lễ!’

    ‘Vậy thì đi đi, Bà Nội, đi đi,’ tôi bảo nàng.

    ‘Nhưng em muốn đi với anh cơ.’

    ‘Anh không đi đâu. Anh không ưa thần thánh. Vả lại anh còn có công chuyện. Em đi một mình đi.’

    ‘Thôi, nếu thế em cũng không đi nữa.’

    Tôi trợn mắt ngó nàng:

    ‘Em không đi nữa à? Tại sao vậy? Em không thích đi sao?’

    ‘Nếu anh đi với em, em sẽ đi. Nếu anh không đi, em cũng không đi.’

    ‘Sao vậy? Em không phải là một người tự do sao?’

    ‘Hông!’

    Tôi tưởng tôi nghe nhầm.

    ‘Em không muốn tự do à?’ Tôi kêu lên.

    ‘Không, em không muốn tự do! Em không muốn tự do!’

    ‘Ông chủ, tôi đang viết cho ông trong phòng Lola, trên giấy của Lola; vì Thượng Ðế, xin ông hãy lắng nghe. Tôi nghĩ rằng chỉ có kẻ muốn tự do mới là người thôi. Ðàn bà không muốn tự do. Vậy, đàn bà có phải là người không?’

    Xin ông làm ơn trả lời tôi ngay. Hôn ông, ông chủ tốt nhất của tôi.”

    Tôi Alexis Zorba

    Khi tôi đọc xong thư của Zorba, tôi bối rối một lát. Tôi không biết mình nên giận, nên cười hay nên thán phục con người sơ khai đã đập vỡ cái vỏ của cuộc đời - luận lý, luân lý, tính lương thiện - này và đạt tới cái cốt tủy. Tất cả những đức tính nhỏ bé, rất ít dụng đều thiếu ở nơi hắn. Hắn chỉ có một đức tính bất tiện, khó khăn và nguy hiểm không ngừng thôi thúc hắn và lôi cuốn hắn một cách không cưỡng chế được về những giới hạn cùng cực, về vực thẳm.

    Khi viết, người lao công này bóp vỡ những cây bút trong cơn hung hăng bất nhẫn. Tựa những người đầu tiên trút lớp da khỉ, hay như những đại triết gia, hắn bị chế ngự bởi những vấn đề căn bản của nhân loại. Hắn sống những vấn đề ấy như những nhu cầu cấp thiết tối sơ. Giống như đứa trẻ, hắn nhìn vạn vật lần thứ nhứt. Hắn không ngừng sửng sốt và kinh ngạc. Tất cả đối với hắn đều kỳ diệu, và mỗi buổi mai khi mở mắt và nhìn cây cối, biển đá, chim, hắn đều thảng thốt kinh dị.

    “Phép lạ nào đây? Hắn la lên. Những sự huyền bí gọi là cây, biển, đá, chim là gì?”

  5. #11
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 61



    Tôi còn nhớ một hôm trên đường về làng, chúng tôi gặp một lão già nhỏ thó cưỡi một con la. Zorba trố mắt nhìn con vật. Cặp mắt hắn chắc phải bốc lửa và tia nhìn của hắn mãnh liệt đến nỗi lão nông phu hoảng sợ kêu lên:

    - Lạy Chúa đừng nhìn nó một cách độc ác!

    Và lão làm dấu thánh giá.

    Tôi quay sang hỏi Zorba:

    - Bác làm gì lão già thế khiến lão kêu lên như vậy?

    - Tôi hả? Tôi có làm gì lão đâu! Tôi chỉ nhìn con la, thế thôi! Ông không ngạc nhiên sao, ông chủ?

    - Ngạc nhiên gì?

    - A... ngạc nhiên vì có những con vật như con la trên trái đất.

    Một bữa khác, tôi nằm dài trên bãi biển đọc sách, Zorba đến ngồi trước mặt tôi, đặt cây santuri trên đầu gối và bắt đầu chơi. Tôi ngẩng lên nhìn hắn. Khuôn mặt hắn dần dần thay đổi và một nguồn vui man rợ xâm chiếm hắn, hắn lúc la lắc lư cái cổ nhăn nheo và cất tiếng hát.

    Những bài hát Mecedonia, Klepht, những tiếng kêu man rợ, cái cổ họng nhân loại trở lại thời tiền sử, khi tiếng thét là một tổng hợp vĩ đại chứa đựng tất cả những cái mà ngày nay chúng ta gọi là thi ca âm nhạc và tư tưởng. “Ác! Ác!” Tiếng thét bốc lên từ đáy lòng Zorba, và toàn thể cái vỏ mỏng của chúng ta gọi là văn minh rách toang cho con mãnh thú bất tử, vị thần lông lá, con khỉ đột khủng khiếp bước ra.

    Than bùn, lỗ lãi, mụ Hortense, và những dự định tương lai biến mất. Tiếng thét cuốn đi mất tất cả, chúng tôi không cần gì nữa. Bất động trên bãi biển Crete cô liêu này, cả hai chúng tôi cùng giữ trong lồng ngực tất cả nỗi dịu dàng và cay đắng của cuộc đời. Nỗi dịu dàng và cay đắng không tồn tại nữa. Mặt trời lặn, đêm xuống, chòm Ðại Hùng Tinh nhẩy nhót xung quanh cái trục bất động của bầu trời, trăng lên và sợ hãi nhìn hai con vật nhỏ li ti đang ca hát trên cát và coi trời bằng vung.

    - A! Con người là một con dã thú! Zorba thốt nhiên kêu lên, bị kích động vì tiếng hát. Liệng sách đi. Ông không biết xấu hổ sao? Con người là một con dã thú, và dã thú không đọc sách.

    Hắn im lặng một lát, đoạn cất tiếng cười:

    - Ông có biết Thượng Ðế tạo ra con người bằng cách nào không? Ông có biết những tiếng đầu tiên mà con vật người nói với Thượng Ðế là những tiếng gì không?

    - Không, làm sao tôi biết được? Tôi không có mặt ở đấy.

    - Tôi có mặt ở đấy! Zorba la lên, mắt long lanh.

    - Sao nữa, nói đi!

    Nửa xuất thần, nửa nhạo báng, hắn bắt đầu bịa thần thoại về sự sáng tạo con người:

    - Rồi, nghe đây, ông chủ! Một buổi sáng, Thượng Ðế phiền muộn thức giấc. “Ta là Thượng Ðế cóc khô! Ta chẳng có được một thằng người nào để tán dương ta hay nhân danh ta thề thốt để ta tiêu khiển! Ta đã chán ở mãi một mình như một con cú già rồi!” Ngài nhổ vào tay, xắn tay áo, đeo kính, lấy một nắm đất nhổ lên làm thành bùn, nhồi nặn thành một thằng người nhỏ xíu và đặt ra ngoài nắng.

    “Bẩy ngày sau, Ngài mang nó vào. Nó đã khô cứng. Thượng Ðế nhìn nó cười: ‘Ma quỉ bắt ta, đây là một con lợn đứng trên hai chân sau! Ðây không phải là cái ta định làm chút nào! Ta làm hỏng mẹ nó mất rồi!’”

    “Ngài nắm lấy da cổ nó xách lên và đá vào mạng mỡ nó: ‘Ði đi, cút xéo nó! Tất cả công việc của mi bây giờ là tạo ra những con lợn con, trái đất thuộc về mi đó. Chuồn đi! Một hai! Một hai, đằng trước bước!’”

    “Nhưng, ông thấy không, đó không phải là một con lợn. Nó đội một cái mũ mềm; một cái áo khoác cẩu thả trên hai vai, một cái quần dài có một nếp gấp, một đôi giầy hàm ếch với những búp len đỏ. Và trong thắt lưng nó - đúng là ma quỉ đã cho nó cái này - một con dao găm sắc với hàng chữ: ‘Tao sẽ giết mày!’”

    “Ðó là con người. Thượng Ðế chìa tay ra cho kẻ kia hôn, nhưng con người vuốt ria và nói: ‘Ði đi, lão già, tránh đường cho ta đi qua!’”

    Zorba ngừng lại khi thấy tôi phá lên cười. Hắn nhăn mặt nói:

    - Ðừng cười! Chuyện đó hoàn toàn có thực!

    - Nhưng tại sao bác biết?

    - Tôi cảm thấy như vậy và tôi sẽ làm như vậy nếu tôi ở địa vị Adam. Chặt đầu tôi đi nếu Adam làm khác. Ông phải tin tôi, đừng tin vào mấy cuốn sách nhảm nhí của ông!

    Không chờ câu trả lời, hắn duỗi bàn tay hộ pháp ra và lại tiếp tục chơi santuri.

    Tôi vẫn cầm lá thư thơm ngát của Zorba với trái tim bị một mũi tên xuyên qua và tôi sống lại tất cả những ngày đó, đầy chất người mà tôi đã sống bên hắn. Bên cạnh Zorba thời gian có một hương vị khác. Nó không còn là một chuỗi biến cố có tính cách toán học, cũng không còn là một vấn đề triết lý nan giải nội tại. Ðó là cát nóng, dây kỹ, và tôi cảm thấy nó dịu dàng luồn qua những kẻ ngón tay tôi.

    - Cầu trời ban phước lành cho Zorba! Tôi thì thầm. Hắn đã cho tất cả những ý niệm trừu tượng đang run rẩy trong ta một thân thể nóng ấm, sống động, thân yêu... khi hắn không có mặt ở đây, ta lại bắt đầu ớn lạnh.

    Tôi lấy một mảnh giấy, gọi một công nhân và gửi một điện tín khẩn cấp:

    “Về ngay.”
    Kỳ 62



    14



    Chiều Thứ Bảy, mồng một Tháng Ba. Tôi tỳ trên một tảng đá trông ra biển, viết. Ngày hôm đó, tôi trông thấy con én đầu tiên và tôi hân hoan. Lễ yểm trừ Ðức Phật vẫn tiếp tục trên giấy không gặp một trở ngại nào, cuộc chiến đấu chống lại Ngài dịu dần, tôi không còn hấp tấp nữa và tôi tin chắc vào sự giải thoát của tôi.

    Ðột nhiên tôi nghe thấy tiếng chân trên sỏi.

    Tôi ngẩng đầu lên và thấy mụ ngư nữ già đang lần như trái banh trên bờ biển, chưng diện như một cái tầu buồm cổ xưa. Mụ nóng hổi và thở hổn hển. Mụ có vẻ có điều gì lo lắng.

    - Có thư phải không? Mụ lo âu hỏi.

    - Vâng! Tôi vừa cười vừa trả lời, và tôi đứng lên đón mụ. Hắn hỏi thăm bà, hắn nói đêm ngày hắn nghĩ đến bà. Hắn không thể ăn ngủ được và hắn không thể chịu được sự cách biệt này.

    - Anh ấy chỉ viết có thế thôi sao? Mụ đàn bà bất hạnh hổn hển hỏi.

    Tôi thương hại mụ. Tôi móc túi lấy lá thư và giả vờ đọc. Mụ ngư nữ già há hốc cái miệng móm mém, đôi mắt ti hí của mụ chớp chớp và mụ nín thở nghe.

    Tôi làm bộ đọc, và vì tôi bối rối, tôi làm như chữ viết khó đọc: “Ông chủ, hôm qua tôi vào ăn tại một quán ăn bình dân. Tôi đói. Tôi thấy một thiếu nữ rất đẹp đi vào, đúng là một nữ thần... Lạy Chúa! Nàng giống Bouboulina của tôi làm sao! Thế là lập tức nước mắt tôi trào ra như suối, tôi nghẹn ngào, không tài nào nuốt nổi! Tôi đứng dậy, trả tiền và bước ra. Và tôi, kẻ năm thì mười họa mới nghĩ đến thần thánh thế mà tôi bị xúc động đến nỗi tôi chạy ngay tới nhà thờ Thánh Minas thắp một cây nến, ông chủ. Tôi khấn: ‘Thánh Minas, cho con nhận được tin lành của thiên thần con yêu. Cho cánh chúng con sớm liền nhau!’”

    - Hi! Hi! Hi! Mụ Hortense cười, khuôn mặt rạng rỡ.

    - Tại sao bà cười? Tôi vừa hỏi vừa dừng lại để lấy hơi và bịa những câu nói dối mới. Tại sao bà cười? Ðiều đó khiến tôi phát khóc.

    - Nếu ông biết... nếu ông biết... mụ phì cười.

    - Biết gì?

    - Cánh... là cái lão đểu giả đó gọi là chân. Hắn gọi như vậy khi chúng tôi ở một mình với nhau. Cho cánh chúng tôi sớm liền nhau, hắn nói... Hi! Hi! Hi!

    - Nghe tiếp đây đã, bà còn ngạc nhiên hơn nữa...

    Tôi lật sang trang và lại giả vờ đọc:

    “Và hôm nay, tôi đi ngang một tiệm hớt tóc. Ngay lúc đó, người thợ hớt tóc đem đổ chậu xà phòng ngay trước cửa tiệm. Cả phố thơm nức. Tôi lại nghĩ đến Bouboulina của tôi và tôi bắt đầu khóc. Tôi không thể xa nàng lâu hơn nữa, ông chủ... Tôi sắp phát điên. Xem đây, tôi còn làm thơ nữa đây này. Hôm kia, tôi không ngủ được và tôi làm một bài thơ tặng nàng. Phiền ông chủ đọc cho nàng nghe để nàng thấy tôi đau khổ đến mức nào:

    A! Nếu chúng ta có thể gặp nhau trên một đường mòn.

    Con đường đủ rộng chứa vừa nhớ thương!

    Dù thân anh nát như tương.

    Thịt xương rời rã vẫn lên đường kiếm em!”

    Mụ Hortense, mắt lờ đờ lim dim, sung sướng, hết sức chăm chú lắng nghe. Mụ còn gỡ giải băng vướng cổ để cho những nét nhăn tự do một lát.

    Mụ mỉm cười yên lặng. Sung sướng và mãn nguyện tâm hồn mụ dường như bay bổng tới tận trời xanh.

    Tháng Ba, cỏ non, hoa đỏ, vàng, tía đua chen nước trong vắt nơi thiên nga trắng và đen vừa giao hợp vừa ca hát líu lo. Con cái trắng, con đực đen, mỏ hồng hé mở. Những con cá chình xanh lóng lánh, chồi lên khỏi mặt nước quấn quanh những con rắn vàng. Mụ Hortense trở lại tuổi mười bốn, nhảy múa trên những tấm thảm Ðông Phương ở Alexandria, Beirut, Smyrna, Constanople, và rồi ở Crete, trên những boong tầu bóng lộn... Mụ không thể nhớ rõ. Tất cả pha trộn với nhau, ngực mụ rướn lên, bờ biển rạn nứt.

    Rồi thình lình, trong khi mụ nhảy múa, biển tràn ngập những thuyền mũi bằng vàng, trên boong đầy những lều muôn màu và soái kỳ bằng lụa. Một đoàn quan Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi lều với những búp bằng vàng trên mũ fez, một đoàn quan Tổng Ðốc Thổ Nhĩ Kỳ giàu có, tay đầy quà tặng đắt tiền với những cậu con trai mặt mày ủ rũ của họ. Có cả những thủy sư đô đốc, mũ ba góc bóng loáng và những thủy binh với cổ áo trắng tinh và quần rộng phất phới, theo sau là những thanh niên Crete, quần cụt phồng bằng dạ xanh tươi, giầy ống vàng, và khăn tay đen chit quanh đầu. Cuối cùng là Zorba, vĩ đại hơi gầy đi một chút vì làm ái tình nhiều, một cái nhẫn hỏi lớn ở ngón tay, một vòng hoa cam trên mái tóc hoa râm...

    Trên tầu không thiếu một người nào mụ quen trong suốt cuộc đời trôi nổi phiêu bạt của mụ, ngay cả cái lão lái đò răng thưa, lưng còng một đêm đã đưa mụ dạo trên sông nước Constantinople. Ðêm xuống và không ai nhìn thấy họ. Tất cả, tất cả đều đi ra, trong khi đàng sau họ, những con cá chình, rắn, thiên nga đang giao hợp với nhau.

    Kỳ 63



    Họ đi ra gặp mụ, hợp thành đoàn như những con rắn đa tình mùa Xuân, vừa vươn lên chập thành một bó vừa huýt gió. Và ở giữa, trần truồng, trắng toát, mồ hôi nhễ nhại, miệng hé mở lộ những chiếc răng nhọn, bất động, khao khát, ngực rướn lên, một mụ Hortense mười bốn, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, sáu mươi xuân xanh đang huýt sáo.

    Không có gì mất đi, không một người tình nào chết. Trong bộ ngực khô héo của mụ họ đều hồi sinh, trong mũ áo uy nghi. Như thể mụ Hortense là một con tầu ba cột buồm quí phái và tất cả những tình nhân của mụ - mụ đã thấy trong bốn mươi nhăm năm hành nghề - trèo lên mụ, leo vào hầm tầu, trên mạn tầu, trong đám dây thừng ở cột buồm, trong khi mụ lướt sóng về bờ đến cuối cùng khát vọng bấy lâu: hôn nhân. Và Zorba mang một ngàn khuôn mặt: Thổ Nhĩ Kỳ, Âu Châu, Armenia, Ả Rập, Hy Lạp và, trong khi ôm hắn, mụ Hortense ghì trọn đám rước thiêng liêng, bất tận...

    Mụ ngư nữ già đột nhiên nhận thấy tôi đã dừng lại; viễn ảnh của mụ thình lình bị chận lại, mụ nhướng mi mắt nặng trĩu lên:

    - Anh ấy không nói gì nữa à? Mụ vừa trách móc hỏi vừa liếm môi cách thèm thuồng.

    - Bà muốn gì nữa, bà Hortense? Bà không thấy sao? Tất cả lá thư chỉ nói về bà. Này nhìn đây, hai con chim bồ câu hôn nhau, trên cánh chúng, hai chữ nhỏ li ti, viết bằng mực đỏ, đan vào nhau: Hortense-Zorba!

    Chẳng có bồ câu mà cũng chẳng có chữ nhưng đôi mắt ti hí của mụ ngư nữ già đầy nước mắt nhìn thấy tất cả cái gì chúng muốn.

    - Không còn nữa sao? Không còn gì nữa sao? Mụ chưa thỏa mãn hỏi lại.

    Cánh, nước xà bông, tiệm hớt tóc, đôi bồ câu nhỏ - tất cả rất tốt đẹp, nhưng tất cả chỉ là danh từ hoa mỹ là hư không. Ðầu óc thực tiễn đàn bà của mụ đòi hỏi một cái khác, một cái gì chắc chắn hơn, có thể sờ mó được. Trong đời mụ, mụ đã nghe những lời hoa mỹ ấy biết bao lần rồi! Và mụ rút tỉa được gì từ những lời nói ấy? Sau bao năm làm việc cực nhọc, mụ bị bỏ rơi, thui thủi một mình.

    - Không còn gì nữa sao? Mụ trách móc hỏi lại. Không còn gì nữa sao?

    Mụ nhìn tôi bằng cặp mắt của một con hươu cái cùng đường. Tôi thương hại mụ. Tôi nói:

    - Hắn còn một điều rất, rất quan trọng, bà Hortense. Vì thế, tôi để dành đến phút chót.

    - Có thể chứ... mụ vừa nói vừa thở dài.

    - Hắn viết rằng ngay khi hắn trở về, hắn quì xuống, nước mắt rưng rưng, cầu xin bà lấy hắn. Hắn không chịu nổi nữa. Hắn muốn bà trở thành cô vợ nho nhỏ của hắn thưa bà Hortense Zorba, để hai người không bao giờ xa cách nhau nữa.

    Lần này thì nước mắt trào ra thực. Ðó là nguồn vui lớn nhất, đó là niềm ân hận suốt đời của mụ! Tìm thấy sự bình thản, nằm dài trên một cái giường đoan chính, không còn gì hơn nữa!

    Mụ lấy tay che mắt.

    - Ðược lắm, mụ nói với giọng kẻ cả của một bà lớn, tôi chấp nhận. Nhưng ông làm ơn viết cho anh ấy rằng trong làng ta không có vòng hoa cam. Phải mang từ Candida về. Anh ấy cũng phải mang về hai cây nến trắng nữa với những giải băng hồng và bánh hạnh nhân hảo hạng. Rồi anh ấy phải mua cho tôi một cái áo cưới trắng, tất lụa và giầy cao gót xa tanh. Ông viết cho anh ấy đừng mang khăn trải giường về, ở nhà có rồi. Giường cũng có rồi.

    Mụ sắp đặt danh sách đặt hàng, biến chồng thành một anh chạy công chuyện vặt ngay. Mụ đứng dậy, đột nhiên lấy vẻ đàng hoàng của một người đàn bà có chồng.

    - Tôi có một chuyện muốn đề nghị cùng ông một chuyện đứng đắn. Ðoạn mụ ngừng lời, xúc động.

    - Nói tiếp đi, bà Hortense, tôi sẵn lòng giúp bà.

    - Zorba và tôi rất quí ông. Ông rất tử tế và ông sẽ không làm chúng tôi phải mất mặt. Ông có vui lòng làm chứng cho chúng tôi không?

    Tôi rùng mình. Ngày xưa, ở nhà song thân tôi có một mụ đầy tớ già tên Diamandoula đã ngoài sáu mươi tuổi, một mụ gái nửa già, nửa điên nửa dại vì không chồng, cau có, nhăn nheo, không có ngực và có ria mép. Mụ phải lòng Misto, con trai lão chủ tiệm thực phẩm trong khu chúng tôi, một nông dân dơ dáy, béo tốt và trai tráng.

    - Bao giờ anh lấy tôi? Mụ thường hỏi gã mỗi Chủ Nhật như vậy. Lấy tôi đi! Sao anh có thể chần chờ lâu như vậy? Tôi không chịu nổi nữa!

    - Tôi cũng thế, gã con chủ tiệm thực phẩm ranh mãnh trả lời, mơn trớn để giữ khách. Tôi cũng không thể chờ đợi lâu hơn nữa, Diamandoula của tôi, nhưng hãy chịu khó chờ cho tới bao giờ tôi cũng có ria mép đã...

    Năm tháng trôi qua như vậy và mụ Diamandoula kiên nhẫn chờ đợi. Thần kinh mụ bớt căng thẳng, chứng đau đầu giảm đi, cặp môi cay đắng chưa bao giờ biết tới nụ hôn bắt đầu học cười. Mụ giặt quần áo kỹ hơn, ít đánh vỡ đĩa chén hơn và không làm cháy món ăn nữa.

    - Cậu có vui lòng tới làm chứng cho chúng tôi không, cậu chủ? Một buổi tối mụ lén hỏi tôi.

    - Dĩ nhiên là tôi rất vui lòng, Diamandoula, tôi trả lời, cổ họng se lại vì chua chát.

    Kỳ 64



    Câu chuyện này khiến tôi rất đau lòng, bởi thế, khi nghe mụ Hortense nhắc lại câu hỏi đó, tôi rùng mình.

    - Dĩ nhiên là tôi rất vui lòng, tôi đáp. Ðó là một điều vinh dự cho tôi, thưa bà Hortense.

    Mụ đứng lên, sửa những lọn tóc xõa xuống dưới chiếc mũ nhỏ xíu và liếm môi.

    - Chúc ông ngủ ngon. Chúc ông ngủ ngon và mong anh ấy về sớm với chúng ta.

    Tôi nhìn mụ đi xa dần, đong đưa nhún nhẩy tấm thân già nua với tất cả điệu bộ nhõng nhẽo của một thiếu nữ. Nỗi hân hoan cho mụ đôi cánh, và đôi giầy cao gót cũ nhấn những lỗ sâu trong cát. Mụ chưa đi vòng hết mũi đất thì thấy những thì thấy những tiếng kêu la chát chúa và những tiếng than khóc đã vang lên dọc theo bờ biển.

    Tôi nhỏm dậy và chạy tới chỗ huyên náo. Trên mũi đất đối diện, bọn đàn bà tru tréo như thể họ đang hát truy điệu. Tôi trèo lên một hòn núi đá quan sát. Ðàn ông đàn bà từ làng ùa ra, sau họ chó sủa vang. Hai ba người cỡi ngựa đi trước, bụi bay mù mịt.

    “Có tai nạn gì rồi,” tôi nghĩ và tôi chạy vòng quanh vịnh.

    Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn dần. Hai ba đám mây hồng mùa xuân đứng bất động trong ánh chiều tà. Cây vả của cô phủ đầy lá xanh non.

    Mụ Hortense lảo đảo chạy trở lại, tóc rối bù, hổn ha hổn hển, một chiếc giày mụ văng ra. Mụ cầm ở tay và vừa chạy vừa khóc.

    - Lạy Chúa tôi... Lạy Chúa tôi...

    Mụ ta loạng choạng và suýt ngã nhào vào tôi. Tôi đỡ mụ.

    - Sao bà khóc vậy? Có chuyện gì xẩy ra?

    Tôi giúp mụ đi lại giầy.

    - Tôi sợ... Tôi sợ...

    - Sợ gì?

    - Sợ chết.

    Mụ kinh hoàng ngửi thấy mùi cái chết trong không gian.

    Tôi nắm cánh tay mềm nhão định dẫn mụ tới chỗ đó, nhưng tấm thân già nua của mụ cưỡng lại và run rẩy.

    - Tôi không muốn tới đó... Tôi không muốn tới đó... Mụ la lên.

    Mụ già đáng thương không dám lại gần nơi cái chết đã hiện ra. Charon không được nhìn thấy mụ và không được nhớ mụ... Giống như tất cả những kẻ già cả, mụ ngư nữ đáng tội nghiệp của chúng ta cố gắng ẩn trốn bằng cách mặc quần xanh của cỏ, mầu nâu sẫm của đất để Charon không thể phân biệt mụ với đất và cỏ. Ðầu thụt trong đôi vai tròn và cong, mụ run rẩy.

    Mụ lết tới gần một cây ô liu, trải cái áo khoác vá víu của mụ ra và nhào xuống đất.

    - Chùm nó lên giùm tôi, chùm nó lên giùm tôi và đi tới xem đi.

    - Bà lạnh à?

    - Tôi lạnh, chùm cái áo lên giùm tôi.

    Tôi cố chùm cái áo lên cho mụ thật khéo để mụ lẫn với đất và tôi bỏ đi.

    Tôi tới mũi đất và bây giờ nghe rõ tiếng than khóc. Mimiko chạy vượt qua tôi, tôi gọi giật lại:

    - Chuyện gì vậy, Mimiko?

    - Y chết đuối! Y chết đuối! Gã la lên, không dừng lại.

    - Ai?

    - Pavli, con trai Mavrandoni.

    - Tại sao?

    - Mụ góa...

    Danh từ đó treo trong trời chiều và tấm thân nguy hiểm và mềm mại của góa phụ lồ lộ hiện ra.

    Tôi tới chỗ mỏm đá nơi cả làng tụ tập. Ðàn ông yên lặng, đầu trần, đàn bà, khăn quàng vắt vai, vừa dứt tóc vừa thốt lên những tiếng kêu nhức óc. Một thi thể xanh mét, trương lên nằm trên bãi sỏi. Lão Mavrandoni đứng nhìn, bất động. Tay phải lão tỳ trên cây gậy. Tay trái, lão nắm chòm râu xám uốn cong.

    - Trời tru đất diệt mày, con mụ nạ dòng tội lỗi kia! Một giọng nói the thé bỗng nhiên thốt lên. Chúa sẽ bắt mày trả món nợ đó!

    Một người đàn bà tiến lên và quay sang bọn đàn ông.

    - Thế nào, không có một mống đàn ông nào trong làng dám đặt nó trên đùi và cắt họng nó như một con cừu à? Hứ! Một bọn hèn nhát!

    Và mụ nhổ bọn đàn ông đang lặng lẽ nhìn mụ.

    Kondomanolio, lão chủ quán café, trả lời mụ.

    - Không được sỉ nhục chúng tôi mụ Deli-Katerina điên cuồng kia, lão quát to, không được sỉ nhục chúng tôi, làng còn nhiều người đàn ông can đảm, rồi mụ sẽ thấy!

    Tôi không kiềm chế được nữa, la lên:

    - Xấu hổ lắm, các bạn! Người đàn bà đó có trách nhiệm gì? Số phận đã định như vậy. Các bạn không sợ Chúa Trời sao?

    Nhưng không ai trả lời.

    Manolakas, anh họ kẻ bị chết đuối, uốn cong tấm thân lực lưỡng, ôm tử thi lên và đi về làng trước tất cả mọi người.

    Kỳ 65



    Ðàn bà kêu gào, cào mặt, dứt tóc. Khi họ thấy xác chết được mang đi, họ chạy theo nắm chặt lấy. Nhưng lão Mavrandoni, vung gậy lên, xua đuổi họ và bước lên đi trước đoàn người. Bọn đàn bà theo sau, vừa đi vừa hát truy điệu. Bọn đàn ông im lặng đi sau cùng.

    Họ biến mất trong ánh hoàng hôn. Người ta lại nghe thấy hơi thở dịu dàng của biển. Tôi nhìn xung quanh. Tôi đơn độc.

    “Ta sẽ trở về nhà,” tôi tự nhủ. “Lại một ngày đầy cay đắng!”

    Tôi bước đi, chìm đắm trong suy tưởng. Tôi thán phục những người đó đã ràng buộc quá chặt chẽ, quá nhiệt thành trong những nỗi khổ đau của con người; mụ Hortense, Zorba, góa phụ, và gã Pavli xanh xao và can đảm trầm mình xuống biển để chôn vùi nỗi phiền muộn. Và Deli-Katerina đòi cắt cổ góa phụ như một con cừu, và Mavrandoni không chịu khóc và ngay cả nói năng trước mặt những người khác. Riêng mình tôi bất lực và lý trí, máu tôi không bao giờ sôi sục, tôi không yêu cũng không ghét với tất cả nhiệt tình. Tôi vẫn còn muốn xếp đặt mọi sự, một cách hèn nhát, bằng cách phó mặc tất cả cho bàn tay định mệnh.

    Trong ánh chiều tà tôi nhận ra bác Anagnosti hãy còn ngồi đó, trên một hòn đá. Lão tỳ cằm lên cây gậy dài và ngắm nhìn biển cả.

    Tôi gọi lão, nhưng lão không nghe tiếng. Tôi lại gần, lão thấy tôi, lắc đầu:

    - Ðáng thương thay loài người! Lão lẩm bẩm. Uổng một đời thanh niên! Nhưng kẻ khốn khổ kia, không chịu nổi nỗi sầu muộn của mình, trầm mình xuống nước và chết. Thế là gã được cứu rỗi.

    - Ðược cứu rỗi?

    - Ðược cứu rỗi, con ạ, phải, được cứu rỗi. Ðời gã có thể làm được gì hơn? Nếu gã cưới mụ góa, những cuộc gây gổ chẳng bao lâu sẽ xẩy ra, có thể ô danh nhục nhã nữa chưa biết chừng. Y thị đúng là một con ngựa cái, con đàn bà dâm đãng đó! Vừa thấy đàn ông một cái là thị đã hí lên. Và nếu gã không cưới được y thị, có thể đó là điều ân hận của đời gã, bởi gã đã có định kiến rằng gã đã mất một nguồn hạnh phúc lớn lao! Vực thẳm trước mặt, hố sâu sau lưng.

    - Ðừng nói vậy bác Anagnosti, bác khiến người nghe phải thất vọng.

    - Cứ nói đi, đừng sợ, không có ai nghe thấy lão nói đâu. Mà dù cho họ có nghe thấy, họ cũng chẳng tin nào. Này, đã có ai may mắn hơn lão chưa? Lão có ruộng, có vườn nho, vườn ô-liu và một căn nhà hai tầng, lão giầu và và là kỳ mục trong làng. Lão vớ được một mụ đàn bà hiền thục ngoan ngoãn đẻ cho mụ thuần con trai. Lão chưa bao giờ thấy mụ dám ngước mắt lên nhìn thẳng vào mặt lão bao giờ còn các con trai lão đều là những người cha tốt. Lão không có điều gì phải phàn nàn cả. Lão có cả cháu nội đầy đàn. Lão còn đòi hỏi gì hơn nữa? Gốc rễ lão cắm quá sâu rồi. Vậy mà nếu lão phải bắt đầu lại cuộc đời chắc lão cũng buộc một hòn đá vào cổ như Pavli và gieo mình xuống biển cho xong. Ðời nhọc nhằn lắm; ngay cả đối với những kẻ may mắn nhất, cuộc đời cũng nhọc nhằn lắm, cuộc đời chó đẻ!

    - Nhưng bác còn thiếu gì nữa, bác Anagnosti? Bác ta thán điều gì nào?

    - Lão không thiếu gì hết, thực thế! Nhưng con đi mà hỏi lòng dạ con người!

    Lão yên lặng một lát, và lại nhìn biển đang tối mầu.

    - Thôi được, Palvi, con làm như vậy là phải! Lão vừa nói to vừa vung cây gậy. Mặc kệ bọn đàn bà kêu gào; họ là đàn bà, họ không có đầu óc. Thế là con đã được cứu rỗi, Pavli, cha con biết vậy vì thế lão lặng thinh không nói gì hết.

    Lão đưa mắt ngó trời và núi lúc này đã nhạt nhòa.

    - Tối rồi, lão nói. Ta về thôi.

    Thốt nhiên lão ngừng bặt, có vẻ hối tiếc những lời đã thốt ra như thể lão đã để lộ một điều bí mật lớn mà bây giờ lão muốn che đậy lại.

    Lão đặt bàn tay khô héo run run lên vai tôi.

    - Con còn trẻ, lão vừa nói vừa mỉm cười với tôi; đừng nghe lời bạn già. Nếu thế giới nghe lời bọn già, nó sẽ lao nhanh tới chỗ suy sụp ngay. Nếu một góa phụ đi trên đường con, hãy nhẩy chồm vào mụ. Cưới liền, sinh con đẻ cái ngay, đừng lưỡng lự! Những lộn xộn phiền nhiễu được làm nên cho bọn trẻ!

    Tôi về đến bãi biển của tôi, nhúm lửa và pha trà buổi tối. Tôi mệt, đói, và tôi ăn ngấu nghiến, hoàn toàn buông mình vào niềm hạnh phúc thú vật này.

    Ðột nhiên Mimiko thò cái đầu dẹt của gã qua khuôn cửa sổ, nhìn tôi đang ngồi xổm ăn bên bếp lửa. Gã mỉm cười một cách tinh quái.

    - Em đến có chuyện gì đó, Mimiko?

    - Bà góa nhờ tôi đem đến cho ông cái này, ông chủ... Một giỏ cam. Bà nói đây là những trái cuối cùng trong vườn bà.

    - Bà góa nhờ? Tôi giật mình hỏi lại. Tại sao bà ấy lại gửi cam cho tôi?

    - Bởi những lời tử tế của ông chiều nay nói với dân làng, bà ấy nói vậy.

    - Lời nói tử tế nào?

    - Tôi biết đâu! Tôi chỉ nhắc lại lời bà ấy nói với tôi, thế thôi!

    Kỳ 66



    Gã trút giỏ cam xuống giường. Cả lều thơm ngào ngạt.

    - Em nói giùm tôi cảm ơn bà rất nhiều vì món quà bà cho và khuyên bà nên cẩn thận đề phòng! Bà nên cẩn thận không được ra ngoài làng vì bất cứ lý do gì, nghe rõ chưa? Bà nên ở trong nhà một thời gian, cho đến khi người ta quên câu chuyện bất hạnh này đi! Em hiểu không, Mimiko?

    - Chỉ có thế thôi à, ông chủ?

    - Chỉ có thế thôi, đi đi.

    Mimiko nháy tôi.

    - Chỉ có thế thôi à?

    - Ði mau đi!

    Gã bỏ đi. Tôi bóc một trái cam. Trái cam nhiều nước và ngọt như mật ong. Tôi đặt mình xuống, thiếp đi, và suốt đêm tôi đi thơ thẩn trong vườn cam. Một cơn gió ấm áp nổi lên, ngực tôi phơi trần trước gió và tôi có một cọng hoắc hương giắt sau tai. Tôi là một nông dân hai mươi tuổi, tôi đi lang thang trong vườn cam, tôi huýt sáo chờ đợi. Tôi chờ đợi ai? Tôi không rõ, nhưng trái tim tôi sắp nổ tung vì hân hoan. Tôi vuốt ria và lắng nghe, suốt đêm, biển thở dài như một người đàn bà sau vườn cam.



    15



    Ngày hôm đó có một cơn gió nồm dữ dội, nóng bỏng, thổi từ sa mạc Phi Châu qua Ðịa Trung Hải tới. Những đám bụi cát mịn quay cuồng trong không khí, len vào cổ họng và phổi. Răng nghiến ken két, mắt nẩy lửa, cửa ra vào, cửa sổ phải đóng kín mít nếu người ta muốn ăn một miếng bánh mì không rắc cát.

    Không khí ngột ngạt. Trong những ngày khó thở này khi nhựa dâng lên, tôi cũng cảm thấy nỗi bứt rứt không yên của xuân thì. Một sự mệt mỏi, một sự náo động căng thẳng trong lồng ngực, một cảm giác rần rần như kiến bò khắp châu thân, một ước vọng - hay hoài niệm? - về một niềm hạnh phúc đơn giản và lớn lao.

    Tôi đi theo đường mòn đầy sỏi dẫn lên núi. Tự nhiên tôi muốn thăm viếng tiểu đô thị Minos đã chồi lên khỏi mặt đất sau ba hay bốn ngàn năm và sưởi ấm lại lần nữa dưới mặt trời Crete thân yêu. Tôi nghĩ sau ba bốn giờ đi bộ, sự mỏi mệt có thể làm dịu cơn bứt rứt mà mùa Xuân đã mang lại.

    Những tảng đá xám trơ gan cùng tuế nguyệt, một vẻ trần truồng sáng choang, ngọn núi tàn khốc và tịch liêu tôi yêu. Một con cú mèo, mắt vàng tròn xoe bị đui mù bởi ánh sáng, đậu trên một tảng đá. Nó trang nghiêm, đẹp đẽ và đầy bí ẩn. Tôi đi rón rén, nhưng tai nó rất thính; nó sợ hãi bay lên không tiếng động giữa tảng đá và biến mất.

    Trong không khí thoáng mùi bạch-lý-hương. Những bông hoa vàng và dịu dàng đầu tiên của cây kim-tước đã bừng nở giữa những gai góc.

    Tôi sửng sốt khi trông thấy tiểu đô thị điêu tàn. Lúc đó phải vào quãng trưa rồi, tia mặt trời dọi thẳng xuống và dội ánh sáng chan hòa trên những đổ nát. Trong những đô thị cổ điêu tàn, đây là giờ nguy hiểm nhất. Không gian tràn ngập những tiếng la thét của quỉ thần. Một cành gẫy, một con thằn lằn bò nhanh, một đám mây rợp bóng bay qua đủ khiến ta kinh hoàng. Mỗi tấc đất ta giẫm chân lên là một nấm mồ và ta nghe thấy người chết rên la.

    Dần dần, mắt quen với ánh sáng chói lọi. Giữa những đổ nát, bây giờ tôi có thể nhận thấy bàn tay con người: hai con phố rộng lát đá nhẵn bóng. Bên phải bên trái hai con phố là những phố hẹp, ngoằn ngoèo. Ở giữa, một công trường hình tròn hay một hội trường và cạnh đó, với một vẻ hạ cố rất dân chủ, là cung điện nhà vua với những hàng cột đôi, những cầu thang đá rộng rãi và vô số tòa nhà phụ.

    Trong trung tâm đô thị, nơi đá mòn nhẵn nhiều nhất bởi bàn chân người, đền thờ xưa hẳn phải dựng lên ở đây: Ðại Nữ Thần còn đó, hai vú nẩy nở và cách xa nhau, hai cánh tay cuốn lại như rắn.

    Tiệm buôn nhỏ, máy ép dầu, lò rèn, xưởng mộc và xưởng đồ gồm ở khắp nơi. Một tổ kiến kiểu mẫu khéo léo, xây dựng trong một vị trí khuất khúc mà những con kiến đã biến mất hàng ngàn năm trước. Trong một xưởng thợ, một thợ thủ công đã khắc một cái bình trong đá vân, nhưng chưa có thời giờ hoàn thành: dao khắc tuột khỏi tay hắn, được tìm thấy hàng ngàn năm sau, bên cạnh tác phẩm bất toàn.

    Những vấn đề vĩnh cửu, vô ích, ngu xuẩn: Tại sao? Ðể làm gì? Trở lại đầu độc tâm hồn ta một lần nữa. Cái bình bất toàn trên đó cảm hứng hân hoan và tin tưởng của người nghệ sĩ đột nhiên thất bại, khiến lòng tôi tràn trề cay đắng.

    Thình lình một mục đồng, da rám nắng, quấn một cái khăn tay quanh mái tóc quăn, đứng trên một tảng đá cạnh lâu đài đổ nát để lộ hai cái đầu gối đen thui ra.

    - Ê! Ông bạn đó à? Gã la lên.

    Tôi muốn được cô độc. Tôi làm bộ không nghe thấy. Nhưng tên mục tử phá lên cười chế giễu.

    - Ê! Làm bộ điếc hả? Này! Có điếu thuốc lá nào không? Cho xin một điếu! Trong cái sa mạc này, tôi rầu muốn chết.

    Kỳ 67



    Gã kéo dài chữ cuối cùng với xiết bao thiểu não đến nỗi tôi phải thương hại gã.

    Tôi không có thuốc lá, tôi muốn cho gã tiền. Nhưng gã mục đồng phát cáu.

    - Cho tiền về cái nhà bò! Gã la lên. Tôi làm gì bằng tiền mới được chứ? Tôi nói với ông rằng tôi đã chán tất cả. Tôi muốn một điếu thuốc lá kia!

    - Tôi không có thuốc lá, tôi tuyệt vọng nói. Tôi không có một điếu nào cả.

    - Ông không có thuốc lá! Gã điên tiết lấy cây gậy đập xuống đất. Không có thuốc lá! Ðược rồi, thế ông có cái gì trong túi kia? Túi phồng lên vì cái gì trong đó?

    - Một cuốn sách, một cái khăn tay, giấy, một cái bút chì, một con dao díp, tôi vừa trả lời vừa lần lượt chìa những đồ vật trong túi ra. Em có thích con dao díp này không?

    - Tôi có một con rồi. Tôi có tất cả: bánh mì, phô-mai, ô-liu, một con dao, một cái dùi, da làm giầy và một bình nước, tất cả, tất cả... trừ một điếu thuốc lá! Và như thế hầu như tôi không có gì hết! Còn ông, ông tìm gì trong đống đổ nát này?

    - Tôi khảo cứu cổ vật.

    - Ông có rút được lợi ích gì không?

    - Không.

    - Không. Tôi cũng vậy. Họ chết cả rồi, chúng ta sống. Tốt hơn ông nên đi ngay đi thì hơn!

    Có thể nói linh hồn u hiển nơi này xua đuổi tôi.

    - Tôi đi đây, tôi ngoan ngoãn nói.

    Tôi vội vã trở lại đường mòn với một chút xao xuyến trong tâm hồn.

    Lát sau tôi quay lại và thấy gã mục đồng phiền muộn đang đứng trên một tảng đá. Mái tóc quăn của gã xõa khỏi tấm khăn tay đen, đang phất phơ trong gió nồm. Ánh sáng dội tràn từ đầu xuống chân gã. Tôi có cảm tưởng nhìn thấy pho tượng một thanh niên bằng đồng. Ðã đặt cây gậy ngang vai và huýt sáo.

    Tôi đi sang một con đường khác và đi xuống bãi biển.

    Thỉnh thoảng, những đợt gió nhẹ, ấm áp và thơm ngát từ các vườn gần đó thổi tới tôi. Ðất dâng hương, biển cười và dài, trời xanh và lóng lánh như thép.

    Mùa đông làm tâm hồn và thân thể teo lại, nhưng đây rồi hơi ấm đến làm căng lồng ngực. Tôi tiến lên, thình lình tôi nghe thấy những tiếng kèn lớn trên không. Tôi ngẩng đầu lên và nhìn cảnh tượng tuyệt vời khiến tôi xúc động mãnh liệt từ hồi thơ ấu: Ðàn hạc dàn trải ra ngang trời như một đạo quân xáp chiến, từ miền ấm áp trở về, và, như thần thoại kể, mang những con én trên cánh và trong thân thể gầy trơ xương của chúng.

    Tiết điệu không sai trệch của bốn mùa, bánh xe quay muôn đời của trần gian, bốn mặt của trái đất lần lượt được mặt trời soi sáng, nhịp đi của đời tất cả những điều đó một lần nữa lại cho tôi một cảm giác đè nén nặng nề. Cùng với tiếng hạc bay qua, một lần nữa lại vang vọng trong tôi lời cảnh tỉnh khủng khiếp rằng chỉ có một cuộc đời duy nhất cho con người, rằng không có một cuộc đời khác, và tất cả những gì người ta có thể hân hưởng, người ta phải hân hưởng ngay ở nơi đây. Không có một dịp may nào khác dành cho chúng ta trong vĩnh cửu.

    Một tâm trí nghe thấy lời cảnh cáo tàn nhẫn này - một lời cảnh cáo tàn nhẫn và đồng thời đầy thương xót - sẽ quyết định chiến thắng hay yếu đuối và ti tiện, sự lười biếng và những hy vọng vĩ đại hão huyền của mình và sẽ bám riết vào mỗi giây phút đang chạy trốn mãi mãi.

    Những tấm gương lớn trở lại trong trí nhớ và người ta thấy rõ ràng người ta chỉ là một linh hồn đã mất, cuộc đời tả tơi theo những lạc thú nhỏ nhoi, những đau khổ vụn vặt và những chuyện phù phiếm. Người ta muốn kêu lên: “Xấu hổ lắm,!” và bặm môi.

    Những con hạc đã bay qua vòm trời và mất hút về phương Bắc, nhưng trong đầu tôi, chúng vẫn tiếp tục bay từ thái dương nọ sang thái dương kia, thốt lên những tiếng kêu bằng cái giọng ồ ồ của chúng.

    Tôi đến bờ biển. Tôi vội vã đi dọc theo mé nước. Kinh sợ thay khi đi một mình bên bờ biển! Mỗi đợt sóng, mỗi cánh chim kêu gọi ta và nhắc nhở ta tới bổn phận. Khi đi với đông người, ta nói nói cười cười và tiếng ồn ào che lấp tiếng sóng và tiếng chim kêu. Dĩ nhiên có thể chúng không nói gì hết. Chúng ngắm ta đi qua, khỏa lấp trong câu chuyện và chúng im hơi.

    Tôi nằm dài trên sỏi, nhắm mắt lại. “Vậy linh hồn là gì? Tôi nghĩ, và giữa linh hồn, biển, mây và hương thơm, có sự tương ứng bí mật nào? Dường như linh hồn tự nó cũng là biển, mây và hương thơm...”

    Tôi đứng dậy và bắt đầu bước đi như thể tôi đã quyết định. Quyết định nào? Tôi không rõ.

    Thình lình tôi nghe thấy một tiếng nói sau lưng:

    - Ông đi đâu đó, ông chủ? Ông cũng tới tu viện?

    Tôi quay lại một ông già tráng kiện, thấp, buộc một tấm khăn tay đen quanh mái tóc trắng, vừa vẫy tôi vừa cười. Một bà cụ đi sau lão, và sau bà cụ là cô con gái họ, một thiếu nữ da ngăm đen, cặp mắt dữ tợn, chít khăn choàng đen.

    - Tới tu viện? Lão già hỏi lại lần thứ hai.

    Ðột nhiên tôi ý thức được rằng tôi quyết định đi về phía đó. Từ mấy tháng nay, tôi muốn tới tu viện nhỏ bé của các nữ tu sĩ xây bên bờ biển, nhưng chưa bao giờ quyết định dứt khoát. Quyết định này, chiều nay thân thể tôi đột ngột thực hiện cho tôi.

    - Vâng, tôi trả lời, tôi tới tu viện để nghe tụng ca Ðức Mẹ Ðồng Trinh.

    - Cầu Ðức Mẹ ban phước lành cho ông!



    Kỳ 68



    Lão rảo bước và bắt kịp tôi.

    - Có phải ông là người họ gọi là công ty than đó không?

    - Ðúng vậy.

    - Vậy thì cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh ban cho ông nhiều lợi lộc! Ông đã làm được nhiều điều tốt cho làng chúng tôi, mang lại kế sinh nhai cho nhiều chủ gia đình nghèo khó. Cầu ơn trên ban phước lành cho ông!

    Và lát sau lão già tinh quái, chắc cũng đã biết công việc của chúng tôi không được may mắn lắm, vội nói thêm những lời an ủi này:

    - Và dầu con không thu hoạch được lợi lộc gì, con đừng lo âu. Thế nào rồi con cũng được. Linh hồn con sẽ lên thẳng Thiên Ðàng...

    - Con cũng chỉ mong ước được như vậy, thưa nội.

    - Lão không có học nhiều, nhưng một hôm ở nhà thờ lão nghe Chúa Cứu Thế nói. Câu nói như đóng đinh vào đầu óc lão, không bao giờ quên được. Ngài nói: “Hãy bán tất cả những gì người có để mua hạt Ðại Trân Châu đó là sự cứu chuộc của linh hồn, con ạ. Con sắp có hạt Ðại Trân Châu đó.

    Hạt Ðại Trân Châu! Biết bao lần nó đã ngời sáng trong tâm trí tôi, giữa đêm tối, như một hạt lệ lớn?

    Chúng tôi bước đi, hai người đàn ông đi trước, hai người đàn bà tay khoanh trước ngực, đi sau. Thỉnh thoảng chúng tôi trao đổi câu nhận xét: “Hoa ô-liu còn ở trên cây lâu không? Trời sắp mưa cho lúa mạch nẩy nở chưa không biết?” Hai chúng tôi hẳn đều đói vì chúng tôi liên tục xoay câu chuyện quanh thực phẩm và không muốn thay đổi đề tài.

    - Nội thích món gì nhất?

    - Tất cả, tất cả, con ạ. Nói cái này ngon, cái này dở là một tội trọng con ạ.

    - Sao vậy? Chúng ta không thể lựa chọn sao?

    - Không, dĩ nhiên, chúng ta không thể lựa chọn.

    - Tại sao?

    - Bởi vì còn nhiều người đói khát.

    Tôi nín lặng, xấu hổ. Chưa bao giờ tâm hồn tôi đạt tới sự cao nhã và bác ái nhường ấy.

    Cái chuông nhỏ của tu viện reo vui, nghịch ngợm, như tiếng cười của một người đàn bà.

    Ông lão làm dấu thánh giá.

    - Cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh Khổ Nạn tới phò trợ chúng tôi! Lão lẩm bẩm. Mẹ bị một con dao găm vào cổ họng và chảy máu. Vào thời cướp biển...

    Và lão bắt đầu thêu dệt những nỗi khổ đau của Ðức Mẹ Ðồng Trinh như truyện một người đàn bà thật, một thiếu phụ di cư khóc mếu máo dẫn con từ Ðông Phương qua bị bọn dị giáo đâm chết.

    - Mỗi năm một lần, máu nóng thật chảy từ vết thương của bà, ông lão nói tiếp. Tôi còn nhớ một lần lâu rồi, vào ngày lễ Ðức Bà, - lúc đó tôi chưa có râu - dân các làng đều kéo đến quì lạy Ðức Mẹ Ðồng Trinh. Ðó là ngày rằm Tháng Tám. Ðàn ông chúng tôi nằm ngủ ngoài sân; đàn bà, ở bên trong. Trong giấc ngủ tôi nghe thấy Ðức Mẹ Ðồng Trinh kêu la. Tôi vội vã nhỏm dậy, chạy tới thánh tượng ngài, và đặt tay lên cổ họng ngài. Ông nghĩ xem tôi thấy gì? Các ngón tay tôi đầm đìa máu...

    Ông lão làm dấu và quay lại nhìn thấy người đàn bà, giục:

    - Ði mau lên, các bà! Cố lên, sắp tới nơi rồi!

    Lão hạ thấp giọng:

    - Lúc đó tôi chưa lập gia đình. Tôi quì trước Ðức Bà, và tôi quyết định từ bỏ cuộc đời giả dối này và trở thành một tu sĩ...

    Lão cất tiếng cười.

    - Tại sao nội cười vậy?

    - Không cười sao được, con? Ngay chính hôm đó, trong đám hội, ma quỉ đội lốt đàn bà dừng lại trước mặt ta. Mụ đó!

    Không ngoái cổ lại, tay cái chỉ về đằng sau, chỉ bà lão lặng lẽ đi theo chúng tôi, lão nói:

    - Ðừng nhìn mụ bây giờ, tởm lắm. Nhưng vào thời đó, mụ là một thiếu nữ nhí nhảnh, giẫy giụa như một con cá. “Người đẹp mi dài” họ gọi nàng như vậy, và nàng xứng đáng với cái tên đó, con mẹ ranh! Nhưng bây giờ lông mi của mụ đâu? Than ôi! Chúng rụng hết rồi còn đâu!

    Ngay lúc đó, sau lưng chúng tôi, bà lão cằn nhằn như một con chó gắt gỏng bị xích. Nhưng bà lão không nói một lời nào.

    - Kìa, tu viện kia rồi! Lão già vừa nói vừa giơ tay chỉ.

    Bên bờ biển, nằm lọt thỏm giữa hai trái núi đá lớn, tu viện sáng lóa, trắng xóa một mầu. Ở giữa, mái tròn của giáo đường vừa quét vôi trắng lại, nhỏ và tròn trịa như một trái vú đàn bà. Xung quanh nhà thờ, có năm sáu phòng nhỏ cửa sơn xanh, trong sân ba cây trắc bá, và dọc theo tường, mấy cây lê gai lớn đơm hoa.

    Chúng tôi rảo bước. Những bản thánh ca du dương lan truyền từ khuôn cửa sổ mở rộng của giáo đường, không khí mặn nồng ngào ngạt an-tức hương. Cửa ra vào giữa khung bán nguyệt, mở rộng ra cái sân sạch sẽ, thơm ngát, lót đá cuội đen và trắng. Tả hữu, dọc theo tường, có những dẫy bình mê-điệt, kinh-giới và hoắc-hương.

    Thanh tĩnh làm sao! Dịu dàng làm sao! Mặt trời bây giờ đang lặn và những bức tường trắng có một mầu hồng.

    n, tu viện sáng lóa, trắng xóa một mầu. Ở giữa, mái tròn của giáo đường vừa quét vôi trắng lại, nhỏ và tròn trịa như một trái vú đàn bà. Xung quanh nhà thờ, có năm sáu phòng nhỏ cửa sơn xanh, trong sân ba cây trắc bá, và dọc theo tường, mấy cây lê gai lớn đơm hoa.

    Chúng tôi rảo bước. Những bản thánh ca du dương lan truyền từ khuôn cửa sổ mở rộng của giáo đường, không khí mặn nồng ngào ngạt an-tức hương. Cửa ra vào giữa khung bán nguyệt, mở rộng ra cái sân sạch sẽ, thơm ngát, lót đá cuội đen và trắng. Tả hữu, dọc theo tường, có những dẫy bình mê-điệt, kinh-giới và hoắc-hương.

    Thanh tĩnh làm sao! Dịu dàng làm sao! Mặt trời bây giờ đang lặn và những bức tường trắng có một mầu hồng.

    Kỳ 69



    Tiểu giáo đường, ấm và khá tối bên trong, phảng phất mùi sáp. Ðàn ông và đàn bà di động trong đám khói hương và năm sáu nữ tu sĩ, trong những tấm áo đen bó chẽn, đang hát: “Ôi, Chúa Vô Cùng...” bằng giọng ngọt ngào, cao vút.

    Trong khi hát chư vị thường quì xuống luôn và tiếng sột soạt của áo xống nghe như chim vỗ cánh bay.

    Tôi không nghe tụng ca Ðức Mẹ Ðồng Trinh từ nhiều năm nay. Trong cuộc nổi loạn của tuổi thanh xuân, tôi đi qua nhà thờ với lòng khinh miệt và giận dữ. Tôi thuần hậu dần theo thời gian. Thỉnh thoảnh tôi còn đi dự những cuộc lễ nữa - lễ Giáng Sinh, Phục Sinh - và tôi sung sướng thấy đứa trẻ trong tôi lại hồi sinh. Lòng hăng hái thần bí ngày xưa sa đọa trở thành một khoái cảm thẩm mỹ. Dân man rợ tin rằng khi một nhạc cụ không còn được dùng cho những nghi thức tế tự, nó mất sức mạnh thần thánh và bắt đầu phát ra những âm thanh du dương. Cũng vậy, tôn giáo đã sa đọa trong tôi: nó đã trở thành nghệ thuật.

    Tôi lùi vào một góc, tựa vào ghế xung quanh chỗ hát kinh mà những bàn tay tín đồ đã làm cho ngâm khúc thành Byzantium từ quá khứ xa xưa vọng về: “Xin chào! Những đỉnh cao không thể đạt tới của tâm hồn nhân loại. Xin chào! Ðáy sâu khôn dò ngay cả đối với mắt thiên thần! Xin chào! Vị hôn thê đồng trinh, ôi đóa hoa hồng không bao giờ phai nhạt...”

    Và những vị nữ tu quì gối, đầu cúi xuống và áo lại kêu sột soạt như cánh chim.

    Giây phút đi qua, tựa những thiên thần cánh thơm mùi an-tức-hương, cầm những bông huệ và ca ngợi nhan sắc Ðức Mẹ Mary. Mặt trời lặn, hoàng hôn xuống, nhẹ như tơ và xanh biếc. Tôi không biết chúng tôi vào trong sân cách nào, nơi tôi đứng một mình với Ðức Mẹ Bề Trên và hai nữ tu sĩ trẻ tuổi, dưới cây trắc bá lớn nhất. Một nữ tu sĩ sơ tu mang đến cho tôi một thìa mứt, nước lạnh và cà phê, và câu chuyện bình dị bắt đầu.

    Chúng tôi nói về phép lạ của Ðức Mẹ Ðồng Trinh, về than non, về những con gà mái đang bắt đầu đẻ vì bây giờ đang là mùa Xuân, về dì Eudoxia bị bệnh động kinh và tiếp tục ngã xuống sân lát đá của giáo đường, giẫy giụa như một con cá, sùi bọt mép và xé rách quần áo của mình.

    - Dì ấy ba mươi lăm tuổi, Mẹ Bề Trên vừa nói thêm vừa thở dài, tuổi quái ác, thời khó khăn! Cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh Khổ Nạn của chúng ta phò trợ và chữa lành cho dì ấy. Mươi mười lăm năm nữa, dì ấy sẽ khỏi.

    - Mươi mười lăm năm... tôi sợ hãi lẩm bẩm.

    - Mươi mười lăm năm nghĩa lý gì? Mẹ Bề Trên nghiêm khắc nói. Hãy nghĩ đến vĩnh cửu!

    Tôi không trả lời. Tôi biết rằng vĩnh cửu là mỗi giây phút đang trôi qua. Tôi hôn bàn tay Mẹ Bề Trên - một bàn tay trắng mũm mĩm, phảng phất mùi trầm hương và bỏ đi.

    Ðêm đã xuống. Hai ba con quạ vội vã bay về tổ; mấy con cú mèo ra khỏi những hốc cây để đi săn; sên, sâu, bọ, chuột đồng ra khỏi lòng đất để làm mồi cho những con cú.

    Con rắn huyền bí ngậm đuôi khép tôi vào vòng của nó: trái đất hạ sinh và ăn tươi nuốt sống con cái nó như thế, rồi nó lại cho ra đời những đứa con khác và lại nuốt sống chúng như vậy.

    Tôi nhìn xung quanh tôi. Trời đã hoàn toàn tối sẩm. Những người dân làng cuối cùng đã ra về hết, không ai trông thấy tôi, tôi cô đơn tuyệt đối. Tôi cởi giầy, và vùi chân xuống biển. Tôi lăn trên cát. Tôi cảm thấy cần tiếp xúc với đá, nước và không khí với tấm thân trần của tôi. Mẹ Bề Trên đã làm tôi nổi giận với cái “vĩnh cửu” của bà và tôi cảm thấy danh từ đó rơi trên tôi như một sợi dây thòng lọng bắt ngựa hoang. Tôi nhẩy lên một cái để trốn tránh. Tôi muốn cọ xát thân thể trần truồng của tôi với đất và biển, và cảm thấy chắc chắn rằng những sự vật yêu dấu phù du này có thực.

    “Chỉ có một mình ngươi hiện hữu thôi, ôi Trần Gian! Tôi kêu lên trong tận cùng con người tôi. Và tôi là đứa con cuối cùng của ngươi, ta bú vú ngươi và không nhả. Ngươi cho ta sống một giây phút thôi, nhưng giây phút đó trở thành một cái vú và ta bú chẳng rời.”

    Tôi rùng mình như thể suýt nữa tôi bị té nhào xuống cái chữ “vĩnh cửu” ăn thịt người đó. Tôi nhớ lại ngày xưa - bao giờ? Mới năm trước đây - tôi đã cúi xuống nhắm mắt, dang tay sẵn sàng lao mình vào đó.

    Khi tôi học tới lớp năm trường làng, có một truyện thần tiên dùng làm bài tập đọc trong phần thứ hai cuốn sách vỡ lòng như sau:

    Có một đứa trẻ bị ngã xuống giếng. Trong đó nó thấy một thành phố huyền diệu với những vườn hoa, một hồ mật, một núi bánh sữa và nhiều đồ chơi sặc sỡ. Tôi càng đánh vần, mỗi vần dường như càng đưa tôi đi sâu vào đô thị kỳ ảo đó. Thế rồi một buổi trưa sau khi đi học về, tôi chạy ra vườn, lao tới miệng giếng, dưới giàn nho, và tôi say đắm nhìn mặt nước đen phẳng lặng. Tôi tưởng như sắp trông thấy thành phố huyền diệu, nhà cửa, phố xá, trẻ em và giàn nho trĩu trái đến nơi. Tôi không kiềm chế được nữa; tôi chúi đầu xuống, vươn tay ra và đạp đất để nhào xuống. Nhưng ngay lúc đó mẹ tôi trông thấy. Mẹ tôi thét lên, chạy tới và vừa kịp ôm lấy ngang lưng tôi...

    Khi còn là một đứa trẻ, suýt nữa tôi ngã xuống giếng. Tới tuổi trưởng thành, tôi suýt ngã xuống danh từ “vĩnh cửu,” và một số những danh từ khác nữa như “tình yêu,” “hy vọng,” “tổ quốc,” “Thượng Ðế.” Mỗi một chữ vượt qua, tôi có cảm tưởng thoát khỏi một nỗi nguy hiểm và tiến bộ thêm một bước. Nhưng không. Tôi chỉ thay đổi danh từ và gọi là giải thoát. Và đã hai năm nay, tôi bị treo trên mép bờ danh từ “Ðức Phật.”

    Nhưng bây giờ, tôi cảm thấy chắc chắn rằng, nhờ Zorba, Ðức Phật sẽ là cái giếng cuối cùng, và sau đó tôi sẽ được giải thoát mãi mãi. Mãi mãi? Ðó là cái ta thường nói tới mỗi lần.

    Tôi đứng phắt dậy. Tôi sung sướng từ đầu tới chân. Tôi cởi quần áo và nhào xuống biển. Sóng biển hân hoan đùa giỡn và tôi đùa giỡn với chúng. Cuối cùng, mệt lả, tôi lên bờ, phơi khô mình trong gió đêm, đoạn tôi bước những bước dài thoải mái, cảm thấy mình đã thoát khỏi một nỗi nguy hiểm lớn lao và bám chặt lấy vú Ðất Mẹ hơn bao giờ hết.

    Kỳ 70



    16



    Vừa trông thấy bãi than bùn, tôi hốt nhiên đứng dừng lại: có ánh sáng trong lều. “Zorba hẳn đã trở về!' Tôi sung sướng nghĩ thầm.

    Tôi sắp sửa chạy, nhưng tôi tự kiềm chế mình. “Ta phải che giấu nỗi vui mừng của ta. Ta phải có vẻ giận dữ và rầy la hắn. Ta sai hắn đi công chuyện khẩn cấp và hắn đã ném tiền qua cửa sổ, đeo mấy cô bán quán lẳng lơ và về chậm mười hai ngày. Ta phải làm ra vẻ vô cùng tức giận... Phải vậy mới được!”

    Tôi chậm rãi bước để có đủ thời giờ tạo ra cơn giận dữ. Tôi cố gắng tức giận, cau mày, nắm tay, làm tất cả những cử chỉ mà một người giận dữ thường có, nhưng không thành công. Trái lại, khoảng cách càng thâu ngắn bao nhiêu, niềm hân hoan của tôi càng gia tăng bấy nhiêu.

    Tôi rón rén đi về lều và nhìn qua khuôn cửa sổ nhỏ có ánh sáng. Zorba quì trước bếp than hồng và đang làm cà phê.

    Xúc động, tôi kêu lên:

    - Zorba!

    Cửa mở toang ra. Zorba chân đất, mình trần, lao ra ngoài. Hắn vươn cổ ra, nhìn vào bóng tối, thấy tôi, hắn dang tay ra, nhưng rụt lại ngay và buông thõng xuống.

    - Sung sướng lại được gặp ông, ông chủ! Hắn do dự nói, mặt thộn ra và bất động trước mặt tôi.

    - Sung sướng bác cất công trở về đây, tôi mỉa mai. Ðừng lại gần tôi, bác nồng mùi xà phòng thơm.

    - A! Nếu ông biết tôi kỳ cọ kỹ như thế nào, ông chủ, hắn khẽ nói. Tôi đã cạo hết lớp da trời đánh, khốn nạn trước khi trình diện ông! Tôi đã lấy đá kỳ mất một tiếng đồng hồ. Nhưng cái mùi mắc dịch đó... Tuy nhiên, cái mùi đó làm sao? Ðây đâu phải là lần thứ nhất. Sớm muộn gì nó cũng bay đi ngay đấy mà, dù muốn dù không.

    - Ði vô, tôi nói, suýt nữa phá lên cười.

    Chúng tôi đi vào lều. Lều ngát mùi dầu thơm, phấn, xà bông và đàn bà.

    - Những cái của nợ gì thế kia? Tôi vừa nói vừa chỉ những cái xách tay, những cây xà bông thơm, bít tất, một cái dù mầu đỏ và một lọ nước hoa nhỏ xíu xếp trên mặt một cái rương.

    - Quà tặng... Zorba nói nhỏ, cúi gầm mặt xuống.

    - Quà tặng? Tôi vừa hỏi vừa cố lấy giọng tức giận, quà tặng hả?

    - Quà tặng, ông chủ... cho mụ Bouboulina đáng thương. Xin ông đừng giận. Lễ Phục Sinh sắp tới rồi, mụ đáng thương đó dầu sao cũng là người...

    Một lần nữa, tôi lại ngăn được mình khỏi bật cười.

    - Cái quan trọng nhất thì bác lại không đem về... Tôi nói.

    - Cái gì?

    - Những vòng hoa đám cưới chứ còn gì nữa!

    Tôi kể cho hắn nghe câu chuyện bịa đặt tôi đánh lừa mụ ngư nữ già si tình.

    Zorba gãi đầu và nghĩ ngợi một lát đoạn nói:

    - Lẽ ra ông không nên đùa cợt như vậy, ông chủ, xin ông hãy thứ lỗi cho. Ðùa cợt kiểu đó, ông chủ... Ðàn bà là một sinh vật yếu đuối, mỏng manh, tôi phải nói với ông điều đó bao nhiêu lần nữa? Họ như cái bình sứ, phải nâng niu hết sức cẩn thận.

    Tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi cũng hối hận, nhưng quá muộn rồi. Tôi lãng sang chuyện khác:

    - Thế còn dây cáp đâu? Tôi hỏi. Rồi dụng cụ đâu?

    - Tôi mang về tất cả, không thiếu một thứ gì, ông đừng lo! “Cỏ mọc đầy đồng bò nào ăn cho hết.” Ðường dây sắt treo, Lola, Bouboulina - đâu vào đấy cả!

    Hắn nhắc briki (*) khỏi bếp, rót đầy tách tôi, trao cho tôi vài chiếc jumbal (**) vừng hắn mang về và halva (***) mật mà hắn biết tôi thích.

    Tôi làm quà cho ông một hộp halva lớn! Hắn dịu dàng nói. Ông thấy không, tôi đâu có quên ông. Này, tôi còn mang về cả một bao đậu phộng nhỏ cho con két nữa. Tôi không quên ai hết. Ðầu óc tôi cũng căn cơ lắm chứ, ông chủ!

    Tôi ngồi bệt xuống đất ăn kẹo vừng, halva, uống cà phê. Zorba nhấm nháp cà phê của hắn, hút thuốc, nhìn tôi và đôi mắt hắn mê hoặc tôi như cặp mắt rắn.

    - Bác đã giải quyết xong vấn đề dầy vò bác chưa, bác du đãng già của tôi? Tôi ngọt ngào hỏi hắn.

    - Vấn đề nào, ông chủ?

    - Ðàn bà có phải là một con người không?

    - Ô, là là! Xong rồi! Zorba vừa trả lời vừa múa tay. Ðàn bà cũng là một con người, một con người như chúng ta - có điều tồi tệ hơn! Khi họ thấy túi tiền của chúng ta, mắt họ tối lại, đầu óc đảo điên. Họ bám riết lấy chúng ta, bán rẻ tự do và sung sướng bán rẻ tự do, vì, trong đầu óc họ, túi tiền chói lòa. Nhưng chẳng bao lâu... Thôi, dẹp tất cả những chuyện đó đi, ông chủ!

    Hắn đứng dậy, ném điếu thuốc qua cửa sổ.

    - Nào, bây giờ nói chuyện đàn ông, hắn nói tiếp. Tuần Thánh sắp tới, chúng ta đã có dây cáp, đã đến lúc lên tu viện kiếm mấy con heo mập ký giấy tờ thầu rừng... trước khi bọn họ thấy đường dây và ngốt lên, ông hiểu ý tôi? Thời gian trôi qua, ông chủ, bây giờ không phải là lúc ngồi đó mà làm biếng thiu người ra nữa, chúng ta bắt đầu vơ lại tiền là vừa... phải bắt đầu chất gỗ lên thuyền để thu lại số tiền đã tiêu đi... Cuộc du lịch đến Candia này tốn một số tiền khá lớn. Ông thấy không, ma quỉ...



    (*) Bánh pha cà phê hình nón.

    (**) Bánh hay kẹo trái cây.

    (***) Kẹo nấu bằng dầu vừng và đường. - C.W.

  6. #12
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 71



    Hắn im bặt. Tôi thấy thương hại hắn. Hắn giống như một đứa trẻ, sau khi làm những việc rồ dại, không biết chữa lại cách nào nữa, trái tim thơ ngây run lên như phiến lá.

    “Xấu hổ chưa, tôi tự nhủ, sao nỡ để một tâm hồn run lên vì sợ hãi? Còn có bao giờ tìm thấy được ở nơi đâu một Zorba khác nữa? Ðứng lên, cầm lấy miếng bọt biển và xóa tất cả đi!”

    - Zorba! Tôi kêu lên. Ðể yên ma quỉ đấy, chúng ta không cần nó! Cái gì đã qua, không nên nhắc tới. Lấy cây santuri xuống đi!

    Hắn lại mở vòng tay ra như muốn ôm tôi. Nhưng hắn từ từ khép lại, do dự.

    Hắn nhảy một bước tới bên vách. Hắn kiễng chân lên và gỡ cây santuri xuống. Lúc hắn lại gần ánh sáng ngọn đèn dầu, tôi nhìn tóc hắn: Tóc đen như mun.

    - Kìa, tóc tai làm sao thế, gã ba que kia? Lấy ở đâu ra vậy.

    Zorba phá lên cười.

    - Tôi nhuộm đấy, ông chủ. Ðừng hoảng hốt... tôi nhuộm tóc, quân phản bội.

    - Tại sao?

    - Vì tự ái chứ còn sao nữa! Một hôm tôi đang dạo chơi với Lola, nắm cánh tay nàng. Không phải nắm... đây, như thế này, chỉ cầm mấy đầu ngón tay thôi! Và một thằng lỏi tì láu lỉnh, lớn không bằng hạt mít, làm chúng tôi xấu hổ: “Ê! Lão già, thằng mất dạy đó la lên. Ê, lão già, lão dẫn cháu gái đi đâu đó?”

    “Chắc ông cũng thấy, Lola xấu hổ lắm, tôi cũng vậy. Và để nàng khỏi xấu hổ vì tôi, ngay tối hôm đó tôi tới một tiệm hớt tóc nhuộm đen mái tóc luôn”.

    Tôi phì cười. Zorba nghiêm trang nhìn tôi:

    - Ông thấy điều đó tức cười lắm à? Ðược ông chờ đợi một chút sẽ thấy con người là một con vật kỳ cục đến mức nào! Từ hôm đó, tôi trở thành một con người khác. Ông tưởng tóc tôi đen thật và chính tôi cũng tưởng vậy chứ - người ta rất dễ quên cái gì không thích hợp với mình, ông thấy không - và tôi xin thề với ông, tôi thấy khỏe hơn trước. Lola cũng nhận thấy điều đó. Ông có nhớ trước kia tôi thường bị đau nhức ở lưng? Thế mà bây giờ hết rồi đó! Khỏi hẳn rồi. Dĩ nhiên ông không tin tôi. Mấy cuốn sách nhảm của ông đâu có viết những điều như thế.

    Hắn cười chế giễu, nhưng hối hận ngay.

    - Xin lỗi ông chủ... Cuốn sách duy nhất mà tôi đọc trong đời tôi là cuốn Sinh Bá Nhà Hàng Hải, và tất cả lợi ích mà tôi rút ra được từ cuốn sách đó...

    Hắn gỡ cây santuri, dịu dàng, thong thả lấy ra khỏi bao.

    - Ta ra ngoài, hắn nói. Cây santuri không được thoải mái trong bốn bức vách. Nó là một con thú man rợ, nó cần khoảng trống.

    Chúng tôi đi ra. Sao lung linh. Giải Ngân Hà vắt ngang trời. Biển sôi sục.

    - Khi gặp cơn khốn đốn, chúng ta phải vui chơi cho thỏa chí bình sinh. Sao! Cảnh khốn cùng tưởng ta đầu hàng nó chăng? Lại đây santuri!

    - Một điệu Mecedonia quê hương bác, Zorba, tôi nói.

    - Một điệu Crete của quê hương ông! Zorba nói. Tôi sẽ hát một ca khúc tôi học được ở Candia. Cuộc đời tôi thay đổi từ khi biết bài ca đó.

    Hắn suy nghĩ một lát:

    - Không, nó không thay đổi, hắn nói, có điều bây giờ tôi biết rằng tôi có lý.

    Hắn đặt những ngón tay to lớn lên cây santuri và vươn cổ ra. Giọng ca man rợ, khàn khàn, đau khổ của hắn cất lên:

    Khi bạn đã quyết chí rồi, hãy tiến lên đừng sợ hãi! Nhìn lại đằng sau, ích lợi chi đâu?

    Thả lỏng dây cương cho tuổi trẻ bạn, đừng sắp đặt nó, hãy can trường, đừng hối tiếc chi!

    Những nỗi lo âu tan biến, những chán chường cỏ rả tầm thường tiêu tan, tâm hồn vươn tới đỉnh cao của nó. Lola, than non, đường sắt treo, “vĩnh cửu”, những ưu tư lớn nhỏ, tất cả trở thành một đám khói xanh tan trong không gian, và chỉ còn lại một con tim thép, tâm hồn con người ca hát.

    - Tôi tặng bác tất cả đó, Zorba! Tôi kêu lên khi bài hát kiêu hùng vừa dứt. Tất cả những gì bác làm - cô bán hàng, tóc nhuộm, tiền bác tiêu đi - tất cả là của bác, tất cả. Hát nữa đi!

    Hắn lại vươn cái cổ ra:

    Can đảm lên! Mạo hiểm đi, muốn ra sao thì ra!

    Một thành hai bại xá gì, bạn ơi!

    Một số công nhân ngủ cạnh mỏ than nghe mấy tiếng hát. Họ đứng dậy, len lén chạy xuống và ngồi chồm hổm xung quanh chúng tôi. Họ nghe thấy những điệu nhạc ưa chuộng và cảm thấy ngứa ngáy như kiến bò trong chân. Và đột nhiên không thể kềm chế mình lâu hơn nữa, họ lao ra khỏi bóng tối, mình trần trùng trục, đầu bù tóc rối, quần cụt rộng thùng thình. Họ quay vòng tròn xung quanh Zorba và cây santuri và bắt đầu nhảy nhót trên bãi biển đá sỏi.

    Xúc động, tôi ngắm họ trong yên lặng.

    Tôi tự nhủ: “Ðây chính là nguồn mạch đích thực ta tìm kiếm. Ta không muốn mạch mỏ nào khác”.




    Kỳ 72



    Sáng hôm sau, trước bình minh, đường hầm vang lên những tiếng cuốc và tiếng Zorba la hét. Thợ thuyền làm việc một cách hăng hái. Chỉ có một mình Zorba mới có thể lôi cuốn họ như vậy. Với hắn, công việc trở thành rượu, bài ca, tình yêu và họ say sưa.

    Ðất trở nên sống động trong tay hắn. Ðá, than, gỗ, thợ thuyền chấp nhận nhịp điệu của hắn, một cuộc chiến tranh nổ tung trong hầm mỏ, dưới ánh sáng trắng của đèn đất và Zorba đi tiên phong, đánh giáp lá cà. Hắn đặt tên cho mỗi một đường hầm và mỗi mạch mỏ, hắn cho những sức mạnh vô hình và một khuôn mặt và từ lúc đó, chúng khó mà thoát khỏi tay hắn.

    “Khi tôi biết đường đó là đường hầm Canavaro (hắn thường đặt tên đường hầm thứ nhất như vậy) tôi yên tâm ngay. Tôi biết rõ tên nó, nó không dám xấc xược chơi xấu tôi. Không còn là gì hơn. “Mẹ Bề Trên, “Cô Vòng Kiềng”, “Nước Ðái”. Tôi biết tất cả, thật đấy, biết tên từng đường hầm một”.

    Hôm đó tôi lẻn vào đường hầm mà hắn không thấy.

    - Cố lên! Cố lên chút nữa! Hắn la bọn thợ, như hắn vẫn thường làm khi hăng hái. Tiến tới! Các bạn, chúng ta sẽ thắng ngọn núi! Chúng ta là người, phải không? Ðó là những con mãnh thú! Thượng Ðế cũng phải hoảng sợ khi nhìn thấy chúng ta. Các bạn, dân Crete, tôi, Macedonia, chúng ta sẽ thắng ngọn núi chứ không phải nó sẽ thắng chúng ta! Chúng ta đã thắng Thổ Nhĩ Kỳ, có phải thế không? Vậy thì ngọn núi hạt tiêu này đối với chúng ta nghĩa lý gì? Tiến lên nào!

    Một người nào đó chạy tới Zorba. Dưới ánh sáng đèn đất, tôi nhận ra khuôn mặt gầy ốm xanh xao của Mimiko.

    - Zorba, gã gọi bằng cái giọng lắp bắp của gã, Zorba...

    Zorba quay lại, liếc mắt thấy Mimiko và hắn hiểu ngay chuyện gì. Hắn giơ nắm tay to lớn lên:

    - Cút đi chỗ khác! Hắn la. Chết bây giờ!

    - Bà sai tôi đến... gã ngốc nghếch run run nói.

    - Cút đi chỗ khác, nghe rõ chưa? Người ta đang làm việc đây!

    Mimiki vắt giò lên cổ chạy. Zorba tức giận nhổ bọt.

    - Ban ngày là của công việc. Ban ngày là một người đàn ông. Ban đêm là để chơi đùa. Ðêm là một người đàn bà. Không được lẫn lộn!

    Ngay lúc đó tôi tiến lên.

    - Trưa rồi các bạn. Ðã đến giờ nghỉ và dùng bữa.

    Zorba quay lại, nhìn thấy tôi, và cau mày.

    - Xin lỗi ông chủ, để mặc chúng tôi. Ông cứ đi dùng bữa trưa đi. Chúng tôi đã mất mười hai ngày, bây giờ phải làm bù lại. Ông ăn ngon nhé!

    Tôi ra khỏi đường hầm và đi xuống biển. Tôi giở cuốn sách mà tôi mang theo. Tôi đói, nhưng tôi quên cả đói khát “Trầm tư cũng là một cái mỏ, tôi nghĩ, tiến tới!” Và tôi lao xuống những đường hầm lớn của trí óc.

    Một cuốn sách đáng sợ mô tả những ngọn núi tuyết phủ ở Tây Tạng, những tu viện huyền bí, những tu sĩ lặng lẽ trong tấm y mầu khương hoàng, tập trung ý chí, bắt thanh khí mặc những hình thể họ muốn.

    Trên những đỉnh cao, không gian đầy quỉ thần. Tiếng lao xao phù phiếm của thế tục không lên tới được trên ấy. Ðại khổ hạnh sư nửa đêm dẫn chúng đệ tử, từ mười sáu đến mười tám tuổi tới một cái hồ đóng băng trên núi. Họ cởi quần áo, đập vỡ băng, ném quần áo vào nước giá lạnh, mặc lại và để quần áo khô trên da thịt. Rồi họ lại nhào quần áo vào nước và hong khô chúng trên thân thể. Họ làm như vậy liên tiếp bảy lần. Sau đó họ trở về tu viện để công phu sáng.

    Họ trèo lên một đỉnh núi cao từ năm tới sáu ngàn bộ. Họ ngồi lặng lẽ, hít thở thẳm sâu, đều đặn. Họ cởi trần nhưng không cảm thấy lạnh. Họ cầm một cái ly nước đá trong lòng bàn tay, nhìn cái ly, tập trung tất cả sức mạnh trên nước băng giá và nước sôi sục. Ðoạn họ pha trà.

    Ðại khổ hạnh sư quây quần đệ tử xung quanh và nói:

    “Bất hạnh thay cho kẻ nào không có trong mình nguồn hoan hỷ!”

    “Bất hạnh thay cho kẻ nào muốn làm vui lòng người khác!”

    “Bất hạnh thay cho kẻ nào không cảm thấy rằng kiếp này và kiếp sau chỉ là một!”

    Ðêm đã xuống, tôi không còn nhìn thấy gì để đọc. Tôi gấp sách và nhìn biển khơi. “Ta phải giải thoát khỏi những bóng ma này, tôi nghĩ, những Ðức Phật, những Ðức Chúa, những Tổ Quốc, những Tư Tưởng... Bất hạnh thay cho kẻ nào không thể giải thoát khỏi những Ðức Phật, những Ðức Chúa, những Tổ Quốc, những Tư Tưởng!”

    Biển thình lình trở nên đen thẫm. Vầng trăng non lặn mau. Từ những mảnh vườn xa vẳng tiếng chó tru ai oán và toàn thể khe suối sủa vọng lại.

    Zorba hiện ra lem luốc vấy bùn; áo chemise tơi tả. Hắn ngồi xổm cạnh tôi.

    - Hôm nay được lắm, hắn vui vẻ nói, làm được khối việc đáng kể.

    Tôi nghe thấy những tiếng nói của Zorba nhưng không hiểu rõ ý nghĩa. Tâm trí tôi hãy còn ở trên những triền dốc huyền bí xa xôi và nguy hiểm.

    - Ông đang nghĩ gì đó, ông chủ? Tâm trí ông để ở đâu đâu.

    Tôi thu hồi tâm trí, quay lại. Tôi nhìn người bạn đường của tôi, lắc đầu.

    - Zorba, bác tưởng mình là một Sinh Bá nhà Hàng Hải ghê gớm, và bác làm tàng vì đã giang hồ phiêu bạt đôi nơi. Nhưng bác không thấy gì hết, không thấy gì hết. Không thấy tí gì, thật đáng thương! Cả tôi cũng thế. Thế giới bao la hơn chúng ta tưởng nhiều. Chúng ta du lịch, qua rừng, qua biển, tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thò mặt ra khỏi xó nhà.

    Kỳ 73



    Zorba bỉu môi, không nói gì cả. Hắn chỉ gừ gừ như một con chó trung thành khi bị chủ nhà đánh. Tôi nói tiếp:

    - Trên thế giới có những ngọn núi cao vời, bát ngát, đầy tu viện. Và trong những tịnh xá ấy có những tu sĩ áo vàng sống. Họ ngồi kiết già một tháng, sáu tháng, và chỉ quán tưởng tới một điều và điều duy nhất mà thôi. Một điều duy nhất thôi, bác nghe rõ chưa? Không hai, một thôi! Họ không nghĩ về đàn bà hay về than non như chúng ta, hay về sách vở và về than non: Họ tập trung tinh thần trên một và cùng một vật thôi, và họ tạo ra phép lạ. Phép lạ thường xảy ra như vậy. Bác thấy gì khi bác để một cái kính lúp ngoài mặt trời và hội tụ tất cả tia sáng trên một điểm độc nhất Zorba? Ðiểm đó chẳng bao lâu bắt lửa ngay. Tại sao? Bởi vì sức mạnh của mặt trời không bị tản mát, nó được hội tụ tất cả trên một điểm duy nhất đó. Tinh thần con người cũng vậy. Người ta tạo ra phép lạ bằng cách tập trung tinh thần trên một điều duy nhất. Bác hiểu không, Zorba?

    Zorba thở một cách nặng nhọc. Lát sau hắn nhúc nhích như muốn bỏ chạy. Nhưng hắn tự kềm chế mình.

    - Ông nói tiếp đi, lẩm bẩm bằng một giọng tắc nghẹn.

    Nhưng rồi hắn đứng phắt dậy, ngay ngắn.

    - Ông im đi! Im đi! Hắn la. Tại sao ông nói với tôi điều đó, ông chủ? Tại sao ông đầu độc tâm hồn tôi? Tôi đang yên lành ở đây, tại sao ông lại làm cho tôi bối rối bất an? Tôi đói. Thượng Ðế hay ma quỉ (trời đánh tôi nếu tôi thấy sự khác biệt giữa Thượng Ðế và ma quỉ) quẳng cho tôi một khúc xương, và tôi gặm. Tôi vừa vẫy đuôi vừa kêu: “Cám ơn! Cám ơn!” Bây giờ...

    Hắn giậm chân, quay đi, làm một cử động như muốn trở về lều, nhưng hắn vẫn còn sôi máu. Hắn ngừng lại.

    - Hừ! Khúc xương khốn nạn y ném cho tôi, tên thượng đế - ma quỉ đó! Hắn gầm lên. Một mụ ca kỹ già bẩn thỉu hết thời!

    Hắn vốc một nắm sỏi và liệng xuống biển.

    - Nhưng y là ai, y là ai, tên ném cho chúng ta những khúc xương đó?

    Hắn chờ một lát và hắn bực tức khi không thấy câu đáp.

    - Ông không nói gì sao, ông chủ? Hắn la lớn. Nếu ông biết, nói cho tôi hay để tôi biết tên y. Ông đừng lo ngại gì hết, tôi sẽ săn sóc y cẩn thận! Nhưng nếu lại ít hy vọng như vậy thì tôi biết đi về ngả nào bây giờ? Hỏng bét cả!

    - Tôi đói rồi, tôi nói. Về làm bếp đi là vừa. Ăn cái đã!

    - Chúng ta không thể nhịn đói một tối được sao, ông chủ? Tôi có một ông chú tu sĩ, ngày thường ông chỉ dùng muối với nước lã. Chủ Nhật và ngày lễ lớn, ông dùng thêm một chút cám. Vậy mà ông sống tới một trăm hai chục tuổi.

    - Ông ấy sống tới một trăm hai chục tuổi, Zorba, bởi vì ông có đức tin. Ông ta đã tìm thấy Thượng Ðế và không còn lo lắng gì nữa. Nhưng chúng ta không có Thượng Ðế nào để nuôi chúng ta, Zorba, bởi vậy bác hãy nhóm lửa đi, chúng ta có mấy con cá trác. Nấu một nồi xúp nóng, đặc, với thật nhiều hành và hồ tiêu vào, như chúng ta vẫn thích. Sau đó sẽ thấy.

    - Thấy gì? Zorba tức tối hỏi. Vừa khi no bụng một cái là chúng ta sẽ quên hết tất cả những điều đó.

    - Ðó chính là điều tôi muốn! Ðó là giá trị của thực phẩm, Zorba. Thôi, đi đi, nấu một nồi xúp cá thật ngon, nếu không đầu chúng ta nổ tung bây giờ!

    Zorba vẫn không nhúc nhích. Hắn đứng yên chăm chú ngó tôi.

    - Này, ông chủ, tôi có điều muốn nói với ông. Tôi biết ông định làm gì rồi. Khi ông đang nói với tôi, thình lình tôi thấy rõ những dự định của ông nhanh như chớp.

    - Tôi định làm gì, Zorba? Tôi tò mò hỏi.

    - Ông muốn xây một tu viện chứ còn gì nữa! Thay vì tu sĩ, ông qui tụ một vài ông cạo giấy như các hạ, tối ngày bôi bác nguệch ngoạc. Rồi, giống như mấy ông thánh người ta thấy trong những bức tranh cổ, từ miệng các ngài vọt ra những băng giấy in chữ. Tôi đoán có đúng không?

    Tôi cúi đầu, buồn bã. Những giấc mơ xưa của tuổi trẻ, đôi cánh rộng đã rụng hết lông - những ước vọng ngây thơ, bao dung, cao nhã... Thiết lập một đoàn thể trí thức, khép mình trong đó, một nhóm chừng mươi mười bạn thân - nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ... suốt ngày làm việc, chỉ gặp nhau ban đêm, ăn uống, ca hát, đọc sách chung với nhau, bàn luận những vấn đề lớn của nhân loại, đánh đổ những giải đáp truyền thống. Tôi đã soạn thảo những nội quy của đoàn thể. Tôi còn tìm thấy luôn cả trụ sở, ở Thánh-John-Liệp-Hộ, tại một ngọn đèo của rặng Hymettus...

    - Tôi đoán đúng quá! Zorba thích thú la lên khi thấy tôi vẫn im lặng.

    - Ðược rồi, lúc bấy giờ con sẽ xin ngài một đặc ân, thưa đức tu viện trưởng: Trong cái tu viện đó, xin ngài cho con chân gác cửa để con có thể buôn lậu và thỉnh thoảng đem vào một vài của lạ: đàn bà, đàn mandoline, bình rượu raki, lợn sữa quay... để ngài đừng phí hoài cuộc đời trong những câu chuyện tào lao!



    Kỳ 74



    Hắn cười to và hăng hái rảo bước về lều. Tôi chạy theo hắn. Hắn làm cá không hé môi trong khi tôi khuân củi và nhóm bếp. Xúp nấu xong, chúng tôi lấy muỗng và bắt đầu ngay từ trong nồi.

    Cả hai chúng tôi không ai nói gì cả. Chúng tôi ăn ngấu nghiến: Cả ngày chúng tôi chưa có gì dính răng. Chúng tôi uống rượu và tinh thần sảng khoái. Bây giờ Zorba mới mở miệng:

    - Bây giờ mà thấy mụ Bouboulina đến đây thì vui biết mấy, ông chủ nhỉ! Chỉ còn thiếu có mụ thôi. Mụ không có chút giá trị gì hết. Tuy nhiên ông cũng biết đó, ông chủ, tôi mong nhớ mụ quá, ma quỉ bắt mụ!

    - Thế bây giờ bác không hỏi ai đã ném cho bác khúc xương đặc biệt đó à?

    - Ông đếm xỉa đến điều đó làm chi, ông chủ? Nó tựa như một thứ cỏ nội hoa hèn ấy mà. Hãy gậm lấy khúc xương và đừng thắc mắc bàn tay nào đã ném cho mình khúc xương ấy. Nó có ngon không? Còn dính chút thịt nào trên đó không? Ðó là tất cả vấn đề cần đặt ra. Kỳ dư...

    - Thực phẩm đã hoàn thành cái phép lạ kỳ diệu của nó! Tôi vừa nói vừa vỗ vai Zorba. Thân thể đói khát đã lắng dịu! Thế rồi tâm hồn tra hỏi cũng lắng xuống theo. Lấy cây santuri xuống đây!

    Nhưng ngay lúc Zorba đứng dậy, chúng tôi nghe thấy những bước chân nhỏ vội vàng và đè nặng trên sỏi. Hai lỗ mũi đầy lông của Zorba hấp hiu.

    - Vừa nói tới ma là quỉ tới liền! Hắn vừa nói khẽ vừa vỗ đánh đét một cái vào đùi. Mụ đến đó! Con chó cái đã đánh hơi thấy mùi Zorba trong không khí và đã dẫn xác đến đó.

    - Tôi đi đây, tôi vừa nói vừa đứng lên. Tôi chán chuyện đó lắm. Tôi ra ngoài đi dạo một vòng. Muốn làm gì thì làm!

    - Ngủ ngon, ông chủ!

    - Ðừng quên nhé, Zorba. Bác đã hứa lấy mụ rồi đấy. Ðừng khiến tôi trở thành một kẻ nói dối.

    Zorba thở dài.

    - Lấy vợ nữa ư, ông chủ? Tôi ngán đến tận mang tai rồi!

    Mùi xà phòng thơm lại gần thêm.

    - Cố lên Zorba!

    Tôi vội vã ra khỏi lều. Bên ngoài, tôi đã nghe thấy hơi thở hổn hển của mụ ngư nữ già.



    17



    Sáng hôm sau, từ mờ sáng, tiếng nói của Zorba đã đánh thức tôi dậy.

    - Mới bảnh mắt ra mà đã có chuyện gì vậy? Tại sao bác la hét thế?

    - Không có gì nghiêm trọng, ông chủ, hắn vừa trả lời vừa nhét đồ ăn vào túi dết. Tôi đã dắt về hai con la, ông dậy đi, chúng ta tới tu viện ký giấy tờ để đặt đường sắt treo. Chỉ có một cái làm con sư tử sợ: Ðó là rận. Những con rận sẽ hút hết máu mủ chúng ta, ông chủ.

    - Tại sao bác lại coi mụ Bouboulina đáng thương như một con rận? Tôi vừa cười vừa nói.

    Zorba giả điếc.

    - Ði thôi, trước khi mặt trời lên quá cao.

    Tôi rất sung sướng được leo núi và ngửi mùi thông. Chúng tôi leo lên lưng những con vật của chúng tôi và bắt đầu leo dốc. Chúng tôi dừng lại một lát ở mỏ để Zorba cắt đặt công việc cho thợ cuốc hầm “Mẹ Bề Trên”, đào rãnh trong đường hầm “Nước Ðái” để tháo nước và dọn sạch “Canavaro”.

    Ngày rực rỡ như một viên kim cương đẹp nước. Càng lên cao, tinh thần chúng tôi càng trở nên tinh khiết và hứng khởi. Một lần nữa, tôi lại cảm thấy ảnh hưởng của không khí trong sạch, dễ thở và chân trời bao la trên tâm hồn. Con người cho rằng tâm hồn cũng là một con vật có phổi và lỗ mũi, nó cần nhiều dưỡng khí và nó chết ngộp trong bụi bậm hay giữa nhiều hơi thở hôi hám.

    Mặt trời lên cao khi chúng tôi vào đến rừng thông. Không khí phảng phất mùi mật ong, gió thổi trên đầu chúng tôi, ào ào như sóng biển. Trong cuộc hành trình, Zorba quan sát độ dốc của núi. Trong trí tưởng tượng, vài thước một hắn lại trồng một cây cột, và khi ngước mắt lên, hắn đã trông thấy dây cáp sáng lòa dưới ánh mặt trời và chạy thẳng cho tới bờ biển. Treo vào dây cáp, những thân cây đã bị đốn vừa lướt đi vừa rít lên như tên bắn.

    Hắn xoa tay vào nhau nói:

    - Tuyệt diệu! Ðây sẽ là một mỏ vàng! Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ ngồi trên đống vàng mười và có thể thực hiện tất cả những việc gì chúng ta đã nói.

    Tôi ngạc nhiên nhìn hắn.

    - Ô kìa, ông quên hết cả rồi sao? Trước khi xây tu viện, chúng ta sẽ trèo lên một ngọn núi cao. Ông gọi là núi gì nhỉ? Thèbes phải không?

    - Tây Tạng, Zorba, Tây Tạng. Nhưng chỉ có hai chúng ta thôi. Bác không thể mang đàn bà đến đó được đâu.

    - Ai nói chuyện đem đàn bà tới? Nhưng dù sao những kẻ đáng thương đó rất có ích, vì thế đừng nói xấu họ; rất có ích, khi một người đàn ông không có một công việc đàn ông để làm như khai mỏ than, tấn công những thành phố hay nói chuyện với Thượng Ðế. Trong trường hợp đó hắn còn nói có việc gì để làm để khỏi chết? Hắn uống rượu, chơi súc sắc, vuốt ve đàn bà... và hắn chờ đợi. Hắn chờ thời - nếu thời cơ đến.



    Kỳ 75



    Hắn im lặng một lát.

    - Nếu thời cơ đến! Hắn tức tối nhắc lại, vì có thể nó sẽ không bao giờ đến cả.

    Và một lát sau:

    - Nó không thể tiếp tục thế này mãi được, ông chủ; hoặc là thế giới sẽ phải nhỏ đi hoặc là tôi sẽ phải vĩ đại hơn lên. Nếu không tôi hỏng mất.

    Một tu sĩ hiện ra giữa rặng thông, tóc đỏ và nước da vàng, tay áo xắn lên, đội một cái mũ len tròn dệt lấy ở nhà trên đầu. Ông ta cầm một cây sắt, vừa đập xuống đất vừa xoạc cẳng bước. Khi nhìn thấy chúng tôi, ông ta ngừng lại và nhấc cây gậy lên:

    - Các ông đi đâu? Ông ta hỏi.

    - Tới tu viện, Zorba đáp. Chúng tôi tới cầu nguyện.

    - Quay về đi, giáo đồ Cơ Ðốc Giáo! Tu sĩ đó la lớn, cặp mắt trong xanh của ông ta đỏ ngầu lên khi ông ta nói. Quay về đi, vì lợi ích của các ông tôi khuyên như vậy. Ðó không phải là vườn cây ăn trái của Ðức Mẹ Ðồng Trinh đâu, đó là vườn cây của Quỉ. Nghèo khó, khiêm nhượng, thanh khiết... Sự quang vinh của tu sĩ như người ta nói! Hi! Hi! ! Hi! Ði về đi, tôi khuyên các ông. Tiền bạc, kiêu căng, trai tân! Ðó là Tam Vị Nhất Thể thiêng liêng của họ!

    - Gã này là một tên kỳ cục, ông chủ, Zorba thích thú nói thầm với tôi.

    Hắn quay sang gã:

    - Sư huynh tên chi? Và sư huynh từ đâu tới đây?

    - Tôi tên Zaharia. Tôi khăn gói ra đi đây! Ði luôn! Tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa! Cho tôi hân hạnh được biết quí danh, đồng bào.

    - Canavaro.

    - Tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa, bạn Canavaro. Suốt đêm Chúa rên rỉ và ngăn không cho tôi ngủ. Và tôi rên rỉ với Ngài. Thế rồi lão tu viện trưởng - cầu cho lão bị quay chín trong lửa Ðịa Ngục! - sáng sớm hôm nay cho gọi tôi lên, lão nói: “Này, Zaharia, không để cho các sư huynh ngủ sao? Tôi sắp phải đuổi thầy. - Tôi không để cho họ ngủ ư? Tôi nói, tôi hay Chúa? Chính Chúa rên rỉ đó!”

    “Thế rồi lão giơ thánh giá lên, lão Quỉ Vương phản Chúa đó, và, này nhìn đây!”

    Gã bỏ mũ trùm đầu tu sĩ ra và cho thấy một vũng máu đã đóng cục trong tóc.

    - Thế là tôi rũ áo đi liền.

    - Trở lại tu viện với chúng tôi, Zorba nói. Tôi sẽ dàn xếp với tu viện trưởng. Ði, bạn có thể đi cùng với chúng tôi và chỉ đường cho chúng tôi. Thật đúng là trời khiến bạn đến đó.

    Gã thầy tu suy nghĩ một lát. Mắt gã sáng lên. Cuối cùng gã hỏi:

    - Các ông sẽ thuê tôi cái gì?

    - Bạn muốn gì?

    - Một ký cá thu muối và một chai rượu mạnh.

    Zorba trố mắt nhìn gã:

    - Phải chăng thỉnh thoảng bạn có một con quỉ nào đó trong bạn Zaharia?

    Gã thầy tu giật nẩy mình:

    - Sao bạn biết rõ vậy?

    - Tôi từ núi Athos tới, Zorba trả lời. Tôi biết sơ sơ về điều đó!

    Gã thầy tu cúi đầu khẽ đáp:

    - Vâng, tôi có con quỉ trong tôi.

    - Và nó muốn cá thu muối và rượu mạnh, đúng không?

    - Vâng, con quỉ bị đầy địa ngục ba lần ấy!

    - Thôi, được rồi! Thế nó có hút nữa không?

    Zorba ném cho gã một điếu thuốc và gã thầy tu vội vàng vồ lấy.

    - Nó hút, vâng, nó hút, đồ mắc dịch!

    Và gã móc túi lấy ra một hòn đá lửa và một cái bấc, châm điếu thuốc và rít đến tận đáy phổi.

    - Nhân danh Chúa tôi! Gã nói.

    Gã nhấc cây gậy lên, quay đầu lại và đi mở đường.

    - Con quỉ của bạn tên nó là? Zorba vừa hỏi vừa nháy tôi.

    - Joseph! Zaharia trả lời không quay lại.

    Tôi chẳng thích đi cùng với gã thầy tu nửa điên nửa khùng này chút nào. Một tâm trí bệnh hoạn cũng như một linh hồn bệnh hoạn khiến tôi thương hại và đồng thời ghê tởm. Nhưng tôi không nói gì hết, để mặc Zorba muốn làm gì thì làm.

    Không khí trong lành làm chúng tôi mau đói. Chúng tôi ngồi dưới một cây thông vĩ đại và mở túi dết. Gã thầy tu cúi xuống và hau háu nhìn xem có gì trong đó.

    - Khoan đã! Zorba hét, đừng liếm mép vội, Zaharia! Hôm nay là Thứ Hai tuần thánh. Chúng tôi là hội viên hội Tam-Ðiểm, chúng tôi sẽ ăn chút thịt, một con gà giò, Thượng Ðế tha tội cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng có halva và ô-liu cho dạ dầy đức ngài, này!

    Gã thầy tu vuốt chòm râu nhớp nhúa:

    - Tôi, Zaharia, tôi ăn chay, tôi sẽ ăn ô-liu và bánh với nước lã, gã nói một cách thống hận... Nhưng Joseph, con quỉ, nó sẽ ăn thịt gà giò với các bạn; nó thích gà giò, và nó sẽ uống rượu trong bầu các bạn, tên mất linh hồn đó!

    Gã làm dấu, ngấu nghiến ăn bánh, ô-liu, halva, chùi miệng bằng mu bàn tay, uống nước, đoạn lại làm dấu thánh giá như thể gã đã ăn xong bữa.

    - Nào, bây giờ đến lượt Joseph, tên bị đọa địa ngục ba lần khốn khổ ấy nào!

    Và gã vồ lấy con gà giò.

    - Ăn đi, tên mất linh hồn! Gã vừa lẩm bẩm một cách giận dữ vừa đưa những miếng thịt gà lớn vào miệng, ăn đi!

    - Hoan hô, ông thầy tu! Zorba khoái chí là lên. Thầy bắt cá hai tay tài thật.

    Hắn quay sang tôi:

    - Ông thấy gã thế nào, ông chủ?

    - Gã giống bác, tôi vừa cười vừa trả lời.

    Zorba trao cho gã thầy tu bầu rượu:

    - Joseph, làm một hớp!

    - Uống đi! Tên mất linh hồn! Gã thầy tu vừa nói vừa cầm bầu rượu đưa lên miệng.

    Kỳ 76



    Mặt trời nóng gay gắt, chúng tôi lui vào bóng mát. Gã thầy tu nồng mùi mồ hôi chua ra trầm hương. Gã sắp tan thành nước trong ánh mặt trời và Zorba phải lôi gã vào chỗ râm mát nhất để gã đừng bốc mùi hôi thối quá.

    Zorba lúc này đã ăn uống no nê và muốn nói chuyện phiếm, hắn hỏi:

    - Bạn trở thành tu sĩ như thế nào?

    Gã thầy tu cười khẩy:

    - Có lẽ bạn cho là vì thánh thiện? Chắc vậy! Vì nghèo đói, bạn ơi, vì nghèo đói! Tôi không có gì để ăn, vì thế tôi tự nhủ: “Ta chỉ còn nước đi vào tu viện để khỏi chết đói mà thôi!”

    - Và bạn có mãn nguyện không?

    - Lạy Chúa! Tôi khao khát than thở luôn luôn, nhưng xin bạn đừng để ý tới điều đó. Tôi không khao khát những chuyện trần gian, những cái đó, tôi i... vào, xin lỗi bạn, ngày nào tôi cũng i... vào. Nhưng tôi khao khát thiên đàng! Tôi kể chuyện khôi hài và tôi nhảy nhót làm bọn thầy tu cười. Tất cả đều bảo tôi bị quỉ ám và nhục mạ tôi. Nhưng tôi thầm nhủ: “Không thể được, chắc chắn Thượng Ðế phải ưa sự đùa giỡn.” “Vào trong này, chú hề nhỏ bé của ta, vào trong này!” Tôi biết một ngày kia ngài sẽ nói với tôi như vậy. “Ðến làm trò cười cho ta!” Tôi sẽ vào Thiên Ðàng như một tên hề vậy đó.

    - Bạn ơi! Tôi tin rằng cái đầu bạn vít đúng chỗ đấy! Zorba vừa nói vừa đứng dậy. Thôi đi kẻo tối!

    Gã thầy tu lại đi mở đường. Trong khi leo núi tôi có cảm tưởng đang leo lên những cấp bậc tinh thần trong tôi, đi từ những lo âu đê hạ tầm thường tới những mối bận tâm cao cả hơn, từ những chân lý tiện nghi của đồng bằng với những lý thuyết hiểm trở.

    Ðột nhiên gã thầy tu dừng lại.

    - Ðức Bà Trừng Phạt! Gã la lên, tay chỉ một giáo đường nhỏ mái tròn duyên dáng.

    Gã quì xuống và làm dấu thánh giá.

    Tôi xuống la và bước vào nhà nguyện. Trong một góc tường có một tượng Thánh Mẫu cổ kính, ám khói và đầy đồ mã: những tấm bạc mỏng trên đó những bàn chân, bàn tay, những đôi mắt, những trái tim... được khắc một cách thô sơ. Một ngọn đèn chầu bằng bạc trước thánh tượng duy trì một ánh sáng không bao giờ tắt.

    Tôi lặng lẽ lại gần: một tượng Thánh Mẫu dữ dội, hiếu chiến, khuôn cổ mạnh mẽ và tia mắt nghiêm khắc, xao xuyến của một trinh nữ, giữ trong tay, không phải Chúa hài đồng mà là một cây giáo dài thẳng băng.

    - Khốn cho kẻ nào xúc phạm tới tu viện! Gã thầy tu kinh sợ nói. Bà sẽ lao vào hắn và cây giáo của Bà sẽ xuyên qua người hắn. Ngày trước quân Algérie đến đây đốt tu viện. Nhưng hãy coi chúng bị trừng phạt thế nào, những quân vô lại ấy; lúc chúng đi qua giáo đường này, đức Mẹ Ðồng Trinh từ tượng Thánh Mẫu nhẩy xuống và lao ra ngoài và bắt đầu đập bằng cây giáo, đập tứ tung; Ðức Bà giết chết hết cả bọn. Ông nội tôi nhớ trông thấy hài cốt chúng ngổn ngang khắp cánh rừng. Bắt đầu từ đó, người ta gọi Ðức Bà là Ðức Bà Trừng Phạt. Trước kia người ta gọi bà là Ðức Mẹ Nhân Từ.

    - Tại sao Ðức Bà không làm phép lạ trước khi chúng đốt tu viện, thưa cha Zaharia? Zorba hỏi.

    - Bề-Trên muốn như vậy! Gã thầy tu vừa trả lời vừa làm dấu ba lần.

    - Ðồ-Bề-Trên! Zorba lẩm bẩm, hắn trèo lên yên. Lên đường.

    Chẳng bao lâu, trên một cao nguyên, người ta thấy tu viện Ðức Mẹ Ðồng Trinh hiện ra giữa núi đá và thông. Thanh thản, tươi sáng, cách biệt thế gian, nằm lọt thỏm trong hẻm của đèo cao xanh tốt này, hòa hợp một cách sâu thẳm sự cao nhã của đỉnh cao và sự dịu dàng của đồng bằng, đối với tôi tu viện này là một nơi ẩn dật tuyệt vời nhất cho sự trầm tư nhân loại.

    “Nơi đây, tôi nghĩ, một tâm hồn giản phác và dịu dàng có thể đào luyện một hứng khởi tôn giáo xứng hợp với tầm vóc con người. Không phải là một đỉnh cao cheo leo, siêu nhân, cũng chẳng là một đồng bằng lười biếng, tham dục, nhưng chỉ là cái gì cần thiết cho tâm hồn vươn lên mà không đánh mất vẻ ôn nhu nhân loại của mình. Một cảnh giới như thế này, tôi tự nhủ, sẽ không tạo ra anh hùng cũng chẳng sinh sản ra heo chó. Nó sẽ đào luyện ra con người.”

    Nơi đây hoàn toàn xứng hợp với một đền thờ cổ Hy Lạp duyên dáng hay một thánh đường Hồi giáo vui tươi. Thượng Ðế phải giáng xuống đây trong hình thể nhân loại đơn giản của ngài. Ngài phải đi chân trần trên cỏ xuân và chuyện trò lặng lẽ với con người.

    - Kỳ diệu thay! Cô đơn thay! Hoan lạc thay!

    Chúng tôi xuống la, đi vào cửa giữa vòng tò vò, trèo lên phòng khách, nơi người ta mang đến cho chúng tôi khay rượu raki, mứt và cà-phê cổ truyền. Cha phụ trách tiếp khách đến, các tu sĩ vây quanh chúng tôi và người ta bắt đầu nói. Những cặp mắt tinh quái, những cặp môi tham lam, những chòm râu ria, và những cái nách hôi mùi dê đực.

    - Các ông không mang báo tới sao? Một tu sĩ băn khoăn hỏi.

    - Báo ư? Tôi ngạc nhiên hỏi lại. Các Cha làm gì bằng báo ở đây?

    - Thưa huynh, một tờ báo để biết tình hình thế giới dưới kia! Hai ba tu sĩ tức giận la lên.

    òng khách, nơi người ta mang đến cho chúng tôi khay rượu raki, mứt và cà-phê cổ truyền. Cha phụ trách tiếp khách đến, các tu sĩ vây quanh chúng tôi và người ta bắt đầu nói. Những cặp mắt tinh quái, những cặp môi tham lam, những chòm râu ria, và những cái nách hôi mùi dê đực.

    - Các ông không mang báo tới sao? Một tu sĩ băn khoăn hỏi.

    - Báo ư? Tôi ngạc nhiên hỏi lại. Các Cha làm gì bằng báo ở đây?

    - Thưa huynh, một tờ báo để biết tình hình thế giới dưới kia! Hai ba tu sĩ tức giận la lên.

    Kỳ 77



    Bám vào những thanh sắt ở bao lơn, họ nói quang quác như một đàn quạ. Họ say sưa nói về nước Anh, Venizelos, vua. Thế giới đã khu trục họ, nhưng họ không khu trục thế giới. Mắt họ đầy những kinh đô lớn, cửa tiệm buôn, đàn bà, báo chí...

    Một tu sĩ to béo lông lá đứng lên và hít mạnh.

    - Tôi có cái này muốn cho ông xem, ông ta bảo tôi. Ông có thể cho tôi biết ý kiến của ông. Ðể tôi đi lấy.

    Ông ta đi, hai bàn tay lông lá ngắn ngủi đan vào nhau đặt trên bụng, lết đôi giầy păng-túp dạ lệt xệt và biến dạng sau cánh cửa.

    Cả bọn tu sĩ cười ngạo một cách độc ác.

    - Cha Demetrios lại mang dì phước bằng đất sét của cha tới, ông cha phụ trách tiếp khách nói. Ma quỉ chôn tượng ấy dưới đất để đặc biệt dành cho mình và một hôm Demetrios tìm thấy khi đang cuốc vườn. Cha mang về phòng và, từ đó, cha mất ngủ. Cha gần mất cả trí khôn nữa.

    Zorba đứng dậy. Hắn nhột.

    Chúng tôi tới gặp tu viện trưởng để ký giấy tờ, hắn nói:

    - Ngài tu viện trưởng không có đây, cha phụ trách tiếp khách đáp, sáng nay ngài xuống làng. Hãy kiên nhẫn.

    Cha Demetrios lại hiện ra, hai bàn tay siết lại với nhau và vươn ra như cha đang mang bình rượu lễ.

    - Ðây này! Cha vừa nói vừa cẩn thận mở tay ra.

    Tôi lại gần. Một pho tượng Tanagra nhỏ xíu, mình trần, lẳng lơ, mỉm cười với tôi trong lòng bàn tay mập mạp của gã thầy tu. Nàng ôm đầu bằng một bàn tay còn lại.

    - Nàng nghiêng đầu như vậy có nghĩa là nàng có một viên ngọc, có thể là một viên kim cương hay một viên ngọc trai. Ông nghĩ sao? Demetrios hỏi.

    - Tôi cho rằng ả ta bị nhức đầu, một gã thầy tu châm chọc xen vào.

    Nhưng Demetrios to lớn, môi chẩu ra như môi dê, nhìn tôi và chờ đợi một cách nóng nẩy:

    - Tôi nghĩ có lẽ phải đập ra để xem. Ban đêm tôi không sao ngủ được... Có thể có một viên kim cương bên trong...

    Tôi nhìn thiếu nữ duyên dáng với cặp vú săn chắc, bị lưu đầy ở đây trong trầm hương và giữa những vị thần khổ hạnh nguyền rủa xác thịt, tiếng cười và nụ hôn.

    A! Ước chi tôi có thể cứu được nàng.

    Zorba cầm lấy pho tượng, sờ mó tấm thân thể đàn bà mảnh mai, và ngón tay hắn run run dừng lại trên đôi vú rắn chắc, nhọn hoắt.

    - Nhưng cha không thấy rằng đó là quỉ sao? Hắn hỏi. Ðó chính là quỉ, không thể sai lầm được. Ðừng lo, tôi biết rõ gã, tên trời đánh đó. Nhìn ngực nó đây, cha Demetrios - tròn, rắn chắc, tươi mát. Ngực ma quỉ giống hệt như vậy, tôi biết rõ quá mà.

    Một gã thầy tu nhỏ hiện ra trên ngưỡng cửa. Mặt trời chiếu sáng trên mớ tóc vàng và khuôn mặt tròn, măng tơ.

    Gã thầy tu miệng lưỡi đầy nọc độc nháy cha tiếp khách. Cả hai cùng cười một cách tinh quái. Họ nói:

    - Cha Demetrios, Gavrill, chủ tiểu của cha kìa.

    Gã thầy tu nắm chặt lấy pho tượng mỹ nhân nhỏ xíu bằng đất sét lập tức và lăn như cái thùng ton-nô ra phía cửa. Tên đệ tử đẹp trai lặng lẽ đi trước, chân bước nhún nhẩy. Họ khuất dạng sau cái hành lang rộng, đổ nát.

    Tôi ra hiệu cho Zorba và chúng tôi ra sân. Trời ấm áp bên ngoài. Giữa sân một cây cam đơm hoa dâng hương ngát không gian. Gần bên, nước chảy róc rách từ một cái đầu trừu cẩm thạch thượng cổ. Tôi kề đầu phía dưới đầu trừu và cảm thấy tỉnh táo.

    - Không hiểu cái lũ này thuộc loại gì? Zorba ghê tởm hỏi. Không phải đàn ông cũng chẳng phải đàn bà, chúng là con la. Khiếp! Treo cổ chúng lên cho rồi.

    Hắn lao đầu dưới dòng nước mát mẻ và phá lên cười:

    - Khiếp! Treo cổ chúng lên! Hắn nhắc lại. Cả lũ tên nào cũng có một con quỉ trong mình. Tên thì thèm muốn đàn bà, tên muốn cá thu, tên muốn tiền, tên muốn báo... Thật là một bọn đần độn! Tại sao chúng ta không ra đời, để thỏa mãn chán chê tất cả những thứ đó và tẩy sạch đầu óc nhỉ?

    Hắn châm một điếu thuốc và ngồi xuống ghế dài dưới cây cam trổ hoa. Hắn nói:

    - Khi tôi khao khát một điều gì ông có biết tôi làm chi không? Tôi nhồi nhét cho đến khi chán mứa để trừ khử nó và không bao giờ nghĩ đến nó nữa. Hay buồn nôn khi nghĩ đến nó. Khi còn nhỏ, tôi thèm anh đào như điên cuồng. Tôi không có nhiều tiền, nên mỗi lần mua không được bao nhiêu, vì thế sau khi ăn xong, tôi vẫn còn thòm thèm. Ngày đêm tôi chỉ mơ tưởng tới anh đào. Tôi thèm rỏ rãi, đúng là một cực hình! Nhưng một hôm tôi phát điên hay tôi xấu hổ, tôi không rõ. Dẫu sao tôi cũng cảm thấy rằng anh đào đã biến tôi thành một đồ chơi trong tay chúng muốn vần thế nào thì vần và điều đó khiến tôi trở thành lố bịch. Thế rồi tôi làm gì ông có biết không? Ðang đêm tôi rón rén thức dậy, lục túi cha tôi. Tôi thấy một đồng medjdie bạc và tôi chớp luôn. Sáng sớm hôm sau tôi tới nhà người chủ vườn và mua một thúng anh đào. Tôi chui xuống một cái hố và bắt đầu ăn. Tôi nhồi nhét, tọng cho đến khi bụng căng lên như một cái trống. Lát sau bụng tôi quặn đau và tôi mửa. Tôi mửa, tôi mửa tháo ra hết và kể từ hôm đó tôi đoạn tuyệt với anh đào. Tôi không thể chịu nổi ngay cả hình ảnh của chúng. Tôi được giải thoát. Tôi nhìn chúng và bảo: “Ta không cần các ngươi nữa!” Sau này tôi cũng làm vậy đối với rượu và thuốc lá. Tôi vẫn còn uống, tôi vẫn còn hút. Nhưng nếu tôi muốn, húp! Tôi bỏ liền. Tôi không bị chế ngự bởi đam mê. Ðối với tổ quốc cũng vậy. Tôi đã nghĩ quá nhiều đến tổ quốc, nên tôi đã ngán nó đến tận mang tai, tôi mửa và tôi thoát khỏi nó.

    - Thế còn đối với đàn bà? Tôi hỏi.

    - Sẽ đến lượt bọn chúng, mấy con đĩ, sẽ đến lượt bọn chúng! Nhưng khi nào tôi bẩy mươi tuổi đã.

    Kỳ 78



    Hắn suy nghĩ một lát, hình như thấy rằng thời hạn đó có vẻ cấp bách quá, hắn chữa:

    - Tám mươi. Ðiều đó làm ông tức cười, ông chủ, nhưng ông cứ cười đi! Con người tự giải thoát cách đó!

    Chú ý nghe điều tôi nói; con người tự giải thoát bằng cách đó: bằng cách nhồi nhét cho đến khi chán mứa đến tận cổ họng chứ không phải bằng cách tuyệt dục khổ hạnh. Bạn ơi, làm cách nào bạn hy vọng diệt trừ được con quỉ nếu chính bạn không trở thành một con quỉ?

    Demetrios hổn hển đi vào trong sân, theo sau là tiểu tu sĩ tóc vàng.

    - Người ta có thể nói đó là một thiên thần trong cơn thịnh nộ, Zorba lẩm bẩm, thán phục vẻ bẽn lẽn và duyên dáng thanh xuân của gã.

    Họ hướng về cầu thang đá dẫn lên tầng trên. Demetrios quay lại, nhìn chú tiểu và nói điều gì với gã. Gã thầy tu nhỏ lắc đầu như từ chối. Nhưng gã ngoan ngoãn gật đầu ngay. Gã vòng tay ôm ngang lưng lão thầy tu già và họ cùng chậm rãi bước lên thang.

    Zorba hỏi tôi:

    - Ông hiểu không? Ông hiểu không? Sodom và Momorrah!

    Hai gã thầy tu thò mặt ra. Họ nháy nhau, thì thầm điều gì và cười.

    - Thật là độc ác! Zorba càu nhàu. Lang sói không bao giờ ăn thịt lẫn nhau, nhưng thầy tu ăn thịt nhau! Hãy nhìn chúng cắn xé lẫn nhau.

    - Lẫn nhau, tôi vừa nói vừa cười.

    - Bạn ơi, ở đây cũng thế chứ có khác chi đâu, đừng choáng váng! Những con la, tôi xin nói với ông, ông chủ! Ông có thể nói theo tính tình ông, Gavrillis hay Gavrila, Demetrios hay Demetria. Chúng ta đi thôi, ông chủ, cấp tốc ký giấy tờ và đi ngay. Nói thực với ông, ở đây, thế nào rồi cuối cùng cũng sẽ ghê tởm cả đàn ông lẫn đàn bà.

    Hắn hạ thấp giọng:

    - Tôi cũng có một kế hoạch...

    - Lại một chuyện điên cuồng gì nữa, Zorba. Bác chưa thấy chán hay sao? Nào, nói kế hoạch của bác đi coi nào.

    Zorba nhún vai:

    - Làm sao nói với ông điều đó, ông chủ! Ông thứ lỗi cho, ông là một người trung hậu, ông ân cần với bất kỳ một người nào. Mùa Ðông, giá ông thấy một con bọ chét cạnh chăn bông của ông, chắc thế nào ông cũng đặt nó dưới chăn để nó đừng cảm lạnh. Làm sao ông có thể hiểu nỗi một tên cướp lão luyện như tôi! Tôi, nếu tôi mà thấy một con bọ chét! Sát! Tôi dí nó chết bẹp liền. Nếu tôi thấy một con cừu, hấp! Tôi cắt tiết nó, xâu nướng và mời bồ bịch ăn liền. Ông sẽ bảo tôi: con cừu này không phải của bác! Tôi biết điều đó. Nhưng cứ để đó, ông bạn, ăn trước hết, rồi sau đó sẽ nói chuyện hay bàn cãi một cách hết sức bình tĩnh về cái “của anh” và cái “của tôi”. Ông tha hồ nói sướng miệng trong khi tôi chà xát răng bằng cây quẹt.

    Có tiếng cười ồn ào trong sân. Zaharia sợ hãi hiện ra. Gã đặt một ngón tay lên môi và nhón chân bước lại gần:

    Suỵt! Ðừng cười! Trông kìa, đằng sau cửa sổ nhỏ kia, đức giám mục đang làm việc. Ðó là thư viện. Ông ấy viết. Ông ấy viết suốt ngày, con người thánh thiện, đừng cười!

    - Kìa, tôi đang muốn gặp bạn, cha Joseph! Zorba vừa nói vừa nắm lấy cánh tay gã thầy tu. Vào phòng bạn, chúng ta nói chuyện một chút.

    Và, quay sang tôi, hắn nói:

    - Trong khi đó, ông đi thăm viếng nhà thờ và ngắm những thánh tượng cổ kính đi. Tôi chờ tu viện trưởng, không nên để chậm trễ. Nhất là đừng xen vào bất cứ việc gì hết, ông sẽ làm rối beng hết! Cứ để tôi, tôi có kế hoạch.

    Hắn cúi xuống nói rỉ tai tôi:

    - Chúng ta sẽ mua cánh rừng với nửa giá tiền... Ðừng nói gì cả!

    Hắn vội vã chạy đi, đưa tay khoác tay gã thầy tu điên.



    18



    Tôi bước qua ngưỡng cửa nhà thờ và đi sâu vào bóng tối mát và thơm ngát bên trong.

    Giáo đường vắng lặng. Giá đèn đồng sáng một cách yếu ớt, bức bình phong có thánh tượng làm một cách tỉ mỉ chiếm hết phần cuối giáo đường, trên có hình vẽ một cây nho bằng vàng trĩu trái. Bốn bên tường, từ trên xuống dưới, phủ đầy bích họa đã bị xóa đi một nửa: những tu sĩ khổ hạnh sợ hãi gầy trơ xương, những giáo phụ, hình khổ lâu dài của Chúa; những thiên thần khỏe mạnh và dữ tợn, tóc buộc bằng những giải băng đã bạc màu vì ẩm thấp.

    Trên vòm cao, Ðức Mẹ Ðồng Trinh tay mở rộng, khẩn cầu. Ánh sáng lung linh từ một ngọn đèn chầu bằng bạc nặng nề thắp trước ngài, chập chờn và vuốt ve khuôn mặt gầy gò của ngài. Tôi sẽ không bao giờ quên được cặp mắt đau khổ, cái miệng tròn mím lại và cái cằm mạnh mẽ và cương quyết. Tôi nghĩ: “Ðây là bà mẹ hoàn toàn sung sướng và mãn nguyện, dẫu trong cơn đau đớn dày vò nhất, bởi bà cảm thấy từ trong bụng dạ không bền của mình đã phát sinh ra một cái gì bất tử.”

    Kỳ 79



    Khi tôi bước qua ngưỡng cửa giáo đường trở lại thì mặt trời đang lặn. Tôi ngồi dưới gốc cây cam sung sướng. Mái nhà thờ đỏ hồng như thể bình minh đang lên. Các tu sĩ trở lại phòng riêng nghỉ ngơi.

    Ban đêm họ không ngủ, họ phải lấy lại sức. Ðêm nay Chúa bắt đầu trèo lên Golgotha và họ phải trèo lên đó với Ngài. Hai con lợn nái vú hồng đang nằm thiu thiu ngủ dưới một cây minh-quyết. Những con bồ câu đang giao cấu và kêu gù gù trên mái. Tôi nghĩ thầm: “Ta có thể sống và tận thưởng sự dịu dàng này của trái đất, không khí, sự yên lặng và hương cam đang độ cho đến bao giờ?” Một thánh tượng của thánh Bacchus mà tôi chiêm bái trong một giáo đường đã khiến tâm hồn tôi dạt dào hạnh phúc. Tất cả những cái làm tôi xúc động sâu xa nhất: sự vững vàng trong nỗ lực, bền bỉ trong ước vọng một lần nữa lại phát lộ trước mắt tôi. Cảm tạ thánh tượng thanh niên Cơ Ðốc giáo nhỏ bé duyên dáng với những búp tóc xõa xuống trán như những chùm nho này. Dionysos, tửu thần và thần say sưa ngây ngất khôi vĩ và thánh Bacchus hợp nhất trong tôi, cùng mang một khuôn mặt. Dưới những phiến lá nho và dưới tấm áo chùng của tu sĩ, run lên nhịp đời của cùng một thân thể, thiêu đốt dưới ánh sáng mặt trời - Hy Lạp.

    Zorba trở lại và hấp tấp nói với tôi:

    - Tu viện trưởng đã đến. Chúng tôi đã nói chuyện một lát. Phải tán tỉnh nịnh hót lại lão mới chịu: lão nói lão không muốn nhượng cánh đồng vì một giá rẻ mạt; lão đòi hỏi nhiều hơn chúng ta định nhiều, thằng chó đểu, nhưng tôi sẽ thu xếp xong xuôi.

    - Tại sao phải tán tỉnh nịnh hót? Mình với họ đã chẳng thỏa thuận với nhau rồi sao?

    - Ông đừng xen vào, ông chủ, xin ông đó! Zorba khẩn khoản. Ông chuyên môn làm hư công việc không. Ông ở đó mà nói tới giao kèo cũ, cái đó đã hủy bỏ từ lâu rồi! Ông đừng cau mày, cái đó đã hủy bỏ rồi, thật đấy! Chúng ta sẽ có cánh rừng với giá nửa tiền.

    - Nhưng bác còn đang âm mưu cái gì nữa đó, Zorba?

    - Ông đừng quan tâm, đó là việc riêng của tôi. Tôi đang cho dầu mỡ vào công việc cho nó trơn tru, ông nghe thủng chưa?

    - Nhưng tại sao mới được chứ? Tôi không hiểu.

    - Bởi vì tôi đã tiêu quá lố ở Candia, đó! Bởi vì Lola đã nuốt của tôi, nghĩa là của ông, một số tiền không nhỏ. Ông tưởng tôi quên sao? Ai cũng có lòng tự ái chứ? Không thể có một vết nhơ nào trên danh thơm của tôi! Tôi tiêu, tôi trả. Tôi tính toán: Lola đã làm tôi tốn mất bẩy ngàn drachma, tôi sẽ xoay vào giá cánh rừng. Chính lão tu viện trưởng, tu viện, Ðức Mẹ Ðồng Trinh phải trả cho Lola. Ðó là kế hoạch của tôi. Ông đồng ý không?

    - Không đồng ý chút nào hết. Ðức Mẹ phải chịu trách nhiệm về những sự hoang phí của bác ở cái khổ nào?

    - Bà phải chịu trách nhiệm và trác nhiệm hơn hết. Này nhé: Bà đã tạo ra Chúa. Chúa đã tạo ra tôi, Zorba, và ngài cho tôi những đồ nghề - ông hiểu ý tôi muốn nói gì. Và những đồ nghề trời đánh đó khiến đầu óc tôi điên đảo và mở túi tiền ra bất cứ nơi nào tôi gặp cái giống cái. Ông nghe thủng chưa? Vì vậy, Ðức Thánh Mẫu phải chịu trách nhiệm và trách nhiệm hơn hết. Ðể bà trả là phải rồi!

    - Tôi không thích vậy, Zorba.

    - Ðó là chuyện khác, ông chủ. Trước hết hãy vớt vát lại bẩy ngàn đồng đi đã sau đó, chúng ta sẽ thảo luận! “Hôn cô trước đi, cưng, ta sẽ lại là cô cháu sau...” Ông biết bài hát đó?

    Cha phụ trách tiếp đãi khách to béo hiện ra:

    - Xin mời vào, ông ta nói bằng một giọng ngọt ngào của tăng lữ, bữa ăn đã dọn xong rồi.

    Chúng tôi đi xuống phòng ăn, một gian phòng lớn có những ghế dài và những cái bàn dài hẹp. Mùi dầu chua và hôi hôi phảng phất trong không khí. Cuối phòng, có một bức bích họa cổ vẽ Bữa Tiệc Cuối Cùng. Mười một tông đồ quây quần xung quanh Chúa như một bầy chiên, và, phía bên kia, đứng một mình một góc, tóc hoe, trán dô, mũi quặm là Judas, con chiên ghẻ. Và Chúa chỉ để mắt nhìn gã.

    Cha phụ trách tiếp đãi ngồi xuống, đặt tôi bên phải Zorba bên trái ông ta.

    - Bây giờ đang là tuần Chay, mong các ông thứ lỗi cho: không có dầu cũng chẳng có rượu, dẫu là cho khách đi nữa. Nhưng các ông đến thực quí hóa quá!

    Chúng tôi làm dấu; chúng tôi lặng lẽ tự lấy cho mình ô-liu, hành xanh, đậu tươi và halva. Cả ba người liếm láp chậm chạp như mèo.

    Cha phụ trách tiếp đãi nói:

    - Cuộc đời ở dưới này như vậy đó. Khổ hạnh và trai giới. Nhưng hãy kiên nhẫn, các huynh hãy kiên nhẫn, ngày Chúa Sống Lại và Cứu sắp tới, Nước Thiên Ðàng sắp tới.

    Tôi ho. Zorba lấy châm giẫm lên chân tôi như muốn nói: “Ông im!”

    - Tôi đã được gặp cha Zaharia... Zorba nói để thay đổi câu chuyện.

    Cha tiếp đãi khách giật nẩy mình:

    - Chết chửa, tên quỉ ám đó tình cờ có nói điều gì với ông không? Ông ta lo lắng hỏi. Hắn có bẩy con quỉ trong mình, đừng nghe một lời nào của hắn cả! Linh hồn hắn nhơ bẩn nên chỗ nào hắn cũng chỉ nhìn thấy nhơ bẩn.

    Kỳ 80



    Chuông ngân lên một cách ai oán. Cha phụ trách tiếp khách làm dấu và đứng lên.

    - Tôi phải đi. Hình khổ của Chúa bắt đầu, chúng tôi phải vác cây thập tự với ngài. Các ông có thể nghỉ ngơi đêm nay, hẳn các ông phải mệt mỏi sau cuộc hành trình. Nhưng vào lúc hát kinh buổi sáng mai...

    - Ðồ con heo! Zorba rít lên khi lão thầy tu vừa đi khỏi. Ðồ con heo! Ðồ dối trá! Ðồ con lừa!

    - Có chuyện gì thế, Zorba? Zaharia nói gì với bác?

    - Ðừng lo, ông chủ, cứ để đó. Nếu họ không muốn ký, tôi sẽ cho họ biết tay tôi!

    Chúng tôi trở lại phòng người ta đã dọn sẵn cho chúng tôi. Trong góc, một pho tượng Ðức Mẹ Ðồng Trinh áp má vào con, cặp mắt lớn của bà đầy nước mắt.

    Zorba lắc đầu:

    - Ông có biết tại sao mà khóc không, ông chủ?

    - Không.

    - Bởi vì bà nhìn thấy chuyện gì đang xẩy ra. Nếu tôi là họa sĩ vẽ thánh tượng, tôi sẽ vẽ Ðức Mẹ Ðồng Trinh không mắt không tai, không mũi. Bởi vì tôi thương hại bà.

    Chúng tôi ngã mình trên hai cái giường cứng. Những cây đà có mùi trắc bá; qua khuôn cửa sổ mở rộng cơn gió hây hây của mùa Xuân thổi lọt vào ngào ngạt hương hoa. Thỉnh thoảng vài điệu tang tóc từ sân vọng lên như những trận cuồng phong phũ phàng. Một con họa mi cất tiếng hót bên cửa sổ, tức thì, một con khác và một con khác nữa, ở gần đó phụ họa theo. Ðêm lai láng tình yêu.

    Tôi không ngủ được. Tiếng hót của chim họa mi hòa lẫn với những lời than vãn của Chúa Cứu Thế và tôi cũng cố gắng trèo lên Golgotha, qua những cây cam đơm hoa, tự hướng dẫn mình bằng những giọt máu đào. Trong đêm xuân xanh biếc, tôi có thể nhìn thấy mồ hôi lạnh lóng lánh trên khắp thân thể xanh xao và run rẩy của Chúa. Tôi thấy hai tay ngài chìa ra như năn nỉ, như van xin. Ðám dân khốn khổ Galilee vội vã chạy theo ngài, kêu gào: “Hosannah! Hosannah!” Tay họ cầm lá dừa và họ trải áp dưới bước chân ngài. Ngài nhìn những kẻ ngài thương yêu, nhưng không một kẻ nào đoán nỗi tuyệt vọng của ngài. Chỉ một mình ngài biết mình sắp chết. Dưới muôn sao, lặng lẽ khóc thầm, ngài vỗ về trái tim nhân loại đáng thương tràn đầy kinh sợ của mình:

    “Tựa như một hạt lúa mì, tâm hồn ta ơi, ngươi cũng phải rụng xuống đất và chết đi. Ðừng sợ hãi. Nếu ngươi không chết đi, làm sao ngươi có thể trở thành bông lúa? Làm sao ngươi có thể nuôi dưỡng những kẻ chết đói?”

    Nhưng, trong ngài, trái tim nhân loại run lên, ngất tỉnh mà không muốn chết.

    Chẳng bao lâu cánh rừng xung quanh tu viện tràn ngập tiếng hót họa mi dâng lên từ những vòm lá ướt, đầy tình yêu và đam mê bi thiết. Và cùng với tiếng chim hót, trái tim con người run rẩy, căng lên và khóc lóc.

    Dần dần, âm thầm lặng lẽ, cùng với Hình Khổ của Chúa và tiếng hót họa mi, tôi đi vào cõi mộng như tâm hồn phải đi vào cõi Thiên Ðàng.

    Tôi ngủ chưa đầy một giờ đồng hồ thì tôi choàng dậy, sợ hãi:

    - Zorba! Tôi kêu. Bác có nghe thấy không? Một tiếng súng lục!

    Nhưng Zorba đã ngồi trên giường hút thuốc:

    - Ðừng hoảng hốt, ông chủ, hắn cố dằn cơn giận dữ, để họ thanh toán nhau, mấy con heo!

    Chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu la từ hành lang, những tiếng giầy băng-túp kéo lệt xệt, cánh cửa mở ra đóng vào, và xa xa tiếng rên rỉ của một người bị thương.

    Tôi nhẩy xuống giường và mở cửa. Một lão già dăn dúm hiện ra trước mặt tôi, dang tay ra cản đường. Lão đội một cái mũ trùm đầu nhọn mầu trắng và một cái áo chemise trắng dài tới đầu gối.

    - Cụ là ai?

    - Giám mục..., lão trả lời, giọng run run.

    Tôi suýt nữa bật cười. Một giám mục? Tế phục của ngài đâu: áo hai vạt vàng, mũ chủ giáo và pháp trượng, ngọc thạch giả rựa ở đâu?... Ðây là lần đầu tiên tôi thấy một giám mục mặc áo ngủ.

    - Tiếng súng lục đó là tiếng súng lục nào vậy, thưa đức ngài?

    - Cha không biết, cha không biết..., lão ấp úng nói và nhẹ nhàng đẩy tôi vào phòng.

    Zorba ngồi trên giường, phá lên cười:

    - Cha sợ sao, hở cha? Hắn nói. Vào đây với chúng tôi, bạn già. Chúng tôi không phải là thầy tu đâu, đừng sợ.

    Tôi nói khẽ:

    - Zorba, ăn nói kính cẩn hơn chút nữa được không, đức giám mục đấy.

    - Hừ, bạn ơi, trong áo ngủ không ai là giám mục hết! Vào đây, ông bạn!

    Hắn đứng lên, cầm cánh tay lão, dìu lão vào trong phòng và đóng cửa lại. Hắn mở túi dết lấy ra một chai rhum và rót rượu ra một cái ly nhỏ.

    Hắn nói:

    - Uống đi, ông bạn. Rượu sẽ làm bạn hăng hái ngay.

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Cười chút chơi !
    By DnThuy in forum Vui cười
    Trả lời: 315
    Bài mới nhất : 10-18-2014, 09:22 PM
  2. Tôi đưa em đi chơi.......
    By KiwiTeTua in forum Vui cười
    Trả lời: 3
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 11:03 PM
  3. Dân Chơi Ả Rập (Saudi Arabia)
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 06:59 PM
  4. Chơi đòn Cẩu Xực Xí Quách ở World Cup 2014
    By hieunguyen11 in forum Linh Tinh
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-27-2014, 04:16 AM
  5. Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi
    By loibangTQLC in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-06-2011, 06:17 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •