Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 16

Tựa Đề: Alexis Zorba - Con Người Chịu Chơi

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default The musical Zorba The Greek

    Bài đọc trên được dịch từ cuốn tiểu thuyết "Zorba the Greek", viết bởi nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis. Cuốn sách nói về một tay trí thức Hy Lạp, đã từ bỏ cuộc sống "con mọt sách" của mình, lăn xã vào đời với sự giúp đở của một tay giang hồ, "tay chơi" Alexis Zorba (Zorba the Greek).
    Cuốn phim "Zorba the Greek" ra đời năm 1964 bởi đạo diển Michael Cacoyannis và thủ diển vai Zorba là tài tử Anthony Quinn. Đồng thời vở nhạc kịch "Zorba" được hình thành năm 1968.

    Zorba the Greek (Life and Times of Alexis Zorbas) is a novel written by the Greek author Nikos Kazantzakis, first published in 1946. It is the tale of a young Greek intellectual who ventures to escape his bookish life with the aid of the boisterous and mysterious Alexis Zorba. The novel was adapted into a successful 1964 film of the same name by Michael Cacoyannis as well as a 1968 musical, Zorba.

    The song "Zorba the Greek" - Franck Pourcel


    Vài đoạn phim "Zorba the Greek"




    People were inspired by the song "Zorba the Greek", they came out and started to dance in the strẹet......

  2. #2
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 13



    Mụ Hortense dang cánh tay mũm mĩm, đưa lên đưa xuống như khiến một chú bé nhẩy trên đầu gối mụ.

    - Ðó, như vậy đó! Như vậy đó!

    “Khi trời sáng họ bắt đầu khai hỏa súng thần công, tôi không nói dối đâu, tôi xin thề danh dự với các ông, và một con thuyền trắng mười hai tay chèo đến đón tôi và đưa tôi vào đất liền.”

    Mụ rút một chiếc khăn tay nhỏ xíu ra và bắt đầu khóc, không tài nào dỗ nổi.

    - Bouboulina của tôi, Zorba say sưa kêu lên. Nhắm mắt lại đi, nhắm mắt lại đi cưng. Anh là Canavaro đây!

    - Tôi nói bỏ tay xuống! Mụ đàn bà dễ thương của chúng tôi làm bộ nhõng nhẽo nói. Thử nhìn lại bộ mặt đẹp trai của mình xem! Ngù vai vàng đâu, mũ tam giác, hàm râu thơm phức đâu? Ai không biết xấu.

    Mụ dịu dàng siết tay Zorba và lại khóc.

    Không khí trở nên mát mẻ hơn. Chúng tôi cùng im lặng trong giây lát. Biển cả đằng sau dẫy lau sậy thở dài. Sau cùng, biển êm ả và trầm lặng. Gió lịm đi, mặt trời lặn. Hai con quạ chiều hôm bay qua đầu chúng tôi và cánh chúng rít lên như xé lụa - tấm áo lụa của một nàng ca kỹ.

    Ánh hoàng hôn rơi lả tả như một đám bụi vàng rắc trên sân. Mái tóc mụ Hortense bắt lửa và rung động trong cơn gió hiu hiu buổi chiều như thể muốn bay để truyền lửa sang đầu óc những người bên cạnh. Bộ ngực nửa trần của mụ, hai đầu gối không khép liền, đẫy ra vì tuổi tác, những nếp nhăn trên cổ, đôi giầy khiêu vũ nhuộm ánh vàng.

    Mụ kiều nữ già của chúng ta rùng mình. Lim dim đôi mắt đỏ hoe vì nước mắt và rượu, mụ hết nhìn tôi rồi lại nhìn Zorba, lúc này, môi khô ráo, đang chết mê chết mệt vì bộ ngực của mụ. Bây giờ trời tối sẩm hơn. Mụ nhìn cả hai chúng tôi với một vẻ dò hỏi, cố gắng phân biệt kẻ nào trong chúng tôi là Canavaro.

    - Bouboulina của tôi, Zorba đắm đuối thì thầm trong khi kê đầu gối vào đầu gối mụ. Ðừng lo ngại, không có Thượng Ðế mà cũng chẳng có ma quỉ gì hết. Ngẩng mái đầu nho nhỏ xinh xinh của em lên, tay chống lên má và hãy hát cho chúng tôi nghe một bài nào. Hoan hô cuộc sống và cho cái chết chết luôn!...

    Zorba rạo rực. Trong khi tay trái hắn xoắn ria mép, tay phải hắn sờ soạng trên người ca kỹ say. Hắn nói không ra hơi và cặp mắt hắn lờ đờ. Chắc chắn không phải mụ già xác ướp và trang điểm thái quá này hắn nhìn thấy trước mặt mà là tất cả cái “giống cái” như hắn thường gọi đàn bà. Cá nhân biến mất, bộ mặt bị xóa nhòa. Trẻ hay già, đẹp hay xấu, đó chỉ là những biến thể không quan trọng. Sau mỗi người đàn bà lồ lộ cái khuôn mặt khắc khổ, thiêng liêng và đầy bí ẩn của Aphrodite.

    Chính khuôn mặt đó Zorba đang nhìn thấy, chính khuôn mặt đó hắn đang nói với và thèm muốn; mụ Hortense chỉ là cái mặt nạ phù du và trong suốt mà Zorba xé rách toang để hôn lên cái miệng vĩnh cửu.

    - Ngẩng khuôn cổ ngà ngọc của em lên, cưng, cưng, hắn hổn hển khẩn khoản. Ngẩng khuôn cổ ngà ngọc của em lên, hát cho chúng tôi nghe đi nào!

    Mụ ca kỹ già tỳ má trên bàn tay mũm mĩm, bị cắt cứa bởi giặt giũ; cặp mắt mụ trở nên thờ thẫn. Mụ thốt lên một tiếng than não nuột, man rợ và bắt đầu bản nhạc ưa thích, hát đi hát lại nhiều lần trong khi nhìn Zorba bằng cặp mắt lim dim ngây ngất - mụ đã thực hiện xong cuộc lựa chọn:

    Au fil de mes jours

    Pourquoi t'ai-je rencontrée...*

    Zorba nhẩy cẳng lên đi tìm cây santuri của hắn, ngồi xếp bằng trên mặt đất, giở đồ nghề, tỳ trên đầu gối và duỗi hai bàn tay to lớn ra.

    - Ôi chao! Ôi chao! Hắn rống lên. Lấy dao cắt cổ họng tôi đi, Bouboulina của tôi ơi!

    Khi đêm bắt đầu buông xuống, khi sao mọc ở trên trời và tiếng đàn santuri tán tỉnh và đồng lõa ngân lên, mụ Hortense, tọng đầy thịt gà và cơm, hạnh đào nướng và rượu, lảo đảo vùi đầu trên vai Zorba thở dài. Mụ cọ xát nhè nhẹ vào hai bên cạnh sườn trơ xương của hắn, ngáp và lại thở dài thườn thượt.

    Zorba ra hiệu cho tôi và hạ thấp giọng thì thầm:

    - Mụ đang lên cơn, ông chủ. Ði đi, để mặc chúng tôi.

    4

    Trời vừa sáng, tôi mở mắt ra và trông thấy Zorba ngồi đối diện với tôi phía cuối giường, hai chân xếp lại; hắn hút thuốc và đang trầm tư mặc tưởng. Ðôi mắt bé nhỏ và tròn xoe của hắn đăm đăm nhìn về phía trước tới khuôn cửa trổ trên mái nhà mà những tia sáng đầu tiên đã nhuộm một mầu trắng sữa. Hắn có đôi mắt lộ, khuôn cổ trần và gân guốc vươn ra dài một cách khác thường, giống như cổ một con chim mồi.

    Ðêm qua, tôi đã cáo lui sớm và để hắn ta một mình với người đẹp già của hắn.

    - Tôi đi đây, tôi nói. Chơi cho vui nhé Zorba, và hãy can đảm lên nhé!

    - Chào ông chủ, hắn đáp. Xin ông mặc cho chúng tôi giải quyết công việc của chúng tôi; xin chào ông chủ và chúc ông chủ ngon giấc!

    Quả nhiên họ đã giải quyết vấn đề của họ, vì trong khi ngủ dường như tôi có nghe những tiếng rù rì đè nén và, có một hồi, những chấn động làm rung chuyển phòng bên cạnh. Rồi sau đó tôi lại ngủ thiếp đi. Già nửa đêm, Zorba đi chân không vào và nằm dài trên giường thật nhẹ nhàng để khỏi làm tôi thức giấc.

    Kỳ 14



    Bây giờ, khi trời vừa tang tảng sáng, hắn ta đã ngồi đấy, đôi mắt chìm vào xa xăm, hướng về vùng ánh sáng, mắt còn lim dim. Người ta tưởng chừng như hắn ta đang ở trong cơn hôn mê nhè nhẹ; thái dương hắn dường như chưa thoát khỏi giấc ngủ.

    Ðiềm tĩnh, thụ động, hắn ta buông mình trong vùng tranh tối tranh sáng dầy đặc như mật ong. Vũ trụ như trôi chẩy, đất đai, sông nước, tư tưởng, con người, tất cả đều trôi chẩy về một miền biển xa xôi, và Zorba cũng hân hoan trôi chẩy cùng với chúng, không kháng cự, không thắc mắc hỏi han chi.

    Thôn làng bắt đầu thức dậy - tiếng gà gáy inh ỏi cùng với tiếng lợn, lừa và người ta. Tôi muốn nhẩy xuống giường và la lên: “Này Zorba! Hôm nay chúng ta có việc làm rồi đấy!” Nhưng tôi tự cảm thấy vô cùng diễm phúc khi đắm mình như thế, im lặng, bất động, vào những tia hồng thắm len lỏi, chập chờn của buổi bình minh. Trong những giây phút thần kỳ này, tất cả cuộc đời nhẹ tựa lông hồng. Như một áng mây chờn vờn và mềm nhũn, trái đất thay hình đổi dạng theo cơn gió thổi.

    Tôi nhìn Zorba hút thuốc, tôi cũng thèm hút nữa, và tôi với tay lấy cái tẩu thuốc. Tôi ngắm nghía và bồi hồi cảm động. Ðó là một cái tẩu thuốc Ăng-lê vừa to vừa quí giá, một tặng phẩm mà một người bạn thân - người có đôi mắt xám xanh và bàn tay ngón búp măng - cách đây nhiều năm, ở ngoại quốc đã tặng cho tôi vào một buổi trưa. Việc học vừa xong, bạn tôi đã lên đường sang Hy Lạp ngay chiều hôm đó. “Bỏ thuốc lá, hắn nói với tôi như thế; anh đốt thuốc, anh hút một nửa và anh quẳng nó đi như một con đĩ. Xấu lắm. Tốt hơn hết anh hãy dùng tẩu thuốc. Ðó là một người vợ trung thành. Khi anh trở về nhà, nó sẽ luôn luôn ở đó, lặng lẽ chờ đợi anh. Anh sẽ châm tẩu, anh sẽ nhìn theo làn khói tỏa trong không khí, và anh sẽ nhớ đến tôi!”

    Giữa trưa, chúng tôi bước ra khỏi một viện bảo tàng ở Bá Linh nơi bạn tôi đến đó để giã từ bức tranh hắn thích, bức Chiến Sĩ của Rembrant, đội nón đồng, má hốc hác, với cái nhìn đau đớn và cương quyết. “Trong đời tôi, nếu có bao giờ tôi thực hiện được một hành động nào xứng đáng với con người, đó là nhờ hắn!” Anh bạn tôi vừa thì thầm vừa ngắm chàng chiến sĩ ghê gớm và tuyệt vọng.

    Chúng tôi đang tựa lưng vào một cột trụ trong sân viện bảo tàng. Ðối diện với chúng tôi là một pho tượng đồng - một nữ kỵ sĩ khỏa thân cưỡi trên lưng con ngựa rừng với một vẻ duyên dáng khó tả. Một con chim nhỏ mầu xám, con chim chìa vôi, đến đậu một lát trên đầu nàng kỵ sĩ, hót hai ba lần với vẻ nhạo báng rồi vỗ cánh bay.

    Tôi rùng mình nhìn bạn tôi:

    - Anh có nghe con chim hót không? Tôi hỏi. Nó có vẻ như muốn nói với chúng ta điều gì?

    Bạn tôi mỉm cười:

    “Ðó là một con chim, hãy để yên cho nó hót, đó là một con chim, hãy để cho nó nói!” Hắn đáp lại bằng một câu vè trích từ một bài ai-ca của dân gian.

    Tại sao giây phút này, khi trời vừa sáng, trên bãi biển đảo Crete này, kỷ niệm kia lại hiện về nơi ký ức tôi cùng với câu thơ ảo não khiến tinh thần tôi tràn trề cay đắng?

    Tôi thong thả nhồi thuốc vào tẩu và châm lửa. Tất cả đều có một ý nghĩa thầm kín trong thế gian này, tôi nghĩ. Con người, thú vật, cỏ cây, tinh tú, tất cả chỉ là một tượng hình; hạnh phúc thay cho kẻ nào bắt đầu đọc ra được những chữ ấy và minh giải được điều chúng muốn nói, nhưng cũng bất hạnh thay cho kẻ ấy. Khi chúng ta thấy chúng, chúng ta không hiểu chúng. Chúng ta tưởng đó là những con người, thú vật, cỏ cây, tinh tú. Chỉ nhiều năm sau, lâu lắm, chúng ta mới khám phá ra được cái ý nghĩa đích thực của chúng.

    Người chiến sĩ với cái nón đồng, anh bạn tựa lưng vào cột trụ, trong ánh sáng dầy đặc của buổi trưa ấy, con chim chìa-vôi và những gì nó nói qua tiếng chim kêu chim chíp, câu thơ trong bài ai ca, tất cả những điều ấy, hôm nay tôi nghĩ rất có thể có một ý nghĩa thầm kín nào đó, nhưng ý nghĩa nào mới được chứ?

    Tôi đưa mắt nhìn theo làn khói cuồn cuộn và từ từ tản mát trong vùng tranh tối tranh sáng. Và tâm hồn tôi quấn quít theo làn khói, chầm chậm tan biến trong những cuộn khói xanh lơ. Một hồi lâu trôi qua, không cần sự can thiệp của luận lý, tôi trực nhận ra một cách vô cùng đích xác nguồn gốc, sự triển nở cùng sự tiêu diệt của thế giới. Dường như tôi bị chìm ngập một lần nữa trong Ðức Phật nhưng lần này không có những danh từ phỉnh phờ và những trò múa rối vô liêm sỉ của tinh thần. Làn khói kia là tinh hoa của giáo lý ngài, những cuộn khói tan biến kia, đó là cuộc đời, thanh thản, tự tại và hoan hỷ đạt tới Niết Bàn xanh biếc. Tôi không suy nghĩ, không tìm kiếm, không chút nghi ngờ. Tôi sống trong niềm tin tưởng xác thực.

    Kỳ 15



    Tôi thở ra nhẹ nhõm. Như thể hơi thở này đưa tôi trở về với giây phút hiện tại, tôi nhìn quanh và thấy trong túp lều nghèo nàn bằng ván có một mảnh gương con treo trên ván phản chiếu lại tia sáng đầu tiên của mặt trời. Trước mặt tôi, trên tấm nệm, Zorba ngồi quay lưmg lại và đang hút thuốc.

    Trong một thoáng, hình ảnh ngày hôm qua sống lại nơi tôi với tất cả những dời đổi bi-hài. Hương vị hoa tím bị hở gió - mùi đổng thảo, mùi eau-de-Cologne, mùi xạ hương, mùi long-diên - một con két, một sinh vật nửa người biến thành con két, đập cánh trong lồng sắt trong khi gọi tên một tình nhân cũ; một chiếc thuyền buồm nhỏ duy nhất còn sống sót của đoàn tầu, trần thuật lại những trận thủy chiến xưa...

    Zorba nghe tôi thở dài, lắc đầu quay lại.

    - Chúng ta đã cư xử tệ quá, hắn lẩm bẩm, chúng ta đã cư xử tệ quá, ông chủ ạ. Ông đã cười cợt, tôi cũng vậy, và mụ đã nhìn thấy, cái mụ khốn khổ ấy! Và ông bỏ đi, không một lời dịu dàng, như thể mụ là một mụ già khú đế. Thật nhục nhã! Ðấy không phải là phép lịch sự, ông chủ. Một người đàn ông không thể cư xử như thế được, không, xin ông cho phép tôi nói với ông điều đó! Dù sao đó cũng là một người đàn bà, đúng không? Một sinh vật yếu đuối, sướt mướt. May mắn thay còn có tôi ở lại để an ủi mụ.

    - Nhưng bác muốn nói cái gì mới được chứ, Zorba? Tôi vừa nói vừa cười. Có thực bác cho rằng tất cả mọi người đàn bà đều chỉ có cái đó trong đầu không?

    - Vâng, họ chỉ có cái đó trong đầu. Tin tôi đi, ông chủ. Tôi đã thấy đủ thứ và làm đủ mọi chuyện lăn lóc. Tôi, như ai đó đã nói đó, tôi đã có chút kinh nghiệm. Người đàn bà không có điều gì khác trong đầu họ. Họ là một sinh vật bệnh hoạn, tôi xin nói với ông như vậy, một sinh vật sướt mướt. Nếu ông không nói với họ rằng ông yêu họ và thèm muốn họ thì họ sẽ khóc. Rất có thể họ sẽ từ chối ông, có thể họ không thích ông chút nào, có thể ông làm họ tởm, thì đó lại là chuyện khác. Nhưng ai đã thấy họ thì phải thèm muốn họ. Ðó là điều họ muốn, cái giống khốn khổ đó, và như thế ông rất có thể làm vừa lòng họ!

    “Tôi có một bà nội, bà phải làm đến tám mươi tuổi rồi chứ không ít. Chuyện bà lão đúng là một cuốn tiểu thuyết. Nhưng thôi, đó lại là một mục khác... Bà lão ấy phải đến tám mươi tuổi rồi và ngay trước nhà chúng tôi có một cô gái tươi như hoa. Tên nàng là Krystallo. Mỗi chiều Thứ Bẩy, chúng tôi, bọn trai làng còn non choẹt, chúng tôi đi nhậu một mách và rượu nho đã khiến chúng tôi hăng tiết vịt. Mỗi đứa trong bọn đều cài một cành hoắc-hương ở sau tai, một thằng anh em bà con với tôi xách lục huyền cầm theo và chúng tôi đến tổ chức sérenade trước cửa nhà nàng. Tình tứ làm sao! Say đắm làm sao! Chúng tôi rống lên như đàn bò. Tất cả chúng tôi đều muốn nàng và chiều Thứ Bẩy nào chúng tôi cũng tụ họp thành đàn để nàng tha hồ lựa chọn.

    “Ðó, ông có tin lời tôi không ông chủ? Ðây là một điều bí ẩn ghê gớm: nơi đàn bà có những vết thương không bao giờ lành cả. Tất cả những vết thương đều ngậm miệng, nhưng vết thương kia - ông đừng nghe mấy lời quyển sách nhảm nhí của ông - nó không bao giờ ngậm miệng cả. Sao, bởi vì người đàn bà đã tám mươi tuổi ư? Vết thương vẫn còn mở miệng!

    “Vậy là, mỗi Thứ Bảy, mụ già kéo tấm nệm của mụ tới trước cửa sổ, mụ lén lấy cái gương con và mụ chải lại mấy sợi tóc lơ thơ còn lại và cẩn thận rẽ đường ngôi... Mụ lén nhìn quanh mình, sợ có người thấy được; nếu có ai đến gần, mụ co mình lại như một kẻ giả nhân giả nghĩa và vờ ngủ. Nhưng làm thế nào mà ngủ được? Mụ ta chờ đợi cuộc hòa nhạc. Tám mươi tuổi! Ông thấy chưa, ông chủ, đàn bà thật khó hiểu! Ngay bây giờ điều ấy làm cho tôi muốn khóc lên được. Nhưng thuở ấy, tôi chỉ là một kẻ dại dột, tôi không hiểu và điều đó làm tôi tức cười. Một hôm tôi phát cáu với mụ ta. Mụ làm nhục tôi vì tôi chạy theo các cô gái, thế là tôi nói trắng việc làm của mụ ra: “Tại sao mỗi Thứ Bẩy bà đều lấy lá hồ đào bôi lên môi, và bà rẽ đường ngôi làm chi vậy? Bà tưởng tụi tôi hòa nhạc vì bà à? Chúng tôi chạy theo Krystallo kìa. Còn bà, bà gần kề miệng lỗ rồi đó!”

    “Ông có tin được không ông chủ? Ngày hôm đó, lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là một người đàn bà khi thấy hai giọt nước mắt to tướng từ mắt mụ nội tôi tuôn ra. Mụ thu hình trong một xó như một con chó cái và cằm mụ run rẩy. ‘Krystallo!’ Tôi thét lên và đi lại gần mụ để mụ nghe rõ hơn. Tuổi trẻ thật là một con thú dữ, vô nhân đạo và không hiểu gì cả. Mụ nội đưa đôi cánh tay xương xẩu lên trời và thét to lên: “Tao nguyền rủa mày tự đáy lòng tao!”

    Kỳ 16



    Kể từ ngày ấy trở đi, mụ bắt đầu xuống dốc, mụ chết dần chết mòn và hai tháng sau, mụ chờ chết. Trong lúc hấp hối, mụ nhận thấy tôi. Mụ thở như một con rùa và mụ giơ bàn tay héo hắt túm lấy tôi: “Chính mày đã giết tao, Alexis, chính mày đã giết tao, quân độc ác. Tao nguyền rủa mày, cầu trời cho mày phải đau đớn như tao đã từng cam chịu đau đớn!”

    Zorba mỉm cười.

    - A! Lời nguyền rủa của mụ già không làm tôi hề hấn gì, hắn vừa nói vừa vuốt bộ ria mép. Hình như năm nay tôi sáu mươi lăm tuổi rồi, nhưng dù tôi có sống đến một trăm tuổi đi chăng nữa tôi cũng không bao giờ trở nên khôn ngoan cả. Tôi sẽ vẫn giữ mảnh gương con trong túi và tôi vẫn chạy đuổi theo giống cái như thường.

    Hắn lại mỉm cười, ném điếu thuốc lá qua cửa thông ánh sáng trên mái nhà, vươn vai nói:

    - Tôi còn có biết bao tật xấu khác nữa, nhưng tật xấu kia sẽ giết tôi.

    Hắn nhẩy phóc xuống khỏi giường.

    - Thế đủ rồi, nói hơi nhiều. Hôm nay ta làm việc!

    Hắn mặc quần áo chớp nhoáng, mang giày và đi ra.

    Tôi gục đầu xuống nghiền ngẫm những lời nói của Zorba và đột nhiên tôi nhớ đến thành phố xa xôi đầy tuyết phủ.

    Trong một phòng triển lãm tác phẩm của Rodin, tôi ngừng lại ngắm một bàn tay khổng lồ bằng đồng, Bàn Tay của Thượng Ðế. Lòng bàn tay nắm lại nửa chừng và trong lòng bàn tay ấy, một người đàn ông và một người đàn bà đang ngây ngất quấn quít vào nhau, phấn đấu để hòa hợp với nhau.

    Một thiếu nữ đến gần và dừng lại bên cạnh tôi. Nàng cũng xúc động khi ngắm nhìn vòng tay ôm ghì vĩnh cửu đầy lo âu của người đàn ông và người đàn bà. Nàng dáng thanh thanh, ăn mặc lịch sự, với mái tóc dầy vàng hoe, một cái cằm bướng bỉnh và đôi môi mỏng. Nàng có vẻ quả quyết và đàn ông. Thường thường tôi rất ghét gợi chuyện dễ dãi nhưng lần này tôi không hiểu điều gì đã thúc dụ tôi quay sang hỏi:

    - Cô nghĩ gì?

    - Nếu người ta có thể trốn thoát! Nàng thì thầm một cách giận dỗi.

    - Ðể đi đâu? Bàn tay Thượng Ðế ở khắp nơi. Không có sự cứu chuộc. Cô tiếc sao?

    - Không. Có thể tình yêu là niềm hoan lạc mãnh liệt nhất trên thế gian này. Ðiều ấy rất có thể. Nhưng bây giờ khi nhìn thấy bàn tay bằng đồng kia, tôi muốn tìm cách thoát thân.

    - Cô thích tự do hơn?

    - Dạ.

    - Nhưng nếu chỉ khi nào người ta vâng lời theo bàn tay đồng kia thì người ta mới được tự do? Nếu danh từ “Thượng Ðế” không có nghĩa tiện lợi như đám đông gán cho nó?

    Nàng nhìn tôi lo âu. Mắt nàng có một mầu xám chì, môi nàng khô và cay đắng.

    - Tôi không hiểu, nàng nói, rồi nàng lảng ra xa như hoảng sợ.

    Nàng biến mất. Từ đó, tôi không bao giờ nghĩ ngợi tới nàng. Tuy nhiên, chắc chắn nàng vẫn sống trong đáy lòng tôi - và hôm nay, trên bờ biển hoang vắng này, nàng tự phần sâu thẳm của con người tôi bước ra, xanh xao và ai oán.

    Vâng, tôi đã xử sự tệ quá. Zorba có lý. Bàn tay đồng ấy là một cớ chính đáng. Sự va chạm đầu tiên đã thành tựu, những lời nói dịu dàng đã được đổi trao, và dần dần chúng ta có thể, không ai lưu tâm đến ai, siết chặt lấy nhau và cùng nhau lẳng lặng hòa hợp trong lòng bàn tay Thượng Ðế. Nhưng tôi, tôi lại bất thần nhẩy vọt từ dưới đất lên trời khiến người đàn bà hoảng kinh chạy trốn.

    Con gà trống già đứng gáy trước sân nhà mụ Hortense. Ánh sáng ban mai trắng xóa giờ đây lùa qua khung cửa nhỏ. Tôi đứng phắt dậy.

    Bọn thợ bắt đầu đến với cuốc, đòn bẩy, cuốc chim của họ. Tôi nghe Zorba ra lệnh. Hắn lăn xả ngay vào công việc; người ta nhận thấy nơi hắn một người biết điều khiển và thích nhận lãnh trách nhiệm.

    Tôi thò đầu ra cửa sổ và nhìn thấy hắn đứng đấy như một tên khổng lồ nặng nề giữa đám khoảng độ ba mươi người gầy gò, thô kệch, mưa nắng dãi dầu và thân hình mảnh dẻ. Tay dang ra đầy quyền uy, hắn nói một cách vắn tắt và minh bạch. Ðột nhiên, hắn thộp ót một gã thiếu niên đang nói lầm bầm và ngập ngừng bước tới.

    - Mi có điều gì muốn nói? Hắn quát. Hãy nói to lên! Tao không ưa nói lí nhí. Muốn làm việc phải vui vẻ. Bằng không cút đi nhậu cho rồi!

    Lúc đó mụ Hortense hiện ra, đầu bù tóc rối, má phị, phấn không thoa. Mụ mặc một áo chemise bẩn và đôi giầy hàm ếch mòn gót. Mụ ho, tiếng ho khàn khàn của những ả ca kỹ già, giống tiếng lừa kêu. Mụ dừng lại và nhìn Zorba một cách kiêu hãnh. Mắt mụ mơ màng. Mụ lại dặng hắng cốt để hắn ta nghe thấy; rồi mụ vừa bước lại gần hắn vừa nhún nhẩy đôi mông. Chỉ còn cách một kẽ tóc nữa thôi là tay áo rộng của mụ chạm vào hắn ta. Nhưng dù thế hắn cũng vẫn không quay lại nhìn mụ. Hắn lấy của một người thợ một mẩu bánh bột lúa mạch và một nắm ô-liu và kêu to:

    -Nào, các bạn hãy làm dấu thánh giá đi nào!



    Kỳ 17



    Và hắn xài bước dẫn toán thợ sắp hàng ngay ngắn hướng về phía núi!

    Ở đây tôi sẽ không mô tả những công việc ở hầm mỏ. Muốn làm việc đó cần phải kiên nhẫn mà tôi thì không có cái đức tính ấy. Với lau sậy, sợi mây và mấy bi-đông xăng, chúng tôi cất được một cái chòi cạnh biển. Hừng đông, Zorba đã chồm dậy, chụp lấy cuốc rồi đi ra mỏ trước bọn thợ. Hắn đào một đường hầm, rồi bỏ đó, gặp một mạch than non lóng lánh như than đá và nhẩy cẫng lên vì sung sướng. Nhưng vài ngày sau, mạch mỏ mất tăm và Zorba nằm dài trên đất, chổng cả bốn vó lên trời mà chế nhạo ông trời.

    Hắn để hết tâm trí vào công việc. Hắn không hỏi ý kiến tôi nữa. Ngay từ những ngày đầu, tất cả mọi phiền phức và trách nhiệm đều được chuyền từ tay tôi qua hắn. Hắn có bổn phận quyết định và thi hành. Còn tôi thì bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên sự phân công này không làm tôi phật ý chút nào. Vì tôi cảm thấy rõ ràng là những tháng ngày này sẽ là những tháng ngày hạnh phúc nhất trong đời tôi. Thế nên, sau khi tính toán cân nhắc đủ điều, tôi ý thức rằng tôi đang mua được hạnh phúc với một giá hời.

    Ông ngoại tôi, sống trong một thôn nhỏ ở Crete; mỗi buổi chiều xách đèn lồng và đi một vòng quanh làng để xem may ra có một người ngoại quốc nào đến không. Ông rước người khách về nhà, mời người ta ăn uống no say, rồi sau đó, ông ngồi xuống bộ ván, đốt cái ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ dài, quay mặt về phía người khách lạ - đã đến lúc phải trả nợ - bằng một giọng kẻ cả:

    - Kể đi!

    - Kể gì, cố Mustoyorgi?

    - Ông là gì, ông là ai? Ông từ đâu đến, ông đã được thấy những thành phố và làng mạc nào, tất cả, hãy kể lại tất cả. Kìa, nói đi chứ!

    Và người khách bắt đầu kể lăng nhăng, bịa đặt lẫn với sự thật, trong khi đó ông tôi phì phà ống điếu, lặng lẽ ngồi trên phản, lắng tai nghe và du lịch với hắn. Và nếu người khách làm ông thích chí, ông bảo hắn:

    - Ngày mai, ông cũng sẽ ở lại đây. Ông chưa đi được. Ông còn nhiều chuyện để kể lắm.

    “Ông tôi không bao giờ ra khỏi làng. Ông cũng chưa đi đến Canada hay Canea nữa. “Ðến đó để làm gì chứ? Ông nói. Có những người Candia và Canea đi ngang qua đây. Candia và Canea đến nhà tôi rồi, thế thì tôi cần gì phải đến đó nữa?”

    Ngày hôm nay tôi tiếp tục cái tật ấy của ông tôi trên bờ biển Crete này. Tôi cũng thế, tôi đã tìm được một người khách, dường như tôi cũng bắt gặp hắn ta nhờ ánh đèn lồng. Tôi không để hắn bỏ đi. Hắn làm tôi tốn kém hơn một bữa cơm, nhưng hắn đáng được thế. Mỗi buổi chiều tôi đợi hắn sau giờ làm việc, tôi bắt hắn ngồi đối diện với tôi, chúng tôi cùng ăn. Ðến lúc hắn phải trả nợ, tôi bảo hắn: “Kể đi!” Tôi châm tẩu và lắng nghe. Người khách này đã thám hiểm đất đai và thám hiểm tâm hồn con người thật tài ba. Tôi lắng nghe hắn ta mà không thấy chán.

    - Kể đi Zorba, kể đi!

    Vừa khi hắn ta mở miệng nói là tất cả thành phố Macedonia phơi bầy ra trước mắt tôi, trải ra trong khoảng chật hẹp giữa tôi và Zorba, với tất cả núi đồi, rừng rú, thác ghềnh, với đoàn quân cách mạng, những người đàn bà lam lũ với công việc và những người đàn ông thô kệch nặng nề. Ngọn núi Athos với hai mươi mốt tu viện, những xưởng đóng tàu, và những tên ăn không ngồi rồi bàn tọa lớn. Zorba lúc lắc cái cổ áo vừa chấm dứt câu chuyện về các thầy tu vừa phá lên cười: “Cầu trời cho ông chủ đừng gặp đít la và đầu thầy tu!”

    Mỗi buổi chiều, Zorba đưa tôi đi dạo qua các xứ Hy Lạp, Bảo Gia Lợi và Constantinople. Tôi nhắm mắt lại và thấy các nơi đó. Hắn ta đã đi qua vùng Balkans rối loạn và quan sát tất cả mọi sự với đôi mắt nhỏ của con chim ưng, luôn luôn mở rộng vì kinh ngạc. Những sự vật quen thuộc với chúng ta và chúng ta đi qua một cách thản nhiên, những sự vật ấy lại đập vào mắt Zorba như những điều bí ẩn kinh khủng. Thoáng thấy một người đàn bà đi ngang qua, hắn ta sửng sốt dừng lại:

    - Bí ẩn gì đây? Hắn hỏi. Một người đàn bà là gì? Tại sao mụ ta lại khiến đầu óc chúng ta đảo điên? Người ấy còn là gì nữa chớ, hãy nói hộ tôi một tí!

    Hắn cũng tự hỏi với sự kinh ngạc như thế trước một gã đàn ông, một cây đơm hoa, một ly nước lạnh. Mỗi ngày Zorba nhìn tất cả mọi sự như nhìn thấy lần thứ nhất.

    Hôm qua chúng tôi ngồi trước lều. Vừa nốc xong một ly rượu nho, hắn ta quay về phía tôi, la hoảng:

    - Ông chủ ơi, thứ nước đỏ kia là gì thế, ông nói cho tôi biết với. Một cội cây già cỗi đâm nhánh non, có những trái nhỏ chua chua treo lủng lẳng, và thời gian qua, nắng làm trái chín, trái trở nên ngọt như mật và lúc đó người ta gọi chúng là những trái nho; ta đem ép nho, rồi vắt lấy nước ngọt chứa trong thùng. Tự nó nước ngọt ấy lên men, người ta bốc thùng ra vào dịp lễ Thánh George - Tửu Ðồ, thế là người ta có rượu nho. Thật kỳ diệu! Ông uống chất nước nho đỏ này và tự nhiên tâm hồn ông lẫm liệt, lẫm liệt quá nó không còn chịu ở trong thân thể già nua nữa, và nó thách đố Thượng Ðế chiến đấu với nó. Cái đó là cái gì ông chủ, ông chủ hãy nói đi!

    Kỳ 18



    Tôi không nói. Trong lúc Zorba nói, tôi cảm thấy thế giới khôi phục lại được vẻ tinh tuyền ban sơ. Tất cả mọi sự vật tẻ nhạt thường nhật lấy lại vẻ sáng choang rực rỡ chúng có thuở hồng hoang khi chúng vừa vuột ra khỏi bàn tay Thượng Ðế.

    Nước, đàn bà, tinh tú, bánh mì, tất cả đều trở về nguồn gốc nguyên thủy huyền bí, và cơn lốc thần thánh lại nổi lên trong không gian.

    Ðó là lý do tại sao mỗi buổi chiều nằm dài trên lớp đá cuội của bãi biển, tôi nóng lòng chờ đợi Zorba. Mình mẩy dính đầy bùn và nhem nhuốc vì than, hắn nhô lên khỏi lòng đất, giống như một con chuột khổng lồ với bước đi dài và thân thể đong đưa. Từ xa, tôi đoán được công việc ngày hôm nay trôi chẩy thế nào, căn cứ vào điệu bộ của thân hình hắn, vào đầu hắn cúi xuống hay ngẩng lên, vào cách vung vẩy của hai cánh tay lực lưỡng.

    Lúc đầu tôi đi với hắn. Tôi quan sát nhân công. Tôi cố gắng tìm một con đường mới, chú ý tới những công việc thực tiễn, tìm hiểu và yêu thương chất liệu nhân loại rơi vào tay tôi, để cảm thấy niềm hân hoan mong ước từ lâu là không dính líu gì với chữ nghĩa nữa mà chỉ liên đới với những con người sống động. Và tôi có những dự định lãng mạn - nếu việc khai thác mỏ than thành công: Tổ chức một thứ đoàn thể trong ấy tất cả chúng ta đều đồng lao công tác, tất cả đều là của chung, mọi người đều ăn cùng một thực phẩm và mặc cùng một thứ quần áo như anh em một nhà. Tôi sáng tạo ra trong trí tôi một giáo hội mới, chất men của một cuộc sống mới...

    Nhưng tôi chưa quyết định trình bày những dự tính này với Zorba. Hắn bực mình thấy tôi đi đi lại lại giữa đám công nhân, hỏi han can thiệp và luôn luôn đứng về phía người thợ.

    Zorba bậm môi nói:

    - Ông chủ, ông không ra ngoài dạo một vòng sao? Mặt trời và biển, ông hiểu chưa?

    Mới đầu tôi nằn nì, không chịu đi ra ngoài. Tôi thăm hỏi, chuyện trò, tôi biết rõ lai lịch của tất cả bọn thợ: Những đứa con mà họ phải nuôi dưỡng, những chị em mà họ phải lo cưới gả, cha mẹ què quặt, những lo âu, bệnh tật cùng những nỗi dầy vò của họ.

    - Ðừng đi sâu vào chuyện của họ, ông chủ, Zorba cau có gắt tôi. Ông sẽ bị xiêu lòng, ông sẽ thương yêu họ quá mức và như thế không có lợi cho công việc của chúng ta. Ông sẽ tha thứ cho họ tất cả... Thế là có hại cho họ nữa, ông nên biết điều đó. Khi chủ nhân cứng rắn, thợ thuyền sẽ sợ hãi, kính nể ông chủ và họ làm việc. Khi chủ nhân dễ dãi, họ sẽ xỏ mũi chủ, bỏ bê công việc, ông hiểu chưa?

    Một buổi tối khác, công việc xong xuôi, hắn ném cái cuốc trước lều, bực tức la lên:

    - Nào, hãy nói đi, ông chủ, tôi van ông đừng xen tí gì vào việc cả. Tôi, tôi xây dựng còn ông, ông phá hoại. Hôm nay ông nói những gì với tôi thế? Xã hội chủ nghĩa và những điều bá láp! Ông là một nhà truyền giáo hay một nhà tư bản? Ông phải chọn lựa đi!

    Nhưng chọn lựa cách nào? Tôi bị xâu xé bởi ước vọng ngây thơ muốn nối kết hai sự việc lại, muốn tìm một tổng hợp trong ấy những đối kháng quyết liệt sẽ hòa giải với nhau, và muốn đạt được cùng một lúc đời sống trần gian và thiên đàng. Ước vọng đó kéo dài từ nhiều năm qua, từ thuở tôi còn nhỏ. Lúc tôi còn ở ghế nhà trường, tôi cùng với một số bạn thân nhất tổ chức một Hội Ái Hữu bí mật - và khép mình trong phòng ngủ khóa chặt cửa của tôi, chúng tôi phát thệ rằng tất cả chúng tôi sẽ hy sinh trọn đời mình để chiến đấu chống lại bất công. Chúng tôi khóc ròng khi tay đặt lên phía trái tim, chúng tôi phát lời thệ nguyện.

    Ôi những lý tưởng trẻ con! Tuy nhiên khốn khổ cho ai nghe những điều ấy mà lại cười! Khi thấy những hội viên của Hội Ái Hữu trở thành lang băm, thầy kiện tồi, chủ tiệm tạp hóa, chính trị gia xảo quyệt, nhà báo quèn, lòng tôi quặn đau. Có lẽ khí hậu thế gian này hà khắc và cuồng bạo quá nên những hạt giống quí báu nhất không nẩy mầm hoặc bị chèn ép ngột ngạt bởi hoa hèn cỏ dại. Ngày hôm nay tôi thấy rõ ràng tôi chưa bị chết ngộp bởi lý trí. Cám ơn Thượng Ðế! Tôi vẫn còn cảm thấy rất sẵn sàng lăn mình vào những cuộc viễn chinh anh hùng rơm.

    Ngày chủ nhật, cả hai chúng tôi sửa soạn như những chàng trai sắp lấy vợ: Chúng tôi cạo râu, mặc áo chemise trắng mới tinh, vào lúc xế chiều, chúng tôi đến nhà mụ Hortense. Mỗi Chủ Nhật, mụ làm thịt cho chúng tôi một con gà mái, và cả ba chúng tôi lại ngồi vào bàn ăn uống; rồi Zorba thò hai bàn tay dài đặt lên bộ ngực mời mọc của mụ đàn bà tử tế và chiếm hữu nó. Khi chúng tôi trở về bờ biển lúc hoàng hôn, cuộc đời đối với chúng tôi có vẻ giản dị và đầy hảo ý, già nua, nhưng rất đáng yêu và niềm nở, giống như mụ Hortense.

    Và trong một những Chủ Nhật ấy, trên đường về sau bữa ăn thân mật thịnh soạn, tôi quyết định bầy tỏ với Zorba những dự định của tôi. Hắn há hốc miệng, cố gắng dằn lòng nghe. Nhưng thỉnh thoảng hắn lúc lắc cái đầu to tướng vẻ tức giận. Những lời nói đầu tiên của tôi đã khiến hắn tỉnh rượu ngay, đầu óc sáng suốt trở lại. Khi tôi dứt lời hắn bứt rứt nhổ hai ba sợi ria mép:

    - Mong ông chủ thứ lỗi cho, tôi có cảm tưởng óc ông chưa được đặc lắm, nó mới chỉ sền sệt như đậu hũ. Ông bao nhiêu tuổi?

    - Ba mươi lăm.

    - Thôi xong! Thế là nó sẽ không bao giờ đặc lại được nữa rồi.

    Kỳ 19



    Nói xong hắn phá lên cười. Bị chọc tức, tôi la lên:

    - Bác không tin tưởng vào con người sao?

    - Xin ông chủ đừng nổi giận. Không, tôi không tin tưởng vào bất cứ điều gì hết. Nếu tôi tin vào con người, tôi sẽ phải tin vào Thượng Ðế, tôi cũng sẽ phải tin vào ma quỉ nữa. Và đó là cả một vấn đề. Mọi sự rồi sẽ rối bời, ông chủ, và điều đó sẽ mang đến cho tôi không biết bao nhiêu là bực mình.

    Hắn nín lặng, lột mũ nồi ra, gãi đầu như điên, lại kéo mạnh ria mép như định nhổ đi. Hắn muốn nói điều gì nhưng lại thôi. Hắn liếc mắt nhìn tôi, nhìn thẳng lần nữa và quả quyết nói:

    - Con người là một con thú! Hắn la vừa lấy cây gậy đập lên mấy cục đá một cách giận dữ. Thú vật tàn bạo. Quí ông không thể tưởng tượng được điều đó đâu. Tất cả đều có vẻ quá dễ dãi đối với ông. Ông hỏi tôi đấy à? Tôi xin thưa: Họ là loài vật! Nếu ông tàn nhẫn với họ: Họ sẽ kính nể và sợ hãi ông. Nếu ông tử tế với họ: Họ sẽ khoét mắt ông.

    - Hãy xa cách họ, ông chủ, đừng để con người bạo dạn quá, đừng nói với họ là tất cả đều bình đẳng, tất cả đều có những quyền lợi như nhau, nếu không họ sẽ chà đạp lên quyền lợi của chính ông, họ sẽ cướp đoạt phần cơm áo của ông và bỏ ông chết đói ngay. Hãy xa cách họ ông chủ, tôi muốn ông được yên!

    - Nhưng bác không tin tưởng vào bất cứ điều gì sao? Tôi điên tiết la lên.

    - Không, tôi không tin tưởng vào bất cứ điều gì hết. Tôi còn phải nói với ông điều ấy bao nhiêu lần nữa? Tôi không tin tưởng vào bất cứ điều gì cũng không tin tưởng vào bất cứ ai, tôi chỉ tin vào Zorba. Không phải vì Zorba tốt hơn những kẻ khác, không phải vì thế. Không phải vì thế chút nào! Nó cũng là một con thú như tất cả mọi người. Nhưng tôi tin tưởng vào Zorba bởi vì hắn là kẻ duy nhất mà tôi biết: Tất cả những người khác đều là bóng ma. Chính với mắt nó mà tôi thấy, với tai nó mà tôi nghe, với ruột nó tôi tiêu hóa. Tất cả những người khác, đều chỉ là những bóng ma, tôi xin nhắc lại. Tôi, khi tôi chết đi, tất cả sẽ chết theo. Toàn thể thế giới Zorba sẽ chìm nghỉm xuống đáy!

    - Ích kỷ quá sức! Tôi châm biếm.

    - Ðiều đó không thể tránh được, ông chủ! Ðúng như vậy đó. Tôi ăn đậu, nói đậu, không ăn sóng nói gió; tôi là Zorba, tôi nói theo điệu Zorba.

    Tôi không nói gì cả. Tôi cảm thấy những lời nói của Zorba như những lằn roi quất lên mình tôi. Tôi thán phục hắn mạnh đến thế, có thể khinh bỉ con người đến độ đó mà đồng thời vẫn muốn sống và cùng làm việc với họ như vậy. Tôi, hoặc sẽ trở thành một kẻ ẩn tu, hoặc tôi sẽ tô điểm cho con người bằng bộ lông giả để có thể chịu đựng được họ.

    Zorba quay lại nhìn tôi. Dưới ánh sao, tôi nhận thấy hắn đang cười miệng ngoác đến tận mang tai.

    - Ông có giận tôi không, ông chủ? Hắn nói và im bặt.

    Chúng tôi về đến lều. Zorba dịu dàng và ái ngại nhìn tôi.

    Tôi không trả lời. Tôi cảm thấy lý trí tôi đồng ý với Zorba, nhưng trái tim tôi chống lại, muốn vươn lên thoát khỏi con mãnh thú, mở một con đường riêng.

    - Tối nay tôi không buồn ngủ, Zorba, tôi nói. Bác đi ngủ đi.

    Sao long lanh, biển thở dài và liếm mãi những vỏ sò ốc, một con đom đóm thắp ngọn dâm đăng nhỏ lập lòe dưới bụng. Tóc đêm dài đầm đìa sương.

    Tôi nằm úp mặt trên bãi biển, đắm chìm trong im lặng, không nghĩ ngợi điều gì hết. Tôi làm một với đêm và biển; tôi cảm thấy tâm hồn tôi giống như một con đom đóm, ngọn đèn nhỏ mầu xanh sáng rực, đậu trên mặt đất ẩm ướt tối đen và chờ đợi.

    Những vì tinh tú đi du lịch vòng quanh, thời khắc trôi qua - và khi tôi đứng dậy, không hiểu tại sao, tôi đã ghi sâu trong tâm khảm một phận sự song trùng mà tôi phải hoàn tất trên bãi biển này:

    Giải thoát khỏi Ðức Phật, trút bỏ trong chữ nghĩa mọi ưu tư siêu hình và giải thoát tâm hồn tôi khỏi nỗi xao xuyến vô ích.

    Thiết lập một cuộc tiếp xúc sâu xa và trực tiếp với con người, ngay từ giờ phút này.

    Tôi thầm nhủ: “Có lẽ mình còn đủ thì giờ.”

    5

    - Bác Anagnosti, kỳ mục, xin gửi lời chào ông và nếu ông vui lòng, xin ông chịu khó dời gót đến nhà dùng bữa cơm đạm bạc. Gã thợ thiến hôm nay sẽ đến làng ta thiến mấy con lợn. Ðây là một dịp đặc biệt, “của quí” thực là một món cao lương mỹ vị, Kyria Maroulia nội tướng của lão già sẽ đặc biệt lo việc nấu nướng phần “của quí” đó cho ông. Hôm nay cũng là ngày sinh nhật của Minas, cháu họ, ông có thể nhân dịp này chúc mừng cháu họ luôn thể.”

    Ðược bước vào nhà một nông dân Crete là một điều vô cùng thích thú. Mọi vật xung quanh đều cổ kính: lò sưởi, cái đèn dầu, những cái bình đất sắp hàng dọc theo vách nhà, một cái bàn với dăm ba cái ghế và, ở phía bên trái từ cửa bước vào, trong một hốc vách có một bình đựng nước mát. Trên sàn nhà treo lủng lẳng mấy tràng hạt mộc-qua, hạt lựu và hạt cây mùi: đan-sâm bạc-hà, hạt tiêu đỏ, mê-điệt và rau quế.

    Kỳ 20



    Cuối nhà, cái cầu thang hay ba bốn bậc gỗ dẫn lên cái bục nơi có để một cái sập và phía trên cao là những thánh tượng với cây đèn ngày đêm chong. Ngôi nhà có vẻ trống trải nhưng đủ đồ cần thiết, thực ra những nhu cầu thiết thực của con người chẳng có bao nhiêu.

    Ngày diễm lệ với mặt trời thu rất đỗi dịu dàng. Chúng tôi ngồi trong mảnh vườn nông phu trước nhà, dưới một cây ô-liu trĩu trái. Qua những chiếc lá tráng bạc, biển lấp lánh xa xa, bình lặng, êm ả hoàn toàn. Những đám mây mù bay ngang đầu chúng tôi, nối tiếp bay qua mặt trời và khiến trái đất hiện ra lúc vui lúc buồn, như thể nó đang hô hấp vậy.

    Cuối mảnh vườn, trong một cái chuồng nhỏ, con heo bị thiến la réo vì đau đớn làm chúng tôi điếc cả tai. Từ lò sưởi mùi “của quí” nướng trên than hồng của mụ Kyria Maroulia bay đến mũi chúng tôi.

    Chúng tôi nói về những sự việc ngàn đời: ngũ cốc, nho, mưa. Chúng tôi bắt buộc phải la to vì vị kỳ mục không còn nghe rõ. Lão bảo rằng tai lão rất là “kiêu kỳ.” Cuộc đời của vị bô lảo đảo Crete này suôn sẻ và bình thản như cuộc đời của một cái cây mọc bên khe nước khuất gió ngàn. Lão sinh ra, trưởng thành và lập gia đình. Lão có con cháu đầy đàn. Vài người đã qua đời, nhưng nhiều kẻ còn sống: việc nối dõi tông đường được bảo đảm chắc chắn.

    Vị bô-lão đảo Crete nhắc nhở đến thời xa xưa, thời kỳ Thổ đô hộ, nhớ lại những lời giáo huấn của thân phụ lão, những phép lạ xẩy ra vào thời kỳ đó vì thuở ấy dân chúng biết sợ Thượng Ðế và có đức tin.

    - Này, tôi, kẻ đang hầu chuyện với các ngài đây, tôi, bác Anagnosti, tôi được sinh ra do một phép lạ. Vâng, do một phép lạ. Và khi tôi thuật lại với các ngài sự việc như thế nào, các ngài sẽ vô cùng ngạc nhiên mà bảo rằng “Thượng Ðế thương xót chúng ta” và các ngài sẽ đi đến tu viện thờ Ðức Mẹ Ðồng Trinh để thắp nến lễ.

    Lão làm dấu thánh giá và bình thản nói với giọng dịu dàng:

    - Vào thời kỳ đó, ở làng tôi có một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ giầu có - mụ khốn kiếp! Một ngày nọ mụ ta mang bầu, mụ quái ác ấy, và đã đến lúc mụ sinh nở. Người ta để mụ ngồi trên một cái ghế và mụ ngồi đấy mà rống lên như một con bò cái trong ba ngày ba đêm. Nhưng đứa con không chịu ra. Bởi thế một người bạn gái của mụ ta - cũng lại là một ả trời đánh nữa - cô này khuyên mụ như thế này: “Tzafer Hanum, chị phải cầu xin mẹ Mariré cứu giúp mới được!” Mẹ Mariré là tên người Thổ gọi Ðức Mẹ Ðồng Trinh. Oai quyền Ðức Mẹ lớn lắm! “Gọi bà ấy à?” Cái con chó cái Tzafer rống lên, gọi bà đó à? Thà chết còn hơn!” Nhưng mỗi lúc cơn đau càng dữ dội. Y thị phải chịu đựng một ngày một đêm nữa. Y thị vẫn rống lên và y thị vẫn không đẻ được. Làm sao bây giờ? Y thị không thể chịu đau lâu hơn nữa. Thế là y thị lại gọi: “Mẹ Mariré! Mẹ Mariré!” Y thị tha hồ mà kêu la nhưng cơn đau không buông tha y thị và đứa nhỏ cũng chưa chịu chui ra. “Bà không nghe chị đâu, người bạn gái của y thị nói. Có lẽ bà không hiểu tiếng Thổ. Vậy chị hãy gọi bà bằng tên Cơ Ðốc Giáo!” Lúc đó con đĩ chó mới kêu lên:

    “Hỡi Thánh Nữ Ðồng Trinh của dân Thiên Chúa Giáo!” Dân Thiên Chúa Giáo khốn kiếp! Cơn đau mỗi lúc mỗi gia tăng. Người bạn gái của y thị lại bảo: “Chị không gọi bà ấy đúng cách, Tzafer Hanum, chị không gọi bà ấy đúng cách nên bà ấy không đến.” Thế là con chó cái tà giáo ấy nhận thấy nguy cơ đã đến bèn rống lên một tiếng thật lớn: “Nữ Thánh Ðồng Trinh!” Tức thì đứa bé tuồn từ bụng y thị ra như một con lươn ra khỏi bùn.

    “Việc đó xẩy ra vào Chủ Nhật tuần này thì Chủ Nhật tuần sau đến lượt mẹ tôi đau đớn như vậy. Bà cũng thế, tội nghiệp quá, bà cũng đau, bà cũng rống lên, bà mẹ khốn khổ của tôi. Bà thét: “Hỡi Thánh Nữ Ðồng Trinh! Hỡi Thánh Nữ Ðồng Trinh!” Nhưng bà không được giải thoát. Cha tôi ngồi bệt dưới đất ở giữa sân. Ông đau lòng quá đến nỗi không ăn uống gì được cả. Ông không hài lòng với Ðức Mẹ Ðồng Trinh lắm. “Tuần trước, em thấy không, cái con đĩ chó Tzafer nó kêu gọi bà ta, và bà ta cắm đầu cắm cổ chạy đến để giải thoát nó. Bây giờ...” Ngày thứ tư, cha tôi không chịu đựng nổi nữa. Không chút lưỡng lự, ông xách cây gậy chạc đôi đi một mạch đến tu viện Nữ Thánh Ðồng Trinh Thống Khổ. Cầu cho chúng tôi! Ông bước vào nhà thờ mà không làm dấu Thánh giá, cơn thịnh nộ của ông lớn biết chừng nào, ông khóa cửa và dừng lại trước tượng Thánh Mẫu: “Xin bà cho tôi biết, hỡi Thánh Nữ Ðồng Trinh, vợ tôi, mụ Krinio, bà biết chứ? Bà phải biết, mụ thường mang dầu đến đây vào mỗi buổi chiều Thứ Bẩy và mụ thắp sáng hết các ngọn đèn chong ở đây, vợ tôi, mụ Krinio, đã đau đớn từ ba đêm ba ngày rồi và mụ kêu gọi bà. Bà không nghe thấy hay sao? Nhất định bà phải điếc nếu bà không nghe thấy. Chắc hẳn nếu mụ là một con đĩ chó nào đó như Tzafer, quân bẩn thỉu Thổ Nhĩ Kỳ thì bà đã cắm cổ chạy đến để giúp nó rồi đấy. Nhưng vợ tôi, chỉ là một tín đồ Cơ Ðốc Giáo bởi thế nên bà trở nên điếc đặc, không nghe thấy vợ tôi kêu van! Bà biết không, nếu bà không phải là Nữ Thánh Ðồng Trinh, tôi đã cho bà một bài học, với cây gậy mà bà đã thấy đây!”


    * Pháp văn trong nguyên bản - (N.H.H)

  3. #3
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba - Con Người Chịu Chơi

    Kỳ 21



    “Nói xong, không thèm cúi đầu lạy lục gì hết cha tôi quay lưng bỏ đi. Nhưng Chúa thiêng liêng làm sao, cùng lúc ấy, thánh tượng bắt đầu kêu răng rắc thật lớn như thể nó đang nứt ra.

    Những thánh tượng kêu răng rắc như thế khi sắp ban phép lạ, ghi nhớ lấy điều ấy nếu các ngài không biết. Cha tôi hiểu ngay. Ông quay lại, quì gối xuống và làm dấu thánh giá. “Con đã xúc phạm đến Ngài, Nữ Thánh Ðồng Trinh, con đã nói nhiều điều quá đáng, xin Mẹ bỏ qua cho!”

    “Cha tôi vừa về đến làng là người ta đã báo tin mừng cho ông hay: ‘Mừng ông đó, Kostandi, vợ ông đã sinh con trai rồi.’ Ðó là tôi, lão Anagnosti này. Nhưng tôi sinh ra với lỗ tai hơi kiêu kỳ. Cha tôi, như các ngài biết, đã phạm thượng, ông bảo Mẹ Ðồng Trinh điếc.

    “A, được rồi, làm như thế đó phải không? Ðức Mẹ Ðồng Trinh hẳn phải nói như thế. Ðược lắm, hãy chờ một chút, con ơi, ta sẽ làm cho con ngươi điếc để dạy ngươi biết thế nào là phạm thượng!”

    Và bác Anagnosti làm dấu thánh giá.

    - Nhưng như thế cũng chẳng sao. Lạy Chúa! Bà có thể làm tôi đui mù, ngốc nghếch hay gù lưng hoặc - xin Thượng Ðế phù hộ cho chúng tôi - bà có thể làm tôi thành một đứa con gái không sao, tôi xin quì trước ơn cả của Ngài.

    Lão rót thêm rượu đầy ly.

    - Xin Mẹ phò trợ chúng ta! Lão vừa nói vừa nâng ly.

    - Uống mừng bác mạnh khỏe, bác Anagnosti. Xin cầu chúc bác sống trăm năm tuổi để nhìn thấy đàn chút chít của bác!

    Lão già nốc một hơi cạn ly rượu nho và lau ria mép:

    - Không con ạ, lão nói, thế này là đủ lắm rồi! Không nên đòi hỏi nhiều quá. Thời của lão đã đến rồi. Ta đã già, các bạn này, thận ta khô cạn, ta không thể - chứ không phải không muốn - ta không thể gieo giống được nữa; như thế, ta còn sống để làm gì chứ?

    Lão lại rót đầy các ly, móc thắt lưng ra mấy trái hồ đào, và mấy trái vải khô gói trong mớ lá nguyệt quế và chia cho chúng tôi.

    - Ta đã cho con cái tất cả những gì ta có. Chúng ta sa vào cảnh khốn cùng xơ xác, vâng, cảnh khốn cùng xơ xác, nhưng ta không ta thán gì hết. Thượng Ðế có tất cả những cái cần thiết!

    - Thượng Ðế có thể có tất cả những cái cần thiết, thưa bác Anagnosti, Zorba kề tai lão già la. Thượng Ðế có chứ không phải chúng ta. Nhưng lão keo kiết không cho chúng ta gì cả!

    Vị hương mục kỳ cựu nhíu mày.

    - Ðừng ăn nói thế, đừng nặng lời với Ngài như vậy ông bạn, lão nghiêm nghị nói. Xin đừng nặng lời vì Ngài cũng tin cậy vào chúng ta!”

    Trong lúc đó, cụ bà Anagnosti lặng lẽ đi vào và líu díu mang món cao lương mỹ vị đặt trên đĩa bằng đất và một bầu bằng đồng đầy rượu nho. Bà lão đặt tất cả xuống bàn, đứng đấy khoanh tay lại và cúi mặt xuống.

    Tôi cảm thấy lợm giọng phải nếm món ăn chơi này, nhưng tôi cũng xấu hổ nếu từ chối, Zorba liếc nhìn tôi và tinh quái cười trước sự lúng túng của tôi.

    - Ðó là món ngon nhất đấy ông chủ ạ, hắn quả quyết với tôi. Ðừng làm bộ chê chớ.

    Lão Anagnosti cười khúc khích.

    - Ông bạn nói đúng đấy, hãy thử dùng mà xem. Cũng như óc vậy mà! Khi hoàng tử George thăm viếng tu viện của chúng tôi ở phía ngọn núi trên kia, các tu sĩ sửa soạn một bữa ăn vương giả, mời tất cả mọi người dùng thịt heo. Riêng phần hoàng tử thì chỉ có một đĩa súp. Hoàng tử cầm muỗng và quấy đĩa súp của mình. Ngài ngạc nhiên hỏi: Ðậu trắng phải không? Kính mời hoàng tử nếm thử, vị tu viện trưởng nói, kính mời ngài nếm thử rồi chúng tôi sẽ thưa sau.” Hoàng tử nếm thử một muỗng, hai muỗng, ba muỗng rồi cạn hết đĩa và ngài liếm mép. Ngài hỏi: “Món ăn gì tuyệt diệu thế? Ðậu ngon quá! Như óc heo vậy! - Thưa hoàng tử, đó không phải là đậu, vị tu viện trưởng thưa. Ðó không phải là đậu. Chúng tôi đã thiến tất cả gà ở quanh vùng này!”

    Vừa phá lên cười ông lão vừa lấy cái nĩa ghim vào một miếng “của quí” của con heo.

    - Một món ăn vương giả! Lão nói. Há miệng ra.

    Tôi há miệng ra và lão nhét miếng thịt vào.

    Lão lại rót rượu đầy ly và chúng tôi uống chúc mừng cháu bé lão. Ðôi mắt của ông nội ngời sáng.

    - Bác ước muốn cháu bác trở thành gì, thành gì, thưa bác Anagnosti? Tôi hỏi lão như thế. Xin bác cho biết để chúng tôi chúc cháu.

    - Lão có thể ước muốn gì con? Vậy thì, mong rằng nó sẽ theo con đường ngay, nó sẽ trở thành một con người lương thiện, một người gia trưởng tốt; nghĩa là nó cũng sẽ lập gia đình và có con, có cháu. Và mong rằng một đứa con của nó sẽ giống lão. Ðể các bô lão trong làng khi nhìn thấy nó sẽ bảo rằng: “Coi này, nó giống lão Anagnosti làm sao! Mong rằng lão được yên nghỉ nơi suối vàng! Lão thật là một con người tốt.”

    “Maroulia! Lão gọi mà không nhìn vợ, Maroulia cho đầy bầu rượu nữa đi!”

    Ngay lúc đó, cửa chuồng heo bị tông thật mạnh và con heo vừa chạy ra sân vừa réo ầm ĩ.

    - Nó đau, tội nghiệp con vật... Zorba thương hại nói.

    - Dĩ nhiên là nó đau! Lão già Crete vừa cười vừa nói. Nếu người ta làm chú như thế, chú có đau không?

    Kỳ 22



    Zorba giẫy giụa trên ghế.

    - Thụt lưỡi đi, lão điếc lòi tai! Zorba sợ hãi càu nhàu.

    Con heo chạy qua lại trước mặt chúng tôi và nhìn chúng tôi một cách giận dữ.

    - Tin tôi đi, hình như nó hiểu rằng mình đang ăn của nó! Lão Anagnosti nói, cao hứng vì đã ngà ngà say.

    Nhưng chúng tôi, như những kẻ chuyên ăn thịt người, chúng tôi bình tĩnh và thỏa mãn tiếp tục vừa ăn vừa uống rượu vang đỏ; trong khi nhìn, qua những cành ô-liu tráng bạc, tới biển cả mà giờ đây hoàng hôn đã nhuộm hồng.

    Chúng tôi từ nhà vị kỳ mục trở về lúc chiều tà. Zorba lúc này chuếnh choáng say, ngứa ngáy muốn nói:

    - Ngày hôm kia mình nói gì nhỉ ông chủ? Ông nói ông muốn soi sáng đám dân, mở mắt họ ra. Ðược lắm, ông hãy thử mở mắt bác Anagnosti! Ông có thấy bà vợ lão đứng trước mặt lão, chờ lệnh lão như một con chó ăn xin không? Ông hãy đến dậy cho lão ta biết ngay bây giờ rằng đàn bà cũng có quyền như người đàn ông và ngồi đó mà ăn miếng thịt lợn trong khi con lợn còn đang sống rên xiết trước mắt mình như vậy là một điều tàn nhẫn và cám ơn Thượng Ðế vì lão có tất cả trong khi ông đang chết đói chỉ là một việc điên cuồng! Lão sẽ thu lượm được gì, cái lão già quỉ quái! Anagnosti ấy, với những lời giải thích phỉnh phờ của ông? Ông sẽ chỉ làm cho lão ấy bực mình. Và lão bà Anagnosti sẽ thu lượm được gì? Chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa: những vụ lộn xộn sẽ bắt đầu, con gà mái muốn trở thành gà trống, và trong gia đình rồi sẽ những cuộc lục đục... xin ông hãy để cho họ yên, đừng mở mắt họ làm gì. Nếu ông mở mắt họ, họ sẽ thấy gì? Nỗi khốn cùng của họ! Hãy để mắt họ nhắm, ông chủ, để mặc họ tiếp tục mơ ngủ!

    Hắn ngừng nói giây lát rồi gãi đầu. Hắn suy nghĩ và cuối cùng tiếp tục:

    - Trừ phi... trừ phi...

    - Trừ phi gì... Cứ nói toạc ra đi!

    - Trừ phi khi họ được mở mắt, ông có thể chỉ cho họ một thế giới, tuyệt hảo hơn cái bóng tối mà hiện tại họ đang rờ rẫm đây... Ông có thể làm được chứ?

    Tôi không biết. Tôi biết rõ cái gì sẽ sụp đổ trên những đổ nát kia. Tôi nghĩ không ai biết được điều ấy một cách chắc chắn. Cuộc đời cũ và hiển nhiên vững vàng, chúng ta sống trong nó và tranh đấu với nó từng giây từng phút - nó hiện hữu đó. Cuộc đời vị lai chưa sinh ra, nó chưa thể sờ mó được, nó còn lỏng, cấu tạo bởi ánh sáng của mộng mơ dệt thành; đó là đám mây bị những cơn cuồng phong lùa đi - tình yêu, hận thù, trí tưởng tượng, sự tình cờ, Thượng Ðế... Nhà tiên tri vĩ đại nhất trên trái đất chỉ có thể ban cho con người một ám hiệu và ám hiệu càng mơ hồ, vị tiên tri càng vĩ đại.

    Zorba nhìn tôi với nụ cười chế giễu khiến tôi mếch lòng.

    - Tôi có thể chỉ cho họ một thế giới tuyệt hảo hơn! Tôi phát cáu trả lời hắn.

    - Thực không? Ðược lắm, ông hãy nói nghe!

    - Tôi không thể nói được, bác không hiểu đâu.

    - Thế có nghĩa là ông không có rồi! Zorba vừa nói vừa lắc đầu. Ðừng tưởng tôi là một tên ngốc nghếch, ông chủ. Nếu có ai nói với ông tôi là một tên đần độn người ta lừa ông đấy. Có thể tôi cũng dốt đặc như lão Anagosti, nhưng tôi không đến nỗi đần độn đến thế đâu! Á! Không! Ðược rồi, nhưng nếu tôi không hiểu thì ông hy vọng gì ở lão đáng thương kia và mụ đầu đặc như bí của lão? Còn tất cả những chàng Anagnosti khác trên thế giới sẽ ra sao? Họ sẽ chỉ thấy bóng tối mới dầy đặc hơn? Thôi, để họ giữ những bóng tối cũ; họ đã quen rồi. Họ đã tự biết lo liệu đàng hoàng cho đến bây giờ rồi, ông không thấy sao? Họ sống và sống rất hay, họ sinh con đàn cháu đống nữa. Thượng Ðế làm cho họ đui điếc để họ kêu rằng: “Vinh danh thay Thượng Ðế!” Họ sống thoải mái trong cùng khổ. Vậy ông để mặc họ và đừng nói gì cả.

    Tôi lặng thinh. Chúng tôi đi ngang vườn của góa phụ. Zorba dừng lại giây lát, thở dài nhưng không nói gì. Dường như trời đã đổ trận mưa rào đâu đây. Mùi đất mới, mát rượi đầy không khí. Những ngôi sao thứ nhất xuất hiện. Trăng non chiếu sáng, ánh vàng xanh dịu dàng. Bầu trời tràn ngập êm ái.

    Tôi thầm nghĩ: “Người đàn ông này không cắp sách đến trường và trí óc hắn không bị phá hỏng. Hắn đã điêu đứng quá nhiều, tâm trí hắn mở rộng, tâm hồn hắn mở phơi bát ngát, không đánh mất mảy may lòng táo bạo nguyên thủy. Mọi vấn đề phức tạp, nan giải đối với chúng ta, hắn đều cắt phăng bằng một đường gươm như Alexander Ðại Ðế cắt cái nút của vua Gordian*. Hắn khó lòng nghiêng lật vì hai chân hắn trồng vững trên mặt đất bởi sức nặng của toàn thân. Dân man rợ Phi Châu tôn thờ con rắn vì toàn thân nó tiếp xúc mặt đất và do đó hiểu tất cả những điều bí ẩn của trái đất. Nó biết những điều bí ẩn bằng bụng, bằng đuôi, bằng đầu nó. Nó luôn luôn tiếp xúc, hòa hợp, làm một với Ðất Mẹ. Zorba cũng thế. Còn chúng ta những kẻ trí thức, chúng ta chỉ là những con chim trời đầu óc trống rỗng.”

    Sao mỗi lúc một nhiều. Cứng rắn, lạnh lùng, ngạo mạn và tàn khốc đối với loài người.



    * Thần thoại Hy Lạp: Vua Gordian xứ Phrygia kết một cái nút mà theo sấm truyền chỉ có vị chúa tể tương lai của Á Châu mới cởi được. Alexander Ðại Ðế không cởi được bèn rút gươm cắt béng. (N.H.H.)



    Kỳ 23



    Chúng tôi không nói gì thêm nữa. Cả hai chúng tôi đều kinh hãi nhìn trời. Mỗi lúc chúng tôi lại thấy những ngôi sao mới bừng lên ở phương Ðông và kéo dài đám cháy lớn.

    Chúng tôi về đến lều. Tôi không còn muốn ăn uống gì nữa, và tôi ngồi bệt xuống tảng đá bên bờ biển. Zorba đốt lửa, hắn định ngồi bên cạnh tôi nhưng hắn đổi ý trèo lên nệm lăn ra ngủ.

    Mặt biển im lặng như tờ. Dưới trận mưa sao tới tấp đất cũng nằm bất động và lặng lẽ. Không một tiếng chó sủa, không một tiếng chim đêm thất thanh. Một sự im lặng hoàn toàn len lén, nham hiểm, làm thành bởi muôn vàn tiếng kêu xa xăm hay sâu thẳm quá nơi chúng ta đến nỗi chúng ta không nghe nổi. Tôi chỉ nhận ra dòng máu trong tôi rào rạt đập trong thái dương và tĩnh mạch cổ.

    “Hòa khúc hổ!” Tôi vừa nghĩ vừa run rẩy.

    Ở Ấn Ðộ, khi đêm xuống, một điệu hát nho nhỏ, một điệu ca trầm buồn thê thảm, man rợ và chậm rãi, như một tiếng ngáp của dã thú từ xa - hòa khúc hổ. Tâm hồn con người tràn ngập một niềm mong đợi căng thẳng.

    Và tôi nghĩ đến hòa khúc ghê gớm ấy, lồng ngực trống trải của tôi dần dần được lấp đầy. Tai tôi thức tỉnh, sự im lặng trở thành một tiếng thét. Như thể tâm hồn cũng được cấu tạo bằng hòa khúc ấy và nó thoát khỏi thân xác để lắng nghe.

    Tôi cúi xuống vốc nước biển vỗ lên trán và thái dương. Tôi cảm thấy tươi mát trở lại. Tận đáy lòng tôi, những tiếng kêu vang dội hăm dọa, rối loạn, nóng nẩy - con hổ ở trong tôi đang gầm thét.

    Ðột nhiên, tôi nghe thấy giọng nói một cách rõ ràng:

    - Ðức Phật! Ðức Phật! Tôi đứng phắt dậy và kêu lên.

    Tôi bắt đầu bước đi thật nhanh dọc theo mé nước như thể muốn trốn thoát. Ðã từ lâu lắm rồi, khi tôi cô đơn lúc đêm về và khi im lặng trì ngự, tôi lại nghe tiếng nói của Ngài - mới đầu buồn bã than van như một khúc ai ca - rồi dần dần trở nên giận dữ, quát tháo và phán quyết. Và nó lồng lộn trong lồng ngực tôi như đứa bé đã đến lúc rời lòng mẹ.

    Chắc phải đến nửa đêm rồi. Nhiều cụm mây đen xây thành ở trên trời, một vài hạt mưa lớn rớt trên tay tôi. Nhưng tôi không chú ý tới. Tôi đang chìm đắm trong một bầu không khí nóng bỏng; tôi cảm thấy có một ngọn lửa leo lét ở hai bên thái dương tôi.

    “Ðã đến lúc rồi đây, tôi thầm nghĩ và run rẩy, bánh xe Phật Giáo lôi cuốn tôi xa, đã đến lúc tôi phải tự giải thoát khỏi cái gánh nặng kỳ diệu này.”

    Tôi vội vã trở lại lều và đốt đèn lên. Khi ánh sáng hắt lên Zorba, hắn dụi mắt và mở mắt ra nhìn thấy tôi đang cúi mình viết trên giấy. Hắn càu nhàu điều gì tôi không nghe thấy, quay ngoắt về phía vách và lại chìm vào giấc ngủ ngay.

    Tôi viết rất nhanh, hối hả. “Ðức Phật” hoàn toàn ở trong tôi, tôi nhìn thấy Ngài hiện trước thần trí tôi như một giải băng xanh đầy biểu tượng. Ngài hiện ra rất mau và tôi cố gắng chụp bắt Ngài một cách tuyệt vọng. Tôi viết, tất cả trở nên đơn giản, thật đơn giản. Tôi không viết, tôi đang ghi chép lại. Cả một thế giới hiện ra trước mắt tôi, cấu thành bởi lòng từ bi, hỉ xả và hư không - những lâu đài của Ðức Phật, những cung tần mỹ nữ, cỗ xe ngựa bằng vàng, ba lần gặp gỡ tiền định với một cụ già, một người bệnh và một tử thi; cuộc trốn ra đi, cuộc sống khổ hạnh, sự giải thoát và lời phát thệ cứu độ chúng sinh. Mặt đất phủ hoa vàng, hành khất và vua chúa đều mặc áo mầu khương hoàng, đất đá, cây cối, xác thịt trở nên thanh thoát. Mọi tâm hồn đều trở thành hơi, hơi trở thành tinh thần và tinh thần trở thành hư không... Mấy ngón tay tôi mỏi rời rã nhưng tôi không muốn, tôi không thể ngừng viết. Sự trực thị qua, mau chóng rồi biến mất; tôi phải bắt kịp.

    Sáng hôm sau, Zorba thấy tôi nằm ngủ, đầu gối lên trang bản thảo.

    6

    Khi tôi thức dậy, mặt trời đã lên cao đến hai con sào rồi. Khớp xương tay phải của tôi bị tê cứng vì cầm bút quá lâu. Tôi không thể co những ngón tay khít lại. Cơn giông tố Phật Giáo đã qua đi và để tôi ở lại, mệt mỏi và trống trải.

    Tôi cúi xuống lượm những tờ giấy rải rác trên mặt đất. Tôi không muốn cũng như không đủ sức nhìn chúng. Như thể tất cả nguồn hứng khởi bộc phát này chỉ là một giấc mơ mà tôi không muốn nhìn thấy mình bị tù túng trong những chữ, trở thành đê hèn vì chúng.

    Trời mưa hiu hắt, âm thầm. Trước khi đi ra, Zorba đã đốt lò than, và suốt buổi sáng hôm ấy tôi ngồi xếp bằng, tay hơ trên ngọn lửa, không ăn, bất động, chỉ lắng nghe cơn mưa đầu mùa dìu dịu rơi rơi...

    Tôi không nghĩ ngợi gì hết. Cuộn tròn như con chuột chũi trong đất ẩm, trí óc tôi yên nghỉ. Tôi nghe thấy những cử động nhẹ nhàng, những tiếng xì xào và gậm nhấm sần sật của đất, và mưa rơi với những hạt giống căng phồng. Tôi cảm thấy trời đất giao hòa như trong buổi ban sơ khi chúng phối hợp với nhau tựa một người đàn ông và một người đàn bà và tạo ra con cái. Trước mặt tôi, dọc theo suốt một vùng duyên hải, tôi nghe thấy biển gầm thét và táp vào bờ như một con dã thú lè lưỡi ra liếm cho dịu cơn khát.

  4. #4
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 24



    Tôi hoan hỷ, tôi biết điều đó. Trong khi an hưởng hạnh phúc chúng ta khó lòng ý thức được hạnh phúc. Chỉ khi nào nó đã qua đi và chúng ta nhìn lại đằng sau chúng ta mới đột nhiên cảm thấy - đôi khi thảng thốt - chúng ta đã sung sướng biết chừng nào. Nhưng tôi, trên bãi biển Crete này, tôi sống trong hạnh phúc và tôi biết rằng tôi hạnh phúc.

    Một vùng biển xanh thẫm, bao la, trải rộng đến tận duyên hải Phi Châu. Thường thường có một cơn gió nồm rất nóng, gió Livas, thổi từ miền cát cháy xa xôi tới. Buổi sáng, biển tỏa hương thơm như một trái dưa đỏ; buổi trưa, nó bốc hơi và lặng như tờ với những lượn sóng gờn gợn như bờ ngực mới nhú. Buổi chiều nó thở dài và có mầu của hoa hồng, của rượu nho, của cà dái dê, xanh thẫm.

    Xế trưa, tôi đùa giỡn bằng cách bốc cát vàng và để nó luồn, nóng và mềm, qua những kẽ ngón tay. Bàn tay - một cái đồng hồ cát qua đó cuộc đời chạy trốn và hư mất. Nó tự hư mất. Tôi nhìn biển, chờ đợi Zorba và cảm thấy thái dương tôi nổ vỡ vì hạnh phúc.

    Tôi nhớ một hôm, cháu gái tôi, Alka, một con bé bốn tuổi, trong lúc chúng tôi đang nhìn vào một cửa hàng đồ chơi vào tối hôm cuối năm, quay lại và nói với tôi nhận xét lạ lùng này: “Chú Ogre ơi, cháu sung sướng quá muốn mọc sừng đây này!” Tôi giật mình. Kỳ diệu thay cuộc đời và giống nhau làm sao mọi tâm hồn, khi cắm rễ thật sâu xuống, gặp gỡ và hòa hợp với nhau! Bởi tôi nhớ ngay tới một cái đầu Ðức Phật khắc trong gỗ mun mà tôi đã trông thấy trong một viện bảo tàng xa xôi. Ðức Phật đã giải thoát và thấm nhuần niềm hoan hỷ tối thượng, sau bẩy năm khắc khoải. Gân hai bên thái dương ngài căng phồng đến nỗi tung ra khỏi da và trở thành đôi sừng mạnh mẽ xoắn lại như hai cái lò so bằng thép.

    Cơn mưa nhỏ tạnh vào lúc xế chiều, bầu trời trở nên quang đãng. Tôi đói và hân hoan vì đã đói, bởi bây giờ Zorba sắp đến, nhóm lửa và bắt đầu nghi lễ nấu nướng.

    - Lại một câu chuyện bất tận nữa đây! Zorba thường nói khi đặt nồi lên bếp lửa. Không phải chỉ riêng đàn bà - quân khốn kiếp - mới là chuyện bất tận, cả cái việc ăn uống này nữa chứ.

    Trên bãi biển này lần đầu tiên tôi cảm thấy cái thú của một bữa ăn. Buổi tối, Zorba nhóm lửa giữa hai tảng đá và làm bếp; chúng tôi nhập cuộc ăn uống, câu chuyện trở nên sôi nổi hào hứng; cuối cùng tôi ý thức được rằng ăn cũng là một chức vụ tinh thần và thịt, bánh, rượu là những nguyên liệu tạo nên tinh thần.

    Sau một ngày làm việc cực nhọc, trước khi ăn uống Zorba buồn tẻ, gắt gỏng, gặng mãi mới moi được của hắn vài tiếng. Cử chỉ của hắn uể oải và khó thương. Nhưng khi hắn vừa ném than vào máy, theo lời hắn nói, toàn thể bộ máy trì trệ và mệt lử của thân thể hắn sống động trở lại, lấy trớn và bắt đầu làm việc. Mắt hắn sáng ngời, trí nhớ tràn trề, chân hắn mọc cánh và nhẩy múa.

    - Hãy nói cho tôi biết anh làm gì với cái anh ăn, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Có kẻ biến đồ ăn thành mỡ và phân, kẻ biến nó thành công việc và khí sắc vui vẻ, và kẻ khác, thành Thượng Ðế, như tôi nghe người ta nói. Vậy có ba loại người. Tôi, tôi không thuộc loại tệ nhất cũng chẳng thuộc loại tốt nhất. Tôi ở giữa hai loại đó. Cái tôi ăn, tôi biến nó thành công việc và tính khí vui vẻ. Không đến nỗi dở lắm!

    Hắn nhìn tôi một cách tinh quái và cất tiếng cười.

    - Còn về phần ông, ông chủ, tôi nghĩ có lẽ ông cố gắng biến cái ông ăn thành Thượng Ðế. Nhưng ông không hoàn toàn thành công và điều đó dày vò ông. Trường hợp ông cũng giống như trường hợp con quạ.

    - Trường hợp con quạ làm sao, Zorba?

    - Ông biết chứ, trước kia nó đi một cách oai phong, thoải mái, như một con quạ vậy. Nhưng một hôm tự nhiên nó nẩy ra ý muốn vừa đi vừa vênh váo như con đa đa. Từ khi đó, con chim đáng thương quên ngay cả cách đi riêng của mình. Nó bị lẫn lộn hết, ông thấy không? Nó chỉ còn nước đi khập khiễng.

    Tôi ngửng đầu lên. Tôi nghe tiếng chân Zorba đang lên khỏi đường hầm. Lát sau tôi thấy hắn tiến đến gần, mặt thuỗn ra, nhăn nhó, hai cánh tay dài đong đưa, thõng thẹo.

    - Chào ông chủ! Hắn thều thào nói.

    - Chào Zorba. Hôm nay công việc ra sao?

    Hắn không đáp.

    - Tôi đi nhóm bếp và làm cơm đây, hắn nói.

    Hắn lấy một ôm củi trong góc, đi ra ngoài xếp những thanh củi một cách khéo léo thành một đống giữa hai tảng đá và nhóm lửa. Hắn đặt cái nồi đất lên trên, đổ nước, bỏ vào đó hành, cà chua và gạo và bắt đầu nấu. Trong thời gian đó tôi trải một tấm khăn lên cái bàn tròn thấp, cắt những lát bánh mì dầy, và rót rượu từ trong hũ ra cho đầy quả bầu trang trí nhiều hình vẽ mà bác Anagnosti đã tặng cho chúng tôi ít lâu sau khi chúng tôi đến đây.

    Zorba quì gối trước bếp, mở mắt lớn nhìn ngọn lửa và giữ im lặng.

    - Bác có con chưa, Zorba? Ðột nhiên tôi hỏi hắn.

    Hắn quay lại:

    - Tại sao ông lại hỏi tôi điều ấy? Tôi có một đứa con gái.

    - Lập gia đình chưa?

    Kỳ 25



    Zorba cười.

    - Tại sao bác lại cười, Zorba?

    - Ðiều đó không cần phải nói. Dĩ nhiên là lập gia đình rồi. Nó cũng không phải là đứa đần độn gì. Hồi đó tôi đang làm việc tại một mỏ đồng ở Pravishta miền Chalcidice. Một hôm tôi nhận được thư của em Yanni tôi. À quên! Tôi chưa nói với ông là tôi có một đứa em, thuộc loại người khôn ngoan, biết phân biệt phải trái, ngồi nhà cho vay lãi, hay đi nhà thờ, giả đạo đức, một người rất phải phép, một rường cột của xã hội. Em tôi bán tạp hóa ở Salonica. “Anh Alexis, nó viết cho tôi, con Phrosco con gái anh đã hư hỏng rồi. Nó đã làm ô danh của chúng ta. Nó có một thằng nhân tình, nó đã có với thằng kia một đứa con. Danh tiếng nhà ta thế là đi đời. Tôi sắp về làng vặn họng nó.”

    - Và bác đã làm gì, Zorba?

    Zorba nhún vai.

    - Hừ! Ðàn bà! Tôi nói rồi xé bức thư.

    Hắn ghế cơm, cho thêm chút muối rồi cười khẩy.

    - Nhưng đợi chút ông sẽ thấy khía cạnh khôi hài của câu chuyện đó. Hai tháng sau, tôi lại nhận được một lá thư thư hai của thằng em ngốc nghếch: “Chúc anh mạnh giỏi và vui vẻ, anh Alexis thân mến”, thằng ngốc đó viết. “Danh dự nhà ta đã được phục hồi, bây giờ anh có thể ngẩng cao đầu lên, người đàn ông đó đã cưới con Phrosso rồi!”

    Zorba quay lại và nhìn tôi. Nhờ ánh sáng của điếu thuốc lá, tôi thấy hai mắt hắn long lanh. Hắn lại nhún vai.

    - Hừ! Ðàn ông! Hắn nói với vẻ khinh miệt khó tả.

    Một lát sau, hắn tiếp:

    - Người ta có thể mong đợi gì ở đàn bà? Họ phải có con với người đàn ông đầu tiên. Người ta có thể mong đợi gì ở đàn ông? Họ phải sa vào bẫy. Ông hãy nhớ điều tôi nói, ông chủ.

    Hắn bắc nồi xuống và chúng tôi bắt đầu dùng bữa ăn chiều.

    Zorba lại chìm đắm vào suy tưởng. Một mối lo âu nào đó đang dầy vò hắn. Hắn nhìn tôi, mở miệng ra rồi lại ngậm lại. Qua ánh đèn dầu, tôi nhận thấy rõ ràng vẻ lo lắng sầu muộn trong mắt hắn.

    Tôi không chịu nổi nhìn thấy hắn như vậy. Tôi hỏi.

    - Zorba, bác có điều gì muốn nói với tôi, cứ nói đi. Dặn ra đi sau đó bác sẽ thấy dễ chịu ngay.

    Zora vẫn lặng thinh. Hắn nhặt một hòn sỏi, cố ném lọt qua cửa sổ.

    - Ðể yên mấy cục đá đó đi! Nói đi nào!

    Zorba vươn dài khuôn cổ nhăn nheo ra.

    - Ông có tin tôi không, ông chủ? Hắn hỏi, lo lắng nhìn vào mắt tôi.

    - Có, Zorba, tôi đáp. Dù bác làm bất cứ điều gì, bác cũng không thể sai lầm. Dù bác có muốn lầm đi nữa, bác cũng không thể lầm lạc được. Bác giống như một con sư tử hay một con sói. Loại thú này không bao giờ xử sự như những con cừu hay con lừa, chúng không bao giờ đi ngược lại bản chất chúng. Bác cũng thế; bác là Zorba đến tận đường tơ kẽ tóc.

    Zorba lắc đầu:

    - Nhưng tôi mù tịt không biết chúng ta sẽ đi đâu! Hắn nói.

    - Tôi biết, bác đừng lo âu gì về điều đó. Cứ việc tiến tới!

    - Hãy lập lại điều ấy một lần nữa đi, để tôi thêm can đảm, ông chủ! Hắn la lên.

    - Tiến tới!

    Cặp mắt Zorba long lanh.

    - Bây giờ tôi có thể nói ông, hắn nói. Từ mấy hôm nay, tôi có một dự định to tát trong đầu; một ý nghĩ ngông cuồng. Liệu chúng ta có thể thực hiện ý tưởng đó không?

    - Bác cần gì phải hỏi tôi? Chính vì lý do đó chúng ta cần đến đây: để thực hiện những ý tưởng.

    Zorba vươn cổ ra sung sướng và sợ hãi nhìn tôi:

    - Ông hãy nói rõ, ông chủ! Hắn la to. Mình không đến đây vì than sao?

    - Than là một cái cớ để dân địa phương khỏi thắc mắc. Ðể họ tưởng lầm mình là những nhà thầu đứng đắn và không tiếp đón chúng ta bằng cách liệng cà chua. Bác hiểu chưa, Zorba?

    Zorba há hốc miệng sững sờ. Hắn cố gắng hiểu, hắn không dám tin tưởng vào một niềm hạnh phúc lớn lao nhường ấy. Ðột nhiên, hắn hiểu. Hắn lao tới và nắm lấy vai tôi:

    - Ông có nhảy không? Hắn hỏi tôi một cách say sưa. Ông có nhảy không?

    - Không.

    - Không à?

    Hắn buông thõng hai tay, sửng sốt.

    - Ðược lắm, lát sau hắn nói. Thế thì tôi sẽ nhảy, ông chủ. Xin ông ngồi ra xa một chút để tôi khỏi đụng vào ông. Ô, ê! Ô, ê.

    Hắn nhào lộn một cái rồi nhảy phóng ra khỏi lều, liệng cả giầy, áo ngoài, áo trong, xắn quần lên tới đầu gối và bắt đầu nhảy múa. Mặt hắn hãy còn than lem luốc. Lòng trắng mắt hắn sáng lên.

    Hắn lao vào điệu vũ, vỗ tay, nhảy nhót, nhào lộn trong không gian, rơi xuống trên hai đầu gối rồi vọt lên, hai chân co lại như thể hắn là cao su. Thốt nhiên hắn phóng mình lên thật cao như muốn chế ngự những định luật lớn của thiên nhiên và bay bổng. Người ta nhận thấy rằng trong cái thân thể mọt đục ấy, tâm hồn đang phấn đấu để lôi cuốn xác thịt đi và lao mình vào bóng tối như một vẩn thạch. Nó lay động thân thể đang rơi trở lại vì không thể ở quá lâu giữa không trung, nó lay động thân thể lần nữa, một cách tàn nhẫn, lần này cao hơn một chút nhưng cái thân thể đáng thương hại lại rơi xuống, hổn hển.



    Kỳ 26



    Zorba cau mày, khuôn mặt hắn có vẻ lo âu trầm trọng. Hắn không la thét nữa. Nghiến răng hắn gắng sức đạt cái bất khả.

    - Zorba! Zorba! Thế đủ rồi! Tôi thét lên.

    Tôi sợ rằng tấm thân già nua ấy sẽ không chịu đựng nổi ngần ấy bạo lực, có thể tan tác thành muôn ngàn mảnh và rải rác theo gió bốn phương.

    Tôi rất có thể la to nữa, nhưng có để làm gì đâu. Làm thế nào Zorba có thể nghe tiếng la của trái đất? Lòng hắn đã trở thành lòng chim.

    Tôi hơi xao xuyến dõi mắt theo điệu vũ man rợ và tuyệt vọng. Khi còn nhỏ, tôi thường để óc tưởng tượng lôi cuốn và kể cho các bạn nghe những chuyện viển vông thái quá mà chính tôi cũng tin tưởng.

    “Ông nội của mày chết như thế nào?”, một hôm tụi bạn học ở trường làng hỏi tôi.

    Và liền khi đó, tôi dựng lên ngay một huyền thoại; và càng dựng đứng lên bao nhiêu, tôi càng tin tưởng bấy nhiêu.

    “Ông nội tớ có chòm râu bạc và hay đi giầy cao-su. Một hôm ông tớ từ nóc nhà nhảy xuống. Nhưng khi chạm đất ông tớ lại nhảy vọt lên như một trái banh và lên cao hơn nóc nhà nữa, lên cao, lên cao mãi cho đến khi mất hút trong những đám mây. Ðó ông tớ chết như vậy đó.”

    Sau khi dựng lên huyền thoại đó, mỗi lần đến nhà thờ Thánh Minas nhỏ bé và nhìn thấy phía dưới bình phong có thánh tượng hình ảnh đấng Ky Tô Thăng Thiên, tôi chỉ cho chúng bạn thấy và nói:

    “Kìa, ông tớ đi giầy cao su đó!”

    Tối hôm nay, sau bao nhiêu năm, khi nhìn Zorba nhảy lên không, tôi sống lại một cách kinh hoàng câu chuyện trẻ con, sợ nhìn thấy Zorba biến mất trong mây.

    - Zorba! Zorba! Ðủ rồi! Tôi kêu lên.

    Bây giờ Zorba ngồi xổm trên mặt đất thở hổn hển. Nét mặt hắn rạng ngời hân hoan. Mớ tóc xám dính bết vào trán và mồ hôi hòa với bụi than, chảy dòng dòng trên má và cằm.

    Tôi cúi nhìn hắn, lo âu.

    - Nhảy múa làm tôi nhẹ nhõm, lát sau hắn nói với tôi, như thể người ta đã trích huyết tôi vậy. Bây giờ tôi có thể nói được rồi.

    Hắn trở vào lều, ngồi trước bếp than hồng và nhìn tôi, vẻ mặt rạng rỡ.

    - Cái gì khiến bác nhảy múa như vậy?

    - Tôi có thể làm gì hơn, ông chủ? Niềm hân hoan làm tôi ngộp thở, tôi phải tìm một lối thoát cho bớt căng thẳng chứ... Và phải tìm lối thoát bằng cách nào? Bằng lời nói à? Hừ!

    - Niềm hân hoan nào?

    Hắn sa sầm nét mặt. Môi hắn bắt đầu run.

    - Niềm hân hoan nào? Thế thì điều ông vừa nói với tôi, ông đã nói như nói với không khí như vậy sao? Ông không hiểu ngay cả chính ông nữa à? Ông đã nói rằng chúng ta không đến đây vì than. Ông đã nói điều đó như thế, phải không? Chúng ta đến đây để cho qua thì giờ. Chúng ta che mắt thiên hạ, để họ không cho chúng ta là những kẻ điên khùng và họ không ném cà chua vào chúng ta! Nhưng khi không có ai và không ai có thể trông thấy chúng ta, chúng ta sẽ cả cười khoái trá có phải thế không? Tôi xin thề rằng tôi cũng muốn như vậy, nhưng tôi không ý thức được điều đó rõ ràng. Ðôi khi tôi nghĩ đến than, đôi khi đến mụ Bouboulina, đôi khi đến ông... một sự hỗn độn thường xuyên. Khi tôi đào được một đường hầm tôi nói: “Than là cái ta muốn!” Và từ đầu đến chân, tôi trở thành than. Nhưng sau đó, khi công việc xong xuôi, khi tôi đùa giỡn với mụ nái sề ấy, chúc mụ may mắn! Tôi nói, mang mẹ nó hết tất cả than bùn và tất cả mấy lão chủ treo cổ - bằng sợi dây băng quanh cổ mụ - cả Zorba nữa! Tôi điên đầu. Rồi khi tôi ở một mình và không có việc gì làm, tôi nghĩ đến ông, ông chủ ạ, và tôi rất đau lòng. Lương tâm tôi nặng trĩu: “Xấu hổ lắm, Zorba, tôi kêu lên như thế, xấu hổ lắm, mi chế nhạo con người lương thiện kia và bòn rút tiền bạc của hắn, cho đến bao giờ mi mới hết là một tên đê tiện? Ta chán mi lắm rồi đó!”

    “Ông chủ, thú thực với ông tôi không biết tôi ở đâu nữa. Ma quỉ lôi kéo tôi một đàng, Thượng Ðế lôi kéo tôi một nẻo, về phần cả hai, họ xâu xé tôi ở giữa. Bây giờ, ông chủ, ông nói đúng quá và tôi thấy rõ điều đó. Tôi hiểu rồi! Mình đã đồng ý với nhau! Bây giờ hãy gây mối bất hòa! Ông còn bao nhiêu tiền nữa? Ðem cho hết đi! Ăn nhẵn hết đi cho rồi!”

    Zorba chặm mồ hôi và nhìn quanh. Bữa cơm chiều còn lại hãy còn chõng trơ trên cái bàn con. Hắn vươn cánh tay dài của hắn ra:

    - Xin phép ông chủ, hắn nói. Tôi lại đói rồi.

    Hắn cầm lấy một mẩu bánh mì, một củ hành và một nắm ô liu.

    Hắn ăn ngấu nghiến, dốc trọn bầu rượu vào miệng mà không cho bình chạm vào môi, và rượu chảy òng ọc qua cổ họng hắn. Zorba tặc lưỡi, thỏa mãn.

    - Tôi cảm thấy rất hăng hái.

    Kỳ 27



    Hắn nháy tôi và hỏi:

    - Tại sao ông không cười, ông chủ? Hắn hỏi tôi. Tại sao ông nhìn tôi? Tôi như vậy đó. Trong tôi có một con quỉ hò hét và tôi làm theo lời nó. Mỗi lần tôi xúc động sắp ngộp thở là nó la: “Nhẩy đi!” Và tôi nhảy múa. Và như vậy tôi thấy nhẹ nhõm. Một lần khi thằng bé Dimitraki của tôi chết ở Chalcidice, tôi cũng đứng dậy như hồi nãy và tôi nhảy. Bạn bè và họ hàng thân thích nhìn thấy tôi nhảy múa trước thi hài thằng bé, họ lao tới để ngăn tôi. “Zorba điên rồi! Họ la lên như vậy. Zorba điên rồi!” Nhưng lúc đó nếu tôi không nhảy múa, tôi sẽ phát điên vì đau khổ. Bởi vì đó là thằng con trai đầu lòng của tôi, nó vừa được ba tuổi, mất nó tôi không chịu đựng nổi. Ông chủ, ông có hiểu điều tôi nói không hay là tôi đang nói chuyện với đầu gối đây?

    - Tôi hiểu, Zorba ạ, tôi hiểu, bác không phải nói với đầu gối đâu.

    - Lại một lần khác... Lúc đó tôi đang ở Nga, gần Novo Rossisk... Vâng tôi cũng tới đó vì hầm mỏ. Lần này, mỏ đồng.

    “Tôi đã học được năm sáu tiếng Nga vừa đủ để làm ăn: ‘Không, vâng, bánh mì, nước, tôi yêu cô, lại đây bao nhiêu?’ Tôi kết bạn với một tên Nga, một anh chàng Bôn-sơ-vích hung hăng. Mỗi buổi chiều, chúng tôi đều đến một tửu quán ở bến tầu, người ta mang xuống không thiếu gì rượu Vodka và điều ấy khiến chúng tôi thêm hứng. Khi chúng tôi bắt đầu vui vẻ, cõi lòng chúng tôi rộng mở. Hắn thuật cho tôi từng chi tiết về tất cả những gì đã xẩy đến cho hắn trong thời kỳ cách mạng Nga, còn tôi, tôi cho hắn biết tất cả mọi công việc và hành động của tôi. Chúng tôi cùng say sưa, ông thấy chứ, và chúng tôi trở thành anh em.

    “Bằng những cử chỉ, chúng tôi cố gắng tìm cách thỏa thuận với nhau. Hắn nói trước, khi tôi không hiểu, tôi quát bảo hắn: ‘Stop!’ Thế là hắn đứng lên nhảy múa. Ông chủ, ông hiểu chứ? Nhảy múa để diễn tả điều hắn muốn nói. Và tôi cũng làm như vậy. Bất cứ điều gì chúng tôi không thể nói được bằng miệng, chúng tôi nói bằng chân, bằng tay, bằng bụng hay bằng những tiếng la hét man rợ như: Hai! Hai! Hô la! Ô-ê!

    “Gã người Nga bắt đầu: Họ đã cầm súng như thế nào, chiến tranh bùng nổ như thế nào, và họ đã đến Novo Rossisk thế nào. Khi tôi không hiểu nổi nữa điều hắn nói với tôi, tôi đưa tay lên và la: “Stop!” Tức thì tên người Nga phóng mình lên và hắn bắt đầu nhảy múa! Hắn nhảy múa như bị ma làm. Và tôi nhìn tay, chân, ngực, mắt hắn, tôi hiểu hết: Họ đã vào Novo Rossisk và giết các ông chủ họ ra sao, họ đã cướp phá các cửa tiệm như thế nào, họ đã vào các nhà và bắt cóc đàn bà như thế nào. Lúc đầu, mấy mụ này khóc lóc, mấy con đĩ, họ tự cào cấu mặt mũi và họ cấu xé cả bọn đàn ông, nhưng dần dần họ thuần thục, họ nhắm mắt, rồi họ kêu ẳng ẳng vì thỏa mãn. Ðàn bà, hừ...

    “Và sau đó đến lượt tôi. Ngay từ mấy tiếng đầu, có lẽ mặc dù hắn hơi đần độn và đầu óc hắn làm việc không chỉnh, tên người Nga đã la lên: ‘Stop!’ Tôi chỉ chờ có thế. Tôi phóng mình tới, xô bàn ghế ra và tôi bắt đầu nhảy múa. Ôi! Ông bạn thân mến của tôi! Con người đã sa đọa quá thấp, loài người, chao ôi! Tội nghiệp. Họ đã để thân xác họ trở thành câm lặng và họ chỉ nói bằng miệng. Nhưng ông mong đợi cái miệng nói điều gì chứ, cái miệng đó? Nó có thể nói được gì? Nếu ông có thể thấy tên Nga kia đã lắng nghe tôi, từ đầu đến chân và hắn đã hiểu tôi trọn vẹn thế nào! Tôi đã mô tả cho hắn thấy, bằng cách nhảy múa, những hoạn nạn, những chuyến du-lịch của tôi, tôi đã lấy vợ bao nhiêu lần, học được bao nhiêu nghề - thợ đào đá, thợ mỏ, phu khuân vác, thợ đồ gốm, comitadji (*) tay chơi đàn santuri, người bán hạt bầu rang, thợ rèn và buôn lậu; người ta bỏ tù tôi như thế nào, tôi đã vượt ngục như thế nào và tôi đã đến Nga ra sao...

    “Hắn đã hiểu hết tất cả, tất cả, mặc dù hắn đần độn như vậy. Chân tay tôi nói, tóc tai và quần áo tôi nói. Và con dao nhỏ đeo ở thắt lưng tôi cũng nói nữa. Khi tôi dứt lời, cái anh chàng đại ngốc ấy ôm chầm lấy tôi, hắn hôn tôi, tụi tôi rót rượu Vodka đầy ly, tụi tôi khóc cười trong tay nhau. Tờ mờ sáng chúng tôi chia tay và loạng choạng leo lên giường ngủ. Và buổi chiều chúng tôi lại gặp nhau.

    “Ông cười hả? Ông không tin tôi sao ông chủ? Ông đang tự nhủ: Lão Sinh Bá nhà hàng hải đang thêu dệt chuyện gì đây? Có thể nói bằng cách nhẩy múa được không? Tuy nhiên, tôi dám đoan chắc là ma quỉ và thần thánh bắt buộc phải nói với nhau bằng cách đó.

    “Nhưng tôi thấy ông buồn ngủ rồi. Ông yếu ớt quá, ông không có sức chịu đựng. Vậy, ông hãy đi ngủ đi mai ta sẽ lại trở lại câu chuyện. Tôi có một dự định, một dự định huy hoàng vĩ đại. Ngày mai tôi sẽ trình bày với ông. Tôi sắp đốt thêm một điếu thuốc nữa và có thể sẽ ngụp xuống biển. Tôi đang bốc cháy. Tôi phải lo dập tắt. Ông ngủ ngon nhé!”

    (*) Ðoàn viên trong các hội giải phóng Macédoine. G.c.D.

    Kỳ 28



    Khuya lắm tôi mới ngủ được. Ðời tôi hỏng rồi, tôi nghĩ. Nếu tôi có thể lấy một tấm khăn xóa hết tất cả những gì tôi đã học, tất cả những gì tôi đã thấy, đã nghe và nhập môn trường Zorba, học vỡ lòng tự mẫu vĩ đại, tự mẫu chân chính, thì con đường tôi đã chọn lựa sẽ khác biết bao!

    Tôi sẽ luyện tập ngũ quan một cách hoàn hảo, và toàn thể thân thể tôi nữa để nó có thể hưởng thụ và hiểu biết. Tôi sẽ tập chạy, tập vật lộn, tập bơi lội, cưỡi ngựa, chèo thuyền, lái xe, bắn súng. Tôi sẽ thỏa mãn xác thịt tôi bằng tâm hồn. Cuối cùng tôi sẽ hòa giải hai kẻ nghịch thù truyền kiếp trong tôi...

    Ngồi trên tấm nệm tôi nghĩ đến cuộc đời đang đi đến chỗ hoàn toàn lãng phí của tôi. Qua khung cửa mở, dưới ánh sao, tôi lờ mờ nhận thấy Zorba đang ngồi xổm trên một tảng đá như một con dạ điểu. Tôi thèm được như hắn. Chính hắn, đã tìm thấy chân lý, tôi nghĩ. Con đường đó là chánh đạo.

    Vào thời đại khác, sơ khai và sáng tạo hơn, Zorba hẳn đã là một tù trưởng. Hắn đã đi tiên phong mở đường khai lối bằng một lưỡi rìu. Hoặc hắn là một thi sĩ đãng tử nổi tiếng, thăm viếng các lâu đài, và tất cả mọi người - lãnh chúa, mệnh phụ phu nhân và nô tỳ chăm chăm nhìn vào cặp môi dày đón lời ca hắn... Trong thời đại bạc bẽo này, hắn đói khát rình mò xung quanh các hàng dậu như một con sói, hoặc hắn sa sút đến độ trở thành thằng hề của một tên cạo giấy nào đó.

    Tôi thấy Zorba hốt nhiên đứng dậy. Hắn cởi áo ném lên lớp đá cuội rồi hắn lao xuống biển. Chốc chốc, dưới ánh trăng non mờ ảo, tôi thấy cái đầu to lớn của hắn trồi lên rồi lại biến mất. Thỉnh thoảng, hắn la lên một tiếng, sủa, hí, bắt chước tiếng gà gáy - tâm hồn hắn trong đêm hoang vắng trống trơn này có ái lực quay về với loài thú vật.

    Âm thầm tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã thấy Zorba mỉm cười tươi tắn đến kéo chân tôi.

    - Dậy đi ông chủ, hắn nói, để tôi thú thực dự định của tôi với ông. Ông đang nghe đấy chứ?

    - Tôi đang nghe.

    Hắn ngồi xếp bằng tròn dưới đất và bắt đầu giải thích hắn sẽ thiết lập một đường sắt từ trên đỉnh núi xuống tới bờ biển như thế nào; do đó chúng tôi có thể chuyển gỗ cần dùng cho các đường hầm xuống và chúng tôi sẽ bán gỗ còn lại làm gỗ cất nhà. Chúng tôi quyết định mướn một khu rừng thông thuộc tu viện nhưng việc chuyên chở đắt đỏ và tìm không đủ la.

    Zorba đã tưởng tượng cách đặt đường sắt treo dây cáp lớn, cột trụ và ròng rọc.

    - Ðồng ý? Hắn hỏi tôi khi hắn dứt lời; ông tán thành chứ?

    - Tôi tán thành, Zorba, đồng ý.

    Hắn đốt lò than, đặt ấm nước lên bếp, pha cà phê cho tôi, ném một cái mền lên chân tôi, để tôi khỏi bị lạnh rồi hắn thích chí ra đi.

    - Hôm nay chúng ta đào một đường hầm mới. Tôi đã tìm ra được một lớp than đá hay lắm! Ðúng là kim cương đen!

    Tôi giở bản thảo Ðức Phật ra, tôi cũng chui vào những đường hầm của riêng tôi. Tôi viết suốt ngày, và càng tiến tới, tôi cảm thấy mình giải thoát. Cảm xúc của tôi hỗn độn: khuây khỏa, kiêu hãnh, chán chường. Nhưng tôi để mặc cho công việc lôi cuốn, vì tôi biết rằng, ngay khi tôi hoàn thành tập bản thảo này, niêm phong và buộc lại, tôi sẽ tự do.

    Tôi đói. Tôi ăn mấy trái nho khô, vài hạt hạnh nhân với một mẩu bánh mì. Tôi đợi Zorba trở về, mang theo tất cả những của báu làm vui lòng người - một tiếng cười trong trẻo, lời nói tử tế, những thức ăn ngon lành.

    Gần tối, hắn hiện về và sửa soạn bữa ăn. Chúng tôi ăn nhưng tâm trí chúng tôi để đâu đâu. Hắn quì gối, cắm những thanh củi nhỏ xuống đất, giăng một sợi dây bên treo một cái hộp diêm vào mấy cái ròng rọc nhỏ, cố gắng tìm kiếm để cho sợi chỉ nghiêng cách nào cho tất cả khỏi đổ.

    Hắn giải thích:

    - Nếu nghiêng quá là chúng ta thất bại liền. Mà nghiêng ít quá cũng không được. Phải tìm độ dốc chính xác. Và muốn thế, ông chủ, chúng ta cần phải có rượu và óc phán đoán.

    - Mình có thiếu gì rượu, tôi vừa nói vừa cười nhưng còn óc phán đoán...

    Zorba phá lên cười:

    - Ông chẳng khờ dại chút nào, ông chủ, hắn vừa nói vừa âu yếm nhìn tôi.

    Hắn ngồi xuống nghỉ và châm một điếu thuốc.

    Hắn vui vẻ lại và bắt đầu thích trò chuyện.

    - Nếu đường sắt treo thành công, hắn nói mình sẽ cho hạ hết cả rừng cây, mở một nhà máy, xẻ ván, đẽo cọc, làm ván lót hầm mỏ, mình sẽ mang thúng ra mà hốt bạc và sau đó mình sẽ đặt một tàu buồm rồi thu xếp hành lý chuồn thẳng và dong buồm vòng quanh thế giới!

    Mắt Zorba sáng ngời, chứa đầy hình ảnh những người đàn bà ở các hải cảng xa xôi, các đô thị, ánh đèn ngày lễ, những tòa nhà đồ sộ, máy móc, tầu bè.



    Kỳ 29



    - Ðầu tôi bạc rồi, ông chủ, và răng tôi bắt đầu lung lay tôi không còn thì giờ để phí phạm nữa. Ông còn trẻ, ông còn có thể kiên nhẫn được. Tôi xin chịu. Tôi nói thật đấy, càng già bao nhiêu tôi trở nên man rợ bấy nhiêu.

    Ðừng để ai đến lải nhải với tôi rằng tuổi già khiến con người trầm tĩnh và nhụt nhuệ khí! Hoặc khi thấy chết chóc, hắn vươn cổ ra bảo rằng: “Xin hãy vui lòng chặt đầu tôi đi để tôi về chầu trời!” Tôi càng sống lâu bao nhiêu, tôi càng nổi loạn bấy nhiêu. Tôi không chịu đầu hàng đâu, tôi muốn chinh phục thế giới!

    Hắn đứng dậy, gỡ cây santuri trên vách:

    - Ðến đây một chút nào, đồ quỉ, hắn nói. Mi làm gì mà trơ ra đó trên vách không nói một lời? Hãy ca lên một chút coi.

    Tôi không bao giờ chán nhìn Zorba với bao thận trọng, với bao dịu dàng lấy cây santuri ra khỏi bao vải bọc. Hắn có vẻ như đang bóc vỏ một trái vả hay khỏa thân một người đàn bà.

    Hắn đặt cây santuri lên đầu gối, nghiêng mình nhẹ vuốt mấy sợi dây đàn - như thể hắn muốn hỏi ý kiến cây đàn về điệu nhạc mà cả hai sẽ ca hát, như thể hắn đang van lơn cây đàn tỉnh giấc, như thể hắn đang cố dỗ dành cây đàn bầu bạn với tâm hồn phiêu đãng mệt mỏi vì cô đơn của hắn. Hắn dạo thử một khúc: Khúc nhạc không thành tiếng, hắn bỏ, rồi lại bắt đầu một bản khác; dây đàn nghiến ken két như thể chúng bị đau đớn, như thể chúng không muốn cất tiếng. Zorba tựa vào vách, chặm mồ hôi tự nhiên vã đầm đìa trên trán.

    - Nó không muốn... hắn vừa lẩm bẩm vừa kinh sợ cây santuri. Nó không muốn!

    Hắn cẩn thận bọc cây đàn lại, như thể đó là một con dã thú và hắn sợ nó có thể cắn; hắn thong thả đứng dậy treo nó lên vách.

    - Nó không muốn... hắn lại lẩm bẩm, nó không muốn... Không nên ép uổng nó.

    Hắn lại ngồi xuống đất, vùi mấy trái lật vào than, rót đầy mấy ly rượu. Hắn uống, uống nữa, bóc vỏ một trái lật rồi trao cho tôi.

    - Ông có hiểu gì không, ông chủ? Hắn hỏi tôi. Tôi chịu. Mọi vật hình như đều có một linh hồn - Gỗ đá, rượu mà chúng ta uống, đất mà chúng ta giẫm chân lên. Tất cả, tất cả mọi sự, ông chủ.

    Hắn nốc cạn ly rồi lại rót đầy.

    - Cuộc đời thực đĩ thõa! Hắn càu nhàu, con đĩ! Nó giống y như con mụ Bouboulina.

    Tôi bật cười.

    - Xin ông lắng nghe tôi, ông chủ, đừng cười. Cuộc đời giống y như con mụ Bouboulina. Nó già rồi, phải không? Ðược lắm nhưng nó không kém cay đâu. Nó biết những mánh lới làm ông điên đầu. Khi nhắm mắt lại, ông sẽ tưởng tượng mình đang ôm trong tay một thiếu nữ đôi mươi. Chắc chắn như thế, bạn ơi khi bạn đang hành sự và đã tắt hết đèn đóm đi.

    “Ăn thua gì nếu ông bảo tôi rằng mụ đã chín nẫu rồi, mụ đã có một cuộc sống bê tha phóng đãng, mụ đã chơi bời với các thủy sư đô đốc, với bọn lính thủy, lính săng đá, với bọn nhà quê, với phường xướng ca tứ chiếng, với các mục sư, dân chài, cảnh sát, giáo viên, nhà truyền giáo, các thẩm phán tòa hòa giải! Và sau đó? Ðiều đó ra sao? Mụ quên lẹ lắm, cái con đàn bà lẳng lơ dâm đãng ấy mà! Mụ không nhớ đến một tình nhân cũ nào cả. Tôi không nói giỡn đâu, mỗi lần mụ lại trở thành một con bồ câu ngây thơ, một con ngỗng trắng tinh, một con bồ câu mái bé nhỏ và mụ thẹn thùng, tin tôi đi, mụ e lệ thật, mụ run rẩy như thể đây mới là lần đầu tiên. Người đàn bà là một điều huyền bí ông chủ ạ! Dù họ có thể sa ngã hàng ngàn lần, một ngàn lần họ vươn lên như một trinh nữ. Nhưng tại sao thế, đố ông biết đấy? Này, bởi vì họ không nhớ bao giờ.

    - Nhưng con két nó nhớ Zorba, tôi nói để trêu hắn. Nó la mãi một cái tên mà không phải là tên bác. Ðiều đó không làm bác điên đầu sao, khi bác cùng mụ ấy lên bẩy từng trời bỗng nghe con két nó kêu: “Canavoro! Canavoro!”? Bác không nổi nóng mà nắm cổ nó và vặn họng nó sao? Ðã đến lúc bác phải dạy nó kêu: “Zorba! Zorba!” rồi đấy.

    - Ô, điều đó đáng kể gì! Zorba vừa kêu lên vừa giơ hai bàn tay to lớn lên bịt tai lại. Tại sao ông lại muốn tôi vặn họng nó chứ? Nhưng tôi quí nó khi nó gọi cái tên mà ông nói! Ban đêm mụ treo con két ở đầu giường, con đĩ đó, và vừa khi thấy chúng tôi bắt đầu tỏ bầy, bởi vì nó có đôi mắt đâm thủng bóng tối, con quỉ con đó, nó bắt đầu kêu: “Canavoro! Canavoro!”.

    “Và liền đó, ông chủ ạ, tôi xin thề, nhưng làm thế nào ông hiểu điều đó được khi ông đã bị mục nát bởi đống sách nhảm nhí của ông!

    - Tôi xin thề với ông rằng, tôi cảm thấy mình đi giầy bóng láng, mũ lông trên đầu và có hàm râu mượt đượm mùi long-diên-hương. Boungiorno! Buona sera! Mangiate macaroni! Tôi trở thành Canavora thật sự. Tôi leo lên chiếc soái hạm bị lũng ngàn lỗ đạn của tôi và a lê... đốt lò súp-de lên! Loạt súng thần công bắt đầu!”



    Kỳ 30



    Zorba cười vang. Hắn nhắm mắt trái và nhìn tôi bằng mắt kia.

    - Ông thứ lỗi cho tôi, ông chủ, hắn nói, nhưng tôi giống ông nội tôi, quan ba Alexis. Thượng Ðế đã rước linh hồn người rồi! Khi được trăm tuổi thọ, chiều chiều ông tôi thường ngồi trước cổng dòm trộm mấy cô ả gánh nước. Mắt cụ đã yếu nên cụ không còn phân biệt được rõ, cụ bèn gọi các cô lại: “Cháu là đứa nào nhỉ? - Xenio, con gái Mastrandoni - Lại gần đây chút nữa cho già rờ một tí nào! Ðến đây đừng sợ mà! Cô ta nén cười và giữ vẻ nghiêm trang bước lại gần. Thế là ông tôi đưa tay lên mặt cô gái rờ rẫm một cách chậm rãi, dịu dàng và thèm khát. Và nước mắt cụ tuôn rơi. “Tại sao nội khóc thế hở nội?” Một lần nọ, tôi hỏi cụ.

    “Hừ! Con tin rằng không có gì đáng khóc hở con, khi ta đang chết dần và để lại sau ta bao nhiêu là gái đẹp?”

    Zorba thở dài.

    - Ôi, tội nghiệp tôi, hắn nói, bây giờ cháu hiểu ông rồi! Tôi thường tự nhủ: “Chao ôi! Khốn khổ quá! Ước sao tất cả đàn bà đẹp cùng chết một lượt với ta!” Nhưng những con đĩ đó sẽ tiếp tục sống; chúng nó sẽ sống cuộc đời tươi đẹp, đàn ông sẽ ôm chúng vào lòng và hôn chúng, và Zorba nay sẽ trở thành cát bụi để bọn chúng giẫm lên.

    Hắn khều mấy trái lật ở bếp ra, bóc vỏ và chúng tôi cụng ly. Chúng tôi ngồi như vậy một lúc lâu, nhậu nhẹt và thong thả nhai tóp tép như hai con thỏ lớn, và chúng tôi nghe thấy biển đang gầm thét ngoài kia.



    7



    Chúng tôi ngồi im lặng bên lò than hồng cho tới khuya. Một lần nữa tôi lại cảm thấy hạnh phúc là một điều giản dị và đạm bạc vô cùng: Một ly rượu nho, một trái lật nướng, một cái lò sưởi tồi tàn, tiếng sóng rì rào. Không có gì khác nữa. Và cảm thấy rằng đó là điều hạnh phúc, chỉ cần có một tấm lòng đơn giản và thanh đạm.

    - Bác đã lấy vợ bao nhiêu lần rồi, Zorba? Tôi hỏi. Cả hai chúng tôi đều hơi ngà ngà say, không phải quá chén cho bằng vì cái hạnh phúc khó tả kia trong chúng tôi. Mỗi người theo cách riêng, chúng tôi đều thâm cản rằng chúng tôi chỉ là hai con côn trùng phù du bé nhỏ bám riết vào vỏ địa cầu, chúng tôi đã tìm ra một xó thuận tiện bên bờ biển, sau đám lau sậy, gỗ ván, và thùng dầu hỏa không, nơi đó chúng tôi ôm lấy nhau, chúng tôi có trước mặt mình vài điều thú vị và thực phẩm và trong mình sự thanh thản, tình thương yêu và sự an bình.

    Zorba không nghe tôi hỏi. Ai biết tâm trí hắn đang phiêu lãng trên đại dương nào mà tiếng nói của tôi không đạt tới. Tôi vươn tay ra và mấy đầu ngón tay chạm vào hắn.

    - Bác đã lấy vợ bao nhiêu lần rồi, Zorba? Tôi gạn hỏi.

    Hắn giật mình. Lần này hắn nghe thấy. Vừa khua bàn tay hộ pháp hắn vừa trả lời.

    - Ồ! Bây giờ ông muốn tìm kiếm cái gì nào! Rốt cục, tôi cũng chỉ là một thằng đàn ông. Như tất cả mọi người tôi đã phạm phải điều Xuẩn Ngốc Vĩ Ðại. Ðó là tên tôi đặt cho việc hôn nhân. Mong rằng những ai đã lập gia đình thứ lỗi cho tôi. Vâng, tôi đã phạm phải điều Xuẩn Ngốc Vĩ Ðại, tôi đã cưới vợ!

    - Ðược rồi, nhưng bao nhiêu lần mới được chứ?

    Zorba bứt rứt gãi đầu. Hắn suy nghĩ một lát.

    - Bao nhiêu lần nhỉ? Cuối cùng hắn nói: Ðoan chính chỉ có một lần, một lần mà thôi. Nửa đoan chính hai lần. Bất chính một ngàn, hai ngàn, ba ngàn lần không chừng. Ông muốn tôi tính sổ cách nào?

    - Kể sơ qua về những cuộc hôn nhân của bác, Zorba. Ngày mai Chủ Nhật, chúng ta sẽ cạo râu, mặc quần áo đẹp nhất của chúng ta và mình đến mụ Bouboulina. Chúng ta sẽ không có việc gì làm vậy thì chúng ta có thể thức suốt đêm nay. Kể đi!

    - Kể gì chứ? Ðó không phải là những điều người ta đem ra kể, ông chủ! Những vụ kết hôn hợp pháp đều vô vị, đó là một món ăn thiếu mắm muối. Kể gì chứ? Thật không còn chút thú vị nào khi người ta hôn nhau mà từ trên thánh tượng có các vị thánh dòm xuống và ban phúc lành. Trong làng chúng tôi, người ta bảo: “Chỉ có miếng thịt ăn trộm mới có hương vị”. Vợ ông không phải là miếng thịt ăn trộm. Bây giờ, những vụ kết hợp bất chính làm sao mà nhớ hết được? Con gà trống có ghi sổ không? Ông nghĩ coi! Và tại sao nó phải làm vậy? Tuy nhiên, khi tôi còn trẻ, tôi có tật lấy một lọn tóc của mỗi người đàn bà ăn nằm với tôi. Do đó, luôn luôn tôi có cây kéo trong mình. Ngay cả khi tôi đi lễ nhà thờ, cây kéo cũng ở trong túi tôi! Chúng ta là đàn ông chúng ta không bao giờ biết được cái gì sẽ xảy đến cho chúng ta phải không?

    “Thế rồi cứ như thế, tôi làm được một sưu tập các lọn tóc: Ðen có, hoe vàng có, đỏ hung có, đôi khi cũng có vài lọn tóc bạc. Nhờ gom góp lâu ngày, tôi nhồi đầy được một cái gối. Vâng, một cái gối, và tôi gối đầu lên ngủ; nhưng chỉ về Mùa Ðông thôi. Mùa Hè nó nóng lắm. Rồi, sau đó ít lâu, tôi đâm ra chán ngấy: Nó bắt đầu có mùi, bởi thế tôi đốt đi”.

    Zorba phá lên cười:

    - Ðó là cuốn sổ kế toán của tôi, ông chủ, hắn nói. Và nó đã cháy rụi. Tôi đã ngán thứ đó đến cỡ rồi. Tôi đã tưởng không có nhiều như vậy, và rồi tôi lại thấy thứ đó không chấm dứt cho nên tôi ném cây kéo.

  5. #5
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 31



    - Còn những vụ kết hợp nửa đoan chính, Zorba?

    - À những vụ đó à, những vụ đó không kém phần quyến rũ, hắn thở dài. Ôi chao! Những người đàn bà tư-lạp tuyệt vời, ước chi các em sống ngàn năm! Tự do làm sao! Không có những câu: “Anh đi đâu? Tại sao anh về vậy? Anh ngủ ở đâu?” Họ không hỏi ông câu nào cả và ông cũng không hỏi họ gì cả. Tự do mà!

    Hắn với tay lấy cái ly, nốc cạn, bóc vỏ một trái lật. Hắn vừa nhai vừa nói:

    - Có một nàng tên là Sophinka, và nàng nữa tên Noussa. Tôi quen với Sophinka tại một thôn lớn gần Novo Rossisk. Lúc ấy vào mùa Ðông, tuyết rơi, tôi đi tìm việc làm ở một hầm mỏ, và khi ngang qua làng đó, tôi dừng lại.

    Hôm đó, là ngày phiên chợ, và từ khắp các làng vùng lân cận, đàn ông đàn bà đều đổ về mua bán. Một nạn đói kinh khủng, trời rét như cắt, dân làng đem bán tất cả những gì họ có, cho đến cả những thánh tượng, để mua bánh mì.

    “Tôi len lỏi vào chợ khi tôi thấy một thôn nữ cao độ hai thước với đôi mắt mầu xanh nước biển, và đùi với mông đó... một con ngựa cái, thực thế!... Tôi chết đứng.

    “Này, Zorba đáng thương ơi! Tôi tự nhủ, đời mày tàn rồi!”

    “Tôi bắt đầu đi theo nàng. Và tôi nhìn nàng không chán... không thể nào dời mắt đi chỗ khác được! Ông phải thấy đôi mông nàng đong đưa qua lại như chuông nhà thờ ngày lễ Phục Sinh! “Tại sao lại đi tìm những hầm mỏ, hở ngốc tử? Tôi tự nhủ. Mi đã lầm đường rồi. Tại sao lại phí thì giờ quí báu ở đó, quân thay đổi ý kiến như chong chóng! Kia mới là hầm mỏ thực cho mi: Hãy chui mình vào đó và đào những đường hầm!”

    “Cô gái dừng lại, mặc cả, mua một mớ củi, khuân lên - Jesus, hai cánh tay! Và ném hết lên xe ngựa. Cô mua một ít bánh mì và năm sáu con cá sấy. “Bao nhiêu tất cả?” Nàng hỏi “Dữ vậy...?” Nàng gỡ hoa tai bằng vàng để trả tiền. Vì nàng hoảng kinh. Ðể cho một người đàn bà thế hoa tai của mình, những món trang sức của họ, những miếng xà phòng thơm, những lọ nước hoa... Nếu nàng bỏ tất cả những thứ ấy thì đời không còn gì nữa! Cũng như thể ông nhổ lông một con công đi. Ông có tâm địa nào nhổ lông một con công không? Không bao giờ! Không, chừng nào Zorba còn sống, tôi tự bảo, việc ấy không thể xẩy ra. Tôi mở túi bạc và trả tiền. Ðó là vào thời kỳ mà đồng rouble (*) đã trở thành mớ giấy lộn. Với một trăm drachma (**) người ta có thể mua được một con la, và với mười drachma, được một người đàn bà.”

    “Thế là tôi trả. Con đĩ rạc quay lại, liếc nhìn tôi. Ả cầm tay hôn. Nhưng tôi, tôi rút tay lại. Sao, nàng cho tôi là một cụ già à? ‘Spassibla! Spassibla!’ ả nói với tôi như thế; thế có nghĩa là: ‘Cám ơn! Cám ơn!’ Và ả nhảy lên xe ngựa; nàng cầm dây cương và dơ cao chiếc roi. ‘Zorba, lúc ấy tôi tự nhủ kìa, ông bạn, nàng sắp lọt khỏi tay mi rồi đó!’ Phóc một cái, tôi ở bên cạnh nàng trên xe ngựa. Nàng không nói gì. Nàng cũng không quay lại nhìn tôi. Một roi ngựa và thế là chúng tôi lên đường.”

    “Trên đường nàng đã hiểu rằng tôi muốn lấy nàng. Tôi ấp úng dăm ba câu tiếng Nga, nhưng đối với những chuyện này, không cần phải nói nhiều. Người ta nói với nhau bằng mắt, bằng tay, bằng đầu gối. Sau cùng, chúng tôi về đến làng và dừng lại trước isba của nàng. Chúng tôi xuống xe. Lấy vai đẩy một cái, thiếu nữ mở cổng và chúng tôi bước vào. Chúng tôi quăng củi xuống sân, lấy cá và bánh mì rồi chúng tôi chui vào phòng. Có một bà lão nhỏ thó ngồi bên lò sưởi nguội lạnh. Bà lão run cầm cập. Bà ta quấn mình trong những cái bị, những tấm giẻ rách, những tấm da cừu, nhưng bà cũng vẫn run như thường. Trời lạnh như cắt, mẹ kiếp! Tôi khom mình, lấy một ôm củi bỏ vào lò sưởi và nhóm lửa. Bà lão mỉm cười nhìn tôi. Cô con gái bà đã nói với bà điều gì, nhưng tôi không hiểu. Tôi gầy lửa, bà lão đã được sưởi ấm và bà hồi sinh dần.”

    “Trong lúc đó, thiếu nữ dọn bàn ăn. Nàng mang ra một ít rượu Vodka, và chúng tôi uống. Nàng châm lửa cái samovar và pha trà, chúng tôi ăn và chia phần ăn cho bà lão. Ðoạn nàng nhanh nhẹn dọn giường trải drap sạch, đốt ngọn đèn chong trước thánh tượng Ðức Mẹ Ðồng Trinh và làm dấu Thánh giá ba lần. Và nàng ra dấu gọi tôi; chúng tôi quì trước bà lão và hôn tay bà. Bà lão đặt đôi bàn tay xương xẩu lên đầu chúng tôi vừa thì thầm điều gì. Có lẽ bà ban phúc lành cho chúng tôi. ‘Spassibla! Spassibla!’ Tôi la, và, phóc một cái, tôi đã ở trên giường với con đĩ non.”

    Zorba nín lặng. Hắn ngẩng đầu lên và nhìn về phía biển xa.

    - Nàng tên Sophinka..., lát sau hắn nói, và lại rơi vào im lặng.

    - Sao nữa? Tôi sốt ruột hỏi hắn. Sao nữa?

    - Không có “sao nữa” gì hết! Ông có cái tật “sao nữa” với “tại sao” kỳ quá, ông chủ! Những điều đó không kể lại được mà! Ông thấy không! Người đàn bà là một dòng suối mát: người ta nghiêng xuống thấy bóng mình, và người ta uống; người ta uống cho đến khi xương kêu răng rắc. Rồi, kẻ khác lại đến và y cũng khát: y cúi xuống thấy bóng mình và y uống. Rồi một kẻ khác nữa...

    (*) Ðơn vị tiền Nga.
    (**) Ðơn vị tiền Hy Lạp - G.c.D.

    Kỳ 32



    Người đàn bà, quả thực là một dòng suối mát.

    - Rồi sau đó, bác có bỏ ra đi không?

    - Vậy ông muốn tôi phải làm gì chứ? Ðó là một dòng suối, tôi đã nói với ông như thế, và tôi một kẻ qua đường: tôi lại ra đi. Tôi lại ở lại với nàng ba tháng. Cầu Thượng Ðế phò trợ cho nàng, tôi không có gì ta thán nàng hết! Nhưng sau đó ba tháng, tôi nhớ ra là tôi đang đi tìm hầm mỏ. “Sophinka, tôi nói với nàng vào một buổi sáng, anh, anh có công việc, anh phải ra đi.” “Ðược rồi,” Sophinka bảo, “Anh đi đi. Em sẽ đợi anh trong một tháng, và nếu sau một tháng anh không trở lại, em tự do. Anh cũng thế. Cầu Thượng Ðế ban phước lành cho anh!” Tôi ra đi.

    - Và sau một tháng bác có trở lại...?

    - Ông ngốc quá, ông chủ, xin ông thứ lỗi cho! Zorba la lên. Làm sao mà trở lại được? Mấy con đĩ có bao giờ để mình yên đâu? Mười ngày sau, ở Kuban, tôi gặp Noussa.

    - Kể đi! Kể đi!

    - Ðể lần khác, ông chủ. Không nên trộn lẫn họ, những kẻ đáng thương! Chúc em khỏe mạnh, Sophinka.

    Hắn nốc một hơi cạn ly. Rồi tựa lưng vào tường và nói:

    - Ðược rồi, tôi sẽ kể ông nghe về Noussa. Tối nay đầu óc tôi đầy Nga. Hàng đi! Chúng ta sẽ làm cạn mấy cái hầm tầu!

    Hắn chùi bộ ria mép và quạt than.

    - Vâng như tôi đã nói với ông, tôi đã quen biết với cô ta ở làng Kuban. Lúc đó vào mùa Hạ. Hàng núi dưa hấu và dưa gang. Tôi cúi xuống lượm một trái và không ai nói gì cả. Tôi bổ nó ra làm đôi và úp mặt vào.

    “Tất cả đều dồi dào ở Nga, ông chủ, tất cả đều đầy đống. Hãy lựa chọn và lấy! Và không chỉ có dưa hấu dưa gang mà cả cám bơ, và đàn bà. Qua đường, ông thấy một trái dưa hấu, ông lấy đi. Ông thấy một người đàn bà, ông cũng lấy đi. Không phải như ở đây, ở Hy Lạp, nơi ông nhón một miếng vỏ dưa gang nhỏ xíu họ sẽ lôi ông ra tòa, và khi ông chạm vào một người đàn bà, anh em nàng sẽ xô tới, rút dao ra băm vằm thịt ông nát như tương. Khiếp! Bọn đê tiện bủn xỉn... Hãy tự treo cổ lên đi! Hỡi bọn nhớp nhúa! Hãy đến Nga một chút nếu bay muốn thấy bay có thể sống như những đại lãnh chúa như thế nào!

    “Tôi đi qua làng Kuban và tôi thấy một người đàn bà trong vườn rau. Tôi thích nàng. Ông nên biết rằng, ông chủ, người đàn bà Slave họ không giống những cô ả Hy Lạp ốm o, tham lam, bán xẻ ái tình bằng ống nhỏ giọt và tìm đủ mọi cách để bòn rút và cân thiếu lường gạt ông.”

    “Người đàn bà Slave, ông chủ, họ cân già cho mình. Trong giấc ngủ, trong tình yêu, trong việc ăn uống; họ rất gần với thú vật với đồng ruộng và với đất đai. Họ cho, họ cho một cách rộng rãi, họ không như mấy cô ả Hy Lạp gùn ghè, keo kiệt ấy đâu! Tôi hỏi nàng: ‘Cô tên gì?’ Với đàn bà ông thấy không, tôi đã học được một ít chút tiếng Nga.’Noussa, còn anh?’ ‘Alexis. Tôi thích cô lắm, Noussas. Nàng chăm chú nhìn tôi như người ta ngắm nghía một con ngựa trước khi mua. ‘Anh cũng vậy, anh không có vẻ một thằng con trai khờ khạo,’ nàng bảo tôi thế. ‘Anh có hàm răng chắc chắn bộ ria mép rậm, lưng rộng, hai cánh tay khỏe mạnh. Tôi thích anh.’ Chúng tôi không nói gì nhiều hơn nữa, không cần thiết. Chúng tôi thỏa thuận với nhau trong nháy mắt. Tôi phải đi ngay đêm đó về nhà nàng trong bộ quần áo diện nhất. ‘Anh có áo khoác bằng lông thú không?’ Nàng hỏi tôi. ‘Có, nhưng với sức nóng này...’’ ‘Không sao. Mang nó theo, như thế trông có vẻ sang trọng.’”

    “Thế rồi đêm hôm đó tôi ăn mặc như một chú rể, tôi cầm áo lông thú trên tay, tôi cũng mang theo một cây gậy đầu bịt bạc và tôi ra đi. Nhà nàng là một ngôi nhà kiểu quê rộng lớn, với những nhà phụ, bò cái, máy ép nho, hai đống lửa nhóm trong sân, những nồi niêu bắc trên bếp lửa. ‘Cái gì đang sôi đấy?’ Tôi hỏi. ‘Ðấy là nước dưa hấu.’ ‘Và đây?’ ‘Nước dưa gang.’ Xứ lạ quá! Tôi tự bảo mình, mi nghe chứ! Nước dưa hấu và nước dưa gang; đó là Ðất Hứa! Vĩnh biệt cái nghèo! Về phần mi đó, Zorba ơi, mi rơi trúng chỗ rồi, như chuột sa chĩnh gạo.”

    “Tôi leo lên cầu thang, một cầu thang gỗ thật to kêu ken két. Trên bậc đầu cầu thang cha mẹ Noussa ngồi. Họ mặc loại quần cụt xanh lá cây và đeo thắt lưng đỏ có búp tua; họ đội mũ trùm đầu lớn. Họ thực giầu sang. Họ dang tay và ôm tôi hôn lấy, hôn để. Tôi bị thấm đầy nước bọt. Họ nói với tôi thực nhanh và tôi không hiểu gì cả, nhưng qua nét mặt họ, tôi thấy rằng họ không muốn điều xấu cho tôi.”

    “Tôi bước vào phòng và tôi thấy gì? Các bàn ăn la liệt thức ăn và rượu nặng trĩu như những cái thuyền buồm. Mọi người đều đứng - họ hàng đàn ông, đàn bà và trước mặt là Noussa trang điểm, ăn mặc chỉnh tề với bộ ngực nhô ra như mỏm thuyền. Rực rỡ tuổi trẻ và sắc đẹp. Nàng thắt một cái khăn đỏ quanh đầu và ở giữa có thêu một cái lưỡi liềm và cái búa. ‘Hỡi tên Zorba số đỏ tội lỗi lút đầu, tôi thì thầm với mình, phần thịt đó của mi đó ư? Phải chăng đó là cái thân xác mi sắp ôm trong tay đêm nay? Thượng Ðế tha thứ cho cha mẹ mi, người đã mang mi vào thế gian này!’”

    “Tất cả chúng ta nhào vào yến tiệc ăn uống ngon lành, đàn bà cũng như đàn ông. Chúng tôi ăn như lợn và uống như hũ chìm. ‘Còn mục sư đâu?’ Tôi hỏi cha Noussa đang ngồi bên cạnh tôi và dường như ông ta sắp nổ tung vì nhồi nhét quá nhiều. ‘Mục sư ban phúc lành cho chúng tôi đâu?’ ‘Không có mục sư, ông trả lời tôi, phun cả nước bọt ra, không có mục sư. Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng.’”

    Kỳ 33

    “Nói đoạn ông vừa đứng dậy vừa ưỡn ngực, nới cái thắt lưng đỏ và giơ tay lên ra hiệu im lặng. Ông cầm ly rượu đầy tràn, và ông nhìn thẳng vào mắt tôi. Rồi ông bắt đầu nói liên tu bất tận: Ông dành cho tôi một bài diễn thuyết. Ông ấy nói gì? Có Trời biết! Tôi đứng phát mệt. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng hơi chếnh choáng. Tôi ngồi xuống và kề đầu gối tôi vào đầu gối Noussa đang ngồi bên phải tôi.

    “Ông lão vẫn chưa chịu ngừng, mồ hôi tháo ra như tắm. Thế là tất cả nhào đến bao quanh ông ta, ôm ghì lấy lão để bắt lão ngừng nói. Lão không nói nữa. Noussa ra hiệu cho tôi: ‘Nào bây giờ, anh nói đi!’

    “Ðến lượt tôi đứng dậy và tôi đọc một diễn từ nửa Nga nửa Hy Lạp. Tôi nói gì? Trời đánh nếu tôi biết tôi nói gì. Tôi chỉ nhớ là cuối cùng tôi nhào vào mấy bản hát thảo khấu Klepht (*).Tôi bắt đầu rống lên lộn xộn, vô ý nghĩa không ra chi tiết:

    Bọn thảo khấu đã bò xuống núi để trộm ngựa.

    Chúng không tìm thấy ngựa đâu

    Chúng bèn bắt Noussa!

    Ông thấy không, ông chủ, tôi cũng biết tùy cơ ứng biến đấy chứ.

    Và chúng rút đi, chúng rút đi...

    (Chúng đã rút đi, má ơi!)

    Ôi ! Em Noussa của tôi!

    Ôi! Em Noussa của tôi!

    Vai!

    “Và, vừa rống ‘Vai’ xong, tôi nhẩy bổ vào Noussa và hôn nàng.

    “Tất cả chỉ muốn có thế! Như thế tôi ra dấu hiệu mà họ đã chờ đợi và họ, thực ra chỉ chờ đợi có điều đó, mấy gã to lớn râu đỏ nhào tới tắt đèn.

    “Bọn đàn bà, mấy con đĩ, bắt đầu kêu ăng ẳng, làm như sợ hãi lắm. Nhưng liền đó trong bóng tối, họ bắt đầu kêu những tiếng nho nhỏ: ‘Hi! Hi! Hi!’ Họ thích bị cù nhột và cười cợt.

    “Cái gì đã xảy ra, ông chủ, chỉ có Trời biết. Nhưng tôi tin là ngài cũng không biết nữa vì nếu không ngài đã cho sét quay chín chúng tôi rồi. Ðàn ông đàn bà lẫn lộn, lăn lóc dưới đất. Tôi bắt đầu đi tìm Noussa, nhưng làm sao có thể tìm thấy nàng? Tôi gặp một cô khác và tôi làm công việc với cô ta.

    “Tờ mờ sáng, tôi thức dậy để ra đi với vợ tôi. Trời còn tối và tôi không thấy rõ. Tôi nắm lấy một cái chân, tôi lôi ra. Không phải chân của Noussa. Tôi nắm lấy một chân khác - không phải! Tôi kéo một chân khác - cũng không phải nữa! Tôi nắm lấy một chân khác, rồi một chân khác nữa, và sau cùng, sau biết bao lộn xộn, tôi tìm được chân của Noussa, tôi kéo ra, tôi gỡ nàng ra khỏi ba tên quỉ sứ to lớn đã đè bẹp nàng, tội nghiệp, và tôi đánh thức nàng dậy: ‘Noussa,’ tôi gọi nàng, ‘Chúng ta đi thôi!’

    “Ðừng quên chiếc áo lông của anh nhé! Nàng đáp. ‘Ði!’ Và chúng tôi lên đường.”

    - Sao nữa? Tôi gạn hỏi hắn vì thấy hắn lại im lặng.

    - Ðấy ông trở lại với những “sao nữa?” của ông rồi! Zorba đổ quạu vì những câu hỏi đó.

    Hắn thở dài.

    - Tôi sống với nàng sáu tháng. Kể từ ngày ấy - có trời chứng giám - tôi không còn sợ gì hết. Không sợ gì hết, tôi xin nhắc lại với ông như thế! Không sợ gì hết trừ một điều, sợ ma quỉ hay Thượng Ðế, xóa mờ sáu tháng ấy trong ký ức tôi. Ông hiểu không? Tôi hiểu rồi! Ông phải nói như vậy.

    Zorba nhắm mắt lại. Hắn có vẻ rất xúc động. Ðó là lần thứ nhất tôi thấy hắn bị vồ chụp quá mãnh liệt bởi một kỷ niệm xa xôi.

    - Bác yêu nàng Noussa đó đến thế cơ à? Lát sau tôi hỏi hắn.

    Zorba mở mắt ra.

    - Ông còn trẻ, ông chủ, hắn nói, ông còn trẻ, ông không hiểu nổi đâu. Khi tóc trên đầu ông bạc trắng như tôi, chúng ta sẽ khơi lại chuyện muôn thuở này.

    - Câu chuyện muôn thuở nào?

    - Ðàn bà, trời ơi! Phải nhắc lại với ông bao nhiêu lần nữa mới được chứ? Ðàn bà là một câu chuyện muôn thuở. Bây giờ, ông giống như mấy con gà trống non hấp tấp phủ mấy con gà mái đoạn phồng diều lên, leo lên đống phân mà lên tiếng gáy và diễu võ giương oai. Chúng không nhìn thấy mấy con gà mái mà chúng nhìn mào chúng! Vậy thì làm sao chúng hiểu nổi thế nào là tình yêu? Không hiểu một chút nào hết.

    Hắn khinh bỉ nhổ xuống đất. Rồi hắn quay đầu đi; hắn không muốn nhìn tôi.

    - Sao nữa, Zorba, tôi lại hỏi hắn. Noussa ra sao?

    Zorba, mắt chìm đắm về miền biển xa, đáp:

    - Một buổi tối trở về, tôi không thấy nàng đâu nữa. Nàng đã trốn đi cùng tên lính đẹp trai vừa đến làng được mấy hôm. Thế là hết! Tim tôi bị bửa làm đôi. Nhưng nó cũng dính liền lại rất nhanh, quân gian xảo. Hẳn ông đã thấy những cánh buồm vá víu những mảnh đỏ, vàng, đen, lại với nhau bằng sợi chập đôi và không bao giờ rách ngay cả trong những cơn giông tố bão bùng dữ dội nhất? Tim tôi cũng giống như vậy đó. Muôn lỗ rách, ngàn mảnh vá: nó không còn biết sợ gì nữa hết!

    - Và bác không thù hận gì Noussa sao, Zorba?

    - Tại sao? Tại sao lại thù oán nàng? Ông muốn nói gì thì nói, đàn bà lại là một chuyện khác, ông chủ... một chuyện khác hẳn. Họ không phải là giống người! Tại sao lại thù oán họ? Ðàn bà là một cái gì không thể hiểu được, tất cả mọi luật lệ của nhà nước và tôn giáo đều lầm to. Không nên đối xử với đàn bà như vậy, không! Luật pháp và tôn giáo quá cứng rắn, ông chủ, quá bất công! Nếu có bao giờ tôi phải soạn luật, tôi sẽ không soạn cùng một thứ luật cho đàn ông và đàn bà. Mười, một trăm, một ngàn giới luật cho đàn ông. Ðàn ông, là đàn ông, sao!

    (*) Klepht: bọn thảo khấu ở miền núi Olympe và Pinde. G.c.D.

    Kỳ 34

    Hắn có thể chịu đựng được. Nhưng không một giới luật nào cho đàn bà. Bởi vì - tôi phải nói với ông bao nhiêu lần nữa, ông chủ? - đàn bà là một sinh vật yếu đuối. Hãy uống chúc mừng Noussa, ông chủ! Và chúc mừng người đàn bà!... Và mong rằng Thượng Ðế cho đàn ông chúng ta khôn ngoan hơn!

    Hắn uống, giơ cánh tay lên và bất thần giật mạnh xuống như thể hắn đang sử dụng một cái rìu.

    - Hoặc ngài phải cho chúng ta khôn ngoan hơn, hắn nhắc lại, hoặc phải giải phẫu chúng ta. Nếu không, tin tôi đi: chúng ta sẽ đi đời nhà ma!



    8

    Hôm nay, mưa nhỏ hạt và trời đất giao hòa trong một nỗi dịu dàng vô hạn. Tôi nhớ tới một bức chạm lõm trong đá xám sẫm Ấn Ðộ. Người đàn ông vòng tay ôm người đàn bà và kết hợp với nàng với xiết bao ôn nhu nhẫn nhục đến nỗi người ta có cảm tưởng - thời gian đã gậm nhấm và hầu như đã đục khoét đôi thân thể - nhìn thấy hai côn trùng ôm ghì lấy nhau trên đó một cơn mưa bụi bắt đầu rơi và thấm ướt cánh chúng. Siết chặt nhau như vậy, chúng đang bị mút trở lại vào trong cái miệng phàm ăn của đất, một cách chậm rãi.

    Ngồi trong lều tôi ngắm trời ảm đạm, đất tối mầu và biển sáng một mầu xanh chàm. Ðầu ghềnh cuối bãi không một bóng người, không một dáng buồm, không một cánh chim. Chỉ có mùi đất thâm nhập vào qua khuôn cửa sổ.

    Tôi đứng lên và chìa tay ra mưa như một tên hành khất. Thốt nhiên tôi muốn khóc. Một nỗi u sầu nào đó, không phải của chính tôi, nhưng sâu thẳm và tối tăm hơn, đang dâng lên từ đất ẩm: nỗi kinh hoàng của một con thú đang vô tư gặm cỏ, thình lình, ngẩng đầu lên, không thấy gì hết, nhưng đánh hơi thấy trong không khí mình đã bị vây hãm và không thể đào thoát.

    Tôi muốn thét lên một tiếng, biết rằng điều đó sẽ khiến tôi nhẹ nhõm, nhưng tôi xấu hổ.

    Mây mỗi lúc một thêm lũng thấp. Tôi nhìn qua khung cửa sổ; tim tôi run lên nhè nhẹ.

    Khoái cảm u sầu là những giờ phút mưa bụi gieo rắc trong ta! Tất cả những kỷ niệm cay đắng vùi sâu chôn chặt trong lòng bỗng dội về tâm trí - bạn bè ly biệt, nụ cười người yêu đã nhạt phai, hy vọng đã gẫy cánh như những con bướm đêm chỉ còn lại con sâu. Và con sâu đó đã đậu trên những phiến lá của tim tôi mà gặm nhấm.

    Qua màn mưa và đất thấm nước, hình ảnh bạn tôi lưu đầy trong rặng Caucasus dần dần hiện ra. Tôi cầm bút, cúi mình trên giấy, và bắt đầu nói với hắn để xé rách tấm lưới mỏng của mưa và để thở.

    Bạn thân mến,

    Tôi viết cho anh lá thư này trên bãi biển cô liêu ở Crete nơi chúng tôi đã đến. Ðịnh mệnh và tôi, và tôi lưu lại dăm tháng để chơi: thủ vai nhà tư bản, chủ nhân một mỏ than bùn, nhà kinh doanh. Nếu trò chơi của tôi thành công, lúc đó tôi sẽ nói đây không phải là một trò chơi, nhưng tôi đã làm một quyết định thay đổi cuộc đời.

    Anh còn nhớ, lúc ra đi, anh gọi tôi là một con “mọt sách”! Ðiều đó khiến tôi giận đến nỗi tôi quyết định bỏ sách vở trong một thời gian - hay mãi mãi? - và lao mình hành động. Tôi thuê một trái đồi nhỏ chứa mỏ than, tôi mộ thợ, mua xẻng cuốc, đèn đất, thúng mủng, xe chuyên chở. Tôi khai hầm và chui vào. Làm như vậy đó, để chọc tức anh. Và bằng cách đào xới và làm đường hầm trong lòng đất, con mọt sách trở thành một con chuột chũi. Tôi mong anh tán thành cuộc hóa thân này.

    Những nguồn vui của tôi ở đây thật vĩ đại bởi chúng quá đơn giản và làm bằng những yếu tố vĩnh cửu: không khí trong lành, mặt trời, biển và bánh mì. Buổi tối, ngồi xổm theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ trước mặt tôi, một Sinh Bá Nhà Hàng Hải nói chuyện. Hắn nói và thế giới mở rộng ra. Ðôi khi, khi lời nói chưa đủ hắn chồm lên và nhẩy múa. Và khi nhẩy múa chưa đủ, hắn đặt cây santuri lên đầu gối và bắt đầu chơi.

    Ðôi khi hắn chơi một điệu man rợ và người ta cảm thấy ngột ngạt, bởi người ta chợt nhận thấy đời mình vô vị, khốn khổ và không xứng đáng với con người. Ðôi khi một điệu nhạc đau đớn và người ta cảm thấy cuộc đời đi qua và lọt như cát qua kẽ ngón tay và không có sự cứu chuộc.

    Tim tôi chao qua chao lại trong ngực như con thoi của một bác thợ dệt. Nó dệt những tháng ngày này mà tôi đang sống ở Crete, và - xin Thượng Ðế tha thứ - tôi tin rằng tôi hạnh phúc.

    Ðức Khổng Tử nói: “Nhiều kẻ tìm hạnh phúc cao hơn con người; những kẻ khác, thấp hơn con người. Nhưng hạnh phúc vừa tầm vóc con người.” Ðúng lắm. Học trò thân mến và sư phụ tôi, đó là hạnh phúc của tôi hôm nay; tôi đo đi, đo lại, lo âu, để xem tầm vóc hiện tại của tôi ra sao. Bởi vì anh biết điều này hơn ai, tầm vóc con người không phải luôn luôn đồng nhất.

    Tâm hồn con người biến đổi biết bao tùy theo khí hậu, niềm im lặng, nỗi cô đơn, hay bạn bè trong đó con người sống!

    Nguyễn Hữu Hiệu



    Kỳ 35



    Nhìn từ trong nỗi cô đơn của tôi, con người hiện ra với tôi không phải như những con kiến, nhưng ngược lại, như những con quái vật khổng lồ, những con khủng long hay dực thủ long, sống trong một bầu không khí đầy acid carbonic và thực vật hư thối từ đó sinh ra tạo vật. Một rừng rậm phi lý, không thể hiểu được.

    Những ý niệm về “quốc gia” và “chủng tộc” mà anh thích, những ý niệm về “siêu quốc gia” và về “nhân loại” đã lôi cuốn tôi, ở đây cũng cùng có một giá trị đó dưới hơi thở toàn năng của hủy hoại. Chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi được đưa lên mặt để nói vài tiếng, và đôi khi không được vài tiếng, mà chỉ là những âm thanh không rõ ràng: một tiếng “a!” một tiếng “ừ!” - sau đó chúng tôi bị hủy hoại. Và ngay cả những ý tưởng cao viễn nhất, nếu bị đem ra mổ xẻ, người ta sẽ thấy những ý tưởng đó không là gì khác hơn những hình nộm nhồi cám và giấu trong cám, một cái lò-xo bằng thép.

    Anh hiểu tôi khá nhiều để ý thức rằng những suy tưởng này không hề làm tôi chạy trốn, trái lại là những bùi nhùi không thể thiếu được cho ngọn lửa nội tâm tôi. Bởi vì, nói như Ðức Phật, bậc thầy của tôi: “Ta đã thấy.” Và vì tôi đã thấy và đã giao hảo, trong nháy mắt với người đạo diễn vô hình, đầy vui vẻ và tiếu ngạo, từ nay tôi có thể thủ vai trò của tôi trên trái đất đến kỳ cùng, nghĩa là có mạch lạc và không nản lòng. Bởi vì sau khi thấy, tôi còn cộng tác với tác phẩm mà tôi đang thủ trên sân khấu của Thượng Ðế.

    Vì thế, trong khi đưa mắt nhìn lên sân khấu vũ trụ, tôi thấy anh ở nơi xa xôi đó, trong những thành lũy thần thoại của rặng Caucasus, cũng đang thủ vai trò của anh; tôi có thể thấy anh đang tranh đấu cứu vớt muôn ngàn sinh linh của dòng giống chúng ta trong cơn hiểm nghèo. Một Prometheus giả hiệu, tuy nhiên, phải chịu những cực hình rất hiện thực trong khi tranh đấu chống lại những sức mạnh mù quáng của đói khát, giá lạnh, bệnh tật, cái chết. Nhưng kiêu ngạo như anh, đôi khi anh phải hoan hỉ vì những sức mạnh mù quáng nhiều đến thế và bất khả khắc phục: vì thế chủ đích sống hầu như vô vọng của anh trở nên anh hùng hơn và tâm hồn anh thâu thái được một vẻ cao cả bi thảm hơn.

    Chắc chắn anh phải coi cuộc đời anh đang sống như một hạnh phúc. Và bởi anh coi nó như vậy, nó sẽ như vậy. Anh phải thửa hạnh phúc theo vóc dáng anh; và vóc dáng anh hiện nay - cảm tạ Thượng Ðế! - vượt quá tôi. Bậc thầy chân chính không mong mỏi một phần thưởng nào lớn lao hơn phần thưởng này: đào luyện được một đồ đệ vượt quá mình.

    Về phần tôi, tôi luôn luôn quên, chê bai phỉ báng mình, lạc lõng, đức tin của tôi là một tấm khảm bất tín. Ðôi khi tôi muốn ký một giao kèo: đổi tất cả đời mình lấy một phút sống ngắn ngủi. Nhưng anh, anh cầm chắc bánh lái và anh không bao giờ quên, ngay cả trong những khoảnh khắc dịu dàng nhất của cuộc nhân sinh này, hướng anh đã vạch ra.

    Anh còn nhớ ngày cả hai chúng ta vượt Ý Ðại Lợi trên đường về Hy Lạp? Chúng ta đã quyết định đổ bộ xuống vùng Pontus lúc ấy đang lâm nguy, anh nhớ không? Chúng ta vội vã bước xuống một tỉnh lỵ - Chúng ta chỉ còn một giờ để đáp chuyến tầu khác. Chúng ta đi vào một khu vườn rậm rạp gần ga. Có những cây lá to bản, cây chuối, lau tre lá sắc kim thẫm, bầy ong bám vào một cành trổ hoa sung sướng run rẩy nhìn chúng hút nhụy hoa mình.

    Chúng ta bước tới trong xuất thần câm lặng, như trong một giấc mộng. Ðột nhiên, ở chỗ rẽ của một đường hoa, hai thiếu nữ xuất hiện, vừa đọc sách vừa dạo gót. Tôi không còn nhớ các cô đẹp hay xấu. Tôi chỉ nhớ một cô tóc vàng, một cô tóc nâu, và cả hai đều mặc áo mùa xuân.

    Và với sự bạo dạn người ta có trong mơ, chúng ta lại gần các cô và anh nói: “Bất kỳ các cô đọc cuốn sách gì, chúng tôi cũng xin thảo luận với các cô.” Các cô đang đọc Gorki. Rồi, hấp tấp bởi chúng ta có rất ít thì giờ, chúng ta nói về tình yêu, về khổ cực, về sự nổi loạn của tâm hồn, về tình yêu...

    Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi hân hoan và sầu muộn của chúng ta. Chúng ta và hai thiếu nữ không quen biết kia đã trở thành bạn cố tri, thành tình cố cựu, tự hồi nào; chúng ta chịu trách nhiệm về thân tâm họ, và chúng ta vội vã vì chỉ vài giây phút nữa thôi, chúng ta sắp phải lìa họ mãi mãi. Trong không khí rung động, chúng ta ngửi thấy sự cưỡng đoạt và cái chết.

    Con tầu tới, huýt còi. Chúng ta giật mình, như tỉnh mộng. Chúng ta siết tay nhau. Làm sao có thể quên được mười ngón tay níu nhau tuyệt vọng, mười ngón tay chẳng muốn rời xa? Một cô xanh xám tái tê, một cô cười khan run rẩy.

    Và tôi nói với anh lúc ấy, tôi còn nhớ: “Hy Lạp, Tổ quốc, Bổn phận, nghĩa lý gì? Ðó chỉ là những danh từ. “Chân lý là đây!” Và anh trả lời: “Hy Lạp, Tổ quốc chúng ta, bổn phận không có nghĩa lý gì, nhưng chính vì cái vô nghĩa đó chúng ta sẵn sàng chịu hủy hoại.”

    Nhưng tại sao tôi lại viết điều đó cho anh? Ðể anh thấy rằng tôi chẳng hề quên một giây phút nào chúng ta sống với nhau. Và cũng nhân cơ hội diễn tả cái mà vì thói quen đè nén cảm xúc tốt (hay xấu) của chúng ta, tôi chưa bao giờ có thể phát lộ với anh khi chúng ta sống với nhau.

    Bây giờ vì anh không còn ở trước tôi và không thể nhìn thấy mặt tôi, và bây giờ vì tôi không sợ tỏ ra yếu đuối hay lố bịch, tôi có thể nói với anh rằng tôi rất yêu anh.



    Kỳ 36



    Tôi đã viết xong bức thư. Tôi đã trò chuyện với bạn tôi, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi gọi Zorba. Nép mình dưới một tảng đá cho khỏi ướt, hắn đang thử mẫu đường sắt treo của hắn.

    - Ði, Zorba, tôi gọi. Ðứng lên đi dạo một vòng trong làng chơi.

    - Ông có vẻ vui vẻ, ông chủ. Trời mưa, ông không muốn đi một mình sao?

    - Không, và tôi cũng không muốn mất vui. Nếu chúng ta đi cùng với nhau thì sẽ không sao cả. Ði đi.

    Hắn cười, nói:

    - Tôi rất sung sướng vì ông cần tôi. Ta đi nào!

    Hắn mặc áo choàng len kiểu Crete với mũ trùm đầu nhọn mà tôi đã cho hắn và chúng tôi lội bùn đến con lộ lớn.

    Trời mưa. Những đỉnh núi bị che phủ. Không có một hơi gió; đá cuội sáng bóng. Ðồi than bùn bị ngộp dưới sa mù. Như thể khuôn mặt đàn bà của trái đồi bị khâm liệm trong nỗi ảo não thế nhân, như thể nàng tàn tạ trong mưa.

    - Lòng người đau đớn khi trời đổ mưa, Zorba nói. Không nên oán trách trời!

    Hắn cúi xuống chân một hàng rào và hái những bông thủy tiên dại đầu mùa. Hắn nhìn những bông hoa một lúc lâu, mê man không biết chán, như thể lần đầu tiên hắn nhìn thấy những bông thủy tiên; hắn nhắm mắt hít một hơi, thở dài rồi đưa cho tôi.

    - Ước gì người ta biết những đất đá, cỏ hoa, mưa móc nói gì! Có thể chúng kêu gọi, kêu gọi chúng ta và chúng ta không nghe thấy. Khi nào tai người ta sẽ mở rộng, ông chủ? Khi nào người ta có cặp mắt mở rộng để nhìn? Khi nào chúng ta sẽ mở vòng tay ôm tất cả - đá, hoa, mưa, con người? Ông nghĩ sao ông chủ? Sách vở nhảm nhí của ông nói sao về điều đó?

    - Ma quỉ bắt chúng, tôi nói, dùng thành ngữ ưa chuộng của Zorba. Ma quỉ bắt chúng. Sách vở chỉ nói có vậy.

    Zorba nắm lấy cánh tay tôi.

    - Tôi sắp nói cho ông nghe ý tưởng của riêng tôi, ông chủ, nhưng ông không được nổi giận: mang tất cả những cuốn sách nhảm của ông ra chất đống lên và đốt đi. Sau đó, ai biết, ông đâu ngu dại gì, ông là một mẫu người tốt... ông cũng có đôi chút lợi ích cho nhân quần!

    “Hắn có lý, hắn có lý! Tôi la thầm trong tôi. Hắn có lý, nhưng tôi không thể làm được điều đó!”

    Zorba lưỡng lự và đăm chiêu. Ðoạn hắn nói:

    - Tôi thấy một điều...

    - Ðiều gì? Nói đi!

    - Tôi không biết rõ. Tôi chỉ biết tôi biết một điều, thế thôi. Nhưng nếu tôi cố gắng nói, tôi sẽ quay rối bời hết. Ðể hôm nào vui vẻ, tôi sẽ nhảy điều đó ông coi.

    Trời bắt đầu mưa lớn. Chúng tôi đến làng. Những cô thiếu nữ dẫn cừu từ đồng cỏ về, những bác thợ cầy đã cởi ách bò, bỏ cánh đồng cầy dở dang, những thiếu phụ chạy theo con trong phố hẹp. Một sự kinh hoàng cuồng nhiệt nổ vỡ trong làng khi cơn mưa rào tới. Những người đàn bà thốt lên những tiếng kêu lanh lảnh và mắt họ cười; những hạt mưa lớn bám vào những hàm râu cứng, những bộ ria vểnh cong của bọn đàn ông. Một mùi cay nồng bốc lên từ đất đá và thảo dã.

    Ướt như chuột lột, chúng tôi đâm bổ vào quán café hàng thịt “Khiêm Tốn.” Quán đông nghẹt. Người chơi bài belote, kẻ to tiếng tranh luận, như gọi nhau từ núi nọ qua núi kia. Xung quanh một cái bàn nhỏ trong cùng, trên một băng gỗ, những bô lão ngồi chễm chệ: bác Anagnosti với chiếc áo chemise trắng rộng tay; Mavrandoni lặng lẽ trang nghiêm, hút điếu cày, mắt trừng trừng ngó xuống đất, lão giáo viên đứng tuổi, đạo mạo, tỳ trên cây gậy lớn, lắng nghe một gã khổng lồ tóc tai rậm rạp vừa từ Candia về đang mô tả những kỳ quan của chốn đô hội với một nụ cười kẻ cả. Lão chủ quán café, đứng sau quay vừa nghe và cười trong khi vẫn để mắt nhìn những bình nấu café xếp hàng trên bếp lò.

    Khi thấy chúng tôi vào, bác Anagnosti đứng dậy:

    - Xin mời các ông lại đây, đồng bào, lão nói. Sfakianonikoli đang kể cho chúng tôi nghe tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở Candia. Tức cười lắm, mời các ông lại cả đây.

    Lão quay sang lão chủ quán café.

    - Hai raki, Manolaki! Lão nói.

    Chúng tôi ngồi xuống. Gã mục đồng rừng rú co vòi vào và nín lặng khi thấy khách lạ.

    - Rồi sao nữa, sếp Nikoli, bác cũng tới cả nhà hát nữa à? Lão giáo viên hỏi để khiến gã mở miệng. Bác thấy ra sao?

    Sfakianonikoli chìa bàn tay hộ pháp ra, cầm lấy ly rượu, tợp một hơi hết, lấy can đảm.

    - Không tới nhà hát à? Hắn la lớn. Tôi tới mạnh chứ. Hết chỗ này nghe nói tới Kotopouli lại nghe chỗ kia nhắc tới Kotopouli! Thế rồi một buổi tối, tôi làm dấu và nói: mình cũng phải tới đó coi mới được. Xem cô ả mặt ngang mũi dọc ra sao mà chúng cứ làm ồn lên mãi. Hết Kotopouli lại đến Kotopouli.

    - Và bác thấy gì, bác đỏ? Bác Anagnosti hỏi. Kể đi coi nào!



    Kỳ 37



    - Không có gì hết. Nghe nói mãi về “nhà hát”, người ta tưởng đó phải là cái gì ghê gớm lắm. Nhưng không có gì hết. Thật uổng tiền. Nó giống như một thứ quán rượu, tròn quay, như một cái chuồng cừu, đầy người ta, ghế và đèn. Tôi không biết mình ở đâu, mắt tôi bị chói lòa và tôi không thấy gì cả. “Chúa ơi! Tôi tự nhủ, chúng sắp trù yếm mình đây.

    Mình phải chuồn gấp.” Ngay lúc đó, một con đĩ, ngúng nguẩy như một con chim chích chòe lại gần tôi và nắm lấy tay tôi. “Ô hay! Cô dẫn tôi đi đâu thế này?” Tôi hỏi ả. Nhưng ả cứ dẫn tôi đi, dẫn tôi đi không thèm để ý đến lời tôi nói với ả, cuối cùng ả rẽ và bảo tôi: “Ngồi xuống!” Tôi ngồi. Ở đâu cũng có người ta: Trước mặt, sau lưng, hai bên tôi và lên tận trần nhà. “Mình sắp chết ngộp, tôi tự nhủ, chắc chắn mình sắp chết đến nơi rồi, ở đây chẳng có chút khí trời nào!” Tôi quay sang hỏi người bên cạnh: “Ông bạn có thể cho biết những permadonnas (*) sẽ ra bằng cửa nào?” “Kia, từ phía thong kia”, y vừa nói vừa chỉ cho tôi tấm màn.

    (*) Tiếng đọc sai của chữ prima dona, đào chính, G.c.D.

    Ðúng như vậy! Bằng đầu có một tiếng chuông reo, tấm màn kéo lên và con Kotopouli (*) mà họ nói đứng lù lù trên sân khấu. Nhưng đừng hỏi tại sao họ gọi cô ả là một con gà tơ: Cô ả là một mụ đàn bà, từ đầu đến đuôi! Cô ả vừa bắt đầu vừa đi vòng quanh vừa vẫy đuôi. Cô ả đi qua đi lại, rồi sau đó, thiên hạ phát chán họ vỗ tay và cô ả chạy trốn”.

    (*) Một nữ kịch sĩ Hy Lạp nổi tiếng. Pouli có nghĩa là gà tơ - G.c.D.

    Dân làng ôm bụng cười, Sfakianonikoli cau có và có vẻ mắc cỡ. Gã quay ra cửa.

    - Trời mưa! Gã nói để thay đổi câu chuyện.

    Mọi người đều nhìn theo mắt gã. Ngay lúc đó, váy đen vén lên đến tận đầu gối, tóc xõa xuống vai, một người chạy ngang qua. Da thịt lồ lộ, quần áo dán vào người cho thấy một thân hình rắn chắc, khêu gợi.

    Tôi giật nẩy mình, “Dã thú nào đây?” Tôi nghĩ thầm. Nàng có vẻ mềm dẻo, nguy hiểm, một con thú nuốt đàn ông.

    Thiếu phụ quay đầu lại một lát và cặp mắt long lanh liếc vào quán café.

    - Ðức Mẹ Ðồng Trinh! Một gã trẻ măng râu lún phún như lông tơ ngồi gần cửa sổ lẩm bẩm.

    - Chém cha cái ngòi mìn! Manolaks, người tuần phu, gầm lên. Ngọn lửa mi đốt lên thiêu đốt đàn ông mi không bao giờ dập tắt.

    Gã thanh niên ngồi gần cửa bắt đầu ngâm nga nho nhỏ, mới đầu êm dịu, do dự; rồi dần dần giọng hắn trở nên ồ ồ:

    Chiếc gối góa phụ có hương mộc qua.

    Ta cũng bén mùi từ đó đêm thường chẳng ngủ.

    - Câm họng đi! Mavrandoni vừa thét lên vừa vung vẩy cái xe điếu.

    Gã thanh niên nín tắp. Một lão già cúi xuống thì thầm với Manolakas, người tuần phu:

    - Bác anh nổi giận rồi đó. Nếu vô phúc mụ rơi vào tay lão, lão sẽ chặt mụ ra làm trăm mảnh, tội nghiệp! Cầu Thượng Ðế phò trợ cho mụ.

    - Ê, bác Androulio, Manolakas nói, theo tôi biết, bác cũng chạy theo mụ góa. Bác, phụ thủ nhà thờ, bác không biết xấu hổ sao?

    - Ê, không! Tao nhắc lại với mày: Cầu Thượng Ðế phò trợ cho mụ! Lẽ nào mày không thấy trẻ con sinh trong làng ta hồi này đây? Chúng nó đẹp như thiên thần. Mày có biết tại sao không? Ðó là nhờ mụ góa! Mụ có thể nói là tình nhân của cả làng: Mi tắt đèn và mi tưởng tượng không phải là vợ mi mi ôm trong mà chính là mụ góa. Vì lẽ đó, mày có để ý không, làng ta mới cho ra đời được những đứa trẻ kháu khỉnh như vậy.

    Cha Adroulio lặng thinh một lát, đoạn lẩm bẩm:

    - Sung sướng thay những cặp đùi nào được ghì mụ! A! Bạn ơi! Nếu tôi mới hai mươi tuổi như Pavli, con Mavradoni!

    Họ quay ra cửa. Trời mưa xối xả. Nước chảy òng ọc trên sỏi; thỉnh thoảng chớp sáng lóe trên trời. Zorba đứt hơi từ lúc góa phụ đi qua. Hắn không chịu nổi nữa và hắn ra hiệu cho tôi:

    - Tạnh mưa rồi, ông chủ. Chúng ta đi thôi!

    Một gã thiếu niên đi chân đất, đầu bù tóc rối với cặp mắt man rợ mở lớn, hiện ra ở cửa. Những họa sĩ vẽ thánh tượng trình bày thánh St. John the Baptist như vậy, cặp mắt vô cùng lớn vì đói khát và kinh cầu.

    - Kìa, Mimiko! Một vài người vừa cười vừa la lên.

    Làng nào cũng có một kẻ ngây ngô, và nếu không có, họ sẽ cố tạo ra một kẻ để giải trí. Mimiko là kẻ ngây ngô của làng này.

    - Các bạn ơi, gã lắp bắp la lên bằng cái giọng cà lăm và đàn bà của gã, các bạn ơi, mụ góa Sourmelina mất con cừu. Ai tìm thấy sẽ được thưởng năm lít rượu vang.

    - Xéo đi! Lão Mavrandoni quát, xéo đi!

    Mimiko sợ hãi, chúi vào góc, gần cửa ra vào.

    - Ngồi xuống, Mimiko, lại đây uống một ly raki cho ấm bụng! Bác Ananosti thương hại bảo. Làng chúng ta sẽ ra sao nếu không có một thằng boom?

    Một người đàn ông vẻ bệnh hoạn, mắt xanh lợt hiện ra ở ngưỡng cửa, hổn hển, tóc bết vào vầng trán và nhỏ giọt.

    - Chào Pavli! Manolakas kêu, chào người anh em họ! Vào đây.



    Kỳ 38



    Mavrandoni quay lại, cau mày nhìn con.

    “Con trai ta đó sao? Lão tự hỏi. Kẻ bất thành nhân dạng đó? Không biết nó giống ma quỉ nào? Ta muốn túm lấy cổ nó, nâng lên và ném nó xuống đất như ném một con mực ma!

    Zorba như đỉa phải vôi. Góa phụ đã đốt cháy đầu óc hắn và hắn không thể ngồi trong bốn bức tường này.

    - Chúng ta đi thôi, ông chủ, chúng ta đi thôi chứ! Hắn thì thầm từng giây. Chúng ta chết thiêu trong này mất!

    Hình như đối với hắn mây đã tan và mặt trời lại ló dạng.

    Hắn quay sang lão chủ quán café, làm bộ thản nhiên hỏi:

    - Bà góa đó là ai vậy?

    - Một con ngựa cái, Kondomanoli đáp.

    Lão để một tay lên môi và đưa mắt ý nhị nhìn Mavrandoni, một lần nữa lại trừng trừng ngó xuống đất.

    - Một con ngựa cái, lão nhắc lại. Thôi đừng nói đến mụ kẻo chúng ta lại bị nguyền rủa đọa đầy!

    Mavrandoni đứng dậy và quấn xe điếu quanh cổ điếu cầy.

    - Xin vô phép, lão nói. Tôi về. Pavli, đi về!

    Lão dìu con đi. Họ đi qua mặt chúng tôi và biến mất ngay sau màn mưa. Manolakas đứng lên đi theo họ.

    Kondomanolio ngồi xuống ghế của Mavrandoni.

    - Tội nghiệp Mavrandoni, lão nói khẽ để những bàn bên cạnh khỏi nghe thấy. Lão đến chết vì tức mất. Thật là đại họa xảy đến cho nhà lão. Hôm qua chính tai mình nghe thấy Pavli nói với lão: “Nếu tôi không lấy được mụ, tôi sẽ tự tử!” nhưng con đĩ đó không thèm gã. Mụ gọi gã là “thò lò mũi xanh!”

    - Chúng ta đi thôi, Zorba nhắc lại. Mỗi một chữ nói về góa phụ lại khiến hắn càng thêm bốc lửa.

    - Thì đi! Tôi vừa nói vừa đứng dậy.

    Mimiko thò ra khỏi xó của gã và chuồn theo chúng tôi.

    Sỏi đá sáng lóng lánh, những khuôn cửa đẫm nước trở nên đen thẫm, những mụ già nhỏ thó đi ra với những cái thúng để tìm ốc sên.

    Mimiko lại gần, nắm lấy cánh tay tôi.

    - Cho một điếu thuốc ông chủ, gã nói. Nó sẽ mang lại may mắn cho ông trong tình yêu.

    Tôi cho gã điếu thuốc. Gã chìa bàn tay gay guộc, cháy nắng ra.

    - Cho tôi xin chút lửa nữa!

    Tôi cho gã lửa; gã rít vào đến tận đáy phổi, thở khói qua lỗ mũi và lim dim mắt.

    - Sướng như quan Thổ Nhĩ Kỳ! Gã lẩm bẩm.

    - Em đi đâu?

    - Tới vườn nhà mụ góa. Mụ nói mụ sẽ cho tôi ăn nếu tôi đi rao tin về con cừu của mụ.

    Chúng tôi đi nhanh. Mây hơi tan, mặt trời ló ra. Cả làng tươi tỉnh, tắm gội mát mẻ.

    - Em có thích bà góa không, Mimiko? Zorba hỏi, sùi bọt mép.

    Mimiko quang quác nói:

    - Tại sao tôi lại không thích mụ? Bộ tôi không chui ra từ một cái ống cống như mọi người hay sao?

    - Từ một cái ống cống? Tôi kinh ngạc kêu lên. Em muốn nói gì vậy, Mimiko?

    - À, từ lòng mẹ.

    Tôi sửng sốt. Chỉ có một Shakerspeare, trong những giây phút sáng tạo nhất, tôi nghĩ, mới có tể tìm được một thành ngữ hiện thực sống sượng đến thế để miêu họa cái huyền bí, tối tăm và nhơ nhớp của sự sinh đẻ.

    Tôi nhìn Mimiko. Cặp mắt gã to, ngây dại và hơi lé.

    - Hàng ngày em làm gì? Mimiko?

    - Ông muốn tôi làm gì? Như một ông quan Thổ Nhĩ Kỳ. Buổi sáng, tôi thức dậy, tôi ăn chút bánh. Rồi tôi đi làm thuê cho người ta, tôi làm bất cứ việc gì, bất cứ ở đâu. Tôi chạy việc vặt, đổ thùng, vun phân trâu ngựa, và đi câu với cần câu của tôi. Tôi ở nhà dì tôi, mẹ Lenio, khóc mướn. Có lẽ ông biết mụ. Người ta còn chụp hình mụ nữa. Tối tôi trở về nhà, ăn một đĩa súp và uống một chút rượu. Nếu không có rượu, tôi uống thả cửa nước của Chúa Trời cho đến khi bụng trương lên như cái trống mới thôi. Sau đó ngủ thẳng cẳng!

    - Em không lấy vợ sao, Mimiko?

    - Tôi? Tôi đâu có khùng! Bạn nói gì đó? Tôi phải chuốc của nợ vào người sao? Một người đàn bà cần có giầy dép! Tôi biết kiếm nó ở đâu? Nhìn đây, tôi đi chân không đây này.

    - Em không có giầy ống sao?

    - Sao tôi không có? Tôi có một đôi. Dì Lenio tôi kéo từ chân một thằng cha chết năm rồi. Nhưng tôi chỉ đi vào lễ Phục Sinh để đến nhà thờ cười ngó thầy tư tế. Sau đó, tôi rút giầy ra, vắt lên cổ và trở về.

    - Em thích gì nhất, Mimiko?

    - Trước hết là bánh mì. A, tôi thích bánh mì biết chừng nào. Nóng hổi và giòn tan, nhất là bánh bột mì! Sau đó, rượu vang. Sau rốt, ngủ.

    - Còn đàn bà?

    - Sì! Ăn, uống và đi ngủ, chỉ có thế. Còn tất cả chỉ là phiền nhiễu.

    - Và bà góa?

    - Kệ xác mụ là hay hơn cả! Vade retro Satanas?

    Gã nhổ ba lần và làm dấu thánh giá.

    - Em biết đọc không?

    - Nhìn xem tôi đâu ngu dại đến cỡ đó! Khi tôi còn nhỏ người ta lôi tôi đến trường, nhưng may mắn cho tôi, tôi bị đậu lào và trở thành ngốc nghếch. Tôi được xếp đặt để thoát ra như vậy đó.

    Zorba đã phát ngấy vì những câu hỏi của tôi; hắn chỉ nghĩ tới sương phụ.

    - Ông chủ... Hắn vừa nói vừa nắm cánh tay tôi. Ðoạn hắn quay sang Mimiko ra lệnh cho gã đi trước:

    - Chúng ta có chuyện riêng muốn nói.

    Kỳ 39



    Hắn hạ thấp giọng, và có vẻ xúc động:

    - Ông chủ, hắn nói, đây là lúc tôi trông cậy vào ông. Ðừng làm nhục giống nam nhi! Ma quỉ, hay Thượng Ðế, đã cho ông món thượng hạng này; ông có răng, vậy đừng từ chối!

    Vươn tay ra và nắm lấy! Tại sao Hóa Công cho chúng ta tay? Ðể lấy đồ vật! Vậy, hãy lấy đi. Ðàn bà, trong đời tôi, tôi đã thấy không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng mụ gái quá trời đánh này làm đổ quán siêu đình như chơi (*)!

    (*) Bản Anh và Pháp dịch: “Nhưng mụ gái góa trời đánh này làm rung chuyển lầu chuông”. (Mais cette veuve, elle ferait crouler des clochers, la maudite! (Yvonne Gauthier) - But that damned widow makes the steeples rock! (Carl Wildman). “Làm rung chuyển lầu chuyển lầu chuông” là một thành ngữ dùng để chỉ sức hủy hoại của đàn bà nên tôi tưởng có thể chuyển suôn sẻ sang Việt ngữ: “Làm đổ quán “siêu đình” mà không thiệt hại gì cho nguyên tác và hy sinh tinh thần Hy Lạp. G.c.D.

    - Tôi không muốn nhiễu sự, tôi giận dữ trả lời.

    Tôi bực tức bởi trong thâm tâm tôi cũng thèm muốn tấm thân toàn năng đi qua trước mặt tôi như một con dã thú động tình, nhỏ giọt xạ hương.

    - Ông không muốn nhiễu sự? Zorba ngạc nhiên hỏi, vậy ông muốn gì mới được chứ?

    Tôi không trả lời.

    - Ðời là một sự phiền nhiễu, Zorba nói tiếp. Chết, không. Sống, ông có biết điều đó nghĩa là gì không? Thoát khỏi tình trạng thắt lưng buộc bụng và kiếm tìm huyên náo.

    Tôi lặng thinh. Tôi biết rằng Zorba có lý, tôi biết điều đó lắm, nhưng tôi không dám. Ðời tôi đã đi vào con đường lầm lạc và sự giao tiếp của tôi đối với con người chỉ là một cuộc độc thoại nội tâm. Tôi đã sa đọa quá thấp đến nỗi nếu phải lựa chọn giữa việc yêu một người đàn bà và đọc một cuốn sách hay về ái tình, chắc chắn tôi chọn cuốn sách.

    - Ðừng tính toán nữa, ông chủ, Zorba tiếp. Hãy bỏ rơi những con số, triệt hạ cái bàn cân thổ tả, đóng cửa tiệm buôn lại, tôi xin nói với ông như thế. Bây giờ là lúc ông sắp cứu rỗi hay đánh mất linh hồn. Nghe tôi nói đây, ông chủ, lấy hai đồng, đồng vàng chứ đừng lấy đồng giấy, đồng giấy không làm lóa mắt, gói lại trong một tấm khăn tay và nhờ Mimiko gửi cho bà góa. Dậy nó điều nó phải nói: “Ông chủ mỏ gửi lời chào bà và gửi bà tấm khăn nhỏ bé này. Ông nói của ít nhưng tình nhiều. Ông cũng nói là bà đừng lo âu về chuyện con cừu: Nếu mất nó xin bà đừng lo phiền. Có chúng tôi đây, đừng sợ! Ông mới thấy bà đi qua quán café và từ đó, ông chỉ tơ tưởng đến bà mà thôi.”

    “Ðó! Rồi tối đó ông gõ cửa nhà mụ. Phải rèn sắt khi nó còn nóng. Nói với mụ là ông lạc đường, trời lại tối quá, ông cần một cái đèn lồng. Hoặc thình lình ông bị váng vất khó chịu và cần một ly nước. Hoặc, hay hơn nữa, ông mua một con cừu khác mang đến cho mụ và nói: “Thưa bà, đây là con cừu bà đã mất. Tôi đã tìm thấy cho bà đây!” Tin tôi đi ông chủ bà góa sẽ thưởng ông và ông sẽ đi vào...! Nếu tôi có thể ngồi sau yên ngựa ông! Ông sẽ đi vào Thiên Ðàng trên lưng ngựa. Không có một thiên đàng nào ngoài thiên đàng đó, tôi xin cam đoan với ông như vậy! Ðừng có nghe lời bọn thầy tu, không có thiên đàng nào khác!”

    Có lẽ chúng tôi đang đi đến gần nhà góa phụ vì Mimiko thở dài và bắt đầu ca hát nỗi u sầu bằng cái giọng cà lăm của gã:



    Phải có rượu cho trái lật và mật cho trái hồ đào.

    Cho chàng trai một cô gái và cho cô gái một chàng trai.



    Zorba rảo bước. Hai cánh mũi hắn hấp hiu. Hắn ngừng lại hít một hơi dài, và nhìn thẳng vào mắt tôi.

    - Sao nữa? Hắn hỏi.

    Và hắn lo âu chờ đợi.

    - Ði thẳng! Tôi nghiêm khắc trả lời và đi thật nhanh.

    Zorba lắc đầu, càu nhàu điều gì tôi không nghe thấy.

    Khi chúng tôi về đến lều, hắn ngồi xếp bằng, đặt cây santuri lên đầu gối, và cúi đầu, chìm đắm trong suy tưởng. Dường như hắn đang lắng nghe vô số những bài hát và cố gắng lựa một bản hay nhất, hoặc tuyệt vọng nhất. Cuối cùng hắn chọn xong và cất tiếng hát một điệu ai oán. Thỉnh thoảng, hắn liếc nhìn tôi. Tôi cảm thấy tất cả những gì hắn không thể nói với tôi bằng lời, hắn diễn tả bằng santuri. Rằng tôi đang làm hỏng đời tôi, rằng sương phụ và tôi là hai con côn trùng chỉ sống trong giây phút dưới ánh mặt trời, để rồi chết đi mãi mãi. Không bao giờ nữa! Không bao giờ nữa!

    Zorba đứng phắt dậy. Hắn chợt nhận thấy rằng hắn tốn công vô ích. Hắn dựa vào vách, châm một điếu thuốc, và lát sau, hắn nói:

    - Ông chủ, tôi sắp thố lộ với ông một điều bí ẩn mà một hodja (*) một hôm đã nói với tôi ở Salonica; tôi sắp thố lộ với ông, dầu điều đó không ích lợi chi cả.

    (*) Người thánh thiện Thổ Nhĩ Kỳ. G.c.D.

    “Hồi đó, tôi bán hàng rong ở Macedonia. Tôi đi vào các làng mạc bán kim chỉ, thánh truyện, cánh kiến trắng, hồ tiêu. Tôi có một giọng ca thiên phú, đúng là một con họa mi. Ông phải biết rằng đàn bà cũng bị giọng hát lôi cuốn nữa. Và họ không bị lôi cuốn bởi cái gì, đồ đĩ? Có trời biết lòng dạ họ ra sao! Ông có thể đui què mẻ sứt, nhưng nếu ông biết hát, ông sẽ làm họ xiêu lòng ngay.

    “Tôi cũng còn bán hàng rong ở Salonica và tôi qua lại ngay cả những khu Thổ Nhĩ Kỳ. Và giọng tôi đã mơn trớn quyến rũ một người đàn bà Hồi Giáo giầu có, con gái của một ông quan Thổ, đến nỗi nàng mất ăn mất ngủ. Thế rồi nàng gọi một lão trượng hodja đến và cho lão một nắm mejidies (*) đầy, nàng nói với lão: “Aman (**)!Tới bảo tên bán hàng rong Giaour (***) tới, đây, Aman! Tôi phải nhìn thấy hắn. Tôi không chịu nổi nữa!”

    (*) Tiền Thổ Nhĩ Kỳ, do Abbdul-Medjid thiết định, có giá trị bằng 4 drac me 20 lepta.

    (**) Tán thán từ Hồi Giáo chỉ sự khan khoản, van nài.

    (***) Tiếng Hồi Giáo chỉ người khác tôn giáo, đặc biệt người Cơ Ðốc Giáo - G.c.D.

    40



    Hodja đến kiếm tôi: “Nghe đây, tên Cơ Ðốc Giáo trẻ tuổi, lão bảo tôi, đi với lão. Tôi không đi, tôi trả lời. Lão muốn dẫn tôi đi đâu? Có con gái của một Thổ quan tựa nước suối mát đợi cậu trong phòng, cậu bé Cơ Ðốc Giáo, đi!”

    Nhưng tôi biết rằng, ban đêm, họ giết dân Cơ Ðốc Giáo trong những khu Thổ. “Không, tôi không đi, tôi nói - Mi không sợ Thượng Ðế sao, Giaour? Tại sao tôi phải sợ? Bởi vì, chú bé Cơ Ðốc Giáo ơi, kẻ nào có thể ngủ với một người đàn bà và không làm, phạm một tội trọng. Khi một người đàn bà gọi mi đến để chung chăn gối mà mi không đến, con ơi, con sẽ mất linh hồn! Người đàn bà đó sẽ thở dài trước mặt Thượng Ðế vào ngày phán xét cuối cùng, và tiếng thở dài của người đàn bà đó sẽ xô mi xuống Ðịa Ngục, dù mi là ai và bất kể tất cả những nghĩa cử đẹp đẽ mà mi đã thực hiện!

    Zorba thở dài.

    - Nếu Ðịa Ngục có thật, hắn nói, tôi sẽ xuống Ðịa Ngục chính vì lý do đó. Không phải vì tôi đã trộm cắp, giết người hay ngủ với vợ những kẻ khác, không, không! Tất cả những điều đó không có nghĩa lý gì hết, Thượng Ðế chí tôn sẽ tha thứ tất những điều đó. Nhưng tôi sẽ sa Ðịa Ngục bởi vì, đêm đó, một người đàn bà chờ đợi tôi trong giường mà tôi không đến...

    Hắn đứng dậy, nhóm lửa và sửa soạn làm bếp. Hắn liếc nhìn tôi bằng nửa con mắt và mỉm cười khinh bỉ:

    - Không có kẻ điếc nào tệ cho bằng kẻ không muốn nghe.

    Và cúi xuống, hắn bắt đầu thổi gỗ ẩm một cách giận dữ.



    9



    Ngày thâu ngắn dần, ánh sáng sụp xuống rất nhanh, tinh thần trở nên bứt rứt vào mỗi buổi xế chiều. Nỗi sợ hãi cổ sơ xâm chiếm chúng tôi - nỗi sợ hãi của tổ tiên thấy trong những tháng mùa đông mặt trời mỗi ngày tắt một sớm hơn vào mỗi buổi chiều. “Ngày mai, nó sẽ lặn mãi mãi mãi,” họ tuyệt vọng nghĩ, và suốt đêm trên những đỉnh cao họ sống trong tuyệt vọng hãi hùng.

    Zorba cảm thấy nỗi lo âu này sâu xa hơn và cổ sơ hơn tôi. Ðể trốn thoát nỗi bứt rứt đó, hắn chỉ ra khỏi hầm mỏ lúc sao đã thắp sáng ở trên trời.

    Hắn đã vớ được một mạch than non không thải ra nhiều tàn, không ướt, giầu nhiệt lượng. Hắn hài lòng lắm. Bởi vì, trong chốc lát, lời lãi đã chịu nhiều biến thái kỳ diệu trong trí tưởng tượng của hắn: Nó trở thành những cuộc du lịch, đàn bà và những phiêu lưu mới. Hắn bất nhẫn chờ đợi ngày hắn kiếm được một gia tài, ngày đôi cánh của hắn đủ lớn - “đôi cánh” là danh từ hắn dùng để gọi tiền - để xa bay. Do đó qua nhiều đêm ròng hắn thí nghiệm máy cáp chở đồ nhỏ xíu của hắn, tìm độ dốc đúng nhất, để những thân cây hạ xuống êm ái, hắn nói, như được chuyên chở bởi những thiên thần.

    Một hôm hắn lấy một tờ giấy dài, bút chì mầu và vẽ núi rừng, đường sắt treo và những thân cây treo trên dây cáp đi xuống, mỗi thân cây có hai cánh lớn màu xanh da trời. Trong cái vịnh tròn nhỏ, hắn vẽ những con thuyền đen với những thủy thủ xanh như những con két và những thương đoàn chở những thân cây màu vàng. Bốn tu sĩ đứng ở bốn góc, và từ miệng họ bay lên những giải băng hồng chữ đen viết hoa: “Ôi Chúa cao cả thay và kỳ diệu thay những công trình của Chúa!”

    Từ mấy hôm nay, Zorba nhúm lửa một cách vội vã, hắn sửa soạn bữa ăn, ăn xong hắn chuồn gấp tới con đường về làng. Lát sau hắn cau có trở về.

    - Bác lại đi đâu nữa đó, Zorba? Tôi hỏi hắn.

    - Ông chủ đừng quan tâm, hắn nói và lảng sang chuyện khác.

    Một buổi tối trở về, hắn lo âu hỏi tôi:

    - Thượng Ðế có hay không? Ông nói sao về điều đó, ông chủ? Nếu có - tất cả đều có thể - ông tưởng tượng ra ngài ra sao?

    Tôi nhún vai không trả lời.

    - Tôi không nói đùa đâu ông chủ, tôi tưởng tượng Thượng Ðế giống hệt tôi. Chỉ lớn hơn, mạnh hơn, điên rồ hơn. Và trên tất cả, bất cứ. Ngài ngồi thoải mái trên những tấm da cừu mềm mại, và lều của ngài là bầu trời. Nó không làm bằng những bi-đông ét săng cũ như lều chúng ta, nhưng bằng mây. Trong bàn tay phải ngài cầm, không phải một đoản kiếm cũng chẳng phải một cái cân - những dụng cụ này dành cho bọn đồ tể và chủ tiệm tạp hóa - ngài cầm một miếng bọt biển đẫm nước, như một đám mây mưa. Bên phải ngài là Thiên Ðàng, bên trái là Ðịa ngục. Khi một linh hồn nhỏ nhoi khốn khổ bị điệu tới, hoàn toàn trần truồng, nó đã mất bộ áo khoác ngoài - tôi muốn nói thân thể - nó run ray. Thượng Ðế vừa nhìn nó vừa cười thầm, nhưng ngài giả bộ ông Ba-Bị quát: “Lại đây, lại đây, quân khốn kiếp!”

    Và ngài bắt đầu lấy khẩu cung. Lính hầu quì sụp dưới chân Thượng Ðế van xin: “Xin mở lượng khoan hồng cho con!” Và nó bắt đầu đọc tội lỗi của nó. Nó đọc một thôi một hồi liên tu bất tận. Thượng Ðế cho thế là quá đủ rồi. Ngài ngáp. “Thôi ngừng lại đi, ngài quát, mi làm ta nhức đầu mất!” Và ngáp! Một cú bọt biển và ngài xóa mọi tội lỗi. “Ði đi, chuồn mau vào Thiên Ðàng!” Ngài nói với linh hồn. “Peterkin, cho cả kẻ đáng thương này vào với!”

    “Bởi vì, ông phải biết, ông chủ, Thượng Ðế là một đấng chúa tể, và một đấng chúa tể quí phái có nghĩa là: tha thứ!”

  6. #6
    Moderator
    saomai's Avatar
    Status : saomai v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jun 2008
    Posts: 2,146
    Thanks: 23
    Thanked 31 Times in 19 Posts

    Default Alexis Zorba

    Kỳ 41



    Tôi còn nhớ buổi tối hôm đó tôi cười trong khi Zorba tuôn ra những lời nói bậy bạ. Nhưng cái tính cách “quí phái” của Thượng Ðế thành hình và chín mùi trong tôi, bác ái, bao dung và toàn năng.

    Một buổi tối khác khi trời mưa và chúng tôi thu mình trong lều, nướng trái lật trong lò than, Zorba quay lại và nhìn tôi một lúc lâu như thể hắn muốn soi sáng một điều huyền bí lớn lao nào. Cuối cùng, hắn không chịu nổi nữa:

    - Ông chủ, tôi muốn biết ông có thể nhìn thấy gì nơi tôi? Ông chờ đợi gì mà không xách tay tôi quẳng ra ngoài? Tôi đã nói với ông rằng họ gọi tôi là “Mildew” bởi vì bất cứ nơi nào tôi tới, tôi phá hoại hoàn toàn... Công việc của ông sẽ đi đến chỗ tan hoang. Quẳng tôi ra, tôi xin nói với ông như vậy!

    - Tôi quí bác, tôi đáp. Ðừng đòi hỏi gì hơn.

    - Ông không hiểu rằng óc tôi không có trọng lượng chính xác sao, ông chủ? Có thể nó hơi nặng một chút, hoặc hơi nhẹ hơn, nhưng quả thật nó không có trọng lượng đúng mực! Thấy không, đây là vài điều sẽ khiến ông hiểu: bấy lâu nay ngày đêm mụ góa không lúc nào để tôi yên. Không, không phải vì tôi, tôi xin thề. Ma quỉ bắt mụ, tôi nói vậy. Không bao giờ tôi rớ tới mụ, đó là điều chắc chắn. Mụ không phải để cho tất cả mọi người. Tôi cũng không muốn mụ ngủ một mình. Như thế không được, ông chủ, tôi không thể chịu được điều đó. Bởi thế tôi lảng vảng quanh vườn nhà mụ. Ông biết tại sao không? Ðể xem có ai tới ngủ với mụ không thì tôi mới có thể an tâm!

    Tôi bật cười.

    - Ðừng cười, ông chủ! Nếu một người đàn bà ngủ trơ trọi một mình, đó là lỗi của tất cả bọn đàn ông chúng ta. Tất cả chúng ta sẽ phải báo cáo vào ngày phán xét cuối cùng. Thượng Ðế có thể tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, như trước kia đã có lần chúng ta nói ố ngài có sẵn miếng bọt biển trong tay. Nhưng tội lỗi này, ngài không thể tha thứ được. Khốn khổ thay cho người đàn bà mà lại không làm, ông chủ! Khốn khổ thay cho người đàn bà nào có thể ngủ với một người đàn ông mà lại không làm! Ông hãy nhớ lời lão hodja!

    Hắn lặng thinh giây lát.

    - Khi một người chết đi có thể trở lại trần gian dưới một hình thể khác được không? Ðột nhiên hắn hỏi.

    - Tôi không tin, Zorba.

    - Tôi cũng vậy. Nhưng nếu có thể được đi, thì lúc đó những người mà tôi nói đó, những người đã khước từ không chịu phục vụ, những kẻ đào ngũ ái tình, sẽ trở lại trần gian ông có biết như gì không? Như những con la!

    Hắn lại im lặng và suy nghĩ. Thình lình cặp mắt hắn sáng lên.

    - Biết đâu, hắn nói, kích động vì khám phá của hắn, có thể tất cả những con la mà chúng ta thấy trên thế giới hôm nay lại chẳng phải là những quân ngu độn, những kẻ đào ngũ, trong suốt đời chúng là đàn ông và đàn bà và đồng thời không phải. Và vì lẽ đó chúng luôn luôn đá hậu. Ông nghĩ sao về điều đó, ông chủ?

    - Rằng óc bác hơi nhẹ, Zorba, tôi vừa cười vừa đáp. Ðứng dậy lấy cây santuri xuống đi!

    - Tối hôm nay không có santuri, ông đừng giận, ông chủ. Tôi tiếp nói, nói những điều vô nghĩa, ông có biết sao không? Bởi tôi có rất nhiều điều lo lắng. Ðường hầm mới, ma quỉ bắt nó, sắp khiến tôi lên ruột. Và ông ngồi đó mà nói với tôi về chuyện santuri...

    Nói đoạn, hắn cời những trái lật ra khỏi đống than, trao cho tôi một nắm và rót rượu raki đầy ly của chúng tôi.

    - Cầu Thượng Ðế nghiêng bàn cân về phía bên phải! Tôi vừa nói vừa cụng ly.

    - Về phía bên trái! Zorba sửa lại. Về phía bên trái! Cho đến nay, bên phải chưa tạo ra được cái gì hay ho cả.

    Hắn uống một hơi hết dòng lửa nóng và nằm dài trên giường.

    - Ngày mai, hắn nói, tôi phải có rất nhiều sức mạnh. Tôi phải chiến đấu chống lại một ngàn con quỉ. Chúc ông ngon giấc.

    Ngày hôm sau, ngay từ lúc tờ mờ sáng, Zorba đã chui xuống mỏ. Họ đã mở sâu đường hầm vào trong lớp mạch mỏ tốt, nước từ trần nhỏ xuống, thợ thuyền lội bì bõm trong bùn đen.

    Từ hai ngày trước Zorba đã sai thợ khuân gỗ để làm chắc đường hầm. Nhưng hắn lo ngại. Những thân cây không được lớn và với bản ngăn sâu thẩm khiến hắn cảm thấy tất cả điều gì đang xẩy ra trong mê cung dưới đất này như chính trong thân thể hắn, cảm thấy rằng những cây gỗ này không chắc chắn. Hắn có thể nghe những tiếng nghiến ken két, rất nhỏ, những người khác chưa nghe thấy ố như thể những cây chống đỡ trần rên xiết dưới sức nặng.

    Một điều khác làm tăng thêm nỗi lo âu của Zorba ngày hôm nay: lúc hắn sửa soạn xuống hầm, cha Stephanos, thầy tư tế của làng, cưỡi la đi qua, vội vã hướng về tu viện bên cạnh ban phép bí-tích cho một dì phước đang hấp hối. May mắn thay Zorba đã có đủ thì giờ nhổ ba lần xuống đất trước khi thầy tư tế chào hỏi hắn.

    - Chào cha! Hắn quạu quọ đáp lời chào của thầy tư tế.

    Và hạ thấp giọng hơn chút nữa, hắn lẩm bẩm:

    - Cầu cho lời nguyền rủa của mi trên ta!



    Kỳ 42



    Tuy nhiên hắn cảm thấy những câu thần chú này chưa đủ và hắn tức tối đi xuống đường hầm mới.

    Một mùi than non và acetylene nặng mùi xông lên. Thợ thuyền đã khởi sự củng cố đà ngang và chống hầm. Zorba chào họ, cộc cằn, cau có; hắn xắn tay áo và bắt tay làm việc.

    Mười mấy người bắt đầu cuốc sâu vào mạch than và đánh đống than dưới chân, những người khác lấy xẻng xúc lại và chở ra ngoài trên những xe goòng nhỏ.

    Thốt nhiên Zorba dừng lại, ra hiệu cho những người khác làm theo và vểnh tai nghe. Như kỵ mã hợp nhất với con ngựa, như thuyền trưởng với tầu mình, Zorba cũng trở thành một với mỏ. Hắn có thể cảm thấy những chi nhánh của đường hầm như những mạch máu trong da thịt hắn, và điều gì những khối than đen tối không thể cảm, Zorba cảm thấy với ý thức sáng suốt của con người.

    Sau khi lắng cặp tai voi, lông lá ra nghe, hắn chăm chú ngó vào đường hầm. Ðúng lúc đó tôi tới. Như có dự cảm, như bị thúc đẩy bởi một bàn tay vô hình, sáng nay tôi choàng thức dậy. Tôi vội vã mặc quần áo và lao ra ngoài, không hiểu tại sao mình lại hấp tấp thế và đi đâu; nhưng thân thể tôi không lưỡng lự hướng về hầm mỏ. Tôi tới lúc Zorba đang lo âu nghe ngóng.

    - Không có gì hết... một lát sau hắn nói. Có lúc tôi thấy hình như... Ðừng quan tâm. Làm việc đi các bạn.

    Hắn quay lại, thấy tôi và mím môi:

    - Ông chủ làm gì ở đây sớm vậy?

    Hắn lại gần tôi:

    - Sao ông không lên hút thở trong lành, ông chủ? Hắn nói khẽ. Hôm khác ông hãy lại đây đi dạo.

    - Có chuyện gì đó, Zorba?

    - Không có gì hết... tôi có một vài ý tưởng. Sáng hôm nay tôi gặp một ông thầy tư tế. Ông đi đi!

    - Nếu có gì nguy hiểm mà tôi lại bỏ đi thì có phải là xấu hổ không?

    - Vâng, Zorba đáp.

    - Bác có đi không?

    - Không.

    - Sao nữa?

    - Cái Zorba làm một chuyện, hắn cáu kỉnh đáp, cái những kẻ khác lại làm là một chuyện khác. Nhưng vì ông cảm thấy rằng bỏ đi là điều xấu hổ thì đừng đi nữa. Cứ ở đây. Thây kệ!

    Hắn cầm búa và đứng đầu ngón chân để đóng đanh vào cái khung trần. Tôi lấy cây đèn đất trên một cái giá và đi đi lại lại trong bùn nhìn mạch mỏ đen lóng lánh. Những khu rừng bao la đã bị nuốt chửng hàng triệu năm về trước. Ðất đã nhai, tiêu hóa, biến đổi những đứa con của mình. Cây cối trở thành than bùn, than bùn trở thành than đá và Zorba đến...

    Tôi treo đèn vào chỗ cũ và ngắm Zorba làm việc. Hắn hoàn toàn để hết tâm trí vào công việc: hắn không nghĩ đến điều gì khác, hắn làm một với đất, với cái cuốc và than đá. Hắn, cây búa và đanh đã đoàn kết trong cuộc tranh đấu với gỗ. Hắn đau đớn với hầm trần

    - Hoan hô Zorba, tiến tới! Tôi bị lôi cuốn bởi một sự thán phục ngây thơ, kêu lên.

    Nhưng hắn không hề quay lại. Làm sao lúc này hắn có thể trò chuyện với một con mọt sách, thay vì cầm búa, lại cầm trong tay một mẩu bút chì cùn mằn? Hắn đang bận, hắn không muốn nói chuyện. “Ðừng nói với tôi khi tôi đang làm việc, một buổi tối hắn nói với tôi. Tôi có thể tan vỡ! - Tan vỡ tại sao vậy, Zorba? - Ðó ông lại “tại sao” với “sao nữa” rồi! Như một đứa con nít. Làm sao giải thích? Tôi hoàn toàn bị lôi cuốn bởi công việc, căng thẳng, cứng nhắc từ đầu tới chân, dán chặt vào đá hay than hoặc cây santuri. Nếu ông thình lình đụng vào tôi hay nói với tôi và tôi cố gắng quay lại, tôi có thể vỡ tung. Ðó bây giờ ông rõ chưa?”

    Tôi nhìn đồng hồ, mười giờ.

    - Ðến giờ nghỉ tay ăn sáng rồi, các bạn! Tôi nói. Các bạn làm việc quá giờ rồi.

    Thợ thuyền bèn liệng ngay dụng cụ vào một góc, lau khuôn mặt đẫm mồ hôi, sửa soạn ra khỏi đường hầm. Zorba, hoàn toàn chìm đắm trong công việc không nghe thấy. Dầu hắn nghe thấy, hắn cũng không nhúc nhích. Một lần nữa hắn lại lo âu lắng nghe.

    - Chờ chút, tôi nói với bọn thợ, hút điếu thuốc đã.

    Tôi lục túi, xung quanh tôi thợ thuyền chờ đợi.

    Thình lình Zorba giật nẩy mình. Hắn dán tai vào vách đường hầm. Dưới ánh đèn đất tôi thấy miệng hắn há hốc, méo xệch.

    - Sao thế, Zorba? Tôi hỏi.

    Nhưng ngay lúc đó, hầu như tất cả trần hầm run rẩy trên chúng tôi.

    - Chạy đi! Zorba la lên bằng một giọng ồ ồ. Chạy đi!

    Chúng tôi ùa về phía lối ra, nhưng chúng tôi chưa tới sườn gỗ thứ nhất thì đã nghe thấy một tiếng gẫy lớn hơn ở trên đầu. Trong khi đó Zorba đang nâng một thân cây lớn để chêm vào như một trụ chống cây đà. Nếu hắn làm kịp, có thể hắn sẽ chống đỡ được cái trần hầm thêm vài phút nữa và cho chúng tôi đủ thì giờ chạy thoát.

    - Chạy đi! Zorba lại la lên, nhưng lần này giọng hắn bị tắc nghẹn như nó phát ra tự lòng đất.

    Tất cả, với sự hèn nhát thường xâm chiếm con người vào những giây phút nghiêm trọng, chúng tôi túa ra ngoài hoàn toàn quên mất Zorba. Nhưng vài giây sau tôi trấn tĩnh lại và chạy trở lại đường hầm.

    - Zorba! Tôi thét lớn, Zorba!



    Kỳ 43



    Hình như tôi thét lớn, nhưng sau đó tôi hiểu rằng tiếng thét không thoát ra khỏi cổ họng. Sự sợ hãi đã bóp nghẹt giọng tôi.

    Tôi xấu hổ cùng mình. Tôi lao về phía hắn hai cánh tay mở rộng, Zorba đã chống chắc cây trụ đỡ trượt trong bùn, và đang chạy về phía lối ra. Trong bóng tối theo đà lôi cuốn, hắn đâm sầm vào tôi và chúng tôi ngã vào tay nhau ngoài ý muốn.

    - Chạy mau! Hắn la bằng giọng tắc nghẹn. Chạy mau lên!

    Chúng tôi chạy và ra tới ngoài ánh sáng. Bọn thợ bị một phen sợ mất mật, đang tụm lại tại cửa hầm và nhìn vào trong, mặt xanh như chàm đổ.

    Chúng tôi nghe thấy một tiếng gẫy thứ ba, lớn hơn, như cây bị đánh gẫy trong một trận bão. Rồi thình lình, một tiếng gầm kinh khủng nổi lên như một tiếng sấm, rung chuyển cả triền núi và hầm sụp xuống.

    - Lạy Chúa! Họ vừa lẩm bẩm vừa làm dấu.

    - Các người đã để cả cuốc ở trong đó rồi phải không? Zorba tức giận hỏi.

    Bọn thợ nín khe.

    - Tại sao không mang nó theo? Hắn lại giận dữ quát lên! Can đảm thật, các người đã vãi đái cả ra quần rồi, ta biết! Thế là đi đời dụng cụ!

    - Bây giờ không phải là lúc lo lắng cho mấy cái cuốc, Zorba, tôi can thiệp. Chúng ta hãy sung sướng vì tất cả đều bình yên vô sự! Xin cảm tạ bác, Zorba nhờ bác tất cả mới còn sống sót.

    - Tôi đói! Zorba nói. Nó nạo ruột tôi.

    Hắn lấy cái túi dết đựng đồ ăn sáng hắn đã đặt trên một tảng đá, mở ra, lấy ra bánh, ô-liu, hành, một củ khoai tây luộc và một bầu rượu nhỏ.

    - Ăn thôi! Hắn nói miệng đầy đồ ăn.

    Hắn ngốn rất nhanh, như thể hắn đột nhiên bị mất rất nhiều sức mạnh và bây giờ muốn bồi bổ lại.

    Hắn lặng lẽ cúi xuống ăn. Hắn lấy bầu rượu, ngửa cổ ra và để rượu òng ọc chảy xuống cổ họng khô khát.

    Thợ thuyền cũng lấy lại can đảm, mở túi dết của họ và bắt đầu ăn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh Zorba, và vừa ăn vừa nhìn hắn. Họ muốn quì xuống chân hắn và hôn tay hắn, nhưng họ biết hắn cộc cằn và kỳ cục, nên không ai dám làm trước.

    Cuối cùng Michelis, người trọng tuổi nhất, có bộ ria rậm, xám, quyết định, nói:

    - Nếu không có thầy ở đấy, thầy Alexis, con cái chúng tôi giờ đây đã là những trẻ mồ côi.

    - Câm đi! Zorba nói, miệng đầy đồ ăn và không một người nào dám hó hé một lời nào nữa.



    10



    “Vậy thì ai đã tạo ra cái mê lộ của do dự này, cái đền của kiêu mạn này, cái bình tội lỗi này, cái cánh đồng gieo rắc muôn ngàn giả trá này, cái cánh cửa Ðịa Ngục này, cái lẵng hoa đầy xảo quyệt này, cái thuốc độc giống như mật ngọt này, cái dây xích trói buộc vào chúng sinh trần gian này: đàn bà?”

    Ngồi trên mặt đất gần lò than hồng tôi lặng lẽ, chậm rãi chép ca khúc Phật giáo này. Tôi cố gắng chồng chất thần chú này lên thần chú khác để xua đuổi khỏi tâm trí hình ảnh một tấm thân đàn bà đẫm nước mưa mà trong suốt những đêm đông lạnh ẩm đã đi đi lại lại trước mắt tôi với hông háng đong đưa. Tôi không biết tại sao ngay sau khi hầm mỏ bị sụp đổ, khi đời tôi gần như bị chặn đứng lại, tôi cảm thấy góa phụ nổi lên trong máu tôi; nàng kêu gọi tôi như một con dã thú, khẩn khoản và trách móc.

    - Hãy đến, hãy đến mau! Nàng kêu. Ðời qua như một tia chớp. Mau lên chứ, vội vàng lên mấy chứ, trước khi quá muộn màng!

    Tôi biết rõ rằng đó là Mara, Ma vương trong hình thể một người đàn bà đùi và hông mạnh mẽ. Tôi chiến đấu chống lại. Tôi chuyên chú viết “Ðức Phật” như những người man rợ trong hang động khắc với một miếng đá nhọn hay vẽ bằng mầu đỏ và trắng những mãnh thú đói khát rình mò quanh họ. Họ cũng cố gắng, bằng cách khắc vẽ những con thú này, đóng chặt chúng trên vách đá. Nếu họ không làm vậy, chúng sẽ lao vào.

    Từ ngày tôi thiếu chút nữa bị đè bẹp, góa phụ không ngừng lởn vởn trong bầu không khí cô đơn thiêu đốt của tôi, mời mọc tôi và đong đưa hông háng một cách khêu gợi. Ban ngày, tôi khỏe, tâm trí tôi tỉnh thức, nào Ma Vương hiện ra trước Ðức Phật, nó mặc hình thức đàn bà ra sao, nó tỳ bộ ngực rắn chắc lên đầu gối khổ hạnh sư như thế nào, cuối cùng, Ðức Phật thấy nỗi hiểm nguy, huy động tất cả sức mạnh và đuổi Ma Vương chạy tán loạn ra sao. Và tôi cũng đuổi được nó chạy tán loạn nữa.

    Mỗi dòng chữ viết mang lại cho tôi tin tưởng mới, tôi lấy can đảm, tôi cảm thấy Ma Vương rút lui, bị diệt trừ bởi phép mầu phù thủy của ngôn ngữ. Ban ngày tôi chiến đấu với tất cả sức mạnh, nhưng ban đêm, tâm trí tôi buông rơi khí giới, cửa lòng mở ngỏ và sương phụ bước vào.

    Buổi sáng, tôi thức dậy, mệt lả vì chiến bại và cuộc chiến lại bắt đầu. Khi tôi ngẩng đầu lên thì đã xế chiều; ánh sáng bị rượt đuổi, đã chạy trốn, bóng tối thình lình chụp xuống tôi. Ngày thâu ngắn dần, lễ Giáng Sinh sắp tới. Tôi lao mình vào cuộc chiến. Tôi tự nhủ: “Ta không đơn độc. Một sức mạnh vĩ đại, ánh sáng, cũng chiến đấu. Nó cũng khi thất bại, khi chiến thắng. Nhưng nó không tuyệt vọng. Ta chiến đấu và hy vọng với ánh sáng!”



    Kỳ 44



    Dường như, và ý nghĩ này khiến tôi thêm can đảm, tôi cũng tuân theo một nhịp điệu phổ quát vĩ đại trong khi chiến thắng chống lại góa phụ. Vật chất gian giảo đã lựa chọn thân thể này, tôi nghĩ, để làm tắt nguội dần ngọn lửa tự do chập chờn trong tôi.

    Tôi thầm nhủ: “Thiêng liêng hay sức mạnh bất diệt biến đổi vật chất thành tinh thần. Mỗi người đều có trong mình một phân tử của cơn lốc thần thánh này chính vì thế hắn thành công trong việc biến cải cơm nước và thịt cá thành tư tưởng và hành động. Zorba có lý: “Hãy nói cho tôi biết anh làm gì với cái anh ăn, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai!”

    Cho nên tôi tinh tấn biến đổi cái khát vọng xác thịt mãnh liệt này thành Ðức Phật một cách đau đớn.

    - Ông nghĩ gì đó, ông chủ? Ông có vẻ tâm thần bất định, Zorba nói với tôi như vậy vào đêm áp lễ Giáng Sinh. Hắn có một ý tưởng sắc bén về con quỉ nào tôi đang chiến đấu.

    Tôi giả vờ không nghe thấy. Nhưng Zorba không chịu bỏ cuộc một cách dễ dàng như thế.

    - Ông còn trẻ quá, ông chủ, hắn nói.

    Và đột nhiên giọng hắn có một âm điệu cay đắng và tức tối:

    - Ông còn trai trẻ và cường tráng, ông ăn uống được, ông hút thở không khí tốt lành của biển, ông tích lũy sức mạnh - nhưng ông làm gì với tất cả những sức mạnh ấy? Ông ngủ một mình, như thế rất hại cho sinh lực! Ông tới đó ngay đêm nay đi - phải đấy, đừng lôi thôi mất thì giờ! Mọi sự trên đời này đều đơn giản, ông chủ. Tôi phải nhắc lại với ông điều đó bao nhiêu lần nữa? Ðừng phức tạp hóa mọi sự!

    Tập bản thảo “Ðức Phật” mở rộng trước mặt, tôi lần giở từng trang trong khi nghe Zorba nói và tôi biết rằng những lời nói đó mở ra cho tôi một con đường chắc chắn, quyến rũ và rất nhân loại để noi theo. Và cùng với những lời nói đó, Ma vương, tên môi giới xảo trá cũng đang lên tiếng gọi.

    Tôi lẳng lặng nghe, cương quyết chống lại và lần giở những trang bản thảo. Tôi huýt gió để che giấu cảm xúc. Nhưng Zorba, thấy tôi vẫn im lặng, la lên:

    - Ðêm nay là đêm Giáng Sinh, ông bạn, mau lên, tới kiếm mụ trước khi mụ đi lễ nhà thờ. Ðêm nay Chúa sinh ra đời, ông chủ, ông cũng phải ban phép lạ nữa chứ!

    Tôi giận dữ đứng dậy:

    - Thế đủ rồi, Zorba, tôi nói. Mỗi người đi theo con dốc riêng của mình. Người ta tựa như một cái cây. Có bao giờ bác gây lộn với cây vả vì nó không tạo ra trái anh đào không? Vậy thì đừng nói nữa! Gần nửa đêm rồi. Thôi chúng ta cũng tới nhà thờ để xem Chúa sinh ra đời.

    Zorba chụp cái mũ trùm đầu Mùa Ðông dầy cộm lên đầu:

    - Ðược rồi! Hắn nói một cách chán nản, chúng ta đi! Nhưng tôi muốn ông phải biết rằng Ðức Chúa Trời hẳn sẽ hài lòng hơn nhiều nếu tối nay ông tới nhà mụ góa như thượng đẳng thiên sứ Gabriel. Nếu Ðức Chúa Trời cùng đi theo con đường như ông, ông chủ, ngài không bao giờ tới nhà Ðức Mẹ Mary thì Chúa đã chẳng bao giờ giáng sinh. Nếu ông hỏi tôi Ðức Chúa Trời đi theo con đường nào, tôi xin thưa: Con đường dẫn tới Ðức Mẹ Mary. Mary chính là góa phụ.

    Hắn nín lặng và chờ đợi câu trả lời uổng công. Hắn xô mạnh cửa và đi ra. Hắn lấy đầu gậy đập những viên sỏi một cách bực tức.

    - Ðúng, đúng, hắn bướng bỉnh nhắc lại, Mary chính là góa phụ!

    - Thôi, lên đường! Tôi nói. Ðừng có la lối!

    Chúng tôi bước đi vững vàng trong đêm đông. Bầu trời thật thanh tịnh, những vì sao long lanh, lớn, thấp, trông như những quả cầu lửa treo ở trên không. Vì chúng tôi đi dọc theo bờ biển, đêm tựa như một con thú lớn màu đen nằm dài bên mé nước.

    “Từ đêm nay, tôi tự nhủ, ánh sáng mà Mùa Ðông đã đẩy lui bắt đầu thắng thế. Như thể nó được sinh ra hôm nay cùng với Ðức Chúa Con”.

    Tất cả dân làng tụ họp trong cái vòm ấm áp và thơm ngát của nhà thờ. Ðàn ông đứng phía trước và đàn bà tay khoanh trước ngực, đứng sau. Cha Stephanos, cao lớn, điên tiết vì bốn mươi ngày chay tịnh trong tấm áo hai vạt bằng vàng nặng, xoặc cẳng chạy hết chỗ này đến chỗ kia, lúc lắc bình hương, hát vang lên và hấp tấp muốn thấy Chúa ra đời để trở về nhà lăn xả vào đĩa súp béo, xúc xích thơm ngon và những miếng thịt bốc khói...

    Nếu Kinh Thánh nói: “Hôm nay ánh sáng ra đời”, điều đó không làm cho tâm hồn con người xúc động; ý tưởng không thể trở thành thần thoại và không thể chinh phục thế giới. Nó chỉ diễn tả một hiện tượng vật lý thông thường và không kích thích óc tưởng tượng của chúng ta - tôi muốn nói linh hồn của chúng ta. Nhưng ánh sáng, sinh ra giữa Mùa Ðông đó trở thành một hài nhi, hài nhi đã trở thành Chúa Trời, và đã hai mươi thế kỷ nay, linh hồn chúng ta ôm ấp nó trong lòng và cho nó bú...

    Nghi lễ thần bí chấm dứt vào lúc quá nửa đêm một chút. Chúa đã giáng sinh. Dân làng, đói meo, sung sướng chạy về nhà để ăn tiệc và cảm thấy tận đáy lòng sự huyền bí của Giáng Sinh. Bụng là nền móng vững chắc; bánh, rượu và thịt là những cái cốt yếu đầu tiên; chỉ với bánh, rượu và thịt người ta mới có thể tạo ra Thượng Ðế.

    Tinh tú long lanh, vĩ đại như những thiên thần trên nóc nhà thờ trắng toát. Giải Ngân Hà, tựa một dòng sông, chảy từ đầu đến cuối trời. Một vì sao xanh lấp lánh trên đầu chúng tôi như một viên ngọc bích. Tôi thở dài, xao xuyến.

    Kỳ 45



    Zorba quay sang tôi:

    - Ông có tin điều đó không, ông chủ? Tin rằng Thượng Ðế trở thành người ta, sinh ra trong chuồng bò? Ông tin điều đó hay là ông cóc cần đời?

    - Khó nói lắm, Zorba, tôi nói. Tôi không thể nói là tôi tin cũng có thể nói là không tin. Còn bác?

    - Tôi cũng vậy. Tôi không hiểu ra sao nữa. Khi còn nhỏ xíu, tôi không tin những truyện thần tiên bà tôi kể, tôi không tin một mảy may. Tuy nhiên tôi run lên vì xúc động, tôi cười, khóc như thể tôi tin lắm. Khi cằm lún phún râu, tôi gạt những truyện ấy đi và đôi khi chế nhạo. Nhưng bây giờ, lúc về già - hình như tôi đang trở nên nhu nhược, phải không ông chủ? - một cách nào đó tôi lại tin vào những điều đó trở lại... Ðầu óc con người thật kỳ cục!

    Chúng tôi lên đường tới nhà mụ Hortense và chúng tôi sải như những chú ngựa đói đánh hơi thấy tầu ngựa.

    - Những giáo phụ ma lanh ác! Zorba nói. Họ nắm lấy bụng mình thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi họ? Trong bốn mươi ngày, họ nói chúng ta không được ăn thịt, không được uống rượu chay tịnh. Tại sao? Ðể chúng ta khao khát thèm thuồng rượu thịt. A! Mấy con heo thiến mập mạp họ biết tất cả những mánh khóe bịp bợm!

    Hắn cố gắng đi mau hơn nữa.

    - Nhanh lên, ông chủ, hắn nói, con gà tây chắc phải chín tới nơi rồi.

    Khi bước vào căn phòng nhỏ của mụ già với cái giường lớn cám dỗ, chúng tôi thấy bàn ăn được phủ bằng một tấm khăn trắng và trên đó chú gà tây nghi ngút khói nằm ngửa và hai chân dang ra; từ lò than hồng tỏa ra một hơi ấm rất dịu dàng.

    Mụ Hortense đã cuộn tóc xong và mụ mặc một cái áo mặc trong nhà dài màu hồng lợt với hai ống tay áo rộng và những đường ren tua. Một giải băng rộng bằng hai đầu ngón tay, mầu vàng tối nay, thắt quanh khuôn cổ nhăn nheo của mụ. Mụ đã xịt nước hoa cam đẫm người.

    “Mọi sự trùng hợp với nhau hoàn hảo làm sao trên trần gian này! Tôi nghĩ. Trần gian này tương hợp tốt đẹp làm sao với tâm hồn con người. Ðây là một ca kỹ già đã sống một cuộc đời phóng đãng; bây giờ trôi giạt lên bờ biển cô liêu này, mụ đã gói ghém trong gian phòng tồi tàn này tất cả mọi ân cần thiêng liêng và sự ấm áp của đàn bà”.

    Bữa ăn, thịnh soạn và cầu kỳ, lò than hồng, tấm thân trang điểm, chưng diện, mùa hoa cam - với xiết bao nhanh chóng và xiết bao đơn giản, tất cả những lạc thú xác thịt nhỏ bé rất con người này biến đổi thành một nỗi hân hoan vĩ đại của tâm hồn!

    Hốt nhiên, mắt tôi đầm đìa lệ. Tôi cảm thấy tôi không hoàn toàn cô đơn, ở đây, trên bãi biển tịch liêu, trong buổi tối thiêng này. Một sinh vật đầy tận tâm, dịu dàng và nhẫn nại đàn bà đang lại gần tôi: Ðó là người mẹ, người chị, người vợ. Và tôi, tôi tưởng mình không cần gì hết, đột nhiên cảm thấy mình cần tất cả mọi sự.

    Zorba chắc cũng có một cảm xúc tương tự bởi chúng tôi vừa đến hắn đã lao tới mụ ca kỹ tô lục chuốt hồng và ghì chặt lấy mụ.

    - Chúa đã ra đời! Hắn kêu lên. Xin chào em, giống cái!

    Hắn quay sang tôi vừa cười:

    - Thấy chưa, ông chủ, đàn bà thật là một sinh vật gian giảo! Ðến Thượng Ðế mà mụ cũng dỗ ngon dỗ ngọt được!

    Chúng tôi ngồi vào bàn, chúng tôi ngấu nghiến ăn uống; thân thể chúng tôi thỏa mãn và linh hồn chúng tôi run lên vì khoái cảm. Zorba lại trở nên linh hoạt.

    - Ăn và uống, hắn tiếp tục kêu to. Ăn và uống, ông chủ, và phấn khởi lên. Hát lên đi, ông bạn cũng hát lên đi, như những kẻ chăn chiên: “Vinh danh thay Ðấng Vô Cùng...!” Chúa đã ra đời, đó là một điều ghê gớm lắm. Hát lên đi để Chúa Trời nghe thấy và vui vẻ!

    Hắn đã phục hồi niềm yêu đời, và không có gì ngăn trở được hắn.

    - Chúa đã ra đời, ông Salomon khôn ngoan, ông bác học cạo giấy của tôi. Ðừng chi ly vụn vặt, ngài đã ra đời hay chưa ra đời! Bạn ơi, ngài đã ra đời, đừng có gàn dở! Nếu ông lấy một cái kính hiển vi nhìn nước mình uống - một ông kỹ sư đã nói với tôi điều đó - ông sẽ thấy nước đầy vi trùng, rất nhỏ mà mắt trần không thấy. Ông sẽ không uống và ông sẽ chết khát. Ðập vỡ cái kính hiển vi, ông chủ đập vỡ nó đi, và những con vi trùng sẽ biến mất ngay lập tức, ông có thể uống và giải khát!

    Hắn quay sang người bạn đồng hành lòe loẹt của chúng tôi, và nâng cái ly đầy ắp của hắn lên:

    - Bouboulina yêu quí của tôi, cựu chiến hữu của tôi, tôi sẽ uống ly rượu này mừng em! Trong đời tôi, tôi đã thấy nhiều mặt gỗ khắc: Chúng bị đóng đinh vào mũi tầu thuyền, tay ôm ngực, mà và môi son đỏ. Chúng đi qua khắp các mặt biển, ghé vào tất cả các bến, và khi con tàu hư nát, chúng trở lại đất liền và cho đến giây phút cuối cùng của đời chúng, chúng dựa vào vách một quán rượu của ngư phủ, nơi những thuyền trưởng tới.

    “Bouboulina của tôi, tối nay thấy em trên bờ biển này, khi đã no say, mắt mở rộng, tôi thấy em giống như khắc diện của một con tàu. Và tôi là cái bến cuối cùng của em, tôi là quán rượu mà những thuyền trưởng tới. Lại đây, dựa vào tôi, hạ buồm xuống! Tôi uống ly rượu Crete này mừng em, ngư nhân của tôi!”



    Kỳ 46



    Mụ Hortense xúc động, xiêu xiêu, cất tiếng khóc và tựa vào vai Zorba.

    - Ông sẽ thấy, ông chủ, Zorba thì thầm với tôi, tôi sắp gặp nhiều cái phiền nhiễu vì lời nói mật ngọt của tôi. Con đĩ, mụ không buông tha tôi tối nay đâu. Nhưng, ông muốn gì, tôi thương hại những kẻ đáng thương này, vâng, tôi thương hại họ!

    “Chúa đã ra đời! Hắn la to với ngư nhân mỹ nữ của hắn. Mừng cho sức khỏe của chúng ta!”

    Hắn luồn cánh tay dưới cánh tay mụ và cả hai cùng uống cạn ly, tay choàng lấy nhau, và nhìn nhau say đắm.

    Bình minh chắc cũng chẳng còn bao lâu khi tôi rời căn buồng ngủ ấm áp với cái giường rộng và một mình cất bước trở về nhà. Cả làng đều ăn uống no say, và bây giờ yên ngủ, cửa ra vào và cửa sổ khép kín dưới những vì sao vĩ đại Mùa Ðông.

    Trời lạnh, biển xô ầm, sao mai treo ở phương đông, nhấp nháy lấp lánh. Tôi đi dọc theo bờ nước, chơi đùa với sóng. Chúng cố trào lên để làm ướt tôi và tôi lảng tránh. Tôi sung sướng và tôi tự nhủ:

    “Ðây là chân hạnh phúc: Không có bất cứ một tham vọng nào và làm việc quần quật như trâu ngựa như thể mình có tất cả mọi tham vọng. Sống xa cách con người, không cần họ, tuy nhiên thương yêu họ. Dự lễ Giáng Sinh và, sau khi ăn uống say sưa, một mình tránh xa mọi cạm bẫy, có tinh tú ở trên đầu, đất bên tay trái, biển bên phải mình; và, hốt nhiên trực ngộ rằng, trong tâm ta cuộc đời đã viên thành cái phép lạ tối hậu của nó: Nó đã trở thành một truyện thần tiên.”

    Ngày qua ngày. Tôi cố gắng làm bộ gan dạ cứng cỏi, tôi la hét vang lừng, giả ngây giả ngô, nhưng trong những nếp gấp cuối cùng của hồn tôi, tôi biết tôi buồn. Trong suốt tuần lễ hoan lạc này, những kỷ niệm dâng lên và dồn đầy ngực tôi với âm nhạc xa vắng và người thân yêu. Hơn một lần, tôi lại thấy thần thoại cổ xưa này có vẻ đúng: Lòng người ta là một cái hố đầy máu me. Những kẻ thân yêu đã chết nằm trên miệng hố cúi xuống để uống máu và hồi sinh; và họ càng thân yêu với mình bao nhiêu, họ càng uống máu mình nhiều bấy nhiêu.

    Ngày cuối năm. Một đám trẻ trong làng, mang một con tầu giấy lớn, kéo nhau đến tận lều chúng tôi cất tiếng hát những khúc kalanda (*) bằng giọng chát chúa và vui vẻ của chúng:

    (*) Bài hát năm mới.

    Thánh Basil đã đến từ Caesarea, đô thị cố hương...

    Ngài đã đứng ở đây, trên bãi biển Crete nhỏ hẹp này bên biển xanh chàm. Ngài tỳ mình trên gậy và cây gậy của ngài bỗng phủ đầy hoa lá, và bài hát năm mới vang lên:

    Chúc dân Cơ Ðốc Giáo một năm hạnh phúc!

    Gia chủ, chúc nhà ngài đầy lúa gạo, dầu ô-liu và rượu vang

    Chúc vợ ngài chống đỡ mái nhà ngài như một cột trụ cẩm thạch;

    Chúc con gái lấy chồng sinh hạ chín trai một gái;

    Chúc những đứa cháu ngài giải phóng Constantinople, kinh đô của những vua ta!

    Zorba say sưa nghe. Hắn chụp lấy cái trống cơm của bọn trẻ và đánh như điên cuồng.

    Tôi ngắm nhìn và lẳng lặng nghe. Tôi cảm thấy một phiến lá nữa lìa khỏi tim tôi, một năm nữa qua. Tôi bước thêm một bước nữa về phía cái hố tối tăm.

    - Ông làm sao thế, ông chủ? Zorba hỏi trong lúc hát vang lên và đập trống cơm cùng lũ trẻ, ông già đi một tuổi. Tôi, trong những ngày như hôm nay, tôi lại trở thành một đứa trẻ con; tôi tái sinh, như Ðấng Christ. Không phải ngài sinh ra mỗi năm một lần sao? Tôi cũng vậy.

    Tôi nằm dài trên giường và nhắm mắt lại. Tâm hồn tôi tối nay man rợ, tôi không muốn nói.

    Tôi không thể ngủ. Tôi cảm thấy cần phải kiểm điểm lại những việc làm của tôi ngay đêm nay. Toàn thể đời tôi hiện ra, vụt nhanh, rời rạc và bất định như mộng huyễn. Tôi chiêm ngắm nó và thất vọng. Tựa một áng mây nõn bị tấn công tới tấp bởi gió đỉnh cao, đời tôi thường xuyên thay hình đổi dạng. Nó tan tác, kết tụ lại và hóa thân - thiên nga, chó, quỉ sứ, bọ cạp, khỉ - và mây không ngừng xơ xác tả tơi, gió cuốn bay cầu vồng pha sắc.

    Ngày rạng. Tôi không mở mắt. Tôi cố gắng tập trung vào ước vọng mãnh liệt đập vỡ cái vỏ của trí óc và đi sâu vào dòng khe mù mịt nguy hiểm nơi mỗi một giọt nhân loại rơi xuống bị cuộn đi ngay hòa trộn với đại dương. Tôi nóng nảy muốn xé rách tấm màn và xem năm mới sẽ mang lại điều gì cho tôi...

    - Chào ông chủ, chúc ông chủ một năm mới hạnh phúc!

    Tiếng nói của Zorba tàn bạo xô tôi xuống đất. Tôi mở mắt và đủ thì giờ nhìn thấy Zorba ném một trái thạch lựu lớn vào ngưỡng cửa. Hạt nó như những viên hồng ngọc trong suốt bắn vào đến tận giường tôi. Tôi lượm vài hạt ăn và cổ họng tôi mát lạnh.

    - Tôi hy vọng chúng ta kiếm được nhiều tiền và bị các cô mỹ miều cướp đi! Zorba vui vẻ kêu lên.

    Hắn rửa mặt cạo râu, mặc bộ quần áo đẹp nhất - quần dạ xanh, áo ngoài bằng vải len thô mầu nâu, trên đó khoác một tấm áo ấm da, dê cạo nửa lông. Hắn đội mũ trùm đầu Nga làm bằng da cừu con ở Astrakhan, vuốt ria lên và nói:

    - Ông chủ, tôi sắp làm một cuộc ra mắt ở nhà thờ như một đại diện của công ty. Không phải vì lợi ích của hầm mỏ mà họ coi chúng ta như những hội viên hội tam điển. Tôi không mất mát gì! Và tôi làm thế để tiêu khiển.



    Kỳ 47



    Hắn cúi xuống và nháy mắt.

    - Có thể tôi cũng sẽ thấy bà góa, hắn lẩm bẩm.

    Thượng Ðế, lợi ích của công ty và góa phụ hòa hợp với nhau trong tâm trí Zorba. Tôi nghe thấy bước chân nhẹ nhàng của hắn dời xa. Tôi đứng phắt lên. Sức quyến rũ đã mất linh nghiệm, tâm hồn tôi lại bị giam cầm trong ngục tù của xác thịt.

    Tôi mặc quần áo và đi xuống mé nước. Tôi đi thật nhanh. Tôi vui vẻ như thể thoát khỏi một nỗi nguy hiểm hay một tội lỗi. Ước vọng tọc mạch do thám và tìm hiểu tương lai trước khi nó sinh ra sáng nay đột nhiên hiện ra với tôi như một tội phạm thượng.

    Tôi nhớ một buổi mai khi tôi khám phá thấy một con kén trong lần vỏ một thân cây, ngay lúc con bướm đục rách màng bọc và sửa soạn chui ra. Tôi đợi một lát nhưng nó chậm quá mà tôi thì hấp tấp vội vàng. Bực tức, tôi cúi xuống và thổi vào để sưởi ấm nó. Tôi cố sưởi ấm nó càng nhanh càng hay, và phép lạ bắt đầu hiện ra trước mắt tôi, theo một nhịp điệu nhanh hơn tự nhiên. Màng bọc mở, con bướm từ từ lết ra, và không bao giờ tôi quên được nỗi kinh sợ của tôi lúc ấy: đôi cánh của nó chưa mở và nhăn nheo; toàn thân run rẩy, nó cố gắng khép cánh lại. Cúi mình trên con bướm, tôi trợ giúp nó bằng hơi thở của tôi. Vô ích. Một sự nẩy nở kiên nhẫn là điều cần thiết và sự mở phơi đôi cánh phải là một quá trình tiệm tiến trong ánh mặt trời. Bây giờ thì đã quá muộn. Hơi thở của tôi đã thúc bách con bướm xuất hiện, nhăn nheo, trước hạn kỳ. Nó dãy giụa, tuyệt vọng, vài giây sau, chết trong lòng tay tôi.

    Cái thi thể nhỏ bé đó, tôi tin rằng đó là cái gánh nặng nhất trên lương tâm tôi. Bởi vì ngày nay tôi ý thức được rằng cưỡng bách những định luật vĩ đại của thiên nhiên là một trọng tội. Chúng ta không được vội vàng, chúng ta không được bất nhẫn, nhưng chúng ta phải tuân theo cái nhịp điệu vĩnh cửu một cách tin tưởng.

    Tôi ngồi trên một tảng đá lặng lẽ nghiền ngẫm tư tưởng đầu năm mới này. A! Ước gì con bướm nhỏ bé đó có thể bay lượn chập chờn trước mặt để chỉ đường cho tôi mãi mãi.



    11



    Tôi đứng lên sung sướng như thể nhận được quà tặng năm mới. Gió lạnh, trời trong vắt và biển sáng ngời.

    Tôi theo con đường về làng. Lễ mi-sa hẳn đã chấm dứt. Trong khi bước đi, tôi băn khoăn tự hỏi, với một cảm xúc phi lý, ai là kẻ thứ nhất - Hên hay sui? - tôi sẽ gặp đầu năm mới này. Ước gì là một đứa trẻ tay ôm đầy đồ chơi năm mới, tôi nghĩ, hay một cụ già tráng kiện với chiếc áo chemise trắng tay thêu, hài lòng và kiêu hãnh vì đã làm tròn bổn phận trên đời một cách can đảm. Tôi càng tiến lên, càng về gần đến làng bao nhiêu, tôi càng bối rối bấy nhiêu.

    Thốt nhiên đầu gối tôi muốn quỵ xuống: trên đường làng, dưới rặng ô-liu, đi với một bước đi nhún nhẩy, quần áo đỏ, tấm khăn choàng đen trên đầu, sương phụ hiện ra với dáng người duyên dáng, thanh thanh.

    Dáng đi uyển chuyển của nàng đúng là dáng đi của một con báo đen và trong không khí dường như phảng phất có mùi hắc của xạ hương. “Ước gì ta có thể trốn thoát!” tôi nghĩ. Tôi cảm thấy rằng khi con mãnh thú này nổi giận lên nó sẽ tàn bạo vô cùng và cách hay nhất là chạy trốn. Nhưng chạy trốn bằng cách nào? Góa phụ lại gần. Sỏi đá trên đường hình như nghiến lạo xạo như có một đoàn quân đi qua. Nàng trông thấy tôi, nghiêng đầu, tấm khăn choàng đầu của nàng tuột xuống và tóc nàng phô ra, đen mướt như mun. Nàng đưa mắt say đắm não nùng nhìn tôi và mỉm cười. Cặp mắt nàng có vẻ dịu dàng man rợ. Vội vàng nàng sửa lại khăn, như thể xấu hổ vì đã để cho người thấy sự bí ẩn sâu thẳm nhất của người đàn bà: tóc nàng.

    Tôi muốn nói, chúc nàng năm mới, nhưng cổ họng tôi tắc nghẹn, như ngày hầm mỏ bị sụp và đời tôi bị nguy khốn. Lau lách quanh vườn nàng rung động, mặt trời mùa Ðông rơi trên những trái chanh ửng vàng và những trái cam lá xanh thẫm. Cả khu vườn rực rỡ như thiên đàng.

    Góa phụ dừng lại, vươn cánh tay ra, xô cổng. Ðúng lúc đó, tôi đi qua nàng. Nàng quay lại, cau mày nhìn tôi thật nhanh.

    Nàng để ngỏ cổng và tôi thấy nàng khuất sau rặng cam, đong đưa hông háng khi bước đi.

    Vượt qua cánh cổng đó, cài then cửa, chạy theo nàng, ôm lấy eo nàng, lẳng lặng không nói một lời kéo nàng tới cái giường góa phụ rộng thênh thang của nàng, như thế gọi là hành động như một người đàn ông! Ông nội tôi chắc đã làm vậy, và tôi cũng mong cháu tôi sẽ làm như vậy. Nhưng tôi đứng ngây ra đó, cân nhắc và suy nghĩ...

    “Trong cuộc đời khác, tôi vừa lẩm bẩm vừa mỉm cười cay đắng, trong một cuộc đời khác ta sẽ khu xử khá hơn!”

    Kỳ 48



    Tôi đi sâu vào trong khe núi nhiều cây cối, cảm thấy tâm hồn nặng trĩu như đã phạm phải một tội lỗi tầy đình. Tôi lang thang đây đó, trời lạnh, tôi run lên. Tôi tha hồ gạt ra khỏi tư tưởng sự đong đưa, nụ cười, bộ ngực của góa phụ, những hình ảnh ấy vẫn không ngừng trở lại và tôi ngộp thở.

    Cây cối đã trút hết lá, nhưng những lộc non đã nhú, căng phồng, đầy nhựa. Trong mỗi lộc non, người ta đã cảm thấy sự hiện diện của những mầm mới, của hoa trái tương lai, nằm chờ đợi và sẵn sàng vươn ra ngoài ánh sáng. Dưới những lớp vỏ cây khô, cái phép lạ vĩ đại của mùa Xuân đang âm thầm sửa soạn đêm ngày giữa mùa Ðông giá.

    Hốt nhiên tôi thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Trước mặt tôi, trong một lũng khuất, một cây hạnh đào táo bạo đã trổ hoa giữa mùa Ðông mở đường cho ngàn cây và báo hiệu mùa Xuân tới.

    Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Tôi hít một hơi dài hương thơm hơi cay cay của nó. Tôi bỏ đường lớn và đến ngồi thu mình dưới những cành đơm hoa.

    Tôi ngồi đó một lúc lâu, không suy nghĩ gì hết, vô tư lự và sung sướng. Tôi ngồi trong vĩnh cửu, dưới một gốc cây của Thiên Ðàng.

    Thình lình một tiếng nói lớn thô lỗ xô tôi xuống đất.

    - Ông làm gì trong cái hang đó, ông chủ? Tôi tìm ông mãi. Gần đến trưa rồi đó, chúng ta đi thôi.

    - Ði đâu?

    - Ði đâu? Ông hỏi tôi đi đâu ư? Tới nhà mụ Lợn Sữa, dĩ nhiên! Ông không đói sao? Con lợn sữa đã ra khỏi lò! Thơm quá sức... làm người ta chẩy cả nước miếng. Thôi đi!

    Tôi đứng dậy, vuốt ve thân cây hạnh rắn chắc đầy bí ẩn đã tạo ra phép lạ trổ bông này. Zorba đi trước, nhẹ nhàng, khoái hoạt và đói meo. Những nhu cầu căn bản của con người - đồ ăn, thức uống, đàn bà, sự nhảy múa - không bao giờ cạn và cùn nhụt trong thân thể mạnh mẽ và khát khao của hắn.

    Tay hắn cầm một cái gói bọc giấy hồng, buộc bằng một sợi dây vàng.

    - Quà tặng năm mới? Tôi vừa hỏi vừa mỉm cười.

    Zorba cất tiếng cười, cố gắng che giấu cảm xúc.

    - Vâng, chiều mụ một chút, mụ đáng thương đó! Hắn nói không quay lại. Nó sẽ làm mụ nhớ tới dĩ vãng vàng son... Mụ là một người đàn bà, chúng ta chẳng thường nói thế là gì? - một sinh vật luôn luôn than thân trách phận.

    - Một tấm ảnh?

    - Rồi ông sẽ thấy... rồi ông sẽ thấy, đừng hấp tấp quá. Tự tôi làm lấy. Chúng ta đi nhanh lên nào!

    Mặt trời bữa trưa làm người ta vui vẻ đến tận xương tủy. Biển cũng sung sướng sưởi ấm trong ánh mặt trời. Xa xa, một hòn đảo nhỏ hoang liêu, bị bao trùm trong một làn sương mỏng, trông như được nhấc lên khỏi mặt biển và đang trôi nổi.

    Chúng tôi về gần đến làng, Zorba lại gần tôi, hạ thấp giọng nói:

    - Ông biết không, ông chủ, đương sự đang ở nhà thờ. Tôi đứng đằng trước, gần ban hát, thình lình tôi thấy thánh tượng sáng rực. Ðức Chúa, Ðức Mẹ Ðồng Trinh, mười hai thánh tông đồ, tất cả chói sáng... “Cái gì đây? Tôi vừa tự hỏi vừa làm dấu thánh giá. Mặt trời chắc?” Tôi quay lại thì ra bà góa!

    - Ðủ rồi Zorba, thế đủ rồi! Tôi vừa nói vừa rảo bước.

    Nhưng Zorba chạy theo tôi:

    - Tôi đã thấy mụ gần, ông chủ. Mụ có một nốt ruồi trên má đủ khiến ông điên đầu. Thêm một điều bí ẩn nữa: những nốt ruồi trên má những người đàn bà!

    Hắn mở to mắt, có vẻ kinh ngạc.

    - Ông có để ý điều đó không, ông chủ? Da rất mịn màng tự nhiên có một chấm đen. Thế đủ làm ông điên đầu rồi! Ông có hiểu gì không, ông chủ? Sách vở của ông nói sao về điều đó?

    - Ma quỉ bắt chúng, sách với vở!

    Zorba cất tiếng cười, hài lòng.

    - Có thế chứ, hắn kêu lên. Có thế chứ, ông bắt đầu hiểu biết rồi đó.

    Chúng tôi đi quanh qua quán café, không dừng lại.

    Mụ già tử tế của chúng tôi đã làm cho chúng tôi một con lợn sữa và đang đứng chờ chúng tôi trên ngưỡng cửa.

    Mụ lại quấn giải băng mầu hoàng yến quanh cổ, và trát bự phấn, môi bôi một lớp son đỏ chót như vậy mụ đủ khiến người ta mất vía. Vừa thấy chúng tôi, tất cả xác thịt mụ dường như run lên vì cảm xúc, cặp mắt nhỏ bé của mụ đảo lên một cách ranh mãnh và chăm chú nhìn vào bộ ria uốn cong của Zorba.

    Cánh cửa trông phố ra vừa khép, Zorba ôm lấy eo mụ.

    - Năm mới hạnh phúc! Bouboulina của tôi, lão nói. Nhìn xem tôi mang cho em cái gì đây! Và hắn hôn lên gáy mập ú và đầy vết nhăn của mụ.

    Kỳ 49



    Mụ ngư nữ già bị nhột một lát nhưng mụ không lạc hướng mục tiêu. Mắt mụ dán chặt vào món quà. Mụ nắm lấy, cởi dây buộc, nhìn và thốt lên một tiếng kêu vui vẻ.

    Tôi cúi xuống nhìn: trên một tấm bìa dầy, lão Zorba quỉ quái đã vẽ bốn chiến hạm vĩ đại, treo đầy cờ trên một mặt biển xanh chàm bằng bốn mầu: đỏ hung, vàng, xám và đen. Ðằng trước những chiến hạm, trôi nổi trên sóng, hoàn toàn khỏa thân, trắng toát, tóc chẩy dài, ngực ngửa lên trời, với một cái đuôi cá xoắn ốc và một giải băng vàng quanh cổ là một ngư nữ, mụ Hortense! Mụ cầm bốn sợi dây kéo bốn chiến hạm phất phới cờ Anh, Nga, Pháp và Ý. Trong mỗi một góc tranh treo một bộ râu, một đỏ hung, một vàng, một xám và một đen.

    Mụ ca kỹ già hiểu ngay lập tức.

    - Tôi đây! Mụ vừa nói vừa chỉ ngư nữ một cách kiêu hãnh.

    Mụ thở dài:

    - A! Ngày xưa ta cũng là một Ðại Cường Quốc!

    Mụ gỡ tấm gương tròn nhỏ treo trên đầu giường gần lồng con két, và treo tác phẩm của Zorba lên. Dưới lớp phấn dầy, cặp má mụ hẳn phải tái đi.

    Trong lúc đó Zorba đã lẻn xuống bếp. Hắn đói. Hắn bưng lên cái đĩa có con lợn sữa, đặt một chai rượu trước mặt và rót ba ly rượu.

    - Ăn đi thôi! Hắn vừa ăn vỗ tay vừa. Chúng ta hãy bắt đầu với cái nền tảng - cái bụng. Sau đó, cưng ơi! Chúng ta sẽ săn sóc tới gì ở phía dưới!

    Nhưng không khí bị nhiễu loạn bởi những tiếng thở dài của mụ ngư nữ già. Mỗi đầu năm mới, mụ cũng có ngày phán xét cuối cùng nhỏ bé của mụ. Mụ nhìn lại quá khứ, cân nhắc đời mụ và thấy nó phí phạm. Trong cái đầu lưa thưa tóc này, những đô thị lớn, những người đàn ông, quần áo lụa là, những chai rượu champagne, những chòm râu thơm ngát, trong những ngày trọng đại, bước ra khỏi những nấm mồ dĩ vãng của mụ và kêu gào.

    - Tôi không đói chút nào, mụ bẽn lẽn thì thầm. Tôi không đói chút nào... không đói chút nào...

    Mụ quì trước lò than hồng, cời than, cặp má xệ của mụ phản chiếu ánh lửa. Một lọn tóc mụ xõa xuống trán, lướt qua ngọn lửa. Mùi tóc cháy lợm giọng tràn ngập gian phòng.

    - Tôi không muốn ăn... mụ lại lẩm bẩm, khi thấy rằng chúng tôi chẳng để ý gì đến mụ cả.

    Zorba bứt rứt nắm chặt tay. Tâm trí hắn bối rối trong chốc lát. Hắn có thể để mụ muốn càu nhàu trong miệng thế nào cũng được trong lúc chúng tôi lăn xả vào con lợn quay. Tôi nhìn khuôn mặt rám nắng và thấy những làn sóng trái ngược thoảng qua trên nét mặt linh động của hắn.

    Ðột nhiên, nét mặt hắn cố định. Hắn đã quyết định. Hắn quì xuống đặt hai tay lên đầu gối ngư nữ và nói bằng một giọng bi thiết lắm:

    - Nếu em không ăn, mỹ nhân ơi, thì đã đến ngày tận thế rồi. Hãy tội nghiệp con lợn con đáng thương, cưng ơi, và ăn cái chân nhỏ xíu này!

    Và hắn ấn vào miệng mụ cái chân lợn giòn và phủ đầy bơ.

    Hắn ôm mụ trong tay, đỡ mụ đứng lên, và nhẹ nhàng đặt mụ xuống ghế giữa chúng tôi.

    - Ăn đi, ăn đi cưng, để thánh Basil vào làng chúng ta! Nếu không em biết đó, ngài sẽ không vào đâu! Ngài sẽ trở về quê ngài ở Caesarea. Ngài sẽ lấy lại giấy mực, bánh trái này, quà tặng này, đồ chơi trẻ em này, mang cả con lợn sữa này nữa và đem đi hết! Bởi thế, há cái miệng xinh xinh của em ra, Bouboulina của tôi, và ăn đi nào!

    Hắn thò hai ngón tay ra và cù nách mụ. Mụ ngư nữ già cười hinh hích vì sung sướng, lau cặp mắt đỏ hoe và trệu trạo nhai cái giò heo giòn tan...

    Ngay lúc đó, hai con mèo động tình bắt đầu gào thét trên mái nhà trên đầu chúng tôi. Chúng gào thét bằng một giọng oán hận khôn tả, giọng của chúng lên, xuống đầy dọa nạt. Thốt nhiên nghe thấy chúng lăn xả vào cào xé nhau...

    - Meo, meo... Zorba vừa kêu vừa nháy mụ ngư nữ già.

    Mụ mỉm cười và siết tay hắn dưới gầm bàn. Cổ họng mụ mở ra và mụ bắt đầu vui vẻ ăn.

    Mặt trời lặn, tia sáng lọt vào qua khuôn cửa sổ nhỏ và đậu trên chân mụ già. Chai rượu đã cạn. Xoắn ria lên như ria con mèo hoang, Zorba ghé lại gần “giống cái” của hắn. Mụ Hortense co quắp, rụt đầu rụt cổ lại, rùng mình khi thấy hơi thở nồng mùi rượu phả trên thân mình.

    - Lại một điều bí ẩn gì nữa đây, ông chủ? Zorba vừa nói vừa quay lại. Tất cả đều đi ngược lại với tôi. Khi còn là một đứa con nít, trông tôi giống như một ông cụ non. Tôi đần độn, ít nói nhưng có giọng của một người lớn. Họ bảo tôi giống ông nội tôi! Nhưng càng già cả bao nhiêu, tôi càng dại dột bấy nhiêu. Hai mươi tuổi tôi bắt đầu làm những việc điên rồ. Ô, không có gì đặc biệt lắm, những việc mà tất cả mọi người đều làm vào tuổi ấy. Bốn mươi tuổi, tôi bắt đầu cảm thấy thực sự trẻ trung và lao vào những việc điên rồ nhất. Và bây giờ, hơn sáu mươi tuổi đầu - sáu mươi lăm, ông chủ, nhưng ông đừng nói hở ra cho người ngoài nghe nhé - vâng, hơn sáu mươi tuổi đầu rồi, nói thực với ông, tôi coi trời bằng vung!



    Kỳ 50



    Hắn nâng ly lên và trịnh trọng quay về phía nương tử của hắn.

    - Chúc em mạnh khỏe, Bouboulina của tôi, hắn nghiêm trang nói. Tôi mong em năm nay mọc vài cái răng, và đôi mày thanh nhã, da dẻ tươi mát như một trái đào! Và em sẽ liệng đi mấy giải băng lôi thôi này đi! Tôi cũng chúc em có một cuộc cách mạng khác ở Crete và Tứ Cường lại trở lại với hạm đội của họ, Bouboulina yêu quí, và mỗi hạm đội có một thủy sư đô đốc râu quăn và thơm tho. Và em, ngư nữ của tôi, em lại trồi lên mặt sóng một lần nữa, hát điệu hát mê hồn của em. Và mong sao những hạm đội đó tan tành trên hai trái núi đá tròn trĩnh và hoang dã này!

    Nói đoạn, hắn đặt bàn tay hộ pháp lên bộ ngực chẩy xệ và mềm nhẽo của mệnh phụ phu nhân.

    Zorba lại sôi nổi trở lại, giọng nói của hắn trở nên ồ ồ vì dục vọng. Tôi cất tiếng cười. Một hôm, trong rạp chiếu bóng, tôi thấy một ông quan Thổ Nhĩ Kỳ đùa giỡn trong một quán rượu ở Paris. Ông ta đặt một cô bán hàng tóc vàng trên đùi. Khi ông ta say, búp tua len trên mũ fez từ từ nâng lên, bất động khi nó nằm ngang, và đột nhiên vọt thẳng lên.

    - Ông cười gì đó, ông chủ? Zorba hỏi.

    Nhưng mệnh phụ phu nhân hãy còn nghĩ đến điều Zorba nói hồi nãy.

    - Ồ, anh cho rằng có thể thế được không? Mụ hỏi. Tuổi trẻ qua đi... không bao giờ trở lại.

    Zorba xích lại gần hơn nữa, hai cái ghế kề nhau.

    - Nghe anh nói đây, cưng, hắn vừa nói vừa đồng thời cố cởi cái cúc thứ ba, cái cúc quyết định của tấm áo cánh của mụ Hortense. Nghe đây, để anh nói về món quà vĩ đại mà anh sắp cho em; có một bác sĩ mới - bác sĩ Voronoff - biết làm phép lạ, họ nói vậy. Ông ta cho em một phương thuốc, chẳng biết thuốc nước hay thuốc bột, khiến em sẽ trở lại tuổi đôi mươi, cùng lắm là hai mươi lăm. Em đừng khóc, em yêu, anh sẽ gửi sang Âu Châu mua cho em...

    Mụ ngư nữ già giật nẩy mình lên. Da đầu đỏ nhạt của mụ sáng bóng qua mớ tóc thưa. Mụ quàng hai cánh tay mập mạp quanh cổ Zorba.

    - Nếu là thuốc nước, cưng của em, mụ vừa nói vừa dụi vào Zorba như một con mèo cái, nếu lá thuốc nước, anh gửi mua cho em một bình. Nếu là thuốc bột...

    - Một bao lớn, Zorba miệng nói, tay cởi cái nút thứ ba.

    Những con mèo, im tiếng một lát, lại bắt đầu kêu gào. Một giọng than thở và van nài, một giọng tức giận và đe dọa.

    Mệnh phụ phu nhân của chúng ta ngáp và cặp mắt trở nên đờ đẫn.

    - Anh có nghe thấy mấy con vật dơ dáy đó không? Chúng biết mắc cỡ... mụ vừa thì thầm vừa ngồi lên đùi Zorba.

    Mụ ngồi tựa lưng vào người hắn và thở dài. Mụ hơi quá chén và mắt mụ mơ màng.

    - Em đang nghĩ gì đó, con miêu con của anh? Zorba hỏi, hai tay chụp lấy ngực mụ.

    - Alexandria... mụ ngư nữ phiêu bạt lẩm bẩm. Alexandria... Beirut... Constantinople... dân Thổ Nhĩ Kỳ, dân Ả Rập, kem nước đá pha rượu, dép mạ vàng, mũ fezz đỏ...

    Mụ lại thở dài.

    - Khi Ali Bey ở lại đêm với em - trời ơi ria, lông mày, cánh tay! - chàng gọi bọn đánh trống thổi sáo đến, ném tiền cho họ qua cửa sổ và họ chơi trong sân nhà em mải cho tới tảng sáng. Hàng xóm ghen ghét muốn chết: “Ali Bey đêm nay ở lại với bà...”

    “Sau đó, ở Constantinople, quan Thổ Suleiman không cho em ra ngoài ngày Thứ Sáu. Y sợ Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đi lễ đền thờ thấy em và bị lóa mắt bởi sắc đẹp của em, cướp em đi mất. Buổi sáng, khi y ra đi, y cắt ba tên mọi khổng lồ canh cửa không cho một người đàn ông nào lại gần em... A! Suleiman yêu quí của em!”

    Mụ lấy trong áo ngực ra một chiếc khăn tay lớn kẻ ô vuông và ngậm nó, thở phì phì như con rùa nước.

    Zorba gỡ mụ ra bằng cách đặt mụ lên cái ghế bên cạnh và tức tối đứng dậy. Hắn đi đi lại lại trong phòng hai ba lần và hắn cũng thở phì phò; căn phòng đột nhiên trở nên quá chật chội đối với hắn. Hắn lượm cây gậy, lao ra ngoài sân, bắc thang dựa vào tường và tôi thấy hắn leo lên thang, hai bậc một như điên cuồng.

    - Bác định đập ai đó, Zorba? Tôi la, quan Thổ Nhĩ Kỳ Suleiman hả?

    - Mấy con mèo trời đánh, hắn gào lên, chúng không chịu để tôi yên một lát!

    Và phóc một cái, hắn nhảy lên mái nhà.

    Mụ Hortense say bí tỉ, đầu tóc rũ rượi, bây giờ đã nhắm nghiền cặp mắt được hôn biết bao lần lại, và một tiếng ngáy đứt đoạn phát ra từ cái miệng móm của mụ. Giấc ngủ đã nâng mụ lên và đưa mụ tới những kinh thành Ðông Phương -trong những khu vườn rào kín, những khuê phòng thâm u của những quan Thổ Nhĩ Kỳ đa tình. Giấc ngủ để mụ đi qua tường và mang lại cho mụ những giấc mộng. Nó đưa mụ vượt biển và mụ thấy mình đang câu. Mụ quăng xuống bốn dây câu và bắt được bốn chiếc thiết giáp hạm vĩ đại.

    Ngáy và thở ầm ầm, mụ ngư nữ già mỉm cười sung sướng trong giấc ngủ, và có vẻ tươi mát vì tắm trong biển.

Trang 1/2 12 cuốicuối

Similar Threads

  1. Cười chút chơi !
    By DnThuy in forum Vui cười
    Trả lời: 315
    Bài mới nhất : 10-18-2014, 09:22 PM
  2. Tôi đưa em đi chơi.......
    By KiwiTeTua in forum Vui cười
    Trả lời: 3
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 11:03 PM
  3. Dân Chơi Ả Rập (Saudi Arabia)
    By hieunguyen11 in forum Hình Trong Tuần
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 06:59 PM
  4. Chơi đòn Cẩu Xực Xí Quách ở World Cup 2014
    By hieunguyen11 in forum Linh Tinh
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-27-2014, 04:16 AM
  5. Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi
    By loibangTQLC in forum Tham Luận
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-06-2011, 06:17 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •