Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến
Chương 1
Lời Toà Soạn - Trong hơn 80 năm đấu tranh Quốc Gia - Cộng Sản, người ta đều nhận thấy 2 chiến trận mang tính cách chiến lược là trận Điện Biên Phủ năm 1954 đưa tới Hiệp Định Genève và trận An Lộc năm 1972 đưa tới Hiệp Định Paris. Những tài liệu lưu lại các thư viện, đã cho thấy chiến trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến kinh khủng hơn trận chiến Điện Biên Phủ 55 ngày đêm kịch chiến.
Trận Điện Biên Phủ, Đảng CSVN thực sự được sự tham chiến của Hồng Quân Trung Quốc và vũ khí vô giới hạn của Liên Xô & Trung Cộng. Trong khi đó, trận An Lộc do chính quân dân VNCH với vũ khí hạn chế, đã anh dũng tử chiến cùng Bắc Quân đông đảo hơn 4 lần với đầy đủ xe tăng đại pháo. Cuối cùng Đảng CSVN đã thảm bại nhục nhã trong âm mưu chiếm thị trấn An Lộc để ra mắt Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam VN của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, công cụ tuyên truyền của Đảng ta. Nếu đóng góp ý kiến, quý vị vui lòng gởi về địa chỉ email: tuongvang@gmail.com.
Bây giờ chúng tôi xin gởi đến quý vị một phần của bộ sử liệu “Chiến Thắng An Lộc 1972” dưới đây. Kính mời qúy vị theo dõi:
Lời Nhà Xuất Bản An-Lộc Foundation
Trong cuộc đấu tranh Quốc-Cộng trải dài nhiều thập niên, Đảng CSVN đã rất hãnh diện về trận chiến Điện Biên Phủ năm 1954, nhưng họ quá nhục nhã khi thảm bại trận chiến An Lộc năm 1972. Có thể nóí trận An Lộc 93 ngày đêm kinh khủng hơn trận Điện Biên Phủ 55 ngày kịch chiến.
Kể từ ngày Hồ Chí Minh và đồng bọn mang chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam khoảng 80 năm qua, đất nước Việt Nam đã chịu đựng biết bao tang thương đổ nát, kể cả nền văn hóa dân tộc và đạo đức xuống dốc thê thảm.
Trong hơn 20 năm (1954-1975) chiến tranh giữa Miền Bắc và Miền Nam VN, Bắc Quân đã không thể thắng được QLVNCH trong rất nhiều trận đánh, kể cả Tết Mậu Thân 68 và Mùa Hè Đỏ Lửa 72. Tuy nhiên, trận chiến lớn nhất trong dòng lịch sử đấu tranh Quốc-Cộng vẫn là trận An Lộc. Đây là sự thất bại nhục nhã muôn đời của Đảng CSVN (với sự hỗ trợ tối đa của Trung Cộng & Liên Sô) trước sức chiến đấu dũng mãnh của Quân Dân Miền Nam. So sánh như vậy, để mọi người thấy rằng: Đảng CSVN không thể thắng được VNCH từ ngày 30 tháng tư 1975, nếu không được một số thế lực ngoại bang sắp xếp trên bàn cờ Quốc Tế. Những tài liệu giải mật của các thế lực liên hệ trong 37 năm qua, đã hiện rõ nghịch cảnh này.
Tuy vậy, các loa tuyên truyền của Đảng CSVN vẫn ra rả tự nhận là Đảng Ta đã có công đánh thắng Tây và ‘Mỹ-Ngụy’. Nhưng sự thật lịch sử hoàn toàn không phải như thế. Trận chiến Điện Biên Phủ, Đảng CSVN với sự tham chiến của Hồng Quân Trung Cộng và võ khí dư thừa của Nga-Tàu đã thắng được Quân Đội Pháp năm 1954 sau 55 ngày kịch chiến. Vậy mà Đảng Ta cực kỳ hãnh diện, tự ca ngợi trên sách báo và chuyển tài liệu ra nhiều loại ngoại ngữ (Anh, Pháp, Hoa v.v...).
Trong khi đó, trận chiến An Lộc 93 ngày đêm khủng khiếp, được coi là lớn nhất trong lịch sử đấu tranh Quốc-Cộng, thì 40 năm sau ngày Quân Lực VNCH chiến thắng (7/7/1972) vẫn chưa được ghi nhận đúng mức. Chúng tôi nghĩ rằng ấn bản Anh Ngữ & Pháp Ngữ rất cần được phổ biến vớí dòng Lịch Sử Thế Giới. Đó sẽ là một thông điệp mạnh mẽ cho Thế Giới biết rằng: Quân Dân VNCH thực sự anh dũng, và ghi vết đen nhục nhã trên mặt Đảng CSVN từng thảm bại tại chiến trường An Lộc năm 1972, để họ bớt huênh hoang là Đảng Ta thắng Tây & Mỹ.
Kính thưa Quý Vị,
An-Lộc Foundation năm nay thành hình, là quyết tâm cùng Quân Dân VNCH chuyển dịch tập sử liệu ‘Chiến Thắng An Lộc 1972’, để xuất bản thành sách bìa cứng, rồi gởi biếu các quốc gia Thành Viên Liên Hiệp Quốc, các Sử Gia, các Thư Viện lớn, c ác c ơ quan truyền thông quốc tế & Việt Ngữ, một số nhân vật liên hệ với cộng đồng Người Việt tại các quốc gia khắp thế giới v.v... Kinh phí hoàn thành dự án này khá lớn, chúng tôi kính mong sự ủng hộ tinh thần và tài chánh từ Quý Vị.
Quyển sách CD này, An Lộc Foundation xin được biếu quý vị và gia đình. Chúng tôi mong mỏi quý vị cổ động quý thân hữu khắp nơi tích cực ủng hộ dự án quan trọng nêu trên.
Nguyện cầu Thượng Đế và Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ chúng ta - cho Đất nước Việt Nam sớm thoát khỏi ách thống trị ác độc của Đảng CSVN, và toàn Dân Việt sớm được sống trong Tự Do Dân Chủ, Hạnh Phúc Ấm No. Trân trọng.
T.M. An-Lộc Foundation (July 8, 2012)
Cố Vấn: Cựu Đại Tá Phan Văn Huấn & cựu Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh
Chủ Tịch: Thi sĩ Quốc Nam
Phó Chủ Tịch: Cựu Thiếu Tá Ngô Xuân Vinh
Tổng Thư Ký: Bùi Quốc Hùng
Thủ Qũy: Nguyễn Ngọc Minh
__________________________________________________ ________
CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH MÙA HÈ ĐỎ LỬA
MÙA HÈ ĐỎ LỬA NĂM 1972, một mùa Hè, thời gian dài như thế kỷ đối với người dân Miền Nam Việt Nam, cũng như người Lính thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Mùa Hè Đỏ Lửa khởi đầu vào ngày 30 tháng 03 năm 1972, khi quân Cộng Sản Bắc Việt xua toàn bộ 14 Sư Đoàn quân chính quy và 25 Trung Đoàn địa phương diện địa, khoảng 230.000 quân Bộ Chiến, 1,200 chiến xa đủ loại, các Sư Đoàn đại pháo 130 ly, các giàn súng phóng hoả tiễn 107 và 122 ly, thêm loại súng phóng hoả tiễn cầm tay SA. 7 (do Nga Sô chế tạo) chia làm 3 mũi tấn công vào lãnh thổ nước Việt Nam Cộng Hoà, tại BA mặt trận: Quảng Trị (30 Tháng 03); Kontum (14 Tháng 04) và Bình Long An Lộc (04 Tháng 04 Năm 1972). (1)
Kết cuộc, tại mặt trận BÌNH LONG AN LỘC, cũng như tại hai mặt trận QUẢNG TRỊ và KONTUM, quân Cộng Sản Bắc Việt đã bị Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà anh dũng đánh lui toàn bộ. Địch quân đành phải chịu ngậm đắng nuốt cay rút lui. Riêng tại Mặt Trận An Lộc, địch để lại chiến trường hơn 2/3 nhân mạng thương vong, gần 80% chiến cụ nặng như các chiến xa T.54, PT.76, các chiến xa cơ động phòng không, các giàn đại bác hạng nặng 130 ly, các giàn súng phóng hoả tiễn 107 và 122 ly bị huỷ diệt.
NGUỒN GỐC, ĐỊA LÝ, THỜI TIẾT TỈNH BÌNH LONG:
Tỉnh Bình Long cách Sài Gòn (Thủ Đô Nước Việt Nam Cộng Hoà) 98 cây số về phía Bắc. Tỉnh Bình Long trước đây là vùng rừng rậm, với nhiều cây rừng, như Thau Lau, Tre, cây Dầu, một số ít cây gỗ quý như cây Gõ, Cẩm Lai.
Vào thời kỳ Pháp thuộc, vùng đất này thuộc tỉnh Bình Dương. Người Pháp đưa công nhân (Dân Phu) từ miền Bắc và miền Trung vào Nam, khẩn hoang phá rừng, thành lập BA đồn điền trồng cây Cao Su tại các địa điểm: Lộc Ninh (sau này là Quận/Chi Khu Lộc Ninh), Hớn Quản (sau này là Quận Lỵ Châu Thành An Lộc của Tỉnh Bình Long), và Minh Thạnh (sau này là Quận/Chi Khu Chơn Thành).
Vào thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hoà, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956, thành lập Tỉnh Bình Long, gồm có 3 Quận: Lộc Ninh, An Lộc, Chơn Thành. Tỉnh Lỵ được đặt tại Quận Lỵ An Lộc (Quận Hớn Quản cũ của Tỉnh Bình Dương).
Ranh giới Tỉnh Bình Long: phía Bắc và Đông Bắc giáp với Quận Snoul, Tây Bắc giáp với vùng Lưỡi Câu thuộc Cambodia, phía Nam giáp Tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một cũ), phía Đông giáp với Tỉnh Phước Long, phía Tây giáp với Tỉnh Tây Ninh. Diện tích đo được 2334 cây số vuông. Dân số toàn Tỉnh khoảng 65.000, (2/3 là người Kinh = Việt, 1/3 là người Thượng). Vào năm 1972, dân quy tụ về xung quanh các khu vực tại các đổn điền có trồng cây cao su, nhiều nhất là xung quanh Thị Xã An Lộc.
Về địa thế Tỉnh Binh Long, ngoài những đồn điền trồng cây Cao Su, sâu ngút ngàn, xung quanh Thị Xã còn có vài ngọn đồi thoai thoải bao bọc như: Đồi 100 về Hướng Tây, Đồi Đồng Long về Hướng Bắc, Đồi Gió và Đồi 169 về phía Đông Nam. Cao điểm Phi Trường Quản Lợi về Hướng Đông. Đó là những cao thế địa hình có thể dùng làm các cứ điểm Quân Sự, rất thuận lợi cho việc phòng thủ và chế ngự Thị Xã An Lộc.
Quốc lộ 13 là trục giao thông huyết mạch (Độc Đạo), chạy dài từ Bắc xuống Nam, từ Quận Snoul (Cambodia), xuyên qua Quận Lộc Ninh (Việt Nam Cộng Hoà), Cầu Cần Lê, xuyên qua thị xã An Lộc đến Xa Cam, Tân Khai, Tàu Ô, Quận Chơn Thành, Tỉnh Bình Long, đến Lai Khê, xuyên qua Tỉnh Bình Dương, rồi đến Cầu Bình Lợi vào Thủ Đô Sài Gòn.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, Quốc Lộ 13 thường bị Việt cộng đấp mô, đặt mìn, phá cầu, đôi khi Cộng quân tổ chức các cuộc phục kích, thường gây gián đoạn lưu thông.
Thời tiết Tỉnh Bình Long có tính cách “Biệt Cực” - ngày thì quá nóng, đêm thì rất lạnh, trung bình mỗi năm có đến 8 tháng Mưa (từ trung tuần tháng 4 đến tháng 11) mưa thường xuyên, có khi mưa từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau mới dứt hột; những tháng còn lại, sương mù phủ giăng đến gần 9 giờ sáng, mùa Đông độ lạnh còn tăng thêm nhiều, lá rừng cây cao su rụng hết, còn lại trơ trọi cành và thân cây, rất dễ quan sát, khi nhìn từ trên xuống dưới, rồi lại còn bệnh sốt rét rừng đang hoành hành tại đây, thật là âm u, ảm đạm. Vì thế cho nên Bình Long được liệt kê là vùng nước độc so với các miền khác.
Tỉnh Bình Long là một tỉnh nhỏ, nhưng về mặt “Chiến Thuật và Chiến lược” lại giữ một vai trò rất quan trọng, là yết hầu của Thủ Đô Sài Gòn (với Sông Bé, là hành lang xâm nhập bằng đường Thuỷ của quân Cộng Sản Bắc Việt từ đất Cambodia vào Chiến Khu “D” trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà; Quốc Lộ 13 là đường tiến sát CHÍNH cho chiến xa và bộ binh địch từ biên giới Việt - Cambodia, tiến công, thọc thẳng vào Sài Gòn). Nếu để mất Tỉnh Bình Long, kế đến Tỉnh Bình Dương, Thủ Đô Sài Gòn ắt sẽ lâm nguy. (2)
HÌNH THÀNH “TRẬN THẾ” ĐÔI BÊN:
Tại lãnh thổ Quân Đoàn 3/Quân Khu III (Việt Nam Cộng Hoà), Cộng quân tung 4 Sư Đoàn hay là Công Trường (CT): CT.5, CT.7, CT.9 và CT Bình Long tân lập của CỤC “R” (Trung Ương Cục Miền Nam) từ vùng biên giới Cambodia ồ ạt tấn công vào vùng lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà. Tỉnh Bình Long (Thị Xã An Lộc) đang có khoảng 25,000 cư dân. Mục đích của địch quân là tạo áp lực quân sự trước cửa ngõ Thủ Đô nước Việt Nam Cộng Hoà, với dụng ý ra mắt Chính Phủ của cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” - là công cụ bù nhìn do Cộng Sản Bắc Việt tạo ra - đồng thời để hổ trợ cho Hoà Đàm “Ba Lê” đang hồi kết thúc!!!
Từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 04 năm 1972, địch mở màn bằng các trận đánh dương Đông kích Tây dọc trên Quốc Lộ 22, phía Bắc Tỉnh Tây Ninh. Địch tung vào trận chiến đơn vị C.30 B, gồm 2 Trung Đoàn (Trung Đoàn 24 Địa Phương và Trung Đoàn 271 tân lập), 2 Tiểu Đoàn Đặc Công, và một đơn vị Thiết Giáp (gồm 6 chiếc M.41 và M.113, chiến lợi phẩm chiếm được của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà), được tăng cường thêm 1 Tiểu Đoàn súng cối và phòng không 12 ly 7. Mục đích là để tạo thế NGHI BINH cầm chân Sư Đoàn 25 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang có trách nhiệm bảo vệ các Tỉnh/Tiểu Khu: Tây Ninh, Hậu Nghĩa và Long An. Thật sự Tây Ninh chỉ là DIỆN, BÌNH LONG (An Lộc) mới thực là ĐIỂM.
Mặt trận An Lộc được khởi diễn vào chiều ngày 04 tháng 04 năm 1972 khi CT. 5 xuất phát từ vùng phía Bắc Biên Giới Cambodia, xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, tấn công Quận Lỵ Lộc Ninh thuộc Tỉnh Bình Long (30 cây số Bắc An Lộc) rồi tiếp đến tấn công vào Tỉnh Lỵ Bình Long vào những ngày kế tiếp.
Trận chiến An Lộc năm 1972 đã được tượng hình từ năm 1971. Sau những cuộc Hành Quân có tên Toàn Thắng của Quân Khu III, do cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí phát động, dự định đổ quân lên Kratié (một Tỉnh cực Bắc, cạnh bên dòng sông Cửu Long của nước Cambodia), để tiêu diệt Cục “R“, bản doanh đầu não của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nơi đây cũng là căn cứ tiếp liệu quan trọng cho các Công Truờng quân chính quy Bắc Việt CT. 5, CT. 7, CT.9, đang hoạt động và trú ẩn trong các khu đồn điền cao su rộng lớn (Chup, Đam Be, Mi Mốt), nằm dọc theo Quốc Lộ số 7, trên lãnh thổ Cambodia.
Tướng Đỗ Cao Trí đã dồn ép và rượt đuổi Cục “R” đang đặt bản doanh tại Đồn Điền cao su Mi Mốt buộc phải rút chạy về Kratié.
Nhưng không may, Tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn đột ngột, vì chiếc máy bay của Ông bị nổ tung trên không, khi vừa mới cất cánh từ Bộ Chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn (Tỉnh Tây Ninh), bay ra thanh sát mặt trận tại chiến trường ngoại biên. Cái chết đầy bí ẩn này cho đến bây giờ cũng không ai biết đích xác do từ nguyên động lực nào đã gây ra tai nạn tử vong cho một “Danh Tướng” kỳ tài Đỗ Cao Trí.
Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, đang giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Tổng Trấn Sài Gòn Gia Định, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Vị Tư Lệnh tiền nhiệm tài ba, quyết tâm chống Cộng và đầy lòng yêu nước đó.
Trong cái thế “chẳng đặng đừng”, để bảo toàn lực lượng, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh buộc lòng có quyết định cho lệnh rút quân ra khỏi vùng lãnh thổ Cambodia về nội địa Việt Nam Cộng Hoà.
Cuộc lui quân được Cộng quân biết trước do nguồn tin cao cấp mật báo (?), chúng cấp thời tổ chức một trận địa phục kích trong khu rừng đồn điền cao su Đam Be, và phía Nam Quận lỵ Snoul, dọc theo Quốc Lộ 13, trên lãnh thổ Cambodia, gây cho đoàn quân triệt thoái thiệt hại khá nặng.
Sau cùng, cuộc lui quân cũng được hoàn tất vào ngày 31 tháng 05 năm 1971.
Cho đến tháng 04 năm 1972, khi Cộng quân phát động cuộc tiến công xâm lấn vào lãnh thổ Quân Khu III, tại lãnh thổ Tỉnh Tây Ninh đã có Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân (là lực lượng trừ bị của Quân Khu 3 rút từ Cambodia về). Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân được trực thăng vận tăng cường cho chiến trường An Lộc vào những ngày đầu của trận chiến; đã có mặt tại phía Bắc Quận Lộc Ninh khi chiến trận bùng nổ; Chiến Đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang trấn giữ tại căn cứ hoả lực Cầu Cần Lê (15 cây số phía Bắc An Lộc); Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, sau trận Snoul, chỉnh trang lại hàng ngũ, bổ sung quân số đầy đủ, được tăng cường cho mặt trân An Lộc, có mang theo trên 2000 súng phóng hoả tiễn cầm tay M.72 (do Hoa Kỳ chế tạo), đơn vị nầy là nguyên động lực chính xoay chuyển “thế trận”…
Trận Chiến An Lộc được khởi diễn ngày 04 tháng 04 năm 1972, và được xem như kết thúc vào ngày 07 tháng 07 năm 1972. Được đánh dấu là:
Ngày toàn thắng của Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà tại Tỉnh Bình Long An Lộc sau 93 ngày đêm chiến đấu không ngừng nghỉ.
Ngày mà cả 4 Công Trường quân Cộng Sản Bắc Việt bị Quân Dân Cán Chính Tỉnh Bình Long đánh tan nát; gây kiệt quệ cả về tinh thần lẫn khả năng tác chiến và buộc phải tức tưởi âm thầm rút lui ra khỏi trận chiến, với sự thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như chiến cụ và quân dụng,
Ngày mà toàn thể Quân Dân Cán Chính Tỉnh Bình Long đón chào vị nguyên thủ Quốc Gia kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cùng phái đoàn cao cấp, đáp trực thăng xuống An Lộc, để ủy lạo và tưởng thuởng cho những chiến sĩ hữu công, an ủi và thăm hỏi dân chúng Tỉnh Bình Long, trong lúc vẫn còn đạn pháo kích của Cộng Quân rơi vào thành phố. Tổng Thống Thiệu và phái đoàn đã xót xa nhìn tận mắt một Thị Xã nhỏ bé, với diện tích khoảng 4 cây số vuông, bị đổ nát bởi trên 200.000 quả đạn pháo đủ loại, vẫn còn loang lổ trên mặt đất, xen lẫn mùi thuốc súng và mùi hôi thối của xác chết (Người và Vật) đâu đó xông lên.
Ngày mà tất cả Quý Vị có mặt trong phái đoàn tháp tùng với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, gồm nhiều Tướng Lãnh Việt, Pháp, vào ủy lạo Chiến Sĩ và Đồng Bào Tỉnh Bình Long, đã chứng kiến tận mắt chiến tích oai hùng này. Sự chiến đấu kiên trì của Quân Dân Cán Chính Tỉnh Bình Long đã giáng trả cho đoàn quân xâm lược Cộng Sản Bắc Việt một trận để đời. Kết quả của trận chiến An Lộc thật là “kỳ diệu“, đã làm đảo ngược những tiên đoán của các nhà Quân Sự và các giới quan sát Tây Phương đang có mặt tại Sài Gòn trong thời gian đó. Tướng Vanuxem của Pháp, người từng tham gia trong cuộc chiến Việt Nam, từng là Tư Lệnh Quân Khu Tả Ngạn Sông Hồng Bắc Việt trước năm 1954, đã ví trận chiến An Lộc như một Điện Biên Phủ thứ nhì, một trận chiến có tầm quyết định cho Hoà Đàm Ba Lê (1972), tương tự như Điện Biên Phủ đã quyết định cho Hoà Đàm Genève năm 1954. Lần này lịch sử đã không tái diễn như trận Điện Biên Phủ, Tướng Vanuxem phát biểu: “giới quan sát và dư luận Quốc Tế rất đỗi ngạc nhiên trước một kỳ công to tát của toàn Quân và toàn Dân Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc, là một chiến tích vĩ đại, điển hình, để nói lên tinh thần chiến đấu hào hùng, kiên cường bất khuất, bằng quyết tâm chống Cộng Sản, bảo vệ lý tưởng Tự Do Dân Chủ cho Miền Nam Việt Nam”. Trận chiến An Lộc, một trận chiến lẫy lừng về trình độ tác chiến phòng ngự, đã đi vào Quân Sử một cách vẻ vang.
Ngày mà vị lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà quỳ trước nghĩa trang của Biệt Cách Dù ngậm ngùi cầu nguyện trước Anh Linh của 68 Chiến Sĩ Biệt Cách Dù và hàng ngàn các chiến sĩ thuộc các Quân Binh Chủng khác đã bỏ mình vì Đại Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc,
Ngày mà hai câu thơ của Cô Giáo Pha được đi vào lịch sử của trận CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972:
AN LỘC ĐỊA SỬ GHI CHIẾN TÍCH
BIỆT CÁCH DÙ VỊ QUỐC VONG THÂN
_____________________________________________
(1) Tổng hợp tài liệu tham khảo của:
“Thiết Giáp! The Battle of An Lộc, April 1972”, Tác Giả: Trung Tá James H. Willbanks. (Tài liệu này đang được giảng dạy tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Hoa Kỳ Fort Leavenworth).
“The Easter Offensive of 1972”, Tác Giả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Do Trung Tâm Quân Sử thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ xuất bản năm 1980).
(2) Tổng hợp tài liệu của :
“Chiến Sử Trận Bình Long” (Do Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà/Phòng 5/Khối Quân Sử thực hiện), phát hành năm 1973.
Tác phẩm “Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Trận Chiến An Lộc (Mùa Hè 1972)”, Tác Giả Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, cựu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1972), nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (1975).
__________________________________________________ __________
CHƯƠNG 2
MẶT TRẬN LỘC NINH
1 . ĐIỂM LÀ AN LỘC, ĐƯỢC KHỞI ĐẦU BẰNG TRẬN TẤN CHIẾM LỘC NINH
Quân Cộng Sản Bắc Việt tấn chiếm Quận Lộc Ninh (30 cây số Bắc Tỉnh Bình Long), được khởi diễn vào lúc 17 giờ 45 ngày 04 tháng 04 năm 1972. Được xem như mở màn cho trận chiến An Lộc khi Đại Đội Trinh Sát của Chiến Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà chạm trán nặng và bất ngờ với Trung Đoàn E.6, thuộc Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt tại vùng hoạt động 4 cây số Tây Lộc Ninh. Cả Đại Đội Trinh Sát 9 bị địch tràn ngập và tiêu diệt trong khoảnh khắc, chỉ còn lại vài Chiến Sĩ trong đó có một hiệu thính viên mang máy còn sống sót, gọi báo cho Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 về tình hình chiến xa, bộ binh địch đang tràn ngập và cận chiến, đánh xáp lá cà với các Chiến sĩ Trinh Sát 9, chúng đang tiếp tục tiến về hướng Quận Lộc Ninh. Người Chiến Sĩ anh hùng hiệu thính viên của Đại Đội 9 Trinh Sát vẫn tiếp tục báo cáo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 sự di chuyển của địch cho mãi đến chiều ngày 06 tháng 04, tiếng nói của người chiến binh quả cảm này im bặt vào lúc 18 giờ 30 cùng ngày.
Tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 (-), mọi người đều biết tình hình chiến trận bắt đầu trở nên nghiêm trọng; Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 9, cùng toán cố vấn, và toàn thể các đơn vị, kể cả Chi Khu Lộc Ninh, đều được cảnh giác, và ban hành lệnh báo động ứng chiến (1).
Lúc 05 giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm1972 mở màn cho cuộc tấn công của Chiến Dịch mà Cộng Quân đặt tên là “Nguyễn Huệ” với khẩu hiệu: Khí thế như Mậu Thân, Ra quân như Nguyễn Huệ, Diệt gọn như Điện Biên (2).
Cộng quân bắt đầu pháo kích vào Quận Lỵ, dọn đường cho bộ binh và chiến xa đang trên đường ồ ạt tiến quân vào Lộc Ninh.
Đến 06 giờ sáng cùng ngày, từ phía Tây và Tây Bắc, Cộng quân tung vào chiến trường toàn bộ Công Trường 5, gồm có Trung Đoàn 275, Trung Đoàn 174, Trung Đoàn E.6, được tăng cường Trung Đoàn 95 C của Công Trường 9 và một Trung Đoàn Địa Phương, cộng thêm 1 Đại Đội Chiến Xa trực thuộc Trung Đoàn Chiến Xa Hỗn Hợp 203 (T.54 và PT.76, tổng cộng có 10 chiếc tham chiến), về phòng không và pháo binh, có Trung Đoàn phòng không cơ động 271, dưới sự yểm trợ của Trung Đoàn Pháo nặng 42 D (130 ly có tầm xa 30 cây số), và các giàn phóng hoả tiễn 107 và 122 ly. Tổng cộng quân số địch tham dự trận đánh khoảng 15,000 quân bộ chiến, chưa kể Thiết Giáp và Pháo Binh.
Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà gồm có các đơn vị: Chiến Đoàn 9 (-) thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy; Thiết Đoàn 1 (-) do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy (gồm 14 Chiến Xa M.41 và 26 Thiết vận Xa M.113) + Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân biên phòng, Tiểu Đoàn 2/9, Tiểu Đoàn 3/9 Bộ Binh, cùng với lực lượng diện địa của Chi Khu Lộc Ninh do Trung Tá Nguyễn Đức Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng chỉ huy và toàn khu vực, được khoảng 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh hỗn hợp 105 ly và 155 ly). Tổng cộng quân số khoảng 3,000 tay súng.
Khởi đầu trận đánh, Cộng quân pháo kích vào Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng đang trú đóng tại căn cứ Alpha “Hoa Lư” 9 cây số Bắc Lộc Ninh (nơi đây có một Pháo Đội Hỗn Hợp 105 và 155 ly), và Thiết Đoàn 1 (-), trú đóng tại ngã ba Lộc Tấn (3 cây số Nam căn cứ Hoa Lư) cùng với Tiểu Đoàn 2 thuộc Chiến Đoàn 9 Bộ Binh; nơi đây có 4 khẩu pháo 105 ly, do Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh tăng phái.
Cộng quân có kế họach là làm tê liệt pháo binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, không thể yểm trợ được cho quân bạn đang hoạt động trong vùng giáp giới Việt Nam - Cambodia, và vùng phụ cận. Kế tiếp, chúng pháo vào Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh Hỗn Hơp 105 và 155 ly (-), và Chi Khu Lộc Ninh (nơi có đặt 1 Trung Đội Pháo Bình Lãnh Thổ 105 ly), theo chiến thuật “Bịt Pháo Công Đồn”.
Nhận biết âm mưu của địch, Đại Tá Vĩnh khẩn mật điện cho Trung Tá Dương, cắt bớt 1 Chi Đoàn, điều động trở về tăng cường phòng thủ cho Bộ Chi Huy Chiến Đoàn và Quận Lỵ Lộc Ninh.
Chi Đoàn 3/1 hỗn hợp Thiết Kỵ (Chiến Xa M.41 và Thiết vận Xa M.113) do Trung Úy Lê Văn Hùm (Chi Đoàn Trưởng) cùng với 1 Đại Đội Bộ Binh của Tiểu Đoàn 2/9 tùng thiết được lệnh rời vị trí, xuất phát trong đêm từ vùng ngã ba Lộc Tấn. Đến khi chỉ còn cách Quận Ly Lộc Ninh khoảng 3 cây số về hướng Bắc, Chi Đoàn 3/1 bị lọt ngay vào ổ phục kích của quân địch, có chiến xa T.54 và PT.76 trợ chiến. Các chiến sĩ tùng thiết và Chi Đoàn 3/1 trộn trấu đánh vùi với địch quân, nhưng rồi cũng bị tràn ngập, và mất liên lạc với Thiết Đoàn 1 và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 sau khoảng 1 giờ giao tranh.
Trung Tá Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1, báo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, đã mất liên lạc với Chi Đoàn 3/1. Nhưng tại Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 9 đang trú đóng tại cứ điểm, có tên là “căn cứ Lộc Ninh”, tần số liên lạc bị gián đoạn, vì trong giờ phút đó, hầm truyền tin của Chiến Đoàn 9 bị trúng pháo của Cộng quân sập, gây cho một số chiến sĩ Truyền tin thương vong; mãi cho đến sáng hôm sau, Bộ Chỉ Huy của Đại Tá Vĩnh mới bắt liên lạc lại với các đơn vị cơ hữu. Ông chỉ thị cho Trung Tá Dương lập tức điều động hết các lực lượng "vòng ngoài" rời vị trí (vùng ngã ba Lộc Tấn), phải đợi khi Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng từ căn cứ hoả Lực “ Alpha”, (3 cây số Tây Bắc, ngã ba Lộc Tấn) về đến, rồi cùng nhau di chuyển về tăng cường phòng thủ các yếu điểm tại Quận Lỵ Lộc Ninh. Đồng thời Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng, do Thiếu Tá Nguyễn Văn Hùng chỉ huy, cấp tốc phá huỷ hết các khẩu pháo trong căn cứ hoả lực, rút về phía Nam, phối hợp với cánh quân Thiết Kỵ của Trung Tá Dương đang chờ tại ngã ba Lộc Tấn, cùng mở cuộc hành quân “triệt thoái” về Lộc Ninh.
Qua đến sáng ngày 06 tháng 04, Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng đến cứ điểm ngã ba Lộc Tấn hợp cùng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 2/9 (-), có kéo theo 4 khẩu Pháo 105 ly, mở cuộc hành quân triệt thoái, lấy Quốc Lộ 13 làm chuẩn trực chỉ rút về Lộc Ninh.
Dọc theo hai bên Quốc Lộ 13 xuôi về Nam, khi nhận diện được điểm phục kích của địch quân, đã đánh tan Chi Đoàn 3/1 Thiết kỵ vào đêm trước, thình lình chiếc chiến xa M. 41 dẫn đầu bị trúng 1 quả đạn 100 ly của chiến xa T.54 địch bốc cháy; đồng thời hàng loạt tiếng súng nổ vang rền khắp các cánh quân, hàng ngàn cán binh Cộng Sản xuất hiện, có cả Chiến Xa T.54 và PT.76 trợ chiến.
Cánh quân Bạn bên phải có Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân biên phòng khi vừa tới phía Đông chân đồi 177 (cách Lộc Ninh 3 cây số về hướng Tây Bắc) bị đánh bật trở lui và bị dồn ép ra Quôc Lộ 13, cánh quân di chuyển bên sườn Trái có Tiểu Đoàn 2/9 (-), cũng chạm địch rất nặng , còn Trung Quân do Trung Tá Dương chỉ huy tổng quát đi sau cùng, có 1 chi đội chiến xa và thiết vận xa để bảo vệ đoàn xe kéo 4 khẩu 105 ly cùng đạn dược, cũng bị địch quân tràn ngập.
Sau hơn 2 giờ chiến đấu một cách anh dũng, quyết liệt, trước hằng ngàn địch quân, đông hơn gấp nhiều lần, các con ngựa sắt M.41 và M.113 của Thiết Đoàn 1 Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 2/9 (-) đành phải thúc thủ tan hàng trước số đông quân địch áp đảo.
Trung Tá Dương và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 1, với 2 thiết vận xa, tung phá vòng vây, vượt được khỏi nơi phục kích khoảng 1 cây số, rồi cũng bị chận đánh phải bỏ xe mà chạy bộ (tần số liên lạc giữa Thiết Đoàn 1(-) và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 bị cắt đứt từ đó - khoảng 11giờ30 cùng ngày). Cuối cùng Trung Tá Dương cùng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 1 cũng bị Cộng quân chận bắt trên đường tháo chạy về Lộc Ninh. (3)
06giờ00 sáng ngày 06 tháng 04 năm 1972, Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào vùng Quận Lỵ Lộc Ninh và các cứ điểm quân sự; hơn 3,000 quả pháo đủ loại thi đua nhau nổ trên trận tuyến, bất kể là pháo trúng vào Quân hay Dân, rồi từng đợt biển người ồ ạt tấn công vào các điểm chánh: Căn cứ Lộc Ninh, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, vị trí của Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh, Bộ Chỉ huy Chi Khu Lộc Ninh:
A. Tại Bộ Chi Huy của Chiến Đoàn 9, lực lượng Bạn chỉ còn lại Tiểu Đoàn 3/9 với quân số chưa đầy 450 tay súng mà phải cáng đáng một chu vi phòng thủ quá rộng, kể cả đơn vị Pháo Binh, nên không còn quân trừ bị, dự phòng khi hữu sự để phản công, hay lấp vào những tuyến bị địch xuyên thủng; Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh chỉ còn có 4 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly là còn sử dụng đươc, đôi khi pháo binh phải hạ nòng, bắn trực xạ vào chiến xa và bộ binh địch đang áp dụng chiến thuật xung phong biển người, cận kề trên tuyến phòng thủ.
Các chiến sĩ Chiến Đoàn 9 và Pháo Binh đã đẩy lui nhiều đợt xung phong của địch, bắn cháy 2 T.54 và 1 PT.76. Trận chiến kéo dài đến chiều tối, quân bạn càng lúc càng ít đi, vì bị thương và tử vong trên chiến tuyến, còn địch thì càng lúc lại càng đông; cho đến khi phòng tuyến phía Bắc và phía Đông bị Cộng quân tràn ngập, Đại Tá Vĩnh cùng Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, một số anh em Pháo Binh và toán Cố Vấn Mỹ liền rút ra khỏi vị trí phòng thủ; các phi tuần phản lực Hoa Kỳ được gọi đến ném bom Napalm hủy diệt hầu hết lực lượng địch quân đang tràn vào căn cứ .
Cố vấn trưởng, Trung Tá Richard Schott, vì bị thương nặng, biết là không thể chạy được, đã tự sát, để cho những người Cố vấn khác không bận tâm về Ông mà thoát thân. (4)
Sau đó, đoàn quân còn lại, chưa đầy 100, lần mò trong đêm tối, vượt ngang qua sân bay rút về phía Nam, lại bị địch chận đánh, khiến mọi người bị tản mát thất lạc. Đại Tá Vĩnh cùng một số chiến binh, và vị Cố vấn Mỹ duy nhất còn lại là Đại Úy Mark A. Smith buộc phải buông súng đầu hàng. Riêng Đại Tá Vĩnh, một quân nhân già dặn, can đảm, bị bắt khi mình mẩy và bộ đồ trận trên thân người còn đẫm đầy máu, vì bị nhiều thương tích trong lúc chiến đấu. Tần số liên lạc của Chiến Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà im bặt vào lúc 10giờ30 tối đêm 06 tháng 04 năm 1972.
B. Tại Bộ Chỉ Huy Chi Khu Lộc Ninh: Sau khi mất liên lac truyền tin với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, và được biết toàn bộ lực lượng của Thiết Đoàn 1 ở phía Bắc bị đánh tan, và viện quân từ phía Nam cũng bị chận đánh phải tháo lui, không thể tiến lên tiếp viện được, Trung tá Nguyễn Xuân Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Lộc Ninh, họp Bộ Chỉ Huy Chi Khu và toán Cố vấn Mỹ quyết định phân tán rút lui, lợi dụng trời tối, cắt hàng rào phòng thủ rút về phía Nam, phân tán vượt thoát vòng vây.
Trung Tá Thịnh là con ngưòi có vóc dáng nhỏ, nhanh nhẹn, da ngăm đen, nhưng thật rắn rỏi và kiên cường; sau khi thoát khỏi vòng vây, len lỏi trong rừng sống như dân Thượng. Đôi lần gặp Cộng quân, Ông làm bộ trả lời nhiều câu hỏi bằng tiếng Việt không thông, nên bị chúng đuổi đi, vì ngỡ rằng người Thiểu Số. Bôn ba lặn lội đầy gian nan khổ cực, cuối cùng Ông cũng về được đến An Lộc 2 ngày sau đó. Trung Tá Thịnh được trực thăng bốc về Lai Khê, và sau khi nghỉ ngơi, hồi phục lại sức khỏe và tinh thần sung mãn, Trung Tá Thịnh được Trung Tường Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III, bổ nhiệm làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Chi Khu Hoài Đức (Võ Đắc), thuộc Tỉnh Bình Tuy vào trung tuần tháng 04 năm 1972. Còn cố vấn trưởng Chi Khu, Thiếu Tá Thomas A. Davidson, chỉ sau đó vài ngày, cũng lần mò về được đến vùng phía Đông An Lộc, được một đơn vị Biệt Động Quân tiếp cứu (ngày 10 tháng 04 năm 1972).
Mặt trận Lộc Ninh kể như chấm dứt, sau 48 giờ giao tranh ở cường độ ác liệt. Quân Cộng Sản Bắc Việt đã làm chủ tính hình chiến trận.
2. KẾT QUẢ TỔN THẤT ĐÔI BÊN:
ĐỊCH : 2150 thương vong
2 T54 + 1 PT76 bị bắn hạ
BẠN : 600 tử trận, khoảng 2400 bị thương và bị địch bắt làm tù binh.
Thiết Đoàn 1: 38 Chiến Xa M.41 và Thiết Vận Xa M.113 bị địch chiếm
đoạt hay bị bắn hạ ; 1 Pháo Đội Hỗn Hợp của căn cứ Alpha (4 khẩu 105 và
2 khẩu 155 ly) được phá huỷ; 1 Trung Đội pháo 105 (4 khẩu 105 ly) bị địch
chiếm; Tiểu Đoàn 53 (-) Pháo Binh Hỗn Hợp 105 và 155 ly, đa số trúng pháo
địch bị hư hại, số còn lại tự phá huỷ.
DÂN CHÚNG : Ước độ 200 chết và 500 bị thương, và một số thường dân bị cưỡng bắt làm dân công tải đạn, hay làm tài xế lái xe vận tải.
3. BÌNH LUẬN TRẬN CHIẾN LỘC NINH
A . Cộng quân đã thành công trong chiến thuật gọi là bỏ qua tuyến phòng thủ phía trước, (Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên phòng và Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh của Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà), và huy động nguyên Công Trường 5 cộng thêm 1 Đại Đội Chiến Xa (10 chiếc) thuộc Trung Đoàn Chiến Xa 203, chĩa mũi dùi chính vào 3 hướng Đông, Tây và Bắc, đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy đầu não của Chiến Đoàn 9 (-) và Chi Khu Lộc Ninh.
Với quan niệm tạo áp lực tấn công vào các vị trí đầu não (Bộ Chỉ Huy) thì lực lượng vòng ngoài sẽ phải co rúm lại, và rút về để tiếp ứng, và vì muốn tiếp ứng kịp thời, tất phải vội vã rút lui, nên địch chỉ cần tổ chức một tuyến phục kích với lực lượng gấp đôi cấp 2 Trung Đoàn (Trung Đoàn 95 “C” thuộc Công Trường 9 và Trung Đoàn Địa Phương) có chiến xa trợ chiến, là có thể tiêu diệt được đoàn quân bên ngoài rút về.
Khi cái VỎ bên ngoài bị đánh bể, RUỘT bên trong không còn ai tiếp ứng, cộng thêm phải đương đầu với một lượng địch nhiều lần đông hơn, khí thế mạnh hơn tất nhiên phải thất thủ hay phải đầu hàng. (Lộc Ninh thất thủ sớm hơn 5 ngày, chiếu theo ước tính của Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch MIỀN, cơ quan chỉ đạo trận chiến của quân Cộng Sản Bắc Việt).
B. Đây là trận đánh Cộng quân đã chuẩn bị đầy đủ, như xây con lộ ngầm dưới mặt nước của một con suối ăn thông ngang qua rừng, từ Lộc Ninh về biên giới Cambodia. Chính con lộ này Cộng quân dùng để di chuyển các chiến lợi phẩm và tù binh Việt Mỹ xuyên qua Miên.
Về phần tâm lý: Đã khiến cho phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà HAI cái bất ngờ:
1. Áp dụng chiến thuật tiền pháo (mưa pháo) hậu xung (biển nguời);
2. Lần đầu tiên sử dụng chiến xa tại chiến trường Miền Nam, nên binh sĩ, kể cả cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị giao động và mất tinh thần ngay từ giờ phút đầu, khi thấy Tăng T.54 của Cộng quân xuất hiện tại một nơi mà theo lý thuyết, các chiến xa này không thể đến được.
C. Tham khảo tài liệu của một nhân chứng sống, tựa đề “After Action Report“ của Đại Úy Mark A. Smith, Cố Vấn Mỹ, thuộc Chiến Đoàn 9 /Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, viết lại sau trận đánh: “Giữa vị Chiến Đoàn Trưởng (Đại Tá Vĩnh) và Cố vấn Trưởng (Trung Tá Richard Schott), có một sự bất đồng sâu đậm trong việc phối hợp điều quân cũng như yểm trợ để chống trả quân địch.
D. Về cái chết oanh liệt của Cố vấn trưởng Trung Tá Schott, đã phải tự sát (vì vết thương trên đầu của Ông quá nặng do bị trúng miểng pháo của Cộng quân); tài liệu này còn viết: Sau khi toán Cố vấn Mỹ còn lại rút ra khỏi vị trí, và trước khi gọi cho phi cơ thả bom Napalm thiêu huỷ căn cứ, Đại Úy Smith còn quay trở lại, định kéo xác của Trung Tá Schott ra khỏi hầm, nhưng khi vừa tới nơi, đã thấy 3 tên cán binh Cộng Sản đang quay quần bên xác người quá cố, đứa thì lột lon, đứa thì đang lấy dao “xẻo lỗ tai hay định cắt đầu?”, Đại Úy Smith liền nã đạn bắn chết “loài thú dã man đó”, sau cùng cũng lôi đươc xác Trung Tá Schott , ra khỏi hầm chỉ huy của căn cứ.
(Theo bài viết của cựu Trung Tá James Willbanks, tác giả quyển The Battle of An Lộc, xuất bản năm 2002: “Toán tìm những Quân Nhân Mỹ mất tích tại Việt Nam, Lào và Cambodia, đã tìm thấy hài cốt của Trung Tá Schott tại địa điểm kể trên (Căn Cứ Lộc Ninh). Bây giờ là một khu vườn trồng cây “hột điều” (5).
4. CÂU CHUYỆN SAU TRẬN LỘC NINH
Sau khi làm chủ tình hình Quận Lộc Ninh, Cộng quân liền trưng dụng tất cả các xe chở hàng và chở hành khách của dân, ép buộc những tài xế của những xe này phải tuân lệnh chúng, lái xe chuyên chở tù binh Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ từ Lộc Ninh đến đồn điền cao su Mi Mốt, trong nội địa Cambodia, và trong chuyến trở lại, chở các cán binh bổ sung cho các đơn vị tác chiến của Cộng quân.
Một trong những tài xế, cũng là chủ nhân của một xe hàng đang hành nghề chở mướn những bành mủ cao su cho các đồn điền Pháp từ Lộc Ninh về Sài Gòn, tên là Nguyễn Văn Nại (42 tuổi vào thời điểm năm 1972), là cậu ruột của chiến hữu Không Quân Trần Văn Long, đang hành nghề Địa ốc (Broker) tại Austin, Texas. Chiến Hữu Long kể: Khi Ông Cậu còn sống, ông ta đã thuật lại cho Chiến Hữu Long nghe về cuộc đào thoát khỏi bàn tay của Cộng Sản tại Lộc Ninh, đầy gian truân và nhiều nước mắt của gia đình Ông Cậu như sau:
Vào ngày 07 tháng 04, Ông Nại đậu xe trước cửa nhà, bị Cộng quân dộng cửa bắt phải lái chiếc xe “đi công tác”. Ông Nại từ chối, chúng dọa đem cả nhà gồm vợ và 3 con nhỏ tuổi từ 12 đến 2 ra bắn bỏ, buộc lòng Ông Nại phải lái xe cho Cộng quân. Lái từ buổi trưa ngày 07 tháng 04 đến Mi Mốt rồi trở về Lộc Ninh. Đến sáng ngày 08 tháng 04, Ông Nại cởi chiếc đồng hồ “mạ vàng” lo lót cho tên cán bộ đặc trách kiểm soát đoàn xe, xin được về thăm gia đình xem vợ con như thế nào. Ông hứa là khi xong Ông sẽ trở lại lái xe đi “công tác” tiếp tục, tên cán bộ nhìn thấy chiếc đồng hồ vàng liền ưng thuận ngay. Ông Nại cám ơn, rồi chạy bộ về nhà. Trong lúc đó, gia đình vợ và 3 con của Ông đang chuẩn bị rời bỏ nơi cư ngụ tại Lộc Ninh để về Bình Dương. Vợ Ông đã móc nối được với một người Thượng trước đây đã giúp cho Ông Nại trong việc chuyên chở mủ cao su về Sài Gòn; người Thượng này rất thông thuộc đường rừng từ Lộc Ninh về An Lộc, chịu hướng đẫn gia đình Ông Nại đào thoát trốn chạy.
Trời vừa tối, gia đình Ông Nại được người Thượng hướng dẫn rời Lộc Ninh, băng đường rừng về An Lộc. Dọc đường, khi băng xuyên qua con suối, phía trên có chiếc cầu bắc ngang, có nhiều cán binh Cộng sản di chuyển qua lại, bổng dưng đứa con 2 tuổi ré lên tiếng khóc. Sợ bị bại lộ, Ông Nại liền bịt miệng con, nhưng vẫn còn thốt ra tiếng, buộc lòng Ông phải bóp cổ đứa trẻ để không còn thoát ra được tiếng khóc, đồng thời thúc giục gia đình mau vượt qua khỏi con suối đó. Tay Ông bóp cổ đứa con, không biết năng nhẹ thế nào, mà sau đó vài phút, Ông thấy người con buông xuôi 2 tay, không còn thấy cử động được nữa. Ông nghĩ rằng cậu bé đã chết. Ông cũng không dám báo cho vợ biết sự tình. Ông cố cõng con, vượt qua chỗ nguy hiểm, rồi tất cả mọi người dừng lại để cấp cứu đứa bé, nhưng cũng vẫn không thấy đứa bé hồi sinh; tất cả mọi người đều uất nghẹn không dám bật ra tiếng khóc, chỉ cắn môi chịu đựng, với hai dòng lệ tuôn trào. Riêng Ông Nại cũng không muốn chôn xác con mình ở giữa chốn rừng xanh hoang vu; Ông cố cõng con, cùng mọi người tiếp tục vượt rừng hướng về An Lộc. Sau 1 đêm di chuyển, đến sáng hôm sau, gia đình Ông Nại dừng lại nghỉ chân. Khi đặt đứa bé nằm xuống mặt đất, thì thấy tay chân nó cử động, nhìn kỹ lại thì thấy cậu bé còn sống. Thật là tạ ơn Trời Phật!
Sau đó gia đình Ông đến được An Lộc, và cùng theo đoàn dân cư An Lộc di tản bộ về đến Tỉnh Bình Dương, tạm cư trú nơi nhà của người bà con. Sau đó 4 năm, Ông Nại qua đời, gia đình và đứa bé 2 tuổi (1972), đã có vợ con, và vừa từ trần (năm 2008) tại Tỉnh Bình Dương Việt Nam, hưởng dương 38 tuổi.
__________________________________________________ ______________
(1) After Action Report “ The Battle of Lộc Ninh “ 4-7 April 1972, Tác Giả Thiếu Tá Mark Smith, Trang 5/13.
(2) Chiến Sử Trận Bình Long, do Bộ Tổng Tham Mưu Phòng 5/Khối Quân Sử thực hiện, Trang 67.
(3) Lời tường thuật của nhân chứng sống Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1 và Trung Sĩ Lê Hoàng Long, thuộc Tíểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng.
(4) After Report “The Battle of Lộc Ninh” Tác Giả Thiếu Tá Mark Smith, Trang 11/13.
(5) The Battle of An Lộc, Tác Giả James Willbanks, Trang 177.
(còn tiếp Chương 3 & 4)