Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 10 trên 10

Tựa Đề: Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến - 1 & 2

  1. #7
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến - An Lộc Mùa Hè Đỏ Lửa

    Hình Ảnh An Lộc Mùa Hè Đỏ Lửa



    Mùa Hè Đỏ Lửa 13/4/1972 Tại An Lộc



    Nhảy Dù Vào Giải Tỏa An Lộc 1972


    LTS - Trong hơn 80 năm đấu tranh Quốc Gia - Cộng Sản, người ta đều nhận thấy 2 chiến trận mang tính cách chiến lược là trận Điện Biên Phủ năm 1954 đưa tới Hiệp Định Genève và trận An Lộc năm 1972 đưa tới Hiệp Định Paris. Những tài liệu lưu lại các thư viện, đã cho thấy chiến trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến kinh khủng hơn trận chiến Điện Biên Phủ 55 ngày đêm kịch chiến.

    Trận Điện Biên Phủ, Đảng CSVN thực sự được sự tham chiến của Hồng Quân Trung Quốc và vũ khí vô giới hạn của Liên Xô & Trung Cộng. Trong khi đó, trận An Lộc do chính quân dân VNCH với vũ khí hạn chế, đã anh dũng tử chiến cùng Bắc Quân đông đảo hơn 4 lần với đầy đủ xe tăng đại pháo. Cuối cùng Đảng CSVN đã thảm bại nhục nhã trong âm mưu chiếm thị trấn An Lộc để ra mắt Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam VN của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, công cụ tuyên truyền của Đảng ta. Nếu đóng góp ý kiến, quý vị vui lòng gởi về địa chỉ email: tuongvangvn@gmail.com.


    Bây giờ chúng tôi xin gởi đến quý vị một phần của bộ sử liệu “Chiến Thắng An Lộc 1972” dưới đây. Kính mời qúy vị theo dõi:

    An Lộc - Mùa Hè Đỏ Lửa
    Phan Nhật Nam

    Trước khi để lịch sử về cuộc chiến đấu chống Cộng Sản của Quân Dân Miền Nam có thể trôi vào quên lãng, chúng ta phải ghi lại đầy đủ tội ác của Cộng Sản, nhất là đối với Miền Nam Việt Nam. Một trong những tội ác đó là Cộng Sản Bắc Việt đã dùng ít nhất 4 sư đoàn (công trường) để cố tàn sát một tỉnh lỵ bé nhỏ ở Bình Long Miền Nam Việt Nam vào năm 1972, nhưng Cộng Sản Bắc Việt đã thất bại. Sự thất bại này đã làm giảm uy tín của Võ Nguyên Giáp, “người anh hùng Ðiện Biên”, nổi tiếng trong giới quân sự Tây Phương là có tài nướng quân. Hậu quả của trận tấn công An Lộc là Cộng Sản Bắc Việt đã để lại cho vùng đất bé nhỏ này một cảnh điêu tàn, chết chóc thật là khủng khiếp, không thể nào mô tả nổi.

    Vào ngày 07/07/1972, Tướng Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc, đã viết :”An Lộc đã đứng vững suốt 3 tháng cam go nhờ vào tinh thần chiến đấu kiên cường của toàn thể quân dân anh hùng nơi Thị Xã nhỏ bé thân yêu của đất nước”. Tỉnh lỵ của Bình Long, trước đây là một thị trấn nhỏ gọi là Hớn Quản thuộc Tỉnh Thủ Dầu Một. Từ thời cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, vì nhu cầu hành chánh, Tỉnh Bình Long được thành lập gồm ba quận Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh. Từ ngày đó, quận Hớn Quản đổi thành quận An Lộc và tỉnh lỵ An Lộc nằm trong quận cùng tên này, trong phạm vi xã Tân Lập Phú.


    Vài Nét Về An Lộc
    Tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchea với 1 diện tích 2,240 km2, gồm trên 76,000 dân. Riêng quận An Lộc gồm cả thành phố Tỉnh lỵ rộng 740 km2 với khoảng 44,000 dân, đa số tập trung vào xã Tân Lập Phú. Toàn Tỉnh Bình Long, chung quanh Tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút ngàn, vài ngọn đồi thoai thoải, Ðồi Gió, Ðồi 100, Ðồi Ðồng Long là những cứ điểm quân sự quan trọng bảo vệ thị trấn An Lộc. Quốc lộ 13 từ Sài Gòn đi ngược lên cắt đôi Tỉnh Bình Long và xuyên ngang Tỉnh lỵ An Lộc dẫn dài tới biên giới Kampuchea, tới Snoul. Quốc lộ 13 phải vượt qua Lai Khê, Chơn Thành, Tàu Ô, Tân Khai, Xa Cát, Xa Cam, rồi mới tới thành phố An Lộc. Quãng đường này đã trở thành chông gai trắc trở trong thời gian diễn tiến cuộc chiến An Lộc. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà phải khắc phục con đường này từ Nam lên Bắc, và những người dân chạy loạn từ Bắc xuống Nam đã mệnh danh hơn 20 km Quốc lộ này là “con đường máu”.

    Ðiểm thứ nhất khiến Cộng Sản Bắc Việt nhằm vào An Lộc là vì Tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchea nơi che dấu những căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt trên xứ Kampuchea. Thị trấn này về mặt chiến lược còn nắm vai trò chủ yếu phòng thủ cho Bình Dương và sau đó là thủ đô Sài Gòn. Thế nhưng An Lộc chỉ là một thành phố nhỏ bé, nơi đặt cơ sở hành chánh điều hành Tỉnh Bình Long. Ðiều quan trọng mà Cộng Sản Bắc Việt đã gán cho An Lộc là yếu tố tinh thần. Khi chọn làm mục tiêu tấn công, Cộng Sản Bắc Việt hy vọng đạt một chiến thắng đồng thời tạo một kinh hoàng, đe dọa thủ đô Sài Gòn. Khi họ quyết tâm tấn công An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt cũng không ngờ đến rằng sẽ gặp phải 1 sức chiến đấu kiên trì anh dũng của quân dân tại đây. Sức chiến đấu này không phải chỉ 1 người ca tụng, 1 dân tộc ca tụng, mà cả thế giới ngưỡng mộ và cảm phục.

    Từ Lộc Ninh đến An Lộc
    Giữa lúc dân chúng trên khắp lãnh thổ Miền Nam tự do chưa hết bàng hoàng bởi cuộn sóng đỏ xâm lăng công khai vượt lằn ranh vĩ tuyến 17 vào vùng cực Bắc của Việt Nam Cộng Hoà, trong những ngày đầu thì 1 mũi dùi khác của Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu thọc mạnh vào Tỉnh Bình Long, với quân số 4 sư đoàn, mưu toan “dứt điểm” Bình Long, làm bàn đạp tiến về phía Nam, uy hiếp thủ đô Sài Gòn, chỉ cách nơi đây có hơn 100 km.

    Rạng sáng ngày 05/04/1972, vào lúc bình minh, Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Cộng Sản Bắc Việt ban ra 1 mệnh lệnh khô khan: “Phải chiếm An Lộc trước ngày 20/04/1972, nghĩa là phải đè nặng áp lực tối đa lên vùng hơn 100 km Bắc Sài Gòn, để cầm chân một số lớn lực lượng nòng cốt của địch tại đây”. Ðoàn quân xâm lăng, được chuẩn bị từ lâu, gồm các sư đoàn Công Trường 5, Công Trường 7, Công Trường 9, Công Trường Bình Long cùng Trung Ðoàn 203 chiến xa từ Lưỡi Câu của Kampuchea tràn qua, xuyên qua các rừng cao su dầy đặc. Quân Cộng Sản Bắc Việt được pháo binh nặng loại bắn xa 130 ly và các loại phòng không cực kỳ tối tân yểm trợ. Tính ra, ít lắm cũng đến 40,000 quân Cộng Sản Bắc Việt tham dự mặt trận này.

    Trong trận đánh đầu tiên, Cộng Sản Bắc Việt dồn toàn lực Công Truờng 5 gồm 2 trung đoàn 174, 275 và trung đoàn Biệt Lập cùng trung đoàn pháo E6, quyết nuốt trọn Lộc Ninh, một quận nằm về phía Bắc An Lộc. Cộng quân gặp sự kháng cự mãnh liệt của chiến đoàn 9 gồm Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, 30 chiến xa của Thiết Đoàn 5, Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân quận Lộc Ninh cũng phản ứng không kém phần ác liệt. Mặc dù quân số Cộng Sản đông gấp 3, quân trú phòng vẫn cố chống trả. Nhiều trận đánh xáp lá cà diễn ra ngay bên trong quận lỵ. Trước chiến thuật thí quân của Cộng Sản, quân trú phòng phải hạ nòng đại bác 105 ly trực xạ vào các đợt xung phong biển người (human wave tactic) của địch. Ðánh vùi nhau suốt ngày không xong, Cộng Sản Bắc Việt dội trở ra, để rồi pháo kích liên miên bất tận vào các ổ kháng cự của quân trú phòng.

    Giữa lúc chiến trường Lộc Ninh vẫn diễn ra ác liệt, 1 cánh quân khác của Công Trường 9, đơn vị được coi là thiện chiến nhất trong số 4 sư đoàn tham chiến tại Bình Long, bất ngờ tấn công vào Tỉnh lỵ An Lộc từ 3 giờ chiều ngày 06/04/1972, nhằm chận đường tiếp viện cho Lộc Ninh. Ðoạn đường từ An Lộc đi Lộc Ninh bị gián đoạn hoàn toàn, chỉ có thể liên lạc bằng điện thoại. Tình hình hết sức nguy ngập. Trận thế của Cộng Sản Bắc Việt đã bắt đầu hình thành. Công Trường 5 quyết lấy Lộc Ninh, rồi chọc thẳng mũi dùi theo quốc lộ 13 tiến xuống phía Nam, công hãm mặt Bắc An Lộc. Cả hai sư đoàn Công Trường 7 và Công Trường 9 của Cộng Sản Bắc Việt cũng xuất phát từ vùng Lưỡi Câu Kampuchea, đánh ép vào mặt Tây An Lộc. Nhưng Công Trường 9 đánh thẳng vào An Lộc, còn Công Trường 7 thì giữ chặt quốc lộ 13 ở về phía Nam An Lộc, con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị trấn này. Một cánh quân khác do Công Trường Bình Long gồm chừng hai trung đoàn địa phương tiến từ mạn Ðông Bắc xỉa xuống. Bốn sư đoàn bộ chiến, chưa kể chiến xa, pháo binh, đại bác phòng không, cùng chĩa mũi vào một thị trấn không quá 4 km2. Nếu đem rải đều 40,000 quân Bắc Việt trên diện tích 4km2 thì lính CS tràn ngập An Lộc, mỗi người cách nhau 10 m, ngang cũng như dọc, với đủ loại vũ khí tối tân. Lực lượng phòng trú chỉ có một sư đoàn 5 Bộ Binh.

    Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III, tức tốc bốc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ Tây Ninh về án ngữ phía Bắc An Lộc. Trong khi đó, tại Lộc Ninh, sau 3 ngày bị pháo, không được tiếp viện, quân trú phòng được lệnh di chuyển dần dần về phía Nam, để lùi về An Lộc. Toàn bộ 30 chiến xa của Việt Nam Cộng Hoà, một số bị phá huỷ, một số đành bỏ lại.

    Trước áp lực mỗi ngày một mạnh từ mặt Bắc xuống, Chiến Ðoàn 52 từ vùng cầu Cần Lê, 15 km Bắc An Lộc, cũng phải lùi dần về An Lộc. Quân Cộng Sản Bắc Việt giăng sẵn một tuyến phục kích dài trên 3 km toan nuốt trôi Tiểu Ðoàn 1/48 của Chiến Ðoàn 52 vào ngày 07/04/72, nhưng Tiểu Ðoàn này đã chiến đấu kịch liệt, mở đường máu chạy về An Lộc và chỉ thiệt hại nhẹ. Chính Tiểu Ðoàn này đã gỡ thể diện cho Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chỉ trong vòng 3 ngày giao tranh, tại Lộc Ninh, đã có đến 2,150 lính Cộng Sản Bắc Việt bị hạ sát, tương đương với quân số của một trung đoàn.

    Về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có 600 chiến sĩ hy sinh, cùng với 30 chiến xa và một pháo đội 105 ly bị mất. Kể từ đây, An Lộc bó mình trong vòng đai phòng thủ, không lấy một chiến xa để đối đầu với chiến xa địch có đến cả một trung đoàn hàng trăm chiếc.

    Tại mặt trận An Lộc, điểm đáng kể thứ hai nữa là quân trú phòng không có đại bác. Nguyên một Tiểu đoàn pháo binh mang số 52 với 24 khẩu 105 ly cũng bị phá huỷ gần hết chỉ còn một khẩu duy nhất. Trọn một pháo đội của quân Dù thả xuống Ðồi Gió, 4 km Ðông An Lộc, mấy ngày sau cũng bị tiêu luôn. Tất cả còn lại chỉ là một ý chí chiến đấu “hoặc sống trong tự do hay chết đi cũng để cho con cháu được sống tự do”. Những kẻ đang sống trong không khí tự do mà chưa hề bị đe dọa, không sợ mất đi, sẽ cho đây là một sáo ngữ đầy tính chất tuyên truyền. Nhưng đối với người dân Việt Nam, đã từng biết mối đe dọa đó qua 27 năm khói lửa kể từ năm 1945 đến năm 1972, họ cũng đã có nhiều kinh nghiệm xương máu về điều gọi là chiến tranh giải phóng, chiến tranh nhân dân, họ biết thế nào là chủ nghĩa Cộng Sản, nên họ đã chiến đấu, tận lực chiến dấu, dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Cuộc chiến tại Việt Nam hiện nay, năm 1972, đã chứng tỏ điều đó. Lời tuyên bố của Tướng Lê Văn Hưng quyết tử thủ An Lộc đã đưa vị tướng 1 sao này lên hàng danh tướng và làm nức lòng chiến sĩ Bình Long.

    Trận Chiến Khởi Ðầu
    Trận chiến khốc liệt tại An Lộc, một Tỉnh lỵ không đầy 4 km2, nhưng mức độ tàn khốc của các cuộc giao tranh đã khiến cho nhiều ký giả quốc tế cho là gấp 10 lần Ðiện Biên Phủ thật sự khởi đầu vào ngày 07/04/1972. Tất cả các cánh quân của 4 sư đoàn Cộng Sản Bác Việt đều dồn về An Lộc. Sư đoàn Công Trường 5 từ trên đánh xuống, Công Trường 9 và Công Truờng Bình Long ép hai mặt Tây Ðông. Sư đoàn Công Trường 7 vừa chặn mặt Nam, lập chướng ngại trên quốc lộ 13, vừa tung quân tiến đánh các mục tiêu sát biên giới như Katum, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn để cầm chân Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đang trách nhiệm vòng đai Tây Ninh, chặn đường tiến của địch về Sài Gòn theo ngã quốc lộ 1. Quân trú phòng không “tăng” mà cũng không “pháo”, phải đối đầu với một quân số gấp 3-4 lần, có hàng trăm chiến xa và cả trung đoàn pháo đủ loại. Toàn bộ Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, gồm 3 Tiểu Ðoàn 5, 6 và 8 được gửi đến tăng viện. Toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh cùng Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh từ vùng sình lầy miền Tây cũng được bốc lên Lai Khê. Tuy nhiên, kể từ đây, quãng đường Chơn Thành đi Lộc Ninh đã bị tắc nghẽn.




    Các đơn vị tăng viện cố tiến từng bước một để đến gần đơn vị bạn An Lộc, nhưng mỗi bước tiến, không biết bao nhiêu chiến binh gục ngã, dù là bên này hay bên kia. Tiến lên không nổi, phải quay trở lại, để rồi tìm cách tiến lên. Gần trọn sư đoàn Công Trường 7 của địch dồn nỗ lực chính vào tuyến phục kích dài 26 km từ Chơn Thành đến An Lộc. Suốt quãng đường này, nơi nào cũng có thể là mục tiêu của pháo binh địch. Chúng rải quân dài dài dọc theo quốc lộ để sẵn sàng chỉ điểm cho pháo binh bắn từ xa tới. Phi trường Lai Khê, vắng từ 3 tháng qua kể từ khi các đơn vị Hoa Kỳ rút đi, bỗng nhiên tấp nập trở lại. Các chuyến bay nối đuôi nhau chuyển quân hoặc tiếp tế cho chiến trường.

    Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn ác liệt. Dần dần, lực lượng bên trong An Lộc đã có thể khởi lại thế công, dù phải hết sức chật vật. Mấy hôm trước, vòng bán kính bao vây thị trấn chỉ chừng 500 mét. Nhưng đến ngày 11/04/72 vòng đai kiểm soát được nới rộng thêm đến hơn 3 km đường bán kính. Bên ngoài, Lữ Ðoàn 1 Dù đã tiến khỏì Chơn Thành được 7 km về hướng Bắc sau khi gìải toả áp lực địch từ Lai Khê đến Chơn Thành. Sau một trận đụng độ ác liệt với địch quân tại vùng này, Lữ Ðoàn 1 Dù trao lại trách nhiệm cho các đơn vị của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh giữ an ninh trục lộ, những đoạn đường đã được giải toả. Riêng trong ngày 11/04, 27 pháo đài bay B.52 trút gần 800 tấn bom xuống các vị trí địch. Có lẽ nhờ thế, buổi chiều hôm đó, mức độ pháo kích đã giảm sút rất nhiều. Sư Ðoàn 21 Bộ Binh được tăng phái Trung Ðoàn 15/9 và 1 Tiểu Ðoàn Dù, có nhiệm vụ khai thông quốc lộ 13, nhhưng đây quả là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà mãi đến 08/06 mới hoàn thành nổi.

    Trận Chiến Xa Ðầu Tiên
    Ngày 12/04/72, Bộ tư lệnh cao cấp của Cộng Sản Bắc Việt lại ra khẩu lệnh cho cán binh của họ : “Cán bộ và binh sĩ phải tấn công trên khắp mặt trận. Chắc chắn quân ta sẽ thắng”. Guồng máy tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt được tổ chức ngay tại quận Lộc Ninh, rêu rao là An Lộc đã được giải phóng, nên ngày hôm sau 13/04, chiến xa của chúng mở nắp khơi khơi tiến vào Thị Xã An Lộc. Khi xe bị bắn cháy, những tên lính Cộng Sản Bắc Việt gục chết mà gương mặt vẫn còn hết sức ngỡ ngàng, như còn vướng mắc: “Quân ta giải phóng An Lộc rồi kia mà?”

    Mở màn cho trận đánh khốc liệt đầu tiên bằng chiến xa này, hồi rạng sáng, Cộng quân từ mạn Bắc thành phố tiến chiếm phi trường L.19 và toàn thể kho nhiên liệu và đạn dược của Bình Long gần sân bay bị phát hoả bốc cháy dữ dội. Hàng ngàn quả đạn đại bác rơi vào An Lôc dọn đường. Ðoàn chiến xa lù lù tiến vào. Nghe tiếng ì ì của chiến xa từ phía Bắc thẳng vào thành phố, lính Trung Ðoàn 8 Bộ Binh hơi bỡ ngỡ, vì đây là lần đầu tiên họ trực diện với chiến xa T54 và PT76 của Cộng Sản Bắc Việt. Ðoàn chiến xa tiến theo đường Ngô Quyền, sát cạnh Bộ Chỉ Huy của Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Mặc dù vài trái pháo của ta làm chậm bước tiến, nhưng đoàn chiến xa địch vẫn bò tới. Chỉ còn cách Bộ Chỉ Huy của Ðại Tá Trường 20 m, đoàn chiến xa bị khựng lại bởi 1 loạt đạn M72, 3 phát đầu bị hụt, phát sau trúng đích, chiến xa dẫn đầu bốc cháy, trườn tới mấy thước rồi ngừng hẳn. Mấy tên lính Cộng Sản trong xe nhảy ra, cháy nám, lăn lộn trên lề đường. Một loạt đạn M16 giải thoát. Lên tinh thần, lính của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh chĩa mũi M72 vào tất cả đoàn xe. Có tới 15 chiến xa địch bị bắn cháy sát cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Ðoàn chiến xa địch lùi lại để rồi tìm đường khác tiến vào. Tiếng súng vang rền trong phần nửa phía Bắc Thị Xã An Lộc.

    Trong lúc giao tranh ác liệt tiếp tục, Ðại Tá Trương Hữu Ðức, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 đang ngồi trực thăng quan sát, bị trúng đạn tử thương. Tại Sài Gòn, khoáng đại Thượng Nghị Viện của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà đã ngưng lại các phiên họp thường lệ để dành hết thời gian ca ngợi và tri ân các chiến sĩ đang chiến đấu khắp các mặt trận. Trở lại An Lộc, sau 30 giờ ác chiến đẫm máu bằng đủ mọi hình thức, xáp lá cà, cận chiến bằng lựu đạn, súng dài, súng ngắn thi nhau nổ, trong phần nửa Thị Xã phía Bắc, cuộc tấn công đợt một có chiến xa pháo binh hỗ trợ của Cộng Sản Bắc Việt đã bị đẩy lui, 2 bên đều bị thiệt hại nặng, và kiệt lực, cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại.

    Cuộc Tấn Công Bằng Chiến Xa Lần Thứ 2 và Thứ 3
    Ngày 14/04/72 đánh dấu một nỗ lực mới của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III. An Lộc bị xiết chặt trong vòng vây. An Lộc bị bó cứng trong mấy cây số vuông. Quân trú phòng không bung ra ngoài được để hoạt động. Cần phải tìm một lối thoát, lập một đầu cầu mở cửa ra vào An Lộc, nới rộng tầm hoạt động của quân trú phòng. Mặt Bắc, mặt Tây, mặt Nam đều bị bít kín. Chỉ còn mặt Ðông Nam, với những ngọn đồi thoai thoải. Nhưng ai lãnh nhiệm vụ đầy khó khăn và nguy hiểm này ? Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền Ðại Tá Lê Quang Lưỡng được Trung Tướng Minh chọn, vì quả thật không còn đơn vị nào tại mặt trận này làm hơn được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Cuộc họp mặt tại căn cứ Lai Khê giữa Trung Tướng Dư Quốc Ðống, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù, Trung Tướng Minh và Ðại Tá Lưỡng kết thúc mau chóng.

    Sau 5 vòng bay quan sát, Ðại Tá Lưỡng chọn Ấp Srok Ton Cui làm bãi đáp, 4 km Ðông An Lộc. Tiểu Ðoàn 6 Dù xuống trước dọn bãi đáp. Ngày hôm sau, 15/04/72, 2 Tiểu Ðoàn 5, 8 và Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn xuống theo. Tiểu Ðoàn 6 Dù ở lại đoạn hậu, trấn giữ Ðồi Gió, để hai tiểu đoàn bạn chia làm 2 cánh song song tiến vào An Lộc. Cũng trong thời gian này, nghĩa là vào sáng 15/04, Cộng Sản Bắc Việt lại ồ ạt tấn công đợt hai vào mạn Bắc thị trấn. Một số chiến xa địch lọt được vào phòng tuyến phía Bắc, xuống đến nửa phía Nam thành phố. Một số lớn chiến xa địch lại bị phá huỷ. Rút kinh nghiệm lần trước, quân trú phòng bắt đầu tranh nhau bắn chiến xa, không phải chỉ bằng M72 mà bằng cả súng phóng hoả tiễn B40 và B41 tịch thu được của đối phương khi chúng xâm nhập thành phố. Chính trong các cuộc giao tranh này, binh sĩ Cộng Sản Bắc Việt để lộ rõ một khuyết điểm trầm trọng trong kỹ thuật tác chiến trong thành phố: thiếu phối hợp giữa bộ binh và chiến xa.

    Quân trú phòng ẩn nấp trên các cao ốc, trong các hầm trú ẩn, tại bất cứ nơi nào kín đáo mà họ thuộc nằm lòng để chĩa tất cả các họng súng đủ loại vào mục tiêu quá lớn, và quá rõ ràng đang di chuyển trên đường phố, trong lúc đôi bên chỉ cách nhau trong vòng 10 m. Quân tấn công, tất nhiên từ xa tới, dường như hoàn toàn lạc lõng giữa thành phố xa lạ. Dù họ có được học tập kỹ càng đến mức nào đi nữa trên mô hình, dù có thực tập đánh trên xa bàn hàng bao nhiêu lần đi nữa, thì họ cũng không thể nào biết rõ địa thế bằng chính người dân, binh sĩ đang sinh sống tại An Lộc. Ðó là chưa kể một lỗi lầm trầm trọng trong chính sách tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt là đã khiến cho binh sĩ của họ mang một sự tin tưởng quá lạc quan rằng An Lộc đã được giải phóng. Thật là tàn nhẫn quá sức, vì điều này chẳng khác nào họ đã dẫn dụ, lừa bịp binh sĩ của chính họ vào chỗ chết. Hơn thế nữa, nếu lúc ban đầu, đoàn chiến xa hùng hậu của Cộng Sản Bắc Việt có tác dụng làm phấn khởi tinh thần binh sĩ của họ, đồng thời làm suy giảm nhuệ khí quân trú phòng, thì trong thời gian sau, ảnh hưởng đó lại trái ngược.

    Trong cuộc tấn công bằng xe tăng đầu tiên vào An Lộc, vài đoàn viên xe tăng Cộng Sản Bắc Việt được cấp chỉ huy cho chúng biết trước là An Lộc đã được giải phóng. Cho nên lính Cộng Sản Bắc Việt từ từ cho “tăng” tiến vào thành phố, mở rộng cả nắp pháo tháp ngắm cảnh “thị trấn giải phóng” và chờ đợi những tiếng hoan hô của “dân được giải phóng”. Trong các đợt tấn công sau đó, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà sau khi hạ được “tăng” địch đều khám phá rằng có nhiều đoàn viên tăng Cộng Sản Bắc Việt bị cấp chỉ huy của chúng xích chặt vào “tăng” luôn. Lúc đầu chiến sĩ ta cứ tưởng là binh sĩ Cộng Sản Bắc Việt can đảm cố thủ trong xe tăng chăng? Ngày 09/04/72 tại Quảng Trị, Tiểu Ðoàn 6 Thuỷ Quân Lục Chiến chỉ dùng vũ khí cá nhân M72 hạ một loạt hàng chục chiến xa địch chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ.

    Chiến thắng đầu tay này được loan truyền mạnh mẽ trên hệ thống truyền thanh quốc gia. Cũng trên làn sóng này, kỹ thuật bắn chiến xa cũng được chính các Tướng Lãnh giải thích tường tận. Binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà, hầu như mỗi người đều có một máy thâu thanh bỏ túi để nghe âm nhạc, và dường như tất cả đều chú ý nghe ngóng tin tức chiến sự tại các mặt trận khác. Họ biết được hiệu quả của vũ khí chống chiến xa, và các cấp chỉ huy mặt trận cũng không bỏ lỡ cơ hội huấn luyện thêm ngay tại chỗ, như trường hợp của Tướng Hưng, ngay sau trận tấn công bằng chiến xa đầu tiên của Cộng Sản Bắc Việt vào An Lộc. Kể từ khi hạ được chiến xa đầu tiên tại An Lộc, binh sĩ trú phòng lên tinh thần và vững chãi chiến đấu với địch. Cùng lúc đó, tinh thần của cán binh Cộng Sản Bắc Việt phần lớn dựa vào chiến xa. Chiến xa bị cháy, bị bắn nằm ngổn ngang trên đường phố, họ không còn tinh thần chiến đấu nữa. Bộ binh “tùng thiết” (đi theo thiết giáp) thấy chiến xa bị bắn cháy là mất tinh thần. Ðây là một trong những yếu tố khiến cho An Lộc khỏi mất! Sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất của quân Việt Nam Cộng Hoà bên trong An Lộc, có thể nói mà không sợ sai lầm, đến 90% do Cộng Sản Bắc Việt pháo kích.

    Cũng trong ngày 15/04/72, Tướng Nguyễn Văn Minh dời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 lên Lai Khê để trực tiếp chỉ huy mặt trận Bình Long. Một lực lượng đặc nhiệm gồm 20,000 binh sĩ với Nhảy Dù, Bộ Binh,Thiết Kỵ được thành lập để giải toả quốc lộ 13. Cuộc đổ quân của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù gây thiệt hại cho cả 1 tiểu đoàn trấn giữ Ðồi Gió. Tiểu Ðoàn 6 Dù và 1 pháo đội 6 khẩu đại bác 105 ly bị thiệt hại nặng (sau 18 năm thành lập, Tiểu Ðoàn 6 Dù bị tan nát vào lúc 17 giờ ngày 21/04/1972). Tuy nhiên, sau này chính tiểu đoàn này, được bổ sung ngay tại chỗ, đã trả được mối hận đó bằng cách đánh cú chót tuyệt kỹ, bắt tay với lực lượng bên trong An Lộc vào ngày 08/06/72, kết thúc giai đoạn vây hãm 2 tháng của chiếc rọ tử thần “An Lộc”. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, đang hoạt động bên trong phòng tuyến địch, cũng được bốc hết về An Lộc ngày 16/04/72, để tiêu diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thành phố sau 2 cuộc tấn công vào Thị Xã. Lính Biệt Cách Dù được huấn luyện để đơn độc chiến đấu trong lòng địch, thuộc nằm lòng cách tác chiến, thói quen và vũ khí của Cộng Sản Bắc Việt để có thể giả dạng quân “giải phóng”, nên kỹ thuật tác chiến cá nhân rất cao. Chính Biệt Cách Dù đã tỉa các đặc công Cộng Sản Bắc Việt cố bám vào dân, và nhờ đó, tránh một số thiệt hại cho số dân còn kẹt lại bên trong thành phố. Sau khi quân Dù bắt tay được với quân trấn thủ, liền nới rộng vòng đai về phía Nam, Không Quân Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ hoạt động dữ dội. Pháo đài B52 dội bom chỉ cách An Lộc 1 km về phía Bắc, tiêu diệt trọn một trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Áp lực địch quân đã giảm bớt trong ngày 17/04/72, chừng 2,000 dân chúng ra khỏi An Lộc để chạy về Chơn Thành. Mặc dù kho đạn dã chiến tại Lai Khê bị pháo kích nổ dữ dội gây bối rối cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, và “hành lang máu” trên quốc lộ 13 vẫn còn bế tắc, nhưng đến đây, Tướng Nguyễn Văn Minh nhìn thấy được một tia hy vọng “Có thể giữ vững được An Lộc”.

    Trong một cuộc họp báo tại Lai Khê sáng 17/04/1972, Tướng Minh tuyên bố :”Giai đoạn khó khăn nhất đã qua. Chúng tôi hết sức thận trọng vì sợ kẹt dân. Chúng tôi không lạc quan quá trớn, và đang ghìm súng chờ đợi những đợt tấn công mới của đối phương”. Tướng Minh khỏi phải chờ đợi lâu. Ngay ngày hôm sau, 18/04/72, đợt tấn công chiến xa thứ ba đã đổ ập vào An Lộc, một chiến trường nặng ký gấp nhiều lần Ðiện Biên Phủ 18 năm trước đó, nhưng theo một nhà báo ngoại quốc là “gió đã đổi chiều cho Giáp”. Mà quả thật, gió đã đổi chiều tại đây. Quân trú phòng không vương một mặc cảm chủ bại. Họ cùng một lòng chiến đấu, hy sinh cuộc sống của họ cho lẽ sống của hơn 17 triệu dân Miền Nam, đang phập phồng hướng về họ. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chỉ huy toàn bộ lực lượng trú phòng, cam kết: “Ngày nào tôi còn, An Lộc còn”.

    Vị tướng này, tay thì cầm M16, mặc áo thun, quần trận, lựu đạn quanh mình, hoạt động 24/24. Hai tai của ông liên tục nghe báo cáo và điều động các binh sĩ của ông khắp nơi. Thật vậy, An Lộc rất may mắn có vị tướng này và chính ông là một trong những yếu tố quan trọng giữ vững An Lộc. Thêm nhiều chiến xa Cộng Sản Bắc Việt bị hạ gần bộ chỉ huy của Tướng Hưng. B52 tiếp tục dội bom chung quanh. Không Quân Việt Nam Cộng Hoà dồn dập yểm trợ và tiếp tế. Nhưng trước một hàng rào phòng không dầy đặc đủ loại, từ đại bác 37 ly, B40, B41, hoả tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7 lố nhố trong rừng cao su bao vây An Lộc, dù anh em phi công có cố gắng đến mức tối đa, chịu nhiều tổn thất, cũng chỉ tiếp tế “nhỏ giọt” cho chiến trưòng. Phần lớn kiện hàng thả xuống bay tạt ra ngoài hàng rào phòng thủ. Nguồn tiếp tế bị ngăn trở, quốc lộ 13 vẫn tắc nghẽn. Quân trú phòng bị bao vây trong hơn hai tháng rưỡi trường như thế. Không khí ngột ngạt và căng thẳng đến độ một vị Trung Tá Trưởng Phòng 2 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh phải thốt lên :”Ðây là chiến trường cô đơn, và mãi đến ngày thứ 60 của cuộc chiến, các cánh quân tiếp viện cũng chỉ le lói ở cuối đường số 13”. Nếu đây là một đoàn quân không chiến đấu cho một chính nghĩa, không có một niềm tin vững chãi và hình như, nếu không có một sự nhiệm màu nào đó hổ trợ, chắc chắn họ đã thảm bại từ lâu rồi.

    Ðợt Tấn Công Thứ Tư
    Hạn định lúc ban đầu của bộ chỉ huy cao cấp Cộng Sản Bắc Việt ban ra là ngày 20/04/72 phải dứt điểm An Lộc. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững. Tin tình báo cho hay, đúng ngày này toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt bị thay thế, để chuẩn bị đợt tấn công mới. Nửa đêm về sáng ngày 21/04/72, Cộng quân pháo kích trên 2,000 trái đạn đủ loại vào những địa điểm trú phòng của quân Việt Nam Cộng Hoà, rồi tấn công 4 mặt vào Thị Xã, 4 mũi dùi chĩa vào 4 vùng cùng ở mặt Ðông:

    - 2 km Ðông Nam An Lộc
    - 3 km Ðông Nam
    - 1 km Ðông Nam
    - 5 km Ðông Nam,

    là những nơi có Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà trấn đóng. Tại mỗi nơi, Cộng quân có 5 hoặc 6 chiến xa, với 1 tiểu đoàn Bộ Binh tùng thiết (đi theo thiết giáp). Ðặc công Cộng Sản hoạt động mạnh trở lại, ăn nhịp với các hoạt động bên ngoài. Tuy nhiên, không hiểu vì do xếp đặt trước, hay thiếu sự phối hợp, các mũi dùi này không khai diễn đồng loạt, mà lại cách quãng nhau. Mũi dùi thứ nhất khởi diễn hồi 4 giờ sáng, mà nỗ lực sau cùng khởi diễn vào lúc 13 giờ chiều. Nhờ thế, quân trú phòng có thể yểm trợ cho nhau một phần hoả lực súng cối còn lại, và nhất là hoả lực của Không Quân.

    Có đến 17 phi vụ B52 để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm ấy. Trong số đó có 3 “pass” yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 6 Dù rút ra khỏi Ðồi Gió, 4 km Ðông An Lộc. Nhưng rủi thay, Tiểu Ðoàn này gặp phải hoả lực quá hùng hậu của địch gờm sẵn để tấn công mặt Ðông Nam An Lộc đúng vào ngày ấy. Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã “tan hàng” - nói theo kiểu nhà binh. Những đơn vị còn lại đều đẩy lui được các cuộc tấn công của đối phương. Bắn hạ thêm nhiều chiến xa. Trong lòng nửa phía Bắc thành phố An Lộc, cuộc giao tranh giữa Biệt Cách Dù và đặc công Cộng Sản tiếp tục với mức độ ác liệt, tạo thành những mảng da beo trên phần đất này. Hàng ngàn xác chết của cả hai bên, của thường dân, của người lớn, của trẻ em, la liệt trong thành phố, Ðêm 22 rạng 23/04/72, Cộng Sản Bắc Việt tung thêm hai cánh quân, một đánh vào vùng trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 8 Dù ở cửa Nam An Lộc, và một chận đánh Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh trên quốc lộ 13. Cánh quân đánh Tiểu Ðoàn 8 Dù có 2 chiến xa T54 và 2 chiếc BTR yểm trợ. Lúc này, quân trú phòng đã có loại súng bắn chiến xa mới mang tên XM202 từ M72 biến cải, có thể bắn liên tiếp 4 phát, với sức nóng 3,600 độ Fahrenheit mỗi trái. Cả 4 chiếc đều bị bắn cháy rụi, quân tùng thiết Cộng Sản Bắc Việt mất tinh thần và bị đánh bật trở ra. Không những thế, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 Dù còn gọi phi cơ C130 có gắn đại bác 105 ly bắn theo sự hướng dẫn của ra đa hạ luôn 1 đoàn 5 chiếc xe khác đang hướng về Trung Ðoàn 15 Bộ Binh. Sau đợt tấn công thứ tư bị thất bại, Cộng quân chỉ còn nước pháo kích vào thành phố để trả hận. Tình hình An Lộc có phần dể thở hơn, mặc dù vẫn dưới điệu nhạc ì ầm của pháo binh Cộng Sản, hàng ngàn trái mỗi ngày. Trong khi đó, đoạn đường quốc lộ 13 Chơn Thành - An Lộc vẫn tiếp tục nhuộm thêm máu.

    Bên Việt Nam Cộng Hoà cố tiến lên, quân Cộng Sản Bắc Việt cố sức giữ lại. Các cấp chỉ huy Cộng Sản đã không ngần ngại xiềng chân nhiều binh sĩ của họ trong các hố chiến đấu cá nhân nằm rải rác quốc lộ 13 để làm những con chốt cản đường, và chỉ điểm cho pháo binh của chúng từ xa bắn tới. Ngày nào cũng có một số trực thăng bị rớt, nhưng không có chiếc nào hạ cánh nổi xuống An Lộc. Các cuộc chuyển quân cấp đại đội của Nhảy Dù đều bị đánh bật. Về sau, phải di chuyển ở cấp tiểu đoàn. Mãi đến ngày 08/05/72, lực lượng giải toả quốc lộ 13 mới tiến thêm được 6 km nữa để chiếm làng Tàu Ô, nằm giữa Chơn Thành và An Lộc, sau ba ngày giao tranh đẫm máu, gây thiệt hại nặng cho cả đôi bên. Quân Cộng Sản Bắc Việt đã xây nhiều hầm chiến đấu sâu đến 6 m dưới lòng đất khiến phi cơ không thể nào phá nổi. Quân giải toả phải đánh cận chiến, đánh bằng lựu đạn, và chiếm cứ từng hầm hố, từng địa đạo, từng căn nhà, từng thước đất một. Hai Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh được thả ở vùng Bắc Tàu Ô đánh thốc xuống, trong lúc một cánh quân khác đánh thốc từ phía Nam đánh lên. Trước khi chiếm làng này, lực lượng giải toả đã phải đương đầu với 4 tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt, 2 tiểu đoàn pháo và đặc công tăng cường nằm đầy mạn Bắc làng Tàu Ô.

    Quân giải toả cố lập một phòng tuyến tại đây, tạo một đầu cầu trên đường tiến vào An Lộc. Pháo tập dọn đường cho trận đánh - đánh quyết liệt. Ðến giờ phút này, ngày 10/05/72, cả ba mặt trận An Lộc, Kontum, và Trị Thiên đều đang ở trong tình trạng gây cấn. Bên kia Thái Bình Dương, TT Richard Nixon công bố những biện pháp mạnh đối với Cộng Sản Bắc Việt. Tại Sài Gòn, TT Thiệu tuyên bố “Tổ Quốc Lâm Nguy”. Lệnh Thiết Quân Luật được ban hành trên toàn quốc từ 0 giờ ngày 11/05/1972. Chính vào giờ này, Bộ Chỉ Huy cao cấp của Cộng Sản Bắc Việt tại mặt trận Bình Long muốn “dứt điểm” An Lộc, bắt sống Tướng Lê Văn Hưng. Kể từ trưa hôm trước, tất cả các khẩu pháo của Cộng Sản Bắc Việt đã bắn trái khói lai rai cầm chừng để điều chỉnh toạ độ những địa điểm mà chúng định sẵn sẽ tấn công. Ðúng 12 giờ đêm, giờ khởi đầu của tình trạng thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Cộng quân bắt đầu cuộc “pháo tập“ khốc liệt và tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh Ðông Dương vào An Lộc. Ðến 4 giờ sáng, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu “chuyển pháo”. Kinh nghiệm và khả năng tác chiến cao đã giúp cho binh sĩ trú phòng biết ngay địch muốn làm gì khi chuyển pháo đi nơi khác. Sau khi chịu đợt “tiền pháo” tất cả đều vọt ra khỏi hầm ghìm súng chờ đợi “hậu xung”. Quả nhiên, ngay sau đó, chiến xa ì ì kéo tới. Từ 4 giờ sáng, Cộng quân xía ba mũi dùi từ hướng chính Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc với quân số mỗi cánh cấp trung đoàn có chiến xa dẫn đầu đánh ập xuống nửa Thị Xã phía trên. Ở ngõ Ðông Bắc, Cộng quân đột nhập vào khu Chợ Mới, sát phòng tuyến Việt Nam Cộng Hoà. Trận giao tranh tại đây càng lúc càng đẫm máu, kéo dài mãi đến 8 giờ 30 sáng. Mặt Bắc thành phố là mặt bị uy hiếp nặng nhất ngay từ đầu cuộc chiến. Các cánh quân Cộng Sản Bắc Việt ẩn phục trong đồn điền cao su Quản Lợi và từ quốc lộ 13 kéo xuống như vũ bão. Mặt chính Bắc và Tây Bắc, Cộng quân huy động một lực lượng hùng hậu có chiến xa dẫn dầu để tiến công. Chiến xa Cộng Sản dẫn đầu đã chọc thủng phòng tuyến Tây Bắc của lực luợng trú phòng. Theo sau là 2 trung đoàn bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt. Vì sợ hoả tiễn chống chiến xa, nên đoàn xe tăng của Cộng Sản phóng quá nhanh, quân bộ chiến theo không kịp. Chiến xa tách rời bộ binh, liền lập tức bị quân trú phòng dùng hoả tiễn M72, XM202 và các B40 (tịch thu của Cộng Sản) hạ luôn 1 hơi 8 chiếc. Những chiếc còn lại hoảng sợ bỏ chạy. Tuy nhiên, quân bộ chiến của chúng tràn đến kịp dùng chiến thuật biển người (human wave tactic) áp đảo quân trú phòng.

    Dường như tiên đoán được cuộc tấn công quy mô quyết định này, Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III đã xin từ trước hoả lực yểm trợ của B52 dội vào khu vực phía Bắc. Mãi đến 10 tiếng đồng hồ sau, nghĩa là đúng lúc hai trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt từ mạn Tây Bắc tràn vào thành phố, liền bị hàng loạt bom B52 thả trúng, cách bìa thành phố chỉ 1 km. Riêng trong ngày này, Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã dành cho chiến trường An Lộc 20 phi vụ B52 với 2,000 tấn bom đủ loại. Theo sự ước tính tại chỗ, có ít nhất 1 trung đoàn địch bị tiêu diệt. Cuộc tấn công lập tức bị chặn lại. Cánh quân thứ tư ước chừng 1 trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt có 10 chiến xa dẫn đầu đánh thốc từ dưới lên trên, theo ngã Tây Nam vào lúc 6 giờ 30 sáng. Lực lượng trú phòng giữ mặt này chống trả mãnh liệt nên mũi dùi chính không thể tiến thêm được. Tuy nhiên, ở cả hai mặt Bắc lẫn Nam, một số đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đã xâm nhập được vào thành phố và chia thành nhiều tổ chiến đấu nhỏ, gây hỗn loạn trong thành phố.

    Suốt ngày 12/05/1972, quân trú phòng cố sức đánh cận chiến để trục các toán Cộng Sản Bắc Việt ra ngoài. Mãi cho đến tối, chiến trường mới tạm lắng dịu tiếng súng giao tranh, nhưng pháo binh Cộng Sản lại nã liên hồi bất tận vào bên trong An Lộc. Sau 4 giờ để pháo binh tác xạ, đồng thời xếp đặt lại đội ngũ, Cộng Sản Bắc Việt lại lợi dụng thời tiết xấu với những cơn mưa như trút tấn công vào, từ ba mặt Ðông Bắc, Tây và Nam. Như vậy, Cộng quân đã liên tục tấn công vào 6 mặt chung quanh An Lộc trong 3 ngày liên tiếp. Mặc dù phải liên tiếp chiến đấu trong ba ngày ròng rã, trong sự thiếu thốn cả lương thực lẫn đạn dược, nhưng với sự yểm trợ của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà lẫn Hoa Kỳ với B52 lẫn các phi cơ khu trục, trực thăng võ trang, phản lực … quân trú phòng vẫn cầm cự được, và lần hồi bẻ gẫy các mũi dùi tấn công, đánh bật quân Cộng Sản Bắc Việt ra ngoài rìa thành phố.

    Trong 3 ngày giao tranh, có đến 600 binh sĩ của đôi bên chết ngổn ngang trên đường phố, chưa kể số tổn thất của Cộng Sản Bắc Việt vì B52. Mùi tử khí bắt đầu xông lên nồng nặc vì không ai có thì giờ chôn cất. Có chăng là các binh sĩ đồn trú để dành thì giờ nghỉ ngơi chôn cất các bạn đồng đội, đánh dấu để sau này thân nhân có thể tìm ra. Ðáng kể nhất là các chiến sĩ Biệt Cách Dù, họ đã quen sống trong lòng địch, đơn độc nhiều ngày, nên An Lộc đối với họ cũng khá dễ chịu. Bởi thế, họ vẫn bình thản tạo dựng được một nghĩa trang khá tươm tất để chôn cất các bạn đồng đội không may gục ngã trên chiến trường. Nghĩa trang Biệt Cách Dù nằm sát chợ Bình Long và được ghi dấu hai câu thơ mộc mạc trên một tấm bia mộ chung sau đây :”An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”.

    Quân trú phòng tuy phải một phen xất bất xang bang, nhưng sau trận này sau khi chịu đựng nổi cuộc tấn công quyết định mà Cộng Sản Bắc Việt dồn toàn lực lượng vào quyết định dứt điểm An Lộc, họ đã thoát được những giờ phút nguy hiểm nhất. Tuy nhiên, mối đe dọa vẫn còn, vẫn thường trực chờ ở bên mình. Bên nào cũng ngất ngư. Gần 40 ngày đã trôi qua. Lực lượng tấn công dù có chuẩn bị kỹ càng đến đâu, cũng khó lòng tích trữ một số lương thực và đạn dược cho một trận chiến quá lâu dài với một cường độ khốc liệt như vậy. Bom đạn hàng ngày tàn phá các vị trí tiếp liệu, đánh phá các đường tiếp tế. Vũ khí, đạn dược mỗi ngày một hao mòn. Trên 50 chiến xa bị bắn cháy. Binh sĩ lớp chết lớp bị thương phải lo di tản… Bao nhiêu sự khó khăn dồn dập trong lúc hậu phương lại quá xa. Mỗi ngày qua đi là gánh nặng lại thêm chồng chất. Hàng ngày, quân Cộng Sản Bắc Việt phải chia nhau đi lượm dù tiếp tế do phi cơ thả lạc ra ngoài. Quân trú phòng Việt Nam Cộng Hoà cũng chẳng hơn gì. Hàng trăm thương binh không được di tản từ 40 ngày qua. Họ nằm dài chung quanh các phi trường để mỏi mòn chờ đợi trực thăng. Nhưng sân bay nào cũng là mục tiêu chọn sẵn của pháo binh địch. Vừa thấy bóng trực thăng thấp thoáng ở đâu là pháo binh Cộng Sản câu ngay đến đó. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài phi công trẻ tuổi gan lỳ cũng đáp xuống được, di chuyển được một số binh sĩ.

    Biết bao thảm cảnh xảy ra bên này cũng như bên kia, ai còn tinh thần chiến đấu bên đó sẽ thắng. Bao nhiêu ngày không được tắm rửa ? Nước không có đủ để uống lấy gì mà tắm giặt? Lò mò ra suối tìm nước là một việc mạo hiểm vì không biết “nó” pháo lúc nào. Cơm xấy chỉ đủ ăn cầm hơi. Dù tiếp tế 10 cái rơi ra ngoài hết 8. Suốt mấy tháng trời ăn ngủ dưới hầm, giấc ngủ chập chờn, ám ảnh. Xác chết ngổn ngang, thương binh nằm oằn oại trước mắt. Nếu không phải là sống trong một tập thể chặt chẽ, nếu không tin vào một cái gì đó tốt đẹp hơn, chắc chắn khó có ai chịu đựng nổi mấy tháng trời liên tục như thế.

    Càng nóng lòng tiến đến An Lộc, đoàn quân giải toả càng bị thiệt hại nặng. Tướng Tư Lệnh mặt trận Nguyễn Văn Minh đành thay đổi chiến thuật: Ðặt trọng tâm vào việc càn quét những đơn vị chung quanh An Lộc và dọc theo quốc lộ 13 trước đã, để dọn đường cho Bộ Binh tiến vào An Lộc. Toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và các lực lượng tăng phái gồm Trung Ðoàn 9, Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, Thiết Giáp, Nhảy Dù quyết thu ngắn khoảng cách. Pháo đài bay B52, phản lực cơ, khu trục oanh tạc cơ dữ dội dọn đường. Quân giải toả ào ạt tiến lên vượt suối Tàu Ô, qua Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch. Ðến trưa 16/05/72, đoàn quân này chỉ còn cách An Lộc có 3 km thì bị khựng lại. Các đơn vị của Việt Nam Cộng Hoà thi đua nhau tiến vào An Lộc. Tuy nhiên, Cộng Sản Bắc Việt ẩn nấp trong đồn điền cao su Xa Cam, cửa ngõ tử thần đi vào An Lộc, với một địa thế vô cùng hiểm trở, sẵn sàng chặn đứng mọi cuộc tiến quân xuyên qua yết hầu này.

    Ngày 19/05/72, là ngày mà Cộng Sản Bắc Việt thường năm vẫn gây đổ máu khắp nơi tại Miền Nam để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh. Theo tin tức của một tù binh cao cấp Cộng Sản Bắc Việt bị bắt tại An Lộc thì Bộ Tham Mưu cao cấp Cộng Sản Bắc Việt sẽ cử hành lễ này trước đó 3 ngày, để rồi cố gắng đánh một trận nữa vào An Lộc, may ra có thể kích động tinh thần cán binh lần chót quyết chiếm thị trấn này vào ngày 19/05/72, gọi là để mừng sinh nhật “Bác Hồ” dù ông ta đã chết. Nhưng kế hoạch này đã bị bại lộ. Một toán Biệt Kích đã được tung vào vùng tình nghi, 16km Tây Nam Bình Long. Nhận đúng toạ độ, toán Biệt Kích gọi về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau 6 phi cơ B52 liên tiếp dội bom xuống vùng này. Nguồn tin này cho hay, 80% nhân mạng chung quanh Bộ Tham Mưu này của Cộng Sản Bắc Việt đã bị chôn vùi trong hố bom. Nhờ cuộc không tập này, quân Cộng Sản Bắc Việt đã không thể mở nổi trận đánh vào ngày 19/05/72 như chúng đã dự định.

    Tuy nhiên, đến ngày 23/05/72, từ rạng sớm cho đến xế chiều, Cộng quân lại mở liên tiếp 4 đợt tấn công bằng chiến xa vào các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà tại khu vực Nam và Tây Nam An Lộc, cách thị trấn này từ 1-5 km, nhưng đều bị đẩy lui. Kết thúc trận đánh này, có thêm 13 chiến xa Cộng Sản Bắc Việt gồm 5 chiếc T54 và 8 PT76 bị hạ.

    Lực lượng giải toả vẫn chập chờn tại đồn điền Xa Cam, quốc lộ 13 vẫn bị quấy rối bằng pháo và các ổ phục kích. Hai trung đoàn bộ binh Việt Nam Cộng Hoà vẫn tiếp tục lục soát, tảo thanh vòng đai chung quanh phía Nam An Lộc. Qua máy truyền tin, các lực lượng tử thủ An Lộc biết được quân tiếp viện cách họ không xa. Cũng qua máy điện thoại siêu tần số, Tướng Lê Văn Hưng cho các phóng viên biết rằng tinh thần binh sĩ của ông vẫn cao, vẫn sẵn sàng đánh nữa, và đã có thể ra khỏi hầm để tắm suối, sau 50 ngày “tắm khô” vì mức độ pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt đã giảm. Họ cũng đã quá quen với nhịp độ 1,000 trái pháo mỗi ngày. Không Quân Chiến Thuật yểm trợ quân Việt Nam Cộng Hoà tại vùng Nam An Lộc, trong lúc Không Quân Chiến Lược (B52) liên tiếp không tập vùng Bắc thị trấn, phá vỡ các kho vũ khí, đạn dược vừa được Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.

    Một tài liệu tối mật bắt được ngoài mặt trận cho thấy, Trung Ương Cục R (Trung Ương Cục Miền Nam) của Cộng Sản khẩn báo về Trung Ương Ðảng Bộ Cộng Sản ngoài Bắc về sự thiệt hại nặng nề của các đơn vị Cộng Sản tham chiến tại An Lộc. Bản báo cáo này nêu rõ trường hợp điển hình là Trung Ðoàn 209, sau một thời gian trấn giữ Bầu Bàng và Tàu Ô đã tan nát. Mỗi đại đội không còn đầy 30 lính, mỗi tiểu đoàn chỉ còn độ 90 so với quân số lúc đầu là 350 người. Cục R cũng than phiền khả năng chiến đấu của sư đoàn Bình Long quá yếu kém, vì phân nửa sư đoàn này là lính Khmer Ðỏ, tỏ ra hoảng hốt mỗi khi nghe tiếng phi cơ dội bom.

    Theo sự tiết lộ của các giới chức quân sự Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hoà, Trung Ương Ðảng Cộng Sản Bắc Việt đã chỉ thị cho các đơn vị tham chiến tại Bình Long phải cố gắng kéo dài trận chiến thêm 3 tháng nữa để phù hợp với tình hình và đem lại lợi thế cho họ trong một giải pháp chính trị trong tương lai.

    Trong tình thế này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển thủ ra công, chuyển từ thế hạ phong sang thế thượng phong, để rồi giải toả được vòng vây lửa của 4 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Tướng Nguyễn Văn Minh, khi tiếp xúc với báo chí tại Lai Khê ngày 31/05/72 đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông thừa nhận, Cộng Sản Bắc Việt đã đạt được một lợi thế ngay từ đầu với quân số đông gấp 4 lần, và quân Việt Nam Cộng Hoà đã phải chấp nhận khá nhiều tổn thất. Tuy nhiên, sau 54 ngày giao tranh, Cộng quân đã thiệt hại ít nhất là 30,000 quân trong tổng số 4 sư đoàn của chúng. Mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt mong tiến đánh thủ đô Sài Gòn đã hoàn toàn bị chận đứng tại An Lộc. Ðiều ước muốn nhất của ông là sớm thoát cảnh tù túng, không khác một địa ngục trần gian.

    Cũng vào ngày cuối tháng 05/72, TT Nguyễn Văn Thiệu đã bay thị sát hai mặt trận Kontum và Thừa Thiên – hai mặt trận đều đang dắm chìm trong lửa đạn, đồng thời phát động chiến dịch 18 ngày thi đua giết giặc mừng ngày Quân Lực 19/06. Chiến dịch đã thu đạt được kết quả mỹ mãn: giải toả Kontum, khắc phục quốc lộ 13, mở đường tiếp vận cho An Lộc, một tuần sau đó. Khắc phục quốc lộ 13 và bắt tay với An Lộc. Trong những ngày đầu tháng 06/72, đoàn quân có nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13 tích cực hoạt động. Hai Trung Ðoàn 33/21 và 15/9 cùng Tiểu Ðoàn Dù cùng song song tiến lên, khởi từ An Trạch. Tiểu Ðoàn 6 Dù bị tan nát từ ngày 21/04/72 tại vùng Ðồi Gió đã được tái bổ sung. Chỉ trong vòng 1 tháng rưỡi, với nỗ lực huấn luyện ngay tại chỗ của các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn, đơn vị này đã trở lại chiến trường quyết trả mối hận Ðồi Gió. Với sự hỗ trợ của hai trung đoàn bạn, Tiểu Ðoàn 6 Dù lướt đi như gió, càn quét các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt cản đường như một con hổ dữ, không hổ danh là những thiên thần mũ đỏ. Chiều tối ngày 08/06/72, Ðại Ðội 62 của Tiểu Ðoàn 6 Dù bắt tay được với một đại đội của Tiểu Ðoàn 8 Dù trấn giữ vùng Nam An Lộc từ ngày 17/04/72. hai tiểu đoàn này cùng được đổ xuống ấp Srok Ton Cui ngày 15/04, nhưng lạc nhau kể từ đó. Ðến nay lại gặp nhau trên cửa ngõ An Lộc, làm sao kể xiết nỗi vui mừng của cả hai bên, hai đoàn quân đến ôm chầm lấy nhau, siết chặt tay nhau, mừng mừng tủi tủi.

    Ngày 09/06/72, lần đầu tiên kể từ hai tháng qua, một đoàn trực thăng 23 chiếc hạ cánh an toàn xuống An Lộc, vừa tiếp tế, vừa đổ quân, để rồi bốc thương binh ra. Quân trú phòng phấn khởi, tiến lên chiếm lại những vị trí của Cộng quân cố thủ tại phía Bắc An Lộc. Những tổ kháng cự bên trong thị trấn cũng lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc di tản thương binh và thường dân vẫn được tiếp diễn đều đặn. Ngày Chủ Nhật 11/06/72, TT Thiệu đã gửi cho Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, yêu cầu chuyển lời khen nồng nhiệt của ông đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu III, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã anh dũng chiến đấu bảo vệ Thị Xã An Lộc và khai thông Quốc Lộ 13.

    Trong lúc đó thì Liên Ðoàn Biệt Cách Dù và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân cùng song song tiến lên mặt Bắc An Lộc. Tiểu Ðoàn 36 Biệt Ðộng Quân đã cắm ngọn cờ vàng ba sọc đỏ đầu tiên tại trại gia binh pháo binh ngày 12/06/72. Kế đó, Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng Quân đánh lên mặt Tây Bắc, sát sân bay và cạnh đồi Ðồng Long. Tiểu Ðoàn này đã chế ngự một cao điểm sát đồi Ðồng Long để yểm trợ cho Biệt Cách Dù tấn công lấy luôn đồi Ðồng Long, cắm cờ trên ngọn đồi này. Ngọn đồi này cao 128 m, và là nơi Cộng Sản Bắc Việt đặt pháo binh bắn vào An Lộc từ mấy tháng qua. Sau cái bắt tay giữa hai tiểu đoàn Dù ngày 08/06 lực lượng trú phòng được tiếp tế thật đầy đủ dò dẫm tiến lên mạn Bắc quốc lộ 13 và nới rộng thêm vòng đai phòng thủ.

    Ngày 12/06/1972, khi cờ Việt Nam phất phới tung bay trên đỉnh đồi Ðồng Long, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố vối phái viên VTVN :”Thành phố An Lộc được hoàn toàn giải toả”.

    Bên Lề Cuộc Chiến Mưa Pháo
    Ðể duy trì áp lực trên thành phố An Lộc, hoặc ngay cả trước khi mở cuộc “hậu xung”, Cộng Sản Bắc Việt đã dành cho Thị Xã nhỏ bé này những trận pháo kinh thiên động địa mà các giới quan sát chiến trường lúc bấy giờ nhận xét là họ chưa từng thấy cuộc pháo kích nào như thế cả trong lịch sử chiến cuộc thế giới. Nghĩa là không còn danh từ nào tượng hình hơn danh từ “mưa pháo” mà người dân tại An Lộc cũng như chiến sĩ ở đấy đã gọi như thế. Một sĩ quan cao cấp, Ðại Tá Mạch Văn Trường, đã ví những trận pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt như chiêu thức võ hiệp “Mãn thiên hoa vũ” (Mưa hoa bay đầy trời). Diện tích thị trấn An Lộc chỉ chừng vài km2, thế mà trong hai tháng trời đã lãnh đủ mọi thứ đạn của Cộng Sản Bắc Việt, có lúc đến gần 8,000 đủ mọi thứ đạn trong một ngày, như ngày 11/05/72. Tính chung, hơn hai tháng trời bị pháo liên tục thì trung bình thành phố An Lộc đã chịu hơn 200,000 quả đạn đủ loại. Ít người được dịp chứng kiến tận mắt thành phố An Lộc hoang tàn sau những cơn mưa pháo bất tận, nhưng ai ai cũng có thể hình dung những đổ nát của thị trấn nhỏ bé này với một chút tưởng tượng rằng cứ chừng 20 m2 thì bị tàn phá bởí quả đạn pháo kích của CSBV. Với “mật độ” này, không có một vật gì ở thị trấn An Lộc không ghi nhận dấu vết tàn phá của đạn pháo kích. Từ cột điện, cây cối cho đến chiếc lon sữa bò vứt ngoài đường phố cũng ít nhất bị trúng miểng pháo, đừng nói chi đến nhà cửa.

    An Lộc còn những chuyện bi thảm mà thế giới văn minh không ai có thể tin là sự thật. Dưới trận mưa pháo kinh hoàng của đoàn quân xâm lược, thật ít người được chết chỉ một lần. Vắng tiếng pháo, người sống vội vã lo cho người chết, đào tạm cái hố, gom vội thi hài để người chết được một nơi yên giấc và cũng để tránh cảnh xác người sình thối trước mắt người sống. Thế nhưng giấc ngủ của kẻ chết cũng không yên dưới tay giặc Cộng. Mộ mới “đắp “ được vài phút, đạn pháo kích của Cộng quân lại rơi vào. Xác người chết vốn không còn nguyên vẹn lại bị giết một lần nữa bởi sự vô lý của mộng xâm lăng hầu chụp lên đầu dân Miền Nam chủ thuyết Cộng Sản. Người dân còn kẹt lại An Lộc, người lính quyết tâm tử thủ bảo vệ thành phố này, đã cố gắng chịu đựng đến tột cùng của sự cố gắng trước cái kinh hoàng của “mưa pháo” để thành phố không thất thủ. Những tiếng nổ khủng khiếp liên hồi hàng chục ngày rồi cũng trở thành những âm thanh dịu vợi vì quá quen thuộc. Cái kinh hoàng bây giờ không còn phải ở hai tai mà ở đôi mắt khi nhìn thấy những người đi thu lượm chấp nối đầu, rồi tay, rồi chân hay thân mình của thân nhân hay bạn hữu cho đầy đủ trước khi vùi sâu dưới lòng đất lạnh.

    Ngày 15/04/72, hơn 10,000 dân An Lộc chạy vô khu nhà thờ và nhà thương An Lộc, hy vọng Cộng quân không tấn công hai địa điểm này, bởi nếu còn một chút lòng người không một cấp chỉ huy quân sự nào có thể ra lệnh bắn vào nhà thương và nhà thờ. Chính vì hai chữ “thuơng” và “thờ” với tượng hình đặc thù của nó, tự đã nói lên tất cả ý nghĩa của sự việc dân chúng đi tìm hai nơi này để lánh nạn. Tuy nhiên, Cộng Sản Bắc Việt vẫn tập trung hoả lực để pháo kích vào hai nơi này. Gần hai tháng sau, khi kể lại vụ nhà thờ ngày 15/04/72 cho chúng tôi, một người lính tử thủ tại An Lộc vẫn còn kinh hoàng và lòng kinh tởm cho dã tâm của Cộng Sản Bắc Việt. Anh nói:”Cả chục ngàn người đang ở khu vực nhà thờ, họ cùng các vị lãnh đạo tinh thần chỉ còn biết cầu xin đấng duy linh tối thượng thương xót cho một đám dân lạc loài qua khỏi cảnh đao binh. Không ai có thể hình dung được cảnh hỗn loạn, thảm khốc khi hơn 10,000 người đạp lên nhau chạy thoát khỏi khu nhà thờ. Số thương vong không biết sao kể siết”.

    Một thành phố nhỏ như An Lộc dễ dàng trở thành mục tiêu tốt cho bất cứ pháo thủ nào chỉnh súng để pháo vào đó, bởi vậy An Lộc đã chẳng còn gì sau hơn 60 ngày bị pháo kích. Ðiều may mắn còn lại cho những người tử thủ là đạn rơi trúng hầm thì mới chết chứ cách hầm vài thước thì ăn thua gì. Loại đầu đạn phá hầm ghê sợ nhất là loại nổ chậm “delay”. Ðầu đạn này không phát nổ khi chạm đất mà còn xuyên thủng khoảng 10 m rồi mới nổ. Với loại đạn này sự tàn phá vô cùng khủng khiếp. Rất may là Cộng Sản Bắc Việt không có nhiều loại đạn này. Kể cả căn hầm của Tướng Hưng, ở An Lộc hầu như không có một công sự nào chịu nổi một phát 130 ly hay hoả tiễn 122 ly, có điều Thượng Ðế “còn ngó lại” nên phần trên căn nhà của Tướng Hưng chỉ bị mấy trái cối 82 ly. Ðạn cối 82 ly không xuyên phá, khi nổ văng nhiều mảnh nhưng chỉ có thể làm sập mái nhà mà thôi. Một vài trái hoả tiễn 122 ly, 107 ly và cả đạn “delay” đã rơi chung quanh Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng, rất may mắn không có trái nào trúng hầm và chỉ làm hư hại phần ngoài của khu vực mà thôi.

    Ðã nói tới pháo kích tức nhiên phải nghĩ tới những tàn phá và thảm cảnh, những điều này mới chính là biểu tượng vĩ đại nhất cho sự chịu đựng và tinh thần kiên quyết của đoàn người tử thủ cho dù đó là quân nhân hay những thường dân hoàn toàn không có vũ trang. Với khoảng 200,000 trái đạn trong hơn hai tháng, Cộng quân đã làm cho An Lộc sụp đổ toàn diện, 4,000 binh sĩ và thường dân tử thương trong thị trấn. Nhưng tại sao thành phố nhỏ xíu này vẫn đứng vững và trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu của người dân Miền Nam không thích chế độ Cộng Sản? Ðó không phải là một biểu tượng cho một dân tộc không muốn sống dưới chế độ Cộng Sản hay sao? Một sĩ quan tử thủ Bình Long đã ghi lại trong nhật ký :”Sự sụp đổ của một thành phố không có nghĩa là mang theo sự sụp đổ tinh thần chiến đấu của những người đang còn muốn tiếp tục bảo vệ nó và bảo vệ chính bản thân mình”.

    Tiểu Ðoàn 6 Dù - Ðồi Gió Ðổi Tên

    21giờ00 của ngày 19 được đánh dấu bởi quyết định của “Lê Lợi”: Tiểu Đoàn 6 Dù không còn nhiệm vụ giữ pháo nữa, chỉ còn nhiệm vụ giữ cao địa. Tiểu Đoàn Trưởng toàn quyền quyết định. Pháo còn nữa đâu mà giữ, chưa đầy 48 giờ, đã mất 6 khẩu pháo với ngàn quả đạn, bây giờ ở đây làm gì? Dọt ! Đĩnh dẫn Đại Đội 60 và Đại Đội 62 xuống đồi, hướng về phía Ấp Srok Ton Cui, nơi đang có 61 trấn thủ, để lại trên đồi 2 Đại Đội 63 và 64 cho Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ.

    Vinh “con” ào xuống như núi lở, Cộng quân bung ra khép lại. Vinh tiếp tục lấn… Chân Đồi Gió và Ấp Srok Ton Cui lại kẹt thêm cái suối Rộ. Vinh cựa quậy khó khăn dưới đám lau sậy, ruộng sũng nước. Nó bâu tôi như đĩa đói, dứt không nổi Anh Năm. Vinh hét với Đĩnh trong máy… Tối quá chỉ còn sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôi… quên sờ nón sắt mà nhận Bạn.

    Nhưng Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người. 23giờ00 đêm, Vinh cũng sờ được cái Ấp…nơi đây Đại Đội 61 đang trông chờ từ lúc chập tối, 400m từ chân đồi đến người lính gác của Đại Đội 61, thành phần của Tiểu Đoàn 6 Dù đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm một số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400m cận chiến.

    Bây giờ là 00giờ của ngày 19 bước qua 20. Cộng quân không phải chỉ có một thành phần, một cánh quân, nhưng mà là một lũ người, một lớp sóng người chen vai thích cánh lố nhố đầy chân Đồi Gió, chân đồi phía Tây lẫn phía Đông.. Cộng quân tràn ngập đường 245 như trẩy hội. Cộng quân bao quanh Ấp Srok Ton Cui như đám người đói vây quanh vị trí phát chẩn. Không phải là một cuộc điều quân, nhưng là một chợ người, lộn xộn ồn ào, la hét tìm đơn vị, chuyển lệnh - Ngày hôm nay sao máy bay “nguỵ” nhiều quá! - Sao mày không bắn! Tao chỉ có AK - AK thì AK, bắn cho “nguỵ” sợ…Ở trong này, Đĩnh thì thầm liên lạc với các Đại Đội 61, 62, và 60 : các Toa dặn lính đừng bắn phải tiết kiệm đạn tối đa, chỉ nổ súng khi nào thấy chúng nó tấn công mình. Phải đợi trời sáng, khi xác định được rõ mục tiêu, chúng ta sẽ đồng loạt nổ súng, cắt đứt ngang đoàn quân của chúng, nhớ chuẩn bị các M.72 để hạ Tăng chúng nó!!

    - Các Đại Đội Trưởng đáp, nhận rõ 5/5.

    Dù vô trật tự đến tới đâu, Cộng quân cũng tập họp lại được hàng ngũ. 3 giờ sáng, tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng… xong rồi tụi nó chuẩn bị dứt mình.

    Tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm, vang dọc theo đường 245… Bỏ mẹ, chúng nó bố quân cả 3 cây số đường dài.. đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245, có tiếng động cơ máy nổ, ánh sáng đèn pha quét ngang dọc trong bóng đêm của tăng T.54.

    3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước, Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng, mặt đen xì, con người quá khổ, chậm rãi điềm tĩnh và hùng tráng như một hiệp sĩ thời cổ, đứng ra khỏi hầm, điều khiển hai Đại Đội 63, 64 phân công. 63 của Hoàng và 64 của Tuấn, 2 Đại Đội đã thử lửa với quân Cộng Sản Bắc Việt từ ngày 17, hai Đại Đội Trưởng “tới” quá mức, dũng cảm như những thiên thần tung hoành trên đầu lũ quỷ say máu. Tất cả đều ở tuyến đầu chiến đấu, không còn Khinh Binh, Tổ Trưởng, Trung Đội Trưởng, Tiểu đoàn Phó…chỉ còn một hàng ngang theo giao thông hào, điểm phân biệt người chỉ huy là tay nói máy chuyền lệnh, tay ném lựu đạn, 2 Đại Đội chỉ trừ những người chết hay bị thương mê man, thương binh chỉ tạm băng bó sơ qua vết thương, đứng hoặc dựa lưng vào thành giao thông hào để chiến đấu.

    4 giờ trong bóng tối ngả màu tím của ngày sắp đến, 6 chiếc T.54 chia từ hai hướng Đông và Đông Bắc, bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết Cộng Sản Bắc Việt chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn. Trăng thượng tuần gấn sáng rọi ánh sáng trắng lạnh xuống sườn đồi vằng vặc, khối sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ì, ngọn đèn vẫn giữ nguyên độ sáng, ở vị thế “pha”, luồng ánh sáng dọi thẳng lên đồi hỗn xược thách thức… Hai chiếc T.54 đầu tiên bò lần lần từng bước lên ngọn đồi dựng đứng.

    Để tao thanh toán nó, Tuấn đứng thẳng khỏi giao thông hào, kéo chiếc ống M.72 cơ hữu (trên nguyên tắc chỉ khinh binh mới có M.72). Rút hết các chốt an toàn.Tách! Sợi dây an toàn cũng đã bị đứt, Tuấn đưa chiếc hoả tiễn lên vai nheo mắt... 100 thước, còn xa, 80 thước, hơi xa, 50 thước, đủ! Tuấn bị loá mắt bởi hai ngọn đèn dọi thẳng mặt…Ầm ! Quả hoả tiễn dập vào giữa hai điểm sáng, hơi chếch cao một chút, trúng ngay pháo tháp… Chiếc thứ hai tăng tốc độ hú lớn nhấc một cái lên tuyến phòng thủ, Hạ Sĩ Nhu, Tiểu Đội Trưởng can trường không kém Đại Đội Trưởng, nhảy vội lên pháo tháp, quả lựu đạn phát nổ sau khi Nhu vùa kịp nhảy xuống. Chiếc thứ ba thì lãnh 1 quả M.72, nằm yên bất động.

    Ba chiếc T.54 của phía Đông thì do chính Hoàng và một vài binh sĩ khác hạ. Cộng quân lại lui xuồng chân đồi, để đại pháo rưới thêm một lớp, lớp thứ sáu kể từ lúc khởi đầu trận đánh. Ngày tới với ánh sáng cùng cơn mưa pháo thứ bảy, đỉnh đồi bây giờ tan hoang, điêu tàn và bốc khói, khói của đạn địch và khói của đạn ta cháy dở “Hột Lạc” dài 30m ngang 70m, hứng khoảng trên 2000 quả đạn trong một đêm với vị trí dã chiến, ngày chiếu ánh sáng rọi rõ cảnh vật tan nát…

    Tiểu Đoàn Phó Bằng bị “tung” một mắt. Tuấn hứng một quả 75 ly, quả đạn nổ ngay trên thân thể người sĩ quan trẻ mới 23 tuổi… số tuổi quá nhỏ đem so với chiến trường nặng độ. Đồi Gió kể từ đó mang tên mới: Đồi “Quốc Tuấn”, danh hiệu truyền tin của Tuấn, Cao Quốc Tuấn.

    Với một con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng mắt còn lại giữ vững đồi cho đến lượt tấn công thứ 16. 12 giờ trưa ngày 20, Bằng kiệt lực suôi tay bỏ rơi chiếc combine’, gọi Hoàng đến: “Thay moa đem hai Đại Đội về 169 (Tây Nam Đồi Quốc Tuấn), với một cái yên ngựa chừng trên 2 Km đường rừng rậm. Nhớ đem hết thương binh, kẻ chết phải chôn lại…

    An Lộc - Chiến Trường Thách Ðố Của Phóng Viên
    Sau đây, dưới hình thức ký sự của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam đã đặt chân hơn một lần vào An Lộc trong những ngày còn lửa đạn, người đọc sẽ được dẫn dắt vào thành phố đổ nát An Lộc, sống vài giây phút với những người dân, người lính đã cố thủ An Lộc. Công việc của một phóng viên là trung thực ghi nhận mọi sự kiện xãy ra trong đời sống thật sự. Trên một khía cạnh nào đó người phóng viên cho một chứng nhân dự phần vào những diễn biến luôn luôn làm cho thế giới biến đổi không ngừng. Với tư cách của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam, tôi tới An Lộc ngày 13 tháng 06 năm 1972 khi thị trấn này buớc vào ngày tử thủ thứ 68. Nhiệm vụ của tôi tương tự như các phái viên Vô Tuyến Việt Nam ở các mặt trận khác là tường trình qua hệ thống liên lạc siêu tần số, những sự thật đã và đang diễn ra tại các địa điểm mà chúng tôi có mặt. Tôi đặc trách mặt trận Bình Long và chiến trường An Lộc, thực sự như một thách đố đối với cá nhân tôi cũng như nhiều người khác đã từng tìm cách vào An Lộc. Chuyến đi của tôi khởi sự vào trung tuần tháng 04/72 và tôi đã chỉ có thể hoàn tất 2 tháng sau đó, tức là vào ngày 13/06/72. Trong hai tháng trời ròng rã này, mỗi lần khởi hành đều kéo theo một thất bại cho riêng tôi và cả các anh em khác đi cùng. Có những người bị thương, có những kỷ niệm chua sót nhưng đau đớn hơn là cái chết của cố phóng viên điện ảnh, Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Bình. Một tuần lễ chờ đợi, lên trực thăng rồi lại xuống trực thăng, ăn chực nằm chờ dưới những cơn lốc cát nóng bỏng ở phi trường Lai Khê, Bình Dương, ngày 29/04/72, chúng tôi khởi sự cuộc hành trình phiêu lưu vào An Lộc, thời gian này An Lộc bước vào ngày tử thủ thứ 22, áp lực địch đang lúc mạnh và quân Cộng Sản Bắc Việt tạo được một lưới lửa phòng không suốt dọc phi trình vào thành phố anh hùng này. Trong ngày này, chúng tôi không tới được mục tiêu, trực thăng chở chúng tôi bị bắn như mưa cho khi tới đồn điền Xa Cam. Tại đây địch quân pháo kích hàng loạt vào bãi đáp, các phi công quyết định bay trở về. Trên cao độ hơn ngọn cây ở Xa Cam, chúng tôi nhìn thấy hàng trăm thương binh đang chờ đợi được di tản về Lai Khê, có những người nằm trên băng ca, có những người chạy tán loạn dưới những tiếng nổ chát chúa cát bụi mịt mờ của đạn pháo kích. Họ chạy theo hướng trực thăng đến như muốn bấu víu vào những hy vọng cuối cùng cửa sự sống. Chúng tôi cảm thông tình cảnh này vì chính mắt tôi trông thấy những thương binh ở Lai Khê, những người còn đi lại được, những vết thương đã có dòi và những ký sinh trùng ghê tởm này đã rơi vương vãi khi anh em từ trên phi cơ tản thương bước xuống. Ðợt trực thăng hôm đó, không có một thương binh nào về tới Lai Khê vì các phi công không thể hạ tầu giữa cơn mưa pháo kích của địch quân. Trên đường về, địch cũng bắn rát như khi chúng tôi tới, một trong các loạt đạn của địch đã khiến chiếc trực thăng chở chúng tôi không còn điều khiển được và viên phi công đã hạ khẩn cấp xuống một bãi trống giữa khu rừng rậm ở phía Nam đồn điền Xa Cam. Trong những khắc khoải kinh hoàng, một trực thăng gunship yểm trợ đã đáp xuống khu đất này để cứu sống tất cả chúng tôi gồm 4 nhân viên phi hành và 4 phóng viên chiến trường.

    Ngày 01/05/72, trong một chuyến đi tương tự, điện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình đã giã từ ống kính khi trực thăng chở anh nổ tung vì đạn B40 của Cộng quân. Vào khoảng thời gian này, dày đặc trong các khu rừng cao su, Cộng quân bố trí các ổ đại bác phòng không bắn bằng radar, các hoả tiễn địa không phóng tay cũng như các ổ đại liên khạc đạn không ngừng. Bởi vậy, các phi công ta đã phải liều lĩnh bay sát trên đầu ngọn cây để vô hiệu hoá khả năng phòng không địch điều khiển bằng “mắt thần”, tuy nhiên khi bay thấp, phi cơ ta phải chấp nhận đạn súng nhỏ và ngay cả đạn chống chiến xa B40 của địch, bắn từ những tên Cộng quân bị cột người trên các ngọn cây.

    Sau đây là bài tường thuật của một người đã có mặt tại vùng này :”Theo tôi biết thì Phòng 3 và Phòng 5 Bộ Tư Lệnh Quân Khu III trước 75 có những tấm hình này vì anh em trong Phòng 5 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh có chụp. Chẳng những lính xe tăng bị xiềng chân mà cả những tên đặc công bắn xẻ cũng bị xiềng chân trên những nhánh cây cao su vì, theo lời khai của các tên đặc công – đa số là người miền Nam – đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt thì nếu không bị xiềng chân, chẳng có bao nhiêu tên đặc công Việt Cộng dám ăn dầm nằm dề trên những nhánh cây cao su để theo dõi và bắn sẻ theo lệnh của bọn cán bộ Bắc Việt. Lính của Tiểu Ðoàn 33 thuộc Liên Ðoàn Dù của tôi đã bắn chết một tên đặc công Việt Cộng trên cây cao su. Hắn chết treo tòn teng, phải bắc thang lên hạ xác hắn xuống. Tui được gọi ra Tiểu Ðoàn Dù 33 trên Ðồi Gió chụp hình. Hồi đó, chụp xong rửa hình là giao cho Trưởng Phòng 5 (Chiến Tranh Chính Trị) hết. Ðâu có dè có ngày mình cần nó mà giữ lại vì … nhiều tấm hình mà tôi đã chụp được tại An Lộc nhìn qua rợn người.”

    Sau chuyến đi thất bại ngày 29/04/72, chúng tôi vẫn trong tình trạng chờ đợi và tiếp tục một vài lần “phiêu lưu” nữa không phải bằng trực thăng nhưng bằng con đường máu mệnh danh bằng con đường xui xẻo 13 (quốc lộ 13). Ngày lại ngày, đoạn đường Lai Khê – Chơn Thành trở nên quen thuộc với chúng tôi, nhưng hết tuần lễ này đến tuần lễ khác chúng tôi không có cơ hội để vào An Lộc bằng đường bộ. Ðịa điểm xa nhất mà chúng tôi đạt tới chỉ là suối Tàu Ô, con suối tử thần đã cầm chân đoàn quân khai thông quốc lộ hơn hai tháng trời và vẫn còn tiếp tục cho tới sau ngày tôi vào được An Lộc và trở ra. Trên đoạn đường ngắn ngủi này, chúng tôi lại gánh chịu những kỷ niệm đau thương mới, khi theo chân đoàn chiến xa của Chi Ðoàn1/20 đi khai thông quốc lộ. Ðức Tài, biệt danh của ông Ðại Úy Chi Ðoàn Trưởng 1/20, không phài là xa lạ gì với các phóng viên chiến trường. Ðức Tài từng là anh hùng thiết giáp trên chiến trường Kampuchia. Ngày 24 xuất trận lại Lai Khê, Ðức Tài đã ôn lại kỷ niệm cũ với nhóm phóng viên chiến trường và chính anh đã đãi chúng tôi bữa hủ tiếu sau cùng ở câu lạc bộ Sư Ðoàn 5. Sáng 24, Ðức Tài dẫn mấy chục “con cua sắt” đến Chơn Thành để từ đây anh tham gia mặt trận Bình Long. Gặp nhau tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Trung Ðoàn 32 ở phía Bắc Chơn Thành, Ðức Tài còn đưa hai ngón tay thành hình chữ V làm dấu hiệu chiến thắng khi leo lên chiếc M113 để dắt đoàn cua sắt M41 tiến vào tử địa. Hai người trong nhóm chúng tôi là Lê Thiệp và Dương Phục định leo lên xe Ðức Tài để đi cùng, nhưng không hiểu sao lúc đó tôi lại cản và nói :”Ði theo sau tiện hơn”.

    Ðức Tài dẫn đoàn xe đi, chúng tôi dồn cục lên một chiếc xe Jeep theo sát chiếc M41 sau cùng. Ðoàn xe mới chạy chừng 5 phút, chúng tôi nghe những tiếng đạn pháo kích và tiếng súng liên thanh nổ rền. Mỹ voi, điện ảnh viên quân đội, lao vội chiếc xe xuống lề đường, la lớn :”Xuống hết đi tụi bay, đụng rồi”. Hai phút sau, khi chúng tôi chạy lên chỗ chiếc xe M41 đang nhả đạn 76 ly vào bìa rừng thì người trưởng xa leo lên pháo tháp la thất thanh :”Ðức Tài bị rồi, hoả tiễn 122 ly pháo trúng xe”.

    Ðoàn chiến xa bị chặn lại tại đây và một phi tuần A1 tới thả bom hai bên bìa rừng. Chúng tôi trở về Trung Ðoàn 32 để nhìn mặt Ðức Tài lần cuối. Hai người lính khác cũng hy sinh với Ðức Tài. Cái chết ở mặt trận này đến thật mau lẹ, chỉ mấy phút sau khi làm dấu hiệu chiến thắng hình chữ V, Ðức Tài đã vĩnh viễn ra đi trong sự ngơ ngác bi thảm của cả đoàn quân vừa khởi sự tham gia mặt trận Bình Long không đầy nửa tiếng đồng hồ.

    An Lộc Ðịa Sử Ghi Chiến Tích
    Sau bao nhiêu lần đi, bao nhiêu trắc trở, tôi vẫn định bụng là sẽ phải vào An Lộc để nhìn thấy tận mắt thị trấn anh hùng này, nhìn thấy tận mắt sự tàn phá khủng khiếp vô lý của chiến tranh. Ðể được thấy, chứ không phải nghe nói về sức chịu đựng và những biểu tượng về tinh thần chiến đấu vô biên của tất cả những người đã giữ vững An Lộc, cho dù thành phố này không còn là một thành phố nữa. Ngày 13/06 toán phóng viên lại lên đường. Ngoài tôi còn có Ðại Úy Nguyễn Văn Quý, Sĩ Quan Báo Chí Sư Ðoàn 5, Dương Phục, Ðài Tiếng Nói Quân Ðội, Anh Thuần của Báo Tiền Tuyến, Tam Phong Slao Quắn của Sư Ðoàn 5 và Hebert thuộc hệ thống truyền thanh truyền hình của Canada. Người phóng viên quốc tế này đã bị tử thương ngày 23/07/72 lúc theo dõi chiến trường Quảng Trị sau khi An Lộc được giải toả. Tất cả chúng tôi được ngồi chung tên một trực thăng UH trong đợt đổ quân của Tiểu Ðoàn 2/31 của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh tăng viện cho mặt trận An Lộc.

    Vào khoảng thời gian này, phòng không địch không còn mạnh mẽ như những chuyến đi trước của chúng tôi vào 2 tháng 4 và 5. Các phi công ghi nhận là quân Cộng Sản Bắc Việt chỉ còn một ổ đại bác 57 ở phía Bắc Tân Khai và một số ít đại liên dọc theo các rừng cao su mà thôi. Ðoàn trực thăng 5 chiếc “lao” xuống Xa Cam lúc 11 giờ sáng và ngay khi chân vừa chạm đất chúng tôi bắt đầu nghe những tiếng xé gió và những tiếng nổ chát chúa, địch bắt đầu pháo kích theo như thói quen thường lệ, mỗi khi nghe tiếng động cơ trực thăng vọng về. Ðã có nhiều kinh nghiệm tại mặt trận này, tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, chạy túa vào 2 bên rừng cao su và lao mình xuống những hố bom đạn cũ gần nhất. Ðịch ngưng pháo sau chừng 15 trái đạn, đây là các ụ súng của ta bị địch chiếm ở phía Ðồi Gió, trong những ngày đầu chiến trận. Dứt tiếng pháo, chúng tôi chạy theo hai ven rừng cao su; phía trước là những toán quân vừa được trực thăng vận tới, họ di hành theo đội hình hàng dọc, nhiệm vụ của họ là tới An Lộc và từ đó tăng cường các cánh quân tảo thanh địch quân ở vòng đai Tỉnh lỵ. Ðược chừng hơn 100 m, Ðại Úy Quý bắt đầu kiểm điểm “quân số” trong toán chúng tôi, thấy mất ông phó nháy Slao Quắn và phóng viên Tiếng Nói Quân Ðội Dương Phục. Chúng tôi quyết định tìm chỗ núp để chờ. Có lẽ Slao Quắn và Dương Phục chạy qua phía rừng bên kia khi Cộng quân pháo kích bãi đáp. Một lát sau họ bắt kịp chúng tôi tại tấm bảng xi măng “Plantation de XaCam”. Dương Phục thở hổn hển, đất đỏ Bình Long nhuộm mồ hôi tạo cho gương mặt hắn một màu kỳ dị. Hắn cho biết trong lúc chạy pháo kích, cái túi đeo của hắn văng mất và sức ép của tiếng nổ lẫn cánh quạt trực thăng đã làm những đồ vật trong túi bay như bươm bướm. Dương Phục mất hết các vật dụng riêng của hắn ngoại trừ tìm lại được xác cái máy cassette đã trở thành vô dụng. Ðoạn đường từ Xa Cam vào An Lộc chỉ hơn cây số nhưng tôi đã có cảm tưởng là đã vượt đoạn đường di hành dài mấy chục cây số.

    Có lúc tôi định quẳng cái ba lô cho nhẹ và cũng để nhảy xuống hố tránh pháo dễ dàng. Tuy nhiên khi nghĩ tới mấy vật dụng cần thiết và mấy túi lương khô, tôi đã cố gắng đeo cái túi càng ngày càng nặng chĩu này để đi “bắt tay” tướng Hưng. An Lộc đã vào trong tầm mắt thì vừa lúc chúng tôi nhận ra một thương binh đang rên rỉ bên cạnh xác chiếc T54 cháy nám đã bắt đầu rỉ sét.. Máu nhuộm đỏ thân mình, người thương binh dơ cánh tay yếu ớt về phía chúng tôi rồi chỉ vào miệng anh, có lẽ anh đang trải qua cơn khát cháy cổ của những người bị thương mất máu. Cùng lúc này địch lại pháo mấy trái đạn, tiếng rít gió nghe lạnh mình, những tiếng nổ chát chúa, tiếng cành cao su gãy rào rào, trái đạn đã vào trong bờ rừng. Có tiếng ai gọi lớn :”Chạy mau đi, thoát khỏi chỗ này”. Tất cả chúng tôi cắm đầu chạy như bay về phía trước, nhiều xác T54 rải rác, một chiếc xe be vàng chói đầy vết đạn pháo kích nằm vắt ngang con dốc. Ðại Úy Quý quay lại nói: “Toàn vết pháo mới chạy mau đi”.. Người ta gọi cái dốc có chiếc xe be là khúc quanh tử thần, vì chỉ riêng tại nơi này hơn 200 thương binh và những người đã được phép di tản đã chết vì đạn pháo kích trên đường đón trực thăng ở bẵi đáp. Hình ảnh người thương binh vẫy tay xin nước ám ảnh tôi suốt hành trình vào An Lộc và có lẽ cả quãng đời còn lại sau này. Toán quân đi trước và cả toán chúng tôi đã không giúp gì được cho anh ta, dù muốn dù không đó cũng là điều “không nên, không phải”. Leo hết con dốc tử thần, là bắt đầu vào An Lộc, một tấm bảng xanh lỗ chỗ vết đạn với hàng chữ “Chiều bắt buộc cho xe dân sự vào châu thành”. Đầu đường là một bót gác vách đá lố nhố thương binh, lớp đang chờ giờ ra bãi đáp trực thăng, quần áo mọi ngưòi nhuộm một màu đỏ đặc biệt, đó là màu đất Bình Long.

    Ðồng hồ chỉ 11 giờ 20, thế là chúng tôi chạy trong 20 phút từ bãi đáp Xa Cam vào An Lộc. Càng vào sâu, cảnh điêu tàn càng hiện rõ, trên con đướng chúng tôi đi không một thước vuông đất nào không ghi lại những vết tích của chiến tranh.Từ xa hướng về, không một ngôi nhà nào nguyên vẹn, những mái nhà sụp đổ, thân tường nghiêng ngả lỗ chỗ vết miểng, những cột đèn siêu vẹo, dây điện đứt tứ tung và điểm thể hiện duy nhất cho sự kiện An Lộc chiến đấu cô đơn chính là những cánh dù tiếp tế phủ đầy mặt lộ. Sừng sững giữa khung cảnh điêu tàn, một bức tượng chiến sĩ tiến lên đập ngay vào tầm mắt những ai tiến vào An Lộc. Thật là kỳ lạ, bức tượng này đã đứng vững trong hơn hai tháng trời An Lộc bị pháo kích tổng cộng gần 200,000 trái đạn. Tiểu khu ở phía tay mặt con đường, Ðại Úy Quý đã từng vào An Lộc trong những ngày chiến trận thảm khốc hồi tháng 5. Ông nói: “Các anh cứ đi theo tôi, coi chừng lạc”. Ði chừng hơn 100m, chúng tôi trông thấy một dinh thự hai tầng đã sụp đổ phần trên, đó là Toà Hành Chánh Bình Long, những hàng chữ bằng xi măng đúc không còn nguyên vẹn. Mùi xú uế nồng nặc đến lượm giọng. Một thứ mùi đặc biệt của thịt người và thú vật đã sình thối. Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng nằm phía sau Toà Hành Chánh. Những dẫy nhà mất mái, đổ tường, hầm của Tướng Hưng ở phía dưới một trong những căn nhà này. Chúng tôi bước vào một lối đi nhỏ hẹp, đó là đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng tử thủ Lê Văn Hưng, Tư Lệnh mặt trận Bình Long. Cái hầm tù mù, một ngọn đèn duy nhất chừng 45 nến chỉ mang lại một chút ánh sáng vàng vọt, không đọc nổi một bức thư.

    Sau này, chúng tôi được biết Tướng Hưng chuẩn bị cho những ngày phong toả kéo dài, ông có 3 máy điện riêng nhưng nhất quyết chỉ sử dụng một máy, công xuất của máy này chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và các máy liên lạc, còn thừa lại là ánh đèn khô héo trong hầm chỉ huy. Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng để dành cho sự sống còn của Bình Long. Nếu không còn mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc thì An Lộc sẽ thất thủ ngay tức khắc. Ngoài căn hầm nhỏ dành riêng cho ông và nơi này chỉ được thắp sáng khi cần, bằng pin Magnesium với bóng đèn xe đạp. Tướng Hưng chỉ sử dụng một máy phát điện, 2 máy còn lại phải phòng hờ trường hợp đạn pháo kích làm hư hại. Hơn nữa, mức dự trữ nhiên liệu luôn luôn chỉ đủ thời gian một tuần lễ. Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, Quân Ðoàn có cho thả dù các phuy xăng nhưng trong 10 thùng khi chạm đất đã phát nổ đến 9. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lệnh đi mót xăng từ các xác xe cộ nằm rải rác trong thành phố. Nhiều người đã chết trong công tác bề ngoài rất tầm thường này, nhưng thực ra chính là sự hy sinh đầy ý nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc trong suốt hơn hai tháng trời khói lửa.

    Trong “TOC” (Trung Tâm Hành Quân) tù mù, Ðại Úy Quý trình diện “Xếp” và giới thiệu từng người trong bọn tôi. Tướng Hưng mặc áo thung xanh và có nụ cười hiền từ, ông bắt tay mọi người và khất đến sau phiên họp hành quân sẽ để chúng tôi phỏng vấn. Căn hầm của Tướng Hưng rất hẹp so với số người chen chúc làm việc trong đó, kích thước chỉ chừng 4x10 m, tất cả bộ tham mưu của ông làm việc dưới này và không một ai có quân phục đàng hoàng, không áo thun thì cũng mình trần.

    Vào buổi chiều, Tướng Hưng ra khỏi hầm để anh em chúng tôi thực hiện một “show” dã chiến. Chúng tôi nhận rõ khuôn mặt gầy gò rất có nét của ông. Ðiểm đặc biệt là làn da ông trắng xanh sau hơn hai tháng là việc dưới hầm, tránh các trận địa pháo kinh hoàng của Cộng quân mà có lúc đã lên tới khoảng 7,500 trái trong một ngày. Trong cuộc phỏng vấn, Tướng Hưng thay vì nói về mình đã chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của tất cả các binh sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của cả chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Tướng Hưng ca ngợi tất cả các lực lượng chiến đấu không riêng gì Sư Ðoàn 5, lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân dưới sự điểu khiển của Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tiểu Khu Trưởng Bình Long, anh em Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền Ðại Tá Lê Quang Lưỡng, các chiến hữu Liên Ðoàn Biệt Cách Dù thuộc quyền Trung Tá Huấn (sau này là Ðại Tá), anh em Biệt Ðộng Quân và một số tăng phái thuộc các Sư Ðoàn 21, 9 và 18.

    Sau cuộc phỏng vấn, Ðại Úy Quý đi lãnh mấy chục túi gạo sấy và thịt “menu à la carte” của An Lộc. Cùng lúc này, chúng tôi gặp lại tất cả các anh em phóng viên chiến trường đi lẻ tẻ vào An Lộc. Nhóm này gồm có Cầu, Mỹ Voi, Hoàng và Lộc thuộc điện ảnh truyền hình quân đội. Hoàng bị thương “sứt mũi” nên ngay chiều 13/06/72 đã theo một trực thăng tản thương về Lai Khê. Ðỗ Văn Mỹ tục danh Mỹ Voi vì anh to và khỏe như voi. Mỹ Voi được tất cả anh em quý mến vì hắn luôn luôn coi trọng bạn bè hơn bản thân. Hắn thường xuyên lo lắng cho anh em từ chiếc chiếu ngủ đến cả bữa ăn cơm gạo sấy thịt hộp. Trong chuyến “phiêu lưu” vào An Lộc, Mỹ Voi gặp nhiều may mắn đã tìm được thi hài đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Bình, tự tay hốt cốt bạn gửi về Sài Gòn. Ðiện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình bị nổ phi cơ hôm 01/05 trên đường vào An Lộc, 11 người trên chiếc trực thăng này đều thiệt mạng.

    Ngày 11/06, Mỹ Voi theo chân Trung Ðoàn 15 hành quân trực thăng vận vùng Tân Khai và từ đó anh đi bộ 15 km đường rừng để vào An Lộc. Trên đường hành quân, Mỹ Voi bắt gặp xác chiếc trực thăng bị bắn hạ và di thể 11 người trên phi cơ, hắn nhìn được xác Nguyễn Ngọc Binh đã rữa nát nhờ chiếc máy quay phim và các “reel” phim trên ngực. Tất cả 11 di thể những người chết không một ai còn thẻ bài và Mỹ Voi tin chắc là đã tìm được xác của Bình nhờ một mớ tóc bạc trên xương sọ. Mỹ Voi đã xin hai thùng đạn “moọc chê” để hốt cốt Bình và năn nỉ Trung Tá Trung Ðoàn Trường 15 giúp gởi trực thăng tản thương về Sài Gòn. Sau này khi nhận cốt chồng, quả phụ Nguyễn Ngọc Bình xác nhận đó là những phần còn lại của Bình nhờ một vết riêng ở răng của anh.

    Nếp Sống Tử Thủ kéo dài với những tháng ngày phong toả, chiến binh tử thủ An Lộc và số đồng bào còn kẹt trong vùng lửa đạn nhiều khi đã chia sẻ nhau tất cả những gì có để ăn, để mà tiếp tục sống. Một túi cơm sấy cũng phải chia làm nhiều phần để cùng nhau tiếp tục … chờ pháo kích và chiến đấu. Có những khoảng thời gian người “tử thủ” trông mong những cánh dù tiếp tế như những chứng tích duy nhất cho sự liên lạc giữa hậu phương và mặt trận. “Hàng” đến, có khi là một bao gạo, 1 con heo quay, 1 thùng thuốc lá, mấy chục ký bánh mì hay có khi là những thùng đạn khẩn thiết cho sự đứng vững của thị trấn này. Thực phẩm tươi và rau cỏ hầu như không được tìm thấy tại An Lộc trong suốt hai tháng trời tử thủ ban đầu. Lúc đầu người ta còn chia sẻ với nhau một số thịt tươi của một vài trại gà, mấy con bò bị đạn pháo kích chết. Nhưng tất cả nguồn cung cấp này chỉ có thể kéo dài trong 2 tuần lễ là nhiều. Những ruộng rau muống ở một vài khu vực trong thành phố khô cằn vì các cơn nắng cháy Bình Long, mùa mưa khởi sự vào đầu tháng 5 đem đến một chút sinh khí cho thành phố này trong những ngày tử thủ thứ 40 trở đi. Nước mưa làm rau muống đâm chồi trên các vũng lầy ở quanh thành phố. Nhưng rau muống cũng là một trong các đầu mối bắt nguồn cho sự bi thảm.

    Ở An Lộc chết có đủ kiểu, đủ cách và tử thần rình rập ở mọi khoảng không gian lẫn thời gian. Có những người đã chết khi đi hái rau, người ta đã hái rau từ những ao đầy xác người chết vì chiến trận. Xác quân Cộng Sản Bắc Việt tùng thiết (bộ binh theo bảo vệ chiến xa), xác thường dân chết vì pháo kích và xác chiến binh Việt Nam Cộng Hoà tử thủ đã ngã gục cho sự đứng vững của An Lộc. Ao rau muống Ấp Thánh Mẫu là một điển hình. Rau mọc kín tới bờ ao, lẫn lộn với xác chết đã sình thối, cũng chỉ đủ cung cấp cho binh sĩ trong vài ngày là đã cạn nguồn.

    Ðêm 13/06/72, chúng tôi ngủ nhờ hầm Tướng Hưng. Ðây là một căn hầm khác có lối đi thông qua hầm trung tâm hành quân. Tướng Hưng ít khi nào ngủ tại hầm riêng. Ông hầu như làm việc 20 giờ một ngày với các bản đồ hành quân và một dọc máy truyền tin chằng chịt. Ông “lên máy” hầu như vào mọi lúc. Ông liên lạc với từ cấp Trung Ðội Trưởng trở lên để biết rõ tình hình và từng vị trí một, nhất là những khi có chiến xa Cộng Sản Bắc Việt xuất hiện trong thành phố. Ðôi lúc ông Tướng này thiếp đi ngay trên bàn làm việc, nếu không, ghế bố tại TOC sẽ là nơi ông chợp mắt trong khoảng vài tiếng đồng hồ một ngày. Cả một ngày mệt mỏi với những giây phút căng thẳng chạy đua với thần chết, đêm xuống tất cả chúng tôi ngủ mê man bỏ quên mọi chuyện, quên những tiếng đạn nổ từng chập và đàn muỗi vo ve như sáo thổi dưới căn hầm hoả lò.

    Ðã từng nghe nói trước khi vào An Lộc, thức giấc lúc 7 gìờ sáng, chúng tôi hỏi Ðại Úy Quý: “Ở đây không có đánh răng, rửa mặt gì hết, phải không ?” Ông trả lời một cách ỡm ờ: “Chắc vậy”. Ấy thế mà 2 ông Dương Phục, Anh Thuần vẫn xin đâu được một ca nước nhỏ thường thì chưa đủ cho một người súc miệng, 3 chúng tôi rửa mặt chung bằng số lượng nước quý giá này.

    Mấy người lính tử thủ nói vo71i chúng tôi: “Bây giờ là thần tiên rồi. Hồi tháng 4, tháng 5 nước uống kiếm không ra, nói chi cái công tác vệ sinh xa xỉ”. Nguồn cung cấp nước ở An Lộc là mấy cái giếng ở khu phố chợ và con suối ở ngoại ô thành phố. Lính tử thủ hàng ngày xách các can xăng đi tìm nước cho mình và cho đồng đội. Có lần một sĩ quan tham mưu của Tướng Hưng chết trong khi đi tìm đường tắm suối, Tướng Hưng đã “cạo” cho mấy ông sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh suốt ngày: “Ai cho mấy ông đi tắm, không tắm đâu có chết, mấy chục ngày rồi tôi có tắm lần nào đâu, đâu có sao”. 14/06/72, một ngày tử thủ mới lại bắt đầu. Sự yên lặng kỳ lạ của một thành phố chết vây kín khoảng không gian nhỏ bé đã khiến cả vạn con người uổng tử. Sự yên tĩnh thê lương không kéo dài lâu, Chúng tôi đang đứng ở phòng khách trống mái của Tướng Hưng, mấy người lính đang “chế” cơm chiên Dương Châu bằng gạo sấy và thịt hộp. Những tiếng xé gió vụt ngang và những tiếng nổ ầm ầm liên tiếp. Không còn ai ở ngoài, trong khoảng khắc mọi người biến hết vào trong các hầm chìm hầm nổi. Dứt một loạt tiếng nổ, chúng tôi theo chân mấy anh em Sư Ðoàn 5 ra khỏi hầm. Họ cười nói huyên thuyên chẳng màng gì tới đợt pháo vừa nổ, có lẽ sự chịu đựng lâu ngày tạo cho họ thêm nhiều thói quen mới. Tôi hỏi người lính đang luôn tay đảo cơm trong cái chảo gang: “ - 82 hay 107? - Hoả tiễn đấy. Trúng hầm thì cũng tiêu luôn. Tụi nó có thứ đầu đạn xuyên hầm nổ chậm, ngoài sân nhiều lỗ lắm, lúc nào ra coi”. Người lính trả lời nhưng mắt vẫn không rời chảo cơm thơm phức.

    Câu chuyện chưa dứt, Ðại Úy Quý xuất hiện với nón sắt áo giáp nhưng cởi trần, 2 tay ông truyền nhau một vật gì trông không rõ. Ông nói :” Miểng văng tới tận đây còn nóng hổi, các anh coi”. Sau đợt pháo chào buổi sáng của quân Cộng Sản Bắc Việt, chúng tôi sửa soạn xuống phố chợ để thăm 2 đơn vị anh hùng trung đoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Quý dặn dò: “Áo giáp nón sắt, ba lô để lại để chạy pháo cho lẹ”. Anh em chúng tôi băng qua mấy dẫy nhà đổ nát, bắt đầu vào con đường đất đỏ Hàm Nghi, đã trông thấy khu phố chợ, cũng vẫn là một cảnh hoang tàn đổ nát. Y viện An Lộc đây rồi, không ai còn có thể nhận ra nơi đây đã từng là môt bệnh viện nếu không có tấm bảng lỗ chỗ vết đạn treo lủng lẳng từ trên một đầu trụ xi măng có hàng chữ “Phòng nhận bệnh” …

    Anh em tử thủ kể lại cho chúng tôi rằng trong những ngày máu lửa của Bình Long có đến 600 người đã chết tại bệnh viện này, kể cả thương binh, đồng bào bị thương đang được chữa trị cũng như những người lánh nạn tìm sự an toàn ở dấu hiệu quốc tế Hồng Thập Tự. Cộng quân pháo kích dã man vào khu nhà thờ và nhà thương với mục đích rõ rệt, giết hại thật nhiều người để An Lộc hỗn loạn, binh sĩ mất tinh thần hầu chúng có thể dứt điểm An Lộc một cách mau chóng. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đặt tại một trong các cao ốc đang xây dở trên đại lộ Hoàng Hôn hay đường Trần Hưng Ðạo cũng vậy, chúng tôi đến thăm nơi này giữa lúc Ðại Tá Mạch Văn Trường đang gắn lon Ðại Úy đặc cách mặt trận cho Trung Úy Ðào Lâm Tòng, một Ðại Ðội Trưởng xuất sắc của Tiểu Ðoàn 3/8. Trung Úy Tòng sáng 14/06/72 đã giải toả đồi 100 phía Ðông Bắc An Lộc và cắm hiệu kỳ Tiểu Ðoàn 3/8 trên đồi này. Ngày 13/06/72, Biệt Cách Dù giải toả đồi Ðồng Long ở vòng đai Bắc An Lộc và lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà phất phới tung bay trong nắng sớm sau 68 ngày Cộng quân chiếm cứ cao diểm 148 m này. Cũng vào ngày 13/06 các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân gan dạ đã giải toả sân bay L.19 ở Tây Bắc An Lộc. Những chiến tích này khiến cho tất cả địch quân bị đẩy lui ra xa thành phố An Lộc và là một khởi điểm vàng son cho sự đứng vững của thành phố này.

    Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh (sau này là Tư lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) và Thiếu Tá Hoàng Trung Liêm, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh đã tiếp đón chúng tôi thật ân cần. Họ xúc động vì sự có mặt của chúng tôi tại An Lộc. Ðại Tá Trường và Thiếu Tá Liêm hướng dẫn chúng tôi đi quanh khu vực Bộ chỉ Huy Trung Ðoàn, từ 4 con đường rải rác chung quanh 15 chiếc T54 và PT 76, cái thì đứt xích, lật nghiêng, cái thì văng cả pháo tháp nằm ngang ngửa trên mặt lộ. Duy có một điểm giống nhau, tất cả đều cùng nám đen và bắt đầy hoen rỉ. Lâu ngày chưa có ai để tâm sự, Ðại Tá Trường miên man kể chuyện chiến trận cam go từ khi Trung Ðoàn được trực thăng vận vào An Lộc ngày 11/04/72 và chịu đựng 4 trận tấn công biển người với chiến xa yểm trợ. Ðại Tá Trường “thú thật” cả đời đánh giặc chưa khi nào dự trận nào khủng khiếp như trận này và đây cũng là lần đầu tiên phải đương đầu với chiến xa địch.

    Trung Ðoàn từ Trị Tâm lên An Lộc ngày 11/04/1972 nhận chuyên trách nhiệm phía Bắc An Lộc, lo luôn “tổng tiền đồn” cho Sư Ðoàn 5. Không đầy 48 giờ sau, quân Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công biển người đầu tiên vào An Lộc với từng đoàn chiến xa tiến nhanh như vũ bão vào thành phố. Trước cuộc tấn công đầu, địch bắt đầu “pháo tập” (trận địa pháo) vào thành phố từ 07/04/72 và kéo dài liên miên trong những ngày sau đó. Trận đánh ngày 13/04, lần đầu tiên chạm chiến xa địch và đương đầu với quân số đông đảo của địch quân, binh sĩ mất tinh thần thấy rõ. 20 phút sau đứt liên lạc với Bộ Chỉ Huy là xe tăng Bắc Việt xuất hiện. Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân chịu không nổi cũng rút luôn vào thành phố. Tất cả mọi người chiến đấu đều được ra tuyến, M72 được sử dụng tối đa, cối 81 chặn từng thước vuông một trên đường tiến quân địch, tùng thiết địch bỏ chạy, bộ binh Bắc Việt phía sau không tiến lên được, xe tăng Bắc Việt chỉ còn cách đậy nắp tiến một mình và làm bia nhắm cho M72 huỷ diệt. Trận tấn công đầu thất bại, địch lui binh và tiếp tục trận địa pháo vào thành phố. Ðại Tá Trường, xuất thân khóa 12 Võ Bị Ðà Lạt, tốt nghiệp tham mưu cao cấp, bởi vậy ông rất tôn trọng nguyên tắc chỉ huy tham mưu khi cầm quân. Sau trận đánh 13/04, lính chết và bị thương được đưa lui về phía sau để Ðại Ðội 52 Quân Y đảm trách và khỏi làm xuống tinh thần binh sĩ. Tuy vậy, ông cho biết là sau trận tấn công thứ hai ngày 15/04, ông không áp dụng “cẩm nang” này nữa, An Lộc chỗ nào cũng bị pháo, người đưa về Quân Y cũng không săn sóc được có khi lại gia tăng tổn thất khi di chuyển. Bởi vậy ông ra lệnh đơn vị nào lo cho đơn vị ấy băng bó lấy và chôn cất tại chỗ. Qua trận 13/04/72, cấp chỉ huy cũng như binh lính có thêm kinh nghiệm đánh chiến xa và không còn “khớp” như trước. Ðại Tá Trường và các sĩ quan của ông thấy rõ là sẽ diệt được hết chiến xa địch nếu phân tán được chiến xa và bộ binh địch, cứ mỗi đại đội bộ binh thì có 4 chiến xa địch đi kèm. Làm tan rã bộ binh, xe tăng địch sẽ dễ dàng bị huỷ diệt. Bởi thế, ông Pháo Binh “nhà nghề” Hoàng Trung Liêm được giao phó dọn một bãi Pháo Binh trên con đường địch sẽ đi qua để vào tuyến Trung Ðoàn 8. Sau nhiều giờ nghiên cứu, Thiếu Tá Liêm chọn chỗ, tập trung hoả lực súng cối và chờ đợi. Ngày 15/04/72, Cộng Sản Bắc Việt lại tiến vào An Lộc như lần trước với bộ binh và chiến xa, không may mắn cho họ là đã đi vào đúng “bãi pháo”, bộ binh địch chạy tán loạn và chiến xa không còn ai “tùng thiết”.

    Xe tăng địch lại làm nước liều đậy nắp tiến lừng lững vào trung tâm thành phố, binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà từ dưới hố nhảy lên phóng M72 từ sau đít xe tăng và biến cả khối thép khỗng lồ thành những con “cua rang muối”. Cũng từ trận này, một số binh sĩ được Ðại Tá Trường cho sử dụng súng chống chiến xa B40, B41 tịch thu được của quân Bắc Việt, chỉ cần một phát là chiến xa địch cháy phừng phừng, lính Cộng Sản Bắc Việt nhảy từ trong xe ra, da thịt cháy vàng như bị thui. Ðại Tá Trường nói tiếp: “Nếu bộ binh và chiến xa của tụi nó phối hợp được với nhau, An Lộc này chắc chắn đã thất thủ. Tại mặt trận này chúng tôi không có một xe tăng nào cả, chỉ có lèo tèo vài chiếc commando-car V100, nội pháo kích không cũng bị hư hại.” Ðại Tá Trường cũng ca ngợi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, cánh quân trấn giữ mặt Nam An Lộc, nhất là cú “bắt tay” thần sầu của Tiểu Ðoàn 6 và 8 Dù ngày 08/06. Ðại Tá Trường tâm sự :”Ðại Tá Lưỡng, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, tấn mặt Nam, tôi mặt Bắc, môi hở thì răng lạnh, hôm tôi bị thương ông Lưỡng tới thăm và nói lúc này bị thương thì chết rồi. Tôi kể chuyện bị địch đánh rát quá, ông Lưỡng khuyên tôi nên biến chế mìn để chặn đường chiến xa địch. Nghe lời ông Lưỡng, tôi cho chế cứ 2 đầu đạn 155 ly với ngòi nổ thành một quả mìn, mấy đợt tấn công sau này xe tăng Cộng Sản Bắc Việt bị lủng luờn hết vì mìn biến chế này”.

    Rời Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, chúng tôi xuống một con dốc, chợ An Lộc ở dưới kia, đạn pháo kích đã làm nhà lồng chợ trơ trọi những khung sắt cháy nám, cả một vùng chung quanh chợ chỉ còn những đống gạch đổ nát. Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đóng cách nhau có một con đường nhỏ. Từ trên một vọng gác của Trung Ðoàn 8, chúng tôi trông thấy những ngôi mộ mới được sắp xếp có hàng lối ở bên cạnh ngôi chợ hiu quạnh và tan tành của An Lộc, đó là nghĩa trang Biệt Cách. Ðịch vẫn chưa ngưng tiếng pháo, tuy vậy mấy người lính mũ xanh vẫn tiếp tục đi lượm gạch và xây vòng rào chung quanh nghĩa trang dành riêng cho anh em họ. Những nguời khác lúi húi dựng một đài kỷ niệm trước lối vào nghĩa trang. Giữa không khí kỳ quặc của thành phố chết, giữa những tiếng pháo nổ chát chúa, những hình ảnh chan chứa tình người này làm cho chúng tôi xúc động, và chúng tôi đã có mặt ở nghĩa trang Biệt Cách. Ðài kỷ niệm cao hơn đầu người và có khắc hai câu thơ mà sau này chúng tôi được biết là của một người con gái Bình Long đặt ra đề tặng các anh hùng Biệt Cách :”An Lộc địa, sử ghi chiến tích - Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”. Người thiếu nữ đó là Pha. Cô chẳng còn ai thân thích sau những ngày máu lửa ở An Lộc. Chính Pha cũng bị miểng đạn đại bác ghim vào chân. Các chiến sĩ Biệt Cách Dù đã tìm thấy cô và đưa về cho Bác Sĩ chữa trị ở khu phố chợ. Những buổi chiều im tiếng pháo, Pha đòi các anh em Biệt Cách Dù khiêng ra ngoài hè để nhìn cảnh Bình Long đổ nát. Những buổi chiều tiếp nối…, đến một hôm Pha bật khóc khi nghe mấy người lính mũ xanh kể tên các chiến hữu trên mộ bia ở nghĩa trang Biệt Cách. Tưởng rằng các dòng nước mắt đã khô cạn sau những ngày ròng rã bị “pháo tập” của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng chính chiều hôm đó cô đã bật khóc và cảm đề hai câu thơ trên chứa đựng biết bao đau thương tại An Lộc.

    Trong trận chiến tháng 04 năm 1972, sự thất bại về quân sự của Cộng Sản Bắc Việt chắc hẳn không làm Hà Nội điên dầu cho bằng sự kiện quân “giải phóng” đi tới đâu là đồng bào ùn ùn bỏ chạy tới đó. Ghê tởm bằng kinh nghiệm của Tết Mậu Thân năm 1968 với cả ngàn thường dân bị chôn sống tại Huế, đồng bào Bình Long chạy tháo thân từ Lộc Ninh về An Lộc. Mọi người vượt lửa đạn bỏ hết tài sản, của cải tiến vào trong cõi chết để tìm sự sống, tình quân dân thắm thíết được tìm thấy ở An Lộc, không phải chỉ là sáo ngữ nhưng là sự thật. Ðồng bào nuôi chiến sĩ, chiến sĩ nuôi đồng bào. Tướng Hưng thì diễn tả rõ hơn: “Lúc thì chiến sĩ đi chôn đồng bào, lúc thì đồng bào đi chôn chiến sĩ”. Có một số người lưu lại An Lộc cho đến những giai đoạn sau cùng của cuộc chiến, có những người không chịu nổi những trận “pháo tập” kinh hoàng đã bồng bế dắt díu nhau hướng về phương Nam, vô số người bỏ mạng dọc hành lang máu từ An Lộc về Tân Khai qua Suối Tàu Ô tới Chơn Thành. Cộng Sản Bắc Việt cố công ngăn chặn đám dân chạy loạn này hầu bắt lính bổ sung các đơn vị kiệt quệ của chúng và đồng thời lưu giữ đàn bà trẻ em vì chúng biết chắc chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà không khi nào dám xả súng bắn vào đám thường dân ruột thịt dù trong đó có lẫn lộn các đơn vị chính quy Cộng Sản Bắc Việt. Có những ngày khoảng 3,000 người chạy qua Tàu Ô về tới Chơn Thành chỉ còn lại 500. Thảm kịch không ngôn ngữ nào diễn tả được, không gia đình nào toàn vẹn khi vượt qua lưới đạn ác nghiệt của Cộng Sản Bắc Việt để về vùng quốc gia. Chuyến đi vĩ đại nhất diễn ra vào ngày 12/06/72. Khoảng 12,000 đồng bào từ An Lộc tiến về hướng Nam qua Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch đến Tân Khai. Cộng quân đã chận bắn xối xã vào họ và có chừng 2,000 người đã bỏ mạng. Tuy vậy hàng ngàn người còn lại đã tìm thấy ánh sáng của tự do ở Chơn Thành.. Chính quyền địa phương cũng như đồng bào đều hiểu rõ những nguy hiểm chờ sẵn trên “hành lang máu” đó, nhưng biết làm cách nào khác. Khi An Lộc không còn đủ thuốc men, lương thực, và quân Cộng Sản Bắc Việt vẫn có thể mở các trận đánh mới gây tổn thất thảm khốc cho số thường dân đông đảo này. Trong số hơn trăm đồng bào lưu lại An Lộc cho đến hoàng hôn của cuộc chiến, bà Ngô Văn Xuyến, nhủ danh Văn Thị Ngôn, đã trở thành người nổi tiếng khi những cảm xúc Chơn Thành của bà được phát thanh trên hệ thống truyền thanh quốc gia ngay trong những ngày An Lộc còn bị phong toả. Tổng Thống Thiệu, trong chuyến viếng thăm An Lộc ngày 07/07/72 cũng đã tìm gặp bà để bày tỏ sự cảm phục của ông. Bà Ngôn đã diễn tả sự đùm bọc giữa lính và dân một cách mộc mạc, nhưng lại làm se sắt lòng người hơn bất cứ một bài văn nào diễn tả những tình cảnh ở An Lộc. Ở An Lộc chắc chắn có đến muôn ngàn câu chuyện bi thương, những gương chiến đấu bền bỉ, sự chịu đựng đến tận cùng sức chịu đựng của con người. Người viết dù đã thực hiện được mộng ước lớn nhất trong đời phóng viên chiến trường là vào An Lộc để tỏ sự kính phục với tất cả những người đã giữ vững thành phố này, nhưng có lẽ đã chỉ nhìn An Lộc dưới một góc cạnh đầy khiếm khuyết. Tuy vậy, điều chắc chắn và rõ ràng vẫn là An Lộc Anh Hùng - Bình Long Anh Dũng …

    Phan Nhật Nam

  2. #8
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Trận An Lộc 93 ngày - Hồi Ký Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG

    PHỤ LỤC

    ĐA SỐ NHỮNG BÀI VIẾT ĐƯỢC LIỆT KÊ Ở PHẦN NÀY LÀ DO NHỮNG “NHÂN CHỨNG SỐNG” CÓ THAM CHIẾN TRỰC TIẾP TẠI CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC 1972, ĐƯỢC GHI LẠI TRONG NHỮNG KHOẢNG KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KHÁC NHAU, ĐỂ MINH CHỨNG NHỮNG DỮ KIỆN MÀ CHÚNG TÔI ĐÃ ĐÚC KẾT Ở PHẦN 1.

    Chúng tôi vẫn đăng nguyên văn những bài vở của các nhân chứng sống. Chúng tôi giữ nguyên nội dung vì chúng tôi tôn trọng các tác giả của những bài viết đó.

    TRUNG ÐOÀN 8 BỘ BINH Và Trận Chiến AN LỘC (Mùa Hè 1972)

    Hồi Ký Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG (Nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh)
    Cựu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8/Sư Ðoàn 5 Bộ Binh


    Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỜNG


    Lời Mở Ðầu: Mùa Hè năm 1972, Thị Xã An Lộc đã bị một đạo quân khoảng 40,000 người gồm 4 sư đoàn bộ binh với chiến xa hạng nặng T.54, đại pháo 130 ly, phòng không hiện đại bao vây, pháo kích có ngày gần 8,000 quả, tấn công cường tập liên tục 3 tháng, trực thăng không thể vào tản thương và tiếp tế, nhưng quân dân An Lộc đã kiên trì và anh dũng chiến đấu giữ vững An Lộc.

    Trận chiến được báo chí và cơ quan truyền thông mô tả là trận đánh ác liệt nhất Ðông Dương, được cả thế giới chú ý, báo chí quốc tế đặc biệt theo dõi từng khía cạnh riêng biệt để rồi tất cả đều khen ngợi sức chịu đựng và tinh thần chiến đấu kiên trì của Quân Dân An Lộc. Sự chịu đựng và tinh thần anh dũng của Quân Dân tại thành phố này không phải chỉ một người ca tụng, một dân tộc ca tụng, mà cả thế giới đều ca tụng. An Lộc nhỏ bé nhưng chiến thắng An Lộc quá vĩ đại, An Lộc điêu tàn nhưng chiến thắng An Lộc là hào quang rực rỡ.

    *- Tờ báo Newsweek: “An Lộc đứng vững bằng sức chống trả mạnh mẽ của binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà, trong khi ở đây không còn căn nhà nào nguyên vẹn.”

    *- Tờ Bangkok Post: “Một cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý giữa tự do và Cộng Sản và kết quả cho thấy Quân Dân miền Nam dứt khoát không chấp nhận Cộng Sản.”


    Chiến thắng An Lộc được rất nhiều cá nhân và đơn vị anh hùng góp công: Sư Ðoàn 5 Bộ Binh với Trung Ðoàn 7, Trung Ðoàn 8, Trung Đoàn 9, Trung Ðoàn 52 Sư Ðoàn 18 Bộ Binh với hai Tiểu Ðoàn 2/52 và 1/48, Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân với 3 Tiểu Ðoàn 31, 36, 52 Biệt Ðộng Quân, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù với 3 Tiểu Ðoàn 5, 6, và 8 Dù, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, Quân Dân Tỉnh và Tiểu Khu Bình Long bao gồm Ðịa Phương Quân - Nghĩa Quân, Cảnh Sát, và toàn Dân, các đơn vị Pháo Binh, Kỹ Thuật và Yểm Trợ và đặc biệt là Không Quân Việt Mỹ.

    Bài này tôi không viết về toàn diện mặt trận An Lộc, mà chỉ thuật lại một phần diễn biến trong phạm vi Trung Ðoàn 8 Bộ Binh mà tôi là Trung Ðoàn Trưởng, tôi chỉ nói những gì tôi đã chứng kiến và biết rõ. Còn những sự việc xảy ra ở khu vực khác của các đơn vị bạn, chắc chắn cũng có nhiều nét oai hùng, anh dũng, gay go, … nhưng tôi không chứng kiến, không biết, tôi không nói. Xin quý chiến hữu có tham chiến, quý vị là nhân chứng sống hãy bổ sung những diễn biến và chiến công của đơn vị mình để có một sử liệu trung thực, phong phú về chiến thắng An Lộc vang danh Quân Sử.

    I. Sư Ðoàn 5 Bộ Binh

    Sư Ðoàn 5 Bộ Binh là hậu thân của Sư Ðoàn 3 Dã Chiến (người Nùng) từ Miền Bắc rút vào Nam sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, đóng tại Sông Mao. Trước đây các đại đơn vị chiến đấu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam tổ chức thành Sư Ðoàn Dã Chiến (trang bị nặng) và Sư Ðoàn Khinh Chiến (trang bị nhẹ, gọn). Ðến năm 1959, thời Ðệ Nhất Cộng Hoà, các Sư Ðoàn Dã Chiến và Khinh Chiến đều được cải biến đồng nhất thành SƯ ÐOÀN BỘ BINH.

    Ngày 01 tháng 03 năm 1959, Sư Ðoàn 3 Dã Chiến được cải biến và đổi danh hiệu là SƯ ÐOÀN 5 BỘ BINH. Thành phần cơ hữu Sư Ðoàn 5 Bộ Binh gồm có :

    · 3 Trung Ðoàn Bộ Binh (mang danh hiệu : Trung Ðoàn 7 Bộ Binh, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Trung Ðoàn 9 Bộ Binh)
    · 1 Tiểu Ðoàn Kỵ Binh (mang danh hiệu Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh)
    · 3 Tiểu Ðoàn Pháo Binh 105 ly:
    Ø Tiểu Ðoàn 51 Pháo Binh yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 7 Bộ Binh
    Ø Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh
    Ø Tiểu Ðoàn 53 Pháo Binh yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 9 Bộ Binh
    · 1 Tiểu Ðoàn 50 Pháo Binh 155 ly yểm trợ tổng quát cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh
    · 1 Tiểu Ðoàn 5 Công Binh Chiến Ðấu
    · 1 Tiểu Ðoàn 5 Truyền Tin
    · 1 Tiểu Ðoàn 5 Tiếp Vận
    · 1 Tiểu Ðoàn 5 Quân Y
    · 1 Ðại Ðội 5 Trinh Sát
    · 1 Biệt Ðội Quân Báo
    · 1 Ðại Ðội 5 Vận Tải
    · 1 Ðại Ðội 5 Quân Cảnh
    · 1 Trung Ðội Quân Khuyển
    · 1 Ban Quân Nhạc.

    Bản doanh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đặt tại Phú Lợi (Tỉnh Bình Dương). Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật trách nhiệm chỉ huy thống nhất các hoạt động quân sự trong lãnh thổ 3 Tỉnh Miền Ðông Nam Phần: Bình Dương - Bình Long và Phước Long.
    Sư Ðoàn 5 Bộ Binh trực thuộc Quân Ðoàn 3. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đặt tại Tỉnh lỵ Biên Hoà.

    II.- Ðịa lý tỉnh Bình Long

    Tỉnh Bình Long nằm cách Sài Gòn 100 km về phía Bắc, là vùng rừng rậm rạp với nhiều cây thau lau, cây dầu, gõ, cẩm lai, tre, v.v… Thời kỳ Pháp thuộc, vùng đất này thuộc Tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Thực dân Pháp bắt phu từ miền Bắc và Trung Việt vào Nam khẩn hoang phá rừng thành lập ba đồn điền trồng cao su tại Lộc Ninh, Hớn Quản (sau này là quận An Lộc) và Minh Thạnh (Quận Chơn Thành). Ðến thời Ðệ Nhất Cộng Hoà (26-10-1956), Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thành lập Tỉnh Bình Long gồm 3 quận Lộc Ninh, An Lộc và Chơn Thành. Tỉnh lỵ đặt tại quận An Lộc (Hớn Quản cũ). Về ranh giới Tỉnh Bình Long, phía Ðông giáp Tỉnh Phước Long, phía Tây giáp Tỉnh Tây Ninh, phía Nam giáp Tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một cũ), phía Bắc giáp biên giới Việt Miên. Dân số khoảng 70,000 người, phần lớn là công nhân quy tụ xung quanh các đồn điền cao su, số còn lại là dân khai thác lâm sản. Khoảng 60% số dân trên sinh sống tập trung tại Hớn Quản. Ngoài ra, cũng có một số ít dân sắc tộc (Thượng) sinh sống rải rác trong rừng. Về đường bộ, Quốc Lộ 13 là trục giao thông huyết mạch độc đạo chạy từ Bắc xuống Nam, từ Snoul xuyên qua quận lỵ Lộc Ninh, cầu Cần Lê, Tỉnh Lỵ Bình Long, Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát, Tân Khai, Tàu Ô, quận lỵ Chơn Thành, Lai Khê, xuyên qua Tỉnh Bình Dương, rồi đến cầu Bình Lợi, vào Sài Gòn, chia cắt Tỉnh Bình Long làm 2 mảng theo chiều dọc. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Quốc Lộ 13 thường bị Việt Cộng đắp mô, cuốc lộ, phục kích, phá cầu làm gián đoạn lưu thông.

    Tỉnh Bình Long tuy là một tỉnh nhỏ, nhưng về mặt chiến thuật lại giữ một vai trò quan trọng, là yết hầu của thủ đô Sài Gòn. Với sông Bé là hành lang chiến lược của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập từ đất Miên vào chiến khu D, Quốc Lộ 13 là đường tiến sát chính cho chiến xa và binh đoàn Cộng Sản Bắc Việt từ biên giới Việt Miên đánh thọc vào Sài Gòn. Mất Bình Long, Bình Dương sẽ bị uy hiếp và thủ đô Sài Gòn sẽ lâm nguy.

    III.- Hoạt Ðộng của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh

    Trong kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam được giao trách nhiệm thay thế nhiệm vụ chiến thuật của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ rút về nước, Tiếp thu căn cứ Sông Bé hoạt động ngăn chặn hành lang xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt dọc theo Sông Bé từ lãnh thổ Cao Miên vào chiến khu D. Tiếp thu căn cứ Dầu Tiếng hoạt động ngăn chặn xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt theo hành lang sông Sài Gòn vào chiến khu C. Và tiếp thu căn cứ Hớn Quản hoạt động bảo vệ biên giới Việt Miên, ngăn chặn đường tiến quân của Cộng quân vào Thủ Ðô Sài Gòn theo Quốc Lộ 13. Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh từ Phú Lợi di chuyển lên Lai Khê trú đóng tại bản doanh tiền phương Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ.

    Mặc dù trách nhiệm chiến thuật rất nặng nề, Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam đã làm tốt nhiệm vụ với nhiều chiến thắng lớn nhỏ đáng kể, lãnh thổ được an ninh tuyệt đối, Ngày 01-03-1972, kỷ niệm chu niên 13 năm thành lập Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà NGUYỄN VĂN THIỆU, cũng là vị cựu Tư Lệnh tiền nhiệm Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (12/1962 – 2/1964), cùng Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng đến Lai Khê chủ toạ lễ chu niên. Nhân dịp này, Tổng Thống đã ân thưởng huy chương và thăng cấp cho rất nhiều quân nhân hữu công, trong đó có Ðại Tá LÊ VĂN HƯNG, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh được Tổng Thống trao gắn cấp bậc CHUẨN TƯỚNG và Trung Tá MẠCH VĂN TRƯỜNG, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, được thăng cấp bậc Ðại Tá.

    IV.- Phối trí Sư Ðoàn 5 Bộ Binh

    Ðể tiếp tục duy trì tình trạng an ninh lãnh thổ, ngăn chặn các đoàn tiếp tế VC từ đường mòn Hồ Chí Minh xuống Kratié, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà vào các chiến khu C và D dọc theo hành lang sông Bé và sông Sài Gòn, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã phối trí lực lượng chiến đấu Sư Ðoàn 5 Bộ Binh như sau:

    - Trung Ðoàn 7 Bộ Binh tại Phú Giáo do Trung Tá LÝ ÐỨC QUÂN chỉ huy, hoạt động dọc theo hành lang sông Bé ngăn chặn đường xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt vào chiến khu D.

    - Trung Ðoàn 8 Bộ Binh tại Dầu Tiếng (Quận Trị Tâm) do Ðại Tá MẠCH VĂN TRƯỜNG chỉ huy hoạt động ngăn chặn các đoàn xâm nhập Cộng Sản Bắc Việt từ biên giới Việt Miên theo hành lang sông Sài Gòn tiến vào Bình Dương.

    - Trung Ðoàn 9 Bộ Binh (trừ 1 Tiểu Ðoàn) do Ðại Tá NGUYỄN CÔNG VĨNH chỉ huy, được tăng phái Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh (trừ 1 Chi Ðoàn) do Trung Tá Kỵ Binh NGUYỄN ÐỨC DƯƠNG chỉ huy, và Tiểu Ðoàn 74 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, hợp thành Chiến Ðoàn 9 Bộ Binh, trú đóng tại Quận Lộc Ninh tổ chức phòng thủ ngăn chặn địch từ Snoul (đất Miên) tiến đánh Việt Nam theo đường tiến sát Quốc Lộ 13.

    - Trung Ðoàn 52 Bộ Binh (trừ 1: gồm Tiểu Ðoàn 2/52 và Tiểu Ðoàn 1/48) do Sư Ðoàn 18 Bộ Binh tăng phái và 1 Pháo Ðội hỗn hợp (105 ly và 155 ly) do Trung Tá NGUYỄN BÁ THỊNH chỉ huy thiết lập căn cứ hoả lực tại Cầu Cần Lê (cách An Lộc 15 cây số, trên Quốc Lộ 13) để yểm trợ hoả lực cho An Lộc, Lộc Ninh và Căn Cứ Tống Lê Chân.

    - Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đóng tại Lai Khê. Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Hành Quân đặt tại Tỉnh Lỵ Bình Long do Ðại Tá Tư Lệnh Phó LÊ NGUYÊN VỸ chỉ huy.

    V.- Bối cảnh thời cuộc

    Lợi dụng thời cuộc sau chuyến đi lịch sử vào Hoa Lục bắt tay với Trung Cộng của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và Tổng Thống Mỹ Richard Nixon, bàn cờ chính trị thế giới đột nhiên biến chuyển. Tiền đồn ngăn chặn Cộng Sản tràn xuống nhuộm đỏ Ðông Nam Á của Thế Giới Tự Do tại Việt Nam Cộng Hoà do Hoa Kỳ lãnh đạo đã bị bỏ rơi. Quân đội Mỹ và quân đội Ðồng Minh rút khỏi Việt Nam Cộng Hoà về nước. Viện trợ quân sự cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị cắt giảm. Cùng lúc này Cộng Sản Bắc Việt được quan thầy Liên Sô, Trung Cộng và cả khối Cộng Sản Ðông Âu viện trợ ồ ạt chiến cụ hiện đại: Chiến xa hạng năng T.54 với đại bác nòng 100 ly, đại pháo 130 ly với tầm xa 30 cây số, hoả tiễn 122 ly, hoả tiễn tầm nhiệt chống phi cơ SA.7, cao xạ phòng không 37 ly, v.v… Cán cân quân sự lẫn chính trị đã nghiêng hẳn về phía Cộng Sản Bắc Việt. Tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội quyết định tung quân chính quy Bắc Việt tấn chiếm Việt Nam Cộng Hoà lấy tên là Chiến Dịch Nguyễn Huệ, với 3 đạo quân đánh vào 3 Quân Khu: Quân Khu I (Vùng Giới Tuyến), Quân Khu II (Vùng Tây Nguyên), và Quân Khu III (Ðông Bắc Thủ Ðô Sài Gòn).

    Với âm mưu thu hút lực lượng Tổng Trừ Bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ra khỏi Thủ Ðô Sài Gòn, thoạt tiên mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, ngày 30 tháng 03 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt mở 2 mũi dùi đồng loạt tiến công vào Quân Khu I của ta. Sư Ðoàn 308 Cộng Sản Bắc Việt và 4 Trung Ðoàn thuộc mặt trận B5 có chiến xa và đại pháo vượt khu Phi Quân Sự sông Bến Hải tiến chiếm Quảng Trị. Cùng lúc Sư Ðoàn 324 Cộng Sản Bắc Việt và 2 Trung Ðoàn biệt lập tiến sâu vào thung lũng A Shau đe doạ cố đô Huế. Trong lúc đó thì tình hình tại Quân Khu III tương đối yên tĩnh. Tại hai Tỉnh Bình Long và Phước Long, Việt Cộng chỉ có hoạt động du kích lẻ tẻ. Các đại đơn vị chính quy Việt Cộng tại Vùng 3 đều rút về ẩn trú trên phần đất Miên. Do đó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà NGUYỄN VĂN THIỆU lập tức điều động Sư Ðoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, lực lượng tổng trừ bị, rời Sài Gòn ra Miền Trung tăng phái cho Quân Khu I giữ vùng giới tuyến.

    Trước khi mở màn đánh Lộc Ninh, ngày 02 tháng 04 năm 1972, hai Trung Ðoàn Cộng Sản có chiến xa và trọng pháo yểm trợ từ phần đất Miên xâm nhập đánh phá liên tục vào các căn cứ Lạc Long (cách Tây Ninh 35 cây số về phía Tây Bắc) và căn cứ Thiện Ngôn khiến quân trú phòng thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phải lui quân. Họ tung tin sẽ đánh chiếm Tây Ninh làm thủ phủ cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khiến Quân Khu III phải điều toàn bộ Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phòng thủ giữ Tây Ninh và Sư Ðoàn này mặc nhiên bị cầm chân tại đây.

    Sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972, một Quân Ðoàn Cộng Sản Bắc Việt gồm ba Công Trường 5-7-9 (Việt Cộng gọi Sư Ðoàn là Công Trường) và Công Trường Bình Long (do 3 Trung Ðoàn địa phương biệt lập sát nhập) có chiến xa T.54 và đại pháo 130 ly, cao xạ phòng không hiện đại yểm trợ, từ lãnh thổ Miên bất thần vượt biên giới tấn công chiến đoàn 9 Bộ Binh và tràn ngập Quận Lộc Ninh. Trung Tá NGUYỄN XUÂN THỊNH, Quận Trưởng Quận Lộc Ninh đã giả dạng thường dân di tản lẫn trong đoàn dân chúng, trốn thoát được về tới An Lộc cho biết Chiến Ðoàn 9 Bộ Binh đã tan rã và Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng NGUYỄN CÔNG VĨNH và Trung Tá Thiết Ðoàn Trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ Binh NGUYỄN ÐỨC DƯƠNG đã bị Việt Cộng bắt.

    Ðược tin Chiến Ðoàn 9 Bộ Binh bị tấn công, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc ra lệnh cho Trung Ðoàn 52 Bộ Binh tại Cầu Cần Lê đưa 1 Tiểu Ðoàn lên Lộc Ninh tiếp ứng. Tiểu Ðoàn 2/52 do Thiếu Tá NGUYỄN VĂN DƯỠNG chỉ huy ra khỏi căn cứ được vài cây số thì bị 1 trung đoàn Công Trường Bình Long phục kích. Không liên lạc được với Trung Ðoàn 9 Bộ Binh mà cũng không thể tiến thêm được, tổn thất lại khá nặng, may nhờ có Pháo Binh Cầu Cần Lê và Không Quân yểm trợ tối đa, Tiểu Ðoàn này mới vượt thoát vòng vây quay lui trở về căn cứ.

    VI.- Phản ứng của Quân Khu III và Sư Ðoàn 5 Bộ Binh

    Sau khi Lộc Ninh bị tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 và Quân Khu III dự đoán mục tiêu kế tiếp của địch sẽ là An Lộc (Tỉnh Lỵ Bình Long). Trung Tướng NGUYỄN VĂN MINH, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 và Quân Khu III quyết định tăng cường phòng thủ chặn địch tại An Lộc, không thể để địch có thể tiến xa hơn về phía Nam. Ông đã ra lệnh:

    - Sử dụng Không Quân Việt Nam và Không Lực Hoa Kỳ oanh tạc tối đa đêm ngày vào đội hình địch, trên các đưòng tiến sát, vị trí pháo và trục tiếp tế của địch để tiêu hao lực lượng và làm chậm sức tiến công của địch, để Sư Ðoàn 5 Bộ Binh có thì giờ kịp phối trí quân tổ chức phòng thủ An Lộc.

    - Tăng phái Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, đơn vị trừ bị của Quân Khu III cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh.
    - Trình xin Bộ Tổng Tham Mưu lực lượng Tổng Trừ Bị để tăng cường cho chiến trường An Lộc.
    - Di chuyển Bộ Chỉ Huy Hành Quân Quân Ðoàn 3 từ Biên Hoà lên Lai Khê để trực tiếp theo dõi, chỉ huy và yểm trợ cho chiến trường.

    Về phía Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thì Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 BB, ra lệnh:

    -Trung Ðoàn 52 Bộ Binh bỏ căn cứ hoả lực Cần Lê rút về An Lộc.
    - Ðồng thời cũng lệnh cho Trung Ðoàn 7 Bộ Binh tại Phú Giáo khẩn cấp về An Lộc tổ chức phòng thủ.
    -Trực thăng vận Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân với 3 Tiểu Ðoàn 31, 36 và 52 Biệt Ðộng Quân vào An Lộc.
    - Di chuyển Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh từ Lai Khê vào An Lộc để thống nhất chỉ huy và yểm trợ cho các đơn vị tham chiến.

    Thi hành lệnh trên, ngày 07-04-1972, Trung Ðoàn 52 (-1), gồm có 2 Tiểu Ðoàn 2/52 và 1/48) do Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh chỉ huy, phá huỷ căn cứ hoả lực cầu Cần Lê vừa di chuyển ra khỏi căn cứ thì bị Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt pháo kích và chặn đánh. Với đoàn xe cơ giới kéo pháo nặng nề, (6 khẩu 105 ly và 4 khẩu 155 ly, 20 xe cơ giới) Trung Ðoàn 52 Bộ Binh không thể thoát vòng vây, buộc lòng Trung Tá Thịnh phải lui quân trở lại Cần Lê cố thủ. Tướng Hưng cho phép phá huỷ pháo và cơ giới, còn lại bộ binh đi băng rừng về An Lộc.

    Nhờ toán cố vấn Mỹ Trung Đoàn 52 (Trung Tá Walter D. GINGER, bị thương nhưng từ chối tản thương, ở lại giúp Trung Ðoàn 52) liên lạc và hướng dẫn không lực Hoa Kỳ yểm trợ tiếp cận dồi dào và liên tục, Trung Ðoàn 52 (-1) mở đường máu đánh nhau với Công Trường Bình Long phục kích và truy đuổi suốt 3 ngày đêm mới phá được vòng vây về tới An Lộc chiều ngày 10/04/72, tổn thất hơn phân nửa quân số (khoảng 600 chết, bị thương và mất tích, trong đó có Trung Tá Trung Ðoàn Phó HOÀNG VĂN HIẾN tử thương và Trung Tá GINGER, Cố Vấn Trưởng, bị thương). Ðịch quân cũng bị tổn thất rất nhiều (khoảng 2,000).

    Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 7 Bộ Binh và 2 Tiểu Ðoàn từ Phú Giáo cũng về tới An Lộc ngày 06-04-1972 an toàn. Trung Ðoàn này có 1 Tiểu Ðoàn giữ phi trường Quản Lợi, cách An Lộc 5 cây số về phía Ðông Bắc là vị trí trọng yếu có 1 pháo đội hỗn hợp (105 ly và 155 ly) và điểm tiếp liệu không quân. Bị Công Trường Bình Long Việt Cộng tấn công tràn ngập, Tiểu Ðoàn này phải rút vào An Lộc với tổn thất khá nặng.

    Tình hình tại Thị Xã An Lộc theo báo cáo của Ðại Tá LÊ NGUYÊN VỸ, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chỉ huy Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc, thì như sau: “Từ ngày Lộc Ninh lọt vào tay địch, hàng ngày từng nhiều đoàn người từ hướng Lộc Ninh và các xã, ấp lân cận lũ lượt bồng bề dắt nhau chạy vào Thị Xã An Lộc lánh nạn. Phần đông họ là dân chúng Kinh, Thượng, già, trẻ, bé, lớn, viên chức xã ấp, gia đình binh sĩ và lính Tiểu Khu bỏ đồn rã ngũ, chạy thoát thân. Vì đường bộ từ An Lộc về Lai Khê đã bị Việt Cộng cắt đứt, dân chúng không thoát được phải chạy dồn vào Tỉnh, mạnh ai nấy tự tìm nơi an toàn lánh nạn! Cảnh náo loạn, mất trật tự diển ra trước sự bất lực của chính quyền Tỉnh Bình Long. Tuy nhiên sân bay ở phía đầu Tỉnh thì phi cơ Air Việt Nam vẫn còn lên xuống chở gia đình Tỉnh Trưởng và các viên chức di tản khỏi An Lộc”.

    Sáng ngày 07-04-1972, Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân do Trung Tá NGUYỄN VĂN BIẾT chỉ huy và 3 Tiểu Ðoàn 31, 36, và 52 Biệt Ðộng Quân được trực thăng thả xuống sân banh An Lộc an toàn. Tiếp đó buổi chiều cùng ngày Bộ Tham Mưu Sư Ðoàn 5 Bộ Binh từ Lai Khê cũng được trực thăng vận vào An Lộc. Riêng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, trên đường bay vào An Lộc đáp xuống Dầu Tiếng lúc 14 giờ chiều thăm Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và cho Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng biết qua tình hình tại Bình Long, và ban chỉ thị: “Lộc Ninh bị Việt Cộng tấn công cường tập cấp quân đoàn, có chiến xa T.54, đại pháo 130 ly và cao xạ phòng không. Ðịch đang bao vây An Lộc, có thể An Lộc cũng bị tấn công. Hôm nay tôi đem Bộ Chỉ Huy nặng Sư Ðoàn vào An Lộc để tổ chức phòng thủ. Quân Ðoàn có tăng phái Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, đã được trực thăng vận vào An Lộc sáng nay. Hành lang sông Sài Gòn là trục xâm nhập quan trọng thọc vào Sài Gòn, không thể bỏ ngỏ được. Do đó Trung Ðoàn 8 Bộ Binh tạm ở lại giữ điểm trọng yếu này đến khi có đơn vị khác thay thế. Sau khi tôi vào An Lộc rồi thì Sư Ðoàn 5 BB không thể yểm trợ cho Trung Ðoàn 8 BB tại Dầu Tiếng được. Tôi có trình với Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 cho Trung Ðoàn 8 BB được vào hệ thống Quân Ðoàn 3. Vậy từ nay anh vào hệ thống Quân Ðoàn 3 và hãy thận trọng”.

    Tôi hỏi : ”Quân Ðoàn đã sử dụng Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân là đơn vị trừ bị rồi, vậy Quân Ðoàn có xin Tổng Trừ Bị không ?”
    Chuẩn Tướng Hưng nói :”Có. Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 có xin Tổng Trừ Bị. Nhưng Sư Ðoàn Thuỷ Quân Lực Chiến và Sư Ðoàn Nhảy Dù đang kẹt ở chiến trường Quân Khu I và Quân Khu II. Tổng Thống và Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định tăng cường Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đang giữ Dinh Ðộc Lập và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang hành quân tại Tây Ninh cho Quân Ðoàn 3 để tiếp viện An Lộc. Ngoài ra Sư Ðoàn 21 Bộ Binh của Quân Ðoàn 4 có kế hoạch chở bằng phi cơ C.130 từ Cần Thơ ra Ðà Nẵng tăng cường cho Quân Khu I, nhưng hiện nay tình hình Quân Khu III nghiêm trọng hơn, Ðại Tướng hứa ngày 09-04-1972 Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia họp khẩn cấp Ðại Tướng sẽ đề nghị tăng phái Sư Ðoàn 21 Bộ Binh cho Quân Ðoàn 3. Nhưng các đơn vị này phải mất thời gian khoảng 1 tuần mới đến được”.

    Sau khi tiễn Tướng Hưng lên trực thăng vào An Lộc, tôi có linh cảm An Lộc sẽ là chiến trường khốc liệt và Trung Ðoàn 8 Bộ Binh sớm muộn gì cũng vào đây tham chiến với Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Buổi Briefing chiều hôm đó, tôi ra lệnh cho các Tiểu Ðoàn và Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn gọi hậu cứ gom quân số và Lao Công Ðào Binh mới được bổ sung, và đưa tiếp vận cần thiết ra tiền phương bổ sung quân số và tái tiếp tế đầy đủ. Bắt buộc phải mang Ðại Bác 57 ly không giật và súng cối 81 ly. (Cấp số mỗi Tiểu Ðoàn có trang bị 2 khẩu súng cối 81 ly, lúc trước hoả lực yểm trợ còn khan hiếm, các tiểu đoàn Bộ Binh khi đi hành quân đều có mang súng cối 81 ly cơ hữu theo, nhưng sau này vì có pháo binh và không quân yểm trợ hoả lực nhanh chóng và dồi dào, nên các Tiểu Ðoàn Bộ Binh thường để súng cối 81 ly ở lại hậu cứ).

    Dầu Tiếng trước đây có một căn cứ Brigade của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ, rộng lớn, có hầm trú ẩn dưới mặt đất.. Khi Mỹ rút quân, Chi Khu Trị Tâm không đủ khả năng tiếp nhận nên Mỹ phá huỷ và bỏ hoang. Trong một cuộc lục soát và tuần tiểu quanh vị trí đóng quân, may mắn thay Tiểu Ðoàn 1/8 tìm thấy một số hầm có chứa đạn đủ loại và hơn 2,000 súng M.72 còn nguyên vẹn trong bao giấy dầu. Tôi gom số súng này lại phân phối cho các Tiểu Ðoàn trang bị tới cấp Tiểu Ðội, hướng dẫn cách sử dụng và thực tập tác xạ. Số đạn còn lại trao cho Chi Khu Trị Tâm.

    Từ Dầu Tiếng, Chuẩn Tướng Hưng và Ðại Tá William Miller, Cố Vấn Trưởng, bay thẳng lên An Lộc (An Lộc là quận Châu Thành của Tỉnh Bình Long) để thống nhất chỉ huy các lực lượng chính quy và Tiểu Khu Bình Long, tổ chức phòng thủ chống lại âm mưu đánh chiếm Tỉnh Lỵ Bình Long của Việt Cộng. Nơi đây Công Binh Sư Ðoàn đã làm sẵn một căn cứ dã chiến bằng bao cát lót vỉ sắt khá vững chắc cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Bộ Binh ở phía Ðông An Lộc gần ga xe lửa. Tình hình lúc này thì An Lộc hoàn toàn bị bao vây, chưa bị tấn công bộ chiến, nhưng pháo binh địch đã bắt đầu bắn vào Tỉnh lỵ, họ mới bắn lai rai từng quả điều chỉnh tác xạ vào các mục tiêu: sân bay, bãi đáp trực thăng, các căn cứ quân sự và giao điểm các con đường chính. Ðại Tá William Miller, Cố Vấn Trưởng, nói với Tưóng Hưng là Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh làm bằng bao cát không chống được đại pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly. Ông ta thông báo với Tướng Hưng nơi đây không an toàn, toán cố vấn Mỹ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh sẽ rời An Lộc về Lai Khê. Tướng Hưng không đồng ý cho toán cố vấn Mỹ di tản, ông nói :”Trận chiến sắp tới rất cần sự yểm trợ hoả lực của Không Lực Hoa Kỳ. Tôi cần Cố Vấn Mỹ ở lại đây để giúp tôi liên lạc với không quân Mỹ yểm trợ chiến trường. Nếu cố vấn Mỹ muốn có vị trí an toàn hơn, tôi sẽ đưa Ông đi tìm địa điểm khác gần đây”. Tướng Hưng đưa Ðại Tá Miller đi vào trung tâm Thị Xã An Lộc, cạnh bệnh viện Bình Long, nơi đây có một thành lính do quân đội Nhật Hoàng xây cất từ hồi Ðể Nhị Thế Chiến, đúc bằng xi măng cốt sắt, hầm sâu dưới mặt đất, có đường giao thông hào rất kiên cố, có khả năng chống bom của phi cơ Ðồng Minh (trại này trước đây được sử dụng làm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, có tên là Trại Ðỗ Cao Trí. Năm 1971 Mỹ rút quân, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long dời về Compound Mỹ rộng rãi và có đủ tiện nghi ở phía Nam An Lộc, trại Ðỗ Cao Trí đang bỏ trống). Ðại Tá Miller không còn lý do từ chối, phải ở lại An Lộc với Tướng Hưng tử thủ suốt 3 tháng. Ông đã giúp Tướng Hưng rất nhiều trong việc sử dụng Không Lực Hoa Kỳ yểm trợ cho chiến trường An Lộc.

    Tại Thị Xã An Lộc, tính đến chiều ngày 10-04-1972, lực lượng hiện hữu dưới quyền Tướng Hưng gồm có : Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, Trung Ðoàn 7 Bộ Binh (1 Tiểu Ðoàn bị tổn thất nặng tại Quản Lợi), Trung Ðoàn 52 Bộ Binh (2 Tiểu Ðoàn 1/48 và 2/52 gom quân còn tại hàng khoảng 1 Tiểu Ðoàn), một số ít Trung Ðội và Ðại Ðội Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân còn tại hàng của Tiểu Khu Bình Long đang đảm trách canh giữ các cơ sở, kho tiếp liệu và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Với lực lượng này, Tướng Hưng tạm phối trí phòng thủ vòng đai Tỉnh Lỵ như sau:

    - Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân giữ mặt Bắc và phía Ðông Tỉnh Lỵ
    - Trung Ðoàn 7 Bộ Binh giữ mặt phía Tây
    - Tiểu Khu Bình Long, do Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long chỉ huy trách nhiệm an ninh trật tự bên trong Thị Xã và giữ phía Nam
    - Trung Ðoàn 52 Bộ Binh (-) đóng giữa Tiểu Khu Bình Long và Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh trợ chiến cho mặt phía Nam
    - Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đóng tại trại Ðỗ Cao Trí do Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh mặt trận chỉ huy thống nhất.

    Nhận thấy với lực lượng trên không thể chống lại được cuộc tấn công cấp Quân Ðoàn có chiến xa và đại pháo của Cộng Sản, Tướng Hưng trình tất cả tình hình địch và bạn về Tư Lệnh Quân Ðoàn 3.

    Ðể đáp ứng nhu cầu phòng thủ cấp bách, ngày 10-04-1972 Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn 3 mời tôi, Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 tại Biên Hoà nhận lệnh. Sau khi nghe Bộ Tham Mưu Quân Ðoàn thuyết trình về tình hình địch và bạn, và nhận quyết định của Tư Lệnh Quân Khu III: bốc Trung Ðoàn 8 Bộ Binh từ Dầu Tiếng trực thăng vận vào An Lộc. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh nói với tôi:

    “Tình hình An Lộc thật là nguy ngập, theo báo cáo của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh mặt trận thì địch đã siết chặt vòng vây với 4 Sư Ðoàn gồm 3 Sư Ðoàn 5-7-9 và Sư Ðoàn Bình Long mới thành lập, Pháo binh địch đã điều chỉnh xong các hoả tập tiên liệu vào các mục tiêu quân sự, sân bay, các bãi đáp trực thăng và các ngã đường trong Tỉnh. Phòng không 12 ly 7 và cao xạ 37 ly đã phối trí xong chế ngự bầu trời. Từ ngày 08-04-1972 đến nay, trực thăng không vào An Lộc được để thực hiện các phi vụ tiếp tế và tản thương, cả thành phố An Lộc hiện đang bị tê liệt vì pháo binh địch pháo kích ngày đêm. Tướng Hưng ước tính có nhiều triệu chứng địch sẽ bắt đầu tấn công bộ chiến trong vòng một vài ngày tới. VớI lực lượng phòng thủ hiện hữu chỉ có Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, Trung Ðoàn 7 Bộ Binh, Trung Ðoàn 52 Bộ Binh (-2) thì sẽ không thể giữ nổi An Lộc. Mà lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu thì chưa tới. Tướng Hưng có xin cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đổ quân vào tăng viện. Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 Nguyễn Văn Minh quyết định ngày 11-04-1972 sẽ trực thăng vận Trung Ðoàn 8 Bộ Binh vào An Lộc”.

    Sau khi hỏi vài câu về quân số, trang bị và tinh thần, Trung Tướng Minh nói :”Tình hình rất khó khăn và nghiêm trọng. Hãy cố gắng đưa quân vào An Lộc an toàn. Hưng đang chờ Trung Ðoàn 8 Bộ Binh”.

    Tôi biết rằng trận chiến sẽ ác liệt lắm, lần này ra đi không chắc gì trở lại được nếu không chiến thắng. Nhưng là Chiến Binh với tinh thần TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM trên hết, dù có khó khăn hay nguy hiểm cũng phải cố gắng thi hành.

    Trở về Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, tôi bắt buộc phải nói thật với sĩ quan và binh sĩ dưới quyền về nhiệm vụ và tình hình. Tôi yêu cầu tất cả phải chuẩn bị tinh thần và chiến cụ. Lần ra đi này nếu không chiến thắng thì không có ngày trở về.

    VII.- Trung Ðoàn 8 Bộ Binh vào An Lộc

    Vào ngày 11-04-1972, trong lúc Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đang sắp toán tại sân bay Dầu Tiếng chờ trực thăng đến bốc thì Trung Tá ABRAMAWITH, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đến nói với tôi: “toán cố vấn Mỹ được lệnh không vào An Lộc, họ sẽ quay về compound Mỹ tại Lai Khê”.

    Tại An Lộc, từ ngày 09-04-1972 các hoả tập tiên liệu vào các mục tiêu trong Thị Xã đã được Việt Cộng bắn điều chỉnh xong. Ðịch bắt đầu pháo kích với mức độ mỗi ngày vài trăm đến hàng ngàn quả đủ loại để ngăn chặn các sinh hoạt bên trong và uy hiếp tinh thần quân phòng thủ. Ngược lại về phía ta, Không Quân Chiến Thuật và pháo đài bay B.52 cũng hoạt động liên tục ngày đêm, oanh tạc vào các vị trí pháo, chỉ huy sở và đội hình bộ binh địch. Có lẽ nhờ vậy mà đã trì hoãn được cuộc tiến công của địch?

    Mặc dù cuộc đổ quân vào An Lộc của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh được phản lực cơ Việt và Mỹ bao vùng yểm trợ diệt pháo và phòng không, khi chiếc trực thăng chỉ huy của Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh hướng dẫn đoàn trực thăng lift đầu (10 chiếc chở 100 quân) gần đến An Lộc thì pháo binh địch từ nhiều vị trí, nhiều hướng khác nhau đã bắn tới tấp vào Thị Trấn An Lộc chế ngự sân bay, sân banh, và các bãi đáp trực thăng trong Tỉnh. Không thể nào đổ quân vào bên trong An Lộc được. May thay phía Nam Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long khoảng 3 cây số có những “Láng” (lõm trống giữa rừng, chỉ có cỏ, không có cây cao). Tôi quyết định thả quân xuống các lõm trống này. Trực thăng bay thật thấp sà trên ngọn cỏ, đổ quân thật nhanh, binh sĩ được lệnh nhảy xuống đất tản ra tìm chổ ẩn nấp an toàn, rồi các đơn vị gom quân liên lạc với Trung Ðoàn Trưởng dưới dất. Tôi và Bộ Chỉ Huy nhẹ Trung Ðoàn 8 Bộ Binh xuống đất cùng với lift đầu. Rất may khu vực phía Nam này địch chưa phối trí súng phòng không nên trực thăng đã thả Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và 2 Tiểu Ðoàn xuống đất an toàn. Lúc này trời đã xế chiều, tạm ngưng trực thăng vận. Còn lại 1 Tiểu Ðoàn và Ðại Ðội Trinh Sát ngày hôm sau Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó tiếp tục thả quân và đã hoàn tất trong buổi sáng ngày 12-04-1972.

    Ðịch tiếp tục pháo kích khắp mọi nơi. Tướng Hưng nắm vững tình hình hướng dẫn cho Ðại Tá Trường những ngã đường đang bị pháo, những nơi chưa bị pháo để theo lối an toàn đi vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại thành Nhật (Trại Ðỗ Cao Trí) ngay trung tâm Tỉnh Lỵ nhận lệnh.

    Từ khi An Lộc hoàn toàn bị vây hãm, ngày đêm đều bị pháo kích, thương vong ngày càng nhiều mà trực thăng không vào tản thương và tiếp tế được, quân, dân trong Tỉnh tinh thần rắt căng thẳng và lo ngại sẽ phải chiến đấu trong cô đơn. Nay hay tin Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đã đến tăng cường, lòng người đã mừng vui ra mặt, mọi người đều tăng thêm niềm tin và sức sống.

    Khi Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và các Sĩ Quan Bộ Chỉ Huy Hành Quân Trung Ðoàn 8 Bộ Binh vào tới cổng trại Ðỗ Cao Trí thì các Sĩ Quan Bộ Tham Mưu Sư Ðoàn mừng rỡ tiếp đón và đưa vào gặp Tư Lệnh. Chuẩn Tướng Hưng và Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó, vui mừng bắt tay. Tình hình có vẻ nguy ngập. Tướng Hưng hỏi ngay về tinh thần binh sĩ, quân số tham chiến, trang bị, v.v… Tôi phúc trình tinh thần tốt, mấy hôm nay không có đào ngũ, vừa bổ sung xong, mỗi Tiểu Ðoàn tham chiến trên 650. Trang bị đầy đủ.

    Tướng Hưng hỏi Trung Ðoàn có mang đại bác 57 và súng không giật 75 ly không? Tôi trả lời có nhưng không có đạn xuyên phá chống chiến xa. Tuy nhiên Trung Ðoàn 8 Bộ Binh có khoảng hai ngàn (2,000) súng M.72 trang bị cho các tiểu đoàn tới cấp tiểu đội.

    Tướng Hưng có vẻ vui mừng hỏi :”Vũ khí khan hiếm thượng đẳng, ở đâu mà anh có nhiều được vậy?”
    - Trời cho. Tôi kể lại việc Tiểu Ðoàn 1/8 may mắn phát hiện kho đạn của Mỹ ở Dầu Tiếng.

    Tướng Hưng bảo Ðại Tá Vỹ hỏi đơn vị nào không có M.72 thì liên lạc xin Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Hai Ông dắt tôi qua phòng Hành Quân Sư Ðoàn, vừa đi Tướng Hưng vừa hỏi toán cố vấn Mỹ đâu? Tôi trình bày họ nhận được lệnh không vào An Lộc, hiện giờ họ đang ở tại Lai Khê.

    Ðứng trước bản đồ, Ông cho biết tình hình y như Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đã nói. Ðịch đã bao vây và áp sát. Chắc chắn trong vòng một hay hai hôm nữa thì địch sẽ bắt đầu tấn công. Ðiểm sẽ là mặt phía Bắc, nổ lực chính có chiến xa. Ðoạn Ông lấy bút chì mỡ vẽ lên bản đồ lằn ranh phân chia khu vực trách nhiệm phòng thủ và nói với Ðại Tá Tư Lệnh Phó: Trung Ðoàn 8 Bộ Binh còn khỏe, quân số đông, trang bị đầy đủ, trao nhiệm vụ cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh phòng thủ phía Bắc. Trung Ðoàn 7 Bộ Binh phía Tây. Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân phía Ðông, Trung Ðoàn 52 (-) và Tiểu Khu Bình Long giữ phía Nam.

    Tướng Hưng bảo tôi hãy điều động các tiểu đoàn vào vị trí ngay, đừng di chuyển quân xuyên qua thành phố, hãy đi dọc theo vòng đai tránh pháo.

    Trong lúc tôi và Tư Lệnh Phó ngồi chờ Phòng 3 làm sơ đồ Lệnh Hành Quân, tôi nói rõ với Ðại Tá Vỹ: - Ðịch tấn công có chiến xa, chắc chắn chúng sẽ lấy Quốc Lộ 13 làm đường tiến sát, xin Sư Ðoàn cho Công Binh đặt mìn chống chiến xa (CCX) trên QL.13. Ðại Tá Vỹ tỏ vẻ bực tức nói: Tôi có đề nghị với Tỉnh Trưởng Bình Long cho Công Binh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đặt mìn CCX dọc theo Quốc Lộ 13, nhưng Ðại Tá Trần Văn Nhựt không đồng ý với lý do trở ngại cho xe của đồn điền cao su ra vào Thị Xã.

    Ðại Tá Vỹ có vẻ lo lắng về tương quan lực lượng: địch có chiến xa, ta hoàn toàn không có, kể cả thiết vận xa M.113 cũng không có chiếc nào. Về pháo binh thì pháo của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh và Trung Ðoàn 52 Bộ Binh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đã mất tất cả tại Lộc Ninh và Cần Lê. Chỉ có Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh mà các pháo đội mấy hôm nay bị pháo kích hư hỏng cũng khá nhiều. Sư Ðoàn sử dụng Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh 105 ly yểm trợ tổng quát cho mặt trận, ưu tiên cho đơn vị chạm nặng. Ðại Tá Tư Lệnh Phó còn yêu cầu cho Ðại Ðội 8 Trinh Sát làm Tổng Tiền Ðồn.

    Trung Ðoàn 8 Bộ Binh phối trí 2 tiểu đoàn hàng ngang chạm tuyến ở phía Bắc. Binh sĩ suốt đêm đào hố cá nhân, đất sỏi đá rất cứng nhưng cũng phải làm cho xong hầm có nắp để tránh pháo.

    Sáng ngày 12-04-1972, Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó trực thăng vận tiểu đoàn còn lại và Ðại Ðội 8 Trinh Sát lên đến, tôi cho phòng thủ chiều sâu, chiếm lĩnh các cao ốc dọc theo Quốc Lộ 13 xuyên qua An Lộc đồng thời tiểu đoàn này cũng là trừ bị cho Trung Ðoàn, Ðại Ðội 8 Trinh Sát lập tuyến tổng tiền đồn tại đồi Ðồng Long, nơi đây có 1 Trung Ðội Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long với quân số khoảng 20 người.

    Trong lúc bộ binh đào công sự chiến đấu và hầm trú ẩn thì Thiếu Tá Hoàng Trung Liêm Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh được giao nhiệm vụ thiết lập hoả tập tiên liệu hàng rào cản trên đường tiến sát dọc theo Quốc Lộ 13 phía Bắc Trung Ðoàn 8 Bộ Binh để tiêu diệt và tách rời chiến xa và bộ binh tùng thiết của địch.

    Ở đầu Tỉnh về phía Bắc gần sân bay, có 1 kho xăng và 1 kho tiếp liệu tiền phương của Quân Ðoàn 3 để yểm trợ cho các binh đoàn hành quân biên giới. Lúc 12 giờ trưa ngày 12-04-1972, Việt Cộng pháo kích cháy kho xăng. Tướng Hưng lo ngại kho tiếp vận của Quân Ðoàn rồi đây cũng bị địch pháo huỷ diệt hay đánh chiếm. Ông ra lệnh cho các Trung Ðoàn 7-8-52 Bộ Binh và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân đến đó nhận lãnh tối đa các loại đạn cần thiết đem về lưu giữ tại chiến tuyến để có thể chiến đấu lâu ngày mà không cần tái tiếp tế. Nhờ vậy mà khi cuộc chiến bắt đầu, các Trung Ðoàn có đủ đạn chiến đấu hàng tháng trong lúc hoàn toàn bị bao vây.

    Trong hai ngày 11 và 12-04-1972, mức độ pháo kích của Việt Cộng vào Thị Xã gia tăng, ngày nào cũng có nhiều thường dân bị thương vong vì đạn pháo của địch. Dân chúng các nơi chạy giặc về Tỉnh rất đông. Trong Thị Xã không còn đâu là nơi tuyệt đối an toàn. Họ tự động kéo nhau vào những nơi thờ phượng linh thiêng như nhà thờ, chùa Phật, v.v…ngồi đông nghẹt, để mong được Ơn Trên phù hộ, che chở! Và hy vọng những nơi đền thờ của Tôn Giáo, đối phương sẽ tôn trọng, không bị ảnh hưởng tàn bạo của chiến tranh. Mục Sư Ðiểu Huynh dắt khoảng 500 đồng bào Thượng từ các Buôn chạy vào ngồi chật sân ga xe lửa. Cũng có một số đông gia đình Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân Viên Chức xã ấp, lính đồn Tiểu Khu rã ngũ, kéo nhau vào các nơi có Quân Ðội trú đóng để tá túc vì nơi đây có chỗ ẩn nấp, được Quân Ðội bảo vệ và được Quân Ðội giúp đỡ thực phẩm và y tế. Ðiều này làm cho các đơn vị trưởng rất lo ngại đặc công Cộng Sản trà trộn đánh nội ứng! Tướng Hưng lưu ý các đơn vị phải đề cao cảnh giác.

    Suốt 3 ngày 10, 11 và 12-04-1972, mỗi ngày Quân Ðoàn 3 cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh hàng trăm phi xuất phản lực cơ Việt Mỹ đánh bom tới tấp vào các vị trí được ghi nhận có Việt Cộng tập trung, vị trí pháo và phòng không địch xung quanh Thị Xã An Lộc. Không quân báo cáo có nhiều tiếng nổ phụ có khói bốc lên. Ðặc biệt lúc 3 giờ chiều ngày 12-04-1972 phi vụ oanh kích 5 cây số phía Tây cổng Phú Lố có 1 tiếng nổ phụ lớn rồi nhiều tiếng nổ ầm ĩ liên tục kéo dài đến 22 giờ đêm. Phòng 2 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh ước đoán có thể phi cơ đã đánh bom trúng kho đạn tiền phương binh đoàn Cộng Sản?

    VIII.- Trận đánh mở màn

    - Tấn công lần thứ nhất

    Ðêm 12 rạng 13-04-72, để chuẩn bị cho một cuộc tấn công bộ chiến, một trận mưa pháo khoảng 6,000 quả đủ loại bắn suốt đêm vào Thị Xã An Lộc. Lúc khởi đầu, các vị trí pháo binh ta còn phản pháo mãnh liệt. Nhưng về sau các pháo đội bị trúng đạn hư hỏng và tổn thất nên khả năng phản pháo giảm dần. Vào lúc 24 giờ đêm, điểm tiếp liệu của Quân Ðoàn 3 tại sân bay bị trúng pháo phát nổ và tiêu huỷ hoàn toàn. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại phía Ðông cũng bị pháo tập trung bắn sập. May mắn thay trước đó vài ngày Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đã di chuyển sang trại Ðỗ Cao Trí. Có lẽ địch chưa biết. Nhà thờ Kitovua và sân ga nơi có nhiều thường dân và đồng bào Thượng tập trung lánh nạn cũng bị pháo kích khiến dân chúng bị thương vong rất nhiều. Tướng Hưng ra lệnh cho Quân Y Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn gần đó phải đến cấp cứu và băng bó cho nạn nhân.

    Phần lớn đạn pháo kích bắn vào tuyến phòng thủ của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh ở phía Bắc Tỉnh lỵ, quân trú phòng biết ngay địch đang bắn dọn đường cho cuộc tấn công bộ chiến sắp diễn ra. Binh lính các tiểu đoàn nhờ có đào hố cá nhân sâu, có nắp kiên cố nên không bị thiệt hại nhiều qua trận mưa pháo này. Tuy nhiên nhà của dân chúng ở phía Bắc Tỉnh bị sập đổ rất nhiều. Kể từ giờ phút này đã có lệnh của Tướng Hưng cho lệnh máy vô tuyến AN/PRC25 mở thường trực, nhưng chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp khi mà đường giây điện thoại bị pháo đứt, mọi việc chỉ huy liên lạc phải dùng điện thoại để tránh địch nghe lén. Ðường giây điện thoại thường bị đứt vì đạn pháo. Bất kể ngày đêm, đứt lúc nào thì Tiểu Ðoàn 5 Truyền Tin và Truyền Tin Trung Ðoàn phải nối giây để giữ liên lạc. Áp dụng đúng nguyên tắc tham mưu đường giây điện thoại mắc nối từ trên xuống dưới. Các toán nối giây chết rất nhiều trong nhiệm vụ này. Sau khi chiến thắng trở về Lai Khê, Tướng Hưng làm lễ tuyên dương công trạng và tưởng thưởng những anh hùng Truyền Tin trong cuộc chiến.

    Ðến 6 giờ sáng ngày 13-04-1972 trong lúc trên vòng đai phía Bắc đang bị pháo gia tăng cường độ thì Ðại Ðội 8 Trinh Sát Tổng Tiền Ðồn tại đồi Ðồng Long báo cáo đang bị chiến xa địch tràn ngập, phải rút vào Thị Xã đóng tại Ðại Lộ Hoàng Hôn làm trừ bị cho Trung Ðoàn.
    Ðến 7 giờ sáng ngày 13-04-72, pháo binh địch chuyển xạ, các hoả tập trên vòng đai các mặt Bắc, Ðông và Tây ngưng tác xạ. Chuyển các hoả tập vào trung tâm Tỉnh lỵ. Lúc này bộ binh địch bắt đầu tấn công. Các hướng Ðông và Tây tiếng súng nổ dòn. Trung Ðoàn 7 Bộ Binh và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân đang chạm địch trên chiến tuyến.

    Tại phía Bắc đoàn chiến xa T.54 xếp hàng dọc nối đuôi rất dài như một đoàn công voa (convoy) từ từ chạy trên Quốc Lộ 13 tiến vào Thị Xã An Lộc. Hai bên đường mỗi bên có hơn 1 tiểu đoàn bộ binh dàn hàng ngang đi song song cùng chiến xa. Trung Ðoàn 8 Bộ Binh báo cáo địch đã xuất hiện có chiến xa nhưng còn ngoài tầm chưa nổ súng. Khi bộ binh và chiến xa địch lọt vào trận địa pháo tiên liệu của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, Thiếu Tá Liêm, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Trung Ðoàn 8 Bộ Binh ra lệnh các pháo đội 105 ly đồng loạt tác xạ như mưa. Ðồng thời 10 khẩu súng cối 81 ly (4 khẩu của Trung Ðoàn và 6 khẩu của 3 Tiểu Ðoàn) cũng bắn nhịp nhanh tăng cường hoả lực. Một trận mưa pháo bất ngờ dội lên đội hình địch.

    Bị pháo bắn chụp lên đầu, bộ binh tùng thiết địch chạy tán loạn tháo lui tránh pháo. Ðoàn chiến xa hàng dọc trên lộ, những chiếc đi sau ngoài trận địa pháo dừng lại, những chiếc đang đi trước bị xe sau cản đường không thể lùi lại với bộ binh, họ tăng tốc độ chạy lao vào thành phố.

    Hai bên đường Quốc Lộ 13 xuyên qua thành phố là dãy nhà lầu, có một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh được trang bị đầy đủ súng chống chiến xa M.72 chiếm lĩnh cao ốc phòng thủ chiều sâu. Khi đoàn chiến xa T.54 (khoảng 15 chiếc) chạy vào giữa 2 dãy phố thì lính Trung Ðoàn 8 Bộ Binh từ trên cửa sổ lầu cao bắn dữ dội. Xạ thủ đại liên Việt Cộng trên chiến xa, một số bị thương vong, số còn lại phải bỏ súng đại liên nhảy vào xe đậy pháo tháp tránh đạn bộ binh. Chiến xa địch lúc này là khối sắt làm mồi cho xạ thủ M.72.

    Khi chiếc T.54 dẫn đầu tới đại lộ Hoàng Hôn thì chiếc thứ ba trong đoàn bị xạ thủ M.72 Trung Ðoàn 8 Bộ Binh bắn cháy (chiếc tăng đầu tiên bị hạ tại An Lộc), xe này quay ngang giữa lộ thành chướng ngại vật cản đường. Các chiến xa chạy phía sau phải dừng lại, nhờ vậy mà các xạ thủ M.72 Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đã hạ thêm 3 chiến xa đang đậu nối đuôi. Các chiến xa phía cuối đoàn xe thấy vậy liền rẽ trái, rẽ phải tháo chạy, nhưng cũng bị Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân hạ 3 chiếc, và Trung Ðoàn 7 Bộ Binh hạ 2 chiếc.

    Hai chiến xa dẫn đầu tống ga chạy như trâu điên về phía Nam, có lẽ họ cố tìm lối thoát ra khỏi Thị Xã. Khi chiếc đầu chạy ngang qua trại Ðỗ Cao Trí thì bị Ðại Tá VỸ, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và quân phòng thủ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh bắn bốc khói, nhưng nó còn cố chạy về phía Nam, cũng bị quân ta bắn hạ. Chiếc thứ hai thấy vậy quay lại chạy ngang sân banh bị pháo đội 105 ly hạ nòng trực xạ bắn đứt xích, cố lết tới đại lộ Hoàng Hôn thì Ðại Ðội 8 Công Vụ và Ðại Ðội 8 Trinh Sát nhảy lên ném lựu đạn vào pháo tháp huỷ diệt.

    Khoảng 9 giờ sáng (13-04-72) có 3 trực thăng Cobra của Hoa Kỳ trang bị hoả tiễn 2.7 inches với đầu đạn chống chiến xa đến vùng liên lạc với bộ binh yêu cầu đánh dấu các chiến xa đã bị hạ. Sau đó trực thăng phát hiện còn 3 chiến xa địch đang hoạt động trong thành phố và đã bắn hạ tất cả 3 chiếc đó. Tóm lại tại mặt trận phía Bắc có 15 chiến xa T.54 lọt được vào thành phố, bị quân trú phòng hạ 12 chiếc, Cobra hạ 3 chiếc.

    Lúc 10 giờ sáng (13-04-72), Việt Cộng lại tung 1 đợt tấn công khác vào 3 mặt Bắc, Ðông và Tây. Quân trú phòng chống trả quyết liệt. Nhờ không quân Việt Mỹ đánh bom yểm trợ tiếp cận hữu hiệu ngăn chặn. Cuộc tấn công hợp đồng chiến xa bộ binh có pháo yểm trợ của Cộng Sản Bắc Việt đã bị chận đứng, tuy nhiên Việt Cộng đã kiểm soát được sân bay và khu vực nhà tole phía Bắc Tỉnh lỵ. Trong ngày 13-04-1972, các pháo đài bay B.52 được chuyển sang yểm trợ cho chiến trường An Lộc và các khu trục cơ cũng liên tục oanh tạc các vị trí pháo Việt Cộng chung quanh Thị Xã An Lộc.

    Lợi dụng lúc địch tạm ngưng pháo kích và tấn công, quân phòng thủ củng cố lại vị trí chiến đấu và cấp cứu thương binh. Những thương binh nhẹ thì đưa về Ðại Ðội Quân Y Trung Ðoàn chăm sóc. Nặng thì đưa đến bệnh viện Bình Long nơi đây có Bác Sĩ Tiểu Ðoàn 5 Quân Y phối hợp với Bác Sĩ Quân Y Tiểu Khu cứu chữa. Dân chúng bị thương vong rất nhiều, các ban Quân Y đơn vị chính quy phải đảm trách cứu thương cho thường dân tại chỗ. Do đó mới ngày đầu mà số thuốc dự trữ của Quân Y đã sử dụng gần hết.

    Khoảng trưa ngày 16-04-72, Cha Chánh Xứ An Lộc thấy thường dân bị Việt Cộng pháo kích thương vong nhiều quá, quyết định hướng dẫn gần 20,000 người phần lớn là thường dân, gia đình lính Tiểu Khu, viên chức xã ấp rời An Lộc đi về Lai Khê thoàt ra địa ngục trần gian này. Cha Xứ mặc áo Linh Mục đi đầu. Khi đến Xa Trạch bị Việt Cộng chặn lại không cho đi mà còn lùng bắt viên chức và quân nhân. Cha thấy không ổn nên dắt đoàn người quay trở về An Lộc. Khi về tới An Lộc thì trời đã gần tối, mạnh ai nấy lo lấy thân, tự tìm nơi ẩn trú. Chính quyền địa phương không giải quyết được tình trạng hỗn loạn này. Ðoàn người tị nạn tự động tìm đến nương náu ở những nơi họ cảm thấy có an toàn. Gần 1,000 người tràn vào ẩn trú quanh khu bệnh viện Bình Long. Hơn 5,000 người chạy vô khu nhà thờ. Họ hy vọng Cộng quân không tấn công hai nơi này. Bởi họ nghĩ rằng nếu còn một chút lòng người, không một cấp chỉ huy nào có thể ra lệnh bắn vào “nhà thương”, “nhà thờ”. Cũng có người tìm đến những nơi có quân đội chính quy trú đóng những mong được bảo vệ, có nơi ẩn trú an toàn và được giúp đỡ y tế và lương thực. Từ lúc này, Dân và Quân cùng ăn, cùng ở và cùng chiến đấu sống chết bên nhau. Cũng vì vậy mà nhiều đơn vị đang gặp trở ngại thiếu lương thực, thuốc men nhưng vẫn phải chia xẻ với dân chúng.

    Những Việt Cộng từ chiến xa T.54 nhảy ra định thoát thân bị Trung Ðoàn 8 Bộ Binh bắt có một đại đội phó chiến xa. Theo lời khai đương sự thì đơn vị này vừa mới thành lập tại Hà Nội và đưa ngay vào Nam. Cũng theo cung xuất tù binh cho biết qua học tập “hạ quyết tâm” thì Quân Ðoàn Cộng Sản Bắc Việt tiến vào Sài Gòn theo kế hoạch như sau: Giai đoạn 1: Chiếm Lộc Ninh tịch thu chiến lợi phẩm của Chiến Ðoàn 9 và chi khu Lộc Ninh tái tiếp tế nhiên liệu và thực phẩm rồi đánh xuống An Lộc. Giai đoạn 2: Chiếm An Lộc tịch thu chiến lợi phẩm của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Tỉnh Bình Long tái tiếp tế rồi đánh tiếp xuống Bình Dương. Giai đoạn 3: Chiếm Bình Dương cũng tái tiếp tế bằng chiến lợi phẩm như trên rồi hợp đồng tiến công vào Sài Gòn. Tù binh còn cho biết Quân Ủy đã lừa gạt họ rằng An Lộc đã đầu hàng, chiến xa tiến vào tiếp thu.

    Lời khai này đã giải toả thắc mắc vì sao trong ba lô trên tử thi Việt Cộng để lại chiến trường có gạo sấy và lương khô của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Qua tin tức trên, Tướng Hưng nhận thấy nếu Cộng Sản Bắc Việt không chiếm được An Lộc thì chúng không có đủ khả năng tiếp vận đánh tới. Do đó để bảo vệ Thủ Ðô Sài Gòn, Ông tuyên bố tử thủ. Báo cáo về Quân Ðoàn 3 xin khẩn cấp tiếp tế súng chống chiến xa M.72 và y dược cứu thương, đồng thời Ông ra lệnh thành lập tổ chống chiến xa lưu động.

    Chiến thắng ngày 13-04-72 về mặt quân sự thì không phải là to lớn, nhưng về mặt tinh thần thì rất là quan trọng, vì là lần dầu tiên quân ta chiến đấu với Việt Công có chiến xa, tinh thần binh sĩ rất giao động, cấp chỉ huy cũng rất lo âu. Nay diệt gọn chiến xa T.54 rất dễ dàng làm cho quân dân trong An Lộc rất lên tinh thần và không còn ấn tượng sợ chiến xa nữa. Kế đến là không quân Việt Mỹ bất chấp phòng không dầy đặc của địch lao vào oanh kích yểm trợ tiếp cận dữ dội gây cho địch tổn thất nặng nề. Một yếu tố khác rất quan trọng là hậu phương chính trị đoàn kết, họ ý thức “Ðất nước còn tất cả còn, đất nước mất mất tất cả”. Họ một lòng “Tất cả cho tiền tuyến chống giặc bảo vệ quê hương”. Ngoài chiến trận chiến sĩ tin tưởng hậu phương vững mạnh an tâm chiến đấu. Trong lúc đó đảng Cộng Sản ra lệnh phải chiếm An Lộc bằng mọi giá, cho nên họ tiếp tục pháo kích và tấn công liên tục trong những ngày kế tiếp.

    IX.- Lao Công Ðào Binh và Tổ Chống Chiến Xa

    a.- Lao Công Ðào Binh (LCÐB) Là quân nhân Việt Nam Cộng Hoà vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị quá 30 ngày bị báo cáo đào ngũ và tầm nã. Khi bị bắt, đương sự bị toà án quân sự kết tội nặng nhẹ tùy theo trường hợp và bị giam vào quân lao. Năm 1967, Bộ Quốc Phòng ra lệnh đưa những Lao Công Ðào Binh ra chiến trường cho các đơn vị chiến đấu sử dụng vào các công tác tạp dịch như khuân vác đạn, làm công sự chiến đấu, đào hầm trú ẩn, v.v… Theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu những đơn vị sử dụng Lao Công Ðào Binh phải trách nhiệm canh giữ không để cho Lao Công Ðào Binh có cơ hội trốn thoát. Ðơn vị nào để Lao Công Ðào Binh trốn nhiều sẽ bị khiển phạt. Do đó theo thường lệ thì đơn vị sử dụng cắt lính có võ trang canh giữ suốt thời gian họ lao động tại hiện trường. Ban đêm thì tập trung lại một nơi canh giữ nghiêm ngặt.

    Thượng tuần tháng 04-72, Sư Ðoàn 5 Bộ Binh được Quân Ðoàn 3 phân phối 400 Lao Công Ðào Binh. Lãnh về đến Lai Khê trong lúc chiến cuộc đang bùng nổ, Trung Ðoàn 9 Bộ Binh đã bị Cộng Sản Bắc Việt tràn ngập tại Lộc Ninh, Trung Ðoàn 7 Bộ Binh thì đang bị vây tại An Lộc. Chỉ còn Trung Ðoàn 8 Bộ Binh ở Dầu Tiếng nên Phòng 1 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh phân phối tất cả cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Ngày 11 và 12-04-72 Trung Ðoàn 8 Bộ Binh trực thăng vận vào An Lộc tôi đem tất cả 400 Lao Công Ðào Binh này theo. Lúc An Lộc đang bị mưa pháo liên tục ngày đêm, không nơi nào được an toàn. Nếu tập trung Lao Công Ðào Binh canh giữ như trước đây thì bất ổn cho sinh mạng của họ. Xét về mặt tinh thần và ý thức hệ thì họ cũng là thành phần chống Cộng, nhưng vì lý do gì đó họ phải vắng mặt bất hợp pháp hay bỏ ngũ chứ không phải đào ngũ theo địch. Xét về mặt kinh nghiệm chiến trường và khả năng chiến đấu thì họ thiện chiến hơn tân binh nhiều.

    Chiều ngày 13-04-72, trong lúc chiến tuyến phía Bắc đang bị Cộng Sản Bắc Việt tấn công mạnh, 4 khẩu súng cối 81 ly của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đang bắn yểm trợ, bất thình lình một quả pháo rơi gần làm một số xạ thủ súng cối chết và bị thương. Các Lao Công Ðào Binh đang tải đạn cho Ðại Ðội 8 Công Vụ tự động nhẩy tới thay thế nhiệm vụ những quân nhân bị loại khỏi vòng chiến tiếp tục bắn cho đến khi quân Cộng Sản Bắc Việt bị đẩy lui. Họ chiến đấu rất can đảm, hăng say và rất nhiều kinh nghiệm.

    Ðêm 13-04-72 Cộng Sản Bắc Việt ngưng bộ chiến nhưng tăng gia pháo kích. Màn đêm vừa xuống, tiếng đạn rít gió, tiếng nổ kinh hồn ầm ĩ gần xa khắp nơi trong Thị Xã. Binh lính đều xuống hố cá nhân ẩn nấp, chỉ có Lao Công Ðào Binh thì đang bị tập trung canh giữ trong một căn phố trống, số mạng giao cho “Ông Trời”. Tôi đến thăm và hỏi ý kiến họ, nếu ai muốn tự nguyện ra tiểu đoàn để cùng các chiến binh chiến đấu thì tôi võ trang cho ra đơn vị, và xin phục hồi binh quyền. Tất cả mừng rỡ tự nguyện xin được cầm súng chiến đấu dù có hy sinh họ cũng vui lòng. Ðúng ra thì với chức vụ và quyền hạn của một Trung Ðoàn Trưởng, tôi không có quyền cho Lao Công Ðào Binh được phục hồi binh quyền trước khi có quyết định của Bộ Quốc Phòng. Nhưng trong tình thế Tổ Quốc Lâm Nguy, Tướng Hưng tuyên bố “Tử Thủ An Lộc”, tôi phải làm vậy vừa cứu họ thoát hiểm đồng thời có thêm quân số tham chiến. May thay sau đó hậu cứ Sư Ðoàn báo lên, Bộ Quốc Phòng đã có quyết định chấp thuận phục hồi binh quyền cho số Lao Công Ðào Binh nói trên. Nhờ có quyết định nhân đạo này mà gần 200 Lao Công Ðào Binh bị tử trận trong lúc chiến đấu, gia đình họ được lãnh tử tuất và vợ con họ được nhận là cô nhi tử sĩ.

    B.- Tổ Chống Chiến Xa. Khi có lệnh của Tướng Lê Văn Hưng thành lập “toán diệt tank”, tôi cho lệnh các tiểu đoàn chọn lựa quân nhân nhanh lẹ, can đảm làm trưởng toán, trang bị súng cá nhân và M.72, lưu động trong phạm vi khu vực của mình, đừng đi quá xa ngoài khu vực trách nhiệm của mình tránh ngộ nhận quân bạn, không có máy truyền tin nhưng mọi liên lạc nhận lệnh phải được bảo đảm. Tại khu vực trú đóng mỗi tiểu đoàn còn có dân chúng tá túc, trong số này cũng có Nhân Dân Tự Vệ, lính đồn rã ngũ và gia đình, v.v… họ tình nguyện đi theo tổ “diệt tank”. Họ biết rõ địa thế, nơi nào có ngõ hẻm, có chỗ ẩn nấp kín đáo, dắt toán diệt tank chạy luồn lách chặn đầu bắn hạ chiến xa địch. Vì trưởng toán thuộc đơn vị nào thì họ chỉ hoạt động trong khu vực đó nên mặc dù họ không mặc sắc phục đồng nhất, trang bị đủ loại súng M.16, M.72, có khi cả B.40 và B.41 tịch thu được của VC nhưng không bị quân bạn ngộ nhận. Trong suốt cuộc chiến, toán anh hùng vô danh này lập rất nhiều thành tích và họ cũng bị thiệt mạng rất nhiều. Tôi có lập một quyển sổ ghi công các người đã lập được chiến công để sau này dễ dàng cứu xét tưởng thưởng công bằng. Nhưng tội nghiệp thay tên của họ đã bị gạch đỏ gần hết vì sau đó họ đã tử trận!

    Ngày 14-04-1972, địch không tấn công hợp đồng, dường như các đơn vị tham chiến bị tổn thất nặng đang lui quân chỉnh đốn lại hàng ngũ để mở một đợt tấn công khác. Nhưng pháo binh địch vẫn bắn liên tục suốt ngày vào bên trong thành phố. Tiếng súng vẫn nổ vang rền bên trong phân nửa phía Bắc Thị Xã An Lộc. Giao tranh giữa quân phòng thủ và đặc công địch vẫn tiếp diễn. An Lộc đang bị xiết chặt vòng vây, quân trú phòng bị bó cứng trong khu phố Thị Xã. 400 Lao Công Ðào Binh Trung Ðoàn 8 Bộ Binh được lệnh trang bị và bổ sung cho các tiểu đoàn để điền khuyết vào quân số tổn thất.

    Buổi chiều ngày 14-04-1972, Không Quân Việt Nam và Hoa Kỳ thả dù tiếp tế cho An Lộc. Vì phòng không địch dầy đặc, 2 phi cơ C.123 Việt Nam và 3 phi cơ C.130 Hoa Kỳ đã bị hoả lực phòng không địch bắn hạ. Ðể tránh đạn phòng không, phi cơ phải bay cao, dù mở, bị gió đàn nên hơn phân nửa số bành dù tiếp tế bị bay lọt ra ngoài (sau này rút kinh nghiệm, kỹ thuật thả dù tiếp tế được cải tiến hoàn chỉnh bằng lối phi cơ bay từ trên cao ngoài tầm pháo, thả dù “điều khiển”, cách này thì phi cơ được an toàn nhưng các bành dù bị lọt ra ngoài thì không tránh khỏi !). Theo tài liệu Mỹ, trong hai tháng 05 và 06/72, không quân Hoa Kỳ đã thả dù vào An Lộc một số lượng 3,100 tấn hàng tiếp tế gồm đạn dược, lương thực và dụng cụ cứu thương, nhưng rất tiếc hơn phân nửa số tiếp tế này bị rơi ra ngoài! Bọn Cộng Sản thật là tàn ác và vô nhân đạo. Mỗi lần có thả dù tiếp tế, dân chúng trong Thị Xã đổ sô chạy ra khỏi hầm ẩn núp lượm hàng tiếp tế bị pháo binh Cộng Sản Bắc Việt bắn tới tấp sát hại rất nhiều! Trong suốt thời gian cuộc chiến, Quân Dân An Lộc sống nhờ tiếp tế thả dù, và lần nào cũng có nhiều người chết và bị thương trong lúc đi thu nhặt dù!

    Ngày 14-04-72, tại Lai Khê, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 mở một cuộc họp mật khẩn cấp với Trung Tướng Dư Quốc Ðống, Tư Lệnh Sư Ðoàn Dù và Ðại Tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù thảo luận kế hoạch đưa Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù vào An Lộc tăng viện.

    Cũng vào thời điểm này, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh do Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy và Trung Ðoàn 15 Sư Ðoàn 9 Bộ Binh do Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy từ miền Tây (Quân Khu IV) lên đến Lai Khê tăng cường cho QK III. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III giao nhiệm vụ đánh thẳng theo Quốc Lộ 13 lên An Lộc giải vây cho lực lượng trú phòng đang bị bao vây. Do bởi đơn vị Bộ Binh hùng hậu này Tư Lệnh chiến trường Cộng Sản Bắc Việt phải điều toàn bộ CT 7 đang tham chiến trong kế hoạch tấn công vào An Lộc phải chuyển xuống phía Nam đóng chốt chặn SÐ 21 Bộ Binh. Kể từ lúc này, thêm một mặt trận đẫm máu diễn ra trên Quốc Lộ 13 giữa Chơn Thành và An Lộc.

    - Tấn công lần thứ 2

    Ðêm 14 rạng 15-04-72, đại pháo 130 ly, hoả tiễn 122 ly và pháo đủ loại trút vào Thị Xã An Lộc suốt đêm. Sáng ngày 15-04-72, Cộng Sản Bắc Việt tập trung lực lượng chĩa mũi dùi tấn công mạnh vào mạn Bắc. Trước lực lượng địch quá đông, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh bị đẩy lui dần về cố thủ trong khu phố nhà gạch phía Bắc. Một số lớn chiến xa T.54 vượt được tuyến phía Bắc chạy vào thành phố. Lần này chiến xa địch cũng vướng phải lỗi lầm như trước là chạy quá nhanh làm bộ binh tùng thiết không theo được. Chiến xa chạy trong thành phố mà không có bộ binh bảo vệ nên bị các toán diệt tank chạy lòn lách trong các đường tắt, ngõ hẻm chặn đầu bắn hạ. Quân trú phòng tranh nhau đuổi bắn chiến xa, không phải chỉ bắn bằng súng M.72 mà còn bằng súng B.40 và B.41 tịch thu được của đối phương. Ðến 10 giờ sáng thì bộ binh địch đã đánh cận chiến với quân phòng thủ. Quân bạn nhờ chiến đấu cơ của không lực Việt Nam và Hoa Kỳ can thiệp và yểm trợ đến 14 giờ chiều mới đẩy lui được đợt tấn công thứ hai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổn thất chiến trận quân phòng thủ đã lên con số khá cao. Lợi dụng lúc địch ngưng tấn công, ta củng cố lại đội ngũ và săn sóc thương binh cũng như cứu giúp dân bị thương vong.

    X.- Quân Nhảy Dù vào An Lộc

    Ngày 14-04-1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá LÊ QUANG LƯỠNG chỉ huy, (sau này là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá PHAN VĂN HUẤN chỉ huy được trực thăng vận xuống 4 cây số Ðông Nam An Lộc. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù chiếm Ðồi Gió đặt 6 khẩu pháo binh Dù 105 ly làm căn cứ hoả lực yểm trợ cho An Lộc. Ðể Tiểu Ðoàn 6 Dù ở lại Ðồi Gió bảo vệ pháo binh. Ngày 15-04-72, Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù với 2 Tiểu Ðoàn 5, 8 và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tiến vào An Lộc bắt tay với lực lượng phòng thủ.

    Tại An Lộc, sau 10 ngày bị bao vây, pháo kích và 2 đợt tấn công bộ chiến, An Lộc bị siết chặt trong vòng vây. Quân Dân An Lộc bị bó cứng trong mấy cây số vuông. Số lượng thương vong mỗi ngày một tăng, quân phòng thủ tổn thất khá nhiều, mệt mỏi và kiệt lực. Ðược tin quân tiếp viện Dù thiện chiến đã đến An Lộc, Quân Dân trong vòng vây rất lấy làm vui mừng, và tin tưởng họ không còn chiến đấu trong cô đơn và tuyệt vọng. Mấy ngày đầu Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đóng tại trại Ðỗ Cao Trí chung với Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, 2 Tiểu Ðoàn 5 và 8 đóng quân trong rừng cao su 1 km phía Nam Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, vài ngày sau Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù di chuyển về đóng chung với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long. Từ ngày có Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù vào, an ninh được nới rộng về hướng Nam An Lộc hơn 1 km, nhưng trực thăng vẫn chưa thể đáp tiếp tế và tản thương được vì phòng không và pháo binh địch từ xa đang chế ngự bầu trời và bãi đáp. Ngày nào cũng có trực thăng bị trúng đạn hay bị bắn rơi, nhưng không có chiếc nào có thể đáp được.

    Tướng Lê Văn Hưng đưa Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù lên bắt tay với Trung Ðoàn 8 Bộ Binh tổ chức phòng thủ giữ mặt Bắc, nơi hiện đang là chính diện cuộc chiến, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù là đơn vị rất ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, được tuyển lựa và huấn luyện rất kỹ, thể lực tốt, tinh thần cao, kỷ luật, gan lỳ và chiến đấu rất giỏi. Việc phối hợp và yểm trợ giữa Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù rất dễ dàng và không chút gì trở ngại. Trung Tá Huấn xuất thân khoá 10 Trường Võ Bị Ðà Lạt (Niên Trưởng), tôi tốt nghiệp khóa 12 (Niên Ðệ).Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó của tôi và Liên Ðoàn Phó 81 Biệt Cách Dù cũng là bạn cùng khoá 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Chúng tôi hợp tác rất chặt chẽ, chiến đấu sát cánh bên nhau bảo vệ từng căn nhà, từng tấc đất trong tình Huynh Ðệ Chi Binh cùng một lý tưởng Quốc Gia chống Cộng, và theo truyền thống trường Mẹ “Anh ngã Em nâng, Em ngã Anh đỡ” và cùng một lời thề trước hồn thiêng sông núi khi mãn khóa: “Hy sinh vì dân tộc, trung thành với Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hoà.”

    Tại Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8, tôi thuyết trình tình hình và địa thế cho Liên Ðoàn Trưởng 81 Biệt Cách Dù và bàn giao nửa khu vực phòng thủ phía Bắc cho Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Trung Ðoàn 8 Bộ Binh rút quân từ lằn ranh Biệt Ðộng Quân ở phía Ðông về phía Tây Quốc Lộ 13 (đường Ngô Quyền). Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đưa quân vào vị trí ngay buổi chiều hôm đó.

    - Tấn công lần thứ 3

    Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù vừa thay quân vào vị trí xong thì trời bắt đầu tối. Ðêm 15-04-72. địch pháo suốt đêm trên 6,000 quả đủ loại khủng khiếp. Các khu phố trong Thị Xã đổ nát điêu tàn. Bệnh viện Dân Quân Tỉnh Bình Long bị tiêu huỷ một cách dã man. Bốn trăm bệnh nhân và thương binh đang nằm điều trị tại đây trúng đạn pháo kích chết tan xác hơn 200 người. Thường dân trú ẩn quanh khu vực nhà thương cũng bị chết hơn 300 người. Kể từ ngày này toàn Tỉnh không có cơ quan cứu thương để chăm sóc cho dân và thương binh. Tướng Hưng ra lệnh cho các đơn vị chính quy đóng ở khu vực nào thì phải chăm sóc cho đồng bào và thương binh khu đó. Chỉ tản thương về Ðại Ðội Quận Y Trung Ðoàn những người bị thương nặng. Trường hợp tử thương thì chết đâu chôn đó. Tại sân ga Hớn Quản ở phía Ðông Tỉnh, đồng bào sắc tộc (Thượng) sống rải rác ngoài rừng kéo nhau vào Tỉnh lẩn tránh Việt Cộng, ngồi chật sân ga, đêm đó bị pháo huỷ diệt chết rất nhiều. Tại phía Tây Tỉnh, dân chúng ẩn trốn trong nhà thờ KITOVUA khoảng hơn 5,000 người cũng bị pháo chết thê thảm. Không ai có thể hình dung được cảnh hỗn loạn thảm khốc khi nhiều ngàn người đạp lên nhau chạy thoát khỏi nhà thờ đang bị pháo kích, nhưng thoát khỏi khu nhà thờ cũng không tránh khỏi đạn pháo. Toàn Tỉnh đâu cũng bị pháo! Dân chết thê thảm không sao kể siết! Có người chết không phải một lần mà thi thể bị trúng pháo nhiều lần. Chết không toàn thây, xác không còn nguyên vẹn. Thân nhân phải cố gắng đi tìm kiếm thu lượm ráp nối cho đầy đủ trước khi vùi sâu dưới lòng đất! Mục đích của Cộng Sản Bắc Việt là sát hại dân chúng thật nhiều gây cảnh hỗn loạn để dễ dàng tấn chiếm An Lộc. Tỉnh lỵ Bình Long sau này chỉ còn là đống gạch vụn hoang tàn, nhiều mồ hoang mả đất rải rác khắp nơi trong thành phố xen lẫn với xác chiến xa T.54 và PT.76 của Cộng Sản bị bắn cháy ngổn ngang trên đường phố.

    Ðúng 7 giờ sáng ngày 17-04-72, khi đợt pháo kích ác liệt vừa dứt, địch đồng loạt tấn công 4 mặt với chiến xa và bộ binh hợp đồng nhị thức. Tại mặt Bắc, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù phối hợp chặt chẽ chống trả mãnh liệt, yểm trợ nhau giữ từng căn phố. Chiến sĩ Biệt Cách Dù tác chiến trong thành phố rất giỏi, những đợt xung phong của Cộng Sản từ phía Bắc đều bị quân ta đẩy lui. Trận đánh quyết liệt kéo dài đến chiều tối và tiếp diễn luôn đến ngày hôm sau 18-04-72. Nhờ Không Quân yểm trợ liên tục và hữu hiệu, quân trú phòng cả 4 mặt đều giữ vững vị trí. Tổn thất thương vong đôi bên rất cao.

    Khoảng 11 giờ trưa ngày 17-04-72, tôi (Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh), bị thương nơi cổ bất tỉnh. Thiếu Tá Y Sĩ Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Quân Y đích thân chăm sóc vết thương và trình với Tướng Hưng :”Vết thương nơi cổ rất nặng và rất nguy hiểm, phải chờ qua đêm nếu còn sống mới hy vọng thoát khỏi”.

    Trong lúc đó trận đánh vẫn kéo dài đến suốt đêm 18-04-72. Mỗi lần địch xung phong đều bị chặn đứng và tổn thất nặng. Mãi đến ngày 19-04-72, địch mới lui binh nhưng vẫn giữ mức pháo kích như thường ngày. Sau hai ngày bộ chiến, xác quân bạn, quân địch và thường dân đầy rẫy trên chiến trường, và khắp nơi trong thành phố. Mùa hè oi bức, mùi tử khí từ xác chết xông lên nồng nặc. Ruồi lằn kinh khủng, quân dân trong An Lộc phải trải qua nhiều ngày rất khó thở, phải chờ đến lúc pháo binh địch bắn thưa thớt mới có cơ hội gom tử thi đồng đội, xác chết dân chúng và cả xác Việt Cộng đem chôn. Tại khu nhà thương và một vài nơi khác phải dùng xe ủi đất đào hố thật sâu, rộng lớn để chôn tập thể. Xác chết tại khu nhà thương nhiều đến nỗi phải gom chôn tập thể suốt hai ngày mới xong!

    Ngày 19-04-72, lợi dụng lúc Cộng Sản Bắc Việt ngưng tấn công, Quân Ðoàn 3 cho tiếp tế. Hàng rào phòng không dầy đặc, trực thăng không thể vào đuợc. Phi cơ C.130 bay thật cao thả dù điều khiển. Phần lớn các kiện hàng thả xuống bay tạt ra ngoài! Bành dù nào rơi được vào trong Thị Xã thì Tướng Hưng ra lệnh cho phép đơn vị ở gần đó thu lượm chia nhau sử dụng, nhưng phải báo cáo rõ số lượng thu được. Chiến sĩ và đồng bào kẹt trong vòng vây nhiều ngày thiếu lương thực. Quân Dân phải chia sẻ tất cả những gì có thể ăn được để mà sống. Ba bịch gạo xấy phần ăn một ngày của quân nhân phải chia làm nhiều phần ăn để đồng bào và quân đội cùng nhau sống cầm hơi chờ … “pháo ?!” Bởi vậy, mỗi lần có tiếp tế thả dù, quân và dân chạy túa ra khỏi nơi ẩn nấp lượm bành dù bất kể trận mưa pháo của CS. Lần nào quân dân An Lộc cũng có người chết vì đạn pháo trong lúc đi lượm dù.

    Ở An Lộc con người chết đủ cách. Có lúc đói quá, dân biết đường dắt lính ra ao làng hái rau muống, cái gì ăn được đều hái đem về ăn. Nhiều người đã chết khi đi hái rau. Người ta hái rau muống từ những ao đầy xác người. Xác chết của họ rữa nát làm phân bón cho rau đâm chồi sanh tươi nuôi sống những người còn sống. Cũng có nhiều người chết khi đi múc nước ở giếng hay ao đem về cho đồng bào và đồng đội. Nếu đây là một đoàn quân không chiến đấu vì chính nghĩa, vì bảo vệ đồng bào, vì Tổ Quốc dân tộc và nếu không có một sự nhiệm mầu nào đó hỗ trợ, chắc chắn họ sẽ không đủ nghị lực chịu đựng suốt 90 ngày tử thủ.

    - Tấn công lần thứ 4

    Khởi đầu cuộc chiến, Quân Ủy Cộng Sản giao cho Công Trường 5 và Sư Ðoàn Bình Long nhiệm vụ chiếm An Lộc trước ngày 20-04-72. Nhưng sau 3 đợt tấn công, An Lộc vẫn còn đứng vững nên Công Trường 9 được điều vào tham chiến cùng Công Trường 5 và Công Trường Bình Long tiếp tục tấn công An Lộc.

    Ðêm 20-04-72, Cộng Sản Bắc Việt tập trung pháo san bằng căn cứ hoả lực 6 khẩu pháo 105 ly Dù, dùng bộ binh và chiến xa cường tập tràn ngập Tiểu Ðoàn 6 Dù đang bảo vệ Căn Cứ Hoả Lực tại Ðồi Gió.

    Nửa đêm về sáng ngày 21-04-72, Cộng quân pháo kích hơn 2,000 trái đạn đủ loại vào An Lộc rồi 4 mặt tấn công vào Thị Xã.

    - Khoảng 4 giờ sáng ngày 21-04-72, mặt phía Ðông và phía Ðông Nam của Biệt Ðộng Quân bị 2 mũi tấn công.

    - 8 giờ 30 sáng, mặt phía Bắc bị bộ binh và chiến xa Cộng Sản Bắc Việt tấn công mạnh, cuộc giao tranh giữa Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh với quân chính quy Bắc Việt diễn ra với mức độ ác liệt, tấn tới, đẩy lui tạo thành một mảng da beo trong lòng nửa phía Bắc An Lộc. Ðịch dùng đạn lân tinh bắn vào khu phố gây nên những đám cháy lớn, buộc quân trú phòng tránh lửa phải lui dần về khu chợ bám trụ vào khu phố lầu xây bằng gạch.

    - 13 giờ chiều, mặt phía Tây của Trung Ðoàn 7 Bộ Binh bắt đầu bị bộ binh địch và chiến xa tấn công. Nhờ Không Quân yểm trợ tích cực, Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đã chận đứng được các đợt xung phong của địch và bắn hạ khoảng 10 chiếc T.54. Tuy nhiên Trung Ðoàn 7 Bộ Binh tổn thất khoảng 100 thương vong trong đó có một Ðại Úy Tiểu Ðoàn Trưởng tử thương.

    Không hiểu vì kế hoạch điều quân chủ quan của cấp chỉ huy Cộng Sản hay vì các cánh quân họ gặp trở ngại bởi Không Quân oanh kích mà các mặt tấn công không đồng loạt nên quân phòng thủ có cơ hội yểm trợ cho nhau và Sư Ðoàn dồn Không Quân tập trung hoả lực yểm trợ cho mỗi mặt chận đứng được các đợt xung phong của địch. Tuy không tràn ngập được mục tiêu nhưng Cộng quân vẫn bám giữ các phần đất và khu phố đã chiếm được. Hàng ngày quân Cộng Sản Bắc Việt và lực lượng phòng thủ vẫn tiếp tục giao chiến, không bên nào lấn thêm được đối phương. Hàng ngàn xác chết của cả bạn lẫn địch, và của thường dân, người lớn, trẻ em, nằm la liệt trong thành phố. Cũng trong đêm 20 và trọn ngày 21-04-72 có tất cả 17 phi vụ B.52 rải thảm quanh Ðồi Gió và đội hình địch quanh An Lộc.

    Tuy không tràn ngập được mục tiêu, nhưng Cộng quân vẫn bám giữ các phần đất trong khu phố đã chiếm được. Cuộc giao tranh giữa quân phòng thủ và đặc công Cộng Sản vẫn tiếp tục cả ngày lẫn đêm khiến quân trú phòng rất mệt mỏi.

    Ðêm 22 rạng 23-04-72, Cộng Sản Bắc Việt tung thêm hai cánh quân đánh vào phía Nam An Lộc nhưng bị Tiểu Ðoàn 8 và 5 Dù trú đóng trong rừng cao su phía Nam tiểu khu đánh tan. Quân Nhảy Dù thiện chiến có trang bị súng chống chiến xa XM.202 có thể bắn liên tiếp 4 phát nên đã hạ được các chiến xa dễ dàng và nhanh chóng. Không những thế Tiểu Ðoàn 8 Dù còn gọi phi cơ C.130 gắn đại bác 105 ly bắn theo hướng dẫn Radar hạ luôn đoàn chiến xa địch đang hướng về Trung Ðoàn 15 Bộ Binh vùng 6 cây số Nam An Lộc (Xa Cam).

    Sau đợt tấn công thứ tư thất bại, Cộng quân chỉ còn pháo kích vào thành phố sát hại Quân Dân trong Thị Xã với mức độ hàng ngàn trái mỗi ngày.

    - Tấn công lần thứ 5

    Theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, phải chiếm cho bằng được An Lộc lập công mừng ngày lễ Lao Ðộng 01-05. Tư Lệnh mặt trận Việt Cộng mở một đợt tấn công mới theo chiến thuật “VU HỒI”. Nghĩa là đại quân đi bọc phía sau đánh ngược lên, trong lúc ấy 3 mặt Ðông, Tây và Bắc cũng thi đua lập công dâng Ðảng, đồng loạt tấn công.

    Ðêm 30-04-72 rạng 01-05, một đại đơn vị bộ binh có chiến xa trợ chiến di chuyển trong rừng cao su từ phía Nam tiến lên An Lộc. Ðiều động (Maneuver) chiến xa trong rừng cao su ban đêm rất bất lợi. Khó di chuyển, hạn chế tầm quan sát, không khai thác được ưu thế hoả lực hùng hậu của chiến xa, không thể xoay trở triển khai đội hình tác chiến khi lâm trận. Không hiểu cấp chỉ huy Việt Cộng vì chủ quan hay vì binh chủng thiết giáp của họ mới thành lập, các Thủ Trưởng binh đoàn chưa biết nguyên tắc sử dụng chiến xa nên họ mới làm vậy? Ðưa đoàn chiến xa vào tử địa bị Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, đạo quân thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phục binh trong rừng cao su đánh tan trước khi trời sáng. Binh sĩ Nhảy Dù nhảy lên Chiến Xa ném lựu đạn vào tháp pháo, tiêu diệt nhiều chiến xa T.54 và PT.76.

    Trong lúc phía Nam Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đang giao chiến với địch trong rừng cao su thì ở phía Bắc, Ðông và Tây Thị Xã An Lộc lực lượng trú phòng cũng bị pháo binh và hoả tiễn 122 ly của địch bắn áp đảo đè ép trong các công sự. Khoảng 7 giờ sáng tiếng súng bộ binh nổ vang rền cả 3 mặt Bắc, Ðông và Tây. Biệt Ðộng Quân, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt đồng loạt tấn công. Cuộc chiến ác liệt diễn ra suốt buổi sáng ngày 01-05-1972. Ðôi bên tiến tới đẩy lui, giành nhau từng dẫy phố, từng căn nhà, từng hố chiến đấu, quân trú phòng quyết tử thủ giữ vững An Lộc.

    Khoảng 11 giờ trưa, các cuộc xung phong lấn chiếm của địch đã bị đẩy lui. Chiến trường tạm yên được hơn nửa giờ. Lợi dụng tình hình địch ngưng tấn công, quân trú phòng di tản thương binh về phía sau cấp cứu, gom xác chết đồng đội và nạn nhân chiến cuộc lại để lo chôn cất. Nhưng chưa kịp đào lỗ chôn thì các tiểu đoàn nơi chiến tuyến báo cáo địch đang tập trung một lực lượng rất đông tại ven rừng cao su cách vòng đai Tỉnh 2 km. Các Trung Ðoàn Trưởng liền xin Sư Ðoàn khẩn cấp cho khu trục cơ đánh bom ngăn chận. Tướng Hưng cho biết có 6 phi tuần A.37 (18 sorties) đang trên đường tới An Lộc, hãy liên lạc với phi cơ quan sát chỉ điểm cho Khu Trục Cơ oanh kích. Tôi đứng trên sân thượng lầu 3 nhìn thấy phi cơ dội bom rất chính xác nhưng địch quá đông, 6 phi tuần không đủ huỷ diệt tất cả! Tôi báo cáo lên Tướng Hưng: “Có thể nó đang giàn quân định đánh biển người, Thiếu Tướng xin thêm nhiều phi tuần trang bị bom Napalm (bom lửa) mới có thể chận được”. Mười phút sau Tướng Hưng hỏi muốn oanh kích ở điểm nào? Trung Ðoàn 7 Bộ Binh cho toạ độ phía Tây cổng Phú Lố, Trung Ðoàn 8 Bộ Binh cho toạ độ ngọn đồi 100 phía Tây Bắc, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù cho toạ độ phía Bắc sân bay An Lộc. Tướng Hưng bình tĩnh nói :”Ðược rồi để tôi lo, bảo lính xuống hầm ẩn núp, đừng hốt hoảng, sẽ có không yểm đầy đủ cho các anh.”

    Trận đánh An Lộc lần đầu tiên chiến đấu với địch có chiến xa, cấp chỉ huy rất lo âu, binh sĩ rất sợ hãi! Nhờ ngày 13-04-72 trận đấu diệt được chiến xa dễ dàng, liên tiếp những ngày sau đó diệt thêm được nhiều chiến xa, nỗi lo âu sợ hãi về chiến xa địch vừa dứt thì bây giờ địch dùng chiến thuật biển người, sự lo âu của các cấp chỉ huy lại hiện rõ trên nét mặt, mặc dù bề ngoài từ trên xuống dưới miệng họ đều nói với thuộc cấp “hãy bình tĩnh”.

    Tại Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, hai vị tiểu đoàn trưởng trên chiến tuyến điện thoại về Trung Ðoàn báo cáo chúng nó bắt đầu tiến về phía ta, súng cối 81 không đủ sức ngăn chận. Họ thúc dục xin gấp phi tuần thả bom lửa. Trên sân thượng từng lầu 3, tôi quan sát thấy đúng vậy liền điện thoại lên Sư Ðoàn thúc dục xin Khu Trục Cơ gấp, Tướng Hưng bảo đừng hốt hoảng làm binh sĩ mất tinh thần, Không Quân trên đường đến, hãy bảo tất cả xuống hố chiến đấu ẩn núp. Nhìn thấy địch đông nghẹt đang tiến vào, hồi hộp, lo sợ vũ khí bộ binh không ngăn cản nổi. Bỗng nhiên bầu trời không còn nghe tiếng động của phi cơ, chiếc phi cơ quan sát hướng dẫn Khu Trục Cơ oanh kích cũng không có trên vùng. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi nào có B.52 sắp sửa thả bom thì an ninh không lưu mới đuổi tất cả phi cơ ra khỏi vùng để tránh tai nạn. Căn cứ B.52 ở đảo Guam và Thái Lan. Phi cơ B.52 là Không Quân Chiến Lược, thủ tục sử dụng B.52 phải xin trước ít nhất một ngày. Dù có chuyển từ mục tiêu tiên liệu sang mục tiêu khẩn cấp cũng phải mất trên 1 tiếng đồng hồ. Không ai có thể tin B.52 can thiệp nhanh trong vòng nửa giờ có được. Giữa lúc đang hồi hộp lo sợ nhìn địch từ từ tiến lại thì thình lình những tiếng rít gió kinh hồn của những quả bom to lớn từ trên độ cao hơn 10 km rơi xuống, rồi tiếp đó tiếng nổ dây chuyền của những quả bom chạm đất làm rung chuyển cả thành phố. Ba boxes B.52 đánh ở 3 toạ độ mà Trung Ðoàn 7, Trung Ðoàn 8 và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù vừa xin. Mỗi Box B.52 có sức tàn phá 1 km bề ngang và 3 km bề dài. Theo nguyên tắc lề an toàn phải cách quân bạn trên 2 km. Nhưng 3 boxes này chỉ đánh cách quân trú phòng 1 km nên có người bị chảy máu lỗ tai, chảy máu mũi.

    Tướng Hưng điện thoại bảo tôi quan sát báo cáo kết quả. Bụi đất đỏ bay mịt cả một vùng trời, phải chờ một lúc lâu bụi tan tôi thấy hướng địch vừa tiến quân chẳng còn ai. Có lẽ họ đã tan thành tro bụi?? Tôi thắc mắc làm sao mà có B.52 đến thả bom nhanh như vậy? Sau này khi Sư Ðoàn 5 Bộ Binh trở về Lai Khê, trong tiệc liên hoan mừng chiến thắng tôi hỏi Tướng Hưng thì Ông cười phà nói: “Trời cứu”. Rồi Ông giải thích: “Ba phi tuần B.52 đó là của Quân Khu II xin, dự trù đánh vào các mục tiêu tại Tây Nguyên, phi cơ cất cánh từ đảo Guam, khi gần tới bờ biển Việt Nam thì Quân Khu II xin cancel. Bộ Tư Lệnh MACV hỏi Quân Khu III có mục tiêu nào tốt sẽ chuyển cho. May thay trong lúc An Lộc đang xin thêm nhiều phi tuần khu trục thì Cố Vấn Mỹ bước vào báo tin này vào yêu cầu cho gấp toạ độ. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 tham khảo ý kiến với Tướng Hưng và xin đánh 3 boxes cho An Lộc theo toạ độ quân phòng thủ vừa xin.”

    Sóng gió đã qua, sau đợt tấn công thất bại tổn thất nặng nề này, địch lui quân nhưng vẫn duy trì tình trạng pháo kích ngày đêm vào An Lộc. Quân trú phòng gom tử thi đồng đội và dân chúng chôn cất, đồng thời cũng thu lượm tất cả xác vô thừa nhận và cả xác chết Việt Cộng bỏ lại chiến trường chôn tập thể. Qua hôm sau Quân Ðoàn 3 thả dù tiếp tế nhiều ngày. Cũng như bao lần trước, khoảng phân nửa số dù rơi lọt vào trong, và lần nào cũng có người chết và bị thương vì đạn pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt.

    - Tấn công lần thứ 6

    Ngay khi địch ngưng tấn công, việc đầu tiên Trung Ðoàn 8 cần giải quyết gấp là di tản thương binh và thường dân bị thương nặng về Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn để Bác Sĩ Quân Y Trung Ðoàn chăm sóc. Kế đó là gom tất cả xác chết đồng đội, thường dân và cả xác Việt Cộng bỏ lại chiến trường chôn để tránh mùi hôi thúi do xác chết xông lên. Kiểm tra tình trạng quân số và thương binh thì từ ngày 13-04-72 bắt đầu cuộc chiến đến nay, tổn thất thương vong các tiểu đoàn gần phần nửa. Số người tử thương thì đã giải quyết chôn tại chỗ. Số bị thương thì tồn đọng rất nhiều vì ngày nào cũng có nhiều thương binh nhưng không tản thương được. Vì thế, quân y tạm thời giải quyết như sau: số người bị thương nhẹ còn đi đứng được thì sau khi băng bó xong cho trở về đơn vị, địch vào cầm súng bắn nữa. Do đó có người bị thương 2 hoặc 3 lần hoặc nhiều lần. Có người lần trước bị thương nhẹ, lần sau bị thương nặng. Cũng có những thương binh nhẹ sau đó lại tử thương ! Còn những thương binh nặng để nằm đó chờ tản thương sống thoi thóp rồi có người mòn mỏi chềt dần. Ðại Ðội 52 Quân Y báo cáo khu vực Trung Ðoàn 8 có cả ngàn quân nhân và thường dân bị thương nặng chờ tản thương nằm chật cả một dẫy phố Ðại Lộ Hoàng Hôn. Những người còn lành mạnh thì rất mệt mỏi và gầy ốm vì phải chiến đấu hết ngày này sang ngày khác, không thì giờ nghỉ ngơi, thiếu ngủ, thiếu ăn, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng, sinh mạng không biết sẽ chết lúc nào. Lại nữa mùi hôi thối từ xác chết rất khó thở, ruồi lằn sinh sản nhanh kinh khủng! Nước không đủ uống, lấy đâu mà tắm giặt, dơ bẩn, khó chịu, nhưng họ cũng phải ráng chịu, phấn đấu sống để mà chiến đấu, để bảo vệ quê hương và dân tộc không lọt vào tay Cộng Sản.

    Ngày 10-05-1972, tại Thủ Ðô Sài Gòn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “Tổ Quốc lâm nguy”. Cũng chính vào lúc này tin tình báo cho biết Chính Trị Bộ Cộng Sản Bắc Việt hạ lệnh dứt điểm An Lộc, bắt sống Tướng Lê Văn Hưng lập công mừng ngày sinh nhật Hồ Chí Minh 19 tháng 05. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 phối hợp với cố vấn Mỹ lập kế hoạch dự trù xin không quân chiến thuật và pháo đài bay B.52 sẵn sàng yểm trợ cho chiến trường An Lộc.

    Về phía Cộng Sản Bắc Việt, sau khi chấn chỉnh hàng ngũ, bổ sung quân số và tái tiếp tế, Công Truờng 5, Công Trường 9 và Sư Ðoàn Bình Long dốc toàn lực tấn công đánh ép 4 mặt. 01 giờ sáng ngày 11-05-72, Cộng quân bắt đầu một trận “pháo tập” vào An Lộc trên 8,000 quả đủ loại, một trận mưa pháo mà báo chí thế giới mô tả là khốc liệt nhất trong chiến tranh Ðông Dương.

    05 giờ sáng địch chuyển pháo vào trung tâm Thị Xã, tiếp đó 3 mũi dùi có chiến xa từ hướng chính Bắc, Ðông và Tây Bắc đánh ập vào nửa Thị Xã phía trên, cuộc giao tranh càng lúc càng đẫm máu kéo dài đến 08 giờ sáng. Trung Ðoàn 8 và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù bị uy hiếp nặng nhất nhưng 2 đơn vị này chiến đấu rất anh dũng, bám cao ốc giữ vững trận địa. Phía Ðông, Biệt Ðộng Quân cũng bị tấn công mạnh nhưng cũng đẩy lui được các đợt xung phong của địch.

    Một cánh quân khác có chiến xa đánh từ phía Tây Nam lên bị Tiểu Đoàn 8 Dù và Tiểu Ðoàn 5 Dù bổ quân di động trong rừng cao su phía Nam của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long đánh tan rã tháo lui.

    Cánh quân phía Tây địch huy động một lực lượng hùng hậu có chiến xa hợp đồng chọc thủng phòng tuyến Trung Ðoàn 7. Một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 7 tại cổng Phú Lố bị tràn ngập phải lui dần vào sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Ðến sáng ngày 11 tháng 05-72, đường giây điện thoại bị pháo đứt trong đêm đã nối lại được, Tướng Hưng điện thoại nói chuyện với tôi.

    Tướng Hưng hỏi : - Tình hình phía Bắc ra sao ?

    Tôi trả lời : - Trình Thiếu Tướng cũng bị tấn công mạnh lắm. Trung Ðoàn 8 và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù bám cao ốc cố thủ chận được. Hiện giờ Việt Cộng đang bám sát đối diện chúng tôi cách một con lộ khu phố, nhưng chúng không thể tiến thêm. Tiếng súng khắp nơi nổ nhiều quá, tình hình các mặt khác ra sao ?

    Tướng Hưng nói : - Cả 4 mặt đều bị VC đồng loạt tấn công. Phía Nam nhờ có Lữ Ðoàn 1 Dù chận đánh ngoài vòng đai, bọn chúng đã rút lui, tình hình ổn định. Phía Ðông Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân cũng bị tấn công mạnh và bám sát như phía Bắc các anh. Biệt Ðộng Quân cũng giữ vững vị trí. Riêng mặt phía Tây thì bị tấn công nặng nhất. Sư Ðoàn có yêu cầu pháo binh 155 ly tại Tống Lê Chân bắn yểm trợ suốt đêm nhưng cũng bị tràn ngập. Hiện giờ thì chiến xa địch đã vào tới cổng Phú Lố, một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 7 vỡ tuyến phòng thủ đã lui vào sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. B.40 địch đã bắn tới thành Ðỗ Cao Trí (Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh). Biệt Ðội Ðiện Tử kiểm thính nghe địch cho lệnh “đánh thẳng vào sư bộ, bắt sống sư trưởng”. Ðại Tá Lưỡng đang cho 1 tiểu đoàn Dù lên tiếp ứng. Nếu địch tràn ngập Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 trước khi tiểu đoàn Dù tới thì tôi sẽ tự sát chớ không để cho địch bắt. Vậy khi tôi chết rồi thì anh dắt Trung Ðoàn 8 đi theo Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù rút về Chơn Thành.

    Tôi nói : - Còn nước còn tát. Tôi sẽ cho Ðại Ðội 8 Trinh Sát về ngay tăng cường phòng thủ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn chờ Dù tới.

    Nhờ Tiểu Ðoàn Dù ở phía Nam lên, một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân ở phía Ðông sang và quân của Trung Ðoàn 8 từ phía Bắc kéo về chận đứng được mũi tấn công phía Tây của Cộng Sản Bắc Việt, và khi không quân lên vùng oanh kích yểm trợ ta phản công đẩy lui địch ra khỏi công Phú Lố, Việt Cộng để lại 10 chiến xa trúng bom hư hỏng, nhiều xác chết và hàng trăm vũ khí đủ loại.

    Trong ngày 11-05-72 theo dự trù xin trước, Quân Ðoàn 3 được cấp 297 phi xuất khu trục cơ và 17 phi tuần B.52 đánh vào các mục tiêu quanh An Lộc. Nhờ có không quân Việt Mỹ yểm trợ liên tục và dồi dào, quân phòng thủ hướng dẫn không quân đánh bom chính xác, các mũi tấn công Cộng Sản Bắc Việt phải khựng lại và rút lui. Một số quân Cộng Sản Bắc Việt đã xâm nhập được vào thành phố chia thành nhiều tổ chiến đấu nhỏ bám sát các căn phố chúng đã chiếm được, bắn tỉa vào phía quân ta gây cảnh hỗn loạn và bất an trong thành phố!

    Suốt ngày 12-05-72, dưới sự yểm trợ tiếp cận của trực thăng võ trang Cobra và khu trực cơ, quân trú phòng cố sức phản công chiếm lại từng căn nhà. Chiến sĩ Biệt Cách Dù chiến đấu trong thành phố rất giỏi, rất kinh nghiệm. Lần lượt mặt phía Bắc các dãy nhà gạch bị địch chiếm đã được Trung Ðoàn 8 và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm. Mãi cho đến chiều tiếng súng giao tranh mới tạm ngừng. Nhưng pháo binh địch vẫn còn tiếp tục bắn vào thành phố. Sáng ngày 13-05-72, lợi dụng lúc trời mưa như trút, Cộng Sản Bắc Việt lại cố gắng tấn công một lần nữa. Nhưng lần này họ hoàn toàn thất bại nhanh chóng và tháo chạy khi thời tiết tốt không quân lên vùng.

    Trong 3 ngày giao chiến có đến 600 xác chết của quân ta, dân chúng và cả tử thi Việt Cộng nằm ngổn ngang trên đường phố, mùi tử khí xông lên nồng nặc.Vừa dứt giao chiến, binh sĩ trú phòng không kịp nghỉ ngơi, phải giành thì giờ ưu tiên chôn bạn đồng đội, đánh dấu mộ bia để sau này thân nhân dễ tìm ra. Kế đó phải gom tất cả xác Việt Cộng chôn để tránh hôi thối.

    Ðáng phục nhất là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù mặc dù đang giao chiến, nhưng xác chết đồng đội họ vẫn tập trung về khu chợ Bình Long lập một nghĩa trang chôn cất ngay hàng thẳng lối, có mộ bia và tượng đài tử sĩ. Một cô giáo Bình Long chứng kiến cảnh chiến đấu anh dũng và sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Biệt Cách Dù đã xúc động viết tặng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù 2 câu thơ:

    An Lộc Ðịa sử ghi chiến tích
    Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân


    Trung Tá Phan Văn Huấn, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, đã cho khắc 2 câu thơ này trên đài tử sĩ nghĩa trang Biệt Cách Dù tại chợ Bình Long. Nghĩa Trang Biệt Cách Dù và 2 câu thơ này đã trở thành câu chuyện lịch sử khi nhắc đến Biệt Cách Dù và Bình Long Anh Dũng.

    Sau quyết định dồn toàn lực tấn công dứt điểm An Lộc thất bại, quân Cộng Sản Bắc Việt rút dần ra xa. Nhưng đối với quân trú phòng mối đe dọa vẫn còn, cái chết vẫn chờ chực bất cứ lúc nào bởi pháo tầm xa của địch vẫn còn bắn vào Thị Xã. Hàng ngàn thương binh mòn mỏi đợi chờ tản thương nhưng vì bãi đáp nào cũng là mục tiêu có hoả tập sẵn của pháo binh địch. Vừa thấy trực thăng thấp thoáng đằng xa thì phòng không và pháo binh địch đã nổ rền chế ngự không phận và bãi đáp. Tình hình đến bây giờ đôi bên đều kiệt lực, biết bao nhiêu thảm cảnh xảy ra cho bên này cũng như bên kia chiến tuyến.

    Phía Cộng Sản Bắc Việt, sau bao lần cố gắng tấn công đều bị thất bại tổn thất nặng nề. Qua nhiều đợt thí quân liều lĩnh bị đẩy lui, quân lính chết và bị thương rất nhiều, B.52 và khu trục cơ oanh tạc phá huỷ cơ sở hậu cần, kho tiếp liệu, chỉ huy sở, vị trí pháo và đội hình các binh đoàn. Trên 50 chiến xa đã bị bắn cháy, bao nhiêu khó khăn dồn dập trong khi hậu phương miền Bắc quá xa không giải quyết kịp. Một tài liệu của Cục R báo cáo về Trung Ương Ðảng CS Hà Nội do Phòng 6 bắt được, bản báo cáo này nêu rõ tổn thất nhân mạng quá nhiều, một tiểu đoàn hiện còn độ 90 người so với lúc ban đầu là 350, tinh thần cán binh quá suy sụp. Sư Ðoàn Bình Long quá sợ Không Quân ném bom, tinh thần chiến đấu suy yếu. Trung Ương Ðảng yêu cầu cố gắng kéo dài cuộc chiến thêm 3 tháng để đem lại lợi thế cho Cộng Sản Bắc Việt trong giải pháp chính trị, nhưng họ hoàn toàn không còn khả năng làm được.

    Về phía ta thì lương thực tiếp tế thả dù lọt được vào bên trong không được phần nửa, cơm sấy chỉ đủ ăn cầm hơi, lại còn phải chia sẻ cho đồng bào đang đói. Mấy tháng trời ăn ngủ dưới hầm, bao nhiêu ngày không được tắm rửa, quần áo dơ bẩn, da thịt ngứa ngáy, giấc ngủ chập chờn mất ngủ. Xác chết ngổn ngang, mùi tử khí hôi thúi, ruồi lằn kinh khủng, thương binh rên la oằn oại trước mắt, v.v… Nếu không phải là một quân đội có kỷ luật, một cuộc chiến có chính nghĩa và một tinh thần hy sinh cao cả cho lý tưởng Quốc Gia chống cộng thì chắc chắn con người không ai có đủ nghị lực chịu đựng nổi cuộc sống căng thẳng mấy tháng liền như vậy.

    XI.- Phục Thù Ðồi Gió

    Theo nguồn tin do Nha Kỹ Thuật bắt được từ mật điện Việt Cộng, Cục R cho lệnh các bộ phận tham chiến An Lộc rút ra bổ sung, bồi dưỡng và cử hành lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh trước 3 ngày, khích động tinh thần cán binh lần chót để rồi cố gắng đánh một trận nữa quyết chiếm thị trấn này đúng ngày 19-05. Một toán Biệt Kích được thả vào vùng có ghi nhận có nhiều tín hiệu điện đài. Phát hiện ra địa điểm, toán Biệt Kích báo cáo toạ độ về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Ðúng ngày N Việt Cộng định cử hành lễ, 6 phi tuần B.52 thả bom xuống vùng này. Nguồn tin tình báo xác nhận hơn 60% nhân mạng bị chôn vùi trong hố bom. Sau trận không tập này, Cộng Sản Bắc Việt không còn khả năng đánh vào An Lộc vào ngày 19-05 như đã dự định.

    Nóng lòng giải toả An Lộc, di tản thương binh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, quyết định tập trung hoả lực không quân chiến thuật oanh tạc dọn đường dọc theo Quốc Lộ 13 yểm trợ cho bộ binh tiến vào An Lộc. Ðồng thời sử dụng không quân chiến lược B.52 dội bom quanh An Lộc đánh phá hậu cần, tiếp vận và vị trí pháo binh của địch. Một số phi vụ B.52 đánh trúng các kho tiếp vận, đạn dược ở phía Bắc An Lộc vừa từ biên giới chuyển tới gây ra nhiều tiếng nổ phụ.

    Trong những ngày đầu tháng 06-72, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và các lực lượng tăng phái tích cực tiến quân giải toả Quốc Lộ 13. Hai Trung Ðoàn 33 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, Trung Ðoàn 15 Sư Ðoàn 9 Bộ Binh cùng Tiểu Ðoàn 6 Dù song song tiến lên Xa Trạch. (Ngày 21-04-72 Tiểu Ðoàn 6 Dù bị đánh bật khỏi Ðồi Gió, gom quân về Lai Khê được tái bổ sung, trang bị và huấn luyện tại chỗ, chỉ hơn một tháng đơn vị này đã trở lại chiến trường quyết trả mối hận Ðồi Gió). Dưới sự yểm trợ của Không Quân Việt Mỹ, và hổ trợ của Trung Ðoàn 33 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và Trung Ðoàn 15 Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Tiểu Ðoàn 6 Dù như con hổ dữ, càn quét và diệt tất cả các “chốt” chận đường của Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt, xứng danh là đơn vị anh hùng Thiên Thần Mũ Ðỏ.

    Chiều ngày 08-06-72, Tiểu Ðoàn 6 Dù bắt tay được với Tiểu Ðoàn 8 Dù trấn giữ vùng cực Nam An Lộc. Tiểu Ðoàn 6 Dù vào tới An Lộc được coi là một diễn biến quan trọng, bởi vì quân tiếp viện vào tới An Lộc thì vòng đai bảo vệ thị trấn được mở rộng, trực thăng mới có thể đáp an toàn thực hiện các phi vụ tản thương, tiếp tế, bổ sung quân số, thay quân cho những binh sĩ đã kiệt lực, và sau cùng di tản số dân chúng nạn nhân chiến cuộc ra khỏi An Lộc máu lửa.

    Theo kế hoạch của Quân Ðoàn 3, lực lượng Sư Ðoàn 21 Bộ Binh hoạt động an ninh khu vực Xa Trạch, Trung Ðoàn 15 bung ra hoạt động an ninh xung quanh đồn điền Xa Cam. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù với 3 Tiểu Ðoàn 5, 6, 8 nới rộng an ninh phía Nam Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long đến Xa Cam, bảo vệ an ninh bãi đáp trực thăng trên Quốc Lộ 13 (phía Nam An Lộc). Pháo đài bay B.52 oanh tạc các điểm đóng quân Cộng Sản Bắc Việt và vị trí pháo địch xung quanh An Lộc. Khu Trục Cơ chiến thuật bao vùng tiêu diệt các ổ phòng không và pháo binh địch yểm trợ cho trực thăng vào An Lộc đáp an toàn.

    Ngày 09-06-72 lần đầu tiên kể từ ngày khởi đầu cuộc chiến, một đoàn trực thăng 23 chiếc đáp an toàn xuống An Lộc tiếp tế, đổ quân và bốc thương binh ra. Những ngày kế tiếp, nhiều đoàn trực thăng liên tục đáp xuống An Lộc. Chuyến vào tiếp tế, tăng quân. Chuyến ra bốc thương binh và thường dân bị thương. Tướng Hưng giao trách nhiệm cho Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng 5 Quân Y sắp xếp việc tản thương. Tiểu Ðoàn 5 Quân Y và các Bác Sĩ bệnh viện Bình Long thoả thuận xếp loại ưu tiên chung cho Dân và Quân như sau : Ưu tiên 1 : nặng cần tản thương gấp. Ưu tiên 2 : vết thương nằm. Ưu tiên 3 : vết thương ngồi và sau cùng bị thương nhẹ.

    Cuộc đổ quân và tản thương được sắp đặt kỹ lưỡng, an ninh bãi đáp do Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, thứ tự ưu tiên đưa thương binh ra bãi do Tiểu Ðoàn 5 Quân Y và bệnh viện Bình Long phụ trách, an ninh xa do Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và Trung Ðoàn 15. Bao vùng diệt pháo và phòng không do không quân chiến thuật. Các đơn vị đều chu toàn nhiệm vụ, nhờ vậy mà việc tản thương và tiếp tế được thực hiện rất nhanh chóng và trật tự.

    Ngày 11-06-72 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà NGUYỄN VĂN THIỆU gửi điện cho Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà yêu cầu chuyển lời khen ngợi nồng nhiệt của Tổng Thống và Quốc Hội đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, và tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các chiến sĩ thuộc mọi Quân Binh Chủng đã anh dũng chiến đấu bảo vệ An Lộc và khai thông Quốc Lộ 13.

    Sau tản thương, tiếp tế và bổ sung quân số, ngày 13-06-72, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 cho trực thăng vận Tiểu Ðoàn 2 Trung Đoàn 31 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh (đơn vị mà trước đây năm 1964-1965 Tướng Hưng là Ðại Úy Tiểu Ðoàn Trưởng) vào An Lộc tăng cường cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh.

    Sau khi được bổ sung quân số và tái tiếp tế đầy đủ, Tướng Hưng ra lệnh các đơn vị bố phòng bung quân ra nới rộng khu vực kiểm soát và khai thác chiến quả. Phân nhiệm cho các đơn vị :

    - Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù tái chiếm vùng phía Nam An Lộc. Bảo đảm an ninh bãi đáp trực thăng trên Quốc Lộ 13
    - Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân tái chiếm các ấp phía Ðông ga Hớn Quản.
    - Trung Ðoàn 7 tái chiếm và lục soát khu vực phía Tây cổng Phú Lố.
    - Trung Ðoàn 8 tái chiếm và lục soát đồi 100 phía Tây Bắc An Lộc.
    - Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm sân bay Bình Long và đồi Ðồng Long phía Bắc Tỉnh lỵ.

    Trong cuộc lục soát hầu hết các đơn vị tìm thấy xác chiến xa Cộng Sản Bắc Việt nằm rải rác trên chiến địa và nhiều bộ xương còn mang “dép râu” cùng nhiều vũ khí đủ loại. Ngoài vòng đai Tỉnh tại các hố bom B.52 có hàng chục chiến xa T.54 nằm lọt trong hố bom, qua kinh nghiệm này ta thấy về mặt chiến thuật, những hố bom to lớn cũng là một trở ngại địa thế, chiến xa lọt vào hố bom không tài nào bò lên được. Trong cuộc bung quân lục soát này quân ta phát hiện tại khu vực B52 dội bom 3 cây số Tây Nam An Lộc 208 tử thi với đầy đủ vũ khí và quân dụng. Tại khu vực địch tạm chiếm phía Tây ta cũng tìm thấy Bộ Chỉ Huy Cộng Sản Bắc Việt với đài truyền tin và tổng đài điện thoại và nhiều bộ xương do phi cơ C.130 trang bị đại bác 105 ly phá huỷ. Tại Ðồi 100 hướng Tây Bắc, sau khi tái chiếm cắm cờ Việt Nam Cộng Hoà vàng ba sọc đỏ trên đỉnh đồi, Trung Ðoàn 8 lục soát thấy có nhiều sọ người và xương người rải rác khắp nơi, thu lượm được nhiều vũ khí đủ loại.

    Tại phía Bắc, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chếm sân bay cắm cờ Việt Nam Cộng Hoà lục soát thấy nhiều bộ xương, xác chiến xa rải rác khắp nơi, thu lượm được nhiều vũ khí. Tái chiếm đồi Ðồng Long đánh tan 1 tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt tịch thu nhiều chiến lợi phẩm. Sau khi cắm cờ vàng 3 sọc đỏ, lục soát xung quanh tìm thấy 2 em bé gái gầy ốm xanh xao đang ẩn trốn trong hang đá dưới chân đồi, đứa lớn 9 tuổi, đửa nhỏ 8 tuổi còn sống sót nhưng rất gầy yếu. Các chiến sĩ 81 Biệt Cách Dù liền bế 2 em về Liên Ðoàn cho bác sĩ quân y cấp cứu. Bác sĩ quân y Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù cho biết tình trạng 2 em bé đã kiệt lực vì thiếu ăn nhiều ngày. Quân y săn sóc đặc biệt theo phương pháp y khoa thì dần dần ít ngày sau 2 em tỉnh lại nói chuyện được :”- Hai em là con của Ðịa Phương Quân đóng đồn Ðồng Long. Sáng ngày 13-04-72 VC và chiến xa tràn ngập đồn. Mẹ em cõng đứa con trai 4 tuổi và dắt 2 em theo lính chui rào kẽm gai chạy ra ngoài đồn, Bị VC đuổi bắn, đoàn người chạy tứ tung, mẹ và đứa em trai trúng đạn tử thương, chị gái dắt em đi loanh quanh dưới chân đồi thấy có một hốc đá sâu chật hẹp liền dắt em vào ẩn trú. Từ ngày đó đến khi 2 em được chiến sĩ Biệt Cách Dù cứu thoát, 2 em sống cô độc tại hốc đá này. Khi nào có phi cơ ném bom hay pháo binh bắn thì hai em chạy vào hang ẩn nấp, yên tĩnh thì hai chị em chui ra ngoài tìm thức ăn. Những ngày đầu thì lục lạo trong ba lô xác chết lính quốc gia, lương khô gạo xấy, v.v… cái gì ăn được thì lấy mà ăn. Sau này thì những lúc bom nổ, đạn bắn, gà lớn, gà con chạy tới 2 em bắt mà ăn sống. Thường thì đi dọc theo suối bắt cá, hái rau, uống nuớc suối sống qua ngày”.Trung Tá Huấn, Liên Ðoàn Trưởng 81 Biệt Cách Dù giữ hai em bé này cho Quân Y chăm sóc cho đến ngày 18-06-72 được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu rút Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù ra khỏI An Lộc để tiếp viện cho chiến trường Quân Khu I đang sôi động. Trung Tá Liên Ðoàn Trưởng 81 Biệt Cách Dù giao hai em này cho Ðại Tà Trần Văn Nhựt Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long vì 2 em này là con của Ðịa Phương Quân Tiểu Khu Bình Long để nhờ Tiểu Khu Trưởng tìm dùm cha 2 em giao lại.

    Ðến ngày 12-06-1972, các vùng đất xung quanh An Lộc bị Cộng Sản Bắc Việt tạm chiếm trong vòng hai tháng đã được Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tái chiếm. Bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc quanh Tỉnh lỵ này đã xuất hiện lá cờ vàng 3 sọc đỏ đang ngạo nghễ phất phới tung bay trên bầu trời Bình Long anh dũng. Người hùng An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố: ”Thành phố An Lộc đã được hoàn toàn giải toả”.

    XII.- Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà vào thăm An Lộc

    Ngày 18 tháng 06 năm 1972, Quân Ðoàn 3 cho trực thăng vận 1 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh còn khỏe vào An Lộc tăng phái cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thay thế Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù trở về hậu cứ bổ sung, dưỡng quân để đưa ra Quân Ðoàn 1 tăng cường cho chiến trường vùng Hoả Tuyến.

    Ngày 07-07-1972, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà NGUYỄN VĂN THIỆU cùng phái đoàn cao cấp gồm Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3/Quân Khu III, Bí Thư Tổng Thống kiêm Tham Vụ Báo Chí Hoàng Ðức Nhã, và một Ðại Tướng hồi hưu người Pháp Vanuxem bất thần đáp xuống An Lộc. Theo lời một giới chức cao cấp cận kề Tổng Thống kể lại thì buổi sáng ngày 07-07-1972, sau khi lắng nghe tường trình về tình hình chiến sự tại An Lộc, cường độ pháo kích tuy không hết hẳn nhưng đã giảm nhiều, địch không còn khả năng tràn vào An Lộc nữa, Tổng Thống Thiệu ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “với các đơn vị ngoài mặt trận, điều làm cho họ phấn khởi nhất không gì bằng cấp chỉ huy, chính người lãnh đạo đến nơi chia xẻ sự hiểm nguy mà họ chịu”. Rồi Ông ra lệnh cho Bí Thư Hoàng Ðức Nhã lo sắp xếp để Ông đến thăm An Lộc ngay hôm đó, phái đoàn đi ít người thôi nhưng phải bảo mật tuyệt đối. Mới đầu định mời Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ cùng đi, nhưng tới lúc chót Tổng Thống quyết định để Thủ Tướng ở lại “thủ đài” dự trù trường hợp bắt trắc xảy ra cho Tổng Thống.

    Khoảng 13 giờ trưa 2 chiếc trực thăng chở phái đoàn Tổng Thống đáp xuống An Lộc. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng Tỉnh Bình Long đón Tổng Thống đưa về Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Binh sĩ trú phòng ẩn núp trong hầm tránh pháo bất chợt trông thấy Tổng Thống đến, họ vui mừng chạy túa ra ôm Tổng Thống và Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng nâng lên vai reo hò vui vẻ. Tổng Thống và Ðại Tướng cũng vui cười với họ. Sau khi nghe Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Mặt Trận An Lộc thuyết trình về diễn biến trận đánh, Tổng Thống khen ngợi và nói sẽ ân thưởng xứng đáng cho tất cả những chiến sĩ hữu công. Tổng Thống gắn huy chương Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu cho Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng Bình Long, Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Gắn cấp bậc Ðại Tá Nhiệm Chức cho Trung Tá Tiểu Khu Phó Bình Long, gắn Trung Tá Nhiệm Chức cho Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Kế đó, Tướng Hưng mời Tổng Thống và phái đoàn đi thăm mặt Bắc nơi mà ngay từ phút đầu và liên tục những ngày sau đó địch đã nhiều lần tấn công và trận đánh diễn ra ác liệt nhất, nhiều xác chiến xa nằm ngổn ngang cạnh hầm chỉ huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Lúc này thì Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã rời An Lộc ra Quảng Trị nhưng còn để lại một nghĩa trang tại khu chợ Bình Long chôn ngay hàng thẳng lối trên 60 ngôi mộ có mộ bia những anh hùng Biệt Cách Dù đã hy sinh tại An Lộc. Trên đường đi từ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh lên Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, Tổng Thống và phái đoàn chứng kiến tận mắt cảnh hoang tàn đổ nát, một thành phố bị bình địa vì mưa pháo, mộ chôn cá nhân và tập thể rải rác khắp nơi. Quân và dân với thân hình gầy ốm xanh xao ra chào mừng Tổng Thống. Tổng Thống và phái đoàn vô cùng khâm phục tinh thần chiến đấu anh dũng và sức chịu đựng của quân dân An Lộc. Tổng Thống dừng lại tại xác 5 chiến xa T.54 bị bắn cháy đen nằm chung quanh Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, ngỏ lời khen ngợi và chụp ảnh lưu niệm với các chiến sĩ can trường của An Lộc Anh Dũng. Khi được biết Ðại Tá Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đã về Sài Gòn trình diện Bộ Tổng Tham Mưu lên đường du học Mỹ, Tướng Hưng đang thiếu Tư Lệnh Phó, Tổng Thống và Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng quyết định bổ nhiệm Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh lên làm Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, giao Trung Ðoàn 8 Bộ Binh cho Trung Tá Trung Ðoàn Phó.

    Trong lúc Tổng Thống và phái đoàn dừng lại chụp hình tại Ðại Lộ Hoàng Hôn với Trung Ðoàn 8 Bộ Binh thì Việt Cộng pháo kích vào Thị Xã. Tổng Thống nhìn về hướng đạn nổ vừa cười vừa nói :”Nó chào mừng tôi đó”, rồi thản nhiên đi tới khu vực trách nhiệm Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Ðứng trước nghĩa trang có nhiều ngôi mộ chôn ngay hàng thẳng lối, trên Ðài Tử Sĩ có 4 chữ TỔ QUỐC TRI ƠN và 2 câu thơ của một cô giáo Bình Long, Tổng Thống nghiêng mình trước phần mộ những anh hùng đã hy sinh vì Tổ Quốc, xúc động rơi nước mắt và tuyên bố ân thưởng cho tất cả quân nhân tham chiến mỗi người thăng một cấp, đồng thời Ông nói với Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng cho Bộ Tổng Tham Mưu thiết lập huy chương đặc biệt BÌNH LONG ANH DŨNG. Trong lúc Tổng Thống Thiệu đang thăm viếng và nói chuyện với quân dân An Lộc thì tiếng trọng pháo địch nổ ì ầm khi xa lúc gần, đạn rơi ở ÐạI Lộ Hoàng Hôn gần nơi Tổng Thống vừa đứng chụp hình, đất bụi tung mù mịt. Tổng Thống và phái đoàn tùy tùng không ai tỏ ra hoảng sợ nằm xuống hay chạy vào hầm ẩn núp, ngược lại họ còn cười vang khi nghe Ông Thiệu nói đùa với Tướng Vanuxem :”Chắc nó biết tôi đến bắn đại bác chào tôi đó”.Tướng Hưng thấy địch đang pháo kích mà vị Nguyên Thủ Quốc Gia và phái đoàn cao cấp đứng lộ thiên mải mê nói chuyện thì nguy hiểm quá. Lo ngại cho sự an toàn thượng cấp, Tướng Hưng mới lựa lời viện dẫn lý do trình Tổng Thống như sau:

    - Thưa nó pháo dài dài dù mấy bữa nay có phần giảm bớt. Kính mời Tổng Thống và phái đoàn về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu thăm và ủy lạo anh em Ðịa Phương Quân – Nghĩa Quân cùng toàn thể Dân, Cán, Chính.

    Tổng Thống gật đầu. (Nếu nói địch đang pháo không nên đứng ngoài trống nguy hiểm lắm thì sợ mấy ổng tự ái không chịu đi ?!). Liền sau đó Tướng Hưng lái xe đưa Tổng Thống đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long xuống hầm Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu dự thuyết trình. Tại hầm thuyết trình Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Tổng Thống Thiệu cầm bút chì mỡ vẽ lên bản đồ Bình Long đang treo trên tường 4 chữ to lớn BINH LONG ANH DŨNG, rồi dùng điện thoại viễn liên gọi về Sài Gòn nói chuyện với Bà Thiệu để Bà an tâm, vì đến lúc đó Phu Nhân Tổng Thống cũng chưa biết là Ông Thiệu đã tới An Lộc. Mấy câu nói của Tổng Thống Thiệu từ An Lộc được đài phát thanh Sài Gòn lập đi lập lại nguyên văn như sau - “Má nó đấy hả, …tôi đã đến An Lộc thăm đồng bào và chiến sĩ … Cứ an tâm”.

    XIII.- Chiếc mũ sắt của Tướng Lê Văn Hưng

    Gần 16 giờ chiều, trong lúc chờ trực thăng đến đón Tổng Thống và phái đoàn trở về Sài Gòn, để tỏ lòng biết ơn Vị Tổng Tư Lệnh đến chiến trường thăm và ủy lạo chiến sĩ, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đến trước mặt Tổng Thống cảm động nói:

    ”Kính thưa Tổng Thống, tôi xin thay mặt quân nhân các cấp thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, các đơn vị tăng phái và quân dân Tiểu Khu Bình Long chân thành cảm tạ Tổng Thống, vị Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực đã không ngại nguy hiểm đích thân đến chiến trường trong lúc dầu sôi lửa bỏng thăm viếng đồng bào và anh em chiến sĩ chúng tôi. Ðây là một kỷ niệm chúng tôi sẽ ghi nhớ mãi với lòng kính trọng và biết ơn. Cá nhân tôi không có món gì quý giá để làm quà tặng Tổng Thống, kính xin Tổng Thống nhận cho chiếc mũ sắt tôi đang đội trên đầu làm vật kỷ niệm”.

    Nói xong, Tướng Hưng đứng nghiêm cởi chiếc mũ sắt có thêu một sao trên vải nguỵ trang đang đội trên đầu, móc bút ký tên trên vải bọc nón sắt rồi 2 tay trang trọng trao cho Tổng Thống. Ông Thiệu rất cảm động cầm lấy chiếc mũ sắt. Vừa lúc trực thăng nhào tới, Tổng Thống Thiệu vỗ vai và bắt tay tướng Hưng rồi bước lên trực thăng cất cánh.

    Sau chuyến viếng thăm An Lộc của Tổng Thống Thiệu được ít ngày, một chiếc trực thăng Hoa Kỳ chở Tướng Mỹ Tallman và đoàn tùy tùng bất thần đáp xuống An Lộc (cũng bãi B.15 mà trước đó Ông Thiệu đáp) bị trúng một quả pháo của cộng quân, khi đoàn người vừa bước xong xuống đất. May mắn chiếc trực thăng vừa cất cánh được vài giây thoát bị nổ tung, nhưng Thiếu Tướng Tallman và đoàn tùy tùng thì chết tại chỗ. Có lẽ Thiếu Tướng Tallman là vị Tướng Mỹ cuối cùng tử trận tại chiến trường Miền Nam Việt Nam.

    XIV.- Thay quân. Sư Ðoàn 5 Bộ Binh về Lai Khê.

    Sau khi thị sát An Lộc, thượng cấp trông thấy tận mắt các chiến sĩ trong An Lộc sau 3 tháng bị vây hãm, tấn công, chiến đấu ngày đêm cơ cực thể xác gầy ốm, xanh xao, mệt mỏi, nên Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 ra lệnh toàn bộ Sư Ðoàn 18 BB do Ðại Tá Lê Minh Ðảo chỉ huy vào An Lộc thay thế nhiệm vụ cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (Ðại Tá Lê Minh Ðảo sau khi vào An Lộc ngày 01-11-1972 được vinh thăng Chuẩn Tướng).

    Ngày 14 tháng 07 năm 1972, đoàn trực thăng cuối cùng chở Ðại Ðội Trinh Sát và Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh rời An Lộc chấm dứt 3 tháng 7 ngày Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc. Chiến Thắng An Lộc vang danh quân sử mà người hùng đứng đầu là Chuẩn Tướng LÊ VĂN HƯNG. Vào ngày 30 tháng 04 năm 1975, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh (tân Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà) ra lệnh đầu hàng Cộng Sản, Người Hùng Lê Văn Hưng trong chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 và Quân Khu IV, đã không chấp nhận đầu hàng nhục nhã, quyết định không di tản ra nước ngoài mà cũng không để lọt vào tay địch. Ông noi gương tiền nhân: “Thành mất Tướng chết theo thành”. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã dùng súng lục bắn vào tim tự sát chết lúc 20 gìờ 30 tối 30 tháng 04 năm 1975 tại tư dinh Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 tại Cần Thơ.

    Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường
    Nguyên Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh (1974-1975)
    Cựu Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng
    Trung Ðoàn 8/ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1971-1972)

  3. #9
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến: Hai Tháng Tử Thủ An Lộc

    Hai Tháng Tử Thủ An Lộc
    Biệt Cách Dù Đỗ Đức Thịnh


    Những ngày cuối tháng Tư ở Boise (Idaho) khí hậu ấm lạ thường. Ánh nắng sáng chan hoà trên khắp vạn vật nhờ ở hiện tượng El Niño đã xoá đi khí lạnh của mùa Ðông, đây đó trong vườn những khóm hoa Locust, Daffodils, Tulips đã nở rộ khoe sắc thắm và lũ ong bướm đi về báo hiệu Xuân sang. Tháng tư trong tôi có nhiều kỷ niệm quá, kỷ niệm êm đềm cũng như những cay đắng ê chề của người lính Việt Nam Cộng Hoà vào ngày cuối của tháng Tư năm 1975, hay nhớ xa hơn 3 năm nữa, vào tháng Tư năm 1972 là ngày Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù chúng tôi tiến vào An Lộc để phản công và giải toả thành phố đang bị xâm chiếm bởi Việt Cộng.. Ðã 26 năm qua, tuổi đời dài theo năm tháng, tóc đã điểm muối tiêu, trên khuôn mặt đầy thêm những vết nhăn nhưng hình ảnh của trận chiến An Lộc vẫn không xoá nhoà trong tâm tưởng. Tôi xin được trở lại thời gian xa xưa ấy để viết lên vài giòng gửi đến các bạn, xin hãy cùng tôi nhớ về thành phố An Lộc để tưởng niệm đến những người dân, người lính đã nằm xuống trong thành phố nhỏ ấy, và nhất là 68 đồng đội của chúng tôi đã gác súng tại chiến trường với bia đề do cô giáo Pha cảm tặng:

    An Lộc địa sử ghi chiến tích,
    Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.


    Ngày 16-04-1972 đơn vị chúng tôi còn đang hành quân xâm nhập toán thám sát ở vùng Ðầu Chó giáp biên giới Miên, căn cứ hành quân đóng tại phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Các toán thám sát phát hiện nhiều chiến xa địch đang di chuyển trong vùng. Những điểm nóng đó được báo cáo về bộ chỉ huy quân đoàn 3 và Bộ Tổng Tham Mưu. Tại trung tâm hành quân, sau khi chấm toạ độ dừng quân của các toán trong rừng, tôi và mấy thằng bạn xin phép ra phố Tây Ninh ăn trưa và mua một vài vật dụng cá nhân. Ðang lang thang trong thành phố dưới cái nóng nung người đột nhiên một chiếc xe jeep ngừng ngay chỗ chúng tôi, trên xe có Ðại Uý Nguyễn Sơn. Lệnh của anh Sơn:

    - Mấy anh lên xe về căn cứ gấp, có lệnh hành quân mới.
    - Cho tôi mua thêm hai cuốn phim nữa, mà mình đi đâu vậy Ðại Úy? tôi hỏi.
    - Về căn cứ sẽ biết.

    Chiếc xe jeep đảo thêm vài vòng trên các con đường chính và gom được thêm vài ba đứa nữa, nhíp xe đã oằn xuống vì sức nặng và chỗ ngồi cũng chật cứng đại uý Sơn mới lái về phi trường Trảng Lớn. Tại đây các Ðại Ðội, Bộ Chỉ Huy, Liên Toán Thám Sát đang tập họp điểm danh quân số. Sau đó trong lều thuyết trình hành quân tôi được biết Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù sẽ vào An Lộc để giải vây. Theo dõi báo cáo hành quân tôi được biết Lộc Ninh đã thất thủ 9 ngày trước đó, Quốc lộ 13 đã bị Việt Cộng kiểm soát từ phía Nam của Lộc Ninh và cắt đứt giao thông từ phía Nam của Thị Xã An Lộc. Tự nhiên tôi có cái linh cảm trước sự thử thách gay go, những gian nguy trước mặt. Ðơn vị chúng tôi là đơn vị được hành quân trong cuộc chiến bất quy ước gồm các toán nhỏ được thả vào các mật khu an toàn của Việt Cộng để thu thập tin tức, bắt cóc các Việt Cộng đi lẻ tẻ hay chỉ điểm cho các phi pháo, B52, v.v… Khi có đầy đủ tin tức và lượng sức mình, đơn vị sẽ mở cuộc đột kích chớp nhoáng, quân số đột kích có thể từ Trung Ðội, Ðại Ðội hay Tiểu Ðoàn Trừ như lần phục kích đoàn xe 8 chiếc của Việt Cộng ở thung lũng Ashau vào tháng 04 năm 1968. Nay đơn vị được chỉ định vào cuộc chiến đại quy mô nên tôi cũng phân vân, giao động đôi chút. Nhưng các bậc đàn anh của tôi đã dự trận Cây Quéo, Cây Thị ở Gia Ðịnh vào năm 68 với chiến thắng vẻ vang trong thành phố đã cho tôi niềm tin vững mạnh. Cũng ngày hôm ấy tôi được lệnh khỏi phải làm bảng tổng kết hành quân để gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Sĩ 1 Trịnh Dân ở trại Bắc Tiến sẽ đúc kết công việc tôi đang làm. 8 toán Thám Sát đang hoạt động trong vùng địch được lệnh tìm bãi đáp để triệt xuất và sẽ vào An Lộc sau với Chỉ Huy Phó là Trung Tá Trần Phương Quế (ngày 20/04 khi các Toán này cùng Trung Tá Quế đến được Lai Khê, họ nhận được lệnh của Trung Tá Huấn chỉ thị cho các toán này trở về hậu cứ ở Trung Chánh). Căn cứ hành quân ở Trảng Lớn sẽ được Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ tháo gỡ và chuyên chở về trại Bắc Tiến.

    Chúng tôi được cấp phát thêm khẩu phần lương khô, đạn dược và mỗi toán 40 quân nhân được trực thăng vận bằng máy bay Chinook đến Lai Khê. Tìếng cánh quạt chém phần phật vào không khí, thêm vào những giao động của phi cơ đang chao đảo trên không, những nét mặt ưu tư của nguời lính chiến tạo nên một sự chờ đợi căng thẳng. Sự ngột ngạt ấy đã được đánh tan bằng một bãn nhạc quân hành do bạn nào đó cất giọng :”Ðây khúc ca vang nơi quân trường đầy hào hùng, vai ghé vai ta thi tài trong tình quân ngũ, đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm, 1.. 2.. 3.. 4.. 1..2..3..4..” Ðã từ lâu lắm tôi mới được hát và nghe lại một nhạc khúc quân hành, những khuôn mặt khắc khổ và thân thương trong giây phút ấy được ghi nhận trong ánh mắt của người lính chiến và sẽ còn mang mãi cho đến ngày cuối đời. “Thao trường đẫm mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, cố lên, cố lên dù nhọc nhằn đem mồ hôi pha máu hồng viết vào sử xanh…”



    Tại phi trường Lai Khê chúng tôi lại chia thành toán 10 người rải dọc dài theo phi đạo dể chờ phi đoàn trực thăng Việt Nam bốc vào An Lộc. Cái nắng nóng không một ngọn gió vào 2 giờ trưa thật tai ác, nhìn phi đạo dài với hơi nóng hun hút bốc lên, mặt nhựa đường chảy dính và nhất là chẳng có một bóng mát khả dĩ nào cho mình tạm trú. Mở bi đông xấp nước ướt vào khăn mặt xong phủ lên đầu tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Chợt hai tiếng nổ long trời và hai cuộn khói đen bốc lên cao bên kia rừng cao su. Qua máy truyền tin, tôi được biết kho đạn ở Lai Khê đã bị đặc công Việt Cộng phá huỷ. Tiếng rè rè ở ống liên hợp máy truyền tin ngưng bặt và có lệnh cho chúng tôi sẵn sàng, trực thăng sẽ đến trong vòng 10 phút nữa. Tôi mừng quá vì ít nhất mình sẽ hưởng được chút nào gió mát khi trực thăng cất cánh. Chúng tôi lên tàu rất nhanh vì đã quá quen thuộc với chiếc trực thăng UH1B này. Tôi và con nhà Lễ (Trung Sĩ 1) ngồi phía trái của trực thăng thả hai chân ra ngoài cho gió đong đưa thật thú vị. Ðoàn trực thăng bay ở cao độ thấp, 20 đến 30 mét trên đồn điền cao su dài và xanh thẫm. Có tiếng súng bắn lên trực thăng từ dưới rừng cao su, chúng tôi cố quan sát và lắng nghe hướng xuất phát ra tiếng nổ nhưng vận tộc nhanh của con tàu cùng tiếng ồn ào của động cơ đã không cho chúng tôi định hướng được để trả lễ vài hàng M16. Người xạ thủ đại liên trên tàu chúng tôi bắt đầu chong súng khạc đạn xuống những điểm khả nghi, chợt khẩu đại liên bung khỏi tay anh và gục xuống trên trụ súng lắc lư theo sức gió của con tàu. Ôm cánh tay bị thương anh nói :”ÐM. Trúng đạn rồi”. Nhờ có sợi dây an toàn nịt từ người vào khoen sắt trên trần nên anh đã không bị rơi xuống đất. Tôi và Lễ lấy dao xẻ tay áo anh lên để làm đai chỉ huyết, cánh tay bị bể xương phía dưới khuỷu tay còn dính lại với phần trên nhờ bắp thịt và da, chúng tôi chẳng có một vật gì dài cứng để cột cánh tay lại để tránh di động. Chẳng ai bảo ai chúng tôi phân định lại chỗ ngồi để nhường anh xạ thủ đại liên ấy một chỗ nằm hơi thoải mái trên sàn tàu. Bãi đáp là một thửa ruộng khô hướng Ðông của đồi Gió và đồi 169, đoàn trực thăng cùng lúc “hover” khoảng 1 mét trên bãi đáp, chúng tôi tức tốc nhảy xuống và tản nhanh vào bìa rừng trước mặt. Lúc này những quả súng cối nhỏ của Việt Cộng đã nổ quanh bãi đáp. Ðịch không ngờ chúng tôi đáp ở đó nên những trái đạn súng cối của chúng chưa chỉnh được mục tiêu nên không gây sự thiệt hại nào cho chúng tôi và phi hành đoàn trực thăng. Chúng tôi rải quân làm an ninh cho bãi đáp và báo cáo về cho toán còn lại ở Lai Khê để chọn bãi đáp khác. Trời đã về chiều, phi cơ phải tiếp tế thêm nhiên liệu nên phân toán còn lại sẽ đổ bộ trễ hơn dự định. Chúng tôi được lệnh chọn các cao điểm và phân tán mỏng để quan sát. Buổi chiều trong rừng vắng nghe tiếng đại bác Việt Cộng đều đều pháo vào An Lộc, lúc đó còn cách chúng tôi khoảng 5 km đường chim bay. Chúng tôi không còn nghe tiếng AK và súng cối quanh suối Ró nữa nên chúng tôi đoán chỉ có các đơn vị nhỏ của Việt Cộng thôi, hơn nữa có lẽ Việt Cộng đoán chúng tôi đã rời khỏi suối Ró và tiến xa khỏi vị trí. Nhìn con nhà Lễ ngồi hí hoáy ghi chép nhật ký hành quân phía trước mặt, thằng Khoẻ ngồi kế bên. Chúng tôi ngồi, tay ôm súng, ba lô còn đeo trên lưng dựa người vào những tảng đá xanh rêu, khung cảnh thật hữu tình, tự nhiên tôi quên đi cảnh chiến tranh. Tay quẹt quẹt trên khẩu M16 như đang chơi guitar, tôi hát nhỏ vừa đủ cho ba thằng nghe bản nhạc “Vó câu muôn dặm” của nhạc sĩ Văn Phụng: ”Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la, ta vui câu ca những đêm xa nhà cùng ngồi bên đá. Nhịp đàn vui hoà vang khắp nơi… đem chí trai can trường … “ Chúng tôi chuyền tay nhau hút điếu thuốc trong ngày sao ngon tuyệt. Một điều cấm kỵ của mùi hương nhưng làn gió nhè nhẹ thổi đúng về cái hướng Nam an toàn đã cho chúng tôi phì phà một cách thật thoải mái. Phần Liên Ðoàn còn lại từ Lai Khê được trực thăng vận cách chúng tôi khoảng 1 cây số và chúng tôi hẹn gặp nhau tại đồi 169. Chúng tôi lấy phương hướng và bắt đầu zulu đến điểm hẹn, hàng dọc tác chiến phân tán mỏng để tránh pháo. Trên lộ trình, chúng tôi bị một quả bom do Không Quân thả vào vị trí địch lại rơi gần đội hình di chuyển của đơn vị. Thiếu úy Lê Ðình Chiếu Thiện bị một mảnh xuyên qua bàn tay trái, báng súng bể được Thượng Sĩ Tụng trong Ban Quân Y băng bó. Sau đó chúng tôi tiếp tục vượt rừng để đến đồi 169.

    Ðồi 169 nằm ở hướng Ðông Nam và cách Thị Xã An Lộc 4 cây số đường chim bay, đây là một ngọn đồi có cao độ 169 mét, trên đỉnh đồi gồm nhiều tảng đá nhỏ chen lẫn những cây cối mọc rất còi cọc, tầm quan sát rất rộng rãi. Tại đây chúng tôi bắt tay được một Ðại Ðội trực thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân đang ém quân ở đây. Ðại Ðội này đã chạm địch khoảng năm ngày trước đó, lương thực của họ đã cạn, năm sáu ngôi mộ của các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân được chôn cách đỉnh khoảng 40 mét nơi có ít đá, những nấm mộ không bia nhưng mỗi đầu mộ đều có thập tự giá làm bằng cây rừng được giữ vững bằng những hòn đá nhỏ xếp dưới chân. Một số thương binh mình đầy thương tích được Bác Sĩ Châu và Thượng Sĩ Tụng chích thuốc và thay băng cho họ. Chúng tôi chia phần lương khô của mình cho đơn vị bạn. Họ đã không được tiếp tế thuốc men và lương thực trong nhiều ngày qua vì áp lực của địch quá mạnh. Vị Ðại Ðội Trưởng xin lệnh về Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân để cùng tháp tùng với Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trở vào An Lộc. Thương binh của họ được tản thương về Lai Khê cùng với Thiếu Uý Thiện. Các thương binh của Biệt Ðộng Quân, những vết thương của họ được xoa dịu nhiều khi đoàn trực thăng khoảng 6 chiếc bay đến, hai chiếc gunship bay quanh đồi bắn phủ đầu vào đám du kích bắn sẻ, hai chiếc còn lại lao nhanh vào LZ (landing zone) chỉ định. Những thùng đạn, lương thực được thảy xuống tiếp tế thêm cho chúng tôi. đồng thời các thương binh được đưa lên trực thăng với thời gian nhanh kỷ lục, mọi diễn biến không hơn một phút. Vị Ðại Úy Biệt Ðộng Quân nói với Trung Tá Huấn: ”Ðơn vị của Trung Tá được yểm trợ ngon lành quá”, trong khi trước đó anh đã xin phi vụ tản thương ba ngày qua nhưng ưu tiên chưa đến lượt. Khoảng 50 quân nhân của đại đội Biệt Ðộng Quân ấy tháp tùng theo Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù để vào tái hợp với Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân của họ.

    Thị trấn An Lộc diện tích khoảng 4 cây số vuông nằm ở phía Nam Lộc Ninh, chung quanh thị trấn được bao bọc bởi rừng cao su xanh thẳm và con đường huyết mạch của thị dân là Quốc Lộ 13 (con đường định mệnh) được nối từ Lai Khê Bình Dương đến Chơn Thành, Tân Khai, An Lộc, Lộc Ninh. Từ đồi 169 chúng tôi đã nhìn thấy thành phố An Lộc đang hứng cơn mưa pháo của Việt Cộng từ Lộc Ninh, Quản Lợi và các cao điểm chung quanh rót về, từng đám bụi đỏ cùng tôn ván tung lên không hoà lẫn những cột khói đen mà tôi đoán là nhà hay các cây xăng đang bốc cháy. Nhịp độ pháo của địch tăng mạnh khi các phi vụ Hoả Long và AC130 Spectre Gunship rời vùng. Tại Ðồi Gió, nằm ở hướng Bắc của đồi 169 cách khoảng 3 km do đơn vị pháo binh và Tiểu Ðoàn 6 Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đang lập tuyến phòng thủ cũng không may mắn gì hơn. Họ đang hứng chịu trận mưa pháo tập trung tới tấp khi hai chiếc trực thăng Chinook CH-47 đang cố tiếp viện cho họ hai khẩu đại bác 105mm. Tôi nhìn khẩu đại bác móc tòn ten phía dưới bụng của chiếc trực thăng đang cố đáp, tụi tiền sát viên pháo của Việt Cộng đã điều chỉnh những quả đạn khá chính xác vào ngọn đồi ấy, tưng bừng lửa, bụi đỏ tung lên dưới thân tầu lại làm cho hai chiếc trực thăng bốc lên cao hơn, pháo ngớt hai chiếc trực thăng lại từ từ hạ xuống thấp, cứ như thế trong vòng 15 phút hai chiếc trực thăng không thể nào thả hai khẩu đại bác xuống và đành phải bốc lên cao và bay về phía Lai Khê. Chúng tôi nhìn nhau trong nỗi thất vọng vô cùng.

    Sau khi nghỉ ngơi và quan sát, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Ðường rừng núi dầy đặc, đoạn đường còn lại như đi không đến, chúng tôi tiến quân rất chậm và đề cao cảnh giác vì không dám xem thường địch. Hạn chế sử dụng truyền tin tối đa, tuyệt đối di chuyển trong im lặng, nhìn màu áo hoa dù hoà lẫn với màu xanh lá cây rừng lúc hiện lúc mất lại càng tăng thêm cái bí hiểm của núi rừng u tịch. Khi chúng tôi đến gần một bản Thượng Srok Gòn thì đơn vị đi đầu dẫn về hai người Thượng tay đang bị trói sau lưng, về sau biết là họ là những người dân trong bản đang về nhà để lùa trâu bò đi, chúng tôi đã thả họ ngay.Trong bản Thượng hoàn toàn vắng lặng, người dân Thượng hiền hoà sống xa thành thị cũng đã chạy trốn quân đội tàn ác của Bác Ðảng. Chúng tôi cho haì người Thượng vài gói gạo sấy, sau đó họ lượm xác một con chó bị Việt Cộng bắn chết (tội báo động) ở đâu đó trong bản đem về thui. Con chó không được làm ruột quăng vào trong đống lửa, mùi lông chó cháy bay khét lẹt. Tôi lẵng lặng đeo ba lô súng đạn rời khỏi nơi họ nướng con chó xấu số đó. Chúng tôi hưởng một đêm an lành trong bản Thượng Srok Gòn.

    Chúng tôi miệt mài di chuyển trong buổi sáng ngày hôm ấy, tiến quân chậm nhưng đoạn đường đã thâu ngắm thêm, rừng cây đã thưa thớt khi chúng tôi đền gần bìa rừng, những nương rẫy của nông dân và lác đác vài căn nhà tranh xuất hiện, lúc này chúng tôi tiến quân nhanh hơn. Căn nhà lá đầu tiên đập vào mắt tôi là xác một người dân chết bên cạnh lu nước trước cửa nhà, xác đã chương xình trong chiếc quần dài đen và cái áo trắng cũ không được ai chôn cất, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Càng tiến vào sâu, những mái nhà tôn vách ván nằm kề cận nhau hơn, từ con đường đất tôi nhìn xuyên qua khoảng sân trống, vài nấm mồ của những người dân xấu số mới được chôn cách đó không lâu, mùi nhang khói, tiếng khóc than của người còn sống hoà lẫn vài tiếng reo mừng :”Lính Dù tới, Lính Dù tới”. Tôi mỉm cười chào thân thiện, nhìn nét mặt hân hoan của họ, tôi biết họ đã đặt niềm tin vào chúng tôi, vào 550 lính 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang âm thầm tiến sâu vào tuyến đầu lửa đạn.

    Ðơn vị chúng tôi được lệnh vào bắt tay với Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà của Ðại Tá Mạch Văn Trường. Lúc này chúng tôi phân khoảng cách giữa mỗi quân nhân khoảng 30 mét chạy nhanh vào phố chính chứ không đi nữa, tiếng đạn pháo của địch vẫn liên tục xé gió bay trên đầu chúng tôi hướng về phía Tiểu Khu Bình Long, tôi hơi ớn khi vài quả nổ gần nghe chát chúa. Trên bầu trời, những cánh dù tiếp tế lương thực, đạn dược bay lơ lửng. Ba lô súng đạn trên người nhưng tôi không còn cảm thấy nặng nữa, những giọt mồ hôi nhễ nhại chảy dài trên khuôn mặt, lưng áo ướt đẫm, mồ hôi chảy vào mắt, xót quá tôi vội lấy khăn tam giác buộc ngang trán để thấm đi những giọt mồ hôi quái ác ấy. Chạy gần đến bệnh viện Bình Long, mùi tử khí xông lên nồng nặc. Bệnh viện hoang tàn, một phần mái đã bay mất bởi bị pháo, phần ngói còn lại nằm chồng chất lộn xộn, bức tường phía trước xụp đổ cho tôi nhìn thấy một dẫy giường chiếu với chăn màn bay nhẹ theo gió. Những bức tường vôi trắng còn lại lỗ chỗ dấu đạn pháo, và hàng cửa sổ với những cánh cửa bật tung nằm xiêu vẹo. Cái cảnh thương tâm hiện ra trước mặt làm lòng tôi quặn thắt, số người dân và người lính đã chết quá nhiều trong những ngày qua. Ðêm 13/04/1972 trong cuộc công kích vào Thị Xã An Lộc đạn pháo của đich đã giết hại hơn 800 bệnh nhân và một số nhân viên trong bệnh xá. Xác của họ được ném xuống hai cái hố lớn do xe ủi đất ủi sâu, hố dài khoảng 40 mét, trong đó đầy những xác người, dân có, lính có, trẻ em có. Những xác người nằm chồng chất hỗn độn, xác người mới chết chồng lên xác người đã chết từ nhiều ngày qua. Tôi vội ngồi bên vệ đường và ra dấu cho những người bạn sau tiếp tục chạy xuống phố, moi trong ba lô lấy máy chụp ảnh và chụp hai tấm về hố chôn tập thể ấy. Mặc dù đã cố hít đầy một buồng phổi không khí từ xa nhưng mùi hôi thối của xác chết đã khiền tôì muốn nôn oẹ, đám ruồi xanh bay vo ve nhặng xị và dòi bọ lúc nhúc trên thân xác người. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh những người dân lành vô tội chết trong những nỗi thống khổ bàng hoàng, ngạc nhiên kinh dị. Không một tiếng khóc than, không một lời kinh cầu, không một tấm bia cùng nhang khói. Tôi lâm râm khấn cầu cho linh hồn họ mau được siêu thoát và linh thiêng phù hộ cho những người thân của họ còn đang khốn khổ trong binh lửa ngập trời.

    4 giờ chiều ngày 17/04/72 An Lộc đã chào đón chúng tôi với nỗi tang thương của người dân và thành phố tiêu điều và đổ nát, xác dân lành, xác xúc vật, xác Việt Cộng nằm vương vãi trộn lẫn trong gạch ván. Những chiếc xe tăng T-54 bị bắn cháy nằm trơ xét rỉ trên đường phố. Ngay cả đến những con bò mình mang đầy thương tích vì bom đạn đang đau đớn bước chân nặng nề trong khu phố. Duy nhất chỉ có khu phố phía Tây Nam còn khá nguyên vẹn. Ðây là những nhà lầu hai tầng do Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 tử thủ vào những ngày qua. Chúng tôi bắt tay với đơn vị bạn và được báo cáo đầy đủ về tình hình quân sự trong An Lộc. Một nửa thành phố đã bị địch chiếm đóng và đang cố thủ, địch hay bắn sẻ và thổi B-40 và B-41 từ những cao ốc còn sót lại phía Ðông Bắc và Tây Bắc. Chúng tôi được lệnh nghỉ ngơi trong vòng hai tiếng, sau đó sẽ tập họp để nhận lệnh hành quân mới. Trung Ðoàn 8 và những người dân còn lại trong phố đã tiếp đón chúng tôi rất niềm nở, họ chạy máy bơm nước giếng cho chúng tôi tắm, tiếp tế cho mỗi người lính vài gói thuốc lá quân tiếp vụ thơm. Ðây là phần thưởng rất quý giá vì đã ba ngày qua quần áo chúng tôi ướt đẫm mồ hôi, tóc tai bết bát. Nước giếng mát lạnh và mùi xà bông thơm làm cho tôi cảm thấy thoải mái, dể chịu. Ôi những mồ hôi và bụi phong trần từ những chốn đã đi qua được nguồn nước mát ở An Lộc tẩy sạch. Thay bộ quân phục sạch sẽ tôi cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới. Tôi, Trung Sĩ 1 Luân, Trung Sĩ 1 Lễ, Trung Sĩ 1 Khoẻ, Hạ Sĩ Sấy rủ nhau ra sân trước hưởng chút ánh nắng còn sót lại vào buổi chiều, vừa hút thuốc vừa tán chuyện gẫu thì một quả B-40 nổ ngay trên balcon, nhìn cái đuôi đạn còn quay vòng vòng trên mặt đất chúng tôi lặng lẽ chuồn êm vào sau cánh cửa sắt. Cũng may chúng tôi đứng phía dưới balcon nên an toàn.

    Chúng tôi mang ba lô súng đạn đến Bộ Chỉ Huy hành quân để tập họp. Tôi Trung Sĩ 1 Ban 3, Trung Sĩ 1 Lễ Ban 2, Trung Sĩ 1 Khỏe Ban 4, Hạ Sĩ Bông Ban 3, Trung Sĩ 1 Luân Ban 2 đuợc chia vào toán của Thiếu Uý Ðặng Văn Cẩm. Liên Ðoàn chúng tôi với quân số tham chiến lúc ấy là 550 kể cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ. Với quân số quá khiêm nhường cho nhiệm vụ chiến trận quá lớn! Bộ Chỉ Huy gồm có:

    - Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng
    - Thiếu Tá Nguyễn Văn Lân, Sĩ Quan Phụ Tá
    - Ðại Úy Trần Văn Thọ, quyền Trưởng Ban 3
    - Ðại Úy Nguyễn Văn Mai, Trưởng Ban 2
    - Trung Sĩ 1 Phương, Ban 4 Tiếp Liệu
    - Thượng Sĩ Phạm Văn Cấp, Trưởng Toán Truyền Tin và Mật Mã
    - Trung Úy Lê Thanh Châu, Bác Sĩ Quân Y,
    - Thượng Sĩ Nguyễn Văn Tụng, Y Tá Trưởng
    - Trung Úy Lê Văn Lợi, Liên Toán Trưởng 4 Toán Thám Sát Lôi Vũ
    - Ðại Úy Nguyễn Ích Ðoàn, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 1
    - Ðại Úy Nguyễn Sơn, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 2
    - Ðại Úy “Hổ Xám” Phạm Châu Tài, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 3
    - Ðại Úy Ðào Minh Hùng, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 4
    - Thượng Sĩ Jessi Yearta, Cố Vấn Mỹ
    - Ðại Úy Charles Huggins, Cố Vấn Mỹ
    - Trung Úy Cao Văn Cát, Sĩ Quan đề lô pháo binh tăng phái.

    Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu và những ánh đèn pin chiếu vội vàng trên bản đồ để chúng tôi chấm toạ độ. Mục tiêu và tuyến xuất phát của các đơn vị bạn chúng tôi đã thuộc trong đầu. Sau đó chúng tôi được lệnh trở về tuyến xuất phát để chờ giờ G (Gay Go theo mã tự truyền tin) chưa được công bố. Ðã 8 giờ tối, thành phố đắm chìm trong bóng đêm dày đặc, sự yên tĩnh của đêm đen bị khuấy động bằng tiếng nổ của đại bác Việt Cộng pháo vào. Tiếng gạch ngói vỡ vụn rơi trên mái nhà tôn nghe loảng xoảng rồi chìm dần. Ðiệp khúc pháo của địch được lập đi lập lại mỗi 10 phút đồng hồ. Phía Nam tiếng đại bác ì ầm xa xăm vọng về từ các vùng Chơn Thành, Tân Khai. Trong khi ngồi trong bóng đêm chờ giờ G, tôi lẩm nhẩm đếm ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai … khi nghe tiếng départ từ hướng Bắc cho đến khi quả đạn nổ. Tính nhẩm, trong đầu tôi đoán vị trí súng của địch được đặt ở Lộc Ninh và Quản Lợi. Ðúng 9 giờ tối từ máy truyền tin tôi được biết giờ G đã điểm, chúng tôi lay nhẹ vai nhau và bắt đầu tiến quân. Trên bầu trời cũng đã xuất hiện chiếc AC130 Spectre yểm trợ, một trái hoả châu được thả ra từ máy bay để chúng tôi quan sát những chướng ngại vật và làm quen với mục tiêu trước mặt. Khi ánh hoả châu tắt, chúng tôi bắt đầu mò mẫm tiến về hướng Bắc của thành phố. Cái khổ của đoạn đường này là gạch ngói, gỗ đinh, mái tôn móp méo nằm vương vãi, mặc dù cố mở mắt lớn nhưng chuyện bước nhầm lên miếng tôn hay miếng ván là điều khó tránh khỏi, chỉ một tiếng động khô khan đó là lập tức vài ba quả M79 thổi về ngay. Nghe tiếng súng M79 quen thuộc, chúng tôi vội liên lạc vô tuyến xác nhận điểm đứng của mình và yêu cầu con cái của Hùm Xám đừng ton đạn về hướng chúng tôi. Quân của Hùm Xám lúc ấy đang ở phía Ðông của chúng tôi, Hùm Xám xác nhận con cái của anh chưa lẫy cò và tiếng départ từ con đường bên kia khu phố, chính Ðại Ðội 3 của Hùm Xám cũng lãnh vài quả tương tự. Sở dĩ bọn Việt Cộng có được vũ khí của ta là do những chiếc dù tiếp tế bay lạc qua phần đất do chúng tạm chiếm. Chúng tôi lại dò dẫm từng bước chân đi, tôi đã bắt kịp con nhà Lễ ở phía trước, tôi thì thào hỏi: ”Chuyện gì vậy?”
    “Hàng rào kẽm gai”. Lễ trả lời. Một cái hàng rào kẽm gai cao khoảng 3 mét nằm ngay trước mặt. Hạ Sĩ Bông đã được Lễ đỡ cho leo qua, tôi vội vàng khoác súng trên vai chạy đến đỡ Lễ leo qua cho mau. Ðến lượt mình mới là khốn nạn vì là Toán Phó và cũng là người sau cùng nên tôi cố đặt chân vào sắt trụ rào bằng cây sắt nhỏ để giữ thăng bằng. Sợi kẽm gai đong đưa, thân mình tôi vắt vẻo, đang cố leo thì vài quả M79 nổ cách bức tường sau lưng, cái bản năng sinh tồn theo phản ứng tự nhiên cho mãi đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa hiểu là làm cách nào mà tôi đã leo qua cái hàng rào một cái rột mà không bị một vết cào sướt trên thân thể.

    Ðã gần 4 giờ sáng, toán tôi còn đang bì bõm dưới đường mương cống thì được lệnh dừng quân nằm chờ tại chỗ. Cái vị trí chúng tôi đang ở thật kinh khiếp trần đời, nước và sình thối cùng mọi thứ phế thải khác cao ngập đôi giầy trận, tôi hỏi anh Cẩm tại sao không tiến thêm về dẫy tường nhà trước mặt. Anh cho biết Ðại Ðội 2 đã đóng ở đó rồi. Tôi co giãn vài ngón chân để cảm nhận đôi vớ đã bị thấm nước, cái cảm giác lành lạnh từ từ thấm vào người từ hai ống quần đã bị thấm nước. Tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ, nguyên một ngày lội quần quật từ đồi 169 cho đến giờ này tôi chưa được chợp mắt. Thần kinh tuy căng thẳng nhưng đã chịu thua cơn buồn ngủ chĩu nặng, dựa lưng ba lô vào vách đường cống tôi đã thiếp đi trong tư thế ngủ đứng. Còn đang say ngủ thì những loạt M60, M16, súng phóng lựu hoà lẫn tiếng AK nổ ran trong khu vực. Tôi thức tỉnh hoàn toàn, trời đã tờ mờ sáng, lúc này tôi mới có dịp nhìn rõ lại cái đường mương cống đầy rác rến đã cho tôi hơn một giờ ngủ ngon.

    Chúng tôi đồng loạt tiến nhanh về hướng Ðông Bắc, địch đã không ngờ rằng đêm ấy chúng tôi nằm sát nách chúng. Những tiếng hô “Xung Phong”, “Sát, Sát. Sát” của các chiến sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dù cùng những tiếng nổ từ súng cá nhân tuôn xối xả vào vị trí địch, những toán quân bạn ở vị trí trước mặt tiến quân như vũ bão. Từ trong dẫy phố trước mặt Việt Cộng lố nhố chạy thục mạng lên phía Bắc đang làm bia bắn cho các chiếc trực thăng Cobra. Mùi thuốc súng quyện đặc trong buổi sáng sớm, trên không đạn khói đạn rocket được bắn ra từ chiếc O-2 đang nhào lượn. Tiếng đại bác 105 mm, 40 mm, 20 mm minigun từ AC130 Spectre bắn vào phòng tuyến địch nghe inh tai. Từ những cuộc hành quân thám sát xâm nhập trong lòng địch, giờ đây các chiến sĩ của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù lại chứng tỏ cho địch thấy sự can trường, oai hùng trong trận địa chiến, chúng tôi đã không nao núng trong trận chiến mở màn ngày 18/04/1972. Tại khu đồn Cảnh Sát Dã Chiến với phòng thủ quân sự rất kiên cố đã bị Bắc quân chiếm đóng, những thùng phi 200 lít được đổ đầy cát, xếp hai lớp chồng lên nhau, nóc hầm được che bởi hàng vỉ sắt quân sự và 3 lớp bao cát xếp dầy lên trên. Trục tiến quân của Ðại Ðội 2 đã khựng lại vì trước sự kháng cự mạnh của địch. Những trái đạn M79, M72 phóng vào phòng tuyến Cảnh Sát Dã Chiến không mảy may có kết quả, nhưng không sao, đã có anh mũi lõ Jesse Yearta cao bồi Mỹ đây rồi. Thường ngày tôi không mấy thân thiện với các anh mũi lõ mắt xanh, đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng tôi đã thán phục khi nhìn Yearta oai hùng đứng khơi khơi giữa đường phố ngay tuyến đầu lửa đạn với mình, không cầu an, chịu nguy hiểm để chỉ điểm cho đại bác trực xạ từ chiếc AC130 bắn vào khu Cảnh Sát Dã Chiến đang đầy Việt Cộng trong ấy, Tâm hồn Yearta lúc ấy chắc cũng như chúng tôi đang say men chiến thắng khi nhìn thấy lính cụ Hồ bương chạy. Từng chiếc hầm bị đạn 105 mm được bắn rất chính xác từ trên trời xuống, nắp hầm bung lên và không một địch quân sống sót chạy ra, những lỗ châu mai đã im lìm tiếng AK. Sau khoảng hơn 30 phút giao tranh, chúng tôi đã hoàn toàn đẩy lui Việt Cộng trong khu Tây Bắc thành phố. Chiến trường đã ngưng tiếng súng, những thương binh được các bạn đồng đội băng bó tạm và được chuyển về Bộ Chỉ Huy để bác sĩ và y tá săn sóc.

    Nhìn khuôn mặt đẫm mồ hôi của Trung Sĩ 1 Sần A Nhì, tay trái cầm súng M16, tay phải ôm hai chân của người chiến sĩ tử trận, anh lúp xúp chạy và xác người chết nằm gấp trên vai, hai cánh tay và cái đầu đong đưa theo bước chân, các bạn gần đó đã nhanh chân chạy lại tiếp Trung Sĩ 1 Nhì đưa người bạn vắn số đó về Bộ Chỉ Huy. Sau đó lại một chiến sĩ tử trận khác đã được anh em cột tay chân lại và dùng đòn khiêng luồn vào để khiêng về Bộ Chỉ Huy, hình ảnh thật đau lòng, nhưng không biết làm sao hơn khi chúng tôi không có một cái băng ca để tải thương vào lúc ấy, chúng tôi phải rải quân ra để phòng thủ tuyến vừa chiếm được với sự hy sinh của anh, máu và thân xác của anh đã thấm vào lòng đất An Lộc, anh đã vĩnh viễn từ giã chiến trường và gia đình thân yêu. Chúng tôi những người còn lại phải gánh lấy trách nhiệm phần đất mà anh vừa chiếm lại được. Vong hồn của anh chắc không giận chúng tôi đâu vì anh cũng thông hiểu được tình huống của chúng ta lúc ấy, xác của anh đã được đem về và chôn cất trong nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Chắc anh cũng mãn nguyện khi nhìn đồng đội đã chịu nhiều gian khổ, hiểm nguy trong đêm tối khi chôn cất anh. Anh biết đó trong đêm tối cạnh bến xe đò bên kia chợ, mặt nhựa đường đã không cứng hơn đôi bàn tay của người lính Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Những nhát cuốc nháng lửa trên mặt nhựa đường, lưỡi cuốc nhọn bung lên thốn vào đôi cánh tay người lính. Ðịch từ bên kia phố đã nghe được tiếng đào xới nên đã cố câu vào đó vài quả đạn súng cối 61 hay M79, người lính đồng đội vẫn không nao núng đứng đào huyệt cho người bạn vắn số của mình vào nơi yên nghỉ ngàn thu. 67 anh em khác cũng nằm chung với anh trong nghĩa trang lịch sử đó và tại đây tôi cũng đau buồn chia tay với Thiếu Úy Nguyễn Quang Khánh, người cựu toán trưởng toán 3 Delta của tôi.Trong một phiên gác đêm nhìn quanh nghĩa trang nghĩ đến anh tôi không khỏi chạnh lòng nhớ đến mấy câu thơ Chinh Phụ Ngâm mà tôi đã viết nghuệch ngoạc trên một vách tường đâu đó:

    “Hốn tử sĩ gió ào ào thổi
    Mặt chinh phu trăng sõi sõi soi
    Chinh phu tử sĩ mấy người
    Nào ai mạc mặt nào ai gợi hồn” ! ! ! ! !

    Hãy tạm quên chiến trận để cho tôi được viết vài hàng về nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trong lòng phố An Lộc.

    Những ngày hạ tuần tháng 5 cũng là những ngày chiến trận đã tương đối lắng dịu, nhìn lại nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đã được khang trang tu bổ do những bàn tay người lính 81 Biệt Cách Dù. Chính giữa là mộ bia chính với câu thơ bất hủ của cô Pha viết dưới bệ, chung quanh nghĩa trang là dẫy tường thấp bằng gạch sơn vôi trắng, phía chính diện hai câu thơ nổi tiếng của Vương Hàn trong bài Lương Châu Từ được viết bằng sơn: “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Những người dân còn sót lại tại An Lộc đã an toàn sinh sống trong khu vực do chúng tôi trấn đóng, họ đã dạn dĩ ra trước cửa nhà để nhìn khung cảnh điêu tàn trong khu phố. Ðổ nát và đổ nát, cả một khu phố thân thuộc của họ, trước dây 1 tháng họ có ngờ đâu chiến tranh do Bắc quân mang lại gieo tang tóc thê lương. Thị Xã mang tên hai chữ thật hiền hoà : An và Lộc. Trong cảnh thê lương đổ nát tiêu điều ấy, họ đã ngạc nhiên và xúc động mạnh khi nhìn thấy một nghĩa trang khang trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được xây phía bên kia đường trước căn phố của họ. Những xây dựng trước đó đã sụp đổ tan tành theo từng ngày đạn pháo tung bay. Một xây dựng mới âm thầm trong thành phố tang thương ấy bắt đầu vào ngày 18/04/1972 chính là nghĩa trang của những chiến sĩ Biệt Cách Dù vị quốc vong thân, vừa đánh giặc vừa xây dựng mộ bia cho những người nằm xuống để không quên ơn người đã cho ta thêm những ngày sống. Một bà già người Trung Hoa nói tiếng Việt hơi lơ lớ tay quẹt nước mắt nói: “Chồi oi ! Con cái dà ai lến lây chết nhiều quá zậy?” Nói xong bà vào nhà đốt một nắm nhang xong trở ra quỳ lạy trước mộ bia và cắm nhang từng nấm mộ. Lời khóc than chí tình ấy cũng là lời cám ơn Chơn Thành từ đáy lòng của người dân An Lộc, những người dân đã sát cánh với chúng tôi trong hai tháng bom lửa ngập trời ấy.

    Xin trở lại buổi sáng ngày 18/04/1972. Ðang say men chiến thắng, tôi tưởng đơn vị mình sẽ dàn quân chiếm nửa khu phố còn lại nhưng lệnh trên cho án binh bất động. Vì Sư Ðoàn 5 Bộ Binh không còn đủ quân số để cùng tiến lên ngang hàng với chúng tôi, do đó chúng tôi đành bó tay và cuộc chiến đổi sang ngõ rẽ khác.

    An Lộc bị cô lập hoàn toàn, quốc lộ 13 bị cắt đứt, trục tiến quân của Sư Ðoàn 21 và Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù bị kiềng, chốt của Công Trường 7 Việt Cộng ngăn cản bước tiến trong đồn điền cao su tại Chơn Thành, suối Tầu Ô, Tân Khai trong hai tháng ròng rã. Thuốc men, lương thực, đạn dược tiếp tế vào An Lộc bằng dù do các phi vụ C130 thả. Những cánh dù thả trên cao độ 1800 mét đã không rơi chính xác vào địa điểm mong muốn, độ giạt của gió đã đưa những chiếc dù ấy sang phần đất địch chiếm đóng. Chúng tôi đành chong súng lên bắn lên những kiện hàng trôi lơ lửng ấy. Việt Cộng cũng làm lại điều tương tự khi dù tiếp tế rơi vào vùng đất của chúng tôi (sau khoảng 3 tuần những chiếc dù biến cải với những lỗ thoát gió đã rơi nhanh và chính xác hơn vào bãi tiếp tế.)

    An Lộc đang nằm trong sự vây hãm chặt chẽ của Bắc quân gồm các Công Trường (Sư Ðoàn) 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long. Công Trường 5 gồm các Trung Ðoàn E6, Trung Ðoàn 174, Trung Ðoàn 275. Ðơn vị chủ lực Công Trường 7 gồm các Trung Ðoàn 141, 165, 209 và Trung Ðoàn 101 biệt lập. Công Trường 9 gồm có Trung Ðoàn 271, 272, 95C. Công Trường Bình Long bao gồm các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và các đơn vị chính quy 204 tùng thiết (tháp tùng chiến xa), 429 công sự phòng thủ. Sư Ðoàn Pháo 69 gồm có Trung Ðoàn 208 hoả tiễn, Trung Ðoàn 42 pháo, Trung Ðoàn 271 phòng không và các thiết đoàn chiến xa 202 và 203. Quân số tổng cộng của các đơn vị kể trên khoảng 50,000.

    Chúng tôi lập ngay tuyến phòng thủ ở Bắc An Lộc mới tái chiếm. Rạng sáng 19/04 địch bắt đầu pháo mạnh vào thành phố An Lộc, đồi Gió và đồi 169. Sau đợt pháo, các đơn vị của Công Trường 5, 7 Việt Cộng tấn công Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đang đóng ở đồi Gió và đồi 169. Hai cao điểm chiến lược bị tràn ngập (80 quân nhân nhảy dù mở đường máu thoát khỏi vòng vây sau đó được trực thăng bốc về Lai Khê). Cùng hai ngày sau đó, hai Ðại Ðội khác của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù rút được về An Lộc sau đó tái hợp với Tiểu Ðoàn 5 và 8 Dù). Từ hướng Ðông Quốc Lộ 13 Công Trường 9 là đơn vị chính tấn công vào thành phố, chúng đã bị đánh bạt ra khỏi tuyến phòng thủ trấn giữ do Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Tiểu Ðoàn 5 và 8 của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Sự yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ với những phi vụ B52 dội vào các điểm tập trung của địch và những phi vụ Spectre AC130 rất hiệu quả. Bình minh vừa ló dạng, tiếng pháo địch rời rạc và địch đã đại bại trong trận công kích đợt hai vào An Lộc. Một chiếc T54 lọt vào hố bom không lên được và nhiều chiếc khác đã bị phá huỷ. Ðây là những chiếc T54 không có bộ đội tùng thiết chạy lơ ngơ trong đêm tối đã làm mồi ngon cho những khẩu M72, phi vụ Spectre AC130 … Phía phòng tuyến chúng tôi vô sự trong đêm ấy. Trong đợt công kích đợt hai này địch đã có lợi thế khi chiếm được đồi Gió và đồi 169. Sáu khẩu đại bác 105 mm để yểm trợ cho An Lộc của ta bị phá huỷ hoằn toàn. Từ những cao điểm này Việt Cộng đã theo dõi được hoạt động của đơn vị bạn trong khu vực Ðông và Nam của thành phố.

    Sau cuộc tấn công đợt hai không có kết quả, đich bắt đầu chơi pháo vào An Lộc, hàng ngày cái thành phố với diện tích còn lại khoảng 1.5 cây số vuông ấy hứng hàng ngàn quả đạn đại bác của Việt Cộng. Lúc này phòng tuyến của chúng tôi đã vững vàng, những bức tường trong khu phố được chúng tôi đục thông từ nhà này sang nhà khác, những lỗ tường ấy cao khoảng 1 mét rộng độ nửa mét nên việc di chuyển bên trong khá dễ dàng và an toàn. Mỗi toán được chỉ định giữ an ninh cho tuyến của mình. Tôi được chỉ định về toán súng cối 81 mm đóng ở phía Nam Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn cách đó một con đường. Tôi xin viết vài hàng về tổ súng cối 81 mm và sự hiệu quả của nó. Thực ra trong bảng cấp số của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù không được trang bị súng cối 81 mm vì đơn vị luôn luôn hành quân thám sát ngoài tầm yểm trợ của pháo binh, các toán thám sát và Ðại Ðội xung kích được trang bị vũ khí nhẹ và được yểm trợ bằng trực thăng, phi pháo B52 …Nhưng trong trận địa chiến ở An Lộc chúng tôi đã uyển chuyển với cục diện mới.

    Sau ngày 19/04, Ðại Ðội 1 của Ðại Úy Ðoàn nằm ngay tuyến đầu ở hướng Bắc khu vực khá trống trải nên tổ súng cối 60 ly bị địch thổi B40 vào dài dài, anh cho dời khẩu súng cối về khu phố toán tôi đang đóng. Tôi tình nguyện bắn yểm trợ súng cối 60 ly cho Ðại Ðội 1 và chính vì sự tình nguyện ấy mà sau này khẩu súng cối 81 mm đã dính với tôi trên những bước đường hành quân ở căn cứ Hoàng Ðế (King), Cổ Thành v.v… Những trái đạn súng cối 60 rất hạn chế của Ðại Ðội 1 đã cạn mau vào những ngày sau đó. Khui những thùng đạn tiếp tế toàn là đạn cối 81 ly nên khẩu 60 ly kể như vô dụng, đạn 81 ly chúng tôi có rất nhiều nhưng súng thì không. Ðại Úy Ðoàn liên lạc với Trung Ðoàn 8 và vác về một khẩu 81 mm, nhưng lại không có máy nhắm. Sau đó Thượng Sĩ Yearta liên lạc truyền tin xin được một máy nhắm M14 còn nguyên si trong hộp. Mở hộp ra, bảng chỉ dẫn bằng tiếng Anh, tôi lại càng mù mịt.Tôi mang máy nhắm lên cho Thiếu Tá Lân xem, máy nhắm quá tối tân so với những máy nhắm mà Thiếu Tá Lân đã học ở trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Sau đó Yearta, Huggins, Thiếu Tá Lân và tôi ngồi quanh chiếc máy nhắm để học hỏi. Yearta đọc Thiếu Tá Lân dịch và giảng cho tôi nghe công dụng của từng bộ phận. Tôi hiểu được đại khái hướng nhắm, chiều cao, độ giạt, tầm xa, đọc bảng xạ biểu, thuốc bồi, v.v… Tôi, Lễ, Bông, Khỏe và các bạn khác được giao trọng trách cho khẩu cối 81 ly đó. Sự yểm trợ chính xác của toán súng cối chúng tôi cho Liên Toán Thám Sát, Ðại Ðội 1, 2, 3, 4 nên được các bạn âu yếm gọi là B52 cầm tay. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc đã xảy ra trong khi bắn súng cối yểm trợ cho Ðại Ðội 4 do Trung Úy Nguyễn Khoát Hải làm Ðại Ðội Trưởng (Ðại Úy Ðào Minh Hùng đã bị thương). Những quả đạn không thuốc bồi trong tầm đạn đạo gần đã làm cho Trung Úy Hải và một số binh sĩ Ðại Ðội 4 bị thương, Trung Úy Lê Ðắc Lực lên nắm quyền Ðại Ðội Trưởng từ ngày đó.

    Hầm súng cối được đào sâu khoảng 0.8 mét ở sân sau nhà thuốc tây, quanh sân được bao phủ bằng bức tường gạch cao hơn đầu người. Hầm đạn cũng được đào cạnh hầm súng cối, phía trên được che đậy bằng các thùng gỗ chứa đầy cát. Thường thì trên đài quan sát (vị trí nhỏ trên tầng lầu Bộ Chỉ Huy được chất bao cát chung quanh), Thiếu Tá Lân làm sĩ quan tiền sát cho đội súng cối của chúng tôi. Sau hai ngày bắn súng cối, tôi đã quen thuộc với khẩu súng và máy nhắm M14. Ðộ chính xác của súng là 25 mét cho mỗi ly giác, thế nhưng đã có lúc, qua máy truyền tin Ðại Úy Ðoàn nói: “Từ tác xạ vừa rồi, Trái 3 mét” đã làm tôi chưng hửng.

    - Mục tiêu là gì ? tôi hỏi.
    - Hầm ve chai. Ðại Úy Ðoàn trả lời. Làm sao tôi chỉnh được bên trái 3 mét đây. Tay run run nhích vòng xoay ống nhắm với sự ước tính trong đầu, chỉnh bọt nước thăng bằng xong tôi liên lạc vô tuyến:
    - Smoke sẵn sàng.
    - Go.
    Một tiếng nổ bụp nhỏ của đạn khói nghe vọng lại từ xa. “Ngay chóc” tiếng anh Ðoàn reo vui qua máy truyền tin PRC25.
    - Cho anh ba delay.
    Hạ sĩ Bông tay bóc thuốc bồi và vặn lại nút nổ chậm trên đầu trái đạn, chúng tôi bắn 3 trái đạn đi. Sau đó anh Ðoàn cho biết đạn đã đào sâu xuống đất trước khi nổ, hầm sụp chôn trong đó hai tên Việt Cộng và một tên khác bỏ chạy bị lính của anh dứt sữa cụ Hồ. Thế nhưng Việt Cộng đâu có để cho khẩu súng cối của chúng tôi tung hoành như thế được. Từ khu phố hướng Ðông, chúng đã biết vị trí súng của chúng tôi. Vì có nhiều mục tiêu chỉ cách hầm chúng tôi khoảng 400 mét, và những trái đạn không thuốc bồi bay lắc lư trên không làm cho chúng nhắm hướng và biết đích xác vị trí của chúng tôi. Vào một buổi trưa, Thiếu Tá Lân gọi máy cho toán tôi ra tác xạ. Nồi cơm và nồi canh rau đã chín trên bếp chúng tôi chưa kịp ăn. Tôi và các bạn ra hầm súng, nhận lệnh và chỉnh súng vào mục tiêu mới. Chờ gần 10 phút nhưng vẫn chưa có lệnh tác xạ. Tôi bốc máy vô tuyến gọi:

    - Mạnh Ðiệp đây Kiều Giang.
    - Mạnh Ðiệp nghe. Thiếu Tá Lân trả lời.
    - Chừng nào tác xạ ?
    - Chờ ở đó.

    Vài ba quả đạn khói 82 ly của Việt Cộng bắn vào từ khu rừng phía Tây đã nổ ngoài tường rào. Chúng tôi đang đói bụng nên mang máy truyền tìn vào nhà ăn cơm vừa trực máy luôn thể. Lệnh Thiếu Tá Lân là lệnh sắt nên tôi cũng ớn bị xài xể, nhưng từ nhà sau ra hầm súng cối chỉ cách độ 15 mét, thuốc bồi đã bóc sẵn, súng đã chỉnh xong. Nếu có lệnh bắn chúng tôi sẽ tác xạ trong vòng nửa phút. Bưng nồi cơm và canh để trên sàn xi măng, thời gian chưa được ba phút, chúng tôi chưa sới được bát cơm đầu thì một tiếng oành, nổ ngay hầm súng cối chúng tôi, thêm một quả nữa nổ gần hầm đạn thứ hai. Qua khung cửa sổ, tôi nhìn thấy lửa đã bắt cháy ở đuôi đạn súng cối, những tiếng trái đạn cối của chúng tôi thi nhau nổ sau đó. Ðám thương binh nằm ở nhà sau với toán chúng tôi được các bạn khác lôi nhanh qua lỗ tường sang nhà khác. Lúc đó bọn tôi coi chẳng giống con giáp nào, mình khoác áo giáp, mặc quần xà lỏn chân đi dép vì buổi trưa nóng, vớt cái nón sắt móc vội lên đầu tôi phóng sang nhà bên cạnh giật máy bơm nước. Con nhà Khỏe giúp tôi liên lạc vô tuyến báo cáo về Bộ Chỉ Huy. Tay cầm ống nước tôi cố thu người bên này tường chỉ chừa cái nón sắt và đôi mắt trên đầu tường để chữa cháy, những trái đạn bung nổ nhưng chỉ nổ ở phần thuốc bồi chính trong đuôi đạn nhưng cũng đã cho tôi cái cảm giác thế nào là dựng tóc gáy, ai nào biết được những trái đạn vô tình ấy sẽ nổ ở phần nào. Việt Cộng chắc đang đắc chí khi nghe những tiếng nổ phụ và khói bốc lên ngùn ngụt từ hầm đạn chúng tôi. Sau khi chữa đám cháy xong, một cảnh thương tâm mà tôi chẳng bao giờ quên được. Tôi ra hầm súng để thu thập sự thiệt hại vừa qua, một con chó trắng vá đen đang ư ử rên rỉ nhìn tôi xin cầu cứu, đôi mắt của con vật đã nói lên tất cả sự van xin giúp đỡ, hai chân trước gẫy lìa xương lòi ra ngoài, mỗi lần cố đứng là một lần té quỵ xuống. Tôi chạy xuống bồng nó lên tay vỗ về, nó nằm yên trên đôi tay tôi rên khe khẽ, tôi đem vào khu nhà có nhiều dân ở trong đó để kiếm chủ nhưng không ai biết tông tích của nó. Con chó vào hầm súng của chúng tôi để ăn phần thịt hộp bạn nào ăn dở dang còn để lại trong ấy. Anh Tụng sau khi xem xét vết thương cho nó và lắc đầu, anh nói cho nó một phát đạn để nó khỏi bị đau đớn nữa. Tôi không đủ can đảm để kết liễu đời sống con chó đáng thương ấy khi ánh mắt nó đã in sâu đậm trong lòng tôi. Tôi quay trở lại hầm súng cối để dọn dẹp, sau lưng một tiếng súng nổ. Tôi bỏ luôn bữa cơm chiều hôm ấy.

    Việc tải đạn súng cối cũng có nhiều chuyện nguy hiểm lý thú. Những viên đạn tôi bắn đi là mồ hôi nước mắt nhọc nhằn của toán tải đạn, đồng đội từ các Ðại Ðội trong Liên Ðoàn thay phiên nhau lên sân vận động (bãi thả dù tiếp tế) vác đạn về chất trong hầm súng của toán tôi. Mỗi khi có dù tiếp tế họ đã chịu nguy hiểm để lặn lội duới mưa pháo trên con đường dài gần hai cây số, lên xuống hai ba chuyến trong ngày. Nằm lâu một chỗ tôi đâm ra cuồng cẳng, ngoài giờ canh gác hay tác xạ, tôi, Khỏe, Lễ hay lên khu vực của Ðại Úy Sơn chơi. Qua khu bến xe lam ba bánh, Trung Sĩ 1 Khỏe nẩy ra ý định lấy một chiếc đem về cho toán tải đạn, xe phần nhiều bánh bị bể vì miểng pháo, có một chiếc vỏ xe còn nguyên vẹn, đạp máy thử thấy nổ ngon lành. Sau khi dọn sơ những chướng ngại để chạy xe ra, ngồi trước tay lái tôi rồ mạnh ga chờ hai thằng bạn lên xe thì một ông Trung Úy Bộ Binh án ngay trước mặt:

    - Ê! Ăn cắp xe hả ?
    - Không, tôi lấy xe về cho toán tải đạn súng cối của Liên Ðoàn 81. Tôi trả lời ông Trung Úy.
    - Ðây là xe của dân thuộc khu trách nhiệm của tôi, anh không được quyền lấy với bất cứ lý do gì.
    - Lúc này là tiêu thổ kháng chiến Trung Úy biết không ? Tôi không lấy cái xe này để làm của riêng mà là công ích chung. Nhà cửa đổ nát, người dân chết lên chết xuống bản thân Trung Úy còn chưa biết ngày nào về thì xá gì chiếc xe này. Tôi la lớn.
    - ÐM. Anh không được quyền lấy xe của dân. Anh lấy xe tôi bắn! viên Trung Úy la lớn lại.
    Lúc này thì máu nóng trong người tôi sôi lên, tôi nhẩy xuống ra khỏi xe đứng trước mặt người sĩ quan bộ binh đó và nói như thét lên:
    - ÐM. Ngon ông bắn tôi đi, nói cho ông biết tôi nể cấp bậc của ông chứ không sợ ông đâu. Ðạn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phát cho ông để bắn Việt Cộng chứ hù tôi làm gì? ÐM. Ông không hiểu bốn chữ tiêu thổ kháng chiến mà mang lon Trung úy thì nhục nhã quá. Chúng tôi sẽ có người đến trưng dụng chiếc xe lam này.

    Tôi giận dữ bước nhanh về phía khu vực của chúng tôi. Trên đường về bọn tôi gặp Ðại Úy Mai tôi vội trình bày cớ sự.
    - Ðể tao qua đó. Ðại Úy Mai trả lời. Sau khi Ðại Úy Mai đi, khoảng 15 phút sau, chiếc xe lam chạy về đậu trước khu phố toán chúng tôi. Gặp tôi, ông cười hỏi:

    - “ÐM. Mày nói gì nó mà nó nói thằng em của Ðại Úy lỗ mãng quá nên tui không giao xe?” À ra ông Trung Úy Bộ Binh ghét cái bản mặt và thái độ khiếm nhã của tôi nên chơi tôi cho bõ ghét. Anh Trung Úy bộ binh ơi! Nếu anh còn sống và đọc được những giòng này xin anh nhận nơi đây lời xin lỗi Chân Thành của tôi về thái độ lỗ mãng ngày hôm ấy.

    Trung Sĩ 1 Khỏe lúc này đã làm trưởng nhóm tiếp tế đạn dược và lương thực cho Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Nhờ có chiếc xe lam 3 bánh đó mà tôi hay theo con nhà Khỏe lên khu sân vận động tải đạn và dịp đó tôi gặp được Trung Sĩ 1 Hùng bạn cùng khóa ở Ðồng Ðế năm 69. Gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, Hùng lúc này làm trong ban 4 Tiếp Liệu ở Tiểu Khu Bình Long, gặp tôi nó chuồi nhanh cho một cây thuốc quân tiếp vụ thơm, hạnh phúc quá trời ơi! Những ngày qua bọn thằng ghiền thuốc lá như tôi đã lấy giấy báo cũ vê thuốc cẩm lệ còn sót lại trong các tiệm tạp hoá để hút cho đã cơn ghiền, dù những bánh thuốc rê, thuốc xỉa được chúng tôi ngâm nước cho bớt nặng, sau đó lại sao trên chảo cho khô phun rượu và mật ong để tăng thêm hương vị, nhưng mỗi khi hút vào là một lần khé cổ. Số phận chiếc xe lam ba bánh chạy trên lộ trình chông gai đó cũng chẳng được lâu. Mỗi lần chạy qua con dốc gần khu bệnh viện là mỗi lần Việt Cộng cố bắn vào chiếc xe cà khổ đó, một phần trên mặt đường đầy các chướng ngại vật, một phần Việt Cộng trên cao ốc khu phố hướng Ðông bắn vào, chiếc xe chở đạn nặng nề nhưng nhờ xuống dốc nên tốc độ cũng khá nhanh dần. Tóc! Tóc! Tóc! Tóc! Tiếng đạn AK trúng phần dưới ghế toé lửa, hộp số bị bể chiếc xe khục khặc giật lên giật xuống, Khỏe tay trái bóp bộ phận nhả số cho trớn chiếc xe chạy hết con dốc sau đó lủi xe vào gần bên bức tường của ngôi nhà. Máy xe còn nổ nhưng hộp số không còn sử dụng được. Bọn tôi bỏ lại chiếc xe về gọi đồng đội lên khiêng đạn về. Sau đó một thương gia trong khu phố đã tặng cho chúng tôi một chiếc xe LaDaLat mới tinh để thay thế chiếc xe lam ba bánh đó, chúng tôi cám ơn và o bế chiếc xe này rất kỹ, chúng tôi dọn một căn nhà có cửa sắt để đậu xe trong đó. Trung Sĩ 1 Khỏe chạy xe mới thích lắm vì tốc độ nhanh và dễ điều khiển nhưng số phận của chiếc xe này cũng không sống lâu hơn xe lam ba bánh là bao lâu. Trung Sĩ 1 Phương một hôm lấy xe đi tải lương khô và hỏi tôi muốn lên Tiểu Khu Bình Long không. Tôi đáp không vì đang cùng con nhà Lễ lên Ðại Ðội 2 thăm anh Sơn. Trên đường về qua nhà xe chưa thấy xe đậu trong đó tôi hơi lấy làm lạ vì thời gian đi lấy lương thực hay đạn dược thường không hơn một giờ rưỡi. Tôi và Lễ đi dọc xuống khu Trung Ðoàn 8 thì gặp Trung Sĩ 1 Phương đang lội bộ về. Tôi hỏi:

    - Xe đâu?
    - Hả?
    - Xe đâu? Tôi hỏi lại.
    - Hả? Thượng Sĩ 1 Phương đưa khuôn mặt lại gần mặt như không hiểu câu tôi hỏi. Tôi tưởng Thượng Sĩ 1 Phương đang đùa với tôi khiến tôi nổi cáu :
    - Xe đâu?
    - Pháo banh rồi.

    Phương trả lời và ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi theo. Nhìn Trung Sĩ 1 Phương không bị thương dáng đi còn nhanh nhẹn tôi cũng mừng thay cho anh nhưng một bên tai đã bị điếc vì đạn nổ quá gần. Giữa con dốc cách không xa lắm với cái xe lam là chiếc LaDaLat nằm lật nghiêng bên phía tài xế, những thùng lương khô lăn đổ trên đường. Bên kia hông xe mang đầy lỗ thủng của đạn pháo, nhìn chiếc xe bằng sắt nằm chỏng gọng tôi đã không biết ơn trên nào đã che chở cho anh Phương trong quả đạn nổ ngay cạnh chiếc xe lúc ấy. Hết xe chở đạn các chiến sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dùi kiếm xe ba gác nhồi giẻ cứng vào vỏ bánh để sử dụng cho các chuyến tải đạn súng cối sau này.
    Giữa các Ðại Ðội của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Việt Cộng mà giới tuyến cách nhau chỉ có một con đường, bắn sẻ, bắn tỉa, dùng súng cối để bắn vào đơn vị Việt Cộng bên kia đường. Chúng tôi đã chiến dấu trong cái cảnh đó nhiều tuần lễ sau này cho đến nửa đêm 11 tháng 05. Ðịch quân pháo như mưa bấc vào thành phố từ nửa đêm cho đến 4 giờ sáng khoảng 8,000 quả đại bác, nhịp độ khoảng 5 giây cho mỗi trái, chúng pháo cho chúng tôi không ngóc đầu dậy được để chuyển quân, đạn đại bác nổ vang rền chát chúa trong khu phố. Cách tôi hai căn phố khu nhà dân chúng trúng một quả pháo, có tiếng khóc la của các em nhỏ vì sợ hãi khi thấy người bị thương, sau này tôi nghe nói cô Pha bị thương trong đêm đó nhưng điều này tôi không dám khẳng định vì chỉ nghe nói lại thôi. Hình như còn bao nhiêu pháo địch bắn hết đêm nay hay sao mà tôi đã nghe có những quả đạn không ngòi nổ rơi xuống mặt đất rồi dội văng lên trúng vào tường nhà đập bể cả khối bê tông. Ðến 4 giờ rưỡi sáng tự nhiên tiếng pháo im bặt, sự yên lặng bao trùm ghê sợ, mùi thuốc đạn đại bác còn bay khét lẹt. Lại chiến thuật tiền pháo hậu xung, chúng tôi ngồi chong mắt chờ cuộc xung phong của con cháu bác Hồ. Ðến 5 giờ sáng Việt Cộng bắt đầu pháo lại như mưa, sau đó thêm vài phút chúng bắt đầu tấn công từ mọi mặt, nhưng trục tiến quân chính từ Bắc xuống Nam bên khu vực hướng Ðông do hai Ðại Ðội 3 và 4 của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trấn đóng. Từ hướng Tây, địch chọc thẳng vào phòng tuyến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Ðạn giao tranh nghe ác liệt, những phi vụ B52 thả bom chỉ còn cách thành phố khoảng một cây số rưỡi, trong ngày hôm ấy 30 phi vụ B52 thả quanh thành phố ì ầm vang dội, trên bầu trời lúc nào cũng có 2 phi tuần F-4 hay A37 với những quả bom hạng nặng và bom bi chống tấn công biển người (bom bi là hàng trăm trái bom nhỏ lớn hơn quả bida một chút và sơn đủ màu trông rất đẹp mắt nhưng công dụng của màu sắc là để đánh dấu thời gian ngòi nổ cháy, những quả bom nhỏ này được dồn vào một quả bom lớn, khi quả bom lớn nổ mới tung ra hàng trăm quả bom nhỏ đó trên diện tích rộng lớn rồi mới thi nhau nổ như pháo Tết). Việt Cộng gặp sức kháng cự dũng mãnh của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và phi pháo đành phải rút lui để bổ sung quân số. Cũng trong ngày hôm ấy hai máy bay trực thăng Cobra và hai phi cơ quan sát O-2 bị hoả tiễn tầm nhiệt SA-7 bắn rơi bên phía Tây của phòng tuyến Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Ðịch đang đào công sự chiến đấu bên kia rừng, các Ðại Ðội của 81 Biệt Cách Nhảy Dù theo dõi được nên Ðại Úy Huggins cho biết 3 tiếng đồng hồ nữa sẽ có 2 pass B52 thả vào khu vực đó. Khu vực thả bom chỉ cách tuyến phòng thủ của các toán Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù 600 mét và cách Bộ Chỉ Huy chúng tôi đang đóng là 800 mét. Ðến giờ B52 trên vùng oanh kích, chúng tôi được Ðại Úy Huggins cho biết còn 5 phút nữa bom sẽ thả. Sau tiếng “NOW” từ máy PRC25 chúng tôi nghe tiếng bom cắt gió “viêuu viêuu viêuu viêuu” từ trên không rơi xuống, tôi vội nằm xấp người, hai tay bịt chặt vào lỗ tai, cùi chỏ chống xuống, giữ ngực cho hỗng khỏi mặt đất, tránh sức rung. Tiếng bom nổ gần làm rung chuyển nhà cửa, mặt đất rung động dữ dội, không khí bị sức ép làm tôi khó thở, tôi không còn biết là hai phi vụ ấy đã xong chưa vì người còn như chưa tỉnh hẳn. Thành phố tối sầm lại vì đám bụi mù dầy đặc đang bay cao dần và che lấp ánh mặt trời. Những người dân trong khu vực chúng tôi cũng được chỉ cách bảo toàn thân thể khi B52 thả bom gần, nhưng có nhiều trẻ nhỏ cũng bị máu rỉ ra từ tai và mũi.

    Ðêm 12/05 địch lại tấn công nhưng lần này yếu ớt và rời rạc, quân số của các công trường 5, 7, 9 đã thiệt hại quá nặng nề. Nhất là vào đêm 11/05 một trung đoàn của Việt Cộng đã hứng chính đạn pháo của pháo binh họ. Một binh sĩ Ðại Ðội 3 ở tuyến đầu kể cho tôi nghe: “Tụi nó đông như kiến, tiến lên thì gặp hàng rào kẽm bị tụi mình bắn nên tụi nó rút lui để chuẩn bị Bangalore phá rào, chiến xa càn qua khỏi hàng rào thì bị M72 rang ngay tại chỗ. Cùng lúc đó tụi nó lãnh trái pháo ngay toán quân, không may cho tụi nó là thằng sĩ quan đề lô và thằng mang máy truyền tin chết, một thằng Việt Cộng khác chạy lại chụp máy truyền tin chửi: “Ðịt mẹ các anh pháo lộn rồi, ngưng pháo ngay, ngưng pháo ngay”, nhưng khi toán pháo binh Việt Cộng hỏi mật mã để xác nhận thì thằng Việt Cộng này không biết. Chúng tưởng bọn mình vô được tần số của chúng để gọi ngưng pháo, chúng tưởng đã trúng mục tiêu nên lại càng pháo dữ dội hơn, khi không mà chúng ta “bất chiến tự nên thành”.

    Cũng trong đêm ấy tôi rời khẩu súng cối đã hết đạn để trở về gác bên khu bệnh xá của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, phiên gác 4 tiếng đồng hồ của tôi dài lê thê. Quân số bất khiển dụng càng nhiều thì giờ gác cũng tăng lên, sĩ quan cấp Trung Úy cũng lãnh 4 chỉ hay 2 chỉ gác như ai. Trong tiếng đạn nổ tơi bời, tôi ngồi dựa lưng vào thành bao cát trong phiên gác đêm. Nhưng làm sao tôi ngăn được giòng lệ tuôn rơi, khi nghe tiếng rên xiết đau đớn của một thương binh rất trẻ từ tuyến đầu đưa về.

    “Bố ơi, mẹ ơi, các em ơi chắc con không về được để gặp bố mẹ, con đau đớn quá, con nhớ bố mẹ quá. Ôi đau đớn quá”. Mười phút sau lại tiếng người thương binh: “Chúa ơi ! Con biết hôm nay Chúa gọi con về, con đã làm gì nên tội mà Chúa cho con sự đau đớn khôn cùng này. Chúa ơi, xin Chúa cứu vớt linh hồn con”.

    Có tiếng lục đục trong khu bệnh xá và tiếng hỏi khẽ của Thượng Sĩ Tụng: “Morphine đâu?” Sau đó tôi không còn nghe tiếng rên của người thương binh. Tôi ngồi suy nghĩ miên man đến gia đình ở Ðà Lạt và người yêu ở Sài Gòn. Chuyến đi vào An Lộc quá đột ngột, tôi không có thì giờ để viết thư ngắn ngủi để gửi về cho những người thân yêu đó. Tôi cũng như người thương binh trẻ kia đều có nơi chốn để về, để vui mừng xum họp, để hàn huyên tâm sự sau mỗi chuyến hành quân hay những ngày nghỉ phép. Nỗi nhớ nhung người yêu quay quắt trong lòng, chồng thư tôi viết cho người yêu, cho gia đình mỗi ngày mỗi dầy thêm trong ba lô. Những lá thư gói ghém thương yêu, kể chuyện vui buồn đời lính, những suy tưởng vụn vặt, đã không có phương tiện gửi về trong hai tháng đó. Người yêu và gia đình tôi giờ này chắc đang ngủ say trong giấc điệp, họ có biết đâu tôi đang ngồi ôm súng gác giặc mà giòng lệ tuôn tràn cho thân phận người thương binh trẻ ấy. Tiếng kêu thương nhớ gia đình trong cơn đau đớn của anh có ai nghe, ngoại trừ tôi. Tôi không biết gia đình anh ở đâu? người yêu của anh thế nào? Họ có biết ý nghĩ trong tim óc anh và có nghe những lời thương nhớ của anh vào lúc 4 giờ sáng ngày 12/05/1972 ở An Lộc không? Một giờ đồng hồ sau tôi lại nghe tiếng người thương binh:

    - “Thượng Sĩ Tụng ơi? Thượng Sĩ Tụng ơi? Ðỡ tôi dậy cho tôi đi đái”. Giọng nói của người thương binh nghe rất rõ và bình thường chứ không còn đau đớn nữa. Có tiếng chân người xê dịch chậm trong bệnh xá trong vòng năm bẩy phút.
    - Cám ơn Thượng Sĩ. Tiếng người thương binh.
    Mãn phiên gác tôi trở vào Bộ Chỉ Huy và ngủ vùi. 7 giờ sáng gặp anh Tụng tôi hỏi ngay về số phận người thương binh ấy.
    - Chết rồi.
    - Bốn giờ sáng còn gọi anh đưa đi đái mà. Tôi hỏi.
    - Sau khi đi đái trở về chỗ nằm cũng là lúc anh ấy chết… Vết thương ở bụng quá nặng….
    - !!!!!!!!!!!!!

    Những chuyện đau thương, vui buồn, chuyện dùng mưu trí để đánh nhau với Việt Cộng ở trong An Lộc đã có quá nhiều trong tâm khảm người lính chúng tôi, mỗi ngày, mỗi đêm, mỗi giờ là tim óc chúng tôi lại in thêm những sự kiện mới. Cuộc chiến thật buồn cười, trong lúc những người lính Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Việt Cộng đã sống trong cùng căn phố, chúng tôi chẳng phải đi tìm địch ở đâu xa, mỗi khi thức dậy sau giấc ngủ là có thể đi rình mò tỉa địch được rồi. Cơm gạo xấy và thức ăn đóng hộp ăn mãi cũng chán, đã có một vài người bạn bị phù thủng. Chúng tôi thèm rau một cách kinh khủng, những cây chuối sau vườn nhà đã được cắt sát gốc, lõi được xắt ra để làm nộm trộn chung với thịt hộp, ôi cái món nộm mộc mạc nhưng ngon vô cùng. Khoảng 5 hay 7 ngày sau chúng tôi lại được ăn món này nhờ những chồi chuối non mọc lại. Có những người dân liều mạng ra các bờ mương, ruộng cạnh khu phố hướng Tây để hái rau, họ quơ cào cắt vội cho vào những thúng mang về. Họ cho tổ súng cối chúng tôi một ôm rau muống, hạnh phúc hay thiên đường ở đâu tôi chưa biết, nhưng bó rau muống ấy đã cho chúng tôi những bữa cơm thịnh soạn nhất trần đời. Chỉ ngắt đi những chiếc lá bị úng, cái cuống và lá hơi vàng cũng cho vào chảo xào luôn. Tôi đã sợ thịt heo vào những ngày đầu trong chiến trận, khi nhìn thấy những con heo không chủ xổng chuồng đang tạp tạp cái đùi một tên Việt Cộng chết đã chương sình, làm tôi thấy lợm giọng. Vài ngày sau mấy tay thợ nhậu trong toán truyền tin đem về nguyên cái đầu heo luộc để nhâm nhi, nhìn lại cái đầu heo luộc, nhớ đến con heo bữa đó, tôi gắp các món ăn khác cho chắc ăn …

    Ngày 12/05 địch vẫn pháo cầm chừng khoảng 2,000 trái mỗi ngày vào An Lộc và sau đó thưa dần. Sau ngày 16/05 các phi vụ B52 và phi pháo truy kích địch đã xa hơn ngoài thành phố. Ngày 29/04 từ phía Nam quốc lộ 13, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh đã tiến đến Chơn Thành và hai tuần sau đó các đơn vị bạn đã bứng chốt, kiềng của Công Trường 7 và vượt qua khỏi Chơn Thành hơn 8 cây số về hướng An Lộc. Tại quốc lộ 13 Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đã bọc hậu vào Công Trường 7 Việt Cộng để cùng Sư Ðoàn 21 Bộ Binh dùng thế gọng kìm.

    Ngày 16/05 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh đã tiến đến Tân Khai, các đơn vị tăng phái còn cách An Lộc 10 cây số. Ngày 08/06 các đơn vị trong An Lộc tấn công vào khu phố Việt Cộng chiếm, chúng chém vè về các khu bìa rừng ở hướng Tây và Bắc. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đã anh dũng cắm quốc kỳ thân yêu trên ngọn đồi Ðồng Long.

    Tin từ hậu phương cho biết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tất cả những quân nhân tử thủ ở An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp đã làm cho những người lính đang chiến đấu ở An Lộc ngạc nhiên và phấn khởi. Trung Úy Cao Văn Cát, người pháo binh tăng phái cho Liên Ðoàn, đã dậy tôi vài ngón đàn guitar classic khi cuộc chiến ở đó đã tạm lắng dịu. Mỗi khi gặp tôi, Trung Úy Cát thường nói đùa:

    - Mày còn trẻ quá mà đeo lon Thượng Sĩ coi chừng bị Quân cảnh bắt đó, ai mà tin được.
    - Thôi đi ông nội. Cố Thượng Sĩ thì có. Tôi đùa lại. Tôi chợt buồn cười khi nghĩ đến hình ảnh một ông Thượng Sĩ thường là già tuổi đời trong binh nghiệp, một ông Thượng Sĩ ở hậu cứ ngày ngày đạp xe đạp từ khu gia binh vào doanh trại tập họp, bên hông đeo cái bi đông đựng đầy rượu đế với sợi giây thắt lưng TAB to bản, hình ảnh ông Thượng Sĩ lè phè đó làm tôi thối chí, không còn muốn nghĩ đến cái lon Thượng Sĩ nữa.

    An Lộc đã trải qua những ngày u ám, những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt trắng xanh của nguời dân vì thiếu nắng. Nỗi vui mừng hân hoan đến khắp nơi, dân chúng đã túa ra đường lên những khu nhà cũ hỏi thăm nhau. Những giọt nước mắt vì vui mừng vì tang thương lẫn lộn. Những người bị thương trong thành phố An Lộc không phân biệt dân hay lính đã được trực thăng tải thương về Lai Khê vào lúc này.Thật tội nghiệp cho những người thương tật ấy, có những vết thương sơ sài nhưng vì tình trạng thiếu thuốc men, vệ sinh mà vết thương đã có dòi bọ lúc nhúc. Mỗi chuyến trực thăng tản thương là nỗi vui mừng của người dân người lính bị thương và cũng là hạnh phúc tuyệt vời của những người lính còn ôm súng trong thành phố, những lá thư, thùng quà từ hậu phương được tới tấp gửi đến, chúng tôi thật sự đã nối liền liên lạc với đời sống bên ngoài.

    Mỗi lần gặp TS1 Khỏe từ khu tiếp vận về là tôi hỏi:
    - Có thư không mày?
    - Chuyến này chưa có.

    Rồi sự nôn nóng mong đợi thư từ trong lòng mọi người cuối cùng rồi cũng đến. Nhìn những thùng giấy dán kín bên ngoài có chữ Ðại Ðội 1, Ðại Ðội 2, Bộ Chỉ Huy… Lệnh Trung Tá Huấn gọi các Ðại Ðội cử quân nhân đại diện lên lấy thơ. Tôi từ bên tổ súng cối thót nhanh về Bộ Chỉ Huy. Ðây cũng là phút giây khổ sở nhất nhưng cũng là vui nhất trong những ngày ở An Lộc. Trung Sĩ 1 Khỏe rút dao đi rừng giọc thùng thư và bắt đầu phân phát, nó đọc to tên những người nhận:

    - Hạ Sĩ Nguyễn Văn Sấy
    - Ðại Úy Trần Văn Thọ
    …………………………………………
    Có một xấp thư hơi dầy Khỏe nhíu mày xong nó kẹp bên nách nói “thơ của Ðại Ðội 2 bỏ lộn thùng”. Sấp thơ trên tay nó vơi dần, tôi hồi hộp, chơi vơi hụt hẫng. Sao không có tên tôi? Lá thư sau cùng được trao đi thế là hy vọng tôi tan thành mây khói. Nhìn nét mặt chảy dài thiểu não của tôi thằng Khỏe lấy xấp thư kẹp ở nách ra và dõng dạc đọc:

    - Thân gửi chiến binh đa tình Ðỗ Ðức Thịnh. Tim tôi thót lại, thư của người yêu tôi. Tôi mừng rỡ phóng tới nhưng Khỏe xô tôi ra, tay phải cầm xấp thư đưa cao lên. Nó nhìn tôi vừa cười vừa nói cái giọng của người Phan Rang:
    “Hay, ỏng cooi! ÐM, Thuốc lá đâu? phải dâng rồi mới có thư chớ hehehehe”. Móc gói thuốc quăng cho nó nhưng thằng con chỉ móc một điếu rối bắt tôi phải đi mời hết tất cả mọi người trong Bộ Chỉ Huy. Tôi khổ sở vừa đi mời thuốc mà lòng thì nôn nóng, sau khi mời hết xong thì nó tỉnh bơ ra lệnh cho tôi:
    - Ngồi đó hút thuốc đi chú em để tao đọc thư em mày cho.
    - ÐM. Ðưa thư đây cho tao. Tôi vừa nói vừa cố giằng thư nhưng nó né tránh rất tài tình. Cả Bộ Chỉ Huy theo dõi hai thằng từ những giây phút qua, coi bộ ai cũng nghiêng về phe con nhà Khỏe. Ðại Úy Thọ ngôn cái giọng Bắc Kỳ nhừa nhựa:
    - Ậ y y ! Làm gì mà nóng, để thằng Khỏe nó đọc cho nghe, chiến binh đa tình ngoài phong bì thì nội dung cái thư hấp dẫn đây, chuyện tình love story đến chương 9 rồi đấy.

    Thằng Khỏe được nước bèn tỉnh bơ xé bức thư của người yêu tôi ra đọc:

    - “Sài Gòn ngày … tháng … năm 1972.” Chữ anh yêu được con nhà Khỏe đọc – Anh yếu xìu, thuốc tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn đâu hay súng cối anh hết đạn? Ủa, mà không phải ờ Anh Yêu, anh yêu đó nghen … cả Bộ Chỉ Huy cười ran, thằng Khỏe được thể pha trò :
    - ÐM. Thư em mày viết chữ gì khó hiểu quá, thôi để tao phụ đề Việt ngữ cho tiện việc sổ sách. Nhìn thằng Khỏe nham nhở đọc thư người yêu tôi cho mọi người trong Bộ Chỉ Huy nghe mà tôi đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Nó chế biến thêm thắt, giảng giải, thêm vào đó mấy ông thần trong Bộ Chỉ Huy góp lời phụ hoạ làm cho mọi người cười nghiêng ngả. Tôi cũng hoang mang không biết nó thêm thắt chỗ nào nữa, đọc xong cái lá thư cuối nó ném xấp thư về phía tôi xong cười ngạo nghễ và biến mầt qua lỗ tường nhà. Tôi nhặt xấp thư và vọt nhanh về bên tổ súng cối. Lúc này tôi có đủ sự yên lặng để đọc những giòng thư thương mến.

    GIÃ TỪ AN LỘC

    Buổi sáng sớm ngày 24/06/1972 Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh triệt xuất khỏi An Lộc, đơn vị tập họp ở trước nghĩa trang Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Phía sau đoàn quân Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là những người dân trong khu phố chúng tôi trấn thủ vào những ngày qua. Trước hàng quân Trung Tá Huấn cám ơn tất cả các đơn vị, dân quân đã sát cánh chiến đấu cho Thị Xã vào những ngày qua và sau đó là một phút mặc niệm cho anh linh tử sĩ của những người vị quốc vong thân. Chúng tôi lặng lẽ rời thành phố An Lộc bỏ lại sau lưng những ánh mắt đầy nhân ái. Tâm tư tôi lúc ấy thật bùi ngùi luyến tiếc, cái luyến tiếc mênh mông không tả được, sự sống, sự chết, chiến tranh, hy vọng, và thân phận con người…

    Dọc theo quốc lộ 13 xác người dân chết trải dài trên mặt lộ vì đạn pháo của Việt Cộng. Tất cả ai trốn chạy chúng đều bị khép vào tội theo Mỹ Nguỵ. Xác một em bé trai khoảng 10 tuổi nằm giữa mặt lộ, thịt đã rữa đi hết chỉ còn trơ lại lớp da khô đen bóng ôm lấy bộ xương. Em nằm đây đã bao lâu nào ai biết, sương nắng đã phơi khô cái thân hình trông thảm thương đó. Ðôi mắt tuổi thơ chỉ còn hai lỗ sâu hoắm được che ngang bằng da vành mi khô cứng. Em có tội tình gì???

    Ðại úy Thọ ra lệnh cho tôi và Lễ làm hướng dẫn viên cho phi đoàn trực thăng đáp. Tôi trong Toán 1, Lễ Toán 2. Tôi, Lễ chuẩn bị kiếng chiếu và panel để xác định điểm bốc. Toán 1 chuẩn bị lên tầu đã nằm rải hai bên quốc lộ 13, Toán 2 tiếp tục di chuyển. Từ xa tiếng động cơ trực thăng quen thuộc vọng về, tiếng động cơ lớn dần và vang vọng, tôi chạy ra đứng giữa đường phất panel ra hiệu cho đoàn trực thăng giảm dần cao độ để tiến về hướng tôi, nhìn trước kính lái tôi nghiêm chào nhân viên phi hành, xong chạy nhanh vào ẩn mình thấp bên vệ đường. Toán 1 lên tầu một cách nhanh chóng nhưng tôi có cái cảm tưởng như đoàn trực thăng chưa đáp đã bay dài theo quốc lộ 13 xuôi về Nam. Vài quả súng cối 82 ly pháo vào nhưng còn cách chúng tôi khoảng 200 mét. Lúc này tôi và Ðại Úy Thọ lại là cái đuôi của Toán 2 nên lẽo đẽo theo toán chờ cho đến khi trực thăng đến. Trực thăng vận đợt 3, sau khi ra hiệu cho chiếc đầu hover trên quốc lộ, tôi phóng mình ngay xuống hố bom khá sâu giữa đường để tránh pháo. Oành, oành, oành. Từ dưới hố bom ngửa mặt lên trời tôi thấy đoàn trực thăng vút qua nhanh trên hố bom và xa dần. Nhảy ra khỏi hố bom chợt thấy hai quân nhân Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù còn nằm đó, tôi hỏi:

    - Sao chưa lên tầu ?
    - Em bị thương.

    Ðưa bàn tay đầy máu người chiến binh trẻ trả lời, còn người kia nằm bất động. Tôi la lớn: “Gọi Thượng Sĩ Tụng gấp, có lính bị thương”. Người lính bị thương ở đùi không đi được nhưng còn tỉnh táo, người lính thứ hai nằm theo thế nghiêng, anh vẫn còn thở, đôi mắt mở và trong cái nhìn xa vắng vào phía cuối con đường định mệnh, quốc lộ 13, đôi mắt không phải là mất hết tinh anh mà là đôi mắt của sự ngạc nhiên cùng cực. người chiến binh đó chỉ bị một miểng pháo thôi, không một giọt máu chảy từ vết thương. Anh đã bị miểng pháo xuyên từ dưới bệ sườn bên phải xuyên lên tim. Oái oăm thay cái miểng đạn đã đi giữa kẻ hở bên hông cái áo giáp anh đang mặc trên người. Thượng sị Tụng tay bắt mạch nhưng lắc đầu buồn bã. Hai phút sau, Thượng Sĩ Tụng đưa tay vuốt mắt cho người chiến binh chết vào giờ thứ 25 đó. Ðôi mắt của người chiến binh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù khép lại… từ giã An Lộc … Anh đã từ giã An Lộc trong ngày tàn cuộc chiến.

    Toán tôi sau cùng cũng lên trực thăng bay về Lai Khê để rồi từ đó tôi lại cùng đơn vị ra tuyến đầu lửa đạn ở Ðại Lộ Kinh Hoàng, Mỹ Chánh, Thạch Hãn, Cổ Thành … Những địa danh đã đi qua để lại trong tôi quá nhiều kỷ niệm. Ðời quân ngũ không có gì là sung sướng, chúng tôi đã tìm lấy niềm vui trong gian khổ, đã nhẫn nại trước thử thách gian truân, và những éo le cay đắng của đời quân ngũ đã tạo cho tôi lòng thương yêu, mến phục những con người đã một thời được gọi là Lính Việt Nam Cộng Hoà.

    Viết tại Boise, ngày 30 tháng 04 năm 1998.
    Đỗ Đức Thịnh

  4. #10
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Trận An Lộc 93 ngày - So sánh trận ĐIỆN BIÊN PHỦ và trận AN LỘC

    So sánh trận ĐIỆN BIÊN PHỦ và trận AN LỘC - Mục Tiêu Chiến Lược Của Cả Hai Trận Đánh

    Trong suốt 30 năm của cuộc chiến tranh Việt Nam, đã xảy ra hàng ngàn trận đánh lớn nhỏ giữa Quân Đội Viễn Chinh Pháp và lực lượng vũ trang Việt Minh (có sự trợ lực của Quân Đội Trung Cộng), giữa Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và Bộ Đội Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng chỉ có hai trận đánh khốc liệt và gay go nhất, có tầm vóc quyết định có tính cách chiến lược, có ảnh hưởng đến phương diện chính trị, do kết quả “THẮNG” “BẠI” tại chiến trường để giành ưu thế trên bàn hội nghị Genève của trận Điện Biên Phủ xảy ra vào năm 1954, và hội đàm Paris của trận An Lộc xảy ra vào năm 1972.

    A- TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954:

    Trận Điện Biên Phủ được xem như khởi đầu vào ngày 13 tháng 03 năm 1954, sau gần hai tháng tranh hùng giữa Quân Đội Viễn Chinh Pháp và lực lượng Việt Minh, có nhiều đơn vị chuyên môn của Hồng Quân Trung Cộng tiếp sức, được kết thúc vào vào ngày 07 tháng 05 năm 1954, sau 55 ngày ác chiến khi Tướng De Castries của Pháp bị Việt Minh bắt sống, cùng toàn bộ Tham Mưu và gần 12,000 binh sĩ dưới quyền buông súng đầu hàng và bị bắt làm tù binh.



    Địa thế của Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng, nằm về phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc, Bắc Việt, có chiều dài 18 cây số, và chiều rộng từ 6 đến 8 cây số, được xem như là một thung lũng rộng nhất và đông dân cư nhất trong 4 khu vực đồng bằng Tây Bắc, Bắc Việt; nằm sát biên thuỳ Lào Việt, và nằm trên giao lộ của những con đường nối liền: Lai Châu về phía Tây Bắc, Tuần Giao, Sơn La, và Na Sản về phía Đông Nam, Luang Prabang ở phía Tây và Sầm Nứa ở phía Nam.

    Quân Pháp coi Điện Biên Phủ như là một vị trí chiến lược tối quan trọng, nằm giữa Bắc Việt, Thựợng Lào, và Hoa Nam; là một căn cứ có thể dùng làm bàn đạp cho Bộ Binh và Không Quân làm nơi phát xuất binh lực viễn chinh của Pháp tiến qua Lào và các vùng sát biên thùy Hoa Nam (1).

    Căn cứ Điện Biên Phủ, được Đại Tướng Henri Navarre của Pháp thiết lập và củng cố, với mục đích là “dụ” cho quân Việt Minh xuất hiện và tập trung lại đông đủ để tiêu diệt một lần cho xong; để kết thúc những trận đánh lẻ tẻ khác trên toàn vùng lãnh thổ Bắc Việt, vốn làm tiêu hao nhiều sinh lực của Quân Đội Viễn Chinh Pháp lúc bấy giờ. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp của lực lượng Việt Minh cùng một số Tướng Lãnh cao cấp khác của Trung Cộng nằm trong phái bộ CMAG (Chinese Military Advisory Group), do bộ phận chính trị của đảng Cộng Sản Trung Quốc gửi qua Việt Nam để “chỉ đạo” trận chiến. Bộ tham mưu Cộng Đảng đồng tình chấp nhận trận thư hùng, vì sau bao ngày tháng chiến tranh, lực lượng Việt Minh cũng đã quá nhiều mệt mỏi và tổn hao tiềm lực, nhân lúc được Hồng Quân Trung Cộng tiếp sức, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng muốn có một trận đánh có tầm vóc quyết định cho xong, và sự thắng bại của trận chiến, sẽ kéo theo sự chấm dứt chiến tranh Việt Nam sau đó, mà Võ Nguyên Giáp và các Tướng Lãnh Trung Cộng nghĩ rằng “phần thắng” sẽ ngã về phía bên họ, bởi hai lý do:

    a/ Có đoàn chuyên viên “công binh cơ động” đào giao thông hào, các Sư Đoàn quân Chủ Lực của Việt Minh được Trung Cộng trang bị vũ khí mới, được tăng cường cho một Sư Đoàn pháo binh 105 ly nòng ngắn và nhiều quân dụng khác.

    b/ Phong trào “phản chiến” tại nước Pháp đang hồi bùng dậy.

    Phía bên Việt Minh nghĩ rằng, sau khi thắng được trận Điện Biên Phủ, thì Quân Đội Pháp phải rút ra khỏi Việt Nam, và trao hết lãnh thổ Việt Nam cho Việt Minh quản trị từ Bắc tới Nam. Nhưng thực tế, căn cứ vào những điều khoản được ghi trong hiệp định Genève, giữa Pháp và Việt Minh, được ký kết ngày 20 tháng 07 năm 1954, phần Việt Minh chỉ nuốt được có phân nửa lãnh thổ nước Việt Nam mà thôi, cắt ngang qua vĩ tuyến 17 về phía Bắc, ngang qua Thủ Đô Hà Nội đến Ải Nam Quan; còn lại phân nửa từ Sông Bến Hải trở về phía Nam, xuyên qua Cố Đô Huế, đến Sài Gòn tận đến Mũi Cà Mâu, vẫn còn thuộc quyền thể chế Quốc Gia do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng, và còn dự trù phải chờ thêm hai năm nữa mới có cuộc tổng tuyển cử thống nhất giữa hai Miền Nam Bắc. Việc này có sử gia nhận định rằng “Việt Minh thắng được trận Điện Biên Phủ, nhưng lại thua đau ở Hiệp Định Genève”, bởi quan thầy Trung Cộng cố tình “chận họng” đứa học trò Việt Minh, không cho nuốt hết trọn vẹn một lần Nước Việt Nam.

    Về Quân Lực Pháp có mặt tại trận Điện Biên Phủ vào lúc thời đầu trận chiến có 16 Tiểu Đoàn Bộ Binh và 7 Đại Đội biệt lập, khi trận chiến đang tiếp diễn, quân Pháp được tăng cường thêm 5 Tiểu Đoàn quân thiện chiến Nhảy Dù, nâng tổng số quân sĩ lên đến 18.272 chiến sĩ (Pháp, Việt Nam, H’Mông); thêm 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh, đặt tại hai cứ điểm Mường Thanh và Gabrielle; một Chi Đoàn thiết giáp, một đơn vị chuyển vận 200 xe, một Phi Đoàn gồm 14 Chiến Đấu Cơ, thường trực có mặt tại hai phi trường Mường Thanh (chánh), và Isabelle (phụ). Tổng cộng có 21,290 quân sĩ.

    Lực lượng phòng thủ nầy chiếm đóng một vòng lòng chảo bố phòng cẩn mật, gồm một khu trung tâm chỉ huy và 3 khu phụ coi như các Chi Khu bao bọc vây quanh một Tiểu Khu, giống như theo quan niệm bố phòng của Quân Lực Viêt Nam Cộng Hoà sau nầỵ Chi Khu Isabelle trấn giữ trọng điểm phía Nam, Chi Khu Gabrielle trấn giữ căn cứ phía Bắc, Chi Khu Béatrice trấn giữ khu cao thế phía Đông, có thể yểm trợ lẫn nhau, và gồm có tất cả 49 yếu điểm bố phòng, mỗi yếu điểm bố phòng, ngoài lực lượng phòng thủ cơ hữu, còn có nhiều trung tâm kháng cự khác nhau, được bảo vệ bởi những lực lượng lưu động có Pháo Binh yểm trợ khi lâm chiến, những lực lượng lưu động này còn được phòng vệ bằng những giao thông hào, với nhiều vòng kẽm gai và mìn bẫy, khi rút về được biến thành trong tư thế phòng thủ.
    Khu vực mạnh và quan trọng nhất là khu vực Trung Ương (Tiểu Khu), được đặt ngay giữa lòng cứ điểm Muờng Thanh, coi như thủ phủ của toàn thể khu lòng chảo, gồm 2/3 lực lượng phòng thủ của Quân Đội Pháp được tập trung tại khu vực nầy. Có 8 Tiểu Đoàn Bộ Binh và Lính Nhảy Dù (5 Tiểu Đoàn Bộ Binh cơ hữu dùng cho việc trấn thủ vòng đai xung quanh khu Trung Ương và 3 Tiểu Đoàn Quân Nhảy Dù thiện chiến nhất của Quân Lực Pháp lúc bấy giờ, làm lực lượng phản kích lưu động). Xung quanh khu Trung Ương, còn được bảo vệ bằng những ngọn đồi A1, B1, C1, D1, E1, được các Đại Đội Bộ Binh biệt lập bao phòng dầy đặc. Tất cả hệ thống bố phòng của các cứ điểm và yếu điểm đều nằm trong tầm Pháo Binh yểm trợ hổ tương cho nhau, rất là chính xác. Ngoài ra còn có một lực lượng Thiết Giáp cơ động, sẵn sàng xâm nhập tiêu diệt những điểm tập trung quân địch xuất hiện cận kề. Với 2 sân bay Mường Thanh và Isabelle, hàng ngày thực hiện trên 100 chuyến bay, cung cấp từ 200 đến 300 tấn tiếp liệu, hoặc thả dù từ 100 đến 150 tấn hàng tiếp tế đủ loại, cộng thêm các thám thính cơ trinh sát và Phi Đoàn chiến đấu cơ bay thường trực 24/24 tiếng đồng hồ để oanh tạc vào những ổ pháo và phòng không của Việt Minh đặt trong các hang núi hoặc những nơi được ghi nhận có số lượng quan trọng của địch xuất hiện và yểm trợ cho các đơn vị Bộ Binh bên dưới khi có yêu cầu.

    Tóm lại, Tướng Navarre rất tin tưởng nơi các đơn vị thiện chiến của Quân Đội Pháp đang có mặt tại trận địa Điện Biên Phủ, và có quan niệm “chủ quan” là căn cứ nầy không bao giờ bị thất thủ trước lực lượng Việt Minh lúc bấy giờ. Ông không ngờ rằng ngoài 4 Sư Đoàn của lực lượng Việt Minh (Sư Đoàn 316, 358, 308, 312) với vũ khí thô sơ, đã được Trung Cộng tân trang thay thế, Lực Lượng Việt Minh còn nhận được nhiều vũ khí tối tân của Trung Cộng như Đại Bác 75 ly không giật, súng cối 90 ly và 120 ly; thêm 1 Sư Đoàn Pháo Binh nòng ngắn 105 ly (loại nhẹ để dễ bề kéo lên thiết trí trong các hang núi); một đoàn chuyên viên công binh chiến đấu (khoảng 3,000), có máy đào “giao thông hào” tiếp cận đến giáp tuyến phòng ngự của quân trú phòng Pháp, bên cạnh còn có một lực lượng của Hồng Quân Trung Quốc (không rõ số đơn vị) tiếp sức tham chiến.

    Tại chiến trường Điện Biên Phủ, các Tướng Lãnh chỉ đạo Trung Quốc quyết định cho áp dụng chiến thuật “biển người” (bằng xương máu của lính Việt Minh), theo quan điểm “tập trung lực lượng” vào một nơi để tấn công tràn ngập quân Pháp, từng nơi một, tập trung hỏa lực Pháo tối đa, theo chiến thuật ”bịt pháo công đồn”, điều nghiên thật chính xác, chắc ăn mới đánh, không nắm chắc phần thắng không đánh (2).

    Chiếu theo tài liệu, với 18,272 quân sĩ thuộc Quân Đội Liên Hiệp Pháp phải đương đầu với trên 65,000 liên quân của Việt Minh và Trung Cộng, và chỉ trong vòng có 55 ngày thì bị “thất thủ”, vào ngày 07 tháng 05 năm 1954.

    Tổng kết tổn thất đôi bên:

    Quân Liên Hiệp Pháp: 11,716 thương vong: (2,747 tử thương, 7,240 bị thương, 1,729 mất tích) 11,800 bị bắt làm tù binh.
    Ghi Chú: Trong số 11,800 tù binh của Quân Đội Liên Hiệp Pháp, sau hiệp định Genève, (ngày 20 tháng 07 năm 1954) “tù binh” Pháp đã CHẾT mất đến 7,537 chiến sĩ, chỉ còn lại 4,263 chiến sĩ được trao đổi trong tình trạng suy yếu và bệnh tật.
    Liên Quân Việt Minh & Trung Cộng: 13,930 thương vong: (4,020 tử thương, 9,118 bị thương, 792 mất tích).

    B- TRẬN AN LỘC NĂM 1972

    Sau 18 năm từ ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Minh đã chiếm lĩnh toàn bộ lãnh thổ Miền Bắc; đã hình thành chế độ Cộng Sản Miền Bắc, lấy tên Nước là “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, sau 1975 đổi lại “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Các lãnh tụ Miền Bắc lúc nào cũng có tham vọng xâm lăng và thôn tính Miền Nam của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà, điển hình qua trận “Tết Mậu Thân” năm 1968, và “ Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, sau cùng là Tháng Tư Đen năm 1975.

    An Lộc là Thị Trấn của Tỉnh Lỵ Bình Long, được bao bọc bởi 3 Chi Khu = Quận: Quận Lộc Ninh ở phía Bắc, Quận Châu thành An Lộc (Tiểu Khu = Tỉnh) ở trung tâm, Quận Chơn Thành ở phía Nam. Tất cả đều nằm dọc theo Quốc Lộ 13, chạy dài từ phía Bắc giáp giới với nước Cambodia, Nam giáp với Tỉnh Bình Dương, Tây giáp ranh Tỉnh Tây Ninh, Đông giáp ranh Tỉnh Phước Long, Việt Nam Cộng Hòa.
    Thị Trấn An lộc có chiều dài khoảng hơn 2 cây số và chiều ngang khoảng hơn 1 cây số ½. Tính trung bình diện tích vào khoảng 4 cây số vuông. Xung quanh An lộc còn có những cao thế như: Phi Trường Quản Lợi ở phía Đông, Đồi Gió & Đồi 169 phía Tây Nam, Đồi 100 và Đồi Đồng Long ở phía Tây Bắc và chánh Bắc. Đó là nhũng cao điểm bao vây xung quanh Thị Trấn An lộc, Quân Cộng Sản Bắc Việt đã thành công chiếm được những cao thế Chiến Thuật này trong giai đoạn sơ khởi, để khống chế chiến trận, và biến Thị Trấn An Lộc như khu “lòng chảo” (khoảng 30 lần nhỏ hơn khu lòng chảo Điện Biên Phủ).

    Cộng quân xem An Lộc như một vị trí tối quan trọng cho nhu cầu chính trị lẫn quân sự, để ra mắt cái Chính Phủ bù nhìn có tên là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (mà Cộng Sản đặt cho một tên thật kêu là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam). Cộng quân dùng An Lộc làm bàn đạp để tấn chiếm luôn Thủ Đô Sài Gòn của Nước Việt Nam Cộng Hoà, nhất là giành ưu thế trên bàn hội nghị Paris năm 1972, đang hồi kết thúc.

    Phía Việt Nam Cộng Hoà xem An Lộc như là một vị trí chiến lược quan trọng, vì chỉ cách Thủ Đô Sài Gòn có 98 cây số về phía Bắc. Nếu An Lộc bị thất thủ, thì chỉ trong vài giờ đồng hồ sau là chiến xa và bộ binh quân Cộng Sản sẽ chiếm cứ Thủ Đô Sài Gòn, và kết thúc luôn trận chiến giữa hai phe Quốc Cộng. Vì vậy bằng mọi giá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải chận đứng địch quân ngay trước cửa ngõ Thủ Đô, để phá vỡ mưu đồ xâm lược của Cộng Sản phương Bắc.




    Tỉnh Bình Long (Thị trấn An Lộc) là một Tỉnh hành chánh, không phải là một căn cứ Quân Sự hay một đồn lũy kiên cố, có tầm vóc chống đỡ được mọi cuộc tấn công quy mô (cấp Quân Đoàn) như Điện Biên Phủ. Trong toàn Tỉnh chỉ có hai hầm có thể nói là khá vững chắc, chịu nổi sức công phá của pháo binh địch, đó là hầm chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (Trại Đỗ Cao Trí) và hầm của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, còn vòng đai xung quanh thành phố thì chưa có một giao thông hào hay hầm hố nào hết. Tất cả đều có, là sau khi các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà biết được quân địch chọn yếu điểm An Lộc làm nơi thư hùng sinh tử của binh lực đôi bên. Có thể nói An Lộc là mục tiêu do phía quân Cộng Sản Bắc Việt chọn lựa để tấn chiếm, còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị bắt buộc phải chấp nhận trận quyết chiến. Tất cả Quân Dân Tỉnh Bình Long đồng quyết tâm chiến đấu trong tư thế nhiều yếu kém (quân số ít, không pháo, không chiến xa, không đủ đạn dược và lương thực nuôi lính, nuôi dân v.v…).

    Cộng quân quyết định mở cuộc tổng công kích vào Mùa Hè năm 1972, được chọn lựa vào lúc khi biết chắc Quân Lực Đồng Minh của Việt Nam Cộng Hoà phải rút đi hết, theo cái gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Vào thời điểm đó, tất cả các đơn vị Bộ Binh Hoa kỳ và các nước Đồng Minh đều rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam, chỉ còn chừa lại một số các toán Cố Vấn Mỹ cho các đơn vị “cấp Trung Đoàn” trở lên, và một lực lượng Không Quân tối tân và hùng hậu: các pháo đài bay B.52, các C.130 trang bị đại bác 105 ly được điều khiển bằng Radar, các phản lực cơ Phantom, các trực thăng võ trang Cobr v.v…

    Quân số của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà hiện diện vào thời điểm cao nhất:

    a. Quân số đang phòng thủ tại Thị Trấn có 15 Tiểu Đoàn kể cả Địa Phương Quân, khoảng 7,600 chiến sĩ.
    b. Quân tăng viện 12,100 (3)

    Tại mặt trận An Lộc không có lực lượng trừ bị (cấp Trung Đoàn), để dùng cho nỗ lực “phản kích” như Điện Biên Phủ, vì quân trú phòng quá ít so với lực lượng tấn công. Tuy nhiên, trong đợt tấn công lần thứ 4 vào đêm 10 tháng 05 năm 1972, Công Trường 9 quân Cộng Sản Bắc Việt chủ động đã đánh xuyên thủng được tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 7 (-) thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và đang trên đà tiến gần sát đến Bộ Chỉ Huy đầu não Chỉ Huy Mặt Trận, Tướng Hưng liền cấp tốc điều động được một lực lượng 3 Tiểu Đoàn, đang trấn thủ trên các tuyến phía Nam, Đông, về kịp lúc, chận đứng được mũi dùi “tấn kích” của địch quân vào lúc ban đêm… và khi trời vừa hừng sáng, liên hoàn đồng loạt “phản kích” đẩy lui các đơn vị Bộ Binh cũng như chiến xa địch ra khỏi vòng đai (tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 7 khi trước).

    Cùng với tư tưởng chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp: Điều nghiên thật kỹ, thấy chắc ăn mới đánh, chuẩn bị chưa xong thì không nên đánh, mà Tướng Trần Văn Trà bỏ mất cơ hội chiến thắng trận An Lộc, mặc dù Tướng Trà được Sở Chỉ Huy Chỉ Đạo Chiến Dịch Miền, cắt cử Tướng Hoàng Cầm (Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch) trực tiếp đến hối thúc, nên tiếp tục tấn công thẳng vào An Lộc ngay sau khi chiếm Lộc Ninh (07-04-72). Thật sự, nếu trong vòng từ ngày 07 tháng 04 năm 1972 đến ngày 11 tháng 04 năm 1972, khi Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà chưa được đổ quân vào tăng viện cho An Lộc để án ngữ phòng thủ tuyến phía Bắc, thì với lực lượng rải mỏng cấp Tiểu Đoàn của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, trong tay lại không có loại vũ khí M.72 chống chiến xa, chắc rằng đã bị lực lượng cấp 2 Trung Đoàn quân bộ chiến của Công Trường 5 Cộng sản Bắc Việt, có thêm 1 Tiểu Đoàn Chiến xa tối tân trợ chiến đã đánh xuyên thủng và An Lộc bị thất thủ ngay từ đầu trận chiến.

    Phải công nhận phía Cộng Quân đã điều nghiên kỹ lưỡng, chỉ trừ vị trí của Bộ Chỉ Huy của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, được thay đổi vào giờ phút chót, và không ngờ Trung Đoàn 8 Bộ Binh được trực thăng vận đổ quân tăng cường và trấn giữ mặt phía Bắc Tỉnh Lỵ, kể cả việc thực tập cho các cán binh của Công Trường 9 phương cách tác chiến trong Thành Phố, và giữ được bí mật chọn mục tiêu An Lộc là “Điểm” tấn công cho đến giờ phút chót.

    (Đoạn này rât lộn xộn, Tôi nghĩ cần viết lại, giữ nguyên văn tự và nội dung, nhưng đảo lại câu văn)

    (1) “ An Lộc Anh Dũng” của nhà Xuất Bản Đại Nam, đoạn An Lộc và Điện
    Biên Phủ. Tài liệu này do Cố Trung Tướng Nguyễn Văn Minh cung cấp.
    (2) Trích trong quyển “China and the Viet Nam War” do tác giả Quiang Zhai
    viết năm 1999 tại University of Carolina Hoa Kỳ.
    (3) Nhật ký hành quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III, vế trận An
    Lộc năm 1972.

    2- AN LỘC: TRẬN VERDUN CỦA VIỆT NAM
    Trích- “ La Mort du Việt Nam”
    Tác Giả: Đại Tướng Vanuxem
    Dịch Giả: Dương Hiếu Nghĩa

    An Lộc là một Quận Lỵ nhỏ của một Tỉnh miền Đông Nam Việt. Quân Bắc Việt đã vây hãm Quận Lỵ nầy, nã vào đó đủ mọi loại trọng pháo, hỏa tiễn, và tấn công vào đó nhiều lần. Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ Vùng 4 Chiến Thuật (đồng bằng sông Cữu Long), lẽ ra được đưa ra Huế cho Tướng Hoàng Xuân Lãm, được hấp tấp thả xuống một vùng nằm giữa An Lộc và Sài Gòn, với nhiệm vụ sơ khởi là chặn địch lúc bấy giờ đang tự do tiến bọc vòng quanh An Lộc, bao vây cô lập Thị Xã này cốt không cho trong ngoài liên lạc được với nhau. Người ta ngăn chặn được phần nào ý định của địch, nhưng không giải tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ làm. Tuy nhiên An Lộc vẫn đứng vững.

    Để so sánh và cũng để thực sự thấy được giá trị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta phải nói rõ là Thị Xã An Lộc giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên sườn đồi của một lòng chảo mà vành đai của lòng chảo nầy địch đã làm chủ. An Lộc không có nhiều binh sĩ trú phòng như Điện Biên Phủ, có 20,000 dân, chẳng những không giúp ích được gì mà trái lại còn là một gánh nặng cho quân trú phòng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân số bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, và họ pháo nhiều vào trung tâm thị xã, họ dùng đại bác 130 ly và hỏa tiễn, nên phố xá và nhà cửa trong thị xã gần như bị các loại này phá nát hết.

    Quân trú phòng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại chiến xa T. 54 của Nga Sô mà Phòng Nhì Việt Nam Cộng Hoà cũng như Hoa Kỳ không rõ bằng cách nào họ mang được loại chiến xa nặng nầy đến tận An Lộc được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được các súng phóng hỏa tiễn cầm tay M.72 của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T.54 bị bắn cháy hay bị bỏ lại rải rác trong thị xã như là chiến lợi phẩm đặc biệt của quân trú phòng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn Điện Biên Phủ.

    Quân Bắc Việt còn tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng tình hình có vẻ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với Ông còn có Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và một số Sĩ Quan khác, trong số nầy có Tướng Lãnh người Pháp muốn hưởng một chút thú vị kiêu hãnh là được tham dự vào một trận phục thù cho Điện Biên Phủ.

    (Lời người dịch: Đó chính là tác giả quyển sách nhỏ nầy, Đại Tướng Vanuxem. Ông được quân trú phòng “anh hùng An Lộc” tặng cho một lá Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi là để kỷ niệm trận “Bình Long Anh Dũng”, và sau nầy trước khi qua đời tại Pháp năm 1982, Ông đã trao lá Quốc Kỳ nầy lại cho Trung Tướng Trần Văn Trung, Chủ Tịch hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà tại Pháp.)

    Hai chiếc trực thăng đáp xuống và cất lên ngay thật nhanh, sau khi các vị Tướng Lãnh vừa nhảy xuống xong thì các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn “lon”, “huy chương”, tuyên dương công trạng khen thưởng các cấp v..v… sau đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị (binh sĩ các cấp nhảy lên khỏi chiến hào để hoan hô ầm ĩ vị Tổng Tư Lệnh của họ), thăm và an ủi các thương binh, bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T.54 để sờ các pháo tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi viếng các nghĩa trang “bất đắc dĩ” nằm trên các vỉa hè đường phố, và trước một nghĩa trang, Tướng Thiệu quỳ xuống cầu nguyện… Người ta cũng có cầu nguyện như vậy giữa sân của một nhà thờ đã bị đổ nát, chỉ còn trơ lại có một pho tượng lớn của Chúa đang giăng hai tay nhân ái ra, coi như để chúc lành cho phái đoàn. Tổng Thống Thiệu thản nhiên như không có gì xảy ra, quỳ một gối xuống ngay trên vũng bùn, làm dấu thánh giá, và cầu nguyện….trong khi tất cả đều đứng ngay ngắn nghiêm trang…Đâu đây bên bìa rừng gần đó có một vài tiếng nổ của đạn rocket.

    Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống, tất cả quan khách đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ khi các trực thăng đáp xuống, tất cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, vì trước đó ai cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp thì sẽ bị ở lại An Lộc.

    Tất cả đều được an toàn, về được đến Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn 3 ở Lai khê.

    An Lộc đã trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân chúng đã cương quyết một lòng thì khẳng định là chận được quân thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của Việt Nam Cộng Hoà, một chiến trận mà Việt Nam Cộng Hoà đã làm lễ kỷ niệm thật long trọng để xác nhận ý chí quyết chiến quyết thắng của Quân Dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày lễ Quốc Khánh của Việt Nam Cộng Hoà đã được chọn là ngày 1/11 rồi, nếu không thì người ta nghĩ có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc được giải tỏa hoàn toàn, để nói lên biểu tượng Tự Do của Quốc Gia nầy.

    Đó là nhưng sự việc đã xảy ra năm 1972. Lúc đó có ai dám nghĩ được rằng ba năm sau, vâng chỉ không đầy 3 năm sau thôi, một Quân Đội đã từng biểu diễn một “pha” hết sức ngoạn mục, về sức mạnh, về ý chí của quân nhân các cấp, được lòng tin cậy hoàn toàn của dân, lại có thể bị suy sụp đến độ phải tan rã hoàn toàn?

    Vả lại Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với một quân số được Ngũ Giác Đài tính toán quá khít khao lúc bắt đầu Việt Nam Hoá, nên chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phòng ngự để gìn giữ lãnh thổ mà thôi. Sau đó lại bị hao hụt trầm trọng trong 3 năm liền, trong khi các đơn vị Miền Bắc tiếp tục được bổ sung đầy đủ, tăng cường cả về lượng cũng như về phẩm, nhất là chiến cụ, so sánh thì hơn xa Quân Đội Miền Nam, cho nên các ước tính tương quan lực lượng phải là 4/1, tôi nói lại là bốn trên một.

    Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đã được Quân Đội Pháp thành lập sau đó mới được Hoa Kỳ tái tổ chức lại, nên dù muốn dù không, Quân Đội Miền Nam cũng giữ vài kỷ niệm về lề lối hay phương thức do quân đội Pháp để lại.

    Điều nầy đã đem lại nhiều chuyện không hay cho một vài Tướng Lãnh, tuy nhiên dù gì đi chăng nữa thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng vẫn phải chấp nhận phuơng thức tác chiến học được từ Quân Đội Hoa Kỳ. Do đó nếu không chấp nhận điều quân mà chỉ dùng hỏa lực không mà thôi, trong tấn công cũng như trong phòng thủ, thì phương thức nầy bắt buộc phải có yểm trợ hùng mạnh của Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh và của cả Hải Quân nữa. Điều nầy Quân Đội Hoa Kỳ được trang bị quá đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, cho nên từ khi quân đội Mỹ rút đi thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị thiếu mất trầm trọng một hỏa lực yểm trợ mạnh và hữu hiệu.

    Tổng Thống Thiệu là một người am tường về chiến lược, lại là một nhà chính trị thận trọng há đã không đề ra được một phương thức tiết kiệm, vừa để dưỡng sức các đơn vị tinh nhuệ, vừa tránh hao tổn phí phạm đạn dược hay sao? Cho nên mỗi người lính chỉ được phát 80 viên đạn và một trái lựu đạn trong một tháng. Ông quan niệm rằng, trước một kẻ thù như Bắc Việt, và trên một lãnh thổ quá dài và quá hẹp của Miền Nam Việt Nam Ông không có thể điều quân được. Đã từ lâu, Ông nói là chỉ với lực lượng của Miền Nam, Ông không thể chống lại được một cuộc tấn công quy mô của Bắc Việt trên một chiến tuyến quá dài từ Bắc xuống Nam dọc theo biên giới Lào và Cambodia, chỉa mũi thẳng vào Sài Gòn, chỉ còn cách đó dưới 100 cây số mà thôị, Ông cũng biết là địch quân tất phải chủ động, nhưng giờ thì hệ thống phòng thủ bị gặm nhấm, quân số các đơn vị bị hao hụt và tiếp vận thì quá nghèo nàn nên chắc chắn là không thể chịu nổi sức tấn công mạnh của địch, và dè dặt hơn trong trường hợp nếu được bảo đảm là có một sự tiếp viện từ phía đồng minh, thì Ông cũng phải đi đến chỗ phải bỏ rơi một phần lãnh thổ để tập trung lực lượng vào việc cố thủ Sài Gòn và đồng bằng Sông Cửu Long. Nếu quân đội Bắc Việt tiến hành một chiến dịch tấn công theo kiểu gặm nhấm tiêu hao dành dân lấn đất, thì cố thủ như vậy cũng có thể thành công được, nhưng Miền Nam Việt Nam sẽ bị một chấn động tâm lý, mất hết tinh thần và rồi cũng phải thua, mất hết mà thôi. Còn nếu Miền Bắc dàn quân đánh mạnh theo chiến tranh quy ước thì tai họa lớn sẽ xảy ra, nhanh hơn.

    Đã từ lâu, Miền Nam Việt Nam không áp dụng phương thức phòng thủ lưu động, nên không có khả năng để tiến hành một cuộc rút lui quy mô, một cuộc hành quân rất khó, vì phải vừa lui quân vừa phải chiến đấu không ngừng với quân Bắc Việt, vốn lúc nào cũng nhẹ nhàng luồn lách, xâm nhập, đánh ngang cạnh sườn, bọc hậu bao vây, sau lưng đánh tới, đe dọa tuyến phòng thủ…, bắt buộc lực lượng nầy phải rút đi càng sớm càng tốt, (nếu không sẽ bị bao vây và tiêu diệt), lần lần sẽ bị gậm nhấm rồi cuối cùng sẽ bị tràn ngập. Những cánh đồng lầy mênh mông vắng vẻ như sa mạc, Bắc Việt thâm nhập vào sâu trong Miền Nam Việt Nam quá dễ dàng, và rừng cây bao la rậm rạp làm cho vũ khí chống chiến xa vốn thuộc loại quá cũ kỹ mất đi phần nào hữu hiệu và chính xác. Hơn thế nữa, những hỏa tiễn SAM (Địa Không) do Nga Sô viện trợ, đã ngăn chận được khả năng Không Yểm từ các loại phi cơ có tốc độ chậm, chỉ có những chiến đấu cơ F.5 do Hoa Kỳ trang bị cho Không Quân Việt Nam Cộng Hoà, là có thể thỉnh thoảng yểm trợ hỏa lực được cho các đơn vị bộ binh dưới đất nếu không thì các đơn vị nầy phải tự lo liệu lấy mà thôi. Cuối cùng là những khinh tốc hạm phóng ngư lôi do Nga Sô viện trợ có thể vô hiệu hóa lực lượng Hải Quân của Miền Nam Việt Nam, vốn cũng có khả năng nhiều tàu chiến nhưng toàn thuộc loại cổ xưa.

    Do đó mà cuộc hành quân triệt thoái của Vùng 2 Chiến Thuật từ Cao Nguyên về vùng duyên hải, và cuộc rút quân của Vùng 1 Chiến thuật, từ Huế, vào Đà Nẵng về hướng Nam, đã biến thành một cuộc thua chạy hỗn loạn, khiến cho không còn gom góp lại được đơn vị nào, không còn chiến cụ vũ khí nào, trong khi Miền Nam đang cần tiết kiệm nhân lực và trang thiết bị để có thể lo cho tuyến phòng thủ ở phía Nam. Tuyến nầy mặc dù có một số lớn hành động thật anh dũng, nhưng rồi cũng vỡ ra từng mảnh, thì làm sao có được chiến trận ở vùng Sài Gòn ?

    Cho đến sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975 là coi như tất cả đều mất hết rồi! Tướng Dương Văn Minh, người đã nhận chức vụ TổngThống Việt Nam Cộng Hoà đã kêu gọi binh sĩ hãy chấm dứt cuộc chiến mà từ nay đã trở thành vô vọng và vô nghĩa. Sau một vài hành động trong thất vọng, và một vài trận ”tử thủ kiểu Camerone” để ít nhất nói lên lòng can đảm hy sinh của Quân Lực Viêt Nam Cộng Hoà, một Quân Lực mà không có một người binh sĩ hay một cấp Chỉ Huy nào đã phản bội, thì đã thấy lá cờ đỏ của quân Cộng Sản xăm lăng Bắc Việt được kéo lên trên nóc Dinh Độc Lập. Giờ này đây rải rác chỉ còn một vài binh sĩ lẻ tẻ đi lang thang chưa chịu đầu hàng.
    Quốc Gia mang tên Việt Nam Cộng Hoà đã bị “bức tử” rồi !! Danh từ Việt Nam Cộng Hoà đã bị xóa không còn trên bản đồ của các Quốc Gia trên thế giới nữa.

    “Ghi Chú BBS: Thành Phố Verdun nằm về cận Đông Nước Pháp. Chiến lũy Verdun do Pháp xây cất rất là kiên cố, dọc theo ranh giới vùng đồi núi Pháp và Đức về phía Đông nước Pháp. Trận chiến Verdun được Quân Đội Đức phát động vào đêm 11 rạng 12 tháng 2 năm 1916 (đệ nhất thế chiến), có những điểm trùng hợp tương tự như trận chiến An Lộc xảy ra vào tháng 04 năm 1972:

    a/ Kế hoạch tấn công vào Chiến Lũy Verdun của Quân Đức đuợc khởi sự vào đêm 11 rạng 12 tháng 2 năm 1916, nhưng phải tạm hoãn lại cho đến ngày 21 tháng 2 năm 1916 mới thật sự phát khởi cuộc tấn công, nguyên do chỉ vì thời tiết “quá xấu” rất bất tiện cho “Không Quân” của Đức lúc bấy giờ. Nhờ vậy mà Quân Pháp có thì giờ cấp tốc điều động được 2 Sư Đoàn Bộ Binh kịp thời tăng cường phòng thủ chiến lũy. Sự trì hoãn (09 ngày) này của Quân Đội Đức cũng giống như sự trì hoãn của Quân Cộng Sản Bắc Việt đã trì hoãn tại Lộc Ninh (06) ngày vào tháng 04 năm 1972. Quân Đức đã để lỡ mất cơ hội tiến chiếm Chiến Luỹ và Thị Trấn Verdun của Pháp.

    b/ Khởi đầu trận chiến, Quân Đức đã huy động hằng trăm máy bay để oanh tạc, và 230 khẩu pháo từ 122 ly đến 420 ly để mong “bình địa” chiến luỹ Verdun, dọn đường cho Quân Đoàn quân bộ chiến, đồng loạt tấn công vào chiến lũy Verdun, trong số những quả pháo bắn vào chiến lũy Verdun có nhiều quả pháo có “hơi độc”. Cũng như An Lộc phải hứng chịu trên 200.000 quả pháo đủ loại kể cả các hỏa tiễn 107 ly và 122 ly của Quân Cộng Sản Bắc Việt.

    c/ Giữa Quân Đội Pháp và Đức có những trận đụng độ quyết liệt trên các cứ điểm trên các ngọn đồi chiến lược quan trọng (Quân Đức chiếm xong, bị Quân Pháp chiếm lại...) điển hình như trên ngọn đồi có độ cao 304 ở về cận Tây của Chiến Lũy, thương vong đôi bên của mỗi trận đánh lên đến vài ngàn chiến sĩ, giống như ngọn đồi có tên là Đồi Đồng Long ở trên cao thế 128 thước cách phía Bắc thành phố An Lộc 600 thước, do Biệt Cách Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã bất thần đột kích tái chiếm, gây cho quân Cộng Sản Bắc Việt một sự thiệt hại rất nặng nề (xác của các cán binh Cộng Sản dầy đặc dưới các giao thông hào và đầy cả sườn đồi).

    d/ Kết cục Quân Pháp đã thắng Quân Đức (gấp 4 lần nhiều hơn),Cũng như Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thắng được Quân Cộng Sản Bắc Việt đông hơn gấp 4 lần.

    GHI CHÚ ĐẶC BIỆT: Với hoài vọng sưu tầm những tin tức xác thực và những vật chứng giá trị còn lưu lại về trận chiến thắng An Lộc 1972. Chúng tôi xin thông báo với sự dè dặt là hiện nay lá cờ vàng ba sọc đỏ tại mặt trận An Lộc năm 1972 vẫn còn tồn tại trong cộng đồng người Việt quốc Gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại. (Tin từ chiến hữu Jimmy Tòng Nguyễn và Hội cựu quân nhân thành phố New Orleans LA).

    Chúng tôi đã truy nguyên ra phát nguồn xuất xứ của lá cờ này; căn cứ vào tài liệu “ La Mort du Việt Nam” của tác giả Thiếu Tướng Vanuxem do Dương Hiếu Nghĩa dịch ( trang 215- quyển Chiến Thắng An Lộc 1972 )

    Mong rằng “kỷ vật” duy nhất đó trong một ngày gần đây sẽ được chuyển vào một bảo tàng viện của Việt Nam để bảo quản như là một chứng tích lịch sử lá cờ VÀNG BA SỌC ĐỎ đang có tại hải ngoại (Hoa Kỳ).

    - HẾT -

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Chuyện Những Người Lính Tử Thủ An Lộc - Phạm Phong Dinh
    By KQ Nha Trang in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-09-2014, 05:20 PM
  2. Pháo Binh Biệt Khu Thủ Đô - Ngày Chinh Chiến Tàn
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-06-2014, 11:17 PM
  3. Tiếng hú giữa đêm khuya...
    By Longhai in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 07-02-2014, 01:37 AM
  4. Trận Chiến Cuối Cùng
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 06-26-2014, 03:20 AM
  5. Chiến Binh Nửa Đoạn - Hồi Ký Trận Phan Rang
    By Longhai in forum Chuyện Đời Lính
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-25-2014, 02:04 AM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •