TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG

TUYẾN THÉP XUÂN LỘC
(9 tháng Tư - 20 tháng Tư 1975)

Bảo Định - Nguyễn Hữu Chế

“Tôi sẽ giữ vững Long Khánh. Tôi không cần biết phía bên kia sẽ đưa đến bao nhiêu Sư đoàn để đánh chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ tiêu diệt họ”

(Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc.)


CẢM TẠ :

Người viết chân thành Cám ơn quí Chiến hữu có bài viết liên quan đến TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG được trích dẫn hay lấy ý để soạn thảo bài viết này.

Người viết đặc biệt cảm tạ :

- Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Cựu TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc,
- Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB,
- Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 43, SĐ18BB,
- Và các Chiến hữu Sư đoàn 18 BB, đã cho ý kiến, kể chuyện, hoặc cung cấp tài liệu để người viết có dịp soạn thảo bài viết.

Người viết chỉ là một lính trận, đã chiến đấu suốt 12 ngày đêm của TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG, viết lại theo những kinh nghiệm cá nhân và đồng đội, dĩ nhiên còn nhiều thiếu sót.

Một lần nữa xin cám ơn tất cả.

Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ2/43, SĐ18BB.


***

I. VÀO ĐỀ

“Đất đỏ pha thêm màu máu đỏ
Nghìn thu lịch sử mãi ghi tên”
(Đăng Nguyên – Chiều Nhớ Xuân Lộc)


Xuân đã qua, Hè đang đến. Ngày trở nên dài và đêm ngắn lại. Thỉnh thoảng trời Xuân Lộc đổ cơn mưa rào. Mưa chợt đến rồi chợt đi. Mặt đất ẩm ướt, có lúc lầy lội bùn sình đất đỏ. Không lâu nữa, đất đỏ lại pha thêm màu máu đỏ. Máu của giặc, máu của ta, máu của người dân Việt của cả hai miền, “Da vàng máu đỏ”.

Từ một tháng nay, Xuân Lộc rộn ràng không khí chiến tranh. Tin tức loan truyền nhanh chóng việc thất thủ Ban Mê Thuột, cuộc triệt thoái thất bại Quân đoàn II, cuộc di tản chiến thuật không thành công Quân đoàn I. Nhiều chiến binh oai hùng của QLVNCH sa cơ thất thế tại bãi biển Thuận An (Huế), bãi biển Sơn Chà (Đànẵng). Không biết câu thơ của ai đã diễn tả rất đúng trong trường hợp này :

“Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một chốt cũng thành công”


Các chuyến bay vội vàng rời sân bay Đànẵng mắc nạn trên biển Đông, trong vùng biển Sa Huỳnh. Các tỉnh thành từ Thừa Thiên đến Khánh Hòa bị bỏ ngõ. Quân CSBV đã vào đến Phan Rang. Phan Rang đã trở thành vùng hỏa tuyến. Đồng bào từ ngoài Trung, từ Cao Nguyên Trung phần trốn chạy Cộng sản, ùn ùn bồng bế nhau vào Nam. Thị xã đất đỏ Xuân Lộc phút chốc trở nên náo nhiệt. Đường phố tràn ngập người dân tỵ nạn. Dân lo âu sợ hãi. Nét kinh hoàng lộ rõ trên những khuôn mặt dãi dầu mưa nắng. Lính âm thầm chịu đựng lo bố phòng. Chiến hào được đắp cao. Những vòng kẽm gai chằng chịt được nối thêm. Các ụ chống chiến xa được dựng lên hai đầu thị xã. Mìn, lựu đạn được gài cùng khắp.

Thần chiến tranh sắp vào đến cửa ngõ !

Thế rồi “Trận Chiến Cuối Cùng” đã đến ! Đó là trận chiến Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Đây là trận đối đầu ác liệt, nhưng rất bi hùng giữa Quân và Dân VNCH với bọn xâm lăng CSBV. Trận chiến kéo dài suốt 12 ngày đêm. Khởi đầu từ lúc 5 giờ 40 phút sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, khi Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4/CSBV phát lệnh tấn công, và chấm dứt vào lúc 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975, khi Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, đơn vị cuối cùng xuống núi (Núi Thị), rời Xuân Lộc, bắt đầu cuộc Hành quân Lui binh.

Xuân Lộc là chiến tuyến cuối cùng bảo vệ Thủ đô Sàigòn, bảo vệ VNCH. Mất Xuân Lộc là mất Sàigòn, mất VNCH !

Từ những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh ngắt, từ những đồi núi trùng trùng điệp điệp, những khẩu đại pháo được ngụy trang kỹ, loại 75ly, 120ly, 130ly, và hỏa tiễn 122ly của quân Cộng sản Bắc Việt đồng loạt nã hàng ngàn trái đạn pháo vào Xuân Lộc. Thị xã nhỏ bé của tỉnh Long Khánh rung chuyển như đang trong cơn địa chấn. Ánh chớp đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng. Ánh chớp lóe lên dồn dập, trông chẳng khác nào đêm hội hoa đăng. Ánh chớp xé tan màn đêm u tịch, phá tan bầu không khí ngột ngạt đang bao phủ từ một tháng nay.

Trời vẫn chưa sáng. Sương đêm còn dày đặc. Xuân lộc đang say sưa trong giấc ngủ muộn. Bổng nhiên đất trời rung chuyển. Khói súng mịt mù. Lưới đạn đan nhau. Đạn giặc, đạn ta xuyên qua màn đêm, như hàng ngàn hàng vạn vì sao băng. Tòa lâu đài cổ hai tầng tại Núi Thị rung rinh trước cơn bão lửa. Cây anten 292 như muốn gãy sập, nhưng thật kỳ diệu, vẫn can trường đứng vững !

Lúc bấy giờ là 5 giờ 40 phút sáng thứ Tư, ngày 9 tháng Tư năm 1975. Điều mọi người chờ đợi đã đến ! Trận đánh bắt đầu. Đây là trận chiến cuối cùng mang tính quyết định. Sau đó là chấm dứt cuộc chiến. Một cuộc chiến tranh tồi tệ và tàn khốc trong lịch sử dân tộc Việt. Cuộc chiến do CSBV phát động. Do sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, ông ta và đồng bọn tự nguyện làm đội quân tiên phong cho Cộng sản Đệ tam Quốc tế trong mưu toan nhuộm đỏ thế giới! Cuộc chiến kéo dài gần 21 năm (tháng 7/1954-tháng 4/1975). Cuộc chiến tàn khốc đã tiêu hao hàng triệu sinh linh người dân Việt của cả hai miền. Chưa bao giờ mảnh đất hình chữ S, trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu bị tàn phá khủng khiếp như vậy.

Xuân Lộc là tỉnh lỵ của Long Khánh, là cửa ngõ hướng Đông đi vào Sàigòn, Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa. Thị xã nằm trải dài theo đường QL.1, cách Sàigòn hơn 60 cây số. Hình thể Xuân Lộc như một ấp chiến lược, được bao quanh bằng bờ đê, với những hàng rào kẽm gai. Thị xã có khoảng 30 ngàn dân, diện tích chỉ vài cây số vuông. Phố xá nhỏ hẹp. Nắng bụi, mưa lầy. “Đi dăm phút đã về chốn cũ”.

Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc, tính bình quân, mỗi người dân Xuân Lộc lãnh ít nhất hơn một trái !

Xuân Lộc là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 18 Bộ binh, tiền thân là Sư đoàn 10BB. Sư đoàn chính thức được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965, với cơ cấu được hình thành từ các Trung đoàn Bộ binh 43, 48, 52, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, và các Tiểu đoàn Pháo binh 105ly và 155ly, gồm có 180, 181, 182 và 183, cùng các đơn vị kỹ thuật.

Kể từ ngày thành lập, Sư đoàn được đặt dưới quyền các vị Tư lệnh :

- Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, sau này Trung tướng : 5 tháng 6 năm 1965.

- Chuẩn tướng Lữ Lan, sau này Trung tướng : 20 tháng 8 năm 1965.

- Đại tá Đỗ Kế Giai, sau này Thiếu tướng : 16 tháng 9 năm 1966.

- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ, sau này Thiếu tướng : 20 tháng 8 năm 1969.

- Đại tá Lê Minh Đảo, từ 04.04.72 đến ngày 30.04.75. Ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn tướng tại mặt trận An Lộc tháng 11 năm 1972, và Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.04.75 do chiến công tại mặt trận Xuân Lộc.

Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Trái lại là một trong vài sư đoàn tồi tệ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc mới thành lập, phần lớn quân số là tân binh quân dịch, một số là lao công đào binh được phục hồi, những quân nhân vi phạm kỷ luật từ các đơn vị được thuyên chuyển đến.

Thoạt tiên Sư đoàn mang danh hiệu Sư đoàn 10 BB, với phù hiệu 10 ngôi sao trắng bao quanh ngọn núi Chứa Chan màu xanh thẩm. Đó là ngọn núi cao nhất vùng. Trong những ngày chiến cuộc, BTL/ Tiền Phương/QĐ4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã đặt bản doanh tại đây, do Bùi Cát Vũ, TLP/QĐ Chỉ huy.

Theo tính dị đoan của người Việt cũng như người phương Tây, số 10 là con số bù, “Number ten”, là con số tượng trưng cho sự xui xẻo, và những điều không may. Ngày 1.1.1967, theo lời đề nghị của Chuẩn tướng Đổ Kế Giai, đương kim Tư lệnh Sư đoàn, Bộ TTM/QLVNCH đã chấp thuận cho cải danh thành Sư đoàn 18BB, với phù hiệu màu xanh nhạt tượng trưng cho màu trời, màu xanh đậm tượng trưng cho màu đất, và cung tên dựa vào truyền thuyết “Nỏ Thần” đời An Dương Vương (208 B.C.) trong lịch sử cổ đại của dân tộc Việt : “Bắn một phát, giặc chết hàng vạn người !” (Trần Trọng Kim – VNSL).

Tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975, Cổ Loa Thành là tình đoàn kết gắn bó giữa quân (Sư đoàn 18BB) và dân (cư dân Long Khánh). Nỏ Thần là những khẩu súng cá nhân và cộng đồng, những trái mìn chống chiến xa,…của các chiến binh Miền Đông dũng cảm, giàu kinh nghiệm chiến trường. Tất cả một lòng quyết chiến quyết thắng.

Quân xâm lăng CSBV tung vào trận địa một lực lượng đông gấp 5 lần. Chúng bắn hàng chục ngàn trái đạn đại pháo, sử dụng chiến thuật biển người, liên tiếp mở nhiều đợt tấn công trong suốt 12 ngày đêm, nhưng kết quả, chỉ chuốc lấy thảm bại. Đạo quân xâm lược với hơn 40 ngàn tên, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm, đã để lại tại trận hơn 6 ngàn xác chết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy. Đại quân của chúng bị chôn chặt bên ngoài vòng đai phòng thủ, để rồi bị ăn pháo và ăn bom ! Sự thiệt hại của chúng còn nhiều hơn con số đếm được. Suốt trận chiến 12 ngày, chỉ có vài toán nhỏ bộ đội CSBV đi lạc vào bên trong thị xã, nhưng ngay sau đó đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống làm tù binh.

II. TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT

A/- PHƯỚC LONG : TRẬN ĐÁNH THĂM DÒ

Vào đầu tháng 1 năm 1975, sau gần một tuần lễ mở cuộc tấn công vào Phước Long, quân CSBV đã làm chủ tỉnh địa đầu miền núi của Vùng 3 Chiến thuật.

Với chính sách “4 không” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, VNCH quyết không để mất một tấc đất nào do tiền nhân để lại. Nhưng QLVNCH trên lý thuyết có khoảng 1 triệu quân nhân phục vụ dưới cờ, chỉ có vài trăm ngàn quân thực sự chiến đấu ngoài mặt trận. QLVNCH phải rải quân giữ đất, giữ dân. Hai Sư đoàn Tổng trừ bị bị cầm chân ở vùng giới tuyến phía Bắc. Các Sư đoàn Bộ binh lo giữ đất và giữ dân vùng trách nhiệm của mình, kể cả các Liên đoàn BĐQ cũng không rảnh tay. Khi Phước Long bị uy hiếp, QLVNCH đã không có lực lượng trừ bị hùng hậu để cứu viện. Đây là điều tối kỵ trong binh pháp. BTL/QĐIII chỉ đưa được 3 Đại đội Trinh sát của 3 Sư đoàn 5, 18, 25, và 2 Đại đội 81/ Biệt Kích Dù.

“Ngày 30 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 3 và 7/CSBV đồng loạt tấn công quận lỵ Phước Bình. Đến chiều thì Bộ Chỉ huy Chi khu bị bắn sập. Lực lượng đang đóng tại đây phải lui về đóng chung quanh phi trường Sông Bé. Bốn chiến xa của CS bị bắn hạ tại cuối vòng đai phi trường…quân CS đã chiếm được núi Bà Rá, nơi đặt trạm viễn liên làm gián đoạn tạm thời các liên lạc với tỉnh lỵ. Sau đó các tiền sát viên CS đặt tại núi này đã điều chỉnh pháo 130ly làm tê liệt hầu hết các pháo đội của QLVNCH thuộc lực lượng phòng thủ.” (Nguyễn Đức Phương - Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập).

Khi có dấu hiệu quân CSBV điều động lực lượng chuẩn bị đánh Phước Long, Tổng Thống hỏi Đại tá Tỉnh trưởng có cần thêm quân tăng viện, vị Tỉnh trưởng trả lời chưa cần (Một Sĩ quan cấp Trung tá thuộc Phòng 3 Tiểu khu cho Đại úy Phạm Hữu Đa, Đại đội trưởng Trinh sát 18 biết như vậy). Đại đội 18 Trinh sát, cùng 2 Đại đội 5 và 25 được trực thăng vận vào Phước Long thay thế Tiểu đoàn BĐQ, 3 tháng trước khi tỉnh này bước vào trận chiến.

ĐĐ18TS hoạt động khu vực quận Bố Đức mới. Một Trung đội của đơn vị này vào phòng thủ chung với ĐĐ/ĐPQ trong căn cứ. Một Tiểu đoàn quân CSBV di chuyển bằng xe molotova đến bao vây căn cứ. Đơn vị của Đa cùng ĐĐ/ĐPQ đã chiến đấu dũng cảm. Nhờ có pháo binh yểm trợ dồi dào và hữu hiệu, đơn vị giặc bị xóa sổ. Nhưng sau đó trong một cuộc điện đàm, Đại tá Tỉnh trưởng cho biết vì tình trạng khan hiếm đạn dược, pháo binh chỉ có thể bắn tối đa 5 trái một ngày. Cuộc điện đàm bị Cộng quân bắt được (do một nhân viên kiểm thính trên núi Bà Rá nói lại với Đa). Chúng biết quân ta khan hiếm đạn dược, liền điều động 3 Tiểu đoàn vào trận để trả thù, và dứt điểm tuyến phòng thủ bên ngoài của Phước Long. Quân số ít, pháo binh yểm trợ nhỏ giọt, không quân không can thiệp kịp thời, trước nguy cơ bị tiêu diệt, đơn vị trú phòng đành phải rút chạy.

Sáng sớm ngày 3 tháng 1, quân CSBV tấn công vào Thị xã Phước Long. Để cứu viện, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III cho trực thăng vận 2 Đại đội 81 Biệt kích Dù do Trung tá Thông chỉ huy. Đơn vị cứu viện đến. Nhưng quá ít, và qúa muộn màng !

Ngày 6 tháng 1 năm 1975, lúc 3 giờ 30 chiều, quân CSBV với chiến xa yểm trợ, đã xuất hiện khắp nơi. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Nhiều tên lính “cụ Hồ” bị giết chết. Nhưng thế giặc mạnh, quân giặc đông, vũ khí đạn dược dồi dào, quân trú phòng ở thế hạ phong, đành phải rút chạy. Đến 11 giờ đêm thì không còn liên lạc được với Phước Long. Phước Long đã thất thủ !

Phước Long cách Sàigòn khoảng 110 cây số về hướng Đông - Bắc, bị cô lập từ nhiều tháng. Các cuộc tiếp tế cho Thị xã đều phải thực hiện bằng đường Hàng không. Trong lúc đó CSBV đã đưa vào đây 3 Sư đoàn cùng nhiều đơn vị pháo. Đó là Sư đoàn 3, 7, 9 và bộ đội đặc công, phối hợp cùng lực lượng địa phương và du kích.

Về phương diện Quân sự, việc thất thủ Phước Long không quan trọng, nhưng hậu quả tâm lý và chính trị thì thật to lớn.

Ngày 18 tháng 12 năm 1974 tại Hànội, một cuộc họp liên tịch Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, có đại diện các chiến trường Miền Nam tham gia, sau khi phân tích tình hình chính trị và quân sự trong và ngoài nước, tên Thủ tướng muôn năm của Bắc Việt Phạm Văn Đồng phát biểu: “ …Mỹ rút quân do qui định của hiệp định Paris…Ngày nay, nó đem quân can thiệp trở lại là một chuyện không thể có. Có chăng là dùng không, hải quân chi viện…”. Rồi hắn vừa cười to vừa nói : “ Nói chơi cho vui nhưng cũng đúng sự thật là cho kẹo Mỹ cũng không vào”.

Khi được tin chiếm được Phước Long, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng Bắc Việt nói : “Lần đầu tiên ở Miền Nam, một Tỉnh hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sàigòn và mở rộng vùng căn cứ quan trọng của ta ở Miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”. Ngày 8 tháng 1, trong một bài diễn văn, Lê Duẩn phát biểu: “ Tình hình đã sáng tỏ. Chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm. Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở Miền Nam được thực lực mạnh ở Miền Bắc đẩy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta có sẵn trong Nam…Đây là nội dung của thời cơ, ta phải nắm vững quân sự, chính trị, ngoại giao…”

Về phía VNCH, nguyên Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bữu Viên viết : “Cộng sản trong khi tiến hành việc thử thách ý chí của QLVNCH và đặc biệt để đo lường phản ứng của chính phủ Mỹ đã lựa chọn thật đúng một mục tiêu dễ dàng. Sự thất thủ Phước Long hết sức quan trọng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một tỉnh đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản và đây là một bằng chứng hiển nhiên của sự vi phạm trắng trợn thỏa ước ngưng bắn của Cộng sản…”

Kết thúc hội nghị, Ngày 24 tháng 1 năm 1975, Phái đoàn Miền Nam do Trần Văn Trà làm trưởng đoàn lên đường trở về B2. Nhưng trước đó bọn họ phải đến chào từ giả “Thái Thượng Hoàng” Lê Đức Thọ để nhận chỉ thị cuối cùng: “ Tôi đã đến cuộc họp thường trực Quân ủy Trung ương; đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị là đánh Ban Mê Thuột. Chỉ chấp hành lệnh không thảo luận gì nữa cả”. Trước đó trong hội nghị, Thọ đã đưa ý kiến : “ Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Man Mê Thuột. Ta có gần 5 Sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Ban Mê Thuột là thế nào ?”

Bộ Chính trị Cộng đảng Bắc Việt quyết định chọn Phước Long làm trận mở đầu cho kế hoạch tổng tấn công thôn tính Miền Nam, là chọn một mục tiêu dễ dàng, nhưng mang tính to lớn vì là một tỉnh, dù dân số ít hơn xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình của Gia Định (vào thời điểm này, xã Phú Nhuận đã có lối 50 ngàn dân). Dù chỉ cách Thủ đô Sàigòn của VNCH khoảng 110 cây số, nhưng là một tỉnh miền núi, khó phòng thủ, khó ngăn chận những đường địch xâm nhập. Dân cư thưa thớt. Tỉnh địa đầu của Vùng 3 này giáp ranh với Vùng 2 của Cao Nguyên Trung phần. Các con đường bộ dẫn tới Phước Long, từ lâu đã bị các đơn vị cộng quân đóng chốt đắp mô. Việc ra vào Phước Long chỉ còn trông nhờ vào đường hàng không. Phước Long như một ốc đảo nằm giữa biển giặc và biển rừng mênh mông.

CSBV đã chọn mục tiêu dễ, để có thể nhanh chóng thanh toán, hầu đạt được tiếng vang Quốc tế.

Đánh Phước Long, CSBV muốn trắc nghiệm phản ứng của Mỹ. Thật ra chúng đã có câu trả lời, như Phạm Văn Đồng nói: “…cho kẹo Mỹ cũng không vào”. Nhưng điều quan trọng hơn hết là đo lường khả năng của QLVNCH. Có dư luận cho rằng Tổng thống Thiệu để cho mất Phước Long là tháu cáy Mỹ. Theo ngôn từ CSBV thì “Thiệu làm mình làm mẩy” với Mỹ. Nhưng có lẽ ta phải đồng ý với lời giải thích của Tổng thống: “ Phải cần tối thiểu hai trung đoàn cho cuộc hành quân nầy và các đơn vị nầy phải được không vận. Với lực lượng địch hiện diện trong vùng, chúng ta chắc chắn phải đối đầu với phản ứng mạnh của địch quân và thiệt hại do đó sẽ nặng nề. Một khi đã chiếm lại được tỉnh nầy, phải cần đến nhiều lực lượng để bảo vệ. Điều này không những làm mất đi di động tính của một số đơn vị mà đồng thời còn tạo ra khó khăn cho vấn đề tiếp liệu. Do đó tốt nhất nên tiết kiệm quân để tăng cường các nơi khác có giá trị hơn về chiến lược”.

B/- BAN MÊ THUỘT : TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN

Sau khi đánh chiếm Phước Long một cách dễ dàng, chúng đã có đáp số. Bộ Chính trị CSBV liền quyết định dứt khoát về kế hoạch thôn tính Miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trần Văn Trà đề nghị đánh Ban Mê Thuột, với lý do: “…tấn công Ban Mê Thuột chắc chắn phải là một ngạc nhiên cho ngụy và cũng là nơi chúng không phòng bị…Nếu hậu cần bị mất, địch quân ở tuyến trước sẽ rối loạn và mất tinh thần”.

Nhận định “Tấn công BMT là một ngạc nhiên cho ngụy” của Trà cũng giống phán đoán của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Phạm văn Phú. Ông chỉ chú trọng phòng thủ Kontum và Pleiku. Ông không hề nghĩ rằng CSBV sẽ đánh BMT trước. Nhưng Đại tướng Cao Văn Viên và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không nghĩ như vậy. Hai vị chỉ huy cao cấp này không hề bất ngờ. Ông đã báo cho Tướng Phú biết việc Sư đoàn 320/CSBV đang tiến về phía Nam để tấn công Ban Mê Thuột, và chỉ thị Tướng Phú điều động Sư đoàn 23BB trở lại Ban Mê Thuột, đồng thời tăng cường 1 Chi đoàn chiến xa M.48.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, từ lúc 2 giờ sáng, CSBV sử dựng 3 Sư đoàn 316, F10, và 320 tấn công Ban Mê Thuột. Trong vài ngày, Ban Mê Thuột đã thất thủ.

Khi BMT bị đánh, BTL/QĐII của Thiếu tướng Phạm Văn Phú quyết định tái chiếm. Ngày 11.3.75, hai Tiểu đoàn 72 và 96/BĐQ thuộc Liên đoàn 21/BĐQ được trực thăng vận từ Kontum xuống Chi khu Buôn Hô. Nhưng do những sai lầm của Tướng Tư lệnh Sư đoàn 23BB, và do không quân đánh bom lạc vào TTHQ/BTL mặt trận, việc giải cứu gặp nhiều trở ngại. Những ngày kế tiếp, các cuộc hành quân cứu viện của Sư đoàn 23BB cũng không khá hơn. Cuộc chiến tiếp diễn đến ngày 15.3 thì Tổng thống Thiệu ra lệnh di tản. Kế hoạch hành quân tái chiếm BMT đã thất bại.

C/- QĐII : CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN SỰ SUY SỤP

Mất Ban Mê Thuột, ngày 14 tháng 3, Tổng thống triệu tập một buổi họp tại Cam Ranh. Thành phần tham dự, ngoài Tổng thống, có Đại tướng Cao Văn Viên, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Trung tướng Đặng Văn Quang, và Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Hội đồng Tướng lãnh quyết định di tản toàn bộ chủ lực quân của Quân đoàn II về vùng Duyên Hải theo lộ trình Liên tỉnh lộ 7B. Được biết kế hoạch này chỉ liên quan đến quân chủ lực. Nhưng thật là sai lầm ! Trong dân có quân. Làm sao có thể bảo toàn bí mật không để cho dân biết như một cuộc hành quân bình thường. Thế là sự hỗn loạn đã có ngay từ khi đoàn quân triệt thoái chưa bắt đầu.

Cuộc Di tản chiến thuật, Triệt thoái hay Lui binh của Quân đoàn II đã thi hành quá vội vàng, thiếu sự chuẩn bị. Các cấp chỉ huy trách nhiệm đã không nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình và địa vật. Con đường 7B đã bỏ hoang phế từ lâu, bị xuống cấp. Nhiều cầu cống hư nát. Tướng Tư lệnh Quân đoàn đã điều khiển cuộc Lui binh từ Nhatrang. BTTM/QLVNCH chỉ ngồi ở Saigòn giám sát. Mặc dầu đạt được yếu tố bất ngờ lúc đầu, nhưng di chuyển chậm do sông núi ngăn trở, do thân nhân và gia đình binh sĩ, cùng dân chúng lẫn lộn giữa đoàn quân. Dân chúng dễ bỏ chạy tán loạn mỗi khi gặp địch ra chận đường hoặc bắn quấy phá. Sự hỗn độn do dân chúng làm lây lan đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Khi Tướng CSBV Văn Tiến Dũng phát hiện, đã cho Trung đoàn 95B và Sư đoàn 320 của Thiếu tướng Kim Tuấn truy kích, đánh chận. Sự tan rã của đoàn quân di tản là không tránh khỏi.

Theo ước tính của Bộ TTM/QLVNCH, ít nhất Quân đoàn II bị thiết hại 75% khả năng tác chiến.

“Khoảng 60 ngàn quân chủ lực sau khi về đến Tuy Hòa, chỉ còn lại khoảng 20 ngàn. Năm Liên đoàn BĐQ với quân số khoảng 7 ngàn, chỉ còn lại 900 người. Lữ đoàn 2 Kỵ binh với hơn 100 thiết xa các loại, chỉ còn đúng 13 thiết vận xa M.113.

…Trong tổng số 400 ngàn dân vùng cao nguyên chạy lánh nạn CS chỉ có khoảng 100 ngàn người đến được Tuy Hòa”. (Nguyễn Đức Phương - Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập).

D/- QĐI : CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN MẤT NƯỚC

“Quân khu I đã hoàn toàn rơi vào tay CS một cách dễ dàng chỉ trong khoảng 10 ngày (19 - 30.3.75). (Nguyễn Đức Phương - CTVNTT).

Cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II đã gây ảnh hưởng tai hại lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống Thiệu. Các quyết định của vị Tư lệnh Tối cao Quân lực cho lệnh giữ Huế, bỏ Huế, rồi lại ra lệnh giữ Huế quá muộn màng, khiến vị Tư lệnh chiến trường không kịp thời thi hành, đã đưa đến sự suy sụp hoàn toàn các đơn vị hùng mạnh, gồm các Lữ đoàn của Sư đoàn TQLC, các Sư đoàn Bộ binh 1, 2, 3 và các Liên đoàn BĐQ. Phước Long chỉ là khúc nhạc dạo đầu, Ban Mê Thuột mới là trận đánh mở màn chính cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Quốc - Cộng.

Nếu chỉ tính từ trận Ban Mê Thuột, từ lúc 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, quân CSBV chỉ mất 50 ngày đêm đã tiến đến Sàigòn, cắm lá cờ máu, đúng ra là nửa máu, nửa bùn xanh dơ bẩn với ngôi sao vàng đã lên màu ten trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.

III. TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU : MẶT TRẬN ĐỊNH QUÁN

A/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

1/- Địch :

- Trung đoàn 812/QK6.

- Sư đoàn 7/QĐ 4, gồm các Trung đoàn 141, 165, và 209.

- Đơn vị xe tăng (Đếm được 10 chiếc), đơn vị cao xạ phòng không 37 ly (phát hiện 2 khẩu).

- Tiểu đoàn pháo, gồm các loại 120 ly, 122 ly, 130 ly và 122 ly.

2/- Bạn :

- Lực lượng Chi khu Định Quán.

- Đại đội 377/ĐPQ.

- Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18BB

Ngày 5 tháng Ba, tại Đồng Xoài, Đảng ủy Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 tổ chức cuộc họp mở rộng, có Lê Đức Anh, Tư lệnh phó Mặt trận, Bùi Cát Vũ, Tư lệnh phó Quân đoàn, tham dự để bàn thảo nhiệm vụ của Sư đoàn Một trong những nhiệm vụ trọng yếu là xử dụng lực lượng lớn tiến chiếm các vị trí của ta trên đường QL.20 từ Bắc Túc Trưng đến Phương Lâm. Quan trọng hơn hết là phải tiêu diệt Chi khu Định Quán. Định Quán là vị trí chiến lược quan trọng của Vùng 3 chiến thuật. Hơn nữa quân CSBV tấn công Định Quán, tiến đánh Lâm Đồng là để hổ trợ cho chiến dịch đánh Cao Nguyên Trung phần của chúng. Chiếm được Định Quán còn mở được hành lang giao liên chiến lược quan trọng cho Quân đoàn 4.

B/- DIỄN TIẾN

Trung đoàn 141/Sư 7 làm nổ lực chính, được sự hổ trợ của Trung đoàn 209 bằng cách đánh quấy rối ở hướng Nam cầu sông La Ngà. Trung đoàn 165 tiến chiếm Phân Chi khu Phương Lâm ở hướng Bắc.

Ngày 6 tháng Ba, 35 xe vận tải Molotova vận chuyển Sư đoàn 7 từ Phước Long, đến điểm tập kết tại một vị trí gần sông Đồng Nai.

Trong lúc quân CSBV rộn ràng chuẩn bị chiến trường, Sư đoàn 18BB đưa Chiến đoàn 43 của Đại tá Lê Xuân Hiếu lên Túc Trưng. Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu hành quân hoạt động vùng phía Nam cầu sông La Ngà. Tiểu đoàn 3/43 của Thiếu tá Nguyễn Văn Dư vẫn bảo vệ Chi khu Hoài Đức, bên kia sông La Ngà. Ngày 17 tháng Ba, Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế từ Xuân Lộc, được vận chuyển lên bảo vệ Định Quán.

Định Quán nằm trên QL.20, đường đi Đàlạt. Tiểu đoàn ĐPQ/LK của Thiếu tá Làu Vĩnh Quay trấn giữ cầu sông La Ngà (Thiếu tá Quay, Khóa 10 Võ bị Đàlạt, cùng khóa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo). Phía Bắc Chi khu Định Quán là Phân Chi khu Phương Lâm, tiếp giáp với Madagui của quận Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng, do lực lượng NQ bảo vệ.

Các đơn vị ĐPQ và NQ chiếm giữ những cao điểm chung quanh để bảo vệ thị trấn. TĐ2/43 đến Định Quán vào khoảng 5 giờ chiều. Đã quá trễ ! Vị Tiểu đoàn trưởng chưa có dịp nghiên cứu địa thế, chưa kịp gặp gỡ các cấp chỉ huy diện địa, chưa nắm rõ tình hình thực sự của địch, thì 5 giờ sáng ngày hôm sau, trận đánh đã mở màn. Thời gian vừa đúng 12 tiếng. Đơn vị chưa kịp làm quen, chưa sẵn sàng !

Tiểu đoàn bố trí quân trên một ngọn đồi ở phía Tây - Bắc quận lỵ, gần căn cứ Pháo diện địa có 2 khẩu 105ly. Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn được Đại đội Chỉ huy và Công vụ của Trung úy Võ Kim Thạch, Đại đội 2 của Trung úy Võ Văn Mười bảo vệ. Tướng Tư lệnh cho kéo theo đơn vị 1 Trung đội Pháo 105ly, 1 Toán Công binh Chiến đấu. Các Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Văn Hào bố trí quân trong một khu rừng chồi phía Đông, Đại đội 3 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng chiếm những ngọn đồi ở phía Tây, và Đại đội 4 của Trung úy Hà Văn Dương ở khu rừng hướng Bắc. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn tăng phái cho Chi khu, bảo vệ quận.

Vào lúc trời vừa tối, toán phục kích của Trung úy Dương nổ mìn Claymore và súng tiểu liên M.16. Một tiểu đội giặc lọt vào tuyến phục kích, bị tiêu diệt gọn. Tất cả mặc quân phục và mang phù hiệu cấp bậc bộ đội Bắc Việt. Có tên mang ba sao! Có thể là Hạ sĩ nhất, hay Thượng úy. Lúc quá nữa đêm, Trung úy Hào báo cáo một toán VC trên 10 tên lọt vào tuyến tiền đồn của đại đội. Chúng bảo vệ một tên có vẻ là cấp chỉ huy đi giữa. Tất cả đều bị hạ sát. Tịch thu được một khẩu súng lần đầu tiên gặp. Bình thường giống như một khẩu Colt 45, khi dương ra trở thành khẩu tiểu liên. Tịch thu được nhiều tài liệu, nhưng đã không có dịp để đọc, cũng chưa kịp thời gửi về Phòng 2/SĐ !

Các Trung đoàn của Sư 7/CSBV đã vào vùng. Tiểu đoàn 2 và 3/141 vào vị trí lúc 9 giờ 30. Theo Ký sự của Sư đoàn 7 (Do nhà xuất bản QĐND, Hànội xuất bản năm 1986), Tiểu đoàn 1/141 gặp phục kích, phải đi vòng. Vậy toán giặc bị Đại đội 4 của Trung úy Dương phục kích là đơn vị thuộc Tiểu đoàn 1/141. Đại đội trưởng ĐĐ7/CSBV Phạm Xuân Thiện dẫn đơn vị đột nhập căn cứ Pháo và đồi 112. Từ sáng sớm, Tiểu đoàn không liên lạc được với căn cứ Pháo bạn. Không biết tình hình bên trong như thế nào. Tiểu đoàn 9/209/CSBV hoạt động phía Nam cũng chạm súng với Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Chu.

Đúng 4 giờ 30 phút sáng, pháo địch dồn dập bắn vào BCH/Chi khu, vào Quận đường, vào Thị trấn. Sau đợt bắn pháo kéo dài 1 tiếng đồng hồ, quân CSBV mở cuộc tấn công.

Quân trú phòng chống cự mãnh liệt. Trung đội Biệt kích/TĐ sát cánh cùng các chiến binh ĐPQ và NQ chiến đấu rất dũng cảm. Gánh cải lương lưu động vừa đến quận trình diễn đêm hôm qua, tá túc trong quận, cũng xông xáo chiến đấu như những chiến binh thực thụ. Không có súng, họ tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống và tải thương. Họ nhanh chóng tìm cách xử dụng súng của những quân nhân bị thương vong để lại. Họ là dân, là nghệ sĩ, không hề biết qua súng đạn, nhưng trong giờ phút lâm nguy, họ cũng bắn súng, cũng ném lựu đạn, lo việc tải thương, đã góp công trong việc chống trả quân thù. Đúng như người xưa nói: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh !”

Trung đoàn phó 141/Sư đoàn 7/CSBV Bé Ích Quan bò đến Tiểu đoàn 2, đơn vị mũi nhọn tiến công vào quận. Thấy khó “nuốt”, vì địa thế có nhiều hóc đá. Hắn liền cho tăng cường thêm quân, thêm súng SKZ, súng trọng liên, và gấp rút tổ chức đội hình tấn công.

Tiểu đoàn 2/43 đến tăng cường Định Quán vào buổi chiều, trước giờ tấn công, là một bất ngờ đối với giặc. Thông thường chúng phải học tập, thực tập trên sa bàn, lên kế hoạch hành quân chi tiết.

Suốt buổi sáng, vị trí đóng quân của Tiểu đoàn chỉ bị bắn pháo. Giặc chỉ bao vây, không tấn công. Các Đại đội 1, 3, và 4 nằm tiền đồn bên ngoài cũng trong tình trạng như thế. Chỉ bị bắn pháo. Hai khẩu pháo 105ly kéo theo đã có dịp bắn yểm trợ đắc lực cho quân bạn. Vào lúc quá trưa, các cao điểm chung quanh thị trấn đã thấy xuất hiện lá cờ máu. Tiếp theo cột cờ trong Quận cũng thấy ngọn cờ đỏ được kéo lên. Thiếu tá Quận trưởng bị bắt.

Trung đội Biệt kích/TĐ biệt phái bảo vệ quận, một số bị thương vong, thành phần còn lại rút chạy về đến Tiểu đoàn. Lợi dụng lúc Tiểu đoàn chưa bị tấn công, Đại đội 3/2 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng đang nằm tiền đồn bên ngoài, được lệnh phá vòng vây kéo về phối hợp Đại đội 2 của Trung úy Mười, và Đại đội Chỉ huy của Trung úy Thạch bảo vệ BCH/TĐ. Đại 4 của Trung úy Dương vẫn nằm tại chỗ ở hướng Bắc, và Đại đội 1 của Trung úy Hào ở hướng Đông quận.

Sau khi BCH Chi khu và các cao điểm chung quanh thị trấn thất thủ, Tiểu đoàn 2/43 là vị trí cuối cùng của Định Quán còn đứng vững, nhưng nằm cô đơn giữa biển giặc. Chiếm được quận, địch chuyển hướng tấn công Tiểu đoàn. Mũi tấn công mạnh nhất xuất phát từ hướng Đông - Nam. Đó là tuyến bố phòng của Đại đội Chỉ huy, nơi đặt hai khẩu pháo. Để trả lời các đợt tấn công biển người của quân CSBV, vị Trung đội trưởng pháo cho hạ thấp nòng, trực xạ vào đội hình tấn công của chúng. Những trái đạn chống biển người với hàng ngàn mũi tên bắn chính xác, cùng với tiểu liên M.16, đại liên M.60, và lựu đạn M.26 của bộ binh, đã đốn ngã quân giặc đông như kiến. Nhưng lớp này ngã xuống, lớp khác lại tiến lên. Cảnh tượng giống như khi ta dí ngón tay, giết đàn kiến di chuyển. Một số kiến chết, chúng tản ra, rồi tụ lại tiếp tục. Chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn. Địch bị sát hại rất nhiều. Cứ sau một đợt tấn công thất bại, chúng tạm ngừng, lo tản thương, tái tổ chức đơn vị, lại mở đội hình tấn công đợt khác. Giặc cố dồn quân dứt điểm vị trí kháng cự cuối cùng này. Vị sĩ quan không yểm bay trên chiếc L-19 bao vùng rất tận tụy. Những phi tuần chiến đấu A-37, F-5E, AD-6 thay nhau dội bom lên đầu quân giặc. Thật cảm động khi Tiểu đoàn trưởng hỏi sao không có người thay thế mà từ lúc sáng tới giờ, vẫn là người bạn không quân ấy. Anh bảo những người khác cũng đang bận rộn, chỉ còn lại anh. Giặc sử dụng cả Trung đoàn 141 bao vây tấn công. Tên Trung đoàn phó Bé Ích Quan trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 2/141. Vị trí phòng thủ của Tiểu đoàn 2/43 chỉ có 2 Đại đội Tác chiến và Đại đội Chỉ huy. Cứ sau một đợt bắn pháo tàn bạo, là đợt tấn công biển người. Theo Thiếu úy Nù, Trung đội trưởng pháo tăng phái, hiện định cư tại Tiểu bang Massachusetts, khi kéo pháo theo TĐ2/43, Thiếu tá Nguyễn Tiến Hạnh, Tiểu đoàn trưởng TĐ181PB đã cho mang theo nhiều trái đạn pháo chống biển người. Chính nhờ loại đạn hiếm này được xử dụng tối đa, đã ngăn chận kịp thời những đợt tấn công của giặc.

Trời về chiều, giặc điều thêm quân. Trận chiến trở nên ác liệt. Quân bạn sắp hết đạn. Tình hình trở nên nguy khốn. Vị trí có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào. Vị Trung đội trưởng Pháo được mời đến :

“Anh còn bao nhiêu trái đạn chống biển người ?

“Hai trái, thưa Thiếu tá.

“Vậy chỉ xử dụng khi thấy địch quá đông. Nhớ phải bắn chính xác vào đội hình tấn công của chúng.

“Nhận hiểu, Thiếu tá”.

Trong lúc đó máy bay vẫn thay nhau đánh bom. Tiểu đoàn trưởng xin đánh bom gần. Có lúc đã xin đánh ngay trên đầu. Người bạn không quân bay trên cao an ủi :

“Thẩm quyền đừng tuyệt vọng. Tôi sẽ cố điều chỉnh chính xác vào đầu giặc”.

Thật sự vị Tiểu đoàn trưởng cũng hơi tuyệt vọng. Nhưng trách nhiệm quá nặng nề. Là một chiến binh của QLVNCH oai hùng, anh nhất định không để đơn vị lọt vào tay giặc. Cả một Trung đoàn quân CSBV đang bao vây tiêu diệt Tiểu đoàn anh. Nếu không thoát được, nếu phải chết thì phải chết sao cho xứng đáng !

Những loạt bom đánh gần rơi trúng ngay đội hình tấn công của địch. Giặc chết vô số. Tiếng rên la dậy trời. Chúng đang cầu xin và than khóc : “Bác ơi ! Đảng ơi ! Con chết mất !” Tuyệt nhiên không hề nghe thấy tiếng “Trời ơi !” hay “Bố Mẹ ơi !” Những tên lính “Sinh Bắc Tử Nam” này là đội quân tiên phong của Quốc tế Cộng sản. Chúng chiến đấu không phải cho gia đình, cho Tổ quốc Việt Nam, mà cho Bác Hồ và Đảng Cộng sản của chúng. Chúng bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị tẩy não để thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng của Hồ Chí Minh. Lão Hồ khi đến thăm khu lăng mộ của Đức Trần Hưng Đạo, đã hợm hĩnh đề thơ :

“Bác đưa một nước qua nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.


Ta đừng lấy làm lạ khi Phạm Văn Đồng theo lệnh Hồ Chí Minh, thi hành chỉ thị của đảng CSVN, ký văn kiện dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung cộng.

Trong chiến trận, người chiến binh phải chấp nhận thương đau, chấp nhận nổi bất hạnh. Và phút bất hạnh đã đến với đơn vị khi hai trái bom cuối cùng rơi ngay tuyến phòng thủ. Ta với giặc cùng chết. Quân bạn chịu một số tổn thất. Đội hình tấn công của giặc áp sát quân bạn, bị hai trái bom tiêu diệt, tan rã. Lợi dụng lúc giặc bối rối, số sống sót tản mát vào các cụm rừng, Tiểu đoàn trưởng gọi máy gặp trực tiếp Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, xin lệnh đưa đơn vị ra khỏi vòng vây. Phối hợp cùng hai đại đội bên ngoài, đơn vị phá vòng vây giặc, di chuyển đến bố trí quân trên một cụm đồi ở hướng Tây.

Suốt ngày chống trả đơn độc. Không có pháo yểm trợ. Tiểu đoàn chỉ trông chờ vào không quân. Mệt mỏi rã rời, đạn dược cạn, con số thương vong mỗi lúc lên cao. Đơn vị đã mất khả năng chiến đấu nhạy bén. Tại cụm đồi này, Tiểu đoàn trưởng dự định nghỉ ngơi lấy lại sức, sau đó vào lúc nửa khuya sẽ di chuyển về cầu sông La Ngà, sẽ mang theo với gần 100 thương vong.

Bản tin buổi chiều đài BBC hôm đó loan tin quận Định Quán thất thủ. Nhưng sau đó, phát ngôn viên chính phủ, Trung tá Lê Trung Hiền họp báo cải chính: “Quận Định Quán chưa mất, hiện quân chính phủ đang tổ chức phản công địch…”

Tin của đài BBC và lời đính chính của phát ngôn viên chính phủ đều đúng. Khi Tiểu đoàn 2/43 vào vùng chiều ngày 17 tháng Ba, để thống nhất chỉ huy, Tướng Đảo chỉ thị đặt tất cả lực lượng quân sự tại Định Quán dưới quyền chỉ huy của TĐT/TĐ2/43. Do đó khi Trung tá Hiền nói Định Quán chưa mất thì cũng đúng, vì TĐ2/43 vẫn còn nằm tại Định Quán.

Trong lúc đó địch vẫn bám sát, nhưng chưa có hành động nào. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165, được tăng cường thêm 4 xe tăng. Trong đêm, chúng điều quân bao vây, vòng vây mỗi lúc một khép kín, xiết chặt dần dần.

Đêm đó bầu trời đầy sao, có vầng trăng khuyết. Ánh sáng yếu ớt tỏa xuống trần gian, một thứ ánh sáng nhợt nhạt, lạnh lẽo! Từ trên đồi cao, ta có thể thấy rõ ràng địch đang điều quân ở bên dưới. Trông chúng như những con ma đi ăn đêm. Tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng giả chim, giả thú rừng. Nhưng pháo từ Chiến đoàn bắn không tới. Ban đêm máy bay không hoạt động được. Chỉ còn một phương tiện hỏa lực yểm trợ duy nhất là 2 cây đại pháo 175ly ở Xuân Lộc. Nhưng cứ mỗi 5 phút hay lâu hơn mới bắn được một trái, mà độ sai số thì quá lớn, do đó không thể bắn yểm trợ gần quân bạn được.

Lối 9 giờ đêm, Tướng Tư lệnh gọi nói chuyện với Tiểu đoàn trưởng. Ông cho biết vì lời cải chính của phát ngôn viên chính phủ, Tướng Tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Văn Toàn quyết định TĐ2/43 phải ở lại Định Quán. Sẽ có quân cứu viện vào ngày mai để mở cuộc hành quân tái chiếm thị trấn Định Quán. Nhưng ngày mai đó đã không bao giờ đến! Lối 5 giờ sáng, với chiến thuật cố hữu “Tiền pháo Hậu xung”, quân địch có chiến xa dẫn đầu, đông gấp bội lần, đã đè bẹp vị trí bố phòng tạm bợ của TĐ2/43 với vũ khí đã cạn hết đạn dược. Giặc xông lên, tràn ngập ngọn đồi. Lúc đó TĐT, và vị sĩ quan tiền sát pháo binh đang cố điều chỉnh bắn pháo. Đột nhiên người lính cận vệ la lớn : “Bảo Định ! Bảo Định ! (danh hiệu truyền tin của TĐT)” Vị TĐT ngước nhìn lên. Một toán bộ đội cộng sản với súng AK đã gắm lưởi lê đang tiến lại gần, khoảng cách rất ngắn. Tiểu đoàn trưởng chỉ kịp hét lên : “Lăn xuống núi !” Và những người lính còn lại chỉ kịp lăn xuống triền dốc, lẫn sâu vào rừng cây. Sau đó tìm cách di chuyển về cầu sông La Ngà.

Buổi chiều ngày 19 tháng Ba, đơn vị về đến cầu sông La Ngà, được trực thăng tiếp tế lương thực và đạn dược. Trực thăng bốc đi những thương binh. Linh mục cai quản họ đạo sở tại đến thăm. Cha tự giới thiệu là cựu Trung úy Quân đội Quốc gia, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, cha tâm sự :

“Chiều hôm kia thấy tiểu đoàn con di chuyển lên Định Quán là cha thấy không xong rồi. Lối một tuần lễ trước đây, cha bị họ đưa vào rừng cho coi một cuộc biểu dương lực lượng. Cha thấy chúng có nhiều quân, nhiều đại pháo, và lối 10 chiếc xe tăng”.

Tin tức của cha phù hợp với báo cáo của Trung úy Hào, ĐĐT/ĐĐ1/2 bố trí quân ở hướng Đông quận lỵ. Buổi sáng khi Cộng quân mở cuộc tấn công Chi khu, trước tuyến bố phòng của đại đội, xuất hiện 10 chiếc xe tăng. Những chiếc xe này chỉ nổ máy, chạy qua chạy lại, mà không tiến vào thị trấn. Hình như chỉ để thị uy, hay chúng sợ không dám vượt qua tuyến bố phóng của quân bạn. Tin này được gửi ngay về Sư đoàn. Khi Tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn về thăm BTL/SĐ18BB tại Xuân Lộc, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ thuyết trình cho biết có 10 chiếc xe tăng địch xuất hiện tại mặt trận Định Quán. Tướng Toàn không tin. Ông nói: “Chúng đi đường mô mà đến đó”. TĐT/TĐ 2/43 được gọi đến trình diện. Tướng Toàn đã không có lời bình luận nào khi vị TĐT trình bày những điều mắt thấy tai nghe. Sau này khi đi tù, đọc báo “Quân đội Nhân dân”, tình cờ đọc bài viết về cách vượt sông của những đoàn xe cơ giới và thiết giáp. Có thể là tác giả cường điệu. Chúng chọn những khúc sông cạn, dùng những bó chà, tre nứa và cây rừng cột lại làm cầu phao. Trần Văn Trà viết hồi ký cho biết được Liên Xô cung cấp mấy bộ cầu ghép. Phó phòng Công binh Miền Bùi Hữu Trừ, tức Sáu Nhản báo cáo :

“Tất cả xe pháo đều được đưa qua sông trên phà ứng dụng: giữa là khoang thuyền hiện đại, hai bên là vật nổi tự tạo…”

Buổi tối hôm đó, Tiểu đoàn đóng quân ngay dưới gầm cầu La Ngà, gần căn cứ Tiểu đoàn/ĐPQ. Thiếu tá Quay rất ưu ái TĐT/TĐ2/43. Vì chỉ vài năm trước, họ đã gặp nhau tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Thiếu tá Quay là Đại đội trưởng Khoá sinh, vị TĐT bây giờ, lúc đó là khóa sinh ĐĐT. Tình thầy trò, tình chiến hữu dễ thân nhau. Nhưng rất tiếc, họ đã không có dịp cùng nhau chống trả quân địch, khi đơn vị ĐPQ này bị đại bại vài ngày sau đó. Thiếu tá Quay đã bị bắt.

Lúc trời gần sáng, TĐ2/43 được lệnh di chuyển về Túc Trưng. Ngày hôm sau, được quân xa đưa về Xuân Lộc. Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở Núi Thị.

Trong thời gian gần 20 ngày, trước khi tham gia trận chiến cuối cùng, đơn vị được bổ sung quân số. Tiểu đoàn đã đạt được con số trên 600, tương đối khá đầy đủ. Dù tình trạng khẩn trương, giặc đang gần kề, nhưng đơn vị có một số lớn là tân binh, kể cả sĩ quan từ các khóa chót của Trường Võ Bị Quốc Gia ĐàLạt, nên cần được huấn luyện bổ túc tại chỗ. Việc sinh hoạt chính huấn để hun đúc tinh thần cũng không thể bỏ sót. Dù bận rộn, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo cũng đã đến đơn vị tâm tình với quân sĩ hai lần.

IV. TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH: MẶT TRẬN XUÂN LỘC

A/- CHUẨN BỊ CHIẾN TRƯỜNG

Thị xã Xuân Lộc như một ấp chiến lược, chiều dài vài cây số, chạy dọc theo QL.1, theo hướng Bắc - Nam; chiều ngang khoảng 1 cây số, theo hướng Đông - Tây. Hầu hết khu vực dân cư, phố xá, các cơ sở hành chánh, trường học và căn cứ quân sự đều nằm hướng Đông. Phía Tây QL.1 là rừng cao su, trải dài đến Núi Thị, xa hơn là đèo Mẹ Bồng Con. Khu vực giữa thị xã và Núi Thị không thể là con đường xâm nhập của Cộng quân, nên được giao cho lực lượng diện địa phòng thủ. Vòng cung hướng Đông tiếp giáp với rừng, do lực lượng cơ hữu Sư đoàn đảm nhận. Hai đầu thị xã, Tướng Tư lệnh cho đắp những ụ chống chiến xa. Hàng rào bao quanh thị xã được tăng cường thêm những vòng rào kẽm gai concertina. Một loại kẽm gai vòng ngăn chận xe thiết giáp rất hữu hiệu. Mìn chống chiến xa được cấp phát tối đa, được gài đặt bất cứ nơi nào xe tăng giặc có thể mò đến.

Trong kho đạn của Sư đoàn, có nhiều loại hỏa tiễn chống chiến xa của trực thăng, loại nòng cở 2.75. Đây là loại hỏa tiễn quân CSBV đã xử dụng trong trận chiến An Lộc hồi mùa hè năm 1972. Chúng lấy được từ những kho vũ khí của Quân đội Hoa Kỳ để lại tại Phi trường Quảng Lợi. Ống phóng chỉ là ống nứa chẻ làm đôi với cục pin là đủ. Tầm xa độ vài trăm mét. Đạn đạo không chính xác, nhưng cũng gây thiệt hại đáng kể khi trúng mục tiêu. Tướng Đảo cho mở kho, cung cấp loại đạn này cho quân sĩ, và huấn luyện họ cách xử dụng. Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa là đơn vị sở đắc thứ này nhiều nhất. Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ, bố phòng tại cửa ngõ QL.1, từ Cua Heo đi vào thị xã, và các cao ốc bên trong Xuân Lộc.

Để đề phòng tình huống xấu, Sư đoàn cho thiết lập nhiều căn cứ hỏa lực. Quan trọng hơn hết là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Do địa thế núi cao, tầm quan sát rộng, những khẩu pháo đặt tại đây có thể khống chế khu vực ngã ba Dầu Giây và thị xã Xuân Lộc nằm bên dưới. Ngoài Trung tâm Hành quân tại BTL/SĐ cũ ở hậu cứ, 3 Trung Tâm khác được thiết lập tại Tư dinh Tướng tư lệnh, ở ngã ba Tân Phong ( số 2, gần quận đường Xuân Lộc), và Núi Thị (số 3, căn cứ Tiểu đoàn 2/43). Mỗi vị trí đều được thiết kế đầy đủ thiết bị cho một Trung tâm Hành quân cấp Sư đoàn.

Tiểu đoàn 18 Quân Y và Bệnh xá Sư đoàn di chuyển về căn cứ Long Bình. Thân nhân và gia đình binh sĩ được khuyến khích về Biên Hòa.

“Văn ôn, võ luyện” là điều các đơn vị trưởng luôn bận tâm. Dù chiến trận đang gần kề, quân CSBV đã chiếm hết Vùng 1 và Cao Nguyên Trung phần, bộ đội của chúng đã vào đến Nhatrang, nhưng việc huấn luyện binh sĩ vẫn không hề xao lảng. Các đơn vị vẫn thường xuyên được huấn luyện tại chỗ và sinh hoạt chính huấn. Trong giai đoạn hiện tại, quân CSBV đã thường xuyên xữ dụng xe tăng và xe bọc thép phối hợp cùng bộ binh tấn công ta. Do đó binh sĩ phải được huấn luyện kỹ thuật chống chiến xa, cách sử dụng súng M.72 và XM.202 sao cho chính xác. Đây là 2 loại hỏa tiễn chống tăng rất hữu hiệu. Các đơn vị lại được cấp phát thêm loại đạn M.79 chống chiến xa. Với khẩu súng nhẹ nhàng, lối 3 kg, có tầm bắn xa hơn 300 mét, là vũ khí chống chiến xa tiện lợi.

BTL/Quân đoàn III cho tăng phái đến mặt trận Xuân Lộc 2 khẩu đại bác tự hành 175ly đặt trên bánh xe xích với tầm tác xạ trên 30 cây số.

B/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

1/- Địch :

Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy.

Hoàng Cầm tên thật Đỗ Văn Cẩm, sinh năm 1920, con nhà nghèo, mù chữ, chỉ biết đọc biết viết sau khi đã vào bộ đội Việt Minh, tham gia lớp học bình dân học vụ. Năm 21 tuổi đi lính khố xanh, rồi đào ngũ, sau đó tham gia Việt Minh. Cuộc đời binh nghiệp của Hoàng Cầm leo lên từ cấp Tiểu đội trưởng (1946) đến cấp Thượng tướng (1987). Trong trận Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209 (còn có tên Trung đoàn Sông Lô) thuộc Đại đoàn 312, Cầm chỉ huy đơn vị đánh chiếm Trung tâm Chỉ huy của Tướng Pháp de Castries. Tháng 7 năm 1974, Quân đoàn 4 thành lập (Còn gọi Binh đoàn Cửu Long), Hoàng Cầm được cử làm Tư lệnh Quân đoàn tân lập này.

Người xưa có nói : “Nhân bất học, bất tri lý”. Học vấn là chìa khóa của tri thức. “Nhỏ không học, lớn làm Tướng” là một đại họa cho một đạo quân. Với khoảng 40 ngàn quân trong tay, tiến đánh một đối thủ chỉ có vỏn vẹn 5 ngàn quân, Thiếu tướng Hoàng Cầm đã không làm nên cơm cháo gì, lại bị thảm bại. Hắn đã nướng ít nhất 10 ngàn quân dưới quyền. Nhưng Hoàng Cầm vẫn được thăng cấp, thăng chức! Thật ra cái gọi là “Quân đội Nhân dân” của CSBV không thể làm khác. Nếu cách chức, lột lon Hoàng Cầm thì hóa ra công nhận thất bại hay sao. Chúng phải nuôi ảo tưởng chiến thắng để đánh lừa nhân dân và quân đội. Hằng năm chúng vẫn trơ trẽn làm Lễ Chiến Thắng Xuân Lộc !

Một Quân đội văn minh và tiên tiến như QLVNCH thì ngược lại : Có công thì thưởng, có tội phải phạt. Đó là trường hợp của Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, cựu Tư lệnh Sư đoàn 3BB bị lột lon, bị cách chức khi để mất tỉnh Quảng Trị hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972. Mặc dù lúc đó Sư đoàn 3BB do ông Chỉ huy không thể đối đầu với đại quân của CSBV ngang nhiên vượt sông Bến Hải. Nhưng vì là Tướng chỉ huy, ông phải chịu trách nhiệm về sự bại trận của đơn vị mình.

Khi tham gia trận đánh Xuân Lộc, QĐ4 có các đơn vị cơ hữu và thống thuộc như sau :

· Sư đoàn 6 do Đặng Ngọc Sĩ (Phó Tư lệnh Quân khu) chỉ huy, có các Trung đoàn 33, 274, 812.
· Sư đoàn 7 do Lê Nam Phong (tên này tính nóng như lửa, ăn nói cộc cằn và thô lỗ) chỉ huy, có các Trung đoàn 141, 165, 209.
· Sư đoàn 341, khi sát nhập vào QĐ4, được cải danh là Sư đoàn 1, do Trần Văn Trấn (tên này bị quân ta bắt làm tù binh, được trao trả hồi Hiệp định ngừng bắn Paris) chỉ huy, có các Trung đoàn 266, 270, 273.
· Trung đoàn 26 xe tăng, có các Tiểu đoàn 21, 22 và 1 Tiểu đoàn vừa từ Miền Bắc vào. Vào những ngày cuối, QĐ4 còn được tăng viện thêm 1 ĐĐ xe tăng.

Các đơn vị tăng cường :

· Trung đoàn 95B (vào vùng trước ngày 15.4.75).
· Sư đoàn 325, có các Trung đoàn 18, 95, 101 (vào vùng ngày 15. 4.75).
· Liên đoàn 75 Pháo binh.
· Quân đoàn 2 của Nguyễn Hữu An, có thêm Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh (xuất hiện ở Rừng Lá ngày 21.4.75).

2/- Bạn :

Sư đoàn 18BB do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh.

Chuẩn tướng Lê Minh Đảo sinh năm 1933 tại Gia Định, tốt nghiệp Khoá 10 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Cuộc đời binh nghiệp của ông bắt đầu từ Sĩ quan Cán bộ Trường VBQGVN, Sĩ quan Tùy viên Tướng Lê Văn Kim, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/31/SĐ21BB, Trung đoàn phó TrĐ31/SĐ21BB, Giám đốc TTHQ Quân đoàn IV & Quân khu 4, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng các Tiểu khu Long An, Chương Thiện và Định Tường. Từ Tháng 3/1972 đến tháng 4/1975: Tư lệnh Sư đoàn 18BB. Vinh thăng Chuẩn tướng ngày 1.11.1972, Thiếu tướng ngày 25.4.1975.

Theo sự đánh giá của của Bộ TTM/QLVNCH và Đồng Minh, Sư đoàn 18BB là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng. Nhưng đơn vị này đã nhận được luồng gió mới kể từ khi Đại tá Lê Minh Đảo về giữ chức Tư lệnh. Ông đã dẫn dắt sư đoàn từ yếu kém trở thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH trong giai đoạn cuối: “…the 18th Division proved in the end to be the best division in the Republic of Vietnam Armed Forces” (Historical Atlas Of The Vietnam War). Mãi đến năm 1972, Quân kỳ Sư đoàn chỉ được tưởng thưởng 1 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, nhưng đến năm 1975, QK/SĐ đã được tưởng thưởng thêm 3 ADBT với Nhành DL, và được vinh dự mang Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội tinh (màu xanh). Ông là một trong số các vị Tướng lên cấp không dựa vào chính trị. Ông cũng là 1 trong 4 vị Tướng được CSBV thả ra cuối cùng sau 17 năm tù cải tạo. Một người bạn Mỹ của ông, Richard Childress, Giám đốc Á châu Sự vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống Reagan, đặc trách về Tù binh, thường có dịp làm việc với Nguyễn Cơ Thạch, Ngoại trưởng của Hànội, đã yêu cầu Thạch phóng thích người bạn. Thạch hỏi ai, Childress nói Lê Minh Đảo. Thạch nhăn nhó và lầu bầu: “Đó là một gả cứng đầu” (That’s a tough one). Theo George J. Veith & Merle L. Pribenow

II – Fighting Is An Art.

Thiếu tướng Lê Minh Đảo đến định cư Hoa kỳ tháng 4 năm 1993, sau 17 năm tù dưới chế độ Cộng sản bạo tàn. Ông là một trong 4 vị tướng QLVNCH được nhà cầm quyền CS Hànội thả ra cuối cùng (Ba vị kia là Thiếu tướng Đổ Kế Giai, Chuẩn tướng Lê Văn Thân và Thiếu tướng Trần Bá Di).

Tại Xuân Lộc, lực lượng tham chiến gồm có :

· Trung đoàn 43 do Đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy.
· Trung đoàn 48 do Trung tá Trần Minh Công chỉ huy.
· Trung đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy.
· Đại đội 18 Trinh sát do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy.
· Biệt đội Kỹ thuật/Phòng 7/BTTM do Đại úy Phát chỉ huy.
· Thiết đoàn 5 Kỵ binh do Trung tá Trần Văn Nô chỉ huy.
· Pháo binh Sư đoàn : Tiểu đoàn 180 (155ly), và các TĐ/Pháo 105ly: 181, 182, 183.
· 2 khẩu đại bác tự hành 175ly của PB/QĐIII tăng phái.
· Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy.
· Lữ đoàn 1 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy.
· Các đơn vị ĐPQ và NQ/LK tại Xuân Lộc của Đại tá Phạm Văn Phúc.

C/- PHỐI TRÍ LỰC LƯỢNG

Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Mặt Trận Xuân Lộc (Trần Đỗ Cẩm)

1/- Địch :

* Sư đoàn 6/CSBV do Đặng Ngọc Sĩ, Phó Tư lệnh Quân khu 7 chỉ huy. Từ những cánh rừng vùng Tánh Linh và Hoài Đức, vượt qua QL.1 (Khu vực Rừng Lá), vượt qua LTL.2 (Xuân Lộc – Bà Rịa), nhanh chóng di chuyển xuyên qua đồn điền cao su Ông Quế, tiến về hướng Bắc, Sư đoàn này tung các đơn vị áp sát QL.1 tại vùng ngã ba Dầu Giây. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại Suối Râm, cách ngã ba Dầu Giây 9 cây số về hướng Nam:

· Trung đoàn 274 chiếm đèo Mẹ Bồng Con, một phần ấp Trần Hưng Đạo, tổ chức hệ thống kiềng chốt để ngăn chận quân bạn từ ngã ba Dầu Giây hay từ Xuân Lộc.
· Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu, tổ chức hệ thống kiềng chốt đến xã Hưng Lộc.
· Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị.
· Sư đoàn có 2 khẩu DKZ, 3 khẩu pháo 105ly và 2 khẩu cối 120ly, bố trí cách ngã ba Dầu Giây 5 cây số về hướng Nam, tại vùng Suối Bi, Suối Hòn.

* Sư đoàn 7/CSBV do Lê Nam Phong chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su vùng đồn điền An Lộc, tiến sát Thị xã Xuân Lộc ở hướng Đông - Nam :
· Trung đoàn 165 áp sát vòng đai thị xã ở hướng Đông - Bắc, tiến đánh khu vực hậu cứ Sư đoàn 18BB và các đơn vị thống thuộc.
· Trung đoàn 209 áp sát hướng Đông - Nam. Tiến chiếm sân bay thị xã và Tòa Hành chánh Tỉnh. Đơn vị này bị Tiểu đoàn 82/BĐQ chận lại, không tiến lên được.
· Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị. Nhưng bước qua ngày 10.4, tên Tham mưu trưởng Sư đoàn đã sử dụng đơn vị trừ bị này và Tiểu đoàn Phòng không vào chiến đấu. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165 tiến đánh hậu cứ SĐ18BB, hậu cứ Thiết đoàn 5 Kỵ binh và hậu cứ Trung đoàn 52. Nhưng chúng đã bị các chiến binh 18 chận đứng từ bên ngoài.

* Sư đoàn 341/CSBV do Trần Văn Trấn chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su đồn điền Bình Lộc, di chuyển áp sát thị xã ở hướng Bắc. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại vùng Suối Đá Bàn trong đồn điền Bình Lộc, cách Xuân Lộc lối 6 cây số về hướng Bắc, nhưng Sư trưởng Trần Văn Trấn đi theo cánh quân Trung đoàn 266 tiến chiếm Thị xã :

· Trung đoàn 266 áp sát Cua Heo, tiến qua làng TPB, đánh khu bến xe Long Khánh, chợ Xuân Lộc, và tư dinh Tỉnh trưởng.
· Trung đoàn 270 áp sát Núi Thị, tiến đánh TĐ2/43 đang bảo vệ căn cứ hỏa lực gồm 12 khẩu pháo binh Sư đoàn.
· Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị.

2/- Bạn :

* Chiến đoàn 43 : Phòng thủ thị xã Xuân Lộc.

- Tiểu đoàn 3/43 do Thiếu tá Nguyễn Văn Dư chỉ huy, phối hợp với các đơn vị Chiến xa và Thiết kỵ của Thiết đoàn 5 Kỵ binh, phòng thủ từ Trại Huỳnh Văn Điền (Hậu cứ Trung đoàn 52), vòng ra phía Đông, vòng đai bên ngoài hậu cứ Sư đoàn và hậu cứ các đơn vị.

- Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, trấn giữ cao điểm Núi Thị, cách thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây, nằm bên ngoài tuyến phòng thủ của Xuân Lộc, vào hệ thống truyền tin trực tiếp với Sư đoàn.

- Tiểu đoàn 1/43 do Đại úy Đổ Trung Chu chỉ huy, biệt phái Trung đoàn 48 (sau khi Xuân Lộc bị tấn công, Tiểu đoàn 2/48 từ Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy được trả về), thì đơn vị này trở lại với Trung đoàn.

- Thiết đoàn 5 Kỵ binh (- Chi đoàn 2/5 Thiết kỵ và 1 Chi đội Chiến xa M-41).

- Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy, bố trí quân tại sân bay Thị xã.

- Đại đội 43 Trinh sát do Trung úy Dương Trọng Khoát chỉ huy, hoạt động vùng Tây - Nam Núi Ma, vào hệ thống truyền tin của Chiến đoàn 52.

* Chiến đoàn 48 : Hoạt động bảo vệ an ninh QL.1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray. Ngày 12.4.75, Trung đoàn 48 bàn giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, sau đó di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong đến Long Giao, làm lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.

- Tiểu đoàn 1/48 do Thiếu tá Trần Cẩm Tường chỉ huy.

- Tiểu đoàn 2/48 do Thiếu tá Đổ Duy Luật chỉ huy.

- Tiểu đoàn 3/48 do Thiếu tá Nguyễn Phúc Sông Hương chỉ huy.

- Đại đội 48 Trinh sát.

- Các đơn vị yểm trợ.

* Chiến đoàn 52: Hoạt động bảo vệ an ninh QL.20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân.

- Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú chỉ huy, bố trí quân tại ngã ba Dầu Giây.
- Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy. Đêm 11.4.75, Tiểu đoàn được lệnh di chuyển vào Xuân Lộc, vào hệ thống chỉ huy của Chiến đoàn 43.
- Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, trấn giữ đồi Móng Ngựa.
- Đại đội 52 Trinh sát
- Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ và 1 Chi đội CX/M-41 do Đại úy Vũ Đình Lưu chỉ huy.
- Tiểu đoàn 182 Pháo binh do Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước chỉ huy.
- Trung đội Hỏa tiễn TOW.
- Một toán Công binh
- Đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh.

* Đại đội 18 Trinh sát : do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy, bố trí quân trên các cao ốc, khu vực trường học và nhà thờ. Một Trung đội lập tuyến phòng thủ tại cổng số 1, một Trung đội bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ đặt tại Dinh Tướng Tư lệnh.

D/- DIỄN TIẾN

1/- Từ ngày 9 đến 11.4.1975 :

Tờ mờ sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, quân CSBV bắn vào thị xã Xuân Lộc hàng ngàn trái đạn pháo. Pháo rơi vào khu dân cư và bệnh viện, khu trường học, nhà thờ và chùa chiền, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Một số đạn pháo rơi vào các trại gia binh, hậu cứ các đơn vị Sư đoàn và Tiểu khu Long Khánh. Nhưng pháo giặc chỉ gây thiệt hại nhẹ cho quân trú phòng. Bởi vì tất cả các chiến binh Sư đoàn 18BB đang nằm trong các chiến hào trên tuyến phòng thủ bao quanh Thị xã.

Tư dinh Tướng Tư lệnh trúng pháo. Pháo giặc rót vào như mưa, cùng khắp, kiểu như vãi trấu. Không một thước đất nào của thị xã Xuân Lộc là không bị đạn pháo giặc cày nát. Một số đạn xuyên qua mái nhà. Ngôi nhà hai tầng lầu, mái ngói. Vài trái đạn rớt xuống ngay phòng ngủ. Nhưng thật may mắn! Ông Tướng không có ở trong nhà. Ông đang ở BTL/SĐ tại Long Bình. Tưởng cũng nên biết, khi Sư đoàn 18BB nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB của Tướng Lê Văn Hưng, đơn vị đã đặt BTL/Tiền Phương tại căn cứ Long Bình. Các đơn vị yểm trợ và tiếp liệu của Sư đoàn cũng dời về Long Bình để tiện việc ra vào An Lộc bằng cầu hàng không. Sau đó khi hết nhiệm vụ ở An Lộc, Sư đoàn 18BB trở thành lực lượng cơ động của Quân đoàn III, hành quân hoạt động cùng khắp lãnh thổ Vùng 3 Chiến thuật. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo đã trình xin Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, được tiếp tục xử dụng một phần căn cứ Long Bình. Từ đó Hậu cứ Sư đoàn với các Phòng Ban, và cơ sở Tiếp vận đều di chuyển về đây. Hậu cứ BTL/SĐ tại Long Bình được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Huỳnh Thao Lược, Tham Mưu Trưởng Sư đoàn. Vào những ngày biến động, chuẩn bị trận chiến, Xuân Lộc chỉ là nơi đặt BTL/Tiền Phương Sư đoàn. Tướng Lê Minh Đảo thường xuyên đi về giữa Tiền phương (Xuân Lộc) và Hậu cứ (Long Bình).

Buổi chiều ngày hôm trước, nghe tin Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn III tử nạn, ông bay về Biên Hòa để xem hư thực về cái chết của Tướng Hiếu. Đồng thời ông cũng ghé lại Hậu cứ Sư đoàn gặp Đại tá Lược, để biết rõ hơn về thực trạng tiếp liệu của đơn vị. Ông đã nghỉ qua đêm tại đây. Vào lúc quân CSBV bắn pháo và mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, ông được Đại tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng Hành quân Sư đoàn báo cáo. Ngay tức thì, ông bay vào Xuân Lộc, có mặt tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn vừa di chuyển đến ngã ba Tân Phong, gần quận đường Xuân Lộc.

Quân CSBV ấn định giờ “G” tấn công là 5 giờ 30. Nhưng tại Chỉ huy sở Sư đoàn 341, 10 phút trước khi khai hỏa pháo, các Tiền sát viên pháo cộng sản thấy sương mù chưa tan, vẫn còn dày đặc. Màn sương hạn chế tầm quan sát, nên xin trễ lại 10 phút. BTL/Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng Cầm chấp thuận. Đúng 5 giờ 40 phút sáng, Quân đoàn phát lệnh. (Theo George J. Veith & Merle L. Pribbenow II – “Fighting Is An Art”).

Các đơn vị pháo Quân đoàn 4/CSBV đồng loạt nổ súng. Hàng ngàn trái đạn pháo đủ loại trút xuống vùng đất nhỏ, diện tích chỉ vài cây số vuông. Trận mưa pháo dữ dội và tàn bạo, có tính cách hủy diệt. Pháo bắn liên tục, dồn dập đúng 1 tiếng đồng hồ. Hai trái pháo hiệu màu đỏ bắn lên trời cao, lóe lên, xuyên qua màn sương sớm. Tín hiệu tấn công đã phát đi.

a/- Góc chiến trường hướng Đông :

* Sư đoàn 7/CSBV :

Sư đoàn để Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 48 đang hoạt động trên QL.1, vùng ngã ba Tân Phong, tung 2 Trung đoàn tấn công Xuân Lộc bằng 2 mũi:

- Mũi tấn công của Trung đoàn 165 :

Đơn vị này có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường tấn công vào hướng Đông thị xã. Chiếc xe tăng T-54 đầu đàn trúng mìn, nổ tung. Quân trú phòng với M-16, M-60, đại bác 90ly của chiến xa đồng loạt nổ súng. Pháo từ Núi Thị bắn chận, ào ạt phá tan đội hình tấn công của giặc:

“Trúng ngay chiếc tăng T-54 rồi. bây giờ chiếc xe đã bị lật, nằm ngang trên ụ đất phía ngoài vòng đai…”

Tiếng báo cáo oang oang trên máy PRC-25 của Trung úy Pháo binh Đinh Văn Phùng tại chiến tuyến cho Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, Pháo đội trưởng PĐA đang sát cánh cùng Trung đội 1A của Trung úy Trung tại Núi Thị, đã làm nức lòng quân bạn, làm phấn chấn tinh thần các chiến binh trong giờ phút sinh tử. (Theo Pháo thủ Nguyễn Hữu Nhân – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc Long Khánh).

Khi mặt trời lên, máy bay chiến đấu của Sư đoàn 3/KQ/QLVNCH cất cánh từ Phi trường Biên Hòa bắt đầu can thiệp. Những phi tuần A-37, F-5E thay nhau trút bom lên đầu giặc. Đám bộ đội CSBV xâm nhập, vượt qua được vài hàng rào kẽm gai thì vướng mìn banh xác. Đám bộ đội “cụ Hồ” đang lúng túng trong các bãi đất trống trải thì bị lưới đạn dày đặc của quân trú phòng bắn chận, chết phơi thây! Đám giặc ở tuyến sau thì nằm im bất động, nét mặt sợ hãi, ngơ ngác, chỉ muốn tìm cách chém vè! Chúng như con cá nằm trên thớt, đang chờ những nhát dao thành thạo của người nội trợ! Sau những loạt đạn pháo, là những đợt bom của không quân. Bom pháo thay nhau trút lên đầu giặc. Một số xe tăng bị trúng bom đạn cháy hoặc đứt dây xích, lúng túng, quằn quọai trong vũng lầy. Quân CSBV đã bị vướng vào “hàm cá mập”, không cách nào thoát ra được. Càng cố vùng vẫy, càng bị nuốt gọn!

Đợt tấn công đầu thất bại, giặc tổ chức đội hình mở đợt tấn công lần thứ hai. Nhưng các tay súng Chiến đoàn 43 đã chờ sẵn. Với loại hỏa tiễn 2.75 gắn trên dàn phóng tự tạo, phối hợp cùng pháo binh Sư đoàn, máy bay ném bom của Sư đoàn 3/KQ, xe tăng và bộ đội CSBV đang phơi mình trên vùng đất trống trải trước phòng tuyến, chỉ là món đồ chơi trẻ con. Trong một thời gian ngắn, 4 chiếc xe tăng của giặc đã bị tiêu hủy, rất nhiều bộ đội “cụ Hồ” bị phơi thây. Mũi tấn công này của Trung đoàn 165 đã bị chận đứng, đã thất bại hoàn toàn: “Sư trưởng Nam Long hét vào điện thoại chỉ huy hết mũi tiến công này đến mũi tiến công khác. Ông đang chỉ huy trận đánh mà nói năng rất tếu. Sư trưởng điện cho anh Đình chính trị viên D2 (tiểu đoàn 2): ‘Cái chốt bằng cái l. trâu ấy mà một ngày rồi các anh không ăn được à? Tôi ra lệnh nội đêm nay phải ăn cho hết cái l. trâu đó, nghe rõ chưa!’. Câu ra lệnh làm mọi người trong hầm chỉ huy ôm bụng mà cười”. (Ngô Minh, Sư đoàn 7/QĐ4 “Kể Về Trận Tấn Công Cứ Điểm Xuân Lộc).

- Mũi tấn công của Trung đoàn 209 :

Từ QL.1 ở hướng Đông, có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường, Trung đoàn 209/Sư 7 tiến về hướng sân bay thị xã. Nhưng đơn vị này gặp Tiểu đoàn 82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long chận lại:

“Khi chiếc PT-76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo binh Sư đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, ‘Biệt Động! Sát!’ ‘Biệt Động! Sát!’ Chiếc xe tăng đầu tiên lãnh trọn một quả M.72. Chiếc PT-76 xấu số cháy bùng. Những anh bộ đội Cộng sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau”.

“…Ngày qua ngày, …những tổ chống tank 3 người của TĐ82/BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T-54 này đến con cua T-54 khác.” (Thiếu tá Vương Mộng Long – Tháng Tư Lại Về).

Sau nhiều ngày vừa đi vừa chiến đấu để vượt thoát từ Cao Nguyên Miền Trung về, Tiểu đoàn 82/BĐQ chỉ còn khoảng 200 tay súng . Dù quân số ít, đang mệt mỏi, nhưng họ đã chiến đấu rất dũng cảm. Đơn vị này đã chống đở 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 209/CSBV có xe tăng yểm trợ. Đó là TĐ5 và TĐ7 bốn lần tấn công vào sân bay, nhưng không thành công. Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã đánh giá cao đơn vị này.

“Tiên Giao (Thiếu tá Long) đây Hằng Minh (Tướng Đảo) gọi !”
“Hằng Minh, Tiên Giao nghe”
“Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu, hết cục cựa ! Okay ?”
“Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!”
“Okay! You’re a man! Don’t let ‘em run away! Okay?”
“Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!”
“Kill ‘em! Kill ‘em Okay!”
“Vâng! Đây là cái tank thứ hai, ba…đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!”
“Okay! I like the way you fight!”
“Vâng, tôi nghe rõ 5!”
“You’re great! You’re excellent!”
(Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long - Tháng Tư Lại Về)

Điều đặc biệt của Tướng Đảo, mỗi khi có một đơn vị chạm địch từ cấp Đại đội trở lên, ông liền bay trực thăng C&C bao vùng. Từ cao nhìn xuống, ông có cái nhìn chính xác vị trí của ta và của giặc, hầu giúp đơn vị trưởng dưới đất điều quân. Để địch kiểm thính mà không hiểu được nội dung cuộc điện đàm khẩn cấp, ông xử dụng cả ba ngôn ngữ: Việt – Pháp – Anh. Trên đây là mẫu đối thoại bình thường của Tướng Đảo với các đơn vị trưởng ngoài mặt trận. Lệnh của ông truyền ra rất thân tình, rất “Huynh đệ chi binh”, chứ không thô lỗ, cộc cằn và hách dịch như cấp chỉ huy của CS.

b/- Góc chiến trường hướng Tây – Bắc :

* Sư đoàn 341/CSBV :

- Mũi tấn công của Trung đoàn 266 :

Sư đoàn 341 để Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Tên Sư trưởng Đại tá Trần Văn Trấn theo sát Trung đoàn 266, xuất phát từ những cánh rừng cao su thuộc đồn điền Bình Lộc, vượt qua ngã ba Cua Heo, qua làng Phế Binh, tiến vào khu vực bến xe, và khu chợ. Ba Tiểu đoàn của Trung đoàn 266 xâm nhập được vào vùng ven thị xã, nhưng bị pháo binh Sư đoàn và đại liên 20ly từ chiếc C.119 của Sư đoàn 3/KQ bắn hạ. Một toán bộ đội đặc công đột nhập Tư dinh Tỉnh trưởng treo cờ. Vài toán bộ đội khác đi lạc vào khu phố, khu trường học và nhà thờ thì gặp Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa chận lại. Một số bị tiêu diệt. Những tên sống sót tìm cách ẩn núp trong các cống rãnh, để rồi sau đó lần lượt 20 tên bị bắt làm tù binh. Chúng đều ở trong độ tuổi 17, chưa được huấn luyện đã bị đưa vào Nam. Đám này như Mán về thành. Thật sự thì chúng là đám khỉ trên rừng Trường Sơn mới xuống. Sợ chết, sợ tiếng súng, không quen trận mạc, chúng trốn chui trốn nhủi, hoặc tìm cách “chém vè”. Lúc bị bắt, cấp số đạn ít ỏi 70 viên mang theo, nhưng chưa bắn một viên nào !

Đợt đầu tấn công thất bại. Sư trưởng Trần Văn Trấn cho tổ chức lại đội hình, mở đợt tấn công lần thứ hai. Hắn điều quân chuyển hướng về hướng Đông, nhưng quân giặc lại gặp các chiến sĩ ĐPQ/LK chận lại. Ta với giặc đánh nhau ác liệt.

Lúc 11 giờ sáng, Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu tá Trần Cẩm Tường và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ của Đại úy Lê Sơn được lệnh phản công tái chiếm làng Thương Phế Binh. Quân bạn chạm súng dữ dội với đơn vị cộng quân tại Cua Heo. Giặc xử dụng chiến thuật biển người, đánh trả quyết liệt. Chúng cố thủ trong những căn nhà, cố gắng ngăn chận cuộc phản công của ta. Trận chiến thật gay go. Cuối cùng Trung đoàn 266 do đích thân tên Sư trưởng Trần Văn Trấn chỉ huy đã bị thảm bại trước cuộc phản công vũ bão của những chiến binh Sư đoàn 18. Kết quả ta bắt sống 3 tù binh, hàng trăm tên giặc bị hạ sát, trong đó có tên Chính ủy Trung đoàn, nhiều vũ khí bị tịch thu.

Ngày 11 tháng Tư, lúc 11 giờ 30, giặc tấn công trại Huỳnh Văn Điền (hậu cứ Trung đoàn 52), nằm trên đường Hoàng Diệu. Đây là căn cứ cũ của Trung đoàn Kỵ binh Mỹ do Đại tá Patton, con trai của cố Danh tướng Thiết giáp Mỹ Patton, chỉ huy. Lực lượng phòng thủ chỉ là quân nhân hậu cứ, những quân nhân loại 2 chờ giải ngũ, những bệnh binh đang nghỉ dưỡng sức, và một vài gia đình binh sĩ không chịu xa chồng. Nhưng Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong tung Trung đoàn 141 có chiến xa yểm trợ, từ hướng ấp Bảo Vinh A tấn công. Quân nhân hậu cứ 52 đã chống trả quyết liệt. Tất cả bọn họ đã trở thành những chiến sĩ dũng cảm. Cổ nhân từng nói: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”. Huống hồ họ là lính, là vợ, là con của lính. Đây là trận chiến có tính cách quyết định. Họ phải chứng tỏ cho CSBV thấy rằng quân dân Miền Nam yêu chuộng Tự Do, dù phải chết, cũng chiến đấu đến cùng. Họ không bao giờ chấp nhận chế độ độc tài Cộng sản. Kết quả phe ta đã hạ sát hơn 50 tên giặc xâm lược, tịch thu 32 vũ khí đủ loại, bắn cháy 2 xe tăng T-54. Thật là một kỳ công !

Đêm 11.4.75, từ ấp Nguyễn Thái Học, tuyến phòng ngự của CĐ52 tại ngã ba Dầu Giây, Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út được lệnh khẩn cấp hành quân tăng viện cho Xuân Lộc. Buổi sáng ngày 12, sau khi vượt qua tuyến giặc tại đèo Mẹ Bồng Con do Trung đoàn 274 của Sư 6 đóng chốt, đơn vị của Út đã tao ngộ chiến với quân CSBV tại ấp Suối Tre, tiêu diệt một đoàn xe chở quân và đồ tiếp tế, hạ sát hơn 100 tên bộ đội “cụ Hồ”, tịch thu nhiều vũ khí, trong đó có 1 thượng liên phòng không 37ly gắn trên xe. Đơn vị của Đại úy Út tiếp tục tiến vào Xuân Lộc để bắt tay CĐ43. Lại một cuộc tao ngộ chiến nữa, khi gặp địch đang đưa lưng ra, đang chăm chăm hướng về thị xã. Đám giặc bất ngờ bị đánh tập hậu. TĐ2/52 đã tiêu diệt gọn trên 60 tên và tịch thu toàn bộ vũ khí của giặc.

- Mũi tấn công của Trung đoàn 270 :

Quyển lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam”, viết rằng trong đợt pháo đầu tiên bắn vào Xuân Lộc, đã làm tê liệt hệ thống truyền tin của Sư đoàn 18BB, và đánh sập cây Anten 292 tại Núi Thị. Nhưng chỉ là tưởng tượng ! Hệ thống truyền tin của Sư đoàn vẫn hoạt động tốt, cây Anten 292 tại Núi Thị không hề bị đánh sập.

Có một điều quân CSBV không biết. Buổi trưa ngày 13 tháng Tư, sau khi phái đoàn báo chí Tây phương vừa rời Xuân Lộc, pháo CS đánh hơi được, đã pháo kích tàn bạo vào vị trí mà Tướng Đảo vừa gặp gỡ báo chí. Trận mưa pháo của giặc đã đánh sập cây cây antenna 292 của TTHQ/SĐ. Hệ thống truyền tin bị gián đoạn một lúc. Đại úy Truyền tin SĐ Đặng Trần Hoa cùng các nhân viên thuộc cấp đã “đội pháo” giặc, lập tức dựng lại cây antenna. Một Thượng sĩ già, thấy pháo giặc bắn rát quá, sợ pháo giặc làm hư hỏng mấy khẩu pháo 105ly, liền cùng một vài pháo thủ, tìm cách kéo pháo ra khỏi trận địa pháo. Từ hầm chỉ huy, Tướng Đảo say sưa quan sát những hành động dũng cảm của quân nhân thuộc quyền, một mảnh đạn pháo giặc ghim vào cánh tay của ông. Rất may mắn, mảnh đạn chỉ gây thương tích nhẹ cho Tướng Đảo.

Khu vực Núi Thị, nơi trấn giữ của Tiểu đoàn 2/43, là vị trí quan trọng trong trận chiến Xuân Lộc. Đáng lý Tướng Trà và Tướng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt vị trí này. Núi Thị không cao lắm, diện tích lối 1/2 cây số vuông, nằm cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây. Tại đỉnh cao nhất, một cây thị lớn còn sót lại, nay trở thành cây cổ thụ có thân cây lớn hơn hai vòng tay ôm, nên ngọn núi được người dân địa phương gọi là Núi Thị. Về phương diện chiến thuật, cao điểm Núi Thị có thể khống chế Xuân Lộc về hướng Đông, và Dầu Giây về hướng Tây. Trước khi trở thành điểm cao quân sự, Núi Thị là sở hữu của viên chủ đồn điền cao su người Pháp. Núi có hình thế yên ngựa. Một tòa lâu đài tráng lệ, với những bức tường dày bằng bê tông cốt sắt, sừng sững chiếm hết đỉnh cao của ngọn núi. Không khí trong các phòng ốc mát lạnh như khí hậu ở Đàlạt, nhiệt độ thường chỉ trên dưới 22 độ C. Được biết hàng năm Bộ Quốc Phòng VNCH phải trả tiền trưng dụng tòa lâu đài đó 3 triệu đồng. Từ lâu, Núi thị là Hậu cứ của Tiểu đoàn 2/43, từng bị VC đánh đặc công một lần, khi đơn vị này đang hành quân vượt biên sang Kampuchia năm 1970. Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, Tướng Đảo cho thiết lập tại đây một Trung tâm Hành quân dự phòng cho Sư đoàn với đầy đủ thiết bị, có đài siêu tầng số. Hệ thống truyền tin tại Núi Thị hoạt động rất tốt. Suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến, truyền tin tại Núi Thị không hề bị gián đoạn. Hai pháo đội 105ly, một pháo đội 155ly được kéo lên đây để có thể bắn yểm trợ cho Xuân Lộc và Dầu Giây. Trung đội pháo 105ly diện địa vẫn được bố trí tại đây trước đây, được kéo trả về cho Tiểu khu Long Khánh. Những người lính Tiểu đoàn 2/43 rất sung sướng khi được chỉ định trấn giữ đất nhà. Nhưng việc bảo vệ điểm cao chiến thuật, và giữ gìn an ninh cho giàn pháo hùng hậu của Sư đoàn không phải là dễ. Tuyến phòng thủ của đơn vị phải mở rộng, phải có những toán tiền đồn, phục kích từ xa, hầu ngăn chận không cho cộng quân mon men đến gần dùng đạn bắn thẳng hay súng cối bắn vào uy hiếp các pháo thủ. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn (BK/TĐ), một tổ chức ngoài bảng cấp số, được thành lập từ khi Tướng Đảo về giữ chức Tư lệnh, với quân số đầy đủ trên 42 chiến sĩ, đặt dưới quyền chỉ huy của một Thiếu úy tốt nghiệp Võ bị Đàlạt, phụ tá là một Trung sĩ Nhất từng phục vụ trong Binh chủng Lực lượng Đặc biệt. Các chiến binh của Trung đội này đều được gửi đi học các khóa Viễn Thám và Rừng Núi Sình Lầy tại Trung tâm Huấn luyện BĐQ/Dục Mỹ. Họ là những chiến binh đa năng đa dụng, rất dũng cảm. Họ từng nhảy vào Tánh Linh cắm cờ và rút lui an toàn, khi quận này bị quân CSBV đánh chiếm hồi mùa Thu năm 1974. Trước khi trận chiến mở màn, các toán trinh sát và cấp chỉ huy của Sư đoàn 341/CSBV tìm cách mon men đến gần Núi Thị điều nghiên, đã bị các toán phục kích và tiền đồn của TĐ2/43 tiêu diệt. Đêm 8.4.75, tại sườn đông Núi Ma, cách căn cứ hoả lực Núi Thị lối 2 cây số về hướng Tây-Bắc, một toán trinh sát địch trên 10 tên, gồm có tên tiền sát viên pháo và các tên chỉ huy cao cấp lọt vào tuyến phục kích của Trung đội BK/TĐ. Chúng đã bị diệt gọn do các trái mìn clamore được kích nổ kịp thời, và những tràng tiểu liên M.16 bắn chính xác. Từ đó, các toán trinh sát của địch không còn dám mạo hiểm đến gần. Suốt trong trận chiến, căn cứ hỏa lực Núi Thị không hề bị đạn bắn thẳng hay súng sối địch quấy phá. Mặc dù Tiểu đoàn Đặc công thường xuyên bám sát.

Sáng sớm ngày 9 tháng Tư, sau trận mưa pháo kéo dài lối một tiếng đồng hồ, Sư 341 tung Trung đoàn 270 có đơn vị đặc công dẫn đường, mở cuộc tấn công biển người, quyết san bằng căn cứ hỏa lực Núi Thị. Nhưng bộ đội của chúng đã bị chận đứng ngay tại tuyến phòng ngự bên ngoài. Một số bị hạ sát do những tràng đạn tiểu liên M.16, đại liên M.60, hay bị nát thây khi lọt vào bãi mìn. Lớp trước ngã, lớp sau tiến lên, chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn với những tiếng la xung phong đặc sệt giọng Nghệ - Tỉnh rất man rợ. Dù cố gắng bao nhiêu, dù bị thương vong nhiều, vẫn không chọc thủng được phòng tuyến quân bạn. Tấn công Núi Thị thất bại, không tiến lên được bước nào, bị dậm chân tại chỗ, bị ăn pháo, tên Thủ trưởng được lệnh cho rút bớt 1 Tiểu đoàn, chuyển hướng tấn công cạnh sườn Tiểu đoàn 1/48 và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ đang phản công chiếm lại làng TPB và Cua Heo. Khi màn đêm xuống, toàn bộ Trung đoàn 270 được lệnh bỏ mục tiêu Núi Thị, chi viện Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở thị xã. Tiểu đoàn đặc công vẫn bám sát và tiếp tục quấy phá. Tấn công bằng quân bộ chiến thất bại, chúng chuyển qua tấn công bằng pháo. Những trận mưa pháo tàn bạo, có tính cách hủy diệt, liên tục trút lên Núi Thị. Nhưng những pháo thủ vẫn can trường “đội pháo” bắn yểm trợ quân bạn. Dù sao, những trận mưa pháo của giặc cũng gây tổn thất đáng kể cho Tiểu đoàn. Một Đại úy Đại đội trưởng, một Thiếu úy Đại đội phó, một Sĩ quan Tham mưu và nhiều binh sĩ bị thương vong. Trực thăng tản thương phải liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn phòng không dày đặc, để kịp đưa các chiến sĩ bị thương nặng về Long Bình cứu chữa. Những chiến binh bị thương nhẹ vẫn ở lại tiếp tục chiến đấu. Những ai chẳng may qua đời, đơn vị đành phải an táng tại chỗ. “Vùi nông một nấm”, và sau ngày 21.4.75, đành phải “mặc tình cỏ hoang”.

Tiểu đoàn được tăng phái một Toán Kỹ thuật thuộc Biệt đội Kỹ thuật của Đại úy Phát, Phòng 7/BTTM. Trưởng toán là một Trung sĩ trẻ, anh Út, hiện định cư ở San Diego, California, rất thành công. Út thông minh và nhanh nhẹn. Nhờ giải mã mau lẹ các cuộc điện đàm của địch, đơn vị đã giảm thiểu được tối đa sự tổn thất. Rất nhiều lần, Út báo cho TĐT những đợt tấn công pháo của Bắc quân. Có lúc lệnh cho quân sĩ xuống hầm, chờ mãi một hai phút sau đạn pháo địch mới đến. Toán Kỹ thuật cũng đưa cho xem những bản mật điện trao đổi giữa cấp chỉ huy của quân CSBV có nội dung rất bi đát, nhưng cũng khá là khôi hài. Có một bản văn do một Thủ trưởng D, tức TĐT, gửi cho Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 266 với nội dung:

“Báo cáo đồng chí Thủ trưởng, đơn vị chỉ còn 25 chiến sĩ, lương thực hết, đạn dược hết, nước uống không có, xin được rút ra”.

Bản văn trả lời của tên Thủ trưởng:

“Phải bám sát trận địa, sẽ có quân chi viện. Các đồng chí phải khắc phục!”

Đại loại nội dung các bản văn đều gần giống nhau. Cấp dưới thì tuyệt vọng, tinh thần xuống thấp. Cấp trên thì cứ hứa hẹn suôn, và giải quyết vấn đề là hai chữ “Khắc phục”, như một liều thuốc tiên !

Các Toán Kỹ Thuật là những quân nhân làm việc âm thầm trong một căn phòng nhỏ, với nhiều máy móc truyền tin. Họ là những chiến sĩ vô danh, nhưng đã gián tiếp góp công lớn trong chiến thắng Xuân Lộc. Khi bắt được những bức điện mật của quân CSBV, họ giải mã mau lẹ, và gửi ngay về Sư đoàn. Tại đây, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ và bộ tham mưu của ông phân tích, đánh giá, phân loại, rồi trình lên tướng Tư lệnh. Nhờ những tin tức tương đối chính xác đó, đối chiếu với nhiều nguồn tin khác, Tướng Tư lệnh cho bắn pháo và xin đánh bom. Mỗi ngày Sư đoàn 3/KQ đã cung cấp đến 50 phi xuất, với những loại bom 250, 500, và 750 cân Anh đánh lên đầu giặc. Pháo binh Sư đoàn thì rất dồi dào trong những ngày đầu của trận chiến. Đây cũng là điểm son của ông Tư lệnh. Như ta đã biết, đạn dược và quân dụng của QLVNCH bị giới hạn bởi điều khoản “một đổi một” của Hiệp định Paris, nên ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Tướng Đảo đã chỉ thị các đơn vị trưởng báo cáo con số tiêu thụ đạn dược gấp hai hay ba lần con số thực. Số sai biệt đó, các đơn vị chôn dấu để qua mắt Phái đoàn Thanh tra của BTTM/QLVNCH. Chính nhờ số đạn dự trử được chôn dấu đó, được các chiến binh Sư đoàn 18BB đem ra xử dụng tối đa trong những ngày đầu của trận chiến, đã ngăn chận được những đợt tấn công biển người của quân giặc.

c/- Góc chiến trường hướng Tây :

* Sư đoàn 6/CSBV :

- Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị. Trung đoàn này thuộc Quân khu 6, còn có tên là Sư đoàn Sông Mao. Trong những ngày cuối tháng 3, tham gia chiến dịch đánh chiếm Võ Đắc và Võ Su của quận Hoài đức. Sau đó tiến về hướng Bắc, đánh chiếm Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.

- Trung đoàn 274 tiến chiếm Đèo Mẹ Bồng Con, cách Núi Thị lối 3 cây số về hướng Tây. Đơn vị này đã tổ chức hệ thống kiềng chốt khá kiên cố để có thể ngăn chận quân bạn cứu viện từ Dầu giây, từ Xuân Lộc hay ngược lại. Một con suối nhỏ chảy qua Đèo, nối liền Núi Ma đến cánh rừng phía Nam, đi ngang qua đồn điền cao su de Suzannah. Đó là con đường tiến sát rất an toàn, có rừng cây che mắt phi cơ quan sát. Một bộ phận tiến chiếm ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ giữ an ninh).

- Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu (cách ngã ba Dầu Giây hơn 1 cây số về hướng Nam), và đánh xã Hưng Lộc – Hưng Nghĩa. Tại đây, lực lượng trú phòng chỉ là NQ và Nhân Dân Tự Vệ. Nhưng các chiến sĩ áo đen đã chống trả quyết liệt. Họ đã giữ được Hưng Nghĩa, nhưng Hưng Lộc lọt vào tay giặc. Ngã ba Dầu Giây được Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú trấn giữ, và chỉ mất vào tay giặc buổi tối ngày 13.4.75. Trung đoàn 33 còn có tên Trung đoàn Quyết Thắng Long Khánh. Đơn vị này dù mang danh là Quyết Thắng, nhưng đã hơn ba lần đại bại trước Tiểu đoàn 2/43 (Trận đánh Cẩm Mỹ, trận đánh tại ngã ba Dầu Giây ngày đình chiến tháng 1.73, và trận Võ Đắc – Võ Su tháng 12 năm 1974).

Tên Thủ trưởng Trung đoàn 33 đã chỉ thị cho bộ đội của hắn tránh đụng độ TĐ2/43. Khi tao ngộ chiến, phải tìm cách chém vè, nếu không muốn bị tiêu diệt (Theo cung từ tên tù binh Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 33 bị bắt tại trận đánh ở ngã ba Dầu Giây, và một mảnh giấy viết vội để lại trên một đống vũ khí tại Võ Đắc ghi: “chúng tôi thua phen này, hẹn gặp lại”).

2/- Từ ngày 12 đến ngày 20.4.1975: Xuân Lộc được Quân Dù tăng viện

Tình thế đã bất lợi về phía quân CSBV. Trần Văn Trà thú nhận trong tập hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm”: “… vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng. Địch phản kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt hại nặng. Máy bay địch đánh phá ác liệt, có tính chất hủy diệt các mục tiêu chúng đã mất (sai, chỉ mất khu bến xe và khu chợ trong buổi sáng đầu tiên, nhưng chỉ tái chiếm bằng bộ binh, không hề đánh bom, vì nằm bên trong thị xã). Quân đoàn đã kêu thiếu đạn các loại nhất là sư đoàn 1 (tức 341) và sư đoàn 6. sư đoàn 7 thì thiếu quân số…Rồi báo báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. Có vị trí thay đổi chủ vài lần (khu bến xe và khu chợ). Số thương vong của sư đoàn 1 cao hơn các đơn vị khác vì kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều ở chiến trường ác liệt. Tình hình rất gay go.”

Lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân” viết: “Trong 3 ngày đầu tiên (9,10,11/4/75) Sư đoàn 7 thiệt hại 300 chiến sĩ, và Sư đoàn 341 tổn thất 1,200, hầu hết pháo 85ly và 57ly bị tiêu hủy”.

Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.

Ngày 11.4, sau 3 ngày tấn công vào Xuân Lộc thất bại, tên “Thái Thượng Hoàng” không ngai Lê Đức Thọ cùng Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) và Trần Văn Trà họp khẩn cấp để tìm “phương án” mới.

Sau cuộc họp của các tên đầu sỏ, Trần Văn Trà được phái đến mặt trận Xuân Lộc tìm hiểu cụ thể để có thể đề ra “phương án” mới thực tế hơn, thích hợp hơn với tình hình đang biến chuyển mau lẹ, nếu cần, Trà sẽ trực tiếp nắm quyền chỉ huy mặt trận Xuân Lộc.

Chiều ngày 11 tháng Tư, Trà lên đường đến thẳng chỉ huy sở của Quân đoàn 4 đóng trên bờ sông La Ngà. Trà vượt sông Đồng Nai bằng phà tại bến Tà Lài, ra gặp QL.20 ở Phương Lâm. Sau khi quan sát thế trận tại chỗ, theo dõi hoạt động không quân và pháo binh của ta, được báo cáo kỹ tình hình diễn biến trận đánh, tình hình quân ta và thực lực của chúng, Trà quyết định chọn một giải pháp mới.

Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Trung đoàn 95B vừa từ ngoài Trung vào. Đó là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của quân CSBV. Đơn vị này đã tham gia chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột, rồi được tăng cường cho Sư đoàn 320 ngăn chận đoàn quân di tản của Quân đoàn II từ Cao Nguyên, trên con đường 7B. Các đơn vị của Cầm gấp rút được bổ sung quân số và đạn dược, chúng lại được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo tầm xa và cao xạ phòng không.

Trận chiến đã bước sang ngày thứ ba, bộ đội của Cầm vẫn dậm chân tại chỗ. Sau khi quan sát tình hình thực tế, nhất là khi thấy Xuân Lộc được quân Dù tăng viện, Trần Văn Trà quyết định triễn khai kế hoạch mới. Với kế hoạch này, giặc không đánh trực diện, mà tìm cách đánh vào những vị trí ngoại vi của Xuân Lộc:

1/- Ngã ba Dầu Giây: Tuyến phòng thủ chỉ là CĐ52 (-) của Đại tá Ngô Kỳ Dũng (TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đã được lệnh xuất phái cho Xuân Lộc từ chiều ngày 11.4). Tuyến bố phòng chưa được vững chắc vì mới di chuyển về đây chiều ngày 8.4 thì rạng sáng ngày 9.4 trận chiến đã mở màn. Quân số không nhiều.

2/- Núi Thị : Tuyến phòng thủ chỉ có một Tiểu đoàn. Dù hệ thống bố phòng vững chắc, nhưng nếu lực lượng tấn công là cấp Trung đoàn, được tăng cường thêm đơn vị đặc công, lấy nhiều đánh ít, thì lực lượng trú phòng khó chống đở.

Lúc này lực lượng trấn thủ Xuân Lộc đã có thêm TĐ2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang bảo vệ thị xã Hàm Tân (Bình Tuy) được trực thăng vận về; TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đang trấn đóng vùng ngã ba Dầu Giây được lệnh tăng cường Xuân Lộc. Như vậy đến cuối ngày 11.4.75, lực lượng trú phòng tại Xuân Lộc đã có 2 Trung đoàn Bộ binh, 1 Tiểu đoàn BĐQ, 1 Thiết đoàn (-), và ĐĐ18TS.

Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân “Giải Phóng” và Tướng Hoàng Cầm, TL/QĐ4 đều nhận định không thể tiếp tục đánh Xuân Lộc. Vì đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, càng đánh càng thua. Trà chỉ thị Hoàng Cầm:

- Xử dụng 1 Sư đoàn tiêu diệt CĐ 52 ở Dầu Giây và TĐ 2/43 ở Núi Thị.
- Lực lượng mạnh của QĐ4 (Sư 7) kèm chặt Xuân Lộc.

Ngày 12 tháng Tư, Quân đoàn III xử dụng một trong hai lực lượng trừ bị cuối cùng (lực lượng kia là Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi), là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, cho trực thăng vận vào Xuân Lộc. Đơn vị này vừa từ ngoài Trung vào, chưa kịp nghỉ ngơi, nhưng với quyết tâm “Nhảy Dù! Cố gắng!”, những thiên thần mũ đỏ gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, ĐĐ1/TS, ĐĐ3/CB, ĐĐ1/QYDù và TĐ3/PBDù, đã làm cho Sư 7 của Lê Nam Phong thất điên bát đảo!

Khi Lữ đoàn 1 Dù vào, Chiến đoàn 48 bàn giao trách nhiệm, di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong (Chi khu Xuân Lộc), phía Nam thị xã, đến căn cứ Long Giao (Hậu cứ Trung đoàn 48); trở thành lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.

Theo Hồi ký Chiến trường của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ đoàn trưởng LĐ1Dù, vừa nhảy vào trận địa, các đơn vị Dù liền mở cuộc hành quân phản công địch. TĐ9Dù tiến quân về hướng Đông, tìm cách bắt tay với lực lượng Nghĩa Quân tại hai ấp Bảo Định và Bảo Bình. Mặc dù là lực lượng bán quân sự với quân số rất khiêm nhường, nhưng các chiến sĩ Nghĩa Quân đã chiến đấu kiên cường, giữ được xã ấp cho đến khi quân Dù đến. Nhưng một tin xấu đã đến với quân Dù, do không liên lạc được với nhau, những trái đạn súng cối từ trong ấp bắn ra đã gây thương tích trầm trọng cho vị TĐT, Trung tá Nho và hai binh sĩ. Sau khi bắt tay được với lực lượng trú phòng, TĐ9 và TĐ1 hoán đổi nhiệm vụ.

TĐ8Dù tiến quân tảo thanh hướng Bắc QL.1, đã chạm súng mạnh với TĐ1/141/CSBV, hạ sát nhiều quân giặc. Với lối đánh thần tốc và táo bạo của các thiên thần mũ đỏ, với sự yểm trợ dồi dào của pháo binh, vòng vây quân CSBV bị tan rã dần. Bộ đội cộng sản nằm chết la liệt, một số ra đầu hàng. Biệt Đội Kỹ Thuật thuộc Phòng 7/BTTM đã bắt được những mật điện của chúng với nội dung hoàn toàn tuyệt vọng:

“Tình hình thật khẩn trương. Đồng chí N. (TĐT/TĐ1) và nhiều đồng chí khác hy sinh, phải chôn tại chỗ. Chúng tôi đang tìm đường rút, nhưng bị quân Dù ngụy bao vây mọi hướng.”

Nhưng sau 35 năm trận chiến, Lê Nam Phong đã là Trung tướng, được đề bạt chỉ huy Quân đoàn 1, trong một bài phỏng vấn, đã nói khoác: “Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công thị xã, chuyển ra tấn công trên QL.1 để bao vây Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị nhỏ bám sát trận địa. Nhưng địch lầm tưởng chúng đã đẩy chúng tôi ra…” Thật ra chúng không bị đẩy ra, mà bị bao vây chia cắt, bị tấn công tiêu diệt, không rút ra được. “Đơn vị nhỏ” mà Tướng Lê Nam Phong nói là Sư đoàn 7 do hắn chỉ huy!

Một bức điện mật khác :

“Lương thực hết. Hơn 100 chiến sĩ hy sinh, phải vùi họ ngay tại chỗ. Nhiều đồng chí bị thương. Chúng tôi không thể mang theo số vũ khí và máy truyền tin. Xin đồng chí Thủ trưởng cho chỉ thị…”

Mật điện trả lời của tên Thủ trưởng:

“Nếu không mang theo được thì hãy chôn và đánh dấu…Tôi muốn nhắc nhở các đồng chí…hãy nhớ đến chiến thắng Điện Biên Phủ và Tàu Ô. Đêm nay tôi sẽ cho Đại đội Trinh sát vào mang các đồng chí ra”.

Nhờ Biệt đội Kỹ thuật giải mã kịp thời, quân bạn biết được ý định của quân CSBV, cho dàn trận phục kích. Đêm đó, khi đơn vị trinh sát địch xuất hiện, chúng đã lọt vào bẫy sập của TĐ1Dù, tất cả bị diệt gọn.

Một vài bức điện mật khác của quân CSBV :

“Hiện tại chúng tôi chỉ còn 39 chiến sĩ, nhưng đã có gần 200 đồng chí bị thương. Việc di chuyển rất khó khăn. Chúng tôi không thể bắt tay được với đơn vị trinh sát”.

“Đêm nay TĐ2 sẽ chi viện các đồng chí. Các đồng chí phải giữ vững tinh thần.”

TĐ1Dù lại áp dụng chiến thuật cũ, nhưng lần này, TĐ3/PBDù đã góp công lớn. Những loạt đạn với đầu nổ cao, đầu chạm nổ, đã tiêu diệt hoàn toàn những tên sống sót của đơn vị thuộc Trung đoàn 141, Sư đoàn 7/CSBV.

Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của Toán Biệt Đội Kỹ Thuật, quân bạn đã có hành động đúng lúc, đúng chỗ. Do đó sự thiệt hại của quân CSBV là không tránh khỏi.

Nhưng tên cựu Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong đã nói dóc không biết ngượng miệng : “…Đối diện với hiểm nguy bị tiêu diệt, Tướng Đảo phải bỏ Xuân Lộc và đã chuồn đi trong đêm mưa. Ngày 21 tháng Tư, 1975, sau 13 ngày chiến đấu ác liệt, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh long Khánh hoàn toàn được giải phóng.

Tiêu diệt cánh cửa thép Xuân Lộc, Quân đoàn 4 đã mở con đường cho đại quân của ta tiến về Sàigòn, với tinh thần ‘một ngày bằng 20 năm’…”

Nếu không được lệnh bỏ ngõ Xuân Lộc, vẫn giữ trận địa, cứ để cho QĐ2 và các đơn vị QK5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh từ hướng QL.15 đánh lên, QĐ3 từ hướng QL.20 đánh xuống, ta xử dụng bom BLU-82 hay CBU-55 đánh hủy diệt chúng, rồi lực lượng ta từ Xuân Lộc đánh tập hậu, thì liệu quân CSBV có vượt qua được sông Đồng Nai để tiến về Sàigòn ngày 30.4.75 (?), hay đã bị tan tác.

Qua các bức điện mật, và những cuộc điện đàm được giải mã, ta thấy rõ TĐ1 Trung đoàn 141 thuộc Sư đoàn của hắn đã bị quân Dù xóa sổ, các đơn vị khác cũng kiệt quệ, có tiểu đoàn chỉ còn 39 tên. Nhưng cái bệnh ba hoa khoác loác, làm láo báo cáo hay của con người cộng sản thì đã thành cố tật, không thể sửa chữa được. Cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã để lại một câu nói để đời :

“Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”.

Từ chủ động tấn công, chọn thời gian, chọn địa điểm, bây giờ quân xâm lăng CSBV đã rơi vào thế bị động. Chúng chỉ lo co cụm và chống đở, hoặc tìm cách “chém vè” để sống sót. Các đơn vị tham chiến của Hoàng Cầm hầu như hoàn toàn tan rã và mất tinh thần. Cái hào quang Điện Biên Phủ năm nào, khi Cầm là Trung đoàn trưởng cùng bộ đội Việt Minh cắm lá cờ chiến thắng lên nóc hầm của Tướng bại trận de Castries, đã tiêu tan. Bây giờ Cầm chỉ là tên bại Tướng! Tên Hoàng Nghĩa Khánh, Tham mưu trưởng Quân đoàn làm một bản phân tích tình hình, rồi đề nghị :

“Bỏ Long Khánh, đi vòng diệt Trảng Bom rồi đánh Biên Hòa”. Hoàng Cầm thì đề nghị: “…diệt Trung đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị, rồi đánh chiếm Xuân Lộc.”

Sau khi tổng hợp các ý kiến, Trà kết luận :

“Xuân Lộc là điểm then chốt quan trọng, nên địch cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế. Ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi…Địch từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây không mạnh. Ta phải tận dụng lợi thế này của đường 20 và sơ hở này của địch …”

Căn cứ vào những phân tích ấy, Trà quyết định :

- Xử dụng 1 sư đoàn tiêu diệt Trung đoàn 52 ở Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị. Chận và diệt quân tiếp viện từ Trảng Bom ra.
- Lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.

Chính Trà quyết định lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc, thế mà Tướng Lê Nam Phong nói: “chỉ để lại một đơn vị nhỏ…”. Thật là láo khoét. Lịch sử được viết lại theo quan điểm của kẻ thắng. Mặc dù Sư 7 của Lê Nam Phong, Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm bị đại bại, nhưng đứng trong phe chiến thắng, nên chúng tha hồ “vẽ rắn thêm chân”. Bảo Ninh, một tên văn nô Hànội, cũng với giọng điệu Lê Nam Phong, viết trong quyển “Nổi Buồn Chiến Tranh”, rằng “…Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi đánh bọn lính sư đoàn 18, ở những rãnh xích đầy những thịt với tóc. Giòi lúc nhúc. Thối khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy…” Thật là dị hợm! Nói không biệt ngượng miệng. Nhưng thật đáng tiếc, sách của hắn đã được Hànội cho dịch ra rất nhiều thứ tiếng để tuyên truyền, và lừa bịp những ai cả tin. Người đọc mấy ai biết được sự thật. Trong suốt 12 ngày đêm chiến trận, không một chiếc xe tăng nào của Bắc quân vào được bên trong thị xã. Chỉ có vài chiếc chạy về hướng sân bay thì bị các chiến sĩ Mũ Nâu săn lùng và bắn hạ. Còn lại phần lớn bị thiêu hủy từ ngoài vòng rào kẽm gai. Một số mon men đến gần thì bị trúng mìn, bị M.72 hay súng nòng dài của chiến xa Thiết đoàn 5 Kỵ binh bắn hạ.

Quân CSBV đã thay đổi kế hoạch trước khi quân Dù đến. Thi hành chỉ thị của Trần Văn Trà, Sư đoàn 341 được lệnh của Hoàng Cầm rút ra, lùi về phía sau để tránh bị tiêu diệt. Ngay trong đêm, Trung đoàn 266 đã hoàn tất việc rút quân, Trung đoàn 270 được lệnh trở lại Núi Thị, tăng cường Tiểu đoàn Đặc công, tiếp tục mở những cuộc tấn công vào căn cứ hỏa lực đơn độc này. Sư đoàn 6 vẫn ở nguyên vị trí, phối hợp cùng Trung đoàn 95B, một đơn vị thiện chiến của CSBV, từ Cao Nguyên vừa được Tướng Văn Tiến Dũng điều động xuống tăng cường Quân đoàn 4. Giặc đang triễn khai kế hoạch mới. Theo kế hoạch này, Sư đoàn 7 phải chận đứng các cuộc tiến công của quân Dù. Nhưng “lực bất tòng tâm”. Mặc dù cố gắng, mặc dù hạ quyết tâm, Sư 7 cũng đã bị đánh tan tác, bị đại bại. Tội nghiệp cho Lê Nam Phong phải chịu đựng những quả đấm mạnh của các Thiên thần Mũ đỏ.

Trong lúc đó lực lượng Quân đoàn 2 của Thiếu tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lãnh, từ ngoài Trung đang tiến vào theo đường duyên hải. Chúng được vận chuyển bằng xe molotova, chạy phon phon trên đường QL.1. Giặc đã xuất hiện ở Rừng Lá. Rừng lá chỉ cách Xuân Lộc hơn 1 giờ xe hơi !

Ngày 13 tháng Tư, Trung đoàn 95B đã vào vùng. Ngoài ra Quân đoàn 4 cũng được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo và cao xạ, đồng thời gấp rút bổ sung quân số và đạn dược.

V- MẶT TRẬN PHÍA TÂY: NGÃ BA DẦU GIÂY

1/- PHÒNG TUYẾN CHIẾN ĐOÀN 52 :

Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, từ Kiệm Tân, di chuyển về lập tuyến phòng ngự tại khu vực ngã ba Dầu Giây từ tối ngày 8.4.1975.

Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, cho Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ đồi Móng Ngựa. Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú bố trí quân khu vực ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy, phòng thủ chung với CĐ, gần ấp Nguyễn Thái Học (Đêm 11.4, đơn vị này được lệnh tăng cường cho Mặt trận Xuân Lộc).

Khi tấn công Xuân Lộc, quân CSBV chỉ bị bắn pháo và quấy rối tuyến phòng ngự của CĐ52. Sau khi thất bại tại Xuân Lộc, quân CSBV thay đổi kế hoạch. Tuyến phòng ngự CĐ52 là ưu tiên 1 phải tiêu diệt, sau đó là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Là những cứ điểm hỗ trợ bên ngoài của Xuân Lộc. Kế hoạch mới này được chính Trần Văn Trà mang tay xuống từ sào huyệt Lộc Ninh. Theo dự tính của các tên đầu sỏ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, và Phạm Hùng, Tướng Trần Văn Trà phải nhanh chóng đến BTL/QĐ4 của Tướng Hoàng Cầm tìm hiểu thực tế chiến trường. Nếu cần sẽ thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp chỉ huy QĐ4. Do đó tình báo của phe ta đã nhầm lẫn khi cho rằng Hoàng Cầm bị Trần Văn Trà thay thế.

Trưa ngày 13 tháng Tư, Sư đoàn 6 mở cuộc tấn công Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú. Thiếu úy Phạm Văn Trung (hiện định cư tại Cali.), Trung đội trưởng thuộc ĐĐ2/1 cho biết: “Trước khi tấn công, quân CSBV bắt loa kêu gọi đầu hàng. Chúng nói cho 15 phút suy nghĩ. Sau đó thì bắt đầu bắn pháo. Những loạt đạn đại pháo, súng cối đủ loại rót vào các vị trí đóng quân của đơn vị. Sau đợt “tiền pháo” là “hậu xung”. Giặc mở những đợt tấn công biển người, hết đợt này đến đợt khác. Lớp trước bị đốn ngả, lớp sau tiến lên. Hình như chúng bị say thuốc súng, hay đã được cho uống thuốc kích thích? Quân số Tiểu đoàn 1/52 bị hao hụt nhiều mà chưa kịp bổ sung. Đại đội 2/1 chỉ còn 50 tay súng! Một Chi đội M-113 đến tiếp ứng, nhưng bị bắn cháy 1 chiếc. Dù đã chống trả quyết liệt, nhưng bọn chúng quá đông, kiểu “lấy thịt đè người”, cuối cùng đơn vị bị tràn ngập. Số sống sót phải rút về BCH/CĐ tại ấp Nguyễn Thái Học”.

Tiêu diệt xong TĐ1/52, Trà cho lệnh Cầm điều quân đánh Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế tại Núi Thị. Vị trí bố phòng của TĐ1/52 và TĐ2/43 đều nằm ngoài tuyến bố phòng của Xuân Lộc. “Hồ hỡi” vì diệt được TĐ1/52, Cầm liền cho mở lại cuộc tấn công qui mô vào Núi Thị.

Nhưng tuyến bố phòng của TĐ2/43 đã được các chiến binh can trường trấn giữ. Vả lại Núi Thị là hậu cứ của Tiểu đoàn, đã được bố phòng cẩn mật, rất vững chắc. Ngoài 600 tay súng dũng cảm, căn cứ còn có 12 khẩu đại pháo loại 105ly và 155ly, có thể hạ thấp nòng trực xạ vào đội hình tấn công của giặc với những trái đạn chống biển người. Quân xâm lăng CSBV đánh Núi Thị là đã đụng vào bức tường thép. “Bức Tường Thép” đúng nghĩa ! Thật là dại dột khi không biết lượng sức. Suy nghĩ của Trung tướng Trần Văn Trà và Thiếu tướng Hoàng Cầm quá nông cạn, quá kém cỏi. Tư tưởng khinh địch lại về trong những bộ óc thiếu trình độ học vấn. Trần Văn Trà chỉ học xong 3 năm tại Trường Bá Công tức Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (trình độ cấp 2), còn Hoàng Cầm thì chỉ biết đọc và biết viết nhờ được theo học các lớp bình dân học vụ (chưa qua cấp 1) sau khi đã tham gia bộ đội Việt Minh. Khả năng phán đoán của hai tên tướng này lại quá kém, đã “Không biết mình, không biết người” như binh thư Tôn Tử viết. Bộ đội của Cầm bị thất bại là lẽ đương nhiên. Câu câm ngôn của CS là “Cứu cánh biện minh phương tiện”. Tên tướng bậc đàn anh là Võ Nguyên Giáp đã nướng hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn bộ đội để cố đạt cho được một chiến thắng. Bây giờ Cầm cũng thế. Nhưng hắn đã không làm được.

Lại một lần nữa, Trung đoàn 270 thuộc Sư đoàn 341/CSBV chuốc lấy thảm bại. Trung đoàn 270 bỏ lại nhiều xác chết, phải rút ra. Tiểu đoàn đặc công vẫn bám sát, tiếp tục quấy phá. Nhưng các toán đặc công xâm nhập đều bị tiêu diệt ngay tại tuyến bố phòng ngoài cùng. Trong số đó có tên Thiếu úy cấp C trưởng, tức Đại đội trưởng. Tên này bị hạ sát ngay khi mới mon men đến vị trí cấp Trung đội, ĐĐ1/2 của Trung úy Chánh. Hai lần mở cuộc tấn công qui mô Núi Thị, hai lần đều thảm bại. Nhưng thật là trơ trẽn khi Trà viết :

“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”

“Núi Thị” mà Thượng tướng Trần Văn Trà viết trong Hồi ký KẾT THÚC CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM, chắc chắn không phải là Núi Thị do TĐ2/43 trấn giữ trong trận chiến Xuân Lộc. Núi Thị đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng trong tâm trí kém cỏi của Trà. Cũng như tên Sư trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn tuyên bố đã đánh sập cây antenna 292 tại Núi Thị trong loạt đạn pháo đầu tiên, cũng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng. Thật ra nếu pháo có đánh sập cây antenna thì chỉ là chuyện nhỏ, nó không gây ảnh hưởng gì đến hệ thống truyền tin của TĐ2/43, có thể sẽ bị gián đoạn trong chốc lác. Thế mà Trần Văn Trấn đã coi đó là một kỳ công! “Một điều bất tín, vạn sự bất tin”. Hồi ký của Trần Văn Trà, của Văn Tiến Dũng đều chứa đựng những điều dối trá và khoác lác. Thế mà cũng có lắm kẻ tin ! Đúng là những kẻ khờ !

Ngày 15 tháng Tư, Chiến đoàn 52 bị địch đánh từ hai phía: Phía Nam, từ ngã ba Dầu Giây (vị trí này chúng chiếm được đêm 13 tháng Tư) do Sư đoàn 6 án ngữ. Đơn vị này còn có nhiệm vụ bám sát, cầm chân Trung đoàn 8 của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thuộc Sư đoàn 5BB tại Hưng Nghĩa. Nhiệm vụ thứ hai là bố trí quân chận đánh Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi sẽ ra cứu viện từ Biên Hòa. Nhiệm vụ thứ ba là chận đánh quân cứu viện từ Xuân Lộc. Trung đoàn 274 đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiên cố tại đèo Mẹ Bồng Con. Trung đoàn 812 thì đang bố trí quân tại những khu rừng cao su của đồn điền Suzannah. Lực lượng án ngữ phía Nam tại ngã ba như cái đe, để phía Bắc, Trung đoàn 95B như cái búa, với sự trợ lực của các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 vừa được lệnh rút ra khỏi Xuân Lộc, như Tướng Lê Nam Phong viết :

“Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công vào các mục tiêu trong thành phố, và chuyển ra tấn công trên QL.1 để cô lập Xuân Lộc”.

Trung úy Nguyễn Thanh Trường (Hiện định cư tại Miami, Florida), một Đại đội trưởng xuất sắc của TĐ3/52, từng lập được nhiều chiến công tại mặt trận An Điền – Rạch Bắp tháng 6 năm 1974, đã cho người viết biết như Thiếu tá Phan Tấn Mỹ (Ý Yên) viết trong bài Trận Đánh Đồi Móng Ngựa: “Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía đông bắc Đồi Móng Ngựa hạ sát 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi Pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301 - Nay đề cử 4 đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường : 2 tháng Tư 1975 - Ngày chấm dứt nhiệm vụ : 30.4.75”

Khi mặt trận ngã ba Dầu Giây bùng nổ, Chiến đoàn 52 bị tấn công, Tướng Toàn, TL/QĐIII cho lệnh Lữ đoàn 3 xung kích của Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom (Biên Hòa) mở cuộc hành quân tiếp cứu.

Lực lượng của Tướng Khôi rất mạnh. Lữ đoàn 3 Xung kích có trên 200 chiến xa M-41, M-48 và thiết quân vận M-113, được thành lập thành 3 Chiến đoàn 315, 318 và 322. Mỗi Chiến đoàn đều có 1 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết. Nhưng lực lượng chận viện của quân CSBV lại hùng hậu hơn. Ngay từ những ngày đầu của trận chiến Xuân Lộc, Sư đoàn 6/CSBV đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiêng cố từ xã Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con. Quân của Tướng Khôi vừa đi vừa đánh, nên nhịp độ tiến quân quá chậm. Trên đường từ Trảng Bom ra Bàu Cá, từ Bàu Cá đến Hưng Nghĩa, quân của Tướng Khôi đã gặp các cụm kiềng chốt của Sư đoàn 6 ngăn chận. Với 2 Chiến đoàn 315 và 322, quân của Tướng Khôi tiến theo trục lộ QL.1. Mặc dù cố gắng diệt chốt nhanh, tiến lẹ, để có thể bắt tay Chiến đoàn 52 đang bị vây khốn tại ấp Nguyễn Thái Học, nhưng kết quả không như ý muốn. Theo J. Veith, tác giả của “Fighting Is An Art”, Chi đoàn 1/15 của Đại úy Bảng có Tiểu đoàn 64/BĐQ tùng thiết, đã thành công khi chiếm ngọn đồi 122, một cao điểm ở hướng Bắc Hưng Lộc. Nhưng địch nhanh chóng tổ chức phản công. Lực lượng của Tướng Khôi đã không vượt qua khỏi ngọn đồi này. J. Veith viết lại theo lời tường thuật của Đại úy Bảng: “Quân địch đông như kiến, chúng mở những đợt tấn công biển người từ ba hướng…Trong tình trạng tuyệt vọng, tôi yêu cầu Chiến đoàn bắn pháo và không yểm. Thật không may mắn, chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng võ trang đến bắn yểm trợ…Bắc quân tiếp tục tấn công, mỗi lúc càng thêm ác liệt. Tôi nghĩ rằng VC sẽ tràn ngập ngọn đồi hay bao vây chia cắt…Thình lình, VC rút lui, trận đánh tàn lụi. Chúng tôi tổn thất 20, BĐQ lối 40. Xác địch nằm la liệt…” (có thể thời điểm đó là lúc CĐ52 đã bị quân giặc tràn ngập).

Không có quân cứu viện, địch mỗi lúc điều thêm quân vào trận, áp lực đè nặng.

“Về chiều, pháo giặc càng gia tăng nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại tá Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M-41 bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem luốc, chạy sang BCH/TĐ3/52 đặt gần thung lũng. Cây anten dựng lên, lại bị đánh gãy nằm gục bên sân. Bên kia sân, Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước toàn thân đen đúa tiếp tục điều khiển tác xạ…” (Thiếu tá Phan Tấn Mỹ : Trận Đánh Đồi Móng Ngựa)

Xe pháo ngổn ngang, khói đen bốc lên ngùn ngụt, phòng tuyến vỡ. Địch đã xông vào bên trong. Tiếng la xung phong của địch, giọng nói đặc sệt bắc kỳ nghe rõ mồn một qua ống liên hợp máy PRC-25, xen lẫn tiếng cầu cứu của Trung tá Chiến đoàn phó Đổ Văn Tân.

Tại đồi Móng Ngựa, cao điểm trông xuống QL.20, do Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ. Từ lúc 5 giờ sáng, Cộng quân bắt đầu bắn pháo. Sơn pháo địch từ Núi Ma, từ các cánh rừng bao quanh liên tiếp nã vào ngọn đồi. Sau đó là những đợt xung phong biển người. Trận đánh để làm chủ ngọn đồi đã xảy ra vô cùng ác liệt. Quân bạn cố giữ, quân địch cố chiếm. Ta bắt được một số tù binh. Chúng thuộc Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 95B vừa từ Cao Nguyên xuống. Đến 8 giờ 30, Đại đội 4/3 của Thiếu úy Mai Mạnh Liêu được lệnh tăng viện. Hai Đại đội 1 của Trường và 4 của Liêu được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại úy TĐP Hà Văn Cho.

Cùng chung số phận với BCH/CĐ, đồi Móng Ngựa đã đón nhận hàng ngàn trái đạn pháo của giặc. Đến 2 giờ chiều, Tiểu đoàn 2/95B/CSBV bắt đầu xua quân tràn lên đồi. Pháo địch pháo ta, bộ đội giặc và lính của ta giao tranh đẩm máu để giành nhau từng tấc đất. Cứ sau những đợt pháo cường tập, bộ đội CSBV dàn hàng ngang tiến lên. Lớp trước ngã, lớp sau đạp xác đồng đội tiến lên. Trận tử chiến tiếp diễn ác liệt. Quân giặc như những con thiêu thân cứ lao vào ánh đèn, chết vô số. Xác địch chồng chất, cây rừng gãy đổ. Màu xanh của cây cỏ biến thành màu đỏ của máu, máu đỏ của những thân xác “Sinh Bắc Tử Nam”. Ngọn đồi xanh ngát với những vòng cao độ tạo thành thế hình móng ngựa, chỉ trong thời gian ngắn, đã biến thành bình địa. Đạn pháo ta và địch đã làm thay đổi các vòng cao độ của ngọn đồi ! Thiếu úy Mai Mạnh Liêu, ĐĐT/ĐĐ4 báo cáo :

“…Không còn cái gì tồn tại chung quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn ngang trên mặt đồi, cây cối chung quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình địa. Thân cây và xác chết chồng chất lên nhau hàng đống, từng này chồng lên từng kia…”.

Nhìn xuống QL.20, thấy quân CSBV di chuyển trên lộ chật đường, đông như kiến, giống như đoàn người đi trẩy hội. Chúng thuộc đơn vị nào ? Phải chăng như Trần Văn Trà viết : “Quân đoàn 1 xuất phát từ sông Hồng, Quân đoàn 3 thì có sư đoàn từ Tây Nguyên lại có sư đoàn từ ven biển quật lên theo đường 11 đi Đà Lạt rồi theo đường 20 vào”. Liêu xin bắn pháo. Pháo từ Chiến đoàn, pháo từ Núi Thị tới tấp rót xuống. Chúng dạt ra hai bên đường. Lúc ngưng pháo, chúng lại tiếp tục di chuyển. Giòng người cứ trôi như giòng thác lũ. Một toán chỉ huy địch chạy vào một căn nhà ngói đầu ấp, căn nhà bị đánh sập, và không thấy chúng xuất hiện trở lại. Bọn chúng đã bị pháo ta tiêu diệt.

Trước khi trời tối, đồi Móng Ngựa bị giặc tràn ngập. Ngọn đồi bị chiếm vì quân ta hết đạn. Cây súng trở thành cây gậy. Bắn hết đạn, giặc tràn lên, quân ta đành phải rút chạy !

Tình hình trở nên nguy kịch. Đồi Móng Ngựa đã lọt vào tay giặc. Từ những cánh rừng cao su chung quanh, quân CSBV xổng lưng tiến vào vị trí quân bạn đã tan nát vì những trận mưa pháo tàn bạo. Giặc đã tràn vào phòng tuyến. Tiếng nói của Đại tá Dũng và Trung tá Đổ Văn Tân im bặt. Những ai còn sống sót phải rút chạy về Biên Hòa. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây hoàn toàn tan rã.

Quân CSBV đã mở được con đường xâm nhập vào Sàigòn không cần phải đi qua Xuân Lộc.

Khi hoạch định kế hoạch đánh chiếm Xuân Lộc, bọn đầu sỏ CS nghĩ rằng sẽ nuốt chửng Xuân Lộc, cũng dễ dang như lấy đồ trong túi. Với tính chủ quan được tích lũy từ trận đánh Phước Long, trận Ban Mê Thuột, trận đường 7B, chiếm Huế, chiếm Đànẵng, các tỉnh Miền Trung và Cao Nguyên, Tướng Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà đã suy nghĩ quá đơn giản. Chúng không hề dự trù những tình huống khó khăn sẽ gặp và sẽ đối phó ra sao. Mặc dù chúng đã cho lệnh Đoàn 75, tức Bộ Tư lệnh pháo binh của Miền bố trí trận địa pháo tầm xa 130 ly tại Hiếu Liêm (ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai) để khống chế sân bay Biên Hòa và chi viện cho Quân đoàn 4.

Pháo của giặc tuy có gây trở ngại cho hoạt động của ta. Nhưng các phi tuần chiến đấu F-5E, A-37,…vẫn xuất kích yểm trợ đắc lực cho quân bạn tại Xuân Lộc. Các chuyến bay trực thăng tải thương và tiếp tế đạn dược cho mặt trận vẫn vào ra Xuân Lộc đều đặn. Sau ngày 12.4, người dân Xuân Lộc đã sinh hoạt trở lại. Đó là sinh hoạt của người dân trong thời chiến, dưới đạn pháo của giặc.

Khi Xuân Lộc bị tấn công, hai Pháp kiều là chủ đồn điền S.I.P.H và Túc Trưng bị quân CSBV bắt trong đêm, vì lầm tưởng họ là cố vấn Mỹ. Được thả ra, hai Pháp kiều đến Núi Thị trình diện TĐT/TĐ2/43. Họ là những người rất am tường địa thế. Các đồn điền cao su bao quanh Xuân Lộc, hầu hết thuộc tài sản của họ. Họ đã chỉ trên bản đồ những vị trí tập trung quân CSBV, những kho hậu cần, những con đường vận chuyển tiếp liệu. Một trong hai Pháp kiều là cựu Trung úy Dù, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, người kia có vợ là người Việt, có đứa con trai riêng của người vợ đang phục vụ trong lực lượng NQ/LK. Những tin tức thuộc loại A1 này đã được gửi ngay về Phòng 2/SĐ. Phối hợp và kiểm chứng cùng các tin tức khác, Tướng Đảo cho đánh bom chính xác vào các mục tiêu, làm tiêu hao đáng kể sinh lực của quân xâm lăng CSBV. Do TĐT/TĐ2/43 có những tin tức thuộc loại A1, Tướng Đảo cho biết ông có những phi vụ đánh bom đặc biệt gọi là “Commando Vault”, xử dụng loại máy bay C-130, chở nhiều bom. Một thứ “tiểu B-52”.

“Vào những tháng cuối cuộc chiến, BTTM xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào các cuộc dội bom chiến thuật. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện chứa 4 thùng dầu phế thải. C-130 thả từ cao độ 15 đến 20 ngàn bộ (5-7 cây số). Chu vi sát hại có đường kính từ 150-450 mét.

C-130 có thể chở 32 trái bom loại 250-500 cân. Đây là những ‘mini-B-52’ hay ‘B-52 VN’. Phi vụ đầu tiên thả xuống chiến khu C ở Tây Ninh. Lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại loan truyền nhanh chóng” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).

Trước khi xin đánh 2 trái BLU-82, Tướng Đảo gọi TĐT/TĐ2/43 : “Tôi có cái này hay lắm, nếu có tin tức chính xác, Bảo Định gửi liền cho tôi”.

Trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc đã gây thiệt hại đáng kể cho quân CSBV với hơn 6 ngàn tên chết tại trận. Đó là những thân xác ‘Sinh Bắc Tử Nam” bị phơi thây trong những vòng rào kẽm gai bao quanh thị xã, trong những khu tứ giác, trong những vũng sình lầy, hay những thân xác đếm được trong các cuộc phục kích. Lực lượng xe tăng quân CSBV tham chiến tại trận Xuân Lộc không biết được con số chính xác là bao nhiêu (những ngày đầu là 1 Trung đoàn, sau đó được tăng cường thêm 1 Đại đội xe tăng nữa). Số xe tăng của giặc bị tiêu hủy đếm được là 37 chiếc. Sự thiệt hại đó của quân CSBV là do các chiến binh tại phòng tuyến Xuân Lộc bắn hạ bằng vũ khí cá nhân, vũ khí cộng đồng và pháo hay bom. Số lượng cộng quân bị sát hại tại các chỉ huy sở, tại các vị trí hậu cần, những tuyến đường chuyển quân và tiếp liệu, cũng như sự thiệt hại do hai trái bom BLU-82 là không kiểm chứng được. Nhưng qua sự kiểm chứng gián tiếp là các báo cáo của các tên thủ trưởng tham chiến, nhận định tình hình chiến sự của Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, cũng như lời thú nhận của tên Lê Đức Thọ, ta có thể khẳng định con số thiệt hại của cộng quân là gấp bội lần so với con số được đếm được. Tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, khi cộng quân tràn ngập tuyến bố phòng của TĐ1/43, một số chạy thoát được, nhưng có một số bị bắt sống, khi được dẫn đến trình diện tên Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng, hắn nói:

“May mà các anh gặp đơn vị tôi, nếu gặp đơn vị kia (ý hắn muốn đề cập đến các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 bị thiệt hại nặng tại góc mặt trận Tây – Bắc thị xã, tại Núi Thị, và nhất là bị hai trái bom BLU-82) thì bị bắn ngay tại chỗ.”

2/- THẨM QUYỀN CHO LỆNH ĐÁNH BOM BLU-82 :

Về việc ai cho lệnh thả hai trái bom BLU-82, cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” viết:

“The most powerful weapon in our arsenal was an American-made cluster bomb…One aircraft with a few cluster bombs could kill everything within a square kilometer.

Because it was so powerful, however, Thieu feared that someone might drop one on his palace; permission to use a cluster bomb required his personal order. One day Operations called to say that an enemy division had encircled one of our bases. Our people asked for air support…so I asked the air force commander. He said that he had no authority to authorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the primer minister, Tran Thien Khiem.

“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”

I called the chief of operations back and said, “Okey, use it.” He accepted my authority, and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualties on the enemy.”

Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc này chỉ là Tướng “không quân” đúng nghĩa. Không chức, không quyền, không trách nhiệm, ông không thể ra lệnh ai, và không có ai dám thi hành lệnh của ông (Nếu không muốn ra Toà án Quân sự). Tướng Kỳ là một người ăn nói “ba hoa thiên địa”, ai cũng biết. Ông cũng hay nói phét. Nội cái tựa đề quyển sách “Buddha’s Child”, ông còn chua thêm câu: “My Fight To Save Vietnam” thì thật là quá đáng.

Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Xung kích cũng cho rằng chính ông đã cho lệnh đánh hai trái bom đó:

“Lực lượng địch và Lực lượng Xung kích QĐIII giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngả ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU-55 của Không quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. (Chuẩn tướng Trần Quang Khôi – Chiến Đấu Đến Cùng).

Tuyến phòng thủ CĐ52/SĐ18BB của Đại tá Ngô Kỳ Dũng bị quân CSBV tràn ngập lúc chiều tối ngày 15.4. Tàn quân phải bỏ vị trí về Long Bình. Tuyến phòng ngự CĐ52 đã vỡ 7 tiếng đồng hồ trước khi 2 trái bom BLU-82 được xử dụng. Nếu Tướng Khôi có thẩm quyền cho lệnh đánh hai trái bom đó (giả dụ thôi), thì đánh để tiêu diệt địch chứ không phải “để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. Vì CĐ52 đã bị tiêu diệt rồi! Cần phải sửa lại câu văn cho chính xác. Theo Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida) và Thiếu úy Mai Mạnh Liêu (hiện định cư tại Rosemead, California) thuộc TĐ3/52, là những người sống sót rút chạy sau cùng cho biết, trên đường từ ngã ba Dầu Giây đến Bàu Cá, họ chỉ gặp vài chiếc xe M.48 và một toán BĐQ tại vùng vườn cam gần Sở Chăn nuôi.

Hai trái bom BLU-82 được thả xuống Chỉ huy sở và Hậu cần của Sư đoàn 341 vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Theo Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/Bộ TTM/QLVNCH cho biết, chính BTTM và BTL/KQ quyết định cho đánh 2 trái bom đó. Và chỉ có 2 trái mà thôi, vì người bạn đồng minh Mỹ chỉ cung cấp 2 ngòi nổ!

“Đêm 15.4.75, sau khi Cộng quân tràn ngập vùng ngã ba Dầu Giây, Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, đã quyết định đề nghị BTTM cho xử dụng hai quả bom ‘Daisy Cutter’…Kết quả hai trái bom ‘Daisy Cutter’ đã loại khỏi vòng chiến khoảng 2 Sư đoàn Cộng quân (hơn 10 ngàn quân)”. (Những Sự Thật Chiến tranh Việt Nam 1954-1975).

“Vào 1 giờ sáng phi cơ thả trái ‘Daisy Cutter’ đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động-bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.

“Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược, có sức tàn phá mạnh…BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom ‘Daisy Cutter’ cất cánh vào lúc nửa đêm…” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).

Theo Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTTM/QLVNCH, đó là loại bom BLU-82 (Daisy Cutter), chứ không phải CBU-55:

“Tôi xin xác nhận với anh, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter) chứ không phải CBU-55. Tụi tôi chuẩn bị các mục tiêu theo đề nghị của các Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận…trình Đại tướng xin chấp thuận. Mục tiêu được Đại tướng chấp thuận rồi, tôi trao cho Không quân. Chỉ có Tư lệnh Không quân biết và thi hành; mọi mục tiêu đều là ‘Tối mật’ hết.” (Đại tá Hứa Yến Lến – Tuyến Thép Xuân Lộc)

Mục tiêu đánh bom là phía Nam Kiệm Tân, gần đường QL.20. Trong buổi phát thanh ngày 21 tháng Tư, đài Hànội cũng xác nhận vùng bị đánh bom là ở giữa Biên Hòa và Xuân Lộc.

Nhà cầm quyền Hànội tuyên truyền rằng 2 trái bom đã giết chết 200 người dân xã Xuân Vinh. Nhưng vào thời điểm này xã Xuân Vinh chưa có. Xã được thành lập sau ngày 30.4.75, bao gồm các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A và B.

Tại Xuân Lộc ngày nay, có một cây cầu nhỏ bắc qua một khe suối, có thể là suối Đá Bàn, được người dân địa phương gọi là “Cầu 6 ngàn”. Phải chăng đó là địa điểm Chỉ huy sở Sư đoàn 341/CSBV bị 2 trái BLU-82 đánh. “Sáu ngàn” là con số quân xâm lăng CSBV đền tội vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Có người thắc mắc về con số “6 ngàn”. Chỉ huy sở của một sư đoàn sao lại có nhiều bộ đội như vậy?

Ngày 12.4.1975, khi quân Dù được trực thăng vận đổ xuống tăng viện cho Xuân Lộc, cũng là lúc Tướng Trần Văn Trà đến Chỉ huy sở của QĐ4. Trà đã trao cho Hoàng Cầm kế hoạch tác chiến mới theo đó, Sư đoàn 341 rút ra, bổ sung quân số, vũ khí và đạn dược, sẵn sàng yểm trợ Trung đoàn 95B từ Cao Nguyên xuống và Sư đoàn 6 đang bố trí quân tại vùng ngã ba Dầu Giây diệt tuyến bố phòng của CĐ52.

Bom BLU-82 nặng 15.000 pounds. Đó là chữ viết tắt của Bomb Live Unit – 82, xử dụng loại máy bay MC-130E. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom có loại văng miểng, có loại gây hơi ép. Bom nổ tạo ra áp lực 1.000 pounds/square inch. Bom sẽ đốt hết dưỡng khí trong một khu vực rộng 2 mẫu Anh. Hai trái bom tiêu diệt 6 ngàn bộ đội giặc là điều có thể tin được. Nếu không tại sao người dân địa phương gọi cây cầu trước đây không tên là cầu “6 ngàn”?

Sự thiệt hại của quân CSBV trong các khu rừng là không kiểm chứng được. Vì thời gian là những ngày tàn của cuộc chiến. Nhưng ít nhất là 75% tại chỉ huy sở của Quân đoàn 4. Tin tức từ nguồn tin hai Pháp kiều cho biết, trong nhiều ngày, họ đã chứng kiến những chiếc xe bò vận chuyển suốt ngày để chở xác chết và thương binh bộ đội CSBV. Mỗi chiếc chất đầy tử thi hoặc thương binh, cùng những vũ khí gãy nát, ngổn ngang đầy xe, trông như đống củi.

Lịch sử Bộ đội Quân Y/CSBV viết: “Trong tác chiến tại Xuân Lộc, Long Khánh và xung quanh, Quân đoàn 4 đã có 1,888 thương vong.” Đó là con số bộ đội bị thương vong được các đồng chí của chúng mang về trạm xá. Còn con số rơi rớt dọc đường, mắt kẹt trong các hàng rào kẽm gai, hay bị bom pháo làm nát thây thì Bộ đội Quân Y không biết được.

Sau khi hai trái bom BLU-82 được thả xuống vị trí tập trung quân CSBV và Chỉ huy sở Sư đoàn 341, quan thầy Trung cộng phản đối ầm ĩ (Frank Snepp – Decent Interval), Hànội cũng la làng phản đối trong 2 ngày liền. Chúng cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đã trở lại. Nhưng thực tế quá phũ phàng,“Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục nhắm mắt làm ngơ…” (Điện tín của Thiếu tướng Homer Smith, the U.S. defense attaché in Saigon gửi Tướng George Brown, the chairman of the Joint Chiefs of Staff in Washington: ‘But Washington continued to turn a blind eye…’ ).

Nếu bom không gây thiệt hại lớn thì đối phương đã không cần phải la làng lớn giọng như vậy. Ta còn 5 trái trong kho đạn, nhưng không có ngòi nổ! Nếu Hoa Kỳ thỏa mãn đủ số bom do BTTM/QLVNCH yêu cầu và cung cấp đủ ngòi nổ, liệu giặc có còn đủ quân để tiến về Sàigòn? Hànội có 21 sư đoàn, nhưng đã tung 16 sư đoàn bao vây Sàigòn với 5 hướng. Chỉ cần đánh mỗi hướng 4 trái là đủ để tiêu diệt hết sinh lực của giặc. Và chắc chắn chúng ta đã không có ngày 30 tháng Tư đen!

VI- LUI BINH

“Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi”.

(Nửa Hồn Xuân Lộc - Nguyễn Phúc Sông Hương, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng TĐ3/48)

1/- NGUYÊN NHÂN :

Mặt trận phía Tây thất bại, nhưng quân ta đang thắng lớn tại Xuân Lộc. Dù sao sức người có hạn. Quân ta ngày càng mòn mỏi, đạn dược cạn dần. Trong lúc đó Hànội đã tung vào Nam tất cả những gì chúng có. Cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” được thành hình từ 1 Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân, đến nay đã lên đến 21 Sư đoàn. Khi phát động chiến dịch tổng tấn công VNCH từ đầu tháng 1 năm 1975, Hànội chỉ để lại 1 Sư đoàn giữ nhà, còn lại đưa vào Nam tất cả. Vùng biên giới Việt – Trung thì có các Sư đoàn Trung cộng trấn giữ. Theo các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, viết trong quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975”, Tướng CSBV Văn Tiến Dũng được 5 Tướng cố vấn Nga Xô bày mưu tính kế (theo tin tức tình báo của Tướng Pháp Vanuxem). Ngày trước đánh Điện Biên Phủ, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng được các cố vấn Tàu phù Trần Canh, Lã Quí Ba,…chỉ dạy cách đánh.

Quân đoàn 2 và một số đơn vị thuộc Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh đã vào đến Rừng Lá.
Quân đoàn 1 xuất phát từ bờ Sông Hồng cũng đã vào đến.
Quân đoàn 3 từ Đàlạt theo đường QL.20 đang trên đường xuống.
Xuân Lộc giờ đây đã trở thành ốc đảo giữa biển giặc mênh mông.

Bên ngoài phòng tuyến Xuân Lộc, Tiểu đoàn 2/43 đã lấy lại kiểm soát đến xã An Lộc, đèo Mẹ Bồng Con, đến chân Núi Ma, sân bay An Lộc và Bệnh viện đồn điền cao su S.I.P.H. (máy bay của đồn điền đã đáp xuống an toàn mang lương phát cho công nhân). Đơn vị cũng hoạt động đến ấp Núi Đỏ, và xã Tân Lập. Giao thông liên lạc đã tái lập từ Núi Thị đến thị xã, nhưng chỉ đi băng qua rừng cao su, không ra ngõ Cua Heo để tránh bị bắn sẻ.

Hướng Đông – Bắc, quân ta hoạt động xa ngoài vòng đai thị xã, kiểm soát đến ấp Bảo Vinh A và B.

Hướng Đông – Nam, Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7/CSBV đang bị quân Dù bao vây chia cắt. Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 141 hầu như bị xoá sổ. Quân Dù kiểm soát đến ấp Bảo Định và Bảo Bình. Hướng Nam, Chiến đoàn 48 hoạt động đến căn cứ Long Giao.

Nhưng Xuân Lộc giờ đây đã mất hết vai trò chủ yếu. Xuân Lộc không còn là nút chận quân xâm lăng CSBV, vì đối phương đã tránh Xuân Lộc, đang điều quân đi vòng. Chúng chỉ để lại Sư đoàn 7 của Lê Nam Phong đánh cầm chân Sư đoàn 18BB của Tướng Lê Minh Đảo và Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh. Trong lúc đó địch đang tập trung quân quanh Sàigòn, chuẩn bị tiến công từ 5 hướng. Biên Hòa cách Sàigòn 30 cây số, có một phi trường quân sự quan trọng, cần bảo vệ. BTL/QĐIII quyết định Sư đoàn 18BB và Lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc phải triệt thoái.

2/- DIỄN TIẾN:

Ngày 20 tháng Tư năm 1975, lúc 9 giờ sáng, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn, có Đại tá Hoàng Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTL/QĐIII tháp tùng vào Xuân Lộc. Tại đây ông cho lệnh Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh mặt trận, rút toàn bộ lực lượng tham chiến ra khỏi Xuân Lộc trong nội ngày hôm đó. Lệnh vừa ban ra buổi sáng, vào lúc quá trưa, các đơn vị đã nhận được Lệnh Hành Quân khá chi tiết. Nhờ vậy các cánh quân lui binh nhịp nhàng, trong im lặng, theo thế chân vẹt, nên quân CSBV đã không phát hiện kịp thời. Một đại đơn vị với hơn 5.000 quân, rầm rầm rộ rộ di chuyển mà địch vẫn không hề biết ý định của ta. Chúng nghĩ rằng đó chỉ là việc thay quân bình thường.

Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 2/43 đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trong lúc đại đơn vị di chuyển, hai đơn vị này vẫn tiếp tục chiến đấu, vẫn mở những cuộc tấn công địch. Khi hai đơn vị đoạn hậu này di chuyển thì áp dụng chiến thuật đánh trì hoãn chiến. Bộ đội của Hoàng Cầm dù đang bám sát quân ta, đã hoàn toàn không hề hay biết gì về cuộc hành quân lui binh của đối phương. Đến lúc phát hiện được thì đoàn quân đã về đến Xà Bang, tiền quân đã đến Bình Giả!

Sau khi chiếc trực thăng của Tướng Toàn vừa cất cánh rời Xuân Lộc, với khả năng nhạy bén, Tướng Đảo đã có ngay một kế hoạch Hành quân Lui binh trong đầu. Thông thường phải triệu tập các đơn vị trưởng, tổ chức ngay cuộc họp khẩn cấp tại BTL/SĐ18BB. Nhưng trong tình thế hiện tại, dù không còn khả năng tấn công, địch đã gia tăng cường độ pháo. Những trận mưa pháo của quân CSBV rót xuống Xuân Lộc, theo vài ký giả phương Tây, còn ác liệt và có tính cách hủy diệt hơn hồi trận Điện Biên Phủ! Vả lại các đơn vị trưởng đang mặt đối mặt với quân thù, không tiện rời bỏ vị trí. Ông Tướng đã gặp riêng Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ để truyền đạt lệnh. Phát thảo Kế hoạch Điều quân Lui binh của ông được Phòng 3/SĐ soạn thảo chi tiết. Để đạt được yếu tố “Bí Mật”, Lệnh Hành Quân phải chuyển tay đến các đơn vị trưởng. Lệnh phải được thi hành ngay, các đơn vị phải “Nhanh Chóng” chuẩn bị. Có gì không rõ, phải trực tiếp hỏi Tư lệnh, nếu không thì cứ thế mà thi hành.

Lộ trình cuộc triệt thoái là LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh đi Bà Rịa của Phước Tuy. Ông cho lệnh Phi hành đoàn chiếc trực thăng chỉ huy (C&C) bay quan sát lộ trình.

Đoàn quân sẽ di chuyển khi màn đêm buông xuống. Xưa nay hành quân hay đánh đêm là sở trường của địch. Thông thường quân ta chỉ tiến ngày ban ngày, ban đêm thì co cụm và phòng thủ. Tướng Đảo ấn định giờ xuất phát lúc 7 giờ tối là một “Bất Ngờ” đối với địch.

Khi các đơn vị trưởng nhận được Lệnh Hành Quân, lệnh chi tiết hơn đã được soạn thảo chuyển xuống cho các đơn vị cấp thấp thi hành. Tiểu đoàn 2/43 trấn giữa cao điểm Núi Thị, vị trí xa nhất trong tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã được chính tay Đại úy Nguyễn Văn Khiêm, Ban 3/CĐ43, vượt rừng cao su, trao tay vào lúc quá trưa. Riêng ĐĐ43TS của Trung úy Dương Trọng Khoát đang hoạt động khu vực Núi Ma, chỉ biết lệnh khi quá nửa đêm.

Kế hoạch điều quân cuộc Lui binh như sau :

- CĐ 48 do Trung tá Trần Minh Công, Trung đoàn trưởng 48 chỉ huy, mở đường.
- BTM/HQ/SĐ18BB, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, các Tiểu đoàn Pháo binh, Công Binh, Tiểu đoàn 18 Tiếp vận, 2 khẩu đại bác tự hành 175ly, và các đơn vị kỷ thuật, lập thành đoàn cơ giới do Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ chỉ huy.
- BCH/TKLK và các đơn vị trực thuộc do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng chỉ huy.
- CĐ 43 gồm các đơn vị cơ hữu và Tiểu đoàn 82/BĐQ, do Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43 chỉ huy.
- LĐ1ND và TĐ2/43 do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐ1ND chỉ huy, đi đoạn hậu. Kể từ 7 giờ tối 20.4.75, TĐ2/43 vào hệ thống truyền tin của LĐ1ND, đặt dưới quyền chỉ huy của LĐT/LĐ1ND. Đến 12 giờ đêm, TĐ2/43 trở lại hệ thống truyền tin và chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn, di chuyển đến ngã ba Tân Phong gặp LD1ND, sẽ xuất phát trước.
- Chuẩn tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo sẽ di chuyển bộ cùng cánh quân của CĐ43, do TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ.
- Chiếc trực thăng chỉ huy của Tư lệnh (C&C) sẽ do Đại tá Ngô Kỳ Dũng bay bao vùng.
- Đội hình hành quân theo thế chân vẹt, hầu bảo đảm an toàn cho các cánh quân khi di chuyển.

Hành quân lui binh là loại hành quân khó khăn , nhất là khi phải tiến hành dưới áp lực và hỏa lực của địch. QLVNCH đã hơn một lần thảm bại cay đắng trong cuộc triệt thoái hay di tản chiến thuật hồi trung tuần tháng 3 năm 1975 từ Cao Nguyên về Duyên Hải miền Trung. Thiệt hại của đoàn quân triệt thoái ít nhất là 75% khả năng tác chiến. Tại Quân đoàn I, cuộc triệt thoái chiến thuật cũng thất bại.

Cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng Tư năm 1975 đã thành công tốt đẹp. Toàn bộ Sư đoàn, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ và Lữ đoàn 1 Dù đã di chuyển về đến Bình Giã – Bà Rịa thuộc tỉnh Phước Tuy an toàn. Nhưng LĐ1/Dù do vừa di chuyển, vừa phải chiến đấu để bảo vệ đồng bào các ấp Bảo Định và Bảo Bình đi theo, nên chịu một số thiệt hại. Tiểu đoàn 2/43 với nhiệm vụ đánh trì hoãn chiến, đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng, do đó bị thiệt hại nặng nhất, lối 50%. Nhưng nhìn chung, cuộc Hành quân Lui binh của các lực lượng tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc là một thắng lợi to lớn.

Mặc dù ở trong thế mặt đối mặt, quân của hai bên có thể nói chuyện với nhau được, thế mà khi quân ta rút ra, bắt đầu di chuyển từ lúc 7 giờ tối, mãi đến gần 3 giờ sáng, Tướng Cầm mới hay biết để tổ chức đơn vị truy kích.

TĐ9 Dù cùng Trung đội PB/Dù rời Long Giao lúc 4 giờ 30 sáng. TĐ2/43 rời căn cứ Núi Thị lúc 5 giờ sáng.

Đường LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh và Bà Rịa của Phước Tuy, dài trên 40 cây số. Con đường này do quân đội đồng minh sửa chữa và mở rộng. Khi quân đội đồng minh rút, con đường bị bỏ hoang phế.

Tướng Đảo đã có một quyết định khá táo bạo khi chọn con đường này làm lộ trình triệt thoái. Quyết định táo bạo đó của ông là yếu tố bất ngờ đối với cộng quân.

Tướng Trà viết Hồi ký, đã tiên đoán quân ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa: “Hai là rút chạy khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa…Vì vậy ta không được để lơi lỏng đối với lực lượng địch ở Xuân Lộc mà phải kèm kỹ…” Tiên đoán của Trà được viết trong hồi ký, chứ không phải được phán đoán hay suy nghĩ trước khi lực lượng tham chiến Xuân Lộc rút đi! Thực tế như Hoàng Cầm thú nhận trong quyển Lịch sử Quân đội Nhân dân: “Chúng tôi đã không phát hiện kịp thời cuộc di chuyển quân của Sư đoàn 18 để tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chặn”. Hai Tướng CS viết hồi ký đã đưa ra những địều mâu thuẫn. Nếu Trà đã “tiên đoán”, sao không ra lệnh cho Cầm bố trí một lực lượng mạnh trước để có thể phát hiện kịp thời mà chận đánh.

Dù đạt được yếu tố bất ngờ của cuộc Hành quân Lui binh, nhưng đã có những cuộc chạm súng lẻ tẻ. Từ sau Hiệp định ngừng bắn Paris, VC thường xuyên phục kích đắp mô trên con đường này. Đó cũng là hành lang giao liên giữa các mật khu VC trong vùng. Đây cũng là địa bàn hoạt động của Trung đoàn 33/Quyết Thắng Long Khánh. Những cuộc chạm súng tuy không lớn, nhưng cũng làm cho quân bạn chịu một số tổn thất: Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng bị bắt. Trung tá Tham Mưu trưởng Lê Quang Định bị tử thương. Quân Dù cũng chịu một số thiệt hại. Trên con đường LTL.2, quân Dù là đơn vị di chuyển sau cùng. Khi quân Dù đã đi qua, Tướng Hoàng Cầm phát hiện, đã tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chận. Từ đó, con đường hoàn toàn bị đóng.

Theo Thiếu úy Tài, hiện định cư tại Tiểu bang Massachussetts, sĩ quan Tiền sát Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Dương Trọng Khoát cho biết, đơn vị này vẫn chiến đấu quyết liệt với quân CSBV cho đến 11 giờ đêm. Buổi chiều, Đại úy Quyền, Pháo đội trưởng PĐ/B của TĐ181/PB/SĐ gọi Thíếu úy Tài, yêu cầu chấm mục tiêu những nơi tập trung quân của CSBV để bắn pháo. Tài lấy làm lạ sao hôm nay căn cứ Pháo tại Núi Thị chơi sang! Tài đâu biết rằng Pháo đội của Đại úy Quyền cần bắn cho hết đạn để di chuyển nhẹ nhàng!

Khi màn đêm buông xuống, như thường lệ, quân CSBV lại mở nhiều đợt tấn công biển người vào vị trí của Đại đội 43/TS. Trận chiến thật ác liệt, có lúc phải đánh cận chiến. Nhưng những người lính Trinh sát vẫn giữ vững vị trí. Hai khẩu pháo còn lại tại Núi Thị bắn ào ạt, như trút cơn giận dữ lên đầu giặc. Pháo của địch cũng dội lên đầu quân bạn không ngớt. Thiếu úy Tài vẫn bình tĩnh điều chỉnh pháo. Những loạt đạn bắn gần, đã phá tan đội hình tấn công của địch. Vài trái đạn nổ ngay trên tuyến phòng thủ, Khoát bị thương, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu.

Lối 11 giờ đêm, Khoát liên lạc được với Bảo Định (TĐT/TĐ2/43), yêu cầu được dẫn quân qua Núi Thị. Nhưng Bảo Định nói hãy dẫn quân ra ngã ba Tân Phong, gặp TĐ2/43 ở đó rồi cùng rút. Đơn vị của Khoát không thể đến được điểm hẹn. Quân CSBV bố trí cùng khắp trong các cánh rừng cao su, trong các khu rừng chồi. Có những đơn vị cộng quân đi lạc do những tên chỉ huy kém cỏi, không xác định được điểm đứng. Đó là trường hợp của Tiểu đoàn 8 thuộc Sư đoàn 341, nên được giao nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị QLVNCH tiếp viện hay rút lui. Có thể đơn vị cộng quân này chốt chặn TĐ2/43 tại phòng tuyến Núi Thị, vì chúng đang bố trí quân khu vực xã An Lộc và Tân Lập, cách Núi Thị vài cây số về hướng Tây. Trên đường hành quân ra ngã ba Tân Phong, ĐĐ43TS chạm súng đơn vị địch thuộc Trung đoàn 274 đang kiềng chốt tại khu vực đèo Mẹ Bồng Con. Khoát phải cho đơn vị đổi hướng về hướng Tây. Sau nhiều ngày luồn lách, hành quân xuyên qua các căn cứ địa của VC, vừa đi vừa đánh, quân số bị hao hụt nhiều. Buổi trưa ngày thứ năm của cuộc vượt thoát, Khoát thấy một chiếc trực thăng đang nhởn nhơ trong bầu trời cao. Đơn vị dùng kính “mắt thần” của Viễn thám chiếu lên phi cơ. Một lúc sau trực thăng quay lại, liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn giặc, trên một khoảng trống nhỏ, cố bốc đi những quân nhân sống sót. Nhưng không bốc hết được, phải để lại một số. Trực thăng quá tải, cố ngóc lên, cố ngóc lên cao, nhưng chỉ có thể rà rà trên ngọn cây, lướt về hướng QL.1. Trực thăng thả quân xuống một căn cứ pháo, rồi vội vã quay lại bốc nốt những người lính còn sót. Chiếc trực thăng cứu nạn đó là của Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Biên Hòa, đang bay quan sát: “Qua nghi là mấy em lắm mà…”, giọng nói thân tình “huynh đệ chi binh”. “mấy hôm nay nghe bên Sư đoàn đang bay tìm số quân nhân thất lạc trong rừng. Yên chí đi, Qua không bỏ mấy em đâu…”

Khi đi qua thị xã, TĐ2/43 di chuyển bên ngoài, cách xa vài trăm mét. Cộng quân lố nhố trong thành phố, xe molotova chạy qua lại, dù trời đã sáng, xe vẫn còn mở đèn pha, thị xã sáng rực! Nhưng hầu như việc ai nấy làm. Cộng quân vào thành phố thì lo hôi của. Đoàn quân triệt thoái thì lo di chuyển theo lộ trình ấn định.

Buổi sáng thật yên ả. Không có tiếng “Đại bác vọng về”, không có tiếng máy bay gầm rú. Trời cao và xanh trong.

Từ 7 giờ tối, khi đại quân bắt đầu di chuyển, 2 khẩu pháo được lệnh tác xạ liên tục. Tác xạ quấy rối, tác xạ nghi binh, cũng là tác xạ cho hết đạn. Trường hợp này cũng giống như Trương Phi trong Tam Quốc Chí, cùng 20 người ngựa, tại cầu Trường Bảng, đã mưu trí dùng những nhánh cây cột vào đuôi ngựa cho chạy lui, chạy tới trên đường, làm cho đất bụi bay mù trời, hầu đánh lừa quân Tào Tháo. Nhờ hành động mưu trí này của Trương Phi, đại quân của Lưu Bị đã rút lui an toàn. Sau khi hai khẩu pháo bị phá hủy, vùng trời Xuân Lộc hoàn toàn im vắng. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975.

Lối 7 giờ sáng, trong cái im vắng của bầu trời Xuân Lộc, chiếc C&C của Tư lệnh xuất hiện, bay từ hướng Bình Giả lên. Khi bay ngang đầu, Đại tá Ngô Kỳ Dũng, CĐT/CĐ52 đang ngồi trên đó, không phải Tướng Đảo, chuyển lệnh của Tướng Đảo cho TĐT/TĐ2/43: “Hủy bỏ lộ trình cũ, di chuyển về hướng Tây. Điểm tập trung tại Long Thành trên QL.15”. TĐ2/43 phải tìm “Sinh lộ trong Tử địa”. Khi chiếc C&C bay đi, bầu trời trống không. Không một chiếc máy bay nào vào vùng. Pháo binh cũng im bặt. Thật khác hẳn không khí rộn ràng trong suốt 12 ngày đêm vừa qua. Lúc đó máy bay đủ loại vần vũ trên bầu trời. Lưới đạn đan nhau. Khói súng mịt mờ. Đạn pháo ầm ầm, pháo địch pháo ta. Giờ này thì tất cả đều lặng yên. Một thứ lặng yên ma quái, rất kinh người!

Đang im lặng di chuyển trong khu rừng cao su phía Tây căn cứ Long Giao, đơn vị tiền quân chạm địch. Một cuộc chạm súng ngắn ngủi. Những người lính TĐ2/43 tràn lên như thác lũ, đã đè bẹp một ổ kháng cự của giặc cở 1 Trung đội. Chúng không phản ứng kịp, đã bị tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn trưởng định cho đơn vị nghỉ ngơi một lúc. Nhưng từ hướng Đông, một đoàn xe molotova trên 10 chiếc, chở đầy bộ đội CSBV đang theo các con đường lô cao su tiến vào. Đơn vị nhanh chóng đổi hướng về hướng Bắc. Nhưng lại chạm địch. Trong hoàn cảnh không có máy bay và pháo binh yểm trợ, đại đơn vị thì đang trên đường di chuyển, đánh nhau với địch lúc này là bất lợi. Nếu quân sĩ bị thương vong thì lại càng phiền toái hơn. TĐT quyết định đoạn chiến. Lại chuyển hướng di chuyển về hướng Tây. Đơn vị đi xuyên qua những căn cứ địa VC, tiêu diệt gọn những tên cán binh “giữ nhà”, nếu gặp giặc đông thì tránh. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào!” Trước khi trời tối, Tiểu đoàn đi đến một khu rừng rậm. Đơn vị chia làm hai cánh, một do TĐT chỉ huy, và một do Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi chỉ huy. Vì hoàn cảnh đơn vị di chuyển lẽ loi không có phi pháo yểm trợ, trong khu rừng đầy căn cứ địa của đối phương, hiện do Sư đoàn 341 chiếm cứ, nên TĐT cho lệnh đơn vị phải tránh chạm súng, để tránh thương vong. Nếu bất đắc dĩ phải nổ súng, phải đoạn chiến ngay, phải tìm cách phân tán mỏng, phải di chuyển nhanh ra điểm tập trung tại Long Thành, trên QL.15.

Cánh quân do TĐT chỉ huy chạm súng liên miên. Cuối cùng chỉ còn 27 người sát cánh cùng TĐT. Toán quân vượt thoát ngày nghỉ đêm đi, giữ im lặng vô tuyến. Máy truyền tin mang theo nghe Sư đoàn và Trung đoàn gọi, nhưng không thể trả lời, vì sợ đối phương định vị, tìm đến tiêu diệt. Từ sáng sớm đến chiều tối, Sư đoàn và Trung đoàn thay nhau dùng trực thăng hay L.19 bay đi tìm. Mãi đến 5 ngày sau, khi đã thoát ra ngoài vòng vây, toán quân vuợt thoát 28 người được trực thăng đến bốc. Vài ngày sau, những người lính thất lạc cũng tìm được cách ra đến Long Thành để được xe GMC đón về Long Bình. Trước ngày tan hàng, đơn vị lại tụ họp còn khoảng 50% quân số.

Chỉ có 3 chiếc trực thăng đến bốc 28 quân nhân thất lạc trong khu rừng trong cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18BB, nhưng tin tức loan truyền sai lạc, và đã được phóng đại rất xa sự thật.

Tướng Lê Minh Đảo di chuyển bộ cùng với CĐ 43 của Đại tá Hiếu, có TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ gần:

“Đoàn quân vẫn tiếp tục đi. Tư lệnh vẫn vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa…
“Đại tá Hiếu thì cứ luôn luôn bận tâm đứa con đi đoạn hậu, TĐ2/43, đơn vị này bắt đầu rời Núi Thị…”
“Khi đến ngả ba Xà Bang, Tướng Tư lệnh đã mệt lắm rồi, “Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không ?”
“Cố lên đi Thiếu tướng ! Tôi vừa nói vừa kéo tay Tư lệnh tiến lên.”
(Tháng Tư Lại Về - Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long)

Nhưng kẻ địch, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh B2, rất sung sướng khi trích dẫn những lời viết dối trá của Frank Snepp trong quyển “Decent Interval” để biện hộ cho thất bại của mình với ảo tưởng thắng trận: “…Rạng ngày 21, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính phủ tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của sư đoàn 18 quân đội Việt nam cộng hòa với viên tư lệnh, tướng Đảo, được kéo chạy khỏi thành phố đổ nát bằng máy bay lên thẳng”. Đoạn văn này được Luật sư Hoàng Cơ Thụy trích, viết trong quyển “Việt Sử Khảo Luận” của ông ấy, rồi lại được Luật sư Nguyễn Văn Chức trích lại, viết trong một loạt bài công kích Tướng Đảo trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, với văn phong và ngôn ngữ của Miền Nam: “Trực thăng đã đến bốc cái tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của sư đoàn 18, kể luôn tướng Lê Minh Đảo. Có 600 trăm người dưới quyền Đại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. Tại sao Frank Snepp viết như vậy? Là một phân tích gia C.I.A (CIA Analyst), cũng là một nhà báo ngồi tại Sàigòn, chỉ cách Xuân Lộc 70 cây số, Snepp phải biết rõ là không phải như vậy. Nhưng anh ta vẫn viết như vậy. Rồi bản tin của anh ta đã bay cùng khắp thế giới. Snepp cố tình đánh lừa dư luận. Có phải Frank Snepp mang mặc cảm tội lỗi của một người bạn đồng minh bất tín. Với tin tức do Quân đoàn 4 cung cấp hàng ngày, Trần Văn Trà cũng phải biết sự thật không phải như vậy, nhưng hắn vẫn viết như vậy. Hắn đã rất sung sướng khi vớ được bản tin bôi bác này của Frank Snepp. Hay Trà cũng mang mặc cảm nô lệ như Luật sư Chức, chỉ thiếu lời bàn Mao Tôn Cương như ông Luật sư:“Đây là do Mỹ nói nhé!”

Lúc đến Bình Giã, Đại tá Hiếu, báo cho Tướng Đảo biết quân Dù đang chạm súng mạnh với cộng quân tại biên giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, TĐ2/43 thì vừa xuống núi, đang di chuyển ngang qua thị xã để đến điểm hẹn tại ngã ba Tân Phong. Tướng Đảo liền cho lệnh Đại tá Dũng đang bay trên chiếc C&C bao vùng, hướng về Xuân Lộc, chuyển lệnh cho TĐT/TĐ2/43 phải lập tức hủy bỏ lộ trình cũ, đưa đơn vị băng rừng ra hướng Long Thành trên QL.15.

Mặc dù Lui binh là một cuộc hành quân khó khăn nhất trong chiến tranh, cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18 đã thành công. Các đơn vị đều rút ra an toàn, chỉ bị những thiệt hại nhỏ. Đó là cái giá phải trả khi đơn vị đang ở thế mặt đối mặt với quân địch. Riêng TĐ2/43, đơn vị đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng là bị thiệt hại nặng. Nhưng sự thiệt hại của TĐ2/43 được đổi lại cho đại quân được an toàn trên đường triệt thoái thì cũng xứng đáng.

Sự thành công tốt đẹp của cuộc hành quân lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện không phải do may mắn. Cũng không phải do đối phương đã kiệt quệ. Chính Trần Văn Trà đã chỉ thị cho Hoàng Cầm sử dụng lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc. Sự thành công là nhờ vào kế hoạch được soạn thảo chu đáo, thi hành nhanh chóng, đạt được yếu tố bí mật và bất ngờ:

- Tướng Đảo đã chọn hai đơn vị thiện chiến chịu trách nhiệm đi đoạn hậu. LĐ1Dù đánh trì hoãn chiến, và TĐ2/43 đánh nghi binh. Hai đơn vị này gồm các binh sĩ giỏi chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chiến trường và rất dũng cảm.

Trong đêm lui binh, vào những giờ đầu của cuộc hành qưân, LĐ1Dù vẫn hoạt động bình thường. Điều khó khăn là làm sao rút ra mà đối phương không biết. Và quân Dù đã làm được. Quân Dù đã giữ được an toàn cạnh sườn trái này của cuộc di tản.

TĐ2/43 trấn giữ Núi Thị, vị trí xa nhất về hướng Tây – Bắc của chiến tuyến. Nếu quân CSBV ở hướng Bắc thị xã có hay biết và tổ chức bộ đội truy kích, chúng phải tiêu diệt Tiểu đoàn 2/43 trước, rồi mới có thể tổ chức đội hình tấn công cạnh sườn phải của đoàn quân triệt thoái.

Khi đại đơn vị bắt đầu di chuyển, TĐ2/43 vẫn hoạt động bình thường. Các toán tiền đồn và phục kích vẫn đi đến những vị trí ấn định. Trung đội BK/TĐ hoạt động sườn phía Đông của Núi Ma, cách BCH/TĐ lối 2 cây số về hướng Bắc vẫn bám trụ. Chính vì vậy mà lúc 3 giờ sáng, khi có lệnh di chuyển, Trung đội này phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới về tới với Tiểu đoàn. Những người lính Biệt kích Tiểu đoàn phải di chuyển thế nào để đối phương không phát hiện. Hai khẩu pháo 105ly còn lại vẫn tác xạ quấy rối đều đặn. Lối 11 giờ đêm, tên Thủ trưởng, tên Chính trị viên, cũng có thể là một tên cán bộ cao cấp đặc trách về binh vận, vào tần số Tiểu đoàn, gặp TĐT để tuyên truyền. Có thể hắn là người có trình độ, hay chỉ là cái máy, giống như con vẹt, tuôn ra những điều đã được viết sẵn. Hai bên đấu lý, trao đổi qua lại mãi đến gần 2 giờ sáng. Chính những hoạt động này của TĐ2/43, đã đánh lừa được cánh quân này của CSBV. Chúng chỉ phát hiện được sau 7 giờ sáng, khi TĐ đã rời xa căn cứ Núi Thị, đang di chuyển gần ấp Núi Đỏ, sát thị xã.

- Kế hoạch hành quân được Phòng 3/SĐ soạn thảo tỉ mỉ. Các cánh quân rút lui theo đội hình thế chân vẹt, do đó luôn luôn có quân sẵn sàng chiến đấu, và hỏa lực sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn. Trên không thì có trực thăng bao vùng.

“Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi đến Long Giao…Lệnh cho tôi phải ở lại Long Giao và sẵn sàng tác xạ để yểm trợ cho LĐ1Dù đang ở lại…Chúng tôi đã liên lạc được với LĐ1Dù và bắn yểm trợ cho họ…trước khi chúng tôi được lệnh tiếp tục di chuyển…đơn vị Dù thay thế chúng tôi sẽ đến ngay sau khi chúng tôi đi khỏi nơi này…”(Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, PĐT/PĐA/TĐ181PBSĐ – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc).

Pháo đội Dù chỉ xếp càng pháo khi người lính cuối cùng của LĐ đến Long Giao.

- Tinh thần quân sĩ rất vững vàng, đang lên cao do những thắng lợi suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến. Điều quan trọng là cuộc triệt thoái chỉ thi hành theo lệnh, không phải do chiến bại để phải tháo chạy.

Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, các đơn vị thường xuyên có những sinh hoạt chính huấn, huấn luyện cách xử dụng súng chống chiến xa, và đặc biệt, Tướng Tư lệnh đến nói chuyện với đơn vị nhiều lần để động viên tinh thần quân sĩ. Thật là không mấy dễ khi cả Vùng 1 và Vùng 2 đều đã lọt vào tay giặc, tuyến phòng ngự mạnh ở Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy cũng thất thủ, dân tỵ nạn từ ngoài Trung chạy vào, hết đợt này đến đợt khác, chính quyền Long Khánh phải lập trại tỵ nạn gần ngã ba Tân Phong. Lẫn lộn trong đoàn người tỵ nạn, có một số quân nhân bỏ ngũ, sự việc này dễ ảnh hưởng xấu đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ, thế mà tinh thần các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn không lung lay.

- Trước khi trận đánh khai diễn, Tiểu đoàn 18 Quân Y, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân, và gia đình binh sĩ được di chuyển về hậu cứ Sư đoàn ở Long Bình.

Sự thất bại của Quân đoàn II trong cuộc hành quân triệt thoái trên đường 7B là vì lẫn lộn trong đoàn quân, có nhiều đàn bà, trẻ em thuộc gia đình binh sĩ, và nhiều thường dân đi theo (có đến 400 ngàn dân vùng Cao Nguyên chạy lánh nạn cộng sản–theo Nguyễn Đức Phương/CTVNTT), nên đã làm vướng bận các đơn vị quân đội. Các đơn vị khó xoay xở lúc chiến đấu.

Rút kinh nghiệm từ sự thất bại trên đường triệt thoái ở Vùng 2 và Vùng 1, Tướng Đảo đã cho TĐ18QY, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân và gia đình binh sĩ di chuyển về hậu cứ Long Bình từ trước khi xảy ra trận chiến. Tuy nhiên khó khăn cũng phát sinh khi Quân Dù bị vướng bận dân chúng hai ấp Bảo Định và Bảo Bình lánh nạn Cộng sản, gồng gánh đi theo. Quân Dù vừa đánh giặc, vừa phải bảo vệ dân, nên đã chịu một số thiệt hại.

- Nhưng yếu tố quan trọng hơn hết là do vị chủ soái, Tướng Lê Minh Đảo cùng chịu gian nguy với quân sĩ. Ông không xử dụng trực thăng C&C để chỉ huy từ trên cao, mà di chuyển bộ cùng quân sĩ.

Trong cuộc Hành quân Lui binh từ Xuân Lộc đi Bà Rịa, và cuộc Lui binh lần thứ hai từ Long Bình về Thủ Đức, Tướng Đảo và Bộ Tham mưu đã di chuyển bộ cùng đoàn quân. Việc vị chủ soái dấn thân cùng chịu gian nguy như quân sĩ dưới quyền là một trong những yếu tố thắng lợi.

3/- HẬU QUẢ :

Theo tâm lý thông thường của người chiến binh, đang đánh nhau, ở trong thế mặt đối mặt mà rút lui không đánh nữa, là đã thất bại. Cuộc hành quân Lui binh dù tốt đẹp, đã gây ảnh hưởng tâm lý không tốt đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ.

Quân và dân VNCH cứ lui, lui dần từ Quảng Trị, qua Duyên hải Miền Trung, đến Hàm Tân. Rồi Xuân Lộc cũng bỏ. Người dân Biên Hòa cũng đang tìm cách lánh nạn Cộng sản về Sàigòn. Cảnh tượng như đàn cá đang bị lùa vào rọ. Sàigòn thất thủ chỉ là vấn đề thời gian.

(Xem tiếp phần cuối)