Remember ?

Trang 3/3 đầuđầu 123
kết quả từ 13 tới 15 trên 15

Tựa Đề: Ðỗ Lệnh Dũng - Lê Thiệp

  1. #13
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default


    CHƯƠNG 12


    Tôi đến đất Bắc trong cơn mưa phùn lạnh gần bảy năm về trước, bảy năm của tù đày nhục nhã, bảy năm của cái buồn nhiều hơn vui, bảy năm của cố gắng sống còn. Tôi sắp rời đất Bắc để trở lại nơi đã ấp ủ nuôi dưỡng tôi và trong cái niềm vui hồi đó, ông trời có lẽ cũng thông cảm nên nắng đẹp, không nóng quá như những ngày hè vừa qua.

    Hình như dân Bắc, nhất là ở ga Yên Bái này, mọi người đã quen nhìn lũ tù cải tạo miền Nam gầy guộc, co rúm, nheo nhếch. Đã biết bao nhiêu đám tù tới và đi? Chẳng ai đếm và cũng chẳng ai buồn lý tới. Cơm áo hàng ngày, cuộc sống không bao giờ nghĩ tới tương lai, người dân Xã Hội Chủ Nghĩa chẳng ai có thời giờ cho lũ tù cải tạo.

    Đứng ở sân ga chưa tới mười phút, tôi cố giương mắt lên nhìn lần cuối. Những người dân cũng vẫn trông không khác gì so với những ngày đất nước chưa thống nhất, trừ mấy chiếc Honda, Suzuki. Vẫn gồng vẫn gánh và những phụ nữ già nua trùm khăn mỏ quạ ngồi bên những chiếc thúng bán xôi, bán bánh kẹo trông ủ rũ như cuộc đời phía trước.

    Những ông bạn tù – đợt này về hơn một trăm mạng – đều là những thứ “Ác ôn, ngoan cố, lý lịch hắc ám“. Nếu không thì đã được xuất trại từ lâu mới phải. Tiếng súng đã ngưng từ hơn bảy năm rồi mà! Trong cái suy nghĩ đó tôi quay sang hỏi ông đứng cạnh:

    - Binh chủng nào mà giờ này vẫn còn dính với tụi tôi?
    - Đâu có lính tráng gì. Công chức. Chủ sự
    - Sao bóc nhiều lịch thế?
    - Dân vận. Họ bảo tôi ác ôn, là bọn phun nọc độc vào quần chúng, là chiến tranh tâm lý xách động quần chúng, là tay sai CIA
    - Lắm tội thế hẳn nào.

    Cả hai cùng cười, nhưng là cái cười méo xệch, trông quả không giống con giáp nào
    .
    May quá, khi xe lửa ngưng ở Hà Nội, chúng tôi không bị dân chào, ném đá như lần trước. Ga Hàng Cỏ đông, ồn ào như chợ vỡ, người ta chen nhau, huých nhau để leo lên con tàu Thống Nhất xuôi Nam. Cho dù tù được nhốt ở toa cuối nhưng tiếng chửi, tiếng la hét inh ỏi vẫn vọng vào qua cửa sổ đóng kín.

    Vào khoảng nửa đêm gần sáng, ông bạn tù dân vận huých tôi:
    - Ngửi thấy không?

    Mùi biển. Gió từ ngoài đem vào cái mùi tanh ngọt của rong rêu, của cá, của nước mặn.
    - Chắc bắt đầu qua khỏi Vinh, Thanh Hóa. Vậy mình sắp về đến nơi.

    Tôi bật cười trong đêm. Về đến nơi! Có về đến nơi thì vẫn thân phận tù không án, ngày về đến nơi thật vẫn tít mù tắp không biết đến bao giờ. Đây có lẽ là con tàu tốc hành nên ngừng rất ít, đâu bốn năm chặng gì đó và tất nhiên không có chuyện chúng tôi được xuống ga đi lại cho dãn gân dãn cốt. Gần đến trạm là bộ đội, công an kéo sập hết cửa sổ lại. Toa cuối nên lắc dữ và lũ tù cũng chỉ còn biết ngồi chịu trận lắc lư theo tàu.

    Khi tàu ngừng sau hơn môt ngày một đêm, chúng tôi được lệnh. Vừa đặt chân xuống lại miền Nam, chúng tôi nghe tiếng bà con gọi nhau:
    - Cải tạo. Tù cải tạo.

    Chỉ một loáng, những người dân Bình Tuy có mặt ở sân ga ồ lại phía chúng tôi. Công an áo vàng, trật tự viên và bộ đội chặn lại, họ xua. Một chiếc bánh lá được ném sang và sau đó là tới tấp đủ thứ. Những em bé quần đùi áo xốc xếch đặt cả cái thúng xuống và vung tay ném bất cứ thứ gì trong đó về phía tụi tôi. Bọn công an hò hét ngăn cản, lùa chúng tôi vào một góc, nhưng anh em tù ai nấy đều chộp, vồ được. Người thì trái bắp luộc, kẻ thì bánh ít, quả ổi, quả chuối hay một nắm xôi đậu.

    Có cái gì dâng lên trong tôi.

    Thế ra lòng người miền Nam vẫn ở với chúng tôi. Thế ra sau bảy năm cái tình vẫn còn nguyên đó, cái tình của những người dân buôn thúng bán bưng, của những em bé bán dạo. Tôi nheo mắt nhìn nắm xôi đậu đen gói trong lá chuối. Miếng xôi đã vỡ, văng xuống đất một nửa. Miếng xôi xộc xệch, mầu xôi hơi tim tím bao lấy những hột đỗ đen thẳm. Tôi cẩn thận nắm nó lại, bỏ vào túi.

    Những chiếc xe GMC màu ô-liu nay đã cũ kỹ, chiến lợi phẩm của cuộc Đại Thắng Mùa Xuân, chờ sẵn và rất nhanh chúng tôi bị lùa lên. Các ông bạn tù vừa đi vừa ngoái lại coi đám đông cỡ hơn một trăm người dân vẫn đứng tụ trên sân ga. Họ vẫn đứng đó nhìn theo chúng tôi và biết đâu không có một em nhỏ đang ngóng cổ xem bố mình có mặt trong đám tù chăng?
    o O o
    Trại tù nào dưới chế độ thì cũng thế. Nhưng xem ra sau hơn bảy năm học tập, hết đợt này đến đợt khác, trại tù này trông có vẻ khang trang ngăn nắp. Khởi thủy đây có thể là rừng hoang, đất cứng như đá, đồng khô cỏ cháy nhưng để đổi lấy những dãy nhà tù ngang dọc, những căn nhà quản giáo, những hàng rào, vọng gác, bao nhiêu tù đã gục ngã. Họ trả giá bằng chính xương máu của mình để có được chỗ tự giam và giam bằng hữu đồng đội.

    Khi chúng tôi xuống xe thì trại tù vắng vì tù còn đi lao động bên ngoài. Cái nắng của miền Nam khác cái nắng mạn ngược miền Bắc. Nó có vẻ nóng nhưng không gắt, mặt trời rạng rỡ nhưng không oi, người không lúc nào cũng rịn mồ hôi. Ít ra thì dù vẫn là tù, nay chúng tôi đang ở miền Nam và cái vụ thăm nuôi có vẻ sẽ dễ dàng hơn.

    Tôi đã chuyển trại cả chục lần nên hiểu chuyện gì sẽ xẩy ra. Đối với anh em cùng cảnh là màn hỏi thăm tới tấp. Ai đã được thả, ai đã chết, kẻ nào còn lê lết trong những địa danh như Hoàng Liên Sơn, Thái Nguyên, Việt Bắc. Với tụi tôi là một vài ngày thích ứng. Không phải lao động nhưng lại cong người khai lý lịch.

    Ai đã đi tù Cộng Sản đều biết cái màn khai lý lịch. Đã có ai khai dưới mười lần chăng? Tôi không chắc nhưng cá nhân tôi thì không đếm xuể. Tù cũng đã rút kinh nghiệm và bảo nhau. Càng viết dài càng tốt, nhưng càng khai ít càng tốt. Đây là cả một nghệ thuật. Bản lý lịch viết vỏn vẹn có hai ba trang thế nào cũng phải khai lại. Nhưng viết dài mà lại khai tứ tung ngũ hoành, dây mơ, rễ má là thế nào cũng được làm việc tiếp. Trước sau tôi không bao giờ nêu tên ông bác Đỗ Lệnh Tích của tôi trong lý lịch. Đây là quyết định của tôi ngay từ lúc đầu khi bị khai thác ở mặt trận. Trước hết tôi không nghĩ ông bác tôi muốn nhòm ngó gì đến thằng cháu Ngụy và nếu có muốn ông cũng không dại gì hy sinh sự nghiệp cách mạng, không thể để lý lịch có tì vết. Về phần tôi, tôi không muốn bị phiền hà. Với gia đình, tôi không thể dấu nên khai là đã đi Mỹ nhưng cố không ghi rõ thời gian, nhưng khi nhận được thùng quà từ Mỹ thì tôi phải khai rõ hơn. Từ đó, mỗi lần khai lý lịch, câu hỏi: “Bố anh đi Mỹ từ năm 1964 làm gì? Có phải là CIA không?” Người Cộng Sản nhìn đâu cũng ra CIA và luôn luôn đem con ngáo ộp CIA ra chụp lên đầu bất cứ ai. Trong một lần “làm việc” tôi đã thẳng thắn nói lại với ông quản giáo chấp cung rằng muốn làm việc cho CIA cũng không dễ gì đâu. CIA trả lương cao lắm. Nhưng ông ta cười khẩy mắng tôi như tạt nước vào mặt tôi vì bênh vực CIA. Điều mà mãi sau này cho đến đâu trước hôm mãn tù tôi mới biết rằng chính tôi đã bị kết tội có dính líu đến CIA, rằng gia đình bố mẹ anh chị em tôi đã có những liên hệ nguy hiểm với Mỹ và có thể CIA đã tìm đủ mọi cách cứu tôi. Chuyện gì xẩy ra ở bên Mỹ quả là tôi mù tịt vì tôi không hề nhận được thư từ của bố mẹ tôi và sau này tôi cũng mới biết là thư của ông cố vấn Mỹ cùng nhiều thư từ khác của cơ quan công quyền Hoa Kỳ để vận động cho tôi.

    Ít nhất thì khi về đến miền Nam tôi cũng lại có cái vui là gặp lại ông già Thông. Ông vẫn chưa được thả mặc dù đã sống một cuộc đời tù gương mẫu – Gương mẫu theo kiểu nghĩa không phiền hà, luôn luôn ẩn trong đám đông không bao giờ đối đầu trực diện với cai tù. Tập họp, ông ngồi ở gần cuối. Đi đâu khi phải di chuyển, ngay cả khi phải đi lao động, ông cũng đi ở giữa. Có gì ăn nấy và khi có thăm nuôi thì đem ra chia hết cho mọi người. Ông không có tài sản riêng. Vâng, trong tù vẫn có thể tư hữu. Cái điếu cày chẳng hạn. Một cái vòng tiện ra từ vỏ đạn được khắc tỉ mỉ để làm quà cho vợ khi về. Một cái áo ấm gia đình gửi cho. Lỉnh kỉnh nhiều thứ lắm nhưng ông Thông thì chủ trương vô sản. Nhưng những điều khôn ngoan đó vẫn không giúp ông ra tù sớm.

    Nói đến tư hữu phải công nhận tù miền Nam giầu hơn tù miền Bắc rất nhiều. Chế độ đã khoan hồng hơn lúc mới chiến thắng, đã cho phép thân nhân gia đình thăm nuôi thả giàn, càng thăm nuôi nhiều càng tốt. Có rất nhiều ông tù ăn riêng vì họ được thăm nuôi thừa bứa, bữa ăn nào cũng có cao lương mỹ vị như thịt heo kho khô, ruốc chà bông và đôi khi có cả lạp xường nữa. Vảng vất đâu đó cái xã hội của miền Nam lại đang tái diễn trong tù. Tất nhiên là các ông quản giáo không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để chấm mút.

    Trong cái bối cảnh đó, đời tù của tôi lại vấp ngã ngay trong ngày lao động đầu tiên. Khi chia đội, anh em trong số vài ông cựu tù binh nhất định bầu tôi làm đội trưởng. Buổi sáng đầu tiên trước khi cuốc xẻng ra khỏi trại, tôi phải tập họp mọi người để bá cáo. Viên quản giáo nhìn đám tù mới tới tận mặt khó đăm đăm và ngay khi tôi vừa báo cáo nhân số xong thì ông ta gằn giọng:
    - Anh báo cáo với cán bộ, tại sao anh lại đội mũ. Yêu cầu anh bỏ mũ ra bá cáo.

    Tôi sững người nhưng tuân hành ngay. Báo cáo xong. Ông lại quát to hơn:
    - Không phải chỉ có mình anh. Tất cả đội viên đều phải bỏ mũ. Bỏ hết mũ ra báo cáo lại.

    Tôi quay lại yêu cầu anh em tuân hành và bá cáo lần nữa.

    Hôm sau tôi bảo anh em. Không ai đem theo mũ. Khi tôi báo cáo xong, viên quản giáo cười gằn:
    - Trời nắng tại sao các anh không đội mũ. Anh Dũng. Tại sao anh không cho anh em đội viên đội mũ. Anh định âm mưu chống đối gì đây. Tôi muốn anh lên chỗ tôi giặt cho tôi mấy cái chăn ngay lập tức.

    Bỗng nhiên tôi ở thế chẳng đặng đừng. Tôi nhớ đến ông Thông và cố nghĩ xem nếu ông ở vị thế này thì sẽ đối phó ra sao. Tôi không suy nghĩ được lâu vì viên quản giáo nói từng tiếng như gằn:
    - Anh Dũng, anh nghe rõ không? Anh lên phòng tôi lấy mấy cái chăn giặt ngay.
    - Thưa cán bộ, tôi sẵn sàng chấp hành nội qui của trại, không làm điều gì sai trái. Nhưng xin cán bộ thông cảm. Tôi không từ chối những công tác nặng nhọc nhưng cái vụ giặt chăn…
    - Được. Anh không phải nói nhiều. Các anh có ai muốn giặt chăn cho tôi không?

    Không khí căng thẳng tột độ và một cánh tay giơ lên. Tôi không biết đây là một hành động cứu anh em hay là một bon chen cố ý. Lạy trời đây là một nghĩa cử. Viên quản giáo vẫy người đó ra tuyên bố ngắn gọn:
    - Anh không phải giặt chăn. Từ nay anh là đội trưởng. Anh dẫn đội viên đi. Còn anh Dũng anh đứng đó chờ lệnh.

    Đời tù không án nên hình phạt không có đoạn kết không có gì ngạc nhiên. Tôi bị phơi nắng đến cỡ gần hai giờ thì bị xỉu nằm lăn ra giữa sân. Người tôi khô kiệt, da tôi như bỏng và đầu óc tôi toàn những đốm tối và đốm sáng loé lên từng chặp.

    Khi anh em đi lao động về tôi vẫn nằm đó cho đến lúc viên quản giáo khệnh khạng ra lệnh lôi tôi vào. Tôi bị sốt nóng, bị bỏng da nằm li bì cả tuần lễ.

    o O o

    Cuộc đụng độ của tôi ngay khi vừa tới trại với ông quản giáo đã gây tiếng dội ngay lập tức. Quản giáo Hùng nổi tiếng và có bí danh Hắc Ám với rất nhiều thủ thuật. Viên quản giáo này theo sát tù cải tạo, không hề nương tay , lúc nào cũng đôn đốc tù làm việc cật lực. Bộ mặt lạnh như tiền, sẵn sàng trở mặt, đang ngọt nhạt bỗng quát tháo, không có gì xảy ra trong phòng qua mắt được ông ta. Một ông tù cải tạo đã phải lắc đầu “Nó như con ma xó, động một tí là có chuyện liền”. Anh em xì xào về hệ thống ăng-ten của viên quản giáo này tinh vi đến độ không biết nên nghi ngờ ai nữa. Mọi người thấy tôi gân xì-mốc, mặt đối tay đôi với Hùng Hắc Ám trước đám đông đều lo lắng cho số phận tôi. Đến ông Thông tuy không ở cùng phòng cũng bò sang dặn dò phải cẩn thận, e rằng Hùng Hắc Ám sẽ còn dở nhiều thủ đoạn nữa. Trời đất, tôi là một thằng tù, đối phó với tôi thì quá dễ. Ông Hùng nếu muốn cứ vu cho tôi bất cứ tội danh nào chẳng được, và muốn hành hạ tôi kiểu gì chẳng xong.

    Bẵng đi cỡ nửa tháng, vào một buổi chiều khi vừa ăn xong, tôi được gọi lên làm việc. Từ sau hôm bị phơi nắng đến phát sốt, da phỏng tôi lẳng lặng không hé một lời về chuyện xảy ra, ai hỏi chỉ cười và bảo:
    - Cán bộ quản giáo có lý của ông ta. Tôi cố giữ tư cách của tôi. Thế thôi, vả chuyện qua rồi đừng để ý hơn.

    Tôi chăm chỉ thi hành bổn phận tù, lao động như mọi người và tỉnh bơ không nói năng oán trách gì. Phải chăng kinh nghiệm và sự khôn ngoan của ông Thông đã thấm vào tôi?

    Khi tôi bước vào, quản giáo Hùng Hắc Ám đang ngồi ở ghế xa lông gỗ, có lẽ là thành tích của mấy ông tù giỏi nghề mộc. Bộ ghế gọn gàng xinh xắn. Thấy tôi, quản giáo Hùng không nhúc nhích chỉ cái ghế đối diện:
    - A, anh Dũng. Ngồi xuống đi.

    Thế này là thế nào? Tôi lập tức thủ thế:
    - Thưa cán bộ, tôi được gọi lên để làm việc.
    Câu nói vô thưởng vô phạt nhưng rõ ràng. Tôi chờ đợi màn hỏi cung, màn viết tờ kiểm điểm hoặc có thể cả màn ăn đòn hội chợ. Quản giáo Hùng vẫn nhỏ nhẹ:
    - Ngồi xuống làm một cốc trà đã. Thuốc ba số còn mấy điếu, làm một điếu đi.
    Tôi tiến thối lưỡng nan, tôi lẳng lặng ngồi xuống nhận ly trà và điếu thuốc ngoại. Đâu cỡ nửa điếu thì ông quản giáo vào đề.
    - Tại sao anh không giặt chăn cho tôi?
    - Thưa cán bộ, tôi đã nói ngay từ hôm đó. Quả thật tôi không thể làm các việc cán bộ nhờ được. Có thế thôi, e giải thích thế nào cũng không xong…nhưng tôi chỉ muốn là tôi xin cán bộ thông cảm.
    - Anh có biết họ gọi tôi là Hùng Hắc Ám không?
    - Tôi có nghe. Tôi chỉ nghĩ mỗi người đều có bổn phận phải chu toàn. Cán bộ lo tròn bổn phận là đúng, còn nếu vì thế mà có biệt danh Hắc ám thì đã sao.

    Ông quản giáo phá ra cười ha hả, và ông ta làm tôi sững người.
    - Tôi thích anh. Tôi đã để ý xem thái độ của anh sau hôm đó. Tôi đã đọc kỹ lý lịch của anh. Tôi e sẽ còn ở lại trại lâu vì những liên hệ của anh và gia đình anh. Tôi khuyên anh điều này. Đôi khi mình muốn là mình cũng không được. Gió chiều nào mình che chiều nấy thì mới dễ sống. Ở trại hay ngay cả ở bên ngoài cũng vậy.

    Khi trở về phòng tôi vẫn không tin những gì xảy ra, và nhất là những lời khuyên quí hóa của ông Hùng. Tôi ở tù sáu, bảy năm, chưa có ông cai tù nào nào lại ngọt nhạt như vậy với tôi, lại còn cho hút thuốc ba số. Ông Thông lại càng lo hơn bảo tôi phải coi chừng, nhưng quả không có chuyện gì xảy ra cho tôi. Cái liên hệ quản giáo – tù cải tạo tưởng đã cho qua đến cỡ hai tháng sau tôi lại được gọi lên.

    Lần này tôi không biết ông ta sẽ dở võ gì nữa. Trông ông ta tươi tỉnh, tôi cũng đỡ lo.
    - Ngồi xuống, ngồi xuống. Tôi có chuyện nói.

    Tất nhiên là ngồi và im lặng.
    - Tôi không trực tiếp coi phòng nữa nên gọi anh lên. Ngày mai tôi sẽ làm việc ở ban an ninh trại. Trước khi tôi đi tôi hỏi anh xem anh muốn gì tôi giúp.

    Tôi ngồi ngây mặt ra, cầm ly trà, không biết nói sao cho đúng. Giúp gì mới được chứ ? Giúp tốt nhất là thả tôi ra, trả tôi về với xã hội bên ngoài. Ông Hùng hỏi:
    - Anh muốn làm thư viện không? Anh muốn làm ở ban ẩm thực không?

    Đây cũng là một chi tiết khó tin đối với những người dân bên ngoài vòng rào. Hầu như nhà tù nào cũng có một nơi được gọi là thư viện. Sách vở đương nhiên là sách tuyên truyền và sặc mùi chủ nghĩa. Coi thư viện thì nhàn quá, không phải đi lao động. Tôi hỏi một câu thật vô lý:
    - Thế thư viện thiếu người sao cán bộ?

    Ông Hùng cười khằng khặc:
    - Sao lại thiếu được. Biết bao nhiêu người xung phong, xung phong đủ kiểu nữa là khác. Nếu anh muốn thì tôi cho cái anh đang coi thư viện xuống lao động lại. Dễ thôi.

    Đầu óc tôi làm việc rất nhanh. Ông bạn tù đang coi thư viện chắc đã đút lót khẳm. Tôi chợt loé lên ý nghĩ và nói ngay:
    - Tôi thấy hình như ở trạm y tế cần người. Tôi có một chút kinh nghiệm về y khoa. Nếu được, tôi xin lên đó có ích lợi hơn.

    Đã đòi thì đòi cho đáng. Làm ý tá có nghĩa là ở riêng, không phải ở chung trong phòng giam tập thể. Còn cái vụ y khoa thì nhằm nhò gì. Cái trạm y tế cũng như cái thư viện. Chẳng qua là trang sức vậy thôi, thuốc thang đâu, dụng cụ y khoa đâu mà phí phạm để lo cho tù.

    Ông quản giáo tử tế:
    - Được, dễ thôi. Để tôi bảo các đồng chí. Tôi sẽ không còn trực tiếp coi cải tạo viên nữa nên anh cũng nên cẩn thận.
    Tôi nhớ đến lá số tử vi của tôi. Hay người ta thực sự có số? Bởi khi ông Hùng quản giáo Hắc Ám lên làm phó trại đặc trách an ninh, vài ngày sau, tôi được điều lên làm việc ở trại y tế thật.

    Bỗng dưng tôi trở thành tù quí phái. Không có danh từ nào đúng hơn chữ quí phái. Trại tù Hàm Tân hình như là một trong những trại tù lớn nhất ở miền Nam Quá trình xây dựng trại này nay đã khiến nơi này đôi chỗ có hoa có lá và cái trạm y tế khá khang trang. Cùng làm việc ở trạm là một ông tù cải tạo có vẻ biết tiêm chích còn khá trẻ. Ông Bương gọi tôi là anh xưng em. Hai đứa chia nhau một cái phòng có hai chiếc giường một làm bằng gỗ và trời đất, có mùng che muỗi nữa. Bệnh xá có tám cái giường, luôn luôn có bệnh nhân. Đủ thứ bệnh từ phù thủng cho đến những thứ bệnh tôi chẳng biết là bệnh gì nữa. Thuốc nhiều nhất là ký ninh và một ít aspirin. Nhưng nhiều ông tù được thăm nuôi có những thuốc quí như trụ sinh ngoại chẳng hạn. Lúc này đa số thuốc là từ bên Châu Âu gủi về có lẽ vì liên hệ với Mỹ còn khó khăn.

    Ông Bương trọng tôi vì tôi đọc được lời chỉ dẫn bằng tiếng ngoại quốc và giảng cho ông cách dùng. Tôi mới đầu còn nhát nhưng rồi cũng có thể chích thịt, chích gân được. Dụng cụ y khoa duy nhất chỉ có cái ống nghe và một lô kim chích đã cùn. Tôi phải mài lại kim trên miếng đá rất mịn. Một hôm tôi đang ngủ thì có bệnh nhân khẩn cấp. Anh em khênh lên một người tù, bụng đã chướng lên. Họ cho hay ông ta ngầy ngật mấy ngày, chính trạm đã ký cho ông ta ở nhà không phải lao động. Tối hôm đó ông đã vật vã và người từ bên cạnh hô hoán lên vì thấy ông cứ trợn mắt và bụng to quá. Ông Bương và tôi nhìn nhau. Chỉ có nước đem ra bệnh viện tỉnh thì mới mong có cơ cứu được. Mấy ông tù bảo nhau:

    - Cổ chướng. Sưng gan cổ chướng.

    Tôi nghĩ thầm chắc là Hepatitis tới lúc phát, giai đoạn cuối. Bụng bệnh nhân cứng ngắc, hai mắt vàng ươm. Tôi hỏi ông Bường:

    - Có cách gì đưa lên bệnh viện tỉnh ngay không?
    - Phải xin phép và chỉ còn cách khênh lên, đi đường bộ.

    Tôi nói với viên cai tù áp tải:
    - Xin phép cán bộ cho bệnh nhân lên tỉnh, ở đây không đủ thuốc men.
    - Nguy ngập lắm, e không lên tỉnh thì khó qua.
    - Để mai tính.
    - Xin cán bộ thông cảm. Tụi tôi sẵn sàng khiêng bệnh nhân đi bộ. Còn nước còn tát.
    - Phải xin phép ban an ninh.
    - Xin cán bộ giúp, tôi sẵn sàng đi lên gặp an ninh.

    Ngần ngừ một lát, có lẽ trông cảnh người bệnh và ánh mắt cầu khẩn của lũ tù, viên cai tù bảo:
    - Được, tôi và anh lên ban an ninh, nhưng tôi bảo trước không được đâu mà mong.

    May quá, ông phó trại an ninh đang có mặt, thấy tôi, ông Hùng chấp thuận liền, và vỗ vai tôi:
    - Phải không anh Dũng. Tôi cho phép đi vì anh, đừng để có chuyện gì xảy ra. Xa lắm đó. Để tôi bảo một người đi theo các anh.

    Lúc đó đã khoảng chín giờ tối. Chúng tôi biết từ đây ra bệnh viện rất xa nhưng thì thào bàn tán, hy vọng ra ngoài trại có thể quá giang xe của dân. Sáu anh em đều xung phong và chúng tôi thay phiên nhau cáng người bệnh trên chiếc băng ca cũ kỹ.

    Đi áp tải là một bộ đội còn trẻ măng. Anh này xem ra dễ chịu, lẳng lặng đi cách chúng tôi mấy bước chân. Bình thường, một lũ tù sáu đứa phải có ít nhất hai bảo vệ đi kèm, nhất là tối tăm thế này. Nhưng có lẽ ai cũng xúc động trước cái chết chăng ? Cái chết đến thật. Khoảng mười hai giờ đêm khi đang đi thì bệnh nhân co giật dữ dội trên băng ca, gào lên những âm thanh rùng rợn. Tôi đã cột bệnh nhân khá kỹ, lòng ao ước giá có moóc phin thì đỡ biết mấy.

    Bệnh nhân dãy dụa dữ quá, tụi tôi đành hạ cáng xuống bên quốc lộ. Giữa đêm trăng sáng, trên con đường nhựa, sáu người tù đứng quanh chiếc băng ca thúc thủ. Khi bệnh nhân ngoẹo đầu sang một bên, dãy dãy rồi bất động, tụi tôi chỉ còn biết nhìn nhau. Một ông bạn tù đưa tay lên làm dấu thánh giá. Tôi thấy hai ba người chấp tay niệm Phật. Tôi quì xuống vuốt mắt cho ông bạn tù giữa đêm trăng, lòng trống rỗng và đầu óc thì như ở đâu đâu.

    Cả bọn không ai nói gì, đứng đó, bóng đổ nghiêng bên mặt đường cho đến khi bảo vệ viên lên tiếng:
    - Đã bảo mà. Cứ để chết ở trại có phải đỡ mệt không?

    Mọi người quay lại nhìn anh ta. Khuôn mặt trẻ bụ bẫm hơn dưới trăng. Tôi thở dài nói với mọi người:
    - Nghĩa tử là nghĩa tận. Tụi mình cố hết sức rồi. Đành quay về vậy.

    o O o

    Bức thư ngắn chưa đầy một trang giấy nhưng đã làm tôi ngẩn ngơ suốt cả ngày. Thư của Lê Hiếu Trung mở đầu;:
    “Tao tưởng mày tiêu ở Đồng Xoài rồi, đến lúc tao gặp Bác Chuyên mới biết mày còn sống nên nghuệch vài hàng. Tao báo mày tin vui trước; Tao đã có vợ và một đứa con – con gái xinh giống mẹ. Tin buồn – hay cũng là tin vui vì nhờ thế tao không phải đi cải tạo; tao cụt mẹ nó một giò, làm anh hùng độc cước. Bị ở Phú Giáo sau Đồng Xoài đâu hai tuần lễ…”

    Lê Hiếu Trung cao to, cao hơn tôi cả một cái đầu, là một tay nhu đạo hạng cừ. Tôi không nhớ Trung có mấy đẳng, nhưng có một dạo làm huấn luyện viên lò Nhu đạo của Thầy Thích Tâm Giác. Cả đời tôi cái gì cũng dở dang. Tôi cùng học Nhu đạo với Trung với ông Watanabe nhưng ít tháng thì bỏ cuộc khi bị dập xương chân trong khi Trung vẫn miệt mài theo đuổi Nhu đạo.

    Vào Thủ Đức, hai đứa gặp lại và trở nên thân thích. Tôi nhớ tôi nằm giường trên, phía dưới là ông Bùi Dương Liêm, và bên cạnh phía trên là Lê Hiếu Trung. Trung đi Thiết Giáp và cũng chính pháo đội Trung ở Phú Giáo đã yểm trợ cho Đồng Xoài vào những lúc cuối.

    Bức thư ngắn ngủi nhưng tôi đọc đi đọc lại. Mọi sự như mới hôm qua thì phải. Tôi thừ ra, mường tượng đến một trung úy Lê Hiếu Trung cao to nay tập tễnh với chiếc nạng gỗ. Nó phi lý đến cùng cực, không cách gì có thể chấp nhận được. Tối đó tôi ngồi viết một lá thư.

    Trung ơi,
    Tao chưa chết, xem ra chết cũng khó lắm. Mừng được tin mày nhưng tao xin phép viết thư này cho một người khác.
    Cho vợ mày.

    Thưa Chị,

    Tôi là Đỗ Lệnh Dũng, biết Trung từ lúc còn chưa học hết trung học, tức cũng đã gần hai chục năm. Hai đứa cùng vào Thủ Đức và Trung là một trong những người cuối cùng liên lạc với tôi trước khi bị bắt. Nay Trung lại là đứa bạn đầu tiên liên lạc với tôi. Cái giao tình giữa tôi và Trung khiến tôi có thư này tới chị.

    Thưa Chị,

    Đã bảy năm qua tôi học tập hết trại này tới trại khác, trải thiên ma bách chiết, nhìn thấy những người đàn ông nhếch nhác dưới đủ dạng. Tôi đã chứng kiến chết chóc nhiều, đã đào huyệt chôn cũng nhiều. Nhưng đối với tôi, đó là chuyện không tránh được của người đàn ông. Nhưng còn những người mẹ, người vợ thì sao ? Nhận được thư Trung, đọc xong đầu tôi vẳng câu hát – Anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá – Trung đã trở về và tôi mường tượng trong đám cưới chú rể Lê Hiếu Trung đứng chào hai họ với cái nạng gỗ. Cái vết tích cạnh đó có một cô dâu tươi cười, hồn nhiên. Cái chân của Trung có thể văng đi đâu đó trong cảnh súng đạn ì ầm ở Phú Giáo nhưng nay hẳn Trung không còn lý đến cái phần mất mát đó vì bù lại, Trung có chị bên cạnh. Tình yêu của chị dành cho Trung chính là tình yêu của chị dành cho tất cả chúng tôi, những đứa bị đày đọa vì cuộc chiến dù muốn hay không. Nhưng người đàn bà Việt Nam đã chịu quá nhiều cay đắng, có phần hơn cả chúng tôi. Hối xưa chúng tôi cũng được xưng tụng. Bên này hay bên kia. Chúng tôi là anh hùng bởi lúc nào cũng cần có anh hùng.

    Đằng sau cái huy chương là những giọt nước mắt của mẹ, của chị, của em gái và nhất là của những người vợ. Lúc ở Bắc, tôi đã từng xúc động đến ứa nước mắt khi thấy những người phụ nữ vượt rừng vượt suối vào thăm nuôi. Trông những đàn bà, những người vợ, người mẹ hy sinh, vượt qua hết để chỉ được nói với người đàn ông vài lời, tôi đã tự nhủ thầm rằng tôi may mắn. Mẹ tôi, các em tôi và nhất là người vợ sắp cưới đã ở xa tít mù tắp nên không phải chịu những cảnh éo le đó. Tôi có quá ích kỷ để nghĩ rằng thôi thì thà như tôi, đóng vai con bà phước, không thăm nuôi lại đỡ hơn.

    Tôi viết thư này tới thay vì Trung bởi tôi nghĩ chúng tôi có món nợ ân tình với tất cả những người đàn bà mà chị là tiêu biểu. Tôi vẫn nghĩ rằng thiên hạ bất công khi không ai nói, không ai lý tới những đau khổ của người phụ nữ Việt Nam. Đối với tôi những người như chị dám cùng Trung xây dựng cuộc đời là một hình ảnh tuyệt vời. Tôi tin chị rất đẹp vì Trung viết con gái xinh giống mẹ. Xin chị hãy nuôi dưỡng cái tình yêu với Trung và với tôi, tôi xin đón nhận chị như người vợ của một người bạn, hay hơn nữa một người lính, một người lính bại trận.

    Cuối thư, xin chị cho gửi lời chúc tới Trung và cháu gái, mong bình an cho cả nhà.

    Kính thư

    Tôi đã gửi bức thư theo dạng thư chui, nghĩa là nhờ những người thăm nuôi chuyển. Mỗi tháng tù được viết một lá thư về cho gia đình nhưng đó là những lá thư vô thưởng vô phạt vì thế nào cũng bị bóc ra đọc trước, bị công an kiểm duyệt.
    Bức thư chui bỗng trở thành công khai. Trung liên lạc đều với tôi và lần nào cũng có câu dặn dò: “Mày phải viết thư dài một tí cho tao và Hà đọc.” Điều mà tôi không biết là chị Hà đã đem tất cả những bức thư của tôi với chị và Trung vào sở cho mấy cô bạn cùng xem.

    Sau này Trung kể lại rằng lá thư đầu tiên, có một người con gái mượn và đọc đi đọc lại. Sở của chị Hà nhiều phụ nữ vì là Công Ty Hướng Dẫn Du Lịch đóng đô ở ngay khách sạn Majestic trên bến Bạch Đằng. Các cô đều khá ngoại ngữ hoặc Anh hoặc Pháp để có thể hướng dẫn và đôi khi thuyết trình với du khách. Thật ra thư tôi viết chỉ là những chuyện nhỏ nhặt. Tôi kể về cái chết của Hoàn và nhờ Trung tìm xem Trung úy Lễ ở đâu nhắn tin dùm. Tôi viết về cái chết bên bờ suối của Đại úy Bình và sau đó chính qua Trung tôi được biết vợ con ông đã vượt biên đi Mỹ. Tôi kể về những đêm đen thẫm ở mạn ngược miền Bắc. Tóm lại đó là những lời tâm sự vụn nhưng lại là khởi đầu cho một cuộc tình giữa một tên tù cải tạo và một cô gái tên Nguyễn Thị Song Thu.

    o O o

    Cái chức y tá của ông Bường cũng là một thứ không có cá thì lấy cua, một kiểu bắt cóc bỏ dĩa. Trước đây trại này có cơ man nào là bác sĩ, dược sĩ cũng như các chuyên viên thượng thặng của miền Nam về đủ mọi lãnh vực. Khi chiếm được miền Nam, điều đầu tiên là một sự lừa đảo trắng trợn. Chính quyền mới lúc đó là Ủy Ban Quân Quản, trên danh nghĩa là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã nhỏ nhẹ yêu cầu tất cả quân cán chính quyền miền Nam đi trình diện học tập về chính sách và đường lối mới của tân chế độ. Họ được khuyến cáo đem theo đồ tùy thân gọn nhẹ và thực phẩm đủ ăn trong khoảng mười ngày. Cái lắt léo lớn nhất là ở đó. Bản tính ngây thơ, mặc cảm thua trận và nhất là suy nghĩ nay đã hết bắn giết, đi mười ngày rồi về làm lại cuộc đời thì đáng gì. Trong cái sôi động của cuộc chiến vừa dứt, có những người tuy không thuộc thành phần phải trình diện học tập nhưng cũng xung phong đi để cho nó xong, nó nhẹ người. Ông Thẩm Phán yêu quí của tôi là một thí dụ điển hình. Mười ngày đó trở thành mười năm là thường. Miền Nam bỗng trở nên một xã hội rỗng tuyếch bởi tất cả khả năng của miền Bắc không đủ cung ứng với những như cầu cấp thiết nhất của đời sống mà y tế có lẽ là hàng đầu.

    Ngày xưa khi còn lăn lộn ở Phước Long, đôi khi cùng ông Thiếu úy mai tỉ tê, có lần ông bảo tôi:
    - Có lẽ miền Bắc họ nghiêm trang hơn mình trong việc giáo dục. Tôi ở trên núi đủ máy móc lúc rảnh vẫn nghe đài của miền Bắc. Họ cho hay số học sinh tốt nghiệp trung học cao lắm, lại còn gửi rất nhiều người sang Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga Xô nhất là Đông Đức để huấn luyện kỹ thuật. Có lần nghe thống kê thấy cả hàng trăm ngàn người. Số phó tiến sĩ và tiến sĩ e vượt hẳn với bậc hậu cử nhân của mình. Mấy trường của ta như Kỹ sư Phú Thọ mỗi năm đào tạo chắc cỡ một trăm ông là cùng.

    Thường sau mỗi lần nói về miền Bắc chúng tôi vẫn cứ băn khoăn là tại sao tù binh bắt được đều một loạt như nhau, chữ nghĩa ít ỏi đã đành, cách suy nghĩ thì rập khuôn và cái nhìn thì ngây ngô ngớ ngẩn.

    Phải đến lúc thực sự va chạm vào thực tế mới biết rõ tuyên truyền thống kê và sự thực khác hẳn. Miền Bắc đã rút chương trình trung học còn mười năm – họ gọi là Hệ Mười Năm – tức trình độ của một học sinh học xong trung học của miền Bắc tương đương với lớp đệ tam đệ tứ của miền Nam và từ đó suy ra bậc cử nhân tương đương với tú tài, và xa hơn nữa tiến sĩ có lẽ là cử nhân. Đó là so sánh trên lý thuyết. Thực tế còn thê thảm hơn vì học sinh được tuyển theo lý lịch không phải dựa vào khả năng. Trong cái bối cảnh đó thành phần giảng huấn còn hạ cấp xuống thấp đến đỗi không thể tưởng tượng được. Một điều mà không người dân nào sống ngoài Xã Hội Chủ Nghĩa có thể mường tưởng được là chế độ bổ túc. Một quan chức chế độ leo dần lên lên bậc thang quyền lực bỗng một hôm thấy mình cần có thêm mảnh bằng để có thể ngoi cao hơn nữa và nhất là có thể tự dối mình và dối người về khả năng học vấn. Quan chức bèn ghi tên vào lớp học bổ túc ban đêm và chẳng bao lâu sau ông ta có thể có bằng phó tiến sĩ. Đây là thỏa hiệp giữa những người có quyền lực, một cách nâng đỡ hợp pháp và đôi khi đến trắng trợn của bè phái.

    Nhưng nói nhăng nói cuội gì cũng được, nhất là khi có khẩu súng và quyền lực trong tay, nhưng khi đụng đến công việc chuyên môn thì khác. Những ông bác sĩ của miền Bắc nếu cứ tính học trình thì tốt nghiệp trung học vào cỡ 16 tuổi, học bác sĩ bốn năm thì mới 20 tuổi và vì nhu cầu chiến tranh được tung ra phục vụ ngay lập tức. Khi bị bại trận, cả một xã hội miền Nam vẫn còn nguyên đó và dù chủ quan đến thế nào, người thắng cũng không thể phủ nhận được hệ thống y tế khá tiến bộ của miền Nam. Những người bác sĩ giải phóng đã ú ớ trước hiện trạng và do đó họ bắt buộc phải tái sử dụng chuyên viên y tế được đào tạo theo đúng tiêu chuẩn ngành nghề của miền Nam. Phải nói rằng giới y khoa tương đối được thả ra sớm nhất – Câu chuyện về sau – tới 85% bác sĩ được đào tạo ở miền Nam đã vượt biên và nay đang hành nghề ở ngoại quốc. Trong bối cảnh đó ông Bường trở thành y tá trưởng và tôi do hoàn cảnh đưa đẩy trở thành phụ tá mặc dầu cả đời chưa cầm đến cây kim chích. Nhưng nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ. Sinh mạng của tù bất quá thì cũng như con sâu cái kiến và để giải quyết đã có khẩu hiệu “đói ăn rau, đau khắc phục”.

    Nhiệm vụ chính của chúng tôi là ký giấy chứng nhận tù được nghỉ không phải đi lao động. Ấy không phải cứ ký loạn, ký bừa bãi mà có tiêu chuẩn. Mỗi đội không quá hai người một ngày, nếu không là rầy rà to. Ông Bường và tôi đã nhiều lần hứng chịu những xỉ vả cả từ hai phía – anh em tù và quản giáo.

    Thật khó mà không ký khi thấy một ông bạn gầy guộc rên khừ khừ nhưng lại còn những ông khác tệ hơn lết không nổi, phù thủng, tim yếu lúc nào cũng run lẩy bẩy, mặt xanh mướt.

    Ông Hùng, nay là phó ban an ninh đã có lần cảnh cáo:
    - Anh Dũng, anh phải cứng rắn hơn. Chỉ tiêu lao động đã được lên đề án và các kế hoạch phải được thanh toán trước thời hạn. Anh không nghiêm trang thi hành qui luật trại thì lấy ai đi lao động.

    Phải nói thật, ông Hùng bao giờ cũng nhỏ nhẹ với cá nhân tôi. Một lần tôi ngồi nói chuyện với một vị Đại úy Tuyên úy Phật Giáo hỏi ông một câu ngớ ngẩn:
    - Đạo Phật nói mỗi người có một cái nghiệp phải trả. Thế tại sao cùng một lúc cả triệu người cùng phải trả một cái nghiệp như nhau. Nghiệp Tù?

    Vị sư ôn tồn bảo:
    - Người ta có cái nghiệp riêng gọi là biệt nghiệp nhưng tất cả chúng sinh còn phải trả cái nghiệp chung là cộng nghiệp, cái duyên lớn liên kết giửa những biệt nghiệp của mỗi chúng ta.

    Câu chuyện triết lý lúc nào cũng gây thêm những thắc mắc kế tiếp nhưng đá có lúc tôi tự hỏi phải chăng giữa tôi và ông Hùng có cái cộng nghiệp gì chăng? Tôi đã từng chút một tìm hiểu cái trái khoáy của hai số phận con người. Nếu miền Nam thắng và tôi là cai tù và ông Hùng là tù thì sao?

    Ông Hùng dáng người bình thường, cao mảnh khảnh, da nâu và đặc biệt rất hiếm là không hút thuốc dù trong người lúc nào cũng có một bao ba số còn độ năm ba điếu. Ông cười khà khà giải thích:
    - Cả nhà tôi không ai hút thuốc. Bố tôi nghiêm lắm. Nhưng có bao thuốc chìa ra, lại là thuốc ngoại, câu chuyện dễ lọt hơn.

    Trò tiểu xảo này là trò vặt đối với một tay như ông Hùng, bởi chỉ mới ngoài ba mươi ông ta đã vượt hết những thử thách để trở thành con người cộng sản mặc dù quá khứ và lý lịch gia đình của ông không được trong sáng lắm. Ông nội Nguyễn Trí Thăng gốc nho học dính dáng đến phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và có liên hệ với Đề Thám. Ông bố là con út trong nhà xoay sang học Pháp văn đỗ đíp-lôm đi dạy học nhưng lại cũng không bỏ được nghiệp nhà, hoạt động cho Việt Nam Quốc Dân Đảng. Theo lời ông Hùng kể lại là gia đình ông đã có lúc là nơi gặp gỡ của các lãnh tụ VNQDĐ như Ký Con, Cô Giang và có khi cả đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa thất bại và ông bố may thoát, vẫn lo việc dạy học, có lúc làm hiệu trưởng một trường tiểu học ở Thái Bình. Gia đình ông đông con, bốn bà chị gái và hai người anh trai. Năm 1945, ông Hùng đang học tiểu học thì Hà Nội sơ tán, ông theo ông anh cả lớn hơn ông gần 20 tuổi chạy lên Việt Bắc. Một sớm một chiều cậu bé Nguyễn Trí Hùng trở thành thiếu nhi cháu yêu của bác Hồ rồi trở thành đoàn viên Thanh Niên và sau đó là đảng viên.

    Thỉnh thoảng tối tối ông Hùng hay tạt qua bệnh xá ngồi uống trà với tôi, loại trà đặc quánh và đắng chát uống vào mắt cứ cứng đơ không cách gì ngủ được. Mới đầu tôi rất ý tứ nghe nhiều hơn nói. đâu đó sâu thẳm trong đáy lòng, ông Hùng cũng cần tâm sự và trong cái cộng nghiệp của vị Tuyên úy, biết đâu tôi và ông Hùng lại chẳng tự kiếp nào vướng vào cái nhân duyên nào đó, để ông phải tỉ tê.

    Không bao giờ nói thẳng ra nhưng ông Hùng vẫn nghĩ cái quá khứ Đông Kinh Nghĩa Thục và VNQDĐ đã khiến ông không ngoi lên được trong cái thang Xã Hội Chủ Nghĩa.
    - Cùng lứa tuổi với tôi khối đứa làm thủ trưởng cơ quan hái ra bạc, nhất là từ ngày hoà bình lập lại.

    Có điều khi ông nói về quá khứ gia đình, giọng ông đầy những hoài niệm của một quá vãng hết sực thơ mộng.
    - Ông nội tôi nghe nói nghiêm lắm, khi nào tiếp ai, dù là một người nhà quê cũng phải ăn mặc chững chạc. Khi cả nhà ngồi ăn, ai cũng phải chờ ông gắp xong thì mọi người mới dám bưng bát lên. Các anh chị tôi đi đâu về cũng phải “Thưa Thầy con về.” Bố tôi cũng vậy, ít nói với con cái nhưng khi ngồi với các đồng chí VNQDĐ thì sôi nổi, nói hết giờ này đến giờ khác. Tôi chịu ảnh hưởng của ông anh. Ông lên Việt Bắc đến năm 1953 thì bị ốm nặng qua đời, nhưng lúc nào khi đủ vắng vẻ và đúng lúc ông cũng chỉ bảo tôi có một câu chắc cả đời tôi không bao giờ quên “Em phải giữ nếp nhà.”
    Cái nếp nhà nó thế nào thì ông không nói ra.

    Nhiều lúc ngẫm nghĩ tôi thấy thằng tù là tôi và ông cai tù Hùng giống y như nhau và thật ra chưa chắc ai hạnh phúc hơn ai. Cái khoảng cách tù và cai tù vẫn còn đấy nhưng rồi ông cũng đã hiểu những gì tôi đã trải qua. Một lần ông Hùng bảo:
    - Đôi khi tôi thấy tôi là hai người khác nhau.

    Tôi đủ tế nhị để không hỏi tiếp bởi cái suy nghĩ rằng nếu bố tôi không đi Nam thì tôi có khác gì bất cứ ông cán bộ Cộng Sản đang hành hạ tôi chăng?

    Một hôm ông Hùng tươi cười cầm theo một gói kẹo Chà Lam, một thứ bánh làm bằng bột nếp trộn gừng tôi đã từng được ăn hồi bé trước năm 1954 và một gói trà móc câu. Vừa uống và mới nhai được nửa miếng Chà Lam, ông ta hỏi tôi một câu làm tôi giật nẩy người:
    - Cô Thu xinh đấy chứ. Được cái gốc người Nam và lý lịch không tỳ vết gì. Tôi có dịp ghé Bà Quẹo tuần rồi, tiện thể đi ngang xem cái nhà. Rộng ra phết. Mừng cho anh.

    Thế này là thế nào? Câu chuyện của tôi và Thu làm gì để đến nỗi ông Phó trại an ninh phải thân chinh đi xem nhà xem cửa, lật hồ sơ lý lịch để điều tra. Những bức thư của hai đứa tôi có điều gì sai lập trường, có điều gì chống chế độ chăng?

    Tôi sợ toát mồ hôi, miếng kẹo Chà Lam vốn vừa dai vừa dẻo như nghẹn trong họng. Tôi cầm chừng:
    - Cô Thu cũng chỉ thư từ cho vui vậy thôi, có gì đâu thưa cán bộ.

    Ông Hùng cười:
    - Sự cảm thông giữa hai tâm hồn là điều đáng kể.

    Ông ta lập lại nguyên văn một câu trong lá thư tôi viết cho Thu. Cái khôn ngoan của những năm tù đã khiến tôi phản ứng trung dung:
    - Vâng. Tâm hồn đẹp thì mọi sự đều đẹp.
    - Cô Thu đẹp lắm. Ước gì vợ tôi cũng được như cô ấy.

    Tôi chưa thấy ông cán bộ phó ban an ninh nói về vợ và con nên không dám hỏi gì thêm, lẳng lặng nhót môt cục Chà Lam nhâm nhi tiếp.

    Lời hỏi thăm bâng quơ của ông quản giáo Hùng bỗng như một đám mây đen kịt lơ lửng đe dọa sẽ trở thành cơn giông bão xóa tan mối tình mới chớm nở của tôi và người con gái chưa hề biết mặt.
    Mọi sự khởi đầu một cách rất tự nhiên. Song Thu hay hỏi và lần nào đọc thư tôi viết cho Trung do bà vợ đem vào sở, thái độ cũng có vẻ tư lự khác thường và điều đó không qua khỏi cặp mắt của chị Hà. Một hôm chị hỏi Trung:
    - Con Thu có vẻ để ý đến anh Dũng. Em tính hỏi nó có muốn thư từ đi lại với anh ấy không. Anh Dũng cô đơn ở trong đó, có người thư đi thư lại cho vui.

    Tất nhiên là Trung ủng hộ hết mình. Sau khi được chị Hà ướm hỏi, Song Thu đã suy nghĩ, và mượn toàn bộ thư của tôi về đọc lại. Những bức thư của tôi cho gia đình Trung chỉ là những lời tâm sự vụn vặt, những giải tỏa của suy nghĩ sau bao thăng trầm của cuộc đời. Đôi khi khá vụn vặt nữa là đằng khác như thư tôi viết cho Trung để hỏi thăm quán bà Thái Chi còn không, ngõ Asam có đổi gì chăng, hay tiệm Ngân Đình dạo này ra sao. Hình như nó phản ánh cái hoài niệm nào đó về Dung. Sau này Thu nói với tôi:
    - Nếu anh viết những chuyện to lớn, chuyện lý tưởng thì em đã không cầm bút. Đọc thư anh có cái ngậm ngùi làm em xúc động. Sau bao nhiêu năm tù đày nay viết thư chỉ để hỏi cái bà bán cà phê sống hay chết, nước mía và thịt bò khô Viễn Đông còn không thì lạ thiệt. Em mò đi tới chỗ bà Chi và ngồi uống một ly đá chanh để thỏa tính tò mò. Chính ở trong cái quán buồn cười đó em quyết định viết thư để xem anh chàng Dũng này ra sao.

    Lá thư đầu vô thưởng vô phạt.

    Anh Dũng,

    So tuổi tác xin phép được gọi anh là anh. Em được chị Hà cho đọc ké thư ngay từ lá đầu anh viết riêng cho chị Hà. Mấy tuần trước chị Hà có ngỏ ý để em liên lạc với anh và còn nói rằng anh rất mong ở bên ngoài còn có người quan tâm đến những kẻ như anh. Qua thư anh và nhất là qua những lời của anh chị Trung Hà, em nghĩ là em có thể hiểu một phần nào những khổ đau mà anh và những người như anh đã gánh chịu. Như một chia sẻ với những gì đã xảy đến với các anh, anh cho phép thỉnh thoảng em sẽ viết thư để mong anh có thêm một chút niềm vui rằng các anh không hề bị quên lãng.

    Xã hội bây giờ đi đâu, làm gì cũng phải khai lý lịch. Bắt chước thói quen mới đó, em xin khai như sau: Nguyễn thị Song Thu, sinh ngày 17-7 -1954 tại Hóc Môn. Học lực Đại Học Văn Khoa ban Sinh ngữ. Bố mẹ hoạt động trong ngành giáo dục. Đấy chỉ là sơ yếu lý lịch, nếu anh Dũng muốn tìm hiểu thêm thì chắc phải chờ thư sau. Mong anh vui và nhất là được khoẻ mạnh.

    Song Thu

    Họa hoằn trong tù khi được chuyển về đây tôi cũng có thư nhưng tất cả đều rất vắn tắt có tính cách thông tin. Thư của bố mẹ, có lẽ do cảnh giác, bao giờ cũng là lời rất đúng chính sách của nhà nước. Tôi được biết mọi người đều khoẻ mạnh và Dung đã đi ở riêng cùng đứa em trai. Mấy đứa nhỏ em tôi con chú Trung cũng đã sang được Mỹ hiện sống ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Tôi không thấy gia đình tôi nhắc nhở gì đến Dung và từ ở góc rừng này tôi hiểu, không cần ai nói trắng ra. Dung còn trẻ quá và cả một tương lai rực rỡ ở trước mặt. Tôi có quyền gì để bắt Dung chờ đợi, và nhất là chờ đợi cho đến bao giờ? Ngay chính bản thân tôi, tôi còn chưa biết đến thủa nghiệp lai nào mới ra khỏi tù và ngay cả có được tha thì đất Mỹ cũng xa vời quá.

    Bởi vậy, khi Trung vào thăm và tủm tỉm cười đưa bức thư bảo: “Tao lo cho mày rồi. Thu nó dễ thương lắm” thì tôi ngỡ ngàng cho đến lúc Trung giải thích rõ hơn. Trung bảo:
    - Tao không nói cho mày biết trước. Ngạc nhiên bao giờ cũng thú hơn.

    Ngạc nhiên là cái chắc. Ngạc nhiên hơn nữa là lời lẽ trong thư. Tôi đọc đi đọc lại cả chục lần, gần như muốn thuộc lòng. Một niềm vui bâng quơ nhưng nhẹ nhàng dâng lên trong tôi. Tôi không có một ảo tưởng gì trong viễn ảnh có một liên lạc sâu xa bền vững mà chỉ là cái vui đầy lãng mạn của thủa học trò. Nhưng qua thư mỗi lúc tôi có cảm giác Thu hiểu tôi và thông cảm với tôi và hơn nữa có thể chia sẻ những suy nghĩ về cuộc đời. Trong những lần cùng ông quản giáo Hùng trò chuyện, ông ta đã chép miệng than dùm tôi: “Lý lịch của anh căng lắm, nhất là vì gia đình anh có liên lạc mật thiết với Mỹ”. Cái ẩn ý đằng sau là tôi còn học tập dài dài. Tôi minh định rõ điều này nhiều lần trong thơ với Thu nói thẳng rằng ngày ra tù của tôi còn xa lắm, có khi cả đời vẫn phải học tập.

    Quy chế tù cho phép mỗi tháng thăm nuôi một lần và khi thì bà bác lọ mọ đem quà xuống lúc thì bà chị. Về vật chất tôi dễ chịu vì bố mẹ ở Mỹ chắc xót thương cậu con trưởng nên gởi quà về khá bộn. Tôi chắc bố mẹ và các em không bao giờ có thể tưởng tượng được khi đọc lá thơ của tôi. Tôi xin nhà gởi cho ít nước hoa và son phấn. Trời đất ơi, trong tù mà đòi những thứ kỳ cục này mà làm gì. Khoảng hai tháng sau bà chị tôi đi thăm nuôi hỏi:
    - Chị đem nước hoa xuống đây cho chú này. Nhưng để làm gì vậy?

    Tôi mỉm cười như tự nói với mình. Để tặng Thu chứ để đưa cho cán bộ gái chắc. Thơ đi thơ lại, chúng tôi càng ngày càng như gần nhau hơn và tôi muốn dành cho nàng một ngạc nghiên. Tôi cầm lọ Fleur de Rocaille lên hít. Mùi thơm như gần như xa, như quyện lấy hơi thở và nhất là nó như làm cái không khí của lều thăm nuôi tù trong lành hẳn ra. tôi nhỏ nhẹ nói với bà chị:
    - Tháng tới chị khỏi xuống thăm em. Mấy người bạn cũ muốn thăm nuôi em hộ bác và chị. Đường xa vất vả…
    - Chú không được nói thế. Ai lại nhờ người lạ bao giờ. Cả nhà có chú là thiệt thòi nhất. Cô cậu ở bên Mỹ cũng lo lắng không những cho chú mà còn cho bác và chị nữa…
    - Em biết nhưng đây là bạn cũ, cùng đi lính cùng đơn vị, thân lắm.

    Bà chị nhìn tôi hỏi bất ngờ:
    - Thế ra nước hoa để cho ông bạn hả?

    Fleur de Rocaille là nước hoa dành cho đàn bà và chắc chắn bà chị tôi biết như vậy. Tôi chỉ cười bởi Trung cho hay sẽ cùng Thu xuống đây vào kỳ thăm nuôi tới. Đời sống tù là những bế tắc triền miên và từ đó những người tù luôn chia sẻ với nhau những niềm vui nỗi buồn dù nhỏ dù lớn. dăm ba ông tù thân với tôi đã từng được tôi cho đọc ké thư đều hí hửng và hồi hộp khi được biết Song Thu sẽ đến trại. Tối tối nhưng hôm vô công rồi nghề chúng tôi hút thuốc lào vặt và bàn tán đủ kiểu. Ông này bảo cô Thu làm ở sở Hướng Dẫn Du Lịch thì phải đẹp lắm mới được tuyển. Ông khác bảo chắc gì. Chỉ cần lý lịch trong sáng, giỏi ngoại ngữ là được. Cô Song Thu tốt nghiệp Văn Khoa chắc giỏi tiếng Anh. Mỗi người vẽ cô Thu một khác và chính tôi, tôi cũng không mường tưởng người con gái có giọng văn lôi cuốn, có những đam mê tương tự như tôi, đã cùng tôi tâm tình trong suốt năm tháng qua là người cao hay thấp, mập hay gầy. Nhưng tôi thấy rõ là hai đứa có cùng luồng sóng, những sở thích đồng điệu và tâm hồn như sinh ra để hòa với nhau. Gần bốn mươi và đang ở tù, tôi đột nhiên trở thành cậu con trai mới lớn, đi đứng thẫn thờ, đầu óc lơ mơ chờ cái hẹn đầu đời với người khác phái. Tôi như một người khác, nhìn cái gì chung quanh thấy nó cũng đẹp hơn mọi ngày kể cả những chiếc cuốc, cái mai dụng cụ khổ sai của tù hàng ngày. Tôi lẩm bẩm câu được câu chăng bài thơ phổ nhạc của Đinh Hùng: “Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng. Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh là bóng dừa hoang dại. Âu yếm nhìn tôi không nói năng…”

    Buổi tối trước ngày được thăm nuôi, sáu ông bạn tù xúm quanh tôi bàn tán đủ điều và xem ra họ còn hí hửng hơn cả tôi. Ông bạn Văn Chi vốn là ký giả trước năm 1975 bao giờ cũng cười đùa, gõ vào chiếc điếu cầy nhuôm làm nhịp và hát. Bài hát – hoặc là bài thơ – gần như tóm cuộc đời tôi nên tôi đã chép lại và thuộc lòng:

    Dũng tù hề Dũng Tù
    Thơ trao đã nghìn lá
    Chữ chữ như trào ra
    Ngày mai đi gặp mặt
    Biết có nhìn cho ra.
    Dũng tù hề Dũng Tù
    Thân trai vương tù tội
    Trải trăm đắng nghìn cay
    Xích Trường Sơn một giải
    Lạnh Yên Bái nghìn ngày
    Còng lưng trên sỏi đá
    Quặn mình với tre gai.
    Dũng tù hề Dũng tù
    Nhớ Đồng Xoài khói lửa
    Đạn tứ phía như mưa
    Đúng trong hầm tử thủ
    Không nghĩ đến sống thừa
    Dũng tù hề Dũng tù
    Kéo tàn quân rừng thưa
    Vừa băng rừng vừa bắn
    Đến cùng vẫn chưa thua
    Hổ đất lạnh chân không
    Nằm co thân chiến bại
    Tan nát mộng hải hồ
    Trong lòng chiến khu Đ.
    Dũng tù hề Dũng Tù
    Người yêu coi như chết
    Gia đình kể như tiêu
    Bặt tăm trong khói lửa
    Có anh hùng cũng xiêu
    Có hào kiệt cũng gục
    Huống hồ mi gầy guộc
    Sức vóc có là bao
    Sao giờ này vẫn vững
    Sao giờ này lại yêu
    Dũng tù hề Dũng Tù
    Ngày mai ra thăm nuôi
    Ngày mai đi gặp mặt
    Liệu mi có ngày mai
    Dũng tù hề Dũng Tù
    Song Thu hề Song Thu.


    Bài từ ứng khẩu đã khiến anh em cười bò lăn bò càng như những câu cuối làm tôi quặn lại. Cái điệp khúc “Ngày mai ôi ngày mai” nó vừa chua xót vừa mỉa mai trong cuộc tình vừa chớm nở giữa Dũng tù và Song Thu. Liệu mi có ngày mai?

    o O o

    Khi tan hàng để về ngủ, ông Văn Chi nhìn tôi lắc đầu:
    - Trông cụ ăn mặc thế này, mất tiếng tù cải tạo. Để tôi cho cụ mượn cái áo cho tử tế kẻo cô Thu cô ấy cười cho.

    Văn Chi lúc nào cũng vậy, xoay xở nhanh như cắt. Anh đưa cho tôi một chiếc áo ka-ki trông rất được, loại áo ka-ki giống như áo sĩ quan VNCH, có cầu vai và túi áo có nắp. Như một cậu học trò mới lớn, tôi cẩn thận gập chiếc áo và để ở dưới gối làm bằng bao cát với hy vọng trông nó thẳng thớm hơn.

    Dậy rất sớm vào sáng hôm sau, tôi sửa soạn cho cuộc diện kiến đầu tiên. Đến lúc này tôi mới lo lo, liệu trông tôi có còn như xưa chăng? Tôi biết miệng mình hơi mom móm vì bị đánh bằng báng súng gẫy mất mấy cái răng. Tôi biết mình gầy guộc bởi những năm tháng tù đầy, ăn uống thiếu thốn. Tôi biết đầu tóc tôi không còn xanh như xưa bởi lâu lâu nhìn gương đã thấy có sợi bạc. Liệu tôi đi đứng có thẳng lưng hay đã hơi khòng khòng. Những câu hỏi tự giờ nào tới giờ không bao giờ tự hỏi, nay bỗng ào đến khiến tôi chợt có ý nghĩ mình đã già rồi. Chỉ người già mới tự tra vấn mình kiểu đó. Tôi hít một hơi thật dài, làm vài động tác co duỗi rồi tặc lưỡi: Tới đâu thì tới, nếu người con gái đó chê mình thì có điều gì là lạ. Trông chờ gì môt thằng tù, lại là loại tù không biết đến bao giờ mới có ngày ra.

    Nhưng rồi khi nghe thấy mình được gọi có thăm nuôi, tim tôi nhảy thình thịch. Từ trại ra lều thăm nuôi dễ có cả gần một cây số. Tôi nửa muốn chạy ào ra cho nhanh, nửa thì lại muốn đi thật chậm. Được đâu hai phần đường, tôi gặp một ông khập khễnh và nhận ra ông tù bị trật mắt cá khi lao động lên xin nghỉ hôm trước. Chân ông sưng và tím ngắt, ông chống một cái gậy tre cà thọt từng bước một. Tôi bảo:
    - Để tôi dìu anh, sao không xoay lấy cái nạng?
    - Mẹ kiếp, ở tù chứ ở nhà thương đâu mà đòi có nạng?

    Tôi cười và đỡ anh cùng đi.
    - Ai thăm nuôi vậy? Vợ con hả?
    - Vợ con vượt biên lâu rồi. Có bà chị lâu lâu mới thăm nuôi được, nhè đúng lúc chân cẳng thế này.

    Khi hai đứa đến gần lều, tôi thấy lũ lượt những người thân nhân tù đứng ở hàng rào ngó ra chờ đợi. Đảo mắt tôi thấy Trung ngay, và cạnh Trung là một người phụ nữ to béo mặc áo bà ba. Người đàn bà dán mắt vào tôi cười. Tim tôi rụng rời. Song Thu của những lá thư đẫm ướt của tôi. Song Thu của Sở Du Lịch của Đại Học Văn Khoa, người con gái mà tôi mơ tưởng đứng phía sau hàng rào kẽm vẫn nhìn tôi cười tở mở. Tôi nhíu mày quan sát kỹ hơn. Nàng to có lẽ gấp rưỡi tôi. Trung cùng với nàng đưa tay vẫy gọi rối rít và cả hai cùng tiến ra phía cổng đón tôi. Tôi vẫn dìu ông bạn tù chậm chạp bởi tôi không muốn đi nhanh, bởi đầu óc tôi tràn trề thất vọng. Vừa gặp, Trung chộp vai tôi lắc lắc:
    - Trông mày vẫn như xưa.

    Nàng của tôi, Song Thu yêu dấu của tôi cũng đon đả tới và thay vì chào tôi, nàng đỡ lấy ông bạn tù:
    - Chân em sao vậy?

    Tôi đờ người và đẩy ông bạn tù sang người đàn bà to lớn, quay sang:
    - Mày cũng vậy, y chang ngày xưa.
    - Thiếu mất một cẳng

    Tôi nhìn chiếc ống quần thõng giữa hai chiếc nạng lòng chùng đi. Nếu phải chọn gần mười cuốn lịch với hai chiếc nạng, nên chọn cái nào?

    Tôi vỗ vỗ vào chiếc nạng nay đã lên màu gụ bảo Trung:
    - Ít nhất thì cũng khỏi phải đi tù mút mùa.
    - Thu xấu hổ, cô nàng ngồi ở cái góc kia kìa.

    Có lẽ vì mừng gặp lại Trung, có lẽ vì mừng vì người đàn bà to béo không phải là nàng, tôi bẵng đi không nhớ là mình ra để gặp Song Thu cho đến lúc Trung nhắc. Tôi nhìn theo hướng chỉ. Nàng ngồi khép nép trên chiếc băng gỗ, giữa những người thân nhân tù, hơi nghiêng đầu về phía tôi, gương mặt sáng rực, miệng nửa như cười nửa như không. Tim tôi rộn rã. Trung thì liến thoắng:
    - Vợ chồng tao chọn làm sao mà trật được. Thu hiền, thông minh và dễ thương, tụi tao coi như em. Tao bốc mày dữ lắm, mày làm sao cho ngon cho tao coi.

    Thu đứng lên chào tôi. Dáng nàng mảnh khảnh, miệng chúm chím, quanh nàng như có hào quang tỏa ra. Tôi có cảm tưởng nàng cũng đang run như tôi. Thu nhỏ nhẹ:
    - Thưa anh, em theo anh Trung xuống thăm anh.

    Thú thật tôi chỉ nhớ lời Thu và không hề biết mình đã trả lời như thế nào. Luật lệ thăm nuôi buộc tù và thân nhân không được ngồi nói chuyện riêng tư, mà phải được quản giáo giám thị. Trong lều thăm nuôi có những chiếc bàn gỗ dài, hai đầu bàn là hai viên quản giáo, tù và thân nhân ngồi đối diện nhau nói chuyện. Hình như chỉ có Trung nói, Song Thu chỉ mỉm cười im lặng. Nhưng tôi thấy rõ nàng nhìn tôi với ánh mắt quan hoài, và lửng lơ đâu đó giữa hai chúng tôi là một cái gì lung linh nhẹ nhàng đầy những hứa hẹn. Mãi sau này tôi mới hỏi Thu: “Sao hôm gặp nhau đầu tiên em chỉ cười?” – “Biết nói gì nữa. Bộ đi thăm anh chưa đủ sao?”

    Khi sắp hết giờ, tôi móc túi áo lôi lọ Fleur de Rocaille đưa cho Thu:
    - Trời đất. Anh ở tù sao có cái này?
    - Bí mật. Mong là Thu cũng thích mùi rocaille.

    Nàng nheo mắt nhìn, hỏi tôi:
    - Hoa Rocaille là hoa gì vậy anh?

    Tôi hát nho nhỏ:
    - Ôi ngát hương thời gian mùi Thạch Thảo...Nước hoa của mẹ anh vẫn xức ngày xưa. Mẹ gửi để anh tặng Thu.

    Nàng im lặng rồi từ tốn đưa hộp nước hoa lên ngang mặt:
    - Thơm quá. Cảm ơn anh. Nếu anh có viết thư nói Thu cảm ơn mẹ.

    Khi ấy quản giáo dồn đám tù hết giờ thăm nuôi ra khỏi lều, tôi đi ra nhưng đi giật lùi. Thu đứng đó bên hàng rào giữa đám thân nhân tù chen chúc. Tôi chỉ thấy có nàng, còn những khuôn mặt khác nhoè nhoẹt hẳn đi.

    Từ đó Thu là người thăm nuôi tôi thay bà bác. Cũng từ đó tôi nhìn cuộc đời khác hẳn. Trước đây tôi không lý đến mọi sự, mặc cho sự đời đưa đẩy đến đâu thì đến. Không thể nói tôi không mong ra khỏi tù nhưng tôi không chờ không đợi không thắc mắc. Qua những lời kể, những tin tức thì có vẻ như ở ngoài hàng rào tù cũng không lấy gì làm sung sướng lắm, tự do lắm. Một ông tù về tội phục quốc đã có lần nói với tôi: “Đây là nhà tù nhỏ, ngoài kia là nhà tù lớn.” Tôi tứ cố vô thân ra ngoài liệu sẽ ra sao?

    Bởi vậy tôi bất cần cho đến khi Song Thu xuất hiện. Lần thăm nuôi kế đó, một mình Thu lặn lội xuống khá sớm. Chúng tôi nói chuyện với nhau, toàn những chuyện trời ơi đất hỡi. Tay Thu để trên bàn. Nước da trắng muốn nổi bật trên bàn gỗ mốc thếch. Những ngón tay búp măng thon thả đều đặn. Tôi nhìn đăm đăm. Một thèm muốn như trào lên. Thu như linh cảm điều gì, hỏi:
    - Anh có sao không?

    Tôi nhìn vào mắt nàng như đi tìm sự cứu rỗi. Nhẹ nhàng tôi đưa tay qua bàn, úp bàn tay tôi sát tay Thu:
    - Em có trông thấy nó lệch lạc không?

    Bàn tay tôi đen xạm, những sợi gân nổi lên xù xì. Thu nhìn đăm đăm và lẳng lặng úp tay nàng lên tay tôi. Thu bóp nhè nhẹ, miệng cười:
    - Em lấy tay em che đi thì hết lệch lạc.

    Chúng tôi ngồi như vậy khá lâu, tay Thu úp lên tay tôi. Cả hai không nói năng gì. Một niềm hạnh phúc tươi mát lan khắp người, tôi như không còn là tôi nữa. Tôi quên hết những đoạ đày. Tôi coi thường những đau khổ đã trải. Từ bàn tay mát rượi của Thu tôi thấy mình đã thực sự hồi sinh, đang ngoi lên, trồi lên để sống lại.

    Tôi nhớ rõ Giáng sinh năm đó, trong thư Thu đã cho tôi hay tôi sẽ có bánh Bûche de Noël do chính nàng làm, nhưng tôi đã không dấu nổi xúc động khi nhìn thấy hộp bánh. Thu cho hay nàng đã không dám rời, khư khư ôm hộp bánh trong lòng vì xô lệch nó sẽ hư, sẽ nát. Tôi nhắm mắt hình dung quãng đường từ Sài Gòn xuống đây với xe đò chen lấn. Chiếc bánh mấu sô cô la xinh xắn trên có viết bằng chữ kem “Một Giáng Sinh Bình An Tới Anh”. Thu cười bảo tôi:
    - Làm bánh không cực bằng ôm bánh, nhất là mấy lúc xe đó ôm cua, em chỉ sợ mở ra nó thành mớ bùi nhùi.

    Và bỗng nàng xuống giọng thì thầm:
    - Em đang nhờ vả, vận động để anh ra. Ông anh con Dượng em hứa sẽ hết sức giúp.

    Tôi trầm ngâm. Tù cải tạo là tù không án. Hễ không có án thì không có thời hạn nhất định. Tôi nhẫm tính. Tám năm và còn nữa. Tôi bảo Thu:
    - Lý lịch anh coi bộ rắc rối, nhất là vụ bố anh làm việc với Mỹ.
    - Ông anh em bảo nhiều hy vọng lắm. Anh yên tâm.

    Bỗng tôi hỏi Thu một câu hỏi mà chính tôi cũng không ngờ:
    - Nếu ra tù, em có can đảm làm vợ anh không?

    Thật ra chúng tôi chưa hề chính thức tỏ tình với nhau dù cả hai cùng hiểu những gắn bó đã rất sâu, rất đậm. Thu chắp tay kẹp bàn tay tôi trên bàn nhỏ nhẹ:
    - Nếu em không có can đảm, em đã không cùng anh Trung xuống thăm anh nửa năm về trước. Nhưng khi nào anh ra khỏi trại sẽ tính.

    Tôi không biết ông anh con ông dượng của Thu là ai, có thực sự đủ sức lôi tôi ra khỏi cái địa ngục tù đày này chăng nhưng chừng hơn một tháng sau, ông quản giáo Hùng gọi tôi lên làm việc. Ông ta tươi cười:
    - Mừng anh.

    Tôi lặng lẽ chờ vì được ông Hùng mừng thì cũng nên cẩn thận.
    - Đã có giấy cho anh xuất trại từ nửa tháng nay nhưng không có ai ký giấy bảo đảm nếu không thì anh đã được về từ lâu rồi.
    - Thưa cán bộ, thế nay đã có người ký bảo đảm cho tôi rồi sao?
    - Rồi. Tôi ký chứ ai nữa bây giờ!

    Tôi ngây người nhìn ông Hùng Hắc Ám. Tôi không tin ở tai tôi. Tôi là gì để ông dám đem sự nghiệp chính trị ra bảo đảm? Cho dù thế nào đi chăng nữa tôi vẫn là một tên tù, một tên Ngụy và ông ta là một đảng viên, là công an, là thành đồng vách sắt của chế độ. Ông Hùng có vẻ đánh hơi thấy, từ tốn nói:
    - Anh ra khỏi trại thì nhớ thằng Hùng Hắc Ám này liều mạng ký bảo đảm cho anh, đừng làm gì để liên lụy tới nó.

    Tôi nhìn ông ta. Tôi muốn ôm lấy ông quản giáo mà hôn thắm thiết như thiếu nhi quàng khăn đỏ ôm hôn Bác Hồ. Nhưng tôi dừng được.
    - Tôi không biết cảm ơn cán bộ cách nào cho phải. Cán bộ yên tâm bởi từ xưa đến nay tôi không dính dáng gì đến chính trị. Vả lại ra khỏi đây tôi lo sống còn chưa xong…

    Ông Hùng vẫn cười:
    - Anh Dũng ơi, anh lo gì. Gia đình anh ở bên Mỹ mà. Mai mốt anh có sang bên ấy nhớ gửi quà cho tôi.

    Chỉ có điều khi tôi kể chuyện này cho Thu, Thu quắc mắt:
    - Thằng cha nham nhở. Ông Toàn con ông Dượng em ký bảo lãnh, đâu phải thằng cha quản giáo khốn nạn. Hôm ký xong ông ấy còn dặn em nói anh đừng có chống đối vớ vẩn là chết cả nhà. Thiệt là nham nhở!

    Lúc đó nghe Thu nổi sùng tôi chỉ im lặng nhưng thầm nghĩ chơi với mấy công an Cộng sản thiệt khó. Dẫu sao tôi vẫn cảm ơn ông Quản giáo đầy mưu lược này, nhất là khi tôi lại được biết trước hai ngày về vụ phóng thích. Tôi đem hết tài sản ra phân phát cho anh em, từ chiếc lon sắt đựng nước, cái gối làm bằng bao cát, chiếc chăn cũ mèm, cái gì cho ai được là tôi cho.

    Buổi sáng hôm đó, tôi lên khung an ninh lãnh giấy tờ ra trại. Người cán bộ nhìn tôi lẳng lặng đưa ra một tờ giấy in không được đạt tiêu chuẩn lắm, giấy thì mầu đất xỉn, chữ đôi chỗ ăn không đủ mực, mờ mờ và tờ giấy mười đồng. Cầm lá bùa hộ mệnh tôi đi về phía cổng trại. Người bộ đội đứng canh trông bộ dạng tôi, đứng nhìn. Cứ thế tôi lững thững đi ra khỏi trại tù không ai chặn hỏi. Tôi bước qua chiếc cổng với một cảm giác trống vắng, một cảm giác ghê ghê như thiếu một cái gì. Tôi nhìn trái nhìn phải và chợt nhận ra cái phản ứng sợ sệt của một thằng tù khi đi ra khỏi trại giam mà không có bảo vệ viên, có bộ đội hay công an cầm AK đi kèm. Nó rờn rợn đến nổi gai ốc bởi tôi không tin ở chuyện đang xảy ra, không tin rằng mình lại có thể ra đi tự do, phơi phới, đi ra như thể đi chợ, đi chơi, đi như chưa bao giờ được đi cả. Tôi thấy mình lắng nghe xem có tiếng động gì sau lưng chăng? Nếu tụi nó đuổi theo bắt tôi trở lại thì sao? Tôi đi nhẹ gót như thể yên tâm hơn rằng hiện chỉ có mình tôi trên con lộ đất dẫn ra khỏi trại. Rồi tôi chạy. Chạy như ma đuổi, chạy vắt giò lên cổ. Ôm cái bọc xộc xệch trong đó quí giá nhất là cái áo len Thu đan, tôi chạy không ngưng nghỉ. Tim tôi đập thình thịch, mồ hôi nhễ nhại. Tôi chạy cho đến lúc trật chân, văng một chiếc dép râu sang vệ cỏ mới dừng lại. Người tôi hừng hực, mồ hôi túa ra, thở dốc từng hơi. Tôi ngồi phịch xuống lề và khóc. Khóc nức nở, khóc không duyên cớ. Tôi gục mặt ôm đầu, nước mắt và mồ hôi trộn lẫn nhạt nhòa trên mắt, trên mi. Tôi nấc lên từng cơn, người rung lên từng đợt theo tiếng nấc.

    Mặt trời đã lên khá cao. Tôi ngồi đó nhìn quanh cảnh chung quanh. Không một bóng người. Tất cả là nỗi trống vắng hiu quạnh. Tôi mò mẫm xỏ lại chiếc dép râu và đứng dậy lững thững đi về phía trước.

    o O o

    Qua một quãng hai bên là ruộng, con đường trải nhựa hiện ra trước mặt. Có cái thèm muốn kỳ lạ dâng lên trong tôi. Tôi quì xuống lề, đưa tay sờ mặt đường. Một cảm giác đầm ấm tràn lên, và tôi biết chắc mình đã ra khỏi tù, đã rời khỏi cái địa ngục khổ sai, của quản giáo, của bảo vệ. Để đi về đâu?
    Tôi hoàn toàn mất phương hướng, không biết phải đứng phía nào đón xe, đành đứng đợi. Mặt trời chiếu xiên, tôi nhìn bóng tôi đổ dài trên mặt đường. Cuộc chạy việt dã bây giờ mới thấm. Cơ thể tôi rã rời.
    Không biết tôi có vẫy không nhưng chiếc xe đó thắng khá gấp phía bên kia đường. Người tài xế thò đầu ra hỏi lớn:
    - Tù cải tạo phải không, lên đi.

    Anh ta đưa tay vẫy vẫy và tôi chạy ào sang. Chiếc xe chở cồng kềnh đủ thứ trên mui. Một cô gái trông còn trẻ, mở cửa ra, bước xuống chỉ phía trong:
    - Chú vào ngồi giữa đi.
    - Từ đây về Sài Gòn bao nhiêu cô? Tôi chỉ có mười đồng.

    Đó là khoản tiền đường được phát cùng với giấy ra trại. Ông lơ đến cạnh tôi lúc nào không biết, dục:
    - Lẹ lên đi chú. Tiền bạc gì, ai tính tiền chú đâu mà lo. Tù mấy năm vậy ?

    Tôi nhanh nhẩu trèo lên và chui vào trong, không kịp trả lời anh ta. Vừa êm chỗ, cô gái ngồi bên cạnh quay sang cười và cúi xuống lôi ra một trái quít đưa cho tôi:
    - Chú ăn đi cho mát lòng dạ. Ở tù xót ruột chết.

    Tôi phì cười, đưa tay nhận trái quít đỏ mỡ màng.
    - Lâu quá mới thấy quít.
    - Ối, về Sài Gòn lại thấy đủ thứ chú ơi. Chỉ sợ không có tiền.

    Mọi người trong xe cùng cười. Xe đang chạy ngon trớn thì người con gái bên cạnh vỗ vào tôi:
    - Chút xíu nữa tời trạm kiểm soát, chú cứ ngồi yên không phải xuống. Tù cải tạo ngồi đâu ngồi đó nhe chú. Chú giữ giùm cháu cái này không thôi tụi nó dẫm phải hư hết.

    Cô lôi dưới ghế ra một bọc, để yên trên lòng tôi. Chiếc bọc cũng hơi nằng nặng. Ít phút sau xe ngừng ở trạm kiểm soát, tất cả khách phải xuống nhưng cô gái lại dặn tôi:
    - Chú ngồi yên đó nhớ giữ cho cháu cái bị nhe.

    Công an lố nhố ở trạm. Hai người trèo lên ngó ngang ngó dọc, trong khi người lơ xe đang thì thầm to nhỏ gì đó với một người công an ở đầu xe. Tôi nghe anh ta lớn tiếng:
    - Thôi, lên xe lẹ đi bà con.

    Từ chỗ tôi đón xe cho tới khi về đến xa cảng ở xa lộ Biên Hòa có lẽ có đến bốn trạm kiểm soát. Lần nào cô gái cũng dặn tôi ngồi yên trên xe và chả thấy ai nói năng gì, tôi cứ thế làm theo lời dặn. Khi xuống xe, cô gái toét miệng ra cười:
    - Cám ơn chú nhiều. Cháu biếu chú.

    Cô đưa cho tôi tờ năm đồng. Tôi khựng lại ngỡ ngàng. Tôi có làm gì đâu mà cô ta cám ơn tôi, lại còn đưa tiền nữa. Cô gái vẫn cười:
    - Chú ơi, cái bọc chú giữ giùm cháu là cà phê đấy. Tụi nó thấy chú tù ra trại nên để yên. Cháu chuyên đi cà phê lậu mà chú. Chú cầm tiền này uống cà phê, tiền lời phải chia chác cho sòng phẳng.

    Tôi lắc đầu nhất định không cầm. Cô gái vẫn cười vỗ vào cánh tay tôi:
    - Ờ tại chú mới ở tù ra. Ở Sài Gòn bây giờ có ai chê tiền đâu chú. Giết nhau cũng giết chú ơi.

    Tôi nhìn cô, cô còn trẻ quá chắc ngoài độ hai mươi. Mà cô buôn lậu gì kỳ cục, bởi tôi không mường tưởng được cà phê lại trở thành hàng lậu, hàng quốc cấm. Thấy vẻ mặt ngỡ ngàng của tôi cô gái vẫn cười:
    - Chú ơi cái gì cũng quốc doanh. Cái gì nhà nước cũng quản lý hết. Cháu đi bảy ký cà phê mà nhiều khi phải đút lót năm lần mới lọt.
    - Tôi mới ở tù ra chẳng hiểu mô tê gì cả.

    Cô gái bọc hàng quày quả bỏ đi. Bến xe đông đảo. Tôi đi chậm chạp quan sát, chưa biết làm thế nào để về nhà thì một xe Honda xà tới:
    - Bố. Bố lên đi con chở về. Nhà bố ở đâu?

    Cả đời chưa ai gọi tôi bằng bố cả. Tôi nhìn ông xe ôm hỏi:
    - Từ đây về ngã tư Công Lý Yên Đổ bao nhiêu ông?
    - Một trăm. Nhưng bố chỉ có mười đồng thôi phải không ? Hồi tôi ra trại cũng được mười đồng. Bố ơi, bây giờ không còn Công Lý nữa. Đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa rồi bố ơi.

    Khi tôi móc tiền ra, ông ta cười:
    - Cất đi bố ơi, cải tạo với nhau, ai lấy tiền bố.

    Khi ông ta rú ga dọt đi, tôi đứng ở hè phố, lòng bâng khuâng về những gì xảy ra khi vừa chạm với xã hội bên ngoài. Tôi đi ngược phía Công Lý và vừa đến cổng nhà thì có tiếng la:
    - Anh Dũng. Anh Dũng về.

    Quyền từ phía trong chạy ra ôm ngang vai tôi, vừa ôm vừa lắc, vừa la:
    - Anh Dũng về. Anh Dũng về.

    Tôi như nghẹn, không nói được nửa lời, mặc cho Quyền vừa ôm vừa đẩy tôi vào. Chú thím Trung cũng chạy ra. Cả nhà vây lấy tôi. Tôi vẫn đứng ôm cái gói ngây ra không biết phải nói gì với những người thân cho đến khi chú Trung từ tốn:
    - Để anh Dũng vào nhà đã.

    Tôi nhìn ông. Ông dáng người vốn mảnh khảnh, sau bao năm không gặp vẫn thế, nhẹ nhàng từ tốn. Nhìn ông tôi biết chắc tôi đã về.

    o O o

    Bữa cơm tối quây quần chỉ có năm người – chú thím, vợ chồng Quyền và tôi. Tất cả các em trai gái trong nhà đều đi vượt biên và sống ở Mỹ vài ba năm rồi. Chú Trung cho hay nhà cũng có giấy tờ và có thể sẽ đi Mỹ đoàn tụ bất cứ lúc nào. Khi ăn gần xong ông nhỏ nhẹ:
    - Dung có chồng rồi anh biết không?

    Tôi đặt đũa xuống. Cả nhà nhìn tôi chờ đợi. Tôi chậm rãi:
    - Bây giờ nghe chú thì cháu biết. Nhưng cháu không ngạc nhiên. Cháu đã tự hỏi cháu nhiều lần trong những đêm tù không ngủ được. Cháu nghĩ đó là giải pháp tốt đẹp nhất cho Dung. Dung còn trẻ và còn cả một tương lai dài ở trước mặt. Dung phải sống, thưa chú!

    Bà thím cười tủm tỉm:
    - Nhưng cô Thu xinh ghê đấy chứ. Chú thím gặp cô Thu một lần ở nhà bác Chuyên, hôm ấy cô đến nhận đồ để thăm nuôi
    Dũng. Bao giờ thì dẫn cô Thu về ra mắt thím đây?

    Tôi đánh bài lảng:
    - Thân cháu sợ cháu chưa lo nổi. Mới ở tù ra thấy như ở cung trăng rớt xuống, ngơ ngẩn không biết trời biết đất gì. Mọi thứ lạ hẳn so với ngày xưa.

    Chú Trung mơ màng:
    - Ngày xưa. Ngày xưa… Công Lý nữa....... Đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa rồi bố ơi.

  2. #14
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Đổ Lệnh Dũng - Lê Thiệp - Chương 13 & 14 The END

    CHƯƠNG 13


    Người tôi bồng bềnh như mơ như tỉnh. Rõ ràng tôi biết tôi đang mở mắt nhưng đầu óc lơ mơ không biết mình đang ở đâu.
    Một nửa tôi muốn choàng dậy, tôi muốn thoát ra cái mơ mộng êm ái, một nửa khác trong tôi ghìm tôi xuống, xúi tôi cứ nằm yên bởi đây chỉ là mộng vui. Tôi lắng nghe xem những tiếng động quen thuộc của những buổi sáng, tiếng người này gọi người kia, tiếng cuốc xẻng, tiếng tập họp báo cáo . Nó cứ chập chờn tiếng có tiếng không. Đầu óc tôi như chối bỏ sự thật. Tất cả chỉ là giấc mơ, phải dậy để ra sân, phải dậy để lao động, quản giáo đang hò hét ngoài kia. Cho tới một lúc tôi tưởng tôi đã tỉnh hẳn. Tôi tự nhủ: “Dũng ơi, mày đang ở nhà, mày đang ngủ trên giường nhà mày một mình.”

    Rồi tôi lại ngài ngại, không muốn tỉnh hẳn vì sợ đây không phải là sự thật. Cơ thể trạng thái mềm thoải mái. Những thớ thịt, những sợi gân chùng xuống, dãn ra lơ tơ mơ. Tôi khẽ cựa mình. Tôi không nằm trên chiếc chiếu rách mà quả thật tôi đang nằm trên chiếc giường nệm. Tôi đưa tay cấu vào đùi để thực sự tin vào thực tại. A, tôi thấy đau. Tôi không ngủ mơ.

    Tôi ngồi dậy vẫn chưa tin hẳn. Tôi bước xuống giường, mò ra cửa, lần xuống nhà dưới. Tôi bật đèn và và ngơ ngác nhìn. Tôi chậm chạp đi từ phòng khách vào nhà bếp rồi lại trở ra.

    Tôi ngồi xuống chiếc ghế gỗ ở trong góc phòng đăm đăm nhìn bức tranh sơn mài. Bức tranh của ông Nguyễn Gia Trí vẽ ba cô gái tà áo tung bay. Bức tranh ở đó trên mảng tường này từ xửa từ xưa, từ lúc tôi còn là học trò trung học. Tôi vốn yêu nhiếp ảnh, đã cầm máy từ lâu và nhờ nhiếp ảnh tôi biết đến bố cục, biết đến góc độ ánh sáng, biết đến gam mầu. Lần nào nhìn bức tranh tôi cũng như bị nó hút vào, như chính mình đang tung tăng cùng các cô gái trong cái không khí xuân thì.

    Đêm nay tôi ngồi nhìn lại bức tranh sau bao năm xa cách. Tôi nhìn vào mảng mầu vàng ươm, những khoảng nâu ánh hồng. Những tà áo dài lượn lờ như múa và từ đó tôi nhìn thấy Dung. Tôi ngây người như bị thôi miên. Tôi thấy bố mẹ và các em cười nói. Tôi thấy tôi đang ngồi ở hiên giảng đường Luật đông lúc nhúc lúi húi ghi cours. Tôi thấy cả ông khoa trưởng Vũ Văn Mẫu. Rồi nhòa đi như một cảnh phim câm, Dung lại ở đó đăm đăm nhìn tôi. Tôi mở to mắt. Không phải, không phải. Từ trong đó, từ trong cái long lanh của sơn mài Nguyễn Gia Trí là Thu, là Song Thu:
    - Dũng sao vậy? Sao không ngủ, ngồi đây làm gì?
    Bà dì đứng ở cửa bếp từ lúc nào, đang nhìn tôi lo lắng. Tiếng bà đầy quan ngại làm tôi sực tỉnh.
    - Cháu khát nước, xuống tìm cái gì uống. Khuya rồi, sao dì còn thức.
    - Thấy đèn sáng nên dì xuống.
    Tôi đứng dậy ôm vai bà:
    - Thôi dì cháu mình đi ngủ lại.

    Hơn bảy năm lao tù để lại những vết hằn trên tôi. Suốt một tháng, cứ quá nửa đêm là tôi tỉnh và mười lần như một, mối ám ảnh mình không thực đang ngủ một mình trong chính căn phòng êm ấm vẫn đeo đuổi tôi. Nhiều năm sau, thỉnh thoảng tôi vẫn choàng dậy, ngồi bật lên ngơ ngác định ra tập họp để ra lao động theo nội quy trại.

    Khách sạn Majestic ở bến Bạch Đằng trông vẫn cổ kính như xưa. Tôi còn nhớ hồi bé tí vừa vào Sài Gòn cùng bố, tôi đã có dịp ăn trưa ở đây. Hôm đó bố tôi có hẹn bạn và cho tôi đi theo. Tôi cũng nhớ cái bàn tròn trải khăn trắng kê sát cửa sổ nhìn qua bên đường là sông Sài Gòn. Tôi cẩn thận khóa chiếc xe đạp Trung Quốc hiệu Phượng Hoàng vào cột điện, khóa hai ba lần. Chú Trung biết tính tôi hay lơ đễnh, dặn đi dặn lại:
    - Bây giờ khác ngày xưa, Dũng nhớ cẩn thận.

    Tôi thấy chú Trung hay dùng chữ ngày xưa và bao giờ cũng có tí ngậm ngùi gì trong đó. Tôi vừa ở tù ra, chưa có định kiến gì về đời sống bên ngoài, nhưng cũng hình dung được giá trị của chiếc xe đạp. Hồi trong tù khi nghe tiêu chuẩn đánh giá của người miền Bắc là Đạp Đồng Đài, tôi ngơ ngác cho đến khi được giải thích. Kẻ nào có xe đạp, đồng hồ, và Radio mà người Bắc gọi là Đài, kẻ đó là người có máu mặt. Thang giá trị đó nay chắc đã lan vào miền Nam.

    Tôi đứng bên này đường Tự Do nhìn sang. Buổi chiều nắng đã dịu, gió từ sông thổi lên khiến không khí như có đượm hơi ẩm. Nhân viên Hướng dẫn Du lịch từng nhóm líu ríu kéo nhau ra khỏi cửa. Họ ăn mặc khá bảnh bao khác hẳn người dân. Lẫn trong đám, Song Thu nổi lên trong chiếc áo dài mầu thiên thanh. Nàng cười nói với mấy cô bạn rồi tách ra đứng bên đường như chờ đợi. Tôi vừa chớm băng qua đường thì Thu nhìn sang. Như một mũi tên, nàng chạy ào qua suýt nữa té ở giữa đường có lẽ vì giày cao gót. Chạy sang vừa tới trước mặt tôi, Thu đứng sững lại như sợ lầm người. Vẻ người, gương mặt Thu như có cái e thẹn của người nữ khi bộc lộ tình cảm quá lộ liễu. Tôi bước tới đưa tay ra. Thu cũng đưa tay ra:
    - Anh
    Hai mắt Thu rưng rưng, một giọt nước từ từ đọng lại lăn xuống khoé mắt. Tôi cười nhẹ nhàng:
    - Anh về tối hôm qua.
    - Sao không báo trước cho em hay.
    - Làm sao báo được. Nhưng bây giờ thì anh đang ở trước mặt Thu.
    Đúng lúc đó chiếc xe gắn máy Bridgestone xà đến cạnh hai đứa. Thu nhìn, nói khẽ:
    - Tuấn nó đến đón em.
    Tuấn nhìn và gật đầu chào tôi:
    - Anh Dũng phải không? Em là Tuấn, nghe chị Thu nói nhiều về anh.
    - Chào Tuấn. Anh mới về tính rủ Thu đi uống nước.
    Tuấn tủm tỉm cười nhanh nhẩu:
    - Vậy lát anh đưa chị Thu về nhà nha. Để em về nói với ba má.

    Mọi việc xảy ra êm đềm tự nhiên giống như thể mỗi ngày tôi và Thu vẫn gặp nhau, giống như cả nhà Thu đều biết tôi là ai, mày ngang mũi dọc ra sao, nhất là tôi được chấp nhận như người bình thường, một người đúng theo nghĩa con người, không phải một thằng tù, một công cụ sản xuất hay một con vật biết lao động.

    Con đường Tự Do – nay có tên Đồng Khởi - vào giờ này vắng tanh. Hai đứa thong dong đi cạnh nhau. Sau những năm tù đày, đối với tôi, không có gì để phải ngạc nhiên về sự đổi thay của Sài Gòn. Tất cả chung quanh tôi là màu đỏ và mầu vàng. Mọi thứ dưới mắt chế độ đều được khoác mầu sắc đấu tranh và ý thức hệ. Tôi không nhìn thấy cửa hàng cửa tiệm nào có bảng sơn màu xanh cả. Thây kệ, đối với tôi, nay chỉ có Thu.
    - Mình kiếm cái gì uống không?
    - Anh ở trong ấy lâu rồi, bây giờ thèm gì?
    Ôi thôi, cái gì cũng thèm nhưng có lẽ thèm nhất là tình yêu thương. Tôi giữ ý tưởng đó không nói ra.
    - Mấy năm rồi chưa được uống bia.

    Thế ra cái quán đó vẫn còn, chỉ đổi tên, tất nhiên phải đổi vì nó mang tên đầy phản động Imperial. Quán trông như một nhà quí tộc bị phá sản, nhưng vẫn cố duy trì vẻ quí phái đã tàn phai với tấm thực đơn bèo nhèo và nhất là tấm hình ông Hồ cầm can đánh nhịp cho dàn nhạc giao hưởng. Nó kệch cỡm lẻ loi trong cái quán nhỏ. Lâu quá mới lại được uống bia lạnh. Nó thấm vào đến chân tơ kẽ tóc. Tôi cười bảo Thu:
    - Hồi xưa còn đi học, lâu lâu xin được tí tiền, anh hay ngồi đây một mình, ra điều mình là dân sang, dân chơi nhưng bao giờ cũng chỉ đủ tiền uống một chai 33.
    - Hôm nay anh uống thả cửa. Em bao.
    - Sợ một chai là say. Lâu quá không uống bia.

    Hai đứa thủ thỉ đủ thứ chuyện. Tôi chợt nhận ra chưa bao giờ tôi nói yêu Thu dù ngay trong trại khi được thăm nuôi, tôi đã ngỏ ý xin cưới nàng.
    - Thu biết anh yêu Thu?
    - Không ai liều như anh. Đang ở tù mà xin cưới con gái nhà người ta.
    - Tại vì anh yêu Thu. Khi yêu người ta không sợ.

    Thu bóp nhẹ tay tôi như một kiểu đồng tình êm ái nhẹ nhàng. Chiều ngoài kia đang xuống hẳn, dăm ba ngọn đèn đường nhạt nhòa trong cái chạng vạng của đất trời. Hai đứa thả bộ dọc đường vắng.
    - Anh thèm phở.
    - Khu này đâu có tiệm phở nào ngon.
    - Phở bà Dậu còn không?

    Thu cười ngất:
    - Em có biết phở bà Dậu ở đâu đâu.

    Tôi cũng cười ngất:
    - Ngày xưa phở bà Dậu ngon nhất Sài Gòn, sao em không biết.
    - Mèng ơi, cái gì cũng ngày xưa. Hồi đó em còn bé tí và ở tuốt tận Hóc Môn, biết khỉ gì.
    - Vậy mình đi ăn phở bà Dậu. Lạy trời còn phở bà Dậu. Để anh chở Thu đi.

    Trong nỗi thèm phở, tôi liến thoắng kể cho Thu nghe về cái quán phở rất thân thuộc với tôi từ thủa thiếu thời. Bà Dậu hay lắm, lúc nào cũng nướng xương trước khi nấu. Một ông bạn đã học Dược, gật gù bảo bà Dậu có thể đậu thủ khoa trường Dược vì khi nướng xương bà đã phong tỏa khiến nước lèo không bị đục. Xương bò khi nướng hơi chín phía ngoài khiến vẩn protein không thoát ra được. Thu cứ nghiệm coi đúng không, khi Thu luộc thịt vẫn phải vớt bọt vì protein bị chín đóng thành vẩn khiến nước lèo vừa đục, vừa hôi. Bánh phở bà Dậu cũng hết xảy vừa đủ dai không nhão, có vị ngọt vị thơm của gạo. Tuyệt nhất là thịt chín. Thịt chín trong bát phở của bà Dậu bao giờ cũng vậy, vừa đủ to, đủ dầy. Nó không thô tục, không bèo nhèo ăn vừa thơm vừa ngọt. Thu biết không tô phở của bà Dậu lúc nào cũng vậy, mọi sự tương xứng, nước, bánh, thịt, không có gì quá đáng, không có gì thiếu hụt. Với anh, phở bà Dậu là nhất.

    Nghe tôi huyên thuyên, Thu cười phì:
    - Đúng là Bắc Kỳ. Nghe anh tả mà bắt thèm. Phở bà Dậu ở đâu?

    Đến đây, tôi chạm vào thực tế của đời sống. Chiếc xe đạp Phượng Hoàng. May quá nó vẫn còn đó. Tôi vừa mở hai ba lần khóa nói với Thu:
    - Chở em bằng xe đạp được không?
    - Chở em bằng xe bò cũng được. Cả nhà em chỉ còn mỗi cái xe gắn máy, có chuyện gì mới dám đi, còn đi đâu cũng lô ca chân, hay xe lam.

    Lọng cọng líu ríu, tôi mất một hồi mới quen được trò chở nhau trên xe đạp, phương tiện giao thông phổ biến nhất hiện nay. Đường Đồng Khởi cấm xe đạp và xe xích lô, tôi phải đi vòng khá xa nhưng khi quẹo vào cư xá Công Lý thì tiệm bà Dậu vẫn còn đó nhưng đóng cửa. Tôi nhìn cây trứng cá. Nó vẫn còn đó. Tôi nhìn mấy cái bàn gỗ, mấy chiếc ghế, tất cả vẫn còn đó. Tôi chợt nhớ. Phở bà Dậu chỉ bán đến cỡ hai, ba giờ trưa là hết. Thu cười:
    - Xui dữ.

    Thế đấy. Ngày đầu tiên của chúng tôi nó ngờ nghệch ngớ ngẩn nhưng nó thực, nó tự nhiên không gượng gạo, nó bình thường nhưng đầy tình, chan hòa lòng yêu thương.

    Từ Thức khi trở về trần thấy quê hương bản quán mà ông hằng ấp ủ, nhớ nhung không còn nữa, kẻ thân người thuộc đều đã mất và ông thấy mình không còn lý do gì để vương vấn. Từ Thức bỏ vào núi không còn dấu vết. Ít ra là ông cũng hơn tôi để chọn lựa.
    Tôi đã lang thang khắp Sài Gòn Chợ Lớn cả tuần nay. Bộ quần áo của Quyền cho mượn khá rộng nên trông tôi lùi xùi, giống y hệt như người dân từ các vùng quê đổ về Sài Gòn kiếm ăn.

    Xanh xao, gầy guộc, hai mắt lúc nào cũng đờ đẫn, tôi bước thấp bước cao đi giữa làn sóng người, lòng dửng dưng. Y quan dị tích thì. Đỗ Phủ bảo với chế độ mới, mọi sự đều thay đổi, cả đến quần áo.

    Nhưng ông thi sĩ đời Đường này chỉ nói đến quần áo và trang phục của các ông quan, các bậc vương giả, những người đang hưởng bổng lộc của tân Triều. Nay cái đổi thay không chỉ ở thượng tầng mà hiển hiện ngay trong đời sống hàng ngày. Tôi được cô gái buôn lậu cà phê và ông cựu tù lái xe ôm thương xót có lẽ vì cái chức “tù cải tạo”. Nay không ai coi tôi là tù nữa. Nay tôi là một người bình thường của xã hội nên được đối xử như một người bình thường.
    Tôi nhớ buổi sáng sau khi lót lòng một đĩa xôi đậu đen chấm muối vừng, tôi lang thang và đi qua bùng binh, tôi nhẩn nha đi vào chợ Bến Thành. Hình như tôi chưa bước chân vào cái chợ nổi tiếng này lần nào, thỉnh thoảng lắm thì chỉ ghé thì chỉ ghé hàng trái cây ngay bên vệ đường Lê Thánh Tôn. Trời khá nóng nhưng khi bước vào bên trong, hơi người nồng nực hẳn lên. Tôi định kiếm một bộ quần áo và nghĩ mua ở chợ chắc rẻ hơn là vào tiệm. Còn đang lớ ngớ đứng ngó thì bà bán hàng nhìn tôi với ánh mắt đầy miệt thị:
    - Mua gì?
    Tôi chưa kịp nói năng gì thì một tràng, một dọc âm thanh chua như hất vào mặt:
    - Mới sáng ra chưa mở hàng mà găp cái của này lại ế sưng cả ngày. Không mua đi chỗ khác. Đúng là cú nhìn nhà bệnh. Phỉ phui. Phỉ phui.
    Tôi chết trân. Tôi là con cú đang rình người sắp chết! Tôi lớn lên ở Sài Gòn. Cả tuổi hoa niên của tôi là Sài Gòn. Tôi chưa bao giờ bị rủa xả như hôm nay. Tôi lủi ra, khi đi sang phía nhà ga lúc nhúc người và ngoái đầu nhìn lại cái chợ yêu dấu của Sài Gòn. Tôi nhắm mắt lại để nhớ mấy tấm quảng cáo kem đánh răng Hynos và vỏ xe Michelin màu tươi vui sống động. Mở mắt ra nay là mầu vàng, màu đỏ và là khẩu hiệu. Nổi nhất vẫn là câu: “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của ông Hồ.

    Tôi đi tới những nơi đầy ắp kỷ niệm, đầy những nhớ nhung. Tôi nhớ lại khi ở tù, tôi luôn tự nhủ nếu được trở về thế nào cũng đi tới chỗ này, góc kia của Sàigòn, nhưng tôi thấy mình lạc lõng bơ vơ. Tôi có cảm giác như đang lưu vong trên quê hương mình và tôi không có cùng suy nghĩ, cùng tiếng nói với đồng bào tôi nữa.

    Khi ra đường tôi là một người như trăm vạn người khác nhưng khi trình diện công an phường, tôi lại hiện nguyên hình là một tên lính Ngụy, một tên tù. Trên nguyên tắc, tôi được ra trại nhưng vẫn là tù, đặt dưới sự quản chế của địa phương. Theo ngôn từ trước 75, tôi chỉ được tạm tha chứ không chứ không phải là công dân bình thường. Trước khi tới đồn công an, chú Trung đưa tôi gói thuốc lá Điện Biên.
    - Cháu bỏ thuốc lá rồi.

    Chú Trung cười nhẹ:
    - Dũng cầm bao thuốc này để lên bàn công an. Bây giờ khác xưa. Hễ dính dáng đến cán bộ công an nhà nước là phải chè lá. Nhớ để lên bàn, lúc về làm như mình quên, không phải là đút lót.

    Tôi ôm tờ giấy ra trại và cái sổ gia đình ngày xưa trên đó có tên tôi, chỉ có điều đã bị gạch bỏ với hàng chữ ghi “mất tích trước năm 1975“.

    Hồi ở tù tôi đã được giảng nhiều về Xã Hội Chủ Nghĩa nhưng vẫn lơ mơ cho đến khi thực sự sống trong đó. Chế độ hộ khẩu là cái thòng lọng tròng vào cổ người dân, là cái gọng kềm siết họ lại không cách gì cục cựa được. Nó giúp chế độ kiểm soát chặt chẽ mọi người. Đi đến đâu ngủ qua đêm là phải trình tổ dân phố và đôi chỗ phải trình cả với đồn công an. Không ai dám chứa chấp người lạ. Không có hộ khẩu có nghĩa là mất quyền công dân, có nghĩa là bị loại ra ngoài rìa xã hội. Có hộ khẩu là có lá bùa hộ mệnh, là được phân phối các nhu yếu phẩm từ hạt gạo, hạt đường, bột ngọt cho đến vải vóc. Có hộ khẩu là được quyền mua hàng ở các cửa tiệm quốc doanh. Tôi thuộc quyền quản lý của công an có nghĩa là tôi vẫn là thành phần bị quản chế, bi theo dõi và hàng ngày phải lên báo cáo với công an phường về sinh hoạt.

    Khi đưa tờ giấy ra trại và sổ gia đình, viên công an người Bắc lật đi lật lại rồi bảo:
    - Trường hợp này căng lắm.

    Tôi định hỏi “căng có đến độ đứt không?” nhưng kìm lại được. Tôi không nói năng gì vội, để gói thuốc Điện Biên lên bàn, rồi nhỏ nhẹ:
    - Tôi có tên trong sổ gia đình từ trước ngày giải phóng. Trong giấy ra trại cũng đề rõ tôi về địa chỉ này.
    - Tôi nói căng lắm vì tên anh đã bị gạch đi.
    - Lúc đó gia đình tôi nghĩ là tôi đã chết, đã mất tích.
    - Tôi nói căng lắm. Được, anh về ngày mai lên tôi giải quyết.

    Không hề có chuyện giải quyết. Tôi như lãnh bản án treo, có lần viên công an đã nói xa nói gần đến chuyện tôi sẽ phải đi kinh tế mới mặc dù vào thời điểm này không ai nói đến kinh tế mới kinh tế cũ như hồi Cộng sản mới chiếm miền Nam.
    Bà dì tôi là người nhạy cảm và nhìn thấy ngay lý do. Khi có giấy tờ từ Mỹ bảo lãnh, chú Trung đã ra phường làm giấy tờ sang nhượng căn nhà nhưng không được chấp thuận với nhiều lý do. Ông bà bán nhà, mai mốt con cái ông bà về đòi lại thì sao? Họ là người thừa kế tài sản, phải có sự đồng ý của họ.

    Khi chú Trung viết thư và những đứa em tôi đồng loạt ký tên đồng ý để ông được quyền bán nhà thì công an bảo phải đích thân họ ký với nhà chức trách Việt Nam mới hợp lệ. Bà dì bảo tôi:
    - Dũng ơi, chúng nó muốn chú dì hiến nhà cho nhà nước mới cho đi Mỹ. Đã có vài trường hợp tương tự rồi. Nó không cho Dũng vào hộ khẩu ở nhà này chỉ vì muốn nuốt không căn nhà.

    Hàng ngày tôi phải lên phường báo cáo là đi những đâu, gặp ai, nói chuyện gì. Lăp đi lặp lại những lới khai nhàm chán đó cỡ một tuần lễ, viên công an bảo tôi:
    - Anh phải tìm việc làm, không thể ăn bám vào xã hội được.
    - Tôi rất muốn được phục vụ nhưng không nơi nào nhận vì mới ở trại cải tạo ra lại không có hộ khẩu.
    - Chuyện đó là chuyện riêng của anh, nhà nước không đi kiếm việc làm cho anh được. Nếu không có việc thì anh nên đi kinh tế mói khai khẩn, lao động sản xuất.

    Tôi kể lại lời đe dọa này, cả nhà dãy nảy:
    - Dũng đừng nghe lời nó. Không đi đâu hết, Dũng đâu cần chúng nó. Cả tháng chưa được một lạng đường, một hộp sữa, cần gì. Cứ lì ra, đừng có làm đơn đi kinh tế mới. Đi để mà chết à?

    Tôi nghe theo, cứ trân mặt ra, kệ viên công an lúc ngọt lúc sẵng dụ tôi làm đơn đi kinh tế mới. Ít nhất họ cũng không thể bắt tôi trở lại trại tù vì không có hộ khẩu.

    Thật ra tôi không đến nỗi phải lo miếng ăn nhờ có tiếp tế từ nước ngoài, nên chuyện kiếm việc làm không phải là mối bận tâm của tôi.
    Sau bữa cơm gia đình ấm cúng với tiếng cười đùa của mấy đứa em nhỏ, tôi ngồi nói chuyện với ba má Thu. Cả nhà vốn là nhà giáo nên ăn nói từ tốn rành mạch. Ba Thu hỏi tôi rất nhiều về quá khứ học hành, về gia đình. Ông nâng chén trà lên nhấp giọng rồi nhìn tôi dịu dàng:
    - Hai bác biết chuyện của Thu và con ngay từ ngày đầu khi Thu đưa những lá thư con viết cho anh bạn. Bác hiểu những khốn đốn con trải qua và hết sức vui khi thấy con còn tin vào tình người. Hai bác đã lớn tuổi, sống qua đủ mọi biến đổi của đất nước. Bây giờ vào lúc cuối đời lại phải nhìn những nghịch cảnh đau thương. Hai bác buồn chán lắm nhưng biết sao.

    Tôi ngồi im nghe. Giọng ông đều đều, rõ ràng nhưng đầy ngậm ngùi, không phải chỉ cho ông, cho tôi mà như cho tất cả mọi người. Bà má ngồi cạnh đó nhỏ nhẹ:
    - Con đừng ngạc nhiên. Gia đình hai bác cởi mở và con cái bao giờ cũng trình thưa mọi chuyện dù là riêng tư. Khi Thu ngỏ ý đi thăm nuôi con, hai bác đồng ý liền. Ngay cả một lần đi thăm nuôi con về, Thu nó khác hẳn, lúng túng và khi hai mẹ con nói chuyện, Thu cho hay con hỏi nó làm vợ.

    Tôi ngồi đó sượng trân nhìn Thu. Nàng cũng hơi đỏ mặt nhưng tủm tỉm cười. Tôi thu hết can đảm nói:
    - Hai bác hiểu cho hoàn cảnh của con. Sống trong tù, con không ao ước gì hơn là một mái ấm gia đình, yêu thương và được yêu thương.
    - Bác hiểu nhưng Thu là con gái lớn nhất. Cha mẹ nào cũng muốn con hạnh phúc. Lúc đó bác lo sợ vô cùng. Nhưng thôi, bây giờ khác, con cứ lại chơi với gia đình. Chuyện của hai đứa âu cũng là trời định. Các con cứ tìm hiểu nhau ít lâu. Bác nói thật, con đừng buồn. Hai bác lo sợ tuổi tác chênh lệch, biết đâu chỉ là bồng bột. Bởi vậy hai con nên suy nghĩ cho kỹ.

    Khi ba má Thu rút vào phía trong, tôi và Thu ra vườn ngồi dưới gốc cây ổi.
    - Anh thấy ba má dễ chịu không?
    - Không những dễ chịu mà còn dễ thương nữa, chỉ sợ ba má chê anh già, chê anh không xứng với Thu.
    - Em đâu thấy anh già.

    Tôi xoay người sang ôm Thu. Trong bóng đêm tôi nhìn vào mắt nàng, đôi mắt long lanh, sâu thẳm. Chúng tôi hôn nhau, rồi ngồi đó tay trong tay. Tôi hát bài hát của ngày xưa “May mà có em đời còn dễ thương…”

    Tình yêu cho thêm sức sống. Tình yêu giúp người ta vượt mọi sự. Tôi trở nên lạc quan hơn.

    Giữa lúc đó tôi nhận được điện tín của gia đình ngắn và gọn: “ĐỂ VIỆC BẢO LÃNH ĐOÀN TỤ DỄ DÀNG KHOAN LẬP GIA ĐÌNH.” Đây là một ngạc nhiên lớn vì tôi chưa viết thư cho gia đình về chuyện tôi và Thu. Tôi hỏi chú dì thì được biết chưa ai kể chuyện này cho bên Mỹ cả. Ngoài cái điện tín tôi cũng nhận được bản sao giấy tờ đủ loại liên hệ đến chuyện gia đình tôi bảo lãnh, trong đó có cả những giấy của một số cơ quan công quyền Hoa Kỳ. Ông bạn Sam Graves của tôi cũng có thư cho hay đã vận động những cơ quan có thẩm quyền cao nhất để giúp tôi đi Mỹ càng sớm càng tốt.

    Cầm cái điện tín trong tay, đọc đi đọc lại, tôi nhớ đến khẩu hiệu Ba Khoan - Khoan yêu Khoan cưới Khoan đẻ. Nhưng đó là khẩu hiệu do Trung ương Đảng đề ra cho cán bộ đảng viên trong thời gian cầm súng.

    Từ lúc ra khỏi tù, tôi không tơ tưởng gì đến chuyện đi Mỹ bởi đối với tôi chuyện đó trở thành định mệnh. Tôi không tin số tôi có thể xuất ngoại. Lý do hơn nữa có lẽ vì Thu. Tôi đã đưa cho Thu tờ điện tín. Nàng đọc xong,im lặng. Tôi nói với Thu.
    - Anh đã xin cưới Thu ngay khi còn là một thằng tù. Nay anh ra khỏi trại, anh lập lại với Thu. Anh muốn cùng Thu lập gia đình.
    - Thế còn ba má ở bên Mỹ. Còn chuyện bảo lãnh?
    - Ở Việt Nam có Thu. Anh không đi đâu cả.
    - Ai cũng muốn đi Mỹ.
    - Anh chỉ muốn ở cạnh Thu. Ngày mai anh sẽ xuống thưa ba má, mình làm đám cưới càng sớm càng tốt.
    - Lấy em bỏ vụ đi Mỹ à nhe.
    - Không những chỉ lấy em mà mình sẽ có cả đàn con. Khỏi đi đâu hết.
    - Người ta bảo “cột đèn biết đi cũng vượt biên”, em thấy đâu đâu cũng toàn nói chuyện đi nước ngoài.
    - Anh là cột đèn bị chôn sâu ở đất này. Thu là cái đèn soi sáng suốt đời anh.
    - Bắc Kỳ ăn nói trơn tuột.
    - Nam Kỳ dễ thương.

    Tôi viết một thư dài cho bố mẹ và các em, gửi kèm hình ảnh của Thu và tôi. Một bức điện tín nữa viết: ĐỒNG Ý ĐÁM CƯỚI, CỐ GIỮ ĐỪNG CÓ CON ĐỂ BẢO LÃNH DỄ DÀNG. Tôi đọc xong vò bức điện tín vứt vào sọt rác và không nói gì với Thu.
    Đúng lúc đó chú dì và Quyền em tôi có giấy tờ đi Mỹ. Vụ hộ khẩu của tôi trở nên gay go hơn. Sở nhà đất và công an phường viện đủ lý do tạo sức ép để rồi chú dì phải ký giấy hiến nhà cho nhà nước. Bà dì tôi cáu kỉnh:
    - Chúng nó nhân nghĩa để bà Tú Đễ, bắt ký giấy hiến nhà mà còn đạo đức giả nói Nhà Nước chỉ giữ hộ, tạm quản lý khi nào ông bà sống ở Mỹ không nổi, về đây Nhà Nước trả lại.

    Mất nhà thì tôi ở đâu? Trong cái hệ thống tham nhũng công khai từ trên xuống dưới tôi trở thành khúc xương khó nuốt. Bọn chúng muốn chiếm nhà nhưng trên một khía cạnh nào đó, tôi vẫn là người hợp pháp được quyền trú ngụ ở căn nhà này. Viên công an nói với tôi:
    - Anh nên nhớ anh vẫn thuộc quyền quản lý của địa phương.
    - Thưa cán bộ tôi biết nhưng trong sổ gia đình từ xưa đến giờ vẫn có tên và giấy ra trại cũng ghi rõ tôi về địa chỉ này.
    - Anh thuộc thành phần ăn bám vào xã hội. Tôi đề nghị anh nên đi kinh tế mới.

    Tôi im nhưng nhất định lỳ lợm cho đến hôm cuối thì công an nhượng bộ.
    - Thôi được, Nhà Nước đồng ý cho anh ở lại địa phương này. Anh thuộc thành phần quản lý của phường. Tôi cho anh đi kiếm chỗ ở trong phường và đồng ý cho anh nhập hộ khẩu.

    Khi ở tù, tôi không chú ý lắm nhưng khi ra ngoài, tôi thấy mình đối diện với một khuôn mặt vô hình, một bóng đen trùm ngợp lúc nào cũng muốn đè tôi xuống, lúc nào cũng sẵn sàng bóp nghẹt tôi. Những từ ngữ Nhân Dân, Tổ Quốc, Nhà Nước, Đảng và Xã Hội Chủ nghĩa luôn luôn trở thành chủ từ để nói với người dân. Không ai biết những thứ đó ở đâu, là ai bởi đó là Tập Thể. Một công an viên dấm dớ có thể nhân danh Chế Độ, nhân danh Nhân Dân để đày đọa đối tượng cần trấn áp hay để moi tiền, sang đoạt tài sản và cả những lúc cần ban ân huệ.

    Viên công an đã nhân danh Nhà Nước để cho tôi nhập hộ khẩu ở Sài Gòn. Tôi thu xếp ở nhờ một gia đình người quen. Chính thức tôi không có công ăn việc làm nhưng thực tế tôi xoay sở làm đủ thứ việc. Tôi lăn vào giữa đời, đi buôn chợ trời, buôn từ viên thuốc trụ sinh cho tới vài thước vải, dăm hộp sữa. Tôi mua hàng ở đầu đường này bán hàng ở cuối đường kia. Tôi làm môi giới bán đồ cổ, đủ thứ từ choé cổ đời Khang Hi, Càn Long cho đến những của “gia bảo” như vòng ngọc, tượng đồng đen. Xin nói rõ tôi chả biết giá trị đích thực của các món đồ nhưng trong xã hội Việt Nam lúc này, giả và thực làm sao phân biệt. Dân, nhất là cán bộ miền Bắc nhiều tiền không thể tả, hẳn là tiền thu nhặt được từ Miền Nam. Cái gì họ cũng mua và cái gì càng nhỏ càng dễ giấu càng quí. Một lần tôi dược nhờ bán một viên ngọc Huyền Thiết. Đó là một miếng đá mầu đen lớn cỡ hai con tem và dày cỡ nửa bao diêm. Người bán bảo nó là ngọc Huyền Thiết – nôm na là sắt đen – quí và hiếm có một không hai, vốn là của Vua Tự Đức. Ông Vua này bẩm sinh yếu đuối bệnh hoạn, phải đeo ngọc này để kỵ phong kỵ hàn và có đủ sức khoẻ để hưởng tam cung lục viện. Tôi nghe để mà nghe nhưng rùng mình khi biết giá 40 cây vàng. Một lạng vàng lúc này là một gia sản. Tôi cũng đi rao tứ phía với các tay chạy hàng. Điều mà tôi không bao giờ tưởng đã xảy đến. Có người mua thật. Qua hai ba trung gian nữa, viên ngọc nghe nói được bán cho bà vợ ông Lê Duẩn với giá 50 lượng vàng. Đó là lần tôi trúng mánh lớn nhất, huê hồng tới một cây vàng.

    Thu thì lắc đầu. Nàng không chấp nhận kiểu làm ăn này nhưng chúng tôi cũng chưa biết phải làm gì hơn.

    Ngày ngày tôi đứng chờ Thu tan sở. Hai đứa lang thang đi ăn đủ chỗ. Sài Gòn nay đi hai bước là có chỗ ăn. Lề đường hễ có chỗ trống là có quán. Đủ thứ quán. Tạt vào đâu cũng có thể có một tô bún, một tô cháo . Quán cà phê và quán nhậu còn nhiều nữa. Tôi không hiểu tại sao thiên hạ ăn nhậu dữ vậy. Thu có vẻ hiểu biết hơn:
    - Có ai có việc làm tử tế đâu, toàn buôn chợ trời buôn đồ ngoại. Rảnh quá chỉ ăn nhậu tối ngày. Anh không thấy ai cũng uống rượu đế à?

    Cuối tuần tôi gần như ở Bà Quẹo suốt ngày. Gia đình Thu coi tôi như rể, như người trong gia đình.
    Bốn tháng sau khi ra trại, chúng tôi thành hôn. Tôi đề nghị ông Trung và ông Vận làm phù rể. Mới đầu Thu ngần ngừ nói rằng hai ông bạn tôi đều đã có gia đình và nhất là ông Trung lại chống nạng e kỳ quá, còn ông Vận thì hom hem dễ sợ. Không hom hem sao được sau những gì ông Vận trải qua. Cựu Trung Úy Vận đặc trách truyền tin ở Đồng Xoài đã rớm nước mắt khi hai đứa tôi gặp lại nhau lần đầu và tôi kể rõ về cái chết của Hoàng. Ông Vân bao giờ cũng vậy, ôn tồn cam chịu:
    - Bà già moa mất rồi. Đến lúc chết bà vẫn tin thằng Hoàng còn sống. Khi toa và ông Hùng rút đi chừng mươi phút sau thì tụi nó tràn vào như kiến. Moa vẫn nằm trên chiếc băng ca, cả người băng bó, máu me tùm lum. Miểng 82 dính đầy người mà sao moa không bị gãy xương bể gáo mới là lạ. Một tên cán bộ nhìn moa và phán “khênh cái thằng này đi”. Tên cán bộ nhíu mày không nói gì và hai người lính cúi xuống mỗi người một đầu khênh moa ra khỏi tiểu khu. Lúc đó tiếng súng vẫn đì đẹt nhưng chẳng ai hỏi han cản trở gì cả. Moa vẫn nhớ ơn hai người lính và liên lạc với họ đều đều. Đó là ông Tám và ông Sang, hai người nghĩa quân. Họ đem moa về nhà rồi chính họ lo lắng chăm sóc cho moa đến tận ngày 30 tháng Tư.

    Ông Vận không kể nhiều hơn, nhưng tôi thấm tận tâm can. Có lẽ quốc gia và cộng sản chỉ khác nhau duy nhất tình người. Ông Vận bị cải tạo bốn năm nhưng may không phải ra Bắc. Tôi nói với Thu chỉ muốn những người thực sự chia sẻ cuộc đời lính tráng xa xưa nay ở cùng bên tôi trong giờ phút trọng đại của đời tôi.
    Cuối cùng nàng đồng ý.

    Gia đình tôi nay ở Việt Nam chỉ còn bác Chuyên và bà chị gái góa chồng nên họ nhà trai rất ít người. Đám cưới dù giản dị nhưng vui. Không ai thấy cảnh ông phù rể Trung chống nạng tập tễnh là kỳ dị. Không ai thấy ông Vận hom hem là xấu cả. Bởi mọi người đều biết họ là ai, đều biết ba đứa tôi đã cùng sát cánh vào lúc thập tử nhất sinh trong ngày cuối của Đồng Xoài.

    Cô dâu tươi cười. Chú rể thì rõ ràng đang hạnh phúc. Mọi người vui tíu tít. Khi lễ gia tiên, tôi nói khẽ với Thu: “Fleur de Racaille” thì nàng cười bảo nhỏ:
    - Em đợi đến hôm nay mới xài.

    Một cái gì dâng lên trong tôi. Tôi như người khác. Tôi nhìn đâu cũng chỉ có Thu. Tôi đi đâu, làm gì cũng chỉ nghĩ đến vợ.

    o O o

    Tôi đi tới đi lui trước cái tiệm bé tí bày đủ thứ máy. Phải nói ngay gần như tất cả đều là máy cũ nhưng rất tốt. Từ những thứ rẻ tiền như Kodak cho đến loại đắt vô cùng như Leica, hay Hasselblass

    Tôi nhớ ngay cái phòng tối dã chiến của bố tôi ở Hà Nội. Bố quây quanh chân bàn thờ gia tiên bằng vải đen để có phòng tối nhưng mỗi lần rửa hình ông cụ còn cẩn thận đóng hết cửa lại cho thật tối, ánh sáng không lọt vào.

    Lúc đó, tôi học lớp Nhì thì phải, vẫn hay chui vào trong ngồi nhìn ông pha thuốc, nhìn những tấm hình từ từ hiện ra trong cái khay nông đựng nước hóa học màu nhờ nhờ. Tôi đã cầm những tấm ảnh còn ướt sũng đem trải ra nơi một tấm kính để chờ cho khô. Phải chăng bắt đầu từ cái gầm bàn thờ tối om đó, tôi đã được bố tôi nhen nhúm nỗi đam mê nhiếp ảnh. Ông cụ ngay cả sau này vào Sài Gòn vì làm việc cho USIS nên vẫn dính líu đến phim ảnh. Bố đã đóng góp rất nhiều trong các phim Chúng Tôi Muốn Sống và Đất Lành…Cũng như nhiều phim thời sự của VNCH thời ông Diệm vẫn được chiếu trong các rạp chớp bóng trước khi đi vào tuồng chính.

    Vì vậy tôi bắt đầu cầm máy sớm. Khi còn là sinh viên, tôi theo học khóa đào tạo nhiếp ảnh viên tài tử của Hội Nhiếp Ảnh Việt Nam tổ chức ở Hội Việt Mỹ với các bậc thầy như Cao Lĩnh, Nguyễn Ngọc Hạnh, Cao Đàm, Mạnh Đan… Tôi đã tí toáy gửi ảnh tham dự các cuộc thi và ảnh đã được triển lãm cũng như đôi lần được giấy khen, được giải khuyến khích.

    Khi ở trong quân ngũ, lúc nào tôi cũng thủ một chiếc máy hình. Hơn mười năm qua tôi không tơ tưởng đến chuyện cầm máy nữa. Nay tôi là công nhân chuyên súc, rửa chai lọ cũ trong một hãng. Đây là một ân huệ lớn của các ông thuộc Sở Nhà Đất và Công An Phường. Họ đã bố trí cho tôi làm công nhân ở đây để có thể êm xuôi vụ bắt chú Trung hiến nhà. Tôi đã trở thành một người gương mẫu của chế độ, có đóng góp lao động và được hộ khẩu hợp pháp để mua nhu yếu phẩm.

    Sau đám cưới, và nhất là sau khi được làm việc ở công ty rửa chai lọ, tôi coi như tạm yên. Tôi đi làm để mà đi làm bởi vì lương công nhân có lẽ chỉ vừa đủ để mua gạo cho hai đứa. May là gia đình bên Mỹ vẫn chu cấp đều nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào. Tôi có cảm giác hồi phục trở lại. Sau những năm dài cô quạnh trong tù, sau những lao đao của kiếp người, tôi đã đi tìm được bình yên. Tôi được yêu thương, được ông bà nhạc coi tôi như con đẻ, đối xử với tôi như đứa anh cả trong nhà. Lũ em Thu quấn lấy tôi và nhất là tối tối tôi vẫn kèm bài vở cho tụi nó.

    Thu hiền và dịu dàng. Thu trong sáng lúc nào cũng lo cho tôi. Tôi đang có một mái ấm gia đình.
    Khi đứa con đầu biết bò, tôi muốn có hình chụp để gửi cho ông bà nội nó. Ông thợ chụp hình sau một hồi đắn đo, đồng ý đến tận nhà chụp nhưng đòi một khoản tiền lớn làm tôi khựng lại. Ông ta kể tràng giang đại hải rằng thuốc rửa rất đắt, phim khan hiếm. Ông ta cũng ra điều kiện là phải chụp nguyên cả cuộn thì mới bõ công đến nhà. Tôi nhẩm tính vào thấy nếu tôi có máy thì rẻ hơn nhiều. Bàn đi bàn lại, Thu đồng ý là nên có một chiếc máy chụp hình.

    Mấy ngày qua tôi mò mẫm đi tìm một cái máy rẻ rẻ một chút. Thật ra máy ảnh bây giờ không quá đắt có lẽ vì chẳng ai có thì giờ tiền bạc để phí phạm vào nhiếp ảnh. Nó phù phiếm. Nó không thực tế. Những chổ bán máy hình không còn nhan nhản như trước 1975 và tất cả máy bày bán đều là máy cũ nhưng còn rất tốt, nhất là so với giá ngày xưa thì rất rẻ. Tôi loay hoay. Tôi đắn đo. Mua máy loại bết quá thì không có đủ những căn bản kỹ thuật như độ nhạy độ mở…Cuối cùng tôi cắn răng mua cái Nikon F3 ống kính normal.
    o O o
    Thỉnh thoảng Việt Nam cũng có những cuộc thi nhiếp ảnh. Một hôm vợ tôi về bảo tôi:
    - Em vừa phải đi dự một vụ triển lãm nghệ thuật. Mấy tấm hình anh chụp đẹp hơn nhiều, sao anh không gửi dự thi.

    Tôi cười ngất vì quả thật tôi không có ý định dự thi, đoạt giải. Sinh hoạt xã hội gần như xa lạ với tôi. Tôi chỉ biết cặm cụi ngày ngày rửa chai lọ, sắp vào những thùng lớn để ngày ngày công ty đem đi phân phối. Đủ thứ chai, thứ lọ được thu hồi bằng nhiều ngả, nhiều ngách, từ những người lượm chai cho đến những chai lọ được đem đổi như chai bia “33” chẳng hạn. Ngày đánh nhau với chai lọ, tối về vui với gia đình. Tôi cũng gần như không có bạn bè ngoài gia đình Trung. Tôi bỏ nhậu nhẹt vì không còn thích nữa một phần, phần khác là tiền bạc. Chiếc máy hình là trò vui duy nhất và tôi chỉ chụp Thu, chụp con cái và cảnh chung quanh nhà. Tôi rửa hình lấy nên tổn phí chẳng đáng bao nhiêu. Khi nghe Thu khuyến khích tôi cười:
    - Ờ để coi. Nhung giải thưởng bằng tiền mặt mới gửi à nhe.

    Hai vợ chồng tôi cùng cười về viễn ảnh kiếm tiền bằng ảnh nghệ thuật.
    Vậy mà tôi đoạt giải thật, một lúc tới hai giải. Giải đầu là cuộc thi toàn quốc có trên 1000 ảnh gửi dự.
    Bức tôi chụp hai đứa con ngồi cạnh nhau được chấm nhất, ngoài bằng khen và huy chương tôi còn nhận được một triệu đồng. Bức thứ hai cũng chụp hai đứa nhỏ được giải nhất trong cuộc thi nhiếp ảnh vùng Thái Bình Dương. Tôi không dám ký tên Đỗ Lệnh Dũng mà dùng tên con gái. Thiên hạ bắt đầu để ý đến nhiếp ảnh gia Mai Uyên.

    Một ký giả của tờ báo Tân Gia Ba đến thăm Việt Nam viết bài và cần có hình ảnh đăng kèm. Ông ta tìm tới tôi nhờ giúp. Tôi không rõ tờ báo đó đã sử dụng bao nhiêu tấm hình, chỉ biết tôi kiếm được một số tiền quá lớn ngoài sức tưởng tượng khi mà lợi tức trung bình của dân Việt chưa tới 300 đô, tôi chỉ tốn chưa đầy 2 đô la vốn liếng và vài ngày làm việc mà kiếm tới 250 đô la thì quả là ghê gớm.
    Thành quả đầu tiên trong đời cầm máy khiến tôi chú trọng hơn đến ý nghĩ trở thành một nhiếp ảnh gia nhà nghề.

    Tình trạng kinh tế của Việt Nam vào thời điểm những năm cuối thập niên 80 chưa có gì khả quan nếu không nói là tồi tệ. Đâu đó tôi đọc thống kê của các cơ quan như Lương Nông Quốc Tế hay Ngân Hàng Thế Giới thì Việt Nam vẫn bị liệt vào nước nghèo nhất thế giới. Lương cán bộ công nhân là lương chết đói và trong bối cảnh đó thiên hạ tìm những nguồn lợi phụ nhưng đôi khi lại lớn hơn gấp nhiều lần như tham nhũng hối lộ, như buôn lậu.

    Hình như cả Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung thoi thóp được là nhờ những thùng quà và tiền từ ngoại quốc gửi về. Mọi thứ càng ngày càng khan hiếm sau hơn mười năm ngưng tiếng súng. Mọi thứ ngày xưa tìm đâu cũng có nay trở thành quí hiếm. Thuốc và giấy rửa hình là thí dụ. Nó biến mất nhưng chỉ là bề mặt, nếu có móc nối, có tuy-ô thì vẫn tìm ra nhưng rất đắt.
    Trong cái mơ mộng trở thành nhiếp ảnh gia nhà nghề, tôi cố trang bị thêm một ống kính 105 mm, một ống kính Wide-angle và cũng lập được một phòng tối dã chiến tạm dùng đủ. Điều may mắn là các hãng ngoại quốc -trừ Mỹ vì vẫn còn cấm vận – đang mon men nhảy vào khai thác thị trường Việt Nam. Họ vào là để hành sử theo đúng kinh tế thị trường là phải quảng cáo, giới thiệu món hàng trước. Một trong những đòn họ tung ra là bảo trợ các cuộc thi. Đủ mọi hình thái từ thể thao đến hội họa, từ văn chương đến nhiếp ảnh. Tôi dự tất cả những cuộc thi ảnh và như lần nào cũng hoặc chiếm giải hoặc ảnh được trưng bày. Điều may mắn hơn là những báo Tuổi Trẻ, Lao động đều đăng ảnh của Mai Uyên.

    Khi sở Du Lịch đưa ra kế hoạch quảng cáo du lịch, họ cần một nhiếp ảnh và theo như sau này tôi nghe thuật lại thì người phó giám đốc đã nhớ đến tên tôi vì đọc báo Tuổi Trẻ.

    Khi Sở Du Lịch muốn tuyển nhiếp ảnh gia Mai Uyên, nhưng khi biết rõ tôi là sĩ quan Ngụy bị bắt tại chiến trường, bị tù dài dài và nhất là gia đình bố mẹ anh em đều ở Mỹ thì “coi bộ căng lắm”. Tôi khai có vợ cũng đang làm công nhân viên cho Sở Du Lịch thì mọi sự “bớt căng” đi một chút. Cuối cùng họ đồng ý mướn tôi theo từng kế hoạch, có nghĩa giản dị khi nào cần thì gọi. Tôi cũng thích như vậy hơn vì được rộng cẳng, không phải trói buộc với thủ tục hành chính lỉnh kỉnh, không phải chung đụng hàng ngày với công nhân viên cán bộ nhà nước và nhất là không phải đối phó với những tranh quyền đoạt lợi ở sở.

    Khi tôi được biết là sẽ chịu trách nhiệm “bố trí một đội ngũ” nhiếp ảnh gia “có tay nghề cao và vững” để đi chụp thắng cảnh từ Nam ra Bắc, tôi thực sự xúc động bồi hồi dù viễn ảnh phải xa vợ con cả tháng có làm tôi thực sự băn khoăn. Nhưng cái ước mơ tự thủa thiếu thời nay bừng dậy trong tôi. Tôi ước mơ được thấy Hồ Ba Bể, ChùaTây Phương. Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được xuống Thới Bình, Cà mau để nhìn những rặng dừa nước, cánh đồng Nọc Nạn, thăm Thất Sơn. Rồi còn Đèo Cả, Đèo Ngang. Rồi còn những cái tên tôi nghe từ thủa lọt lòng như núi Ba Vì, như Cha Pa.

    Phải chăng khi tôi quyết định lập gia đình với Thu và vun vén cái tiểu gia đình mà tôi coi như mạng sống của mình, phải chăng khi lờ đi cái viễn ảnh Mỹ, còn có một lý do thầm kín khác ngấm ngầm trong tôi? Tôi yêu đất nước và tôi muốn đặt chân lên mọi nẻo đường Nam Bắc, tôi muốn thực sự nhìn thấy quê hương và đó là một trong những lý do khiến tôi không để ý gì đến vụ bảo lãnh? Tôi tâm sự với Thu điều này. Thu dịu dàng:
    - Anh phải nhận đừng để lỡ cơ hội. Đừng lo cho em và các con vì ông ngoại bà ngoại và cậu dì ở trong nhà. Không phải lúc nào anh cũng có dịp đi một vòng Nam Bắc đâu. Nhớ là phải viết Nhật ký để em đọc và đừng mê gái Hà Nội là được.

    Kế hoạch của Sở Du Lịch rất rõ ràng. Ảnh do đoàn công tác chụp sẽ được đem triển lãm ở các quốc gia khác trong nỗ lực quảng cáo nét đẹp của Việt Nam để giúp phát triển du lịch.

    Tôi đề nghị và được chấp thuận danh sách có các tay nhiếp ảnh hạng nhất của Việt Nam: Cao Đàm, Trà Hoa Nữ, và hai người con của Cao Đàm là những người đang được chú ý như những ngôi sao của thế hệ đang lên.

    Tôi đã chìm mình trong sương mù Cha Pa, đã ngẩn người nhìn tượng La Hán trong Chùa Tây Phương, đã chua xót nhìn Lăng Khải Định với kiến trúc ngô nghê, đã dầm mình trong Thác Bản Dốc. Núi cao trùng điệp, sông dài mênh mông của đất nước từ Nam ra Bắc khiến tôi thực sự khám phá ra mối liên hệ giữa người và thiên nhiên, giữa một cá nhân và dân tộc.

    Chính nhờ cơ hội này mà tôi được nghe và đến tận nơi những địa danh như Cù Mông, Thạch Hãn, Cổ Loa, Đèo Ngang, Đèo Cả… Làm sao tôi kể hết ra được những nỗi xúc động khi đối diện với âm vang dội lại của cả một quá trình lịch sử dân tộc.

    Đất nước mình đẹp quá. Lịch sử dân tộc có một bề dày với lịch sử Hán tộc. Dân mình hiền lành thông minh và cần cù.
    Tôi không thể nào kể hết được những tình cảm dấy lên trong tôi ở mỗi nơi, từ cái giếng đến đến những cảnh chùa, nơi đâu cũng đều mang chứng tích của lịch sử.

    Lớp sóng phế hưng đã phủ lên những danh tích như từ những mảnh vụn của đời sống, của cảnh vật, đâu đó tôi vẫn lờ mờ nhận ra gốc rễ của mình.

    Thành Cổ Loa đã không còn nữa nhưng thật khó ngăn nổi những bồi hồi khi cầm trên tay mũi tên bằng sắt nay đã gỉ, lớp hoen ăn sâu vào trong và mũi không còn sắc như xưa. Câu chuyện Thần Kim Qui và chiếc Nỏ Thần chắc chỉ là huyền thoại nhưng chắc chắn đạo quân An Dương Vương đã trang bị cung tên rất hùng hậu mới chống trả được Triệu Đà. Tôi đã tần ngần khi thấy một rổ lớn những mũi tên được thu lượm. Nó là chứng tích của lịch sử. Lồng trong đó là truyện tình đẫm nước mắt Trọng Thủy Mỵ Châu. Nước trong cái giếng sấu thăm thẳm đó có thật sự rửa sáng những viên ngọc trai chăng? Tôi ngờ là không nhưng khi đứng nhìn vào lòng giếng, ít ai cầm nổi xúc động.
    Rồi còn trụ đồng Mã Viện. Nó tượng trưng cho sức đề kháng của dân Nam trước áp lực Bắc phương. Mã Viện đã là thủ phạm vụ tịch thu trống đồng đem về Tàu nấu chảy đúc tiền và làm trụ đồng để yểm dân Nam. Không còn dấu tích trong cái vụ với lời yểm “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nhưng họa Bắc Phương vẫn còn đó. Thác Bản Dốc đẹp vô cùng, đúng là một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn. Tôi đã chụp rất nhiều ảnh nơi đây.

    Tôi cũng đã trở lại Hà Nội của thời thơ ấu. Suốt mấy ngày một nỗi buồn day dứt ẩn hiện không lúc nào nguôi. Người dân Hà Nội của 1954 nay đâu mất. Hà Nội vẫn là thủ đô nhưng không còn vẻ thanh lịch ba sáu phố phường của Thăng Long. Nay là những lời nói sỗ sàng, là thái độ sẵn sàng ăn thua đủ, là những sống sượng đến phát lợm giọng. Nhà cửa vẫn tiêu điều dù tiếng súng đã ngưng trên một chục năm. Những mái ngói thấp lụp sụp xiêu lệch. Những mảng tường long lở và những cánh cửa gỗ mở ra, phía trong tối om. Lòng mong mỏi, nỗi háo hức của tôi khi vượt cầu Long Biên đã nhường cho nỗi ngán ngẩm của thực tế.

    Nếp sống Bắc Nam thật khác. Khi tôi chụp hình một bà già ngồi ăn xin ở cổng chùa Thầy, lập tức hai ba viên công an ập đến.
    - Anh định bêu xấu xã hội chủ nghĩa hay sao mà chụp ăn mày?

    Họ đòi dẫn tôi vào trụ sở công an, đòi tịch thu phim và cả máy hình. Tôi cố giảng giải cho họ cái khía cạnh đẹp khi sự việc được lọc qua ống kính, họ mắng tôi là ngụy biện. Cùng đi để canh chừng và giám sát tụi tôi có viên Phó Giám Đốc Sở Du Lịch và ông này chắc chắn là công an cỡ bự, ông ta xuất trình giấy tờ đủ thứ họ mới tha cho tôi. Khi ở Rạch Giá, tôi chụp cảnh mấy đứa nhỏ gầy guộc xanh xao đang tắm trong một vũng nước thì chẳng ai để ý và viên công an áo vàng còn cười:
    - Chụp làm chi mấy đứa nhỏ ở truồng?

    Đây cũng là một cơ hội lớn cho tôi vì cũng được cầm máy với hai nhiếp ảnh gia đầy tay nghề là Cao Đàm và Trà Hoa Nữ. Từ họ, tôi học được rất nhiều về nhiếp ảnh. Nhưng có lẽ lời khuyên lớn nhất của ông Đàm “Ống kính là vật vô hồn. Mình có để hồn mình vô đó thì mới có tấm ảnh đẹp, mới đem lại sức sống cho ảnh, tránh nhàm chán, lập lại. Muốn thế phải mở to con mắt ra nhìn sao cho tìm được nét riêng do mình tạo ra.”

    Toàn bộ tập ảnh được Sở Du Lịch in ra và đem đi triển lãm ở nhiều nơi để giới thiệu du lịch. Tôi thực sự không hiểu là ở những đâu vì đó không phải là điều đáng để ý. Điều đáng quý nhất là tôi đã được đi, được nhìn và cá nhân tôi, tôi cũng đã giữ được một bộ ảnh khá đồ sộ.

    Tôi bảo Thu khi hai đứa ngồi nhìn ảnh:
    - Đây là tài sản quý nhất anh để lại cho em và các con.

    o O o

    “Bây giờ con đã có gia đình, đã có con cái nên con sẽ thông cảm với bố mẹ nhiều hơn. Mẹ vẫn cằn nhằn bố từ bao nhiêu năm qua vì đã không nỗ lực vận động xin xỏ để con đi cùng gia đình hồi 1964. Bố cũng đã suy nghĩ rất nhiều và đã có nhiều đêm không ngủ vì câu hỏi đặt ra. Liệu cái quyết định để con lại Việt Nam hồi đó có thuận lý hay chăng?

    Bây giờ sau bao nhiêu năm trời, cái quyết định vào lúc này không phải là ở bố mẹ nữa mà là của chính con – đúng ra phải nói là của vợ chồng con. Bố chỉ muốn con chiêm nghiệm cái tình phụ tử của con đối với hai đứa cháu nội của bố. Lòng yêu thương của cha mẹ đối với con cái khó có thể đo lường so sánh được. Cái day dứt từ bao năm qua vẫn còn nguyên nơi bố mẹ. Bố chỉ mong con vì bố mẹ và hơn nữa vì tương lai của hai đứa nhỏ, sớm lo thủ tục để có thể nhập cảnh Hoa Kỳ. Bố mẹ đã làm hết sức. Ông Sam Grave cũng làm hết sức. Theo chỗ bố hiểu, Sở Di Trú Mỹ đã chấp nhận trường hợp của con…”

    Ít khi bố tôi viết thư và nếu có thì cũng chỉ vài hàng ngắn. Đây là lần đầu ông cụ viết một lá thư dài “tâm sự” với tôi về chuyện xảy ra từ bao năm trước.

    Thú thật ngay sau khi xảy ra vụ vì thuộc tài nguyên quốc gia, ở tuổi động viên, tôi phải ở lại Việt Nam, tôi có cáu kỉnh bực dọc nhưng có lẽ vì còn trẻ quá, tôi quên đi rất nhanh. Đời đẹp quá, ở Việt Nam hay Mỹ có khác gì nhau? Tôi có mọi thứ ở đây. Bạn bè, gia đình chú dì, và Dung. Cuộc sống theo đó cuốn tôi theo vận mệnh của miền Nam. Cơn lốc dữ của dân tộc đã đẩy cá nhân tôi vào những vòng xoáy lớn khiến tôi không còn thì giờ ngoái cổ lại mà thương tiếc dĩ vãng hay suy nghĩ về một sự việc để đặt câu hỏi “giá mà thế này, giá mà thế khác”

    Sau bao nhiêu biến đổi, nay tôi đã định lại được, đã có một gia đình nhỏ, đời sống vật chất chẳng thể hơn ai nhưng cũng không đến nỗi phải than phiền. Tôi có tình yêu thương tràn trề của người vợ lúc nào cũng cười vui, cũng chiều chuộng. Tôi có một đứa con gái rất xinh, một đứa con trai rất ngoan. Có nên đánh đổi cái an bình này để đi Mỹ, để bắt lại từ đầu?

    Ngay khi tôi ra khỏi tù, điện tín của bố mẹ là một thông điệp rõ ràng. Mọi sự xếp sang một bên lo đi Mỹ càng sớm càng tốt. Tiếp theo đó, tôi nhận đủ thứ giấy tờ từ những tờ giấy của nhà băng bảo đảm bố mẹ tôi có đủ tiền lo cho tôi, thư can thiệp của Thượng Nghị Sĩ Mỹ với Sở Di Trú yêu cầu Hoa Kỳ chấp nhận cho tôi dược nhập cư, cho đến cả thư của ông Phó Tống Thống Al Gore. Tôi biết ông bạn Sam Grave vẫn liên tục vận động cho tôi. Trong một thư, ông Sam viết:

    “Những gì tôi được biết cho thấy ở Việt Nam hiện vẫn còn rất nhiều khó khăn, Tôi tin rằng Hoa Kỳ sẽ cống hiến cho anh nhiều cơ hội hơn. Anh hãy tìm cách để qua sống ở nước này vì tương lai của anh, của gia đình anh, và nhất là của hai đứa con. Tôi tin rằng nền giáo dục của Hoa Kỳ sẽ giúp rất nhiều trong việc học hành của chúng nó…”

    Sau những đợt vượt biên, người dân Việt Nam nay nói đến HO, đến đoàn tụ gia đình. Tin tức từ bên ngoài cho thấy thuyền nhân nay bị xua đuổi, bị từ chối và cũng có rất nhiều tin nói có thể những người đang kẹt lại các trại tị nạn ở Thái Lan, ở Mã Lai, Nam Dương sẽ bị hồi hương. Vả lại, vượt biên ngoài chuyện có thể bị bắt, bị tịch thu gia sản, sống bơ vơ cầu bơ cầu bất, còn nạn hải tặc, nạn bị bão chết cả tàu, cả thuyền. Bây giờ là chuyện HO và đoàn tụ. Thiên hạ bàn tán đủ kiểu, theo dõi tin tức về vụ này và loan truyền về đủ mọi mánh khoé, mưu mẹo, giấy tờ để có thể thuộc diện HO, diện con lai, diện đoàn tụ. Phải nói đó là cơn sốt của Sài Gòn.

    Vợ chồng tôi cũng nói chuyện nhiều về vụ đi Mỹ. Thu rất thẳng thắn bảo nàng sợ đi Mỹ. Bố mẹ anh em Thu đều ở Sài Gòn. Cả đời nàng gắn bó với Sài Gòn. Sang đó nàng sẽ vô cùng cô đơn. Nhưng Thu bảo tùy tôi, đi đâu nàng cũng đi đó, vợ chồng sống chết có nhau, vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia.

    Tôi vẫn cứ dụ dự cho đến một hôm thấy đứa con trai đầu lòng hý hoáy vẽ. Tôi lẳng lặng đến phía sau cu cậu nhìn. Tôi giật bắn người. Con tôi đang vẽ hình ông Hồ Chí Minh. Đứa nhỏ ngoái lại nhìn bố, cười toe.
    - Ba. Cô giáo bảo vẽ Bác, đứa nào vẽ đẹp nhất được thưởng kẹo.

    Tôi cố dằn xuống để con tôi không thấy sự xúc động nơi tôi. Hình ảnh thiếu nhi khăn quàng đỏ “ôm hôn Bác thắm thiết” chợt hiện ra. Nếu con tôi cũng sẽ tôn thờ ông Hồ như nền giáo dục của chế độ cố uốn nắn thì sao? Tôi cố lấy giọng ngọt ngào bảo:
    - Con vẽ hình ba đi, ba cho nhiều kẹo hơn cô giáo.

    - Con phải vẽ hình bác chứ. Bác yêu nhi đồng lắm. Nhờ Bác mình mới thắng Pháp thắng Mỹ…
    Tối hôm đó tôi kể lại cho Thu. Hai vợ chồng ngao ngán nhìn nhau. Hai đứa nhỏ sẽ ra sao nếu được nhồi sọ kiểu này? Quyết định đi Mỹ trở nên dứt khoát hoàn toàn.

    o O o

    Khi tôi ôm hồ sơ vào để phòng vấn, mọi sự xảy ra êm xuôi, trừ một câu hỏi làm tôi suy nghĩ. Người Mỹ phỏng vấn tôi từ đầu vẫn nói chuyện qua một thông dịch viên dù ông ta biết tôi hiểu tiếng Mỹ. Khi xếp đống giấy tờ lỉnh kỉnh – mà có lẽ quan trọng nhất là cái giấy ra trại, cái bùa hộ mạng của dân HO – ông ta bỗng nói bằng tiếng Việt rất sõi:
    - Trường hợp của anh rõ rệt, lại có nhiều giấy tờ từ Mỹ bảo đảm, tại sao tới giờ anh mới lên gặp chúng tôi. Bộ anh không muốn đi Mỹ à?
    - Tôi cũng không biết phải giải thích như thế nào nữa. Nhưng bỏ quê cha đất tổ ra đi thì cũng cần suy nghĩ cho chín.

    Người phỏng vấn gật gù như học được một từ Việt Nam lạ tai:
    - Suy nghĩ cho chín. Lần đầu tiên tôi nghe tiếng này.
    - It’s an important decision
    - Indeed. It’s important decision.

    Khi gia đình tôi rời văn phòng ODP, tôi nhớ lại tòa nhà trắng cũ vẫn còn đó nhưng bỏ trống chơ vơ khác với hai lần trước tôi đến. Lịch sử đã lật qua trang và đang có tin Mỹ sẽ ủi sập cái bin-đinh đồ sộ đó để xây lại. Nhưng đó là phần của Mỹ. Phần của Việt Nam thì sao? Nhất là phần đời của những người người dân khốn cùng, của những kẻ đã chịu mọi hậu quả của súng đạn. Sau cuộc chiến, chuyện đổi thay nhưng vẫn còn nằm trong chờ đợi.

    Tối hôm đó, khi cả nhà đã ngủ yên, tôi lẳng lặng ra ngồi ở gốc cây mận. Chung quanh yên tĩnh lạ thường. Tôi ngửi thấy mùi đất ẩm trộn lẫn trong lá cây đang ải trong vườn. Đất ấm như đang dâng lên trong cái oi nắng còn lại sau một ngày mệt mỏi. Lòng tôi trống rỗng, như một hiếu vắng. Tôi không suy nghĩ được gì, ngồi đó nhìn vào cái mờ ảo của khu vườn lâu nay vẫn là nơi tôi lui về, trốn chạy trước những ồn ào của cuộc sống. Tôi biết chắc tôi sẽ mất cái khu vườn thương yêu này, nơi bố con tôi hay thong dong, hay cười đùa. Rồi còn lại những trái ổi, trái mận ngọt ngào, trái khế chua dôn dốt. Rộng hơn nữa là Sài Gòn, là Việt Nam. Nhưng tôi có muốn con tôi trở thành đối tượng của Đoàn, của Đảng? Tôi có muốn con tôi tôn thờ thần tượng Hồ Chí Minh? Đổi chác nào cũng có giá trị của nó. Tôi ý thức rõ điều đó và băn khoăn tự hỏi rồi mai mốt đây, trong quãng đời còn lại, liệu tôi sẽ giống như bố tôi, loay hoay suy nghĩ, tự dằn vặt về một quyết định liên quan đến con cái chăng? Tôi không rõ và câu trả lời chắc chắn sẽ có trong tương lai, không phải của vợ chồng tôi mà có lẽ của hai đứa nhỏ.

    Tôi quay vào nhìn con. Hai đứa nhỏ đã thiếp đi và lạy trời trong giấc ngủ chúng nó không mơ thấy Bác Hồ.

    o O o

    Suốt hơn ba tháng tôi không như còn là tôi nữa, lúc nào cũng thấp thỏm, lúc nào cũng đúng ngồi không yên. Mọi sinh hoạt cá nhân và gia đình đều quay quanh viễn ảnh sẽ rời khỏi Việt Nam. Tôi thăm hết người này đến người khác và điều đáng để ý nhất là mọi người đều chúc mừng tôi. Tôi không dám nói với ai về suy nghĩ của tôi vì có thể thiên hạ sẽ cho tôi là rởm, là làm bộ, hay hơn nữa là lên mặt đạo đức, yêu nước cái mẽ ngoài. Nhưng tại sao lại phải mừng rỡ khi rời quê hương bản quán, quê cha đất tổ. Cuộc đời tôi gần như gắn chặt với nhưng tang thương, những đen tối nhất trong lịch sử nhưng chính sự gắn bó lại khiến tôi day dứt. Dạo sau này lúc nào rảnh là tôi lại mò mẫm đọc lại lịch sử Việt Nam. Hồi bé tôi không có cơ hội để thực sự hiểu lịch sử dân tộc vì tôi được giáo dục trong một môi trường cách biệt với quảng đại quần chúng. Tôi nhớ và thương ông Mai Văn Khoa vô cùng bởi vì những gì ông nói với tôi về quá trình của dân tộc mình trong những ngày ở Phước Long. Từ đó lòng mong mỏi tìm hiểu đã thôi thúc tôi. Tôi đọc đi đọc lại sách của cụ Trần Trọng Kim. Tôi thủ kỹ cuốn Việt Nam Máu Lửa. Tôi mê ông Đào Duy Anh. Tôi đọc gần như nát cuốn của ông Lê Văn Siêu và Nguyễn Đăng Thục. Điều mà tôi cảm nhận lớn nhất là lòng yêu nơi chôn nhau cắt rốn, là sự gắn bó với làng với nước. Tôi ngẫm nghĩ về bài đọc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Cái ông già đi khắp nơi để rồi cuối cùng về nói với con cháu :
    - Quê hương là chốn đẹp hơn cả.

    Tôi đã quên hẳn Malraux, Gide hay những tác giả cổ điển như Molière hoặc tân thời sau này như Sagan. Tôi quay về với Bướm Trắng, với Hồn Bướm Mơ Tiên. Qua Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, tôi thương chị Dậu hoặc bất cứ phụ nữ Việt Nam nào mà Chị Dậu là điển hình. Một phần nào tôi hiểu cha tôi hơn qua Nguyễn Tuân, hiểu mẹ tôi qua Cô Mai trong Nửa Chừng Xuân. Tôi cũng yêu thơ của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng và cả thơ của ông thầy triết học Nguyên Sa.

    Sách vở miền Nam đã bị thiêu hủy, bị đốt từ sau năm 1975 nhưng nhờ lòng yêu quý sách vở của một số đông nên vẫn còn những cuốn được lưu truyền lén lút. Tôi đang ở trong trạng thái khám phá không những phía ngoài mà cả ở chính trong tôi qua văn học Việt Nam. Tôi tự nhủ tuy muộn nhưng chính từ sự muộn màng đó, tôi chiêm nghiệm được cái quá khứ nhỏ bé của tôi trong cái chúng lờn của dân mình. Đây có lẽ cũng là lý do khiến tôi chần chừ trong việc nộp đơn xin đi Mỹ.

    Nhưng rồi cái gì đến phải đến. Chỉ còn ít lâu nữa tôi sẽ rời Việt Nam, một chọn lựa tưởng như dễ dàng nhưng khi xảy ra không khỏi có những day dứt dằn vặt.

    Khi leo lên chiếc phi cơ ở Tân Sơn Nhất, tôi dắt Mai Uyên và nói nhỏ với nó:
    - Mai mốt lớn lên con phải nhớ con là người Việt Nam.

    Nó ngước mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi bỗng thấy câu nói của tôi nửa có tính cách cải lương, nửa dối trá với chính mình nhưng tận cùng là nỗi chua xót ngậm ngùi.

    o O o

    Chuyến bay vất vả, chuyển từ Vọng các tới San Fancisco rồi mới bay đi Hoa Thịnh Đốn. Vợ con tôi đờ đẫn có lẽ vì mệt, vì mất ngủ, vì không quen với đố ăn trên phi cơ và có thể cũng vì căng thẳng.

    Nhưng ở phi trường National Airport là cả một hội ngộ rất lớn. Bố mẹ con cái ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Bố tôi già hơn xưa nhưng vẫn tráng kiện. Ông ôm tôi nói nhỏ:
    - Cám ơn con đã đem vợ con con qua đây với bố mẹ.

    Nghe như một lời tạ lỗi làm tôi sững sờ. Mẹ tôi miệng thì cười tươi nhưng hai mắt đẫm lệ, hai tay ôm hai cháu. Mấy đứa em tôi quấn lấy Thu hỏi thăm. Sam Graves đứng cao vượt lên và khi bắt tay, ông nói với tôi:
    - Welcome. Welcome to America.

    Tôi biết cái chân tình của Sam đối với tôi. Ông đã xông vào mọi cửa, liên lạc mọi nơi để vận động cho tôi được Hoa Kỳ chấp nhận. Cảm động hơn nữa là ông đã bay lên tận Washington DC để đón tôi. Tình bằng hữu là một nối kết khi đã có thì mỗi ngày một thêm bền chặt.
    Khi về đến nhà lại là một đại tiệc. Đồ ăn thức uống ê hề. Người ngạc nhiên nhất có lẽ là Thu vì đủ thứ mà nàng không ngờ như bún, chả giò, bánh tôm và cả cà cuống nữa. Cuối bữa, tôi thấy Diệp nháy nháy mắt rồi đi ra vườn. Tôi theo cô em gái con chú dì ra. Hai anh em ngồi ở cái ghế gỗ. Diệp hỏi:
    - Anh có muốn gặp Dung không? Em chưa dám nói cho Dung biết vụ anh lấy vợ cũng như anh sẽ qua đây.

    Tôi trầm ngâm. Quả tình hình bóng Dung đã khuất hẳn trong cái quá khứ dồn dập của đời tôi. Tôi nhìn Diệp, cô bé ngày xưa nay đã lớn, có gia đình trông chững chạc hẳn ra. Tôi thong thả:
    - Anh cám ơn Diệp, nhưng thôi đừng nói gì nữa. Như vậy có lẽ tốt cho anh, tốt cho Dung. Mỗi đứa đều có gia đình, có đời sống phải lo. Let bygones be bygones

    Đêm ở Virginia dịu dàng. Thảm cỏ xanh như thẫm hơn trong bóng đêm mờ nhạt. Diệp cầm tay tôi bóp nhẹ:
    - Tụi em hiểu anh và khi gặp nhau tụi em tránh không nói đến quá khứ. anh nói cũng phải. Mọi sự bây giờ khác, không như ngày xưa nữa. Em đồng ý với anh sẽ không nói năng gì. Let’s bygone be bygone.

    Diệp quay sang cười:
    - Chị Thu xinh lắm, lại hiền nữa. Mừng anh. Hai bác chắc vui lắm.
    - Anh cũng mong hai bác vui và mong Thu được các em thương. Thu không quen ai ở đây cả, chỉ có gia đình mình. Thôi, mình vào với cả nhà đi.

    Hai anh em thong thả đi vào nhà. Diệp bảo tôi:
    - Virginia dễ thương lắm vì là đất của tình yêu. Virginia is for lovers. Anh với chị Thu đang là “lovers” thế nào cũng yêu nơi đây, nhất là mùa Thu.

  3. #15
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    CHƯƠNG 14


    Như tất cả những người HO khác, cuộc sống gia đình tôi là bỡ ngỡ, là hoang mang. Xã hội Mỹ xa lạ, cái gì cũng phải học, phải mò mẫm. Tôi may mắn chỉ hai tuần lễ sau đã kiếm được việc làm tại tiệm hình CPI trong khu thương xá tấp nập tại Tyson Corners nhờ những kiến thức trong phòng tối.

    Hai đứa nhỏ thích hợp nhanh, có lẽ vì đầu óc còn trong trắng. Vợ tôi sau nhiều cuộc thảo luận của đại gia đình đã cắp sách trở lại trường. Cái bức xúc của đời sống mới khiến tôi không có thì giờ thừa như ở Việt Nam. Tất cả như một cuộc chạy đua, chung quanh tôi đời sống quay cuồng. Sam Graves theo tôi từng chút, luôn luôn khuyến khích tôi vượt mọi khó khăn, nhưng lần nào nói chuyện, cái nhức nhối Việt Nam vẫn là đề tài chính. Khoảng hơn một năm khi đặt chân đến Mỹ, tôi đi xa lần đầu – xuống tận Indiana để như lời Sam nói, gặp gỡ gia đình anh, bởi những gì anh nói với vợ con về tôi khiến tôi trở thành một ám ảnh “ai cũng muốn gặp Trung úy Dũng”. Sam còn hứa là đến Indiana, anh sẽ dành cho tôi một ngạc nhiên lớn.

    Nước Mỹ mênh mông nhưng một khía cạnh nào đó, tôi không thấy chênh lệch giữa chỗ này chỗ khác. Khi từ Sài Gòn xuống Cà Mau hay ra ngược Thanh Hóa, cảnh trí, thiên nhiên và ngay cả người dân khác biệt nhau rõ rệt như đập vào mắt không chối cãi được. Nhưng tôi không có cái cảm giác đó ở xứ Mỹ. Đâu cũng thế. Hay tại tôi vẫn chỉ là kẻ đứng bên lề , một công dân hạng hai hay ba, một HO lớ ngớ?
    Khi bước vào nhà ông cựu cố vấn Mỹ thì tôi thực tình xúc động. Lá cờ mặt trận giải phóng với những vệt máu khô được đóng khung treo giữa phòng khách. Đúng là một ngạc nhiên lớn. Sam nói với tôi:
    - Lúc chia tay ở bệnh viện Cộng Hòa, anh đưa tôi lá cờ này. Tôi treo nó ngay ở chỗ trang trọng nhất trong nhà và tôi đã kể lại sự tích của nó cho mọi người hay. Hễ nhìn thấy lá cờ là tôi nghĩ ngay đến Việt Nam, đến Phước Long và Phước Lộc…

    Tôi ngây người nhìn lá cờ và lùng bùng trong lỗ tai là tiếng bom, tiếng đạn, trong trí tôi là cảnh người dân gồng gánh chạy loạn, cảnh máu đổ, thịt rơi. Cái quá vãng chiến tranh sau hơn một thập niên vẫn còn nguyên đó, tươi roi rói trong tôi. Tôi còn nhìn thấy nó ngay cả ở Sam và ngay giữa xã hội Mỹ thanh bình.

    Những lần lái xe đi làm, những buổi trưa Hè êm dịu, tôi thấy những người Mỹ lui cui cắt cỏ, dọn dẹp garage thảnh thơi tự tại. Những bãi cỏ xanh ngắt, những đứa bé hớn hở cầm vòi xịt nước cười đùa như nắc nẻ làm tôi lại nhớ đến những vô lý của cuộc sống. Những người Mỹ vô tư đó, những gia đính Hoa Kỳ coi thể thao là mối quan tâm hơn cả, bàn chuyện ciné hoặc thời trang hàng ngày, bỗng đâu phải lo lắng, quan tâm đến một người thân ở tận xó xỉnh xa xôi như Việt Nam với cái chết luẩn quẩn trong suy nghĩ. Nếu là tôi thì liệu tôi có phản chiến, có chống đối chiến tranh chăng? Nhất là cuộc chiến đó xa lạ, và có vẻ như không lối thoát? Cái gì đã khiến những thanh niên Mỹ như Sam Graves cầm súng bên tôi ở Việt Nam?

    Tất nhiên đã có những danh từ đẹp đẽ tôi từng được nghe nhiều lần để biện minh cho cuộc chiến từ ở cả phía bên này lẫn bên kia. Bên này là Tiền Đồn của Thế Giới Tự Do, bên kia là Mũi Xung Kích. Bên này là tự do khai phóng nhân quyền, bên kia là giải phóng, là tiến tới thế giới đại đồng, là vô giai cấp. Giữa đó là hai cực quyền lực và đằng sau đó là quyền lợi của phe nhóm. Những suy nghĩ đó bao giờ cũng đưa đến những kết luận chua chát. Chỉ khi vượt ra, ngoảnh lại mới thấy sự phi lý tột cùng của chiến tranh và thương cho dân mình.

    Lá cờ Mặt Trận Giải Phóng treo ở phòng khách của ông Đại Tá Sam Graves nay chỉ là dấu tích của một lừa dối. Nó bị xé tan ngay khi Hà Nội đạt được mục tiêu. Nó chỉ là giai đoạn và tôi đã bỏ cả mạng sống mình để chiếm lấy nó, và Sam thì quí nó như một bảo vật. Tôi chua xót nhìn những vệt máu khô có chỗ đã mờ nhưng có những vệt còn thẫm màu lốm đốm.

    Nhưng giữa cảnh đạn bom có những bông hoa đã nở và cái tình bạn của Sam Graves với tôi là bông hoa đẹp nhất trong đời. Mẹ anh, vợ con anh đối đãi với vợ chồng tôi thân thiết, cởi mở và luôn luôn nhắc tôi và Thu “feel at home” – coi nhau như người nhà.

    Sam Graves nay đã lên tới chức Đại tá trong Lữ Đoàn Yểm Trợ 88, nhưng Sam không bao giờ cư xử với tôi như một Đại tá. Sam luôn luôn gọi tôi là Trung úy Dũng – bằng tiếng Việt hẳn hoi. Những năm tháng tham chiến ở Việt Nam là niềm hãnh diện lớn của một quân nhân Mỹ và là kho tàng bất tận để kể lại cho người chung quanh. Đủ thứ, từ món ăn cho đến muỗi nhiệt đới, từ các trận đánh cho đến các phong tục lạ lẫm. Sam nhớ rất nhiều và nhớ chính xác nhũng chi tiết mà tôi đã quên mất từ lâu. Sam nhắc đến những đồng đội của tôi như Đại úy Cảnh, như Chuẩn úy Sao. Ừ nhỉ, thế ông Đại úy đẹp trai của tôi với ca sĩ Thanh Tuyền có thoát được không? Còn ông Chuẩn úy Sao người gốc Miên của Phước Long, ông ta sống hay chết, có phải đi học tập không?

    Tan tác đã nhiều. Cuộc sống của mỗi chúng tôi đã bị dập vùi, đã bị cuốn trôi theo những dòng chảy khác nhau. Hơn một thập niên sau cuộc chiến, chúng tôi vẫn chưa có dịp nhìn lại nhau, có dịp ôn lại các quá khứ súng đạn và tình chiến hữu, thậm chí còn không biết gì về số phận của nhau. Ngồi trong căn nhà êm ả rộng rãi ở Indiana, tôi quặn lòng nhớ bạn, nhớ đồng đội. Đầu óc tôi lơ mơ, bồng bềnh như trôi dạt trong khoảng ký ức mênh mông.

    Hơn một tuần lễ ở Indiana, tôi tưởng tôi có thể cùng Thu trốn được cuộc sống quay cuồng, vội vã, làm việc không ngơi nghỉ của sinh hoạt cơm áo hàng ngày, những câu chuyện với ông cựu cố vấn và những người Mỹ mới quen đẩy tôi ngược về với những cái mà tôi cố né tránh từ lâu. Đến lúc nào thì chiến tranh, bom đạn thôi ám ảnh tôi?

    Đời sống gia đình tôi mỗi ngày một ổn định. Thu sau những cố gắng miệt mài đã hoàn tất chương trình bốn năm tại đại học George Mason và kiếm được việc làm trong một công ty tài chánh. Hai đứa nhỏ càng ngày càng lớn cũng đã hoàn tất chương trình trung học. Phần tôi, công việc đã đưa đẩy từ chỗ này đến chỗ khác nhưng vẫn là công việc trong nghề nhiếp ảnh. Đây là điều mà tôi thấy lạ. Tuổi thanh xuân của tôi đã cống hiến cho chiến tranh và khi đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, tôi đối phó với cuộc sống mới không nghề ngỗng hay như kiểu Mỹ vẫn thường bảo:”no skill”. Nỗi đam mê nhiếp ảnh và cái kiến thức tự mò mẫm của một nhiếp ảnh gia tài tử đã giúp tôi kiếm được miếng cơm manh áo. Kỹ thuật phòng tối của tôi ở Việt nam là kỹ thuật sơ đẳng, cổ lỗ. Tôi đã phải vừa làm vừa học, học nhiều hơn cả làm, học ở sách, ở sở, ở bạn bè. Trong nỗ lực tìm tòi đó, tôi gặp thêm rất nhiều bạn bè cùng sở thích để rồi chúng tôi cùng nhau sinh hoạt hàng tuần. Đi chụp hình cùng nhau vào những ngày nghỉ. Thảo luận với nhau về cách áp dụng computer trong phòng tối. Những sinh hoạt đó đẩy đến quyết định cùng nhau lập Hội Nhiếp Ảnh Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi mở lớp dạy các em nhỏ và cả những người lớn muốn cầm máy. Đây là một niềm vui vì hội hoàn toàn bất vụ lợi, và moi người hăng say xây dựng một tập hợp nhỏ những người có cùng sở thích, cùng giúp đỡ nhau học hỏi. Đất Mỹ là đất của cơ hội. Câu này đúng với tôi trong cái nghĩa chật hẹp nhất. Tôi đã tìm lại được quân bình trong đời sống như một người bình thường nhất. Hiện nay tôi đã có một căn nhà nhỏ, ngày ngày đi làm, tối về lo kèm hai đứa nhỏ, coi tivi hoặc nhâm nhi lon bia. Một cuộc sống giản dị, bình thường nhưng là mơ ước không với tới trong đời tôi kể từ ngày vào quân trường Thủ Đức cho đến ngày ra khỏi trại tù cải tạo. Xem ra cái hạnh phúc nhỏ nhoi bình thường đó không dễ dàng gì đạt đến. Ít ra thì ở nước Mỹ ngày nay tôi cũng có cái yên tâm rằng hạnh phúc tôi đang có là của tôi, của gia đình tôi và không ai có toan tính hoặc âm mưu gì cướp đoạt nó đi.

    Khi ông Sam Graves gọi cho tôi hay rằng ông sẽ về hưu và ngỏ ý mời tôi đến dự lễ“rửa tay gác súng” tôi hoan hỉ nhận lời, nhất là khi ông lại bảo sẽ dành cho tôi một ngạc nhiên lớn. Với Sam, lúc nào cũng vậy, không bao giờ cho biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng ông cũng cẩn thận dặn tôi ăn mặc cho nghiêm chỉnh và nên soạn sẵn một bài ngăn ngắn để đọc trong buổi lễ. Hiện ông ta đang giữ chức Đại Tá Chỉ Huy Phó Liên Đoàn Yểm Trợ 88 nên hay lên họp ở Ngũ Giác Đài và lần nào cũng vậy, hai đứa đều hẹn nhau đi ăn cơm và hàn huyên. Sam cho hay sau thời quân ngũ, ông sẽ dành hết thì giờ vào nghề phát thanh, nghề radio, một đam mê từ khi còn nhỏ. Ông tỏ ra rất hào hứng khi trút bỏ được bộ quân phục để lao vào cái ước mơ của thời thanh xuân.

    Trời tháng hai ở Indiana không lạnh lắm và buổi lễ diễn ra ngay trong doanh trại Liên Đoàn Yểm Trợ 88 thật vô cùng long trọng. Lâu lắm rồi tôi mới có dịp sống lại không khí nhà binh, đắm mình trong những bản quân hành. Các lễ nghi quân cách được cử hành vô cùng long trọng với các quân nhân mặc lễ phục. Tôi không nhớ có bao nhiêu vị tướng có mặt trên lễ đài trong buổi lễ giải ngũ của Đại tá Sam Graves, bởi tôi còn nhẩm đi, nhẩm lại bài nói chuyện bằng tiếng Anh đã thủ sẵn trong túi áo. Các diễn giả lên tiếng đều là người vai vế từ Đề Đốc, Trung Tướng đến các vị chức sắc. Họ nói về quá trình binh nghiệp của Đại tá Graves, về khả năng lãnh đạo chỉ huy, về thành tích trong quân ngũ, tựu trung đều là những lời ca ngợi vị đại tá về hưu này. Tôi thật sự băn khoăn. Phải thú thật tôi hơi run khi nghĩ mình bước lên bục diễn đàn để nói trước cả ngàn người trong cái không khí nghiêm trang như thế này. Nhưng thật may, không ai mời tôi lên và tôi bảo Thu:
    - May quá, họ không bắt anh lên. Chắc ông Sam thấy để một anh Mít nhà quê lên dọc diễn văn trong khung cảnh này không hợp tí nào.”

    Thu gục gặc bảo tôi:
    - May cho anh đó.

    Sau lễ nghi quân cách mọi người tựu lại trong những lều lớn bày đủ thứ bánh trái, nước uống. Ai nấy như quen nhau từ lâu, cười nói rổn rảng. Vợ chồng tôi là người ngoại quốc duy nhất lạc vào thế giới này và có lẽ vì là “của lạ” ai nấy đều gật đầu chào, nhất là ông Sam thì luôn giới thiệu “Trung úy Dũng” với tất cả nhiệt tình.

    Tôi hiểu là buổi tối sẽ có một dạ tiệc nữa, nhưng thực sự cũng thấy việc không phải bước lên diễn đàn như trút được gánh nặng nên hoan hỉ đi dự tiệc. Trước khi đi, bà vợ Sam bảo tôi rằng buổi tối mới vui. Vợ chồng tôi cũng nghĩ vậy vì cho rằng đây là bữa tiệc nhỏ chia tay thân mật đối với một cấp chỉ huy về hưu.

    Nhưng bữa tiệc không nhỏ chút nào. Hội trường rộng mênh mông với những chiếc bàn phủ khăn trắng trên bày dĩa, muổng, tách ly, ly bóng lộn và rất nhiều hoa. Những sĩ quan trẻ mặc đại lễ đeo găng tay trắng đứng từ cửa vào tiếp tân. Họ ân cần hỏi tên họ và dẫn từng vị khách vào bàn. Mỗi sĩ quan đều cầm một quyển sổ ghi tên từng vị khách và khi vợ chồng tôi được tiếp, họ lật sổ. Không thấy tên Đỗ Lệnh Dũng. Vợ chồng tôi đứng sượng trân trong khi mẹ và cả gia đình Sam Graves đứng quanh tụi tôi lúng túng không biết chuyện gì xảy ra. Có thể lắm chứ. Đại tá Sam Graves vì quá bận bịu lo tổ chức buổi lễ đã quên béng, không ghi tên vợ chồng bạn Trung úy Đỗ Lệnh Dũng. Những viên sĩ quan tự chạy lăng xăng hỏi han nhau về ông bà khách Mít dấm dớ, còn vợ chồng tôi lóng ngóng không biết xử sự ra sao. Giữa lúc đó, một viên Trung úy tiến tới lịch sự:
    - Xin Trung úy và phu nhân theo tôi tới bàn đặc biệt.

    Giọng nói của viên sĩ quan đầy vẻ nghiêm trang và hơi có quá phần trọng vọng. Tôi nhẹ cả người dắt Thu đi theo. Khi đến gần tôi đâm hoảng. Hai bàn đặc biệt phủ khăn đỏ nổi bật ngay sát khán đài, đã có dăm ba người đang ngồi. Người Trung úy giơ tay chỉ chỗ bên bàn phía phải. Tất cả khách đều đứng dậy chào đón vợ chồng tôi và ai nấy đều biết tôi là Trung uý Dũng. Tôi lịch sự bắt tay, xưng tên với họ và liếc nhìn. Đa số là Đại tá. Vừa yên chỗ thì có tiếng hô lớn và nhạc quân hành cử lên để tiếp một vị Tướng khác. các vị Tướng huy chương đầy ngực đều tiến về hai chiếc bàn đỏ, dành cho khách danh dự. Đến giờ này tôi đã hiểu sự ngạc nhiên Sam hứa dành cho tôi. Vợ chồng tôi là một trong số khách danh dự của buổi tiệc.

    Suốt đời lính tôi đã trông thấy nhiều vị tướng như các ông Lý Tòng Bá hay cả Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng chỉ là trông thấy từ xa trong các lễ lạc và thường tôi phải ôm súng đứng nghiêng ngóng cổ mà ngó. Nhưng hôm nay, giữa đất Mỹ, tôi bỗng ngồi ngang hàng với Đề Đốc, với Thiếu Tướng, Trung tướng Mỹ thì quả là một vinh dự lớn. Ngồi ngay sát tôi là Trung tướng Wayne M.Erch, Chỉ huy Trưởng đơn vị Yểm Trợ 88. Ông ân cần thăm hỏi tôi về Việt Nam, về đời sống hiện nay. Đai Tá Sam Graves là phụ tá cho ông nên chắc ông đã có dịp nghe Sam kể về chiến tranh Việt Nam và mối liên hệ giữa chúng tôi. Ông bảo:
    - Tôi được nghe về trận Đồng Xoài và những hành động đầy dũng cảm của người lính Việt Nam.

    Hình như ai ở bàn cũng muốn nghe chuyện về tôi, chuyện đi trên con đường mòn Hồ Chí Minh và bỗng nhiên tôi trở thành đề tài của mọi câu chuyện trong bàn. Rồi buổi tiệc cũng bắt đầu với chủ đề tuyên dương những anh hùng Mỹ Quốc.

    Khởi đầu là Tướng William Sherman của khóa West Point 1838. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, nhưng nơi đây mọi người tựu lại để nhớ đến một đức tính vô cùng tiêu biểu cho một quân nhân nơi ông. Tướng Sherman rời chức vụ quân ngũ và đứng ra lao vào ngành ngân hàng Ông đã đầu tư tổng cộng 130 ngàn Mỹ kim của các bạn đồng đội và như lời vị tướng đã quá vãng này viết cho vợ: “West Point chắc chắn không thể đào tạo được những nhà nông nghiệp, những chuyên viên ngân hàng hay những nhà buôn giỏi.” Ông đã thất bại, khoản đầu tư 130 ngàn ra mây khói. Nhưng ông đã cố gắng hoàn lại cho toàn thể các bạn đồng đội số tiền mà họ gửi gấm ông. Bản tuyên dương được đọc nói rõ chính vì hành vi này ông và gia đình đã khánh tận, nhưng hành vi giữ chữ tín xứng đáng khiến tướng Sherman được vinh danh là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Người thứ nhì là trung sĩ Samnel Graves Jr. Trung sĩ Samnel Graves phục vụ trong quân đội thời đệ nhị thế chiến, bị bắt làm tù binh. Khi sắp bị lính Đức Quốc Xã hành hình thì “như một cơ may do lời nguyện cầu Thượng Đế” ông được thả và dẫn đi tới trại tù. Ông sống lây lất khổ cực và khi được quân đội đồng minh cứu thoát,ông sụt 100 pounds. Với lòng tin và lới hứa khi suýt bị bắn, cố Trung sĩ Samnel Graves Jr. khi giải ngũ đã trở thành mục sư và cống hiến trọn đời cho Thượng Đế. Với hành vi này ông được vinh danh là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Hai người vừa kể nay đã quá vãng. Hai người nữa đều là cựu chiến binh Mỹ phục vụ tại Việt Nam. Đại tá James Saboc khi phục vụ ở Việt Nam mới chỉ là Trung úy. Trong một cuộc hành quân tại đồng bằng Sông Cửu Long, trung đội của ông có nhiệm vụ phục kích đêm và đụng lớn với một đơn vi Cộng sản quân số trội hẳn với hỏa lực M 79 và rất nhiều AK 47. Cuộc chạm súng trong đêm khiến tám người trong Trung đội bị thương. Nhờ lòng can đảm bình tĩnh, đơn vị do ông chỉ huy đã đẩy lui đơn vị địch. Trung úy James Saboc đã được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng và nhành Dương Liễu. Chính vì những thành tích tham dự cuộc chiến tại Việt Nam, hôm nay ông được tuyên dương là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Kế tiếp là chuyện của Trung Úy Vic Bandini. Ông là phi công trực thăng phục vụ Lực Lượng Đặc Biệt. Trong một phi vụ cứu các toán nhảy ở biên giới Lào, phi cơ của ông trúng phòng không địch những 2 lần, nhung do bình tĩnh, ông đã cứu được 4 trong 10 binh sĩ nhảy toán và trở về căn cứ an toàn. Khi vừa đáp xuống hậu cứ, một vị Tướng của Thủy Quân Lục Chiến chờ sẵn với rất nhiều huy chương.

    Trung úy Vic kể lại:
    - Tôi được gắn Ngôi Sao Bạc. Vậy đó, không giấy tờ chính thức, không có gì ghi trong quân bạ. Bởi vì trên thực tế chính phủ Mỹ không bao giờ công khai nhận đã gửi những toán đặc biệt nhảy xuống đất Lào.

    Chính vì phi vụ sống chết này, hôm nay Trung úy Vic Bandini được vinh danh là Anh Hùng Nước Mỹ.
    Tôi ngồi đó vừa nhâm nhi ly bia, vừa nghe những bản tuyên dương lòng thanh thản cho đến khi một vị sĩ quan trẻ trong ban tiếp tân nói khẽ với tôi:
    - Trung uý sửa soạn để lên diễn đàn.

    Tôi đớ người ra, sờ vội trong túi. May quá vẫn còn đem theo bài nói chuyện đã thủ sẵn. Nhưng tôi khựng lại khi ông bạn Sam lên tiếng:
    - Chúng ta hãy cùng đứng dậy chào đón một vị anh hùng của nước Mỹ, Trung úy Đỗ Lệnh Dũng.

    Mọi người nhất loạt vỗ tay và tôi mặt đỏ tía tai, lúng túng đứng dậy cúi chào.

    Một sĩ quan lên đọc một bản diễn văn khá dài về trận Đồng Xoài và sau đó là cảnh tôi bị tù đày.

    Tôi nghe, vừa cảm động, vừa ngượng trước những danh từ đầy hoa mỹ. Cuối bản đọc có ghi “Những hành vi vô vị lợi, sẵn sàng đem mang sống của mình ra bảo vệ đất nước Việt Nam, Trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã nêu cao truyền thống bất khuất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là của Quân Đội Hoa Kỳ. Chính vì vậy, nay tuyên dương Trung úy Đỗ Lệnh Dũng là Anh Hùng Mỹ Quốc.”

    Giữa những tràng vỗ tay, tôi bước lên diễn đàn. Tôi quá xúc động để nói và nội dung bài viết sẵn xem ra không thích hợp với không khí trong hội trường. Tôi chỉ còn biết lắp bắp:
    - Tôi rất xúc động và bao nhiêu điều tôi muốn nói cùng với Đại tá Sam Graves, vị cố vấn cũng là bạn thân của tôi, cũng như những lời đúng ra phải nói cùng các quí vị nay không cần thiết nữa. Trong sự xúc động tận cùng, vợ chồng và các con tôi xin được nói tiếng Cảm ơn đến tất cả mọi ân tình mà cá nhân Sam Graves bạn tôi và toàn thể quí vị dành cho tôi.

    Tối hôm đó, khi khép cánh cửa buồng lại, tôi nhìn vào tấm bảng tuyên dương với chữ ký của nhiều vị chức sắc trong quân đội Mỹ, lòng bâng khuâng.

    Tôi nhìn Thu buột miệng:
    - Anh đâu có muốn làm anh hùng.
    Vợ tôi cười:
    - Thế anh muốn làm gì?
    - Anh chỉ muốn làm anh hiền. Anh chỉ muốn một đời sống giản dị, bình thường, không bắn giết, không súng đạn. Ước ao đó từ nhỏ nhưng rồi cả đời anh là trận chiến, là tù đày, là khổ nhục. Làm anh hùng để làm gì?

    Vợ tôi ôm tôi, ghé tai nói rất khẽ.
    - Anh là anh hùng của riêng em.
    – HẾT –


    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Bạt

    Tác giả xin chân thành tri ân nhân vật chính của câu chuyện - Đỗ Lệnh Dũng.

    Ông đã kiên nhẫn trong nhiều tháng trời trả lời mọi câu hỏi liên quan đến cuộc đời thăng trầm của ông, đã chia sẻ với tác giả những chi tiết riêng tư thầm kín nhất, kể cả những chi tiết mà ông nói “cố quên để còn nhìn được về phía trước”. Không có sự cộng tác chân thật của ông, tác phẩm chắc chắn khó có thể thành hình.

    Mặc dầu được xây dựng trên cuộc đời có thật với những dữ kiện có thật, tác phẩm Đỗ Lệnh Dũng không thể coi là một cuốn tiểu sử hay tự truyện. Đa số tên tuổi trong tác phẩm là những người có thật, nhưng trộn lẫn trong đó vì những lý do tế nhị, có những tên tuổi đã được thay đổi.

    Vì tác phẩm dựa trên các biến cố của cuộc chiến mà hậu quả vẫn còn ray rứt trong chúng ta, hẳn là quan điểm của tác giả có thể không đồng thuận với tất cả mọi người. Tác giả nhận hoàn toàn những sai lầm có thể có và những sai lầm đó không hề do lời kể của nhân vật chính.

    Tác giả xin cảm ơn chị Giang Hữu Tuyên và anh Uyên Thao, hai người bạn đã kiên nhẫn chịu đựng những thay đổi bất thường của tác giả, khuyến khích thúc dục để tác phẩm sớm hoàn thành.

    Một số bạn bè của tác giả đã đọc bản thảo, đóng góp ý kiến, giúp tác giả sửa chữa những sai sót. Xin cảm ơn quí anh Đỗ Đình Duyệt, Hoàng Xuân Trường, Vũ Ánh, Nguyễn Tuyển, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Mạnh Tiến về những đóng góp của quí anh.
    Hai người trẻ tuổi Nguyễn Kỳ Phong và Phan Lê Dũng đã giúp tìm tài liệu và góp phần đánh máy bản thảo. Xin cảm ơn Phong và Dũng.
    Tác phẩm sẽ không bao giờ hình thành nếu thiếu tình yêu thương, lòng bao dung và sự hỗ trợ của Phương Mai cùng các con tôi – Tin, Na, Bé.

    Tác Phẩm này trước hết nhằm ghi lại một số hình tượng sống trong một giai đoạn tràn ngập thảm cảnh của người dân Việt Nam và kế tiếp để dành tặng Mai và các con với ước vọng một ngày nào đó cả nhà sẽ có thể về lại quê hương sống như một gia đình Việt Nam bình thường.

    Virginia 7/2/2006
    LÊ THIỆP

Trang 3/3 đầuđầu 123

Similar Threads

  1. Anh Đỗ Phủ Ở Buồng Nào?
    By Hoanghac in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-03-2014, 11:08 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •