Remember ?

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 7 tới 12 trên 15

Tựa Đề: Ðỗ Lệnh Dũng - Lê Thiệp

  1. #7
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    Hà Nội 11/1959 – Sài Gòn Mậu Thân 1968

    Ngày 12-9-1959 bản tin của Việt Tấn Xã loan tải được đài phát thanh BBC trích thuật cho hay một cuộc đụng độ giữa quân đội Việt Nam và quân phiến loạn đã diễn ra tại ven rừng Đồng Tháp. Trận giao tranh giữa một tiểu đội quân chính phủ và một lưc lượng tương đương của quân phiến loạn kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ và không có thiệt hại nào được ghi nhận.

    Không mấy ai để ý đến mẩu tin ngắn đó giữa những biến động lớn khác của thế giới. Nếu có để ý chăng nữa, khó ai hình dung nổi những tiếng nổ lẹt đẹt ở xó rừng hẻo lánh miền Nam lại báo hiệu cho một cuộc chiến tương tàn kéo dài suốt mấy chục năm sau đó kéo theo những hậu quả khốc hại không những chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả Hoa Kỳ.

    Hiệp định Genève 1954 được triệu tập vội vã kết thúc mau chóng giữa các cường quốc trên thế giới – một bên là Cộng Sản, một bên là Thế Giới Tự Do – đã chặt Việt Nam thành hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Hậu quả tức thời của Hiệp Định là người Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam. Trong khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai năm sau đó, tạm thời người dân Việt Nam được quyền chọn nơi cư trú. Hơn một triệu người đã di cư vào Nam và khoảng hơn một trăm ngàn cán binh bộ đội tập kết ra Bắc.

    Dù thế nào đi nữa thì người dân Việt Nam cũng vui mừng vì “hòa bình lập lại” cho dẫu không ai nghĩ sẽ có tổng tuyển cử. Điều khoản này dự trù trong hiệp định Genève được viết ra để mà viết. Chính phủ Ngô Đình Diệm bác bỏ giải pháp tổng tuyển cử lấy cớ phe quốc gia không hề ký vào bản hiệp định này. Chính quyền của ông Hồ Chí Minh cũng không tha thiết gì vì chưa thật ổn định được miền Bắc do hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất và vụ trấn áp trí thức đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm khiến nếu thực sự có tổng tuyển cử với quốc tế giám sát, họ chưa chắc đã thắng.

    Trên các phương diện xã hội, kinh tế và chính trị miền Bắc thuần nhất, không đa dạng như miền Nam. Đảng Cộng Sản của ông Hồ Chí Minh đã áp dụng một cách công thức và giáo điều, rập khuôn Trung Cộng và Nga Xô áp đặt một guồng máy công an trị sắt máu trên toàn miền Bắc. Sau hơn 4 năm kể từ ngày ngưng tiếng súng, đảng Cộng Sản tuy đã xây dựng xong chính thể chuyên chính, nhưng lại phải đối phó với những khó khăn nội bộ không có cách gì tháo gỡ được. Kinh tế suy sụp tới mức tối đa, thực phẩm thiếu hụt đến nỗi nếu không có viện trợ của khối Đông Âu, nạn đói chết người có thể xảy ra vì hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất và hợp tác xã nông nghiệp. Thành phần tập kết từ miền Nam bất mãn vì không được trọng dụng, vì không thích nghi nổi với xã hội miền Bắc là một mối đe dọa lớn. Mặt khác, những người Cộng Sản Việt Nam vẫn nghĩ họ đã bị chèn ép quá đáng khi chỉ được chia non một nửa Việt Nam sau khi đã thắng Pháp. Mặc cảm chiến thắng và tâm lý kiêu hãnh tự coi là mũi xung kích của xã hội chủ nghĩa khiến họ không có chọn lựa nào khác ngoài giải pháp phát động chiến tranh. Ông Hồ Chí Minh coi nhiệm vụ của ông như một người Cộng Sản, kêu gọi, thúc đẩy và ép buộc toàn thể dân chúng miền Bắc hy sinh để hoàn thành cái ước mơ mà ông ghi lại trong di chúc rằng nếu chưa chiếm được miền Nam thì khi chết ông sẽ không thể nào nhìn mặt Karl Max được. Do đó, ông Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh cuộc chiến để hy vọng ngay trong đời mình, ông có thể thống nhất Việt Nam bằng súng đạn.

    Tháng 1/195?, hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam công bố nghị quyết 15 đề ra hai mục tiêu chiếc lược: xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc và tiến hành chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam bằng bạo lực. Sau này các nhà quân sử Hà Nội khi ca ngợi nghị quyết 15 đã viết rõ: “Dùng bạo lực, lấy sức mạnh của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến”.

    Ngay khi nghị quyết được công bố, Hà Nội đã bắt tay lập tức vào những hành động thực tiễn.
    Không hề mơ tưởng dân chúng miền Nam sẽ nổi dậy để ủng hộ và cũng không tin rằng lực lượng vũ trang được gài lại nằm vùng sau năm 1954 có thể đơn phương đương đầu với quân đội miền Nam, Hà Nội đã lập tức tiến hành công tác xây dựng lộ trình xâm nhập người và vũ khí vào miền Nam. Bốn tháng trước cuộc chạm súng tại ven rừng Đồng Tháp, Thượng Tá Võ Bẩm, một đảng viên gốc người Liên Khu 5 được thành lập Đoàn Công Tác Quân Sự Đặc Biệt. Đoàn đặt trụ sở tại 61-63 Lý Nam Đế Hà Nội với nhiệm vụ nghiên cứu để mở đường mòn Hồ Chí Minh. Ngày 12/5/1959, tổng cộng 445 bộ đội đảng viên thuộc sư đoàn 324 đã bắt tay vào công tác mở lại con đường mòn xâm nhập miền Nam. Ba tháng sau đó, ngày 13/8/1959, chuyến vũ khí đầu tiên lên đường vào Nam.

    Ban quân sử của Hà Nội ghi nhận chuyến đầu tiên tổng cộng có 60 trung liên, 549 tiểu liên, 400 súng trường, 100,000 viên đạn, 21 tiểu liên thanh, 107 carbin và 108 ký lô thuốc nỗ TNT. Chuyến xâm nhập vũ khí này đã được nhận tỉ mỉ, nhưng đến những năm sau, khi chiến tranh leo thang thì chỉ được tình bằng tấn. Năm 1966, con số được ghi nhận là 9,800 tấn và 1974 là 217 tấn, đến cuối năm 1975, con số đó là 413,000 tấn.

    Song song với những chuẩn bị quy mô về quân sự, vào ngày 12/10/1959, Hà Nội thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và cuộc chiến Việt Nam từng bước một leo thang.

    Từ cuộc đụng độ giữa hai tiểu đội vào năm 1959, ba năm sau mức độ đã thay đổi hẳn. Tại Ấp Bắc thuộc quận Cai Lậy chỉ cách Saigon 56 cây số, trận đánh cấp tiểu đoàn diễn ra ngày 31/12/1962 với số thương vong của cả hai bên lên tới hàng trăm. Hà Nội đã dần dần chuyên cuộc chiến từ du kích sang qui ước.

    Hai năm sau, vào ngày 28/12/1964, trận đánh cấp trung đoàn diễn ra tại Bình Giả. Binh sĩ Cộng Sản cho tới thời điểm này được trang bị bằng vũ khí hiện đại nhất của khối Cộng Sản như AK, B40.

    Cường độ cuộc chiến tăng dần đẩy tới sự kiện Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến và ồ ạt viện trợ cho Việt nam Cộng Hòa. Không còn những trận đánh lẻ tẻ với Garant, Carbine, lựu đạn chày nữa. Trận Khe Sanh khởi sự vào ngày 24/4/1967 cho thấy cuộc chiến đã thay đổi như thế nào. Vũ khí được hai bên sử dụng có B52, có bom 200 cân Anh, có đại bác 175 ly và cả loại 400 ly bắn từ ngoài khơi Nam Hải, có xe tăng PT76 có hỏa tiễn 122 ly, đại pháo 130 ly. Hãy đọc vào con số thống kê chỉ trong trận Khe Sanh. Trung bình mỗi ngày Mỹ thực hiện 45 phi vụ B52, 3000 phi vụ yểm trợ chiến thuật sử dụng 1800 tấn bom các loại. Trong suốt trận đánh, Mỹ đã thả tổng cộng 96, 000 tấn bom xuống Khe Sanh, gấp đôi số bom Mỹ sử dụng trong hai năm 1942-1943 của Đệ Nhị Thế Chiến tại khu vực Thái Bình Dương. Tổn thất nhân mạng được ghi nhận: Mỹ chết 650, bị thương 2500, 7 mất tích. Phía Cộng Sản, có lẽ vì không chịu nổi hỏa lực của Mỹ, đã hốt hoảng tháo chạy để lại 182 hỏa tiễn, 260,000 đạn nhỏ các loại, 13,000 đạn súng cộng đồng, 8700 mìn cũng như hàng ngàn súng AK. Số thương vong của Bắc Việt được ước lượng khoảng 15,000 tức là gần 90% quân số tham chiến.

    Khe Sanh là một vùng rừng núi hẻo lánh nằm trên quốc lộ 9 sát với biên giới Lào và vĩ tuyến 17. Cường độ dữ dội của trận đánh, tuy được chú ý như một so sánh với Điện Biên Phủ, nhưng chiến tranh Việt Nam chỉ thực sự bước sang một khúc quanh lớn vào ngày 30/1/1968 khi người dân miền Nam vốn sống êm ấm tại các đô thị lớn và thủ đô Saigon phải trực diện với chết chóc của chiến tranh.
    Với ám danh TCK-TKN, trận Mậu Thân đã được Hà Nội soạn thảo dự trù từ giữa mùa hè 1967 có hai giai đoạn. TCK là Tổng Công Kích và giai đoạn hai là Tổng Khởi Nghĩa với hàm ý rằng dân miền Nam sẽ nổi dậy.

    Trận Mậu Thân đã thay đổi toàn diện cuộc chiến.

    Về phương diện quân sự, Hà Nội không đạt được thành quả nào. Trong cuộc phỏng vấn của ký giả Fallaci, tướng Võ Nguyên Giáp đã xác nhận tổn thất của Cộng Sản Bắc Việt lên tới nửa triệu lính.

    Nhưng Hà Nội đã đạt được mục đích tuyên truyền, đặc biệt đối với dư luận Hoa Kỳ. Thế giới, nhất là người dân Mỹ đã liên tục hàng ngày phải chạm mặt với những hình ảnh khốc hại của chiến tranh. Phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao khắp nơi.

    Miền Nam cũng chịu những hậu quả tác động đến tận cùng của đời sống người dân về đủ phương diện. Đây là lần đầu tiên người dân thành phố và thị xã, từ trước đên nay vốn vẫn sống khá bình yên, đã chứng kiến tận mắt súng đạn và chết chóc. Một triệu người đã tan cửa nát nhà, phải bỏ gia cư mà di tản đến những nơi an ninh hơn. Xã hội miền Nam bị đảo lộn từ gốc rễ. Miền Nam cho đến giai đoạn này của cuộc chiến vẫn không hề vận động toàn bộ nhân lực, vật lực để sống còn. Chế độ quân dịch hai năm vẫn được duy trì như dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trong khi Cộng Sản Bắc Việt dồn tất cả nhân lực, đẩy toàn bộ xã hội miền Bắc xuống vực thẳm của đời sống để đạt chiến thắng quân sự thì cho đến sau trận Mậu Thân, miền Nam mới áp dụng lệnh Tổng Động Viên.

    Trong số thanh niên sinh viên bị buộc phải cầm súng theo lệnh Tổng Động Viên này có Đỗ Lệnh Dũng đang theo Đại Học Luật Khoa.


    CHƯƠNG 2


    Mặt tiền Tòa Đại Sứ Mỹ mầu trắng sáng rực trong nắng ban mai. Từ phía bên này đường Thống Nhất nhìn qua, tôi thấy trên nóc một chiếc trực thăng đang từ từ đáp xuống. Thấp thoáng phía đằng sau bức tường, những người TQLC ôm súng đứng. Kể từ tết Mậu Thân sau khi Việt Cộng toan đánh chiếm, Tòa Đại Sứ đã được bố trí lại như một pháo đài.

    Khoảng ít lâu trước, tôi đã đến đây một lần. Đang là sĩ quan tùy viên cho Đại Tá Lưu Yểm tỉnh trưởng Phước Long, tôi đã nhận được thư Tòa Đại Sứ yêu cầu tôi tới để gặp chuyện riêng. Tôi đưa thư cho Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu để xin phép, ông nhìn tôi rồi bảo chờ coi. Sau đó đơn được chuyển lên cho Đại Tá Yểm. Đại Tá Yểm coi tôi như người thân tín, ông lôi tôi về làm tùy viên vì cái giao tình với ông chú tôi, vả lại ông cũng khoái cái bộ dạng của tôi mỗi khi tới chơi với ông chú. Đại Tá Yểm đưa tôi tờ giấy phép, dặn dò:

    - Tao không biết tụi nó gặp mày để làm gì. Dây dưa với tụi nó chẳng hay ho gì đâu. Nếu nó đề nghị mày làm việc cho Xịa thì khôn hồn đừng có dính vào.

    Người Mỹ không bao giờ có ý định tuyển tôi vào CIA. Họ mời tôi lên là bàn chuyện riêng tư, chuyện cá nhân thật.

    Tôi còn nhớ người tiếp chuyện tôi là một phụ nữ trung niên nói tiếng Pháp giọng đầm rất hay. Bà hỏi tôi có quen ông Nghị Sĩ Mỹ gì đó tôi cũng không nhớ. Trời đất ! Một tên lính cà tàng như tôi làm sao quen lớn với Nghị Sĩ Mỹ. Bà lật đi lật lại mấy tờ giấy, hỏi tôi có biết ai tên Sam Graves không? Tôi trả lời bà:

    - A, Ông Sam Graves là bạn tôi. Ông ấy là cố vấn cho đơn vị tôi. Chúng tôi đã cùng hành quân với nhau nhiều lần và là bạn rất thân.
    - Ông cứu Đại Úy Graves thoát chết?

    Tôi ngẩn người ra, rồi cười:
    - Không cứu ông thì tụi tôi chết trước.

    Bà người Mỹ cũng cười:
    - Vậy thì tôi hiểu chuyện rồi.
    Bà chăm chú lật một xấp thư từ, loáng thoáng tôi thấy toàn là thư có tiêu đề mầu xanh và cả hình quốc huy con ó của nước Mỹ. Bà gập hồ sơ chậm rãi nói:
    - Do sự can thiệp của nhiều giới chức, chúng tôi đồng ý để ông đi Mỹ thăm gia đình, tất cả phương tiện đều do quân đội Hoa Kỳ đài thọ. Ông chỉ cần xin phép với phía chính phủ Việt Nam.
    Tôi nhìn bà ta đăm đăm:
    - Đáng lẽ tôi đã đi Mỹ cùng với gia đình từ mấy năm trước nhưng phải ở lại Việt Nam để đi lính. Bây giờ tôi đang cầm súng. Chính phủ Việt Nam chắc chắn sẽ không cho phép tôi đi.
    - Vấn đề của Việt Nam không thuộc thẩm quyền của chúng tôi. Bất cứ khi nào ông có sự chuẩn nhận của chính phủ Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng mời ông sang thăm Hoa Kỳ.
    Khi trở lại Phước Long, kể cho Đại Tá Lưu Yểm, ông cười ngất.
    - Mẹ cha tụi nó. Đang đánh đấm mờ người, ai cho mày đi. Bộ mày là con Tổng Thống chắc?
    Khi nhận được thư của Tòa Đại Sứ Mỹ lần thứ nhì, tôi đang lo Ban Ba cho chi khu Đồng Xoài. Tôi biết rõ cái “chuyện riêng” là chuyện gì, và cũng thẳng thắn nói hết đầu đuôi cho Thiếu tá Khoái. Ông có vẻ mừng.
    - OK, tôi cho cậu đi phép liền. Nhớ điện thoại cho tôi biết nha.
    Băng qua đường Thống Nhất tôi vào cổng Tòa Đại Sứ đưa bức thư. Người lính TQLC liếc qua, gật đầu dẫn tôi vào phòng chờ. Đúng thật là làm việc theo lối Mỹ. Chưa đầy năm phút sau, một cô gái trẻ đẹp người Việt Nam ra chào:
    - Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng phải không ạ?
    - Thưa tôi.
    - Mời Trung Úy vào gặp ông Phó Lãnh Sự.

    Phó Lãnh sự là một người Mỹ cao to, nhất là bàn tay, y như bàn tay hộ pháp. Ông thân mật đón tôi tận cửa, và sau khi đã đâu đấy ông ta hỏi tôi rất lâu. Hình như ông ta đã đọc kỹ gia phả ba đời nhà tôi, kể cả cuộc đời lính tráng nữa. Chuyện ông muốn biết nhất là liên hệ của tôi với ông Đại Úy Cố Vấn Graves lúc tôi giữ chức vụ Đại Đội Phó Đại Đội Quyết Tử của Tiểu Khu Phước Long. Tôi thành thật kể mọi chuyện.

    Cuối cùng ông ta bảo:
    - Chính Phủ Hoa Kỳ quyết định để ông đi thăm Hoa Kỳ dưới hình thức R&R. Mọi chi phí đều do Hoa kỳ đài thọ. Đây là cơ hội để Hoa Kỳ tỏ lòng cảm ơn Trung Úy đã không nề nguy hiểm cứu một sĩ quan của chúng tôi.
    - Thưa ông Lãnh Sự, tôi cũng đã được chính phủ Hoa Kỳ mời một lần. Đây là một hãnh diện lớn cho tôi và tôi mong ước được đến thăm Hoa Kỳ và nhân thể gặp lại gia đình, bố mẹ và anh em tôi. Nhưng thưa ông Lãnh Sự, hiện tôi là một quân nhân tại ngũ, tôi nghĩ tôi không thể rời Việt Nam khơi khơi để đi Mỹ chơi.
    - Tôi hiểu. Trung Úy đừng lo, chúng tôi sẽ liên lạc với Bộ Quốc Phòng. Trung Úy cứ lo yên tâm trở về sắp xếp, hai tuần nữa trở lại đây để ra phi cơ.

    Bước ra khỏi cái cửa pháo đài mầu trắng nguy nga đấy, tôi băng qua đường hướng về phía nhà thờ Đức Bà. Lòng tôi như mở hội. Đầu óc tôi sáng suốt, trí óc tôi minh mẫn nhưng tôi bước đi hụt hẫng. Thỉnh thoảng bố tôi viết thư có nhắc là ông Sam Graves đang ráo riết vận động để tôi sang Hoa kỳ. Bố tôi vẫn thế, ít nói và nói rất vắn tắt. Thư ông không bao giờ dài dòng nên tôi cũng chỉ biết có thế. Ông Đại Úy Mỹ cố vấn ngày xưa liệu có đủ thế lực để khiêng tôi ra khỏi Việt Nam, ra khỏi súng đạn chăng? Bản thân tôi, tôi không tin và coi đó giống như cái vụ tôi đã từng hụt đi Mỹ vì thuộc thành phần Tài Nguyên Quốc Gia.

    Nhưng nay nay tôi sắp đi Mỹ thật. Tôi sắp gặp lại bố mẹ anh em thật. Lởn vởn trên toàn câu chuyện, hình như không ai nói ra nhưng ai cũng hiểu hễ đi là không về. Đi qua nhà thờ Đức Bà, tôi ngẩng nhìn. Nhà thờ xây gạch đỏ, mái lợp mầu xanh tái im lìm trang nghiêm. Tôi thấy mình đọc nhỏ câu thơ vẫn hay nghe lính tráng ngâm nga:

    Lạy Chúa con là người ngoại đạo
    Nhưng con tin có Chúa ngự trên cao

    Trong cuộc chiến tranh cái chết và cái sống chỉ cách nhau chưa đầy một phút, hi vọng nào dù mỏng manh vẫn là hi vọng. Lững thững dọc đường Tự Do, tôi tạt vào nhà sách Xuân Thu. Giờ này Dung có lớp, chắc đang ngồi trong giảng đường ghi cours. Loanh quanh trong nhà sách, tôi mua cuốn Le petit Prince, khổ nhỏ in rất đẹp. Đọc lại Ông Hoàng Nhỏ cũng đủ giết thì giờ cho đến khi Dung ra.

    Kẹp mấy tờ báo và cuốn truyện, tôi đi về phía Givral. Những con ngựa gỗ sơn mầu trắng đỏ giăng ngang đường, vòng rào kẽm gai nhằng nhịt. Tôi gật đầu chào người cảnh sát dã chiến, chỉ về phía trước. Anh ta nhìn tôi, lẳng lặng nép sang bên nhường lối. Đoàn biểu tình rất đông đang đứng dưới trụ sở Hạ Nghị Viện la hét. Cảnh sát dã chiến dùi cui khiên mây dàn ngang đối diện đám biểu tình với cả chục biểu ngữ. Phong trào chống tham những của linh mục Trần Hữu Thanh. Mấy ngày nay ở Sài Gòn đọc báo, ngày nào cũng thấy tin về biểu tình đăng to ngang với tin chiến sự. Báo bị tịch thu liên miên. Nhìn những người đi biểu tình, lòng tôi chùng xuống chán nản và không muốn giống như mấy người ngoại quốc đang ngồi trong tiệm Givral máy lạnh uống bia nhìn ra ngoài. Tôi tự thấy chướng nghĩ đến cảnh một ông lính ngồi trong tiệm xem dân chúng biểu tình nên bỏ đi một nước và nhớ đến lời bố tôi từ mấy năm về trước

    - Chắc tình hình còn lộn xộn lâu.
    Bố tôi – Đỗ Lệnh Thông – hay ngày xửa ngày xưa là ông Tú Thông vì ông học trường Bưởi và đỗ Tú Tài, vốn là người ít nói, hiền lành nhưng rất nghiêm khắc với con cái. Lịch sử Việt Nam vào những năm 1940 đầy những biến động lớn, lôi kéo cả một dân tộc vào những đau thương khốn cùng. Mỗi cá nhân mỗi gia đình lại có những chuyện để kể cho con cháu. Chuyện của bố tôi cho thấy mỗi người không bao giờ làm chủ được số phận của mình.

    Theo lời mẹ thì bố tôi học giỏi, đỗ Tú Tài hồi đó là một thành đạt. Mẹ tôi con nhà giầu, có cửa hàng lớn ở Hà Nội và đồn điền trồng cà phê nuôi cả mấy trăm con bò sữa trên mạn ngược gần núi Ba Vì. Bà kể và đối với lũ con chúng tôi thì Việt Trì Yên Bái Thái Nguyên là những địa danh xa vời, ngay cả những ý niệm về đồn điền cũng được nhìn với đầy vẻ lãng mạn. Gia đình mẹ chỉ có hai chị em gái. Người em gái của mẹ, dì tôi lấy ông Hà Bỉnh Trung. Suốt thời gian sau này gia đình ở Mỹ, tôi sống và coi chú dì như bố mẹ. Ông bà cũng coi tôi như con ruột vậy. Bố tôi có một ông anh. Ông Đỗ Lệnh Tích. Theo lời kể thì bố tôi và bác Tích tham gia phong trào sinh viên thanh niên yêu nước. Trong một buổi họp thì bị hiến binh Nhật vây kín tóm gọn cả ổ, chỉ mình bác tôi thoát. Ông đi một lèo không bao giờ trở về nhà. Sau này ông trở thành Cộng Sản, lên tới chức Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải của Hà Nội. Bố tôi thì bị bắt và bị giam vào đồn Hiến Binh Kempetai cho đến ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh mới được thả ra. Bố tôi thỉnh thoảng trầm ngâm nói với lũ con:

    - Nếu bố không bị hiến binh Nhật bắt hôm đó, rồi chắc cũng giống bác Tích, trở thành cán bộ Cộng Sản cao cấp.
    Mẹ tôi thì nhìn dưới nhãn quan khác:
    - Hay có khi chết mất xác vì bom Pháp.
    Lũ con cũng đồng ý:
    - Có khi chết vì bom Mỹ , B52
    Bố tôi nghiêm mặt nói:
    - Các con có biết tại sao bố đổi chữ lót nhà mình không? Gia đình từ xưa tên con trai bao giờ cũng lót bằng chữ Lệnh. Hồi đó bố củng bác Tích tham gia phong trào thanh niên nhưng không hề theo Cộng Sản. Bố thấy họ tàn ác quá, sát hại biết bao nhiêu đảng viên của các đảng quốc gia. Hễ không theo ông Hồ và Cộng Sản là họ coi như kẻ thù và bố thấy họ thù người quốc gia hơn cả Pháp nữa. Bởi vậy, khi vào Nam được biết bác Tích đi theo kháng chiến và là đảng viên Cộng Sản, bố quyết đinh đổi Lệnh thành Lịnh. Khi ra tòa hoà giải làm thế vì khai sinh bố đổi hết. Bố là Đỗ Lịnh Thông, thằng Dũng là Đỗ Lịnh Dũng. Lịnh tiếng Nam cũng như Lệnh tiếng Bắc nên bố nghĩ ông nội ở dưới ấy chắc không buồn. Có khi ông nội còn gật gù đồng ý nữa là đằng khác.

    Tôi hiểu quyết định của bố như một thái độ quyết liệt không muốn dây mơ rễ má gì với phe bên kia, dù là anh mình, dù là ruột thịt. E rằng ông bác của tôi cũng chả muốn dây dưa gì với gia đình tôi nữa. Như vậy trên giấy tờ, tôi là Đỗ Lịnh Dũng, nhưng tên cúng cơm của tôi là Đỗ Lệnh Dũng. Trong thâm tâm thôi thích được goi là Đỗ Lệnh Dũng hơn.

    Gia đình hai bên canh rất kỹ nên bố tôi không thể đi làm cách mạng được, đành quay sang học chữ Nho và Anh Văn. Sách vở tiếng Anh hồi đó hiếm hoi lắm. Trong khi mò mẫm ông gặp được một người Mỹ là phó Lãnh sự Donnell. Ông Mỹ muốn học tiếng Việt. Ông Việt muốn học tiếng Mỹ. Họ trở thành bạn. Nói về ông Donnell, bố tôi bảo :

    - Hồi đó ở Hà Nội có chục người Mỹ là cùng. Dám là CIA hay OSS gì đó nhưng ông ta rất tốt, dễ chịu và vui tính.
    Ông Mỹ tốt ấy đã tìm cho bố tôi một cái học bổng đi Mỹ vào năm 1952. Đa số trí thức hồi đó đều được đào tạo theo văn hóa Pháp, hiếm người thông thạo tiếng Anh. Về lại Việt Nam, bố tôi trở thành chủ sự Phòng Thông Tin Báo Chí Hoa Kỳ đầu tiên tại Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh Việt Pháp đã đi đến giai đoạn cuối với Điện Biên Phủ và Hiệp Định Genève, bố tôi được điều động vào Sài Gòn. Ông đem tôi đi theo, cả nhà vẫn ở lại Hà Nội.

    Tôi còn nhớ hai bố con được Tòa Đại Sứ mướn cho một phòng rộng mênh mông tại khách sạn Continental. Bố tôi đi làm còn tôi thì hết lên lại xuống cái cầu thang máy, một văn minh tiến bộ vượt bực đối với một đứa trẻ mười tuổi đầu như tôi. Và tôi vẫn còn nhớ những buổi sáng chủ nhật hai bố con ngồi ăn sáng với dao nĩa, bánh mì, trứng ốp la, bơ và mứt dâu trong cái vườn nội thất của khách sạn với những ông bồi nói tiếng Tây như sấm.

    Sau Hiệp Định Genève, cả nhà tôi kéo vào Sài Gòn. Chúng tôi sống xa hẳn Hà Nội từ đó. Tôi choáng ngộp với Sài Gòn ngay từ ngày đầu, tôi quên hẳn Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm và những rặng sấu mọc dọc các phố Hànội. Sàigòn rộng hơn, bát ngát hơn, ồn ào hơn và nhất là có sirô đá nhận, năm cắc một ly, không có tiền thối lại thì a-lê, xé đôi đồng giấy bạc cũng được.

    Cuộc sống trôi êm đềm như mặt hồ. Bố tôi đi làm, mẹ tôi lo cơm nước. Lũ con khá đông, chín đứa năm trai bốn gái, tíu tít suốt ngày. Tôi không nhớ trong khoảng trong khoảng thời gian nào, bố tôi chuyển sang làm việc cho Asia Foundation. Ông phải đi liên miên ra Trung, xuống đồng bằng, lên Cao Nguyên để thị sát các công trình viện trợ nhân đạo.

    Có một dạo rất nhiều tài tử minh tinh đến nhà tôi trong đó đáng nhớ nhất là tài tử Lê Quỳnh và minh tinh Khánh Ngọc cùng các ông Đỗ Bá Thế, Vĩnh Noãn. Bố tôi đã đóng góp rất nhiều về việc viết đối thoại và phân cảnh cho phim “Chúng Tôi Muốn Sống”. Khi anh em ông Diệm bị bắn chết vào năm 1963 , một hôm bố tôi nói với cả nhà:
    - Tình hình chắc không ổn. Chắc lộn xộn lâu, xáo trộn lớn. Có khi mình phải đi.
    Trên tôi là bà chị Đỗ Thị Như Mai. Tôi là con trai trưởng. Lũ em nhỏ nhất là Đỗ Lệnh Kiên. Cả lũ chín đứa chẳng đứa nào chịu để ý đến lời bố tôi nói cho đến khoảng vài tháng sau. Mẹ tôi biết trước nên chẳng có lấy gì làm ngạc nhiên lắm, nhưng chúng tôi đều nhẩy cỡn lên trước lời tuyên bố của bố tôi:
    - Nhà mình sẽ đi Mỹ
    - Mình bố hay cả nhà
    - Cả nhà.

    Đó là năm 1964. Sài Gòn như một cái chảo dầu sôi sùng sục hết đảo chánh thì chỉnh lý. Sinh viên học sinh biểu tình tứ tung. Bố tôi theo dõi những biến chuyển chính trị, còn tụi tôi ngày ngày vẫn cắp sách đến trường hí hửng chờ ngày đi Mỹ. Bố sẽ được làm ngay tại Washington DC, tại Bộ Ngoại Giao Mỹ và tụi tôi tới tấp tìm đọc về White House, về Washington Monument và bàn tán loạn cào cào.
    Một buổi tối đang ăn cơm, bố tôi chậm rãi bảo:

    - Chắc thằng Dũng không đi được. Nó thuộc “tài nguyên Quốc Gia”, không đi được..
    Thực tế là tôi đã 18 tuổi, đến tuổi cầm súng. Tôi xìu xuống như bong bóng hết hơi. Mẹ tôi thì làm dữ. Nhưng rồi không có gì thay đổi được bố tôi. Ông nhất định không xin xỏ gì để cho tôi đi. Trước áp lực của mẹ hoặc đi cả nhà hoặc ở lại, bố tôi nói:
    - Tôi không thể mở miệng xin xỏ gì được với Bộ Quốc Phòng. Tôi cũng không thể nhờ người Mỹ can thiệp. Người ta cũng có con đi lính, tại sao con mình đòi đặc ân? Người Mỹ sẽ coi tôi ra sao nếu tôi mở miệng nhờ vả. Con cái họ cũng sang tận đây đánh nhau, tôi lại xin họ giúp cho thằng Dũng trốn đi Mỹ được sao?

    Bố tôi vậy đó. Chuyện đi hay ở bỗng khựng lại vì tôi. Vấn đề được khai thông nhờ bà dì. Nguyên chú Hà Bỉnh Trung đã mãn giao kèo mang cả nhà về lại Việt Nam. Ông là phụ tá giảng viên tại Fort Benning, nơi người Mỹ huấn luyện sĩ quan Việt Nam đánh giặc theo kiểu Mỹ. Bà dì Đàm Thị Hiếu khuyên mẹ nên đi và bà kể lại về nước Mỹ, về những cơ hội học hành cho lũ nhỏ và nhất là đồng ý lo lắng chăm sóc “cho thằng Dũng”.

    Vào năm 1964 tôi mất gia đình ruột thịt bố mẹ nhưng tôi tìm được một gia đình khác ấm cúng không kém, Gia đình chú dì và một lũ em sáu đứa, nhỏ nhất là Tâm và lớn nhất là Hà Chính Quyền. Cũng chính từ gia đình này tôi quen Dung.

    Vậy đó, Tài Nguyên Quốc Gia nay đã trở thành Trung Úy khói lửa đầy người. Vậy đó, bố tôi không muốn tôi tôi trốn lính đi Mỹ nhưng nay tôi sắp đi sang đó để thăm ông. Không phải chỉ thăm mà có lẽ sẽ ở luôn với ông không chừng. Cho đến mãi về sau này tôi vẫn không hiểu khi Phó Lãnh Sự Mỹ nói rằng họ sẽ liên lạc với Chính Phủ Việt Nam là liên lạc thế nào? E rằng họ sẽ chẳng liên lạc quái gì. Họ chỉ việc bỏ tôi lên xe bus, chở thẳng tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất, đẩy tôi lên phi cơ quân sự thế là xong. Cách gì đối với tôi cũng được, miễn là tôi được đi, được rời xa súng đạn.

    Bỏ đám biểu tình, lang thang một hồi tôi trở về nhà, nằm khểnh vừa đọc sách vừa nghe nhạc chờ Dung. Đang lơ mơ trong tiếng hát Thái Thanh, thì Dung tung cửa ào vào. Ánh nắng phía Tây chói chang ùa theo nàng làm sáng rực căn phòng khách. Như một con chim sẻ, nàng hất đôi guốc ra khỏi chân, tung tăng chạy xà tới tôi. Chúng tôi hôn nhau tới tấp.
    Sau khi đã lấy lại hơi thở, Dung nép vào ngực tôi chờ đợi.
    - Hai tuần nữa anh đi.
    - Thật không? Sao lẹ dữ vậy?
    - Mỹ mà. Cái gì cũng nhanh như chớp.
    - Vậy còn đám cưới…
    - Anh đã suy nghĩ kỹ. Em là con gái xin du học không khó khăn, nhất là có bố mẹ bên đó bảo lãnh. Em lại học giỏi, đại học Mỹ thế nào cũng nhận. Anh sang đó trước, em sẽ đi sau.
    Dung im lặng trước viễn ảnh chúng tôi phải xa nhau và cái đám cưới dự trù vào GiángSinh này có thể không thành.
    Tôi nói:
    - Nếu muốn, tụi mình nói chú dì và ba má làm đám cưới tuần tới.
    - Giỡn hoài. Cưới xin đâu có thể ào ào như vậy, ba má không chịu đâu.
    Tôi kéo nàng đứng dậy:
    - Chuyện đâu còn có đó, để thưa với ba má sau, bây giờ đi chơi. Ra Continental uống cà phê.
    Nhìn tôi vẫn mặc đồ lính nàng nhăn mũi:
    - Thay đồ đi anh. Cái áo lính ghê thấy mồ.
    - Anh mặc đồ lính cho khỏi rắc rối. Cỡ này cảnh sát đầy đường, xét giấy tùm lum mất công. Mặc đồ lính để mai mốt đỡ nhớ. Giã từ vũ khí.
    - Adieu aux armes.

    Lựa một cái bàn gần bụi cây, nơi có nước chảy róc rách, tôi gọi cho Dung một ly cà phê Liègeois còn tôi chơi một ly Baby. Cà phê Liègeois là thứ có kem tôi chúa ghét nhưng lại là món tủ của Dung. Baby là một ly Johnny đỏ pha với soda trong cái ly bé bằng nửa ly thường, không ghi trong thực đơn nhưng anh bồi cũng hiểu tôi muốn gì.

    So với hồi xưa lúc tôi còn bé, bề ngoài nơi đây không thay đổi gì. Nhưng với tôi mọi sự khác hẳn. Ông Tây Bà Đầm nhàn nhã ngồi đọc Journal d’Extrême Orient uống cà phê, trà đen trên đĩa bánh ngọt bé tí tẹo nay đâu mất. Thay vào đó là những ông Mỹ to dềnh dàng, uống bia cầm cả chai tu hoặc những ông nhà báo lỉnh kỉnh máy chụp máy quay. Họ ồn ào hơn người Pháp. Mấy ông bồi bàn ăn mặc đồng phục mầu trắng nay cũng xổ toàn tiếng Anh, không còn Monsieur Madame như ngày xưa khi tôi lần đầu tiên mới đến Sài gòn lúc mới 10 tuổi. Gần hai mươi năm nước chảy qua cầu, chiến tranh mỗi lúc một khốc liệt, chữ thời thượng là “leo thang” và bây giờ là “Việt Nam Hóa”.
    Từ góc vườn nhìn ra, pho tượng TQLC đen sì đồ sộ đang ở thế lao tới. Những vòng rào, vòng kẽm gai vẫn còn đó nhưng dã được thu gọn lại. Có thể ngày mai lại được giăng ra để chặn biểu tình.

    Mọi sự rối tung beng. Tôi nhớ một ông bạn của chú Trung đã lắc đầu nhìn thấy pho tượng. Ông bảo pho tượng không cân, lại ở thế xung phong chĩa súng, lưỡi lê vào ngay cửa Quốc Hội, e là điềm không lành. Một vị khác thì nói Công Trường Hồ Con Rùa được xây theo dạng cái đinh đóng xuống là do lệnh của Tổng Thống Thiệu. Nghe lời bàn của thầy phong thủy rằng đuôi của con rồng nằm ở đó e nó quẫy đi mất nên Tổng Thống sai kiến trúc sư vẽ kiểu xây Công Trường Tự Do nhưng kỳ thật nó là cái đinh đóng cho rồng không quẫy. Từ lúc nghe lời bàn, lần nào đi qua đó tôi cũng nhìn thấy cái đinh đóng cao nghệu tủm tỉm cười. Chú tôi thì bảo rằng khi cái thế nước nghiêng ngửa, những điềm gở hay xảy ra. Gở hay không tôi cũng sắp rời khỏi nơi đây.

    Hai đứa thủ thỉ đủ thứ chuyện, nhất là chuyện Dung có thể xin du học Mỹ hay không? Hồi năm trước Dung đỗ Bac II Mention Très Bien được học bổng đi Pháp nhưng vì tình yêu Dung đã ở lại với tôi bất chấp sự giận dữ của gia đình. Tôi ngồi xoay xoay ly rượu nhỏ, ngắm khuôn mặt sáng, nghịch ngợm và mái tóc đen xõa ngang vai nhớ đến lần đầu chúng tôi hôn nhau.

    Thật ra tôi xúc động ngay từ ngay lần đầu tiên nhìn thấy nàng. Khi sống với gia đình chú dì, tôi vẫn kèm mấy đứa em lúc đó đang học Marie Curie. Một hôm Mỹ Châu nói có đứa bạn học chung muốn hỏi bài vở. Tôi vốn chiều Mỹ Châu nên gật đầu ầm ừ. Hôm sau cô bé đến trong jupe trắng. Tôi như chết sững trước hình ảnh thiên thần. Hồn nhiên vô tư và rất bạo dạn, từ Dung tỏa ra niềm thánh thiện thanh khiết làm tôi choáng váng. Tôi đủ chững chạc để đóng vai ông anh kèm bài nhưng trong thâm tâm tôi biết chắc rằng Dung đã thuộc về tôi, Dung sẽ là của tôi.

    Suốt hai năm, không một lời tán tỉnh, nhưng tôi biết Dung đã nhìn tôi khác. Vào mùa hè sau mùa thi Tú Tài một, Dì Chú Trung cho cả nhà đi Vũng Tàu chơi và Dung cũng được mời.

    Bãi sau Vũng Tàu cát trắng phau. Cả nhà nô đùa, bơi lội và chiều chiều ngồi ăn cơm canh chua cá dứa, thịt kho tộ ở những quán lộ thiên dọc theo bờ biển. Chiến tranh vẫn khốc liệt ở khắp mọi nơi, nhưng riêng ở đây, không ai lý đến nó. Cái ám ảnh duy nhất là một vài anh lính Mỹ ô dề cặp kè với mấy người đàn bà Việt Nam son phấn loè loẹt. Hoặc là cảnh một hai người ăn mày què cụt đi xin tiền. Nhưng tiếng sóng biển át đi những hình ảnh gợi nhớ đến súng đạn. Quên được lúc nào quí lúc đó.

    Tụi tôi tình trong nhưng đã nhưng hai đứa vẫn còn giữ ý tứ, giữ khoảng cách. Đây là lần đầu tôi thấy Dung thật sự là một thiếu nữ. Bộ đồ tắm làm nổi bật thân hình cân đối và nắng Vũng Tàu làm da nàng hồng lên. Tôi nhớ rõ tối hôm đó trời không trăng nhưng trong và nhiều sao. Cả nhà tản đi xuống bãi dạo dọc theo bờ biển. Cố ý hay vô tình tôi và Dung tách riêng ra hướng về phía Ô Quắn. Nàng vừa đi vừa đá những đợt sóng xô dạt vào bờ làm nước bắn tung toé. Đang đi nàng chạy, tôi đuổi theo, nhưng vẫn cố không vượt. Được một quãng, Dung ngừng lại thở.

    - Mệt hả?
    - Mệt thấy mồ.

    Tôi đi song song, nắm lấy tay Dung. Nàng để yên. Đây là lần đầu tiên hai đứa nắm tay nhau. Một cảm giác êm ái nhẹ nhàng lan ra khắp người. Tôi nói:
    - Mình tới mấy hòn đá ngồi nhìn biển.

    Dung siết nhẹ tay tôi không nói năng gì. Tôi ngửi thấy mùi thơm của hơi thở. Tôi nghe thấy cả tiếng tim mình hay tiếng tim Dung đang đập. Đá ở bãi Ô Quắn nhiều và lớn. Hai đứa mò mẫm, tôi đưa tay cho Dung níu, kéo nàng lên.

    Sóng biển rì rào đập vào đá, bọt tung trắng xóa. Đêm thẫm mầu ngoài xa. Khi tôi hôn nàng, mới đầu Dung như muốn đẩy tôi ra nhưng ngay sau đó, tay nàng vòng qua cổ tôi. Hai đứa hôn nhau như thể đã chờ đợi từ kiếp nào. Môi Dung nóng bỏng, đượm vị mặn của biển. Tôi lùa tay trong tóc nàng. Dung từ từ ngả người trên tảng đá, hai tay xỏa ra, ngực phập phồng trong chiếc áo pull xanh mầu lá chuối. Tôi chống tay cúi xuống. Mặt nàng lung linh trong đêm, như thật, như mơ, như từ cõi xa xăm nào hiện về, tôi nhẹ nhàng và rồi chúng tôi quấn lấy nhau.

    Bỗng như thoát khỏi cơn mê, Dung đẩy tôi ra đứng dậy, nàng nhảy bước một ra khỏi tảng đá, rồi vừa đi vừa chạy về phía khách sạn. Suốt hai ngày cuối của kỳ nghỉ hè, Dung tránh tôi, cố ngồi riêng ra và luôn né không nhìn thẳng vào tôi. Mãi sau này nàng mới nói là sợ mọi người biết.

    Nhưng rồi mọi người đều biết. Làm sao có thể dấu được tình yêu? Lũ em như Ngọc Diệp, Mỹ Châu thì ủng hộ hết mình, sẵn sàng nói dối để bao che cho Dung đi chơi với tôi. Đời tôi như mở hội. Tôi thấy ai cũng đáng yêu. Tôi thấy cuộc đời đẹp quá. Rồi chú dì cũng biết. Rồi ba má Dung cũng biết.

    Trở ngại xuất hiện khi Dung đỗ Tú Tài. Nàng được học bổng đi Pháp. trong hoàn cảnh hỗn độn của chiến tranh, được đi du học là một vinh dự lớn và cũng là một lối thoát lớn. Bố mẹ Dung hãnh diện trước tương lai sáng lạn của con gái. Tôi còn nhớ khi Dung dùng dằng trước áp lực của gia đình, đẩy nàng tới chọn lựa giữa tôi và nước Pháp đầy quyễn rũ. Tối hôm đó, tôi nói với Dung:

    - Đây là quyết định lớn nhất trong đời em. Điều duy nhất anh có thể nói là nếu em đi Pháp, chắc chắn là chúng ta sẽ xa nhau vĩnh viễn.
    - Anh bắt em chọn anh hoặc tương lai của em.
    - Không. Hai đứa mình hoặc có cùng tương lai hoặc không. Ngay khi nhìn thấy em lần đầu hồi đó, anh đã tự nhủ sẽ cùng em chia sẻ cuộc đời. Đến bây giờ anh vẫn tâm nguyện như vậy.
    Dung yên lặng không nói năng gì. Nàng cầm tay tôi mơn man , ngả đầu dựa vào vai tôi. Nàng nhỏ nhẹ:
    - Em yêu anh. Đời em là của anh.
    Nàng đứng dậy kéo cái áo pull khỏi đầu. Tôi hiểu nàng muốn dâng hiến, muốn nói rõ với tôi là không có gì có thể chia lìa hai đứa.
    - Anh yêu em.

    Chúng tôi ôm nhau quấn quít. Chúng tôi bất chấp mọi sự. Chúng tôi chỉ biết có nhau. Chúng tôi làm tình lần đầu như mọi sự diễn ra tự nhiên như đã trao cho nhau tất cả từ lâu, từ lúc gặp nhau lần đầu.

    Khi tôi viết thư xin phép bố mẹ làm đám cưới thì bà cụ không chấp nhận. Lý do là Dung “tây” quá, tự nhiên quá, “đầm” quá e sẽ không là một người con dâu hiền, một người vợ đảm. Tôi thì chết sững trước thái độ của mẹ. Tôi viết thư nói sẽ chiều mẹ, xa Dung và để có thể quên, tôi sẽ xin thuyên chuyển qua Biệt Kích Dù để dấn thân vào lửa đạn ngõ hầu lấp đi nỗi buồn. Đòn thấu cáy của tôi thành công vì mẹ gửi một chiếc nhẫn đính hôn cho con dâu tương lai.

    Đời đẹp quá. Vài ngày nữa tôi sẽ có mặt ở Mỹ, ở Hoa Thịnh Đốn. Chậm lắm là vài tháng sau, Dung sẽ qua sum họp. Tôi nói với Dung:
    - Ngày mai anh sẽ về Đồng Xoài từ giã anh em đồng đội.

    - Em đi với anh. Thiếu Tá Khoái dễ thương, em cũng muốn chào ông lần cuối. Em muốn xem tiền đồn heo hút của anh ra sao.
    - Đâu được. Đi đứng bây giờ khó khăn, lỡ có gì làm sao anh lo cho em được. Chỗ lính tráng súng đạn đâu phải chỗ em coi. Trông bộ dạng đầm của em mà xuống đó chắc cả Đồng xoài đổ ra ngắm. Không được đâu.

    - Vậy để em gửi ít đồ cho mấy ông lính bạn anh.
    - Giã từ vũ khí thì cũng nên chơi đẹp với người ở lại.

    Rời khỏi Continental, tụi tôi lang thang trên Catinat và sau đó rẽ vào ngõ Asam. Tôi nghiệm ra một điều. Văn hóa văn hiến không chỉ là sách vở từ chương, không hẳn là những gì có tính cách nhất thời. Nó phải được truyền lại từ đời này sang đời khác. Người Pháp đã đô hộ Việt Nam cả trăm năm, tôi và Dung học trường Pháp, thuộc sử Pháp, thơ Tây nhưng chúng tôi là người Việt, suy nghĩ và hành sử như bất cứ người Việt Nam nào. Phải chăng là nhờ bún riêu, nhờ bánh tôm, bún ốc ở ngõ Asam? Cái suy nghĩ dấm dớ đó khiến tôi chơi hết một mẹt bún chả. Rau muống chẻ sao mà giòn thế. Miếng chả nướng sao mà thơm thế. Nước mắm sao mà mặn mòi thế. Dung thì chỉ bún ốc với nước mắm gừng. Thấy tôi ăn lấy ăn để, Dung cười:

    - Sang Mỹ đâu có chỗ nào bán bún ốc ,bún chả .
    - Em phải học nấu mấy món Việt Nam kẻo sang đấy thèm chết luôn.
    - Ăn xong đi xinê không?
    - Ăn xong xuống bà Thái Chi.

    Bà Thái Chi là bà bán cà phê ở góc đường Hiền Vương và Nguyễn Phi Khanh. Quán cà phê của bà không có bảng hiệu và bé tí teo với vài chục cái ghế đẩu. Đặc biệt quán không có nhạc và nếu kỳ kèo thì bà chủ có thể chiên cho khách một hai trứng ốp la nhưng chịu khó đem theo bánh mì.
    Dung hiểu ý tôi. Viễn ảnh xa hẳn Sài Gòn khiến tôi muốn lần cuối đi tới những chỗ thân tình để níu kéo kỷ niệm. Dung và tôi vẫn hay ngồi cả buổi ở quán và bà Thái Chi biết tên tuổi tụi tôi và cả nhà riêng nữa vì Dung cũng ở đường Hiền Vương.
    Bà Thái Chi lanh chanh nhỏ nhẹ và ít nói nhưng cà phê của bà ngon nhất xứ. Thấy tụi tôi sà vào, bà nửa cau có nửa vui mừng:

    - Đi đâu mà trễ thế. Uống lè lẹ cho tôi đóng cửa.
    - Hà, đến uống cà phê của chị lần cuối. Tụi này đi xa.
    - Cả cô Dung hay có mình chú?
    - Em đi trước. Dung đi sau.
    - Dọn đi đâu vậy? Thời buổi này chỉ có ở Sài Gòn là hơn cả.
    - Dọn đi Mỹ
    - Mỹ? Nó cho đi rồi à?
    Bà Thái Chi cũng loáng thoáng biết chuyện của tôi. Tối đó bà khép cửa không tiếp khách và thân chinh ngồi uống cà phê với tôi và Dung đến khá khuya. Khi chia tay bà bảo:
    - Lúc nào rảnh viết thư tả cà phê Mỹ cho chị.

    Hôm sau cùng với một ba lô toàn đồ ăn, tôi leo lên phi cơ của đồn điền Đất Đỏ. Tôi sẽ nói lời ân tình với anh em đồng đội trước khi đi Mỹ. Đã được trui rèn nên gần suốt mười năm trong cái sống cái chết tôi hiểu thế nào là tình bằng hữu, là tình lính tráng. Nó không bao giờ được đề cập đến bằng những ngôn ngữ đầy vẻ tuyên truyền nhưng nó hiện thực trong cuộc đời của những chia sẻ ngọt bùi vào những lúc gian nan nhất.

    Điều mà tôi không bao giờ nghĩ tới là tôi sắp xa Dung, xa Sài Gòn, giã từ anh em đồng đội thật, nhưng không phải là đi Mỹ mà để đi Bắc. Những địa danh Lào Cai Yên Bái ngày xưa nghe mẹ kể, rất nhanh không còn là những địa danh mơ hồ đầy vẻ lãng mạn của đồn điền cà phê, của đàn bò sữa. Bởi tôi đến đó trong tư thế của một tù binh. (còn tiếp)

  2. #8
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Đổ Lệnh Dũng - Lê Thiệp - Chương 3 & Chương 4

    Sẽ đăng 2 chương một lần cho dể đọc. Nếu để tất cả các chương trong một topic thì dài, khó khăn cho độc giả phải scroll xuống để đọc tiếp......

    CHƯƠNG 3


    Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân thay đổi toàn bộ cục diện cuộc chiến Việt Nam và đẩy đời tôi vào một hướng khác. Lúc đó tôi đang học Luật năm thứ Ba , dù chiến tranh mỗi lúc một khốc liệt , nhưng đó là chuyện xảy ra đâu đó ngoài Trung, trên Cao Nguyên hay dưới đồng bằng Cửu Long. Trường Luật ở góc đường Duy Tân cây dài bóng mát vẫn êm đềm trôi với Dạ Vũ Tất Niên và các “Ban PhaMi” được tổ chức liên tu bất tận ngay từ lễ Giáng Sinh.


    Thật ra thì cũng còn có các sinh hoạt mang mầu sắc khác đầy đấu tranh và chính trị, nhất là trong các cuộc bầu cử Ban Đại Diện Sinh Viên. Thỉnh thoảng tôi cũng vớ được tờ truyền đơn. Thường thì tôi chỉ liếc mắt đọc sơ. Cuộc đời còn có cái đáng để ý hơn ba cái vụ Cải Thiện Chế Độ Lao Tù, Chuồng Cọp hay những cuộc biểu tình phản chiến ở tận Đông Kinh , hoặc đại học Kent, Berkley. Với tôi đời là Dung, là những tháng dung dăng dung dẻ ở Catinat.

    Tối Giao Thừa ngồi đánh xì dách với lũ em đến quá Giao Thừa. Dì nấu một nồi bún thang tuyệt vời. Tiếng pháo Giao Thừa từ phía ngoài vọng vào khiến bà bảo: “Chỉ phí tiền. Giặc giã thế này có gì vui mà nêu với pháo”. Dù trước đó có một thoáng dư luận đồn đại “Tết này sẽ ăn bánh chưng chấm máu” nhưng chẳng ai để tâm. Lời đồn lúc nào chẳng có và lúc nào cũng là chuyện kinh hoàng. Thiên hạ vẫn tíu tít lo bánh mứt, đi chợ mua hoa đào Đà Lạt, sang hơn nữa mua hoa đào Hồng Kông, đi lựa mai, đi kén những bó glaïeul thật đỏ cho nó hên.
    Dân miền Nam ăn bánh chưng chấm máu thật.

    Tiếng pháo Giao Thừa không chỉ là M16 và AK47. Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân của Hà Nội cứ theo sử sách tôi đọc là một sai lầm của ông Hồ Chí Minh. Sai lầm của ông Hồ thì nhiều nhưng lần này nó ảnh hưởng trực tiếp tới tôi. Tổng động viên. Tôi nhận được giấy đi trình diện để vào Thủ Đức.

    Tôi còn nhớ gì chăng? Lũ sinh viên chúng tôi lúc đó vẫn tìm cách để tóc như hippy, như những anh chàng phản chiến no war but love. Tấm poster tôi treo ở đầu giường là ảnh hai người nam nữ ôm nhau, chân xõa ra trong một cái vòng tròn, biểu tương cho phong trào chống chiến tranh.

    Bỗng nhiên chúng tôi được phát quân trang quân dụng , nhét đầy một cái sắc nhà binh lớn – sắc-ma-ranh – và cũng lũ lượt chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đẩu để cắt tóc. Đúng ra là để hớt trọc. Cái tông đơ cùn nhai không đứt khiến đầu chúng tôi lởm chởm như bờ cào. Các ông Huynh Trưởng lúc nào cũng hét, hò luôn mồm “Huynh Trưởng, Đàn Em” lôi lũ tôi ra chạy chào Vũ Đình Trường. Cả đời sinh viên dù có bơi lội và khá khoẻ, tôi vẫn không quên cảnh vừa ôm cái sắc đủ thứ quân trang lỉnh kỉnh, vừa chạy trong cái sân trường Thủ Đức có tên nhà binh là Vũ Đình Trường. Có lúc tôi đánh rơi, cái sắc tung ra khiến quần áo nhà binh vãi tùm lum. Ông Huynh Trưởng Alpha cúi xuống sỉ vả hò hét inh ỏi, bắt tôi hít đất.

    Tôi chỉ nhớ có thế, bởi đầu óc của tôi chưa giúp tôi hội nhập vào đời sống quân trường. Hễ lỉnh được là tôi lỉnh. Những buổi tập bắn, tập di hành, học ngoài bãi là những lúc tôi ngủ gà ngủ gật. Tôi còn nhớ một vị Đại Úy Huấn Luyện Viên môn tác xạ đã mắng chúng tôi không biết lợi dụng cơ hội này để trau dồi “nghề nghiệp”. Ông ta bảo để huấn luyện một sĩ quan, chính phủ phải tốn hơn một triệu đồng! Điều mà ông quên không nói là chúng tôi bị đi lính, không phải đi lính tình nguyện, lính nhà nghề, chọn binh nghiệp như một lối thoát, như một đường thăng tiến.

    Có lẽ vì nhu cầu chiến trường, tôi nhớ khóa tôi tốt nghiệp toàn bộ không ai đi Trung Sĩ. Nhưng cũng thi cử đàng hoàng và vì vậy có thứ tự ra trường. Những người đậu cao, hoặc cao lớn khoẻ mạnh đẹp trai được nhận vào những đơn vị ưu tú của quân đội như Biệt Kích, Dù, Thủy Quân Lục Chiến, hoặc cóquyền chọn những đơn vị phè, gần Sài Gòn. Tôi đậu thấp và khi bắt thăm thì giấy đề sư đoàn 23 đồn trú ở Ban Mê Thuột. Trời đất như sụp đổ. Từ Ban Mê Thuột về Sài Gòn làm sao được? Làm sao gặp Dung? Tôi hỏi người này người kia xem có ai muốn chuyển hoán chăng? Đâu cũng được, đơn vị nào cũng xong miễn sao gần Sài gòn. Một ông có gia đình ở Ban Mê Thuột bằng lòng hoán chuyển. Ông ta đậu cũng thấp cỡ tôi và bố được tiểu Khu Phước Long. Âu cũng là cái duyên, cuộc đời lính tráng của tôi và đất Phước Long trở nên mật thiết chỉ vì tôi nghĩ Phước Long ít ra cũng gần Sài gòn hơn Ban Mê Thuột. Tỉnh Trưởng Phước Long, Trung Tá Huy bắt phải lên cho ông xem mặt. Ông là một sĩ quan liêm khiết, yêu quân đội và đầy khả năng. Khi trình diện ông, Trung Tá Huy nhìn tôi rồi bảo:

    - Những gì Chuẩn Úy học được ở Thủ Đức chỉ là căn bản. Quân đội là một trường học mênh mông, Chuẩn Úy phải mở to mắt ra mà nhìn. Những người như Chuẩn Úy chỉ là những người lính bất đắc dĩ nhưng khi đất nước cần thì chúng ta phải chấp nhận. Luật lệ ở tiểu khu do tôi chỉ huy không có vụ phè, vụ con ông cháu cha. Ra trường về đây Chuẩn Úy có sáu tháng thực tập, ba tháng ở Trung Tâm Hành Quân và ba tháng ở đơn vị tác chiến. Sáu tháng sau Chuẩn Úy trở lại đây trình diện tôi để nhận nhiệm sở chính thức.
    Tôi không bao giờ quên vị Trung Tá khả kính này và những lời ôn tồn của ông. Tôi được cử xuống học nghề lính thứ thiệt ở Trung Tâm Hành Quân với Đại Úy Lê Tán Vậy. Cái kiến thức sơ đẳng của Trường Bộ Binh Thủ Đức không ăn nhập gì với thực tế chiến trường. Tôi phải học cách đọc lệnh hành quân, học liên lạc truyền tin, học nhìn phóng đồ, chấm tọa độ, học về tiếp liệu. Đại Úy Vậy là một sĩ quan hết lòng tận tụy chỉ dạy. Tôi vẫn nghĩ nếu tất cả như Trung tá Huy và Đại Úy Vậy, có lẽ miền Nam còn đứng vững. Được cái tôi thích nghi với hoàn cảnh rất mau và cũng do tính tò mò, ưa học hỏi, tôi đã có một cái nhìn khác về quân đội, về lính tráng. Ít ra là chiến tranh không phải là chuyện cà dỡn mà là chính mạng sống của con người.

    Ba tháng ở TTHQ lúc nào tôi cũng y phục chỉnh tề và khi nhận được sự vụ lệnh thực tập giai đoạn hai với một tiểu đoàn Biệt Động Quân tăng phái, tôi vẫn mửng cũ, trong suy nghĩ đã là sĩ quan thì lúc nào cũng phải gương mẫu.

    Ngay sau ngày trình diện vị tiểu đoàn trưởng, sáng hôm sau tôi ba lô súng đạn tham dự một cuộc hành quân tảo thanh. Lệnh rõ ràng là phải chuẩn bị cho sáu ngày nên tôi ra phi trường với một ba lô căng phồng nặng trĩu gồm trang bị như xẻng đào hố cá nhân, gạo sấy, bi đông nước, mũ sắt bọc lưới ngụy trang và nhất là quần áo chỉnh tề, ủi hồ nếp phẳng lì.

    Khi trèo lên xe jeep để ra ngoài bãi đáp chia toán trực thăng bốc, người tài xế nhìn tôi tủm tỉm cười nhưng không nói gì. Đến khi nhìn thấy những người lính biệt động quân nằm ngồi la liệt bên cạnh những chiếc trực thăng, tôi ngượng chín cả người. Họ quần áo tơi tả, mũ sắt tróc sơn loang lổ, đôi khi còn đen sì vì có lẽ còn được dùng để nấu nướng. Trông họ phong sương, vết tích chiến trận còn hiện rõ nơi đôi giầy vẹt gót, bẩn thỉu nheo nhếch, nơi những chiếc ba lô sờn rách và nhất là những gương mặt đen đúa, khắc khổ. Họ nhìn ông Chuẩn Úy hộp, giày láng bóng, mũ sắt mới lãnh trong kho và cả cái giây ATB trông cũng rất điệu với khẩu Colt xệ xuống và ai nấy đều cười.
    Nhưng rất nhanh tôi thích nghi với hoàn cảnh. Lần đầu đi hành quân tôi chỉ đem theo có một bi đông nước và lúc đổ nước vào gạo sấy thì mất gần nửa bình. Mới hơn nửa ngày di hành, tôi không còn một giọt nước, khát khô cổ nhưng không đủ can đảm xin ai. Ông thượng sĩ già hình như đã nhiều kinh nghiệm với cảnh lính mới tò te, đã đưa cho tôi một bi đông đầy nước và dặn:

    - Chuẩn Úy đừng lo đói. Cái khát mới đáng sợ.
    Đại Úy Khoái lúc đó là Đại Đội Trưởng sau cuộc hành quân vỗ vai tôi:
    - Sĩ quan đi hành quân không cần đem xẻng theo.
    Ngay lúc đó tôi nghĩ có lẽ đã là sĩ quan thì không có quyền trốn tránh trong cái hố cá nhân mà phải hiên ngang đứng trên mặt đất. Sau này tôi không còn ngây thơ như vậy nữa.

    Biệt Động Quân là một trong những binh chủng thiện chiến, nhưng như lời của Đại Úy Khoái “chuyên môn làm con nuôi, con ghẻ“. Khác với Dù và TQLC, đa số các tiểu đoàn Biệt Động Quân là những đơn vị tăng phái, có nghĩa là chịu sự điều động của địa phương. Trong hoàn cảnh đó, BĐQ thường là đơn vị chịu nhiều lửa đạn nhất, nơi nào găng, chốn nào hiểm là địa phương gọi tới các đơn vị tăng phái mà BĐQ luôn luôn đứng hàng đầu. Do đó chỉ ba tháng, tôi đã trở thành một người lính thứ thiệt, lính trận mạc, hành quân không ngơi nghỉ, đụng trận liên miên, đã nghe súng địch, đã thấy kẻ chết người bị thương. Tôi thực sự đối mặt với chiến tranh. Tôi không còn là ông Chuẩn Úy mặt búng ra sữa, quần áo hồ ủi thẳng nếp nữa. Có một lần thiếu quần, tôi chơi luôn cái quần Jean đi hành quân. Sĩ quan Tiểu Đoàn Trưởng gọi tôi lên gật gù:

    - Cậu chơi ngon hơn cả tôi. Vừa ngo ngoe ra trường mà dám mặc cả quần Jean đi hành quân, may là cậu ở BĐQ tụi tôi. Nhưng từ nay nhớ mặc đồ lính cho nó tử tế, lần này tôi tha.
    Sau kinh nghiệm đó, tôi chỉ mặc Jean khi đi chơi phố hay về Sài gòn. Suốt ba tháng lặn lội với BĐQ chắc tôi phải khác lắm vì kỳ phép đầu tiên, Dung nhìn tôi nheo mũi:
    - Anh gầy quá, mà lại đen nữa.
    Khi ôm tôi, nàng giữ tôi rất lâu trong vòng tay rồi nhẹ nhàng bảo:
    - Người anh khét quá.
    - Ê, đừng chê lính chứ. Anh tắm xà phòng Camay đàng hoàng.
    - Không phải hôi mà khét.

    Tôi im lặng. Từ một cậu sinh viên công tử không để ý gì ngoài chuyện học hành, tình ái; bỗng chỉ chưa quá một năm, tôi thay đổi đến nỗi người vợ tương lai ngửi thấy cái thay đổi đó, cái đổi từ trong da trong thịt, trong hơi thở. Tôi rùng mình. Tôi có còn là tôi chăng?
    Suốt đời lính, tôi nghĩ đến cung cách đối xử của Trung Tá Huy đối với các tân sĩ quan. Nếu tôi bon chen về được Tổng Tham Mưu hoặc Bộ Quốc Phòng, chắc chắn tôi sẽ không khét và cũng có thể tôi nhìn quân đội dưới một nhãn quan khác. Nhưng tôi không có duyên làm việc dưới trướng Trung Tá Huy. Ngay ngày rời tiểu đoàn BĐQ về lại tiểu khu, biến cố xảy ra. Đặc công Việt Cộng không hiểu bằng cách nào đã vào tận giữa tỉnh đội đột kích tư dinh Trung Tá Tỉnh Trưởng. Đêm xảy ra trận đột kích, ông không ở nhà mà lo họp hành quân nên có đến sáu, bảy nghĩa quân thiệt mạng trong vụ này. Bộ Quốc Phòng cử đoàn thanh tra xuống điều tra sự việc. Trung Tá Huy nhận hoàn toàn trách nhiệm, không hề đem đàn em ra làm bung xung. Ông tuyên bố:

    - Có gì mà điều tra. Việt cộng muốn hạ tôi nên mới đem một toán đặc công đông như vậy đánh vào chỗ tôi ở. Tụi nó chết gấp đôi chưa đủ trả lời hay sao mà phải điều tra.
    Ngay ngày hôm sau có lệnh Trung Tá Nguyễn Dương Huy về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu và ông mất ghế Tỉnh Trưởng. Tôi còn nhớ Đại Úy Vậy ngậm ngùi nói với tôi:
    - Trung Tá Huy là người giỏi, tư cách, chính nhờ ông mà Phước Long càng ngày càng vững. Nhưng giỏi và tư cách chưa đủ. Chú mày mới vào lính nhưng từ từ sẽ hiểu.

    Đại Úy Vậy giữ tôi lại làm việc với ông ở trung tâm Hành Quân. Chỉ sau vài ngày tôi ngứa chân ngứa tay, nhớ những ngày ở với Biệt Động Quân. Nay tôi lại quần áo tenue ngon lành, giày bóng láng sáng sáng họp thuyết trình hành quân. Đứng trên bục, tay cầm cây gậy sắt gỡ ra từ máy truyền tin tôi trình bầy cho cỡ gần hơn hai chục sĩ quan cao cấp trong tiểu khu về tình hình lãnh thổ trong ngày.
    Mới đầu chưa quen tôi còn phải mò mẫm, sửa soạn đâu ra đấy, từ vị trí của các đơn vị ta cho đến khả năng tấn công của địch, từ những tin tức tình báo phối hợp cho đến khả năng yểm trợ của quân đoàn…. Nhưng rồi khi đã nắm vững , cuộc thuyết trình mỗi sáng trở nên nhàm chán. Đâu được khoảng ba tháng , tôi được vị tỉnh trưởng kế nhiệm gọi lên trình diện Đại Tá Lưu Yểm bảo tôi:

    - Cậu lên đây làm sĩ quan tùy viên cho tôi. Ông Trung nhắc, tôi mới nhớ là đã gặp cậu ở nhà ông Trung nhiều lần. Lên đây với tôi may ra đời cậu mới khá.

    Đại Tá Yểm vẫn hay ghé nhà chú Hà Bỉnh Trung, thỉnh thoảng vẫn xoa vài tẩy mạt chược. Tôi gặp ông đều đều nhưng vẫn giữ lễ và không hề nhắc đến chuyện này. Khi nghe Đại Tá Yểm muốn tôi về làm tùy viên, lòng tôi chết điếng nhưng không thể từ chối. Khi về gặp lại chú, tôi nhăn nhó vì tưởng ông gởi gấm tôi, nhưng chú bảo:

    - Đâu có gởi gấm gì. Thấy ông về làm tỉnh trưởng thì vui miệng nhắc đến Dũng vậy thôi. Đi lính để đánh giặc gửi gấm để làm gì.
    Gửi hay không, bỗng tôi trở thành cái bóng của Đại Tá Tỉnh Trưởng, đi đâu cũng ôm kè kè một cái samsonite tiền. Tiền ở đâu mà nhiều thế? Thường trong samsoneite tiền được sắp sẵn thành ba cọc, 25.000, 50.000 và 10.000 tùy viên và tùy phái khác nhau chỉ một chữ nhưng trên một bình diện nào đó chẳng khác gì nhau. Tôi trở thành đầu sai lo những việc hết sức lỉnh kỉnh từ những chuyện như lo sắp xếp tiệc tùng khoản đãi , khách cỡ nào thì đặt đồ ăn ở đâu, rượu, cà phê, thuốc lá như thế nào.

    Đôi khi cần biếu xén một nhân vật nào đó , tôi phải lo “nghiên cứu đối tượng” để xem món cần đưa là gì. Có lần tôi phải lo xoay xở để tìm được một con nai bao tử đem ngâm rượu thuốc làm quà cho một ông tướng trên quân đoàn vì nghe đâu ông hơi yếu. Tôi phải sắp xếp lộ trình cho Đại Tá, gọi phi cơ, lo xe đưa đón và chi tiền. Chỉ độ hai tuần là tôi đã hiểu là phải chi ra sao. Nếu là phi cơ trực thăng thì sau chuyến bay tôi móc cọc lớn nhất ra để phi hành đoàn cà phê cà pháo. Nếu vừa xuống phi trường để họp với quân đoàn mà có cả một công voa quân cảnh, súng ống võ trang đầy người hú còi dẫn đường, tôi móc cọc thứ nhì. Nếu chỉ là những giao tế lăng nhăng tôi móc cọc thứ ba. Nghệ thuật của chi tiền là nhã nhặn, kín đáo và luôn luôn phải nhấn mạnh rõ đây là chút gọi là để anh em lai rai của Đại Tá gửi.
    Đại Tá Yểm đi tới đâu cũng được gọi là Thẩm Quyền, là Đại Bàng và thân mật hơn “Ông Thầy” luôn tiền hô hậu ủng sao cho đẹp vì biết thế nào cũng có tí đỉnh.

    Tôi nhăn nhó nhưng không biết giải thích với ai. Cái chức tùy viên thơm thế còn muốn gì nữa? Nhiều người cầu cạnh, nhờ vả tôi. Những vụ như vậy đẩy tôi vào khó xử. Một ông ba Tàu có con đi lính đến nhờ tôi xin cho cậu công tử về làm việc ở dinh ông Tỉnh, đưa tôi một bó tiền. Một ông khác muốn mở trại cưa cũng đến nạp nhờ tôi nói với Đại Tá một tiếng. Tôi được về Sài Gòn đều đều nhưng không có thì giờ với Dung. Gặp độ giữa một hai tiếng các cuộc họp của Đại Tá Yểm, tôi lại tất tưởi chạy vào Quân Vụ Thị Trấn hay ra phi trường Tân Sơn Nhất. Dung rất tinh, hỏi:

    - Bộ anh không thích Đại tá Yểm sao?
    - Ồ Không. Đại Tá Yểm rộng rãi tiền bạc và rất dễ chịu. Nhưng cái chức tùy viên chẳng ra ngô ra khoai gì, đúng ra là tùy phái cao cấp.
    Dung im lặng ngẫm nghĩ:
    - Em thấy dạo này đánh nhau dữ quá. Anh ở đó với Đại Tá Yểm yên thân hơn. Em không muốn làm người yêu của tử sĩ.

    Đây cũng là điều lạ, chỉ đi lính bất đắc dĩ, tôi không bao giờ nghĩ chính mình sẽ chết dù xung quanh mình chết chóc xảy ra hàng ngày. Khi làm ở TTHQ, mạng người là những con số. Ta tám binh sĩ hi sinh, sáu bị thương, địch dể lại bốn xác, và nhiều vết máu. Tối qua địch pháo hai hỏa tiễn 122 ly vào vùng lân cận Quận Bố Đức khiến sáu người dân thiệt mạng. Ngôn từ chết chóc cũng được phân biệt rõ, ta thì hi sinh, địch thì bỏ xác, và thường dân thì thiệt mạng. Ngay cả khi hành quân với Đại Đội của Đại Úy Khoái, tôi cũng thấy chết chóc dưới nhiều hình dạng khác nhau. Nhưng có lẽ quan niệm chiến tranh , giặc giã thì phải có thương vong, chết chóc khiến tôi chấp nhận cái chết như lý đương nhiên. Nhưng nếu như chính tôi chết thì sao? Tại sao tôi không nghĩ đến?

    Tôi ngây người trước lời nói của Dung rồi giả lả:
    - Yên trí, ông thầy tử vi nói anh sống đến 80 tuổi lận. Chết khó lắm Dung ơi.
    - Em sợ.
    - Anh cũng sợ. Nhưng lính tráng tụi anh nói với nhau “Trời kêu ai nấy dạ”. Trời quên tên anh lâu rồi.
    Bản tính tôi ghét cái gì nhàm chán và những thúc buộc của chức tùy viên khiến tôi tìm mọi cách thoát ra. Khi thấy đại đôi Quyết Tử cần một sĩ quan, tôi đăng ngay. Đại Tá Yểm khi thấy đơn của tôi, nhìn tôi ngạc nhiên:
    - Bộ cậu chê tôi à? Cậu có điên không? Muốn tiến thân hay muốn tìm chỗ tăm tối? Rồi tôi ăn nói với ông Trung ra làm sao?
    Tôi nhũn nhặn giải thích rằng:
    - Chú Trung sẽ không trách Đại Tá và bản tính ham vui nên tôi muốn ra đơn vị tác chiến.
    Tôi kỳ kèo nhiều lần nhiều đến nỗi Đại Tá Yểm bực mình ký cho tôi về Đại Đội Quyết tử, về với Đại Úy Dương Thắng Cảnh, một sĩ quan đẹp trai nhất nước hơn cả tài tử ciné.

    Khi ở tù ngoài Bắc, tôi vẫn hay thủ thỉ với thẩm phán già nằm cạnh. Ông đưa ra nhận xét là quân đội VNCH được tổ chức rườm rà quá, nhiều binh chủng khác nhau với các bộ chỉ huy khác nhau và trang bị quân phục cũng khác nhau. Chính vì thế không có được sự phối hợp toàn diện, và nguy hiểm hơn nữa là nạn kiêu binh. Tôi không đủ kiến thức để tranh luận với quan điểm của người tù già đáng tuổi bố tôi nhưng thâm tâm tôi vẫn thấy điều này chưa chắc đúng. Chữ của chúng tôi hồi đó là mầu cờ sắc áo. Vả lại mỗi binh chủng khi được thành lập có những nhiệm vụ riêng biệt như nghĩa quân, địa phương quân lo giữ gìn lãnh thổ. Dù, thủy quân lục chiến là những đơn vị tổng trù bị có khả năng di động cao. Khi vị thẩm phán bảo quân đội Cộng Sản hoạt đông hữu hiệu vì tất cả bộ đội, quần cứt ngựa dép râu, trên dưới như nhau không phân biệt nhưng khi tôi bảo Cộng Sản cũng có pháo binh, có thiết giáp, có phòng không, du kích, đặc công thì ông thẩm phán im không trả lời.

    Đại đội Quyết Tử được thành lập như một đơn vị độc lập , một loại trừ bị của tiểu khu, cần đâu đánh đó. Tôi không rõ ý kiến thành lập đại đội này có phải là của Đại Tá Yểm không nhưng khi tôi xin nhập đơn vị này thì ông cứ ầm ừ mãi mới chịu chuẩn phê. Rời khỏi dinh Tỉnh Trưởng, bỏ lại đằng sau chức tùy viên, lần này tôi mới thực sự dấn thân vào chiến trường với tất cả phũ phàng của chiến tranh, của súng đạn, của sống cùng chết.

    Cảm nhận đầu tiên thoải mái vô cùng tận. Đại Úy Cảnh cao lớn như Tây, vai ngang ngực nở, dáng đi hiên ngang lại có râu quai nón. Ông còn nổi tiếng hơn nữa ở Phước Long vì người vợ, ca sĩ Thanh Tuyền. Tôi vốn không để ý gì tới ca sĩ, nhạc sĩ tài tử trình diễn vì trong mắt tôi không ai hơn được Dung, nhưng lần đầu tiên gặp người ca sĩ khả ái này, tôi bị chinh phục hoàn toàn. Tóc xõa dài, thân hình thanh tú, lần nào đi thăm chồng, Thanh Tuyền cũng hát cho tụi tôi nghe những bài tình ca của lính.

    Đại đội Quyết Tử không chỉ nổi danh vì Ông Đại Úy đẹp trai có vợ là ca sĩ lừng danh. Đại Úy Cảnh là một sĩ quan rất dễ thân cận nhưng khi cần kỷ luật nghiêm minh, lính là lính, sĩ quan là sĩ quan trên dưới đâu ra đấy. Chúng tôi được võ trang tới tận răng, cần gì cũng có, từ súng đạn cho đến trang bị, quân dụng khác. Một là Đại Tá Yểm rất hãnh diện với đơn vị này. Hai là mấy ông cố vấn Mỹ tận lòng lo lắng, xin gì được nấy toàn là thứ hảo hạng.

    Đổi lại đơn vị hành quân liên chi hồ điệp, khi thì tảo thanh lúc phục kích, khi thì giải tỏa. Tôi nhớ ông Chuẩn Úy Sao, một trung đội trưởng lì nhất với trên hai mươi lính, Ông là người Miên, nói tiếng Việt sõi nhưng giọng vẫn còn lơ lớ. Ông là Hạ Sĩ Quan nhưng thăng lon dần trở thành Chuẩn Úy. Chuẩn Úy Sao là người bản địa, cả đời chưa ra khỏi Phước Long. Chỗ nào ông cũng biết. Địa hình địa vật như trong lòng bàn tay. Chính nhờ ông mà đơn vị tránh được một vụ phục kích của địch, và thắng lớn
    .
    Nguyên là đại đội được lệnh hành quân tảo thanh một vùng gần đồi Bù Gia Mập. Kế hoạch hành quân được soạn thảo kỹ lưỡng nhưng khi nhảy xuống trực thăng, Chuẩn Úy Sao cho hay không thể di hành theo hướng dự trù vì lộ trình sẽ đi qua một nơi hai bên là đồi dễ bị phục kích. Ông đề nghị đi vòng, vất vả hơn vì băng qua một cái trảng bùn lầy khá lớn. Đại Úy Cảnh hỏi đi hỏi lại từng chi tiết và đối chiếu với bản đồ hành quân và cuối cùng theo lời khuyên của Chuẩn Úy Sao. Quả nhiên khi chúng tôi bọc hậu phía sau dãy đồi thì đụng lớn với địch, quân số cỡ tiểu đoàn.

    Càng ngày Đại Đội Quyết tử càng nổi không chỉ vì ông đại đội trưởng đẹp trai và người vợ ca sĩ mà chính là những chiến công. Tôi không đếm xuể số huy chương được tưởng thưởng nhưng Đại Tá Yểm thì hãnh diện và cưng đơn vị này vô cùng. Tôi cũng càng ngày càng dày dạn gió sương, trở thành một người lính nhà nghề lúc nào không biết. Tôi hay chửi thề hơn xưa và uống rượu nhiều, rượu gì cũng được. Tôi khoái câu thơ của ông thi sĩ Nguyễn Đức Sơn:

    Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
    Đi hành quân rượu đế cũng mang theo.

    Tôi không nghiện rượu và tất nhiên không lạm dụng dến nỗi bắt người lính tà lọt đem rượu cho mình nhưng mỗi lần về hậu cứ, không lần nào là không say mèm. Tôi không để ý nhưng Dung thì nhận ra. Một lần về phép, đi chơi, Dung bảo:

    - Em để ý thấy anh uống rượu nhiều hơn xưa. Lại hút thuốc liên miên. Anh nóng tính, hay cau có.
    - Anh vẫn vậy, đâu có say sưa bao giờ.
    - Anh uống tới sáu chai 33.
    - Bia để giải khát đâu phải rượu đế.
    - Anh cộc cằn, chửi thề nữa.

    Sau lần đó, tôi cố giữ, không nhậu bí tỉ nhưng cái tật chửi thề – cái ngôn ngữ lính tráng – đã quá lậm sâu. Tôi tránh nói về chiến trường, trận mạc chết chóc với Dung. Tôi chỉ kể về Phước Long, về đời sống tỉnh lẻ, về dân tình. Đây cũng là một khía cạnh nữa của chiến tranh. Tôi vẫn cứ nghĩ nếu tôi tiếp tục đèn sách, ra luật sư, làm Maître ở tòa chắc cả đời sẽ không biết thác Mơ ở đâu, thác Đức Mẹ ở đâu.
    Trong rừng già phía Tây Bắc Phước Long, giữa lúc đang đi di hành tôi nghe nước đổ. Thác Mơ và thác Đức Mẹ hiện ra như giữa cơn mơ. Không cao lắm và sát nhau, từ con sông Drang như vấp vào những tảng đá, ngập ngừng rồi đổ xuống tung bọt trắng xóa. Chuẩn Úy Sao bảo Tổng Thống Diệm có đến đây, thấy cảnh trí nên thơ nên đặt tên là thác Mơ và cho dựng một tượng Đức Mẹ. Tôi chỉ nhớ thời học trung học êm đềm, tôi vẫn thấy hình ảnh của Ông Diệm như một ông quan nghiêm nghị, như một ông cha cố không biết đùa và hẳn là ông Tổng Thống đó không có óc lãng mạn. Nhưng khi nhìn thấy thác Mơ, tôi đã gật gù một mình tán thưởng cái nhìn của ông Diệm. Tôi mò mẫm khi nghe nói Tổng Thống có ý định biến chỗ này thành một nơi du lịch và đã cho dựng móng xây cất nhà cửa. Tôi chỉ tìm được mấy cái ghế đá nay đã bị cây leo, cây dại trùm kín. Ngồi trên ghế đá giữa rừng già trong một buổi chiều dịu nắng, nhìn hai dòng thác liên miên tung bọt, tôi quên hẳn mình đang võ trang tới tận răng và cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

    Tôi nhớ rõ hai cái thác vì trong đợt hành quân tảo thanh lần đó không chạm địch, quân ta không hề thiệt hại gì trừ tôi. Khi tôi lui cui tìm cách trèo lên tượng Đức Mẹ thì bị vấp phải mìn muỗi. Theo cách nói của Hà Nội thì đây là cuộc chiến toàn diện. Tôi vẫn hiểu nôm na rằng Cộng Sản chủ trương cái gì có lợi cho họ là họ làm, không có vấn đề nhân quyền, đạo đức gì cả. Từ cái nhìn có tính cách căn bản đó, cuộc chiến đang diễn ra dưới đủ mọi hình thái, từ hàng rào điện tử Mac Namara, phi cơ, thiết giáp, phóng lựu, bom bi, B52 cho tới bàn chông, mìn muỗi. Chỉ cần một tí C4 trộn với đinh gỉ, miểng chai, dây kẽm gai và một kíp nổ là có mìn, và gài đâu cũng dễ ngụy trang. Vết thương nơi chân trái tôi cũng chẳng đáng gì, người y tá rửa cồn và băng bó. Tôi còn nhớ khi đang băng vết thương một người lính quân y đưa cho tôi một ống tre lớn nói:

    - Thiếu Úy uống cái này đỡ lắm.
    Đang khát tôi ực một hơi hết. Đó là nước đọng trong những ruột cây tre cây nứa , nhất là sau những trận mưa, nó dịu dàng, ngọt ngào hương vị của cỏ cây núi rừng.

    Khi về tới hậu cứ tôi hơi sốt và sau đó khó thở. Thời buổi chiến tranh , bác sĩ đến chín mươi phần trăm là bác sĩ nhà binh và ở cái tỉnh lẻ như Phước Long các vị quân y sĩ luôn luôn vừa chữa bịnh chùa cho lính vừa mở thêm phòng mạch ngoài. Người bạn cùng phòng chở tôi đến phòng mạch của ông Thiếu Tá Đích và khi vừa nhìn thấy, nghe tim mạch xong, ông hối hả dục đưa tôi đi ngay nhà thương. Vào đến bệnh viện Phước Long, tôi không còn thở được nữa và tay chân giật liên hồi, nên tôi được chuyển ngay vào phòng cấp cứu để tiếp dưỡng khí và nước biển, rồi yêu cầu chuyển gấp về Cộng Hòa. Tôi không thở được, mồm há hốc, ngáp từng tí không khí một. Khi hay tin chính Đại Úy Vậy chạy đến và yêu cầu tải thương khẩn. Nhưng trời vần vũ, mưa to gió lớn không những ở Phước Long mà cả ở Biên Hòa. Không cách gì phi cơ lên được trong thời tiết đó. Những sĩ quan bạn bè tới tấp chạy tới. Tuy không thở nổi, mồm miệng rãi nhớt chảy ra nhưng tôi rất tỉnh. Các bác sĩ cho hay tôi bị phong đòn gánh, Tétanos, nơi đây không đủ phương tiện và thuốc men. Bịnh viện tỉnh chỉ có hai bình dưỡng khí được hàn dính cứng vào giường sắt, bình kia cũng đang phải tiếp cho bịnh nhân khác. Đại Úy vậy chợt nhớ tới viên Thiếu Tá Mỹ, cố vấn của TOC. Ông điện thoại yêu cầu. Vị Thiếu Tá này sốt sắng nhưng cũng được trả lời rằng thời tiết này không có cách gì cất cánh. Ông Thiếu Tá Mỹ này vẫn không chịu thua, liền mời một bác sĩ Mỹ. Người y sĩ này sau vài phút đo tim mạch, quay sang nói ngay trường hợp này cần phải tải thương gấp. Đại Úy Vậy trình bầy lý do thời tiết và yêu cầu giúp cho. Ông bác sĩ này lên máy và xác nhận nếu sĩ quan này không được tải thương thì không thể nào cứu được. Lực lượng Mỹ ở Biên Hòa trả lời thời tiết này rất xấu. Trực thăng Hoa Kỳ chỉ cất cánh cho trường hợp một quân nhân Hoa Kỳ bị nguy kịch. Đại Úy Vậy nghĩ còn nước còn tát, nên ông gọi điện thoại trực tiếp cho Đại tá Yểm. Ngay sau đó Đại Tá Yểm đã liên lạc với Đại Tá Smith, cố vấn của ông ta, và nói rõ là Thiếu Úy Đỗ Lệnh Dũng là một sĩ quan rất ưu tú rất quan trọng cho tỉnh Phước Long và yêu cầu can thiệp tải thương. Đại Tá Smith đích thân liên lạc với Biên Hòa, yêu cầu một chuyến tải thương đặc biệt khẩn cấp và coi đây như một trường hợp đối với một sĩ quan Hoa Kỳ. Đời tôi may mắn nhiều lần, nhất là đối với tử thần.

    Không đầy mười lăm phút sau, chuyến tải thương đặc biệt đã ở trên vùng và xin bắn trái sáng để xác định hướng vì trời mưa tầm tã và tối đen như mực. Trong nhà thương mọi người tìm cách đưa tôi ra sân bay nhưng cái bình dưỡng khí to tướng hàn dính vào chiếc giường sắt làm sao di chuyển. Mấy ông bác sĩ nhìn nhau, gỡ tôi ra chắc chỉ năm phút là tôi tím ngắt, là tôi chết vì nghẹt thở, máu không có oxy. Đúng lúc đó, bác sĩ Mẫn liên lạc với cố vấn Mỹ, y sĩ Đại Úy Martin, xem có cách gì xoay được một bình dưỡng khí cầm tay chăng? Ông Martin lái xe cấp tốc về bên MACV và trở lại với một bình dưỡng khí. Ông ta cho biết bên đó cũng chỉ có hai bình mà thôi. Khi trực thăng đảo trên cao, trái sáng bắn rầm trời, để đến nỗi sau này bạn bè vẫn bảo, chưa bao giờ thấy một sĩ quan cấp Úy được săn sóc như vậy.

    Khi trực thăng tải thương rời khỏi Sông Bé được một lúc lâu, tôi cảm thấy không thở được, thì ra trực thăng bị lạc hướng khi thời tiết mưa quá lớn. Bình dưỡng khí đã hết oxy vì thời gian bay lâu quá. Lúc đó tôi cảm tưởng như đang lặn ở dưới nước, hết dưỡng khí phải trồi lên, thì có ai dìm tôi xuống, nên tôi vùng vẫy dãy dụa dữ dội. Hai người y tá Medic Mỹ đi theo chuyến tải thương hình như hiểu được trường hợp, tìm cách tiếp dưỡng khí cho tôi bằng phương pháp hô hấp trực tiếp bằng miệng cho đến khi trực thăng đáp xuống một căn cứ Mỹ ở Biên Hòa để lấy thêm bình dưỡng khí khác hầu có thể bay tiếp tục đến bịnh viện dã chiến Mỹ ở Biên Hòa. Tôi nằm ở bịnh viện Hoa Kỳ tại Biên Hòa gần nửa tháng.

    Có những điều không bao giờ giải thích được với những người ngoại quốc. Tôi nhất định xin được chuyển giao về bịnh viện Cộng Hòa hay cho về nhà. Viên bác sĩ cho hay nơi này có đủ phương tiện y tế tối tân, và tôi được đối xử ngang với một sĩ quan Mỹ, tại sao muốn về? Tại vì thèm cơm quá, thèm phở quá. Uống mãi nước cam, nước táo nó xót ruột làm sao ấy. Ăn sáng mãi với cereal ngọt lờ lợ chẳng ra ngô ra khoai gì sất. Tôi thấy người không đói nhưng cứ lâng lâng, ngầy ngật thèm cơm thèm rau. Nếu được rau muống non chấm nước mắm chanh nữa thì tuyệt. Nhưng rồi gần nửa tháng họ mới cho tôi xuất viện. Câu đầu tiên Dung nói với tôi:

    - Em sợ muốn chết. Trông anh xanh quá.
    Tôi chỉ biết cười:
    - Mìn muỗi như muỗi đốt, ăn thua gì. Tại vi trùng phong đòn gánh.
    - Phong đòn gánh là gì vậy?
    - Tétanos.
    - Em sợ. Lỡ anh có gì.
    - Anh cao số , đừng lo.

    Ông thầy chấm số tử vi cho tôi bảo với mẹ tôi rằng tôi cao số , và ông nói lung tung những gì là “giáp long, giáp phượng, giáp tả, giáp hữu” rồi “tuần triệt, thân cư di” gì đó tôi chẳng hiểu. Nhưng tôi nhớ ông ta đã vỗ đầu tôi, lúc tôi đâu bẩy tám tuổi:

    - Số cậu này buồn cười lắm, cứ tưởng được lại mất, có khi thấy mất lại được. Nhưng cái lạ là lúc nào cũng thoát.
    Mẹ tôi vẫn hay nhắc lời ông thầy tử vi và đến gần cuối đời tôi ngẫm hay người ta có số thật
    .
    Đó không phải là lần đầu tôi bị thương. Cuộc chiến hiện diễn ra dưới đủ mọi dạng trong đó có dạng xôi đậu. Tôi vẫn cười khi tự hỏi quốc gia là xôi hay là đậu? Và dân là gì trong cái thế xôi đậu đó. Điển hình là ấp Phước Lộc.

    Phước Lộc nằm ở phía tây bắc Phước Long là một loạt các xã, các ấp bắt đầu bằng chữ Phước , Phước Bình , Phước Vĩnh , Phước Quả, Phước Lộc. Tình trạng ở Phước Lộc là nửa xôi nửa đậu, Đêm Cộng ngày Quốc. Ban ngày sinh hoạt bình thường như bất cứ ấp nào, trụ sở ấp treo cờ vàng ba sọc đỏ, các em học sinh tiểu học sáng hát quốc ca “Này công dân ơi , đứng lên đáp lời sông núi…” Nhà nào cũng sơn cờ quốc gia ở trước cửa. Nhưng khi trời sập tối thì các viên chức chính phủ, kể cả những chức dân cử như các ông hội đồng xã ấp lũ lượt chăn mền lên ngủ ở đồn. Đồn nằm trên một ngọn đồi thấp, do đại đội địa phương quân 334 trấn giữ. Đại đội 334 sau này đổi tên thành đại đội 333 vì theo Đại Tá Tỉnh Trưởng Lưu Yểm thì 334 là số bù, số xui. Tôi đã có dịp nằm với ông Thái ở đồn và đến đêm, từ đồi nhìn xuống, ấp Phước Lộc cũng lốm đốm đèn lửa. Nhưng lời Thiếu úy Thái, có đêm Việt cộng về đốt đuốc sáng rực, họp dân lại để học tập về tội ác Mỹ ngụy.

    Chuyện xảy ra khi cả hơn một tiểu đoàn địch khơi khơi về ấp chiếm, đuổi hết dân. Tin tình báo và nhất là theo lời dân thì rất đông bộ đội cộng sản, nói toàn tiếng Bắc. Phối kiểm tới, phối kiểm lui, Đại Tá Yểm mở cuộc hành quân lớn, phối hợp Việt Mỹ. Đây chỉ là cách nói, thực ra là quân đội Mỹ sẽ hành quân và quân đội Việt Nam chỉ là lực lượng án ngữ. Đại đội của tụi tôi được lệnh tham dự. Khi nhảy trực thăng xuống, Đại Úy Cảnh cho dàn quân ngay ở trên ngọn đồi của đại đội số bù 334. Chưa kịp bố trí thì cả một bầu trời vần vũ phi cơ trực thăng và đủ thứ phi cơ quan sát bay vòng vòng. Tôi ước lượng cỡ trên một tiểu đoàn TQLC Mỹ được đổ xuống trong ba đợt bao quanh ấp Phước Lộc. Cái ấp nhỏ bé đó vẫn im lìm như đang ngủ yên không một động tĩnh. Mỹ khai hỏa trước, bằng súng phóng lựu, bắn lựu đạn cay mù mịt từng chập một. Hơi cay dữ dội gió tạt đến tận chỗ chúng tôi trấn trên đồi. TQLC Mỹ mặt nạ, súng đủ loại ào lên. Ấp trống không, chỉ thấy gà vịt chạy tứ tung kêu oang oác. không một bóng dáng địch, không một chú du kích hay như tin tình báo, lính chính qui Bắc Việt. Chiến lợi phẩm duy nhất là lá cờ Mặt Trận Giải Phóng treo ở trụ sở ấp.

    Dân chúng được đưa trở về nhà với lời bảo đảm của chính phủ và quân đội rằng bất cứ lúc nào quân đội đồng minh cũng sẵn sàng có mặt. Hai tuần lễ sau, dân lại bị xua khỏi ấp. Đại Tá Yểm họp và nói với Đại Úy Cảnh:

    - Tụi nó chơi trò hú tìm, mục đích là gây náo loạn, tạo thế bất an cho dân. Đại đội 334 của ông Thiếu Úy Thái yếu quá. Đại Úy lo dùm tôi vụ này, không thể mở hành quân lớn nữa. Kỳ vừa rồi mất mặt với tụi Mỹ quá.

    Đại Úy Dương Thắng Cảnh trông tướng tá có vẻ công tử nhưng lại là một sĩ quan vô cùng cẩn thận. Ông dặn dò mọi người:
    - Không thể khinh địch được. Cuộc hành quân lần trước khác, lần này khác. Có ai đọc Tam Quốc chưa? Khổng Minh đã xài kế không thành. Tôi yêu cầu tất cả sĩ quan và binh sĩ chuẩn bị vì có thể sẽ chạm lớn. Chúng ta quen chiến trận trong rừng núi nay phải đối phó với một trận địa khác, ngay giữa ấp với nhà cửa, và rất nhiều hầm trú ẩn.

    Đại Úy Cảnh chọn hướng Đông để tiến thẳng vào ấp và liên lạc yêu cầu đại đội địa phương 334 dàn ngoài ấp dọc dọc phía Tây chặn đường rút của địch. Đại Đội dàn cánh cung tiến vào. Tôi giữ phía trái , Chuẩn Úy Sao giữ phía mặt và chính giữa do Đại đội trưởng chỉ huy. Đến ven ấp, mọi sự bình yên như tờ. Đại Úy Cảnh gọi tôi.
    - C1 tiến trước ở giữa.Zulu chận dọc đám cây , SS áp dọc rào nứa.
    Từ đội hình cánh cung, đại đội chuyển thành đội hình tam giác, mũi nhọn đi đầu. Cánh của Đại Úy Cảnh lọt vào ấp yên lành. Tôi đem trung đội bọc theo rặng cây tiến tới. Những căn nhà lợp tôn, lợp lá thấp lè tè im đến độ đáng ngờ. Tôi ra lệnh tiến chậm, bò leo thang đi từ căn này tới căn khác. Một sinh hoạt sống duy nhất là một con chó cụp đuôi vừa đi vừa chạy giữa hai lớp nhà lụp xụp. Viên Hạ Sĩ truyền tin chỉ tay. Tôi nhìn về phía căn nhà gạch hai tầng, thấy biển đề Trường Tiểu Học Phước Lộc và thấy lá cờ mặt trận phất phơ nhẹ trong gió. Tôi vẫy tay ra hiệu và khi một người lính đẩy chiếc cổng trường toan tiến vào sân trường thì súng nổ nhiều loạt khiến người lính liệt đi. Tôi nghe nhiều tiếng hò hét vẳng lên từ các cửa sổ.

    Cùng lúc đó, từ phía sau súng cũng nổ rền trời. Cánh của Đại Úy Cảnh chạm nặng. Những người lính của Đại Đội Quyết Tử đều là tình nguyện và rất nhiều kinh nghiệm. Họ sử dụng M79 rất là thần sầu, chỉ ít phút sau địch im. Sam Graves sau nhiều cuộc đụng độ đã tỏ ra bình tĩnh và chín chắn ra nhiều. Ông cố vấn nằm sát sau mô đất cùng tôi quan sát. Tôi trườn lại phía sau gốc cây để nhìn bao quát hơn thế trận. Đúng lúc đó cột cờ trúng đạn B40 ngã đổ, lá cờ mặt trận trải dài trước mặt. Tôi nhỏm dậy, vừa cúi vừa chạy và vừa đúng lúc giật lá cờ nhét vào trong ngực thì tôi trúng đạn. Tôi lăn tròn trên đất và nghe tiếng súng nổ liên hồi. Sam Graves và người hạ sĩ truyền tin xả súng từng chập bắn chận. Người Hạ Sĩ truyền tin lôi tôi vào được phía sau những mô đất có cỏ cao che lấp. Tôi nghe anh ta nói như thét vào PRC:

    - Thiếu Úy bị rồi. Thiếu úy bị rồi.
    Không hiểu động lực nào đã khiến tôi vô cùng tỉnh táo, giật lấy ống nghe:
    - Zulu đây. Bị nhẹ, không sao.
    Tôi chỉ sợ Đại Úy Cảnh quá để tâm tới cánh quân của tôi, lo tiếp vận yểm trợ rồi bị phục kích. Giữa lúc đó một người lính nói với tôi:
    - Để em qua lấy lại khẩu M79.
    Khẩu M79 của tôi nằm chơ vơ giữa sân trường. Tôi vội bảo:
    - Đừng có ngu. Tụi nó chốt trong các căn nhà phía trước.
    Chỉ đến khi đó tôi mới thấy tay trái tê dại rũ xuống. Tôi cũng không biết đích xác đạn trúng chỗ nào trên cánh tay. Viên y tá bò lại gần, xé nguyên một cuộn băng, băng chằng chịt từ khủyu tay trở xuống trùm hết cả bàn tay. Anh ta giải thích:
    - Cứ băng lại đã để lỡ có gãy xương thì còn có thể nối lại được.
    Máu ra ướt đẫm băng trắng. Tiếng nổ rền của AK cùng mùi thuốc súng làm tôi tỉnh táo trở lại và quyết định cho trung đội phòng thủ theo thế cánh cung để tự bảo vệ. Phía bên trái tôi, cánh quân của ông Cảnh cũng đang chạm nặng. Trong máy tôi nghe Đại Úy Cảnh ra lệnh chậm rãi và bình tĩnh cho cánh quân của ông tiến chiếm lại Vườn Mít.
    - Zulu đây Charlie nghe rõ trả lời.
    - Nghe ba mai.
    - 72 (Đại Tá Yểm) đang bay trên vùng hỏi thăm cậu. Nhận được trả lời.

    Anh truyền tin định nghiêng máy cho tôi nghe thì ngay lúc đó một quả B40 nổ sát tôi làm anh lính truyền tin bị thương và máy bị vỡ tan. Kể từ lúc đó tôi hoàn toàn mất liên lạc với đơn vị bạn.

    Đại đội 334 có nhiệm vụ chốt tại ngã ba Thác Mơ để bảo vệ đường rút cho chúng tôi cũng bị bao vây và tấn công dữ dội. Chưa đầy nửa tiếng sau, đại đội 334 bị mất liên lạc. Thế là đại đội của Đại Úy Cảnh bị khóa đít, không tiến và cũng không lui được. Địch hy vọng sẽ khóa sổ đại đội Quyết Tử nhưng họ nhầm vì chúng tôi cũng như họ, lợi dụng những hầm trú ẩn của dân chúng làm tuyến tự vệ cho nên những đợt tấn công của họ đều bị đánh bật ra. Đại đội Quyết Tử được trang bị nhiều M72 nên hỏa lực rất mạnh. Hơn nữa, gần một tiếng đồng hồ trôi qua đã đủ cho trực thăng võ trang của Hoa Kỳ lên vùng, loại trực thăng Cobra được trang bị 48 quả đạn hỏa tiễn ngăn chặn dễ dàng những đợt tấn công liều lĩnh của địch. Một tiếng đồng hồ ấy cũng đủ thời gian cho tiểu đoàn 340 trừ bị tại Phước Quả tiến đánh vào sườn địch.

    Trận đánh diễn ra chưa đầy một tiếng. Địch thiệt hại nặng, để lại nhiều súng AK và B40 sau đó khi rút lại bị tiểu đoàn 340 Đại úy Phan truy kích. Riêng trung đội của tôi đã thiệt mất sáu binh sĩ và hầu hết đều bị thương.

    Đêm hôm đó đại đội của chúng tôi rút về đồn Phước Lộc cùng với đại đội 334. Tiểu đoàn 340 ở lại đóng quân tại ấp Phước Lộc. Sau đó tôi được biết tiểu đoàn 340 phối hợp với một tiểu đoàn của sư đoàn 5 mở cuộc hành quân lớn truy kích địch. Kết quả thu lượm hơn 100 súng đủ loại, xác địch đếm được tại chỗ 60 chưa kể một số đã được kéo đi trong đêm. Về phía chúng tôi thì đại đội 334 còn lại hơn hai trung đội do trung sĩ Nhất Tuệ, người có cấp bậc cao nhất còn lại chỉ huy, đại đột Quyết Tử 16 hy sinh. Đại Úy Cảnh bị thương có lẽ không nặng lắm, đã từ chối không cho tải thương và ở lại đơn vị. Phần tôi thì đêm đó, đã được bốc về tỉnh.
    Khi được trực thăng tải thương đưa về bịnh viện Phước Long, tôi chỉ chăm chăm xin về Cộng Hòa. Về Cộng Hòa có nghĩa là về Sài Gòn, về với Dung. Nhưng viên Đại Úy bác sĩ vừa nhìn thấy bảo:

    - Thiếu Úy bị nhẹ , đâu cần về Cộng Hòa.
    Tôi năn nỉ một hồi đến nỗi ông ta phát cáu:
    - Còn nhiều người bị nặng hơn Thiếu Úy.
    Tôi chán nản nằm dài trên chiếc băng ca phòng đợi. Nhưng khi xé băng, xem xét vết thương. Vị Đại Úy Quân Y chích cho tôi một mũi thuốc gì đó và bảo:
    - Cho Thiếu Úy này về Cộng Hòa.
    Đến đây thì tôi sợ tái người:
    - Có gãy xương không bác sĩ? Liệu có phải cưa tay không?

    Có lẽ bị nhiều thương binh cần chăm sóc quá, ông ta nhìn tôi, vỗ vỗ vào chiếc băng ca rồi đi lo cho người khác. Tôi sợ đến lạnh người. Hnh ảnh của một người tay cụt không phải là hình ảnh đẹp, nhất là đi bên cạnh Dung. Thoáng từ đầu, câu hát vọng về:

    Em lạnh lùng dạo phố mùa xuân
    Bên người yêu tật nguyền chai đá.

    o O o

    Tổng Y Viện Cộng Hòa như một cái chợ thương binh. Băng ca nằm ngang dọc, thương binh người thì băng đầu, kẻ thì băng chân. Có người thì im lìm nghẹo đầu như đã chết. Kẻ thì rên rỉ. Tôi nằm dài, chỉ thấy bải hoải, người rũ ra vì mệt mỏi, hoặc vì mất máu. Cái mũi thuốc ở Phước Long có lẽ là morphine, nay đã tan. Hễ cựa mình là tay trái đau nhói chịu không thấu nhưng cái đau không thấm gì với ý nghĩ bị cưa tay. Tôi được đưa vào phòng chụp quang tuyến và khoảng một tiếng sau thì vào phòng mổ. Vị bác sĩ có lẽ là một ngày mổ ít nhất vài ba ca, nhìn tôi hỏi:

    - Thiếu Úy bị ở đâu?
    - Ở Phước Long.
    - Không tôi hỏi bị bắn trúng ở chỗ nào trên tay có biết không?
    - Không, chỉ biết bị ở tay.
    Ông ta cầm tấm phim quang tuyến đen ngòm xoay tới xoay lui, rồi gật gật.
    - Ở cổ tay.
    - Liệu có phải cưa?
    - Cưa thì được giải ngũ. Sống cụt còn hơn chết lành. Sợ không?

    Đây là lần đầu tiên có người hỏi tôi câu này. Sợ không? Tôi vẫn nghĩ con sâu cái kiến còn muốn sống huống hồ là con người. Tôi đâu muốn bắn người khác chết? Tôi không rõ là người lính Bắc Việt ở bên kia có muốn bắn người không? Tôi giương mắt nhìn, và người bác sĩ đồng đội đã luống tuổi cười:

    - Yên trí, để tôi đánh thuốc mê, giải phẫu cho Thiếu Úy. Tỉnh dậy thấy mất một cánh tay là được giải ngũ, tàn phế 100%.

    Tàn phế 100% là câu cuối cùng tôi nghe khi lên bàn mổ, và mũi thuốc mê làm tôi lịm đi không biết gì nữa. Tôi đột nhiên tỉnh dậy, ngơ ngác không biết mình đang ở đâu, chỉ thấy cảm giác bị trói buộc. Tôi ngước nhìn. Cánh tay trái của tôi băng kín được buộc thẳng dọc theo một cái cọc sắt. Tôi định thần và cố thở xem có co duỗi được mấy ngón tay chăng. Hoàn toàn vô vọng, không một cảm giác gì ngoài sự tê cứng. Tôi còn bàn tay trái chăng?

    Khi vị bác sĩ cúi xuống nhìn tôi cười , tôi sợ thất thần. Sống cụt hơn chết lành.
    - Thiếu Úy may mắn lắm. Đạn trúng cổ tay nhưng lại trúng ngay vào chiếc đồng hồ nên xương không bị vỡ vụn. Yên trí không bị cụt tay đâu nhưng mà lại sắp phải ra mặt trận, không được giải ngũ.
    Khi tôi còn phải treo cánh tay trái thì một chuyên viên quang tuyến dẫn theo một vị cố vấn người Mỹ ôm theo một xấp hình x-ray đến. Ông ta hỏi bằng giọng rất nghiêm chỉnh:
    - Khi Thiếu Úy bị bắn, Thiếu Úy có biết trúng phải thứ đạn gì, hay có biết Việt Cộng sử dụng loại súng gì không?

    Tôi nhìn ông ta ngạc nhiên. Trông bộ dạng rõ là lính văn phòng, chưa bao giờ ra trận. Tôi không biết đồng đội của tôi nhìn thấy võ khí của địch dùng để bắn trúng mình bao giờ chưa và lại còn biết cả loại đạn gì. Tôi trả lời:
    - Đạn nổ rền trời, nhưng tôi nghe như tiếng AK. AK nổ nghe không thanh như M16.-
    - Tại sao trong phim chụp lại có mảnh đạn răng cưa. Chúng tôi là chuyên viên võ khí cũng chưa hiểu tại sao. Có thể Việt Cộng được viện trợ loại võ khí tối tân gì chăng?
    - À , tôi nghe ông bác sĩ giải phẫu của tôi bảo tôi không bị vỡ cườm tay nhờ đạn trúng cái đồng hồ.

    Hai chuyên viên Việt Mỹ bàn tán, gật gù rồi bỏ đi. Tôi chợt nhớ dến những bài báo ngoại quốc viết về những loại vũ khí tối tân lần đầu tiên được sử dụng ở Việt nam như hỏa tiễn SAM tầm nhiệt, như hỏa tiễn TOW và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác nữa. Đất nước đang trở thành bài thí nghiệm của các phát minh mới trong nghành võ khí học của cả hai phe Tự Do lẫn Cộng Sản. Những ý nghĩ viển vông này không ám ảnh tôi lâu vì ngày ngày Dung đều có mặt ở nhà thương Cộng Hòa. Khi được chuyển từ khu cấp cứu sang khu dưỡng thương của sĩ quan, quang cảnh đổi hẳn. Tổng Y Viện Cộng Hòa được xây cất từ khi nào không rõ nhưng rất tình tứ với những dãy nhà gạch có mái hiên rộng, thoáng và phía giữa hai dãy nhà là các hàng cây to tỏa tàn mát rượi. Hễ chiều chiều Dung tới là hai đứa ra ngồi ở mấy chiếc ghế bên gốc cây sơn vôi trắng toát thủ thỉ đủ thứ chuyện. Tôi được nghỉ gần ba tháng ở Sài Gòn và có lẽ đây là tuần trăng mật của tụi tôi. Dung bắt tôi ăn rất nhiều thịt bò để lại sức nhiều đến nỗi khi về đến Phước Long tôi vẫn còn ớn.

    Trở Lại Phước Long, mọi sự xem ra chẳng có gì thay đổi, vẫn là một cuộc sống bấp bênh tạm bợ trong chiến tranh. Mỗi buổi sáng các quán xá trong thị xã đầy lính tráng, đủ loại mầu cờ sắc áo, đủ loại binh chủng và ngay cả ở quán phở Tàu Bay đông đúc thỉnh thoảng cũng có cả mấy ông cố vấn Mỹ lóng ngóng cầm đũa vớt những cọng bánh phở trơn trượt. Guồng máy vẫn cứ quay dù có tôi hay không, bởi chỉ hai ngày sau, tôi lại mũ sắt áo giáp lội rừng lội suối. Đơn vị của tôi được cưng chiều, hễ về được đến hậu cứ là kể như phè và nhất là quân trang quân dụng không bao giờ thiếu. Hễ cần cái gì, Đại Tá Lưu Yểm cung cấp liền và nếu phía Việt khó quá thì có Đại Úy Sam Graves lo. Để bù lại những ân sủng đó, tụi tôi bị xài tối đa. Chữ xài là ngôn ngữ của lính và đôi khi tôi đã rùng mình khi nghĩ rằng cả đại đội hơn trăm con người được coi như một đồ vật, một dụng cụ để xài. Tôi vẫn hay suy nghĩ lẩm cẩm như vậy đến nỗi Đại Úy Cảnh trong một bữa nhậu đã cười ngất, gọi tôi là Ông Đồ Tây. Hỏi tại sao là ông Đồ Tây thì Đại Úy Đại Đội Trưởng bảo tôi học trường Tây mà suy nghĩ lẩm cẩm như Ông Đồ.

    Đại đội biệt lập, chịu sự chỉ huy trực tiếp từ Đại Tá Yểm và TOC. Chúng tôi hành quân giải tỏa, hành quân lục soát, hành quân phối hợp, hành quân truy kích…Chỗ nào cần, chỗ nào gay, có mặt tụi tôi. Thương vong khá lớn nhưng luôn luôn được bổ sung nên quân số không bao giờ được thiếu hụt, khác hẳn những đơn vị khác.

    Bản doanh của tiểu khu Phước Long nằm sát chân núi Bà Rá, ngọn núi cao nhất trong vùng. Đi đâu trong tỉnh , ngước lên cũng có thể nhìn thấy đỉnh núi và nếu hôm nào trời quang mây tạnh còn có thể loáng thoáng thấy dạng của công sự chiến đấu và những cột ăng ten và cột thu phát sóng truyền tin. Tôi liên lạc đều đều với Bà Rá khi hành quân và ngày này qua ngày khác tôi biết tên một số những người lính truyền tin, trong đó có ông Thiếu Úy Mai ra trường Thủ Đức sau tôi một khóa. Mai kém tôi một tuổi nhưng đã tốt nghiệp Văn Khoa, Cử Nhân Triết Đông. Lần nào từ núi bò xuống Mai cũng kiếm tôi cà phê cà pháo và đến tối thì mò vào ngủ trong hậu cứ của đại đội. Tôi thích Mai vì từ Mai tôi học được khá nhiều về nền văn hóa Đông Phương. Mai bảo rằng khi Việt Nam đã là một quốc gia có tổ chức, có hệ thống, có vua quan hành chính, có sử thì Nhật Bản vẫn còn là một bộ lạc, là sứ quân. Mai kể về cuốn sử của ông Lê Văn Hưu, một bộ sử đồ sộ được viết ra khi Nhật chưa có chữ viết. Mai nói rằng cuốn An Nam Chí Lược của Lê Tắc nay được giữ trong Khố Toàn Thư của Tàu. Cái ước mơ của Mai trở thành học giả Hán Nôm chuyên về sử. Nhưng tôi nhớ nhất là có lần Mai hỏi tôi:

    - Ông có biết vụ ly thân đầu tiên của Việt Nam, và có thể là của thế giới xảy ra vào thời kỳ nào không?
    Trời đất, làm sao tôi biết chuyện ly kỳ này. Mai cười bảo:
    - Đó là vụ ly thân giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Chính vì bố mẹ xa nhau nên con cái không còn nhận ra nhau, đánh nhau lung tung.
    Và Mai gõ tay trên bàn vừa hát “Giặc từ Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu anh em…” Tôi thích Mai vì lối nới chuyện hóm hỉnh có duyên. Có lần Mai nói với tôi cái vốn chữ Hán chữ Nôm của anh đã giúp anh rất nhiều trong việc giải mã truyền tin. Tôi không hiểu điều này có đúng chăng nhưng Mai gật gù bảo:
    - Ít nhất thì Đại Học Văn Khoa cũng dậy tôi được chút ít để ứng dụng trong chiến tranh.
    Khoảng hơn một tuần trước Thiếu Úy Mai hạ san mang theo một người Hạ Sĩ truyền tin trẻ măng bảo tôi:
    - Đây là Hạ Sĩ Ngọc, em út tôi đang học chữ Hán.
    Sống ở trên núi buồn quá, ông Mai vớ được người hạ sĩ ham học, bèn đem chữ Hán ra dậy. Thầy trò ông có vẻ tương đắc và tôi thấy rõ lòng kính trọng của hạ sĩ Ngọc với ông thầy Thiếu Úy.

    Chính nhờ nói chuyện nhiều , tôi hiểu căn cứ tiếp vận truyền tin Bà Rá được người Mỹ trang bị rất nhiều dụng cụ truyền tin hiện đại, có cái máy giá trị cả triệu Mỹ kim. Thiếu Úy Mai cho biết đài tiếp vận có thể liên lạc với đệ thất Hạm Đội của Hoa Kỳ và đặc biệt hơn nữa, căn cứ này còn có nhiệm vụ tìm bắt những liên lạc vô tuyến của địch. Tôi nghe lỗ tai này chạy qua lỗ tai khác nhưng hiểu rằng Bà Rá là một căn cứ quan trọng. Không ai nghĩ rằng Bà Rá sẽ bị tấn công. Thứ nhất nó tuy nằm trên núi nhưng vẫn là trong vòng đai của Tiểu Khu. Thứ nhì Bà Rá địa thế hiểm trở, phía bên kia là sườn đá tai mèo không có cách gì để bày binh bố trận. Căn cứ ngoài lực lương của truyền tin còn có hơn một đại đội nghĩa quân bảo vệ.

    Nhưng tối hôm đó, núi Bà Rá nổ tung. Phước Long dẫu sao vẫn là tỉnh lẻ, khoảng chín giờ tối ít ai ra đường, và dăm ba cái đèn điện lù mù không đủ tạo cho Phước Long một sinh hoạt ồn ào trong đêm. Đêm đó gần như mọi người trong tỉnh đều đổ ra đường nhìn lên đỉnh núi. Những tiếng nổ long trời lở đất làm sáng một vùng trời. Khi tôi và Đại Úy Cảnh tới trung tâm hành quân thì Đại Tá Yểm và rất nhiều cấp chỉ huy đã có mặt.
    Tôi thấy chính ông đang nói bên máy:

    - Em phải giữ vững tinh thần, cho thẩm quyền biết chuyện gì xảy ra.
    - Tụi nó đông lắm ở trần đánh lựu đạn và bộc phá. Thẩm quyền cứu em.
    - Hiện giờ ra sao?
    - Hầm em bị sập, em kẹt trong này một mình. Em không biết bên ngoài ra sao. Tối om không thấy gì hết. Thẩm quyền cứu em. Chắc em chết.
    - Can đảm lên. Thẩm quyền thăng em lên Trung Sĩ Nhất. Những người khác ra sao?
    - Em bị sập hầm, không biết.
    Tôi nghe và nhận ra tiếng Hạ Sĩ Ngọc, học trò chữ Hán của ông Mai, nên ra hiệu. Đại Tá Yểm gật đầu để tôi lên máy.
    - Ngọc, đây Thiếu Úy Dũng, nhớ không. Thiếu Úy Mai…
    - Em không biết Thiếu Úy Mai ở đâu. Hầm em bị sập, tối không nhìn thấy gì. Em sợ. Thiếu Úy cứu em với.

    Đại Úy Cảnh muốn hành quân trực thăng ngay lập tức nhưng phải đến sáng hôm sau đại đội của tôi mới nhảy xuống lưng chừng núi. Tiếng nổ đã im từ nửa đêm qua. Khi tiến lên được đến đỉnh, một cảnh tang thương bày ra trước mắt chúng tôi. Những hàng rào có lẽ bị bộc phá quăn queo thành từng nhúm. Một vài nơi còn có khói ngún lên thành từng dải. Xác chết la liệt khắp nơi, đủ dạng đủ kiểu. Đau lòng nhất là ngay ở sân cờ khoảng hơn hai chục xác bị bắn, hai tay vẫn bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng. Có lẽ họ bị bắt, bị trói và sau đó Việt Cộng xả súng bắn. Không có thương binh. Tôi mò mẫm tìm được Mai nghẹo đầu cạnh chiếc cột lớn, máu đã khô. Anh chết chân không đi giày, khẩu Colt vẫn còn ở trong bao gắn ở giày ATB chưa kịp rút ra. Phải đến quá trưa binh sĩ mới bới và lôi được Hạ Sĩ – nay là Trung Sĩ Nhất Trần Văn Ngọc – ra khỏi căn hầm bị sập.

    Đặc công Việt Cộng đã bò từ phía sông Drang dưới chân núi, leo lên sườn đá dốc ngược, đánh bất ngờ khiến toàn thể căn cứ Bà Rá bị hủy. Tôi chưa thấy Đại Úy Cảnh khóc bao giờ cho đến hôm đó. Ông đứng ở mỏm đá cao nhất nhìn cảnh tương của Bà Rá, hai khoé mắt đẫm lệ. Ông không nói một câu gì, không chửi thề như mọi khi, không hò hét lính tráng như vẫn hò hét khi ra trận. Ông đứng đó chết trân. Tôi cũng thấy nước mắt mình ứa ra khi quì xuống vuốt mắt cho Mai, cho người đồng đội với giấc mơ Hán Nôm. (còn tiếp)

  3. #9
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default

    CHƯƠNG 4


    Những thùng quà của gia đình vẫn gửi từ Mỹ cho tôi đa số là quần áo và đôi khi là thuốc là. Ông Thiếu Úy Mai bảo tôi rằng Lucky quấn ở Mỹ, nhất là ở Virginia, bao giờ cũng đậm đà hơn, thơm hơn. Tôi không chú ý gì đến sự cách biệt đó, Lucky trong hộp Ration C cũng chẳng khác thứ ghi sản xuất ở Richmond, Virginia. Bởi thế thỉnh thoảng hễ có Lucky Mỹ thứ thiệt tôi lại đem chia với ông Mai.

    Những thùng quà gửi về đột nhiên có những thứ vô lý phản ảnh một cái nhìn khác về chiến tranh. Khi Đại Úy Graves đưa thùng quà gửi qua APO, San Francisco, mở ra tôi thấy có thuốc trị hôi nách, thuốc xoa trừ muỗi, thuốc chống sốt rét, có dao cạo râu kiểu Mỹ xài một lần rồi vứt đi bằng nhựa, có nước hoa xoa sau khi cạo râu, và đặc biệt có một cái lưới trùm đầu để khi ngủ không bị muỗi đốt cùng một lô đồ lót rất dầy, may kiểu người nhái, mặc vào độ năm phút ngứa ngáy, mồ hôi ra như tắm.
    Ông Sam hí hửng cho hay má ông đã cố vấn bố mẹ tôi mua những của lạ này.

    Chiến cuộc mỗi lúc một một khốc liệt và quân số Mỹ tham chiến ở Việt Nam cũng mỗi lúc một gia tăng, theo báo chí thì lên đến nửa triệu lính. Khẩu hiệu của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị là: “Hậu phương vững mạnh ủng hộ tiền tuyến anh hùng”. Hậu phương có vững hay không chưa rõ nhưng hậu phương nay tràn ngập đồ Mỹ. Đi lang thang ở Saigon, hoặc ngay tại Phước Long, tôi có thể mua bất cứ thứ lỉnh kỉnh gì trong thùng quà bố mẹ tôi được cố vấn mua gửi cho tôi. Nhu cầu đẻ ra nhu cầu, và khi nhu cầu lính Mỹ qua Việt Nam gia tăng thì thầy giáo dạy tiếng Việt ở Mỹ đâm ra có giá. Bởi vậy, mẹ tôi và mấy đứa em trở thành cô giáo ở Fort Bragg và học trò phần lớn là binh sĩ Lực Lượng Đặc Biệt. Theo thư của mấy đứa em thì những khóa tiếng Việt rất chớp nhoáng, nội dung là dạy những câu chào hỏi thông thường và một số câu cần trong những trường hợp nguy khốn như “Tôi đói quá” hoặc là “Có đơn vị Mỹ gần đây không?“

    Mẹ tôi hẳn cũng sốt ruột vì cậu con trai trưởng đang cầm súng và ám ảnh bởi những hình ảnh chiến tranh được chiếu liên tu bất tận trên tivi Mỹ. Khi ông Sam viết thư chắc có kể về tôi nên hai gia đình bắt liên lạc với nhau. Trong thư, mẹ tôi bảo bắt chước bố mẹ ông Sam mua các thứ đặc Mỹ này gửi về vì “Mẹ biết con cần những thứ này hơn cả. Mấy gia đình có con đi lính ở đây đều gửi cho con cái họ vì ở Việt Nam không có“.

    Hà, nếu bố mẹ tôi biết có thể ra ngay chợ Phước Long để mua thì ông bà sẽ nghĩ sao?

    Đấy là chuyện cố vấn nhau ở bên Mỹ. Chuyện cố vấn nhau ở Việt Nam cũng có những điều phải suy nghĩ. Bản thân tôi chỉ là sĩ quan cấp thấp trong quân đội nên không rõ ở cấp cao hơn, quân đội Việt Nam được cố vấn những gì. Có thể về chiến lược, chiến thuật hành quân phối hợp nhiều đơn vị lớn cỡ sư đoàn với thiết giáp, phi cơ, pháo binh yểm trợ như cuộc hành quân Lam Sơn 719 chẳng hạn. Một ông bạn cùng khóa có mặt trên con đường 9 dẫn vào Tchepone Nam Lào thoát chết trở về kể cho tôi nghe rằng cuộc hành quân vĩ đại này do tướng Lãm chỉ huy không đạt được thành quả như dự trù. Ở nhà chú tôi, khi chầu rìa mạt chược, tôi nghe các vị lớn tuổi bảo người Mỹ đã sai lầm khi cố vấn cho Quân Đội VNCH tung ra cuộc hành quân này.

    Nhưng đó là chuyện trên cao, chuyện của các vị tướng lãnh. Chuyện của tôi là chuyện ông cố vấn đơn vị. Khi tôi về với Đại Úy Cảnh, ông cố vấn Mỹ của tụi tôi là một ông Đại Úy to lớn, năng nổ và nhậu rất giỏi, nhưng tôi chưa có dịp cụng ly thì ông mãn nhiệm kỳ về Mỹ. Thay thế là một ông Đại Úy khá đẹp trai, cao lòng khòng. Đại Úy Cảnh bảo tôi:

    - Thằng cha cố vấn mới này có vẻ được, không đến nỗi cổ cày vai bừa như thằng cũ.

    Ngôn ngữ phần nào phản ánh cái nhìn sự việc. Tôi chưa thấy sĩ quan Việt Nam nào – và cả ngay binh sĩ – gọi cố vấn Mỹ là ông, trừ những trường hợp long trọng hoặc trước công chúng.

    Các ông Mỹ có mặt ở những đơn vị nhỏ như đại đội của tôi cố vấn để làm gì? Thú thật là họ không cố vấn cái quái gì mà chỉ đóng vai liên lạc, truyền tin, xin tiếp liệu, yêu cầu tải thương, xin phi cơ Mỹ yểm trợ.

    Sam Graves là lính trừ bị, lính tài tử. Quê nhà ông ta ở tiểu bang Indiana, tôi mò bản đồ thì thấy nó ở đâu đó giữa nước Mỹ và không có một điều gì để thiên hạ phải nhớ như kiểu nhắc San Francisco thì nghĩ đến Golden Gate hay New York là tượng Nữ Thần Tự Do. Tôi tự nhủ Indiana chắc cũng như Phước Long vậy thôi. Nhưng ngay ngày đầu tiên gặp, tôi đã có cảm tình với ông cố vấn Mỹ này. Có thể là đồng điệu tương lân. Trước hết, trông Sam Graves không gợi vẻ của GI, lúc nào cũng có cái dáng tự tin đến ngông nghênh của những người lính Mỹ to dềnh dàng. Dáng Sam cao thon đầy nghệ sĩ tính và nhất là ít nói. Tôi rất sợ những ông lính Mỹ nhan nhản ở TOC, ở Trung Tâm Hành Quân. Họ nói nhiều quá và đôi khi họ chẳng hiểu họ nói gì cả. Cái uy lực của họ là uy lực của ông anh chi tiền và đôi khi họ chi tiền – dưới đủ dạng như quân trang quân dụng hoặc phi pháo yểm trợ hoặc ngay cả những đồ PX – một cách vô lý, bừa bãi.
    Ông Đại Úy Lê Tấn Vậy có lần tâm sự với tôi:

    - Mẹ kiếp mấy thằng cha Mỹ đếch cần gì đến suy nghĩ của thiên hạ, tụi nó chỉ muốn ai cũng làm việc y chang như chúng nó. Mỗi nước có một lề lối sinh hoạt khác, nó lại muốn đem lề lối của nó chụp lên đầu thiên hạ ai mà chịu nổi.

    Tôi không đủ tuổi tác để bàn loại chuyện này nhưng thâm tâm thì phải gật gù đồng ý. Từ những thành kiến đó, tôi hay nhìn cố vấn Mỹ dưới một nhãn quan khá chủ quan cho đến khi gặp Đại Úy Sam Graves.

    Ông Mỹ này khác, không đem ba cái đồ PX ra nhử như một lợi khí để làm thân, để tìm gái. Ông ta tò mò hỏi đủ thứ về xã hội Việt Nam, về lịch sử. Vui nhất là ông nói tiếng Pháp khá sõi đủ để khi nào bí quá, không đủ chữ Ăng Lê, tôi xổ tiếng Tây với ông. Riêng ông rất muốn thực tập mớ tiếng Tây, mà theo ông, ông đã học từ trung học và sau đó đeo đuổi thêm ở đại học với cái ước mơ sẽ trở thành một phóng viên đài phát thanh. Giao tình trở nên đậm đà hơn, khi Sam viết thư về gia đình ông ta liên lạc với bố mẹ tôi để rồi qua họ, bố mẹ gửi thư, quà cáp tới tôi rất nhanh nhờ APO – Quân Bưu Chính – của Mỹ.

    Đây cũng là điều đáng để ý. Thư từ, quà cáp của gia đình binh sĩ Mỹ gửi sang Việt nam chưa đầy một tuần lễ . Cái khẩu hiệu “Hậu phương vững mạnh ủng hộ tiền tuyến anh hùng” rất đúng trong vụ thư từ này, nhưng là hậu phương của Mỹ, không phải là của Việt Nam. Vì tôi đã thấy những lá thư của gia đình binh lính Việt Nam gửi từ Cần Thơ lên Phước Long mất cả tháng chưa tới. Nhưng cũng chả nên so sánh vì so với Mỹ chỉ có thua, trừ vụ thịt gà. Sam Graves rất khoái thịt gà Việt Nam, bảo thơm và ngon hơn thịt gà Mỹ và cũng đã biết ăn gà luộc với lá chanh. Đơn vị tôi là nhiệm sở thứ ba của Sam. Trước đó ông theo một tiểu đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, rồi là cố vấn cho một ông quận trưởng. Ông đã xin được làm cố vấn cho một đơn vị tác chiến thứ thiệt và vì vậy ông đến với Quyết Tử. Sam bảo tôi rằng cho dù là lính bất đắc dĩ, ông ta muốn là một người lính đúng nghĩa, cầm súng chiến đấu trực diện với chiến tranh và cố gắng để hiểu thế nào là chiến tranh ở chỗ tận cùng nhất.

    Chúng tôi không nói về chính trị, không bàn về ý nghĩa cuộc chiến. Hai đứa đều đồng ý mỗi cá nhân muốn hiểu chiến tranh thì cách tốt nhất là sống với nó và chỉ khi trực diện với cái chết, mọi điều sẽ được giải đáp. Tôi và Sam bỗng trở thành cặp bài trùng khác hẳn những sĩ quan Việt Mỹ quanh tôi. Tôi đã ngồi hàng giờ nghe ông ta kể về cảnh thơ mộng của Indiana, cố hiểu môn football, baseball mà vẫn mù tịt. Ngược lại, ông cũng nghệt mặt nghe tôi kể về Dung, về mối tình thiêng liêng của tôi và không bao giờ thông cảm được với trò đá bóng.
    Nhưng trên hết, Sam Graves là một người tận tụy với công việc và sòng phẳng với mọi người. Cùng toán của ông có hai người hạ sĩ Mỹ chuyên về truyền tin và tiếp liệu. Tôi quan sát và thấy ông đối xử với hai người lính dưới quyền khác hẳn so với sĩ quan và lính Việt Nam. Ông tôn trọng họ và chia sẻ với họ trong mọi tình huống, nhất là khi làm việc.

    Đại Úy Cảnh cũng có cảm tình với Sam và dặn dò tôi lo cho ông cố vấn đàng hoàng, đừng để có chuyện đáng tiếc xảy ra.
    Chuyện đáng tiếc vẫn xảy ra như thường và chỉ một chút nữa thì Sam Graves đã trở thành “cố Đại Úy”. Tôi đã lên lon, trở thành Trung Úy lúc nào không biết. Khi Đại Úy Cảnh đi phép, tôi trở thành quyền đại đội trưởng Quyết Tử và bỗng nhiên với hơn hai mươi tuổi đầu, tôi trở thành người có trách nhiệm về cả trăm sinh mạng của binh sĩ và rộng hơn nữa là sinh mạng của nhiều người khác trong đó có cả những người dân và luôn cả binh lính Cộng Sản. Có lần chúng tôi bắt được hai tù binh từ Bắc xâm nhập. Họ trẻ quá, hiền quá như những cậu học trò trung học. Tôi có thể làm tình làm tội họ, hoặc nữa là bắn họ. Tôi đã rùng mình trong suy nghĩ rằng mình có quyền định đoạt cái chết của người khác.


    Lần đó vì vắng mặt Đại Úy Cảnh, tôi phải dẫn đại đội đi giải tỏa cho một tiền đồn xa. Tôi cho đổ quân cách cỡ hơn hai cây số vì tin tức cho biết địch bố trí nhiều súng phòng không. Trực thăng bay chậm là một mục tiêu dễ ăn phòng không nhất. Khu vực Bù Gia Mập nổi tiếng dữ và địa thế hóc hiểm, nhiều rừng và đồi. Tôi chia quân thành hai cánh tiến theo đội hình chữ V ngược. Vừa vượt qua hai ngọn đồi trọc thì chạm địch. Thú thật, tôi không rõ có phải bị phục kích hay tình cờ chúng tôi phát giác ra có địch. Nếu phục kích, địch sẽ không chọn địa thế bất lợi như vậy vì chúng tôi tuy di quân ở triền đồi trống trải nhưng lại ở trên cao. Địch rải dọc phía đồng cỏ tranh phía dưới, dù được cỏ che lấp nhưng nhiều chướng ngại vật đủ to và vững để che chở. Cách nào đi nữa thì súng đã nổ khi mũi nhọn vừa xuống tới chân đồi. Tôi lăn người nằm xuống quan sát. Tôi giữa cánh mặt, ông Thiếu Úy Ngọc và Chuẩn Úy Sao giữ cánh trái. Địch bố trí theo hình cánh cung và hỏa lực khá mạnh, tôi ước lượng quân số hai bên ngang ngửa. Lính Quyết Tử rất quen những trận đụng độ kiểu này, dàn trận rất nhanh. Tôi gọi ông Ngọc qua PRC được biết bên đó có vẻ nặng hơn.
    Đúng lúc đó viên hạ sĩ truyền tin hét lớn:

    - Trung Úy, Trung Úy!

    Và lính quýnh đưa tay chỉ. Tôi chết điếng vì sợ. Sam Graves nổi bật giữa trận địa, vì cao lênh khênh lại thêm khẩu M14 dài trên tay rất dễ nhận ra là một tên Mỹ xâm lược, là cố vấn ác ôn.

    Trận mạc đã dạy tôi nhiều thứ, trong đó có một mục tiêu ưu tiên của địch là nhắm vào truyền tin, nhắm vào sĩ quan chỉ huy và nhất là nhắm vào cố vấn Mỹ. Phá được truyền tin là cắt đứt liên lạc. Hạ được chỉ huy là rắn mất đầu. Bởi vậy trong những cuộc đụng như đang diễn ra, mọi quan sát có thể trong tầm nhìn, hỏa lực địch thường tập trung vào truyền tin và sĩ quan. Đó là lý do tại sao lon của sĩ quan khi hành quân thường thêu bằng chỉ đen và ăng ten luôn luôn là loại ăn ten lá lúa rất ngắn. Nhưng những mục tiêu đó là hạng bét so với cố vấn Mỹ. Hạ được một cố vấn Mỹ là một đòn chí tử giáng xuống bọn xâm lược. Vồ được một cố vấn Mỹ thì chiến công còn lớn hơn, vì có thể dùng để đổi chác ở bàn hội nghị. Đó có thể là lý do Đại Úy Cảnh luôn luôn bắt ba ông cố vấn Mỹ đi sát với Đại đội trưởng và dặn dò tôi “đừng để chuyện gì đáng tiếc xảy ra”.

    Chuyện đáng tiếc xảy ra vì hỏa lực địch đổi hướng tập trung hết vào giữa, nơi ông Đại Úy cố vấn nay nằm bẹp dí dưới đất. Từ bên này quan sát, tôi thấy cạnh ông còn một người lính Quyết Tử. Đạn cày quanh họ, tôi nhìn thấy những viên sỏi tung lên. Chết là cái chắc vì tôi không thấy họ động đậy gì nữa.

    Tôi quyết định chớp nhoáng, gọi PRC yêu cầu Thiếu Úy Ngọc giữ vững tuyến, gia tăng hỏa lực. Tôi ra hiệu và Trung sĩ Hải hiểu ý, vẫy tay. Hơn một nửa trung đội ào lên, lợi dụng địch chuyển hướng, xông tới. Đạn nổ ròn. Tôi vẫy tay và khoảng hơn nửa trung đội còn lại vừa trườn trên đất vừa bắn xối xả.

    Địch phải quay lại bảo vệ sườn phía trái và thiếu uý Ngọc dẫn cánh quân của ông lấn dần lên. Khi tôi bò được tới chỗ Sam thì địch có lẽ bị tổn thất nặng đang vừa bắn vừa rút.

    - Dammed it, stupid American!

    Đại Úy cố vấn Sam Graves nghệt ra trước câu chửi thề của tôi, lắc lắc giơ tay chỉ người lính Quyết Tử bị thương máu me đầy mình.
    Hỡi ơi, khi thấy anh ta bị trúng đạn chới với, Sam không suy nghĩ gì, đã phóng lên toan dìu anh ta lùi lại.

    Điều ngạc nhiên nhất trong trận này là phía ta không bị thiệt hại gì ngoài người lính duy nhất bị thương trong khi địch để lại hai xác và khá nhiều vết máu.

    Tôi tiếp tục chửi thề, giận dữ trong khi Sam không hiểu tại sao. Cho đến khi tiếng súng ngưng hẳn, báo cáo với hậu cứ xong xuôi, ông đến cạnh tôi hỏi nhỏ nhẹ:

    - Nếu có một người lính bị thương, anh có lên cứu họ không?
    - Tôi khác, ông khác. Ông là cố vấn Mỹ, không có ông ai xin phi pháo yểm trợ tụi tôi. Ông đến đây để cố vấn, không phải để làm anh hùng. Mà ông chết thì tôi cũng bỏ mẹ.
    - Chúng ta đang cầm súng ở mặt trận…
    - Tôi lập lại, ông là cố vấn, là tiếp tế, là phi pháo. Tôi là Việt Nam, tôi là đứa bắn súng, là đứa bóp cò.

    Bỗng đâu một nỗi buồn vô cớ dâng lên trong lòng tôi. Tôi nhớ đến những tấm hình nước Mỹ thanh bình mà bố mẹ và các em gửi cho tôi. Tôi nghĩ cảnh êm đềm ở Indiana mà Sam vẫn kể cho tôi nghe. Tôi thấy trước mặt tôi là cảnh bố mẹ Sam đang tưới cỏ trước nhà họ, một căn nhà gỗ màu trắng. Tôi rùng mình khi nghĩ đến người vợ của ông lính Mỹ này ra sân bay đón xác chồng. Người lính Mỹ này ăn nhập gì đến tôi, đến chúng tôi và cái cuộc chiến này. Cái trái ngược hiện ra ngay giữa cảnh êm ấm thanh bình của những tấm hình và cảnh tượng nheo nhếch, chết chóc ngay tại đây, ngay tại núi đồi Bù Gia Mập.
    Tôi vỗ vai Sam nhỏ nhẹ:

    - Tôi xin lỗi đã nặng lời với ông. Tôi cảm ơn lòng hào hiệp của ông đã cố gắng cứu một người lính Việt Nam. Nhưng như một người bạn, tôi xin nhắc đây là cuộc chiến của chúng tôi, không phải của ông.
    Khó mà tưởng tượng được hai ông sĩ quan Việt Mỹ đốp chát với nhau như vậy giữa trận mạc. Nhưng sau đó, Sam Graves đã cẩn thận hơn, luôn luôn đi sát với bộ chỉ huy và thường làm gì cũng hỏi ý chúng tôi trước. Đại Úy Cảnh rất tinh, nhìn ra ngay và khen tôi:
    - Chú mày giỏi, dạy dỗ sao mà ông cố vấn đâm ra khá hẳn đi.

    Chuyện xảy ra là như vậy và tôi cũng đã trình bày sự việc với nhân viên Tòa Đại Sứ Mỹ rằng chuyện cứu viên sĩ quan Mỹ không có gì ghê gớm vì đó là bổn phận của tôi, và hơn nữa chính vì mạng sống của tôi và binh sĩ dưới quyền. Nhưng với Sam thì khác. Sau lần cãi lộn chửi thề, ông thân với tôi hơn, đi hành quân lúc nào cũng đi sát tôi và chính ông đã bắn che cho tôi trong trận Phước Lộc khi tôi bị thương ở cổ tay. Điều đáng để ý nhất có lẽ là Sam Graves trầm ngâm hẳn đi. Tôi thấy có những lần đi hành quân, khi nghỉ, Sam ngồi một mình tư lự, ngó vào khoảng không như muốn tìm gì đó. Tôi luôn tôn trọng những giây phút như vậy, lòng thầm mong Sam Graves khám phá được ý nghĩa của những gì đang xảy ra ở quanh ông, ở một nơi xa lạ như cái xứ Việt Nam khốn khổ này.

    Tôi nằm ở Cộng Hòa độ một tuần sau trận Phước Lộc thì Sam ghé thăm với một thùng cam Sunkist vàng ươm. Sam Graves báo tin ông đã mãn nhiễm kỳ, sẽ về Mỹ trong vài ngày tới. Chúng tôi ngồi nói chuyện khá lâu, tôi chúc ông mọi điều may mắn và Sam lại nói với tôi vụ tôi cứu ông. Tôi cười ngất:

    - Đến giờ này mà ông vẫn chả hiểu gì cả. Dẫu thế nào ngoài việc chúng ta cầm súng, tôi nghĩ chúng ta còn là bằng hữu. Chuyện tôi cứu ông không nên thổi phồng lên khiến tôi ngượng.
    Tôi lấy lá cờ giật được ở Phước Lộc đưa cho Sam:
    - Rời khỏi đây, ông sẽ sống một cuộc đời êm ả hơn ở xứ của ông. Đây là lá cờ khiến tôi suýt chết và ông cũng có mặt ở đó bắn che cho tôi. Máu trên lá cờ là máu tôi. Nhớ nhau ông nhìn nó và nghĩ đến Việt nam là đủ.

    Tôi không mường tưởng được là Sam Graves đã tìm đủ mọi cách đưa tôi sang Mỹ. Ông ta đã viết thư đi khắp các cơ quan, liên lạc với dân biểu nghị sĩ Mỹ để yêu cầu cho phép tôi sang Hoa Kỳ thăm gia đình.

    Đó là lý do tại sao tôi được tòa đại sứ Mỹ triệu lên tới hai lần. Nhưng phải đợi tới gần hai mươi năm sau, cũng chính nhờ Sam Graves, tôi lại lên – lần này là văn phòng ODP – để làm giấy tờ.

    Quá tam ba bận, cuối cùng tôi cũng được đi và gặp lại Sam Graves ở phi trường Dulles, Virgina. (còn tiếp)

  4. #10
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Đổ Lệnh Dũng - Lê Thiệp - Chương 5 & 6 & 7 & 8

    CHƯƠNG 5


    Đúng như định lệ của quân đội, sau hơn hai năm tôi được lên lon Trung úy. Hình như chiến tranh cũng được lên lon theo tôi. Nửa triệu lính Mỹ nay đang có mặt ở Việt Nam và nếu tính người ra người vào, vì mỗi Tour of Duty một năm, thì số người Mỹ đến Việt Nam e có lẽ lên đến nhiều triệu người. Trong một lần tán gẫu, ông Thiếu Úy Mai hỏi tôi:

    - Ông có biết tiếng Mỹ đầu tiên được Việt hóa là tiếng gì không? Chắc chắn là ông biết !

    Tôi đờ người ra rồi buột miệng:
    - Ô kê Sa-lem
    - Tầm bậy, và nó không được Việt hóa. “Oẳn Tù Tì”, nhớ không? “One, Two Three”.

    Tụi tôi cùng cười những bỗng đâu ngay trong quân đội, rất nhiều tiếng Mỹ đã được sử dụng một cách tự nhiên chẳng ai thắc mắc. TOC là Tactical Operation center, Trung Tâm Hành Quân. Cần một “lift” tức là cần trực thăng đến bốc. LZ là “Landing Zone”. Ration Clà đồ hộp mang ra chiến trường. Field Jacket là cái áo lạnh của lính mặc ấm không thể tả được. Plastic không phải là thứ nhựa để chế bao ni lông mà là chất nổ. Nhất là đồ PX và Pink Dollar, những thứ gợi đến một cuộc sống khác, một xã hội khác ở xa tít mù tắp, nơi được thiên hạ coi là thiên đường hạ giới. Chỉ có điều không hiểu tại sao những người đang sống yên lành như vậy lại hùng hục rủ nhau sang cõi địa ngục này. Nhan nhản lính Mỹ mặc áo da thêu câu “when I die I will go to heaven because I’ve been living in Vietnam”

    Cố vấn Mỹ đôi khi xuống tới cấp đại đội. Kè kè lúc nào bên Đại Tá Yểm cũng là một ông Đại Tá Mỹ. Khi thuyết trình hành quân cả tá cố vấh Hoa Kỳ và các ông thông dịch viên hiện diện. Càng ngày quân đội Việt Nam càng phụ thuộc vào hệ thống yểm trợ của Hoa Kỳ từ viên đạn đến đôi tất nhà binh mầu cứt ngựa rất dày.
    Trong bối cảnh đó, một hôm vị Đại Úy trưởng phòng Ba Tiểu Khu yêu cầu tôi trình diện. Ông bảo:

    - Trung Úy được biệt phái. Coi bộ Đại Tá Yểm không vui vì vụ này.

    Tôi hỏi được biệt phái đi đâu thì ông lắc đầu:
    - Trung Úy có gốc lớn, chắc biết biệt phái đi đâu rồi mà. Thôi cứ lên gặp ông thầy rồi xuống đây tôi làm thủ tục.

    Đại Tá Yểm ngồi sau chiếc bàn giấy lớn nhìn tôi từ đầu tới cuối rồi chậm rãi nói:
    - Bên Lữ Đoàn Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ xin đích danh yêu cầu biệt phái Trung Úy. Đây là sự vụ lệnh.

    Ông không nói gì thêm, chỉ nhìn tôi lắc cái đầu và đưa tôi tờ giấy. Ông không biết rằng sự việc xẩy ra bất ngờ ngay cả đối với tôi, vì quả tình tôi không hiểu tại sao một đơn vị lớn như vậy lại xin tôi biệt phái sang, mà lại xin đích danh? Có thể Đại Tá Yểm nghĩ tôi bon chen, vận động. Ông khách sáo gọi tôi là Trung Úy đúng theo cấp bậc thay vì vẫn gọi tôi là “Cậu” hay đôi khi thân mật hơn là “Chú mày”. Tôi thì mù mờ chẳng hiểu gì nhưng nghĩ rằng như vậy là về được Biên Hòa, về gần Sài gòn hơn và nhất là gần Dung.

    Trở về hậu cứ của đại đội, tôi vẫn lơ mơ chưa rõ đầu đuôi. Một tên Trung Úy vô danh tiểu tốt như tôi đâu đáng để một đơn vị lớn như Không Kỵ Hoa Kỳ để ý đến để yêu cầu biệt phái đích danh tôi? Bạn bè xúm lại hỏi thăm. Đại Úy Vậy ghé và nghe tôi nói tôi chẳng hiểu mô tê gì vụ này. Người đại úy đàn anh đoán có lẽ là ông chú Hà Bỉnh Trung, lúc đó đang làm ở Phủ Tổng Thống nhúng tay vào chăng? Tôi lắc đầu không tin vì đã có lần tôi nhăn nhó với ông về những chuyện như thế này. Tại sao là chuyên sau, mọi người xúm lại đãi tôi, đủ thứ bia rượu, đồ nhậu tới nỗi tôi say mèm không còn biết trời đất gì nữa.

    Mấy ngày sau sau đó tôi cũng chưa rõ sẽ phải tới đâu để trình sự vụ lệnh thì được tin là sẽ có trực thăng tới đón tôi. Đây lại là một bất ngờ khác. Trực thăng đến đón một mình Trung Úy Dũng thì quả là vinh hạnh, ngạc nhiên hơn nữa tên phi công lại là thằng Thành cùng học một lớp từ hồi còn bé. Nó cũng ngạc nhiên không kém và toác miệng chửi thề:

    - Mẹ kiếp, ông là ông nội tôi rồi còn gì. Tôi bay “phi vụ đặc biệt” tưởng là nhân vật lớn nào, ai dè lại là ông.
    - Ha, Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng của mày không đáng là nhân vật lớn hay sao?

    Hai đứa cùng cười ngất và khi hạ cánh xuống, tôi thấy một rừng trực thăng đậu như ruồi trên bãi đáp của First Calvary Divison. Chưa ra khỏi phi cơ, tôi hiểu ngay Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng lại được ưu ái đến thế.

    Thiếu Tá Mc Donnell đứng tươi cười đón tôi trong bộ biệt kích rằn ri. Tôi nhớ đến cô em gái Quế Hương và mối tình Việt Mỹ dang dở.

    Mẹ và hai đứa em tôi vẫn tiếp tục dậy tiếng Việt ở Fort Bragg hễ tiện khi những ông lính học trò sang Việt Nam, gia đình tôi lại gửi khi thì thư từ hình ảnh, lúc thì tí quà. Một trong những ông lính học trò này là Thiếu Tá Mike McDonnell. Khi ông đến Việt Nam ghé nhà để đưa thư từ đúng vào lúc tôi đang về Sài gòn. Chú Trung vui vẻ hẹn ông lại ăn tối và trong câu chuyện tôi nhờ ông chép lại lời bài Quốc Ca Mỹ vì nghe hoài mà không rõ nghĩa.

    Thiếu Tá Mỹ cao to, đẹp trai, đầu húi ngắn, cử chỉ lanh lẹn và cũng bặp bẹ được vài câu tiếng Việt nên bữa cơm diễn ra ồn ào vui vẻ với chả giò, và tùm lum đồ ăn Việt Nam. Mike chinh phục tình cảm của mọi người dễ dàng vì cái gì ông ta cũng chơi tuốt, kể cả ớt hiểm và cà cuống. Sau này Mike cho tôi hay ông ta được huấn luyện để thích nghi với mọi hoàn cảnh sống, chuyện ớt hiểm hay cà cuống nhằm nhò gì. Ông ta từng ăn thịt rắn, thịt cóc trong những kỳ huấn luyện mưu sinh vì đã là quân nhân Lưc Lượng Đặc Biệt thì phải chấp nhận mọi thứ.

    Ông đưa tôi lời bài hát Quốc Ca Mỹ và trước sự yêu cầu nồng nhiệt, ông đã cất cao giọng. Cái không khí vui vẻ trong bữa ăn khiến Mike bạo dạn hơn và yêu cầu tôi hát Quốc Ca Việt Nam. Tôi đờ người, nhìn lũ em cầu cứu. Tụi nó đã không giúp, còn cổ võ vô bắt tôi hát. Tất nhiên tôi đã chào cờ nhiều lần, nhất là từ khi đi lính thì gần như mỗi ngày. Tôi chào cờ và lẩm nhẩm hát theo đám đông nhưng tôi biết chắc là không thuộc. Tôi nhớ lại hồi ở thủ đức có ông Thiếu Úy Định học ở Fort Benning về. Hồi đó tụi sinh viên sĩ quan chúng tôi đã đặt cho ông cái biệt hiệu “Nhất Định Nhì Quang” bởi ông đem toàn bộ cung cách đối sử ở quân trường Mỹ áp dụng trên đầu chúng tôi. Và ông Định bắt chúng tôi hát những bài hùng ca, vừa hát vừa ôm súng chạy mờ người. Tôi còn nhớ những bài như: “Mờ trong bóng chiều một đoàn quân thấp thoáng…” hay “Đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng…”.

    Nhưng, tôi chưa được ai dậy hát Quốc ca cả. Mỗi buổi sáng chào cờ tôi cũng hát nhưng đúng là hát theo. Thế bài Quốc Ca của mình tên gì vậy?

    Rồi giữa phòng ăn của gia đình, trước mặt cô chú và lũ em cùng một ông lính Mỹ, tôi trịnh trọng: “Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi…” Tôi hát không hết vì tôi không thuộc hết, có những đoạn chỉ ậm ừ cho qua.
    Mọi người cùng vỗ tay inh ỏi và khi đã bắt đầu cà phê, ông Mỹ rút bóp ra tìm cái carte visit đưa tôi. Một tấm hình nhỏ rơi ra – Hình Quế Hương, em gái tôi. Ông Thiếu Tá Mỹ ngượng chín người nhưng cuối cùng ai cũng biê’t mối tình của em gái tôi không thành vì mẹ không muốn con lấy chồng ngoại quốc. Ông ta không tâm sự nhiều và Quế Hương thì không kể gì cho tôi nghe trong những lá thư viết về từ Mỹ. Trong suốt gần một tháng chờ đợi nhận nhiệm sở , Mike hay ghé chú Trung, vừa để học hỏi thêm về đời sống, về chiến tranh, về người Việt Nam, và nhất là cố thực tập dăm ba câu tiếng Việt.

    Chính ông em rể hụt này đã tìm cách lôi tôi sang làm việc với người Mỹ, với Lữ Đoàn Một Không Kỵ Hoa Kỳ – nơi mà ông được biệt phái sang phụ trách toán các “Toán Mầu”.

    Kiểm lại cho mãi đến sau này tôi cũng không biết chắc vị trí đóng quân của Lữ Đoàn Một Không Kỵ vì tôi đến và đi tôi đều ngồi trực thăng. Nó nằm đâu đó ở gần phi trường Biên Hòa. Tôi được cung cấp một căn phòng khá lịch sự có giường đệm, có tivi, có một cái tủ lạnh nhỏ, có người dọn phòng, dọn giường, không khác gì tiêu chuẩn của sĩ quan Mỹ. Giữa lúc bom đạn tưng bừng, chết chóc diễn ra ở khắp mọi nơi, tôi sau những phi vụ hành quân, trở về căn phòng lịch sự, và có cái cảm tưởng mình đang ở trong một khách sạn. Cái cảm tưởng đó khiến tôi lạc lõng, khiến tôi nghĩ mình đang ăn nhờ ở đậu, nó tạm bợ và không thật. Tôi ăn uống như họ, sống như họ, và giải trí như họ. Đồ ăn thì thừa mứa ở cafeteria, muốn ăn bao nhiêu cũng có nhưng toàn những thứ khó nuốt như khoai tán, như rau brocoli nấu nhừ`, như rau bắp cải thái nhỏ trộn với nước chua chua nhờn nhờn. Thường thì tôi chỉ lấy một miếng gà, hay một cục thịt bò và ăn với rau sà lát tươi. Tối nào cũng có ciné, toàn phim mới chưa chiếu ở ngoài rạp Sài Gòn, hoặc không bao giờ được chiếu. Đây là mục tôi khoái nhất và cũng tại đây tôi được coi một số phim cao bồi ngày xưa như High Noon, như OK Coral, và nhất là những phim của Charlie Chaplin. Bên trong căn cứ Mỹ và bên ngoài hàng rào kẽm gai là hai thế giới khác biệt. Bên trong thì thừa mứa, bên ngoài thì có những em bé, cụ già đi lượm từng cái bao ny lông gom đem bán cho Ba Tầu Chợ Lớn. Tôi hiện đang ở phía trong với tất cả những tiện nghi xa lạ chính với tôi. Điều chính là nay tôi đánh nhau với Việt Cộng theo lối Mỹ, hay chính xác hơn, quan sát người Mỹ đánh bởi tôi không trực diện cầm súng và chỉ là một ông lính Việt Nam đóng vai trò bảo kê. Nhiệm vụ của tôi chỉ là “clear” chiến trường.
    Trước hết, trực thăng ở đâu mà ra nhiều thế, đậu nhan nhản như ruồi. Kỵ binh hiểu nôm na là lính kỵ mã, cưỡi ngựa đánh trận. Quân đội các nước trên thế giới đâu còn xài ngựa như thời Quang Trung Đại Đế hay Nã Phá Luân nữa. Cuộc chiến lớn nhất hồi đầu thế kỷ Đệ Nhất Thế Chiến đã không có lính cưỡi ngựa bắn súng như các phim cao bồi. Calvary, Kỵ binh, vẫn được duy trì có lẽ vì truyền thống và rất nhiều sĩ quan, binh sĩ của Lữ Đoàn Một Không Kỵ vẫn đội chiếc mũ rộng vành trông giống mũ của hướng đạo sinh con cháu của BP, chỉ khác cái phù hiệu thêu hai thanh kiếm bắt chéo nhau, tiêu biểu cho tinh thần mã thượng.
    Không cưỡi ngựa thì cưỡi trực thăng. Nhiệm vụ của tôi là ngồi trên chiếc UH1B còn được gọi à CNC- Command and control – cùng với một sĩ quan LLDB, một sĩ quan của First Calvary Divison và một chuyên viên truyền tin. Tôi ngồi đó để khi nào cần liên lạc với phía Việt Nam và yêu cầu “clear” để các Toán Mầu hành sự. Tôi dịch hẳn chữ Color Teams và chỉ có Lữ Đoàn Một là có Toán Mầu. Khi người Mỹ tham chiến, nhiều hình thái tổ chức được phát minh để đối phó với cuộc chiến vốn không được tuyên chiến và phi hình thái này. Không chữ nào đúng hơn là cuộc chiến toàn diện, vì vừa đánh bằng B52, bằng Phantom, Skyhawk, bằng T54, hỏa tiễn Sam, lại vừa đánh bằng bàn chông, Plastic nhồi trong sườn xe đạp. Gạo cũng được coi là vũ khí chiến thuật. Color Teams là một điển hình song song với những đơn vị có tên Mỹ như là Mike Force, tên Việt như Dân Sự Chiến Đấu, những đơn vị hoạt động độc lập và do người Mỹ huấn luyện, trả lương và chỉ huy. Toán Mầu thuộc hoạt động ở vùng ba chiến thuật, chủ yếu là ở cuối rặng trường sơn nơi đồi núi trùng điệp và rừng già phủ lấp.
    Các cuộc hành quân của Toán Mầu rất chớp nhoáng, thường khởi sự vào sáng tinh mơ và kết thúc vào sẩm tối. Tôi ngồi cạnh viên chỉ huy trên chiếc CNC với tấm bản đồ khoanh khoanh xanh đỏ. Phía dưới cùng là một chiếc phi cơ trực thăng nhỏ còn được gọi là“Loach”, bé xíu và trong suốt vì phi cơ đa số bằng Plastic, bay ở giữa các phi cơ Cobra, được trang bị bốn mươi tám hỏa tiễn TOW chống chiến xa hoặc đại liên tám nòng. Trong số phi cơ bay ở giữa có một chiếc chở độ sáu đến tám người lính được huấn luyện đặc biệt để nhảy xuống nếu cần.
    Trước hết tôi chỉ là một sĩ quan Việt Nam biệt phái, có lẽ để chứng tỏ có sự phối hợp giữa hai quân đội Việt Mỹ. Tôi chỉ là một thứ “căn bản pháp lý” để lỡ có chuyện gì trục trặc xảy ra người Mỹ có thể trưng bày bằng cớ đây là cuộc hành quân phối hợp và được sự đồng ý của phía Việt Nam. Với tư cách bù nhìn, tôi không rõ tin tức tình báo từ đâu tới, tại sao lại chọn mục tiêu này mà không phải mục tiêu khác, và nhất định là không bao giờ được tham dự những dự trù hay quyết định của các cuộc hành quân “cóc nhảy” này.
    Tôi gọi nó là “cóc nhảy” vì có khi khoảng gần chục chiếc trực thăng đang bay bổng một chiếc sà xuống thật thấp rồi lại vọt lên cao. Khi vừa lên cao thì một chiếc khác lại sà xuống, lại vọt lên, như cảnh các con cóc nhảy lên, nhảy xuống. Chỉ cần một viên đạn từ dưới bắn lên là cả một phi đội xúm lại quần nát địa điểm tình nghi.
    Chiếc “Loach” gồm một phi công và một xạ thủ đại liên. Người xạ thủ này áo giáp, mũ sắt ngồi thõng hai chân ra khỏi phi cơ, dán mình vào tấm bửng sắt che nòng khẩu súng đại liên. Loach bay thấp gần như sát ngọn cây, hoặc nếu địa thế quang đãng thì chỉ là là mặt đất. Nhiệm vụ của nó là quan sát, tìm dấu vết địch. Ngay khi phát hiện những dấu hiệu khả nghi, Viên phi công báo lên chiếc tầu chỉ huy và vào lúc đó là nhiệm vụ của tôi. Vị sĩ quan Mỹ cùng tôi chấm tọa độ. Tôi lập tức liên lạc với Trung Tâm Hành Quân Việt Nam để xem nơi đó có đơn vị bạn nào không, có dân cư gì không, có phải là vùng oanh kích tự do không, và xin “Clear”. Cái chữ “Clear” này không được dịch sang tiếng Việt và ngay khi tôi nghe đầu máy trả lời “Clear” tôi gật đầu, ký vào một tờ giấy. Đúng lúc đó là Cobra hành sự. Diễn tả có vẻ rắc rối, có vẻ như mất thời giờ, nhưng mọi sự diễn ra không quá một phút vì tôi luôn ở trên máy và cả một lực lượng phi cơ trực thăng võ trang hùng hậu chỉ chờ tôi gật đầu.
    Trong suốt cuộc đời lính tráng, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh về Toán Mầu và cách đánh trận của người Mỹ. Những cuộc hành quân đầy tổn phí và quá cơ giới đó có kết quả gì chăng? Chúng tôi bắn được khá nhiều xe Motova, đôi khi bắt được tù binh nữa.
    Hiện diện trong số binh sĩ của Toán Mầu là một số những dân Mercanaries, lính đánh thuê. Khó mà tìm được những chữ khác để mô tả những người lính này. Họ không có quân số và không dính dáng gì đến tổ chức của quân đội của Việt Nam. Hơn phân nửa những người này là người này là người Miên, người Stieng và dù là người Việt, người kinh, người thiểu số, tất cả đều có một khuôn mặt lầm lì, ít nói. Họ sống biệt lập trong một khu riêng và tôi cũng chỉ ghé nơi họ có một hai lần. Đó là những căn lều vải khá rộng và đôi ba căn nhà tiền chế với hàng loạt những chiếc giường vải nhà binh.
    Nhiệm vụ của những người lính này là cứu phi công và phá hủy máy bay hoặc bắt tù binh. Bắt tù binh? Quả vậy, đôi khi anh Khổng Lồ cũng chụp được chú bé David. Một lần khi đang bay quan sát dọc theo con đường mòn thì viên phi công lái chiếc Loach cho hay đã phát giác ra một căn hầm chữ A ở ven một rặng cây leo um tùm. Chiếc Loach đảo qua đảo lại sát mặt đất. Không thấy phản ứng gì mặc dù viên phi công cho hay anh ta thấy rõ ràng có người trong hầm. Quyết định chớp nhoáng được hình thành. Sáu người lính trên chiếc UH 1B nhảy xuống, ào tới, và lôi ra được một chú với khẩu AK47 cùng đồ tế nhuyễn có võng dù, một cái bị quần áo và một túi lương khô.
    Ngay khi đáp xuống căn cứ, tôi phải thông dịch cuộc hỏi cung chớp nhoáng. Người tù binh trông cỡ độ hơn hai mươi tuổi, mặt ngơ ngác nói năng ú ớ. Ngồi gần anh ta, tôi ngửi thấy mùi xú uế, chợt hiểu ra và ra hiệu cho mấy người Mỹ lui ra. Tôi lôi anh ta ra một góc, đưa cho một lô giấy và một cái quần bảo thay đi. Sợ quá, anh ta đã bĩnh ra quần.
    Tôi hỏi anh ta sợ gì, bộ sợ Ngụy mổ bụng moi gan ăn chắc? Sợ quận Mỹ xẻo tai? Khi đã hoàn hồn anh ta thú thực là liên lạc viên đang đi công tác. Đây là lần đầu anh ta trông thấy Mỹ, thấy nhiều phi cơ trực thăng Mỹ và nhất là gần đến nỗi tiếng phi cơ anh hồn phi phách tán, đờ người ra không phản ứng gì được, sợ đến nỗi bình ra quần.
    Những người lính đặc biệt đi theo Toán Mầu được trang bị nhiều dụng cụ lỉnh kỉnh trong đó có một tấm lưới khá rộng đan bằng sợi dây dù. Một lần chiếc phi cơ tiền thám bay sát đất bị trúng đfạn. Chiếc phi cơ trực thăng bé tí tẹo sa xuống đất. Viên phi công và xạ thủ đại liên nhảy thoát ra ngoài. Khi vừa thấy chiếc Loach loạng quạng, bốn chiếc Cobra quần quanh bắn như mưa bấc. Đại liên, TOW bắn nát một khoảng quanh hai người lính Mỹ. Chiếc UH1B nhào xuống và như chớp những người lính đặc biệt quăng lưới. Tôi không hiểu bằng cách nào mà chưa đầy một giây họ đã kéo được cả hai người lính Mỹ to lớn lên khỏi mặt đất và lôi họ lên trong khi trực thăng vẫn đang bay và súng đạn nổ rầm rầm.
    Những chiếc Cobra đảo vòng, tới tấp xả súng. Một loạt hỏa tiễn TOW nhắm vào chiếc phi cơ trong suốt và nó sụm đi như một cục plastic. Người Mỹ không muốn chiếc phi cơ này lọt vào tay Việt Cộng. Ngồi trên cao tôi không rõ đạn bắn ở dưới đất cỡ nào nhưng tôi tin rằng không một ai còn sống nổi. Bởi chỉ độ mươi phút sau, hai chiếc Phantom tới và tiếp đó là hai chiếc nữa. Bom nổ từng loạt, cây cối nghiêng ngả. Tổng cộng là tám đợt đánh bom. Các khoảng rừng ở dưới nay trông nham nhở với những hố bom khá rộng. E rằng nếu có con thỏ, chắc cũng chết thui.
    Cái đáng nói nhất là phương tiện của người Mỹ và tinh thần trách nhiệm của họ. Khi tôi mới gật đầu chưa kịp ký thì những chiếc Cobra đã hành sự. Hỏa tiễn TOW trông nhỏ cỡ B40, những dài hơn và phụt ra những tên lửa. Đại liên nhiều nòng bắn ra nhưng một con rồng phun nước. Khi tôi hỏi tại sao phi cơ Phantom, Skyhawk có thể đáp ứng nhanh như vậy thì viên sĩ quan Mỹ cho hay đó là những phi cơ ứng trực. Hoặc là nó đang bay trên không phận gần đó. Nếu không, nó dẫu có đậu dưới đất, nhưng là ở ngay đầu phi đạo, phi công ngồi sẵn trên đó bất cứ lúc nào cần là cất cánh lên liền. Liệu quân đội Việt Nam có đủ phương tiện như vậy chăng?
    Có một lần hành quân tôi không bao giờ quên được. Khi chiếc Loach bay là sát đất, bị trúng đạn. Ba chiếc UH1B sà xuống cũng lãnh phòng không rớt theo. Từ trên CNC viên sĩ quan Mỹ phản ứng rất nhanh, tất cả phi cơ còn lại bốc lên cao tránh né. Tôi không ước lượng nổi đơn vị địch dưới đất cỡ nào nhưng rõ ràng là đại đơn vị và phòng không khá dày. Ba chiếc UH1B còn lại xả hết hỏa lực và sau đó rời khỏi chiến trường, chỉ còn lại chiếc CNC của tụi tôi bay cao tít mù tắp. Chỉ một lúc sau Skyhawk và Phantom bay tới. Từng cặp hai chiếc một chúi xuống đánh bom.
    Tôi thấy rõ hai chiếc phản lực này không xuống thấp nên thắc mắc. Viên Thiếu Tá Mỹ ngồi cạnh gục gặc cái đầu nói để chờ xem. Suốt gần nửa tiếng phản lực chỉ đánh lai rai và bỗng nhiên viên sĩ quan ra lệnh CNC rời khỏi chiến trường. Tôi đưa mắt ngạc nhiên nhìn. Ông ta lắc đầu:
    - B52.
    Lúc đó vào khoảng quá trưa. Tụi tôi trở về Landing Zone đổ xăng và ăn trưa sau đó được lệnh bay trở lại. Khi tôi nhìn xuống tất cả cháy rụi, không một cây nào đứng thẳng, và cả một khu rừng trông như một vệt xám lớn giữa rừng núi xanh rì. Tiếng lúc đó là “trải thảm”. B52 bay ở độ cao cả vài ngàn thước thả không biết cơ man nào bom xuống mục tiêu. Một lần hành quân tôi chỉ nằm cách chỗ B52 giội bom cỡ ba cây số nên hiểu thế nào là trải thảm. Bom nổ từng chập như sấm rền đến độ dù cách mục tiêu đến ba cây số tôi vẫn thấy trời đất rung rinh.
    Lần đó một cuộc hành quân truy kích được thực hiện chớp nhoáng và tôi đọc được trong báo cáo rằng địch để lại nhiều xác chết đếm không xuể cùng với nhiều võ khí trong đó có bốn khẩu phòng không. Lúc đọc báo cáo tôi băn khoăn tự hỏi làm sao có thể đếm xác được? Tôi e không có cái gì còn sót lại sau những trận mưa bom B52.
    Cũng phải công nhận tinh thần trách nhiệm của họ nữa. Đối với tôi, tôi thấy người Mỹ ngớ ngẩn, ngây thơ và không hiểu cuộc chiến và rất vô lý khi đem áp dụng cung cách hành sử của họ áp đặt lên phía Viẹt Nam. Nhưng khi làm việc họ làm tới nơi tới chốn. Khi leo lên phi cơ, mỗi người Mỹ đem theo một cái sandwich. Họ bay như vậy từ tảng sáng cho tới sẩm tối. Khi cần đáp xuống tiếp tế nhiên liệu xong là bay tiếp, không có vụ lè phè đi ăn mì, ăn hủ tíu ở quán chị Ba chị Tư.
    Trung bình một tuần tôi phải bay ba đến bốn lần từ sáng đến chiều. Ngồi trên chiếc trực thăng lơ lửng giữa trời nhìn xuống rừng núi trùng điệp, đôi khi tôi thấy mọi sự vô lý cùng cực.
    Cái ông sĩ quan Mỹ to dềnh dàng ngồi cạnh tôi tại sao từ đâu vác xác tới đây, ôm theo súng đạn. Cái ông du kích, bộ đội tại sao lại dép râu, gạo sống vượt Trường Sơn ôm AK, B40 bắn loạn lên? Tại sao những người như tôi phải ắc ê, phải áo giáp mũ sắt mờ người đi hành quân tối ngày sáng đêm? Cho đến giờ này sau bao năm tại ngũ, chết chóc đối với tôi vẫn là cái gì khó hiểu bởi toàn là những cái chết tức tưởi, không biện minh giải thích được?

    Phía dưới tôi, trên đất nước này, bom rơi đạn nổ khắp nơi, từ trên cao nhìn xuống, những hố bom to như những chiếc ao nhỏ, hoặc trũng xuống sâu hoắm, hoặc đọng nước tù lên rêu xanh ngắt. Thật chẳng khác gì những khuôn mặt rỗ hoa.

    __________________________________________________ _____________________________________

    CHƯƠNG 6


    Trong một cơn bốc đồng, có thể vì chán nản trước mọi sự, có thể chỉ vì cái nhìn khinh rẻ của ông Trung Tá Minh, tôi đã trải qua một đêm đầy kinh hoàng.
    Cuộc đời có những đẩy đưa bất ngờ. Tôi không bao giờ nghĩ tôi sẽ gặp lại ông Trung Tá Minh ở Bố Đức. Chính ông Trung Tá này đã ký giấy báo cáo tôi đào ngũ. Bởi vậy khi cầm sự vụ lệnh đi nhậm chức Đặc Trách Nhân Dân Tự Vệ Quận Bố Đức, tôi không có một ý niệm gì, coi như mọi sự muốn ra sao thì ra và bật ngửa khi thấy ông Quận Trưởng lại là người hai tháng trước đây ký giấy báo cáo tôi bỏ nhiệm sở, đào ngũ.

    Ông Minh nhìn tôi cười khẩy:

    - A, Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng. Mình lại gặp nhau. Thôi được, ông liên lạc với Thiếu Uý Tám lo chỗ ăn chỗ ở rồi tính sau.
    Không hiểu sao tôi nổi cơn khùng:
    - Tôi hiểu là chức vụ của tôi sẽ phải ở dưới ấp nhiều hơn. Trung Tá có thể cho tôi đi thẳng xuống ấp ngay được không.
    Trung Tá Minh ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn tôi khá lâu như muốn đánh giá và rồi chậm rãi:
    - À, nếu Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng muốn bắt tay vào việc ngay thì được chứ. Để tôi sai tài xế chở Trung Uý xuống ấp liền.
    Lúc đó cũng đã khoảng hơn bốn giờ chiều và khi người tài xế bỏ tôi xuống ngã tư đường đất đỏ, trời cũng bắt đầu sập tối. Tôi hỏi người tài xế:
    - Trụ sở ấp ở đâu ?
    - Làm gì có trụ sở ấp, Trung Uý.
    Lại thêm một bất ngờ. Quả thật tôi chỉ muốn nhảy lên chiếc xe jeep quay trở lại Quận đường. Ít ra thì ở đó còn có chút đỉnh văn minh. Nhưng nghĩ đến cái giọng khinh khỉnh của ông Quận, tôi vẫy tay bảo:
    - Thôi chú cứ về đi, mặc tôi.
    Trung Uý Đỗ Lệnh Dũng vai đeo ba lô, tay thủ khẩu M16 đứng chơ vơ giữa ngã tư Ấp Mới với cái sự vụ lệnh Đặc Trách Nhân Dân Tự Vệ không biết phải đi đâu tìm ai trong cái ấp toàn là người Thượng Stieng này. Trót đâm lao thì phải theo lao, tôi lững thững đi về phía căn nhà có vẻ khang trang nhất. Té ra là một cửa hàng chạp phô bày lỉnh kỉnh đủ thứ tạp nham. Mùi cá khô sực lên. Dăm ba gói thuốc Quân Tiếp Vụ xếp bên một thúng thuốc rê. Vài hũ kẹo, và nhiều thứ tôi không biết là gì nữa. Quán vắng tanh y như cảnh ngoài đường vậy. Tôi lên tiếng:
    - A lô, có ai không?
    Từ phía sau bếp tối om, một người đàn bà trung niên ló ra. Người thiếu phụ có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi áo giáp mũ sắt ba lô nặng trĩu, một hình ảnh lạ lẫm trong cái bối cảnh này. Phải định thần một lúc bà ta mới hỏi:
    - Trung Uý tìm ai?
    Bà ta không có hỏi tôi có cần mua bán gì không. Tôi chậm rãi:
    - Bà có biết ông Trưởng Ấp hay mấy ông hội đồng ở đâu không? Ấp này có lính tráng hay nhân dân tự vệ gì không?
    - Biết chứ, nhưng giờ này làm sao tìm được họ. Còn mấy ông nhân dân tự vệ hả lúc nào họ mua rượu thì mới thấy.
    Bỗng nhiên, bà hỏi tôi một câu bất ngờ:
    - Trung Uý có đói không?, Trung Uý ngủ ở đâu tối nay?
    Một nỗi buồn tràn ngập tôi. Trung Uý Dũng trận mạc đầy người, huy chương Việt Mỹ cả vốc, dân chơi thứ thiệt nay đang đứng trong xó tối và đang bị một người phụ nữ, có lẽ là bà vợ của một người lính tử trận, nhìn bằng con mắt ái ngại. Tôi quay nhìn ra phía cửa. Trời gần như tối hẳn. Tôi thấy bụng cồn lên vì đói:
    - Bà có biết có quán nào bán cái gì ăn không?
    Bà ta cười:
    - Xó rừng này toàn là người Stieng, làm gì có quán xá. Chỉ có vài gia đình Việt Nam ở hẳn đây. Thôi, Trung Uý đói để tôi nấu mì gói vậy.
    - Nếu có mì gói thì hay quá.
    Bà ta chỉ cái bàn khập khiễng ra hiệu và đi khuất vào phía sau bếp. Tôi ngồi đó chỏng chơ, cây M16 gác ngang đùi, đầu óc trống rỗng.
    Khi người đàn bà – sau này tôi thân với bà Hoa lắm – bưng ra một tô mì nóng đặt trước mặt tôi và nhỏ nhẹ:
    - Tôi ở một mình, Trung Uý ở đây không tiện. Để tôi qua nhà thím Sáu tính toán xem sao.
    Tôi nhìn bà ta ngạc nhiên. Tôi chưa hề xin được trọ ở đây nhưng có lẽ linh tính phụ nữ cho bà ta thấy tôi đang ở đường cùng ngõ bí. Không đợi tôi trả lời, bà ta đi ra đóng hết cửa lại và lách mình vào đêm tối. Đói quá tôi lùa vài đũa là hết tô mì, bưng cả cái tô lên húp nước. Tứ bề im phăng phắc không một tiếng động. Một niềm sợ hãi bùng lên trong tôi. Nếu người đàn bà này là Việt Cộng nằm vùng dám lắm, một người đàn bà goá ở một mình nơi đây… Dám lắm, có thể dọn mì để cầm chân tôi… Lấy cớ sang thím Sáu để đi báo du kích…
    Tôi quan sát và chộp khẩu M16 lủi vào một góc nhà nơi có một lô bao vừa gạo vừa cá khô, măng khô chất chồng khá cao. Ít nhất thì cũng có chướng ngại vật cản và nếu tụi nó vào thì một mạng phải đổi vài mạng. Tôi vừa thu người thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Tim tôi đập liên hồi. Tôi bật chốt an toàn sẵn sàng. Phía bên ngoài có tiếng lè nhè:
    - Có tiền mà. Không mua chịu đâu. Mở cửa đi.
    Tôi cố định thần. Giọng nói lơ lớ rõ là của một người Stieng. Khi tiếng đập cửa ầm ĩ hơn thì có tiếng bà Hoa quát:
    - Làm gì giờ này còn đòi rượu
    - Có tiền mà. Có tiền mà
    Cửa mở bà Hoa đi vào cùng với một người Stieng. Bà nhìn trong cái tù mù của ngọn đèn dầu chắc không thấy tôi, gọi lớn:
    - Trung Uý, Trung Uý.
    - Tôi đây
    Thở phào, tôi từ từ đứng dậy, cũng may trời tối nên dù tôi có đỏ mặt chắc bà ta cũng không nhận ra.
    - Thím Sáu nói nếu cần Trung Uý có thể ở bên đó nhưng không được rộng rãi lắm.
    Người đàn ông đi mua rượu vai khoác khẩu carbine khiến tôi ngạc nhiên hỏi:
    - Người này sao có súng?
    Ông ta từ lúc thấy một ông Trung Uý mũ sắt áo giáp xuất hiện thì im hẳn, đứng nép vào một bên.
    - Tui là Nhân Dân Tự Vệ.
    Tự đẩu tự đâu, phong thái của tôi trở về, nói như quát:
    - Nhân dân tự vệ đang giờ gác, sao đi mua rượu?
    – Ông Hai, lạnh quá mà Ông Hai.
    Đầu tôi tính toán rất nhanh. Thế này là được, là có phe ta, là có canh gác. Tôi hỏi:
    - Trưởng Ấp ở đâu
    - Tui không biết. Nó ngủ ở đâu có ai biết. Phải tìm Ông Hai ơi.
    Tôi thấy khó mà ngủ ở nhà cái thím Sáu nào đó và hẳn là không thể ngồi đây đến sáng. Tôi nhìn đồng hồ, mới khoảng 7 giờ tối. Tôi quyết định, đòi trả tiền tô mì nhưng bà Hoa nhất định không lấy và trong cung cách bà có vẻ ngạc nhiên về phản ứng của tôi. Tôi bảo người lính Nhân Dân Tự Vệ:
    - Anh dẫn tôi đi kiếm Trưởng Ấp.
    Trời tối như thui khá lạnh và hình như sương đã xuống. Người lính Nhân Dân Tự Vệ áo bỏ ngoài quần, chân đi dép Nhật xem ra khá dễ bảo. Cái ấp nhỏ tí này chưa bao giờ lại có một ông Hai lừng lững tối trời còn đi tìm Trưởng Ấp. Anh ta dẫn tôi đi từ căn nhà sàn này đến căn nhà sàn khác, hỏi lung tung nhưng tông tích ông Trưởng Ấp mịt mù không thấy.
    Cuối cùng, tôi hỏi anh ta:
    - Tối nay anh gác ở đâu?
    - Ông Hai, gác cho vui, gác ở đâu cũng vậy!
    - Có ai gác chung không?
    - Có chứ. Có chứ. Gác một mình buồn lắm.
    Khi anh tôi dẫn tôi đến nơi gọi là vọng gác thì một ông Nhân Dân Tự Vệ khác cũng đã say mèm đang ngủ đong đưa trên võng. Khi lay được anh ta dậy, anh ta như ở trên trời rớt xuống và khi nhìn thấy một Trung Uý Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thì anh ta ú ớ nói không ra tiếng. Tôi quan sát địa thế và ra lệnh:
    - Tôi sẽ nằm ở đây. Anh này nằm ở đây. Anh kia nằm chỗ kia. Thay phiên nhau gác mỗi người hai tiếng.
    Tôi phải nói rất chậm, và rành mạch lập đi lập lại nhiều lần họ mới hiểu. Tôi cũng biết rõ không thể tin tưởng ở họ nhưng yên bụng hơn vì dù sao tôi cũng có thêm hai cây carbine và nhất là với yếu tố bất ngờ, có du kích chắc tụi nó cũng không thể ngờ tôi đang có mặt ở bìa rừng như thế này để đối phó.
    Tối hôm đó dù đã chia phiên cẩn thận nhưng chính là chỉ có ông Hai Dũng thức gác còn hai ông Nhân Dân Tự Vệ thì gật gù vừa gác độ mười phút là bắt đầu ngáy.
    Tôi ngồi đó bó gối nhìn vào bóng đêm để nhớ những ngày xưa. Gọi là ngày xưa nhưng chỉ mới mấy tháng trước tôi còn ngủ trên giường nệm trắng giữa căn cứ của Lữ Đoàn Một Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ với một rừng trực thăng đậu ngoài bãi cho đến khi cuộc Việt Hoá Chiến Tranh Việt Nam đi vào giai đoạn chót.
    Tôi nhớ bỗng nhiên không còn những cuộc hành quân cóc nhảy nữa và trong số vài sĩ quan Việt Nam được biệt phái làm việc với Toán Mầu, tôi là người duy nhất được giữ lại để giúp Lữ Đoàn Kỵ Binh Hoa Kỳ để giải quyết số lính “đánh thuê”. Họ được trả lương khá hậu và được trả về đời sống dân sự. Một người lính trong đám khá trẻ nhưng gương mặt gân guốc đen đủi nói với tôi sau khi cầm một bó tiền của người Mỹ trao cho:
    - Thấy mẹ rồi Trung Uý ơi. Em đăng vào Biệt Kích Mỹ vì đằng nào cũng đánh giặc nhưng đánh giặc với người Mỹ lương cao hơn, sướng hơn, cái gì cũng có. Nay em về chắc lại phải đi quân dịch, lại phải xuống Quang Trung
    Tôi nhìn người lính trẻ không biết phải an ủi anh ta cách nào. Họ đăng vào những đơn vị do Mỹ thành lập. Tuy lương cao nhưng vẫn không có quân số, không có quân bạ, thẻ bài. Đối với Quốc Gia Việt Nam họ vẫn là dân sự – có nghĩa là nếu đi loạng quạng ngoài đường sẽ bị quân cảnh xét giấy, họ sẽ bị liệt vào thành phần trốn quân dịch, và chắc chắn họ sẽ bị hốt lên xe cây đưa xuống Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Cái bi thảm hơn nữa là những người lính có thẻ bài không bao giờ ưa những người đi lính cho Mỹ vì họ lãnh lương thấp hơn nhiều và đời sống cũng cơ cực hơn nhiều.
    Toán Mầu được giải tán trong bối cảnh xuống thang chiến tranh và nỗ lực của Hoa Kỳ cố rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam. Tôi không để ý gì lắm đến chính trị nhưng cũng lờ mờ hiểu rằng người Mỹ đã tìm đủ mọi cách để có mặt ở đây. Xa xôi nhất có lẽ nó bắt đầu từ thời Tổng Thống Kennedy với chương trình Tân Biên Cương. Ngay từ những năm sau hiệp định Genéve 1954, CIA đã nhảy xuống giúp người Mèo – người Hmong như tiếng gọi chính thức sau này – để đối phó với Lào Cộng. Đến bây giờ nhiều người Việt Nam vẫn nghĩ rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông em Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết chỉ vì chống đối việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Hẳn là lịch sử sau này sẽ có câu trả lời xác đáng hơn. Nhưng khi đã lậm sâu vào chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ lại bị buộc tay buộc chân vì chính trị của quốc gia họ.
    Suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ nghĩ người Mỹ như là một bọn “xâm lược” hay thực dân, đế quốc như đế quốc Pháp lo chiếm thuộc địa. Thế giới bây giờ không chấp nhận thuộc địa nữa. Nhưng tôi vẫn thấy cái gì không ổn trong việc người Mỹ xăn tay áo đảm đương cuộc chiến và nhất là buộc miền Nam Việt Nam phải đối phó với cuộc chiến theo quan điểm Hoa Kỳ.
    Những suy nghĩ cá nhân này vân không có cách gì cản trở được guồng máy đang quay. Khi những tin tức về hoà đàm Paris, về Quân Sự Bốn Bên, về Trao Đổi Tù Binh tới tấp tràn ngập trên mặt báo chí thì những người lính như tôi vẫn phải hành quân, vẫn phải cầm súng canh gác. Khi người Mỹ đổ quân vào Việt Nam, báo chí có chữ mới “leo thang“. Khi người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam thì có chữ “Việt Nam Hoá Chiến Tranh“
    Đang tham dự những cuộc hành quân với vũ khí hiện đại nhất, nay tôi lại bó gối trong một bìa rừng với hai ông lính Nhân Dân Tự Vệ và hai khẩu carbine cà tàng. Những đêm dù lạnh rồi cũng qua đi, và như một con rối không tự điều khiển được mình, tôi lao vào một cuộc sống khác bán khai nhưng ở một khía cạnh nào đó ghi đậm tình người khiến dù ngắn ngủi, khi nào nghĩ lại tôi cũng mỉm cười sung sướng.
    Trước hết là cái tên Ấp Mới. Có lẽ trên toàn lãnh thổ Việt Nam có hàng trăm ấp có tên là Ấp Mới! Khái niệm quy dân lập ấp có từ lâu trong lịch sử Nam Tiến của người Việt và đến thời ông Diệm ông Nhu nó trở thành quốc sách Ấp Chiến Lược. Mục tiêu lớn nhất của quốc sách này là chính sách đãi đậu, lọc du kích và nằm vùng khỏi dân chúng, quy dân sống thành làng, thành ấp để dễ kiểm soát. Tôi không đủ trình độ để phán xét đúng sai và cũng không có dữ kiện tài liệu thống kê để biết kết quả của quốc sách Ấp Chiến Lược. Hình ảnh sâu đậm nhất nơi tôi là cảnh Tổng Thống Diệm đứng bên một hàng rào ấp được dựng bằng tre vót nhọn trong một cuốn phim thời sự. Thời tôi còn nhỏ mỗi lần đi xem chiếu bóng còn phải đứng lên chào cờ và suy tôn Tổng Thống, sau đó rạp còn chiếu một cuốn phim thời sự đen trắng của bộ thông tin trước khi chiếu tuồng chính. Tôi đã nhìn thấy cái hàng rào Ấp Chiến Lược trong hoàn cảnh đó.
    Danh xưng Ấp Chiến Lược sau này không được dùng nữa có lẽ vì nó gợi nhớ đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà, đến ông Nhu ông Diệm. Nhưng trên thực tế rất nhiều vùng, nhất là những vùng dân cư quá tản mát, chính quyền vẫn tìm cách qui tụ họ lại. Ấp Mới của Quận Bố Đức hẻo lánh là một thí dụ điển hình. Đa số 90% cư dân trong ấp là người Thượng Stieng. Họ nói tiếng Việt không sõi lắm và sau này tôi còn khám phá ngôn ngữ Stieng khá gần với tiếng Miên, có thể vì vùng này sát với biên giới Miên chăng.
    Dân Stieng vẫn sống theo tập tục và bản năng cố cựu. Họ ở trong những căn nhà sàn, và khi chui vào đó mùi khói nồng nặc. Họ vẫn ủ giữa nhà một đống lửa âm ỉ khói bốc dầy đặc để xua muỗi và sưởi. Cái mùi đặc biệt này nó thấm sâu vào da thịt, vào hơi thở của họ đến nỗi bất cứ người Stieng nào cũng có mùi khen khét. Tôi chui rúc ở trong đó không lâu nhưng chính Dung đã bảo: “sao anh khét thế. Anh sắp thành người Thượng đến nơi!”
    Quả tình nếu tôi sống ở đó lâu hơn nữa có khi tôi trở thành người Stieng thật cũng nên. Tôi yêu cái hồn nhiên mộc mạc của họ. Tôi yêu đầu óc giản dị, bản tính hiền hoà của họ.
    Trong suốt hơn bốn tháng sống ở đó tôi chưa bao giờ chứng kiến họ đánh nhau, cãi nhau. Mọi tranh chấp đều được giải quyết rất nhanh và hoà hoãn. Khoảng một tuần sau khi trấn nhậm, tôi đã gom lại đầy đủ các ông chức sắc trong ấp. Họ ngơ ngác khi tôi giao công việc cho họ vì từ trước tới nay ông Trưởng Ấp hoàn toàn là một chức vụ hão, chẳng ăn nhậu quái gì đến đời sống của ông ta.
    Khi tôi tập họp đám Nhân Dân Tự Vệ để kiểm kê thì đa số có súng nhưng đạn dược thì coi như không. Trên nguyên tắc mỗi ông Nhân Dân Tự Vệ được trang bị một khẩu carbine, thứ vũ khí phế thải của quân đội và khoảng gần 200 viên đạn. Những người lính bất đắc dĩ này thấy rằng săn bắn bằng cung tên cổ lổ quá không kiến hiệu bằng súng carbine. Do đó súng đạn là để đi săn nai, đi bắn chim, không phải để tự vệ, để chống Cộng.
    Một phần vì buồn quá chẳng có gì để làm, phần vì tôi cũng rét, lỡ ấp bị tấn công mà các ông Nhân Dân Tự Vệ không có đạn, hoặc tệ hại hơn nữa trốn mất tiêu thì bản mạng của tôi cũng khó giữ nên tôi ra công huấn luyện cho họ.
    Tôi liên lạc với đồn nghĩa quân và với Quận xin được một số đạn. Tôi cũng bỏ tiền túi ra mua thêm một số. Trong cái chợ lèo tèo họp hai ngày một lần ở ngã tư ấp, trong số hàng hoá trao đổi có đạn carbine. Có thể là của các ông lính nghĩa quân đem bán chăng, tôi không rõ nhưng quả là mua bao nhiêu cũng có!
    Tôi kiểm tra súng đạn tối đa và bắt họ học một số các thế bắn, tập đi đều bước, chỉ cho họ cách canh gác, đổi phiên. Làm được những việc này không phải dễ. Họ như cóc bỏ dĩa, và lập luận rất ngây thơ, cho rằng cần gì phải tập nữa, họ biết bắn rồi mà. Nhìn những người Thương Stieng ngu ngơ tập cả buổi vẫn không thuộc những động tác cơ bản nhất, bỗng đâu tôi nhớ đến bộ phim bảy người võ sĩ của Nhật. Những người dân Stieng hiền lành có khác gì những người dân làng ở cái xó xỉnh nào đó của nước Nhật xa xưa? Và tôi thấy mình đang là một võ sĩ, một Samurai đang hành hiệp trượng nghĩa. Cái so sánh kỳ quặc này có phần xoa dịu tôi, có phần giảm đi cái ý tưởng bị đầy ải. Tôi nhớ rõ cái suy sụp nơi tôi khi được trả về cho tiểu khu Phước Long vào giai đoạn cuối của cuộc rút quân của Hoa Kỳ. Sự suy sụp nơi tôi chỉ là phản ảnh sự suy sụp toàn diện của một xã hội đã quá mệt mỏi vì chiến tranh. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xem ra không đủ khả năng để đương đầu với áp lực từ mọi phía. Các phong trào đòi tự do dân chủ, các cuộc biểu tình phản chiến núp dưới những danh xưng kỳ quặc như Phong Trào Cải Thiện Chế Độ Lao Tù, các tiếng nói gào thét đòi diệt trừ tham nhũng, tất cả ào ào tấn công chính quyền. Phía người Mỹ thì tìm đủ mọi cách để ra đi êm thấm, ép cho bằng được các phe Việt Nam ngồi lại ở Paris. Dư luận ở Hoa Kỳ mỗi ngày một gay gắt hơn và cả thế giới có vẻ như bị chế độ Hà Nội che mắt, ủng hộ họ ra mặt.
    Tôi trở lại tiểu khu Phước Long không có một nhiệm vụ dứt khoát nào, ra rồi lại vào Trung Tâm Hành Quân. Tôi như thứ phế thải, nhất là dưới con mắt của một số sĩ quan nơi đây. Tôi đã bon chen để được biệt phái sang Không Kỵ Hoa Kỳ. Tôi có gốc lớn chẳng ai dám động đến. Sau hơn hai tháng vất va vất vưởng, trong một lần về Sài Gòn, tôi ở lỳ luôn. Cả tháng trời tôi nằm khểnh ở nhà chú Trung hay sang nhà Dung. Tôi không ra phố. Tôi cũng không đọc báo hay nghe radio nữa. Đầu óc trống rỗng, tôi thấy mình suy sụp xuống đến tận cùng. Một hôm chú Trung về nghiêm mặt bảo tôi: “Dũng phải về đơn vị ngay. Họ vừa điện thoại cho chú hay là đã có giấy báo cáo Dũng đào ngũ.” Hình như chú Trung coi trọng tôi nên không hỏi han lý do tại sao tôi ở lỳ ở nhà. Đối với ông đó là chuyện riêng của tôi và tôi phải tự thu xếp. Thu xếp kiểu gì cũng được nhưng không thể đào ngũ. Dung cũng thấy rõ tôi thay đổi, gặng hỏi nhiều lần mà tôi không cách nào giải thích với người hôn thê về những suy nghĩ của mình.
    Tôi từ Sài Gòn lết trở lại Phước Long. Giấy báo cáo đào ngũ đã ký. Trung Tá Minh là người ký nhưng chưa chuyển. Tôi lại dật dờ ở Phước Long cho đến một hôm thấy yết bảng cần một sĩ quan lo Nhân Dân Tự Vệ ở Quận Bố Đức, tôi thản nhiên ghi tên với tâm trạng “đi khuất vào một xó lại hay“. Đó là lý do tại sao tôi đóng vai hiệp sĩ – đúng ra là hiệp sĩ mù – nơi cái ấp hẻo lánh này.
    Thế là tôi thành ông Hai nhưng ông Hai biết thân biết phận. Tôi không đeo lon lá. Tôi không ngủ đâu hai lần. Không ai biết tối tôi sẽ ngủ đâu. Tôi cố sống như một người Stieng chính hiệu vì biết chắc nếu có sự cớ nào, tôi chỉ còn trông nhờ vào họ. Trong cái nỗ lực đó, tôi chiếm được cảm tình của mọi người và đặc biệt nhất một bà mẹ có con gái rất xinh. Tên thật của nàng là Ychun nhưng tôi đặt tên nàng là Gái. Tôi coi bà cụ như một người thân thích và coi Gái như em. Người Stieng vẫn canh tác theo kiểu du canh. Họ ra ngoài rừng đốt một khoảnh. Đợi sau độ hai ba cơn mưa, họ bắt đầu trồng bắp. Người chồng đi trước cầm một cái sào nhỏ vót nhọn dâm xuống đất, người vợ đi sau bỏ một hai hạt bắp vào lỗ rồi lấp đất. Làm gì có luống. Làm gì có vụ xới đất bón phân. Họ cứ khơi khơi như vậy đợi. Vậy mà bắp cũng nảy mầm, cũng đơm bông kết trái, tất nhiên là không đều hạt nhưng vẫn là bắp, vẫn có thể luộc có thể nướng và ăn thì ngọt lịm.
    Tôi đã đóng vai trò người đàn ông cầm cái sào chọc xuống đất và Gái cũng lom khom theo tôi bỏ hạt bắp. Tôi nghĩ giá mà không có súng đạn, không có chiến tranh, tôi đưa Dung về Ấp Mới sống đời sống của người Stieng có lẽ cũng vui.
    Cái nghĩ viển vông đó hẳn là không tưởng và một hôm tôi nghe xì xào trong đám dân Stieng. Điều tra mãi rồi tôi cũng tìm ra sự việc. Một người Stieng khi đi săn đã thấy Việt Cộng chôn súng đạn. Tôi hỏi kỹ chỉ được biết đạn to lắm và nhiều lắm.
    Suy nghĩ kỹ, tôi liên lạc với Quận xin mở cuộc hành quân nhưng không được vì tình hình không thích hợp. Đó là cách nói văn vẻ, sự thực thì quân số của Quận bị kẹt tứ phía. Tôi điều đình mãi cuối cùng mới xin được một trung đội nghĩa quân để yểm trợ.
    Lâu lắm kể từ ngày rời đại đội Quyết Tử nay tôi mới lại lui thui soạn thảo dự trù và điều khiển một cuộc “hành quân” Tôi gom được gần ba chục ông Nhân Dân Tự Vệ, kiểm tra súng ống tử tế. Tôi có được một trung đội Nghĩa Quân do một ông Trung Sĩ cầm đầu, quân số 21 người. Tôi có được một máy PRC25, một xa xỉ phẩm đối với tôi.
    Cứ theo lời nói của người dàn ông thì Việt Cộng chôn súng đạn cách ấp sáu cây số về phía Đông Bắc. Tôi xuất quân từ tờ mờ sáng.
    Nhìn cung cách của các ông Stieng và trông bộ dạng lếch thếch của đám Nghĩa Quân tôi rùng mình thấy tôi liều lĩnh quá đáng. Nếu đụng thì chắc chắn là lãnh đủ, nhất là qua lời khai của người đàn ông thì hầm chôn vũ khí này phải quan trọng, vì có nhiều súng đạn lớn.
    Trót thì phải trét, tôi cũng chia lực lượng thành ba toán và yêu cầu ông trung Sĩ đi đoạn hậu. Sau khoảng ba tiếng lội rừng, người đàn ông bảo hầm ở quanh đây. Ông ta nhớ là có nhìn thấy cái cây – và ông ta chỉ một cây rừng có trái như trái măng cụt. Loanh quanh một hồi không biết hầm với hố ở đâu, tôi nghĩ là người đàn ông này nhớ lộn chỗ. Tôi cho dừng quân nghỉ ngơi. Và bỗng đâu từ rừng các bà vợ của các ông Nhân Dân Tự Vệ túa ra. Họ lễ mễ đem thức ăn trưa cho chồng! Tôi phát hoảng. Làm sao họ đi theo mà tôi không biết!
    Họ tíu tít cười nó chỉ trỏ y như một cuộc đi cắm trại ngoài trời. Tôi không biết nói năng gì và cũng đành ngồi dựa gốc cây nhâm nhi mớ cơm bọc theo. Đúng lúc đó có tiếng ý ới! Vô tình một người vợ đã đạp trúng một mảng cỏ trượt chân và lộ ra nắp hầm.
    Tôi không bao giờ ngờ mọi sự lại diễn ra như vậy. Chiến lợi phẩm mới là điều đáng nói. Tụi tôi lôi lên được gần một trăm quả đạn súng cối 81 và 82 ly. Đây có thể là hầm đạn được tồn trữ để pháo vào Quận Bố Đức. Tôi biết ngay phải làm gì, lên máy PRC báo về Quận về “thành quả rực rỡ” của cuộc hành quân không tiền khoáng hậu này. Điều ngạc nhiên hơn nữa là chỉ mười phút sau chính Trung Tá Quận trưởng Trần Đình Minh lên máy nói chuyện với tôi.
    Chúng tôi lễ mễ khuân vác chiến lợi phẩm về ấp và khi về đến nơi đã thấy Trung Tá Minh đứng đợi sẵn.
    Hai ngày hôm sau một buổi lễ ăn mừng chiến thắng được tổ chức ngay tại ấp với sự chủ toạ của đích thân ông Quận trưởng. Tất cả Nhân Dân Tự Vệ đều được tuyên dương công trạng và gắn huy chương hẳn hòi. Đang lúc mọi người hứng khởi thì từ tim tôi nhói lên niềm sợ hãi vô bờ khi nhớ đến ấp Dak Sun. Cái tiếng khóc u ơ không hẳn thành tiếng từ sâu thẳm trong trí nhớ nay vang lên rõ mồn một.
    Giống như Ấp Mới, Dak Sun là một ấp qui tụ người Thượng ở sát biên giới Miên, chỉ có điều vị trí ấp nằm ngay trục lộ chuyển quân của bộ đội Bắc Việt. Vị trí chiến thuật của ấp khiến Tiểu khu Phước Long cho tăng cường hẳn hai trung đội đóng chốt ngay sát ấp. Những người Thượng ở đây tuy ban ngày đi vào rừng tìm măng, săn thú hay làm rẫy nhưng tối đến họ ở trong ấp có hàng rào và canh phòng khá cẩn mật. Chính từ tin tức của những người dân Dak Sun về những cuộc di quân của bộ đội Bắc Việt đã khiến có lẽ cả một trung đoàn Cộng Sản bị B52, không một mạng sống sót.
    Để nhổ cái chốt Dak Sun và có thể để trả thù và đồng thời muốn dóng lên một lời doạ dẫm với những người Thượng, bộ đội Bắc Việt đã tung một cuộc tấn công dữ dội. Hai tiểu đoàn chính qui tấn công ấp, đè bẹp đám dăm chục nghĩa quân trong đồn và san bằng Dak Sun. Chữ san bằng chưa đủ để diễn cảnh tượng của cái ấp nhỏ bé này. Khi tôi và Đại Uý Cảnh nhảy xuống ấp vào quãng tờ mờ sáng, ấp không còn một căn nhà. Tất cả bị đốt cháy rụi. Bộ độ Bắc Việt đã dùng súng phun lửa xịt vào các căn hầm trú ẩn của thường dân trong ấp, quăng lựu đạn xuống. Ấp trở thành lò quay, mùi thịt nướng – mùi tử khí bốc lên lợm giọng. Tôi nhớ mãi cảnh một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, ôm đứa con đã chết, u ơ khóc không thành tiếng bên xác người chồng bị cháy thành than chỉ còn một cái đùi nứt nẻ. Tiếng khóc, không hẳn thành tiếng, âm thanh như đứt từng đoạn xoáy vào người nghe trong cái thê lương của chiến địa, của mùi chết chóc, của mùi súng đạn. Tôi đã phải quay mặt đi trước người thiếu phụ thân mình lắc lư như người lên đồng, miệng thì kêu lên những âm hưởng làm người nghe lạnh xương sống.
    Tôi không chia sẻ được niềm lo sợ này với ai nên lẳng lặng lo tự bố trí. Tôi dặn đi dặn lại những người dân ở đây nếu có chuyện gì họ phải đối phó như thế nào. Tôi lôi cả đám Nhân Dân Tự Vệ buộc họ phải tản hẳn ra tứ phía quanh ấp mỗi đêm, và bố trí khá xa.
    Công việc sắp đặt không dễ dàng vì ngôn ngữ. Tôi phải nói rất giản dị và gần như nói với từng gia đình trong ấp. Họ nghe tai này lọt sang tai khác bởi họ không thấy cái viễn ảnh tôi thấy. Suốt hơn nửa tháng hễ ngủ là tôi lại thấy Ấp Mới trở thành lò thiêu.
    Trung Tá Minh không có “khách sáo” với tôi như lúc đầu. Khi xuống chủ toạ lễ ăn mừng chiến thắng, sau khi gắn huy chương cho những anh hùng Ấp Mới, ông thân mật vỗ vai tôi bảo:
    - Moa không ngờ Toa làm được cú này. Cái ấp trông khác hẳn so với ngày xưa.
    Khi tôi bày tỏ nỗi lo sợ Việt Cộng trả thù, đưa đơn vị lớn tận diệt Ấp Mới, ông Quận gật gù:
    - Toa cần cái gì cứ nói. Moa sẽ gởi cho một cái PRC để liên lạc.
    Ông giữ lời cho tôi một người lính truyền tin và một cái PRC cà rỉ cũng đủ để tôi thêm vững bụng. Điều đáng quí hơn nữa là ông Trung Tá còn bảo:
    - Toa ở ấp hơn ba tháng rồi, thôi để Moa ký giấy cho Toa về Sài Gòn vài bữa.
    Cuộc đời tôi lại đổi một lần nữa vì cái giấy phép. Khi đang chờ trực thăng ở Phước Long, tôi gặp Đại Uý – nay là Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái. Ông cười ngất khi thấy tôi đầu tóc để chấm vai, râu ria không cạo, và hỏi:
    - Sao mà như người rừng vậy? Giờ cậu ở đâu?
    - Đúng là người rừng rồi ông thầy ơi. Tôi coi cái ấp ở Bố Đức.
    - Chỗ ông Trung Tá Minh mới về phải không? Sao lại chui vào cái chỗ tối tăm thế?
    Nếu tôi có thể trả lời được câu hỏi này thì dễ chịu biết chừng nào? Một tên Trung Uý như tôi thì làm gì có quyền tự định đoạt vận mệnh của mình trong chiến tranh? Tôi cười nói:
    - Ông thầy, trên xỉa đâu mình đi đó, đâu có quyền chọn lựa.
    - Hay cậu về với tôi. Đồng Xoài ít ra cũng còn có tí ánh sáng văn minh.
    Không ngờ Thiếu Tá Khoái giữ lời thật. Ông đã điện thoại thẳng cho Trung Tá Minh để điều đình và sau đó xin với tiểu khu để tôi về Đôn Luân coi ban Ba .
    Khi trở lại Bố Đức, ông Quận gật gù bảo tôi, giọng đầy thân mật:
    - Bên Đôn Luân xin Toa. Chính ông Khoái đã gọi cho Moa. Moa biết Toa là người có khả năng, bỏ đi cũng tiếc nhưng ông Khoái nằng nặc đòi Toa cho bằng được
    Từ giã Gái và bà mẹ, từ giã Ấp Mới và những người Stieng hiền lành một mạc sau hơn bốn tháng chung sống, tôi lại khăn gói quả mướp đi trấn nhậm ở một chỗ khác trong tiểu khu Phước Long.
    Cái tình của tôi với Ấp Mới không phải chấm dứt khi tôi rời đó. Khoảng bốn tháng sau, khi tôi đang lo ban Ba Đồng Soài thì người hạ sĩ dưới quyền cho hay có hai phụ nữ Stieng muốn gặp Ông Hai Dũng.
    Gái và bà mẹ đứng ở sân cờ chờ tôi với một gùi đầy bắp, những trái bắp đã già, được cột lại từng chùm. Hai mẹ con gái đã lặn lội đi bộ băng rừng để đem mấy trái bắp đến tận Đôn Luân.
    - Bắp của ông Hai trồng phải đem trả cho ông Hai.
    Tôi lặng người cảm động trước cái suy nghĩ đơn sơ nhưng đầy tình nghĩa này. Cả chi khu Đồng Xoài đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy tôi long trọng dẫn hai mẹ con người Stieng đi ăn hủ tíu và sau đó mua tùm lum tà la đồ chất đầy cái gùi để họ đem về Ấp Mới làm quà.
    Tôi tiễn mẹ con Gái về lại núi rừng của họ, lòng chùng xuống, nghĩ giá mà mọi người cùng đối xử với nhau như hai mẹ con Gái, Chắc tôi không phải cầm súng đánh nhau với ai cả.
    __________________________________________________ ___________________________________

    CHƯƠNG 7

    Tôi tỉnh dậy bắt đầu từ quai hàm dưới. Cái đau rất nhẹ, nhè nhẹ như lay động hệ thần kinh có lẽ đã tê liệt của tôi. Đầu óc lơ mơ tôi chỉ thấy niềm đau từ từ, từ từ lấn dần và đầu óc tôi cũng một lúc tỉnh hơn để ý thức rõ tôi đang ở đâu. Cái lạnh thấm vào tận xương tủy khiến tôi ngồi dậy, chống tay lên nền đất.
    Cái hố con voi vậy mà khá khô ráo và được che bằng một cái liếp lá từ lúc nào tôi cũng không rõ. Nỗi đau, niềm tuyệt vọng cơ thể dã rời sau hơn nửa tháng dầm mình trong cuộc rút chạy đã khiến tôi vật ra ngay từ tối qua không còn biết gì xảy ra ở chung quanh. Cái liếp chắc chắn không cốt để ngăn tôi trốn khỏi cái hố nông quèn quẹt này. Vậy thì chỉ để che sương và có thể che mưa chăng? Cũng còn có thể che gió, chống lạnh. Một người lính Bắc Việt nào đó chắc đi qua trông thấy tình trạng thê thảm của tôi, đã động mối thương tâm, đậy cái liếp lên miệng hố chăng? Lạy trời là như vậy. Ít ra thì còn có cái tình người vảng vất đâu đó giữa súng và đạn.
    Tôi tỉnh hẳn, miệng quai ra và nước dãi ứa đầy mồm. Một vị nhờn nhờn mằm mặn. Chắc máu từ chiếc răng hàm bị gẫy vẫn còn âm ỉ ứa ra. Trời bên trên đang rạng sáng, tôi nghe tiếng người lao xao vọng vào. Tôi đi trận nhiều nên biết rõ sinh hoạt của chỗ đóng quân gần như sinh động 24/24. Có thể giờ này là giờ lính Bắc Việt đang lo bữa sáng, lo nấu trà – biết đâu chả là tí cà phê? Tôi lắc lắc cái đầu xua hình ảnh ly cà phê nóng giữa rừng, cái xa xỉ phẩm ngay cả đối với sĩ quan VNCH như tôi trong lúc hành quân.
    Toàn thân tôi rã rời, lạnh cóng. Họ sẽ đối xử với tôi ra sao? Hẳn là họ không bắn tôi để phí thêm một viên đạn. Liệu họ có tra tấn? Liệu họ có nhồi tôi, hành hạ tôi? Tôi chợt nhớ trên túi áo trên còn có lá thư bỏ trong phong bì của Tòa Đại Sứ Mỹ. Khi bị bắt tôi đã móc mọi thứ ra giao cho người “chính trị viên” từ bản đồ đến tiền bạc. Có gì móc nấy nhưng không hiểu sao cái phong bì vẫn còn trong túi áo tôi? Nếu không thì làm sao phi tang? Tôi thoáng tính xé vụn rồi nhai nuốt hết cái thư nhưng lại thôi. Răng tôi đau quá, không biết có đủ sức để nhai và nuốt hết cả tờ giấy dầy khổ 8×11 và cái phong bì không? Dựa lưng vào vách hố những ý nghĩ vớ vẩn liên tục, những hình ảnh thoáng hiện lên rồi mất tăm trong tâm khảm. Dung đang làm gì giờ này? Liệu bố mẹ và các em tôi có biết tôi đang trong cảnh bi đát này chăng? Thiếu Tá Khoái có thoát chăng? Lơ mơ, tê dại, cánh liếp phía trên được kéo đi và có tiếng gọi:
    - Anh kia.
    Tôi ngó lên. Một người lính Bắc Việt nhìn tôi, lặp lại:
    - Anh kia.
    Tôi cố chống tay đứng dậy, dựa lưng vào vách, người như muốn đổ xuống. Hai bàn chân tôi buốt nhói lên tận tim. Quả thật tôi không biết phải nói năng ra sao, chỉ giương mắt nhìn. Người lính ngẫm nghĩ thế nào, cúi xuống đưa tay cho tôi nắm và gần như lôi tôi khỏi cái hố. Anh ta bảo:
    - Theo tôi.
    Anh ta dẫn tôi vào một cái lều và bảo:
    – Chờ đấy.
    Mãi đến sau này tôi mới quen được với cách nói cộc lốc, thiếu chủ từ này. Tôi im lặng ngồi xuống, chưa rõ chuyện gì sẽ xảy ra. Một người lính khác mang cho tôi một bát cơm và một bát canh nóng. Ôi quả là một biệt đãi. Tôi chẳng biết canh gì, chỉ thấy lỏng bỏng tí rau. Cơ thể người ta có những phản ứng kỳ lạ. Vừa trông thấy bát cơm mầu nâu nâu vàng vàng và chén canh rau, tôi cồn lên vì đói.
    Nhớ rằng dù thế nào đi nữa, tôi cũng là sĩ quan và đang ở trước những người lính phía bên kia, tôi chậm rãi, từ tốn ăn một cách nhỏ nhẹ. Người lính Bắc Việt đứng ở một góc quan sát và không nói gì. Khi thấy cơm canh đã hết, anh ta thu dọn đem đi. Tôi hỏi:
    - Tôi muốn làm vệ sinh.
    - Làm cái gì?
    - Thưa tôi muốn đi cầu.
    - Đi đâu? Giờ này mà muốn đi đâu?
    Tôi hiểu ngay cái bất đồng ngôn ngữ, bèn nói thẳng:
    - Tôi muốn đi ỉa đi đái !
    Người lính trẻ bỗng dịu mặt lại, nhìn tôi và bảo:
    - Từ nay muốn gì thì phải báo cáo rõ ràng. Đi ỉa đi đái thì nói đi ỉa đi đái, sao lại bảo làm vệ sinh?
    Kể từ đó “báo cáo” trở thành câu đầu môi chót lưỡi của tôi – và sau này là của bạn đồng tù – khi cần nói với người phía bên kia…
    Khoảng hai tiếng sau, người chính trị viên ôm một xấp giấy tờ bước vào:
    - Chúng ta bắt đầu làm việc.
    Lần này tôi hiểu làm việc là hỏi cung. Bộ dạng người chính trị viên thật ra tôi không biết ông ta giữ chức vụ gì và quân hàm ra sao vì họ đều giống nhau, quần áo bèo nhèo không lon lá, chân đi dép râu và khuôn mặt xanh xao. Tôi biết ông ta quan trọng vì ngang hông có khẩu súng 9 ly và lớn tuổi hơn những người bộ đội. Cái ngạc nhiên nhất nữa là cái bút, cái bút mà tôi đã nhìn thấy từ lúc còn bé, cái bút Stylo. Tôi còn nhớ bố tôi có một cây, khi xoay thì ngòi bút nhô lên, cái ống mực phía dưới kẻ sọc ca rô mờ mờ có thể nhìn thấy phần mực ở phía trong. Ngay 1950 ở Hà Nội hồi đó bút máy Stylo là một biểu tượng sang cả, đi đôi với xe đạp nhôm và giầy da hai mầu cùng với cái cà vạt nhỏ tí là những món thời thượng.
    Ông ta trịnh trọng xoáy cái bút ra, mắt nhìn tôi quan sát. Cuộc hỏi cung rất ngắn và sau chừng nửa tiếng, ông ta đưa cho tôi một xấp giấy:
    - Anh viết lại lý lịch và những đơn vị Ngụy. Càng nhiều chi tiết càng tốt và phải rõ ràng.
    Ông ta ngừng lại, nhìn tôi, không hiểu sao lại hỏi một câu không ăn nhập gì đến chuyện làm việc:
    - Anh muốn gì không?
    Tôi muốn gì bây giờ? Tôi muốn về Sài Gòn. Tôi muốn có Dung bên cạnh. Tôi muốn gặp lại bố mẹ và các em. Tôi nhìn ông:
    - Tôi muốn được tắm một cái.
    Câu trả lời bất ngờ không chỉ với ông ta và cả với tôi. Tự nhiên toàn thân tôi ngứa ngáy và chính tôi cũng ngửi thấy mùi hôi hám bốc ra từ thân thể. Lần cuối cùng tôi tắm rửa thay quần áo có lẽ từ cả nửa tháng trước. Tóc tôi dài bệt từng mảng ở sau gáy. Râu tôi tua tủa. Ông chính trị viên cười:
    - Anh khai lý lịch cẩn thận rồi tôi cho anh ra sông tắm.
    Tập giấy kẻ ca rô khá dầy. tôi ngây người ra nhìn, tay mân mê cái bút. Hà, thế là trò chơi dụ khị, ra cái giọng tử tế để khai thác. Suốt bao nhiêu năm lính tôi không được quân đội dạy dỗ gì về vụ khai lý lịch cho địch trong trường hợp bị bắt. Nhớ lại những lần tôi ở thế thượng phong hỏi cung mấy ông lính Bắc, mấy ông du kích. Thường điều tôi muốn biết ngay lập tức là đơn vị, là liệu có thể có những cuộc tấn công dự trù, quân số địch… Nhưng Đồng Xoài tan nát, còn gì để họ khai thác?
    Độ hai tiếng đồng hồ sau,người chính trị viên trở lại. Coi vậy mà tôi cũng bôi ra được gần ba trang giấy. Ông ta cầm lên lật qua lật lại, đọc rất nhanh.
    - Thôi được, tôi cho người dẫn anh ra sông tắm, rồi mình sẽ làm việc tiếp.
    Sông không rộng lắm, nước chảy chậm và khá trong. Người lính trông hiền lành nhìn tôi và hất hàm:
    - Xuống chỗ ấy mà tắm.
    Tôi nhìn quanh lính Bắc Việt đi đi lại lại, gọi nhau í ới. Bạt, lều giăng kín cả một khu rừng. Tặc lưỡi tôi từ từ cởi áo, và sau một lúc ngập ngừng, cởi luôn quần. Sông không sâu, chỉ độ ngang đùi, lòng sông chỗ này lại có đá nên dễ chịu vô cùng. Tôi tính hỏi người lính xin xà bông nhưng thấy đời hỏi như vậy có vẻ Ngụy quá, tiểu tư sản quá. Vả lại trông bộ dạng anh ta, chắc cả vài tháng nay anh ta cũng chưa rờ đến cục xà bông. Tôi rũ cái áo trước, và vò rất kỹ cái túi áo bên trên. Cái thư nát bấy, nhưng tôi vẫn cẩn thận, sau một hồi, lén lút lôi từng mảnh nhỏ ra vo lại để trôi theo dòng nước.
    Tôi kỳ cọ, tôi dìm đầu xuống nước. Tôi thấy mình như được lột xác. Cái cảm giác nhẹ nhàng như xua đuổi cái tương lai u ám ở trước mặt. Tôi ngụp lặn khá lâu đến nỗi người lính canh sốt ruột:
    - Anh kia tắm mau còn đi lên.
    Chân tôi vẫn đau nhói, nhất là nay ngâm lâu dưới nước. Hàm dưới có vẻ bị tấy lên. Tôi lẳng lặng cố vắt thật khô bộ đồ trận dày cui và xỏ tay vào. Khó khăn lắm tôi mới mới mặc lại được bộ quần áo còn sũng nước.
    Người lính nhìn tôi, không nói năng gì, lẳng lặng vẫy tay ra hiệu. Anh ta dẫn tôi trở lại lều, chỉ tay vào chiếc ghế tre, rồi bỏ ra ngoài.
    Người chính trị viên kéo ghế ngồi xuống trước mặt tôi. Hẳn trông tôi không giống con giáp nào, người vẫn ướt sũng, nước từ tóc và râu vẫn tí tách nhỏ xuống thành vũng. Tôi luôn nhớ dù sao tôi cũng là sĩ quan VNCH, nên sửa ngay bộ dạng ngay ngắn và nhìn thẳng vào người đối diện. Một quá khứ mù mờ nào đó hiện ra rất nhanh. Tôi nhớ Hà Nội và bố tôi. Tôi nhớ bạn bè của ông ta. Người chính trị viên này có cây bút Stylo từ bao giờ? Làm sao ông ta có thể sài một cây bút lâu như vậy?
    Lần làm việc này diễn ra ngoài dự tưởng của tôi. Trước hết ông ta cho tôi uống trà – tất nhiên là trà tươi – có lẽ được hái từ một cây trà nào đó lạc lõng giữa rừng. Nước trà rất nóng nhưng chát đến độ tê lưỡi. Ông ta chỉ hỏi tôi về Đồng Xoài. Mọi thứ, nhất là dân tình. Ông hỏi tôi về sinh hoạt hàng ngày, về ông phó quận hành chánh hành hạ dân như thế nào, về trưởng ty cảnh sát… Tôi nói rất rõ với ông ta rằng tôi không để ý đến chuyện Thiếu tá Khoái có tham nhũng hay không – và tôi tin rằng không. Tôi bảo Thiếu Tá Khoái xứng đáng là cấp chỉ huy của tôi thì ông ta chỉ gật gù.
    Trong suốt đời tù, đây là lần làm việc dễ chịu nhất, và mãi đến sau này tôi mới hiểu. Quân Đội Nhân Dân và Công An Nhân Dân là hai guồng máy làm việc khác hẳn nhau. Đó là mãi về sau này, nhưng ngay hiện tại, người chính trị viên tỏ ra lịch sự, nhỏ nhẹ và ăn nói chững chạc. Cuộc hỏi cung kéo dài đến lúc gần sẩm tối. Khi đứng dậy, ông ta bỗng quay ra phía sau hỏi:
    - Anh nào còn thuốc lá không?
    Một người lính đưa đưa cho ông ta bao thuốc lá nhàu nát. Ông ta rút hai điếu đưa tôi, và trả lại bao thuốc cho người lính:
    - Tôi không hút thuốc. Đây là thuốc Điện Biên của miền Bắc chúng tôi. Ngon lắm.
    Để hai điếu thuốc lên bàn, ông ta ôm xấp hồ sơ bỏ đi. Hai điếu thuốc quăn queo, sợi thuốc xộc xệch. Điếu thuốc cuối cùng, điếu lucky không đầu lọc, tôi đã rít đến hơi cuối cùng trên ngọn đồi ở gần chợ Đồng Xoài. Hơn nửa tháng, không lúc nào tôi nghĩ đến thuốc lá vì thật không còn đầu óc nào để nghĩ đến. Cái cơ thể mỗi ngày hơn một gói thuốc của tôi, cái cơ thể lúc trước không có thuốc thì bồn chồn, ngứa ngáy, cơ thể đó tại sao lại không đòi thuốc trong những ngày qua?
    Tôi nhìn hai điếu Điện Biên lòng dửng dưng. Người lính đứng đó hỏi:
    - Hút không?
    Tôi ngước lên nhìn. Anh ta cầm cái bật lửa, cái bật lửa nhỏ bằng nhôm trắng rất thông dụng ở ngoài Bắc ngày xưa. Mỗi lúc miền Bắc lại kéo tôi xa Sài Gòn và trở lại quá khứ thời thơ ấu hơn. Nổi tính tinh nghịch, tôi chìa tay:
    - Anh cho tôi mượn cái hộp quẹt.
    - Cái gì?
    - Anh cho tôi mượn cái bật lửa.
    Nó mỏng tanh, bánh xe quẹt đá cũng nhỏ tí so với bật lửa Ronson. Tôi ngắm nghía và bật thử. Lần đầu không được. Lần thứ hai cũng không được. Người lính bỗng cười, nói:
    - Chắc hết xăng.
    Anh ta rút bỏ cái nắp ở cuối bật lửa và đưa lên mồm thổi phì phì. Sau đó rất nhanh anh ta bật và lửa toé ra bắt vào cái bấc nhỏ như hạt đậu. Tôi cười và cầm điếu thuốc lên.
    Hơi thuốc Điện Biên đầu đời, tôi nuốt trọn khói. Nicotin tan mau khiến khiến cả người tôi ngây ngây. Tôi rít hết điếu thuốc và ngồi thừ ra đó đầu óc lơ mơ trống rỗng.
    Cuộc hỏi cung và cung cách đối xử của bộ đội Bắc Việt ngay tại chiến trường xem ra không đến nỗi nào, chỉ có điều tôi chưa nhận ra rằng đây mới chỉ là phần mào đầu, phần dẫn nhập cho một đoạn đời khổ nhục mà tôi sẽ chia sẻ với hàng trăm ngàn đồng đội khác trong những năm về sau.
    o O o
    Suốt ngày hôm sau không ai làm việc với tôi nữa và khi vừa ăn sáng xong, một người lính Bắc Việt nói:
    - Anh kia theo tôi.
    Ra đến bờ sông tôi thấy Chuẩn Úy Kiệt đứng ở đó cùng với hai người bộ đội. Ông Kiệt thê thảm không khác gì tôi và cũng chân không giầy. Trong hai người lính, một có lẽ là cán bộ, còn một trẻ măng có lẽ là bảo vệ viên. Họ khoác AK và ba lô.
    - Số phận các anh trong tay nhân dân. Nếu có tội nhân dân sẽ bắt các anh đền tội. Bây giờ các anh đi theo tôi.
    Đó là lời duy nhất của viên cán bộ nói với tôi và ông Kiệt. Thật là những lời đe dọa bí hiểm. Đền tội? Nhân dân? Nếu bảo phải đền tội thì bắn cái đùng là xong. Nhân dân là ai? Ở đâu ra nhân dân trong cái xó rừng thăm thẳm này. Biết hỏi cũng không được trả lời, chúng tôi chỉ biết lẳng lặng đi.
    Ba ngày trời chúng tôi bị áp giải băng rừng. Chân tôi đỏ như hòn gạch nung. Mỗi bước đi là một cực hình. Cái đau lấn át mọi sự. Tôi không thấy đói thấy khát, chỉ thấy buốt lên tận óc. Tôi đã bắt chước Kiệt xé hai tay áo quấn quanh bàn chân nhưng chỉ được nửa buổi và mảnh vải sờn mỏng, rách tả tơi. Rồi tụi tôi xin cắt hai ống quần. Tôi chỉ muốn khụyu xuống nhưng vẫn cố gồng. Ông Kiệt rũ ra vừa đi vừa lết. Buổi tối họ trói chúng tôi lại và cho dựa vào gốc cây lớn ngủ. Tôi vẫn cố quan sát và khi nhận ra rừng cao su thì tôi biết đang trở lại chốn cũ.
    Tôi bước vào con lộ đất xuyên quận lỵ Đôn Luân vào quãng giữa trưa. Ánh nắng vẫn chói chang. Nhà cửa chung quanh mang vết tích bom đạn tả tơi. Tôi nhìn cờ vàng ba sọc đỏ sơn trước cửa những căn nhà vẫn còn tươi roi rói. Tôi nhớ vụ “Sơn Cờ Xí Đất “này lắm. Khi hội nghị Ba lê còn đang họp có lời xì sầm rằng Miền Nam có thể được chia thành từng khu vực – một hình thức da beo – chỗ nào Mặt trận Giải Phóng kiểm soát thì sẽ là của mặt trận, chỗ nào của VNCH thì VNCH giữ. Ào ào nơi đâu cũng được lịnh phải sơn trước cửa nhà.
    Hồi đó ông Thượng Sĩ già ở phòng tài chính đã phát biểu:
    - Cứ như là vụ Phật với Ma Vương tranh đất vậy.
    Tôi không hiểu thì ông ta giải thích quê ông ta ngoài Bắc và có tục lệ gần tết đem rắc vôi ở xung quanh nhà để Ma Vương Quỉ Sứ biết chỗ đó là đất Phật không được vào. Tôi đã bật cười vì cách ví von đó. Tôi không tin hễ rắc vôi thì Ma Vương Quỉ Sứ sợ chạy và tôi cũng không nghĩ vụ Sơn Cờ Xí Đất này là một điều hay. Cộng Sản đâu có cần cắm cờ sơn cờ gì đâu. Họ xài Ak và T54 nhanh hơn nhiều và bây giờ nhà nào cũng cắm hai lá cờ Mặt Trận và cờ Đỏ Sao Vàng. Mỗi nhà lúc này có tới ba cờ. Người Cộng Sản có lẽ còn nhiều việc quá nên chưa hạ lệnh bôi bỏ cờ vàng ba sọc đỏ. Người dân thì có lẽ cũng chưa nỡ xóa đi chăng. Trong khi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì tôi nghe có tiếng:
    - Thầy Dũng, thầy Dũng.
    Tôi ngó về phía có tiếng gọi. Một nhóm năm bảy bé gái đang đứng ở hiên nhà khuất tối tôi không nhận ra là những em nào nhưng chắc đó là mấy em học sinh của trường trung học Đôn Luân. Đầu tóc tôi dài như Tarzan, râu thì tua tủa, và hẳn là mặt mày trông phải hốc hác. Tôi nay áo cộc không còn hai ống tay, quần thì đã cắt chỉ còn ngang đầu gối, chân quấn vải. Tôi chắc chắn không còn giống thầy Dũng của các em ngày xưa, nhưng các em vẫn nhìn ra thầy. Một niềm vui tự đáy lòng dâng lên. Các em quen tôi, biết tôi như một ông thầy, không phải một ông lính.
    Tôi cười nhìn các em. Một đôi dép Nhật được quăng ra phía trước tôi. Tôi dừng lại ngần ngừ thì có tiếng quát khẽ nhưng gằn: “Anh kia” và người cán bộ lấn tới nhặt đôi dép ném trả về phía vệ đường. Tôi quay hẳn đầu lại gật gật tỏ ý cảm ơn các em học trò, chân vẫn tiếp tục lê sau khi bị người cán bộ đẩy chúi về phía trước.
    Hai đứa tôi được dẫn đi về phía ngã ba gần quán hủ tíu của ông Ba Tàu. Rải rác là những khẩu hiệu mà sau này đi đâu tôi cũng gặp “Chủ nghĩa Mac-lênin bách chiến bách thắng “- “Không có gì quí hơn độc lập tự do” – “sự nghiệp Bác Hồ sống mãi trong quần chúng“. Những người dân Đồng Xoài trông thấy hai đứa tôi, nhìn rồi quay mặt đi. Tôi thấy họ trông cũng ngơ ngác, dật dờ. Cái không khí của Đồng Xoài cách đây chưa đầy một tháng đã biến mất. Thay vào đó là những di động không lời, mọi sự như một phim ciné câm. Cuộc đổi thay xem ra không dễ dàng.
    Người cán bộ dẫn tôi vào một căn nhà trống và bảo chờ. Tôi cũng chẳng hiểu chờ gì. Hai ba ngày qua tôi và ông Kiệt đã được thưởng thức lương khô bộ đội. Đó là phong bánh có lẽ là đậu xanh. Ăn nó cũng vui vui nhưng sau đó uống nước như điên và no lâu không thể tả được. Ông Kiệt nói cái thứ lương khô này có trộn thêm nhiều thứ vitamin, vì là bột ép, khi vào bao tử nở ra nên no lâu.
    Hai đứa tôi ngồi bó gối trong căn nhà trống trơn, có lẽ thuộc gia đình một người lính chi khu. Ông Kiệt hỏi tôi:
    - Tụi nó dẫn mình về Đồng Xoài làm gì vậy?
    - Ông nội tôi cũng không biết. Dám đem mình ra xử bắn cho dân chúng coi chơi.
    Câu nói bông lơn của tôi làm chính tôi cũng rùng mình. Nghĩ đến hình ảnh bị trói giật cánh khủyu vào chiếc cọc chờ phát súng ân huệ làm tôi sở ngáy, gai ốc nổi đầy mình. Tôi chưa bao giờ thấy tận mắt nhưng chỉ được nhìn trên màn ảnh và đó là những cảnh không đẹp tí nào, nhất là khi tử tội nghẹo đầu gục sang một bên, mồm rỉ máu.
    Khi trời vừa sập tối thì ngoài đường vọng vào những tiếng người ồn ào, tiếng chân bước. Loáng thoáng lọt vào trong căn nhà là ánh đuốc và đôi khi loé lên ánh đèn pin. Hình ảnh tên tử tội gục xuống lại hiện ra trong đầu tôi.
    Cửa mở, người cán bộ bước vào.
    - Hai anh này đứng lên đi theo tôi.
    Bước ra đường tôi nhìn về phía chợ. Khu đó sáng trưng và rất đông người. Tôi nhủ thầm những giây phút cuối của cuộc đời Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng đang điểm.
    Khi được dẫn vào căn nhà khác gần chợ, tôi thấy ít ra không chỉ có tôi và ông Kiệt. Lố nhố phía trong cỡ hơn mười người nữa trông bộ dạng chẳng khác gì tôi. Định thần tôi nhìn thấy một sĩ quan khác, Chuẩn Úy Nguyễn Văn Đức. Nhiều khuôn mặt quen thuộc khác của chi khu nhưng tôi không nhớ tên. Họ đều nhận ra chúng tôi ngay lập tức vì tôi nghe tiếng xì xào “Trung Úy Dũng“.
    Một cán bộ Bắc Việt lên tiếng:
    - Các anh là ngụy quân. Các anh đã quen bóc lột ức hiếp đồng bào, hiếp dâm, đốt nhà. Hôm nay là ngày các anh sẽ phải trả lời trước nhân dân về những tội ác tày trời đó.
    Không một ai trong chúng tôi lên tiếng. Quả đúng chúng tôi là quân nhân VNCH – là Ngụy Quân theo cách gọi của người cán bộ Cộng Sản – nhưng còn những tội ác tày trời? Trả lời nhân dân?
    Khi chúng tôi bị lôi ra khỏi căn nhà, tiếng loa vang rè rè vọng ra từ phía chợ. Bóng người lố nhố khá đông từ ánh đuốc chập chùng. Tôi quan sát lượng định. Tôi có cấp bậc cao nhất trong đám tù binh, vậy tôi là đầu sỏ, có nghĩa là tôi bị bắn trước tiên. Hình ảnh của Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng ngoẹo đầu miệng ứa máu xem ra không đẹp tí nào. Nhất là với đầu râu rối mù, quần áo tả tơi.
    Trong căn nhà trống rộng lợp tôn vẫn làm nơi họp chợ trước kia, ba chiếc đèn manchon tuy sáng rực nhưng cũng không đủ chiếu rọi khoảng trống khá lớn. Quanh đó là những bó đuốc không hiểu được đốt bằng thứ gì nhưng tỏa khói dày đặc. Một chiếc bàn dài phủ khăn đỏ tôi nhìn đâu thấy bốn năm người ngồi, trong đó có hai người mặc quần áo bộ đội, còn ba người kia mặc đồ thường dân. Đằng sau là một tấm vải lớn làm phông có hình ông Hồ Chí Minh dưới lá cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu khá lớn “Không có gì quí hơn độc lập tự do” với chữ nhỏ ở dưới viết “lời Hồ Chủ Tịch”.
    Đám đông tụ tập phía trước có lẽ đến vài ba trăm người đứng lố nhố trong cái tranh tối tranh sáng của ánh đuốc lập loè. Tôi rùng mình nhớ đến bố tôi và cuốn phim CHÚNG TÔI MUỐN SỐNG.
    Tòa Án Nhân Dân! Lời nói úp mở của chính trị viên thẩm vấn tôi nay đã rõ nghĩa. Có thể ông ta thấy trước số phận của tôi nên không truy lý lịch kỹ lưỡng và cuộc hỏi cung cũng đầy vẻ thân thiện, lại còn cho hút thuốc lá Điện Biên của miền Bắc. Tôi rùng mình nhớ đến những câu chuyện được nghe hồi nhỏ khi đồng bào miền Bắc lũ lượt di cư vào Nam năm 1954. Tôi cũng đã xem phim Chúng Tôi Muốn Sống. Nhưng suốt từ bao năm qua cái hình ảnh đó đã tan biến trong trí não tôi và tôi cũng nghĩ Tòa Án Nhân Dân chỉ có trong thời kỳ cải cách ruộng đất , chứ miền Bắc chắc không có tòa án nhân dân nữa.
    Tụi tôi bị xếp ngồi ở một góc ngay phía dưới chiếc bàn phủ khăn và kẻ bị gọi tên đầu tiên không phải là đầu sỏ Đỗ Lệnh Dũng mà là một trung sĩ. Tôi nhớ tên anh ta không những chỉ vì bản án tròng vào cổ mà là cái tên nữa. Trung Sĩ Trần Văn Tửng, một cái tên rất miền Nam. Anh ta làm phát ngân viên cho một đơn vị trong chi khu. Đồng Xoài có một quán hủ tíu và hai ba quán nhỏ khác chuyên bán đồ nhậu, cùng đâu vài ba cửa hàng tạp hóa trong đó tiệm Phúc Đường của một gia đình người Tàu là lớn nhất. Những người lính khi hết tiền thường nhậu ghi sổ hay mua chịu. Trung sĩ Trần Văn Tửng đã ăn cánh với các ông chủ quán, chủ cửa tiệm này để trừ thẳng tiền thiếu vào lương cuối tháng. Tôi cũng đã thấy một đôi lần những bà vợ lính la hét chửi bới viên trung sĩ này nhưng ông ta chìa ra biên nhận ăn chịu mua thiếu có chữ ký làm bằng.
    Khi Trung sĩ Trần Văn Tửng lủi thủi bước ra trước khoảng trống thì tiếng la ó nổi lên. Trên bàn “quan tòa” một người mặc sắc phục bộ đội nói giọng bắc cầm cái loa- cái loa pin có lẽ tịch thu được từ ty sở nào đó của Đôn Luân – lớn tiếng nói:
    - Như tôi đã nói vừa rồi, từ nay đồng bào không còn sợ gì nữa. Đảng và nhà nước ta sẽ dẫn tổ quốc ta trên con đường chiến thắng vinh quang. Đế quốc Mỹ đang tháo chạy. Ngụy quân đang tan hàng rã ngũ trước các mũi tấn công dồn dập của quân đội Nhân Dân anh hùng. Ngày giải phóng toàn bộ miền Nam không còn xa nữa. Bọn Thiệu Kỳ sẽ phải đền tội trước nhân dân. Đồng bào hãy mạnh dạn tố cáo những tên ác ôn từng hút máu mủ của đồng bào, những tên ngụy quân từng mổ bụng lấy gan người, những tên ngụy quân xẻo tai người đeo thành vòng trên cổ. Những tên ngụy quân ngụy quyền đã cướp bóc từ miếng cơm manh áo của đồng bào. Đồng bào hãy mạnh dạn tiếp tay chính quyền giải phóng để vạch mặt chỉ tên bọn chúng.
    Ông ta nói khá dài, trong khi ở phía dưới những người bộ đội đeo AK đi đi lại lại hối thúc mọi người lên tố giác tội ác, vạch mặt chỉ tên ngụy quân ngụy quyền.
    Một người đàn bà trung niên tiến ra nói:
    - Thưa cách mạng, tên này tháng nào cũng ăn chặn tiền lương của chồng tôi.
    Có tiếng đập bàn:
    - Trần Văn Tửng đã nhận tội chưa?
    Trung sĩ Tửng lí nhí nói:
    - Chồng bà ta mua thiếu chịu, yêu cầu tôi trừ vào lương, lúc nào cũng có biên nhận.
    - Ngoan cố. Trong đồng bào đây, ai từng bị tên Tửng trừ lương mạnh dạn giơ tay lên. Mày thấy không? Mày ăn chặn tiền lương của biết bao nhiêu người. Mày nhìn xem có biết bao nhiêu cánh tay giơ lên. Đồng bào có đồng ý phải dành cho tên trung sĩ ngụy Trần Văn Tửng một bản án đích đáng để làm gương không?
    - Đồng ý. Đồng ý.
    Ông cán bộ ngồi xuống quay sang nói với ba bốn ông đang ngồi cạnh rồi đứng dậy dõng dạc:
    - Chiếu theo nguyện vọng của toàn thể đồng bào huyện Đôn Luân, chiếu theo nghị quyết của tòa án nhân dân huyện Đôn Luân:
    - Xét rằng tên Trung sĩ Trần Văn Tửng đã âm mưu toa rập với bọn gian thương bóc lột hút máu mủ đồng bào.
    - Xét rằng tên Trung sĩ ngụy Trần Văn Tửng đã sống trên xương máu của đồng bào,
    - Nay tuyên án tử hình.
    Bản án tử hình làm tôi rùng mình, một cảm giác lạnh buốt chạy dọc xương sống. Một viên Trung sĩ chỉ vì thu góp tiền mua chịu ăn thiếu mà bị tử hình thì tôi lãnh án cỡ nào? Khi hai người bộ đội lôi xềnh xệch trung sĩ Trần Văn Tửng vào phía sân khấu thì tôi nghe tiếng nói lớn:
    - Điệu tên Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng ra.
    Tôi chưa kịp đứng thì hai người có lẽ là du kích mỗi người chộp lấy một bên vai đẩy tôi chúi ra phía trước. Tôi nghe tiếng lào xào từ phía dân chúng. Họ vẫn chưa hết bàng hoàng về cái án tử hình “Trời đất có dzậy mà tử hình” “Mạng người chứ bộ…” “Tui nói là cách mạng dữ lắm mà, nghiêm lắm mà…”
    Viên cán bộ đập tay xuống bàn và phía sau đám đông một tràng AK nổ ròn như muốn thị uy khiến mọi người không dám bàn tán nữa. Tôi đứng đối diên với các “quan tòa”. Ánh đèn măng sông khiến mặt họ tái nhợt. Không hiểu động lực gì – Có thể là từ suy nghĩ cầm chắc cái chết trong tay – Tôi bình tĩnh lạ lùng, tâm hồn thư thản và thầm nhủ dầu sao tôi cũng là sĩ quan, là cấp chỉ huy không thể để kẻ thù uy hiếp ! Mãi về sau này kiểm điểm lại về thái độ “tiểu tư sản” đó, tôi vẫn tự cười mình. Nhưng lúc đó là như vậy. Viên cán bộ nói tràng giang đại hải những gì là “đầu sỏ ngụy quân” là “tay đã nhúng vào máu” là “tay sai của đế quốc Mỹ”. Nhưng khi dân chúng được yêu cầu lên tố khổ thì mọi người yên lặng. Những gì xảy ra cho trung sĩ Trần văn Tửng vẫn còn làm cho người dân Đồng Xoài bàng hoàng. Người đàn bà lên tố khổ hẳn không bao giờ biết đến bạo lực cách mạng. Chỉ vì tức giận ông chồng ăn nhậu ghi sổ, bà ta đã khiến một người lãnh án tử hình, một chuyện không thể xảy ra dưới thời Ngụy, dưới chế độ cũ. Viên chánh án vẫn lớn tiếng kêu gọi và tôi nghe loáng thoáng ở phía sau là lời hối thúc của du kích, bộ đội, động viên tinh thần dân chúng.
    Một người đàn ông bước ra. Tôi không biết đã gặp ông ta ở đâu, chỉ nhớ mài mại. Ông ta khúm núm nói:
    - Ông Trung Úy này không hại đồng bào. Ông ta dậy học và lo lắng cho học trò nhiều lắm.
    Từ trong đám đông mấy em nhỏ có lẽ là học trò tôi la lên:
    - “Thầy Dũng tử tế lắm,” “Thầy Dũng phát sách bút cho tụi em“.
    Những tiếng thầy Dũng làm tôi xúc động đến tận tâm can và tôi chợt nhớ người đàn ông đứng trước mặt là phụ huynh của cô học trò có lần mếu máo không được đi học vì phải ở nhà giúp cày cấy. Tôi đã phải nhờ một nghĩa quân đến giúp gia đình này để em có thể đến trường. Tôi đứng đó yên lặng nhìn người đàn ông can đảm và thấy lòng mình ấm lại.
    Viên cán bộ đứng day sau cái bàn phủ khăn giơ hai tay ra hiệu cho mọi người im lặng. Anh ta nói:
    - Cách mạng luôn công bằng. Nhân dân luôn sáng suốt. Xét rằng tên trung úy ngụy Đỗ Lệnh Dũng tuy đã lầm đường lạc lối nhưng còn có thể giáo dục để hắn trở lại với hàng ngũ nhân dân, tôi đề nghị đưa tên này đi học tập cải tạo để có thể trở thành một con người tốt.
    Màn bi hài kịch Tòa Án Nhân Dân là như vậy. Trần Văn Tửng bị xử chưa quá mười phút. Đỗ Lệnh Dũng cũng chỉ độ mười lăm phút là cùng. Sau này trong trại tù, tôi kể lại câu chuyện khó tin này với vị thẩm phán già và ông cụ gật gù:
    - Ông may mà thoát chết chứ nếu họ sửa soạn kỹ hơn, có bài bản hơn, e rằng xương ông đã mục từ lâu rồi. Nếu đúng là phiên tòa Nhân Dân như trong phong trào đấu tố 1954, họ sửa soạn kỹ lắm, từ cáo trạng, từ người lên đấu tố để được học tập kỹ càng. Phiên tòa có lớp lang và có khi kéo dài cả tuần lễ. Nghe ông tả thì không khí đấu tranh trong phiên tòa hời hợt quá. Một là họ vội vàng trong việc thị oai, biểu diễn với dân chúng. Họ chỉ mới chiếm Đồng Xoài chưa đầy một tháng. Hai là mấy anh ngồi bàn chánh án không phải là công an thứ thiệt, công an chuyên ngành mà là mấy ông lính, ông bộ đội. Ba nữa là dân Đồng Xoài chưa quên chế độ cũ của Miền Nam…
    Tôi không rõ lời bình giải của người bạn tù già có đúng chăng nhưng đối với tôi phiên tòa đúng là một màn kịch dở. Cái màn kịch dở này đã khiến trung sĩ Trần Văn Tửng trở thành vật hy sinh tế thần, và tôi được hứa sẽ cho đi học tập để được giáo dục thành người tốt.
    Tôi bị lôi ra khỏi đám đông và người du kích dẫn tôi trở về ngôi nhà trống bảo ngồi đó chờ. Chờ quái gì đây? Chỗ đó khá xa với chợ, tôi chỉ nghe tiếng ồn ào vọng lại. Khoảng một giờ sau tôi thấy họ dẫn Chuẩn úy Kiệt vào. Nhìn thấy ông Kiệt tôi thật mừng, hỏi khẽ
    - Nó xử ông làm sao?
    - Nó bảo gửi tôi đi học tập.
    - Gửi đi học tập gì, ở đâu?
    - Ông nội ai dám hỏi. Mẹ kiếp, đến đâu thì đến.
    - Ông Đức bị gì?
    - Ông ta bị giao cho công an xử lý!
    - Tức là đi tù à, bị giam à?
    - Đâu biết
    - Có ai bị tử hình chăng?
    - Chỉ mới có ông Trung sĩ Tửng. Sau này có ai bị nữa không thì không biết.
    Và ông Kiệt hỏi lại tôi câu hỏi tôi đã hỏi ông:
    - Học tập cải tạo là cái gì vậy?
    Đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe đến danh từ Học Tập Cải Tạo. Nhưng tôi và ông Kiệt không được cái hân hạnh đi học tập cải tạo ngay mà phải chờ đến một năm sau. Chỉ có điều tôi không bao giờ nghĩ là tôi đã học tập trên một thập niên mà vẫn không trở thành người tốt của chế độ như lòng kỳ vọng của các chánh án trong phiên Toà Án Nhân Dân ngắn ngủi ở chợ Đồng Xoài.
    __________________________________________________ _______________________________

    CHƯƠNG 8

    Ông Chuẩn úy Kiệt và tôi bị tách ra ngay buổi tối hôm đó. Họ dẫn ông ta đi đâu? Tôi chơ vơ trong căn nhà, lúc nào cũng có du kích ôm AK đứng ở cửa. Phải đến mãi sau này tôi mới nghiệm ra rằng khoảng hơn một tuần lễ bị nhốt ở Đồng Xoài là thời kỳ “hạnh phúc” nhất trong hơn một thập niên tù tội của tôi trong cả chục trại tù khác nhau từ Bắc chí Nam.
    Khi thì lương khô, lúc thì cơm nóng, tôi được ăn mỗi ngày hai bữa và nhất là không ai hành hạ hoặc hỏi han gì. Ngay cái chuyện được ăn cơm gạo trắng cũng đáng suy nghĩ. Có thể Đồng Xoài chỉ mới lọt trong tay họ chưa đầy một tháng nên thóc gạo còn đủ để nuôi thêm cả thứ tù tôi như tôi chăng? Câu nói đầu lưỡi của dân chúng miền Bắc là ” hạt gạo cắn làm đôi “. Nửa là để ăn còn nửa là để tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Nhưng hình như đôi khi một hạt gạo cũng không có mà cắn!
    Thú thật đầu óc tôi trống rỗng không suy nghĩ được gì. Kỹ thuật đối phó với tù binh là không cho biết đương sự biết cái gì xảy ra vào ngày mai. Những người du kích, bộ đội và ngay cả chính trị viên không bao giờ nói năng gì với tôi cả. Một đôi lần tôi hỏi bao giờ cũng được câu trả lời y như nhau “chờ cấp trên quyết định”. Tôi nghĩ chính họ cũng không biết tôi sẽ được “điều” đi đâu chăng?
    Hai bàn chân tôi đã dịu xuống, không còn bị sưng đỏ nữa. Và quai hàm cũng không còn hành hạ tôi như mấy hôm đầu. Từ trong căn nhà đóng cửa im ỉm, những tiếng động của sinh hoạt hàng ngày từ ngoài đường vẫn vọng vào. Có người dân Đồng Xoài nào biết cái căn nhà bên vệ đường rất bình thường này trở thành nhà giam?
    Một buổi sáng rất sớm, trời còn mù mờ, một người bộ đội bước vào bảo: “anh sửa soạn đi”. Tôi có gì để sửa soạn. Vậy mà cũng phải mất mười phút sau tôi mới xong. Tôi đã vớ được một cái mùng cũ mèm ngả mầu nâu và rách tả tơi. Tôi xé nó ra và quấn vào chân. Người lính bên kia đứng đó nhìn tôi chờ đợi không nói nửa lời. Đi được đâu độ bốn năm căn nhà, tôi thấy Chuẩn úy Kiệt đứng với một người mặc bộ đồ mầu cứt ngựa. Đây là lần chót tôi rời khỏi Chi khu Đồng Xoài và sẽ không bao giờ trở về nơi đó nữa để thấy lại đất đỏ, cây cao su, những căn nhà lụp xụp và nhất là những khuôn mặt câm nín của người dân, những người chưa đủ thấm chính sách của Đảng và Bác để xấu hổ đứng lên buộc tội ác cho Ngụy quân như tôi và ông Kiệt.
    Có những điều có thể hiểu được nhưng có những điều trái khoáy đến không ngờ. Áp tải hai sĩ quan Ngụy là hai người bộ đội, sau này tôi mới rõ một là bảo vệ viên và một là cán bộ. Bộ đội và cán bộ khác nhau ra sao về cấp bậc tôi không rõ nhưng cán bộ là người chỉ huy, là người quyết định. Chúng tôi lầm lũi đi trong sương sớm hướng về rừng, không ai nói với ai câu nào, người cán bộ đi trước, hai đứa tôi ở giữa và người lính đi sau. Đến cỡ độ khoảng bốn năm giờ chiều chúng tôi tới một buôn Thượng. Hai đứa tôi bị trói dưới gầm một căn nhà sàn . Người bảo vệ viên còn rất trẻ có lẽ cũng mệt phờ sau một ngày lội bộ ôm súng dựa vào một cây cột gần đó. Tên anh ta là Cam, nhìn tụi tôi và bỗng hỏi một câu làm tụi tôi ngớ ra:
    - Sao các anh nhiều tiền vậy?
    - Tụi tôi đâu có tiền, bao nhiêu nộp cho Cách Mạng hết rồi.
    Anh ta vỗ vỗ vào cái ba lô cười:
    - Tư trang của các anh ở đây chứ ở đâu.
    Cái mà Cam bảo là tư trang sau này tôi mới rõ là tất cả các vật dụng cá nhân như đồng hồ, dây chuyền vàng, tiền bạc tôi móc ra đưa cho chính trị viên khi bị bắt. Lúc đó họ có lẽ khai ra và bắt tôi ký nhận. Ký nhận thì ký nhận nhưng tôi không bao giờ nghĩ là nay những thứ đó lại nằm ở trong cái ba lô chỉ cách tôi có vài sải tay. Ông Kiệt thông minh hơn tôi nhiều và hỏi ngay:
    - Thế tụi tôi xài tiền đó có được không?
    Anh ta ngần ngừ rồi bảo:
    - Để em trình.
    Đây là lần đầu tiên “hai phe” nói chuyện cởi mở với nhau và phe thắng lại xưng “em” nữa. Tôi nghĩ đó là phản ứng tự nhiên vì người lính canh giữ chúng tôi còn trẻ quá, đúng như sau này Cam thú thật mới có mười chín tuổi vào bộ đội được hai năm.
    Khi Cam quay trở lại, khuôn mặt có vẻ tươi tỉnh hẳn:
    - Cấp trên đồng ý nhưng các anh phải ký nhận.
    Ông Kiệt nhanh như cắt:
    - Tôi thấy ở đầu buôn có cái tiệm bán đồ anh mua cho tụi tôi được không? Có được quyền mua thuốc lá không?
    - Hay để em dẫn các anh ra chỗ đó muốn mua gì thì mua, nhưng phải có giới hạn.
    Khoản tiền của tôi và ông Kiệt khá lớn gần 40.000 đồng – lương tháng mới lãnh chưa kịp tiêu – và giấy 500 màu xanh tươi còn mới tinh. Tiệm bán hàng ở buôn Thượng này lèo tèo đến nỗi muốn mua cả tiệm chắc chỉ độ dăm bảy ngàn.
    Tụi tôi mua được hũ kẹo lỉnh kỉnh đủ thứ, sáu gói thuốc Ruby quân tiếp vụ dáng đã mốc meo. Khi trở lại chỗ gầm nhà sàn, tôi bàn và ông Kiệt đồng ý ngay. Tôi phân mọi thứ ra làm hai phần và nói với Cam:
    - Đây là phần anh và cán bộ, tụi tôi chỉ xin giữ một nửa.
    Cam ngần ngừ bảo:
    - Để em hỏi.
    Khi quay trở lại, anh ta nói:
    - Cấp trên không nhận.
    - Vậy anh cứ giữ lấy chỗ đã chia cho tụi tôi vui.
    Quả là không chỉ chúng tôi vui mà từ sau vụ phân chia sòng phẳng này, Cam có vẻ cởi mở hơn. Tôi cũng chú ý quan sát và thấy rõ “cấp trên” không nhận phần chia thẳng từ tụi tôi nhưng có lẽ đã được Cam đưa cho một cách kín đáo hơn. Suốt khoảng mười ngày gần gũi, mỗi khi đến chỗ nghỉ đêm, Cam trói chúng tôi lại, nhưng ngồi sát để nói chuyện. Đúng ra là hỏi chuyện. Chuyện Ngụy. Chuyện Sài Gòn. Chuyện ăn uống, tất cả chuyện gì có thể cho người lính trẻ tuổi một cái nhìn mù mờ về đời sống, sinh hoạt của phần đất anh ta đang hăm hở giải phóng. Từ Cam, chúng tôi lần đầu tiên được nghe chữ “Tem Phiếu” “Quốc Doanh” “Quản Lý Chặt” và dù Cam cố gắng giảng giải hai đứa tôi vẫn cứ ngớ ra, không tưởng tượng được dân miền Bắc Chủ Nghĩa Xã Hội sống ra sao. Ngược lại Cam cũng nửa tin nửa ngờ về cái chuyện dân Sài Gòn nhà nào cũng có truyền hình, muốn mua gạo trắng, gạo thơm thì cứ ra tiệm gạo mà mua, mua bao nhiêu cũng có. Cam lắc lắc cái đầu khi được biết người dân miền Nam muốn ở đâu thì ở không cần trình với Công An và khi nghe nói về con gái Sài Gòn thì cười tở mở. Cam đã yêu cầu tôi cho xem chiếc đồng hồ “hai cửa sổ”- và tôi ngớ người ra cho đến khi được giải thích. Cam tối nào cũng lôi cái đồng hồ có dạ quang ra mân mê ngắm nghía. Khi tôi bảo tôi sẵn sàng biếu anh ta cái đồng hồ đeo tay đó thì anh ta nhìn tôi tròn mắt ngạc nhiên. Sau này tôi vẫn tiếc không thể cho Cam, Nhất là khi chiếc đồng hồ Seiko đó bỗng biến hình thành một cái đồng hồ quái quỉ gì đó của nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em. Nhưng đó là chuyện sau.
    Tôi đã thì thầm với ông Kiệt mưu chiêu hồi Cam, nhờ anh ta dắt đường trốn nhưng suy đi tính lại, chúng tôi thấy giải pháp đó không tưởng. Thứ nhất liệu Cam có dám đào ngũ theo tụi tôi? Nếu Cam đồng ý, liệu anh lính Bắc Việt non choẹt đó có thông thạo địa hình địa vật để thoát? Nhưng cái đáng sợ nhất là chân của tụi tôi. Sau mấy ngày lội bộ trong rừng, chân chúng tôi như chân người khác lết không nổi. Mỗi bước là một cực hình cho đến nỗi có lần ông Kiệt ì ra không đi nữa khiến cả bọn phải ngủ lại giữa rừng.
    Tôi thấy rõ người cán bộ thành thạo đường đi và biết phải đi bao lâu trong ngày thì có chỗ có thể cho nghỉ ngơi. Có hôm tụi tôi bị đánh thức từ bốn giờ sáng để lên đường nhưng có khi tới gần trưa mới khởi hành. Lần nào cũng vậy cỡ mặt trời vừa lặn là đến đúng ngay chỗ có thể ngủ lại, lúc là buôn Thượng, khi thì là một trạm liên lạc, khi thì là mộ cái “láng “. Đây là tiếng gọi của những người vượt Trường Sơn, chỉ một chỗ dừng chân có lều, có nhà tranh và có giường tre để ngả lưng, có nguồn nước để nấu nướng. Tóm lại mọi lộ trình đã được lượng ước trước.
    Hai đứa tôi đã trải qua hai ngày trong hoảng loạn khi nghỉ ngơi ở một cái láng mà tôi gọi là Láng Điên. Nó đã ám ảnh tôi và có thể còn tiếp tục ám ảnh tôi suốt đời.
    Khẩu hiệu của binh sĩ Bắc Việt là “Nhổ một trồng hai“. Nhổ là nhổ khoai nhổ sắn. Khi nhổ một bụi sắn, một dây khoai lên, lính Bắc Việt được lệnh trồng lại hai bụi để cho toán quân đến sau có cái mà ăn ! láng đa số chỉ trồng khoai và sắn, hoặc thêm một ít rau..
    Khi tới Láng Điên, tụi tôi được Láng Trưởng “Chào Mừng” bằng một tràng AK chỉ thiên ròn rã, và một bài diễn văn:
    - Địt mẹ mấy thằng Ngụy, Ông thì bắn chết cả nhà mày.
    Sau câu chửi Láng Trưởng quay ngang súng chĩa vào tụi tôi như sắp sửa bóp cò. Hai người áp tải tù nhìn không can thiệp, lẳng lặng bỏ đi lo cơm nước. Chính ông Láng Trưởng thân chinh lôi tụi tôi lại chỗ gốc cây ở một gò đất cao và trống trải, trói tụi tôi vào đó, mồm thì lải nhải chửi. Trước khi bỏ tụi tôi lại ông Láng Trưởng còn lớn tiếng:
    - Tụi mày mà rục rịch ông cho mỗi thằng một viên. Ông ở đây chín năm rồi không về Bắc chỉ vì tụi Ngụy nhà chúng mày
    Lúc đó trời đã chạng vạng và tôi giật bắn người khi thấy có hai người lính mặc đồ và đeo phù hiệu sư đoàn 5 đang lui cui làm việc trong ruộng sắn. Họ đi botte de saut!
    Khi Cam mang cơm cho tụi tôi, anh ta ngồi xuống bên cạnh nhỏ nhẹ:
    - Hai anh đừng sợ. Thằng cha này được tuyên dương là anh hùng Trường Sơn vì thề là sẽ giữ láng cho đến ngày miền Nam giải phóng, mới về lại Bắc. Nó một mình giữ cái láng này chín năm trời, bộ đội qua đây đều biết nó. Rau và khoai sắn chỗ này lúc nào cũng nhiều, chắc nhờ đất tốt cũng có, nhờ nó chăm sóc cũng có. Có điều nó ở một mình lâu quá hóa rồ rồi.
    Tôi hỏi:
    - Sao có lính Ngụy ở đây?
    - À, đó là hàng binh được cải tạo ít lâu rồi cho về.
    Hàng binh? Như vậy họ khác với tù binh như tụi tôi. Hôm sau tôi được nói chuyện với họ – có lẽ có sự đồng ý của cấp trên ! Họ cho hay họ là lính, nhưng là lao công chiến trường. Đây là thành phần đặc biệt trong cơ cấu tổ chức của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Những người này là đào binh bị bắt, là những người nhất định trốn tránh nghĩa vụ quân sự nhiều lần bị bắt. Họ bị tòa án xử phải làm Lao Công Chiến Trường, đi theo những những đơn vị hành quân để phục vụ việc vặt, nhất là để khuân vác.
    Họ cho hay là đã ra hàng và được liệt vào thành phần giác ngộ. Họ được cải tạo độ ba tháng và sau đó thả trở về với gia đình. Khi thấy tôi tỏ vẻ nghi ngờ, một người bảo tôi:
    - Em nói thật với Trung úy, em không muốn cầm súng giết người. Em không theo Việt Cộng nhưng em cũng không thích đi lính Cộng Hòa. Em chỉ muốn yên thân làm ăn. Em đã bị đi lao động lần này là lần thứ hai. Lần trước em ra hàng, phải ở trong rừng học tập ba tháng, xong mấy anh ấy dẫn em về tới tận Gò Vấp, đưa cho em 2000 đồng bảo đi xe ôm về nhà. Lần này ra hàng, em lao động ở đây hơn hai tháng, chắc sắp được về rồi.
    Tôi hỏi:
    - Các đơn vị qua đây có đông không?
    - Em không được phép nói .
    Tôi thấy rõ ngay là họ đã được sửa soạn trước nên không hỏi han gì thêm. Nhưng ông Láng Trưởng thì luôn luôn coi tụi tôi như món hàng để giải trí để phát tiết chín năm ẩn ức.
    Nửa đêm đang ngủ tụi tôi choàng dậy vì đạn AK nổ điếc tai. Ông Láng Trưởng cởi trần trùng trục ôm súng chĩa vào hai đứa tôi chửi đủ thứ tục tằn và cuối cùng hét:
    - Ông thì cho mỗi đứa một viên là xong đời nhà chúng mày. Vì chúng mày mà ông ở cái xó này chín năm chưa gần đàn bà. Ngữ chúng mày chỉ có đoàng một cái giống như ông giết con gà con chó vậy.
    Tôi dựa vào gốc cây giương mắt nhìn ông ta trong ánh trăng và có cảm tưởng mình đang nhìn một con quỉ sắp lên cơn thèm máu. Tôi nghĩ “Nếu nó bắn thì kể như xong”.
    Hai ngày trời bị trói ở cái gốc cây trên gò đất có lẽ ông Láng Trưởng phí với tụi tôi hơn một chục băng đạn AK và chi ra không biết cơ man nào ngôn ngữ đặc sệt của một người miền Bắc thất học, cái ngôn ngữ chanh chua đầu đường xó chợ tôi chưa được nghe.
    Ông Kiệt nói với tôi:
    - Chín năm chắc tôi cũng điên như nó.
    - Nhưng nó là anh hùng Trường Sơn. Khi rời khỏi láng , tiếng AK và tiếng chửi vẫn đuổi theo tụi tôi một quãng khá xa. Không hiểu ông Láng Trưởng Anh Hùng Trường Sơn đó có thủ dâm không? Tôi mỉm cười về ý nghĩ này và dám lắm vì trông ông ta béo nục nịch mà da thì xanh bủng, dám là vụ đó hàng ngày.
    Khi đi được một quãng khá xa, Cam nói với tụi tôi:
    - Mình kẹt ở láng hai ngày vì vấn đề an ninh, các anh phải nhanh lên cho kịp thời gian.
    Tôi cũng chẳng biết kịp thời gian để đến đâu và làm gì nên cũng chẳng hỏi lại. Bỏ lại đằng sau ông trưởng Láng Điên, tụi tôi lại được áp tải băng rừng băng suối cho đến một hôm bỗng thấy đang đi trên đường quốc lộ tráng nhựa hẳn hòi. Quốc lộ 1 thì phải vì tôi nhìn thấy một tấm bảng chỉ đường đã bị bắn bể nát nhưng vẫn còn nhận ra chữ Nam Vang và mũi tên chỉ hướng. Bộ tụi tôi được áp tải sang Miên, sang Cam-bốt?
    Thỉnh thoảng dọc đường chúng tôi gặp một hai người dân. Họ tò mò thoáng nhìn hoặc cúi xuống hoặc quay mặt đi. Tôi thầm nghĩ chắc trông tôi và ông Kiệt thê thảm, không giống con giáp nào, đến nỗi những ngụy dân cũng không muốn thấy chăng? Hay là họ không muốn nhìn cảnh sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa tả tơi hoa lá trong tay bộ đội Bắc Việt?
    Chúng tôi không phải ngủ bờ ngủ bụi trong hai ba ngày. Tối đến chúng tôi ở nhà dân. Càng đi, tôi càng nghiệm ra, càng ngày dân chúng không còn tò mò, có lẽ đối với họ, chuyện tù bình chả có gì đáng để ý nữa.
    Một lần ở trong căn nhà dân, chúng tôi được nghe chuyện tù binh Mỹ. Có thể những người trong nhà cố ý nói chuyện to để tụi tôi nghe thấy. Họ kể với nhau du kích mới bắt được ba biệt kích Mỹ. Ba người này “đầu tóc râu ria lông lá trông như con vượn” vì đã sống ở dưới hầm tối mấy tháng. Họ được người Stieng che chở, giấu ở hầm nhưng cuối cùng cũng bị lộ. Nghe nói họ có máy truyền tin nhưng bị hư không cách gì sửa được. Tôi nhớ mãi câu nói của người đàn bà:
    - Trông hai ông này còn đỡ chứ ba người Mỹ trông phát sợ. Y như mấy con vượn đầu tóc bù xù!
    Chính tại căn nhà này tụi tôi chia tay với Cam. Anh ta rớm nước mắt bảo:
    - Thôi, đến đây là hết nhiệm vụ của em. Hai anh yên tâm không sao đâu.
    Ngẫm nghĩ thế nào Cam lục ba lô lấy ra một cái quần xà loỏn đưa cho tôi:
    - Em biếu anh cái này.
    Tôi không khách sáo gật đầu cảm ơn. Cảm tình nảy nở giữa Cam và chúng tôi có thể do những buổi tối ngồi tỉ tê và ông Kiệt là người tinh ý phát giác tất cả những điều tụi tôi mô tả miền Nam đã được Cam tường trình đầy đủ với cấp trên, bởi suốt dọc đường người cán bộ gần như không trực tiếp nói năng gì với tụi tôi và hình như anh ta lờ đi cho Cam “liên hệ”.
    Người áp tải mới của tụi tôi nói giọng miền Nam đặc và hơi láu táu. Anh ta bảo:
    - Các anh phải đi nhanh lên mới kịp trước khi tối.
    Tôi không bao giờ nghĩ là tối hôm đó tôi lại được gặp đông đảo bạn đồng ngũ, các chiến hữu của tôi cũng từ tối hôm đó, tôi chính thức sống một cuộc sống của một tù binh chiến tranh.
    o O o
    - Tù mới. Tù mới.
    - Ê, đơn vị nào vậy?
    - Ê, bị bắt ở đâu?
    Cả chục người nhao nhao khi hai đứa tôi bước chân vào căn nhà tranh tối tranh sáng. Chữ đúng là cái láng . Đó là những căn láng được dựng sơ sài, mái lợp bằng lá trống quân. Như lời thuật lại thì lá trống quân bền, không cháy. Lá to khoảng hơn bàn tay được kết thành từng liếp lợp mái. Tôi không biết tại sao cái lá này có tên Trống Quân thơ mộng như vậy và cũng không biết có thật là lá đốt không cháy chăng. láng được che bốn phía bằng phên tre hoặc có khi là các tấm liếp lá trống quân rất đơn sơ và trống trải. Trong các láng có hai dãy giường lát tre khá thấp giống như chõng tre tôi đã thấy hồi còn nhỏ ở vùng quê Bắc Việt.
    Buổi tối đầu tiên, tôi và chuẩn úy Kiệt đã kể lại đầy đủ chi tiết về cuộc đời quân ngũ và trường hợp bị bắt cho anh em. Khi tôi hỏi có ai trong trại từng ở chi khu Đồng Xoài không thì không thấy. Tôi thầm nhủ ít nhất thì Thiếu Tá Khoái và Trung Úy Hùng đã thoát – hoặc đã chết. Tôi được nhường một chỗ trên cái giường phên tre và đêm đó tôi ngủ thẳng giấc. Phải chăng vì tôi đang ở giữa anh em đồng đội của tôi.
    Tuần lễ sau đó là tuần lễ làm việc. Ba ngày đầu người hỏi cung tôi là người miền Bắc, đến hôm thứ tư thì có diễn tiến mới. Người hỏi cung là một người miền Nam và trong suốt một buổi, ông ta rất cởi mở, toàn nói chuyện Saigon, y như hai người cùng quê gặp nhau. Thấy tôi có vẻ dè dặt, ông ta cười:
    - Anh cứ gọi tôi là Thầy Hai cũng được. Tôi là giám thị trường Văn Học ở đường Phan Thanh Giản. Anh có biết giáo sư Trần Bích Lan không? Ông Lan làm thơ bút hiệu là Nguyên Sa.
    Và ông thầy Hai nhịp gõ, hát nho nhỏ:
    Nắng Sài Gòn anh đi mà anh chợt mát
    Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
    Tôi vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
    rồi hỏi tôi:
    - Anh có thích bài Áo Lụa Hà Đông không? Tôi thuộc nhiều thơ Nguyên Sa lắm, thích nhất là câu: “Sáng nay Nga buồn như con chó ốm, như con mèo ngủ gật trên tay anh”
    Khó mà tưởng tượng được ở giữa trại tù Lộc Ninh lại được nghe Áo Lụa Hà Đông.
    Tôi cười:
    - Tôi dốt, biết rất ít về văn chương Việt Nam nhưng có nghe danh giáo sư Lan và biết ông ta làm thơ hay lắm.
    - Tôi làm giám thị gặp ông Lan hoài. Trông ông không có vẻ thi sĩ mà sao làm thơ hay quá trời.
    Câu chuyện – đúng ra là cuộc hỏi cung – kéo dài suốt buổi. Chúng tôi nói về tiệm phở, tiệm hủ tíu nào ngon, rạp ciné nào ngồi dễ chịu nhất, trường tư nào dạy giỏi và đứng đắn. Ông Thấy Hai cười rất tươi, cho hay:
    - Tôi thuộc cục R chỉ công tác ít lâu rồi trở lại Sài Gòn. Anh yên tâm, người Cộng Sản không tàn ác như chính quyền Saigon tuyên truyền đâu.
    Tôi nhận thấy ra rằng ông Thầy Hai này không gọi tôi là ngụy quân, không gọi Việt Nam Cộng Hòa là ngụy quyền và tôi cũng biết ông Thầy Hai như vậy là dân nằm vung, có lẽ được cấy từ lâu lắm.
    Trước khi rời khỏi bàn hỏi cung, ông ta bảo:
    - Anh chờ tôi một chút.
    Sau đó, ông ta trở lại đưa cho tôi một đôi dép râu, chính đôi dép này đã cùng tôi trải gần chục năm hoạn nạn trong tù. Khi trở lại láng mọi người xúm lại và ai cũng ngạc nhiên khi nghe tôi kể về ông Thầy Hai!
    Ba ngày sau đó, ông Thầy Hai liên tục “làm việc” và những điều ông ta hỏi làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Ông ta không hỏi han đề cập gì tới Phước Long, nơi tôi rành rẽ nhất mà hỏi về trường Bộ Binh Thủ Đức, hỏi trường có bao nhiêu trạm gác, ngoài sinh viên sĩ quan thì lực lượng hữu cơ bảo vệ quân số cỡ nào. Ông ta hỏi về Biên Hòa, về Bình Dương và về Tổng Tham Mưu. Khi tôi nói tôi không biết gì về Tổng Tham Mưu thì ông ta cố gặng, chẳng hạn bạn bè có ai nói về Tổng Tham Mưu chăng? Suốt ba ngày trời những câu hỏi tới tấp như vậy được đưa ra đến nỗi anh em tù binh khi bàn tán đều nghĩ đối phương đang cố khai thác tin tức để bao vây hoặc tấn công Saigon.
    Sau này nghĩ lại, tôi thấy chúng tôi quả là ngây thơ vì có rất nhiều anh em bàn phải làm sao thông báo tin tức này về cho phe ta đề phòng! Hình như ai cũng nghĩ đến chuyện trốn trại nhưng không ai thực hiện cả. Mọi sự xem ra rất lỏng lẻo vì trại không có rào kiên cố nhưng xung quanh toàn là bộ đội. láng tuy không có cửa nhưng buổi tối chúng tôi được lệnh không được bước ra ngoài hè nếu có việc cần kíp thì phải hô to, chẳng hạn như:
    - Báo cáo Giải Phóng tôi muốn đi cầu.
    Lúc nào cũng vậy, có tiếng AK lách cách cùng tiếng đáp: “Ra đi“. Sau đó là một người lính võ trang áp tải đương sự đi ra phía cầu tiêu. Chúng tôi biết đây là tỉnh Lộc Ninh nhưng không rõ đích xác vị trí của trại tù. Một khía cạnh tâm lý nữa là có thể có trao đổi tù binh. Sau hiệp định Paris, báo chí đã đăng tải về các vụ trao đổi này và chúng tôi đều biết địa điểm trao đổi là Lộc Ninh. Anh em xầm xì bàn tán tụi tôi được tập trung ở đây có thể là tiện cho việc trao đổi tù binh chăng? Một sĩ quan cấp Đại Úy – tôi quên tên ông ta – đã từng ở Côn Sơn cho hay hiện Việt Nam Cộng Hòa còn giam giữ cả chục ngàn cán binh Cộng Sản và nếu một đổi mười phe ta vẫn có dư!
    Khoảng một tuần sau, họ dẫn vào một tù binh và tôi bật ngửa khi nhìn thấy ông Chuẩn Úy Vân, người giữ một trung đội địa phương quân lo bảo vệ quận đường hồi đó ở Đồng Xoài. Vân nhìn thấy tôi và ông Kiệt cũng ngỡ ngàng không kém – “Tôi tưởng hai ông thoát“. Vân cho hay anh bị bắt ngay tại chợ khi bắn hết đạn. Anh được bắt giam cả tháng rồi bị dẫn về đây. Tôi hỏi thăm về Thiếu Tá Khoái và các sĩ quan khác thì Vân lắc đầu:
    - Tôi bị giam một mình trong căn nhà không biết gì về ông quận và các sĩ quan khác. Lạy Trời họ thoát được.
    Tôi cũng chỉ còn biết lạy Trời như ông Vân thôi. Tù binh chúng tôi được đối xử tử tế, ăn uống tất nhiên kham khổ nhưng không khác lắm so với bộ đội Cộng Sản. Trại có một lều nhỏ được gọi là bệnh xá nhưng thuốc men tất nhiên là không có và người phụ trách xem ra cũng rất lờ mờ về y khoa. Một người tù bị thương ở chân, vết thương làm mủ khi lên bệnh xá thì được đưa cho một bát muối để rửa và hai cuộn băng.
    Hôm sau anh ta xin thêm băng thì bị mắng xối xả. Anh ta không hề được dặn trước là khi thay băng thì phải đem giặt cẩn thận để xài lại và theo tiêu chuẩn, mỗi người chỉ được phát hai cuộn mà thôi!
    Cái đáng để ý nhất là cách xưng hô. Chúng tôi được lệnh gọi tất cả bộ đội là “Anh Giải Phóng”. Không lẽ đến giờ phút này của cuộc chiến họ vẫn muốn chúng tôi tin đây là cuộc nổi dậy của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền miền Nam và Hà Nội không liên hệ gì đến những chuyện xảy ra ở miền Nam? Muốn hiểu sao thì hiểu, chúng tôi khi nói chuyện với họ bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “Báo cáo Anh Giải Phóng” dù người đối diện già hay trẻ, Nam hay Bắc. Suốt gần hai tháng ở trại tù binh, có một lần báo động làm anh em chúng tôi mừng húm. Đang tự nhiên, chúng tôi bi lùa vào trong nhà, cấm ồn ào, cấm cả hút thuốc và có lệnh rõ ràng hễ ra khỏi láng là bị bắn. Cuộc báo động kéo dài suốt buổi chiều cho đến hết đêm nhưng sáng hôm sau lại sinh hoạt bình thường. Mỗi người một giả thuyết, chúng tôi bàn loạn cào cào và có lẽ chẳng lời bàn nào đúng cả!
    Một hôm chúng tôi được lệnh đi chặt tre. Xung quanh nơi đây nhiều rừng tre, loại tre già đốt dài và lớn. Lệnh rõ ràng là chặt tre từng đốt, phải giữ hai mắt ở đầu. Không anh em nào hiểu tại sao. Vài hôm sau, mấy người khỏe mạnh nhất được gọi ra trước một đống các cuộn dây xích. Đủ loại, có cuộn thì mảnh và mắt rất nhỏ, có cuộn khá lớn mắt xích to và nặng. Họ được lệnh chặt các cuộn dây ra thành từng đoạn dài cỡ một sải tay. Anh em lại bàn tán um xùm trong đó tôi còn nhớ có anh bảo:
    - Đây chắc là để làm mìn muỗi xử dụng khi tấn công Saigon!
    Một lần nữa chúng tôi lại thấy rõ sự ngây thơ của mình, vì chúng tôi không bao giờ nghĩ được công dụng đích xác của các ống tre và sợi xích. Đó chính là những vật dụng để cho bản thân chúng tôi xử dụng trên con đường Trường Sơn ngút ngàn.
    Tổng cộng số tù binh ở bốn láng xấp xỉ hai trăm, đều là sĩ quan cấp úy. Đa số chúng tôi thuộc Quân Đoàn Ba trú đóng ở các tỉnh Biên Hòa, Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long… tức là những tỉnh ở phía Tây Saigon. Chúng tôi bàn tán đủ kiểu về số phận của mình. Những viễn ảnh vô cùng hoang tưởng cũng đã được vẽ ra như Biệt Kích Dù có thể nhảy xuống cứu. Có người còn bàn đến chuyện chúng tôi có thể chết vì không lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ dội bom ngay xuống trại tù. Giữa hai viễn ảnh cực đoan đó là niềm hy vọng trao đổi tù Binh.
    Tôi ở trại hơn một tháng thì chuyện chặt tre thành đốt giữa hai mắt xảy ra. Các đốt tre được xếp thành đống ở giữa sân cùng những đoạn giây xích sắt đã được chặt ra thành từng khúc. Một buổi sáng khoảng mười giờ, hai chiếc xe tải lớn ì ạch chạy vào khu đất trồng ở sát trại. Chúng tôi được lệnh tập trung và mỗi người được phát một cái ruột tượng bằng vải khá dày, không hiểu để làm gì. Lính Bắc Việt đứng thành dãy, súng AK, mũ tai bèo, dép râu trông tề chỉnh hẳn so với mọi hôm. Tù binh được lệnh hai hàng xếp thành một dãy dài từ từ đi về phía hai chiếc xe tải.
    Hai chiếc xe tải chở gạo bà con ơi. Những người lính đứng trên xe tỏ ra rất thạo việc. Họ dùng một cái phễu rất lớn, gạo được trút vào các ruột tượng, không một chút nào vương vãi ra đất. Từng người chúng tôi tiến đến, căng miệng cái túi vải dài thòng lòng đó ra hứng gạo. Gạo trắng tinh, thơm phức, có lẽ còn ngon hơn thứ bán ở các cửa hàng gạo Saigon. Tôi nghe một người lính Bắc Việt nói với một anh lính Bắc Việt khác “Tiên sư chúng nó. Gạo này ngoài Bắc khối mà có”. Phải đến vài tháng sau, khi đã thực sự sống trong cái nôi của xã hội chủ nghĩa miền Bắc tôi mới thực sự hiểu được câu chửi thề bâng quơ này.
    Tôi ước lượng mỗi cái ruột tượng đầy gạo này nặng khoảng mười lăm ký. Việc phát gạo kéo dài khoảng hai tiếng thì xong. Chúng tôi lại được lệnh sắp hàng lần lượt trở về láng với cái ruột tượng đầy gạo choàng qua vai. Anh em xì xào bàn tán lờ mờ hiểu chắc sắp có chuyện xảy ra.
    Sau đó chúng tôi được phát mỗi người một đôi dép râu, một tấm ni lông mỗi chiều độ hai mét, một bộ quần áo, một cái bát sắt và một đôi đũa. “Kiểm kê” đầy đủ xong lại có lệnh sắp hàng hai tiến ra sân. Lần này mỗi người tù lãnh một đốt tre do chính chúng tôi chặt từ mấy hôm trước, chỉ có một điều ở một ống tre đã được dùi một lỗ và được nút lại bằng một cái nút gỗ. Mỗi người được phát một khúc dây gai khá dài. Một cán bộ hướng dẫn chúng tôi cột ống tre để có thể đeo vào người ra sao. Sau đó, chúng tôi được lệnh ra suối lấy đầy nước vào ống tre. Đến đây thì không còn ai nghĩ đến công dụng ly kỳ của các đốt tre. Nó chỉ giản dị là cái ống đựng nước thay cho cái bi đông nhôm của lính Cộng Hòa. Vậy thôi!
    Chúng tôi hôm đó được ăn cơm sớm và thức ăn hình như đậm đà, sởi lởi hơn mọi khi vì có thêm món canh có lõng bõng tí thịt heo. Phải công bằng mà nói suốt những ngày tù ở Lộc Ninh chúng tôi không bị đói, cơm gạo lúc nào cũng no đủ. Ngoài mấy ngày đầu bị thẩm vấn, chúng tôi không hề bị đánh đập ngược đãi và nhất là không bị chửi rủa, bị lên lớp và bị học tập chính trị. Nội quy của trại khá sơ sài, chỉ có một điều duy nhất là không nên tìm cách trốn trại. Tôi vẫn nghĩ người Cộng Sản ngay lúc đó cũng chưa quyết định nổi số phận của chúng tôi và chuyện trao đổi tù binh vẫn có thể xảy ra hoặc là có thể sẽ phải trình diện chúng tôi với Hồng Thập Tự Quốc Tế chẳng hạn. Tôi có cảm tưởng chúng tôi được đãi ngộ cỡ đó chẳng qua vì đây là chỗ chuyển tiếp và nhất là chúng tôi vẫn chịu sự cai quản của quân đội Bắc Việt, chứ không phải là công an nhân dân như sau này. Chính tai tôi đã nghe những người lính Bắc Việt than với nhau rằng “tù ngụy sướng quá!”
    Xế chiều khi cơm nước xong, một cán bộ vào láng :
    - Để động viên tình thần các anh, các anh sẽ được chuyển trại, đường đi xa phải chuẩn bị tinh thần, phải tôn trọng kỷ luật. Chính ra các anh là tội phạm chiến tranh nhưng do lượng khoan hồng của các mạng, các anh đã được đối xử theo đúng quy chế tù binh Han-sin-ki. Nhưng cách mạng sẽ không nương tay cho những thành phần ngoan cố, ương ngạnh bất tuân kỷ luật. Hình phạt dành cho những thành phần này là không thể nhân nhượng.
    Ông cán bộ này ăn nói khá lưu loát, nói ngắn gọn để rồi ông ta khuyên tụi tôi:
    Các anh nên mặc hết quần áo vào người đi vì có thể sẽ lạnh lắm.
    Lời khuyên này chỉ dúng có một nửa. Nửa còn lại mà ông ta không nói ra là dọc đường chúng tôi không thể thay quần được!
    Sau khi mặc bộ quần áo bộ đội tròng lên bộ đồ ngụy tơi tả hoa lá, mọi người đươc lệnh cuốn ruột tượng vòng qua vai, cột hai đầu vải lại, đeo ống nứa, tấm vải ni lông gập thành dải quấn ngang bụng. Lúng túng một hồi cũng xong, kể cả cái chuyện làm quen với đôi dép râu. Tôi bỗng nhận ra tôi là người được biệt đãi nhất vì đã được ông giám thị Thầy Hai nằm vùng tặng đôi dép quí hóa này từ ngày mới ra nhập trại hơn tháng trước đây!
    Kỹ thuật đối phó với tù của người Cộng Sản rất giản dị, sơ khai – chữ của ông Thẩm phán già là “primitif” – nhưng rất hữu hiệu và rất đáng sợ. Tù được lệnh trang bị đầy đủ, không bỏ lại gì trong láng và lũ lượt tập trung ở sân thành ba nhóm. Giữa sân là các khúc xích sắt được chính tù cắt ra từ trước và hai chiếc sọt lớn. Một người một trong mỗi nhóm được chỉ ra giữa sân, như vậy là ba người một toán. Họ xích chân từng người và sau đó ba đoạn xích được khóa liền lại với nhau. Tôi không còn được tỉ tê với ông Kiệt nữa mà bị khóa chùm với ông Đai Úy Bình và Thiếu Úy Quyền, một bị bắt ở Bình Dương, một bị ở Bình Long. Đại Úy Bình vẫn to con tốt tướng dù đã ăn cơm tù ba tháng trong khi Thiếu Úy Quyền cao nhòng khẳng khiu. Nhưng bộ dạng bên ngoài đó không phản ánh sức chịu đựng của con người.
    Cái đáng sợ đầu tiên của sự giản dị là dây xích và ống khóa. Những thứ này có thể mua từ nhiều chỗ khác nhau của Ba Tàu đâu đó trong Chợ Lớn, có khóa Yale trông vô cùng nhắc chắn, có khoá nội hóa trông rất mảnh mai, anh nào xui thì dây xích vừa to vừa nặng lết kéo ì ạch.
    Khóa xong, họ cột bốn chiếc chìa khóa thành một chùm giao cho một người cán bộ giữ. Cứ như vậy từng chùm ba một, chúng tôi được lệnh chờ, và chẳng ai hiểu chờ gì cho đến khi nghe tiếng động cơ nổ. Một doàn công voa hơn chục chiếc xuất hiện, mui vải kín mít.
    Ông Quyền nói nhỏ với tôi:
    - Chắc trên xe có tù nữa chứ bọn mình cần đếch gì đến cả chục xe.
    Ông lại sai bét. Lũ chúng tôi chỉ được nhồi nhét trên ba xe, chỉ đủ chỗ đứng, còn những xe kia không có tù nào cả mà chở gạo.
    Khi đã nhồi tù lên, xe được phủ vải dày kín mít và chỉ chừng vài phút sau chúng tôi như ngộp thở. Tấm vải bố dày xem ra cũng trải qua nhiều trận mạc nên rách tả tơi, nhiều chỗ bị thủng nhưng không khí vẫn không lọt vào đủ cho tụi tôi thở. Sau này khi gặp tù cải tạo được nghe có một số được chở ra Bắc bằng tàu thủy và bị nhét dưới hầm tàu ngộp đến nỗi nhiều anh em bỏ mạng. Đối với người chiến thắng, sinh mạng của kẻ thua e không to hơn con sâu con kiến. Vả lại cuộc chiến đã khiến vài triệu người chết, thêm dăm ba tên ngụy nữa thì đã sao?
    Cỡ nửa đêm, xe lăn bánh. Trời trong và qua những lỗ thủng, tôi thấy trăng lưỡi liềm. Quá độ nửa giờ lắc lư chắc vì băng đường rừng, bỗng chúng tôi thấy đang chạy trên quốc lộ. Một ông tù nói khá lớn cả xe cùng nghe:
    - Trăng lưỡi liềm mặt lõm quay về Bắc vậy là mình đang đi về hướng Tây. Tụi nó chở mình sang Campuchia.
    Vốn thiên văn học của ông bạn này không rõ đến cỡ nào nhưng không ai phản bác. Tôi cũng nghĩ nếu từ Lộc Ninh và đi trên đường nhựa thì chắc chắn đi sang Miên. Lắc lư hồi lâu, rồi chúng tôi cũng thu xếp để người này dựa vào người kia, mặc cho bánh xe đưa đẩy.
    Trời hửng sáng, đoàn xe lại bắt đầu lắc, sóc dữ dội và chúng tôi hiểu quân ta lại vào rừng. Khi trời sáng hẳn, xe ngừng lại. Khi lên xe đã khó, lúc xuống xe còn khó hơn vì chúng tôi bị xích từng chùm ba người một. Tôi và ông Bình còn đang lóng ngóng thì ông Quyền đã nhảy tọt xuống làm hai đứa tôi nhủi theo ngã cong queo dưới đất. Tôi chợt nhận ra rằng số phận của tôi nay cột chặt với hai ông bạn này. Chúng tôi được lùa vào một khu rừng thưa. Đoàn công voa chui vào khoảng đất ở gần đó. Bộ đội Bắc Việt nhanh chóng lo ngụy trang đoàn xe bằng những cành cây nhỏ đầy lá. Ông Quyền có vẻ hay nói lại đưa ra lời bàn tán làm tôi cũng sờ sợ:
    - Nếu phi cơ phe mình chơi bom giờ này chắc tôi với hai ông cũng tiêu theo.
    Chẳng bao giờ có phi cơ phe mình léo hánh đến đây có lẽ vì còn bận đánh bom ở cả chục mặt trận khác chăng? Vả lại phe mình còn đủ phi cơ để chơi được chăng?
    Tù được phát lương khô. Một cán bộ dõng dạc:
    - Cấm đèn lửa, nấu nướng. Các anh mà để lộ mục tiêu là chúng tôi bắn.
    Ngắn gọn rõ ràng và chúng tôi đều là lính trận nên hiểu rõ tiêu lệnh. Cả ngày hôm đó chúng tôi lại bó gồi nằm trong rừng nhăm nhi lương khô. Ba đứa tôi dụm lại dưới một gốc cây, bắt đầu cùng “khai lý lich” để hiểu nhau hơn.
    Thiếu Úy Nguyễn Bá Quyền trẻ nhất trong cụm, tốt nghiệp võ bị Đà Lạt, đời binh nghiệp chưa qua hai năm. Anh xung phong vào Biệt Động Quân chỉ vì “nhà tôi đủ thứ lính. Ông anh đi Bộ Binh, ông anh thứ nhì lái Trực Thăng, ông anh con nhà bác thì Nhảy Dù nên tôi chọn Biệt Động Quân cho nó khác”. Quyền bị bắt ở chân núi Tống Lê Chân. Anh bùi ngùi nói:
    - Tui bị bỏ rơi, ông ơi. Không phi pháo yểm trợ, và bị tụi nó chơi biển người. Ít nhất thì cũng một chọi năm bảy, hỏa lực tụi nó lai lấn mình nữa mới đau.
    Cả trung đội của anh gần như chết và bị thương. Những người còn lại không ai còn lại một viên đạn.
    Đại Úy Lương Văn Bình tiểu đoàn phó một tiểu đoàn Địa Phương Quân. Ông nguyên là lính Thiết Giáp lái xe tăng nhưng tính ngay thẳng không chịu bán xăng nên bị đì ghê quá bèn xin đổi và được chuyển qua coi địa phương quân ở Bình Dương. Cánh quân của ông bị phục kích và bình sĩ rối loạn. Ông Bình bị bắt khi cố thoát cùng hai người lính khác. Đại Uý Bình nhỏ nhẹ ít nói và sau này đã là gánh nặng cho cả hai đứa tụi tôi vốn nhỏ con hơn ông. Tôi còn nhớ khi được chặt cùm ở Yên Bái, ông rớm nước mắt, nắm tay hai đứa tôi nói:
    - Trong tình anh em chiến hữu, tôi không cảm ơn hai ông nhưng nếu còn sống trở về, tôi sẽ kể lại cho vợ con tôi nghe những gì xảy ra để con cháu tôi hiểu thế nào là tình đồng đội. Không có hai ông chắc tôi bỏ xác giữa rừng rồi.
    Lúc đó Quyền vẫn bông đùa:
    - Ấy, Đại Úy sống thì em khiêng được chứ Đại Úy bỏ xác giữa rừng thì hai đứa em chắc suốt đời phải canh mồ đại úy.
    Và Quyền cười cười chỉ mấy đoạn dây xích đã cột chặt quãng đời của chúng tôi trên “đường dây Ông Cụ”.
    Khi nghe tôi khai về cuộc đời lính tráng, hai người đồng ngũ gật gù thông cảm. Đại Úy Bình bảo:
    - Tụi mình thế cả, lúc nào cũng quân tử Tàu thối hoắc. Nếu tôi chịu đem xăng nhà binh bán vừa có tiền vừa yên thân, có khi còn lên lon nữa. Ông không chuồn đi Mỹ ngay nên mới ở đây. Tụi mình đúng là Ngụy.
    Chúng tôi bàn đi bàn lại vẫn không đoán nổi được đưa đi đâu, nhưng giả thiết được đưa qua giấu đâu đó trên đất Miên có vẻ đúng hơn cả.
    Sẩm tối, chúng tôi lại được lùa lên xe Molotova. Xe chạy rất chậm, toàn đi đường mòn, có những lúc xe nghiêng muốn đổ. Mỗi lần như vậy đám tù người này đè lên người kia, í a í ới. Quá nửa đêm xe ngừng cho đám tù xuống để “thư giãn tinh thần“. Chữ nghĩa của miền Bắc rất lạ tai đối với chúng tôi, và ông Quyền là người phiên dịch ngay cụm từ này sang ngôn ngữ ngụy. “Tụi nó cho mình xả xú bắp”.
    Xin ghi lại một chuyện cười ra nước mắt. Trên xe tôi có một ông bệnh kiết lỵ. Sau một hồi, anh em đã phải dàn xếp, giúp anh ta tụt quần xuống và cứ tồng ngồng ngồi ghé cặp mông ra xe để muốn “xả” lúc nào thì xả. Phân và nước tiểu theo gió tạt vào xe dính hết người này đến người khác.
    Mới đầu anh em còn xì nẹc nhưng chỉ môt hồi sau anh bạn kiết lỵ cũng phải phì cười vì những lời bông đùa diễu cợt của anh em. Chửi bới om xòm, diễu đủ kiểu nhưng quả không ai giận dù phân và nước tiểu của anh ta bắn cả vào quần áo mặt mũi người đúng gần.
    Đoàn xe không bật đèn đang ì ạch lăn bánh trên con đường rừng khúc khuỷu thì dừng lại. Lính Bắc Việt leo lên xe chúng tôi cuốn chiếc mui vải lên. Đằng trước là một con sông lớn, trong cảnh mù mờ của rừng đêm, khó nhìn thấy bờ bên kia. Bộ họ muốn chúng tôi bơi qua sông à? Lính bắc Việt nhảy xuống đi tới đi lui và một người đứng ở càng xe phía trước nói to cho đám tù nghe:
    - Các anh phải cẩn thận, đừng chen lấn xô đẩy, hễ anh nào ngã xuống không ai vớt được đâu.
    Từng chiếc một xe chậm chậm bò xuống sông. Hai người lính đi bộ cầm hai bó đuốc giơ cao dẫn đường. Một con đường đá được xây ngầm dưới mặt nước. Trước đây tôi vẫn băn khoăn không hiểu bằng cách nào Hà Nội có thể tung vào chiến trường miền Nam những võ khí hạng nặng như xe tăng, đại pháo. Từ vĩ tuyến 17 vào đến Củ Chi chẳng hạn phải cỡ hơn ngàn cây số. Di chuyển một khẩu 122 ly, một cỗ 130 ly đâu phải dễ như một khẩu AK 47? Khi chen chúc lúc nhúc trên chiếc Motolova cà khập cà khiễng đến giữa sông, đám tù chúng tôi đều ngao ngán lắc đầu. Phi cơ Mỹ, phi cơ Việt Nam Cộng Hòa với những dụng cụ điện tử tối tân cũng khó phát hiện được cái cầu ngầm này.

    Khi sang đến bên kia sông, cả một đoàn dài xe cộ đang chờ. Họ đi ngược đường với tụi tôi, vậy có nghĩa là họ đang chuyển quân vào Nam. Tôi đếm đoàn xe hơn hai chục chiếc bọc vải kín mít và đáng sợ nhất là một đầu chiếc hỏa tiễn Sam. Thú thật tôi chưa bao giờ nhìn thấy mà chỉ đọc báo về loại vũ khí này của Nga, thấy nói nó trang bị bộ phận tầm nhiệt và có thể bắn lên cao cả ba cây số. Rất nhiều phi cơ đã bị Sam hạ. Chiếc hỏa tiễn Sam dài lòng thòng được tháo làm hai đoạn đang chờ vượt sông và biết đâu nó sẽ được bắn lên đâu đó ở tận đồng bằng sông Cửu Long. Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình quên đi cả cái lạnh của núi rừng.
    Quãng xế trưa xe dừng lại. Họ lùa tù binh vào một bãi cỏ khá rộng. Trời trong xanh không vẩn mây và nắng chói chang. Lũ chúng tôi vẫn còn ngây ngất ngầy ngật vì bị nhồi xóc suốt đêm. Khi đang còn lao xao thì có lệnh tập hợp “hàng ngũ chỉnh tề” để nghe nội qui đường đi. Một cán bộ đứng trên một khúc gỗ cao lớn tiếng:
    - Kể từ giờ phút này, các anh sẽ được hân hạnh đặt chân trên con đường nổi danh mang tên Bác. Đây là lúc các anh phải dấn thân. Các anh phải đi trong hàng ngũ, anh nào toan rẽ ngang rẽ dọc sẽ bị trừng phạt, sẽ bị xử tử. Tôi nói rõ không có khoan nhượng. Mọi sai lệch, toan tính, bất tuân kỷ luật đều không được tha thứ…
    Ông ta nói rất dài nhưng đối với chúng tôi thì cái tin chúng tôi được “dấn thân trên con đường mang tên Bác” chỉ có nghĩa là chúng tôi sắp đi ngược đường mòn Hồ Chí Minh để ra Bắc. Thoáng từ đâu tôi nghe tiếng nói nho nhỏ trong đám tù – Xương Trắng Trường Sơn và Đường Đi Không Đến. Ông Xuân Vũ đi từ Bắc vào để viết hai cuốn ký sự vượt Trường Sơn nổi tiếng này.
    Tôi và gần hai trăm anh em khác nay ngược Bắc, chỉ khác nhà văn là chúng tôi là tù và bị xích chùm ba. Liệu đường đi có đến chăng?

  5. #11
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Đổ Lệnh Dũng - Lê Thiệp - Chương 9 & 10

    Việt Nam Hậu 75


    Lịch sử Việt Nam từng ghi lại những cuộc trả thù của kẻ thắng. Nguyễn Phúc Ánh khi lên ngôi đã đào mả Nguyễn Huệ, lấy xương sọ kẻ thù làm bô đi tiểu. Trước đó, Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý theo chính sách nhổ cỏ nhổ cả rễ. Đó là đòn thù giữa một cá nhân với một cá nhân hoặc dòng họ này với dòng họ kia. Cuộc trả thù của người Cộng Sản đối với miền Nam tinh vi hơn, lâu dài hơn, thâm độc hơn, rộng lớn hơn và hậu quả có lẽ kéo dài nhiều thế hệ.

    Người dân miền Nam đã thở phào vì “hòa bình lập lại” và dẫu sao thì “tắm máu” không hề xảy ra như một số đông vẫn lo sợ. Nhưng tuần trăng mật giữa chế độ mới và người dân của phía bại trận không kéo dài.
    Người Cộng Sản đã có nhiều kinh nghiệm từ cuộc tiếp thu miền Bắc sau năm 1954 và kinh nghiệm của Trung Cộng, Nga Xô để đối phó với dân miền Nam.
    Khởi đầu là đánh tư sản mại bản. Sau khi gom hết tài sản của người dân, biện pháp đổi tiền liên tiếp được tung ra để chắc chắn không còn ai giấu giếm gì được nữa. Quốc sách Kinh Tế Mới không có mục tiêu kinh tế mà chỉ đơn thuần là biện pháp hành chánh buộc người dân miền Nam, nhất là thị dân, phải bỏ nhà, bỏ cửa dấn thân vào vùng đất hoang vu, cằn cỗi.
    Những biện pháp trên mới chỉ là mào đầu cho một kế hoạch rộng lớn hơn nhằm củng cố chế độ, đề phòng mọi chống đối có thể xảy ra bất chấp hậu quả đối với đại khối dân tộc. Bằng cách lấp lửng, người Cộng Sản đã lợi dụng lòng ngây thơ của quần chúng miền Nam, êm thắm lùa cả triệu người vào tù.

    Ngày 3-5-1975, Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài Gòn ra thông cáo buộc tất cả những ai còn giữ vũ khí phải đem nộp tại trụ sở công an. Lai rai sau đó là những thông cáo đầy vẻ khoan hồng.

    Ngày 10-6-1975, Chính Phủ Lâm Thời thông cáo lệnh tất cả quân cán chính miền Nam ở những cấp bậc thấp – về phía quân đội là binh sĩ và hạ sĩ quan, phía chính quyền là những nhân viên thường dưới ngạch chủ sự, đốc sự phải đi hoc tập ba ngày.
    Tuy hoang mang trước chế độ mới, tuy điêu đứng vì chính sách đánh tư sản, thúc đẩy đi kinh tế mới, hoặc đi nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong đối với những người trẻ tuổi, người dân miền Nam vẫn chưa được nghe đến danh từ cải tạo.

    Ngày 20-6-1975, chính Tướng Trần Văn Trà ký một thông cáo yêu cầu tất cả sĩ quan quân đội miền Nam, tất cả đảng viên các đảng phái chính trị, tất cả các công chức cao cấp chủ sự trở lên của chính quyền miền Nam phải trình diện để đi học tập. Họ được yêu cầu mang theo giấy bút, mùng mền, thực phẩm, quần áo và tiền bạc đủ dùng trong mười ngày. Mọi người đều hiểu các thành phần trên sẽ phải học đường lối chính sách của chế độ mới trong mười ngày giống như những binh sĩ đã học tập ba ngày rồi được trở về lo cuộc sống mới trong một nước Việt Nam Thống Nhất.

    Toàn bộ dân chúng miền Nam đã hiểu lầm và mười ngày đã kéo dài có khi hơn mười năm.
    Đã có biết bao nhiêu người tự mình ôm chăn chiếu, mùng mền dấn thân vào tù?

    Theo con số chính thức của chế độ cầm quyền được công bố trên tờ Sài Gòn Giải Phóng, riêng tại Sài Gòn là 167,000 bao gồm sĩ quan các cấp, cảnh sát, chiêu hồi, viên chức chính phủ, đảng viên đảng phái chính trị. Các tổ chức như Ân Xá Quốc tế và Aurora Foundation chỉ dựa vào những còn số chính thức do chế độ công bố, ước tính tổng cộng hơn 300,000 người đã bị giam cầm trên toàn thể lãnh thổ miền Nam. Nhưng theo những ước tính khách quan khác, con số lớn hơn nhiều – khoảng trên 1,000,000 người.

    Tỉnh Phú khánh chỉ có 300,000 dân cư, nhưng có đến 12 trại tù giam giữ trên 50,000 người. Ngay sát Sài Gòn, tỉnh Đồng Nai có 12 trại gồm Trảng Táo, Xuyên Mộc, Xuân Lộc, Trảng Bom, Suối Máu, Phước Lễ, Long Thành, Long Giao, Hố Nai, Gia Ray, Biên Hòa, Bà Rịa chỉ riêng trại Suối Máu có trên 6000 tù nhân.

    Tù nhân được đưa vào những vùng đất hoang vu cằn cỗi, tự họ phải xây dựng lấy nhà tù trong những điều kiện khắc nghiệt nhất. Họ bị lao động khổ sai, bị đày đọa tới tận cùng về thể xác cũng như tinh thần. Chế độ mới tìm đủ cách để trấn áp, triệt tiêu mọi mầm mống chống đối có thể xảy ra. Người Cộng sản nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và đối với họ toàn bộ dân chúng miền Nam là kẻ thù, là ngụy dân, là tay sai CIA, là kẻ tiếp tay cho đế quốc Mỹ trong cuộc chiến vừa qua.

    Khác với miền Bắc, Cộng Sản dồn mọi nỗ lực vào chiến tranh, miền Nam từ sau năm 1954 đã xây dựng được một hạ tầng cơ sở tương đối vững chắc về kinh tế, giáo dục… Các chuyên viên ngành nghề đều được đào tạo nghiêm chỉnh, theo tiêu chuẩn cao. Khi lâm vào tình trạng kiệt quệ, Hà Nội đã mời Thủ Tướng Lý Quang Diệu sang để cố vấn vào năm 1979.

    Ông Lý Quang Diệu từng đưa Tân Gia Ba từ một tiểu quốc lên thành một thế lực ở Đông nam Á. Câu trả lời của ông đối với Hà Nội là cả một ngỡ ngàng – “Các ông không phải học đâu xa, học ngay miền Nam.”

    Điều mà cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu quên mất là chỉ ba năm dưới chế độ mới, miền Nam không còn là miền Nam như ông vẫn biết. Tất cả chất xám hoặc đang bị tù không có ngày ra, hoặc đã vượt biên. Hạ tầng cơ sở kinh tế bị hủy hoại toàn bộ vì chính sách đánh tư bản mại bản và kinh tế kiểu xã hội chủ nghĩa. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng không hiểu được dù cùng là người Việt, người Cộng Sản đã nhìn người dân miền Nam như kẻ thù và không bao giờ lại có thể tin dùng kẻ thù. Từ Bắc chí Nam, trại tù mọc lên như nấm, nhìn vào bản đồ lấm chấm như da beo khiến danh từ Bamboo Gulag đã được dùng để so sánh với quần đảo ngục tù ở Nga dưới thời Stalin.

    Khi cả triệu quân cán chính miền Nam bị tù, gia đình họ bị đọa đầy, bị ruồng rẫy, bị đẩy ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội. Người vợ nay phải đảm đương trách vụ chủ gia đình, nhưng lại không dễ kiếm được việc để sinh sống, con cái vì lý lịch hoặc phải đi nghĩa vụ, đi thanh niên xung phong, hoặc dật dờ ngoài đường phố vì chế độ không cho những đứa trẻ này cơ hội học hành nữa. Dù học giỏi đến đâu, nhưng với lý lịch xấu, con em ngụy quân, ngụy quyền không bao giờ lọt vào đại học.

    Cuộc chiến đã khiến dân tộc Việt Nam chịu mọi tang thương và sau cuộc chiến tang thương vẫn tiếp diễn ở mức độ kinh hoàng hơn. Chính sách của Cộng Sản khiến hàng triệu người bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người chết vì hải tặc, vì giông bão giữa biển khơi. Hơn nữa, chính sách trả thù đã xé dân tộc thành hai- một là người Cộng Sản hai là người dân, một là Bắc hai là Nam, một là đảng viên cán bộ nhà nước, hai là người dân thường; một là quan chức tham nhũng từ thượng tầng cơ sở trở xuống, giàu sụ và phía kia người dân đói rách.
    Người Cộng Sản đã thắng trong ý đồ xâm chiếm miền Nam, đã tự hào là mũi xung kích của xã hội chủ nghĩa, đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế. Người Cộng Sản đã hãnh diện đánh lại ba thế lực ghê gớm nhất: phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một thành tích quên không nói đến là Cộng Sản đã thành công trong nỗ lực phá hủy văn hóa, chia rẽ dân tộc, biến Việt Nam thành quốc gia tụt hậu chậm tiến nhất thế giới, và chỉ một thời gian ngắn, đưa cả miền Nam vào các trại tù dựng lên khắp nước. Trong số tù nhân có trung úy Đỗ Lệnh Dũng, trưởng ban 3 chi khu Đôn Luân, kẻ đã lênh đênh khắp các trại tù từ Bắc chí Nam suốt gần mười năm trời.


    **************

    CHƯƠNG 9


    Đã có bao nhiêu người bỏ mạng trên con đường mang tên ông Hồ Chí Minh? Câu hỏi này không có câu trả lời giống như câu hỏi đã có bao nhiêu người chết trong chiến tranh do ông Hồ khởi xướng. Hà Nội chỉ nói đến vinh quang, đến thành tích và giấu biệt những thống kê không cần thiết. Tiêu chuẩn “đi ba đến một” đôi khi không đạt đến vì bom đạn, vì bệnh tật. Những thanh thiếu niên miền Bắc không bao giờ được biết những gì chờ đợi họ trên đường đi Nam ngoài những hình ảnh hào hùng thần thánh. Khi đi từ đèo Mụ Già ở đầu cực Bắc bắt đầu cuộc trường chinh mỗi người được phát một ký đường Cuba, một lọ kí ninh, một ít lương khô và được hứa hẹn đi đến trạm là có đủ mọi thứ cần dùng. Họ không bao giờ hình dung nổi cái hung hiểm của núi rừng, của muỗi, của sốt rét, của đói khát. Đấy là chuyện của phía bên kia. Phía bên này, hai trăm con người bị xích từng chùm ba một, cũng không bao giờ tưởng tượng được những gì đang chờ đợi họ trong những ngày tháng tới.




    Gọi đó là Đường Mòn Hồ Chí Minh, gọi là đường Dây Ông Cụ, gọi là Đường Trường Sơn nhưng sự thực đây là một hệ thống giao thông chằng chịt như mắt lưới bắt đầu từ Đèo Mụ Già Thanh Hóa ăn dọc theo rặng Trường Sơn, lúc thì băng sông, băng rừng già qua đất Lào, đất Miên, lúc phải lội núi ngút ngàn. Theo ước tính tổng cộng hệ thống giao thông này kể cả các nhánh và phụ lưu dài trên 5000 cây số. Có đoạn đường rộng như quốc lộ xe có thể tránh nhau, có đoạn hiểm hóc chỉ một người men theo được, một bên là vách núi dựng đứng một bên là vực sâu ngút ngàn.

    Thiếu Úy Nguyễn Bá Quyền xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt được đào luyện chu đáo hơn cái thứ lính bị động viên, thứ lính trừ bị như tôi nên có một kiến thức rộng và vững chắc về cuộc chiến. trong khi chờ ở khu rừng thưa để sửa soạn lên đường ông đã tỉ tê kể về con đường sắp tới cho tụi tôi nghe. Nó hiện hữu từ cuộc chiến tranh Việt Pháp. Ông Quyền hỏi tôi có biết bài thơ Tây Tiến không? Tất nhiên là không. Ông lẩm nhẩm đọc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống…” Đọc xong ông bảo tiểu đoàn Tây Tiến sở dĩ cạo trọc đầu không phải là để “nêu quyết tâm” mà chẳng qua đa số bị sốt rét rụng hết tóc nên ông Quang Dũng mới viết “Tây tiến đoàn quân không mọc tóc “. Đến đây thì tôi biết biết một chút vì có nghe bài Đôi Mắt Người Sơn Tây và lần nào nghe Thái Thanh hát bài này tôi cũng có cái cảm giác tê tê lạnh lạnh. Ông Thiếu Úy Quyền cười cười bảo “Khi ông Quang Dũng viết: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy. Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Chẳng qua là để mô tả bộ đội anh hùng vượt Trường Sơn sang Lào chết như sung rụng.”

    Tôi nói:
    - Thơ ông Quang Dũng hay thật. Thế sau này có bài thơ nào về đường mòn nữa không?
    - Theo chỗ tôi biết thì không. Bài Tây Tiến được sáng tác từ đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp, lúc đó tinh thần kháng chiến hừng hực và Cộng Sản chưa lộ diện một trăm phần trăm. Nghe nói sau này ông Quang Dũng bị phê là tiểu tư sản, là ủy mị và đội lên đầu cả chục thứ tội khác vì bài thơ Tây Tiến. Bây giờ là khẩu hiệu, là vè làm gì có thơ. Thơ muốn hay phải có tự do ông ơi.

    Đó là bài học vỡ lòng của tôi về con đường mòn nổi tiếng này. Ông Quyền bảo khi quyết định mở cuộc xâm lăng Miền Nam, Hà Nội có hai việc phải làm cho bằng được. Một là lập ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, hai là mở lại đường xâm nhập. Vào tháng 5 năm 1959. Hà Nội tung toán tiền thám đầu tiên lần mò tìm cách nối lại con đường mòn đã hiện hữu từ cuộc chiến tranh Việt Pháp. Chính vì vậy nó còn có tên con Đường 559. Mặt Trận Giải Phóng ra đời vào khoảng hơn một năm sau đó. Đại Úy Bình vốn ít nói đã hỏi câu hỏi mà hai đứa tôi chẳng biết phải trả lời thế nào:

    - Đi bộ đường rừng đường núi từ đây ra Bắc mà xích thế này thì làm sao đi và bao giời mới tới?

    Tôi nhớ rất rõ sáng hôm đó chúng tôi bị khua dậy khi trời còn tối, chưa nhìn rõ mặt nhau. Cái lạnh ảm đạm của rừng vẫn trĩu nặng như lôi tôi xuống, như muốn xúi tôi nằm lì ra đó. Nhưng lính và cán bộ Bắc Việt vừa hối thúc vừa luôn mồm nói: “Nhanh lên không có không kịp”. Đây là câu nói chúng tôi sẽ nghe dài dài trên lộ trình đằng đẵng.

    Sợi dây xích khóa chúng tôi lại thành từng chùm ba khiến mọi di động trở thành khó khăn. Từng người một, chúng tôi chia nhau ra ôm chỗ cái khóa ở giữa để nâng ba sợi xích lên mới có thể nhích lên được. Nói thì giản dị như vậy nhưng thực tế cho thấy không dễ dàng. Tôi xung phong đầu tiên nhưng chỉ độ nửa tiếng sau là cánh tay như muốn rụng xuống. Rồi đến ông Quyền, ông Bình nhưng cũng không hơn gì tôi.

    Nhiều giải pháp đã được áp dụng trong đó hữu hiệu nhất là tìm cách đeo cái khóa lên bằng một sợi dây choàng qua vai. Nhưng giây ở đâu ra bây giờ? Ông Quyền xoắn cái tấm ni lông lại luồn xuống phía dưới chỗ khóa, sau đó buộc vòng qua cổ. Cái xích sắt thòng lọng buộc cuộc đời chúng tôi lại một cách rất hiện thực. Ba đứa tôi không rời nhau quá ba thước. Khi ăn, khi ngủ, khi đi, khi đứng. Lúc ốm lúc đau và cả lúc đi cầu ! Đừng nghĩ đến lì mặc cho sợi xích kéo lê trên mặt đất. Thứ nhất là đi rất khó khăn. thứ nhì là nếu sợi xích vướng vào đá, vướng vào gốc cây thì có khi cả ba người ngã chỏng gọng. Đấy là trong thời tiết lý tưởng, khô ráo. Nếu lại bị mưa dầm, lỡ bước vào quãng bùn lầy thì chỉ có nước khóc. Tóm lại cái óc sáng tạo của người Cộng Sản quả đã đạt tới mức tận cùng. với cảnh xích chùm ba, lũ tù chúng tôi không một ai nghĩ tới chuyện trốn.

    Vì bị xích chùm như nô lệ thời trung cổ, chúng tôi không thể đi nhanh được. Hệ thống “xa lộ” chằng chịt này đã được bố trí rất hợp lý. Chúng tôi nghiệm ra rằng cứ đi đúng một ngày đường là thế nào cũng đến trạm hoặc một nơi có thể nghỉ ngơi, có nguồn nước để nấu nướng. Mãi đến khi vượt hết đường mòn tôi mới rõ là trên con đường có cả một đội ngũ giao liên phục vụ và nói theo ngôn ngữ văn minh mà chúng tôi đang làm quen, họ là “chuyên ngành”. Mỗi người giao liên chỉ biết rõ khúc đường mình phụ trách từ trạm này đến trạm khác, biết rõ từ gốc cây đến hòn đá, biết rõ là nếu trời mưa thì nên đi kiểu nào, trời nắng ráo thì đi kiểu nào. Tôi đã có lần nói chuyện với một người giao liên trong dịp khi khuân gạo ở hầm. Điều anh ta thuật lại làm tôi rùng mình. Trông không thể đoán tuổi nhưng sau một lúc anh ta xưng “em” thì tôi biết anh ta còn trẻ lắm – mới có hai mươi bốn. Bằng xung phong vào bộ đội giải phóng lúc mười tám tuổi nhưng trên con đường sinh Bắc tử Nam. Bằng không chết mà chỉ bị ốm, bị sốt rét, kiết lỵ và có thể cả chục thứ bệnh khác. Không hiểu sao và nhờ đâu, Bằng vẫn sống và khoẻ trở lại nhưng đã lậm quá sâu trên đường dây không thể trở về Bắc được. Khi nằm dưỡng bệnh ở trạm, Bằng đã trở thành giao liên và ở lì đó suốt sáu năm, ngày ngày lo dẫn đường từ trạm này chuyển sang trạm kế, đi đi về về suốt từ lúc khỏi bệnh tới giờ này. Ngồi bên bờ suối, Bằng bảo:

    - Các anh là đoàn tù lớn nhất từ trước tới nay qua trạm này. Trước cũng có nhưng chỉ độ ba bốn anh. Tương đối chừng hơn một năm an ninh nhiều hơn chứ trước đây…

    Bằng ngồi trên tảng đá thõng chân xuống dòng suối nhìn tụi tôi tồng ngồng tắm rửa. Được tháo xích để đi khuân vác và sau đó được tắm rửa là một hạnh phúc vô bờ. Nhưng khi nhìn Bằng tôi thấy một nỗi buồn vô cớ tràn đầy. Người thanh niên Hà Nội hai mươi bốn tuổi đó tóc trắng như bông, khuôn mặt gầy guộc đã dấn thân vì những lý tưởng được tô vẽ hào nhoáng để rồi trở thành giao liên, suốt sáu năm trường chỉ biết có mỗi khúc đường rừng heo hút giữa Trường Sơn. Bằng đăm chiêu nhìn mấy đứa tôi bỗng thở dài:

    - Thà như các anh, đời cũng còn có lúc được sung sướng, ăn ngon mặc đẹp, gần bố mẹ anh em…

    Tôi hỏi:
    - Anh nói bây giờ an ninh?
    - Chứ gì nữa. Mấy năm trước căng lắm. Bom Mỹ thả bom ngày đêm, lại còn pháo từ Đệ Thất Hạm Đội. Nhiều lúc đang đi thì nổ sập trời, chết như rạ. B52 bay cao tít mù tất có nghe có thấy gì đâu mà lo nấp lo trốn. Các anh có biết bom tinh khôn không?

    Ông Quyền buộc miệng:
    - Hàng rào McNamara. Smart Bomb.
    - Anh nói gì?
    - Không thế bây giờ an ninh hơn nhiều?
    - Từ ngày có hiệp định Paris và tụi Mỹ lo rút chạy, không có B52, phi pháo gì nữa.

    Đây có lẽ là lần duy nhất tôi được nói chuyện cởi mở với một người đích thực của Trường Sơn, phải nói là rất cởi mở, nhất là so với ông Láng Trưởng điên khùng trước đây. Nội qui của tù binh rất nhiều điều trong đó cấm liên hệ với bộ đội. Ngược lại chắc họ cũng bị nghiêm cấm, không được “linh tinh” với chúng tôi. Tù binh đi ở giữa, chia ra độ vài chùm lại có vài bộ đội đi xen kẽ vào. Dẫn đầu phía trước có lẽ là bộ chỉ huy bộ phận áp giải, đoàn hậu phía sau là bộ phận bảo vệ. Chúng tôi không rõ quân số của hai toán này nhưng xem ra khá hùng hậu, có thể lấn quân số tù. Phía bộ chỉ huy hầu như không bao giờ tiếp xúc với tù và những người lính bảo vệ thì chỉ là kẻ bàng quang kháo nhau “đi xem tù” vào những lúc nghỉ ở trạm. Thông thường, tù được tập trung biệt lập cách chỗ đóng quân của lính Bắc Việt một quãng và lúc nào chúng tôi cũng ở những bãi trống chắc để dễ bề kiểm soát. Thỉnh thoảng vào những buổi chiều khi trời còn sáng, tù nằm ngồi la liệt trên bãi đất, bãi cỏ thì bộ đội Bắc Việt ngồi chồm hổm phía xa chung quanh chỉ trỏ. Ông Quyền bảo tôi: “Ha, tụi mình giống như khỉ trong sở thú đang làm trò cho bọn ngợm xem.” Và những lúc như vậy Quyền lại gân cổ lên hát vọng cổ: “Em hai ôi, anh có tội tình chi mà phải đọa… đày…” Không ngờ một sĩ quan trẻ tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt mà lại thuộc và hát vọng cổ hay như vậy. Những người lính ngồi chồm hổm phía ngoài đôi khi nổi hứng quăng thuốc lá cho tụi tôi và có lần một người xông xáo vào giữa đám tù vừa đi vừa chìa bao thuốc quăn queo mời. Anh ta nghênh ngang vừa đi vừa nói: “Sợ đéo gì. Kỷ luật thì kỷ luật, ông đéo sợ.” Tại sao anh ta dám đưa thuốc lá cho từng người và nghênh ngang thách đố là chuyện khó hiểu.

    Gần gụi với tù nhất là toán đi chen ở giữa. Dần dà tụi tôi hiểu đây là lính Bắc Việt được hồi hương về Bắc, có thể vì bị thương, có thể vì chiến trận lâu ngày, có thể vì có gốc lớn. Đây là thành phần tò mò nhất, luôn miệng hỏi chúng tôi về đủ thứ linh tinh. Tôi nhớ có một anh bộ đội tên Nguyễn Minh Hồ khi biết tôi sinh ở Hà Nội than thở: “Quê tôi một làng cách Hà Nội hai mươi cây số mà chưa bao giờ biết Hà Nội ra sao. Đi thẳng một lèo từ làng vào đánh ở Nam độ bẩy năm nay mới được phục viên. Bị thương bốn lần, lần nào cũng tưởng chết đến nơi kỳ này về thế nào tôi cũng lên Hà Nội chơi một lần.”

    Tôi nghiệm ra rằng chỉ những người lính Bắc trẻ tuổi mới tìm cách “gần gụi” với tù và hỏi những câu hỏi đôi khi rất ngây thơ. Một tháng Mỹ nó phát bao nhiêu lương? Nghe nói Sài Gòn toàn là đĩ điếm phải không? Lính Ngụy thích ăn gan người, hễ bắt được Việt Cộng là mổ ăn gan tươi phải không? Lính Ngụy đi hành quân toàn lùng gái để hiếp?

    Từ khi bị bắt thỉnh thoảng tôi vẫn để ý thấy có những người lính Bắc đeo tòng teng một miếng sắt mỏng ở giây lưng quần. Chỉ đến bây giờ tôi mới rõ công dụng của nó là để nhét trở lại dây cao su của đôi săng đan làm bằng lốp ô tô. Đôi săng đan có cái tên là dép râu vì những phần thừa của những sợi dây cao su khi được nhét xuyên qua phần đế lòi ra như những sợi râu. Dép râu rất khó đi, chỉ cần đạp lên một vũng lầy, nhấc lên có khi tuột phăng mất một hai sợi. Đạp phải một cục đá nhỏ, trật chân là nó cũng tuột. Anh nào vớ phải đôi dép có cái đế dày gặp nhiều rắc rối nhất vì khó nhét sợi dây trở lại. Tù binh chúng tôi vốn quen đi giầy. Khi phải đối phó với những đôi dép nổi tiếng này nên di chuyển rất chậm.

    Bây giờ đang là mùa mưa. Những cơn mưa ở Trường Sơn thật muôn hình muôn vẻ. Trời đang mưa xối xả, mưa như trút, hạt mưa rất to. Nhưng chỉ độ mươi mười lăm phút là tạnh hẳn. Đôi khi trời như một cơn bão tới tấp xối xả, kéo dài hàng giờ, khi là những cơn mưa rả rích cả ngày trời. Nhưng không có chuyện nghỉ tránh mưa, mà chúng tôi vẫn phải lầm lì bì bõm tiến tới! Lạnh, ướt, chúng tôi chỉ có một miếng ni lông để quấn vào người. Nước mưa thấm áo quần, nước từ đầu từ cổ dòng dòng xuống. Chúng tôi lạnh run lạnh cóng.

    Thiên nhiên không phân biệt đâu là tù, đâu là cán bộ. Ngụy hay bộ đội thì cũng ướt, cũng lạnh như nhau. Trên con đường thiên lý đó chúng tôi đã gặp nhiều đơn vị Cộng Sản đi ngược đường. Trông họ cũng thảm thương chẳng khác gì tù, chỉ thiếu có cái xích. Trông những toán quân Cộng Sản lũ lượt và ngang nhiên di chuyển không lén lút, không sợ sệt đó, tôi nhớ đến lời của giao liên Bằng: “Bây giờ an ninh hơn nhiều”.

    Khi người Mỹ tung quân ồ ạt vào Việt Nam, mục tiêu quân sự hàng đầu là phải tìm cách chận đứng con đường chuyển quân và tiếp liệu của Hà Nội. Toán Mầu tôi từng phục vụ và những đơn vị Biệt Kích Việt cũng như Mỹ, những toán biên phòng được trang bị hùng hậu cũng chỉ cố chận những con đường xâm nhập này. Nhưng có lẽ được cả thế giới chú ý biết đến là hàng rào điện từ McNamara. Đây là kiểu đánh của Hoa Kỳ. Họ thả xuống dọc theo con đường mòn những võ khí. khí cụ điện tử mà cứ theo báo chí tôi được đọc thì hết sức khoa học và tinh vi. Chẳng hạn phi cơ Mỹ thả xuống những trái bom, có gắn thêm những bộ phận “nghe ngóng” hoặc “tầm nhiệt”. Bom thả xuống đó nằm im phục kích. Hễ có một toán người đi gần, dụng cụ điện tử sẽ phát hiện, trái bom nổ tung. Hoặc nữa các dụng cụ điện tử này sẽ báo lên B52 đang ứng trực trên trời hay các chiến hạm đang chờ ngoài khơi. Khi đọc những bài báo trên tờ Stripes and Stars của quân đội Mỹ về những loại này tôi vẫn có cái cảm tưởng như đọc truyện khoa học giả tưởng. Tôi còn nhớ có một bài mô tả lại cảnh phi cơ Mỹ đánh cầu Hàm Rồng. Cây cầu này nằm giữa hai vách núi hẹp nên rất khó oanh tạc, chưa kể đến phòng không có lợi thế phòng thủ vì vách núi cheo leo. Sau nhiều lần Mỹ đã phải xài tới bom Tinh Khôn mới hạ được cầu Hàm Rồng.

    Lê từng bước gập ghềnh trên con đường khét tiếng này, ký ức khiến tôi càng tò mò quan sát. Ít nhất là hai lần trên đường tôi thấy rừng bị sạt, đen thui cả một khoảng lớn . Có thể vì lâu ngày nên cái cảnh cây cối ngả nghiêng không còn nữa mà chỉ còn một vạt rừng lớn đen thui. B52 trải thảm chăng? Bộ đội Bắc Việt luôn mồm cảnh cáo chúng tôi phải đi trong hàng, trên đường đã chỉ định vì loạng quạng là có thể chết vì bom mìn của đế quốc Mỹ bỏ lại.

    Một lần khác tôi thấy một chiếc võng đan bằng sợi dây dù đứt nát chỉ còn toòng teng một khúc phất phơ trước gió. Khi chú ý kỹ thì thấy có một chiếc xương đầu lâu và cái xương khác trắng hếu ở dưới đất gần đó. Tôi “báo cáo” với người áp tải thì một người bảo: “Các anh thấy chưa vì ngụy quyền Sài gòn ngoan cố, vì đế quốc Mỹ ương ngạnh biết bao nhiêu xương máu đã bị phí phạm. “Nhưng mấy hôm sau một anh lính Bắc tỉ tê cho hay chuyện bị bỏ rơi, bị lạc trên đường xâm nhập là chuyện thường. Bị bỏ rơi vì ốm, bị thương thường là chỉ có chết dập chết vùi ở giữa rừng núi. Bị lạc hoặc đôi khi mệt quá ngủ quên cũng chỉ có nước chết. Anh lính này nói cho tôi hay khi vừa đặt chân lên đường mòn, họ đã bị cảnh giác về chuyện này vì” không ai có thể lo cho ai được”. Đói rét bệnh tật, yếu đuối, lo cho mình chưa xong, còn lo cho ai?

    Khi nghe như vậy tôi và hai ông tù nhìn nhau. Chắc chắn tụi tôi không thể chết cô đơn trên đường mòn vì nay chúng tôi đang bị cột dính lại với nhau.

    Suốt cuộc hành trình ba đứa tôi có cái may là được tháo xích ra một lần. Mỗi khi dừng chân, lính canh tù lại gọi độ bốn năm nhóm ra, mở khóa cho họ để đi tạp dịch. Họ sẽ phải lo cơm nước, lo khuân vác … Tôi nói là may vì chính ra ba người khác được chỉ định nhưng người lính giữ khóa tìm mãi vẫn không thấy chìa khóa đúng để mở xích. Loay hoay một hồi không xong, anh ta cáu bèn chỉ ba đứa tụi tôi đang ngồi bên cạnh đó. Hẳn nhiên là cuộc đời tù tội của cả đám mới chỉ bắt đầu, còn mới quá, còn tươi quá. Thứ nữa chúng tôi luôn nhắc nhở nhau rằng dầu sao thì chúng tôi cũng là sĩ quan của quân đội Miền Nam. Một điểm nữa không ai nói ra nhưng nó bàng bạc trong cái nhìn, cách xử sự của lính canh và tù. Chúng tôi thấy rõ cái cách biệt giữa chúng tôi và những người lính Bắc về đủ mọi phương diện. Tuổi tác cũng có. Kiến thức cũng có. Ngồi rỉ rả, ông Quyền vẫn bực bội vì sao mình thua còn ông Bình thì lắc đầu tội nghiệp cho bộ đội, cho những người trẻ tuổi miền Bắc bị ném không thương tiếc vào cuộc chiến. Ngược lại lính Bắc Việt lúc nào cũng nhìn chúng tôi bằng cặp mắt e dè, và hễ sểnh ra là họ tìm cách thân cận với chúng tôi. Tò mò chăng? Tôi chỉ nghĩ họ cố tìm hiểu để so sánh cuộc sống hai miền Nam Bắc. Thế thôi.

    Chính vì những điểm trên, tù chúng tôi khá kỷ luật, không kèn cựa mà còn lo lắng, bảo vệ nhau. Khi ba người bạn bị xích không mở được, họ nhìn tui tôi cười: “Ê bon chen được gì nhớ chia nhe.” Ông Quyền vui tính “yên tâm ông thầy”.
    Lần đó chúng tôi nghỉ ở trạm lớn. Ba đứa tụi tôi được lệnh đi theo một người lính độ khoảng một trăm thước thì họ bịt mắt chúng tôi lại rồi mới dẫn đi tiếp. Mò mẫm leo dốc một khoảng thì chúng tôi được dắt đi xuống một cầu thang. Khi được mở khăn bịt mắt ra, tụi tôi thấy đang ở trong một căn hầm tranh tối tranh sáng tù mù. Hầm có nhiều ngách hàng ngang dãy dọc là kệ gỗ lớn chất những bao gạo. Tụi tôi hiểu ngay đây là hầm chứa lương thực nhưng không ngờ nó lại lớn đến như vậy. Cái bất ngờ nữa là thịt, thịt heo muối từng nửa con khá lớn được bọc trong một lớp vải thưa treo toòng teng cả một gian hầm lớn. Khi khiêng vác được nửa con heo ra khỏi hầm, tôi thấy một lô chữ tàu mầu phẩm xanh hẳn nhiên là thịt heo muối Trung Quốc. Chỉ đến giai đoạn này của cuộc chiến, khi mà người Mỹ đã rút hẳn chân ra và con đường mòn chuyển quân an toàn hơn, quân đội Bắc Việt mới có thể thiết lập những trạm với hầm lương thực đồ sộ cỡ này hay những nơi như thế đã có từ lâu? Tôi thì thầm với hai ông bạn tù. Đại Úy Bình bảo vẫn cứ theo kiểu xây cất thì có lẽ hầm đã được xây cất từ lâu và được tu bổ nhiều lần. Tôi nhớ là đã vất vả lắm ba đứa tôi mới khênh được bốn bao gạo và hai thớt thịt heo muối lên đến mặt đất vì hầm khá sâu. Điều tức cười là đến thì bịt mắt nhưng khi lúc lên khỏi hầm vì phải khuân vác nên họ đành để chúng tôi thành “người trần mắt thịt“. Tôi nhìn thấy phía trước có mấy căn nhà thì hiểu bộ phận áp giải tù binh sinh hoạt ở đó. Mãi cho đến về sau khi đã trải mùi tù tôi mới thấm hai chữ sinh hoạt nhưng lúc đó ngay giữa Trường Sơn ngút ngàn, mỗi khi dừng lại, bộ đội Bắc đều phải sinh hoạt. Những lúc đó số lính canh ít hẳn và đôi khi từ chỗ ngồi, chúng tôi có thể thấy lính Bắc ngồi thành từng cụm, thành từng nhóm họp hành. Ông Bình bảo tôi:

    “Tụi nó kiểm thảo rút ưu khuyết điểm liên miên, chẳng bù với quân đội mình…” Ông bỏ dở câu nói và chúng tôi hiểu rất rõ ông muốn nói gì.

    Trước đây trong quân đội VNCH, chúng tôi ít học tập nhưng nay thì chúng tôi trở thành tổ tam tam, ba người một, Chia sẻ nhau từng giờ từng phút. Chúng tôi nói với nhau trên đường đi, lúc nghỉ, lúc sáng sớm dậy, lúc đêm khuya. Ông Đại Úy Bình trông to con hẳn so với hai đứa tôi nhưng lại là người gục đầu tiên. Đâu cỡ một tuần trên con đường hung hiểm này, buổi tối sau khi ăn xong, ông Bình kêu “khó chịu quá, như muốn ói” nửa đêm ông ngồi dậy nôn thốc nôn tháo, gập người xuống ói. tôi và ông Quyền mỗi đứa một bên ôm chặt ông, cố giúp ông. Mỗi khi ông ói xong, tụi tôi hai đứa lại dìu ông lê đến một chỗ khác vì mùi ói xông lên rất khó chịu. Sau đó ông gần như ngất đi và đến tảng sáng thì ông bắt đầu bị sốt rét.

    Người ông run bần bật như lò xo. Ông co rúm lại thở không ra. Tôi và ông Quyền lấy hai tấm ni lông của mình quấn thêm vào nhưng ông vẫn run, co rúm. Ông Quyền bảo tôi:”Tôi và ông thay phiên nhau ôm ông ấy.” Tôi chưa biết đến sốt rét nên rất ngạc nhiên khi thấy cơ thể ông Bình nóng ran trong khi ông vẫn run như cầy sấy. Người ông vã mồ hôi như tắm. Ông Quyền hô hoán và một người lính Bắc Việt cầm đèn pin rọi xuống. Anh ta nhìn chưa đầy một phút đã kết luận: “Ối có gì đâu. Sốt rét í mà “. Anh ta quày quả bỏ đi và một hồi quay lại đưa cho tụi tôi một gói:

    - Ký ninh đấy. Ai mà chả bị sốt rét, bị ngã nước. thường thôi, vài hôm là khỏi ngay ấy mà.

    Đối với lính Bắc thì thường thôi nhưng đối với lính Ngụy thì không có gì là bình thường cả, nhất là chân lại bị xích. Buổi sáng, tôi cố ép ông Bình ăn hết bát cơm. Ông rũ ra như tàu lá ướt, đứng lên là lảo đảo. Nhưng chúng tôi vẫn phải lên đường để vượt một đoạn đường tôi nhớ đời vì trước khi khởi hành tù được tập họp lại để nghe huấn thị.

    - Từ đây đến trạm kế, đường dốc hơi nhiều. lệnh trên rất rõ ràng. Các anh phải tuyệt đối kỷ luật, phải rất cẩn thận đừng để ngã, không ai cứu được đâu…

    Để tăng thêm sự chú ý của tù, lính Bắc Việt chặt chúng tôi thành từng toán nhỏ cỡ độ mười mười lăm người một, mỗi toán đều có “bảo vệ” đi kèm. Chỉ đâu đó vào quãng gần trưa, chúng tôi bắt đầu tiến vào một vùng thưa cây, và cây không cao vì địa thế toàn đá. Chúng tôi bất đầu leo dốc, mới đầu là những dốc xoai xoải nhưng đã rất khó đi vì đá răm lởm chởm, hễ trật chân là có thể bị xước, bị cắt chảy máu. Càng lúc càng lên cao tới một đoạn chúng tôi bắt đầu đi men theo sườn núi. Lối đi có quãng rất hẹp, gần như chỉ có thể đi men, vừa đi vừa bám vào vách núi đá. Tôi thấy rõ những vết đục lam nham ăn sâu vào sườn núi, có lẽ đã được phá bằng xà beng. Những thanh thiếu niên miền Bắc khi tới đoạn này, chắc đã phải vừa đi vừa phá núi bằng xà beng. Hình ảnh của họ thoáng trong trí tưởng tượng làm tôi rùng mình. Một bên núi dựng ngược, một bên là vực thẳm, nhìn xuống chỉ thấy ngút ngàn phía dưới sương mù lẩn khuất nơi đọt cây. May mà trời khô ráo, nếu tới khúc này mà đổ mưa thì hẳn có người chết. Chúng tôi có lúc gần như bò vì dốc ngược quá, chân lại bị xích. Mặt mũi ai cũng phờ ra, ông Bình thì thở phì phò, mặt đỏ gay. Vừa dìu nhau, ông Quyền vừa luôn mồm đùa cợt. Hai đứa tôi đều hiểu chỉ cần một chút lơ là, yếu đuối là chúng tôi có thể chết, và chết chùm. Giữa lúc đang cố leo bỗng ông Quyền hỏi:

    - Ông thày có đọc Hán Sở Tranh Hùng không?

    Đại Úy Bình nhăn nhó
    - Lại giở tích Tàu ra nữa.
    - Ấy, có ông Lý Bạch làm bài Thục Đạo Nam để tôi đọc cho hai ông nghe.

    Và ông đọc thật. Tôi không rõ tích Lưu Bang, Hạng Võ cũng không thuộc lấy một câu thơ Đường nhưng nghe ông Quyền đọc thơ trong cảnh này bỗng thấy thấm vô cùng. Lời thơ trúc trắc trúc trặc nghe như vừa đi vừa vấp, vừa trèo vừa thở, câu thì ngắn câu thì dài. Về sau này tôi bắt ông Quyền chép và giảng bài Thục Đạo Nam và tôi đã cố học mãi mà vẫn không sao thuộc hết, cứ thuộc rồi lại quên. Nhưng lúc đó cái giọng đọc của ông và bài thơ khúc khuỷu đó đã giúp ba đứa tôi rất nhiều.

    Y! Hu! Hi! Nguy hồ cao tai!
    Thục địa chí nan, nan ư, hướng thanh thiên
    Tam tùng cập Ngư Phù
    Khai quốc mang nhiên!

    Thượng, hữu lục long, hồi nhật chi cao tiêu
    Hạ, hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
    Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
    Viên nhiếu dục độ sầu phan viên

    Kỳ hiểm dã nhạc thử
    Ta nghĩ viễn đạo chi nhân
    Hồ vi hồ lai tai

    Đường hiểm trở là như thế, thương thay những kẻ đi đường xa, sao lại léo hánh đến nơi đây.

    Con đường đất Thục có thật ghê gớm hơn cảnh chúng tôi đang trải qua chăng? kẻ đi đường xa của ông Lý Bạch chắc cô đơn lữ thứ, không hề bị xích bằng lòi tói sắt như tụi tôi. Liệu sau cuộc chiến có ông thi sĩ nào nhỏ nước mắt cho những kẻ lao đao trên đường Trường Sơn chăng? Đúng là suy nghĩ dấm dớ như kiểu suy nghĩ này vẫn hay loé trong đầu tôi vào những lúc cùng túng nhất. Nghĩ lại cũng buồn cười.

    Lên đã vậy, đến lúc xuống còn gay go hơn nhiều. Một cụm tù đã té, ba người ôm chùm nhau lăn lông lốc xuống dốc đá. Hai người tù bị sây xát khắp người . Người thứ ba bị gãy một chân. Họ vẫn không được mở khóa tháo xích. Tôi đã rơm rớm nước mắt nhìn cái cảnh hai người đồng đội dìu người bị què lê từng bước chậm trên con đường sỏi đá, những sợi xích quấn vào nhau nghe leng keng theo từng bước đi chập choạng.

    Giữa lúc đó Đại Úy Bình lên cơn sốt rét. Người ông nóng bừng nhưng ông vẫn run như cầy sấy, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Sợ ông cắn vào lưỡi, tôi xé một miếng vải cuộn lại bắt ông ngậm chặt giữa hai hàm. Mặt ông đỏ gay, mồ hôi tươm ra, cả người nhũn xuống mềm oặt.

    Tôi một bên, ông Quyền một bên, hai đứa vừa khiêng vừa dìu ông đi. Ông Quyền đã lớn tiếng báo cáo nhưng tới lui một hồi, một người có lẽ là cán bộ đến nhìn chúng tôi rồi nói với giọng rất nghiêm trang:

    - Các anh phải phấn đấu, không có chuyện cả đoàn phải ngừng lại vì một anh bị sốt. Nếu các anh không quyết tâm, tôi để ba anh ở lại đi sau.

    Đây không phải là lời hăm dọa suông. Chúng tôi đã nghe chính những người lính Bắc còn bị bỏ rơi huống hồ tù Ngụy. Ông Quyền lâu lâu lại pha trò, lâu lâu lại vỗ vỗ vào vai người huynh trưởng thiết giáp như muốn tăng thêm sức cho người ốm. Mỗi lần như vậy, Đại úy Bình lại gật gật cái đầu. cuối cùng cơn sốt rét dịu dần, nhưng ông Bình thì lả đi. Sức khoẻ của tôi – và nhất là ông Quyền – không hiểu từ đâu ra nhưng rốt cuộc chúng tôi cùng lôi được ông Bình đến trạm nghỉ.

    Buổi tối đó tù xôn xao bàn tán. Không phải chỉ có mình ông Bình mà có thêm hai người khác cũng sốt rét, vài người khác bị kiết lỵ và người tù què nữa. Khi cơm nước xong, chúng tôi lại được nghe những lời huấn thị rất rõ ràng của một viên cán bộ

    - Đói ăn rau, đau khắc phục. Các anh phải phấn đấu để cùng đi đến nơi an toàn. Các anh phải tự lo cho nhau.

    Viên cán bộ nói dài, nói dai và dùng rất nhiều từ đao to búa lớn, chữ Hán Việt nhưng rốt cuộc cái thông điệp rất rõ ràng. Hễ không đi thì bị bỏ lại giữa rừng. Không đi thì chỉ có chết. Tuy nhiên có hai trường hợp được giải quyết. Họ đồng ý tháo xích cho người bị què để người tù này có thể chống gậy đi một mình. Họ đồng ý để chúng tôi làm cáng khiêng một người bị kiết lỵ vì sức đã quá kiệt. Anh em mượn một cái dao đẽo gọt làm được một cây nạng cho anh bạn bị què và cái cáng để khiêng anh bạn bị kiết lỵ. Trông anh như một que củi, chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hoắm trên gương mặt gầy guộc. Tóc anh – như đa số tù – dài phủ gáy, râu ria lởm chởm. Anh đi đứng không vững, hễ đứng lên là lảo đảo chắc vì trong người đã hết nước. Người anh xông lên mùi xú uế, quần áo thì bê bết khô cứng. bạn tù đã lấy nhiều tấm ni lông cột chằng cột đụp cuối cùng cũng có được chiếc cáng. Vì tù bị xích chùm nên khi khiêng anh có đến mười hai người, ba người một đầu cáng. Một đám người quần áo tả tơi, đầu tóc rũ rượi bù xù xúm lại khênh một người bệnh làm một hình ảnh khó xóa nhòa trong trí nhớ. Hai hôm sau thì anh kiệt hẳn, đứt hơi vào quãng giữa trưa. Đoàn tù xôn xao khựng lại nhưng chỉ lát sau là có lệnh đi tiếp, đến trạm mới được “giải quyết”. Khi đến chỗ nghỉ, chúng tôi xin mượn xẻng để đào thì bị từ chối và được nói rằng chính họ sẽ giải quyết. Hai người lính Bắc Việt đã khênh xác anh đi để chôn với lời giải thích: “Chúng tôi sẽ chôn và đánh dấu ngôi mộ để sau này khi hòa bình lập lại cách mạng sẽ thông báo cho gia đình người chết.” Anh em ngơ ngác nhìn nhau đầy nghi ngờ nhưng nói năng gì bây giờ. Rất nhanh chỉ một lúc sau hai người lính Bắc đã đem trả mấy miếng ni lông làm cáng khiến ông Quyền thì thầm:”Tụi nó quăng xác vào rừng cho diều tha quạ mổ rồi, hơi đâu mà đào hố cho mệt xác.” Sau biến cố đó mọi người ít nói hẳn đi. Vào buổi tối Đại Úy Bình sau cơn sốt quặn người đã nói với tụi tôi bằng một giọng rất bình tĩnh:

    - Tôi chắc không sống sót được để đi đến đất Bắc. Tôi biết tôi không chịu đựng được lâu nữa. Nếu tôi có mệnh hệ nào, và nếu các ông còn sống trở về, nhớ nhắn với vợ con tôi là tôi không hối hận gì, không xấu hổ gì vì đã cầm súng chiến đấu.

    Thiếu úy Quyền nghe lời trối trăn trở nên nghiêm trang hơn:

    - Tôi và Trung Úy Dũng sẽ không bao giờ bỏ rơi Đại Úy. Nếu phải một mình cõng hai ông đi Bắc tôi cũng cõng. Nếu cần thì ba đứa chôn chung một hố.

    Không ai nói gì thêm. Có nói cũng bằng thừa. Trời cuối năm đen thẫm. Ba đứa nằm ngửa nhìn bầu trời thăm thẳm không một vì sao, nghĩ đến cái hố vùi nông ở đâu đó giữa Trường Sơn với giải xích vẫn còn lòi trên ngôi mộ tập thể.
    Chúng tôi không hề thiếu ăn. Hình như họ đã tính trước nên khi nào không có trạm nghỉ có gạo có cơm thì sáng hôm sau khởi hành chúng tôi được phát lương khô. So với Ration C Mỹ hoặc gạo sấy của VNCH, Lương khô của Trung Quốc gọn hơn nhiều, đáng nhớ nhất có lẽ là thịt heo chà bông và đậu xanh đóng thành bánh. Thịt chà bông – hoặc như người Bắc gọi là ruốc – của Trung Quốc ngọt lừ, đôi khi hơi ẩm và quá vụn. Bánh đậu xanh được đóng nén lại thành từng thỏi cứng có lẽ vì có trộn thêm vitamin nên mùi lạ nhưng ăn vào rồi uống nước no cả buổi. Đòi hỏi gì nữa. Thân phận tù nhưng chúng tôi vẫn được chia khẩu phần giống như bộ đội anh hùng của Xã Hội Chủ Nghĩa Miền Bắc. Chỉ đến sau này khi thực sự sống đời tù, khi đã thực sự chui vào xã hội đó, tôi mới hiểu rằng riêng về phương diện ăn uống, chúng tôi được biệt đãi trên đường Trường Sơn. Hay như Đại Úy Bình nhận xét họ phải cho tù ăn no, ăn đủ may ra mới đủ sức lê tới đích.

    Nhưng muỗi mòng và vắt thì lại là một chuyện khác. Khi thắc mắc tại sao mới đi có hơn một tuần mà đã bị sốt rét. Đại Úy Bình ngẫm nghĩ rồi thở dài:”Muỗi mòng nó đốt tôi từ hơn ba tháng chứ đâu phải mới đâu” . Muỗi Trường Sơn có con to hai chân sau rất dài. Với cái vốn vạn vật học hồi trung học, tôi biết đó là Anophene chuyên chở vi trùng sốt rét Plasmodium, nhưng con muỗi này đốt không đau như những con muỗi khác – chẳng biết tên là con gì – đốt đau hơn nhiều. Có con muỗi bé tí nhưng đốt nhói cả người và để lại nốt đỏ đôi khi to bằng hạt đậu. Có con nửa giống như con ruồi nhưng nhỏ hơn cũng đáng sợ. Rồi con vắt. Con này đen thui dài cỡ nửa cây tăm có thể búng người tung lên. Mới đầu tù còn la oai oái nhưng rồi ai nấy đều thây kệ vì không có cách gì đối phó cả. Nhìn cánh tay lúc nào cũng mẩn đỏ, tôi nhớ những lọ thuốc xoa chống muỗi của bố mẹ gởi cho. Liệu ông cụ bà cụ có biết tôi đang lê cùm vượt núi? Dung nữa. Giờ này Dung đang làm gì? Những người thân yêu của tôi yên trí tôi đã bỏ mạng trong trận Đồng Xoài.

    Suốt dọc đường tôi không có đầu óc nào để nghĩ ngợi. Thể xác tôi rã rời. Tinh thần còn lại là để đối phó với những gì đang xảy ra. Cái sợi xích sắt oan nghiệt khiến chúng tôi không có lấy một phút riêng tư. Khi Đại Úy Bình thấy một người cùng đơn vị ở sư đoàn 5, ông muốn đến hỏi han thì cả hai đứa tôi cũng phải ôm xích đi theo và ngồi chầu rìa nghe hai ông bạn cũ hỏi thăm í ới xem ai còn ai mất. Rút kinh nghiệm, chúng tôi đồng ý là ráng cùng tiểu tiện và đại tiện một lúc và lo việc quan trọng này vào lúc trời còn sáng. Sở dĩ như vậy vì có lần nửa đêm tôi quặn bụng quá đành lôi hai ông bạn đi ra một chỗ khuất. Có lẽ vì mệt mỏi, và buồn ngủ, ba đứa tôi kéo lê sợi xích và nó vướng vào một bãi của ông bạn tù nào đó vừa phóng uế từ trước. Suốt đêm đó mùi phân xộc lên thật khó chịu.

    Sốt rét chỉ lên từng cơn và thường là cách nhật. Đại Úy Bình sa sút thấy rõ, mắt vàng hẳn và hai má xọp xuống nhưng ông không hề than thở nửa lời. Chúng tôi cứ thế vừa lê vừa bước nhưng rõ ràng chúng tôi di chuyển quá chậm so với dự trù của cán bộ. Họ hối, họ thúc, họ không chửi tụi tôi. Phải chăng có một cái gì đó giữa những người lính với nhau – cho dù lính ở hai chiến tuyến đối nghịch – khiến họ còn giữ lời ăn tiếng nói với chúng tôi chăng? Cứ thế chúng tôi lê bước kéo xiềng trên đường rừng núi có lẽ cả tháng trời. Lúc đầu chúng tôi ở Miên, sau đó chúng tôi đến Lào. Ngó lên là trời, ngoảnh sang bên là rừng già, là sườn núi, chúng tôi chỉ còn biết cúi đầu đi tới. Cái đám sĩ quan này đâu còn bản đồ, còn PRC, còn địa bàn gì nữa để mà định vị, tọa độ như trước đây. Nhưng ít nhất có hai lần đoàn tù được hạ trại ở gần bản của người Lào. Một lần chúng tôi thấy bộ đội Bắc Việt hí hửng kháo với nhau rằng họ được ăn cơm nếp, khiến Đại Úy Bình chép miệng:

    - Giá mà có cơm nếp chấm muối vừng thì có khi khỏi cả sốt rét.

    Tôi nhớ một hôm đám cai tù có vẻ nhộn nhịp hẳn lên, và tù cũng lao xao vì tin sắp rời khỏi đường mòn. Quả nhiên sau một buổi sáng gần như toàn đi đường xuống dốc, quang cảnh dần dần xem ra có khác. Rừng thưa hẳn đi và không khí thoáng hơn và thơm hơn, dịu hơn. Đến quá trưa đâu đó vào quãng hai giờ, chúng tôi nhìn thấy đang ở trên quốc lộ số 1. Không nhìn thấy nhưng chúng tôi biết phía tay mặt là biển vì cạnh quốc lộ có rất nhiều rặng phi lao và đụn cát. Đại Úy Bình quay sang hỏi ông Quyền:

    - Ông binh thư làu thông có biết Dãy Phố Buồn Hiu không?

    Ông Quyền cười:
    - Ông thầy ơi, vụ đó xảy ra từ xưa rồi, chiến tranh Việt Pháp lận. Bây giờ là Đại Lộ Kinh Hoàng. Cả chục ngàn người chết trong vụ rút lui khỏi Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa, ông thày nhớ không?

    Gió từ Lào thổi xuống mang cái lạnh núi rừng đuổi theo tụi tôi. Những cây phi lao như nghiêng về phía biển rung rinh. Quốc lộ không một bóng người. Thỉnh thoảng chúng tôi còn thấy một chiếc T54 cháy rụi nằm nghiêng bên lộ… Trong cái âm vang của quá khứ còn tươi rói của cuộc chiến, vẳng đâu đây như có lời thơ của Bà Đoàn Thị Điểm: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi – Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi. Nay đang là xế chiều, mặt trời đã bị những rặng núi che khuất và những kẻ chinh phu như đám tù Ngụy chúng tôi thì đang thất thểu trên con đường nhựa lỗ chỗ bom đạn.

    Tối hôm đó chúng tôi được dồn vào một khoảng trống khá rộng dưới một quả đồi. Trời tối rất mau và không trăng nhưng từ phía xa nghe như có tiếng sóng biển vọng về. Lâu lắm cho tới tối nay tôi mới ngủ một lèo mà không bật dậy nửa đêm vì muỗi mòng Trường Sơn.

    o O o

    Chúng tôi bị khua dậy đâu cỡ hai ba giờ sáng. Trời lạnh vô cùng và những cơn gió như luồn vào trong da thịt, thấu đến tận xương tủy. Trời còn tối nhưng chúng tôi vẫn phải mò mẫm để lên đường. Quốc lộ 1 vẫn còn nguyên tuy thỉnh thoảng mặt đường bị cày lên có lẽ vì xe tăng thiết giáp hoặc lõm xuống vì bom đạn. Phía bên ngoài toàn là đụn cát và phi lao nhưng phía trái bắt đầu có ruộng ngập nước. Mùa gặt hình như đã qua vì chỉ thấy những gốc rạ bị cắt còn nhô lên.
    Lầm lũi như những con ma trơi, đoàn tù di chuyển chậm chạp trên quốc lộ cho đến lúc rạng sáng hẳn, khi vài tia nắng loé lên từ phía đông thì sự sống mới xuất hiện. Tiếng động cơ quen thuộc nghe rõ dần và đó là một chiếc xe lam ba bánh. Xe đầy người, có hai người gần như đánh đu ở phía sau. Những người nông dân này đi đâu? Hẳn chỉ ít lâu trước đây họ là Ngụy dân nhưng trong cảnh tranh tối tranh sáng này, họ nhìn và nghĩ gì về những người lính chúng tôi? Ông Quyền thì thào hát nhỏ: “Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu. Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu… Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào, quỳ hôn đất thân yêu…”

    Thành phố Quảng Trị thân yêu hẳn nằm đâu đó gần đây nhưng dân thì không thấy. Họ đâu rồi? vào quãng trưa trời bắt đầu mưa nhỏ hạt, loại mưa phùn. Những hạt nước li ti như bụi đọng vào quần áo, vào râu tóc và dần dần thấm vào da vào thịt khiến ai nấy lạnh run.

    Tôi và ông Quyền lo đỡ Đại Úy Bình lẹt đẹt ở phía sau đoàn người thì nghe ở phía trước lao xao:

    - Bến Hải. Bến Hải.

    Đại Úy Bình lúc nào cũng nhỏ nhẹ, nói:

    - Vậy là mình sắp đặt chân lên đất Bắc.

    Suốt đời tôi, tôi chỉ có quanh quẩn ở Vùng 3 Chiến Thuật và nơi xa SàiGòn nhất mà tôi từng đặt chân tới là Đà Lạt và Nha Trang. Những địa danh như Đà Nẵng, Huế, nay xa hơn Tam Kỳ Quảng Trị là những ý niệm mù mờ, những hình ảnh của phim thời sự, của báo chí, của những người dân lễ mễ chạy loạn. Hiệp định Genève 1954 đã chặt Việt Nam làm hai khúc ở vĩ tuyến 17 và đẩy tôi xa Hà Nội từ tấm bé. Tôi chỉ biết Bến Hải qua một bài hát được nghe hoài hủy trên radio: “Đây Bến Hải là nơi chia cách đôi…Những ai lạc hướng mau quay về đây…”.

    Hồi mới lớn tôi nghe đã có nhiều người vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải. Nhưng không hiểu vì sao lòng tôi rộn hẳn lên, cùng với hai ông Quyền và Bình bước có vẻ nhanh hơn. Bầu trời trong cơn mưa phùn mờ mờ ảo ảo tạo một không khí như có như không, như mơ như thật. Ông Quyền reo lên:

    - Cái cột cờ kìa!

    Chúng tôi vẫn còn đang ở phía Nam của vĩ tuyến Ngày Xưa – ngày xưa của thời tổng thống Ngô Đình Diệm có một vùng được gọi là Phi Quân Sự ở ngay Vĩ tuyến 17 được ghi trong hiệp định Genève. Chúng tôi không được đánh nhau bằng súng đạn bằng xe tăng đại pháo thì chúng tôi đánh nhau bằng mồm. hai bên bờ của sông Bến Hải, mỗi bên bắt loa và thi nhau phát thanh. Mỗi bên cố dựng cột cờ cao hơn bên kia. Không rõ cái cột cờ ông Quyền chỉ trỏ có phải là cột cờ còn lại từ xửa từ xưa chăng? Bom đạn suốt bao nhiêu năm liệu có đứng vững đến giờ này chăng?

    Cột cờ khá cao và lá cờ đỏ sao vàng rủ xuống ảm đạm trong cơn mưa trông thật buồn. Khi bước chân lên chiếc cầu sắt nay đã long lở, đã được hàn gắn đôi chút bằng bằng những tấm bửng sắt có lỗ, loại thấy nhan nhản ở các phi trường quân sự lòng tôi bâng khuâng. Cái tên nghe thật hiền, nghe như muốn gợi lên lòng yêu thương đó là chứng tích của bao nhiêu đổ vỡ. Đang đi trên cầu, Đại Úy Bình nhỏ nhẹ:

    - Các ông đang đi trên lịch sử. Nhớ để mai mốt nếu còn sống về kể cho con cháu nghe.

    Chỉ có điều đáng tiếc là ông Đại Úy Thiết Giáp đã không có dịp thực hiện cái mơ ước nhỏ nhoi đó.

    Tôi đứng giữa cầu ngoảnh lại nhìn về phía Nam. Giã từ nửa mảnh giang sơn đã ấp ủ tôi, nuôi nấng tôi. Giã từ Dung bởi trong đáy lòng tôi, tôi biết kiếp này khó gặp lại nhau. Tôi thấy nước mắt mình tự nhiên trào ra và trong cái cảnh mưa phùn gió bấc này, hai người bạn có chú ý thì cũng chẳng thể thấy đâu là nước mắt, đâu là nước mưa. Hay trời cũng đang khóc cùng tôi.

    Đi qua khỏi cầu Hiền Lương, chúng tôi nhìn rõ cái cột cờ của phía Bắc. Nó cao hơn thật và lá cờ lớn hơn nhiều nhưng cũng như lá cờ phía Nam, nó đang rủ xuống thành dải trong cơn mưa phùn.

    Quang cảnh đìu hiu tê lạnh của đất Bắc khiến đoàn tù như chùng xuống. Nỗi hớn hở được đặt chân lên phần đất đã bị cắt lìa của quê hương chỉ thoáng lên trong chốc lát và sau đó là tò mò quan sát. Đường đi vốn tráng nhựa nhưng nay đã lở lói, nhiều khúc bị sạt đi, không thấy đá xanh lót và lớp nhựa đã long đi đâu mất.

    Một đoàn xe công voa nhà binh chở đầy lính đi ngược về phía Nam. Vài người bộ đội nhô ra khỏi xe. Dăm ba tiếng Ê, A vang lên cùng với vài cánh tay đưa ra vẫy vẫy. Chiến trường miền Nam đang cần thêm các tay súng. Nhưng làm tôi sững sờ nhất là hình ảnh của ba người dân Xã Hội Chủ Nghĩa Miền Bắc chúng tôi gặp lần đầu. Hai người đẩy một người kéo, họ đẩy một chiếc xe – mà sau này tôi mới biết là xe cải tiến – chất đầy những bó củi. Họ mặc áo tơi lá, nón đội sụp xuống và chân đi đất. Họ cong người trong cơn mưa đẩy chiếc xe khiến tôi như bị lôi trở về quá khứ của bao nhiêu năm về trước. Tôi nhắm mắt lại nhớ đến bố tôi ngồi với lũ con kể chuyện miền Bắc dưới thời Pháp thuộc. Tôi là đứa lớn nhất trong nhà và có loáng thoáng trong đầu những kỷ niệm của Hà Nội và cũng đã đủ lớn để hiểu bố chỉ muốn những đứa con hiểu cảnh đọa đày của người dân khi sống dưới ách đô hộ của người Pháp. Một cách gián tiếp bố tôi cố nuôi dưỡng tinh thần yêu nước trong cái đầu óc non nớt của lũ chúng tôi. Những hình ảnh của bố cố vẽ ra nay đang sờ sờ trước mắt tôi. Nó hiện thực đến quặn lòng và tôi nhớ đến chiếc xe lam ba bánh ở phía bên kia bờ Nam. Bao lâu nữa thì những người dân miền Nam sẽ biết đến xe cải tiến?

    Đêm đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi được dồn vào một căn nhà khá lớn ở ven một ngôi làng nhưng không hề thấy một người dân nào cả. Tôi nghĩ là họ cố tình không để cho dân nhìn thấy chúng tôi chăng. Một phần khác nữa trời vẫn cứ mưa rả rích không ngớt hột, lũ tù loi ngoi lóp ngóp, quần áo ướt sũng ngồi chịu trận cho đến sáng thì có xe tới. Tôi đếm tổng cộng tám nhưng chúng tôi chỉ được dành cho có ba chiếc. So với lúc đầu thì xem ra rộng rãi chán, có lẽ vì chúng tôi đã quen với xiềng xích và cũng có thể do bớt đồ đạc lỉnh kỉnh hay cũng có thể vì chúng tôi đã gầy đi chăng?

    Xe dù chạy trên quốc lộ nhưng khá chậm vì nhiều ổ gà và đôi chỗ khi gặp sông phải đi phà. Cầu đa số bị bom Mỹ đánh sập từ lâu. Suốt dọc đường chúng tôi gặp toàn xe nhà binh chở lính đi ngược chiều và không hề thấy một chiếc xe dân sự nào, kiểu xe đò của miền Nam. Lắc lư suốt cho đến gần nửa đêm đoàn xe rẽ vào thị trấn Vinh, tù được đi xe lửa. Họ tránh không để chúng tôi lên xe ngay tại ga mà lùa tù vào ba toa ở một chỗ trống khá vắng vẻ. Trong đêm, những toa xe thẫm mầu lù lù đầy đe dọa và khi đã ở trong toa mùi khai nồng nặc. Toa xe hẹp vì đường rầy vẫn là loại 80 centimètre hồi tiền chiến nhưng có ghế hẳn hoi, dù là ghế gỗ. Tù ngồi thoải mái không phải chen chúc như khi di chuyển bằng xe Molotova.

    Chạy được độ nửa tiếng thì đậu lại ở Vinh. Toa chở tù nằm ở cuối đoàn tàu như từ cửa sổ chúng tôi thấy cảnh chen lấn xô đẩy của đám đông lố nhố với quang gánh, hòm xiểng. Đa số đều đội mũ hay đội nón và tiếng gọi, tiếng chửi vang lên rõ mồn một. Đón khách ở Vinh độ hơn một giờ sau, tàu lại lăn bánh.

    Ngoài kia trời bắt đầu hửng nắng. Những tia nắng từ phía đông soi nghiêng xuyên qua cửa kính mờ đục. Tôi nhìn bạn bè tôi ủ rũ, hốc hác sau hơn hai ngày bị nhồi xóc, ai nấy bơ phờ, ngủ gà ngủ gật, chẳng còn hơi sức nào để mà quan sát đất Bắc hay bàn tán gì nữa. Xe lửa thỉnh thoảng lại hú còi và mỗi lần như vậy tôi để ý thấy xe đi qua xóm làng hay thị trấn gì đó. Nhà cửa đa số lợp tranh, lợp lá và đôi khi lợp tôn nhưng thấp lụp xụp.

    Đây là xe tốc hành vì chúng tôi chỉ thấy ngưng một lần ở Hải Phòng. Cũng như ở Vinh, bộ đội đứng chặn ở ba toa cuối không để dân chúng đến gần. Có ai trong đám dân lao xao ở ga biết ba toa cuối chở toàn lính Ngụy?
    Khi tàu sắp chuyển bánh, một viên cán bộ xuất hiện:

    - Chúng tôi đã cố tránh không để các anh lộ diện vì e ngại phản ứng của dân chúng. Các anh là những tội đồ, các anh đã phản bội tổ quốc, các anh là tay sai của đế quốc…

    Anh ta nói thao thao nhưng gọn lại nếu dân đất Xã Hội Chủ Nghĩa nhìn thấy là chúng tôi lãnh đủ. Viên cán bộ không nói trắng ra nhưng có thể dân chúng sẽ xông vào đánh đập, ném đá và có thể xé xác lính Ngụy. Lòng căm thù của quần chúng đối với lính Ngụy khiến Đảng phải tìm cách bố trí cho họ không nhìn thấy chúng tôi. Nhưng như lời viên cán bộ, chúng tôi sẽ phải chuyển xe ở Hà Nội và dân chúng Hà Nội đã biết đang tụ tập, mít tinh ở ga Hàng Cỏ chờ đợi. Tù nhìn nhau không nói năng gì, nhưng tận đáy lòng, niềm lo sợ khiến ai nấy đăm chiêu. Hình ảnh của phi công Mỹ bị trói giật cánh khuỷu, bị dẫn đi diễu giữa phố phường Hà Nội làm tôi lạnh gáy. Viên cán bộ hạ lời cuối:

    – Các anh liệu thần hồn…

    Thủa nhỏ tôi ở Hà Nội nhưng chưa bao giờ đến ga Hàng Cỏ vì bố mẹ tôi bảo chỗ đó toàn du côn du kề, toàn là thứ trèo me trèo sấu, du thủ du thực. Đám con nít tụi tôi đều xanh lè mắt khi nhắc đến du côn Hàng Cỏ. Do đó tôi không biết ga này có khác xưa không. Khi tàu đậu lại, cả một rừng người tụ tập. Rất nhiều lính áo vàng nón cối dép râu đeo AK mà mãi đến sau này tôi mới biết đó không phải là lính mà là công an. Họ đứng thành hai ba lớp chặn ngang đám đông lố nhố. Rất nhiều biểu ngữ hoan hô đả đảo và điều làm tôi ngạc nhiên là hình ông Hồ, rất nhiều, được trương lên trong đám đông. Ít nhất tôi cũng đã đủ lớn để nhìn thấy trong các cuộc biểu tình nhưng dù dưới thời Vua Bảo Đại, thời Ngô Tổng Thống và sau này các ông Thiệu – Kỳ – chưa bao giờ tôi thấy hình ảnh của họ được xuất hiện như hình ông Hồ Chí Minh. Tôi huých ông Quyền:

    - Nó bảo cuộc mít tinh tự phát, dân chúng đến tự ý “dàn chào” tụi mình…

    Ông Quyền tủm tỉm cười:
    - Ối ông ơi, nói gì kệ nó. Ông ráng lấy tay mà che đầu. Đá xanh trúng là bể gáo.

    Rồi cũng đến lúc phải đương đầu với thực trạng. Tù được dẫn xuống để đổi toa. Những tiếng hò hét được điều khiển bởi hai cái loa vang lên vang rền. Dăm ba viên đá ném về phía tụi tôi nhưng có lẽ vì xa quá nên không trúng. Tôi căng mắt nhìn người dân Hà Nội. Đa số đều mặc áo xám tro. Mấy em nhỏ co ro vì lạnh ngồi xổm ở hàng đầu chỉ trỏ cười nói. Tôi nhìn lại anh em đồng đội. Họ như người rừng, rũ rượi tả tơi xơ xác – hoặc như lời diễu cợt của ông Quyền “Trông chúng mình không giống con giáp nào”.Những người đứng phía dưới đường kia nhìn tụi tôi dám nghĩ là những đứa kỳ dị hình dị dạng này đúng là hình ảnh tiêu biểu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa – Của Ngụy quân, những tên lính chuyên moi gan người ăn sống và cắt tai Việt Cộng xâu thành chuỗi đeo ở cổ. Họ có thể nghĩ như vậy lắm chứ. Công cuộc chuyển tàu ở ga Hàng Cỏ nếu làm nhanh gọn có lẽ chỉ kéo dài độ một giờ nhưng đã được tính toán để trở thành dềnh dàng hơn, để dân Hà Nội có dịp nhìn kỹ hơn lũ Ngụy ác ôn tụi tôi. Nói gì thì nói, chúng tôi không ai bị trúng đá xanh hoặc bị con nít dùng súng cao su bắn cả. Họ chỉ trỏ cười nói nhiều hơn“lòng căm thù” như lời đe dọa của viên cán bộ không thấy lộ ra.

    Rời Hà nội, chúng tôi xuống xe lửa ở trạm cuối Việt Trì và ở đó may quá dân chúng không tự phát đi tới ga chào đón chúng tôi. Đoàn tù được đưa về một nơi tôi thấy đề biển mầu vàng chữ đỏ “Hợp tác xã Quyết Tiến 1″. Đó là một dãy nhà khá rộng, trống lỏng, chỏng chơ hai cái bàn gỗ dài và một lô ghế cũ kỹ đôi cái đã long đinh. Không có nhân viên nào của Hợp tác xã xuất hiện. Nhưng sáng hôm sau trước khi được chất lên xe để đi tiếp thì có chừng hai ba chục người đứng bên lề đường ngó, nhìn tù chỉ trỏ. Tôi nhớ mãi là khi vừa lên xa sắp sửa chạy thì có một người tất tưởi chạy tới, vừa đi vừa nói oang oang:

    - Có anh nào ở Tiểu đoàn 9 Dù không?

    Anh ta xộc xộc chạy tới bám vào xe hỏi đi hỏi lại:

    - Có anh nào ở tiểu đoàn 9 Dù không?

    Khi biết không có 9 Dù, anh ta toe toét:
    - Mấy bố khiếp lắm, đánh giỏi lắm. Hễ gặp ai ở Tiểu đoàn 9 Dù cho thằng này gửi lời hỏi thăm. Mấy bố bắn khiếp.

    Một người lính áp tải đến can thiệp thì anh ta văng tục liền:

    - Địt mẹ, làm đéo gì thế. Ông mày đi B đánh nhau với Dù thừa sống thiếu chết, chưa sợ thằng nào đâu!

    Không hiểu sao tôi vẫn nhớ người bộ đội phục viên đó và câu chuyện bao nhiêu năm trên bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời. Có thể vì cái giọng oang oang hoặc cũng có thể yếu tố bất ngờ của câu chuyện chăng?

    Ì, ạch, lúc nghiêng lúc ngả rồi chúng tôi cũng tới nơi họ muốn chúng tôi tới. Lúc đó vào quãng xế trưa nhưng cuộc đời tù tội của tôi mới chỉ ở cửa trại.

    Họ bắt đầu mở khóa tháo xiềng cho tù và công việc chính ra dễ dàng bỗng trở nên vô cùng lỉnh kỉnh. Như đã mô tả, khóa được thu mua từ nhiều nguồn khác nhau, cái lớn cái nhỏ, cái mỏng cái dày, không cái nào giống cái nào. Những cái khóa đó sau một thời gian mưa gió dãi dầu nay đã có cái gỉ sét, có cái lỗ khóa tắc tịt vì bùn đất. Ngay cả khi tìm đúng cái chìa thì mở được khóa cũng khá gay go. Đôi khi có chùm tù phải tự loay hoay để cố tìm cho đúng cái chìa định mệnh. Kết quả là có sáu chùm không mở khóa được.

    Phải đến hai ngày sau trại mới triệu được một ông thợ rèn đến chặt mấy sợi xích oan nghiệt để giải phóng cho họ.
    Tù được sắp thành hàng ngang đối diện với một dãy bàn trên đó từng chồng quần áo màu đỏ. Từng người một tiến tới và được lệnh cởi hết quần áo. Trần truồng, tồng ngồng tù trút bỏ lớp nhung y cũ kỹ sương gió của miền Nam, của núi rừng để tròng vào người bộ quần áo màu đỏ. Ông Đại Úy Thiết Giáp Bình nay không còn dây mơ rễ má gì với ông Thiếu Úy Quyền và Trung Úy Dũng nhưng vẫn đứng sát tụi tôi nhỏ nhẹ:

    - Chính ra tụi nó phải xịt DDT mới đúng sách vở.

    Chỉ có điều chúng tôi không biết là thân phận tù binh trong Đệ Nhị Thế Chiến mà chúng tôi thỉnh thoảng được thấy trên màn ảnh Ciné không thể so với tù binh dưới Xã Hội Chủ Nghĩa được. Mục tiêu lớn nhất của vụ vứt bỏ quần áo không phải là sợ sốt chấy rận, không phải vì vấn đề vệ sinh. Những cái đó ăn thua quái gì. Vấn đề chủ yếu là an ninh, là không để bất cứ tù nhân nào có dịp giấu giếm bất cứ thứ gì trước khi nhập trại. Tôi nhớ đến lượt tôi trong bộ quần áo thủa lọt lòng mẹ đưa tay ra thì có tiếng hô hai tiếng:

    - Đỗ Lệnh Dũng H6347.

    Đó là số tù của tôi. Tôi lẩm nhẩm “số bù” và ngạc nhiên với chính tôi. Hỡi ơi trong cảnh này sao tôi lại nghĩ như vậy hay linh tính cho thấy cuộc đời tù tội của tôi đã xui ngay từ ngoài cửa trại tù với con số bù 6347 và cái chữ H có thể đọc là Hốc Hác, là Hỏng, là Hết?

    Dẫu sao thì xem ra nay tôi cũng giàu có hơn khi nằm trong cái hố giữa chiến khu D vì tôi đã được hữu sản hóa với hai bộ quần áo màu đỏ có in số ở sau lưng, một manh chiếu cói và một cái chăn. Với cái gia tài đồ sộ đó tôi bước vào một cuộc đời khác.

    Thế là tôi đã đổi xác thêm một lần nữa. Lần trước tôi đã trút bỏ bộ quần áo thư sinh để tròng vào người bộ đồ trận ba lô mũ sắt, để từ anh sinh viên Luật mơ mộng thành người lính dầu sương dãi gió trong mười năm chinh chiến. Nay một lần nữa tôi lại tròng vào người bộ quần áo có chữ ở sau lưng để bước vào một quãng đời khác dài không kém. Cuộc đời tù tội.

    __________________________________________________ ____________________________


    CHƯƠNG 10


    Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu, chung quanh la liệt những nẹp nứa và ở góc phòng một lô rổ đã đan xong, nhưng chưa có cạp. Ánh nắng quái vàng lọt chiếu qua khung cửa tạo thành một vệt trên nền đất. Ông ngồi yên, ngước nhìn tôi đang ở thế chào kính, mỉm cười độ lượng.

    - Anh không cần giữ Quân phong Quân kỷ nữa. Bây giờ chúng ta cùng là tù binh cả. Nội qui trại nói rõ mọi người đều gọi nhau bằng anh, không có chuyện cấp trưởng, không có chuyện Lữ Đoàn Trưởng, Sư Đoàn Trưởng, Tá tiếc gì nữa. Anh ngồi xuống đi.

    Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là tù binh cao cấp nhất đã bị bắt khi ông bị thương ở chân và bộ chỉ huy của Lữ Đoàn bị tràn ngập ở Nam Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Tôi lúng túng không biết nói năng gì với một vị sĩ quan của binh chủng tinh nhuệ nhất miền Nam. Ông và toàn bộ chỉ huy trong đó có Trung Tá Trần Văn Bé, Trưởng Phòng Nhì Sư Đoàn Dù đã bị vây khốn vì quân số chênh lệch giữa ta và địch, vì không có đủ tiếp tế đạn dược, tải thương. Tôi đã nghe bạn bè ca ngợi ông và tuy dù chưa một lần diện kiến, tôi luôn hình dung ông đội mũ đỏ có cánh dù, quần áo mầu huyết dụ cầm cây can chỉ huy đứng trước hàng quân. Nhưng nay ông ngồi đó trong căn lều lá nền đất ngồi đan rổ. Ông đang nghĩ gì? Thấy tôi vẫn đứng đó, tay vẫn còn ở thế chào, ông lắc đầu:

    - Cám ơn anh. Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng phải không? Anh em mới tới cho biết là Đồng Xoài đã mất, Bố Đức cũng mất, e rằng Phước Long cũng nguy đến nơi. Cái vận nước nó thế, biết làm sao hơn. Anh ngồi xuống nói chuyện miền Nam cho tôi nghe đi.

    Lòng tôi nhũn xuống. Ông vừa nói vừa tiếp tục bẻ những cây nan nứa cong xuống, lồng vào nhau. Chiếc rổ ông đang đan đã hơi có dạng cong. Khuôn mặt ông bình thản một cách lạ lùng. Mọi thứ từ con người ông là một cam chịu nhưng không khuất phục. Ông nói năng từ tốn, không hề ngưng tay đan lát như thể cả cuộc đời còn lại của ông chỉ để đan kết những mảnh lạt, những nẹp nứa. Tôi ngồi xuống chiếc ghế con cạnh ông thong thả kể tất cả những gì xảy ra ở Đồng Xoài. Ông chăm chú nghe, và cuối cùng thở dài:

    - Tôi đã nhiều đêm khóc một mình. Tôi thương những người lính như người nghĩa quân cố chạy ra để rồi chết bên lá cờ ở Đồng Xoài. Nhảy dù có nhiều anh hùng lắm, nhất là những người lính bình thường, lương không đủ nuôi vợ con. Nhưng cái vận nước nó thế biết làm sao hơn.

    Tôi nói:
    - Thưa Đại Tá, cuộc hành quân 719…

    Ông ngẩng đầu nhìn tôi, đôi mày nhíu lại khiến tôi khựng, không nói năng thêm được. Nhưng ông lấy lại cái dáng yên nghỉ của một thiền sư, vững vàng ngay lập tức. Lưng ông vẫn thẳng và cái áo tù sọc đỏ như hơi chật khiến vai ông như rộng hơn ra. Cái dĩ vãng 719 Hạ Lào chỉ thoáng qua trong xúc động cùng cực nhưng rồi ông chậm rãi:

    - Trung Úy Dũng, từ nay mình gọi nhau bằng anh em, được không? Không phải vì nội qui của trại. Cũng không phải vì là tù mà phải bỏ cái cấp bậc quân đội của mình sang một bên. Không phải như vậy. Anh còn trẻ, trông anh khoẻ mạnh, người doi doi như anh chắc sẽ vượt qua mọi gian truân của tù tội. Tôi có điều này để nói với anh như một người lính nói với một người lính. Chúng ta đã không hổ thẹn với việc làm của chúng ta, dù ai nói gì thì nói.

    Lam Sơn 719 được tung ra với hai mục tiêu. Mục tiêu đầu là phá vỡ hệ thống tiếp liệu của địch mà trọng tâm là ở vùng Tchéphone, Hạ Lào, tìm cách kiểm soát con lộ số 9 để chặn đường tiếp tế của địch từ Bắc. Tất cả những anh em Dù, anh em Sư đoàn 1, anh em Thiết Giáp Pháo Binh, anh em bên Không Quân, tôi nói về tất cả những anh em mình đã tham dự 791 Hạ Lào hồi đó đều biết chắc giai đoạn đầu của cuộc hành quân đã đạt được mục tiêu của nó. Khó mà đưa ra tổn thất chính xác của địch nhưng tôi cam đoan một đổi mười là ít. Nhìn những kho xăng địch cháy, những kho lương thực bị phá hủy, và nhất là nhìn cảnh bộ đội Bắc Việt chết sắp lớp, tôi có thể xác định mục tiêu đầu của ta đã đạt.

    - Thưa Đại… – Vâng, thưa anh, nhưng…

    Ông giơ tay chận ngang, ngắt lời tôi:

    - Tôi ở trong hầm chỉ huy. Hai chiến xa địch sập hầm bít hết lối và tôi đã gọi Pháo bắn chụp lên đầu tụi tôi. Hồi đó tôi cứ thắc mắc tại sao các cấp chỉ huy địch lại phí phạm sinh mạng thuộc cấp đến như vậy. Có một hai sĩ quan khi khai thác tù binh tại mặt trận bảo họ được uống cường lực hay an thần gì đó của Trung Cộng. Tôi không tin hẳn chuyện này. Nhưng trong suốt những ngày tù đày ngồi đan rổ rá, tôi vẫn không hiểu tại sao họ phí phạm sinh mạng binh lính đến thế? Thế nào rồi anh cũng có dịp ra ngoài để thấy hậu phương miền Bắc không còn thanh niên nữa. Họ đem nướng không thương tiếc. Chỉ tội cho dân mình, Bắc cũng như Nam. Tôi hiểu các thắc mắc của anh. Tôi không trả lời được tại sao Lam Sơn 719 đã không được đẩy tới trong giai đoạn hai là chiếm giữ các cứ địa 604 và 611 trên đường xâm nhập của địch. Hồi 1970 mình đã phá tan hệ thống tiếp liệu của địch ở Miên. Nếu chúng ta tiến hành đúng, chiếm giữ 604 và 611 trong vòng ba tháng nữa mùa Khô thì địch sẽ không còn cách gì tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Tôi không trả lời anh được vì tôi bị cầm tù từ hồi đó. Anh ở miền Nam chắc anh có đọc báo hay nghe tin tức, anh có biết tại sao không?

    Tôi lắc đầu trầm ngâm. Hẳn là Đại Tá Thọ cũng không chờ một lời giải thích nơi một viên sĩ quan hạng bét như tôi. Nhưng cái thắc mắc của ông hẳn đã dày vò ông nhiều hơn là cảnh tù đày mà ông đang gánh chịu. Mong rằng sau này những nhà quân sử sẽ trả lời được cho người tù đã coi ngày bị bắt là ngày giỗ của mình.

    Ông là sĩ quan cao cấp nhất và được ở riêng một căn lều lá, không phải lao động nặng nhọc nhưng cũng phải chịu chế độ khoán. Đây là một chính sách hẳn hòi được rút tỉa kinh nghiệm của các trại tù Nga Xô, Trung Cộng. Nó đẩy người tù đến tận chân tường, không có cách gì cục cựa nổi. Tôi không rõ một ngày Đại Tá Thọ phải nộp mấy cái rổ nhưng trông đống tre, nứa chất đống ở một góc nhà, tôi biết là ông đã phải lao động cật lực để đạt chỉ tiêu. Cuối cuộc trình diện, ông trầm ngâm rồi bảo tôi:

    - Cám ơn anh vẫn còn nghĩ đến tình đồng đội để đến thăm tôi – Ông không dùng chữ trình diện – Điều duy nhất tôi mong mỏi ở tất cả các anh em là phải thương yêu đùm bọc nhau, cố giữ lấy tinh thần của một người lính quốc gia. Chỉ có thế, anh em mình mới chứng minh được mình khác họ. Và chỉ có thế mới minh giải được những điều anh em mình đeo đuổi là đúng. Anh cho tôi gửi lời thăm tất cả anh em mới tới và bảo họ không cần tới thăm tôi nữa. Anh nói dùm với anh em là tôi luôn cầu Trời Phật để mọi người mạnh khoẻ.

    Mở đầu cuộc đời tù tội của tôi không bắt đầu với Đại Tá Thọ vì đến hai ngày sau do sự dàn xếp của một anh em Dù tôi mới có dịp gặp ông. Vâng, tôi đã khởi đầu kể về đời tù với một sĩ quan huynh trưởng vì đối với tôi, trước sau ông vẫn là một vị chỉ huy trong quân đội miền Nam mà tôi hằng kính trọng.

    Cái sợi xích oan nghiệt buộc ba đứa chúng tôi nay đã được tháo ra, nhưng chân phải tôi đã thâm tím thành một vòng nơi cổ chân. Tình đồng đội thể hiện ngay khi một ông “cựu tù” đưa cho tôi một ít muối bảo:

    - Bóp cho nó tan máu bầm, coi chừng sâu quảng, có khi phải cưa chân.

    Suốt gần một tháng sau ngày nhập trại tù Yên Bái, chúng tôi được học tập liên miên. Họ chia chúng tôi ra thành từng tổ tam tam – ba người một – và độ ba bốn tổ thành một đội. Ba người sinh hoạt chung. Nghe thì chả có gì để bàn nhưng trên thực tế, họ muốn chúng tôi kiểm soát lẫn nhau, báo cáo lẫn nhau. Càng ở tù lâu tôi càng thấy kỹ thuật “cai trị” tù của Cộng Sản đã lên mức tinh vi cực độ có lẽ nhờ rút tỉa kinh nghiệm của các nước Cộng Sản đàn anh. Họ chia để trị, họ khai thác những yếu đuối thể chất cũng như tinh thần để đàn áp tù. Họ đẩy tù vào chân tường, tìm đủ mọi phương thức để bẻ gãy sức đề kháng của tù nhân, quên đi những giá trị căn bản của con người. Họ muốn tù trở thành con vật hai chân, không còn suy nghĩ và chỉ là môt công cụ lao động sản xuất.

    Mở đầu là những cuộc nhồi sọ liên tu bất tận. Họ bắt chúng tôi học lý thuyết Mác-Lê, tư tưởng Mao, chủ nghĩa Mác xít Lê Nin Nít bách chiến bách thắng. Họ nói đến ông Hồ như một ông thánh toàn diện toàn mỹ, một cứu tinh của dân tộc Việt Nam. Họ giảng cho chúng tôi nghe về lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam và những thành quả rực rỡ như đã thắng cả ba thế lực lớn nhất hoàn vũ, Thực Dân Pháp, Phát Xít Nhật và nay là Đế Quốc Mỹ.

    Đám tù vượt Trường Sơn mới đầu còn tò mò nghe và càng nghe càng thấy khó lọt lỗ tai. Nhưng càng ở tù lâu tôi càng thấy những buổi sinh hoạt học tập ở thời điểm này là thời điểm vàng son nhất vì chúng tôi chưa phải lao động, chưa phải khoán đào đất, đục đá, vác nứa, chặt tre hoặc những việc lao động cực nhọc khác.

    Chúng tôi được tập trung ở hội trường một ngày hai lần để học tập và buổi tối thì sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tổ. Trong những buổi như vậy một cán bộ nói: - nói dai nói nhiều – và chúng tôi chỉ biết nghe. Họ nói tràng giang đại hải, chữ nghĩa kêu lốp cốp nhưng toàn là những bài học thuộc lòng được lập đi lập lại đến nhàm chán và khô khốc. Những bài giảng được giảng để mà giảng, nói để mà nói, không cần người học người nghe có hiểu và có chấp nhận hay không. Do đó tên cán bộ Cộng Sản thao thao bất tuyệt về thành quả rực rỡ của Đảng và Bác Hồ thì ở dưới chúng tôi ngủ gà ngủ gật và đôi khi còn xầm xì to nhỏ.

    Đó là về tinh thần. Về thực tế đời sống, lũ tù mới bị dội ngay ngày hôm sau khi bắt đầu chế độ ăn uống của trại. Khi di chuyển từ Nam ra Bắc tù được ăn uống tuy kham khổ nhưng không đến nỗi nào, có nghĩa là chúng tôi vẫn có cơm trắng đủ no và còn thêm tí thức ăn. Nhưng ngay khi lần đầu lãnh cơm của trại, không ai ăn được một miếng. Thật ra không phải là cơm mà là mì sợi, không hiểu mì được chế bằng loại bột gì, mầu nâu đen và nát bét, có mùi hôi mốc. Cộng vào đó là một tí canh rau lõng bõng. Tất nhiên là canh chay không cá thịt. Bài học đầu tiên của cuộc sống tù đầy thật đau đớn. Phần ăn bỏ lại của tù mới đã được tù cũ chiếu cố tận lực. Một vị tù cũ thản nhiên bảo tôi:

    - Có mì, có cái ăn là quí rồi. Mai mốt các anh sẽ thấy những thứ các anh nuốt không trôi đó chính là cao lương mỹ vị. Người dân ở ngoài, người dân của xã hội chủ nghĩa đôi khi không có cả những thứ các anh vừa chê.

    Tôi nghe mà chỉ bán tín bán nghi. Có thể vì tôi chỉ mới rời khỏi đời sống của miền Nam chưa quá hai tháng chăng? Nhưng rồi thực tế vẫn là thực tế. Khi được sai đi chặt tre ở xa trại, chúng tôi được “gửi ” ở nhà dân và nhìn mâm cơm của họ, tôi chợt thấy mức chênh lệch đến rợn người giữa cuộc sống miền Nam và miền Bắc.

    Ông Bình ở cùng lán và cùng tổ với tôi đã dạy tôi bài học vỡ lòng về cái nhìn của Đảng Cộng Sản đối với miếng ăn. Ông bảo:

    - Đối với Cộng Sản, gạo là vũ khí chiến lược. Vũ khí này không chỉ để đương đầu với địch mà chính là để “đánh nhau” với dân chúng. Họ kiểm soát bao tử của dân bởi đói thì phải quị lụy, phải nghe lời. Đói thì dễ kiểm soát.

    Một người như Đại Úy Bình cương trực tiết độ và lúc nào cũng chừng mực nhưng chính ông đã là nạn nhân của “vũ khí chiến lược”. Ông đã xọp đi đến quá nửa người vì sốt rét trên đường Trường Sơn. Đến trại ông vẫn khật khà khật khưỡng, người vẫn như đi không vững. Bỗng như phép lạ, khoảng hai tháng sau, ông hồi sức lại, hồi sức một cách quá vội vàng. Những bữa cơm tù đầu ông chỉ nhấm nháp cố nuốt nhưng bao giờ cũng còn dư đẩy bớt sang cho tôi. Một hôm ông ăn hết sạch bát mì bát nháo trộn với gạo đã gần như mục, và cười bảo tôi:

    - Vẫn còn ăn được nữa. Chưa no.

    Tôi cũng chỉ biết cười
    - Ráng ăn cho lại sức

    Lũ tù mới nay đã trở thành tù cũ, nghĩa là đã phải lao động cật lực. Mỗi sáng tù được chia thành từng đội sắp hàng đi chặt tre. Tre ở xung quanh trại đã bị đốn từ lâu nên chúng tôi đã phải lội cỡ gần ba cây số mới tới chỗ. Rừng tre lâu đời chằng chịt, cành nọ quấn, giằng lấy cành kia. Tre cao nghều nghệu, cao vút và gốc rất to. Chặt tre nguy hiểm vì lơ mơ có thể chết như bỡn. Theo lời kể thì đã có dăm ba tù nhân chết không kịp ngáp vì tre. Khi chặt một nhát cắt sâu được nửa thân thì do sức kéo từ trên ngọn, thận tre bật ngược búng lên như một lưỡi đao. Lơ mơ trúng có thể đổ ruột chết tại chỗ. Một người tù bị tre quật vào cánh tay đã phải cưa vì xương dập nát nhừ không cách gì nối lại được. Họ khoán mỗi tù nhân phải chặt mỗi ngày môt số tre nhất định. Nếu chỉ chặt và lôi xuống róc cành rồi bỏ đó thì mỗi ngày cỡ ba mươi cây. Nhưng đôi khi chặt xuống, tù phải cong lưng vác tre về nộp. Đem được một cây tre về đến trại không phải nhàn nhã gì. Đôi khi nó quá dài, hai đầu cứ nhịp lên nhịp xuống, lơ mơ ngã chúi xuống như chơi. Lao động nhưng ăn uống quá kham khổ, quá đói, lũ tù mới chúng tôi rạc thấy rõ, và rất nhanh. Ai nấy rốc hẳn người. Đói triền miên. Lúc nào cũng thấy đói. Rất nhanh chúng tôi được trao kinh nghiệm “bồi dưỡng linh tinh”, có nghĩa là phải tìm thêm cái ăn, tìm ở đâu thì tìm, tìm cách nào thì tùy. Một đọt măng bé tí tẹo chưa kịp nhú lên đã bị cắt. Vồ được một con nhái, con ễnh ương là có thêm chất thịt. Trên con đường đi lao động mắt chúng tôi láo liên và nhất là khi bảo vệ lơ là thì nhiệm vụ chính không còn là chặt tre nữa mà là kiếm xem có cái gì có thể nhai được không.

    Đại Úy Bình kể từ khi hồi sức đã chăm chỉ linh tinh hơn hẳn anh em. Khi tôi tìm được thì ông đã sùi bọt mép, miệng cứng và mắt trợn trừng. Đại Úy Bình đã chết bên bờ suối, trong tay còn cầm một ít nấm mầu nâu. Trong khi được huấn luyện ở trường bộ binh Thủ Đức, tôi đã được dạy rằng có nhiều loại nấm rất độc, ăn vào có thể chết ngay và thường những loại nấm này có mùi thơm và vị rất ngon. Không bao giờ tôi có thể nghĩ có ngày nhìn thấy một đồng đội đã chia ngọt sẻ bùi, một vị huynh trưởng đáng kính như ông lại có kết thúc oái oăm và bất ngờ như vậy. Đại Úy Bình nằm đó trong bộ áo tù sọc đỏ, hai chân vẫn còn trong con suối cạn, người thì lật ngửa, hai tay co quắp. Tôi chợt nhớ đến những lần ông thản nhiên nói đến cái chết ở núi rừng Trường Sơn và hôm đầu khi đến trại tù Yên Bái. Tôi nghe để mà nghe nhưng không bao giờ nghĩ ra được cái kết thúc vô lý đến như vậy xảy ra cho một người vốn tin vào cuộc đời như ông.
    Tôi nhắn ông Quyền và phải đến mấy ngày sau tôi và ông Quyền mới tìm được dịp cùng nhau đặt bó hoa dại trên nấm mộ đất bên rìa trại tù, nơi Đại Úy thiết giáp Lương Văn Bình được vùi xuống vội vàng.

    o O o

    Tôi không có cách gì để nhớ hết tên các trại tù tôi đã trải qua. Mọi thứ dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa đều được coi là bí mật quốc gia. Các trại tù đều mang bí số lúc thì C, lúc thì T, Z. Như T42 chẳng hạn. Nhưng cứ như sự hiểu biết của tôi thì trại tù binh Yên Bái là nơi duy nhất giam giữ sĩ quan của miền Nam bị bắt giữ ở mặt trận.

    Nhưng một hôm chủ nhật vì thiếu tiếp liệu, chúng tôi được điều động để đi lấy thực phẩm. Sáu người tù được giao cho hai chiếc xe cải tiến và khi chúng tôi đến chỗ để lấy lương thực cách trại khoảng hai cây số thì quả là một bất ngờ. Ngay khi vừa lọt vào trong hàng rào thì có tiếng hô hoán:

    - Đơn vị nào? Cấp bậc? Lâu chưa…

    Giọng nói hoàn toàn miền Nam khiến sáu đứa tụi tôi sửng sốt. Phe mình. Từ trong các căn nhà mọi người đổ túa ra hỏi tíu tít. Ngay khi biết tông tích tụi tôi, cách xưng hô khác hẳn. Họ gọi chúng tôi bằng “Ông Thầy“.

    Đây là trại giam giữ tù cấp Hạ Sĩ Quan của miền Nam. Quan sát rất nhanh, tôi thấy họ được đối xử khác hẳn với chúng tôi. Họ không ở trong những cái lán chứa cả trăm người mà ở trong những căn nhà lá nho nhỏ, có lẽ độ mươi mười lăm người một, và họ có một tí đất để trồng rau. Những người lính ở đây không bao giờ biết được cách họ chưa đầy hai cây số lại có một trại giam sĩ quan. Bởi vậy, trại bỗng như một cái chợ vỡ, mọi người túa ra bao vây lấy sáu đứa tụi tôi. Họ hỏi tới tấp không kịp trả lời. Trông họ khác hẳn tụi tôi. Họ không mặc đồ tù mà là quần áo giống như lính Bắc Việt. Bỗng một người hô:

    - Có cái gì đem cho mấy Ông Thầy đi, bà con ơi.

    Tôi nghĩ dáng dấp bệ rạc trong bộ đồ tù với chữ số ở phía sau lưng đủ tố cáo cảnh sống của chúng tôi. Chỉ trong vòng vài phút sau đó, đồ tới tấp quẳng lên hai chiếc xe cải tiến, cảm động nhất là có cả mấy cái áo trấn thủ được kết lại từ những mảnh chăn và mấy cái mũ cũng được khâu vá từ những mảnh vụn. Rất nhiều rau và có cả mấy cây mía. Một người chạy ra dúi vào tay tôi một cái lon sắt – không rõ anh ta gò lấy hay tự nó đã như vậy – và bảo tôi:

    - Ông Thầy, cái này xài đỡ lắm.

    Cái lon sắt ân tình đó khá dầy dặn lớn hơn lon sữa đặc một chút, đã là vật tùy thân của tôi trong suốt mười năm lao đao. Quả thật là “đỡ lắm” vì nó vừa là lon uống nước, vừa là cái để đựng đồ ăn, để đun nấu, pha trà. Nó đeo đẳng tôi như chính cái tình đồng đội không bao giờ phai nhạt giữa những người lính với nhau. Trong số chiến lợi phẩm, tôi nhớ có khá nhiều thuốc lá. Mấy người bảo vệ đi theo hình như cũng ngó lơ cho tụi tôi để “thoải mái” với những anh em Hạ Sĩ Quan. Có người cho hay họ bị bắt từ năm 1968 – tức tết Mậu Thân – tôi nhẩm tính. Bảy năm. Họ hỏi những câu hỏi như: “Tình hình Sài Gòn ra sao?” “Ông Thầy có biết tiểu đoàn TQLC Trâu Điên không?” “Liệu mình có thắng không?” “Chính phủ mình có biết số phận của tù nhân không?”… Hơn một trăm con người bu chung quanh tụi tôi với cả nghìn câu hỏi không có câu trả lời. Nhưng cái tình của họ đối với chúng tôi có lẽ là niềm an ủi lớn nhất, nó không chỉ là tình đồng đội mà còn chan chứa tình người. Khi về, chúng tôi chia chiến lợi phẩm cho cả trại. Tôi ngồi nhai một khúc mía. Nước mía ngọt lịm, thấm vào từng đường gân sớ thịt và tôi có cảm tưởng như mình đang hồi sinh.

    o O o

    Trại tù Yên Bái khi chúng tôi tới thì đã có khoảng hai trăm anh em bị bắt từ trước. Họ ở trong ba cái lán và cũng chính họ dựng sẵn chỗ cho chúng tôi. Những anh em này đã giúp chúng tôi rất nhiều để đương đầu với những nhọc nhằn của đời tù. Câu khuyên đầu tiên là cố giữ sức khoẻ để chờ ngày về. Ngày về diệu vợi và xem ra không tưởng đối với tôi, nhưng khi nghe họ thuật lại, tôi cũng bán tín bán nghi. Một số anh em cho hay khoảng hơn một năm về trước họ đã được thả một lần. Họ được tập trung lại học tập hai ngày với một cái tin sốt dẻo rằng họ sẽ được đưa trở lại miền Nam để trao đổi tù binh. Họ được phát hai bộ đồ công nhân màu xanh, cùng với những xa xỉ phẩm như thuốc đánh răng, bàn chải, khăn lông, xà bông, và hách nhất là một cái ba lô mà theo lời họ thì rất đẹp, có quai da hẳn hoi và thấy đề là sản xuất tại Tiệp Khắc. Khi lãnh những thứ đó, ai nấy đều mừng và trong cái nỗi mừng tủi sẽ được về miền Nam đó, anh em vẫn kháo với nhau rằng Bắc Việt dẫu sao cũng còn cố muốn chứng tỏ họ đối đãi với tù binh đúng theo qui ước quốc tế. Ít nhất thì cũng có kem đánh răng hẳn hoi. Những người tù xúng xính trong bộ quần áo công nhân đó được đưa đi một vòng Hà Nội bằng xe Molotova và sau đó chở đi về Nam. Nhưng khi đến Vĩnh Linh họ được giữ lại không đi tiếp. Cho đến cỡ một tuần sau, họ được thông báo một cái tin rất khó tin:

    - Chính quyền miền Nam không nhận các anh.

    Theo lời của viên cán bộ thì miền Nam đã không thừa nhận là đã đánh sang Lào, là Quân Đội Miền Nam không bao giờ vượt biên giới qua quốc gia lân cận và do đó không hề có chuyện Cộng Sản Bắc Việt bắt được sĩ quan VNCH ở Lào. Chính quyền miền Nam hoàn toàn phủ nhận lời cáo buộc của Cộng Sản Hà Nội về những tố cáo không bằng chứng này. Kết quả là họ được chở trả lại trại và tất cả các đồ tế nhuyễn trong đó có cái ba lô Tiệp Khắc đều phải nộp vào kho.
    Xin ghi lại đây sự kiện trên và mong mỏi anh em nào ở trại Yên Bái còn sống đâu đó, Việt Nam hay bất cứ nơi nào trên thế giới, nếu có dịp xin lên tiếng xác minh.

    o O o

    Đời sống tù là một đời sống biệt lập. Chúng tôi không hề được biết chuyện gì đang xảy ra ở bên ngoài. Sáng ra sắp hàng từng đội đi lao động khổ sai, về đến trại thân thể rã rời, và ít nhất thì một tuần ba bốn buổi tối phải sinh hoạt học tập. Chúng tôi sống như những đơn vị lao động không được suy nghĩ. Chúng tôi sống với một bức tường im lặng phủ lên đầu vì không được biết ngoài trại này cuộc sống diễn tiến ra sao. Dật dờ, không biết số phận ra sao có lẽ là nỗi đau khổ lớn nhất. Hơn cả ngay cái việc bị hành hạ lao động khổ sai.

    Cho đến một hôm bỗng cán bộ cho chúng tôi nghe đài – chữ của ngoài Bắc gọi tắt Đài Phát Thanh. Tiếng của các xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội được tiếp vận lên tận đây có cái cung bậc cao, the thé như muốn xoáy vào tai người nghe. Những tin tức loan tải làm mọi người choáng váng và không ai tin đó là sự thật. Đài Hà Nội loan tin quân đội giải phóng đã chiếm được Ban Mê Thuột, đã lấy được Phước Long làm thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hôm sau đi lao động về, một tấm bản đồ lớn được dựng trước cửa trại. Trên đó là những lá cờ đỏ sao vàng được cắm để đánh dấu những vùng đã được giải phóng. Trên đài phát thanh, Hà Nội luôn luôn nói một điều quân đội giải phóng, hai điều quân đội giải phóng nhưng trên tấm bản đồ họ không cắm cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà là cờ đỏ sao vàng. Trước những tin tức tới tấp rằng vùng này đã được giải phóng, vùng kia đã được giải phóng, chúng tôi vẫn cười khẩy, không một ai tin. Tôi nhớ một ông bạn đồng tù đã kể lại vụ Tết Mậu Thân. Theo lời ông thì khi dốc toàn lực để Tổng Tấn Công Nổi Dậy vào năm 1968, ngay tại Hà Nội, Ông Hồ Chí Minh cũng cho dựng một tấm bản đồ lớn, và chính ông cũng có lần ra tận đó chiêm ngưỡng thành tích của quân đội giải phóng. Ngay mấy ngày đầu cờ nhỏ cũng được cắm và còn cẩn thận, sơn mầu đỏ những vùng đã được giải phóng, khởi đầu là vùng Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng. Nhưng chỉ độ mười ngày sau thì tấm bản đồ chỉ rõ từng bước tiến của quân đội giải phóng bị dẹp mất tiêu.

    Ông bạn kết luận:
    - Bổn cũ soạn lại, chắc nó sắp dẹp đến nơi.

    Đôi ba người còn bàn rằng đây là một đòn chí tử, một sai lầm lớn về chiến thuật của Hà Nội. Họ đã dốc toàn lực vào cuộc tiến công này và trực diện đánh theo chiến tranh qui ước chứ không còn là du kích chiến nữa. Và như vậy e rằng họ sẽ lãnh đủ vì hỏa lực của Cộng Sản không thể so được với bom đạn của Mỹ. Mậu Thân cho thấy tất cả những đơn vị, cán bộ nằm vùng bị lộ diện, bị tiêu diệt và lần này thì chính quân chính qui Bắc Việt cũng sẽ lãnh đòn.

    Bàn kiểu gì cũng được, nhưng càng ngày bản đồ ở trước trại càng thấy nhiều cờ đỏ ở phía Nam. Sau Đà Nẵng, Đà Lạt. Vùng Ba Chiến Thuật chỉ còn có Biên Hòa chưa thấy cắm cờ. Đài Phát Thanh Hà Nội phát toàn nhạc quân hành, và tin tức thì liên miên thuật lại những bước tiến vũ bão của quân đội giải phóng và những thảm bại của Ngụy quân.

    Mọi sự diễn ra như chuyện không có thật, chuyện giả tưởng và chúng tôi nhất định không tin. Bộ quân lực Việt Nam Cộng Hòa là đồ bỏ chắc? Chúng tôi đã từng đối mặt với đối phương giữa những lằn lửa đạn. Chúng tôi biết rõ tinh thần của những người lính, dù là Nghĩa quân, Địa Phương quân hay những binh chủng nổi tiếng như TQLC, Dù, Biệt Động Quân. Dẫu có đem chém, những người tù binh ở trại Yên Bái vẫn không tin những tin tức của đài Hà Nội. Cuộc chiến đã có những lúc lên cao độ nhưng quân lực VNCH chưa bao giờ nhượng bộ. Tết Mậu Thân, chỉ những đơn vị chủ lực như Dù mới có carbine còn đa số là Thompson vậy mà dù bị tấn công bất ngờ, chúng tôi đã đẩy lui cả một đạo quân Bắc Việt với AK 47, với B40, B41 và hỏa tiễn 122 ly. Mùa hè đỏ lửa ở Huế, ở Quảng Trị, ở Cao Nguyên. An Lộc nhỏ bé đã đứng vững dù quân số chênh lệch một chọi bảy tám và hỏa lực của địch đã được vận động tới mức tối đa. Ngay một cái quận lỵ bé tí của tôi, quận Đôn Luân, với một số quân ít oi và hỗn tạp đã chống trả với công trường 7 trong gần nửa tháng. Bộ quân lực VNCH là đồ dởm chắc?

    Chúng tôi ngày ngày vẫn phải đi lao động, kẻ chặt tre, người cày ruộng, đứa đào đất, đục đá nhưng tối về là tụm năm tụm ba vừa nghe đài vừa diễu cợt.

    Tôi nhớ mãi vào ngày 30/4/1975 khi về đến trại thì đài oang oang loan tin xe tăng quân giải phóng đã húc sập cổng Dinh Độc Lập và Tổng Thống Dương Văn Minh đã đầu hàng và miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.

    Quan chức cán bộ cho hay ngày mai chúng tôi không phải lao động, được nghỉ để ăn mừng ngày tổ quốc thống nhất và đặc biệt sẽ là mổ một con trâu để liên hoan.

    Thế này là thế nào? Ông Quyền vừa nhai miếng thịt trâu nửa sống nửa chín bảo tôi:

    - Ông Thầy có tin không? Tướng Patton cũng không thể đánh nhanh được như vậy. Cái ông Võ Nguyên Giáp thắng ở Điện Biên Phủ vì Mỹ từ chối không xài B 57 đánh bom giúp Pháp và ông Giáp có cả một đống cố vấn Tàu và vũ khí chở xuống từ Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa. Nhưng đó là trận đánh công đồn, thật ra cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi không tin Tướng Giáp đủ bản lĩnh để trong hơn một tháng đánh tan quân đội mình. E có cái gì khúc mắc!

    Một ông bạn khác hỏi tôi:
    - Lúc ông bị bắt ai làm Tổng Thống ?
    - Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    - Còn ông Dương Văn Minh?
    - Đại tướng Dương Văn Minh đã hồi hưu từ lâu, đâu có giữ chức vụ gì.
    - Thế tại sao lại có chuyện Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng? Tôi nhớ độ nửa tháng trước tụi nó vẫn ra rả Thiệu Kỳ Khiêm cơ mà!

    Thái độ của tù binh không có gì lọt qua mắt cán bộ nhưng có lẽ chính họ cũng choáng váng trước những sự việc xảy ra. Họ không hề có biện pháp trấn áp gì, vẫn lo liên hoan cười nói và luôn mồm câu: “đất nước thống nhất – hòa bình lập lại” hoặc “chúng ta đánh bại ba đế quốc Nhật Pháp Mỹ…” Không khí của kẻ thắng được thể hiện không chỉ nơi những người lính canh tù mà khi đi ra ngoài lao động chúng tôi thấy cờ xí và biểu ngữ giăng khắp nơi.

    Vài hôm sau ngày 30/4, chúng tôi được đọc báo! Một chồng báo Nhân Dân cũ cả tuần được phân phát tứ tung, trên trang nhất là tấm hình xe tăng Cộng Sản ủi sập cổng dinh Độc Lập. Lời nói không có sức thuyết phục như hình ảnh. Tôi nhìn đi nhìn lại tấm hình trên tờ báo. Báo của Hà Nội lúc đó vẫn còn in typo và giấy rất xấu. Đang chăm chú nhìn cái cổng Dinh Độc Lập bị xệ một bên và cái họng súng 100 ly trên pháo tháp của chiếc xe tăng, tôi nghe tiếng một ông bạn tù:
    - Mẹ kiếp. Nó vào đến Dinh Độc Lập thật.

    - Ghép hình mấy hồi. Tôi chơi ảnh từ thủa bé, cỡ này ăn thua gì. Nếu muốn tôi cũng có thể dùng kỹ thuật phòng tối cho cụ Diệm đi duyệt binh ở ngay Hà Nội.

    Tôi không ngờ cái câu phát biểu này lại được anh em tù loan truyền rất nhanh. Trong cái sững sờ của sự việc, trong nỗi tuyệt vọng đến tận cùng, một vạt bèo trên mặt nước có thể trở thành cả một cái bè hoặc hơn nữa. Người này rỉ tai người kia:

    - Thằng Dũng là photographer thứ thiệt. Nó tinh lắm nhìn ngay được vụ ghép hình.

    Sáng hôm sau tôi không phải làm lao động và quãng mười giờ sáng hai viên cai tù súng ống hẳn hòi tiến vào phòng. Đây cũng là thói quen rất đặc biệt của những người Cộng Sản. Bất cứ khi nào đi vào phòng tù cũng võ trang cẩn thận và luôn luôn đi hai ba người dù họ biết chắc trong phòng chỉ có một ông tù ốm đói. Tôi bị dẫn lên văn phòng trưởng trại để làm việc.

    Khi tôi vừa bước vào đến cửa thì đã có tiếng đập bàn, quát tháo:

    - Tại sao anh bôi nhọ chế độ? Tại sao anh ngoan cố, tung tin đồn xuyên tạc láo lếu?

    Thấy tôi ngây mặt nhìn, ông trưởng trại – tôi không bao giờ biết ông ta cấp bậc gì và tên thật ra sao, bởi lúc nào cũng chỉ biết ông ta là anh Sáu – đập bàn quát tiếp:

    - Ngoan cố. Đến giờ phút này anh vẫn còn ngoan cố không tin vào chế độ. Mỹ đã cút chạy anh còn vọng tưởng gì? Thằng Dương Văn Minh đã đầu hàng quân giải phóng. Ngụy quân Ngụy quyền các anh lúc nào cũng cứng đầu ương ngạnh ngoan cố không chịu giác ngộ. Đến giờ này anh còn suy tưởng gì?
    - Thưa cán bộ…
    - Anh còn cãi nữa à? Anh bảo là báo Nhân Dân ghép hình là thế nào?

    Ngay khi bị giữ lại ở phòng, tôi biết ngay lý do và đã suy nghĩ cách trả lời:

    - Tôi đâu có nói báo của nhà nước ghép hình. Tôi có nói là ông phóng viên chụp vội quá nên hình không rõ nét. Vả lại tấm hình in cũng mờ quá.
    - Ngoan cố! Ngoan cố!

    Và ông trưởng trại bỗng cười sằng sặc, chỉ vào mặt tôi:

    - Sự thật sờ sờ mà anh vẫn còn mơ ngủ…

    Sự thật sờ sờ ông trưởng trại tù hất vào mặt tôi phải chờ đến gần một tháng sau mới đúng là sự thật không chối cãi được. Tôi nhớ chúng tôi sáng ra không phải đi khổ sai mà được lùa vào phòng lớn của trại vì có Trung Ương xuống. Nếu quen thuộc với nếp sống ở miền Nam thì sẽ bực mình vì ở Xã Hội Chủ Nghĩa Miền Bắc không có gì minh bạch cả, cái gì cũng úp úp mở mở. Nhưng nếu hiểu rằng nhà cầm quyền chủ trương chỉ cho người dân biết những gì họ muốn người dân biết thì sẽ hiểu cái ngôn ngữ như Trung Ương ở trên. Những thằng tù như tụi tôi chỉ được biết “Trung Ương” mà không hề được giới thiệu đó là nhân vật cỡ nào, chức vụ gì và ngay cả đến tên tuổi cũng không, dù chỉ là bí danh đầy “màu đỏ, mầu hồng” như Nguyễn Chiến Thắng, Trần Gia Tăng!

    Nhưng Trung Ương có khác thật vì ông ta đến với một phái đoàn tới năm người và trông cái cung cách đón tiếp trọng vọng và đầy vẻ khúm núm của ông Sáu trưởng trại và mấy ông cán bộ, tụi tù đều hiểu ông ta phải quan trọng lắm. Điều khác nữa nổi bật hẳn là ông Trung Ương và mấy người tùy tùng đều mặc áo sơ mi trắng dài tay. Dù áo không ủi và bỏ ngoài quần nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên trên cái nôi của Xã Hội Chủ Nghĩa, chúng tôi được mát mắt vì từ trước đến nay chỉ thấy hoặc là áo sọc tù đỏ, hoặc là quần áo màu xám xịt, mầu nâu u tối của lính, của cán bộ và của dân chúng.
    Tôi đã nhớ rất kỹ cái vụ này không hẳn chỉ là cái bề ngoài mát mắt mà chính những gì Trung Ương nói với tù binh chúng tôi.

    Đó là một người trung niên, da trắng và ăn nói khác hẳn ngay từ câu mở đầu:

    - Tôi được Trung Ương cử xuống để tường trình với anh em rằng hòa bình đã lập lại, đất nước nay đã thống nhất và ngày sum họp với gia đình của anh em không còn xa nữa.

    Tôi nhìn sang bạn tù bên cạnh. Ông bạn tù nhìn tôi. Ơ ! Thế bây giờ chúng ta là anh em với Trung Ương rồi. Từ trước tới ngày hôm nay, nếu không phải là những mỹ từ đầy thóa mạ, lịch sự lắm họ gọi chúng tôi là “các anh”. Nay là anh em cùng một cha một mẹ Việt Nam thì còn gì bằng, và điều này cũng chưa mừng bằng lời hứa là chúng tôi sắp được về sum họp với gia đình. Riêng cá nhân tôi, “sắp” có nghĩa là gần một thập niên.

    Sau lời mào đầu đầy tình cảm, Trung Ương đi thẳng vào vấn đề:

    - Hiện anh em còn bán tín bán nghi, không tin rằng dân tộc chúng ta đã đánh tan, đuổi toàn bộ bọn Mỹ cút khỏi Việt Nam. Tên đại sứ Mỹ đã phải cuốn cờ rút chạy bằng phi cơ trực thăng. Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam đã ký giấy đầu hàng vô điều kiện…

    Hội trường không một tiếng động.

    Lũ tù ngồi xổm thành từng hàng ngũ chong tai nghe như muốn nuốt lấy từng lời của Trung Ương. Ở bên cạnh chiếc bàn trải khăn đỏ có một cái giá. Sau lời mào đầu đầy vẻ anh em đó là màn tường trình Đại Thắng Mùa Xuân. Cứ theo lời Trung Ương thì có tới hai ý kiến để tấn công miền Nam vào mùa xuân 1975. Một là của tướng Trần Văn Trà muốn tấn công dọ đường mở các trận đánh ở phía Tây Bắc Sài Gòn nhằm vào các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long để làm áp lực với Sài Gòn và để đo lường phản ứng của Mỹ. Ý kiến thứ hai của tướng Võ Nguyên Giáp dùng trận địa chiến đánh thẳng từ Quảng Trị xuống và tấn công vùng Ban Mê Thuột, Pleiku, Komtum ở Cao Nguyên Trung Phần vì các địa bàn này gần với hậu cứ, dễ tiếp liệu từ ngoài Bắc vào.

    Trung Ương dõng dạc:

    - Đồng chí Lê Duẩn và Bộ Chính Trị vô cùng sáng suốt nên đã chấp nhận cả hai ý kiến là chính đáng. Quân đội nhân dân anh hùng bắt đầu bằng mục tiêu Phước Long, mở đầu bằng các trận công đồn chung quanh tỉnh lỵ này…

    Tim tôi nhói lên. Tôi không bao giờ tưởng tượng được cái quận lỵ nhỏ tí teo của Phước Long lại trở thành con chốt thí đầu tiên trong cả một chiến dịch lớn nhằm xóa Việt Nam Cộng Hòa. Tôi ngồi chết dí trong hội trường của trại tù, tai lùng bùng, mắt như mờ đi. Những hình ảnh bi hùng của Đồng Xoài hiện ra như một cuốn phim quay chậm. Những người Nghĩa Quân, những người lính Thám Báo… Thiếu tá Quận Trưởng, ông Khoát, sống hay chết? tôi nhớ đến cảnh người lính trúng đạn 100 ly của T54, người và áo giáp tung ra như những tràng bông đỏ. Ở góc kia, tôi vẫn thấy ông Chuẩn úy Kiệt và Chuẩn úy Văn.

    Tiếng của Trung Ương vẫn rõ ràng và âm vang:

    - Trận Phước Long cho thấy Bộ Chính Trị của ta sáng suốt. Bọn Mỹ đã không dám can thiệp. Mỹ đã bỏ rơi bọn đàn em, bọn bù nhìn tay sai Thiệu Kỳ Khiêm. Nhưng Bộ Chính Trị luôn luôn dự trù những bất ngờ có thể xẩy ra. Hạm đội 7 của Mỹ vẫn còn lảng vảng ngoài biển Nam Hải. Bọn chúng còn những cứ điểm quân sự lợi hại ở Thái Lan, ở Phi Luật Tân, ở Guam. Bộ Chính Trị của ta dự trù có thể Mỹ lại điên cuồng nhảy trở vào Việt Nam và có thể bọn chúng sẽ huy động 600,000 lính từ những nơi trên bất thần trở cờ. Bộ Chính Trị do đó đã huy động toàn thể lực lượng vũ trang nhân dân, cả phụ nữ lẫn thiếu nhi. Bốn triệu tay súng đã sẵn sàng để đương đầu nếu Mỹ vẫn tiếp tục mưu đồ, ôm mộng đế quốc…
    Ông Trung Ương cầm cái gậy chỉ vào những tấm carton trên giấy trắng vẽ xanh vẽ đỏ, mũi tên ngang mũi tên dọc. Trận Ban Mê Thuột, Ngụy quân đã thua như thế nào. Cuộc tiến chiếm Pleiku diễn tiến ra sao…Và cuối cùng là xe tăng T54 ủi sập cổng dinh Độc Lập, Tổng Thống Dương Văn Minh đã phải đầu hàng.

    Phải nhận rằng ông Trung Ương này có khả năng thuyết trình vì rõ ràng tù nhân với quá khứ bom đạn đã ngồi im thin thít nghe và không thể bàn tán gì được trước sự thật sờ sờ trước mắt. Miền Nam không còn nữa. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa.

    Cuối cùng, ông Trung Ương cười tươi như hoa, dõng dạc:

    - Trước cái vui lớn của tổ quốc, tôi cũng xin báo một tin vui nhỏ dành riêng cho anh em. Anh em sẽ được viết thư về thăm gia đình. Tôi hứa sẽ đích thân đưa những lá thư của anh em vào tận Miền Nam và sau đó theo dõi để thư được đưa đến từng gia đình. Anh em sẽ có thư trả lời ngay trong ít ngày sắp tới.

    Nói tới đây ông Trung Ương quay sang bên cạnh:

    - Anh Sáu phát cho anh em giấy bút, phong bì và chỉ dẫn anh em viết cho mau. Sáng mai gom, góp lại rồi chuyển cho tôi.

    Như vậy là tù chúng tôi được báo hai tin vui một lúc. Không biết có anh em nào vui cái niềm vui lớn của Trung Ương là đã đuổi được Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào không nhưng tin vui nho nhỏ là được liên lạc về gia đình xem ra có vẻ lớn hơn.

    Chúng tôi được phát một phong bì có chữ Par Avion và một tờ giấy pelure mầu trắng nhờ nhờ rất mỏng. Ấy, không phải cứ phăng phăng mà viết. Phải học tập cho thông suốt trước. Anh Sáu trưởng trại đích thân đứng ra hướng dẫn nội dung thư.

    Thứ nhất không được tiết lộ vị trí trại.

    Thứ nhì phải nêu rõ quyết tâm học tập và đề cao chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.

    Nội dung thư chỉ để cho gia đình thấy rõ mọi tù nhân đều khoẻ mạnh, được đối xử tử tế và đang cố gắng để thông suốt đường lối cách mạng. Những ai đã đi tù, tù kiểu gì cũng vẫn là tù, tù binh, tù cải tạo, tù vượt biên, tù phục quốc hay cả tù hình sự đều đã có kinh nghiệm khi được viết thư lần đầu về nhà. Mở đầu là cám ơn đảng, cám ơn nhà nước và cưối cùng là nêu quyết tâm học tập. Đoạn giữa là chuyện riêng. Mặc dầu đã dặn dò kỹ, nhưng trước khi dứt lời anh Sáu còn cẩn thận nhắc mọi người đừng dán thư lại.

    Tôi bó gối ngồi suy nghĩ. Viết thư cho ai bây giờ? Chú Hà Bỉnh Trung là sĩ quan cao cấp e rằng cũng đang ở trại tù nào đó. Liệu gia đình Dung có còn ở chỗ cũ không? Liệu gia đình ông bà nhạc tương lai có bị liệt vào tư sản mại bản không? Kể từ hôm trại tù được nghe đài, cái loa phóng thanh the thé suốt ngày và qua đó những tin tức về chiến dịch đánh tư sản mại bản đã khiến tôi lo lắng rất nhiều vì gia đình Dung có cửa tiệm chuyên về máy lạnh rất lớn. Cuối cùng tôi lựa bà bác chị của bố tôi. Bác tôi Đỗ Thị Mùi đã già rồi chắc không có vấn đề gì. Tôi viết rất ngắn gọn, nhờ Bác cho gia đình tôi hay tôi vẫn còn sống và khoẻ mạnh, nhờ thông báo cho gia đình Dung biết tin tức của tôi.

    Lá thư của tôi trót lọt dễ dàng nhưng có những bạn tù khác phải viết lại thư, trong đó buồn cười nhất là một người đã bị gọi lên mắng mỏ vì nhắc nhà gửi áo len. Bộ đảng và nhà nước không cho anh ăn mặc ấm áp hay sao?

    Trung Ương giữ đúng lời hứa và có lẽ đây là lần duy nhất xảy ra trong cuộc đời tù tội của tôi. Khoảng hơn một tuần sau chúng tôi nhận được hồi âm của gia đình. Bao thư của miền Nam trắng tinh và dầy dặn không thấy dán tem, có lẽ được chuyển theo dạng đặc biệt. Thư tôi nhận được do chú Trung viết. Không rõ ông có được học tập trước hay không nhưng cũng mở đầu bằng giọng hồ hởi phấn khởi đầy những từ ngữ mới mẻ ca tụng Đảng và Nhà Nước và đoạn kết ông cũng khuyên bảo tôi cố gắng học tập để trở thành người tốt. Ông cho hay cả nhà bình yên nhưng Dung và gia đình đã đi xa.

    Trại có cái không khí khác hẳn khi mọi người được thư nhà. Nỗi niềm tâm sự được trải ra với nhau trước những tin tức mới đến. Nhiều người được báo là gia đình đã đi kinh tế mới. Người khác thì vợ con không còn ở chỗ cũ và úp úp mở mở để hiểu đã di tản sang Guam, sang Mỹ.

    Tôi bó gối ngồi một mình trong đêm. Như vậy là chú Trung còn ở Sài Gòn nhưng Dung đã cùng gia đình di tản. Ngay hôm bị vứt vào cái hố ở chiến khu Dương Minh Châu tôi đã nghĩ mọi sự kể như xong, tôi sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Nhưng không thể tự dối mình bởi cái hy vọng mong manh sẽ có ngày tái ngộ với nàng vẫn vương vấn trong suy nghĩ của tôi ngay cả lúc lê cùm trên đường Trường Sơn. Nhưng hôm nay giữa đêm trong núi rừng Việt Bắc tôi thật sự hiểu là không còn hi vọng gì nữa. Gió lạnh đầu xuân lùa qua những bức liếp lá như xoáy vào cái tê buốt của cuộc đời. Tôi bật người dũi xuống nằm sấp trên chiếc sạp tù lịm đi.

    o O o

    Sinh hoạt của trại tù binh bên ngoài vẫn như vậy, sáng ra lao động khổ sai cho đến xẩm tối thì bị lùa về trại, cơm nước xong là học tập, là kiểm thảo. Nhưng tận cùng ở phía trong, mọi sự khác hẳn kể từ ngày nhận được thư nhà. Cái vui nhỏ của Trung Ương chỉ tác động đến từng cá nhân. Mỗi người mỗi cảnh chẳng ai giống ai, cũng chẳng ai an ủi ai được ai. Có người từ cả gia đình đã đi xa – ai ở đây cũng hiểu là đã đi Guam, đi Mỹ. Có người băn khoăn vợ dại con thơ, đổi đời làm sao sống? Nhưng trùm lên đó vẫn là cái “sốc” lớn. Tại sao lại thua? Tại sao lại thua kỳ cục như vậy?

    Chúng tôi bàn tán, đưa từ giả thuyết này đến giả thuyết khác, ngẫm lại toàn là những chuyện không tưởng. Trong khi đó cái phấn khởi, nỗi vui mừng của quản giáo, của binh lính và đôi khi chúng tôi thấy ở cả nơi người dân hiện rõ ra.
    Khoảng một tháng sau 30/4, chúng tôi được xem phim quay những chiến tích của quân đội nhân dân và ảnh dân chúng miền Nam chào đón đoàn quân giải phóng ở đại lộ Thống Nhất. Anh em từ nơi đây toàn là sĩ quan, có những người cũng đã từng nện gót trên đại lộ Thống Nhất dẫn đơn vị diễn hành trong ngày lễ lớn như Lễ Quốc Khánh, Ngày Quân Lực,nhưng khi nhìn lính Bắc Việt mặt mũi non choẹt, quần áo thốc thếch, dép râu, mũ tai bèo ôm AK 47 ngơ ngác ngồi trên những chiếc Molotova, mọi người như đau quặn lên. Chúng tôi vừa thất trận và khi nhìn người chiến thắng, không ai tin đó là kẻ thắng.

    Tôi nhớ vụ chiếu phim này vì một chuyện khác nữa. Vài người tù được gọi lên trước để dọn dẹp hội trường. Trong khi các anh em lo quét, lo xắp xếp để cho quang, tôi lui hui cùng một ông khác dọn dẹp bàn thờ. Không thể dùng chữ gì khác vì đó quả là bàn thờ với bức tượng bán thân ông Hồ Chí Minh bằng thạch cao trắng và cạnh đó lúc nào cũng có hoa. Khi tôi vừa ôm bức tượng toan rời đi chỗ khác thì có tiếng quát:

    - Anh kia ! Để bức tượng Bác xuống.

    Tôi ngơ ngác chưa hiểu thì một viên cán bộ hầm hầm xấn tới:

    - Ai cho phép anh đụng đến tượng Bác? Ngữ anh mà được sờ đến tượng Bác à? Bộ anh định làm ô uế Bác à?

    Anh ta gằn ở tiếng “à” đầy thịnh nộ và đỡ tượng ông Hồ từ tay tôi, nhẹ nhàng trang trọng bê đi như đang ôm một cái gì linh thiêng.

    Nhìn anh ta lòng tôi chùng xuống. Nếu gia đình không vào Nam chắc chắn tôi sẽ lớn lên và trưởng thành trong Xã Hội Chủ Nghĩa miền Bắc và rồi có lẽ tôi cũng giống như anh ta và bao nhiêu thanh niên khác được giáo dục để rồi sùng tín ông Hồ như tín đồ tin vào đấng cứu rỗi.

    Nhìn trở lại hơn chín năm trôi dạt từ trại tù này sang trại tù khác, ký ức bỗng hiện ra một người Mỹ. Khi tụi tôi đang cong người đẩy một chiếc xe cải tiến chất đầy đá ong thì có tiếng lơ lớ:

    - Ê, ê, mấy anh kia.

    Ba đứa tôi ngưng lại. Phía đầu dốc con đường đất bùn lầy là một người Mỹ mắt xanh. Anh ta cũng đi dép râu và quần áo cũng đen xỉn như bất cứ ai. chiếc xe jeep nhà binh rõ ràng là chiến lợi phẩm từ miền Nam, sa hố nằm nghiêng bên lộ. Trong khi tôi còn đang ngạc nhiên thì ông bạn tù thâm niên hơn tôi chửi thề:

    - Đù má thằng phản bội.

    Và anh ta sấn sổ bước tới cái xe jeep tay thủ cây gậy gỗ. Tôi và ông bạn kia lín nhín chạy theo. Người Mỹ lùi vào phía bên kia chiếc xe dơ tay chỉ:

    - Tên gì? Tên gì? Tôi báo cáo cán bộ.
    - Đù má mày. Tao đánh thấy mẹ mày.

    Người Mỹ bỏ chạy. Người bạn tù quay sang phía hai đứa tôi:

    - Thằng khốn nạn. Nó là tù binh Mỹ nhưng hèn mạt, lạy lục tụi nó xin tha. Nó lấy tên Việt là Nguyễn Việt Nam được phong cho cái chức là chuyên viên gì đó, chuyên lo sửa cái máy điện ở thị xã. Nó đến trại mấy lần nói chuyện, toàn là giọng hèn hạ chịu không thấu. Hồi trước nó cũng đạp xe thấy mẹ, chắc mới được cấp xe jeep.

    Tôi đứng bên bờ đường đất nhìn người Mỹ cao lênh khênh vẫn còn nắm đấm cung tay dọa dẫm tụi tôi. Không hiểu anh ta có trở về Mỹ hay thật sự muốn ở lại Xã Hội Chủ Nghĩa với cái tên mới Nguyễn Việt Nam.

    Cái gì rồi cũng phải trải qua. Chuyện miền Nam tan hàng, miền Nam rã ngũ, Tổng Thống Dương Văn Minh và thái độ của Hoa Kỳ mới đầu còn là đề tài sôi nổi nhưng rồi câu hỏi lớn hiện ra rất đỗi thực tế. Hòa bình lập lại rồi tai sao còn giam giữ tù binh? Chúng tôi vẫn sống đời khổ sai nhưng câu hỏi không qua mắt được ban quản giáo. Lời giải thích rất giản dị. Còn nhiều vấn đề nên tạm giữ các anh, Đảng và Nhà Nước đâu có muốn tốn cơm nuôi các anh, phí sức người sức của chăm lo cho các anh. Nhưng đất nước vừa thống nhất, còn nhiều phức tạp trước mắt.

    Đến gần cuối năm, chúng tôi được một tin mừng:”các anh sửa soạn đoàn tụ với gia đình trong ngày rất gần đây” Trong khi chờ đợi, chúng tôi sẽ không phải đi lao động. Khoảng ba bốn ngày sau khi được nghỉ lấy sức thì ông Sáu trưởng trại họp tù lại:

    - Đề án lớn là giúp các anh về lại với gia đình càng sớm càng hay. Nhưng hiện công tác đòi hỏi phải động viên tới các anh, cần sự đóng góp của các anh. Xong sớm các anh về sớm…

    Thế này thì còn gì bằng. Làm sớm nghỉ sớm. Mấy trăm anh tù được huy động phát quang một khu rừng thưa. Chúng tôi chặt cây, dựng những căn nhà sơ sài và đặc biệt là làm hàng rào khá chắc chắn. Cái không khí thoải mái hẳn đi. Mấy anh lính đi bảo vệ cũng không cần hối thúc gì, kiếm chỗ mát ngồi hút thuốc lào. Quang cảnh gợi nhớ đến thời sinh viên của tôi sau thời ông Diệm bị giết. Lúc đó tôi đang học Luật và cô bạn Nguyễn Thị Bình Minh có lần rủ tôi đi trại hè sinh viên. Chị Minh có người chồng chưa cưới là thi sĩ. Lần duy nhất trong đời tôi dự trại hè, đi xuống đâu đó ở Vĩnh Long để đào giếng, làm vệ sinh, cắt tóc cho các em bé… Sở dĩ tôi nhớ chị Bình Minh và anh Trần Đại chỉ vì một câu thơ. Khi đang lo đào đất và xây một nhà vệ sinh công cộng, anh Trần Đại ứng khẩu đọc bốn câu thơ mà mỗi lần nhớ đến tôi lại tủm tỉm cười:

    Tôi đi xây cầu tiêu
    Cho người dân đến ị
    Tôi đi sơn cuộc đời
    Mong một ngày mai mới.


    Cái cảnh tôi đang dự phảng phất như một trại hè. Cái khác biệt duy nhất mà chúng tôi nhận ra rất nhanh cho chúng tôi đang đi dựng trại tù. Không phải là một trại mà liên miên hết trại này qua trại khác. Nhu cầu rất rõ. Càng làm nhanh càng tốt. Và càng rào cao càng chắc chắn là đạt yêu cầu. Thật là giản dị. Tù xây nhà cho tù, tù tự nuôi tù và nếu cần tù sẽ đóng góp sức người sức của để cùng phục vụ chung. Ngay khi đó chúng tôi không ai đặt câu hỏi là tre nứa, đá ong chúng tôi đôi khi phải đổi cả mạng sống, được chở đi đâu, bán cho ai và lợi tức thu nhập ai hưởng?

    Liên miên trong mấy tháng, chúng tôi bị điều đi dựng trại cho đến một hôm tù chịu không thấu thì tin mừng đến. khoảng độ mười người được gọi lên khung làm việc. Sau đó họ trở về với một bộ quần áo khác – quần áo dân – để về xum họp với gia đình. Tại sao chỉ có mười người? Ông Sáu trại trưởng đã họp mọi người lại làm lễ “phóng thích” và nhân tiện trấn an:

    - Các anh không bao giờ thấu triệt được những khó khăn mà Đảng và Nhà Nước phải đối phó. Bọn tàn dư của chế độ cũ vẫn chưa chịu nằm yên. Bọn đế quốc vẫn lăm le. Kẻ thù trong, kẻ thù ngoài vẫn muốn đẩy dân vào vòng nô lệ. Tuy nhiên Đảng và nhà nước lúc nào cũng nghĩ đến các anh, ngay khi tình hình an ninh địa phương cho phép, các anh sẽ về với gia đình.

    Tù lại lo đi xây trại hăng hái hơn bởi quả là ở cuối đường hầm có ánh sáng le lói. Đã có người về đấy thôi. Và sau đợt đầu có có vài ba đợt nữa, mỗi đợt thường không quá mười người. Thường thì thấy tù mỏi mệt quá, căng thẳng quá là lại có một đợt phóng thích. Nó như cái bó cỏ trước mũi con ngựa. Lâu lâu người xà ích lại hạ bó cỏ cho con ngựa giựt vài cọng để cố rướn lên kéo xe.

    Bao giờ cũng là một lời hứa mơ hồ.“khi nào tình hình an ninh địa phương cho phép các anh sẽ về.” Hoặc “địa phương chưa có điều kiện để tiếp đón các anh “.

    Cứ thế chúng tôi di chuyển từ địa điểm này qua địa điểm khác lo xây dựng những cái nền cho nhà tù với hàng rào, những căn lán sơ sịa và những hệ thống nhà cầu lộ thiên. Chỉ là căn bản bởi chúng tôi không có nhiều thì giờ. Mãi đến sau này tìm hiểu tôi mới biết cả triệu người tù cải tạo ở miền Nam đang được dự trù để đưa ra Bắc. Và điều không ngờ là những trại tù đó lại để dành cho chính tôi và một số tù binh khác khi “chuyển diện” từ tù binh thành tù cải tạo.

    Khi thuộc diện tù binh, chúng tôi chịu sự quản chế của quân đội miền Bắc. Dù từng đối mặt với nhau trên chiến tuyến nhưng cách gì nữa lính vẫn là lính. Khi chuyển sang tù cải tạo, chúng tôi chịu sự quản lý của Công An Nhân Dân.

    So với chế độ tù cải tạo thì tù binh là thiên đường.

    (còn tiếp)

  6. #12
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Đổ Lệnh Dũng - Lê Thiệp - Chương 11 & 12

    CHƯƠNG 11


    Những người được chế độ gọi một cách rất văn vẻ là Học Viên Học Tập Cải Tạo với hàm ý rằng họ không phải là tù, nhưng trên thực tế từ người dân cho ngay cả đến cán bộ đều gọi họ là tù. Tù Cải Tạo. Chữ nghĩa dù có đẹp đến đâu cũng không thể đánh lận con đen bởi cảnh sống thực tế cho thấy họ đang ở tù mà không hề được xử và nhất là không có tội danh. Đảng và Nhà Nước thì luôn luôn biện minh rằng đây là chính sách khoan hồng nhất. Cải tạo ít lâu trở thành người tốt thì về. Chỉ có điều thế nào là người tốt thì hoàn toàn do quyết định của Đảng, của Trung Ương, của Nhà Nước hay đôi khi chỉ là của ông cán bộ dấm dớ nào đó.

    Tù binh chúng tôi sau những ngày tháng miệt mài đi xây trại cho đến khi coi như xong, đã đến lúc được tập trung lại. Lần cuối đó cỡ ba chục người được thả về, số còn lại “đáng lẽ cũng đã về nhưng vì tình hình địa phương chưa cho phép. Đảng và Nhà Nước có để các anh về ngay bây giờ thì khi về đến địa phương các anh sẽ bơ vơ, không có hộ khẩu là có thể nguy đến tính mạng vì phản ứng của dân chúng. Các anh biết các anh vẫn là tội phạm chiến tranh.”

    Trời đất ơi, dân miền Nam căm thù chúng tôi đến vậy sao? Nếu là tội phạm chiến tranh thì sao không lập phiên tòa xử ?

    Ông Sáu trại trưởng bảo vì đó là Đảng và Nhà Nước khoan hồng và từ nay không còn tù binh nữa và ông Sáu và những người bộ đội canh tù nay hết nhiệm vụ. Không phải là tù binh nữa, chúng tôi được cải tội danh và trở thành Học Viên Học Tập Cải Tạo đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội Vụ, của Công An Nhân Dân. Như vậy cuộc đời tù tội của tôi từ nay sẽ rẽ sang một ngã khác, cái đoạn đường tăm tối nhất mà tôi sẽ phải trải qua.

    Đầu tiên, vì không còn trại giữ tù binh nữa nên chúng tôi được phân tán mỏng thành từng nhóm độ hai ba chục người. Mỗi toán đến một trại. Tôi nhẩm tính chỉ riêng số trại tù mới do tù binh khởi lập đã trên một chục, chưa kể đến những trại đã có sẵn. Hẳn nhiên là con số tù phải lớn lắm.

    Những anh em tù cải tạo được lũ lượt chuyển ra Bắc sum họp với tụi tôi. Ngay lần hội ngộ đầu tiên đã có rất nhiều khác biệt. Những người tù cải tạo vẫn còn đượm nét “thư sinh”. Họ được nhà nước hứa đưa đi học tập mười ngày rồi sẽ trở về với gia đình vợ con. Sáu bảy tháng sau họ bị lùa xuống tầu, vào trong các toa xe lửa chở một lèo ra Bắc. Đã có những người chết ngộp trong các khoang tầu. Đã có người bỏ xác trong các toa xe. Họ bỗng bị vứt vào trong các trại tù với những căn láng sơ sệch sơ sịa, nền đất ẩm ướt.

    Nước sông công tù. Nước sông vốn từ trên núi chảy tụ xuống hoặc từ mương rãnh đổ ra. Chẳng ai mất tiền để mua và hơn nữa biết bao giờ mới hết, mới cạn. Công tù cũng y chang. Họ bị đẩy vào cảnh tự dựng, tự xây lấy nhà từ để tự nhốt. Vào những năm 1976, 1977 Việt Nam lâm vào cảnh suy kiệt kinh tế. Người dân còn phải ăn độn khoai, độn bobo, ăn mì luộc viện trợ thay cơm. Dân đã vậy, tù còn khổ gấp vạn lần. Miếng ăn trở thành vô cùng vĩ đại và cái đói ám ảnh mỗi một con người. Tôi đã chạm mặt tử thần chỉ vì miếng ăn. Một lần cả đội tôi được lệnh đi đào đá ong ở khá xa. Mặc dù ăn đói, chúng tôi vẫn phải lo đào chặt những viên đá ong cho đủ tiêu chuẩn. Hôm đó khi trở về một làng gần, chúng tôi được gửi ở nhà dân. Bà cụ già đầy lòng nhân đã ái ngại nhìn chúng tôi:

    - Sắn mới rỡ ở nương về, các ông cứ ăn thoải mái.

    Sắn mới nhổ tươi rói, nướng thơm lừng và ăn ngọt lịm. Tôi ăn lấy ăn để, ăn không kịp nhai, mỗi miếng sắn vừa dẻo vừa bùi như quện với nhau thi đua trôi vào bao tử. Vừa ăn xong là tôi vật ra ngủ thẳng cẳng không biết trời biết đất gì nữa. Nhưng chỉ đến nửa đêm, tôi choàng tỉnh, người nóng bừng bừng. Tôi bắt đầu nôn. Nôn thốc nôn tháo, nôn tới mật xanh mật vàng. Tôi nằm không yên, ngồi không được, cả người nóng như cục than. Anh em đồng đội xúm vào và may mắn gia đình bà cụ là dân địa phương biết ngay tôi bị say sắn. Mãi sau này tôi tìm hỏi được biết trong sắn có những hóa chất gì đó nhất là sắn tươi, rất độc, nếu ăn nhiều quá lại không hợp có thể chết như chơi. Người con bà cụ cho tôi uống một hơi ba bốn bát nước nấu với một ít lá cây gì đó tôi cũng chẳng hiểu. Đầu óc tôi lơ mơ như say như tỉnh, tứ phía quay cuồng. Bát nước đầu chưa xuống đến dạ dày lại ói ra. Người nhà nông vẫn ép. Tới bát thứ ba thứ tư gì đó, anh ta vỗ vỗ vào lưng tôi:

    - Không sao đâu. Không chết được đâu. Lá này chuyên trị say sắn tài lắm.

    Và thật là nhân đức. Anh ta ngồi cạnh tôi kiên nhẫn bắt tôi uống thứ nước lá gia truyền, ói lại uống, cho đến gần sáng, tôi lả người đi, nằm xoải ra trên nền đất.

    Tôi bị liệt giường liệt chiếu gần một tháng, lúc gượng dậy soi gương thấy mình là một người khác.

    Đó là đối với tôi, một thanh niên đang độ cường tráng và đã trải qua hơn một năm quen cảnh tù đầy. Nhưng đối với tù cải tạo từ Nam ra, đối phó với cái đói cái rét khó khăn hơn nhiều. Tập thể tù cải tạo khác hẳn tù binh. Tương đối tù binh vốn là sĩ quan nên khá đồng dạng và có thể vì chúng tôi bị bắt tại trận trong lúc cuộc chiến chưa thật tình ngã ngũ nên niềm kiêu hãnh vẫn được duy trì. Tù binh đã bảo bọc nhau, đoàn kết và giữ phẩm cách để ngay chính những người cai tù cũng có phần e dè kính nể. Nhưng tập thể Quân Cán Chính miền Nam bị dồn đi học tập lại khác. Có vẻ như trại tù là phản ánh của một xã hội miền Nam thu hẹp lại. Khó mà tưởng tượng được một ông thứ trưởng, một ông dân biểu, một vị đốc phủ sứ cả đời nhung lụa nay bỗng đói, bỗng khát và bỗng bị khổ sai. Người Cộng Sản có biệt tài tha hóa con người, đẩy mọi cá nhân vào tận cùng của đáy vực khổ đau, sử dụng miếng ăn như một võ khí để bẻ gãy mọi đề kháng. Tôi đã chứng kiến cảnh những tai to mặt lớn cãi nhau vì bát cơm này đầy hơn bát cơm kia, cảnh tố cáo nhau, làm ăng ten để bớt khổ bớt đói.

    Tôi nhớ mãi ông thẩm phán già, ông Nguyễn Văn Thông. Ông vốn là sĩ quan Quân Pháp đã về hưu nhưng dại dột đi trình diện học tập vì tưởng “đi cho xong, cho nó nhẹ người.” Ông bị gán cho đủ thứ tội và phải đi Bắc vì thuộc thành phần ác ôn. Trầm tĩnh, ít nói, chịu đựng nhưng từ ông là một cái gì nhân ái, tình người luôn tỏa ra. Ông bảo với tôi:

    - Môn võ trong tù là ít ăn ít nói. Càng ít nói càng tốt. Càng ít ăn còn tốt hơn nữa. Và nhất là muốn trở về thì đừng làm anh hùng.

    Tôi không bao giờ muốn làm anh hùng. Tôi vốn là đứa ít nói nhưng cái ăn không lúc nào không ám ảnh tôi. Bản tính tôi khảnh, nhưng từ xưa lại hay ăn vặt, lúc đi lính, ngay cả khi hành quân, lúc nào ba lô cũng có ô mai, kẹo để buồn mồm thì nhai. Có những đêm trời lạnh như cắt, gió núi lùa vào như những mũi gai, tôi sực tỉnh để thấy mình vừa mơ đang nhai kẹo lạc.

    Tôi gọi ông Thông là Bác vì trọng nể tư cách và trọng nể tuổi tác. Tôi và ông Thông đã bị gọi lên làm việc một buổi vì chuyện này. Viên quản giáo vừa thấy tôi và ông Thông là đập bàn:

    - Hai anh đã học thông suốt nội qui trại chưa?
    - Chúng tôi lúc nào cũng chấp hành nội qui của trại.
    - Láo. Các anh láo. Các anh vẫn còn duy trì tác phong Ngụy. Vẫn đặc sệt đầu óc quan lại.

    Tôi và ông Thông lúng túng chờ đòn tiếp:

    - Các anh biết nội qui trại yêu cầu mọi người phải cư xử bình đẳng. Anh Dũng, anh gọi anh kia là gì?

    Tôi chột dạ nhìn người quản giáo tóc bù xù và mặt thì đen quắt lại, giả lả:

    - Ông Thông là bạn với gia đình từ lâu tôi vẫn gọi là bác nên quen miệng.
    - Láo. Cả nước chỉ có bác là Bác Hồ. Anh định dụng tâm gì vậy? Anh định bôi nhọ chế độ hay sao? Nội qui nói rõ phải sưng hô là anh, không có cái kiểu rởm ông này bà nọ, không có cái thói quan liêu chú cháu gì nữa.

    Tôi và ông Thông đã phải viết tờ kiểm điểm tới bốn tối liền. Lần đó ông Thông thì thầm trong đêm:

    - Họ thế cả. Họ muốn phạt ngang phạt dọc để chặt bằng mọi thứ, cây già cây non, cổ thụ hay giây leo, cứ phạt cho ngang nhau là khu rừng trở thành đẹp đẽ lý tưởng và ta có một xã hội chủ nghĩa lý tưởng.

    Cái so sánh của bác Thông làm tôi tủm tỉm cười trong đêm, nhưng quả là khó cho tôi khi phải gọi ông là anh. Đối với tôi đó là một sự bất kính, và là một băng hoại của nếp sống của dân tộc.

    o O o

    Lịch sử sau này chắc chắn phải đưa ra những lý do khiến miền Nam sụp đổ. Những lý do tất phải nhiều nhưng có những lý do phải là người đương thời, những kẻ trực tiếp can dự, sống trong cuộc chiến mới cảm nhận được. Với cá nhân tôi, tôi vẫn nghĩ là quân dân miền Nam diễu cợt, thiếu nghiêm chỉnh và thờ ơ. Tôi nhớ mãi khoảng một thời gian sau khi bị động viên, lúc còn đang ngu ngơ ở tiểu khu Phước Long, Trong một lần về phép được hầu chuyện với các vị thức giả ngồi xoa mạt chược ở nhà chú Trung. Tôi không nhớ ai vì tới sáu vị – phải đánh tới gió xồi – nhưng dù xoa, mọi người vẫn bàn chuyện nước. Vừa xoa vừa nói chuyện chính trị, thời cuộc, càng hào hứng. Một vị đã phát biểu:

    - Cái thế tất yếu là miền Nam sẽ thắng vì chúng ta vừa đánh vừa dưỡng. Hà Nội dốc toàn lực, nay hết đáng sợ không còn sức dể kéo dài. Quí vị thấy bộ đội Bắc Việt bị bắt trong trận Mậu Thân mặt mũi non choẹt, có khi mới 16, 17 tuổi. Phải sử dụng đến con nít, tôi e miền Bắc kiệt quệ, hết nhân lực rồi.

    Cái quan điểm rất lãng mạn và đầy lạc quan đó đôi khi còn được phản ánh nơi cung cách ăn nói. Phản chiến thế giới um sùm về vụ chuồng cọp và cán bộ nằm vùng đã giật giây để có được “Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù”. Chuồng cọp bỗng trở thành biểu tượng cho miền Nam với tất cả xấu xa được gán ghép.

    Thế Chuồng Cọp có đáng sợ như Kiên Giam không? Đối với lính tráng miền Nam, Chuồng Cọp chẳng qua chỉ là một sự ví von, diễu cợt. Đơn vị nào ở hậu cứ cũng đều có Chuồng Cọp để phạt những binh sĩ ba gai, ba đồ, thiếu kỷ luật. Đi phép mười ngày nhưng một tháng sau mới lò dò về trình diện thì phải ngồi chuồng cọp. Say rượu đánh nhau thì phải ngồi chuồng cọp. Đó là một khoảng đất trống rộng độ năm sáu mét vuông, được quây bằng giây thép gai. Kẻ bị phạt ngồi trong đó nhưng đa số đều chấp nhận trong cái suy nghĩ của mình – làm bậy nên cấp chỉ huy phạt. Họ vẫn được ăn uống tử tế và ngay cả những nhu cầu vệ sinh tối thiểu cũng vẫn được hưởng. Nhưng bỗng nhiên mấy ông nhà báo, mấy ông quay phim ngoại quốc thổi phồng lên, khiến cả thế giới nói đến Chuồng Cọp và vẽ vời rằng Chuồng Cọp là một hình thái đầy ải tù binh, hành hạ cán binh cộng Sản bị giam giữ ở Côn Sơn, ở Phú Quốc, một biểu tượng đầy tàn ác, thiếu văn minh, không có dân chủ, độc tài quân phiệt của miền Nam. Người ngoại quốc nhìn thấy cái Chuồng Cọp với một kẻ ngồi thu lu trong đó hẳn phải rùng mình. Nhưng họ có bao giờ được biết rằng ngồi Chuồng Cọp đôi khi lại là lúc phè nhất. Nhưng nội nghe cái tên Chuồng Cọp đã rởn tóc gáy. Hỡi ơi, thế giới không nói đến Kiên Giam. Phải chăng Kiên Giam – chữ của Cộng Sản Trung Quốc – nghe nó nghiêm chỉnh hơn cái ví von Chuồng Cọp của binh sĩ miền Nam? Và khi cả triệu quân cán chính miền Nam bị đầy đọa, tại sao báo chí thế giới không ghé mắt vào xem Kiên Giam? Đã có bao nhiêu tù chết trong những lò Kiên Giam?

    Suy nghĩ trên có lý do của nó. Tôi đã bị Kiên Giam và nếu không nhờ có sức thì e đã đi tàu suốt.

    Mọi sự bắt đầu từ kỹ thuật khai thác sức lao động của tù. Tù nhân được lao động theo chế độ khoán, làm xong là nghỉ. Một ngày chặt 50 cây tre, đủ tiêu chuẩn thì đạt, và những người cai tù, những bảo vệ lúc nào cũng rêu rao: “Các anh cố làm nhanh nghỉ sớm.” Nhưng đến tối về học tập kiểm thảo thì tiêu chuẩn lại được đưa ra thảo luận. Tại sao anh A làm có nửa buổi là xong mà những người khác cố tình bê trễ để đến tận chiều tối chưa rồi? Ý kiến lên ý kiến xuống để cuối cùng phải nâng cao tiêu chuẩn, mỗi ngày thay vì 50 nay nâng lên 60 cây tre. Tù được khuyến khích để tự mình đẩy mình vào cái thòng lọng xiết cổ.

    Toán tôi lúc đó cỡ gần năm chục nhân mạng trong đó có độ mười anh em tù binh, còn lại là tù cải tạo từ miền Nam ra. Chúng tôi được điều đi nhổ mạ, khoán mỗi người mười mét vuông. Đứng ngoài nhìn vào nhà nông làm sao dễ thế nhưng khi chính mình phải cong lưng giữa đồng mới thấy công việc không dễ, không nhẹ nhàng gì cả. Nhổ một nắm mạ phải rũ hết đất bùn ở rễ, sau đó gom lại thành từng bó lớn. Lá mạ tuy non nhưng rất sắc cứa vào bàn tay đôi khi rớm máu. Cái đáng sợ nhất là ruộng mạ non thường là hơi sấp sấp nước, chân lúc nào cũng phải ngập dưới bùn và để nhổ mạ, luôn phải ở thế cúi lom khom.

    Mười mét vuông không phải nhỏ, và nếu được lứa, mạ rất dày. Lưng tôi như còng đi, gập xuống và mỗi lần đứng thẳng dậy phải rất từ từ vì bắp thịt và xương sống như dãn ra, như co lại mỏi nhừ. Chúng tôi đã rỉ tai với nhau để ì à ì ạch, làm thật chậm để mong ngày mai bớt tiêu chuẩn. Nhưng một ông bạn tù to lớn làm rất nhanh, vèo một cái đến tầm trưa là xong. Người bảo vệ cho anh ta nghỉ để linh tinh. Cái chữ linh tinh đúng là linh tinh vì anh ta có dịp đi bồi dưỡng lẻ. Anh ta mò mẫm đi tìm con cua, con ốc, kiếm thêm tí rau tăng khẩu phần. Cả đội vẫn lui cui nhổ mạ và đã có tiếng xì xào. Trên đường về anh bạn tù nhơn nhơn bảo anh ta đói quá, to con lớn xác nên cần ăn nhiều. Ô kìa ai chẳng đói? Sống trong trại tù – nhất là tù Bắc trong những năm 78, 79 – không đói thì chỉ có là thánh. Mười sáu ký lô tiêu chuẩn giấy tờ nhưng thực tế bị ăn đầu ăn đuôi e còn được mười hai ký. Chữ thực phẩm cũng mù mờ, có thể là gạo nhưng đa phần là bột mì, đôi khi là sắn. Lao động khổ sai và học tập liên miên, tù trông như những bộ xương biết đi. Đâu phải chỉ có mình anh đói?

    Cuộc kiểm thảo tối đó sôi nổi và anh chàng to khoẻ ăn nhiều được tuyên dương và để noi gương anh hùng của anh ta, tiêu chuẩn nhổ mạ tăng lên mười lăm mét vuông. Hôm sau người hùng làm còn hăng hơn nữa trong khi cả đội lệt bệt hẳn so với hôm đầu. Hai tù binh – Trung úy Ngọc và Thiếu úy Lâm – cùng nhóm với tôi từ ngày đầu khi trại tù binh giải tán – đâm lì, nhất định không chịu lao động nữa, ngồi trên bờ ruộng. Ngay khi về đến trại, họ bị tách riêng ra và bị kiên giam ngay lập tức vì có “lập trường ngoan cố“.

    Trước đây tù binh được giữ riêng nhưng kể từ khi tù cải tạo được chuyển ra Bắc, các trại từ đều có thường phạm. Những người tù thường phạm được giam ở những căn láng chen lẫn với tù cải tạo, đôi khi có những bức tường thấp ngăn ra. Nội qui trại nào cũng cấm đoán những liên hệ giữa hai loại tù nhưng trên thực tế, tù thường phạm là một nguồn cung cấp cho tù cải tạo. Cái gì cũng có thể mua bán đổi chác được hết. Một điều lạ là đa số tù thường phạm còn rất trẻ. Họ đều mang những án tích nghe đến rợn người, từ trộm cắp, hiếp dâm cho đến cướp của giết người. Họ như những con thú hoang sống bất cần đời, tù ngục đối với họ trở thành nhà. Chính những người bị Xã Hội Chủ Nghĩa ruồng bỏ lại là những người đầy nhân tính, đầy óc giang hồ chi nghĩa, sẵn sàng sống chết vì bạn bè, vì những điều mà họ cho là phải, là đúng. Họ cũng là những người tò mò muốn tìm hiểu về miền Nam, về những cảnh sống mà như Sáu Sẹo nói với tôi:

    - Em tin là anh kể chuyện thật. Nhưng như vậy thì tụi em bị lừa, lừa từ lúc mới đẻ ra cho đến khi lớn, bị lừa cho đến già. Cả đời bị lừa, cả nước bị lừa.

    Không hiểu vì sao Sáu Sẹo lại thân với tôi. Bắt đầu Sáu làm thân trước, thấy tôi ngồi một mình thơ thẩn, Sáu đến chào và đưa thuốc mời. Sau này Sáu bảo trông tôi giống người anh bị chết ở Lào. Tỉ tê đử thứ. Tôi kể chuyện miền Nam. Sáu Sẹo kể chuyện miền Bắc. Bố của Sáu là liệt sĩ, là bộ đội được điều đi Nam và tử trận. Sáu có một bà mẹ mù lòa và một cô em:

    - Ở đâu bây giờ chả biết. Nó lấy chồng mạn ngược, không liên lạc thư từ gì nữa. Chắc sợ rắc rối lý lịch.

    Sáu có bí danh Sáu Sẹo vì bị thương trong một trận hỗn chiến với công an. Viên đạn xuyên qua mặt trổ từ má phải sang má trái. Sáu bảo:

    - Nhích lên nhích xuống một li là ông cụ làm em chết thẳng cẳng. Vậy mà không gẫy răng. Thằng bác sĩ bảo may mà viên đạn xuyên qua không chạm vào răng, vào hàm, không thì cũng đi đứt.

    Không chết nhưng hai bên má Sáu lõm xuống thành hai vết sẹo và giọng nói cũng hơi ngọng đi. Sáu Sẹo học hết lớp bẩy thì bắt đầu sống bờ sống bụi và án tích chồng chất vì đủ thứ tội cho đến khi chém chết một viên công an thì bị chung thân. “Em chết trong tù không sao nhưng cứ thương mẹ em.” Bất cần đời, sẵn sàng ăn thua đủ, Sáu sẹo trở thành trùm của một đám tù lau nhau.

    - Chúng em phải dựa vào nhau mà sống. Lơ mơ là chúng nó đè lên đầu.

    Ông Thông thấy tôi kể chuyện bảo:

    - Những hình ảnh như vậy thấy nhan nhản trước mắt. Ông cứ nhìn mấy anh em tù hình sự thì thấy ngay. Nhưng họ khác mình khác, không đồng thì không hòa được. Tôi nghĩ là ông nên đề phòng nên lơi lơi tránh xa xa một tí.

    Người già và có kinh nghiệm sống lúc nào chẳng dè dặt.

    Khi hai người bạn tôi bị kiên giam, cả đám tù binh như xìu xuống và đội thì ít lao xao hẳn đi. Tôi đã chứng kiến những người bị kiên giam lúc thả ra, có người đi không được chỉ bò, có người thần trí lẫn lộn cả tháng sau vẫn còn ngu ngơ. Cái đáng sợ hơn nữa là hai ông Ngọc và Lâm bị giam mà không có thời án, không rõ bị đến bao giờ.

    Khoảng ba bốn ngày sau tôi xoay sở được mấy chục viên vitamin C. Tôi nghĩ đây là cách hay nhất để giúp hai ông Ngọc và Lâm. Nhưng làm sao để chuyển cho họ?

    Dãy xà lim kiên giam được xây ở rìa trại, cách li với tù bằng một hàng tường thấp nhưng phía trên có rào kẽm gai. Dò hỏi lân la tôi được biết là họ ở xà lim số 6 và số 7.

    Chủ nhật đó, tôi đánh tiếng Sáu Sẹo tới ngay. Nghe xong, Sáu bảo:

    - Được, để em lo vụ này cho, anh yên tâm. Quăng vào cái gói tí xíu này dễ mà. Tưởng cái gì to lớn mới sợ.

    Đêm hôm đó Sáu Sẹo vượt tường vào. Xà lim số 6, số 7 trống không không có ai. Sau này tôi mới rõ buổi chiều không hiểu vì lý do gì hai ông Lâm và Ngọc bị đổi sang xà lim số 1 và số 8. Sáu Sẹo đâm lao thì phải theo lao, thò miệng qua lỗ thông hơi hỏi từng phòng và cuối cùng thì cũng vứt hai gói vitamin vào đúng chỗ đúng người.

    Nhưng không hiểu sao, hôm sau đàn em của Sáu Sẹo báo cho hay Sáu bị gọi lên làm việc cả ngày đến tối cũng chả thấy về. Tôi vừa lo vừa sợ, lòng như lửa đốt. Quả nhiên ngay sau đó tôi được lệnh không phải ra ngoài lao động và khi lên làm việc, tôi bị dội ngay một loạt những lời quát tháo. Tôi suy nghĩ kỹ, nhất định phải cứu Sáu Sẹo. Cách hay nhất là chối phăng để trì hoãn. Làm việc – tức hỏi cung – cả buổi, tôi vẫn khăng khăng chối coi như không biết chuyện gì xảy ra. Nhưng đến lúc được trả về, vừa đứng dậy, viên công an cười khẩy:

    - Từ sáng đến giờ anh vẫn không nhận chủ mưu phá rào liên lạc với tù bị kỷ luật kiên giam. Tôi cho anh về suy nghĩ nhưng thằng Sáu Sẹo nó khai hết cả rồi.

    Tôi chết lặng. Từ đầu tôi không nói và công an cũng không nhắc đến tên Sáu cho đến lúc này. Tôi thất thểu ra về, phía sau còn vẳng tiếng cười gằn của viên công an. Cách hay nhất là làm cho mọi chuyện nhẹ đi. Hôm sau tôi nhận, tôi khai giản dị:

    - Tôi không làm điều gì quá đáng. Chỉ gửi cho mấy anh vài viên vitamin C.
    - Vitamin ở đâu ra?
    - Cán bộ cũng rõ, xin anh em mỗi người một viên.
    - Anh đừng có láo. Tôi đố anh xin được nửa viên. Ngữ anh ai mà cho?

    Tôi mắc đủ thứ tội. Liên hệ trái phép với tù thường phạm. Mua bán trái phép ngược nội qui, âm mưu thông đồng với tù thường phạm để phá vỡ kỷ luật trại. Liên lạc trái phép với tù bị kiên giam. Tụ tập, toa rập lập bè đảng để chống phá trại. Tôi thú thật cũng không còn minh mẫn để nhớ hết tội danh. Tối hôm đó, một đàn em của Sáu liên lạc với tôi:

    - Anh khai tên Sáu Sẹo rồi phải không? Anh bị tụi Công An nó lừa rồi. Sáu Sẹo bị đánh thừa sống thiếu chết nhưng cắn răng không khai. Nhưng công an chìa cho coi lời khai của anh và nó bị điệu đi rồi.

    Tôi phát hoảng:

    - Điệu đi đâu?
    - Có trời mà biết. Tụi em thấy chúng nó lôi thằng Sáu Sẹo xềnh xệch ra khỏi trại, e bị dần mềm xương, dám gẫy chân rồi.
    - Liệu có bắn không?
    - Cần gì bắn tốn đạn. Chúng nó kiên giam ở trại khác ít lâu sau thì cũng chết.

    Tối hôm đó tôi chập chờn trong giấc ngủ ma quái và sáng hôm sau vừa bước vào phòng làm việc, viên công an nhìn tôi tủm tỉm cười nhẹ nhàng:

    - Anh lo lắng cho hai anh Ngọc Lâm. Để chứng tỏ lượng khoan hồng, hai anh ấy được tha về đội. Nhưng trại không thể không duy trì kỷ luật với những đứa ngoan cố như thằng Sáu Sẹo. Nó cứng đầu ra cái điều hảo hán giang hồ, từ nay nó không gặp lại anh nữa đâu.

    Nói xong viên công an nheo mắt nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi chợt thấy trước mặt tôi không phải là khuôn mặt của một con người. Nó méo mó dị dạng không ra hình thù gì nữa. Cái khuôn mặt có cái mồm rộng hoác và hàm răng nhô ra thụt vào đó hắt vào mặt tôi lời kết án chung thẩm:

    - Anh cũng giống thằng Sáu. Tội anh còn to hơn vì anh chủ mưu. Anh bị phạt kiên giam hai tháng để suy nghĩ và cải hối.
    Ngay lập tức hai viên công an từ phía sau có AK kè tôi đi. Trước khi đạp tôi vào căn xà lim tối om, họ lục xoát, moi hết của tôi mọi thứ vất đi, cả đôi dép râu cũng bị lột. Trời cuối tháng Mười Một ta bên ngoài lạnh cắt nhưng chưa thấm gì so với phía trong xà lim, bởi cảm nhận đầu tiên khi cánh cửa sập lại đối với tôi là cái lạnh buốt cả từ ngoài vào lẫn trong tâm can ra. Tôi ngồi bệt xuống sân xi măng tê tái.

    Độ mươi mười lăm phút sau khi cánh cửa sập lại, tôi nghe tiếng thét từ phòng bên trái:

    - Tên gì?
    - Dũng.
    - Tù gì?
    - Tù binh.
    - A ! Bao lâu?
    - Biệt giam hai tháng
    - Ăn thua mẹ gì.

    Sau đó là im lặng. Tôi lớn tiếng hỏi lại theo đúng ngôn ngữ của ông bạn bên kia:

    - Tên gì?
    - Đồng.
    - Tù gì?
    - Thường phạm.
    - Bao lâu?
    - Không thời hạn. Ở đây bốn tháng rồi.

    Cuộc nói chuyện ngắn ngủi và phải hét rất to mới nghe rõ vì dãy biệt giam được xây bằng xi măng khá dầy. Căn phòng bề ngang độ một thước rưỡi, bề sau khoảng hơn hai thước. Cái khe thông hơi khá cao rộng cỡ nửa gang tay được xây xéo để ánh sáng hắt lên phía trên. Đó là nguồn ánh sáng duy nhất vì phía trước là tấm cửa gỗ dày và cửa sổ có xong sắt cũng kín mít. Tôi đưa tay sờ. Tường láp nháp sần sùi, những cục xi măng nhô ra như những chiếc gai. Mùi xú uế xông lên nồng nực. Tôi rùng mình trước cái viễn ảnh sẽ ở trong cái địa ngục này hai tháng.

    Bên tai tôi vẳng tiếng ông Thông: “Muốn sống sót trở về thì đừng làm anh hùng”. Liệu cái hành động gửi mấy viên thuốc vitamin C vào cho bạn bè có phải là hành động anh hùng không? Nếu tôi không thoát nổi căn hầm tối này, thì đó có phải là cái chết anh hùng không? Liệu trường hợp tương tự xảy ra vào ngày mai, ngày mốt, tôi có lại gửi thuốc cho bạn bè không?

    Tôi không suy nghĩ gì được nhiều vì có tiếng lách cách mở cửa sổ chấn song. Một bát lưng cơm được chuồn vào. Người đưa cơm chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi. Từ sáng tới giờ tôi chưa ăn gì nhưng không thấy đói, dạ dày chắc co thắt lại, không tiết chất chua để đòi hỏi. Tôi đã có dịp nhìn những người tù ra khỏi phòng kiên giam. Có người đi không nổi chỉ còn bò lê. Có người ngơ ngơ ngác ngác như mất hồn. Tôi để bát cơm trên nền xi măng ngắm nghía. Cái bát sắt dầy dặn có lẽ được sản xuất ở Trung Quốc, nhiều chỗ sơn đã long trơ cái cốt sắt phía trong. Tặc lưỡi, tôi bốc từng nhúm những hột cơm mầu vàng ệch bỏ vào miệng nhai kỹ. Đừng để quỵ. Đừng chết. Không thể thua được.

    Tôi không biết đó là bữa cơm duy nhất trong ngày. Tù biệt giam ở trại này chỉ có một lưng bát cơm một ngày. Tôi nói ở trại này vì mỗi trại có cách đối xử khác nhau, tùy nơi. Sau này tôi được nghe có trại hễ kiên giam là bị xiềng ngồi, ngồi giống kiểu đóng gông thời Pháp, có nơi bị khóa hai chân, có nơi khóa cả chân lẫn tay, có nơi một ngày được ăn tới hai lần. Một ông bạn tù còn kể rằng có những tù được nuôi bằng cơm trộn muối, lượng muối nhiều hơn cơm để cho mau chết. Riêng ở đây là một bát một ngày.

    Tôi quyết định phải tự duy trì sức khoẻ và bắt đầu ngay lập tức. Tôi đi vòng quanh đếm. Nếu đi bước ngắn là hai mươi hai bước, đi sãi chân bước dài thì chỉ mười bước. Tôi đi không biết bao lâu, cắm cúi đi, đầu óc trống rỗng. Tôi chợt khám phá cái dụng tâm của bưc tường xi măng xù xì gai gốc. Tôi không thể ngồi dựa lưng vào bức tường được. Tôi mệt quá ngồi bệt xuống sàn láp nháp, ôm đầu gối gục đầu trong thế ngủ ngồi.

    Trời tối từ lúc nào tôi cũng không rõ. Tôi sực tỉnh vì lạnh quá. Gió lùa qua khe thông hơi như rít lên trong đêm âm u. Chung quanh tôi là bóng tối dày đặc, là cái im lặng đến rợn người. Tôi mò mẫm đến góc phòng cầm cái ca nước lên nhấp một chút. Nước lạnh điếng. Nhất định không để cái buồn chán xâm nhập, tôi bèn vừa đi quanh vừa hát. Câu đầu tiên buộc ra khỏi miệng là “này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng…”. Mới đến đó tôi khựng lại. Phải chăng là phản xạ tự nhiên? Phải chăng là tự tiềm thức? Tại sao lại là bài hát tôi đã từng lúng búng trong miệng bao nhiêu năm trời không thuộc hết bài đó lại bật ra vào lúc này. Tôi lắc đầu xua đuổi những hình ảnh tới tấp trở về trong ký ức. Tôi hát một lèo hết bài quốc ca, hát đầy đủ và hát đi hát lại cả chục lần. Cái lạnh rừng núi vẫn không giảm. Tôi hét:

    - Tên gì?

    Và tự trả lời:

    - Tên Dũng. Đỗ Lệnh Dũng. Trung úy Đỗ Lệnh Dũng, số quân 66-168-330

    Loay hoay mãi mệt phờ, tôi lại ôm gối ngủ ngồi cho đến khi có tiếng mở cửa. Ba người đứng đó, một tù và hai cai tù. Người tù xách vào một xô nước. Chắc nhận ra tôi là ma mới, anh ta nói rất nhanh;

    - Một tuần một lần vào thứ sáu. Nước để vệ sinh. Mười lăm phút thôi.

    Anh ta nói chưa dứt thì đã có tiếng quát:

    - Không được nói chuyện với tù kỷ luật.

    Cánh cửa sập lại rất nhanh. Từ lúc vào đây tôi đi tiểu hai lần nơi cái lỗ cống thông ra ngoài. Tôi nhìn xô nước lưng lưng, nhẩm tính và quyết định. Gia tài duy nhất của tôi là một cái bát sắt và một cái lon sắt đựng nước uống. Tôi lấy đầy nước vào đó, cẩn thận để ở đầu phòng phía trước. Sau đó là vục tay lấy nước rửa mặt. Nước lạnh buốt nhưng tôi rửa đi rửa lại, cúi xuống vốc từng vốc lên đầu lên cổ. Tôi cố gắng để nước không văng ra ngoài. Xong tôi thọc từng chân vào ngâm, rửa. Phải nói lại là nước lạnh vô cùng nhưng tôi cảm thấy như mình hẳn khoẻ ra, mình là một người khác. Cuối cùng tôi đổ nước ra sàn, dùng chân di đẩy nước ra chỗ cống.

    Tiểu thuyết viết về tù tôi đọc khá nhiều từ những cuốn phải đọc khi đi học như Le Conte de Monte Cristo cho đến những cuốn tả cảnh tù của dân Do Thái và cả cuốn sau cùng Le Papillon. Hỡi ơi làm gì có con rệp để làm bạn. Làm gì có cảnh bớt cơm ra nuôi con chuột. Óc tưởng tượng của nhà văn quả là phong phú. Tôi chỉ đối diện với tôi và bóng tối. Cái ông tù hình sự bên cạnh sau mẩu đối thoại chớp nhoáng đã không hề lên tiếng tiếp.

    Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Nhưng với tù biệt giam thì một ngày dài hơn cả thiên thu. Tôi xoay trở, bày đủ thứ trò cho hết ngày. Tôi tập võ. Tất cả các thứ võ đều là tự chế, múa loạn đả quyền, nhớ ông Lý Tiểu Long, ông La Liệt và múa theo các ông ấy. Tôi hát không chỉ là quốc ca mà còn những bài học của ông Thiếu úy Định trong quân trường Thủ Đức. Tôi quay sang niệm phật. Câu danh ngôn của Mao Chủ Tịch: “Tôn giáo là thuốc phiện“. Tôi rất cần thuốc phiện vào lúc này. Nhưng dù gia đình theo đạo Phật, có bàn thờ Phật ở nhà nhưng tôi không biết tí ti gì về Phật Giáo cả. Cả đời tôi, tôi đi chùa không đến một chục lần và cũng không bao giờ đọc xuôi một bài kinh, bài chú trong các khóa lễ. Nhưng tôi đang cần thuốc phiện. Tôi cần một niềm tin nào đó, tôi chân thành quì xuống, trang trọng chấp tay và khấn Nam Mô Bổn Sư Thích Cà Mâu Ni Phật. Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Đó là tất cả vốn liếng tôn giáo của tôi. Tôi không rõ Phật Tổ, Phật A Di Đà và Phật Quan Âm có nghe tôi niệm tên các vị không nhưng tự đáy trong lòng tôi thấy một niềm tin thành tín và từ đó một cảm nhận đầy yên ổn. Nhưng cũng kể từ đó cho đến nay, tối tối tôi vẫn chấp tay niệm ba vị Phật một cách chân thành.

    Hai ngày trôi qua và giữa đêm thứ ba thì tôi nghe tiếng thét tiếng gầm vọng ra từ phòng ông bạn thường phạm. Có lúc thì quát tháo. Có lúc thì gầm gừ nhưng âm thanh nghe tắc nghẹn, tức tưởi không thành tiếng. Tôi vươn người rướn cổ qua khe thông hơi:

    - Tỉnh đi. Tỉnh đi. Đừng có sợ.

    Ông bạn đang lên cơn điên? Ông bạn đang mơ gặp cơn ác mộng? Tôi không biết và chính tôi, tôi ngạc nhiên vì lời nói của mình. Đừng có sợ. Hay tôi đang nói với chính tôi.

    Ăn uống, ngủ nghê, tiểu tiện, đại tiện, thế giới của tôi lúc nào cũng là ánh sáng lờ mờ hắt vào trên trần từ khe thông hơi hoặc tối âm u trong đêm. Mỗi ngày một bát lưng cơm, một ca nước. Đến một ngày đầu óc tôi mụ đi, người như muốn quỵ xuống. Có những lúc tôi lịm đi, vật ra trên sàn nhưng rất nhanh cái lạnh đẩy tôi bật dậy. Những quyết tâm lúc đầu như tập tành, đi bộ, hát hò, mỗi lúc một trở nên thưa thớt. Tôi đuối dần. Tôi gục xuống là mơ thấy Dung, là mơ đến bố mẹ, các em. Hễ lịm đi là thấy Sài Gòn, thấy Phước Long. Có lần tôi nhổm cả người để nhảy khỏi giao thông hào ở chi khu Đôn Luân vì mơ thấy cả chục chiến binh Cộng Sản cầm lưỡi lê xối xả đâm. Râu tôi đâm tua tủa, râu mép dài che cả mồm miệng. Tóc tôi phủ gáy. Tôi ngửi thấy mùi xú uế ngay từ người tôi tỏa ra. Tôi đứng lên nhưng hai đầu gối run lập cập như muốn khuỵu xuống. Tôi mất hẳn ý niệm về thời gian.

    Tôi nhớ mãi buổi sáng hôm đó, chắc chắn là ngày thứ sáu. Khi cái xô nước được để lại, tôi không còn sức để ngóc đầu lên. Tôi co quắp dưới sàn ngước nhìn. Khi trở lại để lấy cái xô, người tù xách nước nhìn tôi và quay sang nói với viên cai tù:

    - Chắc chết rồi.

    Viên cai tù bước vào, bên vai vẫn xệ khẩu AK. Gã cúi xuống nhìn. Tôi ngước lên nhìn lại. Gã đá vào chân tôi rồi cầm cả xô nước tưới lên đầu lên cổ tôi rồi quẩy quả bỏ ra, xập cửa lại, không nói một lời.

    Nước lạnh đẫm người làm tôi tỉnh hẳn. Niềm tủi hổ, nỗi nhọc nhằn và tôi uất lên như nghẹn giọng. Tôi chồm dậy thừ người. Không lẽ tôi chết như một con chó hoang?

    Tôi cởi hết quần áo ra vắt cho ráo nước. Tôi di cho nước trên sàn chẩy vào đống phân tụ ở góc phòng. Một sức mạnh từ đâu kéo về, tôi gượng được và bắt đầu men theo tường đi từng bước. Tôi cố gắng không chết như một con chó. Tôi tự nắn và thấy xương tôi nhô ra, nhưng không thể chết như thế này. Từ từ, từng chút một tôi lại tập, lại hát, lại niệm Phật. Tôi nhai từng hột – đúng là từng hột – để có việc làm cả ngày. Đúng khoảng một tuần sau, khi xô nước được mang tới, viên cai ngục bảo:

    - Rửa cho sạch sàn nhà rồi đi ra.

    Tôi ngớ người chưa hiểu, thì gã quát:

    - Mày muốn ở luôn trong này à? Mau lên. Thối quá. Thối quá.

    Tôi mãn hạn biệt giam, thất thểu đi khỏi cái địa ngục mà chỉ chút nữa tôi đã bỏ mạng trong đó. Buổi tối khi mọi người lao động về, ông Thông đỡ tôi dậy, nghiêng bát cháo cho tôi húp, giọng thì thào:

    - Lạy trời, ông chưa đến nỗi nào. Tuần trước tụi nó xì xào ông sắp chết ở trong đó.
    - Cũng chỉ sắp chết chứ chưa chết.

    Và tôi nhắc lại câu của ông từng nói nhiều lần:

    - Thì vẫn phải nhớ muốn sống sót đừng làm anh hùng. Và có lẽ phải nói muốn sống sót thì phải làm sao để đừng gục ngã.

    Đói triền miên. Đói tả tơi. Đói đến nỗi đầu óc chỉ nghĩ đến cái ăn, đêm đang ngủ bỗng bật người dậy vì mơ đang ăn chè xôi nước của bà già vẫn quang gánh bán rong với tiếng rao lanh lảnh xa… Ai… xôi.. nước. Nhà nước – với đại diện là những ông quản giáo, những ông bảo vệ – luôn luôn sử dụng miếng ăn như một thứ vũ khí trấn áp tù. Cắt khẩu phần là hình phạt phổ thông nhất. Dù đang ở trong tù nhưng qua những lần đi lao động, qua những gì tù thường phạm kể, lũ tù chúng tôi từ Miền Nam vẫn không ý thức rõ ràng về cái đói cái khổ, nghèo nàn của Xã Hội Chủ nghĩa. Trong đám tù thường phạm có rất nhiều em nhỏ đã phạm tội đại hình chỉ vì đói quá đâm liều. Khi đói – phải nói rõ là đói đến tận cùng – không ai có thể chia xẻ cho ai. Đã biết bao nhiêu cảnh đau lòng xảy ra khi chia cơm để rồi có một toán chế ra cái cân bằng tre để cân từng bát cơm cho đều. Toán tôi bốn người đều là tù binh nên tương đối nhường nhịn nhau và cái óc tếu, cái tinh thần lãng mạn khiến chúng tôi bày trò chơi hụi.

    Vào những năm 1977 – 1978, kinh tế suy sụp đến đáy đen, mỗi sáng trước khi đi khổ sai, tù được phát mỗi người một nắm bột luộc to cỡ nắm tay. Có lần tôi ngớ ngẩn hỏi: “Sao không nướng có phải là ngon hơn không?” thì một ông bạn tù trợn mắt mắng:

    - Ông là tù hay là cách mạng? Mẹ kiếp nướng thì phải có lò, tốn củi, phải trộn bột, phải có bột nổi. Luộc vừa nhanh, vừa gọn, ăn lại no lâu.”

    Một hôm một ông ngốn nhanh quá, xơi hết cục bột luộc và thèm thuồng nhìn cục của tôi đề nghị:

    - Ông cho tôi ăn cục này đi. Ngày mai tôi nhịn, ông ăn phần tôi.

    Tôi nhịn ông ăn. Ông nhịn tôi ăn. Hai ông bạn kia thấy cái trò hay cũng bắt chước. Độ một tuần sau thì chế độ hụi thay đổi vì không ai nhịn được. Mỗi người cấu một phần tư cục bột để nhường cho một ông ăn cho đã, và ít ra ba phần tư còn lại cũng đủ cầm cự cho đến gần trưa.

    o O o

    Nhà nước có chủ trương rõ rệt là tù nuôi tù và nếu tốt hơn nữa thì gia đình tù nuôi tù. Nuôi quan trọng hơn thăm. Nhưng cái gì cũng phải được quản lý chặt. Mười ký. Sau đó mười lăm ký. Những người vợ, người mẹ, vất vả chen lấn để mua được vé tàu từ Nam ra Bắc, rồi phải lặn lội đường rừng đường đất để tiếp tế được cho người tù ít thực phẩm, quả thật là “của mười ký công nghìn vàng“, cái nghìn vàng có lẽ cũng không đủ so với cái vất vả, lo sợ và cái tình của những người đàn bà Việt Nam. Trong giai đoạn đen tối nhất của 77- 78, Đôi khi các ông quản giáo áp dụng đúng đắn quy luật của trại, và đã có rất nhiều gia đình phải đem thực phẩm nuôi tù trở về vì quá qui định.

    Tôi biết thân biết phận, không chờ đợi ai thăm nuôi. Tôi biết chắc chú Hà Bỉnh Trung đang gặp khó khăn với chế độ vì quá khứ của ông. Tôi không mong gì nơi bà bác già nua sống cô đơn ở Sài Gòn. Tôi không nghĩ là ông bác cách mạng Đỗ Lệnh Tích lại dòm ngó đến thằng cháu Ngụy quân. Tiến trình cách mạng của ông không thể bị hoan ố vì một chuyện dấm dớ như vậy. Còn gia đình tôi, bố mẹ và các em tôi? Sự việc xảy ra đến chính tôi cũng không dám mơ tới. Tôi được gọi lên văn phòng và ông quản giáo nhìn tôi:

    - Anh có quà của Hồng Thập Tự Quốc Tế. Bố anh gửi từ Mỹ.

    Tôi lặng người vì mừng rỡ nhưng vẫn giữ thái độ cảnh giác, trả lời vô thưởng vô phạt.

    - Vâng, gia đình tôi hiện cư ngụ tại Mỹ.
    - Đây là giấy báo. Thùng quà còn ở phi trường Nội Bài, Gia Lâm.

    Ông quản giáo chìa cho tôi một mẩu giấy mầu nâu in chữ đen. Tôi ấp úng:

    - Làm sao tôi lãnh được. Chắc chắn phải nhờ cán bộ giúp – Và tôi đánh dứ một đòn – Không bao giờ tôi quên ơn cán bộ.

    Chúng mình rõ nhau quá . Lãnh dùm thì phải có đi có lại. Ông quản giáo tủm tỉm cười:

    - Tôi có thể ký giấy nhờ lãnh thùng quà nhưng ai đem nó từ Hà Nội về đây cho anh?
    - Trăm sự lại cũng nhờ cán bộ. Tôi là học viên cải tạo…

    Tôi thấy mình sáng suốt quá, không nói tù mà là học viên. Ông quản giáo cân nhắc:

    - Đảng và Nhà Nước không bao giờ ngăn chặn tình cảm gia đình và tôi thông cảm cho anh nên đã điều nghiên. Muốn chở thùng quà về thì tốn khoảng 50 đồng.

    Trời đất ơi, tôi lấy đâu ra 50 đồng? Tôi nhìn ông quản giáo suy nghĩ:

    - Tôi làm gì có tiền? Nội qui trại…
    - Tôi biết anh không có tiền trong túi nhưng tôi đã đọc hồ sơ lý lịch anh rồi. Khi anh bị bắt có một số tiền Ngụy. Đảng và nhà nước không bao giờ tham lam, tiền đó trại vẫn giữ với cái đồng hồ của anh.

    Có đem dao kề cổ tôi, tôi cũng không tin những gì ông quản giáo vừa nói. Sao trông ông ta đáng yêu đến thế. Tôi nói:

    - Tất cả nhờ cán bộ thu xếp dùm.

    -Anh ký vào giấy này, ủy quyền cho tụi tôi lãnh quà. Mọi chi phí tính vào khoản tiền trại còn giữ của anh, nếu thiếu thì có khi phải bán cả cái đồng hồ đi.

    Tôi ký. Tôi nhắm mắt ký và nếu bán cái đồng hồ không đủ thì bán luôn tôi cũng được. Ông Thông già có lần bảo tôi rằng trên một cách nhìn nào đó, người Cộng Sản vô cùng đồng bóng. Vụ tiền và cái đồng hồ có lẽ là một thí dụ điển hình. Nhưng đối với tôi thì đây là lần duy nhất trong gần một thập niên tù tội, người Cộng Sản cũng có những qui luật chơi được.

    Có lẽ ông quản giáo cũng sốt ruột về thùng quà không kém gì tôi, chỉ ba ngày sau tôi được gọi lên văn phòng. Thùng quà bằng giấy cạc tông tuy có hơi méo mó xộc xệch có lẽ vì vạn lý trường trinh nhưng rõ ràng là nguyên vẹn, chưa bị xé, bị cắt bị đục khoét. Những mảnh tape dán chằng chịt và tôi còn thấy tên tôi với chức vụ nữa, một mỉa mai khôi hài đến khó chịu:

    Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng
    Trại Z23D
    - Anh ký vào đây. Đây là phí khoản tiền phi trường, tiền thuê người mang về Hà Nội, tiền trả công cho người tải thùng đồ về đây…

    Tôi ký ngay, và vừa xong thì ông quản giáo trưởng trại yêu cầu tôi khui thùng để kiểm soát với sự chứng kiến của hai người cán bộ.

    Một mùi thơm ngào ngạt tỏa ra, mùi xà bông Dove không lẫn vào đâu được. Tôi lôi từng thứ bầy ra bàn. Vi phạm qui luật là chiếc cắt móng tay to tướng và một lô dao cạo râu. Tôi thầm nghĩ bố mẹ tôi đâu có biết tôi lao động đến cùn cả móng tay. Xà bông, kẹo cao su, áo lót, quần lót, hai hộp kẹo sô-cô-la. Lớn kềnh càng nhất là hai cái quần jean Lee xanh đậm. Tôi nhìn đống quà và liếc mắt. Những con mắt khác cũng đang hau háu nhìn. Một chiếc quần bò bằng vài tháng lương công nhân, nhất là quần bó chính hiệu của Mỹ. Tôi biết chắc mình không có quyền hưởng trọn mà phải có đi có lại.

    Tôi nuốt nước bọt, rồi ngập ngừng:

    - Tôi xin cảm ơn cán bộ và toàn ban quản giáo đã có ý giúp tôi nhận thùng quà. Đây không phải là đút lót và đền ơn vì cán bộ quản giáo không bao giờ hành xử sai sót như vậy. Nhưng đây là tấm lòng thành của tôi.
    Tôi cầm một chiếc quần jean để về phía ông trưởng trại một hộp sô-cô-la về một ông nhân chứng, một phong ba cục xà bông dove và một cái áo thung cổ lọ về phía ông nhân chứng thứ nhì.
    Có tiếng tằng hắng:

    - Anh sống ở trại hẳn rõ nội qui. Quần áo mặc lót thì được…

    Mẹ kiếp, nó muốn vồ luôn chiếc quần bò thứ nhì chắc? Tôi phản ứng nhanh:

    - Xin cán bộ thông cảm. Đêm ở đây lạnh lắm, có đêm tôi rét run cầm cập.

    Tôi chỉ mặc chiếc quần bò khi đi ngủ, vả lại để nhớ đến bố mẹ tôi nữa. Mấy chục năm rồi bố mẹ con cái chưa nhìn thấy mặt nhau. Tôi không hiểu những lời tôi nói có đánh động đến lương tri của ba ông cán bộ chăng nhưng cuối cùng ông trưởng trại lên tiếng:

    - Về vụ phí khoản, số tiền anh gửi không đủ nên trại với sự đồng ý của anh đã bán cái đồng hồ. Anh có khiếu nại gì không?
    - Không. Tôi không khiếu nại.
    - Vậy thì anh ký vào đây.

    Tôi ký ngay. Thế là họ nuốt trọn cái đồng hồ và tôi được phép khuân đống quà về phòng. Căn phòng mênh mông vắng lặng vì mọi người còn đang lao động. Việc đầu tiên là tôi mở hộp sô-cô-la. Kẹo bên trong có lẽ đã chu du quá lâu nên chảy ra đóng cục nhưng sao vẫn ngon thế. Tôi làm một lèo hết gần nửa hộp xong mới dở đến thư bố mẹ. Thư đề ngày 30-7-1975 tức chỉ ba tháng sau khi miền Nam sụp đổ và bố mẹ cho hay nhận được thư từ Sài Gòn nên biết tôi còn sống và đã lập tức gửi quà qua Hồng Thập Tự. Thùng quà đến được tay tôi sau hơn một năm rưỡi!

    Tôi gập số áo quần và chiếc jean cẩn thận dúi vào tay nải, và suy nghĩ về cách xử trí đống quà. Có tất cả chín cục xà bông Dove, tôi đã đút mất ba còn sáu. Xài hay bán? Tôi cầm cục xà bông lên hít. Mùi thơm như đánh thức cả một dĩ vãng chắc chẳng có ngày trở lại. Tụi em tôi khá thông minh, không gửi cho tôi thuốc lá bao mà cho một túi lớn thuốc pipe và có cả cái tẩu hút bằng lõi ngô – thứ tẩu vàng vàng nhẹ hều ngày xưa đầy rẫy ở các khu chợ đồ Mỹ và hồi còn sống với kỵ binh Mỹ, tôi nhớ giá một cái đâu cỡ hai đô la. Thuốc pipe đựng trong bao ni lông lớn thấy cân lượng một lb và tôi nhớ như vậy là khoảng nửa ký.

    Khi quân ta đi lao động về, mọi người xúm lại quanh tôi hít hà ngắm nghía. Tôi nghe một ông bạn phát biểu:

    - Khi nào ông bóc cục xà bông, cho tôi cái giấy gói.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Để làm gì vậy?
    - Để lót ở đầu giường, ngửi mùi ngày xưa cho đỡ nhớ.

    Tất cả cùng cười. Tôi đẩy nguyên cả ba phong kẹo cao su ra mời:

    - Anh em mỗi người một cục. Mong có đủ cho mọi người.

    Bố mẹ chắc không bao giờ nghĩ rằng những chiếc áo thung, khăn mặt gửi cho tôi lại biến thành đường thành kẹo, thành nhiều thứ linh tinh khác – miễn là có thể nhai được nuốt được. Trong cái hệ thống nhà tù chằng chịt, nhan nhản của người Cộng Sản, những người tù không những phải tự nuôi – và đóng góp sức lao động của mình để tạo ra sản phẩm, một hình thức lao động không lương – những người tù còn xoay sở đủ cách để làm thăng hoa cuộc sống tù. Rất nhanh, và thú thật tôi cũng không rõ làm sao họ đánh hơi nhanh như thế, tôi được những người tù thường phạm tiếp xúc để gạ gẫm. Tôi hy sinh cái khăn phu la ngay lập tức vì trông nó chướng quá. Chiếc khăn mầu sặc sỡ kẻ ca rô xanh đỏ dệt không dầy lắm đó đã nuôi tôi và mấy ông bạn tù cố tri cả tuần. Tối nào chúng tôi cũng nấu chè! Luật lệ vô cùng rõ ràng là cấm đèn lửa nhưng rồi lịch kịch chúng tôi cũng nấu được nước đường và sau đó là bỏ một hai củ khoai lang hay tí sắn và xì xụp với nhau. Những món quà từ Mỹ cứ thế ra đi và cuối cùng, món đáng giá nhất, chiếc quần bò, cũng lên đường để đổi lấy trụ sinh.

    Năm 1979 xảy ra cuộc chiến giữa “răng” và “môi”. Nước Cộng Sản anh em Trung Quốc tấn công qua biên giới! Đám tù Ngụy xôn xao gỉ tai nhau và từ đó là những âm mưu trốn trại để vượt biên sang Tàu. Cái ý tưởng trốn tại vẫn lảng vảng trong đầu mỗi người tù, và trong câu chuyện thì thào, ai cũng có lần bàn đến chuyện này. Quả tình mà nói, muốn vượt ngục không khó. Khi đi lao động, cứ lừng lững dọt là xong nhưng thoát được lại là chuyện đội đá vá trời!

    Không phải tự nhiên mà cứ độ một vài tháng lại có vụ đổi phòng, chuyển trại. Để tù ở một nơi lâu quá dễ nảy sinh ra âm mưu. Tụi nó có thể kết bè kết nhóm, nghiên cứ đường đi lối lại, địa hình địa vật. Sau đó là muối. Chưa bao giờ tù nhìn thấy một hạt muối. Muối được bỏ vào một cái ang lớn, đổ nước quậy cho tan rồi mới múc cho mỗi đội một hai bát chia nhau. Đó là những biện pháp giản dị nhưng vô cùng hữu hiệu. Nhưng đối với Ngụy thì có trốn lên trời vì hệ thống an ninh, công an chằng chịt trong dân chúng và chưa có người dân Bắc nào lại mở rộng vòng tay chứa chấp hay giúp đỡ Ngụy vượt ngục. Dây vào vụ này dám bị tru di tam tộc, lý lịch đen xì, con cháu ba đời còn liên lụy.

    Trong khoảng thời gian có cuộc chiến tranh Tàu Việt 1979, tôi đã chứng kiến hai vụ vượt ngục và tham dự vào một âm mưu may mà bất thành!

    Vụ đầu tiên gây xôn xao nhất. Ba sĩ quan VNCH trốn trại. Báo động tùm lum, và ngạc nhiên nữa là thấy bộ đội có chó Béc-dê đi lùng. Hai ngày trôi qua, ai nấy dù đi lao động hay thì thầm trong đêm ở trại, đều trông ngóng và cầu nguyện. Bọn cai tù mặt lầm lì, lúc nào cũng như sắp sửa bắn tụi tôi và luôn mồm dọa dẫm – “mấy thằng vượt ngục không thoát đâu. Rồi các anh sẽ thấy.” Chúng tôi thấy thật. Vào một buổi chiều ngày thứ ba, ba cái xác được quăng còng queo ngay trước cổng trại, máu đã khô trộn với đất cát trông rợn người. Đáng buồn nhất là những xác này được bêu ở đó tới hai ngày sau, ruồi bu, kiến đậu và biết đâu ban đêm chả có chuột nữa, cho đến khi mùi xú uế bốc lên mới được tù thường phạm dọn đi.

    Vụ thứ nhì thê thảm hơn nữa. Cuộc vượt thoát lần này không có bè đảng. Một ông Trung úy phi công thoát được bốn ngày thì bị lôi trở lại trại. Anh bị đánh gẫy xương vai, bị kéo xềnh xệch về và quăng ở giữa sân trại để thị uy. Cho đến giờ này tôi vẫn không hiểu tại sao anh sống sót trước những đòn hội chợ và sau đó là màn biệt giam. Anh thoát và nhắm hướng Bắc với cái ý niệm giản dị là biên giới ở phía Bắc. Đến ngày thứ ba thì đói quá, anh mò mẫm vào làng ăn trộm khoai sắn, và lạc đường bị dân tóm cổ giao cho công an.

    Vào khoảng thời gian này tôi có quen với một ông đại úy phi công lái F-5.. Ông Hưng to con, ăn nói chững chạc và hồi nhỏ đi hướng đạo có bằng Rừng. Tổng cộng năm người trong đó có hai ông Biệt Động Quân và một ông nữa thuộc Chiến Tranh Chính Trị. Năm đứa toan tính bắt đầu tìm cách dấu thực phẩm. Mỗi ngày một nhúm cơm được cấu ra để khô. Ông Hưng kiên nhẫn tối tối khi thì cầm cục nến, lúc chỉ là một thanh tre nhỏ đốt dưới một cái lon sữa bò, cô nước muối lại. Ông bạn tù nhỏ nhất ở Chiến Tranh Chính Trị, ông Quang, đã mò mẫm và tìm ra được một chỗ có thể bò ra khỏi trại vào ban đêm. Khoảng ba tháng sau thì số gạo khô cũng kha khá được dấu ở nhiều chỗ khác nhau, số muối cũng đã cô đặc được hơn nửa lon sữa bò và chúng tôi quyết định đào thoát.

    Trong những cuộc họp thì thào to nhỏ, tôi đã khẳng định với anh em rằng tôi đủ sức chịu đựng gian nan và cam đoan sẽ không gây phiền lụy gì cho mọi người. Anh em cũng đã thoả thuận, nếu bất khả kháng thì cố, ai thoát được thì cứ thoát, đừng bận tâm đến người khác. Đây là âm mưu chín phần chết, một phần sống và mọi người đều phải tự hiểu, không có quyền chờ đợi gì. Đúng còn một tuần vào cuối tháng khi trăng không tỏ là ngày khởi hành thì ông Hưng lăn ra ốm. Tôi không rõ ông bị bệnh gì nhưng ôm đầu vật vã lăn lộn. Tiền bán cái quần bò tôi mang hết ra mua trụ sinh – toàn những chai trụ sinh của Tàu đã quá hạn cả năm trời, có chai bột trụ sinh đóng thành cục lắc cả mười phút mới tan. Nhưng trụ sinh cũng chẳng ăn thua gì. Đúng lúc đó có vụ chuyển trại và tôi cùng hai ông trong nhóm phải rời.

    Tôi không rõ số phận của người Đại úy Không Quân Cựu Hướng Đạo Sinh ra sao. Lạy trời ông tai qua nạn khỏi. Và tôi cũng không rõ nếu kế hoạch vượt ngục được thực hiện, liệu chúng tôi có đứa nào đến được biên giới Việt Hoa chăng? Hay cũng như những anh em khác, xác được bày ra ở cổng trại để thị uy?

    o O o

    Kể từ khi được thăm nuôi, tù Ngụy đón nhận cùng lúc những gói quà và đôi khi đi kèm theo đó là những tin đau lòng. Có ông chờ mãi mới được báo có thăm nuôi, hí hửng tưởng được gặp vợ ai ngờ đó chỉ là bà chị ruột, vợ con đi vượt biên Mỹ. Ông khác thì vợ đi lấy chồng. Còn ông nữa thì cả nhà bị đi kinh tế mới, đứa con gái lễ mễ đem vào cho bố tí mắm kho quẹt và ít đậu phộng rang. Tôi biết thân biết phận không chờ không đợi gì. Lần duy nhất nhận quà qua Hồng Thập Tự Quốc Tế, từ đó cho đến khi rời đất Bắc tôi làm con bà Phước.

    Kinh nghiệm tù cho tôi vài điều khôn ngoan. Hễ có thể thì xung phong ngay lập tức và cái gì cũng sẵn sàng nhận nhưng phải là việc tứ đại công khai. Sở dĩ như vậy vì làm việc lẻ – có nghĩa là cá nhân trực tiếp kín đáo với quản giáo chí có nghĩa là làm ăng ten, báo cáo anh em.

    Ngoài ra, xung phong thường là những công việc cực nhọc hơn nhưng bù lại thế nào cũng có chút tự do và nhất là có dịp nhìn ngó nhiều hơn. Chả để làm gì nhưng cũng thú hơn cái trò lao động tập thể. Khi ông quản giáo bảo có ai biết nghề mộc thì tôi giơ tay ngay cho dù chưa bao giờ cầm đến cái búa, nhưng tự tin mình có con mắt và khéo tay. Bốn người được tách ra để làm công tác đặc biệt về mộc gì đó. Chúng tôi vẫn quần áo tù được chở thẳng ra thị xã Yên Bái, một điều bất ngờ. Bất ngờ hơn nữa là người đàn bà đón chúng tôi là một phụ nữ trông tươm tất dù đã trọng tuổi. Bà ăn nói đon đả, có phần phúc hậu và gọi chúng tôi là các ông. Câu đầu tiên là câu nói mà chúng tôi không bao giờ chờ đợi:
    - Các ông vào đây ăn đã. Tôi làm cơm rồi, biết các ông đói lắm.

    Hỡi ơi, tôi cũng biết tôi đói bà ơi. Cơm tươm tất, có một nồi canh rau ngót nấu với tôm khô, một dĩa dưa chua, và – lạy Chúa – có thịt gà luộc rắc lá chanh. Bốn tên tù ăn không ngượng, ăn hết bát này đến bát khác và khi ăn xong thì không đứa nào đứng dậy nổi. Người vợ ông quản giáo hét ra lửa chỉ đứng nhìn tủm tỉm cười. Bốn đứa phải sửa cái nhà ngang bị sạt một bên mái vì quá cũ kỹ. Tôi không có nghề nhưng may quá ba ông kia là thứ thiệt. Khoảng gần chiều thiếu đinh, ông quản giáo lấy xe đạp kèm tôi ra phố chợ. Quen thói miền Nam, tôi phốc lên phía sau ngồi dạng hai bên. Vừa đi được một quãng, thiên hạ ai cũng nhìn và cười khiến ông quản giáo phanh lại ngó ra phía sau và nổi giận quát khẽ:

    - Anh ngồi kiểu gì thiếu văn minh thế. Ngồi lại đi.

    Lúc đầu tôi hơi ngỡ ngàng nhưng hiểu ngay. Nếp sống văn minh là phải ngồi hai chân để về một bên.
    Tôi cứ nhớ câu chuyện này mãi không phải vì đã học được nếp sống văn minh của miền Bắc mà là thái độ của người đàn bà vợ ông cai tù. Phải chăng bà đã tự ý dọn cơm có thịt gà cho bốn thằng tù Ngụy chỉ vì họ sẽ sửa nhà cho gia đình bà hay vì lòng thương cảm của một người đàn bà Việt Nam trước những kiếp sống tù đầy ? Tôi vẫn nghĩ điều sau đúng hơn.

    Trong cái đáy địa ngục tù đày, có những điều cần nhớ và có những điều quên đi càng nhanh càng tốt. Tôi đã cố để quên đi những cái cần quên và có thể nhờ đó tôi còn sống sót đến ngày nay.

    Năm 1982, vào lúc vừa chớm xuân, tôi được lệnh chuyển trại. Vốn quá quen với những vụ này tôi thản nhiên tóm mấy cái áo cuộn lại, thủ theo những đồ tùy thân như cái ca, cái bát, đôi đũa để sẵn sàng ra đi.
    Đến khi leo lên xe thì có tiếng xì xào và lúc được dồn lên toa xe lửa thì tôi mới biết được chuyển về Nam. Bảy năm trên đất Bắc, lăn lộn hết trại tù này đến trại tù khác, nay tôi lại leo lên xe lửa để trở về nơi tôi đã gục ngã.

Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Anh Đỗ Phủ Ở Buồng Nào?
    By Hoanghac in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-03-2014, 11:08 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •