Remember ?

Trang 1/3 123 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 15

Tựa Đề: Ðỗ Lệnh Dũng - Lê Thiệp

  1. #1
    Moderator
    KiwiTeTua's Avatar
    Status : KiwiTeTua v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2008
    Posts: 2,964
    Thanks: 33
    Thanked 110 Times in 40 Posts

    Default Ðỗ Lệnh Dũng - Lê Thiệp

    Phần Giới Thiệu

    “Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện chiến tranh… Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân VN phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay. Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại thì đã gần tới tuổi… ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn Trường Sơn từ nam ra Bắc, là những năm tháng đọa đày tại các trại tù…” theo nhà xuất bản cho biết trong sách truyện ký sự nhân vật này

    “Tối hôm đó, khi đã khép cánh cửa phòng lại, tôi nhìn vào tấm bảng tuyên dương với chữ ký của nhiều vị chức sắc trong quân đội Mỹ lòng bâng khuâng.

    Tôi nhìn Thu buột miệng:
    - Anh đâu có muốn làm anh hùng.
    Vợ tôi cười:
    - Thế anh muốn làm anh gì?
    - Anh chỉ muốn làm anh hiền. Anh chỉ muốn một đời sống giản dị, bình thường, không bắn giết, không súng đạn. Ước ao đó từ hồi nhỏ, nhưng rồi cả đời anh là chiến trận, là tù đày, là khổ nhục. Làm anh hùng để làm gì?
    Vợ tôi ôm tôi, ghé tai nói rất khẽ:
    - Anh là anh hùng của riêng em”.
    (Trích trang 387 – “Ðỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp)

    Tôi trích đoạn kết thúc truyện ký “Ðỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương mới ấn hành ở miền Ðông Hoa Kỳ. Nói cho ngay đây chẳng phải là một câu chuyện viết về chiến tranh Việt Nam với những hư cấu được đặt vào trong những năm cuối của cuộc chiến này. Không, đây là câu chuyện thật, hoàn toàn thật cả người lẫn cảnh, một hồi ký của cựu Trung Úy Ðỗ Lệnh Dũng, người lính đã từng trải qua trận đánh khốc liệt nhất ở Ðồng Xoài, trận mở màn dẫn tới thảm kịch ngày 30 Tháng Tư, 1975.

    Dĩ nhiên, trận Ðồng Xoài cũng phải là một khúc quanh đẩy người lính này vào một đoạn đời dài hun hút những tù đày và khổ nhục. Ðỗ Lệnh Dũng chấp nhận đoạn đời đó không một chút than van. Có lẽ sự thanh thản giữa khổ đau giúp anh không bị nhận chìm bởi cơn lốc chiến tranh, đổi thay và lưu đày. Những ai hy vọng đọc tác phẩm “Ðỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp để tìm thấy nhân dáng của một cầm súng gào thét bắn giết, một người cầm súng với ý thức hệ Quốc-Cộng rõ rệt, một người cầm súng biểu hiện được ý thức hệ phe mình chắc chắn sẽ thất vọng. Ở trong truyện ký “Ðỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp, người đọc chỉ tìm thấy nhân vật chính là một quân nhân hồn nhiên với ước mơ giản dị, nhưng lại đầy bản lĩnh giữa sóng gió của chiến tranh, ngay cả lúc thất bại và trong đời tù khắc nghiệt từ trước khi chiến tranh kết thúc. Trung Úy Ðỗ Lệnh Dũng đã chiến đấu dũng mãnh vào những ngày cuối cùng của Ðồng Xoài, đã sống hết lòng với những đồng đội trên đường rút lui và bị cộng quân chận đánh, rỉa rói. Trong hoàn cảnh khốn cùng nhất trước khi ngã ngựa, ông vẫn là một người chỉ huy bao dung, đầy tình người và tình đồng đội.

    Ðối với cá nhân Trung Úy Ðỗ Lệnh Dũng và một số đồng đội của ông, chiến tranh không kết thúc vào ngày 30 Tháng Tư 1975 mà đã kết thúc ngay vào lúc ông bị bắt làm tù binh khi cố gắng chỉ huy nhóm tàn quân theo ông tìm đường về Phú Giáo, nơi ông hy vọng còn có những đơn vị Việt Nam Cộng Hòa. Rồi ông trở thành tù binh chiến tranh, bị đưa ra Bắc, gặp lại những đồng đội cũ trong nghịch cảnh: các trại tù cải tạo mọc lên như nấm ở miền Bắc lúc bấy giờ để đày nhốt hầu như toàn bộ những cấp chỉ huy của quân đội, chính quyền miền Nam. Sống trong các trại tù ở miền Bắc, có lúc Ðỗ Lệnh Dũng bị trả thù, bị đối xử tàn tệ, nhưng ông đã chấp nhận với sự bình thản. Chiến tranh đã chấm dứt, chúng tôi ở phe thua, người thắng muốn đối xử với chúng tôi ra sao thì tùy. Cách nhìn kết quả của một cuộc chiến như vậy giúp tù binh Ðỗ Lệnh Dũng vượt lên trên được những khắc nghiệt và giữ được cho trái tim mình luôn luôn còn biết rung động. Khi trái tim còn biết rung động, Dũng nhìn những gì xảy ra trong các trại tù một cách công bằng hơn, bao dung hơn. Trên hết, sự công bằng và bao dung của người tù binh này đã làm cho những kẻ dùng đòn thù để đối xử với ông và những người khác trở thành những người thật yếu hèn vì rõ ràng, họ không còn niềm tin vào con người nữa…

    Vì sao mà Ðỗ Lệnh Dũng có được cái bản lãnh đó? Khi đọc hết 387 trang hồi ký được Lê Thiệp dùng ngòi bút thuật sự để vẽ lại cho đúng nhân dáng của nhân vật chính và bối cảnh lúc đương thời, người ta có thể tìm ra câu giải đáp: “Anh không muốn làm anh hùng. Làm anh hùng để làm gì?” Nhưng chính trong cách sống khi chàng thanh niên này phải ở lính, cách sống khi chàng thanh niên này ở tù, cách sống khi anh được thả ra từ trại tù về một xã hội đang tan nát và nhầy nhụa của Sài Gòn… đã giúp Ðỗ Lệnh Dũng tìm lại cho mình một ốc đảo của hạnh phúc riêng tư, vẫn nhìn đời bằng trái tim mở rộng, vẫn thấy tình cảm quyến luyến Việt Nam ngày càng sống dậy mãnh liệt trong ông, dù rằng những người đang cầm quyền vẫn còn những hành động vùi dập Việt Nam một cách không thương tiếc.

    Trong truyện ký, Ðỗ Lệnh Dũng không phủ nhận gốc gác của ông là từ một gia đình có thế lực, bố mẹ đều làm việc với người Mỹ trên đất Mỹ từ năm 1964. Ông có rất nhiều điều kiện và hậu thuẫn để hưởng những ân huệ là thoát khỏi cuộc chiến. Học trường tây và đúng vào lúc chiến tranh đang lan rộng sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân của Việt Cộng là lúc ông đang học luật thì bị gọi vào quân ngũ theo tổng động viên. Dù chưa bao giờ Dũng nghĩ đến chuyện chọn con đường binh nghiệp, nhưng một khi đã là “tài nguyên quốc gia” ông không chống lệnh gọi đi phục vụ dưới cờ. Tốt nghiệp khóa 3/68 trường Bộ Binh Thủ Ðức, ông cũng chẳng chạy chọt vào các đơn vị chuyên môn hay vào những vị trí phi tác chiến ở hậu phương. Ai sao mình vậy, Dũng không đòi bất cứ ưu quyền nào. Thế rồi cũng như hàng trăm ngàn thanh niên khác trên khắp nẻo đường đất nước, Ðỗ Lệnh Dũng lao vào chiến trận, bị thương hai lần. Khi ở lính cũng vậy, với ảnh hưởng của gia đình, Dũng có thể xin ngồi vào một nơi nào đó mà súng đạn không đụng tới được. Nhưng ông đã không làm thế. Ngay cả khi ông được gọi về làm tùy viên cho tỉnh trưởng Phước Long, Dũng chỉ chỉ hụ hợ một thời gian ngắn ở chức vụ này rồi lại xin ra tác chiến, trở lại súng đạn cùng các đồng đội của mình.

    Ðúng vào lúc Dũng đang yên ổn mọi bề với súng đạn và chiến trận thì ông bị gọi về Sài Gòn để chuẩn bị lên đường viếng thăm gia đình ở Hoa Kỳ do cuộc vận động của Sam Graves, một cố vấn Mỹ của Ðại Ðội Quyết Tử tỉnh Phước Long. Người sĩ quan Mỹ này đã được Dũng cứu mạng một lần trong cuộc đụng độ với Việt Cộng tại Phước Lộc, tỉnh Phước Long và sau đó hai người trở thành bạn thân. Hết nhiệm kỳ Sam Graves trở về Mỹ. Ðầu 1975, Sam Graves đã vận động ở một cấp rất cao trong quân đội Hoa Kỳ để Dũng được sang Mỹ thăm gia đình coi như hành động biểu lộ tình bạn. Do nỗi nhớ gia đình dày vò, lần này Dũng chấp nhận sang Hoa Kỳ gặp bố mẹ. Ông có linh cảm lần ra đi này, sẽ không trở lại Việt Nam nữa. Nhưng tình đồng đội khiến ông trở lại Ðồng Xoài để từ giã cấp chỉ huy và những bạn lính trong đơn vị. Dũng ở lại Ðồng Xoài mấy ngày trong lúc tình hình quân sự đã bắt đầu có dấu hiệu nguy khốn. Một người bạn về phép nhờ Dũng chỉ huy đơn vị vài ngày. Trung Úy Ðỗ Lệnh Dũng, người sắp rời khỏi Việt Nam lại nhận lời và đây chính là một khúc quanh đầy giông bão của ông. Cộng Sản Bắc Việt đánh Ðồng Xoài, mở màn cho cuộc tổng công kích và cũng mở màn cho tấn bi kịch cho dân tộc Việt Nam, trong đó có Ðỗ Lệnh Dũng.

    Tôi có may mắn là được Lê Thiệp đưa cho đọc bản thảo cuốn truyện ký Ðỗ Lệnh Dũng và biết được rằng Lê Thiệp đã rất thận trọng khi viết truyện ký này. Khi viết truyện ký bằng lối văn thuật sự có nghĩa là khi viết phải hết sức bình tĩnh, cân nhắc để gạt bỏ mọi loại cảm tính có thể làm ảnh hưởng không tốt hay làm méo mó những gì mà nhân vật chính mô tả lại. Bức tranh của ngòi bút thuật sự phải giữ được nguyên bản những gì đã từng xảy ra, không bóp méo, không cường điệu, không vẽ rắn thêm chân. Là một nhà báo tiếng tăm tù thời còn rất trẻ ở Việt Nam giữa thập niên 1960, Lê Thiệp cũng trải qua nhiều biến cố chính trị trong đời viết báo của mình. Vượt biên sang Hoa Kỳ, cầm bút một thời gian ngắn rồi nhảy vào kinh doanh và thành công. Nay Lê Thiệp đã về hưu và trở lại với viết lách. Ông viết lại những gì do Dũng kể lại như một bổn phận và nhu cầu phải ghi lại cuộc đời của người lính này một cách chân thực và không vướng một chút thù hận nào. Dũng cũng muốn như thế bởi vì trái tim ông cho đến nay vẫn là trái tim chân thực và hào phóng tình người.

    Quân đội Hoa Kỳ đã tuyên dương ông như là anh hùng của họ. Dũng cảm động nhưng ông đón nhận bằng tuyên dương chỉ như một cử chỉ đẹp đối với Sam Graves và những người bạn Mỹ khác nay đã lên tới hàng ngũ tướng tá quan trọng trong quân lực Hoa Kỳ. Ðỗ Lệnh Dũng chỉ muốn là người lính bình thường, hết chiến tranh trở về, lập gia đình sống hạnh phúc với Thu, kết quả của một mối tình thật đẹp ngay trong thời gian Dũng còn trong tù đày. Chiến tranh đã chấm dứt, bây giờ người cựu binh này, cựu Trung Úy Ðỗ Lệnh Dũng đang được sống riêng với cái thế giới yên bình và hạnh phúc mà ông từng mơ ước.

    Truyện ký Ðỗ Lệnh Dũng của Lê Thiệp là một câu chuyện có hậu, phần thưởng cho tất cả những ai vượt qua và vượt lên trên được cơn lốc của thời đại chúng ta. Liệu có thể gọi đây là một thông điệp cho thế hệ đồng trang lứa với Ðỗ Lệnh Dũng khi chiến tranh chấm dứt?

    Vũ Ánh



    ĐỖ LỆNH DŨNG không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.

    Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải qua gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.
    Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại cha mẹ thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đọa đày tại các trại tù…... Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu, gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

    Nhưng nhà văn Lê Thiệp thấy cần ghi lại câu chuyện không do riêng tính chứa đựng những cảnh ngộ tàn khốc mà chủ yếu khởi từ cách hồi tưởng hồn nhiên, chân thực không vướng chút oán hờn.

    Nhân vật chính đã nhắc lại quá vãng bi đát của bản thân như một thoáng đời bình thường để chia sẻ các dữ liệu thực tế với mọi người – mà theo người viết, đã cho thấy trong mọi nghịch cảnh luôn tồn tại một nét đẹp truyền thống từng giúp người dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách gian nan.

    Người viết Lê Thiệp đã lăn lộn trong làng báo Việt Nam cho đến tháng Tư 1975.

    Từ 1975 đến 1978, như đại đa số người dân miền Nam, ông phải lao vào mọi ngõ ngách xã hội để tìm cách mưu sinh – từ buôn len, bán bún mọc, chạy xách tới buôn thuốc tây, môi giới đồ cổ…

    Từ năm 1979, sau khi vượt biên đến Hoa Kỳ, ông tiếp tục làm đủ thứ nghề – Cán sự xã hội, thợ nhà in, công nhân siêu thị, bán thịt gà chiên, chùi rửa trường học và sau cùng là nghề bán phở.

    Hiện ông sống cùng vợ và 3 con tại Virginia.


    CHƯƠNG 1




    Tên chữ nó là Đôn Luân, nhưng đối với lính tráng tụi tôi gọi nó là Đồng Xoài, là nơi chằng ăn chắc cú. Không hiểu cái tên Đôn Luân đầy vẻ nho học, hành chính này có từ đời nào, có thể là do cụ Diệm đặt cho chăng? Cũng như tên chính thức của đồn điền cao su ở đây là Thuận Lợi nhưng mọi người gọi nó là Terre Rouge – Đồn Điền Đất Đỏ – gợi lên âm hưởng của cả một quá khứ thời Pháp khai thác thuộc địa và những câu chuyện đầy thương tâm về phu cạo mủ cao su xa xưa.
    Tôi chui ra khỏi chiếc phi cơ sơn mầu vàng ệch trong cơn nắng nóng của buổi chiều mùa hè. Tôi nhớ lần đầu tiên thấy chiếc phi cơ chong chóng này đã ngạc nhiên vì mầu sơn kỳ quặc nhưng ông thiếu tá quận trưởng vỗ vai tôi giải thích:
    - Cậu còn phải học nhiều thứ ở đây. Sở dĩ phi cơ phải sơn màu vàng là để cho tụi Việt Cộng nó biết là phi cơ của đồn điền, không phải phi cơ quan sát của phe mình.
    Thấy tôi giương mắt nhìn, ông cười:
    - Đụng tới cao su là bỏ mẹ cả nút. Tây nó đi cả với Quốc Gia lẫn Cộng Sản. Việt Cộng nhan nhản ở trong rừng cao su nhưng phe mình có lệnh trên là không được bén mảng vào.Cậu nên nhớ đây là cao su quí hơn mạng người. Một cây cao su có thể cạo tới 60 năm vẫn còn mủ.
    Dần dần rồi tôi cũng hiểu ra những cái ngoắc ngoéo bên lề. Cả cái quận này có chừng năm ngàn dân, gồm vợ con lính tráng và hơn nửa còn lại là dân cạo mủ cao su. Đang lội bùn lội suối tôi được thiếu tá Khoái gọi về đây.
    - Cậu về đây giúp tôi. Mẹ kiếp cái chức quận trưởng coi vậy mà nhiều việc quá, toàn là ba cái vụ hành chính giấy tờ, điên cái đầu luôn.
    Đã gần hai năm qua tôi vất vưởng ở đây lo Ban Ba cho Quận. Ban Ba chuyên phối hợp hành quân mà cũng chẳng nhàn nhã gì, tối ngày sáng đêm tôi chui rúc sống trong căn hầm của chi khu.
    Bộ chỉ huy của chi khu trước kia là một trại lực lượng Đặc Biệt của Mỹ, Trại B14. Khi người Mỹ lậm sâu vào Việt Nam với cả nửa triệu quân, cuộc chiến được đánh theo lối Mỹ, cố vấn Mỹ đôi khi xuống tới cả cấp đại đội. Một số lực lượng được gọi là Lực Lượng Đặc Biệt được thành lập với nhiều tên gọi khác nhau như Mike Force, Biệt Kích Biên Phòng, Dân Sự Chiến Đấu… Đó là những toán độc lập do Mỹ võ trang, chỉ huy đóng ở những vị trí xung yếu và thường nằm ở gần biên giới hoặc sát các mật khu. Các căn LLĐB này luôn luôn có chữ B ở đầu, có thể là chữ viết tắt của chữ Base, nghe thì có vẻ đơn sơ nhưng lại được xây cất kiên cố vô cùng với hơn mười lớp mìn đủ loại cùng với hàng rào kẽm gai chằng chịt và mìn Claymore chống biển người. Khi tiếp nhận căn cứ B14 này, Thiếu Tá Khoái lại cho đào thêm nhiều địa đạo, giao thông hào và dùng thêm vòng concertina để chận những đường hầm khi cần. Tôi vẫn có cảm tưởng mình như một con chuột cống chui rúc ở dưới lòng đất dù rằng tôi đã từng sống ở các B tương tự với người Mỹ nhiều năm trước, khi còn phục vụ trong toán Màu – một tên khác của biệt kích Mỹ. Nhưng thời đó khác, đánh nhau kiểu Mỹ cái gì cũng thừa mứa. Gọi một tiếng là phi pháo yểm trợ tối đa, đạn bắn thả dàn. Bây giờ chiến tranh đã được Việt Nam Hóa, cái gì cũng thiếu, cũng hạn chế. Ngày xưa, muốn pháo quấy rối là pháo, bây giờ phải tính từng quả đạn một.
    Tôi đang còn lừng khừng không biết có nên quá giang chiếc xe chở công nhân thì thấy phía xa bụi đỏ tung mù trời. Xe jeep Thiếu Tá Quận trưởng.
    Thật là ngạc nhiên vô cùng khi thấy thiếu tá Khoái ra tận đây đón tôi. Ông không xuống, chỉ chiếc ghế đằng sau:
    - Tưởng cậu lỉnh rồi chứ? Vụ đi Mỹ xong rồi mà.
    Qua điện đàm hôm trước, tôi đã nói rõ về vụ này với ông. Thiếu tá Khoái coi tôi như một người em, cùng chia sẻ ngọt bùi của đời lính ngay từ lúc mới ra Thủ Đức lớ ngớ với lon chuẩn úy. Có lẽ chính thời gian cùng ở với nhau ở Phước Long đã khiến tình thân nảy nở và khi ông được cử giữ chức vụ Quận Trưởng, ông lôi tôi về làm việc với ông.
    Tôi quăng cái ba lô nặng chình chịch và nhảy lên băng sau chiếc xe jeep mui trần chưa kịp trả lời thì ông cười hỏi:
    - Thế fiancée có đi Mỹ với cậu không? Con nhỏ tên Dung phải không?
    - Dung gởi lời hỏi thăm ông thầy. Dung mua tùm lum đồ ăn bắt tôi xách xuống nặng chết mồ.
    - Ok. Tối nay nhậu chơi. Gọi hết tụi nó lại.
    - Đồ khô không ông thầy ơi. Thịt, chà bông, lạp xưởng, có café Martin nữa. Dung còn gởi thêm beurre Bretel mới kinh chứ!
    Ông cười ha hả bảo người tài xế:
    - Chú mày thả tao ở quận đường rồi lái xe đưa Trung Úy Dũng về chi khu. Ê, Dũng, cậu định ở lại bao lâu? Sao nói nửa tháng là đi mà?
    - Nửa tháng nữa lận nên xuống đây từ giã Thiếu tá và anh em trước khi đi cho phải đạo. Dung cũng đòi đi nhưng đường xá lằng nhằng quá.
    - Ok. Tối gặp. Nhớ gom hết tụi nó lại nhậu nha.
    Con đường từ quận về chi khu chắc chỉ hơn độ nửa cây số. Đường khá rộng nhưng không tráng nhựa nên bụi đất đỏ cuộn lên mặt tôi dù chiếc xe chạy không nhanh lắm. Những liếp nhà đa số lợp tôn bên vệ đường trông buồn và câm lặng. Thỉnh thoảng một người dân thấy xe chạy thì quay mặt kéo sụp cái nón lá tránh bụi xe. Tới chỗ ngã ba có quán hủ tíu của ông Tàu Mằn Thắn, tôi bảo người tài xế:
    - Anh cho tôi xuống đây. Còn cái ba lô anh cứ đem lên phòng tôi bỏ đó tính sau.
    Ông Tàu Mằn Thắn giống y chang những ông Tàu hủ tíu khác, lúc nào cũng cái áo thun cháo lòng và quần xà lỏn dài quá gối. Tôi không rõ ai đặt cho ông ta cái tên Mằn Thắn. Ông ta lơi lả chào:
    - Trung Úy “dề” Sài Gòn vui không?
    Quận lỵ bé tí này không thể giấu ai cái gì được. Đồng Xoài nằm trên liên tỉnh lộ 1A giữa tỉnh Phước Long và Quận Phú Giáo. Nó trấn ngay phía Bắc của chiến khu D – còn có cái tên văn vẻ “chiến khu Dương Minh Châu”. Có lẽ trại LLBĐ B14 được lập ở ngay đây vì vị trí chiến thuật, cốt để theo dõi những vụ chuyển quân lớn của địch.
    Tôi gọi một chai 33. Quán vắng, có hai ba người Thượng Stieng ngồi một góc đã có vẻ hơi say. Dân Đồng Xoài sống bằng nghề cạo mủ cao su nhưng có một số khác phần lớn là người Stieng làm nghề “ăn cây”. Đây là những dân giang hồ hảo hán chuyên đi sâu vào rừng tìm gỗ quí như gụ, cẩm lai và đôi khi cả trầm hương nữa. Tìm được họ sẽ về quận dắt đường cho các hãng cưa vào. Họ là người cả Quốc Gia lẫn Cộng Sản. Họ là tình báo, mật báo viên của quận, báo cáo về tình hình trong rừng. Họ cũng có thể là nằm vùng, cung cấp quân tình của quận cho địch. Họ làm việc cho cả hai phía. Cái thực tế phức tạp đó cũng giống như tình trạng Việt Cộng sử dụng đồn điền Đất Đỏ làm nơi dưỡng quân.
    Hồi tôi mới về quận được tin chắc chắn là hơn một đại đội địch có mặt ở tọa độ XYZ. Lúc lật bản đồ thì nó nằm ở trong phạm vi đồn điền. Sấp ngửa tôi chơi đại, bắn mấy trái 105. Sáng hôm sau, thiếu tá Khoái mặt hầm hầm gọi tôi sang trình diện. Sau đó, chính Đại tá Tỉnh Trưởng Phước Long bay trực thăng xuống. Cái câu cao su quí hơn người lúc đó mới rõ nghĩa với tôi.
    Dẫu sao thì Đồng Xoài cũng có tình với tôi. Tôi yêu những buổi chiều xẩm tối ở đây. Nếu không lâu lâu nghe đạn pháo binh, nếu không thấy đạn hỏa châu lơ lửng đâu đó trên nền trời, thì mọi sự thật êm đềm, thật thanh bình. Tôi hay trèo lên nóc công sự chiến đấu chỗ cao nhất, ngồi nhìn trăng nhìn sao để nhớ Dung, nhớ về Sài Gòn.
    Tôi yêu những cô học trò ham học, nghe thấy, nhìn thấy cái gì lạ trong mắt cũng tròn xoe. Đồng Xoài có một trường Trung Học, trên nguyên tắc là tới lớp 9, nhưng không lúc nào là có đầy đủ thầy cô. Ra trường Sư Phạm được bổ đến đây, thầy cô biến mất sau độ hai ba tháng. Họ đào nhiệm vì không chịu nổi cảnh sống Đồng Xoài. Trường có một vị nhà giáo duy nhất là ông Hiệu Trưởng. Ông Hiệu Trưởng nhờ tôi dạy môn Pháp Văn cho các em. Ba bốn lớp dồn lại một, đủ loại tuổi từ 12 cho đến 16, 17 nhưng trình độ đều rất kém. Sau hai buổi dạy tôi đổi phương pháp, thay vì dạy Pháp văn, tôi kể cho các em nghe về đời sống ở ngoài Đồng Xoài. Kỳ về Sài Gòn hoặc khi Dung gửi đồ cho tôi, khi nào cũng có vài cuốn Sélection hặc Paris Match cũ, hoặc sách có nhiều tranh ảnh về nước Pháp. Tôi cho các em coi hình ảnh về nước Pháp và viết dăm ba chữ Pháp dễ, bắt các em học nhưng cái chính là gợi lên cái khát vọng hiểu biết nơi các em, nhồi nhét vào cái đầu non nớt đó những hình ảnh khác với bom đạn, xác chết các em thấy hàng ngày. Cái phương pháp sư phạm của tôi vậy mà ăn khách ra phết. Giờ Pháp văn gần như tất cả các học sinh trong trường đều tụ lại trong lớp nghe tôi kể về nước Pháp với sông Seine, tháp Eiffel, hay ông Nã Phá Luân, ông Pasteur hoặc ông bà Marie Curie.
    Tôi nhớ có một lần một em bé đến khóc nhờ tôi đến nhà xin bố mẹ cho đi học giờ Pháp Văn. Khi đến nơi, phụ huynh cô bé cho hay lúc này cần người là vì mùa gặt nên phải ở nhà phụ giúp gia đình. Rồi tôi đành giải quyết, cử một người lính nghĩa quân đến giúp gia đình để em được đi học.
    Đồng Xoài dù nằm ngay ngã ba liên tỉnh lộ 1A và quốc lộ 14 cách Phú Giáo cỡ độ 30 cây số và tỉnh lỵ Phước Long cỡ 30 cây nhưng đã bị cô lập từ lâu rồi. Phương tiện liên lạc duy nhất là trực thăng hay đôi khi là thả dù. Xăng nhớt cũng phải thả bằng trực thăng. Cũng có bến xe đò chạy đường Đồng Xoài Phú Giáo, nhưng khách toàn là đàn bà con nít. Xe có thể bị Việt Cộng chặn lại bất cứ lúc nào nên lính tráng và cả những thanh niên còn trẻ có thể cầm súng không ai dám đi xe đò. Trong cái cảnh đó, phi công của đồn điền cũng hiểu và luôn luôn dành một chỗ cho quận khi cần. Viên phi công người Pháp vẫn hay đấu láo với tôi, mỗi lần thấy “Monsieur Dũng” là toe toét cười.
    Tôi sắp xa Đồng Xoài. Tôi sắp giã từ bom đạn. Tôi về đây là để từ biệt Đồng Xoài, nói những ân tình cuối với anh em đồng đội.
    Tôi đứng dậy, nhét tiền dằn dưới chai 33, lững thững đi về phía chi khu. Buổi chiều nóng nhưng êm ả.
    Bữa nhậu diễn ra ồn ào náo nhiệt với khô nai, cà ri gà. Mọi người chúc mừng tôi. Tôi thấy rõ sự mừng rỡ trên khuôn mặt của đồng đội vì tôi sắp “Giã từ vũ khí”. Đang ăn nhậu thì Trung Úy Lễ trưởng ban Hai tình báo hỏi:
    - Ông còn ở đây bao lâu?
    - Chắc vài hôm là cùng.
    - Ông coi dùm ban Hai hộ tôi hai ba ngày được không? Tôi có việc gấp phải về Sài Gòn.
    - Ba ngày thì được, ông cứ dọt đi, để tôi coi hộ cho.
    Tôi coi ban Ba, trung úy Lễ coi ban Hai, chúng tôi đã cùng nhau sáng sáng họp thuyết trình hành quân. Công việc của tụi tôi luôn luôn phải phối hợp từng giờ một nên tôi biết rõ phận sự của ông Lễ. Coi hộ bằng hữu ba ngày thì nhằm nhò mẹ gì. Không bao giờ tôi tưởng tượng được cái khúc quanh của cuộc đời tôi trong ba ngày kiêm chức Trưởng ban Hai hộ Trung Úy Lễ. Không phải là ba ngày mà là gần ba chục năm sau tôi mới được nghe tiếng người vợ sắp cưới, tiếng Dung.
    Hôm sau, khoảng xế trưa, tin tức tình báo tới tấp về. Tôi nhớ Trung Úy Lễ dặn có hai nguồn tin rất chính xác là Z 20 và A 17, nên ngay khi bắt tay vào lo ban Hai, tôi đã hỏi ông Chuẩn Úy Thắng về hai nguồn tin. Tuy làm việc phối hợp và nghe tin hàng ngày của ban Hai, tôi không chú ý lắm đến cách thu lượm tin của họ. Hôm đó cả hai nguồn tin Z 20 và A 17 đều cho hay đã phát hiện nhiều đường dây điện thoại rừng và đây là dấu hiệu đáng ngại. Chỉ những đơn vị chủ lực và quân số cao khi di chuyển mới có dây điện thoại. Nguồn tin Z 20 còn cho hay có những dấu tích có xe tăng địch nữa.
    Tôi đọc nhưng thật cũng chưa ước lượng đúng tầm vóc nguồn tin. Đúng lúc đó người Trung sĩ cho hay có một mật báo viên muốn được gặp tôi. Vì nghĩ chỉ tạm bợ có ba ngày nên tôi không muốn dính quá sâu vào trong công việc, bèn bảo viên Trung Sĩ dẫn mật báo viên đó đến gặp chuẩn úy Thắng.
    Nhưng rồi viên Trung Sĩ lại trở vào cho hay người này chỉ xin gặp đích thân Trung Úy trưởng Ban Hai. Tò mò tôi đồng ý tiếp. Trông người mật báo viên này giống như bất cứ người dân cạo mủ nào, và ông ta cho hay cơ sở bị lộ xin được bảo vệ. Tôi nói:
    - Tôi chỉ tạm giữ ban Hai nội trong vài ngày, nên không rõ lắm về cơ sở và nếu ông là mật báo viên của quận thì chắc chắn phải có đường giây liên lạc khác, không thể chạy xồng xộc vào chi khu xin bảo vệ.
    - Thưa Trung Úy, tôi không thuộc tình báo quận. Tôi thuộc Phòng Bảy Tổng Tham Mưu. Tôi nằm vùng trong Thuận Lợi. Đây là mã số của tôi, xin Trung Úy liên lạc ngay với Tổng Tham Mưu vì tình hình rất nguy cập. Tôi xin được bốc đi gấp.
    Tôi khựng lại, bán tính bán nghi khi nhớ đến hai nguồn tin Z 20 và A 17.
    - Ông có thể cho tôi biết tin tức chính xác.
    - Thưa Trung Úy, tôi đã đưa mã số là tôi đưa cả mạng sống của tôi cho Trung Úy. Tôi chỉ có thể báo cáo với thẩm quyền trực tiếp tại Tổng Tham Mưu. Trên đó sẽ có những quyết định hợp với tình hình.
    Tôi quan sát người mật báo viên và tưởng tượng đến những điệp viên OSS hay CIA hoặc hơn nữa là Tống Văn Bình Z 28. Trông ông ta chắc trên dưới bốn mươi, dáng vẻ cử chỉ và cách ăn nói chững chạc minh bạch. Một người cạo mủ không thể có phong thái như vậy. Tuy ở lính gần chục năm, tôi cũng chỉ nghe loáng thoáng về Phòng Bảy kỹ thuật của Bộ Tổng Tham Mưu và biết lơ mơ rằng đây là bộ phận chuyên về tình báo và phản tình báo có những hoạt động vô cùng bí mật. Suy nghĩ thấy vấn đề ngoài thẩm quyền, tôi nói với người mật báo viên:
    - Được để tôi đưa ông lên gặp Thiếu Tá Quận Trưởng.
    Bốc điện thoại, tôi nghe tiếng Thiếu Tá cùng với nhiều tiếng ồ ồ khác chen vào, chắc là đang ở hầm truyền tin.
    - Trình thẩm quyền, xin được gặp vì có chuyện tối quan trọng không tiện trình bày qua điện thoại.
    - OK, sang ngay đi.
    Bỗng tôi mỉm cười khi nhận ra ông quận của tôi hay xài chữ OK. Tôi thấy người mật báo viên gật đầu ra điều đồng ý với cách ứng xử của tôi.
    Thiếu Tá Khoái đứng chờ ở sân cờ. Hình như ông muốn nhân dịp này ngoi lên mặt đất hít thở chút không khí trong lành. Thấy tôi đi với một người cạo mủ cao su, Ông ngạc nhiên hất hàm tỏ ý hỏi han. Tôi lắc đầu nói:
    - Vào trong nói chuyện tiện hơn Thiếu Tá.
    - Ok, vào trong.
    Ông tiếp chúng tôi ở phòng làm việc, tôi vắn tắt trình bày vấn đề. Người mật báo viên chỉ xin thông báo mã số của ông ta về bộ Tổng Tham Mưu mà không đòi hỏi gì thêm nữa.
    Thiếu Tá Khoái đồng ý, chính ông đi xuống hầm truyền tin để liên lạc qua một hệ thống đặc biệt với Tổng Tham Mưu. Tôi ngồi đó cố gạ chuyện để moi thêm tin tức nhưng người mật báo viên khôn khéo lảng tránh. Chừng nửa tiếng sau, TT Khoái trở lại, gương mặt khác hẳn. Ông trở lại ngồi sau bàn giấy:
    - Cà phê Martin hôm qua cậu cho còn nguyên. Hộp beurre Bretel chưa khui. À quên, tôi vẫn chưa biết tên ông là gì?
    - Thưa Thiếu Tá tôi tên Bảy, Nguyễn Văn Bảy.
    Chúng tôi đều biết đó là tên giả, nhưng TT Khoái rất lịch sự:
    - Tôi đã liên lạc và trên đó cho hay trong vòng một hai giờ sẽ có người đến gặp ông Bảy. Bây giờ anh em mình uống chút cà phê beurre cho đỡ nhớ Sài gòn.
    Rất nhanh tôi hiểu ý ông thầy tôi muốn nói chuyện để moi tin tức và nghĩ rằng mình không nên có mặt, tôi nói:
    - Để Thiếu Tá nói chuyện riêng với ông Bảy, tôi về bên kia.
    - Cậu không đi đâu cả. Cà phê đào cậu mua cậu phải uống chứ.
    Chắc đã chuẩn bị từ trước khi bước vào phòng, nên tôi thấy viên Hạ Sĩ bưng ra ba tách cà phê thơm ngào ngạt. Đợi mọi người chiêu cỡ nửa ly, thiếu tá Khoái lên tiếng:
    - Ông Bảy, ông phải cho tụi tôi biết tình hình để đối phó. Đồng ý là ông không có bổn phận gì đối với tụi tôi, nhưng chúng ta đang đứng trên cùng một chiến tuyến, chiến đấu cùng một mục đích. Tôi đã đích thân lo cho an nguy của ông, ông phải giúp tụi tôi.
    Người mật báo viên từ tốn bưng ly cà phê lên. Cái cung cách cầm, nâng tách, nhấm nháp cà phê cho thấy ông ta đã từng uống cà phê Martin có một chút beurre nhiều lần trước đây. Ông chậm rãi nhìn tôi, nhìn TT Khoái:
    - Địch sắp tấn công Đồng Xoài. Cấp sư đoàn. Có sự xuất hiện của công trường 7 với pháo và thiết giáp đang khép vòng vây. Thiếu tá và anh em ở đây chuẩn bị. Tôi không biết rõ ngày giờ nhưng chính vì vụ này mà tôi bị lộ, phải hủy máy truyền tin, trốn ra được đến đây. Xin cảm ơn Thiếu Tá đã giúp đỡ, liên lạc với thẩm quyền của tôi. Tôi chỉ có thể nói bao nhiêu đó với Thiếu Tá và tôi nghĩ thế cũng đủ để giúp anh em ở đây. Còn tin hay không là tùy ở Thiếu Tá và anh em.
    Không thể không tin được vì chỉ hơn một tiếng sau, một trực thăng cailloux nhỏ xíu xà xuống bốc người mật báo viên đi. Ông quận nói với tôi:
    - Cậu thông báo với tất cả các sĩ quan tới phòng hành quân họp khẩn. Báo động 100% cho tôi.
    Thật ra thì lúc nào chúng tôi chẳng sống trong tình trạng báo động. Suốt những ngày tháng phụ trách hành quân, tôi hiểu rõ Đồng Xoài luôn luôn là cái đinh cần phải nhổ. Địch chiếm Đồng Xoài là cô lập Phước Long và nhất là có thể điều động một lực lương lớn trong chiến khu D để làm áp lực cả khu vực Phước Long Bình Long. Đời sống ở đây tự nó đã là một đời sống bị động, lúc nào cũng như cá nằm trên thớt. Chỉ trừ khi đi ngủ, có lúc nào tôi rời được đôi giầy nặng chình chịch đâu?
    Cái chi khu nhỏ tí này mỗi chiều chưa quá một cây số nên chỉ độ nửa tiếng mọi sĩ quan đã tề tựu đông đủ.
    Đến lúc này tôi mới thấy rõ cái tài chỉ huy, phối hợp của Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái. Ông nói rất gọn về tin tức vừa thu lượm được, ra lệnh cho các sĩ quan điều động binh sĩ tu sửa lập tức các giao thông hào, công sự chiến đấu. Truyền tin được lệnh liên lạc ngay với các chốt và tiền đồn thông báo tin tức và chỉ thị họ cảnh giác tối đa. Ông bảo bác sĩ Nam kiểm lại thương bệnh binh, người nào còn đủ sức khoẻ phải sẵn sàng cầm súng.
    Bảo vệ Đồng Xoài ngoài hai tiểu đoàn tăng phái của sư đoàn 5, lực lượng cơ hữu gồm một tiểu đoàn địa phương quân và khoảng hơn 10 trung đội nghĩa quân. Đó là quân số trên giấy tờ nhưng thực tế có phần hơi khác. Quân số không bao giờ đủ. Một trung đội nghĩa quân có khi chỉ độ mười lăm, hai mươi người. Ngay cả đơn vị chính qui, tức hai tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 cũng không bao giờ đủ quân số. Hơn nữa, rất nhiều đơn vị đã được chẻ nhỏ đóng các đồn chốt phía ngoài.
    Thiếu Tá Khoái bắt đầu chia chi khu ra làm ba tuyến.
    Tuyến lớn nhất ở phía Bắc đối diện với rừng do chính Thiếu Tá Quận Trưởng chỉ huy.
    Tuyến phía Tây đo Đại Úy Tố lo. Quân số ở tuyến này cỡ gần một tiểu đoàn ĐPQ và một đại đội thám báo và là đơn vị tinh nhuệ nhất của Đồng Xoài.
    Tuyến phía Đông do tôi phụ trách với hai trung đội nghĩa quân và một trung đội thám sát đo Chuẩn úy Tài chỉ huy.
    TT Khoái nghĩ rằng địch sẽ không tấn công từ phía Đông vì địa hình quá trống trải. Nơi đây đã được công binh Mỹ phát quang, ủi hết cây rừng để lập một sân bay nhỏ dành cho trực thăng và L 19 đáp. Ông nói riêng với tôi.
    - Cậu lo phía sân bay chắc sẽ OK vì nó mà đánh đặc công hoặc biển người đi nữa cũng không ngu gì mà đánh mặt đó.
    Trước lúc mọi người đứng dậy, ông đùa:
    - Bác sĩ Nam thủ kỹ cái bệnh xá cho tôi. Hễ nó vào đến chỗ ông bác sĩ là tụi mình chỉ còn ăn cám.
    Không ai cười và không ai nghĩ đến lời đùa cợt như một lời tiên tri, một lời nói gở. Hơn nữa mọi sự diễn ra quá nhanh đến độ không ai còn thì giờ để suy nghĩ.
    Tôi trở về tuyến kiểm điểm tình hình. Tôi có trong tay một khẩu đại liên, khoảng 40 người lính nghĩa quân và một thiếu úy phụ tá, Thiếu Úy Thái và gần 20 lính thám sát tỉnh của Chuẩn Úy Tài. Ông Thiếu Úy có lẽ chưa đụng lớn bao giờ, khuôn mặt lo âu thấy rõ. Ông ta hỏi tôi:
    - Bộ tụi nó đem cả sư đoàn để nuốt tụi mình à?
    - Trước hết đó mới là tin tình báo. Thứ nhì Đồng Xoài bằng cái lỗ mũi, đâu có quan trọng gì để nó đem chủ lực cỡ sư đoàn ra để làm mồi cho máy bay à? Yên tâm, nó muốn xơi tái mình cũng không dễ đâu.
    Trấn an thiên hạ thì dễ nhưng trấn an mình mới khó. Hẳn là địch sẽ đánh nhưng tôi cầu nguyện với trời đất là hãy gượm đã, để đợi Trung Úy Lễ về rồi hãy đánh. Nhưng lời cầu nguyện của tôi đã không thấu trời xanh vì địch tấn công ngay đêm đó.
    o O o
    Khoảng gần nửa đêm, địch khai hỏa bằng pháo 82 ly. Không phải từ một hướng mà tứ phía. Không phải bắn lai rai quấy rối mà là pháo áp đảo, 82 ly nổ rền trời từng chập. Tôi biết rất rõ là 82 ly không đủ sức xuyên phá hoặc gây tổn thất nặng nề vì hệ thống địa đạo giao thông hào và công sự chiến đấu được hết lớp tu bổ này đến kỳ tu bổ khác đủ sức che chở tụi tôi. Nhưng tôi còn biết rõ hơn 82 ly không bắn xa như 105, 155 hay hỏa tiễn 122 ly. Có nghĩa là tụi nó gần lắm rồi. Nhưng tôi không thể chia sẻ suy nghĩ này cho ai được.
    Đồng Xoài có hai pháo đội, 105 và 155 ly. Tôi liên lạc máy với pháo binh. Lúc này tôi đang ở dưới trung tâm HQ của chi khu với TTKhoái. Tôi đề nghị phản pháo nhưng TT Khoái nói:
    - Tụi nó đặt súng ba bề bốn bên, không biết hướng nào chính hướng nào phụ, vả lại phải tiết kiệm đạn.
    Tuy vậy tôi cũng thấy ông ta cho bắn một hai trái 105 để trả lời. Khoảng quá nửa đêm, máy PRC 25 inh ỏi gọi. Gần như tất cả các tiền đồn đều bị đánh. Các chốt chạm địch dữ dội. Tiếng máy PRC 25 rè rè, tôi ngồi cạnh nghe các đơn vị bạn liên tu bất tận thông báo địch tình. TT Khoái nhận xét:
    - Tụi nó chỉ mới chơi 82 ly để quấy rối và cầm chân tụi mình. Nhớ cảnh giác anh em đề phòng nó đánh đặc công. Cậu nhớ cho anh em luân phiên nghỉ ngơi. Tôi e mình sẽ chết cứng ở đây cho đến khi tỉnh và quân đoàn giải tỏa.
    Tôi đi dọc giao thông hào dặn dò từng người một. Hễ cái gì nhúc nhích là bắn. Những chiếc hỏa châu lững lờ cũng đủ để quan sát tới tận hàng rào ngoài cùng. Đến gần sáng thì địch thôi không pháo tiếp. Từ trong lỗ châu mai, nơi để ổ đại liên, tôi nhìn ra ngoài hàng rào phòng thủ, qua một quãng đất trống khá rộng, cỏ lác – hoặc cỏ gì tôi cũng chẳng rõ tên, có thể là cỏ tranh – tạo một vệt sẫm trên nền đất đỏ. Mọi sự im lìm, một sự im lìm đến rợn người. Tôi vỗ vai người trung sĩ giữ khẩu súng:
    - Mong rằng mình không phải xài tới thằng em này.
    Viên Trung sĩ vỗ vào càng súng:
    - Xài tới thằng em này là chúng nó chơi biển người, chơi a-la-xô rồi ông thầy ơi.
    Chúng tôi cùng cười.
    - Như vậy là chỉ mới pháo, kiểu pháo giữ chân. Địch âm mưu gì đây?
    Một chiếc phi cơ bà già L19 bay tít trên cao. Sự xuất hiện của chiếc phi cơ này vào quãng gần trưa đã là một niềm khích lệ lớn cho binh sĩ. Họ thấy họ sẽ được phi pháo yểm trợ. Nhưng tôi thì lại lo vô cùng.
    Trước hết L19 bay rất cao, kinh nghiệm hành quân cùng không kỵ Hoa Kỳ cho thấy cao như vậy, quan sát của L19 sẽ không chính xác. Điều đáng sợ thứ nhì L19 không dám xuống thấp vì sợ làm mồi cho phòng không địch. Điều lo sợ của tôi đã thành sự thực, khoảng nửa giờ sau hai khu trục bay đến đánh bom. Tôi chỉ là một Trung Úy quèn, lo thủ một cái tuyến với vài chục mạng và một cây đại liên nên không biết rõ toàn diện của tình hình, không đủ yếu tố để nhìn bao quát thế trận, nhưng tôi biết rõ lực lượng tiến công phải là đại đơn vị vì phòng không địch bắn kinh hồn. Hai phi tuần đánh bom trật lất vì phi công không thể xuống thấp. Mỗi lần phi cơ đảo qua, phòng không bắn không hề tiếc đạn. Chúng tôi thấy giữa trưa nắng, những vệt đạn lửa từ phía rừng xẹt lên không. Dẫu sao thì cũng có phi pháo và có vẻ như địch đang ước lượng xem phe ta quyết giữ Đồng Xoài đến tầm mức nào.
    Sự việc diễn ra y như cũ.
    Vào khoảng gần nửa đêm địch lại rót 82 ly từng chập vào chi khu. Chúng tôi nghe 155 ly nổ khá xa. có lẽ đó là pháo yểm trợ của ta bắn từ cầu Rạch Rạc. Cầu này nằm ở phía Bắc cách Đồng Xoài cỡ 10 cây số. Nơi đây có một tiền đồn với một pháo đội hai khẩu 155 ly. Suốt đêm tin tức từ các chốt và tiền đồn nhỏ cho hay họ chạm địch hoặc bị pháo, nhưng tất cả các vị trí đều giữ được, chưa bị nhổ, chưa bị tràn ngập. Xem ra tình hình còn còn vững. Và cũng như hôm trước, gần sáng địch ngưng.
    Khi trời sáng hẳn tôi nói với thiếu úy Thái:
    - Tôi về bên bộ chỉ huy chi khu cỡ một giờ sau trở lại. Ông lo cho anh em.
    Lần theo địa đạo,giao thông hào, gỡ những vòng concertina tôi về được tới bản doanh chi khu. Người tôi hôi, ngứa ngáy. Tôi mò về phòng. Một quả 82 ly nổ ở sát cửa sổ phòng tôi, vì tôi thấy những bao cát lỗ chỗ rách bươm và tôi thấy một chiếc lỗ ở phía sân. Nhìn quanh tôi không thấy cái đuôi của viên đạn, không rõ nó văng đi đâu. Điều ngạc nhiên là không thấy miểng văng vào cửa sổ vì cái khung kính nhỏ vẫn còn nguyên.
    Tôi tụt đôi giầy saut ra, tôi quăng đôi tất nhà binh mầu cứt ngựa vào một xó. Tôi nhìn bàn chân đỏ hồng bật cười. Mới hơn hai ngày bị bó chặt, nay được tiếp xúc với không khí, một cảm giác nhẹ, thoải mái khiến những ngón chân tôi như tự động duỗi ra ngọ ngoạy.
    Tôi ngoáy ngoáy hai cái chân dăm phút và sau đó đi vào phòng tắm. Khu tôi ngủ là một dãy nhà tôn dành cho sĩ quan chi khu với một phòng tắm chung ở cuối dãy. Tôi múc nước dội xối xả từ đầu xuống.
    Tự nhiên hình ảnh tắm ở quân trường dội về trong trí nhớ. Hồi đó mỗi lần được trực ở lại đại đội, không phải ra bãi tập, tôi luôn thu xếp để hễ chiếc xe chở nước đến bơm đầy vào bể chứa nước trong phòng tắm của sinh viên sĩ quan là tôi lỉnh vào liền. Một mình tha hồ vục từng nón sắt nước dội thỏa thích không như cảnh phải tranh nhau vào đồng đôi vào mỗi buổi chiều. Cái bể nước cao trong vắt sao mà hấp dẫn thế. Nhưng nơi đây lại là mặt trận, là sống là chết, là bom là đạn.
    Tôi trở về phòng thoải mái. Căn phòng nhỏ nhưng ấm cúng, nơi tôi sống từ ngày về Đồng Xoài, tạo một cảm giác bình yên dễ chịu. Tôi ngồi trên chiếc giường nhỏ nhìn quanh. Tấm hình Dung vẫn ở đó, tấm hình chụp nàng bó gối ngồi trên tam cấp trước cửa nhà. Hình chụp ngược sáng, Khuôn mặt Dung khuất lấp nghịch ngợm. Bây giờ Dung đang làm gì?
    Tôi nhận ra trong suốt hai ngày qua, tôi không bao giờ nghĩ đến Sài Gòn, nghĩ đến Dung. Tiếng bom đạn, không khí căng thẳng, cái chập chờn ma quái của hỏa châu và hơn cả nỗi ám ảnh rằng cả một Sư Đoàn Việt Cộng đang siết gọng kìm quanh Đồng Xoài khiến tôi không còn suy nghĩ nhớ nhung gì nữa.
    o O o
    Thay quần áo xong, tôi khoác chiếc áo giáp, tròng cái mũ sắt, xốc lại giày TAB và khẩu colt 45, từ từ đi về phía bản doanh của Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái. Người Thượng sĩ cận vệ của ông ra dấu rằng ông vừa vào phòng ngủ chưa đầy năm phút.Tôi gật đầu, theo giao thông hào về lại tuyến. Sau hai ngày, tiểu khu chưa bị thiệt hại gì, các chốt phía ngoài chưa bị tràn ngập.
    Khoảng xế chiều, hai phi tuần tới đánh bom nhưng theo quan sát của tôi, bom khó trúng mục tiêu dự trù vì được thả từ độ quá cao, không thể nào chính xác được. Nhưng sự có mặt của phi cơ là một động lực lớn trấn an mọi người. Địch lập lại trò cũ, gần nửa đêm là bắt đầu rót 82 ly. Có lẽ sau hai đêm, địch đã chỉnh cự ly chính xác hơn nên đạn rơi vào vòng trong chi khu khá nhiều. Qua máy PRC tôi biết hai nghĩa quân ở phía Đại Úy Tố thiệt mạng. Nhưng đến gần sáng thì nhiều chốt bị tấn công đồng loạt ở vòng đai phía ngoài. Tôi dựa lưng vào tường bao cát nghe ngóng. Tiếng của các điện thoại viên, của lính truyền tin nghe như lạc giọng. Chốt này cho hay hỏa lực địch quá hùng hậu. Chốt kia cho hay e sẽ bị nhổ. Đêm đó hình như bốn chốt và tiền đồn nhỏ bị tràn ngập. Tảng sáng một số binh sĩ từ phía ngoài được rút vào phía chi khu.
    Đêm thứ tư tình hình trở nên dồn dập hơn.
    Đồn ở cầu Rạch Rạc bị tứ phía giáp công. Tôi hiểu địch muốn diệt hai khẩu pháo 155 ly. Cuộc công đồn xảy ra rất sớm, ngay từ lúc mặt trời chưa lặn hẳn. Người chỉ huy đồn là Trung Úy Hùng cầm cự đến phút chót. Ông đã yêu cầu pháo binh của Đồng Xoài và của căn cứ Bunnard bắn thẳng vào đồn vì đã bị tràn ngập. Qua PRC tôi nghe được ông báo cáo đã hủy hai khẩu 155 không để lọt vào tay địch. TT Khoái quyết định cử nguyên đại đội Thám Báo và hai đội ĐPQ phối hợp mở đường đón tàn binh của đồn Rạch Rạch. Trung Úy Hùng quả là một sĩ quan đầy kinh nghiệm. Ông đã đem được gần như toàn bộ sĩ quan và quân sĩ về đến chi khu.
    Khá nhiều thương binh. Đặc biệt có một Chuẩn úy mới ra trường vừa khóc vừa cười, đôi khi lại rú lên những tiếng hoảng loạn. Trung Úy Hùng mặt phờ phạc bắt tay tôi, hất hàm về phía Chuẩn Úy:
    - Vừa ra trường thì về với tôi, chắc lần đầu lại đụng quá lớn nên phát hoảng. Dám đứt mẹ nó dây thần kinh rồi. Chúng nó pháo như mưa, nhất là 122 ly. Anh chàng nghe chịu không thấu.
    Tôi nhìn khuôn mặt trẻ măng của người Chuẩn Úy, một khuôn mặt ngơ ngác, thất thần. Ông ta được đưa sang cho Bác sĩ Nam. Không ai nói năng gì về ông Chuẩn Úy ngoài những ánh mắt thông cảm. Mười mấy tuổi đầu bị vứt vào chốn binh đao lửa đạn ai không sợ?
    Thiếu Tá Khoái bố trí cho đám tàn quân của Rạch Rạc “dưỡng quân” ở ngay trung tâm chi khu gần bệnh xá và căn cứ pháo binh. Ông cũng giữ Trung Úy Hùng ở lại bản doanh. Thấy tôi đứng lớ ngớ quan sát đám binh sĩ từ đồn Rạch Rạc lo lui cui thu xếp, ông gọi:
    - Trung Úy Dũng.
    Tôi quay lại và tiến về phía ông. Ông trở lại giọng hòa nhã.
    - Cậu đừng lo. Chuyến tải thương hay tiếp tế đầu tiên tôi sẽ cho cậu về Sài gòn liền lập tức. Trung Úy Lễ đã liên lạc. Ông ta đã có mặt ở Phước Long, đang sốt ruột, cố mò xuống đây.
    - Tôi biết, ông thầy. Tôi nghe tin Trung Úy Lễ nằm lì ở sân bay để chờ xuống đây từ đêm qua.
    - Ok. Hễ có trực thăng hay tải thương tiếp tế là cậu có quyền dọt. Có Trung Úy Lễ hay không Trung Úy Lễ tôi cũng để cậu đi. Bây giờ cậu đi một vòng hỏi thăm anh em với tôi.
    Đầu tiên ông tạt vào bệnh xá. Các giường đều kín người. Khoảng bảy, tám binh sĩ của Chi Khu bị miểng đạn 82 ly. Khoảng mười mấy người khác từ các chốt và hơn một chục mạng từ đồn Rạch Rạch. Ông Đại Úy bác sĩ Tâm đang lui cui băng cho một binh sĩ. Thiếu Tá Quận Trưởng hỏi:
    - Cái ông chẩn Úy mới ra trường êm chưa Bác sĩ?
    - Bị chấn động thần kinh. Tôi đã chích thuốc an thần, hiện ngủ rồi. Có tỉnh lại như xưa hay không lại là vấn đề khác, từ từ mới biết.
    Mọi người im lặng. Những thực tế phũ phàng của chiến tranh được nói đến bằng giọng nói bình thản, đôi khi diễu cợt, nhưng tận đáy lòng, chúng tôi đều thông cảm và hiểu những điều không cần nói ra.
    Chúng tôi vòng qua nơi Đại Úy Tố. Ông ta tỉnh táo, quần áo vẫn thẳng nếp, mũ sắt chùm chụp trên đầu. Đại Úy Tố dáng người to lớn, nhưng lại gọn gàng và nhanh nhẹn. Ông nói với ông quận:
    - Thiếu Tá yên tâm, mặt này có tôi, nó muốn thì cũng trả giá đắt lắm.
    Ông ta ngẫm nghĩ rồi lập lại:
    - Đắt lắm!
    Điều mà chúng tôi không hiểu là giá có thể đắt so với thang biểu của tôi, của Đại Úy Tố hay rộng lớn hơn cả quân đội Miền Nam. Nhưng với địch, với Hà Nội thì giá đó có khi quá rẻ. Suốt trong những năm tháng còn lại trong đời, lúc nào tôi cũng nhớ hai tiếng “đắt lắm” của Đại Úy Tố.
    Tôi lẽo đẽo đi theo Thiếu tá Khoái hỏi thăm các sĩ quan, binh sĩ. Ông lấy cả hai bao Lucky của tôi đem mời tứ tung, gặp nghĩa quân nào cũng “làm một điếu cho thơm râu bổ phổi “. Ông bắt tôi dẫn về phòng tuyến và ân cần nói chuyện với các sĩ quan, binh sĩ. Ông vỗ vai Chuẩn Úy Tài:
    - Chuẩn Úy như ông này mới đúng là tương lai của quân đội.
    Tôi chạnh nghĩ đến người Chuẩn Úy đang thiêm thiếp ở bệnh xá. Trước khi rời tuyến của tôi, Thiếu Tá Khoái lập lại:
    - Hễ có tiếp tế tải thương là cậu dọt.
    Tôi im lặng tiễn ông. Cho đến phút này quả tôi không nghĩ đến chuyện ở hay đi. Nó nằm ngoài quyết định của tôi và lờ mờ trong tâm khảm tôi thấy khó mà xảy ra cho đến khi chi khu được giải tỏa. Phòng không địch dầy đặc, làm sao trực thăng xuống được. Chỉ có đường duy nhất là tỉnh và quân đoàn phối hợp hành quân lớn, có Dù, Biệt Động, TQLC thì mới hy vọng. Nhưng cái tiểu khu bé tí teo này có là ưu tiên số một chăng? Mấy hôm trước còn ở Sài Gòn, tôi đọc thấy áp lực còn đè nặng trên nhiều vùng, từ phía Quảng Trị xuống phía Ban Mê Thuộc của quân đoàn 2, và phía Bình Long cũng đang đụng lớn, chưa kể dưới đồng bằng.
    Tôi không có thì giờ suy nghĩ lâu là liệu có giải tỏa chăng. Địch khai hỏa rất sớm, pháo dày hơn thường lệ. Tôi cũng nghe được tiếng pháo đáp lễ của ta từ căn cứ Bunnard. Nơi đây có một pháo đội 155 ly bắn xa đủ để yểm trợ cho Đồng Xoài. Nhưng hai khẩu thì ăn thua gì? Pháo cơ hữu cũng bắn nhưng cầm chừng, có thể vì không có mục tiêu rõ ràng hoặc có thể hà tiện đạn. Đến nửa đêm thì địch đánh đặc công vào phòng tuyến của tôi. Đây là một ngạc nhiên lớn vì địa hình không có lợi nếu địch chọn lối đánh này. Địa thế trống trơn khiến tầm quan sát của chúng tôi khá xa. Tổ chức quân đội của chúng ta được rập khuôn theo Hoa Kỳ và có rất nhiều đơn vị với phù hiệu trang bị và quân phục rất khác nhau như Dù, Biệt kích, TQLC Biệt Động Quân… Việt Cộng chỉ có chính qui và du kích. Du kích tương đương với địa phương quân hoặc nghĩa quân, là những đơn vị bản địa. Họ biết rõ địa hình địa vật, dân tình và cả quân tình của vùng hoạt động và thường là những nguồn tin cần thiết cho bộ đội chính qui và các đại đơn vị. Trong thành phần du kích có một đoàn được đặt tên là đặc công – hiểu như cảm tử quân hay ở một khía cạnh khác giống như biệt kích dù, hoặc thám báo của ta. Đặc công Việt Cộng trang bị súng ngắn và rất nhiều lựu đạn và thường là có thêm một con dao găm để đánh xáp lá cà. Bọn họ ở trần, chỉ mặc xà lỏn, cả người bôi dầu và lọ nghẹ đen thui, và thường là mũi công phá để đánh các chốt, các đồn lẻ. Theo sự hiểu biết, tôi tin rằng địch dùng đặc công để phá bãi mìn và hàng rào kẽm gai phòng thủ tuyến.
    Chúng tôi chỉ thấy lờ mờ những vật di động ở phía ngoài nơi gần bãi cỏ lác. Khẩu đại liên khạc đạn liên hồi. M16 góp tiếng. Tôi đứng sau tường bao cát quan sát. Thỉnh thoảng có một tiếng nổ vọng vào và một đốm lửa toé lên từ các lùm cây lùm cỏ. Hoặc là các đặc công ném lựu đạn để phá kẽm gai và mìn. Hoặc họ trúng đạn và lựu đạn nổ theo. Đợt đầu độ 15 phút. Khoảng một giờ sau địch tung đợt hai nhưng không kết quả. Hai giờ sau lại có những bóng đen động đậy, những lùm cây di động. Tôi cho bắn hỏa châu sáng một khoảng trời. Đạn nhả như mưa mùi thuốc súng nồng nặc trong tuyến. Tôi sai hai binh sĩ lo quét vỏ đạn dồn về một góc. Đúng lúc đó, đạn phòng không của địch nổ đỏ trời. Suốt đời lính tráng tôi chưa hề thấy phòng không cỡ này. Như lưới đan, đạn kẻ những vệt sáng đỏ. Chúng tôi nghe thấy tiếng phi cơ khu trục ầm ì trên cao và sau đó là chục tiếng bom. Đêm đó phi cơ đánh hai lần như e không kiến hiệu vì bom bỏ từ khá cao vả lại trời tối thui. Nhưng binh sĩ thì yên tâm thấy rõ. Họ tin họ không bị bỏ rơi. Như vậy là đủ với chúng tôi. Số tiền đồn và chốt ở sát chi khu không còn lại bao nhiêu. Tới gần sáng qua máy truyền tin tôi nghe tiếng Chuẩn Úy Tơ la inh ỏi. Tôi biết rõ ông Chuẩn Úy dễ thương người đâu ở miệt Vĩnh Long. Đang học Dược thì bị đi lính vào Thủ Đức. Tơ vui tính hay diễu và nhậu khá giỏi, thích uống đế pha xá xị con cọp. Tôi thì chịu, không chơi nổi cái món cocktail kinh hoàng này, uống vào là nhức đầu như búa bổ. Có lần tôi hỏi Tơ sao lại uống đế pha xá xị, Tơ cười bảo:
    - Lương Chuẩn Úy nhiêu Trung Úy biết hông? pha xá xị còn chưa đủ tiền trả, làm gì dám chơi 33 đều đều?
    Nhưng qua máy truyền tin, giọng Tơ lạc hẳn đi. Chín giờ hơn, chốt bị nhổ, bị đặc công đánh bật khỏi vị trí. Chuẩn Úy Tơ vừa đánh vừa rút đem về chi khu được gần một trung đội nhưng hơn nửa là thương binh. Cái tin Tơ đem về làm chúng tôi rúng động. Tơ cho hay chính anh thấy và đếm được 13 chiếc T54 càn lên nên rằng mìn và kẽm gai không thể chặn nổi.
    Hôm đó hai chiếc C123 quần trên cao thả dù tiếp tế.
    Tôi không rõ những kiện hàng thả xuống là gì – đạn dược, thuốc men hay cả lương thực nhưng dù bị gió đẩy đi rơi lạc mất hút vào cánh rừng bên ngoài. Tiếp tế cho ta trở thành tiếp tế cho địch. Phòng không bắn ran trời, phi công không thể nào xuống thấp hơn được nữa. Nhìn những chiếc dù bọc gió căng phồng với kiện hàng lơ lửng trên cao từ từ dạt ra khỏi vòng đai, chúng tôi tiếc hùi hụi.
    Đêm đến, ngoài ánh hỏa châu lập loè, mọi sự yên tĩnh lạ thường. Địch không chơi 82 ly vào chi khu nữa. Chúng chơi trò gì đây? Pháo hay không, chúng tôi vẫn phải thức. Khoảng hai giờ sáng, một nghĩa quân bưng đến cho tôi một ca nhôm.
    - Trung Úy, làm tô mì cho đỡ xót ruột.
    Đời sống lính tráng có nhiều điều nếu rời khỏi sẽ gây nhớ nhung đến lạ lùng. Phải chăng chính vì những ca nhôm nóng bỏng và mì gói Đại Hàn này đã khiến tôi trở lại Đồng Xoài thay vì lặn luôn để đi Mỹ ? Tôi vốn khảnh ăn và lại dễ ăn. Ăn gì cũng được, chỉ tôi ăn không được nhiều. Dung vẫn nhăn nhò vì mỗi lần hai đứa đi ăn bíp tếch, tôi chỉ ăn hết non nửa, dù miếng bíp tếch của Tài Nam cũng chẳng to lớn gì, mà lại mỏng tanh. Bỗng ông Thái đến cạnh tôi bảo:
    - Trung Úy ăn xong, đi ngủ đi, để tôi lo. Nó chơi lớn ông thức cũng vừa.
    Ông Thái ngồi bệt xuống cạnh tôi, hai người dựa vào vách tường bao cát hơi ẩm lạnh. Vừa húp mì, vừa gật gù, tôi hỏi:
    - Vợ con ông ra sao?
    - Hà, đứa nhỏ mới sáu tháng, ở Nha Trang với ông bà nội. Ba tháng rồi chưa thấy mặt.
    - Bà ấy có than thở gì không?
    - Trung Úy độc thân vui tính, lương bao nhiêu cứ xài cho hết, vả lại gia đình Trung Úy còn tiếp tế thêm nữa. Sĩ quan vợ một con cả tháng lương chỉ đủ mua gạo với cá khô. vợ tôi phải buôn bán thêm mới đủ sống.
    Câu chuyện đến đây tắc nghẽn. Tôi không biết nói gì với người sĩ quan sấp sỉ tuổi tôi. Chúng tôi sinh ra vào thời loạn, đâu có quyền lựa chọn? Tôi đánh trống lảng:
    - Vậy ông trông coi anh em, tôi nhắm mắt một lát.
    Tôi chui vào căn hầm ở giữa tuyến nơi bố trí khẩu đại liên. Căn hầm vuông vức có sẵn mấy chiếc ghế bố. Lột chiếc mũ sắt, tụt bỏ chiếc áo giáp và giày ATB, tôi ngả người trên ghế bố và chìm vào giấc ngủ lúc nào không rõ.
    Khoảng nửa trưa, Thiếu tá Đặng Vũ Khoái triệu tập tất cả sĩ quan của chi khu Đôn Luân để nghe ông thuyết trình. Chữ thuyết trình có lẽ quá to, đúng hơn là những lời trấn an:
    - Tôi đã nói chuyện trực tiếp với Đại tá Tỉnh Trưởng và trên Quân Đoàn. Một kế hoạch hành quân lớn đang được ráo riết chuẩn bị và sẽ có nhiều chuyến thả dù tiếp tế hơn. Nhân danh chi khu trưởng, tôi đã đoan chắc tinh thần của sĩ quan và binh sĩ Đồng Xoài là quyết giữ chi khu này bằng mọi giá. Tôi và Đại Úy Tố hiện đang dự trù để nếu có hành quân giải tỏa, chúng ta có thể mở đường tiếp tay với lực lương bạn từ phía ngoài.
    Các sĩ quan chi khu không ai lên tiếng. Nói gì bây giờ. chúng tôi đều biết rõ các tiền đồn đã bị đánh tan. Chốt cuối cùng của Chuẩn Úy Tơ cũng đã vỡ. Phòng không địch dày đặc quanh chi khu chứng tỏ địch đang bố trí cho một trận đánh lớn. Hoặc là nuốt gọn chúng tôi. Hoặc là dùng Đồng Xoài cho như nhử mồi giăng một cái bẫy chờ sẵn để nghênh chiến với các đơn vị giải tỏa do tỉnh và quân đoàn gửi xuống. Cách nào thì chúng tôi cũng là kẻ bị động, không thể nhúc nhích gì được. Hai ngày sau đó, địch chỉ pháo cầm chừng. Nhưng thỉnh thoảng có cả hỏa tiễn 122 ly. Lại thêm một dấu hiệu đáng ngại.
    Có cái gì căng thẳng lơ lửng trong suy nghĩ của tất cả anh em sĩ quan. Chúng chơi trò gì đây? Giống như khí hậu oi nồng báo trước trận bão, tôi linh cảm thấy địch sẽ tấn công bất cứ lúc nào.
    Đến đêm thứ chín thì tình hình khác hẳn. Địch pháo liên tu bất tận. 82 ly rồi 122 ly. Có lẽ đề lô địch đã chỉ điểm rõ và cự ly pháo cũng đã được điều chỉnh, đạn địch rơi ì ầm vào chi khu và đôi khi sát bên các giao thông hào. Pháo không ngơi nghỉ. Những tiếng rít của 122 ly nghe lạnh xương sống. 122 ly nghe nổ giòn hơn 82 ly. suốt bao năm cầm súng đến nay, tôi mới nhận biết điều này. Chỉ nghe tiếng đạn rít lên là tôi có thể phân biệt có đúng 122 ly không. Bốn khẩu cơ hữu của chi khu lúc này cũng hoạt động liên tục hơn nhưng nếu so về cường độ thì chẳng thấm vào đâu. Chúng tôi chịu trận đến sáng thì có tin mừng vào ngày thứ 10 của cuộc tử thủ.
    Chúng tôi được tiếp viện. Trên truyền tin của mã số 25, chúng tôi nhận được một câu ngắn ngủi “Chúng tôi yêu thương các anh”. Yêu thương là yểm trợ theo ngôn ngữ truyền tin Y-T. Mã số 25 có lẽ là của cấp chỉ huy quan trọng vì rất nhiều đài liên lạc làm việc với 25. 25 yêu cầu chúng tôi cho hay pháo và phòng không địch nặng nhất là về hướng nào. Tinh thần mọi người lên như diều. Tôi dán tai vào máy vừa nghe vừa lượng định.
    Chắc chắn 25 phải là thẩm quyền quan trọng và chắc chắn lực lương tiếp viện phải là Dù hoặc Lực Lượng Đặc Biệt. Có thể là hành quân trực thăng vận vì với địa thế này khó mà nhảy dù. Vả lại theo trí nhớ lơ mơ của một anh trung úy, tôi nghĩ đã lâu lắm quân đội không còn hành quân nhảy dù nữa. Tại sao thì không rõ. Hoặc giả vì địa hình địa vật không thuận lợi. Hoặc là chúng ta quen đánh kiểu Mỹ, trực thăng vận chăng?
    Tôi và các sĩ quan xúm lại chăm chú. Tiếng PRC nghe rồ rồ.
    - 25 đây. 25 đây. Nghe rõ trả lời. Roger.
    - Năm trên năm. Roger.
    - Cho biết tọa độ nặng. Tọa độ nặng
    - Mười bảy hai tám ba hai. Lập lại mười bảy hai tám ba hai. Roger.
    - Đà điểu. Đà điểu. Nghe rõ trả lời. Roger.
    - 25 nghe năm trên năm. An toàn bãi đáp.
    Chúng tôi đều hiểu thẩm quyền 25 muốn phi pháo đánh vào mục tiêu chỉ điểm để có thể mở một khoảng trống làm bãi đáp cho trực thăng. Không khí trong tuyến như bừng lên chờ đợi. Khoảng mười lăm phút sau hai phi cơ xuất hiện. Binh sĩ hớn hở ra mặt, mọi người đều nhô lên khỏi các bao cát quan sát. Hai chiếc F5 đảo trên cao hai vòng và chúi xuống hướng phía tuyến của Đại Úy Tố. Phòng không địch dày như lưới đan. tiếng bom nổ ì ầm. Hai chiếc F5 nữa xuất hiện lao xuống. Tôi chăm chú ước lượng. cao quá. Kinh nghiệm hành quân với toán Mầu của lực lượng không kỵ Hoa Kỳ cho tôi thấy đánh bom kiểu này không kiến hiệu. Ngày xưa còn đánh giặc theo kiểu Hoa Kỳ, mỗi lần sửa soạn bãi đáp trực thăng, bom đạn xài thả cửa. Pháo xong là cả chục phi tuần của Đệ Thất Hạm Đội lao tới. Sau đó trực thăng UH1 võ trang đại liên và hỏa tiễn rà. Tôi đã ngồi nhiều năm trên những chiếc phi cơ quan sát để “clear” bãi đáp. Hồi đó tôi vẫn còn có cái ý nghĩ không còn cái gì nhúc nhích được sau những đợt phi pháo kinh hồn như vậy. Đó là những cuộc hành quân của ngày xưa chưa Việt Nam hóa chiến tranh. Phòng không địch lưa thưa và thường rất yếu. Lúc đó Hà Nội chưa thể chuyển vào Nam các vũ khí cơ giới và phòng không cỡ này vì đường mòn Hồ Chí Minh bị đánh bom liên tu bất tận.
    Từ cái tuyến lép nhép và ẩm ướt nhìn ra, tôi thấy khó mà đổ bộ trực thăng nổi trong tình huống hiện nay. Một anh Trung Úy quèn như tôi mà còn nhìn ra thì thẩm quyền 25 phải thấy. Quả nhiên sau bốn phi tuần, có tiếng 25:
    - Rất yêu thương các anh. Trời lại sáng. Lập lại yêu thương các anh. Trời lại sáng. Lập lại trời lại sáng.
    Lúc đó trời đã về chiều. chúng tôi hiểu rõ. 25 hẹn ngày mai trở lại. Tôi cười bâng quơ. Ngày mai có thật sáng sủa chăng?
    Chưa biết ngày mai như thế nào nhưng tối hôm đó êm ả lạ kỳ. Sau 10 ngày căng thẳng tôi thấy cơ thể rã rời. Binh sĩ trông nhếch nhác, dựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật. Tôi và các sĩ quan vẫn phải chia phiên đôn đốc cắt gác, thượng phiên trực. Địch có thể mở cuộc tấn công bất cứ lúc nào. Cả hôm đó địch chỉ pháo lai rai. Tôi được một nghĩa quân đưa cho hai cục kẹo màu xanh gói trong giấy bóng. Rõ ràng là kẹo nội địa, kẹo Chợ Lớn và là loại rẻ tiền. Tôi nhớ rõ vì quả không bao giờ tôi lại nghĩ được ăn kẹo vào lúc đó. Kẹo đã hơi nhão ra, dính vào giấy bóng kính rất khó bóc, nên tôi bỏ cả hai cục vào miệng rồi nhằn dần.
    Chính lúc đang cố dùng lưỡi đẩy cái giấy lẹp nhẹp ra khỏi miệng, tôi chợt thấy sự hiện diện của tôi nơi đây có những cái lý do của nó. Tôi là sĩ quan – Trung Úy Dũng – nhưng trong suốt bao nhiêu năm có mặt trong quân ngũ, chưa bao giờ tôi để tâm tới khía cạnh như kiểu vẫn được chính phủ nói tới như lý tưởng, bảo vệ tự do, như chiến tranh ý thức hệ, như tiền đồn của thế giới… Tôi bị đông viên thì đi. Được huấn luyện thành sĩ quan. Giáo dục của gia đình và học đường đã khiến tôi thấy những bổn phận đó là đương nhiên. Chưa bao giờ tôi đặt câu hỏi với tôi về ý nghĩa của cuộc chiến tranh cả.
    Nhưng tôi yêu quân đội vì có lẽ được sống và đã được chia sẻ với những người như anh nghĩa quân chia cho tôi cục kẹo. Trong cái ý nghĩ luẩn quẩn đó, tôi im lặng quan sát người lính dưới quyền. Anh ta khoảng 20 tuổi. Quá trẻ. Dáng dấp cho thấy giống bất cứ người thanh niên quê mùa nào, anh đăng nghĩa quân để được gần gia đình.
    Tôi vốn học trường Tây, mặc dù cố gắng tự học lịch sử Việt Nam nhưng vẫn rất mù mờ. Tuy nhiên tôi nhớ đến tổ tiên ta đã có thời sử dụng đến lực lượng bán quân sự gọi là Nông Binh. Không có giặc thì làm ruộng thì là Nông. Có giặc thì đánh, thành Binh. Người nghĩa quân ngày nay, có lẽ được xây dựng trên ý niệm đó. Tôi hỏi:
    - Sao, Tú vợ con gì chưa?
    - Chưa Trung Úy ơi. Nghèo chết mẹ có đứa nào thương đâu?
    - Đẹp trai thế thiếu gì đào.
    - Ối con gái thời nay chỉ có tiền thôi Trung Úy ơi.
    Và anh ta nhìn tôi:
    - Nghe nói Trung Úy sắp lấy vợ và đi Mỹ?
    A ha, chuyện của tôi đồn đại khá xa, đến người nghĩa quân này cũng biết. Tôi đánh trống lảng:
    - Ờ, chưa biết ra sao vì bây giờ mình đang bị pháo lia chia ở đây.
    - Lạy trời cho có giải tỏa.
    Tôi rùng mình. Hóa ra tất cả binh sĩ ở đây đều thấy ngõ cụt của chúng tôi. Niềm hy vọng duy nhất là một cuộc hành quân lớn từ ngoài đánh vào và chúng tôi sẽ từ trong đánh ra. Đánh ra thì chúng tôi sẵn sàng, nhưng phải có lực lượng bạn từ ngoài đánh vào. Tôi trấn an người thuộc hạ:
    - Đương nhiên là sắp có hành quân giải tỏa.
    Suốt ngày hôm đó không có biến cố gì. Chúng tôi ngóng 25 nhưng biệt tăm. Tin tức từ máy cho hay có đụng lớn nhiều nơi khác. Quận Phước Bình cũng bị pháo kích và tấn công. Tình thế xem ra không có gì lạc quan.
    Tôi thiếp đi được một hồi. Tỉnh dậy trời đã sập xuống. Đêm tối êm ả, không có 82 ly, không có 122 ly, chỉ có tiếng pháo cầm chừng của ta, có lẽ từ Bunnard bắn tới. Khoảng quá nửa đêm, qua PRC, thiếu tá Khoái gọi tôi sang bên ông. Gỡ hàng rào kẽm gai vòng, tôi đi len lỏi giữa các giao thông hào. Sau 10 ngày chịu trận, nơi đâu cũng phảng phất mùi lửa đạn, mùi thuốc súng.
    Tôi gặp Thiếu Tá Quận Trưởng đang ngồi ở bàn giấy, nơi tôi và ông cùng uống cà phê với ông Bảy 10 ngày trước.
    - Tụi nó nấu xôi lạp xưởng, tôi nhớ đến cậu, nên gọi sang ăn. Lạp xưởng đào cậu mua ngon lắm.
    - Dung nói lạp xưởng Mai Quế Lộ của Tàu. Tình hình tổng quát ra sao Thiếu Tá?
    Ông nhìn tôi im lặng một chút rồi chậm rãi trả lời:
    - Đáng lẽ cậu không cần từ giã tôi và anh em. Nhưng tôi vẫn chủ tâm hễ thoát ra thì cậu là người đầu tiên về Sài gòn. Cho tới giờ phút này, tụi nó chưa lộ hẳn sẽ chơi mình thôi hay dùng mình để cầm chân rồi đánh tỉnh. Tôi đã nói rõ với Đại Tá Thành rằng anh em mình sẵn sàng ăn thua đủ nhưng phải có tiếp tế và tải thương, và nhất là phải đánh bom nhiều hơn nữa. Đồ ăn thức uống thì còn có thể kéo dài nhưng thuốc men thì chẳng còn gì. Ông Bác sĩ Nam cho hay bệnh xá không còn thuốc cầm máu, hết trụ sinh, và ông cũng kêu trời như bộng. Đạn thì cũng tàm tạm nhưng cứ kiểu này không khéo mình thành Tống Lê Chân cũng nên.
    Tôi gõ xuống bàn suy nghĩ cố nhớ. Tống Lê Chân ở trên núi, địa thế hiểm nghèo và hồi đó phi pháo ê hề, Cộng Sản đâu đã có ưu thế về vũ khí. Đồng Xoài tứ phía là rừng và tụi tôi như nắm xôi nằm trên đĩa.
    - Liệu quân đoàn chơi có mạnh, hành quân phối hợp giải tỏa không?
    - Chưa biết. Cậu hiểu và tôi cũng hiểu. Mong rằng phía trên không kẹt ở đâu, để có thể lo cho mình.
    - Đại Tá Thành có hứa gì không?
    - Tất nhiên là hứa nhưng không có gì là khẳng định hết. Mấy đợt thả dù, lạc hết ra ngoài rồi.
    - Bốn đợt. Mất bộn à Thiếu Tá.
    - Mẹ kiếp, tiếp tế cho mình hóa ra tiếp tế cho địch.
    Nồi xôi chín và người hạ sĩ dọn cho chúng tôi hai đĩa xôi thơm phức cùng với một dĩa lạp xưởng xắt mỏng.
    Thiếu tá Khoái nói với người Hạ Sĩ:
    - Nấu hết xôi đem chia cho anh em, đừng để họ nghĩ tôi và Trung Úy Dũng ăn mảnh một mình không nghĩ đến họ.
    Lạp xưởng xắt mỏng màu đỏ tươi, dai nhưng vị ngọt và có thoang thoảng mùi rượu nếp – hay như mấy ông Tàu hay dọa anh em, mùi Mai Quế Lộ. Chúng tôi ăn chậm rãi, và tôi thấy Thiếu tá vẫn áo giáp mũ sắt dù đang ngồi trên ghế bành đằng sau chiếc bàn lớn.
    Khoảng ba giờ tôi tính đi trở lại phòng tuyến thì Thiếu tá bảo:
    - Đợi sáng hãy về. Ngồi đây làm ly cà phê đã.
    Không bao giờ tôi được về phòng tuyến nữa. Chắc cỡ bốn hay năm giờ sáng gì đó địch khai hỏa, bắt đầu pháo. Không phải là lai rai mà pháo tập trung. Bốn phương tám hướng. đạn 82, 122 rơi tứ tung ngũ hành. Thiếu Tá Quận Trưởng nhanh nhẹn rời khỏi chiếc ghế, vội vàng đi về phía hầm truyền tin, nơi đặt bộ chỉ huy chi khu. Tôi vồ lấy cây M16 vừa lui cui chạy vừa cố định hướng. Mới đầu nghe tiếng rít tôi còn hụp xuống, nhưng sau đó pháo rát quá tôi đâm liều, chạy phăng phăng và nhảy xuống giao thông hào nơi có đám thám sát tỉnh đóng trụ gần nơi để bốn khẩu pháo cơ hữu. Nơi đây là trung tâm chi khu, có lẽ bị ăn pháo nhiều hơn cả. Chúng tôi ở bẹp dí dưới các công sự chiến đấu. Tôi mò lại chỗ người lính truyền tin đang ôm máy PRC, tìm cách liên lạc với Thiếu Úy Thái.
    - Tango. Đây Zulu. Nghe rõ trả lời.
    Zulu là mã số của tôi. Độ dăm phút sau có tiếng trả lời:
    - Chạm nặng
    Và sau đó là tiếng rồ rồ không nghe gì được nữa.Tôi sốt ruột cố giữ tần số. Đạn nổ tứ bề đinh tai nhức óc. Địch tứ diện tấn công. Khoảng nửa tiếng sau tôi mới lại được lên máy nói chuyện với tuyến. Tôi nói rất nhanh:
    - Tango. Tango. Đây Zulu
    - Nhận rõ.
    - Đang kẹt bên 33. Tango ráng lo bên đó.
    - Nhận rõ. Tụi nó chơi dữ quá, T54 đang tràn lên.
    - Nghe rõ. Tango… ráng giữ ráng giữ…
    - Zulu.Zulu. Tụi nó tràn lên, tràn lên. Xáp lá cà. Xin yêu thương. Xin yêu thương…
    Đó là những lời cuối cùng của Thái. Tuyến bị tràn ngập vào khoảng bảy giờ sáng. Tôi không rõ số phận của mọi người ra sao, chỉ nghe viên trung sĩ thét qua PRC
    - Thiếu Úy tử trận. Địch tràn vào.
    Nơi tôi đứng, viên Thượng sĩ thủ khẩu 81 ly đã dựng súng gần như thẳng đứng. Thế có nghĩa là đạn nổ chỉ cách đó vài trăm thước. Tôi chạy ra tiếp đạn. Khói mù mịt tạo thành một màn hơi mỏng. Mùi thuốc súng làm mọi người hăng lên, khoẻ ra. Tôi không còn phân biệt được tiếng M16 hay AK47 nữa. Đúng lúc đó, có tiếng thét lạc giọng:
    - T54.
    Từ trong công sự chiến đấu, chúng tôi có thể nghe tiếng động cơ ầm ì nhưng đến lúc đó mới nhìn thấy rõ xe tăng địch. Tôi nghe tiếng chửi thề ngay bên tai:
    - Đù mẹ chúng mày.
    Và người lính thám báo nhảy hẳn lên khỏi hàng bao cát, quay khẩu M72 bắn. Chiếc T54 trúng đạn chao sang một bên nhưng vẫn chầm chậm lăn về phía hàng rào, pháo tháp trên với nòng đại bác 100 ly hướng về phía chúng tôi. Tôi nhìn thấy họng đại bác khạc lửa và sau đó là tiếng nổ. Người lính M72 lãnh nguyên trái đạn, chiếc áo giáp bay ra như bươm bướm, trắng cả một khoảng giao thông hào.
    Tôi không thấy thịt xương của anh ta, có lẽ cả người bị đạn 100 ly đẩy tuốt đi tận đâu. M72 không đủ sức hạ T54 vì chiến xa của địch đã được cải tiến thành xe hạ thấp và có độ nghiêng khiến đạn M72 bị trượt đi.
    Mấy khẩu đại bác được hạ nòng bắn trực xạ. Chúng tôi bắn liên hồi, có gì bắn nấy. Đột nhiên tiếng kèn nổi lên. Suốt hơn sáu bảy năm lính tôi chưa bao giờ nghe tiếng kèn xung phong. Tôi cũng chưa được đồng đội nào cho hay Việt Cộng có kèn xung phong. Nghe như xi nê nhưng thật tiếng kèn xung phong có một tác động ghê hồn. Nó không chỉ khích động bên kia mà nó còn khích động cả phía tụi tôi. Những người lính vừa bắn vừa chửi thề. Mới chỉ là kèn, địch chưa tung bộ binh đánh biển người nhưng thoáng phía xa là những di động thấy rõ là địch đang dàn trận để xung phong. Đúng lúc đó có tin Đại Úy Tố bị trúng pháo chết và tuyến của ông bị tràn ngập.
    Đạn bắn tứ phía đủ loại súng lớn, súng nhỏ. Đầu tôi lùng bùng. Tôi loay hoay suy nghĩ và nhảy khỏi giao thông hào mò về bộ chỉ huy chi khu. Tôi muốn biết TT Khoái quyết định ra sao. Vỏ đạn rơi vãi khắp nơi, những bao cát tung toé vì pháo. Sục mãi không tìm được ông Quận Trưởng, tôi thoáng thấy hai người lính núp sau mấy chiếc lu lớn phía sau tư dinh. Bò lại thì ra hai ông lính kiểng người Tầu Chợ Lớn làm bếp cho ông Quận. Tôi hỏi:
    - Thiếu Tá đâu?
    Hai ông lính to béo cầm M16 chắc chưa bắn phát nào, mặt mày tái mét:
    - Tụi em vừa thấy ông Quận và mấy người Stieng. Ông Quận bảo tụi em ở đây bắn chận.
    Tôi biết chắc hai ông lính này không biết bắn chận là gì. Nhìn điệu bộ họ, tôi nghĩ suốt đời lính họ chưa bao giờ phải bóp cò. Tôi chạy vào văn phòng. Đồ đạc vẫn y nguyên, ngó thấy dây chạc ba trên có gắn tùm lum, thứ dây chạc của phi công Mỹ với thuốc men, máy Beacon, tôi khoác vào vai. Tôi biết rõ cái dây chạc này nhờ hồi hành quân với người Mỹ. Cái máy Beacon lớn cỡ bao thuốc lá sẽ phát ra tín hiệu khiến phi cơ biết người phi công đang ở tọa độ nào để đến cứu. Tiện tay thấy một tấm bản đồ hành quân, tôi thủ luôn vào túi quần trận.
    Vừa lui cui chạy dọc theo phía bao cát tôi thấy hai nghĩa quân đang đứng ôm M16 hướng ra ngoài. Một trái 122 ly nổ giữa sân, đất cát bắn tung toé. Chiếc cột cờ gãy ngang, lá cờ vẫn vướng vào dây rách lỗ chỗ. Người nghĩa quân quay sang nói với tôi:
    - Tội lá cờ, để em ra lấy.
    Tôi chưa kịp cản thì anh ta đã lao ra giữa sân. Một trái 122 ly nữa nổ tung. Người nghĩa quân ngã gục trên lá cờ và chỉ một giây sau đó, xác anh bật tung lên vì trái lựu đạn của anh có lẽ đã tuột kíp nổ. Người nghĩa quân nằm đó bất động, cờ tẩm máu đỏ rách bươm quấn lấy đầu anh.
    Mò trở lại khu trung tâm, tôi gặp Trung Úy Hùng. Đúng lúc đó viên Trung Úy Pháo binh thủ pháo cơ hữu nhảy qua vòng concertina, quần áo rách tả tơi, có lẽ vì vướng dây thép gai. Giọng ông ta như lạc hẳn đi:
    - Tụi nó đông quá, có cả chục T54, không giữ nổi.
    Rất nhanh, tôi hiểu và hỏi lại, khá gay gắt:
    - Ông có hủy pháo không?
    - Không kịp. Tụi nó bắn rát lắm.
    - Ông trở lại nói anh em hủy ngay. Đâu có thể để mấy khẩu pháo lọt vào tay địch.
    Tôi không nhớ tên người Trung Úy Pháo Binh nữa, nhưng suốt đời khó mà quên được nét mặt ông ta. Giữa bổn phận của một người lính, hơn nữa, của một cấp chỉ huy, và sinh mạng của chính mình, ông thẩn người ra. Tiêu lệnh hành quân bất cứ sĩ quan nào cũng rõ là phải hủy võ khí, không để lọt vào tay địch, nhất là loại vũ khí nặng và máy móc truyền tin. Nhưng rồi ông ta cũng lẳng lặng quay trở lại vị trí của các khẩu pháo 105 và 155 ly. Tôi cũng không biết ông ta có hủy nổi mấy khẩu đại bác không, nhưng ít ra thì ông cũng xứng đáng là một sĩ quan.
    Tôi chúi người lao về phía trước. Vừa nhảy xuống hào thì nghe chuẩn úy Kiệt nói rít qua kẽ răng:
    - Bệnh xá bị rồi. Bác sĩ Nam tử trận.
    Đúng lúc đó, người trung sĩ truyền tin la:
    - Có tỉnh liên lạc. Có tỉnh liên lạc.
    Tôi áp tai vào ống nghe.
    - 72 đây. Cho gặp giới chức thẩm quyền cao nhất. Nghe rõ trả lời.
    Không còn ngôn ngữ truyền tin, ám số, mã số gì ráo, y như đang nói điện thoại. Tôi nói như thét vào ống nghe:
    - Đây hai mai Dũng. Trưởng Bắc Bình 3. Nghe rõ 72.
    - Tôi đặc cách thăng Trung Úy lên Đại Úy. Yêu cầu giữ Đồng Xoài bằng mọi giá. Sẽ có yểm trợ ngay.
    - Địch đông, đại đơn vị, công trường 7 có T54. Hai phòng tuyến đã vỡ. E không kịp.
    - Tôi đặt hết tin tưởng nơi Đại Úy, hãy cố tử thủ, giữ Đồng Xoài bằng mọi giá.
    “Bằng mọi giá”. Giá đó là giá nào? Và trong suốt đời lính, đó lần lần duy nhất tôi được gọi là Đại Úy.
    Dù đứng sát và nghe cuộc điện đàm, Ông Trung Úy Hùng vẫn hỏi:
    - Ông Quận đâu?
    - Không thấy.
    Hai đứa tôi nhìn nhau. Đời lính của tôi cũng đã đủ gian truân, nhưng đến cái mức này thì quá sức chịu đựng. Trung Úy Hùng nhìn tôi:
    - Bây giờ ông là sĩ quan cao cấp nhất ở đây, ông tính sao?
    Tôi chợt hiểu. Trước hết hai đứa đều là Trung Úy, nhưng tôi thâm niên hơn và hơn nữa giữ trưởng ban 3 kiêm ban 2, tức chức vụ cao hơn ông ta. Tôi là người phải quyết định. Ông Hùng chắc biết rõ cái lúng túng của tôi.
    - Chơi hay không là tùy ông. Ông chơi thì tôi theo. Ông dọt thì tôi cùng dọt.
    Tôi quan sát xung quanh. Khói nghi ngút ở các nơi bốc lên, không khí sặc mùi thuốc súng. Nhìn cảnh nhếch nhác của binh sĩ tôi quặn đau. Ba tuyến thì bị tràn ngập hai, nhiều chỗ gần như đánh xáp lá cà. Đúng lúc đó hai người lính khiêng Trung Úy Vận tới. Ông nằm trên băng ca, máu me đầy người. Trung Úy vận lo truyền tin cho chi khu. Tôi cúi xuống thăm ông như một cử chỉ tự nhiên, và nói không suy nghĩ.
    - Ông bị như vầy lên đây làm gì. Tôi nói tụi nó đưa ông xuống hầm truyền tin nghỉ ngơi.
    - Dũng, Moa đã hủy hết máy rồi. Moa chắc sẽ chết. Ở đây hay dưới hầm cũng thế. Moa có việc nhờ Toa.
    Giọng ông bình tĩnh, rõ ràng khiến tôi khựng lại. Con người ta nghe nói trước khi chết rất tỉnh. Tôi lạnh người nhìn ông Vận:- Được. Toa nhờ gì Moa cũng nhận.
    - Toa lo cho thằng em Moa. Nó còn nhỏ, bà già Moa bảo Moa đưa nó về truyền tin ở với Moa, tưởng êm ai ngờ…
    Và ông ngước mắt nhìn lên. Tôi nhìn theo. Đó là một thanh niên trẻ, dù mũ sắt, đồ trận, nhưng vẫn không dấu nổi khuôn mặt thư sinh. Tôi nhìn bảng tên và nói rất nhanh.
    - Yên trí, Moa sẽ lo cho thằng Hoàng, coi nó như em Moa. Bây giờ Toa để tụi nó khênh Toa xuống cho chắc.
    Hẳn là Trung Úy Vận không bao giờ ngờ và tôi cũng không bao giờ tưởng được người sống sót là ông và người chết lại là Hoàng, người em thư sinh của ông, nay là em tôi. Nhưng đó là chuyện về sau.
    Trung Úy Hùng lôi tôi về thực tế.
    - Ông tính sao? Ông Vận hủy máy rồi.
    Chi Khu có một hệ thống truyền tin gồm nhiều máy PRC di động và một hệ thống TRC 46 đặt cố định đặt ngầm dưới đất.
    Ngay lúc đó địch mở một trận tiến công vào tuyến phòng thủ cuối cùng. Nhưng Trung Úy Hùng và các binh sĩ dưới quyền đã có kinh nghiệm trong trận bị càn mấy hôm trước, đã phản ứng rất hiệu quả. Thêm đó, Chính Trung Úy Hùng đã nhảy lên đứng trên miệng hầm vừa la hét, vừa bắn M79 khiến tinh thần binh sĩ lên cao tột độ, cùng sát cánh bắn xối xả. Địch bị khựng lại, chưa kịp ổn định thì toàn thể trung đội thám báo của Chuẩn Úy Kiệt đã tràn lên xung phong đánh bật hẳn đơn vị địch ra khỏi tuyến.
    - Ông lo gom hết anh em lại, nhớ dặn trang bị đầy đủ, mình mở đường ra.
    Hình như Trung Úy Hùng chỉ chờ có thế. Ông miệng hét tay chỉ. Tôi bảo viên Hạ sĩ truyền tin:
    - Liên lạc với Bà Rá.
    Bà Rá là căn cứ tiếp vận truyền tin. Khi đã lên được máy tôi nói:
    -Yên Bái. Yên Bái. Đây là zulu 2. Địch tràn vào. Địch tràn vào.
    - Yêu cầu cho OK vào Charlie, yêu cầu pháo lên đầu tôi. Cho pháo tối đa vào Charlie.
    Họ hiểu ngay tôi muốn gì. Tôi xin đánh bom và pháo vào ngay chi khu. Đài tiếp vận có vẻ rất quen với những trường hợp này, hỏi ngay:
    - Yêu cầu xác nhận giới chức thẩm quyền.
    Tôi xưng tên, cấp bậc và vắn tắt cho hay chi khu đã bị tràn ngập, và tôi đã quyết định mở đường máu rút. Ngay sau đó, 4 chiếc F5 xuất hiện trên vùng trời. Trung Sĩ Châu thuộc đội thám báo của Chuẩn Úy Kiệt vội nhảy lên miệng hầm, ném những trái khói mầu đỏ ra tứ phía. Hình như nhìn thấy pháo hiệu, mấy chiếc F5 thay phiên lao xuống, chiếc này nối đuôi chiếc kia để bảo vệ lẫn nhau theo đúng chiến thuật.
    Tuy nhiên, không rõ vì lo cho số phận các chiến hữu còn kẹt trong căn cứ hay vì phòng không địch quá mạnh mà đa số bom đều rơi bên ngoài căn cứ. Dù vậy một vài trái gần nhất đã phá tung hệ thống rào làm rúng động toàn căn cứ. Địch quân hoảng hốt nhào xuống các hố cá nhân và giao thông hào.
    Thời điểm đã đến. Không chần chừ, tôi cho rút quân. Tôi không điểm quân số, nhưng có lẽ trên dưới 30 người cả thảy và tôi có hai máy PRC cùng với hơn mười khẩu M72, M79. Lợi dụng bom phá bãi mìn, chúng tôi quyết định rút theo hướng bồn nước. Tôi phân công:
    - Ông Hùng đi trước, đến tôi. Chuẩn Úy Kiệt lo phía sau.
    Lặng lẽ, và rất nhanh, chúng tôi sắp thành đội hình lần về phía bồn nước.
    Khi nhìn lại chi khu, tôi thấy thiết giáp đã tràn vào rất gần nơi để khẩu pháo. Tôi thấy rõ bốn khẩu pháo ở tư thế nằm hạ sát xuống đất. Như vậy trung đội pháo đã có ý định tử thủ vì với tư thế hạ càng như vậy họ sẽ sử dụng một loại đạn mà tất cả các pháo đội không bao giờ muốn phải sử dụng đến. Đó là loại đạn bắn trực xạ, mỗi viên đạn chứa hàng nghìn mũi tên nhỏ để chống biển người. Tôi hiểu những người lính pháo binh đã quyết định đem chính mạng sống mình buộc chặt vào những khẩu pháo.
    Trung Úy Hùng cho bắn M79 và M72 phá hàng rào kẽm gai và mìn mở một lỗ hổng lớn. Vừa bắn, vừa lom khom chạy, từng toán chúng tôi ra khỏi chi khu.
    Tiếng kèn xung trận vẫn theo gió rít lên như tiếng hú của tử thần. Bò ra được độ vài trăm thước tôi ngoảnh lại. Cờ mặt Trận Giải Phóng đã được cắm trên nóc cao nhất của B14 hoặc chi khu Đôn Luân, từ nay có lẽ được gọi là Huyện Đôn Luân.
    o O o
    Khoảng hai giờ trưa, mặt trời vẫn gay gắt trên cao. Men theo những căn nhà tôn dọc con lộ đất chúng tôi tiến về phía chợ. Ý tôi muốn tìm ông Chuẩn Úy Vân người giữ hơn ba trung đội phòng thủ quận đường. Chỉ mới đi được một quãng ngắn thì có thêm vài người người lính lạc lõng nhập vào đám tàn quân.Tôi hỏi:
    - Chuẩn Úy Vân đâu ?
    Không ai biết. Đi chừng một quãng nữa tôi thấy ông Phó Quận Hành Chánh mặc đồ dân sự nhưng trên người khoác áo giáp. Ông Phó nằm chết, mặt úp sấp, máu loang thành vũng. Tiếng súng lớn đã im, nhưng AK và M16 lẫn lộn vẫn nổ từ phía sau chi khu vọng tới. Thêm nhiều binh sĩ nấp sau những cánh cửa, sau những ụ bao cát ló ra nhập bọn. Tôi biết rõ địa thế Đồng Xoài nên quyết định kéo lên ngọn đồi phía sau chợ. Ít ra thì từ trên cao, chúng tôi có thể quan sát và khá nhiều cây phần nào che khuất.
    Bỗng tôi không hiểu từ lúc nào dân chúng đã theo sát tụi tôi. Họ chờ gì ở đám tàn quân? Những người dân Đồng Xoài dù sống trong bom đạn đã lâu nhưng chắc chắn họ không lượng nổi tình thế và hoàn cảnh của chúng tôi vào lúc này. Súng ống chỉ có thể trả lời bằng súng ống. Cho tới giờ phút này dù tả tơi sau hơn mười ngày chống trả , trông tụi tôi vẫn như là một đội quân được trang bị hùng hậu với PRC, với M79, M72 súng đạn đầy mình, áo giáp mũ sắt giầy trận và ba lô.
    Lên tới đồi, bố trí tản binh sĩ vào đám cây lớn nhưng thưa thớt, tôi bàn với Trung Úy Hùng tìm cách đối phó. Ông Hùng trầm ngâm:
    - Cách duy nhất là tan hàng , tôi , ông đi với vài đứa thì may ra thoát. Lề mề thế này thì chỉ giờ đến sáng mai tụi nó tóm cả lũ.
    Cái chữ lề mề mô tả linh động cảnh đang diễn ra quanh tôi. Giải pháp thoát một mình không bao giờ là giải pháp tôi nghĩ tới. Không phải vì lý tưởng quốc gia. Không phải vì những danh từ đao to búa lớn của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Tôi nghĩ chỉ giản dị đã là sĩ quan chỉ huy thì không thể rời bỏ binh sĩ dưới quyền. Thế thôi. Vả lại dù ô hợp, dù đám chúng tôi là một đơn vị bất nhất với lính nghĩa quân , địa phương quân , lính sư đoàn 5, lính thám báo, nhưng chúng tôi là quân nhân. Cho đến giờ phút này họ vẫn tôn trọng chúng tôi vì tôi là sĩ quan cao cấp nhất của họ. Tôi là người chỉ huy. Họ tin ở tôi. Họ chờ ở tôi. Còn đang suy nghĩ thì người lính truyền tin gọi to:
    - Trung Úy. Có ông Quận
    Tôi đổ nhào về chiếc PRC.
    - Em bắt được Ba Ba.
    Ba Ba là mã số truyền tin của Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái. Tôi nói vào ống nghe:
    - Đây Zulu. Zulu. Nghe rõ trả lời.
    Tiếng máy rè rè. Tôi quyết định dương ăng ten bản đoạn lên.
    - Zulu. Zulu đây. Nghe rõ trả lời.
    - Ba ba. Ba ba. Đang ở Victor Charlie.
    Tôi chỉ nghe được thế, tiếng được tiếng mất. Victor Charlie có lẽ là Vườn Chuối lớn của người Thượng phía ven rừng. Tôi thở phào. Ít ra thì TT Khoái còn sống. Từ chỗ tôi tới Vườn Chuối cỡ hơn một cây số, nhưng tôi không thể đem theo những người dân đang tụ năm tụm ba với những tai nải, hòm xiểng nhếch nhác, đàn bà con nít. Tôi độ chừng hơn một trăm người dân. Họp họ lại tôi nói:
    - Thưa đồng bào, tôi yêu cầu mọi người trở về nhà. Việt Cộng dù tàn ác cũng không thể xả súng bắn dân vô tội.
    Mọi người nhao lên đòi đi theo, lính đâu dân đó, xin cùng sống chết. Tôi cương quyết:
    - Chúng tôi đang hành quân, Việt Cộng ở tứ phía. chắc chắn sẽ có đụng trận , đồng bào sẽ bị chết oan. Đồng bào theo chỉ vướng chân chúng tôi. Tôi xin hứa quân đội sẽ trở lại với đồng bào. Tôi nhân danh sĩ quan quân lực VNCH xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.
    Trong lúc hăng say thuyết phục, tôi hứa nhưng chính tôi cũng không ngờ tôi sẽ trở lại Đồng Xoài thật. Dẫu sao lúc đó tôi nhất quyết không để họ theo. Cuối cùng thì tôi gom binh sĩ lại từ từ rút khỏi ngọn đồi tiến về phía Vườn Chuối. Gặp TT Khoái có nghĩa là tôi sẽ trút trách nhiệm lại cho Ông. Nhưng chỉ vừa đến chân đồi chúng tôi khựng lại. Sáu, bảy chiếc T54 loáng thoáng ở phía trước máy vẫn đang nổ ầm ì. Tôi bò lại chỗ ông Hùng. Ông Hùng lắc đầu, xua tay chỉ về phía ngọn đồi tỏ ý phải trở lại. Tôi gật đầu và im lặng từ từ chúng tôi rút trở lại. Ông Hùng lại lôi riêng tôi ra:
    - Việt Cộng tứ phía. Chỉ còn cách phân tán mỏng. Ông đi với tôi thì mới thoát.
    Tôi lắc đầu. Trời đã ngả về chiều, mặt trời đỏ rực phía Tây. Tiếng súng gần như ngưng hẳn. Tôi cố liên lạc nhiều lần với ông Quận nhưng vô hiệu. Tôi nói với Trung Úy Hùng và Chuẩn Úy Kiệt:
    - Hãy còn sáng. Mình kéo sang ngọn đồi phía Tây. Bên đó cây nhiều và phía sau là đồng cỏ tranh lợi thế hơn.
    Cả hai đồng ý. Đúng lúc đó đài Bà Rá gọi yêu cầu chúng tôi ” Nhảy Qua Con Gà Trống “. Đây là ngôn ngữ truyền tin. Tần số của chúng tôi vẫn dùng đa bị lộ. Có thể là địch đã thu được một máy PRC. Con Gà Trống có tần số giải tỏa, một tần số được dự trù trước để phòng xa. PRC có hai loại ăng ten, một ăng ten lá lúa, một ăng ten bẩy đoạn. Trong hoàn cảnh này đem PRC ra chỗ trống căng bẩy đoạn lên cao là một hành động liều lĩnh. Nhưng tôi vẫn phải thử. Tần số giải tỏa chỉ là tiếng U, rè rè. Chúng tôi coi như mất liên lạc hoàn toàn với căn cứ truyền tin Bà Rá. Chúng tôi bơ vơ.
    Khi lên được tới ngọn đồi thứ nhì, mọi người như lả đi vì mệt mỏi và căng thẳng. Tôi cho bố trí và leo lên chỗ cao nhất quan sát. Phía sau khoảng rừng thưa là một bãi cỏ tranh rất lớn, nếu đêm nay địch phát hiện thì ít nhất cũng có đường rút. Ngồi dựa gốc cây, mồm tôi đắng, chân tay rã rời và chợt nhớ ra chưa ăn gì từ hôm qua sau khi cùng ông Quận nhâm nhi dĩa xôi lạp xưởng. Ôi lạp xưởng Mai Quế Lộ. Ôi Dung. Ôi Sài Gòn. Xa hơn nữa là bố mẹ anh em và nước Mỹ. Nhưng chỉ có một thoáng tôi trở về ngay với thực tế. Làm sao bây giờ. Ông Hùng và ông Kiệt ngồi vây lại tính toán. Chuẩn Úy Kiệt ít nói, có lẽ quen được chỉ huy và tuân lệnh. Từ sau khi tôi lắc đầu không tán thành việc phân tán mỏng mạnh ai nấy thoát, Trung Úy Hùng cũng trầm ngâm hẳn đi. Cuối cùng chúng tôi đồng ý vừa đi vừa đánh, tiến về phía Phú Giáo. Một hy vọng luon luôn lởn vởn trong đầu tôi. Từ đây đến Phú Giáo chúng tôi thế nào cũng gặp lại đơn vị bạn.
    Đêm đầu tiên từ khi bị đánh bật ra khỏi B14 trôi qua trong cái lạnh tê tái của Đồng Xoài. Không còn hỏa châu lơ lửng trên cao. Đêm đen tối. Tôi quyết định để mọi người nghỉ ngơi dựa vào các gốc cây lớn, không cần đào hố cá nhân. Chập chờn có lúc thiếp đi, nhưng chỉ mới hừng sáng, tôi quyết định di quân. Tôi tìm nhưng không thấy Trung Úy Hùng đâu nữa. Quyết định của ông chưa hẳn là sai. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng này, nếu không muốn chết chùm xử như ông là đúng. Tôi nói với Chuẩn Úy Kiệt :
    - Trung Úy Hùng đã tách ra. Đây là quyết định cá nhân. Trung Úy Hùng có quyền tìm cái sống. Hiện chỉ còn tôi với Chuẩn Úy. Tôi cho chuẩn Úy lựa chọn ngay từ lúc này. Ông có thám báo thông thuộc địa hình địa vật. Ông muốn thì có thể tách ra.
    - Chuẩn Úy Kiệt nhìn tôi đăm đăm
    - Trung Úy tính sao?
    - Hiện mình có gần 40 tay súng. Đạn dược còn đủ chơi. Theo tôi suy luận, Việt cộng sẽ tìm cách đánh Phước Long. Công Trường 7 không thể dàn mỏng, tôi chắc nếu mình đi về Phú Giáo có nhiều hy vọng gặp đơn vị bạn.
    - Vậy là mình băng rừng. Trung Úy liệu là mình sẽ đi bao lâu?
    - Nếu không chạm địch, tôi nghĩ chỉ vài ngày.
    Ông Chuẩn Úy không trả lời ngay. Ông quay sang họp với khoảng bảy, tám người lính dưới quyền. Đây là những người nhiều trận mạc nhất, tinh nhuệ nhất của chi khu. Một lúc sau, Chuẩn Úy Kiệt quay lại:
    - Tôi họp anh em của tôi và nói rõ ý của Trung Úy. Họ bảo nếu Trung Úy ngon như vậy, họ sẽ sống chết với Trung Úy.
    Ông chìa tay ra. Đây là một cử chỉ bất thường. Chúng tôi lính tráng chỉ chào nhau, nhất là khi hai người cấp bậc chênh lệch. Hơn nữa tôi đang là người chỉ huy. Nhưng rất nhanh tôi hiểu. Đây là lúc sống chết có nhau. Đây là cử chỉ của hảo hán. Tôi chìa tay xiết chặt.
    Tôi gom tất cả lại nói rất chậm và rõ ràng :
    - Chúng ta đang ở thế kẹt. Tôi và Chuẩn Úy Kiệt đã quyết định đi về phía Phú Giáo. Tôi biết rõ tinh thần anh em đều rất cao, không sợ gì ăn thua đủ với Việt Cộng. Nhưng cũng có một số anh em gia đình vợ con hiện còn kẹt tại Đồng Xoài. Nhân danh sĩ quan chỉ huy, tôi đồng ý cho anh em có quyền lựa chọn. Hoặc trút bỏ quần áo quân phục đi về phía chợ. Hoặc là tiếp tục cầm súng. Chúng ta đã phục vụ tổ quốc. Chúng ta đã xứng đáng với trách nhiệm và danh dự của một người quân nhân. Mọi lựa chọn đều đúng và không ai có quyền phê phán.
    Mọi người xì xào bàn tán.
    Một anh nghĩa quân trẻ măng vừa tiến vừa mếu máo khóc :
    - Bố mẹ, vợ con em…
    - Tôi hiểu. Anh giao vũ khí cho đồng đội và cởi áo để tránh nguy hiểm.
    Vài người nữa đứng lên. Chắc khoảng bẩy, tám nghĩa quân chọn đường về chợ, về với gia đình. Tôi thấy lòng thanh thản hẳn đi. Nhân danh ai, nhân danh gì bây giờ để buộc họ bỏ bố mẹ vợ con lao vào chỗ chết.
    Đợi đám nghĩa quân chọn đường đi về khuất hẳn, Tôi nói với Kiệt:
    - Nói năng gì cũng là thừa. Vậy Chuẩn Úy mở đường, tôi lo phía sau.
    Như những bóng ma trong cái chập choạng của hừng đông, chúng tôi tiến theo khu rừng thưa, băng vào khu đồng cỏ tranh.
    Cỏ tranh cao ngập đầu, từ phía đồi cao nhìn xuống trông thật đẹp nhưng khi tiến vào mới thấy cái đẹp chỉ nên nhìn từ xa. Vạch được để đi rất vất vả vì tranh mọc ken lại, dầy đặc, ngọn cỏ sắc đâm cả vào đầu vào cổ, đôi khi cả vào mắt. Nhưng rồi chúng tôi cũng qua, sau đó là một quãng lầy. Ngày đầu đám tàn quân di hành êm ả khiến mọi người đều lên tinh thần. Sau một đêm trú quân chúng tôi tiếp tục lên đường. Đến trưa toán đi đầu ra hiệu phát hiện địch. Tôi bò lên quan sát. Phía trước mặt cỡ vài trăm thước hai lính bộ đội mầu cứt ngựa đang lui cui nấu cơm. Tôi thì thầm với Chuẩn Úy Kiệt. Đây có lẽ là một toán liên lạc của địch. Tôi chơi liều, đề nghị để thám báo bò lên tìm cách bắt sống hai tên liên lạc viên này, khai thác tin tức. Nếu biết rõ địch tình, chúng tôi sẽ có thể né tránh, không chạm. Ông Kiệt cũng đồng ý và chính ông cùng bốn người khác chia hai ngả bò lên. Tôi nằm bẹp quan sát. Hai tên liên lạc viên vẫn lui cui nấu nướng nhưng rồi súng nổ. Chỉ một lát sau tụi tôi tiến lên. Ông Kiệt cho hay hai tên thấy động chụp AK nên ông phải hạ, lục xoát chúng tôi không tìm được gì, không giấy tờ,không gì cả ngoài vài bao lương khô Trung Cộng. Tôi nói với ông Kiệt:
    - Mình dọt cho lẹ. Chắc chắn còn một tên thứ ba thoát. Nó mới là cán bộ giao liên giữ thư từ liên lạc, hai đứa này chỉ là bảo vệ viên.
    Mọi người đi nhanh hơn vì sợ bị phát giác. Không rõ những suy nghĩ đó có đúng không nhưng suốt ngày êm. Chúng tôi tiếp tục đi về hướng Phú Giáo. Rừng mỗi lúc một dầy hơn. Chúng tôi vừa đi vừa phát quang len lỏi. Đêm thứ nhì tôi cho đóng quân nghỉ ngơi. Đúng lúc đó tôi nhớ và ngoảnh sang nhìn. Hoàng cậu em thư sinh của Trung Úy truyền tin nằm dài trên đất, đầu gối trên ba lô, khẩu M16 gác ngang bụng, khẩu M79 để bên cạnh. Tôi bò lại gần :
    - Chú nghĩ gì vậy?
    - Em nhìn trời, nhìn sao. Ngày xưa nghe mấy bài hát tả lính lấy ba lô làm gối, ôm súng như ôm người tình sao mà đã thế. Còn bây giờ….
    Hoàng bỏ dở câu nói. Tôi cười bảo :
    - Thế chú mày chẳng đang nằm giữa rừng già đầu gối ba lô, lại ôm tới hai đào M16 và M79 lận.
    Câu đùa của tôi chắc là vô duyên nên không có tiếng trả lời. Tôi cũng xoãi ra nằm ngửa nhìn trời. Tôi đã mất hết ý niệm về thời gian. Từ lúc giã từ Dung leo lên chiếc phi cơ của đồn điền tới giờ mọi sự xẩy ra nhanh quá, nhanh đến độ tôi không còn đầu óc đâu để suy nghĩ. Bây giờ là đầu tháng hay cuối tháng? Không thấy trăng đâu, nhưng lại thấy sao lung linh trên cao. Quá mệt mỏi tôi thiếp đi không biết trời đất gì nữa.
    Đoàn lính di chuyển nhưng đến trưa chúng tôi đụng địch. Có lẽ đây là một cái chốt của địch. Tôi không rõ quân số địch, chỉ thấy đang di chuyển thì súng nổ. Chúng tôi dạt ra nằm xuống. Hỏa lực của chúng tôi còn nguyên. M79 khá lợi hại, chỉ độ mười phút chúng tôi tràn lên và địch bỏ chạy. Kiểm điểm tôi thấy hai, ba xác địch. Phía ta một chết và ba bị thương. Tôi cho rút lẹ sang hướng khác. Nơi đây rừng cây chập chùng, dù địch có muốn truy kích cũng không dễ. Tôi lượng định. Có thể chỉ có một chốt. Nhưng nếu có đơn vị lớn thì sao? Tôi thảo luận với Chuẩn Úy Kiệt và quyết định sẽ đi suốt đêm cho đến khi trời sáng hẳn mới dừng quân. Tôi cho mọi người dãn ra trong rừng nghỉ ngơi.
    Khó khăn bắt đầu lộ dần ra. Chúng tôi còn một ít đồ ăn nhưng không còn một giọt nước. Thương bệnh binh lết không nổi sau ba ngày di hành liên tục trong rừng. Lạ kỳ là không ai than thở, không ai tỏ ra sợ hãi. Tôi an ủi những người thương binh. Một người lính sốt, tôi nhìn và sững sờ. Mặt anh ta vàng khè, vàng hơn cả nghệ. Tôi sờ trán thì chỉ thấy hơi nóng, hỏi thì anh ta bảo chỉ thấy khó chịu ngầy ngật vậy thôi. Tôi nhìn kỹ anh ta và tự đẩu tự đâu, nhớ đến các nhân vật kiểu Tiêu Dương Dạ Vũ Mạc Đại Tiên Sinh. Tôi ngạc nhiên với chính tôi sao lại có sự so sánh như vậy? Tôi nghĩ nếu có thoát thế nào tôi cũng kể cho Dung về căn bệnh kỳ lạ này.
    Chúng tôi như những con thú bị săn đuổi. Chúng tôi như những con chuột chù ban ngày chui rúc trong những bụi cây. có hôm đang nằm co ro thì nghe tiếng lào xào nói chuyện. Tiếng Bắc rõ, nghe lảnh cao. Chúng tôi sợ đường mòn, chúng tôi sợ chỗ quang đãng.
    Dần dần cái khát khiến chúng tôi dật dờ. Đêm đêm chờ sương xuống, mọi người kiếm những lá cây to bản liếm sương. Hoặc nhặt những búp non nhai, vặt những ngọn cỏ không biết là cỏ gì miễn mềm là nhai. Mới đầu là nhai lấy nước, nhưng dần dần, có lúc tôi thấy mình nuốt luôn xuống cái dạ dầy lép kẹp.
    Tôi mất phương hướng, thỉnh thoảng dở tấm bản đồ vơ được ở văn phòng Ông Quận ra nhìn, xoay ngang xoay dọc. Binh sĩ dưới quyền không hề biết ông Trung Úy chỉ huy họ mù tịt, không xác định nổi vị trí của đoàn quân. Họ nhìn và tin tưởng chờ đợi. Tôi phải đóng vai chỉ huy rất tự tin biết rõ địa hình và phương hướng để trấn an họ. Mất niềm tin lúc này là mất tất cả.
    Tôi không rõ là chúng tôi đã mò mẫm đêm đi ngày chui rúc trong bụi rậm được bao nhiêu ngày. Tôi đã cho hủy và chôn một máy PRC chỉ giữ một. Thứ nhất hai hay một chẳng khác gì. Thứ nữa nó nặng quá. Binh sĩ đã quăng bỏ bất cứ thứ gì cảm thất thừa thãi, chỉ còn thủ khẩu súng và đạn. Không ai còn khoác áo giáp. Mũ sắt thì đã bỏ từ lâu vì không tiện khi chui rúc trong rừng rậm. Cái đói cái khát hành hạ chúng tôi. Một lần chúng tôi gặp một rừng cây đầy trái. Cây rất cao và to. Trông giống trái sung. Mọi người bàn tán. Liệu có ăn được không? Một anh bàn phải coi chim có ăn thì người mới ăn được. Những buổi học mưu sinh thoát hiểm ở Thủ Đức là những buổi phè, buổi ngủ gật, trốn ra ngoài hút thuốc lá. Nghe lời bàn, mọi người nhìn nhau. Trời đất, giờ này làm sao tìm ra được dấu hiệu chim có ăn không? Một người lính không nói không rằng vặt một trái nhai. Xong nhai trái thứ hai. Không ai nói gì, như chờ xem anh ta có lăn quay ra chết vì ngộ độc không? Anh ta tỉnh queo bảo : “Chát quá” – Tôi cười nói :” Theo kinh nghiệm mưu sinh trong rừng, trái cây phải thơm mới là trái cây độc. Nếu chát thì ăn được ” – Tất cả ùa lên hái. Nhiều người đã quăng bỏ ba lô đành nhét đầy hai túi quần.
    Không rõ đến ngày thứ mấy thì kế hoạch ngày trốn đêm mò mẫm đi không còn thực hiện được nữa. Đã có nhiều người bệnh quá, lết không được, phải dìu. Thương binh không có thuốc, mất máu vết thương làm độc. Tôi lấy hộp aspirin gắn trên trên giây ba chạc Phi Công lấy được ở phòng Ông Quận chia cho mọi người. Một anh lính cầm viên thuốc ghiền ra thành bột rắc lên vết thương. Đây có lẽ lần đầu tiên tôi thấy aspirin được sử dụng như vậy. Chuyện gì cũng có cao độ và sức con người có hạn. Một buổi sáng sửa soạn di chuyển, một người lính lên nói với tôi :
    - Trung Úy xuống coi, nó không chịu đi nữa.
    Nó đây là người lính sư đoàn 5 bị thương ở đùi. Tôi biết vết thương của anh ta làm độc vì chỉ đứng gần đã ngửi thấy mùi hôi tanh của máu mủ. anh ngồi dựa vào gốc cây hai chân duỗi ra. Chân phải được băng bó nhưng máu thấm đỏ, khô cứng nhiều chỗ. Vừa thấy tôi, anh nói :
    - Tui không đi nữa.
    Tôi nhỏ nhẹ
    - Anh cố lên. Nếu anh chậm lại thì cả đoàn phải chậm lại.
    - Tui nói tui không đi.
    - Tôi ra lệnh cho anh đứng dậy.
    - Đù mẹ mày Trung Úy. Đù mẹ không đi là không đi.
    Tôi sững người và có lẽ do phản ứng của người chỉ huy, tôi rút khẩu colt, cầm tay.
    - Tôi có thể bắn anh vì bất tuân thượng lệnh.
    Anh lính nhổm người lên, dứt tung cúc áo vạch ngực :
    - Đù mẹ mày, ngon thì bắn đi. Ngon thì bắn đi.
    Mắt anh trắng dã, khuôn mặt hốc hác, lưỡi gần như thè ra. Mọi ngươi vây quanh chờ đợi phản ứng của tôi. Tôi nhìn anh, lòng dịu xuống, quay sang nói với người lính đứng cạnh :
    - Anh kiếm một anh nữa dìu anh ta đi.
    - Trung úy, vết thương có dòi tùm lum phải có cáng mới khiêng được.
    - Coi xem có làm cáng được không?
    Và tôi dịu dàng ngồi xuống cạnh anh.
    - Cho đến giờ tôi chưa bỏ một anh em nào. Đến lúc này sống cùng sống, chết cùng chết, anh cố lên.
    Người thương binh không hiểu từ lúc nào tay đã cầm quả lựu đạn giơ lên.
    - Mày loạng quạng tao nổ chết cha mày bây giờ.
    Tôi lẳng lặng đứng dậy.
    - Trung Úy làm sao làm cáng được?
    Tôi nhìn người đối thoại lòng ngao ngán. Giữa cảnh này, dao đâu chặt cây, vải đâu mà căng làm cáng?
    Tôi ra lệnh mọi người tiến về phía trước. Độ chừng mười lăm phút sau tôi quay trở lại chỗ người lính sư đoàn 5. Trông anh ta có vẻ đã dịu cơn thịnh nộ. Tôi nói :
    - Anh cố được không? tôi không đành bỏ anh ở lại chỗ này.
    - Trung Úy cố đưa anh em về, tôi chịu không nổi, trước sau gì cũng chết. Cố đi chỉ làm vướng bận anh em thôi.
    - Anh cố tôi dìu.
    Anh ta lắc đầu cởi chiếc đồng hồ đưa tôi cùng với chiếc bóp giấy tờ :
    - Mai mốt về được đưa cho vợ tôi mấy thứ này.
    Nói xong anh ta nhắm mắt, lắc đầu ra hiệu không còn gì để nói. Tôi đứng lên lòng tê tái ra đi, không dám ngoảnh lại nhìn. Chúng tôi di chuyển độ nửa giờ thì nghe tiếng lựu đạn nổ phía sau.
    Chiều hôm đó chúng tôi bắt gặp một rặng cây bứa. Thú thật cả đời tôi không biết cây bứa là cây gì nhưng một người lính giảng giải cho hay là rất dễ nhận ra vì cuống lá bứa hình vuông, không giống lá cây thường hình tròn. Tôi vặt một lá non bỏ vào mồm nhai thử. Ôi sao mà nó ngon thế. Nó hơi chua dôn dốt, lại rất nhiều nước. Nghe anh em nói lá bứa để nấu canh chua. Tôi chỉ ăn canh chua gà lá vang, thú thật là tôi cũng chưa biết lá vang ra làm sao nhưng lá bứa thì tuyệt. Nó chua chua nên đã cơn khát vô cùng. Cái tri thức nửa mùa của một anh Trung Úy khiến tôi bảo anh em “lá bứa chua nhiều vitamin C, mau lại sức”. Mạnh ai nấy vặt lá vitamin C nhét được chỗ nào là nhét. Tôi nhớ là khi đã khô héo, lá vẫn còn nước chua mới thật lạ.
    Hai ngày hôm sau khi đang dọ dẫm, chúng tôi phát hiện ra một toán tàn binh bốn người. Đúng ra chỉ có ba, hai người lính sư đoàn và anh cảnh sát viên. Người thứ tư là người Thượng Stieng. Họ cũng mừng khi gặp chúng tôi.
    Ba người đã chung lại thuê người Thượng Stieng làm hướng đạo dẫn đường về Phú Giáo. Vừa nghe như vậy tôi mừng rỡ
    - Nhưng không được, Trung Úy. Tụi nó đóng lền khên không cách gì băng được đường xe be.
    Sau nhiều lần giả bộ nhìn chăm chú tấm bản đồ hành quân, quả tôi nhớ có vẽ đường xe be dọc theo bờ sông.
    - Như vậy mấy anh định đi đâu?
    - Người dẫn đường tính đưa chúng tôi trở lại Đồng Xoài. Trung Úy tính sao?
    - Tôi không thể trở lại Đồng Xoài mà đi về Phú Giáo. Tùy các anh, nếu muốn thì nhập toán của chúng tôi, nếu không thì theo người Thượng đó đi về Đồng Xoài.
    Ba người đó tụm lại, bàn tán nhỏ to một hồi, viên Trung sĩ sư Đoàn nói với tôi:
    - Chúng tôi xin theo Trung Úy.
    Đợi họ thanh toán tiền bạc gì đó cho người dẫn đường xong, tôi hỏi rõ về tình hình địch:
    - Tụi nó đông lắm dàn dọc đường xe be và mé sông không có cách gì qua được.
    - Đường xe be xa không?
    - Tụi tôi tính băng qua hồi sáng qua. Chắc cũng không xa lắm.
    Tôi thấy người cảnh sát chỉ có khẩu rouleaux bèn bảo:
    - Anh đưa khẩu súng gà què cho tôi và giữ khẩu M16 ngon hơn. Rouleaux mà bắn mẹ gì. Các anh có gì ăn không? Tụi tôi đói quá.
    Họ lôi được hơn chục củ sắn chắc là đào trộm ở vườn người Thượng. Tôi bày ra tất cả, lựa ba củ trả lại cho mỗi người một. Phần còn lại tôi lấy lưỡi lê chặt ra từng khúc nhỏ độ hai ba phân, phá đều cho mọi người.
    Mỗi người đối phó với một cái đói khác. Có anh bỏ nguyên cả miếng sắn phồng mang trợn má nhai chưa đầy một phút, sau đó liên tiếp nuốt nước bọt. Tôi bóc bỏ vỏ. Miếng sắn trắng ngần, nhựa ứa ra hơn ươn ướt. Tôi ngồi dựa vào một gốc cây nhằn từng chút một. Hồi xưa tôi nhớ có đọc một cuốn chuyện về tù Do Thái trong thế chiến. Tác giả kể anh ta được phát một cục thịt to cỡ ngón chân cái và đã ngậm trong miệng cả buổi mà không dám nhai. Tôi vẫn nghĩ tác giả cường điệu.
    Nhưng bây giờ nhớ lại, tôi nghĩ có thể thế thật. Sắn và cục thịt có thể so sánh được chăng? Tôi chỉ biết tôi đã gặm từng chút một cái chất bột, cái ngọt lịm. Tất cả như nguồn sống thấm dần qua vị giác, len lỏi đến từng chân tơ kẽ tóc.
    Khoảng hơn mười giờ đêm, chúng tôi choàng lên vì tiếng nổ rầm trời chung quanh. Mọi người bò lê bò quàng, quýnh quáng. Đạn nổ khá gần, tôi nghe thấy cây lớn ngã rào rào. Chuẩn Úy Kiệt bò lại chỗ tôi.
    - 105 ly. Chắc pháo quấy rối từ phía Phú Giáo.
    Mọi người co rúm tìm chỗ trú. Tôi vừa mừng vừa lo. Đại bác 105 ly bắn không quá mười cây số như vậy là chúng tôi không còn xa Phú Giáo. Tuy mù mịt về địa hình, chỉ nhắm hướng Nam nhưng chúng tôi đã đi đúng như dự trù, nay đã gần Phú Giáo.
    Nhưng giờ này mà bị 105 ly bỏ mạng vì súng của anh em thì oan quá. Điều nữa là phải có địch luẩn quẩn ở quanh đây. Kinh nghiệm giữ ban ba hành quân cho tôi thấy phải có tin chính xác pháo binh mới khai hỏa, nhất là từ khi người Mỹ rút đi, đạn không còn thừa mứa như xưa. Đêm đó bốn đợt pháo dội lên khu rừng nhưng may không rơi trúng chỗ chúng tôi.
    Tôi nói với Chuẩn Úy Kiệt :
    - Chắc chắn có đơn vị lớn của chúng nó quanh đâu đây.
    Ông Kiệt hỏi lại tôi :
    - Trung Úy tính sao?
    Nếu tôi có thể trút cái gánh nặng này cho một vị sĩ quan cao cấp thì hay biết mấy. Tôi lượng định :
    - Chúng mình chia ra làm ba toán đi chân rết. Ông giữ anh em thám báo.
    Ông trung sĩ Tám của sư đoàn lo toán của sư đoàn 5. Tôi và nghĩa quân một một toán. Ông Kiệt gật đầu đồng ý. Ông và những người lính thuộc quyền hiện còn nguyên, khoẻ mạnh hơn cả. Phía toán giao cho trung sĩ Tám cũng tạm tạm@. Tôi lãnh đám đui què sứt mẻ, người thì bị thương, kẻ thì bệnh tật, người này dìu người kia nhếch nhác. Nếu đụng lớn thì có lẽ đám của tôi đi sớm nhất. Chúng tôi đi hàng ngang. ông Kiệt đi xong ra hiệu. Trung sĩ tám tiến lên. Sau đó đến đám của tôi. Cứ mỗi lần như vậy chỉ bước lên được vài trăm thước. Đến chiều chúng tôi đụng lớn.
    Cái chân rết do Trung Sĩ Tám chạm địch trước tiên. Tôi không rõ quân số địch chỉ nghe súng nổ dàn trời. Khoảng sáu, bẩy người lính của sư đoàn bị hạ tại chỗ và địch dồn lên xung kích. Chuẩn Úy Kiệt đã kịp thời dàn ngang. Có lẽ địch cũng không ngờ phía sau còn có tuyến của ông Kiệt nên vừa chạy vừa xông lên. Từ sau gốc cây, tôi quan sát thấy địch ngã rạp, tổn thất khá lớn.
    Chúng tôi lùi dần và địch không dám truy theo. Còn đang lùi thì một người lính trẻ lắp bắp nói :
    - Trung Úy, tụi nó chết bộn, để em lên lấy AK.
    Tôi nghe và biết anh lính trẻ nói lắp này. Anh ta hay nói và hơi lẩn thẩn, thuờng lại lịu nhịu khi nói nhanh. Tôi đã nắm áo anh ta đẩy vào sau một gốc cây lớn và nói rít qua kẽ răng:
    - Đừng có điên. Lo chạy theo anh em mau.
    Nhiều năm sau, tôi vẫn không hiểu tại sao người lính lại nghĩ đến chuyện lên lấy AK của địch vào hoàn cảnh đó?
    Khi đã rút được đến chỗ an toàn, tôi kiểm điểm. Không có thương binh nhưng mất bẩy người. Đám tàn quân tản ra, không ai nói năng gì nhưng chỉ nhìn tôi thấy rõ tinh thần ai nấy đều xuống đến tận cùng.
    Tôi hỏi, người lính sư đoàn 5 cho hay khi toán của anh ta bò lên thì chạm với cỡ một trung đội địch đang đi trên đường xe be.
    Kể từ hôm gặp người cảnh sát, đầu óc tôi bị ám ảnh dữ dội về đường xe be. Tôi đã nhìn đi nhìn lại tấm bản đồ. Quả là có vẽ đường xe be nhưng con đường dọc theo mé sông này có nhiều những ngã ba. Hơn nữa tôi đang ở khúc nào trên con đường trên bản đồ loằng ngoằng này? Tôi bảo Chuẩn Úy Kiệt, vừa nói vừa chỉ tấm bản đồ:
    - Mình không thể đi hướng Nam để băng qua sông chỗ này. Tôi tính anh em đi về hướng Đông song song với đường xe be độ vài cây số, rồi mới tìm cách băng qua.
    - Chuẩn Úy nghĩ sao?
    Ông Kiệt gật đầu đồng ý. Ông Kiệt trẻ có lẽ kém tôi gần chục tuổi. Sau bao nhiêu gian truân ông vẫn tỉnh táo dù râu cằm nay đâm lủa tủa. Râu ria tôi cũng vậy, nếu Dung nhìn thấy tôi giờ này dám không nhận ra. Kiệt luôn luôn gọi tôi là Ông hay Trung Úy, không bao giờ là anh, nhưng chúng tôi hiểu chúng tôi là anh em thực sự. Tính Kiệt vẫn vậy ít nói. Nhưng đêm hôm sau chúng tôi lạc nhau. Không bao giờ tôi nghĩ Chuẩn Úy Kiệt và anh em thám báo bỏ chúng tôi, nhất là sau cái bắt tay đầy hảo hán trên ngọn đồi ở Đồng Xoài và hơn nữa là những sống chết cay đắng đã từng chia sẻ. Khi được báo cáo là không liên lạc được với toán của Kiệt, tôi kiểm điểm. Tôi còn mười tám người lính, mỗi người một cây M16 và chừng hai ba băng đạn. Gần non nửa đã bị thương hoặc đương bịnh tật, và nhất là đói khát. Chúng tôi gặp được một vũng lầy. Mọi người vốc bùn lầy nhầy bỏ vào áo vắt ra lấy nước. Tôi khát đến độ khi người lính đưa tôi cái ca nước đục ngầu lợn cợn bùn tôi uống một hơi koan khoái.
    Khoảng hai hôm sau đang đi chúng tôi nghe nước chảy rì rào. Sông. Phía bên phải chúng tôi là sông. Tôi nói với Hoàng, cậu em thư sinh vẫn theo tôi sát tôi từ khi chia tay ông anh ở chi khu :
    - Cho anh em nằm lại, tôi với chú bò lên.
    Men theo những bụi cây lởm chởm, chúng tôi tiến dần về phía rì rào. Con đường xe be hiện ra trước mặt song song với mé sông. Đúng lúc đó hai lính bộ đội miền Bắc mặc xà lỏn, vai vẫn khoác AK lui cui khiêng một cái thùng vừa đi vừa nói. Tôi và Hoàng nằm dí xuống nín thở. Một lúc sau tôi leo lên cây để cố quan sát. Phía trái khá xa tôi thấy lố nhố lều.
    Tôi bò xuống, cùng Hoàng trở lại. Tôi suy nghĩ tìm cách đối phó. Trước là mặt sông không rộng và vào mùa này nước không lớn. Chỗ tôi vừa thấy lại khá hẹp. Nếu đúng theo sách vở, không bao giờ địch lại đóng hai bên bờ sông. Vượt được qua bên kia có hy vọng thoát. Tôi cho mọi người hay sẽ vượt sông vào lúc xế chiều khi địch lo cơm nước. Ít nhất quãng giữa cách chúng tôi định vượt sông và chỗ địch đóng lều cũng cỡ hơn trăm thước. Từng người một chúng tôi bò lên. Tôi bảo người lính tuyền tin hủy các máy PRC. Tôi không muốn để máy truyền tin lọt vào tay địch.
    Khi đã thấy khói nấu cơm bốc lên lảng vảng ở khu lều vải, tôi ra hiệu. Đã bàn kỹ trước, hai người khoẻ mạnh nhất đi đợt đầu. Chúng tôi nín thở nhìn theo họ, tay súng lăm lăm. Họ thoát qua dễ dàng, mực nước sông cạn chỉ cỡ ngang bụng. Tôi cho thương bệnh binh đi tiếp. Khi mọi người đã qua hết, tôi và Hoàng mới cúi người lao theo.Qua được bên kia tôi thở phào. Tất cả vẫn nằm bẹp theo những lùm cây chờ tôi. Nhưng vừa nhô lên khỏi mấy mô đất tôi chết trân. Trước mặt tôi bạt ngàn lều và địch đông như kiến cỏ. Đây mới là đơn vị chính, phía bên kia có lẽ chỉ là một toán nhỏ. Chúng tôi đâm vào rọ. Tôi thụp trở lại bờ sông vừa sợ vừa không biết xử trí ra sao. Hoàng giơ tay chỉ. Ba bốn lính Bắc Việt đang đi về phía bờ sông. Chúng tôi nín thở, nhưng có lẽ họ chỉ ra lấy nước, không phát giác tụi tôi.
    Cách đó trăm thước dọc mé sông là bìa rừng. Tôi chỉ trỏ thầm thì rỉ tai từng người. Chúng tôi sẽ chạy vào khu rừng đó từng toán nhỏ một, như khi vượt sông.
    Tôi ra hiệu Hai người đều thoát. Toán thứ hai, thứ ba đều thoát. Còn lại sáu người. Tôi gật đầu và bốn người lao tới. Đúng lúc đó súng nổ. Người lính đi sau cùng chắc vấp té. Tay anh ta đã để sẵn lên cò khẩu M16 được gài ở tư thế tự động nổ dòn. Lập tức tôi nghe nhiều tiếng la hét và súng nổ tứ tung. Tôi lao tới vừa đi vừa bắn. Hoàng đi sát sau lưng. tôi nghe một tiếng nổ lớn và Hoàng bị hất ngã xấp trên lưng tôi, đẩy tôi ngã theo. Hoàng bị một quả M79 chết không kịp la một tiếng. Tôi lăn qua một bên rút khẩu colt bắn loạn xà ngầu, không biết bắn lên trời hay bắn xuống đất. Hết đạn, tôi chụp tay ôm khẩu rouleaux của cảnh sát bắn tiếp. Tôi máu me đầy người nằm co dưới đất, hai tay vẫn vòng qua đầu cầm khẩu rouleaux hết đạn.
    - Hàng sống kháng chết. Hàng sống kháng chết.
    Tôi vừa ngẩng đầu lên thì một báng súng AK giáng thẳng vào mặt. Tôi chúi sang, miệng nhổ ra mấy cái răng máu me. Một cái báng súng nữa vào lưng làm tôi quay đi mấy vòng trên đất.
    - Không được giết tù binh. Không được giết tù binh.
    Tôi nửa tỉnh nửa mê ngước nhìn. Cả chục cây súng chĩa về tôi, cùng với tiếng la :
    - Biệt kích Mỹ. Biệt Kích Mỹ.
    Một anh lính bộ đội cúi xuống nắm dây chạc ba kéo tôi đứng dậy. Tôi lúng búng cãi:
    - Không phải biệt kích
    - Mày đeo dây biệt kích
    Đúng lúc đó một giọng nói có vẻ như một chỉ huy:
    - Không được giết tù binh.
    Tôi bị kéo xềng xệch lên chỗ quang đãng. Lính Bắc Việt vẫn chĩa súng nhằm vào tôi.@Một lúc sau tôi được dẫn vào căn lều. Cũng ngay đó, tôi thấy một người lính truyền tin và hai nghĩa quân bị dẫn vào, quần áo tả tơi, chân đi khập khiễng.
    Một người ra vẻ cán bộ, đeo khẩu súng lục 9 ly xuất hiện :
    - Các anh ở đơn vị nào?
    - Chúng tôi thuộc chi khu Đồng Xoài.
    Bỗng anh ta cười nhếch mép, hỏi:
    - Các anh có đói không?
    - Đói không? Nếu không bị bắt làm tù binh có khi tụi tôi chết vì đói. Người cán bộ quay sang bảo:
    - Nói anh nuôi dọn cơm cho họ. Cho họ ăn cơm nóng.
    Ngoài trời đã ngả hẳn về chiều. Bốn đứa chúng tôi còn đang ở trạng thái bàng hoàng thì lại nghe lựu đạn nổ và nghe có tiếng gọi nhau í ới. Có lẽ có người chết hay bị thương. Người lính truyền tin nói khẽ với tôi:
    - Lựu đạn em gài chỗ chôn máy.
    Tôi giật bắn mình nhìn quanh. Trong lều may quá chỉ có bốn đứa. Tôi nói khẽ:
    - Im ngay. Nó có hỏi bảo không biết.
    Quả nhiên, người cán bộ đi vào mặt hầm hầm :
    - Đứa nào gài bẫy lựu đạn?
    Chúng tôi giả vờ nhìn nhau ngơ ngác. Tôi nói:
    - Tụi tôi đâu còn lựu đạn nữa. Chỉ có M16 thôi.
    Anh chàng nhìn tôi đăm đăm và có lẽ tin nên bỏ ra ngoài. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
    Chúng tôi được ăn cơm! Cơm nóng có canh và một tí gì mặn mặn. Hình như mồm tôi bắt đầu sưng vì tôi thấy tấy một bên mặt. Máu ở chỗ mấy chiếc răng hàm vẫn còn gỉ ra. Mồm tôi rớt rãi ứa đầy. Nhưng đói quá, chúng tôi ăn lấy ăn để, không ai nói câu gì. Cơm nóng, canh nóng khiến tôi tỉnh hẳn. Trời bắt đầu tối, từ trong căn lều nhìn ra tôi thấy lính Bắc Việt đông hàng ngàn hàng lũ. Nếu có phi cơ. Tôi lắc đầu cố xua đuổi những ý nghĩ viển vông. Địch dám căng lều ở chỗ này chắc phải có lý do. Hoặc họ đã kiểm soát một vùng rộng lớn và phòng không vững mạnh. Hoặc là ta không đủ phi cơ nữa.
    Khi chén đũa được mang đi, một cán bộ khác chững chạc đi vào:
    - Tôi vào làm việc với các anh.
    Đây là lần đầu tiên tôi nghe hai chữ “làm việc” nên ngớ người không hiểu họ định làm việc gì? Người cán bộ hỏi lý lịch chúng tôi. Chúng tôi cứ khai từ quân số đến cấp bậc đơn vị…Anh ta hỏi tôi khá kỹ về những sĩ quan chỉ huy ở Đồng Xoài, có lẽ để kiểm chứng.
    Sau gần hai tiếng ghi chép, anh ta nhìn tụi tôi và bảo:
    - Các anh cởi hết giày ra cho tôi.
    Đây lại là một bất ngờ. Tại sao lại cởi giầy ra?
    Bộ tụi nó muốn đôi botte de saut của tụi tôi à? Tôi chưa thấy một cán binh Bắc Việt nào đi giầy saut như lính miền Nam. Thấy vẻ mặt ngỡ ngàng anh ta cười ôn tồn:
    - Các anh cứ cởi giày ra rồi biết. Ngữ các anh quen bả đế quốc, thách mà trốn chân không.
    Đôi giày da tôi xỏ vào từ hơn nửa tháng trước không có dịp nào cởi ra. Một mùi hôi nồng nặc bốc lên từ đôi tất nhà binh nay dầy cộm vì bùn vì mồ hôi. Người cán bộ vẫy tay và một cán binh vào lôi mấy đôi giày đi. Họ bỏ chúng tôi ngồi trơ ra đó.
    Một cảm giác tê tái từ từ dâng lên, bắt đầu ở ngón chân và lan dần lên khiến tôi rùng mình nhìn xuống. Những ngón chân ngọ nguậy, móng chân đen xì. Bàn chân thì trắng xanh những sợi gân máu chạy thành những vệt đen thẫm. Bàn chân bị bó quá lâu trong đôi giày trận hình như đang nở ra. Tôi vừa đặt chân toan đứng lên thì phải ngồi bật trở lại chiếc ghế tre. Đau quá, đau thốn lên tận óc. Da bàn chân mỏng tanh của tôi không chịu nổi đất đá rừng núi. Đúng là ăn phải bả của Mỹ.
    Khoảng một hồi sau, họ tách riêng tôi ra, bắt đi theo một người lính Bắc Việt. Anh chàng trông còn trẻ, súng dài ngang người, nhìn tôi tò mò nhưng không nói gì. Tôi lẽo đẽo theo sau, vừa đi vừa tập tễnh vì mỗi khi đạp lên sỏi là lại buốt thót vì đau.
    Anh ta dẫn tôi đến một miệng hố đào sâu sẵn chỉ:
    - Xuống đi.
    Tôi quay nhìn tứ phía. Không lẽ nó chôn sống mình? Nếu nó bắn tôi thì đã bắn rồi, không cần bảo tôi xuống mới bắn. Tôi lẳng lặng cắn răng nhảy xuống.
    Hố khá sâu, có lẽ ngang ngực, vuông vức chỉ đủ cho tôi xoay sở. Tôi ngồi dựa vào vách hố, đầu óc trống rỗng. Đời binh nghiệp của Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng trưởng ban ba hành quân chi khu Đôn Luân đã kết thúc trong cái hố đất giữa chiến khu Dương Minh Châu, trong túi áo vẫn còn cái thư của Tòa Đại Sứ Mỹ báo tin sẽ được bốc đi Mỹ sum họp với gia đình. Tôi nghẹo đầu và thiếp đi trong đau đớn.

    (còn tiếp)

  2. #2
    Moderator
    BachMa's Avatar
    Status : BachMa v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: May 2009
    Nguyên quán: VA is 4 Lovers
    Posts: 1,293
    Thanks: 27
    Thanked 104 Times in 59 Posts

    Button Xanh Nhà báo Lê Thiệp qua đời ...

    Nhà báo Lê Thiệp qua đời
    Friday, July 05, 2013 1:31:16 PM


    OAKTON, Virginia (NV) - Nhà báo Lê Thiệp qua đời khoảng gần trưa ngày Thứ Sáu, 5 Tháng Bảy 2013, tại tư gia ở thành phố Oakton, một thị xã nhỏ thuộc phía Bắc tiểu bang Virginia, thọ 69 tuổi.

    Ông là một ký giả nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước 1975 với các bản tin và ký sự rất đặc sắc từ chính trị đến các vấn đề xã hội, chiến tranh.


    Ký giả Lê Thiệp. (Hình: Nguyên Việt/Người Việt)

    Không thuộc thành phần quân cán chính VNCH, ông không phải đi tù cải tạo dài ngày, nhưng không chịu nổi chế độ Cộng Sản nên đã tìm đường thoát khỏi Việt Nam. Ông vượt biên, được tàu biển đưa tới tạm cư ở Nhật và sang Hoa Kỳ định cư từ năm 1979.

    Sau một thời gian ngắn làm cán sự xã hội, đứng bán gà chiên cho KFC, ông chuyển về California hợp tác với tổ chức kháng chiến Hoàng Cơ Minh, làm tờ báo. Khi tổ chức này phân hóa, ông chuyển về Virginia cùng với một số bạn mở tiệm phở.

    Thời gian đầu, tiệm phở 75 ở một khu phố nhỏ của thủ đô Washington, DC, rất khó khăn, nhưng dần dần được lòng khách và trở nên khấm khá. Hiện nay, Phở 75 đã phát triển tới một số thành phố khác ở phía Bắc Virginia và một vài tiểu bang khác.

    Ông không cộng tác riêng với một tờ báo nào ở hải ngoại, nhưng thỉnh thoảng viết ký sự hoặc tạp ghi, in lại thành quyển đầu tiên “Chân Ướt Chân Ráo” được chào đón khá nồng nhiệt. Sau đó, ông viết truyện dài “Đỗ Lệnh Dũng” dựa trên lời kể của một sĩ quan VNCH bị Cộng Quân bắt trên chiến trường rồi đưa ra Bắc vào lúc chiến tranh gần ngày kết thúc. Một tác phẩm khác của ông, tạp ký “Lững Thững Giữa Đời,” cũng được đón nhận nồng nhiệt.

    Ông đang viết dở dang những ghi nhận và những ý nghĩ cuối đời, chống đỡ với bệnh ung thư thì bị bệnh lôi đi.

    Trong đời làm báo và trong đời sống, ông có rất nhiều bạn bè qua tính tình cởi mở, hào sảng. Bản tính cũng được mọi người hiểu là một con người ngang tàng, không sợ thế lực hay trở ngại.

    Tháng Ba vừa qua, ông làm mọi người ngỡ ngàng khi thông báo cho mọi người biết ông đã bị ung thư giai đoạn cuối trong buổi sinh hoạt giới thiệu những sách mới xuất bản của tủ sách Tiếng Quê Hương do nhà văn Uyên Thao chủ xướng mà ông là một thành viên yểm trợ nhiều mặt cũng như có tác phẩm xuất bản.

    Khi biết ông bị ung thư, bạn bè gần xa góp ý, gửi thuốc từ lá đu đủ khô, tinh chất nhân sâm đặc chế đến những thứ khác, mong ông thoát được hoạn nạn. Tuy nhiên, gần như ông không tin tưởng mấy, ngoài sự điều trị của các bác sĩ tại bệnh viện John Hopkins, một bệnh viện nổi tiếng về chữa trị ung thư hàng đầu nước Mỹ và thế giới.

    Nhiều người bạn lo âu cho ông, hỏi thăm sức khỏe thì ông chỉ thường nói “mọi chuyện đang được kiểm soát.”

    Tháng Mười, 2012 ông còn hợp tác với một số bạn tới Orange County, California, tổ chức buổi lễ vinh danh cho một số nhà báo lão thành gồm ông Thái Lân, cựu tổng thư ký nhật báo Chính Luận; Thanh Thương Hoàng, cựu trưởng ban phóng viên báo Chính Luận và chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả VNCH; và ký giả Trần Phong Vũ, cựu bình luận gia Đài Phát Thanh Sài Gòn, tác giả nhiều quyển sách tôn giáo, chính trị và văn chương.


    (nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=168845&zoneid=1#.U45gx2nD_IU)

  3. #3
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Post

    (tiếp theo)

    Tôi tỉnh dậy bắt đầu từ quai hàm dưới. Cái đau rất nhẹ, nhè nhẹ như lay động hệ thần kinh có lẽ đã tê liệt của tôi. Đầu óc lơ mơ tôi chỉ thấy niềm đau từ từ, từ từ lấn dần và đầu óc tôi cũng 1 lúc tỉnh hơn để ý thức rõ tôi đang ở đâu. Cái lạnh thấm vào tận xương tủy khiến tôi ngồi dậy, chống tay lên nền đất.

    Cái hố con voi vậy mà khá khô ráo và được che bằng 1 cái liếp lá từ lúc nào tôi cũng không rõ. Nỗi đau, niềm tuyệt vọng cơ thể dã rời sau hơn nửa tháng dầm mình trong cuộc rút chạy đã khiến tôi vật ra ngay từ tối qua không còn biết gì xảy ra ở chung quanh. Cái liếp chắc chắn không cốt để ngăn tôi trốn khỏi cái hố nông quèn quẹt này. Vậy thì chỉ để che sương và có thể che mưa chăng? Cũng còn có thể che gió, chống lạnh. 1 người lính BV nào đó chắc đi qua trông thấy tình trạng thê thảm của tôi, đã động mối thương tâm, đậy cái liếp lên miệng hố chăng? Lạy trời là như vậy. Ít ra thì còn có cái tình người vảng vất đâu đó giữa súng và đạn.

    Tôi tỉnh hẳn, miệng quai ra và nước dãi ứa đầy mồm. 1 vị nhờn nhờn mằm mặn. Chắc máu từ chiếc răng hàm bị gẫy vẫn còn âm ỉ ứa ra. Trời bên trên đang rạng sáng, tôi nghe tiếng người lao xao vọng vào. Tôi đi trận nhiều nên biết rõ sinh hoạt của chỗ đóng quân gần như sinh động 24/24. Có thể giờ này là giờ lính BV đang lo bữa sáng, lo nấu trà - biết đâu chả là tí cafe? Tôi lắc lắc cái đầu xua hình ảnh ly cafe nóng giữa rừng, cái xa xỉ phẩm ngay cả đối với sĩ quan VNCH như tôi trong lúc hành quân.

    Toàn thân tôi drã rời, lạnh cóng. Họ sẽ đối xử với tôi ra sao? Hẳn là họ không bắn tôi để phí thêm 1 viên đạn. Liệu họ có tra tấn? Liệu họ có nhồi tôi, hành hạ tôi? Tôi chợt nhớ trên túi áo trên còn có lá thư bỏ trong phong bì của Tòa Đại Sứ Mỹ. Khi bị bắt tôi đã móc mọi thứ ra giao cho người "chính trị viên" từ bản đồ đến tiền bạc. Có gì móc nấy nhưng không hiểu sao cái phong bì vẫn còn trong túi áo tôi? Nếu không thì làm sao phi tang? Tôi thoáng tính xé vụn rồi nhai nuốt hết cái thư nhưng lại thôi. Răng tôi đau quá, không biết có đủ sức để nhai và nuốt hết cả tờ giấy dầy khổ 8x11 và cái phong bì không? Dựa lưng vào vách hố những ý nghĩ vớ vẩn liên tục, những hình ảnh thoáng hiện lên rồi mất tăm trong tâm khảm. Dung đang làm gì giờ này? Liệu bố mẹ và các em tôi có biết tôi đang trong cảnh bi đát này chăng? Thiếu Tá Khoái có thoát chăng? Lơ mơ, tê dại, cánh liếp phía trên được kéo đi và có tiếng gọi: - Anh kia.

    Tôi ngó lên. 1 người lính BV nhìn tôi, lặp lại:- Anh kia.

    Tôi cố chống tay đứng dậy, dựa lưng vào vách, người như muốn đổ xuống. Hai bàn chân tôi buốt nhói lên tận tim. Quả thật tôi không biết phải nói năng ra sao, chỉ giương mắt nhìn. Người lính ngẫm nghĩ thế nào, cúi xuống đưa tay cho tôi nắm và gần như lôi tôi khỏi cái hố. Anh ta bảo: - Theo tôi.

    Anh ta dẫn tôi vào 1 cái lều và bảo: - Chờ đấy.

    Mãi đến sau này tôi mới quen được với cách nói cộc lốc, thiếu chủ từ này. Tôi im lặng ngồi xuống, chưa rõ chuyện gì sẽ xảy ra. 1 người lính khác mang cho tôi 1 bát cơm và 1 bát canh nóng. Ôi quả là 1 biệt đãi. Tôi chẳng biết canh gì, chỉ thấy lỏng bỏng tí rau. Cơ thể người ta có những phản ứng kỳ lạ. Vừa trông thấy bát cơm mầu nâu nâu vàng vàng và chén canh rau, tôi cồn lên vì đói.

    Nhớ rằng dù thế nào đi nữa, tôi cũng là sĩ quan và đang ở trước những người lính phía bên kia, tôi chậm rãi, từ tốn ăn 1 cách nhỏ nhẹ. Người lính BV đứng ở 1 góc quan sát và không nói gì. Khi thấy cơm canh đã hết, anh ta thu dọn đem đi. Tôi hỏi: - Tôi muốn làm vệ sinh.

    - Làm cái gì? - Thưa tôi muốn đi cầu.

    - Đi đâu? Giờ này mà muốn đi đâu?

    Tôi hiểu ngay cái bất đồng ngôn ngữ, bèn nói thẳng:

    - Tôi muốn đi ỉa đi đái !

    Người lính trẻ bỗng dịu mặt lại, nhìn tôi và bảo:

    - Từ nay muốn gì thì phải báo cáo rõ ràng. Đi ỉa đi đái thì nói đi ỉa đi đái, sao lại bảo làm vệ sinh?

    Kể từ đó "báo cáo" trở thành câu đầu môi chót lưỡi của tôi - và sau này là của bạn đồng tù - khi cần nói với người phía bên kia..

    Khoảng hai tiếng sau, người chính trị viên ôm 1 xấp giấy tờ bước vào:- Chúng ta bắt đầu làm việc.

    Lần này tôi hiểu làm việc là hỏi cung. Bộ dạng người chính trị viên thật ra tôi không biết ông ta giữ chức vụ gì và quân hàm ra sao vì họ đều giống nhau, quần áo bèo nhèo không lon lá, chân đi dép râu và khuôn mặt xanh xao. Tôi biết ông ta quan trọng vì ngang hông có khẩu súng 9 ly và lớn tuổi hơn những người bộ đội. Cái ngạc nhiên nhất nữa là cái bút, cái bút mà tôi đã nhìn thấy từ lúc còn bé, cái bút Stylo. Tôi còn nhớ bố tôi có 1 cây, khi xoay thì ngòi bút nhô lên, cái ống mực phía dưới kẻ sọc ca rô mờ mờ có thể nhìn thấy phần mực ở phía trong. Ngay 1950 ở HN hồi đó bút máy Stylo là 1 biểu tượng sang cả, đi đôi với xe đạp nhôm và giầy da hai mầu cùng với cái cà vạt nhỏ tí là những món thời thượng.

    Ông ta trịnh trọng xoáy cái bút ra, mắt nhìn tôi quan sát. Cuộc hỏi cung rất ngắn và sau chừng nửa tiếng, ông ta đưa cho tôi 1 xấp giấy: - Anh viết lại lý lịch và những đơn vị Ngụy. Càng nhiều chi tiết càng tốt và phải rõ ràng.

    Ông ta ngừng lại, nhìn tôi, không hiểu sao lại hỏi 1 câu không ăn nhập gì đến chuyện làm việc:

    - Anh muốn gì không?

    Tôi muốn gì bây giờ? Tôi muốn về SG. Tôi muốn có Dung bên cạnh. Tôi muốn gặp lại bố mẹ và các em. Tôi nhìn ông: - Tôi muốn được tắm 1 cái.

    Câu trả lời bất ngờ không chỉ với ông ta và cả với tôi. Tự nhiên toàn thân tôi ngứa ngáy và chính tôi cũng ngửi thấy mùi hôi hám bốc ra từ thân thể. Lần cuối cùng tôi tắm rửa thay quần áo có lẽ từ cả nửa tháng trước. Tóc tôi dài bệt từng mảng ở sau gáy. Râu tôi tua tủa. Ông chính trị viên cười:- Anh khai lý lịch cẩn thận rồi tôi cho anh ra sông tắm.

    Tập giấy kẻ ca rô khá dầy. tôi ngây người ra nhìn, tay mân mê cái bút. Hà, thế là trò chơi dụ khị, ra cái giọng tử tế để khai thác. Suốt bao nhiêu năm lính tôi không được QĐ dạy dỗ gì về vụ khai lý lịch cho địch trong trường hợp bị bắt. Nhớ lại những lần tôi ở thế thượng phong hỏi cung mấy ông lính Bắc, mấy ông du kích. Thường điều tôi muốn biết ngay lập tức là đơn vị, là liệu có thể có những cuộc tấn công dự trù, quân số địch.. Nhưng Đồng Xoài tan nát, còn gì để họ khai thác?

    Độ hai tiếng đồng hồ sau,người chính trị viên trở lại. Coi vậy mà tôi cũng bôi ra được gần ba trang giấy. Ông ta cầm lên lật qua lật lại, đọc rất nhanh.

    - Thôi được, tôi cho người dẫn anh ra sông tắm, rồi mình sẽ làm việc tiếp.

    Sông không rộng lắm, nước chảy chậm và khá trong. Người lính trông hiền lành nhìn tôi và hất hàm:

    - Xuống chỗ ấy mà tắm.

    Tôi nhìn quanh lính BV đi đi lại lại, gọi nhau í ới. Bạt, lều giăng kín cả 1 khu rừng. Tặc lưỡi tôi từ từ cởi áo, và sau 1 lúc ngập ngừng, cởi luôn quần. Sông không sâu, chỉ độ ngang đùi, lòng sông chỗ này lại có đá nên dễ chịu vô cùng. Tôi tính hỏi người lính xin xà bông nhưng thấy đời hỏi như vậy có vẻ Ngụy quá, tiểu tư sản quá. Vả lại trông bộ dạng anh ta, chắc cả vài tháng nay anh ta cũng chưa rờ đến cục xà bông. Tôi rũ cái áo trước, và vò rất kỹ cái túi áo bên trên. Cái thư nát bấy, nhưng tôi vẫn cẩn thận, sau 1 hồi, lén lút lôi từng mảnh nhỏ ra vo lại để trôi theo dòng nước.

    Tôi kỳ cọ, tôi dìm đầu xuống nước. Tôi thấy mình như được lột xác. Cái cảm giác nhẹ nhàng như xua đuổi cái tương lai u ám ở trước mặt. Tôi ngụp lặn khá lâu đến nỗi người lính canh sốt ruột: - Anh kia tắm mau còn đi lên.

    Chân tôi vẫn đau nhói, nhất là nay ngâm lâu dưới nước. Hàm dưới có vẻ bị tấy lên. Tôi lẳng lặng cố vắt thật khô bộ đồ trận dày cui và xỏ tay vào. Khó khăn lắm tôi mới mới mặc lại được bộ quần áo còn sũng nước.

    Người lính nhìn tôi, không nói năng gì, lẳng lặng vẫy tay ra hiệu. Anh ta dẫn tôi trở lại lều, chỉ tay vào chiếc ghế tre, rồi bỏ ra ngoài.

    Người chính trị viên kéo ghế ngồi xuống trước mặt tôi. Hẳn trông tôi không giống con giáp nào, người vẫn ướt sũng, nước từ tóc và râu vẫn tí tách nhỏ xuống thành vũng. Tôi luôn nhớ dù sao tôi cũng là sĩ quan VNCH, nên sửa ngay bộ dạng ngay ngắn và nhìn thẳng vào người đối diện. 1 quá khứ mù mờ nào đó hiện ra rất nhanh. Tôi nhớ HN và bố tôi. Tôi nhớ bạn bè của ông ta. Người chính trị viên này có cây bút Stylo từ bao giờ? Làm sao ông ta có thể sài 1 cây bút lâu như vậy?

    Lần làm việc này diễn ra ngoài dự tưởng của tôi. Trước hết ông ta cho tôi uống trà - tất nhiên là trà tươi - có lẽ được hái từ 1 cây trà nào đó lạc lõng giữa rừng. Nước trà rất nóng nhưng chát đến độ tê lưỡi. Ông ta chỉ hỏi tôi về Đồng Xoài. Mọi thứ, nhất là dân tình. Ông hỏi tôi về sinh hoạt hàng ngày, về ông phó quận hành chánh hành hạ dân như thế nào, về trưởng ty cảnh sát.. Tôi nói rất rõ với ông ta rằng tôi không để ý đến chuyện Thiếu tá Khoái có tham nhũng hay không - và tôi tin rằng không. Tôi bảo Thiếu Tá Khoái xứng đáng là cấp chỉ huy của tôi thì ông ta chỉ gật gù.

    Trong suốt đời tù, đây là lần làm việc dễ chịu nhất, và mãi đến sau này tôi mới hiểu. QĐ N/d và CA N/d là hai guồng máy làm việc khác hẳn nhau. Đó là mãi về sau này, nhưng ngay hiện tại, người chính trị viên tỏ ra lịch sự, nhỏ nhẹ và ăn nói chững chạc. Cuộc hỏi cung kéo dài đến lúc gần sẩm tối. Khi đứng dậy, ông ta bỗng quay ra phía sau hỏi:

    - Anh nào còn thuốc lá không?

    1 người lính đưa đưa cho ông ta bao thuốc lá nhàu nát. Ông ta rút hai điếu đưa tôi, và trả lại bao thuốc cho người lính: - Tôi không hút thuốc. Đây là thuốc Điện Biên của miền Bắc chúng tôi. Ngon lắm.

    Để hai điếu thuốc lên bàn, ông ta ôm xấp hồ sơ bỏ đi. Hai điếu thuốc quăn queo, sợi thuốc xộc xệch. Điếu thuốc cuối cùng, điếu lucky không đầu lọc, tôi đã rít đến hơi cuối cùng trên ngọn đồi ở gần chợ Đồng Xoài. Hơn nửa tháng, không lúc nào tôi nghĩ đến thuốc lá vì thật không còn đầu óc nào để nghĩ đến. Cái cơ thể mỗi ngày hơn 1 gói thuốc của tôi, cái cơ thể lúc trước không có thuốc thì bồn chồn, ngứa ngáy, cơ thể đó tại sao lại không đòi thuốc trong những ngày qua?

    Tôi nhìn hai điếu Điện Biên lòng dửng dưng. Người lính đứng đó hỏi:

    - Hút không?

    Tôi ngước lên nhìn. Anh ta cầm cái bật lửa, cái bật lửa nhỏ bằng nhôm trắng rất thông dụng ở ngoài Bắc ngày xưa. Mỗi lúc miền Bắc lại kéo tôi xa SG và trở lại quá khứ thời thơ ấu hơn. Nổi tính tinh nghịch, tôi chìa tay: - Anh cho tôi mượn cái hộp quẹt.

    - Cái gì?

    - Anh cho tôi mượn cái bật lửa.

    Nó mỏng tanh, bánh xe quẹt đá cũng nhỏ tí so với bật lửa Ronson. Tôi ngắm nghía và bật thử. Lần đầu không được. Lần thứ hai cũng không được. Người lính bỗng cười, nói:

    - Chắc hết xăng.

    Anh ta rút bỏ cái nắp ở cuối bật lửa và đưa lên mồm thổi phì phì. Sau đó rất nhanh anh ta bật và lửa toé ra bắt vào cái bấc nhỏ như hạt đậu. Tôi cười và cầm điếu thuốc lên. Hơi thuốc Điện Biên đầu đời, tôi nuốt trọn khói. Nicotin tan mau khiến khiến cả người tôi ngây ngây. Tôi rít hết điếu thuốc và ngồi thừ ra đó đầu óc lơ mơ trống rỗng.

    Cuộc hỏi cung và cung cách đối xử của bộ đội BV ngay tại chiến trường xem ra không đến nỗi nào, chỉ có điều tôi chưa nhận ra rằng đây mới chỉ là phần mào đầu, phần dẫn nhập cho 1 đoạn đời khổ nhục mà tôi sẽ chia sẻ với hàng trăm ngàn đồng đội khác trong những năm về sau.

    ***

    Suốt ngày hôm sau không ai làm việc với tôi nữa và khi vừa ăn sáng xong, 1 người lính BV nói:- Anh kia theo tôi.

    Ra đến bờ sông tôi thấy Ch/u Kiệt đứng ở đó cùng với hai người bộ đội. Ông Kiệt thê thảm không khác gì tôi và cũng chân không giầy. Trong hai người lính, 1 có lẽ là cán bộ, còn 1 trẻ măng có lẽ là bảo vệ viên. Họ khoác AK và ba lô.

    - Số phận các anh trong tay n/d. Nếu có tội n/d sẽ bắt các anh đền tội. Bây giờ các anh đi theo tôi.

    Đó là lời duy nhất của viên cán bộ nói với tôi và ông Kiệt. Thật là những lời đe dọa bí hiểm. Đền tội? N/d? Nếu bảo phải đền tội thì bắn cái đùng là xong. N/d là ai? Ở đâu ra n/d trong cái xó rừng thăm thẳm này. Biết hỏi cũng không được trả lời, chúng tôi chỉ biết lẳng lặng đi.

    Ba ngày trời chúng tôi bị áp giải băng rừng. Chân tôi đỏ như hòn gạch nung. Mỗi bước đi là 1 cực hình. Cái đau lấn át mọi sự. Tôi không thấy đói thấy khát, chỉ thấy buốt lên tận óc. Tôi đã bắt chước Kiệt xé hai tay áo quấn quanh bàn chân nhưng chỉ được nửa buổi và mảnh vải sờn mỏng, rách tả tơi. Rồi tụi tôi xin cắt hai ống quần. Tôi chỉ muốn khụyu xuống nhưng vẫn cố gồng. Ông Kiệt rũ ra vừa đi vừa lết. Buổi tối họ trói chúng tôi lại và cho dựa vào gốc cây lớn ngủ. Tôi vẫn cố quan sát và khi nhận ra rừng cao su thì tôi biết đang trở lại chốn cũ.

    Tôi bước vào con lộ đất xuyên quận lỵ Đôn Luân vào quãng giữa trưa. Ánh nắng vẫn chói chang. Nhà cửa chung quanh mang vết tích bom đạn tả tơi. Tôi nhìn cờ vàng ba sọc đỏ sơn trước cửa những căn nhà vẫn còn tươi roi rói. Tôi nhớ vụ "Sơn Cờ Xí Đất "này lắm. Khi hội nghị Ba lê còn đang họp có lời xì sầm rằng Miền Nam có thể được chia thành từng khu vực - 1 hình thức da beo - chỗ nào Mặt trận GP kiểm soát thì sẽ là của mặt trận, chỗ nào của VNCH thì VNCH giữ. Ào ào nơi đâu cũng được lịnh phải sơn trước cửa nhà.

    Hồi đó ông Thượng Sĩ già ở phòng tài chính đã phát biểu:

    - Cứ như là vụ Phật với Ma Vương tranh đất vậy.

    Tôi không hiểu thì ông ta giải thích quê ông ta ngoài Bắc và có tục lệ gần tết đem rắc vôi ở xung quanh nhà để Ma Vương Quỉ Sứ biết chỗ đó là đất Phật không được vào. Tôi đã bật cười vì cách ví von đó. Tôi không tin hễ rắc vôi thì Ma Vương Quỉ Sứ sợ chạy và tôi cũng không nghĩ vụ Sơn Cờ Xí Đất này là 1 điều hay. CS đâu có cần cắm cờ sơn cờ gì đâu. Họ xài Ak và T54 nhanh hơn nhiều và bây giờ nhà nào cũng cắm 2 lá cờ Mặt Trận và cờ Đỏ Sao Vàng. Mỗi nhà lúc này có tới ba cờ. Người CS có lẽ còn nhiều việc quá nên chưa hạ lệnh bôi bỏ cờ vàng 3 sọc đỏ. Người dân thì có lẽ cũng chưa nỡ xóa đi chăng. Trong khi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì tôi nghe có tiếng:

    - Thầy Dũng, thầy Dũng.

    Tôi ngó về phía có tiếng gọi. 1 nhóm 5,7 bé gái đang đứng ở hiên nhà khuất tối tôi không nhận ra là những em nào nhưng chắc đó là mấy em học sinh của trường trung học Đôn Luân. Đầu tóc tôi dài như Tarzan, râu thì tua tủa, và hẳn là mặt mày trông phải hốc hác. Tôi nay áo cộc không còn hai ống tay, quần thì đã cắt chỉ còn ngang đầu gối, chân quấn vải. Tôi chắc chắn không còn giống thầy Dũng của các em ngày xưa, nhưng các em vẫn nhìn ra thầy. 1 niềm vui tự đáy lòng dâng lên. Các em quen tôi, biết tôi như 1 ông thầy, không phải 1 ông lính.

    Tôi cười nhìn các em. 1 đôi dép Nhật được quăng ra phía trước tôi. Tôi dừng lại ngần ngừ thì có tiếng quát khẽ nhưng gằn: "Anh kia" và người cán bộ lấn tới nhặt đôi dép ném trả về phía vệ đường. Tôi quay hẳn đầu lại gật gật tỏ ý cảm ơn các em học trò, chân vẫn tiếp tục lê sau khi bị người cán bộ đẩy chúi về phía trước.

    Hai đứa tôi được dẫn đi về phía ngã ba gần quán hủ tíu của ông Ba Tàu. Rải rác là những khẩu hiệu mà sau này đi đâu tôi cũng gặp "Chủ nghĩa Mac-lênin bách chiến bách thắng "- "Không có gì quí hơn độc lập tự do" - "sự nghiệp Bác Hồ sống mãi trong quần chúng". Những người dân Đồng Xoài trông thấy hai đứa tôi, nhìn rồi quay mặt đi. Tôi thấy họ trông cũng ngơ ngác, dật dờ. Cái không khí của Đồng Xoài cách đây chưa đầy 1 tháng đã biến mất. Thay vào đó là những di động không lời, mọi sự như 1 phim ciné câm. Cuộc đổi thay xem ra không dễ dàng.

    Người cán bộ dẫn tôi vào 1 căn nhà trống và bảo chờ. Tôi cũng chẳng hiểu chờ gì. Hai ba ngày qua tôi và ông Kiệt đã được thưởng thức lương khô bộ đội. Đó là phong bánh có lẽ là đậu xanh. Ăn nó cũng vui vui nhưng sau đó uống nước như điên và no lâu không thể tả được. Ông Kiệt nói cái thứ lương khô này có trộn thêm nhiều thứ vitamin, vì là bột ép, khi vào bao tử nở ra nên no lâu.

    Hai đứa tôi ngồi bó gối trong căn nhà trống trơn, có lẽ thuộc gia đình 1 người lính chi khu. Ông Kiệt hỏi tôi:

    - Tụi nó dẫn mình về Đồng Xoài làm gì vậy?

    - Ông nội tôi cũng không biết. Dám đem mình ra xử bắn cho dân chúng coi chơi.

    Câu nói bông lơn của tôi làm chính tôi cũng rùng mình. Nghĩ đến hình ảnh bị trói giật cánh khủyu vào chiếc cọc chờ phát súng ân huệ làm tôi sở ngáy, gai ốc nổi đầy mình. Tôi chưa bao giờ thấy tận mắt nhưng chỉ được nhìn trên màn ảnh và đó là những cảnh không đẹp tí nào, nhất là khi tử tội nghẹo đầu gục sang 1 bên, mồm rỉ máu.

    Khi trời vừa sập tối thì ngoài đường vọng vào những tiếng người ồn ào, tiếng chân bước. Loáng thoáng lọt vào trong căn nhà là ánh đuốc và đôi khi loé lên ánh đèn pin. Hình ảnh tên tử tội gục xuống lại hiện ra trong đầu tôi.

    Cửa mở, người cán bộ bước vào.

    - Hai anh này đứng lên đi theo tôi.

    Bước ra đường tôi nhìn về phía chợ. Khu đó sáng trưng và rất đông người. Tôi nhủ thầm những giây phút cuối của cuộc đời Tr/u Đỗ Lệnh Dũng đang điểm.

    Khi được dẫn vào căn nhà khác gần chợ, tôi thấy ít ra không chỉ có tôi và ông Kiệt. Lố nhố phía trong cỡ hơn mười người nữa trông bộ dạng chẳng khác gì tôi. Định thần tôi nhìn thấy 1 sĩ quan khác, Ch/u Nguyễn Văn Đức. Nhiều khuôn mặt quen thuộc khác của chi khu nhưng tôi không nhớ tên. Họ đều nhận ra chúng tôi ngay lập tức vì tôi nghe tiếng xì xào "Tr/u Dũng".

    1 cán bộ BV lên tiếng:

    - Các anh là ngụy quân. Các anh đã quen bóc lột ức hiếp đồng bào, hiếp dâm, đốt nhà. Hôm nay là ngày các anh sẽ phải trả lời trước n/d về những tội ác tày trời đó.

    Không 1 ai trong chúng tôi lên tiếng. Quả đúng chúng tôi là quân nhân VNCH - là Ngụy Quân theo cách gọi của người cán bộ CS - nhưng còn những tội ác tày trời? Trả lời n/d?

    Khi chúng tôi bị lôi ra khỏi căn nhà, tiếng loa vang rè rè vọng ra từ phía chợ. Bóng người lố nhố khá đông từ ánh đuốc chập chùng. Tôi quan sát lượng định. Tôi có cấp bậc cao nhất trong đám tù binh, vậy tôi là đầu sỏ, có nghĩa là tôi bị bắn trước tiên. Hình ảnh của Tr/u Đỗ Lệnh Dũng ngoẹo đầu miệng ứa máu xem ra không đẹp tí nào. Nhất là với đầu râu rối mù, quần áo tả tơi.

    Trong căn nhà trống rộng lợp tôn vẫn làm nơi họp chợ trước kia, ba chiếc đèn manchon tuy sáng rực nhưng cũng không đủ chiếu rọi khoảng trống khá lớn. Quanh đó là những bó đuốc không hiểu được đốt bằng thứ gì nhưng tỏa khói dày đặc. 1 chiếc bàn dài phủ khăn đỏ tôi nhìn đâu thấy bốn năm người ngồi, trong đó có hai người mặc quần áo bộ đội, còn ba người kia mặc đồ thường dân. Đằng sau là 1 tấm vải lớn làm phông có hình ông HCM dưới lá cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu khá lớn "Không có gì quí hơn độc lập tự do" với chữ nhỏ ở dưới viết "lời Hồ Chủ Tịch".

    Đám đông tụ tập phía trước có lẽ đến vài ba trăm người đứng lố nhố trong cái tranh tối tranh sáng của ánh đuốc lập loè. Tôi rùng mình nhớ đến bố tôi và cuốn phim CHÚNG TÔI MUỐN SỐNG.

    Tòa Án N/d! Lời nói úp mở của chính trị viên thẩm vấn tôi nay đã rõ nghĩa. Có thể ông ta thấy trước số phận của tôi nên không truy lý lịch kỹ lưỡng và cuộc hỏi cung cũng đầy vẻ thân thiện, lại còn cho hút thuốc lá Điện Biên của miền Bắc. Tôi rùng mình nhớ đến những câu chuyện được nghe hồi nhỏ khi đồng bào miền Bắc lũ lượt di cư vào Nam năm 1954. Tôi cũng đã xem phim Chúng Tôi Muốn Sống. Nhưng suốt từ bao năm qua cái hình ảnh đó đã tan biến trong trí não tôi và tôi cũng nghĩ Tòa Án N/d chỉ có trong thời kỳ CCRĐ , chứ miền Bắc chắc không có tòa án n/d nữa.

    Tụi tôi bị xếp ngồi ở 1 góc ngay phía dưới chiếc bàn phủ khăn và kẻ bị gọi tên đầu tiên không phải là đầu sỏ Đỗ Lệnh Dũng mà là 1 trung sĩ. Tôi nhớ tên anh ta không những chỉ vì bản án tròng vào cổ mà là cái tên nữa. Trung Sĩ Trần Văn Tửng, 1 cái tên rất miền Nam. Anh ta làm phát ngân viên cho 1 đơn vị trong chi khu. Đồng Xoài có 1 quán hủ tíu và hai ba quán nhỏ khác chuyên bán đồ nhậu, cùng đâu vài ba cửa hàng tạp hóa trong đó tiệm Phúc Đường của 1 gia đình người Tàu là lớn nhất. Những người lính khi hết tiền thường nhậu ghi sổ hay mua chịu. Trung sĩ Trần Văn Tửng đã ăn cánh với các ông chủ quán, chủ cửa tiệm này để trừ thẳng tiền thiếu vào lương cuối tháng. Tôi cũng đã thấy 1 đôi lần những bà vợ lính la hét chửi bới viên trung sĩ này nhưng ông ta chìa ra biên nhận ăn chịu mua thiếu có chữ ký làm bằng.

    Khi Trung sĩ Trần Văn Tửng lủi thủi bước ra trước khoảng trống thì tiếng la ó nổi lên. Trên bàn "quan tòa" 1 người mặc sắc phục bộ đội nói giọng bắc cầm cái loa- cái loa pin có lẽ tịch thu được từ ty sở nào đó của Đôn Luân - lớn tiếng nói: - Như tôi đã nói vừa rồi, từ nay đồng bào không còn sợ gì nữa. Đảng và nhà nước ta sẽ dẫn tổ quốc ta trên con đường chiến thắng vinh quang. Đế quốc Mỹ đang tháo chạy. Ngụy quân đang tan hàng rã ngũ trước các mũi tấn công dồn dập của QĐ N/d anh hùng. Ngày GP toàn bộ miền Nam không còn xa nữa. Bọn Thiệu Kỳ sẽ phải đền tội trước n/d. Đồng bào hãy mạnh dạn tố cáo những tên ác ôn từng hút máu mủ của đồng bào, những tên ngụy quân từng mổ bụng lấy gan người, những tên ngụy quân xẻo tai người đeo thành vòng trên cổ. Những tên ngụy quân ngụy quyền đã cướp bóc từ miếng cơm manh áo của đồng bào. Đồng bào hãy mạnh dạn tiếp tay chính quyền GP để vạch mặt chỉ tên bọn chúng.

    Ông ta nói khá dài, trong khi ở phía dưới những người bộ đội đeo AK đi đi lại lại hối thúc mọi người lên tố giác tội ác, vạch mặt chỉ tên ngụy quân ngụy quyền.

    1 người đàn bà trung niên tiến ra nói:

    - Thưa CM, tên này tháng nào cũng ăn chặn tiền lương của chồng tôi.

    Có tiếng đập bàn:

    - Trần Văn Tửng đã nhận tội chưa?

    Trung sĩ Tửng lí nhí nói:

    - Chồng bà ta mua thiếu chịu, yêu cầu tôi trừ vào lương, lúc nào cũng có biên nhận.

    - Ngoan cố. Trong đồng bào đây, ai từng bị tên Tửng trừ lương mạnh dạn giơ tay lên. Mày thấy không? Mày ăn chặn tiền lương của biết bao nhiêu người. Mày nhìn xem có biết bao nhiêu cánh tay giơ lên. Đồng bào có đồng ý phải dành cho tên trung sĩ ngụy Trần Văn Tửng 1 bản án đích đáng để làm gương không?

    - Đồng ý. Đồng ý.

    Ông cán bộ ngồi xuống quay sang nói với ba bốn ông đang ngồi cạnh rồi đứng dậy dõng dạc: - Chiếu theo nguyện vọng của toàn thể đồng bào huyện Đôn Luân, chiếu theo NQ của tòa án n/d huyện Đôn Luân:

    - Xét rằng tên Trung sĩ Trần Văn Tửng đã âm mưu toa rập với bọn gian thương bóc lột hút máu mủ đồng bào.

    - Xét rằng tên Trung sĩ ngụy Trần Văn Tửng đã sống trên xương máu của đồng bào.

    - Nay tuyên án tử hình.

    Bản án tử hình làm tôi rùng mình, 1 cảm giác lạnh buốt chạy dọc xương sống. 1 viên Trung sĩ chỉ vì thu góp tiền mua chịu ăn thiếu mà bị tử hình thì tôi lãnh án cỡ nào? Khi hai người bộ đội lôi xềnh xệch trung sĩ Trần Văn Tửng vào phía sân khấu thì tôi nghe tiếng nói lớn:

    - Điệu tên Tr/u Đỗ Lệnh Dũng ra.

    Tôi chưa kịp đứng thì hai người có lẽ là du kích mỗi người chộp lấy 1 bên vai đẩy tôi chúi ra phía trước. Tôi nghe tiếng lào xào từ phía dân chúng. Họ vẫn chưa hết bàng hoàng về cái án tử hình "Trời đất có dzậy mà tử hình" "Mạng người chứ bộ.." "Tui nói là CM dữ lắm mà, nghiêm lắm mà.."

    Viên cán bộ đập tay xuống bàn và phía sau đám đông 1 tràng AK nổ ròn như muốn thị uy khiến mọi người không dám bàn tán nữa. Tôi đứng đối diên với các "quan tòa". Ánh đèn măng sông khiến mặt họ tái nhợt. Không hiểu động lực gì - Có thể là từ suy nghĩ cầm chắc cái chết trong tay - Tôi bình tĩnh lạ lùng, tâm hồn thư thản và thầm nhủ dầu sao tôi cũng là sĩ quan, là cấp chỉ huy không thể để kẻ thù uy hiếp ! Mãi về sau này kiểm điểm lại về thái độ "tiểu tư sản" đó, tôi vẫn tự cười mình. Nhưng lúc đó là như vậy. Viên cán bộ nói tràng giang đại hải những gì là "đầu sỏ ngụy quân" là "tay đã nhúng vào máu" là "tay sai của đế quốc Mỹ". Nhưng khi dân chúng được yêu cầu lên tố khổ thì mọi người yên lặng. Những gì xảy ra cho trung sĩ Trần văn Tửng vẫn còn làm cho người dân Đồng Xoài bàng hoàng. Người đàn bà lên tố khổ hẳn không bao giờ biết đến bạo lực CM. Chỉ vì tức giận ông chồng ăn nhậu ghi sổ, bà ta đã khiến 1 người lãnh án tử hình, 1 chuyện không thể xảy ra dưới thời Ngụy, dưới chế độ cũ. Viên chánh án vẫn lớn tiếng kêu gọi và tôi nghe loáng thoáng ở phía sau là lời hối thúc của du kích, bộ đội, động viên tinh thần dân chúng.

    1 người đàn ông bước ra. Tôi không biết đã gặp ông ta ở đâu, chỉ nhớ mài mại. Ông ta khúm núm nói:

    - Ông Tr/u này không hại đồng bào. Ông ta dậy học và lo lắng cho học trò nhiều lắm.

    Từ trong đám đông mấy em nhỏ có lẽ là học trò tôi la lên:

    - "Thầy Dũng tử tế lắm," "Thầy Dũng phát sách bút cho tụi em".

    Những tiếng thầy Dũng làm tôi xúc động đến tận tâm can và tôi chợt nhớ người đàn ông đứng trước mặt là phụ huynh của cô học trò có lần mếu máo không được đi học vì phải ở nhà giúp cày cấy. Tôi đã phải nhờ 1 nghĩa quân đến giúp gia đình này để em có thể đến trường. Tôi đứng đó yênlặng nhìn người đàn ông can đảm và thấy lòng mình ấm lại.

    Viên cán bộ đứng day sau cái bàn phủ khăn giơ hai tay ra hiệu cho mọi người im lặng. Anh ta nói: - CM luôn công bằng. N/d luôn sáng suốt. Xét rằng tên Tr/u ngụy ĐỗLệnh Dũng tuy đã lầm đường lạc lối nhưng còn có thể giáo dục để hắn trở lại với hàng ngũ n/d, tôi đề nghị đưa tên này đi học tập cải tạo để có thể trở thành 1 con người tốt.

    Màn bi hài kịch Tòa Án N/d là như vậy. Trần Văn Tửng bị xử chưa quá 10 phút. Đỗ Lệnh Dũng cũng chỉ độ 15 phút là cùng. Sau này trong trại tù, tôi kể lại câu chuyện khó tin này với vị thẩm phán già và ông cụ gật gù:

    - Ông may mà thoát chết chứ nếu họ sửa soạn kỹ hơn, có bài bản hơn, e rằng xương ông đã mục từ lâu rồi. Nếu đúng là phiên tòa N/d như trong phong trào đấu tố 1954, họ sửa soạn kỹ lắm, từ cáo trạng, từ người lên đấu tố để được học tập kỹ càng. Phiên tòa có lớp lang và có khi kéo dài cả tuần lễ. Nghe ông tả thì không khí đấu tranh trong phiên tòa hời hợt quá. 1 là họ vội vàng trong việc thị oai, biểu diễn với dân chúng. Họ chỉ mới chiếm Đồng Xoài chưa đầy 1 tháng. 2 là mấy anh ngồi bàn chánh án không phải là CA thứ thiệt, CA chuyên ngành mà là mấy ông lính, ông bộ đội. Ba nữa là dân Đồng Xoài chưa quên chế độ cũ của MiềnNam..

    Tôi không rõ lời bình giải của người bạn tù già có đúng chăng nhưng đối với tôi phiên tòa đúng là 1 màn kịch dở. Cái màn kịch dở này đã khiến trung sĩ Trần Văn Tửng trở thành vật hy sinh tế thần, và tôi được hứa sẽ cho đi học tập để được giáo dục thành người tốt.

    Tôi bị lôi ra khỏi đám đông và người du kích dẫn tôi trở về ngôi nhà trống bảo ngồi đó chờ. Chờ quái gì đây? Chỗ đó khá xa với chợ, tôi chỉ nghe tiếng ồn ào vọng lại. Khoảng 1 giờ sau tôi thấy họ dẫn Ch/u Kiệt vào. Nhìn thấy ông Kiệt tôi thật mừng, hỏi khẽ:

    - Nó xử ông làm sao?

    - Nó bảo gửi tôi đi học tập.

    - Gửi đi học tập gì, ở đâu?

    - Ông nội ai dám hỏi. Mẹ kiếp, đến đâu thì đến.

    - Ông Đức bị gì?

    - Ông ta bị giao cho CA xử lý!

    - Tức là đi tù à, bị giam à?

    - Đâu biết

    - Có ai bị tử hình chăng?

    - Chỉ mới có ông Trung sĩ Tửng. Sau này có ai bị nữa không thì không biết.

    Và ông Kiệt hỏi lại tôi câu hỏi tôi đã hỏi ông:

    - Học tập cải tạo là cái gì vậy?

    Đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe đến danh từ Học Tập Cải Tạo. Nhưng tôi và ông Kiệt không được cái hân hạnh đi học tập cải tạo ngay mà phải chờ đến 1 năm sau. Chỉ có điều tôi không bao giờ nghĩ là tôi đã học tập trên 1 thập niên mà vẫn không trở thành người tốt của chế độ như lòng kỳ vọng của các chánh án trong phiên Toà Án N/d ngắn ngủi ở chợ Đồng Xoài.

    Ông Ch/u Kiệt và tôi bị tách ra ngay buổi tối hôm đó. Họ dẫn ông ta đi đâu? Tôi chơ vơ trong căn nhà, lúc nào cũng có du kích ôm AK đứng ở cửa. Phải đến mãi sau này tôi mới nghiệm ra rằng khoảng hơn 1 tuần lễ bị nhốt ở Đồng Xoài là thời kỳ "hạnh phúc" nhất trong hơn 1 thập niên tù tội của tôi trong cả chục trại tù khác nhau từ Bắc chí Nam.

    Khi thì lương khô, lúc thì cơm nóng, tôi được ăn mỗi ngày hai bữa và nhất là không ai hành hạ hoặc hỏi han gì. Ngay cái chuyện được ăn cơm gạo trắng cũng đáng suy nghĩ. Có thể Đồng Xoài chỉ mới lọt trong tay họ chưa đầy 1 tháng nên thóc gạo còn đủ để nuôi thêm cả thứ tù tôi như tôi chăng? Câu nói đầu lưỡi của dân chúng miền Bắc là " hạt gạo cắn làm đôi ". Nửa là để ăn còn nửa là để tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Nhưng hình như đôi khi 1 hạt gạo cũng không có mà cắn!

    Thú thật đầu óc tôi trống rỗng không suy nghĩ được gì. Kỹ thuật đối phó với tù binh là không cho biết đương sự biết cái gì xảy ra vào ngày mai. Những người du kích, bộ đội và ngay cả chính trị viên không bao giờ nói năng gì với tôi cả. 1 đôi lần tôi hỏi bao giờ cũng được câu trả lời y như nhau "chờ cấp trên quyết định". Tôi nghĩ chính họ cũng không biết tôi sẽ được "điều" đi đâu chăng?

    Hai bàn chân tôi đã dịu xuống, không còn bị sưng đỏ nữa. Và quai hàm cũng không còn hành hạ tôi như mấy hôm đầu. Từ trong căn nhà đóng cửa im ỉm, những tiếng động của sinh hoạt hàng ngày từ ngoài đường vẫn vọng vào. Có người dân Đồng Xoài nào biết cái căn nhà bên vệ đường rất bình thường này trở thành nhà giam?

    1 buổi sáng rất sớm, trời còn mù mờ, 1 người bộ đội bước vào bảo: "anh sửa soạn đi". Tôi có gì để sửa soạn. Vậy mà cũng phải mất mười phút sau tôi mới xong. Tôi đã vớ được 1 cái mùng cũ mèm ngả mầu nâu và rách tả tơi. Tôi xé nó ra và quấn vào chân. Người lính bên kia đứng đó nhìn tôi chờ đợi không nói nửa lời. Đi được đâu độ 4,5 căn nhà, tôi thấy Ch/u Kiệt đứng với 1 người mặc bộ đồ mầu cứt ngựa. Đây là lần chót tôi rời khỏi Chi khu Đồng Xoài và sẽ không bao giờ trở về nơi đó nữa để thấy lại đất đỏ, cây cao su, những căn nhà lụp xụp và nhất là những khuôn mặt câm nín của người dân, những người chưa đủ thấm chính sách của Đảng và Bác để xấu hổ đứng lên buộc tội ác cho Ngụy quân như tôi và ông Kiệt.

    Có những điều có thể hiểu được nhưng có những điều trái khoáy đến không ngờ. Áp tải hai sĩ quan Ngụy là hai người bộ đội, sau này tôi mới rõ 1 là bảo vệ viên và 1 là cán bộ. Bộ đội và cán bộ khác nhau ra sao về cấp bậc tôi không rõ nhưng cán bộ là người chỉ huy, là người quyết định. Chúng tôi lầm lũi đi trong sương sớm hướng về rừng, không ai nói với ai câu nào, người cán bộ đi trước, hai đứa tôi ở giữa và người lính đi sau. Đến cỡ độ khoảng bốn năm giờ chiều chúng tôi tới 1 buôn Thượng. Hai đứa tôi bị trói dưới gầm 1 căn nhà sàn . Người bảo vệ viên còn rất trẻ có lẽ cũng mệt phờ sau 1 ngày lội bộ ôm súng dựa vào 1 cây cột gần đó. Tên anh ta là Cam, nhìn tụi tôi và bỗng hỏi 1 câu làm tụi tôi ngớ ra: - Sao các anh nhiều tiền vậy?

    - Tụi tôi đâu có tiền, bao nhiêu nộp cho CM hết rồi.

    Anh ta vỗ vỗ vào cái ba lô cười:

    - Tư trang của các anh ở đây chứ ở đâu.

    Cái mà Cam bảo là tư trang sau này tôi mới rõ là tất cả các vật dụng cá nhân như đồng hồ, dây chuyền vàng, tiền bạc tôi móc ra đưa cho chính trị viên khi bị bắt. Lúc đó họ có lẽ khai ra và bắt tôi ký nhận. Ký nhận thì ký nhận nhưng tôi không bao giờ nghĩ là nay những thứ đó lại nằm ở trong cái ba lô chỉ cách tôi có vài sải tay. Ông Kiệt thông minh hơn tôi nhiều và hỏi ngay:

    - Thế tụi tôi xài tiền đó có được không?

    Anh ta ngần ngừ rồi bảo:- Để em trình.

    Đây là lần đầu tiên "hai phe" nói chuyện cởi mở với nhau và phe thắng lại xưng "em" nữa. Tôi nghĩ đó là phản ứng tự nhiên vì người lính canh giữ chúng tôi còn trẻ quá, đúng như sau này Cam thú thật mới có 19 tuổi vào bộ đội được 2 năm.

    Khi Cam quay trở lại, khuôn mặt có vẻ tươi tỉnh hẳn:

    - Cấp trên đồng ý nhưng các anh phải ký nhận.

    Ông Kiệt nhanh như cắt:

    - Tôi thấy ở đầu buôn có cái tiệm bán đồ anh mua cho tụi tôi được không? Có được quyền mua thuốc lá không?

    - Hay để em dẫn các anh ra chỗ đó muốn mua gì thì mua, nhưng phải có giới hạn.

    Khoản tiền của tôi và ông Kiệt khá lớn gần 40.000 đồng - lương tháng mới lãnh chưa kịp tiêu - và giấy 500 màu xanh tươi còn mới tinh. Tiệm bán hàng ở buôn Thượng này lèo tèo đến nỗi muốn mua cả tiệm chắc chỉ độ dăm bảy ngàn.

    Tụi tôi mua được hũ kẹo lỉnh kỉnh đủ thứ, sáu gói thuốc Ruby quân tiếp vụ dáng đã mốc meo. Khi trở lại chỗ gầm nhà sàn, tôi bàn và ông Kiệt đồng ý ngay. Tôi phân mọi thứ ra làm hai phần và nói với Cam:

    - Đây là phần anh và cán bộ, tụi tôi chỉ xin giữ 1 nửa.

    Cam ngần ngừ bảo:

    - Để em hỏi.

    Khi quay trở lại, anh ta nói:

    - Cấp trên không nhận.

    - Vậy anh cứ giữ lấy chỗ đã chia cho tụi tôi vui.

    Quả là không chỉ chúng tôi vui mà từ sau vụ phân chia sòng phẳng này, Cam có vẻ cởi mở hơn. Tôi cũng chú ý quan sát và thấy rõ "cấp trên" không nhận phần chia thẳng từ tụi tôi nhưng có lẽ đã được Cam đưa cho 1 cách kín đáo hơn. Suốt khoảng mười ngày gần gũi, mỗi khi đến chỗ nghỉ đêm, Cam trói chúng tôi lại, nhưng ngồi sát để nói chuyện. Đúng ra là hỏi chuyện. Chuyện Ngụy. Chuyện SG. Chuyện ăn uống, tất cả chuyện gì có thể cho người lính trẻ tuổi 1 cái nhìn mù mờ về đời sống, sinh hoạt của phần đất anh ta đang hăm hở GP. Từ Cam, chúng tôi lần đầu tiên được nghe chữ "Tem Phiếu" "Quốc Doanh" "Quản Lý Chặt" và dù Cam cố gắng giảng giải hai đứa tôi vẫn cứ ngớ ra, không tưởng tượng được dân miền Bắc Chủ Nghĩa Xã Hội sống ra sao. Ngược lại Cam cũng nửa tin nửa ngờ về cái chuyện dân SG nhà nào cũng có truyền hình, muốn mua gạo trắng, gạo thơm thì cứ ra tiệm gạo mà mua, mua bao nhiêu cũng có. Cam lắc lắc cái đầu khi được biết người dân miền Nam muốn ở đâu thì ở không cần trình với CA và khi nghe nói về con gái SG thì cười tở mở. Cam đã yêu cầu tôi cho xem chiếc đồng hồ "hai cửa sổ"- và tôi ngớ người ra cho đến khi được giải thích. Cam tối nào cũng lôi cái đồng hồ có dạ quang ra mân mê ngắm nghía. Khi tôi bảo tôi sẵn sàng biếu anh ta cái đồng hồ đeo tay đó thì anh ta nhìn tôi tròn mắt ngạc nhiên. Sau này tôi vẫn tiếc không thể cho Cam, Nhất là khi chiếc đồng hồ Seiko đó bỗng biến hình thành 1 cái đồng hồ quái quỉ gì đó của nước XHCN anh em. Nhưng đó là chuyện sau.

    Tôi đã thì thầm với ông Kiệt mưu chiêu hồi Cam, nhờ anh ta dắt đường trốn nhưng suy đi tính lại, chúng tôi thấy giải pháp đó không tưởng. Thứ nhất liệu Cam có dám đào ngũ theo tụi tôi? Nếu Cam đồng ý, liệu anh lính BV non choẹt đó có thông thạo địa hình địa vật để thoát? Nhưng cái đáng sợ nhất là chân của tụi tôi. Sau mấy ngày lội bộ trong rừng, chân chúng tôi như chân người khác lết không nổi. Mỗi bước là 1 cực hình cho đến nỗi có lần ông Kiệt ì ra không đi nữa khiến cả bọn phải ngủ lại giữa rừng.

    Tôi thấy rõ người cán bộ thành thạo đường đi và biết phải đi bao lâu trong ngày thì có chỗ có thể cho nghỉ ngơi. Có hôm tụi tôi bị đánh thức từ bốn giờ sáng để lên đường nhưng có khi tới gần trưa mới khởi hành. Lần nào cũng vậy cỡ mặt trời vừa lặn là đến đúng ngay chỗ có thể ngủ lại, lúc là buôn Thượng, khi thì là 1 trạm liên lạc, khi thì là mộ cái "láng ". Đây là tiếng gọi của những người vượt Trường Sơn, chỉ 1 chỗ dừng chân có lều, có nhà tranh và có giường tre để ngả lưng, có nguồn nước để nấu nướng. Tóm lại mọi lộ trình đã được lượng ước trước.

    Hai đứa tôi đã trải qua hai ngày trong hoảng loạn khi nghỉ ngơi ở 1 cái láng mà tôi gọi là Láng Điên. Nó đã ám ảnh tôi và có thể còn tiếp tục ám ảnh tôi suốt đời.

    Khẩu hiệu của binh sĩ BV là "Nhổ 1 trồng hai". Nhổ là nhổ khoai nhổ sắn. Khi nhổ 1 bụi sắn, 1 dây khoai lên, lính BV được lệnh trồng lại hai bụi để cho toán quân đến sau có cái mà ăn ! láng đa số chỉ trồng khoai và sắn, hoặc thêm 1 ít rau..

    Khi tới Láng Điên, tụi tôi được Láng Trưởng "Chào Mừng" bằng 1 tràng AK chỉ thiên ròn rã, và 1 bài diễn văn:

    - Địt mẹ mấy thằng Ngụy, Ông thì bắn chết cả nhà mày.

    Sau câu chửi Láng Trưởng quay ngang súng chĩa vào tụi tôi như sắp sửa bóp cò. Hai người áp tải tù nhìn không can thiệp, lẳng lặng bỏ đi lo cơm nước. Chính ông Láng Trưởng thân chinh lôi tụi tôi lại chỗ gốc cây ở 1 gò đất cao và trống trải, trói tụi tôi vào đó, mồm thì lải nhải chửi. Trước khi bỏ tụi tôi lại ông Láng Trưởng còn lớn tiếng: - Tụi mày mà rục rịch ông cho mỗi thằng 1 viên. Ông ở đây 9 năm rồi không về Bắc chỉ vì tụi Ngụy nhà chúng mày

    Lúc đó trời đã chạng vạng và tôi giật bắn người khi thấy có hai người lính mặc đồ và đeo phù hiệu SĐ 5 đang lui cui làm việc trong ruộng sắn. Họ đi botte de saut!

    Khi Cam mang cơm cho tụi tôi, anh ta ngồi xuống bên cạnh nhỏ nhẹ: - Hai anh đừng sợ. Thằng cha này được tuyên dương là anh hùng Trường Sơn vì thề là sẽ giữ láng cho đến ngày miền Nam GP, mới về lại Bắc. Nó 1 mình giữ cái láng này chín năm trời, bộ đội qua đây đều biết nó. Rau và khoai sắn chỗ này lúc nào cũng nhiều, chắc nhờ đất tốt cũng có, nhờ nó chăm sóc cũng có. Có điều nó ở 1 mình lâu quá hóa rồ rồi.

    Tôi hỏi:

    - Sao có lính Ngụy ở đây?

    - À, đó là hàng binh được cải tạo ít lâu rồi cho về.

    Hàng binh? Như vậy họ khác với tù binh như tụi tôi. Hôm sau tôi được nói chuyện với họ - có lẽ có sự đồng ý của cấp trên ! Họ cho hay họ là lính, nhưng là lao công chiến trường. Đây là thành phần đặc biệt trong cơ cấu tổ chức của quân lực VNCH. Những người này là đào binh bị bắt, là những người nhất định trốn tránh nghĩa vụ QS nhiều lần bị bắt. Họ bị tòa án xử phải làm Lao Công Chiến Trường, đi theo những những đơn vị hành quân để phục vụ việc vặt, nhất là để khuân vác.

    Họ cho hay là đã ra hàng và được liệt vào thành phần giác ngộ. Họ được cải tạo độ ba tháng và sau đó thả trở về với gia đình. Khi thấy tôi tỏ vẻ nghi ngờ, 1 người bảo tôi: - Em nói thật với Tr/u, em không muốn cầm súng giết người. Em không theo VC nhưng em cũng không thích đi lính Cộng Hòa. Em chỉ muốn yên thân làm ăn. Em đã bị đi lao động lần này là lần thứ hai. Lần trước em ra hàng, phải ở trong rừng học tập ba tháng, xong mấy anh ấy dẫn em về tới tận Gò Vấp, đưa cho em 2000 đồng bảo đi xe ôm về nhà. Lần này ra hàng, em lao động ở đây hơn hai tháng, chắc sắp được về rồi.

    Tôi hỏi:

    - Các đơn vị qua đây có đông không?

    - Em không được phép nói .

    Tôi thấy rõ ngay là họ đã được sửa soạn trước nên không hỏi han gì thêm. Nhưng ông Láng Trưởng thì luôn luôn coi tụi tôi như món hàng để giải trí để phát tiết 9 năm ẩnức.

    Nửa đêm đang ngủ tụi tôi choàng dậy vì đạn AK nổ điếc tai. Ông Láng Trưởng cởi trần trùng trục ôm súng chĩa vào hai đứa tôi chửi đủ thứ tục tằn và cuối cùng hét:

    - Ông thì cho mỗi đứa 1 viên là xong đời nhà chúng mày. Vì chúng mày mà ông ở cái xó này chín năm chưa gần đàn bà. Ngữ chúng mày chỉ có đoàng 1 cái giống như ông giết con gà con chó vậy.

    Tôi dựa vào gốc cây giương mắt nhìn ông ta trong ánh trăng và có cảm tưởng mình đang nhìn 1 con quỉ sắp lên cơn thèm máu. Tôi nghĩ "Nếu nó bắn thì kể như xong".

    Hai ngày trời bị trói ở cái gốc cây trên gò đất có lẽ ông Láng Trưởng phí với tụi tôi hơn 1 chục băng đạn AK và chi ra không biết cơ man nào ngôn ngữ đặc sệt của 1 người miền Bắc thất học, cái ngôn ngữ chanh chua đầu đường xó chợ tôi chưa được nghe.

    Ông Kiệt nói với tôi:

    - 9 năm chắc tôi cũng điên như nó.

    - Nhưng nó là anh hùng Trường Sơn. Khi rời khỏi láng , tiếng AK và tiếng chửi vẫn đuổi theo tụi tôi 1 quãng khá xa. Không hiểu ông Láng Trưởng Anh Hùng Trường Sơn đó có thủ dâm không? Tôi mỉm cười về ý nghĩ này và dám lắm vì trông ông ta béo nục nịch mà da thì xanh bủng, dám là vụ đó hàng ngày.
    Khi đi được 1 quãng khá xa, Cam nói với tụi tôi:

    - Mình kẹt ở láng hai ngày vì vấn đề an ninh, các anh phải nhanh lên cho kịp thời gian.

    Tôi cũng chẳng biết kịp thời gian để đến đâu và làm gì nên cũng chẳng hỏi lại. Bỏ lại đằng sau ông trưởng Láng Điên, tụi tôi lại được áp tải băng rừng băng suối cho đến 1 hôm bỗng thấy đang đi trên đường quốc lộ tráng nhựa hẳn hòi. Quốc lộ 1 thì phải vì tôi nhìn thấy 1 tấm bảng chỉ đường đã bị bắn bể nát nhưng vẫn còn nhận ra chữ Nam Vang và mũi tên chỉ hướng. Bộ tụi tôi được áp tải sang Miên, sang Cam-bốt?

    Thỉnh thoảng dọc đường chúng tôi gặp 1 hai người dân. Họ tò mò thoáng nhìn hoặc cúi cuống hoặc quay mặt đi. Tôi thầm nghĩ chắc trông tôi và ông Kiệt thê thảm, không giống con giáp nào, đến nỗi những ngụy dân cũng không muốn thấy chăng? Hay là họ không muốn nhìn cảnh sĩ quan VNCH tả tơi hoa lá trong tay bộ đội BV?

    Chúng tôi không phải ngủ bờ ngủ bụi trong hai ba ngày. Tối đến chúng tôi ở nhà dân. Càng đi, tôi càng nghiệm ra, càng ngày dân chúng không còn tò mò, có lẽ đối với họ, chuyện tù bình chả có gì đáng để ý nữa.

    1 lần ở trong căn nhà dân, chúng tôi được nghe chuyện tù binh Mỹ. Có thể những người trong nhà cố ý nói chuyện to để tụi tôi nghe thấy. Họ kể với nhau du kích mới bắt được 3 BK Mỹ. Ba người này "đầu tóc râu ria lông lá trông như con vượn" vì đã sống ở dưới hầm tối mấy tháng. Họ được người Stieng che chở, giấu ở hầm nhưng cuối cùng cũng bị lộ. Nghe nói họ có máy truyền tin nhưng bị hư không cách gì sửa được. Tôi nhớ mãi câu nói của người đàn bà:- Trông hai ông này còn đỡ chứ 3 người Mỹ trông phát sợ. Y như mấy con vượn đầu tóc bù xù!

    Chính tại căn nhà này tụi tôi chia tay với Cam. Anh ta rớm nước mắt bảo:- Thôi, đến đây là hết nhiệm vụ của em. Hai anh yên tâm không sao đâu.

    Ngẫm nghĩ thế nào Cam lục ba lô lấy ra 1 cái quần xà loỏn đưa cho tôi:

    - Em biếu anh cái này.

    Tôi không khách sáo gật đầu cảm ơn. Cảm tình nảy nở giữa Cam và chúng tôi có thể do những buổi tối ngồi tỉ tê và ông Kiệt là người tinh ý phát giác tất cả những điều tụi tôi mô tả miền Nam đã được Cam tường trình đầy đủ với cấp trên, bởi suốt dọc đường người cán bộ gần như không trực tiếp nói năng gì với tụi tôi và hình như anh ta lờ đi cho Cam "liên hệ".

    Người áp tải mới của tụi tôi nói giọng miền Nam đặc và hơi láu táu. Anh ta bảo:

    - Các anh phải đi nhanh lên mới kịp trước khi tối.

    Tôi không bao giờ nghĩ là tối hôm đó tôi lại được gặp đông đảo bạn đồng ngũ, các chiến hữu của tôi cũng từ tối hôm đó, tôi chính thức sống 1 cuộc sống của 1 tù binh chiến tranh.

    - Tù mới. Tù mới.

    - Ê, đơn vị nào vậy?

    - Ê, bị bắt ở đâu?

    Cả chục người nhao nhao khi hai đứa tôi bước chân vào căn nhà tranh tối tranh sáng. Chữ đúng là cái láng . Đó là những căn láng được dựng sơ sài, mái lợp bằng lá trống quân. Như lời thuật lại thì lá trống quân bền, không cháy. Lá to khoảng hơn bàn tay được kết thành từng liếp lợp mái. Tôi không biết tại sao cái lá này có tên Trống Quân thơ mộng như vậy và cũng không biết có thật là lá đốt không cháy chăng. láng được che bốn phía bằng phên tre hoặc có khi là các tấm liếp lá trống quân rất đơn sơ và trống trải. Trong các láng có hai dãy giường lát tre khá thấp giống như chõng tre tôi đã thấy hồi còn nhỏ ở vùng quê BV.

    Buổi tối đầu tiên, tôi và Ch/u Kiệt đã kể lại đầy đủ chi tiết về cuộc đời quân ngũ và trường hợp bị bắt cho anh em. Khi tôi hỏi có ai trong trại từng ở chi khu Đồng Xoài không thì không thấy. Tôi thầm nhủ ít nhất thì Thiếu Tá Khoái và Tr/u Hùng đã thoát - hoặc đã chết. Tôi được nhường 1 chỗ trên cái giường phên tre và đêm đó tôi ngủ thẳng giấc. Phải chăng vì tôi đang ở giữa anh em đồng đội của tôi.

    Tuần lễ sau đó là tuần lễ làm việc. 3 ngày đầu người hỏi cung tôi là người miền Bắc, đến hôm thứ 4 thì có diễn tiến mới. Người hỏi cung là 1 người miền Nam và trong suốt 1 buổi, ông ta rất cởi mở, toàn nói chuyện Saigon, y như hai người cùng quê gặp nhau. Thấy tôi có vẻ dè dặt, ông ta cười: - Anh cứ gọi tôi là Thầy Hai cũng được. Tôi là giám thị trường Văn Học ở đường Phan Thanh Giản. Anh có biết giáo sư Trần Bích Lan không? Ông Lan làm thơ bút hiệu là Nguyên Sa.
    Và ông thầy Hai nhịp gõ, hát nho nhỏ: Nắng SG anh đi mà anh chợt mát, Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông, Tôi vẫn yêu màu áo ấy vô cùng… rồi hỏi tôi: - Anh có thích bài Áo Lụa Hà Đông không? Tôi thuộc nhiều thơ Nguyên Sa lắm, thích nhất là câu: "Sáng nay Nga buồn như con chó ốm, như con mèo ngủ gật trên tay anh"

    Khó mà tưởng tượng được ở giữa trại tù Lộc Ninh lại được nghe Áo Lụa Hà Đông.

    Tôi cười:- Tôi dốt, biết rất ít về văn chương VN nhưng có nghe danh giáo sư Lan và biết ông ta làm thơ hay lắm.

    - Tôi làm giám thị gặp ông Lan hoài. Trông ông không có vẻ thi sĩ mà sao làm thơ hay quá trời.

    Câu chuyện - đúng ra là cuộc hỏi cung - kéo dài suốt buổi. Chúng tôi nói về tiệm phở, tiệm hủ tíu nào ngon, rạp ciné nào ngồi dễ chịu nhất, trường tư nào dạy giỏi và đứng đắn. Ông Thấy Hai cười rất tươi, cho hay:- Tôi thuộc cục R chỉ công tác ít lâu rồi trở lại SG. Anh yên tâm, người CS không tàn ác như chính quyền Saigon tuyên truyền đâu.

    Tôi nhận thấy ra rằng ông Thầy Hai này không gọi tôi là ngụy quân, không gọi VNCH là ngụy quyền và tôi cũng biết ông Thầy Hai như vậy là dân nằm vung, có lẽ được cấy từ lâu lắm.

    Trước khi rời khỏi bàn hỏi cung, ông ta bảo:

    - Anh chờ tôi 1 chút.

    Sau đó, ông ta trở lại đưa cho tôi 1 đôi dép râu, chính đôi dép này đã cùng tôi trải gần chục năm hoạn nạn trong tù. Khi trở lại láng mọi người xúm lại và ai cũng ngạc nhiên khi nghe tôi kể về ông Thầy Hai!

    Ba ngày sau đó, ông Thầy Hai liên tục "làm việc" và những điều ông ta hỏi làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Ông ta không hỏi han đề cập gì tới Phước Long, nơi tôi rành rẽ nhất mà hỏi về trường Bộ Binh Thủ Đức, hỏi trường có bao nhiêu trạm gác, ngoài SV sĩ quan thì lực lượng hữu cơ bảo vệ quân số cỡ nào. Ông ta hỏi về Biên Hòa, về Bình Dương và về TTM. Khi tôi nói tôi không biết gì về TTM thì ông ta cố gặng, chẳng hạn bạn bè có ai nói về TTM chăng? Suốt ba ngày trời những câu hỏi tới tấp như vậy được đưa ra đến nỗi anh em tù binh khi bàn tán đều nghĩ đối phương đang cố khai thác tin tức để bao vây hoặc tấn công Saigon.

    Sau này nghĩ lại, tôi thấy chúng tôi quả là ngây thơ vì có rất nhiều anh em bàn phải làm sao thông báo tin tức này về cho phe ta đề phòng! Hình như ai cũng nghĩ đến chuyện trốn trại nhưng không ai thực hiện cả. Mọi sự xem ra rất lỏng lẻo vì trại không có rào kiên cố nhưng xung quanh toàn là bộ đội. láng tuy không có cửa nhưng buổi tối chúng tôi được lệnh không được bước ra ngoài hè nếu có việc cần kíp thì phải hô to, chẳng hạn như:

    - Báo cáo GP tôi muốn đi cầu.

    Lúc nào cũng vậy, có tiếng AK lách cách cùng tiếng đáp: "Ra đi". Sau đó là 1 người lính võ trang áp tải đương sự đi ra phía cầu tiêu. Chúng tôi biết đây là tỉnh Lộc Ninh nhưng không rõ đích xác vị trí của trại tù. 1 khía cạnh tâm lý nữa là có thể có trao đổi tù binh. Sau hiệp định Paris, báo chí đã đăng tải về các vụ trao đổi này và chúng tôi đều biết địa điểm trao đổi là Lộc Ninh. Anh em xầm xì bàn tán tụi tôi được tập trung ở đây có thể là tiện cho việc trao đổi tù binh chăng? 1 sĩ quan cấp Đ/u - tôi quên tên ông ta - đã từng ở Côn Sơn cho hay hiện VNCH còn giam giữ cả chục ngàn cán binh CS và nếu 1 đổi mười phe ta vẫn có dư!

    Khoảng 1 tuần sau, họ dẫn vào 1 tù binh và tôi bật ngửa khi nhìn thấy ông Ch/u Vân, người giữ 1 trung đội ĐPQ lo bảo vệ quận đường hồi đó ở Đồng Xoài. Vân nhìn thấy tôi và ông Kiệt cũng ngỡ ngàng không kém - "Tôi tưởng hai ông thoát". Vân cho hay anh bị bắt ngay tại chợ khi bắn hết đạn. Anh được bắt giam cả tháng rồi bị dẫn về đây. Tôi hỏi thăm về Thiếu Tá Khoái và các sĩ quan khác thì Vân lắc đầu:

    - Tôi bị giam 1 mình trong căn nhà không biết gì về ông quận và các sĩ quan khác. Lạy Trời họ thoát được.

    Tôi cũng chỉ còn biết lạy Trời như ông Vân thôi. Tù binh chúng tôi được đối xử tử tế, ăn uống tất nhiên kham khổ nhưng không khác lắm so với bộ đội CS. Trại có 1 lều nhỏ được gọi là bệnh xá nhưng thuốc men tất nhiên là không có và người phụ trách xem ra cũng rất lờ mờ về y khoa. 1 người tù bị thương ở chân, vết thương làm mủ khi lên bệnh xá thì được đưa cho 1 bát muối để rửa và hai cuộn băng.

    Hôm sau anh ta xin thêm băng thì bị mắng xối xả. Anh ta không hề được dặn trước là khi thay băng thì phải đem giặt cẩn thận để xài lại và theo tiêu chuẩn, mỗi người chỉ được phát hai cuộn mà thôi!

    Cái đáng để ý nhất là cách xưng hô. Chúng tôi được lệnh gọi tất cả bộ đội là "Anh GP". Không lẽ đến giờ phút này của cuộc chiến họ vẫn muốn chúng tôi tin đây là cuộc nổi dậy của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền miền Nam và HN không liên hệ gì đến những chuyện xảy ra ở miền Nam? Muốn hiểu sao thì hiểu, chúng tôi khi nói chuyện với họ bao giờ cũng bắt đầu bằng câu "Báo cáo Anh GP" dù người đối diện già hay trẻ, Nam hay Bắc. Suốt gần hai tháng ở trại tù binh, có 1 lần báo động làm anh em chúng tôi mừng húm. Đang tự nhiên, chúng tôi bi lùa vào trong nhà, cấm ồn ào, cấm cả hút thuốc và có lệnh rõ ràng hễ ra khỏi láng là bị bắn. Cuộc báo động kéo dài suốt buổi chiều cho đến hết đêm nhưng sáng hôm sau lại sinh hoạt bình thường. Mỗi người 1 giả thuyết, chúng tôi bàn loạn cào cào và có lẽ chẳng lời bàn nào đúng cả!

    1 hôm chúng tôi được lệnh đi chặt tre. Xung quanh nơi đây nhiều rừng tre, loại tre già đốt dài và lớn. Lệnh rõ ràng là chặt tre từng đốt, phải giữ hai mắt ở đầu. Không anh em nào hiểu tại sao. Vài hôm sau, mấy người khỏe mạnh nhất được gọi ra trước 1 đống các cuộn dây xích. Đủ loại, có cuộn thì mảnh và mắt rất nhỏ, có cuộn khá lớn mắt xích to và nặng. Họ được lệnh chặt các cuộn dây ra thành từng đoạn dài cỡ 1 sải tay. Anh em lại bàn tán um xùm trong đó tôi còn nhớ có anh bảo: - Đây chắc là để làm mìn muỗi xử dụng khi tấn công Saigon!

    1 lần nữa chúng tôi lại thấy rõ sự ngây thơ của mình, vì chúng tôi không bao giờ nghĩ được công dụng đích xác của các ống tre và sợi xích. Đó chính là những vật dụng để cho bản thân chúng tôi xử dụng trên con đường Trường Sơn ngút ngàn.

    Tổng cộng số tù binh ở bốn láng xấp xỉ hai trăm, đều là sĩ quan cấp úy. Đa số chúng tôi thuộc Quân Đoàn Ba trú đóng ở các tỉnh Biên Hòa, Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long.. tức là những tỉnh ở phía Tây Saigon. Chúng tôi bàn tán đủ kiểu về số phận của mình. Những viễn ảnh vô cùng hoang tưởng cũng đã được vẽ ra như BK Dù có thể nhảy xuống cứu. Có người còn bàn đến chuyện chúng tôi có thể chết vì không lực VNCH sẽ dội bom ngay xuống trại tù. Giữa hai viễn ảnh cực đoan đó là niềm hy vọng trao đổi tù Binh.

    Tôi ở trại hơn 1 tháng thì chuyện chặt tre thành đốt giữa hai mắt xảy ra. Các đốt tre được xếp thành đống ở giữa sân cùng những đoạn giây xích sắt đã được chặt ra thành từng khúc. 1 buổi sáng khoảng mười giờ, hai chiếc xe tải lớn ì ạch chạy vào khu đất trồng ở sát trại. Chúng tôi được lệnh tập trung và mỗi người được phát 1 cái ruột tượng bằng vải khá dày, không hiểu để làm gì. Lính BV đứng thành dãy, súng AK, mũ tai bèo, dép râu trông tề chỉnh hẳn so với mọi hôm. Tù binh được lệnh hai hàng xếp thành 1 dãy dài từ từ đi về phía hai chiếc xe tải.

    Hai chiếc xe tải chở gạo bà con ơi. Những người lính đứng trên xe tỏ ra rất thạo việc. Họ dùng 1 cái phễu rất lớn, gạo được trút vào các ruột tượng, không 1 chút nào vương vãi ra đất. Từng người chúng tôi tiến đến, căng miệng cái túi vải dài thòng lòng đó ra hứng gạo. Gạo trắng tinh, thơm phức, có lẽ còn ngon hơn thứ bán ở các cửa hàng gạo Saigon. Tôi nghe 1 người lính BV nói với 1 anh lính BV khác "Tiên sư chúng nó. Gạo này ngoài Bắc khối mà có". Phải đến vài tháng sau, khi đã thực sự sống trong cái nôi của XHCN miền Bắc tôi mới thực sự hiểu được câu chửi thề bâng quơ này.

    Tôi ước lượng mỗi cái ruột tượng đầy gạo này nặng khoảng mười lăm ký. Việc phát gạo kéo dài khoảng hai tiếng thì xong. Chúng tôi lại được lệnh sắp hàng lần lượt trở về láng với cái ruột tượng đầy gạo choàng qua vai. Anh em xì xào bàn tán lờ mờ hiểu chắc sắp có chuyện xảy ra.

    Sau đó chúng tôi được phát mỗi người 1 đôi dép râu, 1 tấm ni lông mỗi chiều độ hai mét, 1 bộ quần áo, 1 cái bát sắt và 1 đôi đũa. "Kiểm kê" đầy đủ xong lại có lệnh sắp hàng hai tiến ra sân. Lần này mỗi người tù lãnh 1 đốt tre do chính chúng tôi chặt từ mấy hôm trước, chỉ có 1 điều ở 1 ống tre đã được dùi 1 lỗ và được nút lại bằng 1 cái nút gỗ. Mỗi người được phát 1 khúc dây gai khá dài. 1 cán bộ hướng dẫn chúng tôi cột ống tre để có thể đeo vào người ra sao. Sau đó, chúng tôi được lệnh ra suối lấy đầy nước vào ống tre. Đến đây thì không còn ai nghĩ đến công dụng ly kỳ của các đốt tre. Nó chỉ giản dị là cái ống đựng nước thay cho cái bi đông nhôm của lính CH. Vậy thôi!

    Chúng tôi hôm đó được ăn cơm sớm và thức ăn hình như đậm đà, sởi lởi hơn mọi khi vì có thêm món canh có lõng bõng tí thịt heo. Phải công bằng mà nói suốt những ngày tù ở Lộc Ninh chúng tôi không bị đói, cơm gạo lúc nào cũng no đủ. Ngoài mấy ngày đầu bị thẩm vấn, chúng tôi không hề bị đánh đập ngược đãi và nhất là không bị chửi rủa, bị lên lớp và bị học tập chính trị. Nội quy của trại khá sơ sài, chỉ có 1 điều duy nhất là không nên tìm cách trốn trại. Tôi vẫn nghĩ người CS ngay lúc đó cũng chưa quyết định nổi số phận của chúng tôi và chuyện trao đổi tù binh vẫn có thể xảy ra hoặc là có thể sẽ phải trình diện chúng tôi với Hồng Thập Tự Quốc Tế chẳng hạn. Tôi có cảm tưởng chúng tôi được đãi ngộ cỡ đó chẳng qua vì đây là chỗ chuyển tiếp và nhất là chúng tôi vẫn chịu sự cai quản của QĐ BV, chứ không phải là CA n/d như sau này. Chính tai tôi đã nghe những người lính BV than với nhau rằng "tù ngụy sướng quá!"

    Xế chiều khi cơm nước xong, 1 cán bộ vào láng :

    - Để động viên tình thần các anh, các anh sẽ được chuyển trại, đường đi xa phải chuẩn bị tinh thần, phải tôn trọng kỷ luật. Chính ra các anh là tội phạm chiến tranh nhưng do lượng khoan hồng của các mạng, các anh đã được đối xử theo đúng quy chế tù binh Han-sin-ki. Nhưng CM sẽ không nương tay cho những thành phần ngoan cố, ương ngạnh bất tuân kỷ luật. Hình phạt dành cho những thành phần này là không thể nhân nhượng.

    Ông cán bộ này ăn nói khá lưu loát, nói ngắn gọn để rồi ông ta khuyên tụi tôi: -Các anh nên mặc hết quần áo vào người đi vì có thể sẽ lạnh lắm.

    Lời khuyên này chỉ dúng có 1 nửa. Nửa còn lại mà ông ta không nói ra là dọc đường chúng tôi không thể thay quần được!

    Sau khi mặc bộ quần áo bộ đội tròng lên bộ đồ ngụy tơi tả hoa lá, mọi người đươc lệnh cuốn ruột tượng vòng qua vai, cột hai đầu vải lại, đeo ống nứa, tấm vải ni lông gập thành dải quấn ngang bụng. Lúng túng 1 hồi cũng xong, kể cả cái chuyện làm quen với đôi dép râu. Tôi bỗng nhận ra tôi là người được biệt đãi nhất vì đã được ông giám thị Thầy Hai nằm vùng tặng đôi dép quí hóa này từ ngày mới ra nhập trại hơn tháng trước đây!

    Kỹ thuật đối phó với tù của người CS rất giản dị, sơ khai - chữ của ông Thẩm phán già là "primitif" - nhưng rất hữu hiệu và rất đáng sợ. Tù được lệnh trang bị đầy đủ, không bỏ lại gì trong láng và lũ lượt tập trung ở sân thành ba nhóm. Giữa sân là các khúc xích sắt được chính tù cắt ra từ trước và hai chiếc sọt lớn. 1 người 1 trong mỗi nhóm được chỉ ra giữa sân, như vậy là ba người 1 toán. Họ xích chân từng người và sau đó ba đoạn xích được khóa liền lại với nhau. Tôi không còn được tỉ tê với ông Kiệt nữa mà bị khóa chùm với ông Đai Úy Bình và Th/u Quyền, 1 bị bắt ở Bình Dương, 1 bị ở Bình Long. Đ/u Bình vẫn to con tốt tướng dù đã ăn cơm tù ba tháng trong khi Th/u Quyền cao nhòng khẳng khiu. Nhưng bộ dạng bên ngoài đó không phản ánh sức chịu đựng của con người.

    Cái đáng sợ đầu tiên của sự giản dị là dây xích và ống khóa. Những thứ này có thể mua từ nhiều chỗ khác nhau của Ba Tàu đâu đó trong Chợ Lớn, có khóa Yale trông vô cùng nhắc chắn, có khoá nội hóa trông rất mảnh mai, anh nào xui thì dây xích vừa to vừa nặng lết kéo ì ạch.

    Khóa xong, họ cột bốn chiếc chìa khóa thành 1 chùm giao cho 1 người cán bộ giữ. Cứ như vậy từng chùm ba 1, chúng tôi được lệnh chờ, và chẳng ai hiểu chờ gì cho đến khi nghe tiếng động cơ nổ. 1 doàn công voa hơn chục chiếc xuất hiện, mui vải kín mít.

    Ông Quyền nói nhỏ với tôi:- Chắc trên xe có tù nữa chứ bọn mình cần đếch gì đến cả chục xe.

    Ông lại sai bét. Lũ chúng tôi chỉ được nhồi nhét trên ba xe, chỉ đủ chỗ đứng, còn những xe kia không có tù nào cả mà chở gạo.

    Khi đã nhồi tù lên, xe được phủ vải dày kín mít và chỉ chừng vài phút sau chúng tôi như ngộp thở. Tấm vải bố dày xem ra cũng trải qua nhiều trận mạc nên rách tả tơi, nhiều chỗ bị thủng nhưng không khí vẫn không lọt vào đủ cho tụi tôi thở. Sau này khi gặp tù cải tạo được nghe có 1 số được chở ra Bắc bằng tàu thủy và bị nhét dưới hầm tàu ngộp đến nỗi nhiều anh em bỏ mạng. Đối với người chiến thắng, sinh mạng của kẻ thua e không to hơn con sâu con kiến. Vả lại cuộc chiến đã khiến vài triệu người chết, thêm dăm ba tên ngụy nữa thì đã sao?

    Cỡ nửa đêm, xe lăn bánh. Trời trong và qua những lỗ thủng, tôi thấy trăng lưỡi liềm. Quá độ nửa giờ lắc lư chắc vì băng đường rừng, bỗng chúng tôi thấy đang chạy trên quốc lộ. 1 ông tù nói khá lớn cả xe cùng nghe:

    - Trăng lưỡi liềm mặt lõm quay về Bắc vậy là mình đang đi về hướng Tây. Tụi nó chở mình sang Campuchia.

    Vốn thiên văn học của ông bạn này không rõ đến cỡ nào nhưng không ai phản bác. Tôi cũng nghĩ nếu từ Lộc Ninh và đi trên đường nhựa thì chắc chắn đi sang Miên. Lắc lư hồi lâu, rồi chúng tôi cũng thu xếp để người này dựa vào người kia, mặc cho bánh xe đưa đẩy.

    Trời hửng sáng, đoàn xe lại bắt đầu lắc, sóc dữ dội và chúng tôi hiểu quân ta lại vào rừng. Khi trời sáng hẳn, xe ngừng lại. Khi lên xe đã khó, lúc xuống xe còn khó hơn vì chúng tôi bị xích từng chùm ba người 1. Tôi và ông Bình còn đang lóng ngóng thì ông Quyền đã nhảy tọt xuống làm hai đứa tôi nhủi theo ngã cong queo dưới đất. Tôi chợt nhận ra rằng số phận của tôi nay cột chặt với hai ông bạn này. Chúng tôi được lùa vào 1 khu rừng thưa. Đoàn công voa chui vào khoảng đất ở gần đó. Bộ đội BV nhanh chóng lo ngụy trang đoàn xe bằng những cành cây nhỏ đầy lá. Ông Quyền có vẻ hay nói lại đưa ra lời bàn tán làm tôi cũng sờ sợ:- Nếu phi cơ phe mình chơi bom giờ này chắc tôi với hai ông cũng tiêu theo.

    Chẳng bao giờ có phi cơ phe mình léo hánh đến đây có lẽ vì còn bận đánh bom ở cả chục mặt trận khác chăng? Vả lại phe mình còn đủ phi cơ để chơi được chăng?

    Tù được phát lương khô. 1 cán bộ dõng dạc:

    - Cấm đèn lửa, nấu nướng. Các anh mà để lộ mục tiêu là chúng tôi bắn.

    Ngắn gọn rõ ràng và chúng tôi đều là lính trận nên hiểu rõ tiêu lệnh. Cả ngày hôm đó chúng tôi lại bó gồi nằm trong rừng nhăm nhi lương khô. Ba đứa tôi dụm lại dưới 1 gốc cây, bắt đầu cùng "khai lý lich" để hiểu nhau hơn.

    Th/u Nguyễn Bá Quyền trẻ nhất trong cụm, tốt nghiệp võ bị Đà Lạt, đời binh nghiệp chưa qua 2 năm. Anh xung phong vào BĐQ chỉ vì "nhà tôi đủ thứ lính. Ông anh đi Bộ Binh, ông anh thứ nhì lái Trực Thăng, ông anh con nhà bác thì Nhảy Dù nên tôi chọn BĐQ cho nó khác". Quyền bị bắt ở chân núi Tống Lê Chân. Anh bùi ngùi nói: - Tui bị bỏ rơi, ông ơi. Không phi pháo yểm trợ, và bị tụi nó chơi biển người. Ít nhất thì cũng 1 chọi 5,7, hỏa lực tụi nó lai lấn mình nữa mới đau.

    Cả trung đội của anh gần như chết và bị thương. Những người còn lại không ai còn lại 1 viên đạn.

    Đ/u Lương Văn Bình tiểu đoàn phó 1 tiểu đoàn ĐPQ. Ông nguyên là lính Thiết Giáp lái xe tăng nhưng tính ngay thẳng không chịu bán xăng nên bị đì ghê quá bèn xin đổi và được chuyển qua coi ĐPQ ở Bình Dương. Cánh quân của ông bị phục kích và bình sĩ rối loạn. Ông Bình bị bắt khi cố thoát cùng hai người lính khác. Đại Uý Bình nhỏ nhẹ ít nói và sau này đã là gánh nặng cho cả hai đứa tụi tôi vốn nhỏ con hơn ông. Tôi còn nhớ khi được chặt cùm ở Yên Bái, ông rớm nước mắt, nắm tay hai đứa tôi nói:

    - Trong tình anh em chiến hữu, tôi không cảm ơn hai ông nhưng nếu còn sống trở về, tôi sẽ kể lại cho vợ con tôi nghe những gì xảy ra để con cháu tôi hiểu thế nào là tình đồng đội. Không có hai ông chắc tôi bỏ xác giữa rừng rồi.

    Lúc đó Quyền vẫn bông đùa:- Ấy, Đ/u sống thì em khiêng được chứ Đ/u bỏ xác giữa rừng thì hai đứa em chắc suốt đời phải canh mồ Đ/u.

    Và Quyền cười cười chỉ mấy đoạn dây xích đã cột chặt quãng đời của chúng tôi trên "đường dây Ông Cụ".

    Khi nghe tôi khai về cuộc đời lính tráng, hai người đồng ngũ gật gù thông cảm. Đ/u Bình bảo:

    - Tụi mình thế cả, lúc nào cũng quân tử Tàu thối hoắc. Nếu tôi chịu đem xăng nhà binh bán vừa có tiền vừa yên thân, có khi còn lên lon nữa. Ông không chuồn đi Mỹ ngay nên mới ở đây. Tụi mình đúng là Ngụy.

    Chúng tôi bàn đi bàn lại vẫn không đoán nổi được đưa đi đâu, nhưng giả thiết được đưa qua giấu đâu đó trên đất Miên có vẻ đúng hơn cả.

    Sẩm tối, chúng tôi lại được lùa lên xe Molotova. Xe chạy rất chậm, toàn đi đường mòn, có những lúc xe nghiêng muốn đổ. Mỗi lần như vậy đám tù người này đè lên người kia, í a í ới. Quá nửa đêm xe ngừng cho đám tù xuống để "thư giãn tinh thần". Chữ nghĩa của miền Bắc rất lạ tai đối với chúng tôi, và ông Quyền là người phiên dịch ngay cụm từ này sang ngôn ngữ ngụy. "Tụi nó cho mình xả xú bắp".

    Xin ghi lại 1 chuyện cười ra nước mắt. Trên xe tôi có 1 ông bệnh kiết lỵ. Sau 1 hồi, anh em đã phải dàn xếp, giúp anh ta tụt quần xuống và cứ tồng ngồng ngồi ghé cặp mông ra xe để muốn "xả" lúc nào thì xả. Phân và nước tiểu theo gió tạt vào xe dính hết người này đến người khác. Mới đầu anh em còn xì nẹc nhưng chỉ môt hồi sau anh bạn kiết lỵ cũng phải phì cười vì những lời bông đùa diễu cợt của anh em. Chửi bới om xòm, diễu đủ kiểu nhưng quả không ai giận dù phân và nước tiểu của anh ta bắn cả vào quần áo mặt mũi người đúng gần.

    Đoàn xe không bật đèn đang ì ạch lăn bánh trên con đường rừng khúc khuỷu thì dừng lại. Lính BV leo lên xe chúng tôi cuốn chiếc mui vải lên. Đằng trước là 1 con sông lớn, trong cảnh mù mờ của rừng đêm, khó nhìn thấy bờ bên kia. Bộ họ muốn chúng tôi bơi qua sông à? Lính BV nhảy xuống đi tới đi lui và 1 người đứng ở càng xe phía trước nói to cho đám tù nghe:

    - Các anh phải cẩn thận, đừng chen lấn xô đẩy, hễ anh nào ngã xuống không ai vớt được đâu.

    Từng chiếc 1 xe chậm chậm bò xuống sông. Hai người lính đi bộ cầm hai bó đuốc giơ cao dẫn đường. 1 con đường đá được xây ngầm dưới mặt nước. Trước đây tôi vẫn băn khoăn không hiểu bằng cách nào HN có thể tung vào chiến trường miền Nam những võ khí hạng nặng như xe tăng, đại pháo. Từ vĩ tuyến 17 vào đến Củ Chi chẳng hạn phải cỡ hơn ngàn cây số. Di chuyển 1 khẩu 122 ly, 1 cỗ 130 ly đâu phải dễ như 1 khẩu AK 47? Khi chen chúc lúc nhúc trên chiếc Motolova cà khập cà khiễng đến giữa sông, đám tù chúng tôi đều ngao ngán lắc đầu. Phi cơ Mỹ, phi cơ VNCH với những dụng cụ điện tử tối tân cũng khó phát hiện được cái cầu ngầm này.

    Khi sang đến bên kia sông, cả 1 đoàn dài xe cộ đang chờ. Họ đi ngược đường với tụi tôi, vậy có nghĩa là họ đang chuyển quân vào Nam. Tôi đếm đoàn xe hơn 20 chiếc bọc vải kín mít và đáng sợ nhất là 1 đầu chiếc hỏa tiễn Sam. Thú thật tôi chưa bao giờ nhìn thấy mà chỉ đọc báo về loại vũ khí này của Nga, thấy nói nó trang bị bộ phận tầm nhiệt và có thể bắn lên cao cả 3 cây số. Rất nhiều phi cơ đã bị Sam hạ. Chiếc hỏa tiễn Sam dài lòng thòng được tháo làm 2 đoạn đang chờ vượt sông và biết đâu nó sẽ được bắn lên đâu đó ở tận ĐBSCL. Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình quên đi cả cái lạnh của núi rừng.

    Quãng xế trưa xe dừng lại. Họ lùa tù binh vào 1 bãi cỏ khá rộng. Trời trong xanh không vẩn mây và nắng chói chang. Lũ chúng tôi vẫn còn ngây ngất ngầy ngật vì bị nhồi xóc suốt đêm. Khi đang còn lao xao thì có lệnh tập hợp "hàng ngũ chỉnh tề" để nghe nội qui đường đi. 1 cán bộ đứng trên 1 khúc gỗ cao lớn tiếng:

    - Kể từ giờ phút này, các anh sẽ được hân hạnh đặt chân trên con đường nổi danh mang tên Bác. Đây là lúc các anh phải dấn thân. Các anh phải đi trong hàng ngũ, anh nào toan rẽ ngang rẽ dọc sẽ bị trừng phạt, sẽ bị xử tử. Tôi nói rõ không có khoan nhượng. Mọi sai lệch, toan tính, bất tuân kỷ luật đều không được tha thứ..

    Ông ta nói rất dài nhưng đối với chúng tôi thì cái tin chúng tôi được "dấn thân trên con đường mang tên Bác" chỉ có nghĩa là chúng tôi sắp đi ngược đường mòn HCM để ra Bắc. Thoáng từ đâu tôi nghe tiếng nói nho nhỏ trong đám tù - Xương Trắng Trường Sơn và Đường Đi Không Đến. Ông Xuân Vũ đi từ Bắc vào để viết 2 cuốn ký sự vượt Trường Sơn nổi tiếng này.

    Tôi và gần 200 anh em khác nay ngược Bắc, chỉ khác nhà văn là chúng tôi là tù và bị xích chùm 3. Liệu đường đi có đến chăng?

    VN Hậu 75

    Lịch sử VN từng ghi lại những cuộc trả thù của kẻ thắng. Nguyễn Phúc Ánh khi lên ngôi đã đào mả Nguyễn Huệ, lấy xương sọ kẻ thù làm bô đi tiểu. Trước đó, Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý theo chính sách nhổ cỏ nhổ cả rễ. Đó là đòn thù giữa 1 cá nhân với 1 cá nhân hoặc dòng họ này với dòng họ kia. Cuộc trả thù của người CS đối với miền Nam tinh vi hơn, lâu dài hơn, thâm độc hơn, rộng lớn hơn và hậu quả có lẽ kéo dài nhiều thế hệ.

    Người dân miền Nam đã thở phào vì "hòa bình lập lại" và dẫu sao thì "tắm máu" không hề xảy ra như 1 số đông vẫn lo sợ. Nhưng tuần trăng mật giữa chế độ mới và người dân của phía bại trận không kéo dài.

    Người CS đã có nhiều kinh nghiệm từ cuộc tiếp thu miền Bắc sau năm 1954 và kinh nghiệm của Trung Cộng, Nga Xô để đối phó với dân miền Nam.

    Khởi đầu là đánh tư sản mại bản. Sau khi gom hết tài sản của người dân, biện pháp đổi tiền liên tiếp được tung ra để chắc chắn không còn ai giấu giếm gì được nữa. Quốc sách Kinh Tế Mới không có mục tiêu kinh tế mà chỉ đơn thuần là biện pháp hành chánh buộc người dân miền Nam, nhất là thị dân, phải bỏ nhà, bỏ cửa dấn thân vào vùng đất hoang vu, cằn cỗi.

    Những biện pháp trên mới chỉ là mào đầu cho 1 kế hoạch rộng lớn hơn nhằm củng cố chế độ, đề phòng mọi chống đối có thể xảy ra bất chấp hậu quả đối với đại khối dân tộc. Bằng cách lấp lửng, người CS đã lợi dụng lòng ngây thơ của quần chúng miền Nam, êm thắm lùa cả triệu người vào tù.

    Ngày 3-5-75, Ủy Ban Quân Quản thành phố SG ra thông cáo buộc tất cả những ai còn giữ vũ khí phải đem nộp tại trụ sở CA. Lai rai sau đó là những thông cáo đầy vẻ khoan hồng.

    Ngày 10-6-75, Chính Phủ Lâm Thời thông cáo lệnh tất cả quân cán chính miền Nam ở những cấp bậc thấp - về phía QĐ là binh sĩ và hạ sĩ quan, phía chính quyền là những nhân viên thường dưới ngạch chủ sự, đốc sự phải đi hoc tập ba ngày.

    Tuy hoang mang trước chế độ mới, tuy điêu đứng vì chính sách đánh tư sản, thúc đẩy đi kinh tế mới, hoặc đi nghĩa vụ QS, thanh niên xung phong đối với những người trẻ tuổi, người dân miền Nam vẫn chưa được nghe đến danh từ cải tạo.

    Ngày 20-6-75, chính Tướng Trần Văn Trà ký 1 thông cáo yêu cầu tất cả sĩ quan QĐ miền Nam, tất cả ĐV các đảng phái chính trị, tất cả các công chức cao cấp chủ sự trở lên của chính quyền miền Nam phải trình diện để đi học tập. Họ được yêu cầu mang theo giấy bút, mùng mền, thực phẩm, quần áo và tiền bạc đủ dùng trong mười ngày. Mọi người đều hiểu các thành phần trên sẽ phải học đường lối chính sách của chế độ mới trong 10 ngày giống như những binh sĩ đã học tập 3 ngày rồi được trở về lo cuộc sống mới trong 1 nước VN Thống Nhất.

    Toàn bộ dân chúng miền Nam đã hiểu lầm và 10 ngày đã kéo dài có khi hơn 10 năm.

    Đã có biết bao nhiêu người tự mình ôm chăn chiếu, mùng mền dấn thân vào tù?

    Theo con số chính thức của chế độ cầm quyền được công bố trên tờ SG GP, riêng tại SG là 167,000 bao gồm sĩ quan các cấp, cảnh sát, chiêu hồi, viên chức chính phủ, ĐV đảng phái chính trị. Các tổ chức như Ân Xá Quốc tế và Aurora Foundation chỉ dựa vào những còn số chính thức do chế độ công bố, ước tính tổng cộng hơn 300,000 người đã bị giam cầm trên toàn thể lãnh thổ miền Nam. Nhưng theo những ước tính khách quan khác, con số lớn hơn nhiều - khoảng trên 1,000,000 người.

    Tỉnh Phú khánh chỉ có 300,000 dân cư, nhưng có đến 12 trại tù giam giữ trên 50,000 người. Ngay sát SG, tỉnh Đồng Nai có 12 trại gồm Trảng Táo, Xuyên Mộc, Xuân Lộc, Trảng Bom, Suối Máu, Phước Lễ, Long Thành, Long Giao, Hố Nai, Gia Ray, Biên Hòa, Bà Rịa chỉ riêng trại Suối Máu có trên 6000 tù nhân.

    Tù nhân được đưa vào những vùng đất hoang vu cằn cỗi, tự họ phải xây dựng lấy nhà tù trong những điều kiện khắc nghiệt nhất. Họ bị lao động khổ sai, bị đày đọa tới tận cùng về thể xác cũng như tinh thần. Chế độ mới tìm đủ cách để trấn áp, triệt tiêu mọi mầm mống chống đối có thể xảy ra. Người CS nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và đối với họ toàn bộ dân chúng miền Nam là kẻ thù, là ngụy dân, là tay sai CIA, là kẻ tiếp tay cho đế quốc Mỹ trong cuộc chiến vừa qua.

    Khác với miền Bắc, CS dồn mọi nỗ lực vào chiến tranh, miền Nam từ sau năm 54 đã xây dựng được 1 hạ tầng cơ sở tương đối vững chắc về kinh tế, giáo dục.. Các chuyên viên ngành nghề đều được đào tạo nghiêm chỉnh, theo tiêu chuẩn cao. Khi lâm vào tình trạng kiệt quệ, HN đã mời Thủ Tướng Lý Quang Diệu sang để cố vấn vào năm 1979.

    Ông Lý Quang Diệu từng đưa Tân Gia Ba từ 1 tiểu quốc lên thành 1 thế lực ở Đông nam Á. Câu trả lời của ông đối với HN là cả 1 ngỡ ngàng: -"Các ông không phải học đâu xa, học ngay miền Nam."

    Điều mà cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu quên mất là chỉ 3 năm dưới chế độ mới, miền Nam không còn là miền Nam như ông vẫn biết. Tất cả chất xám hoặc đang bị tù không có ngày ra, hoặc đã vượt biên. Hạ tầng cơ sở kinh tế bị hủy hoại toàn bộ vì chính sách đánh tư bản mại bản và kinh tế kiểu XHCN. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng không hiểu được dù cùng là người Việt, người CS đã nhìn người dân miền Nam như kẻ thù và không bao giờ lại có thể tin dùng kẻ thù. Từ Bắc chí Nam, trại tù mọc lên như nấm, nhìn vào bản đồ lấm chấm như da beo khiến danh từ Bamboo Gulag đã được dùng để so sánh với quần đảo ngục tù ở Nga dưới thời Stalin.

    Khi cả triệu quân cán chính miền Nam bị tù, gia đình họ bị đọa đầy, bị ruồng rẫy, bị đẩy ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội. Người vợ nay phải đảm đương trách vụ chủ gia đình, nhưng lại không dễ kiếm được việc để sinh sống, con cái vì lý lịch hoặc phải đi nghĩa vụ, đi thanh niên xung phong, hoặc dật dờ ngoài đường phố vì chế độ không cho những đứa trẻ này cơ hội học hành nữa. Dù học giỏi đến đâu, nhưng với lý lịch xấu, con em ngụy quân, ngụy quyền không bao giờ lọt vào đại học.

    Cuộc chiến đã khiến dân tộc VN chịu mọi tang thương và sau cuộc chiến tang thương vẫn tiếp diễn ở mức độ kinh hoàng hơn. Chính sách của CS khiến hàng triệu người bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người chết vì hải tặc, vì giông bão giữa biển khơi. Hơn nữa, chính sách trả thù đã xé dân tộc thành hai- 1 là người CS hai là người dân, 1 là Bắc hai là Nam, 1 là ĐV cán bộ nhà nước, hai là người dân thường; 1 là quan chức tham nhũng từ thượng tầng cơ sở trở xuống, giàu sụ và phía kia người dân đói rách.

    Người CS đã thắng trong ý đồ xâm chiếm miền Nam, đã tự hào là mũi xung kích của XHCN, đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế. Người CS đã hãnh diện đánh lại ba thế lực ghê gớm nhất: phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. 1 thành tích quên không nói đến là CS đã thành công trong nỗ lực phá hủy văn hóa, chia rẽ dân tộc, biến VN thành QG tụt hậu chậm tiến nhất thế giới, và chỉ 1 thời gian ngắn, đưa cả miền Nam vào các trại tù dựng lên khắp nước. Trong số tù nhân có Tr/u Đỗ Lệnh Dũng, trưởng ban 3 chi khu Đôn Luân, kẻ đã lênh đênh khắp các trại tù từ Bắc chí Nam suốt gần 10 năm trời.

    Đã có bao nhiêu người bỏ mạng trên con đường mang tên ông HCM? Câu hỏi này không có câu trả lời giống như câu hỏi đã có bao nhiêu người chết trong chiến tranh do ông Hồ khởi xướng. HN chỉ nói đến vinh quang, đến thành tích và giấu biệt những thống kê không cần thiết. Tiêu chuẩn "đi ba đến 1" đôi khi không đạt đến vì bom đạn, vì bệnh tật. Những thanh thiếu niên miền Bắc không bao giờ được biết những gì chờ đợi họ trên đường đi Nam ngoài những hình ảnh hào hùng thần thánh. Khi đi từ đèo Mụ Già ở đầu cực Bắc bắt đầu cuộc trường chinh mỗi người được phát 1 ký đường Cuba, 1 lọ kí ninh, 1 ít lương khô và được hứa hẹn đi đến trạm là có đủ mọi thứ cần dùng. Họ không bao giờ hình dung nổi cái hung hiểm của núi rừng, của muỗi, của sốt rét, của đói khát. Đấy là chuyện của phía bên kia. Phía bên này, hai trăm con người bị xích từng chùm ba 1, cũng không bao giờ tưởng tượng được những gì đang chờ đợi họ trong những ngày tháng tới.

    Gọi đó là Đường Mòn HCM, gọi là đường Dây Ông Cụ, gọi là Đường Trường Sơn nhưng sự thực đây là 1 hệ thống giao thông chằng chịt như mắt lưới bắt đầu từ Đèo Mụ Già Thanh Hóa ăn dọc theo rặng Trường Sơn, lúc thì băng sông, băng rừng già qua đất Lào, đất Miên, lúc phải lội núi ngút ngàn. Theo ước tính tổng cộng hệ thống giao thông này kể cả các nhánh và phụ lưu dài trên 5000 cây số. Có đoạn đường rộng như quốc lộ xe có thể tránh nhau, có đoạn hiểm hóc chỉ 1 người men theo được, 1 bên là vách núi dựng đứng 1 bên là vực sâu ngút ngàn.

    Th/u Nguyễn Bá Quyền xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt được đào luyện chu đáo hơn cái thứ lính bị động viên, thứ lính trừ bị như tôi nên có 1 kiến thức rộng và vững chắc về cuộc chiến. trong khi chờ ở khu rừng thưa để sửa soạn lên đường ông đã tỉ tê kể về con đường sắp tới cho tụi tôi nghe. Nó hiện hữu từ cuộc chiến tranh Việt Pháp. Ông Quyền hỏi tôi có biết bài thơ Tây Tiến không? Tất nhiên là không. Ông lẩm nhẩm đọc: "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống.." Đọc xong ông bảo tiểu đoàn Tây Tiến sở dĩ cạo trọc đầu không phải là để "nêu quyết tâm" mà chẳng qua đa số bị sốt rét rụng hết tóc nên ông Quang Dũng mới viết "Tây tiến đoàn quân không mọc tóc ". Đến đây thì tôi biết biết 1 chút vì có nghe bài Đôi Mắt Người Sơn Tây và lần nào nghe Thái Thanh hát bài này tôi cũng có cái cảm giác tê tê lạnh lạnh. Ông Th/u Quyền cười cười bảo "Khi ông Quang Dũng viết: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy. Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Chẳng qua là để mô tả bộ đội anh hùng vượt Trường Sơn sang Lào chết như sung rụng."

    Tôi nói:

    - Thơ ông Quang Dũng hay thật. Thế sau này có bài thơ nào về đường mòn nữa không?

    - Theo chỗ tôi biết thì không. Bài Tây Tiến được sáng tác từ đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp, lúc đó tinh thần kháng chiến hừng hực và CS chưa lộ diện 1 trăm %. Nghe nói sau này ông Quang Dũng bị phê là tiểu tư sản, là ủy mị và đội lên đầu cả chục thứ tội khác vì bài thơ Tây Tiến. Bây giờ là khẩu hiệu, là vè làm gì có thơ. Thơ muốn hay phải có tự do ông ơi.

    Đó là bài học vỡ lòng của tôi về con đường mòn nổi tiếng này. Ông Quyền bảo khi quyết định mở cuộc xâm lăng Miền Nam, HN có hai việc phải làm cho bằng được. 1 là lập ra Mặt Trận GP Miền Nam, hai là mở lại đường xâm nhập. Vào tháng 5 năm 1959. HN tung toán tiền thám đầu tiên lần mò tìm cách nối lại con đường mòn đã hiện hữu từ cuộc chiến tranh Việt Pháp. Chính vì vậy nó còn có tên con Đường 559. Mặt Trận GP ra đời vào khoảng hơn 1 năm sau đó. Đ/u Bình vốn ít nói đã hỏi câu hỏi mà hai đứa tôi chẳng biết phải trả lời thế nào:

    - Đi bộ đường rừng đường núi từ đây ra Bắc mà xích thế này thì làm sao đi và bao giời mới tới?

    Tôi nhớ rất rõ sáng hôm đó chúng tôi bị khua dậy khi trời còn tối, chưa nhìn rõ mặt nhau. Cái lạnh ảm đạm của rừng vẫn trĩu nặng như lôi tôi xuống, như muốn xúi tôi nằm lì ra đó. Nhưng lính và cán bộ BV vừa hối thúc vừa luôn mồm nói: "Nhanh lên không có không kịp". Đây là câu nói chúng tôi sẽ nghe dài dài trên lộ trình đằng đẵng.

    Sợi dây xích khóa chúng tôi lại thành từng chùm ba khiến mọi di động trở thành khó khăn. Từng người 1, chúng tôi chia nhau ra ôm chỗ cái khóa ở giữa để nâng ba sợi xích lên mới có thể nhích lên được. Nói thì giản dị như vậy nhưng thực tế cho thấy không dễ dàng. Tôi xung phong đầu tiên nhưng chỉ độ nửa tiếng sau là cánh tay như muốn rụng xuống. Rồi đến ông Quyền, ông Bình nhưng cũng không hơn gì tôi.

    Nhiều giải pháp đã được áp dụng trong đó hữu hiệu nhất là tìm cách đeo cái khóa lên bằng 1 sợi dây choàng qua vai. Nhưng giây ở đâu ra bây giờ? Ông Quyền xoắn cái tấm ni lông lại luồn xuống phía dưới chỗ khóa, sau đó buộc vòng qua cổ. Cái xích sắt thòng lọng buộc cuộc đời chúng tôi lại 1 cách rất hiện thực. 3 đứa tôi không rời nhau quá 3 thước. Khi ăn, khi ngủ, khi đi, khi đứng. Lúc ốm lúc đau và cả lúc đi cầu ! Đừng nghĩ đến lì mặc cho sợi xích kéo lê trên mặt đất. Thứ nhất là đi rất khó khăn. thứ nhì là nếu sợi xích vướng vào đá, vướng vào gốc cây thì có khi cả 3 người ngã chỏng gọng. Đấy là trong thời tiết lý tưởng, khô ráo. Nếu lại bị mưa dầm, lỡ bước vào quãng bùn lầy thì chỉ có nước khóc. Tóm lại cái óc sáng tạo của người CS quả đã đạt tới mức tận cùng. với cảnh xích chùm 3, lũ tù chúng tôi không 1 ai nghĩ tới chuyện trốn.

    Vì bị xích chùm như nô lệ thời trung cổ, chúng tôi không thể đi nhanh được. Hệ thống "xa lộ" chằng chịt này đã được bố trí rất hợp lý. Chúng tôi nghiệm ra rằng cứ đi đúng 1 ngày đường là thế nào cũng đến trạm hoặc 1 nơi có thể nghỉ ngơi, có nguồn nước để nấu nướng. Mãi đến khi vượt hết đường mòn tôi mới rõ là trên con đường có cả 1 đội ngũ giao liên phục vụ và nói theo ngôn ngữ văn minh mà chúng tôi đang làm quen, họ là "chuyên ngành". Mỗi người giao liên chỉ biết rõ khúc đường mình phụ trách từ trạm này đến trạm khác, biết rõ từ gốc cây đến hòn đá, biết rõ là nếu trời mưa thì nên đi kiểu nào, trời nắng ráo thì đi kiểu nào. Tôi đã có lần nói chuyện với 1 người giao liên trong dịp khi khuân gạo ở hầm. Điều anh ta thuật lại làm tôi rùng mình. Trông không thể đoán tuổi nhưng sau 1 lúc anh ta xưng "em" thì tôi biết anh ta còn trẻ lắm - mới có 24. Bằng xung phong vào bộ đội GP lúc 18 tuổi nhưng trên con đường sinh Bắc tử Nam. Bằng không chết mà chỉ bị ốm, bị sốt rét, kiết lỵ và có thể cả chục thứ bệnh khác. Không hiểu sao và nhờ đâu, Bằng vẫn sống và khoẻ trở lại nhưng đã lậm quá sâu trên đường dây không thể trở về Bắc được. Khi nằm dưỡng bệnh ở trạm, Bằng đã trở thành giao liên và ở lì đó suốt 6 năm, ngày ngày lo dẫn đường từ trạm này chuyển sang trạm kế, đi đi về về suốt từ lúc khỏi bệnh tới giờ này. Ngồi bên bờ suối, Bằng bảo:

    - Các anh là đoàn tù lớn nhất từ trước tới nay qua trạm này. Trước cũng có nhưng chỉ độ ba bốn anh. Tương đối chừng hơn 1 năm an ninh nhiều hơn chứ trước đây..

    Bằng ngồi trên tảng đá thõng chân xuống dòng suối nhìn tụi tôi tồng ngồng tắm rửa. Được tháo xích để đi khuân vác và sau đó được tắm rửa là 1 hạnh phúc vô bờ. Nhưng khi nhìn Bằng tôi thấy 1 nỗi buồn vô cớ tràn đầy. Người thanh niên HN hai mươi bốn tuổi đó tóc trắng như bông, khuôn mặt gầy guộc đã dấn thân vì những lý tưởng được tô vẽ hào nhoáng để rồi trở thành giao liên, suốt sáu năm trường chỉ biết có mỗi khúc đường rừng heo hút giữa Trường Sơn. Bằng đăm chiêu nhìn mấy đứa tôi bỗng thở dài: - Thà như các anh, đời cũng còn có lúc được sung sướng, ăn ngon mặc đẹp, gần bố mẹ anh em..

    Tôi hỏi: - Anh nói bây giờ an ninh?

    - Chứ gì nữa. Mấy năm trước căng lắm. Bom Mỹ thả bom ngày đêm, lại còn pháo từ Đệ Thất Hạm Đội. Nhiều lúc đang đi thì nổ sập trời, chết như rạ. B52 bay cao tít mù tất có nghe có thấy gì đâu mà lo nấp lo trốn. Các anh có biết bom tinh khôn không?

    Ông Quyền buộc miệng:- Hàng rào McNamara. Smart Bomb.

    - Anh nói gì?

    - Không thế bây giờ an ninh hơn nhiều?

    - Từ ngày có hiệp định Paris và tụi Mỹ lo rút chạy, không có B52, phi pháo gì nữa.

    Đây có lẽ là lần duy nhất tôi được nói chuyện cởi mở với 1 người đích thực của Trường Sơn, phải nói là rất cởi mở, nhất là so với ông Láng Trưởng điên khùng trước đây. Nội qui của tù binh rất nhiều điều trong đó cấm liên hệ với bộ đội. Ngược lại chắc họ cũng bị nghiêm cấm, không được "linh tinh" với chúng tôi. Tù binh đi ở giữa, chia ra độ vài chùm lại có vài bộ đội đi xen kẽ vào. Dẫn đầu phía trước có lẽ là BCH bộ phận áp giải, đoàn hậu phía sau là bộ phận bảo vệ. Chúng tôi không rõ quân số của hai toán này nhưng xem ra khá hùng hậu, có thể lấn quân số tù. Phía BCH hầu như không bao giờ tiếp xúc với tù và những người lính bảo vệ thì chỉ là kẻ bàng quang kháo nhau "đi xem tù" vào những lúc nghỉ ở trạm. Thông thường, tù được tập trung biệt lập cách chỗ đóng quân của lính BV 1 quãng và lúc nào chúng tôi cũng ở những bãi trống chắc để dễ bề kiểm soát. Thỉnh thoảng vào những buổi chiều khi trời còn sáng, tù nằm ngồi la liệt trên bãi đất, bãi cỏ thì bộ đội BV ngồi chồm hổm phía xa chung quanh chỉ trỏ. Ông Quyền bảo tôi: "Ha, tụi mình giống như khỉ trong sở thú đang làm trò cho bọn ngợm xem." Và những lúc như vậy Quyền lại gân cổ lên hát vọng cổ: "Em hai ôi, anh có tội tình chi mà phải đọa.. đày.." Không ngờ 1 sĩ quan trẻ tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt mà lại thuộc và hát vọng cổ hay như vậy. Những người lính ngồi chồm hổm phía ngoài đôi khi nổi hứng quăng thuốc lá cho tụi tôi và có lần 1 người xông xáo vào giữa đám tù vừa đi vừa chìa bao thuốc quăn queo mời. Anh ta nghênh ngang vừa đi vừa nói: "Sợ đéo gì. Kỷ luật thì kỷ luật, ông đéo sợ." Tại sao anh ta dám đưa thuốc lá cho từng người và nghênh ngang thách đố là chuyện khó hiểu.

    Gần gụi với tù nhất là toán đi chen ở giữa. Dần dà tụi tôi hiểu đây là lính BV được hồi hương về Bắc, có thể vì bị thương, có thể vì chiến trận lâu ngày, có thể vì có gốc lớn. Đây là thành phần tò mò nhất, luôn miệng hỏi chúng tôi về đủ thứ linh tinh. Tôi nhớ có 1 anh bộ đội tên Nguyễn Minh Hồ khi biết tôi sinh ở HN than thở: "Quê tôi 1 làng cách HN 20 cây số mà chưa bao giờ biết HN ra sao. Đi thẳng 1 lèo từ làng vào đánh ở Nam độ 7 năm nay mới được phục viên. Bị thương bốn lần, lần nào cũng tưởng chết đến nơi kỳ này về thế nào tôi cũng lên HN chơi 1 lần."

    Tôi nghiệm ra rằng chỉ những người lính Bắc trẻ tuổi mối tìm cách "gần gụi" với tù và hỏi những câu hỏi đôi khi rất ngây thơ. 1 tháng Mỹ nó phát bao nhiêu lương? Nghe nói SG toàn là đĩ điếm phải không? Lính Ngụy thích ăn gan người, hễ bắt được VC là mổ ăn gan tươi phải không? Lính Ngụy đi hành quân toàn lùng gái để hiếp?

    Từ khi bị bắt thỉnh thoảng tôi vẫn để ý thấy có những người lính Bắc đeo tòng teng 1 miếng sắt mỏng ở giây lưng quần. Chỉ đến bây giờ tôi mới rõ công dụng của nó là để nhét trở lại dây cao su của đôi săng đan làm bằng lốp ô tô. Đôi săng đan có cái tên là dép râu vì những phần thừa của những sợi dây cao su khi được nhét xuyên qua phần đế lòi ra như những sợi râu. Dép râu rất khó đi, chỉ cần đạp lên 1 vũng lầy, nhấc lên có khi tuột phăng mất 1 hai sợi. Đạp phải 1 cục đá nhỏ, trật chân là nó cũng tuột. Anh nào vớ phải đôi dép có cái đế dày gặp nhiều rắc rối nhất vì khó nhét sợi dây trở lại. Tù binh chúng tôi vốn quen đi giầy. Khi phải đối phó với những đôi dép nổi tiếng này nên di chuyển rất chậm.

    Bây giờ đang là mùa mưa. Những cơn mưa ở Trường Sơn thật muôn hình muôn vẻ. Trời đang mưa xối xả, mưa như trút, hạt mưa rất to. Nhưng chỉ độ mươi mười lăm phút là tạnh hẳn. Đôi khi trời như 1 cơn bão tới tấp xối xả, kéo dài hàng giờ, khi là những cơn mưa rả rích cả ngày trời. Nhưng không có chuyện nghỉ tránh mưa, mà chúng tôi vẫn phải lầm lì bì bõm tiến tới! Lạnh, ướt, chúng tôi chỉ có 1 miếng ni lông để quấn vào người. Nước mưa thấm áo quần, nước từ đầu từ cổ dòng dòng xuống. Chúng tôi lạnh run lạnh cóng.

    Thiên nhiên không phân biệt đâu là tù, đâu là cán bộ. Ngụy hay bộ đội thì cũng ướt, cũng lạnh như nhau. Trên con đường thiên lý đó chúng tôi đã gặp nhiều đơn vị CS đi ngược đường. Trông họ cũng thảm thương chẳng khác gì tù, chỉ thiếu có cái xích. Trông những toán quân CS lũ lượt và ngang nhiên di chuyển không lén lút, không sợ sệt đó, tôi nhớ đến lời của giao liên Bằng: "Bây giờ an ninh hơn nhiều"

    Khi người Mỹ tung quân ồ ạt vào VN, mục tiêu QS hàng đầu là phải tìm cách chận đứng con đường chuyển quân và tiếp liệu của HN. Toán Mầu tôi từng phục vụ và những đơn vị BK Việt cũng như Mỹ, những toán biên phòng được trang bị hùng hậu cũng chỉ cố chận những con đường xâm nhập này. Nhưng có lẽ được cả thế giới chú ý biết đến là hàng rào điện từ McNamara. Đây là kiểu đánh của HK. Họ thả xuống dọc theo con đường mòn những võ khí. khí cụ điện tử mà cứ theo báo chí tôi được đọc thì hết sức khoa học và tinh vi. Chẳng hạn phi cơ Mỹ thả xuống những trái bom, có gắn thêm những bộ phận "nghe ngóng" hoặc "tầm nhiệt". Bom thả xuống đó nằm im phục kích. Hễ có 1 toán người đi gần, dụng cụ điện tử sẽ phát hiện, trái bom nổ tung. Hoặc nữa các dụng cụ điện tử này sẽ báo lên B52 đang ứng trực trên trời hay các chiến hạm đang chờ ngoài khơi. Khi đọc những bài báo trên tờ Stripes and Stars của QĐ Mỹ về những loại này tôi vẫn có cái cảm tưởng như đọc truyện khoa học giả tưởng. Tôi còn nhớ có 1 bài mô tả lại cảnh phi cơ Mỹ đánh cầu Hàm Rồng. Cây cầu này nằm giữa hai vách núi hẹp nên rất khó oanh tạc, chưa kể đến phòng không có lợi thế phòng thủ vì vách núi cheo leo. Sau nhiều lần Mỹ đã phải xài tới bom Tinh Khôn mới hạ được cầu Hàm Rồng.

    Lê từng bước gập ghềnh trên con đường khét tiếng này, ký ức khiến tôi càng tò mò quan sát. Ít nhất là hai lần trên đường tôi thấy rừng bị sạt, đen thui cả 1 khoảng lớn . Có thể vì lâu ngày nên cái cảnh cây cối ngả nghiêng không còn nữa mà chỉ còn 1 vạt rừng lớn đen thui. B52 trải thảm chăng? Bộ đội BV luôn mồm cảnh cáo chúng tôi phải đi trong hàng, trên đường đã chỉ định vì loạng quạng là có thể chết vì bom mìn của đế quốc Mỹ bỏ lại.

    1 lần khác tôi thấy 1 chiếc võng đan bằng sợi dây dù đứt nát chỉ còn toòng teng 1 khúc phất phơ trước gió. Khi chú ý kỹ thì thấy có 1 chiếc xương đầu lâu và cái xương khác trắng hếu ở dưới đất gần đó. Tôi "báo cáo" với người áp tải thì 1 người bảo: "Các anh thấy chưa vì ngụy quyền SG ngoan cố, vì đế quốc Mỹ ương ngạnh biết bao nhiêu xương máu đã bị phí phạm. "Nhưng mấy hôm sau 1 anh lính Bắc tỉ tê cho hay chuyện bị bỏ rơi, bị lạc trên đường xâm nhập là chuyện thường. Bị bỏ rơi vì ốm, bị thương thường là chỉ có chết dập chết vùi ở giữa rừng núi. Bị lạc hoặc đôi khi mệt quá ngủ quên cũng chỉ có nước chết. Anh lính này nói cho tôi hay khi vừa đặt chân lên đường mòn, họ đã bị cảnh giác về chuyện này vì" không ai có thể lo cho ai được". Đói rét bệnh tật, yếu đuối, lo cho mình chưa xong, còn lo cho ai?

    Khi nghe như vậy tôi và hai ông tù nhìn nhau. Chắc chắn tụi tôi không thể chết cô đơn trên đường mòn vì nay chúng tôi đang bị cột dính lại với nhau.

    Suốt cuộc hành trình ba đứa tôi có cái may là được tháo xích ra 1 lần. Mỗi khi dừng chân, lính canh tù lại gọi độ bốn năm nhóm ra, mở khóa cho họ để đi tạp dịch. Họ sẽ phải lo cơm nước, lo khuân vác .. Tôi nói là may vì chính ra ba người khác được chỉ định nhưng người lính giữ khóa tìm mãi vẫn không thấy chìa khóa đúng để mở xích. Loay hoay 1 hồi không xong, anh ta cáu bèn chỉ ba đứa tụi tôi đang ngồi bên cạnh đó. Hẳn nhiên là cuộc đời tù tội của cả đám mới chỉ bắt đầu, còn mới quá, còn tươi quá. Thứ nữa chúng tôi luôn nhắc nhở nhau rằng dầu sao thì chúng tôi cũng là sĩ quan của QĐ Miền Nam. 1 điểm nữa không ai nói ra nhưng nó bàng bạc trong cái nhìn, cách xử sự của lính canh và tù. Chúng tôi thấy rõ cái cách biệt giữa chúng tôi và những người lính Bắc về đủ mọi phương diện. Tuổi tác cũng có. Kiến thức cũng có. Ngồi rỉ rả, ông Quyền vẫn bực bội vì sao mình thua còn ông Bình thì lắc đầu tội nghiệp cho bộ đội, cho những người trẻ tuổi miền Bắc bị ném không thương tiếc vào cuộc chiến. Ngược lại lính BV lúc nào cũng nhìn chúng tôi bằng cặp mắt e dè, và hễ sểnh ra là họ tìm cách thân cận với chúng tôi. Tò mò chăng? Tôi chỉ nghĩ họ cố tìm hiểu để so sánh cuộc sống hai miền Nam Bắc. Thế thôi.

    Chính vì những điểm trên, tù chúng tôi khá kỷ luật, không kèn cựa mà còn lo lắng, bảo vệ nhau. Khi ba người bạn bị xích không mở được, họ nhìn tui tôi cười: "Ê bon chen được gì nhớ chia nhe." Ông Quyền vui tính "yên tâm ông thầy".

    Lần đó chúng tôi nghỉ ở trạm lớn. Ba đứa tụi tôi được lệnh đi theo 1 người lính độ khoảng 1 trăm thước thì họ bịt mắt chúng tôi lại rồi mới dẫn đi tiếp. Mò mẫm leo dốc 1 khoảng thì chúng tôi được dắt đi xuống 1 cầu thang. Khi được mở khăn bịt mắt ra, tụi tôi thấy đang ở trong 1 căn hầm tranh tối tranh sáng tù mù. Hầm có nhiều ngách hàng ngang dãy dọc là kệ gỗ lớn chất những bao gạo. Tụi tôi hiểu ngay đây là hầm chứa lương thực nhưng không ngờ nó lại lớn đến như vậy. Cái bất ngờ nữa là thịt, thịt heo muối từng nửa con khá lớn được bọc trong 1 lớp vải thưa treo toòng teng cả 1 gian hầm lớn. Khi khiêng vác được nửa con heo ra khỏi hầm, tôi thấy 1 lô chữ Tầu mầu phẩm xanh hẳn nhiên là thịt heo muối Trung Quốc. Chỉ đến giai đoạn này của cuộc chiến, khi mà người Mỹ đã rút hẳn chân ra và con đường mòn chuyển quân an toàn hơn, QĐ BV mới có thể thiết lập những trạm với hầm lương thực đồ sộ cỡ này hay những nơi như thế đã có từ lâu? Tôi thì thầm với hai ông bạn tù. Đ/u Bình bảo vẫn cứ theo kiểu xây cất thì có lẽ hầm đã được xây cất từ lâu và được tu bổ nhiều lần. Tôi nhớ là đã vất vả lắm ba đứa tôi mới khênh được bốn bao gạo và hai thớt thịt heo muối lên đến mặt đất vì hầm khá sâu. Điều tức cười là đến thì bịt mắt nhưng khi lúc lên khỏi hầm vì phải khuân vác nên họ đành để chúng tôi thành "người trần mắt thịt". Tôi nhìn thấy phía trước có mấy căn nhà thì hiểu bộ phận áp giải tù binh sinh hoạt ở đó. Mãi cho đến về sau khi đã trải mùi tù tôi mới thấm hai chữ sinh hoạt nhưng lúc đó ngay giữa Trường Sơn ngút ngàn, mỗi khi dừng lại, bộ đội Bắc đều phải sinh hoạt. Những lúc đó số lính canh ít hẳn và đôi khi từ chỗ ngồi, chúng tôi có thể thấy lính Bắc ngồi tành từng cụm, thành từng nhóm họp hành. Ông Bình bảo tôi: "Tụi nó kiểm thảo rút ưu khuyết điểm liên miên, chẳng bù với QĐ mình.." Ông bỏ dở câu nói và chúng tôi hiểu rất rõ ông muốn nói gì.

    Trước đây trong QĐ VNCH, chúng tôi ít học tập nhưng nay thì chúng tôi trở thành tổ tam tam, ba người 1, Chia sẻ nhau từng giờ từng phút. Chúng tôi nói với nhau trên đường đi, lúc nghỉ, lúc sáng sớm dậy, lúc đêm khuya. Ông Đ/u Bình trông to con hẳn so với hai đứa tôi nhưng lại là người gục đầu tiên. Đâu cỡ 1 tuần trên con đường hung hiểm này, buổi tối sau khi ăn xong, ông Bình kêu "khó chịu quá, như muốn ói" nửa đêm ông ngồi dậy nôn thốc nôn tháo, gập người xuống ói. tôi và ông Quyền mỗi đứa 1 bên ôm chặt ông, cố giúp ông. Mỗi khi ông ói xong, tụi tôi hai đứa lại dìu ông lê đến 1 chỗ khác vì mùi ói xông lên rất khó chịu. Sau đó ông gần như ngất đi và đến tảng sáng thì ông bắt đầu bị sốt rét.

    Người ông run bần bật như lò xo. Ông co rúm lại thở không ra. Tôi và ông Quyền lấy hai tấm ni lông của mình quấn thêm vào nhưng ông vẫn run, co rúm. Ông Quyền bảo tôi:"Tôi và ông thay phiên nhau ôm ông ấy." Tôi chưa biết đến sốt rét nên rất ngạc nhiên khi thấy cơ thể ông Bình nóng ran trong khi ông vẫn run như cầy sấy. Người ông vã mồ hôi như tắm. Ông Quyền hô hoán và 1 người lính BV cầm đèn pin rọi xuống. Anh ta nhìn chưa đầy 1 phút đã kết luận: "Ối có gì đâu. Sốt rét í mà ". Anh ta quày quả bỏ đi và 1 hồi quay lại đưa cho tụi tôi 1 gói:

    - Ký ninh đấy. Ai mà chả bị sốt rét, bị ngã nước. thường thôi, vài hôm là khỏi ngay ấy mà.

    Đối với lính Bắc thì thường thôi nhưng đối với lính Ngụy thì không có gì là bình thường cả, nhất là chân lại bị xích. Buổi sáng, tôi cố ép ông Bình ăn hết bát cơm. Ông rũ ra như tầu lá ướt, đứng lên là lảo đảo. Nhưng chúng tôi vẫn phải lên đường để vượt 1 đoạn đường tôi nhớ đời vì trước khi khởi hành tù được tập họp lại để nghe huấn thị.

    - Từ đây đến trạm kế, đường dốc hơi nhiều. lệnh trên rất rõ ràng. Các anh phải tuyệt đối kỷ luật, phải rất cẩn thận đừng để ngã, không ai cứu được đâu..

    Để tăng thêm sự chú ý của tù, lính BV chặt chúng tôi thành từng toán nhỏ cỡ độ mười mười lăm người 1, mỗi toán đều có "bảo vệ" đi kèm. Chỉ đâu đó vào quãng gần trưa, chúng tôi bắt đầu tiến và 1 vùng thưa cây, và cây không cao vì địa thế toàn đá. Chúng tôi bất đầu leo dốc, mới đầu là những dốc xoai xoải nhưng đã rất khó đi vì đá răm lởm chởm, hễ trật chân là có thể bị xước, bị cắt chảy máu. Càng lúc càng lên cao tới 1 đoạn chúng tôi bắt đầu đi men theo sườn núi. Lối đi có quãng rất hẹp, gần như chỉ có thể đi men, vừa đi vừa bám vào vách núi đá. Tôi thấy rõ những vết đục lam nham ân sâu vào sườn núi, có lẽ đã được phá bằng xà beng. Những thanh thiếu niên miền Bắc khi tới đoạn này, chắc đã phải vừa đi vừa phá núi bằng xà beng. Hình ảnh của họ thoáng trong trí tưởng tượng làm tôi rùng mình. 1 bên núi dựng ngược, 1 bên là vực thẳm, nhìn xuống chỉ thấy ngút ngàn phía dưới sương mù lẩn khuất nơi đọt cây. May mà trời khô ráo, nếu tới khúc này mà đổ mưa thì hẳn có người chết. Chúng tôi có lúc gần như bò vì dốc ngược quá, chân lại bị xích. Mặt mũi ai cũng phờ ra, ông Bình thì thở phì phò, mặt đỏ gay. Vừa dìu nhau, ông Quyền vừa luôn mồm đùa cợt. Hai đứa tôi đều hiểu chỉ cần 1 chút lơ là, yếu đuối là chúng tôi có thể chết, và chết chùm. Giữa lúc đang cố leo bỗng ông Quyền hỏi:- Ông thày có đọc Hán Sở Tranh Hùng không?

    Đ/u Bình nhăn nhó:

    - Lại giở tích Tầu ra nữa.

    - Ấy, có ông Lý Bạch làm bài Thục Đạo Nam để tôi đọc cho hai ông nghe.

    Và ông đọc thật. Tôi không rõ tích Lưu Bang, Hạng Võ cũng không thuộc lấy 1 câu thơ Đường nhưng nghe ông Quyền đọc thơ trong cảnh này bỗng thấy thấm vô cùng. Lời thơ trúc trắc trúc trặc nghe như vừa đi vừa vấp, vừa trèo vừa thở, câu thì ngắn câu thì dài. Về sau này tôi bắt ông Quyền chép và giảng bài Thục Đạo Nam và tôi đã cố học mãi mà vẫn không sao thuộc hết, cứ thuộc rồi lại quên. Nhưng lúc đó cái giọng đọc của ông và bài thơ khúc khuỷu gió đã giúp ba đứa tôi rất nhiều.

    Y! Hu! Hi! Nguy hồ cao tai!
    Thục địa chí nan, nan ư, hướng thanh thiên
    Tam tùng cập Ngư Phù
    Khai quốc mang nhiên! ..
    Thượng, hữu lục long, hồi nhật chi cao tiêu
    Hạ, hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
    Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
    Viên nhiếu dục độ sầu phan viên ..
    Kỳ hiểm dã nhạc thử
    Ta nghĩ viễn đạo chi nhân
    Hồ vi hồ lai tai

    Đường hiểm trở là như thế, thương thay những kẻ đi đường xa, sao lại léo hánh đến nơi đây.

    Con đường đất Thục có thật ghê gớm hơn cảnh chúng tôi đang trải qua chăng? kẻ đi đường xa của ông Lý Bạch chắc cô đơn lữ thứ, không hề bị xích bằng lòi tói sắt như tụi tôi. Liệu sau cuộc chiến có ông thi sĩ nào nhỏ nước mắt cho những kẻ lao đao trên đường Trường Sơn chăng? Đúng là suy nghĩ dấm dớ như kiểu suy nghĩ này vẫn hay loé trong đầu tôi vào những lúc cùng túng nhất. Nghĩ lại cũng buồn cười.

    Lên đã vậy, đến lúc xuống còn gay go hơn nhiều. 1 cụm tù đã té, ba người ôm chùm nhau lăn lông lốc xuống dốc đá. hai người tù bị sây xát khắp người . Người thứ ba bị gãy 1 chân. họ vẫn không được mở khóa tháo xích. Tôi đã rơm rớm nước mắt nhìn cái cảnh hai người đồng đội dìu người bị què lê từng bước chậm trên con đường sỏi đá, những sợi xích quấn vào nhau nghe leng keng theo từng bước đi chập choạng.

    Giữa lúc đó Đ/u Bình lên cơn sốt rét. Người ông nóng bừng nhưng ông vẫn run như cầy sấy, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Sợ ông cắn vào lưỡi, tôi xé 1 miếng vải cuộn lại bắt ông ngậm chặt giữa hai hàm. Mặt ông đỏ gay, mồ hôi tươm ra, cả người nhũn xuống mềm oặt.

    Tôi 1 bên, ông Quyền 1 bên, hai đứa vừa khiêng vừa dìu ông đi. Ông Quyền đã lớn tiếng báo cáo nhưng tới lui 1 hồi, 1 người có lẽ là cán bộ đến nhìn chúng tôi rồi nói với giọng rất nghiêm trang: - Các anh phải phấn đấu, không có chuyện cả đoàn phải ngừng lại vì 1 anh bị sốt. nếu các anh không quyết tâm, tôi để ba anh ở lại đi sau.

    Đây không phải là lời hăm dọa suông. Chúng tôi đã nghe chính những người lính Bắc còn bị bỏ rơi huống hồ tù Ngụy. Ông Quyền lâu lâu lại pha trò, lâu lâu lại vỗ vỗ vào vai người huynh trưởng thiết giáp như muốn tăng thêm sức cho người ốm. Mỗi lần như vậy, Đ/u Bình lại gật gật cái đầu. cuối cùng cơn sốt rét dịu dần, nhưng ông Bình thì lả đi. Sức khoẻ của tôi - và nhất là ông Quyền - không hiểu từ đâu ra nhưng rốt cuộc chúng tôi cùng lôi được ông Bình đến trạm nghỉ.

    Buổi tối đó tù xôn xao bàn tán. Không phải chỉ có mình ông Bình mà có thêm hai người khác cũng sốt rét, vài người khác bị kiết lỵ và người tù què nữa. Khi cơm nước xong, chúng tôi lại được nghe những lời huấn thị rất rõ ràng của 1 viên cán bộ

    - Đói ăn rau, đau khắc phục. Các anh phải phấn đấu để cùng đi đến nơi an toàn. Các anh phải tự lo cho nhau.

    Viên cán bộ nói dài, nói dai và dùng rất nhiều từ đao to búa lớn, chữ Hán Việt nhưng rốt cuộc cái thông điệp rất rõ ràng. Hễ không đi thì bị bỏ lại giữa rừng. Không đi thì chỉ có chết. Tuy nhiên có hai trường hợp được giải quyết. Họ đồng ý tháo xích cho người bị què để người tù này có thể chống gậy đi 1 mình. Họ đồng ý để chúng tôi làm cáng khiêng 1 người bị kiết lỵ vì sức đã quá kiệt. Anh em mượn 1 cái dao đẽo gọt làm được 1 cây nạng cho anh bạn bị què và cái cáng để khiêng anh bạn bị kiết lỵ. Trông anh như 1 que củi, chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hoắm trên gương mặt gầy guộc. Tóc anh - như đa số tù - dài phủ gáy, râu ria lởm chởm. Anh đi đứng không vững, hễ đứng lên là lảo đảo chắc vì trong người đã hết nước. Người anh xông lên mùi xú uế, quần áo thì bê bết khô cứng. bạn tù đã lấy nhiều tấm ni lông cột chằng cột đụp cuối cùng cũng có được chiếc cáng. Vì tù bị xích chùm nên khi khiêng anh có đến mười hai người, ba người 1 đầu cáng. 1 đám người quần áo tả tơi, đầu tóc rũ rượi bù xù xúm lại khênh 1 người bệnh làm 1 hình ảnh khó xóa nhòa trong trí nhớ. Hai hôm sau thì anh kiệt hẳn, đứt hơi vào quãng giữa trưa. Đoàn tù xôn xao khựng lại nhưng chỉ lát sau là có lệnh đi tiếp, đến trạm mới được "giải quyết". Khi đến chỗ nghỉ, chúng tôi xin mượn xẻng để đào thì bị từ chối và được nói rằng chính họ sẽ giải quyết. Hai người lính BV đã khênh xác anh đi để chôn với lời giải thích: "Chúng tôi sẽ chôn và đánh dấu ngôi mộ để sau này khi hòa bình lập lại CM sẽ thông báo cho gia đình người chết." Anh em ngơ ngác nhìn nhau đầy nghi ngờ nhưng nói năng gì bây giờ. Rất nhanh chỉ 1 lúc sau hai người lính Bắc đẫ đem trả mấy miếng ni lông làm cáng khiến ông Quyền thì thầm:"Tụi nó quăng xác vào rừng cho diều tha quạ mổ rồi, hơi đâu mà đào hố cho mệt xác." Sau biến cố đó mọi người ít nói hẳn đi. Vào buổi tối Đ/u Bình sau cơn sốt quặn người đã nói với tụi tôi bằng 1 giọng rất bình tĩnh:- Tôi chắc không sống sót được để đi đến đất Bắc. Tôi biết tôi không chịu đựng được lâu nữa. Nếu tôi có mệnh hệ nào, và nếu các ông còn sống trở về, nhớ nhắn với vợ con tôi là tôi không hối hận gì, không xấu hổ gì vì đã cầm súng chiến đấu.

    Th/u Quyền nghe lời trối trăn trở nên nghiêm trang hơn: - Tôi và Tr/u Dũng sẽ không bao giờ bỏ rơi Đ/u. Nếu phải 1 mình cõng hai ông đi Bắc tôi cũng cõng. Nếu cần thì ba đứa chôn chung 1 hố.

    Không ai nói gì thêm. Có nói cũng bằng thừa. Trời cuối năm đen thẫm. Ba đứa nằm ngửa nhìn bầu trời thăm thẳm không 1 vì sao, nghĩ đến cái hố vùi nông ở đâu dó giữa Trường Sơn với giải xích vẫn còn lòi trên ngôi mộ tập thể.

    Chúng tôi không hề thiếu ăn. Hình như họ đã tính trước nên khi nào không có trạm nghỉ có gạo có cơm thì sáng hôm sau khởi hành chúng tôi được phát lương khô. So với Ration C Mỹ hoặc gạo sấy của VNCH, Lương khô của Trung Quốc gọn hơn nhiều, đáng nhớ nhất có lẽ là thịt heo chà bông và đậu xanh đóng thành bánh. Thịt chà bông - hoặc như người Bắc gọi là ruốc - của Trung Quốc ngọt lừ, đôi khi hơi ẩm và quá vụn. Bánh đậu xanh được đóng nén lại thành từng thỏi cứng có lẽ vì có trộn thêm vitamin nên mùi lạ nhưng ăn vào rồi uống nước no cả buổi. Đòi hỏi gì nữa. Thân phận tù nhưng chúng tôi vẫn được chia khẩu phần giống như bộ đội anh hùng của XHCN Miền Bắc. Chỉ đến sau này khi thực sự sống đời tù, khi đã thực sự chiu vào xã hội đó, tôi mới hiểu rằng riêng về phương diện ăn uống, chúng tôi được biệt đãi trên đường Trường Sơn. Hay như Đ/u Bình nhận xét họ phải cho tù ăn no, ăn đủ may ra mới đủ sức lê tới đích.

    Nhưng muỗi mòng và vắt thì lại là 1 chuyện khác. Khi thắc mắc tại sao mới đi có hơn 1 tuần mà đã bị sốt rét. Đ/u Bình ngẫm nghĩ rồi thở dài:"Muỗi mòng nó đốt tôi từ hơn ba tháng chứ đâu phải mới đâu" . Muỗi Trường Sơn có con to hai chân sau rất dài. Với cái vốn vạn vật học hồi trung học, tôi biết đó là Anophene chuyên chở vi trùng sốt rét Plasmodium, nhưng con muỗi này đốt không đau như những con muỗi khác - chẳng biết tên là con gì - đốt đau hơn nhiều. Có con muỗi bé tí nhưng đốt nhói cả người và để lại nốt đỏ đôi khi to bằng hạt đậu. Có con nửa giống như con ruồi nhưng nhỏ hơn cũng đáng sợ. Rồi con vắt. Con này đen thui dài cỡ nửa cây tăm có thể búng người tung lên. Mới đầu tù còn la oai oái nhưng rồi ai nấy đều thây kệ vì không có cách gì đối phó cả. Nhìn cánh tay lúc nào cũng mẩn đỏ, tôi nhớ những lọ thuốc xoa chống muỗi của bố mẹ gởi cho. Liệu ông cụ bà cụ có biết tôi đang lê cùm vượt núi? Dung nữa. Giờ này Dung đang làm gì? Những người thân yêu của tôi yên trí tôi đã bỏ mạng trong trận Đồng Xoài.

    Suốt dọc đường tôi không có đầu óc nào để nghĩ ngợi. Thể xác tôi rã rời. Tinh thần còn lại là để đối phó với những gì đang xảy ra. Cái sợi xích sắt oan nghiệt khiến chúng tôi không có lấy 1 phút riêng tư. Khi Đ/u Bình thấy 1 người cùng đơn vị ở SĐ 5, ông muốn đến hỏi han thì cả hai đứa tôi cũng phải ôm xích đi theo và ngồi chầu rìa nghe hai ông bạn cũ hỏi thăm í ới xem ai còn ai mất. Rút kinh nghiệm, chúng tôi đồng ý là ráng cùng tiểu tiện và đại tiện 1 lúc và lo việc quan trọng này vào lúc trời còn sáng. Sở dĩ như vậy vì có lần nửa đêm tôi quặn bụng quá đành lôi hai ông bạn đi ra 1 chỗ khuất. Có lẽ vì mệt mỏi, và buồn ngủ, ba đứa tôi kéo lê sợi xích và nó vướng vào 1 bãi của ông bạn tù nào đó vừa phóng uế từ trước. Suốt đêm đó mùi phân xộc lên thật khó chịu.

    Sốt rét chỉ lên từng cơn và thường là cách nhật. Đ/u Bình sa sút thấy rõ, mắt vàng hẳn và hai má xọp xuống nhưng ông không hề than thở nửa lời. Chúng tôi cứ thế vừa lê vừa bước nhưng rõ ràng chúng tôi di chuyển quá chậm so với dự trù của cán bộ. Họ hối, họ thúc, họ không chửi tụi tôi. Phải chăng có 1 cái gì đó giữa những người lính với nhau - cho dù lính ở hai chiến tuyến đối nghịch - khiến họ còn giữ lời ăn tiếng nói với chúng tôi chăng? Cứ thế chúng tôi lê bước kéo xiềng trên đường rừng núi có lẽ cả tháng trời. Lúc đầu chúng tôi ở Miên, sau đó chúng tôi đến Lào. Ngó lên là trời, ngoảnh sang bên là rừng già, là sườn núi, chúng tôi chỉ còn biết cúi đầu đi tới. Cái đám sĩ quan này đâu còn bản đồ, còn PRC, còn địa bàn gì nữa để mà định vị, tọa độ như trước đây. Nhưng ít nhất có hai lần đoàn tù được hạ trại ở gần bản của người Lào. 1 lần chúng tôi thấy bộ đội BV hí hửng kháo với nhau rằng họ được ăn cơm nếp, khiến Đ/u Bình chép miệng:- Giá mà có cơm nếp chấm muối vừng thì có khi khỏi cả sốt rét.

    Tôi nhớ 1 hôm đám cai tù có vẻ nhộn nhịp hẳn lên, và tù cũng lao xao vì tin sắp rời khỏi đường mòn. Quả nhiên sau 1 buổi sáng gần như toàn đi đường xuống dốc, quang cảnh dần dần xem ra có khác. Rừng thưa hẳn đi và không khí thoáng hơn và thơm hơn, dịu hơn. Đến quá trưa đâu đó vào quãng hai giờ, chúng tôi nhìn thấy đang ở trên quốc lộ số 1. Không nhìn thấy nhưng chúng tôi biết phía tay mặt là biển vì cạnh quốc lộ có rất nhiều rặng phi lao và đụn cát. Đ/u Bình quay sang hỏi ông Quyền: - Ông binh thư làu thông có biết Dãy Phố Buồn Hiu không?

    Ông Quyền cười:- Ông thầy ơi, vụ đó xảy ra từ xưa rồi, chiến tranh Việt Pháp lận. Bây giờ là Đại Lộ Kinh Hoàng. Cả chục ngàn người chết trong vụ rút lui khỏi Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa, ông thày nhớ không?

    Gió từ Lào thổi xuống mang cái lạnh núi rừng đuổi theo tụi tôi. Những cây phi lao như nghiêng về phía biển rung rinh. Quốc lộ không 1 bóng người. Thỉnh thoảng chúng tôi còn thấy 1 chiếc T54 cháy rụi nằm nghiêng bên lộ.. Trong cái âm vang của quá khứ còn tươi rói của cuộc chiến, vẳng đâu đây như có lời thơ của Bà Đoàn Thỉ Điểm: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi. Nay đang là xế chiều, mặt trời đã bị những rặng núi che khuất và những kẻ chinh phu như đám tù Ngụy chúng tôi thì đang thất thểu trên con đường nhựa lỗ chỗ bom đạn.

    Tối hôm đó chúng tôi được dồn vào 1 khoảng trống khá rộng dưới 1 quả đồi. Trời tối rất mau và không trăng nhưng từ phía xa nghe như có tiếng sóng biển vọng về. Lâu lắm cho tới tối nay tôi mới ngủ 1 lèo mà không bật dậy nửa đêm vì muỗi mòng Trường Sơn.

    Chúng tôi bị khua dậy đâu cỡ hai ba giờ sáng. Trời lạnh vô cùng và những cơn gió như luồn vào trong da thịt, thấu đến tận xương tủy. Trời còn tối nhưng chúng tôi vẫn phải mò mẫm để lên đường. Quốc lộ 1 vẫn còn nguyên tuy thỉnh thoảng mặt đường bị cầy lên có lẽ vì xe tăng thiết giáp hoặc lõm xuống vì bom đạn. Phía bên ngoài toàn là đụn cát và phi lao nhưng phía trái bắt đầu có ruộng ngập nước. Mùa gặt hình như đã qua vì chỉ thấy những gốc rạ bị cắt còn nhô lên.

    Lầm lũi như những con ma chơi, đoàn tù di chuyển chậm chạp trên quốc lộ cho đến lúc rạng sáng hẳn, khi vài tia nắng loé lên từ phía đông thì sự sống mới xuất hiện. Tiếng động cơ quen thuộc nghe rõ dần và đó là 1 chiếc xe lam ba bánh. Xe đầy người, có hai người gần như đánh đu ở phía sau. Những người nông dân này đi đâu? Hẳn chỉ ít lâu trước đây họ là Ngụy dân nhưng trong cảnh tranh tối tranh sáng này, họ nhìn và nghĩ gì về những người lớn chúng tôi? Ông Quyền thì thào hát nhỏ: "Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu. Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu.. Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào, quỳ hôn đất thân yêu.."

    Thành phố Quảng Trị thân yêu hẳn nằm đâu đó gần đây nhưng dân thì không thấy. Họ đâu rồi? vào quãng trưa trời bắt đầu mưa nhỏ hạt, loại mưa phùn. Những hạt nước li ti như bụi đọng vào quần áo, vào râu tóc và dần dần thấm vào da vào thịt khiến ai nấy lạnh run.

    Tôi và ông Quyền lo đỡ Đ/u Bình lẹt đẹt ở phía sau đoàn người thì nghe ở phía trước lao xao:- Bến Hải. Bến Hải.

    Đ/u Bình lúc nào cũng nhỏ nhẹ, nói:

    - Vậy là mình sắp đặt chân lên đất Bắc.

    Suốt đời tôi, tôi chỉ có quanh quẩn ở vùng 3 chiến thuật và nơi xa SG nhất mà tôi từng đặt chân tới là Đà Lạt và Nha Trang. Những địa danh như Đà Nẵng, Huế, nay xa hơn Tam Kỳ Quảng Trị là những ý niệm mù mờ, những hình ảnh của phim thời sự, của báo chí, của những người dân lễ mễ chạy loạn. Hiệp định Genève 1954 đã chặt VN làm hai khúc ở vĩ tuyến 17 và đẩy tôi xa HN từ tấm bé. Tôi chỉ biết Bến Hải qua 1 bài hát được nghe hoài hủy trên radio: "Đây Bến Hải là nơi chia cách đôi..Những ai lạc hướng mau quay về đây..".

    Hồi mới lớn tôi nghe đã có nhiều người vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải. Nhưng không hiểu vì sao lòng tôi rộn hẳn lên, cùng với hai ông Quyền và Bình bước có vẻ nhanh hơn. Bầu trời trong cơn mưa phùn mờ mờ ảo ảo tạo 1 không khí như có như không, như mơ như thật. Ông Quyền reo lên:- Cái cột cờ kìa!

    Chúng tôi vẫn còn đang ở phía Nam của vĩ tuyến Ngày Xưa - ngày xưa của thời tổng thống Ngô Đình Diệm có 1 vùng được gọi là Phi QS ở ngay vĩ tuyến 17 được ghi trong hiệp định Genève. Chúng tôi không được đánh nhau bằng súng đạn bằng xe tăng đại pháo thì chúng tôi đánh nhau bằng mồm. hai bên bờ của sông Bến Hải, mỗi bên bắt loa và thi nhau phát thanh. Mỗi bên cố dựng cột cờ cao hơn bên kia. Không rõ cái cột cờ ông Quyền chỉ trỏ có phải là cột cờ còn lại từ xửa từ xưa chăng? Bom đạn suốt baonhiêu năm liệu có đứng vững đến giờ này chăng?

    Cột cờ khá cao và lá cờ đỏ sao vàng rủ xuống ảm đạm trong cơn mưa trông thật buồn. Khi bước chân lên chiếc cầu sắt nay đã long lở, đã được hàn gắn đôi chút bằng bằng những tấm bửng sắt có lỗ, loại thấy nhan nhản ở các phi trường QS lòng tôi bâng khuâng. Cái tên nghe thật hiền, nghe như muốn gợi lên lòng yêu thương đó là chứng tích của bao nhiêu đổ vỡ. Đang đi trên cầu, Đ/u Bình nhỏ nhẹ:- Các ông đang đi trên lịch sử. Nhớ để mai mốt nếu còn sống về kể cho con cháu nghe.

    Chỉ có điều đáng tiếc là ông Đ/u Thiết Giáp đã không có dịp thực hiện cái mơ ước nhỏ nhoi đó.

    Tôi đứng giữa cầu ngoảnh lại nhìn về phía Nam. Giã từ nửa mảnh giang sơn đã ấp ủ tôi, nuôi nấng tôi. Giã từ Dung bởi trong đáy lòng tôi, tôi biết kiếp này khó gặp lại nhau. Tôi thấy nước mắt mình tự nhiên trào ra và trong cái cảnh mưa phùn gió bấc này, hai người bạn có chú ý thì cũng chẳng thể thấy đâu là nước mắt, đâu là nước mưa. Hay trời cũng đang khóc cùng tôi.

    Đi qua khỏi cầu Hiền Lương, chúng tôi nhìn rõ cái cột cờ của phía Bắc. Nó cao hơn thật và lá cờ lớn hơn nhiều nhưng cũng như lá cờ phía Nam, nó đang rủ xuống thành dải trong cơn mưa phùn.

    Quang cảnh đìu hiu tê lạnh của đất Bắc khiến đoàn tù như chùng xuống. Nỗi hớn hở được đặt chân lên phần đất đã bị cắt lìa của quê hương chỉ thoáng lên trong chốc lát và sau đó là tò mò quan sát. Đường đi vốn tráng nhựa nhưng nay đã lở lói, nhiều khúc bị sạt đi, không thấy đá xanh lót và lớp nhựa đã long đi đâu mất.

    1 đoàn xe công voa nhà binh chở đầy lính đi ngược về phía Nam. Vài người bộ đội nhô ra khỏi xe. Dăm ba tiếng Ê, A vang lên cùng với vài cánh tay đưa ra vẫy vẫy. Chiến trường miền Nam đang cần thêm các tay súng. Nhưng làm tôi sững sờ nhất là hình ảnh của ba người dân XHCN Miền Bắc chúng tôi gặp lần đầu. Hai người đẩy 1 người kéo, họ đẩy 1 chiếc xe - mà sau này tôi mới biết là xe cải tiến - chất đầy những bó củi. Họ mặc áo tơi lá, nón đội sụp xuống và chân đi đất. Họ cong người trong cơn mưa đẩy chiếc xe khiến tôi như bị lôi trở về quá khứ của bao nhiêu năm về trước. Tôi nhắm mắt lại nhớ đến bố tôi ngồi với lũ con kể chuyện miền Bắc dưới thời Pháp thuộc. Tôi là đứa lớn nhất trong nhà và có loáng thoáng trong đầu những kỷ niệm của HN và cũng đã đủ lớn để hiểu bố chỉ muốn những đứa con hiểu cảnh đọa đày của người dân khi sống dưới ách đô hộ của người Pháp. 1 cách gián tiếp bố tôi cố nuôi dưỡng tinh thần yêu nước trong cái đầu óc non nớt của lũ chúng tôi. Những hình ảnh của bố cố vẽ ra nay đang sờ sờ trước mắt tôi. Nó hiện thực đến quặn lòng và tôi nhớ đến chiếc xe lam ba bánh ở phía bên kia bờ Nam. Bao lâu nữa thì những người dân miền Nam sẽ biết đến xe cải tiến?

    Đêm đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi được dồn vào 1 căn nhà khá lớn ở ven 1 ngôi làng nhưng không hề thấy 1 người dân nào cả. Tôi nghĩ là họ cố tình không để cho dân nhìn thấy chúng tôi chăng. 1 phần khác nữa trời vẫn cứ mưa rả rích không ngớt hột, lũ tù loi ngoi lóp ngóp, quần áo ướt sũng ngồi chịu trận cho đến sáng thì có xe tới. Tôi đếm tổng cộng tám nhưng chúng tôi chỉ được dành cho có ba chiếc. So với lúc đầu thì xem ra rộng rãi chán, có lẽ vì chúng tôi đã quen với xiềng xích và cũng có thể do bớt đồ đạc lỉnh kỉnh hay cũng có thể vì chúng tôi đã gầy đi chăng?

    Xe dù chạy trên quốc lộ nhưng khá chậm vì nhiều ổ gà và đôi chỗ khi gặp sông phải đi phà. Cầu đa số bị bom Mỹ đánh sập từ lâu. Suốt dọc đường chúng tôi gặp toàn xe nhà binh chở lính đi ngược chiều và không hề thấy 1 chiếc xe dân sự nào, kiểu xe đò của miền Nam. Lắc lư suốt cho đến gần nửa đêm đoàn xe rẽ vào thị trấn Vinh, tù được đi xe lửa. Họ tránh không để chúng tôi lên xe ngay tại ga mà lùa tù vào ba toa ở 1 chỗ trống khá vắng vẻ. Trong đêm, những toa xe thẫm mầu lù lù đầy đe dọa và khi đã ở trong toa mùi khai nồng nặc. Toa xe hẹp vì đường rầy vẫn là loại 80 centimètre hồi tiền chiến nhưng có ghế hẳn hoi, dù là ghế gỗ. Tù ngồi thoải mái không phải chen chúc như khi di chuyển bằng xe Molotova

    Chạy được độ nửa tiếng thì đậu lại ở Vinh. Toa chở tù nằm ở cuối đoàn tầu như từ cửa sổ chúng tôi thấy cảnh chen lấn xô đẩy của đám đông lố nhố với quang gánh, hòm xiểng. Đa số đều đội mũ hay đội nón và tiếng gọi, tiếng chửi vang lên rõ mồn 1. Đón khách ở Vinh độ hơn 1 giờ sau, tầu lại lăn bánh.

    Ngoài kia trời bắt đầu hửng nắng. Những tia nắng từ phía đông soi nghiêng xuyên qua cửa kính mờ đục. Tôi nhìn bạn bè tôi ủ rũ, hốc hác sau hơn hai ngày bị nhồi xóc, ai nấy bơ phờ, ngủ gà ngủ gật, chẳng còn hơi sức nào để mà quan sát đất Bắc hay bàn tán gì nữa. Xe lửa thỉnh thoảng lại hú còi và mỗi lần như vậy tôi để ý thấy xe đi qua xóm làng hay thị trấn gì đó. Nhà cửa đa số lợp tranh, lợp lá và đôi khi lợp tôn nhưng thấp lụp xụp.

    Đây là xe tốc hành vì chúng tôi chỉ thấy ngưng 1 lần ở Hải Phòng. Cũng như ở Vinh, bộ đội đứng chặn ở ba toa cuối không để dân chúng đến gần. Có ai trong đám dân lao xao ở ga biết ba toa cuối chở toàn lính Ngụy?

    Khi tầu sắp chuyển bánh, 1 viên cán bộ sắp xuất hiện:

    - Chúng tôi đã cố tránh không để các anh lộ diện vì e ngại phản ứng của dân chúng. Các anh là những tội đồ, các anh đã phản bội tổ quốc, các anh là tay sai của đế quốc..

    Anh ta nói thao thao nhưng gọn lại nếu dân đất XHCN nhìn thấy là chúng tôi lãnh đủ. Viên cán bộ không nói trắng ra nhưng có thể dân chúng sẽ xông vào đánh đập, ném đá và có thể xé xác lính Ngụy. Lòng căm thù của quần chúng đối với lính Ngụy khiến Đảng phải tìm cách bố trí cho họ không nhìn thấy chúng tôi. Nhưng như lời viên cán bộ, chúng tôi sẽ phải chuyển xe ở HN và dân chúng HN đã biết đang tụ tập, mít tinh ở ga Hàng Cỏ chờ đợi. Tù nhìn nhau không nói năng gì, nhưng tận đáy lòng, niềm lo sợ khiến ai nấy đăm chiêu. Hình ảnh của phi công Mỹ bị trói giật cánh khuỷu, bị dẫn đi diễu giữa phố phường HN làm tôi lạnh gáy. Viên cán bộ hạ lời cuối:

    - Các anh liệu thần hồn..

    Thủa nhỏ tôi ở HN nhưng chưa bao giờ đến ga Hàng Cỏ vì bố mẹ tôi bảo chỗ đó toàn du côn du kề, toàn là thứ trèo me trèo sấu, du thủ du thực. Đám con nít tụi tôi đều xanh lè mắt khi nhắc đến du côn Hàng Cỏ. Do đó tôi không biết ga này có khác xưa không. Khi tầu đậu lại, cả 1 rừng người tụ tập. Rất nhiều lính áo vàng nón cối dép râu đeo AK mà mài đến sau này tôi mới biết đó không phải là lính mà là CA. Họ đứng thành hai ba lớp chặn ngang đám đông lố nhố. Rất nhiều biểu ngữ hoan hô đả đảo và điều làm tôi ngạc nhiên là hình ông Hồ, rất nhiều, được trương lên trong đám đông. Ít nhất tôi cũng đã đủ lớn để nhìn thấy trong các cuộc biểu tình nhưng dù dưới thời Vua Bảo Đại, thời Ngô Tổng Thống và sau này các ông Thiệu - Kỳ - chưa bao giờ tôi thấy hình ảnh của họ được xuất hiện như hình ông HCM. Tôi huých ông Quyền: - Nó bảo cuộc mít tinh tự phát, dân chúng đến tự ý "dàn chào" tụi mình..

    Ông Quyền tủm tỉm cười: - Ối ông ơi, nói gì kệ nó. Ông ráng lấy tay mà che đầu. Đá xanh trúng là bể gáo.

    Rồi cũng đến lúc phải đương đầu với thực trạng. Tù được dẫn xuống để đổi toa. Những tiếng hò hét được điều khiển bởi hai cái loa vang lên vang rền. Dăm ba viên đá ném về phía tụi tôi nhưng có lẽ vì xa quá nên không trúng. Tôi căng mắt nhìn người dân HN. Đa số đều mặc áo xám tro. Mấy em nhỏ co ro vì lạnh ngồi xổm ở hàng đầu chỉ trỏ cười nói. Tôi nhìn lại anh em đồng đội. Họ như người rừng, rũ rượi tả tơi xơ xác - hoặc như lời diễu cợt của ông Quyền "Trông chúng mình không giống con giáp nào". Những người đứng phía dưới đường kia nhìn tụi tôi dám nghĩ là những đứa kỳ dị hình dị dạng này đúng là hình ảnh tiêu biểu của QĐ VNCH - Của Ngụy quân, những tên lính chuyên moi gan người ăn sống và cắt tai VC xâu thành chuỗi đeo ở cổ. Họ có thể nghĩ như vậy lắm chứ. Công cuộc chuyển tầu ở ga Hàng Cỏ nếu làm nhanh gọn có lẽ chỉ kéo dài độ 1 giờ nhưng đã được tính toán để trở thành dềnh dàng hơn, để dân HN có dịp nhìn kỹ hơn lũ Ngụy ác ôn tụi tôi. Nói gì thì nói, chúng tôi không ai bị trúng đá xanh hoặc bị con nít dùng súng cao su bắn cả. Họ chỉ trỏ cười nói nhiều hơn "lòng căm thù" như lời đe dọa của viên cán bộ không thấy lộ ra.

    Rời HN, chúng tôi xuống xe lửa ở trạm cuối Việt Trì và ở đó may quá dân chúng không tự phát đi tới ga chào đón chúng tôi. Đoàn tù được đưa về 1 nơi tôi thấy đề biển mầu vàng chữ đỏ "Hợp tác xã Quyết Tiến 1". Đó là 1 dãy nhà khá rộng, trống lỏng, chỏng chơ hai cái bàn gỗ dài và 1 lô ghế cũ kỹ đôi cái đã long đinh. Không có nhân viên nào của Hợp tác xã xuất hiện. Nhưng sáng hôm sau trước khi được chất lên xe để đi tiếp thì có chừng hai ba chục người đứng bên lề đường ngó, nhìn tù chỉ trỏ. Tôi nhớ mãi là khi vừa lên xa sắp sửa chạy thì có 1 người tất tưởi chạy tới, vừa đi vừa nói oang oang:

    - Có anh nào ở tiểu đoàn 9 Dù không?

    Anh ta xộc xộc chạy tới bám vào xe hỏi đi hỏi lại:

    - Có anh nào ở tiểu đoàn 9 Dù không?

    Khi biết không có 9 Dù, anh ta toe toét:

    - Mấy bố khiếp lắm, đánh giỏi lắm. Hễ gặp ai ở tiểu đoàn 9 Dù cho thằng này gửi lời hỏi thăm. Mấy bố bắn khiếp.

    1 người lính áp tải đến can thiệp thì anh ta văng tục liền:

    - Địt mẹ, làm đéo gì thế. Ông mày đi B đánh nhau với Dù thừa sống thiếu chết, chưa sợ thằng nào đâu!

    Không hiểu sao tôi vẫn nhớ người bộ đội phục viên đó và câu chuyện bao nhiêu năm trên bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời. Có thể vì cái giọng oang oang hoặc cũng có thể yếu tố bất ngờ của câu chuyện chăng?

    Ì, ạch, lúc nghiêng lúc ngả rồi chúng tôi cũng tới nơi họ muốn chúng tôi tới. Lúc đó vào quãng xế trưa nhưng cuộc đời tù tội của tôi mới chỉ ở cửa trại.

    Họ bắt đầu mở khóa tháo xiềng cho tù và công việc chính ra dễ dàng bỗng trở nên vô cùng lỉnh kỉnh. Như đã mô tả, khóa được thu mua từ nhiều nguồn khác nhau, cái lớn cái nhỏ, cái mỏng cái dày, không cái nào giống cái nào. Những cái khóa đó sau 1 thời gian mưa gió dãi dầu nay đã có cái gỉ sét, có cái lỗ khóa tắc tịt vì bùn đất. Ngay cả khi tìm đúng cái chìa thì mở được khóa cũng khá gay go. Đôi khi có chùm tù phải tự loay hoay để cố tìm cho đúng cái chìa định mệnh. Kết quả là có sáu chùm không mở khóa được.

    Phải đến hai ngày sau trại mới triệu được 1 ông thợ rèn đến chặt mấy sợi xích oan nghiệt để GP cho họ.

    Tù được sắp thành hàng ngang đối diện với 1 dãy bàn trên đó từng chồng quần áo màu đỏ. Từng người 1 tiến tới và được lệnh cởi hết quần áo. Trần truồng, tồng ngồng tù trút bỏ lớp nhung y cũ kỹ sương gió của miền Nam, của núi rừng để tròng vào người bộ quần áo màu đỏ. Ông Đ/u thiết giáp Bình nay không còn dây mơ dễ má gì với ông Th/u Quyền và Tr/u Dũng nhưng vẫn đứng sát tụi tôi nhỏ nhẹ:- Chính ra tụi nó phải xịt DDT mới đúng sách vở.

    Chỉ có điều chúng tôi không biết là thân phận tù binh trong Đệ Nhị Thế Chiến mà chúng tôi thỉnh thoảng được thấy trên màn ảnh Ciné không thể so với tù binh dưới XHCN được. Mục tiêu lớn nhất của vụ vứt bỏ quần áo không phải là sợ sốt chấy rận, không phải vì vấn đề vệ sinh. Những cái đó ăn thua quái gì. Vấn đề chủ yếu là an ninh, là không để bất cứ tù nhân nào có dịp giấu giếm bất cứ thứ gì trước khi nhập trại. Tôi nhớ đến lượt tôi trong bộ quần áo thủa lọt lòng mẹ đưa tay ra thì có tiếng hô hai tiếng:- Đỗ Lệnh Dũng H6347.

    Đó là số tù của tôi. Tôi lẩm nhẩm "số b" và ngạc nhiên với chính tôi. Hỡi ơi trong cảnh này sao tôi lại nghĩ như vậy hay linh tính cho thấy cuộc đời tù tội của tôi đã xui ngay từ ngoài cửa trại tù với con số bù 6347 và cái chữ H có thể đọc là Hốc Hác, là Hỏng, là Hết ?

    Dẫu sao thì xem ra nay tôi cũng giàu có hơn khi nằm trong cái hố giữa chiến khu D vì tôi đã được hữu sản hóa với hai bộ quần áo màu đỏ có in số ở sau lưng, 1 manh chiếu cói và 1 cái chăn. Với cái gia tài đồ sộ đó tôi bước vào 1 cuộc đời khác.

    Thế là tôi đã đổi xác thêm 1 lần nữa. Lần trước tôi đã trút bỏ bộ quần áo thư sinh để trồng vào người bộ đồ trận ba lô mũ sắt, để từ anh SV Luật mơ mộng thành người lính dầu sương dãi gió trong mười năm chinh chiến. Nay 1 lần nữa tôi lại trồng vào người bộ quần áo có chữ ở sau lưng để bước vào 1 quãng đời khác dài không kém. Cuộc đời tù tội.

    Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu, chung quanh la liệt những nẹp nứa và ở góc phòng 1 lô rổ đã đan xong, nhưng chưa có cạp. Ánh nắng quái vàng lọt chiếu qua khung cửa tạo thành 1 vệt trên nền đất. Ông ngồi yên, ngước nhìn tôi đang ở thế chào kính, mỉm cười độ lượng.

    - Anh không cần giữ quân phong quân kỷ nữa. Bây giờ chúng ta cùng là tù binh cả. Nội qui trại nói rõ mọi người đều gọi nhau bằng anh, không có chuyện cấp trưởng, không có chuyện Lữ Đoàn Trưởng, SĐ Trưởng, tá tiếc gì nữa. Anh ngồi xuống đi.

    Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là tù binh cao cấp nhất đã bị bắt khi ông bị thương ở chân và BCH của Lữ Đoàn bị tràn ngập ở Nam Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Tôi lúng túng không biết nói năng gì với 1 vị sĩ quan của binh chủng tinh nhuệ nhất miền Nam. Ông và toàn BCH trong đó có Trung Tá Trần Văn Bé, Trưởng Phòng Nhì SĐ Dù đã bị vây khốn vì quân số chênh lệch giữa ta và địch, vì không có đủ tiếp tế đạn dược, tải thương. Tôi đã nghe bạn bè ca ngợi ông và tuy dù chưa 1 lần diện kiến, tôi luôn hình dung ông đội mũ đỏ có cánh dù, quần áo mầu huyết dụ cầm cây can chỉ huy đứng trước hàng quân. Nhưng nay ông ngồi đó trong căn lều lá nền đất ngồi đan rổ. Ông đang nghĩ gì? Thấy tôi vẫn đứng đó, tay vẫn còn ở thế chào, ông lắc đầu:- Cám ơn anh. Tr/u Đỗ Lệnh Dũng phải không? Anh em mới tới cho biết là Đồng Xoài đã mất, Bố Đức cũng mất, e rằng Phước Long cũng nguy đến nơi. Cái vận nước nó thế, biết làm sao hơn. Anh ngồi xuống nói chuyện miền Nam cho tôi nghe đi.

    Lòng tôi nhũn xuống. Ông vừa nói vừa tiếp tục bẻ những cây nan nứa cong xuống, lồng vào nhau. Chiếc rổ ông đang đan đã hơi có dạng cong. Khuôn mặt ông bình thản 1 cách lạ lùng. Mọi thứ từ con người ông là 1 cam chịu nhưng không khuất phục. Ông nói năng từ tốn, không hề ngưng tay đan lát như thể cả cuộc đời còn lại của ông chỉ để đan kết những mảnh lạt, những nẹp nứa. Tôi ngồi xuống chiếc ghế con cạnh ông thong thả kể tất cả những gì xảy ra ở Đồng Xoài. Ông chăm chú nghe, và cuối cùng thở dài:

    - Tôi đã nhiều đêm khóc 1 mình. Tôi thương những người lính như người nghĩa quân cố chạy ra để rồi chết bên lá cờ ở Đồng Xoài. Nhảy dù có nhiều anh hùng lắm, nhất là những người lính bình thường, lương không đủ nuôi vợ con. Nhưng cái vận nước nó thế biết làm sao hơn.

    Tôi nói:

    - Thưa Đại Tá, cuộc hành quân 719..

    Ông ngẩng đầu nhìn tôi, đôi mày nhíu lại khiến tôi khựng, không nói năng thêm được. Nhưng ông lấy lại cái dáng yên nghỉ của 1 thiền sư, vững vàng ngay lập tức. Lưng ông vẫn thẳng và cái áo tù sọc đỏ như hơi chật khiến vai ông như rộng hơn ra. Cái dĩ vãng 719 Hạ Lào chỉ thoáng qua trong xúc động cùng cực nhưng rồi ông chậm rãi:

    - Tr/u Dũng, từ nay mình gọi nhau bằng anh em, được không? Không phải vì nội qui của trại. Cũng không phải vì là tù mà phải bỏ cái cấp bậc QĐ của mình sang 1 bên. Không phải như vậy. Anh còn trẻ, trông anh khoẻ mạnh, người doi doi như anh chắc sẽ vượt qua mọi gian truân của tù tội. Tôi có điều này để nói với anh như 1 người lính nói với 1 người lính. Chúng ta đã không hổ thẹn với việc làm của chúng ta, dù ai nói gì thì nói.

    Lam Sơn 719 được tung ra với hai mục tiêu. Mục tiêu đầu là phá vỡ hệ thống tiếp liệu của địch mà trọng tâm là ở vùng Tchéphone, Hạ Lào, tìm cách kiểm soát con lộ số 9 để chặn đường tiếp tế của địch từ Bắc. Tất cả những anh em Dù, anh em SĐ 1, anh em Thiết Giáp Pháo Binh, anh em bên Không Quân, tôi nói về tất cả những anh em mình đã tham dự 791 Hạ Lào hồi đó đều biết chắc giai đoạn đầu của cuộc hành quân đã đạt được mục tiêu của nó. Khó mà đưa ra tổn thất chính xác của địch nhưng tôi cam đoan 1 đổi mười là ít. Nhìn những kho xăng địch cháy, những kho lương thực bị phá hủy, và nhất là nhìn cảnh bộ đội BV chết sắp lớp, tôi có thể xác định mục tiêu đầu của ta đã đạt.

    - Thưa Đại.. - Vâng, thưa anh, nhưng..

    Ông giơ tay chận ngang, ngắt lời tôi:

    - Tôi ở trong hầm chỉ huy. Hai chiến xa địch sập hầm bít hết lối và tôi đã gọi pháo bắn chụp lên đầu tụi tôi. Hồi đó tôi cứ thắc mắc tại sao các cấp chỉ huy địch lại phí phạm sinh mạng thuộc cấp đến như vậy. Có 1 hai sĩ quan khi khai thác tù binh tại mặt trận bảo họ được uống cường lực hay an thần gì đó của Trung Cộng. Tôi không tin hẳn chuyện này. Nhưng trong suốt những ngày tù đầy ngồi đan rổ rá, tôi vẫn không hiểu tại sao họ phí phạm sinh mạng binh lính đến thế? Thế nào rồi anh cũng có dịp ra ngoài để thấy hậu phương miền Bắc không còn thanh niên nữa. Họ đem nướng không thương tiếc. Chỉ tội cho dân mình, Bắc cũng như Nam. Tôi hiểu các thắc mắc của anh. Tôi không trả lời được tại sao Lam Sơn 719 đã không được đẩy tới trong giai đoạn hai là chiếm giữ các cứ địa 604 và 611 trên đường xâm nhập của địch. Hồi 1970 mình đã phá tan hệ thống tiếp liệu của địch ở Miên. Nếu chúng ta tiến hành đúng, chiếm giữ 604 và 611 trong vòng ba tháng nữa mùa khô thì địch sẽ không còn cách gì tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Tôi không trả lời anh được vì tôi bị cầm tù từ hồi đó. Anh ở miền Nam chắc anh có đọc báo hay nghe tin tức, anh có biết tại sao không?

    Tôi lắc đầu trầm ngâm. Hẳn là Đại Tá Thọ cũng không chờ 1 lời giải thích nơi 1 viên sĩ quan hạng bét như tôi. Nhưng cái thắc mắc của ông hẳn đã dày vò ông nhiều hơn là cảnh tù đày mà ông đang gánh chịu. Mong rằng sau này những nhà quân sử sẽ trả lời được cho người tù đã coi ngày bị bắt là ngày giỗ của mình.

    Ông là sĩ quan cao cấp nhất và được ở riêng 1 căn lều lá, không phải lao động nặng nhọc nhưng cũng phải chịu chế độ khoán. Đây là 1 chính sách hẳn hòi được rút tỉa kinh nghiệm của các trại tù Nga Xô, Trung Cộng. Nó đẩy người tù đến tận chân tường, không có cách gì cục cựa nổi. Tôi không rõ 1 ngày Đại Tá Thọ phải nộp mấy cái rổ nhưng trông đống tre, nứa chất đống ở 1 góc nhà, tôi biết là ông đã phải lao động cật lực để đạt chỉ tiêu. Cuối cuộc trình diện, ông trầm ngâm rồi bảo tôi:

    - Cám ơn anh vẫn còn nghĩ đến tình đồng đội để đến thăm tôi - Ông không dùng chữ trình diện - Điều duy nhất tôi mong mỏi ở tất cả các anh em là phải thương yêu đùm bọc nhau, cố giữ lấy tinh thần của 1 người lính QG. Chỉ có thế, anh em mình mới chứng minh được mình khác họ. Và chỉ có thế mới minh giải được những điều anh em mình đeo đuổi là đúng. Anh cho tôi gửi lời thăm tất cả anh em mới tới và bảo họ không cần tới thăm tôi nữa. Anh nói dùm với anh em là tôi luôn cầu Trời Phật để mọi người mạnh khoẻ.

    Mở đầu cuộc đời tù tội của tôi không bắt đầu với Đại Tá Thọ vì đến 2 ngày sau do sự dàn xếp của 1 anh em Dù tôi mới có dịp gặp ông. Vâng, tôi đã khởi đầu kể về đời tù với 1 sĩ quan huynh trưởng vì đối với tôi, trước sau ông vẫn là 1 vị chỉhuy trong QĐ miền Nam mà tôi hằng kínhtrọng.

    Cái sợi xích oan nghiệt buộc 3 đứa chúng tôi nay đã được tháo ra, nhưng chân phải tôi đã thâm tím thành 1 vòng nơi cổ chân. Tình đồng đội thể hiện ngay khi 1 ông "cựu tù" đưa cho tôi 1 ít muối bảo:- Bóp cho nó tan máu bầm, coi chừng sâu quảng, có khi phải cưa chân.

    Suốt gần 1 tháng sau ngày nhập trại tù Yên Bái, chúng tôi được học tập liên miên. Họ chia chúng tôi ra thành từng tổ tam tam - ba người 1 - và độ ba bốn tổ thành 1 đội. Ba người sinh hoạt chung. Nghe thì chả có gì để bàn nhưng trên thực tế, họ muốn chúng tôi kiểm soát lẫn nhau, báo cáo lẫn nhau. Càng ở tù lâu tôi càng thấy kỹ thuật "cai trị" tù của CS đã lên mức tinh vi cực độ có lẽ nhờ rút tỉa kinh nghiệm của các nước CS đàn anh. Họ chia để trị, họ khai thác những yếu đuối thể chất cũng như tinh thần để đàn áp tù. Họ đẩy tù vào chân tường, tìm đủ mọi phương thức để bẻ gãy sức đề kháng của tù nhân, quên đi những giá trị căn bản của con người. Họ muốn tù trở thành con vật hai chân, không còn suy nghĩ và chỉ là môt công cụ lao động sản xuất.

    Mở đầu là những cuộc nhồi sọ liên tu bất tận. Họ bắt chúng tôi học lý thuyết Mác-Lê, tư tưởng Mao, chủ nghĩa Mác xít Lê Nin Nít bách chiến bách thắng. Họ nói đến ông Hồ như 1 ông thánh toàn diện toàn mỹ, 1 cứu tinh của dân tộc VN. Họ giảng cho chúng tôi nghe về lịch sử Đảng CS VN và những thành quả rực rỡ như đã thắng cả ba thế lực lớn nhất hoàn vũ, Thực Dân Pháp, Phát Xít Nhật và nay là Đế Quốc Mỹ.

    Đám tù vượt Trường Sơn mới đầu còn tò mò nghe và càng nghe càng thấy khó lọt lỗ tai. Nhưng càng ở tù lâu tôi càng thấy những buổi sinh hoạt học tập ở thời điểm này là thời điểm vàng son nhất vì chúng tôi chưa phải lao động, chưa phải khoán đào đất, đục đá, vác nứa, chặt tre hoặc những việc lao động cực nhọc khác.

    Chúng tôi được tập trung ở hội trường 1 ngày hai lần để học tập và buổi tối thì sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tổ. Trong những buổi như vậy 1 cán bộ nói: - nói dai nói nhiều - và chúng tôi chỉ biết nghe. Họ nói tràng giang đại hải, chữ nghĩa kêu lốp cốp nhưng toàn là những bài học thuộc lòng được lập đi lập lại đến nhàm chán và khô khốc. Những bài giảng được giảng để mà giảng, nói để mà nói, không cần người học người nghe có hiểu và có chấp nhận hay không. Do đó tên cán bộ CS thao thao bất tuyệt về thành quả rực rỡ của Đảng và Bác Hồ thì ở dưới chúng tôi ngủ gà ngủ gật và đôi khi còn xầm xì to nhỏ.

    Đó là về tinh thần. Về thực tế đời sống, lũ tù mới bị dội ngay ngày hôm sau khi bắt đầu chế độ ăn uống của trại. Khi di chuyển từ Nam ra Bắc tù được ăn uống tuy kham khổ nhưng không đến nỗi nào, có nghĩa là chúng tôi vẫn có cơm trắng đủ no và còn thêm tí thức ăn. Nhưng ngay khi lần đầu lãnh cơm của trại, không ai ăn được 1 miếng. Thật ra không phải là cơm mà là mì sợi, không hiểu mì được chế bằng loại bột gì, mầu nâu đen và nát bét, có mùi hôi mốc. Cộng vào đó là 1 tí canh rau lõng bõng. Tất nhiên là canh chay không cá thịt. Bài học đầu tiên của cuộc sống tù đầy thật đau đớn. Phần ăn bỏ lại của tù mới đã được tù cũ chiếu cố tận lực. 1 vị tù cũ thản nhiên bảo tôi:- Có mì, có cái ăn là quí rồi. Mai mốt các anh sẽ thấy những thứ các anh nuốt không trôi đó chính là cao lương mỹ vị. Người dân ở ngoài, người dân của XHCN đôi khi không có cả những thứ các anh vừa chê.

    Tôi nghe mà chỉ bán tín bán nghi. Có thể vì tôi chỉ mới rời khỏi đời sống của miền Nam chưa quá hai tháng chăng? Nhưng rồi thực tế vẫn là thực tế. Khi được sai đi chặt tre ở xa trại, chúng tôi được "gửi " ở nhà dân và nhìn mâm cơm của họ, tôi chợt thấy mức chênh lệch đến rợn người giữa cuộc sống miền Nam và miền Bắc.

    Ông Bình ở cùng láng và cùng tổ với tôi đã dạy tôi bài học vỡ lòng về cái nhìn của ĐCS đối với miếng ăn. Ông bảo:

    - Đối với CS, gạo là vũ khí chiến lược. Vũ khí này không chỉ để đương đầu với địch mà chính là để "đánh nhau" với dân chúng. Họ kiểm soát bao tử của dân bởi đói thì phải quị lụy, phải nghe lời. Đói thì dễ kiểm soát.

    1 người như Đ/u Bình cương trực tiết độ và lúc nào cũng chừng mực nhưng chính ông đã là nạn nhân của "vũ khí chiến lược". Ông đã xọp đi đến quá nửa người vì sốt rét trên đường Trường Sơn. Đến trại ông vẫn khật khà khật khưỡng, người vẫn như đi không vững. Bỗng như phép lạ, khoảng 2 tháng sau, ông hồi sức lại, hồi sức 1 cách quá vội vàng. Những bữa cơm tù đầu ông chỉ nhấm nháp cố nuốt nhưng bao giờ cũng còn dư đẩy bớt sang cho tôi. 1 hôm ông ăn hết sạch bát mì bát nháo trộn với gạo đã gần như mục, và cười bảo tôi:- Vẫn còn ăn được nữa. Chưa no.

    Tôi cũng chỉ biết cười .

    - Ráng ăn cho lại sức

    Lũ tù mới nay đã trở thành tù cũ, nghĩa là đã phải lao động cật lực. Mỗi sáng tù được chia thành từng đội sắp hàng di chặt tre. Tre ở xung quanh trại đã bị đốn từ lâu nên chúng tôi đã phải lội cỡ gần 3 cây số mới tới chỗ. Rừng tre lâu đời chằng chịt, cành nọ quấn, giàng lấy cành kia. Tre cao nghều nghệu, cao vút và gốc rất to. Chặt tre nguy hiểm vì lơ mơ có thể chết như bỡn. Theo lời kể thì đã có dăm ba tù nhân chết không kịp ngáp vì tre. Khi chặt 1 nhát cắt sâu được nửa thân thì do sức kéo từ trên ngọn, thận tre bật ngược búng lên như 1 lưỡi đao. Lơ mơ trúng có thể đổ ruột chết tại chỗ. 1 người tù bị tre quật vào cánh tay đã phải cưa vì xương dập nát nhừ không cách gì nối lại được. Họ khoán mỗi tù nhân phải chặt mỗi ngày môt số tre nhất định. Nếu chỉ chặt và lôi xuống róc cánh rồi bỏ đó thì mỗi ngày cỡ 30 cây. Nhưng đôi khi chặt xuống, tù phải cong lưng vác tre về nộp. Đem được 1 cây tre về đến trại không phải nhàn nhã gì. Đôi khi nó quá dài, hai đầu cứ nhịp lên nhịp xuống, lơ mơ ngã chúi xuống như chơi. Lao động nhưng ăn uống quá kham khổ, quá đói, lũ tù mới chúng tôi rạc thấy rõ, và rất nhanh. Ai nấy rốc hẳn người. Đói triền miên. Lúc nào cũng thấy đói. Rất nhanh chúng tôi được trao kinh nghiệm "bồi dưỡng linh tinh", có nghĩa là phải tìm thêm cái ăn, tìm ở đâu thì tìm, tìm cách nào thì tùy. 1 đọt măng bé tí tẹo chưa kịp nhú lên đã bị cắt. Vồ được 1 con nhái, con ễnh ương là có thêm chất thịt. Trên con đường đi lao động mắt chúng tôi láo liên và nhất là khi bảo vệ lơ là thì nhiệm vụ chính không còn là chặt tre nữa mà là kiếm xem có cái gì có thể nhai được không.

    Đ/u Bình kể từ khi hồi sức đã chăm chỉ linh tinh hơn hẳn anh em. Khi tôi tìm được thì ông đã sùi bọt mép, miệng cứng và mắt trợn trừng. Đ/u Bình đã chết bên bờ suối, trong tay còn cầm 1 ít nấm mầu nâu. Trong khi được huấn luyện ở trường bộ binh Thủ Đức, tôi đã được dạy rằng có nhiều loại nấm rất độc, ăn vào có thể chết ngay và thường những loại nấm này có mùi thơm và vị rất ngon. Không bao giờ tôi có thể nghĩ có ngày nhìn thấy 1 đồng đội đã chia ngọt sẻ bùi, 1 vị huynh trưởng đáng kính như ông lại có kết thúc oái oăm và bất ngờ như vậy. Đ/u Bình nằm đó trong bộ áo tù sọc đỏ, hai chân vẫn còn trong con suối cạn, người thì lật ngửa, hai tay co quắp. Tôi chợt nhớ đến những lần ông thản nhiên nói đến cái chết ở núi rừng Trường Sơn và hôm đầu khi đến trại tù Yên Bái. Tôi nghe để mà nghe nhưng không bao giờ nghĩ ra được cái kết thúc vô lý đến như vậy xảy ra cho 1 người vốn tin vào cuộc đời như ông.

    Tôi nhắn ông Quyền và phải đến mấy ngày sau tôi và ông Quyền mới tìm được dịp cùng nhau đặt bó hoa dại trên nấm mộ đất bên rìa trại tù, nơi Đ/u thiết giáp Lương Văn Bình được vùi xuống vội vàng.

    Tôi không có cách gì để nhớ hết tên các trại tù tôi đã trải qua. Mọi thứ dưới chế độ XHCN đều được coi là bí mật QG. Các trại tù đều mang bí số lúc thì C, lúc thì T, Z. Như T42 chẳng hạn. Nhưng cứ như sự hiểu biết của tôi thì trại tù binh Yên Bái là nơi duy nhất giam giữ sĩ quan của miền Nam bị bắt giữ ở mặt trận.

    Nhưng 1 hôm chủ nhật vì thiếu tiếp liệu, chúng tôi được điều động để đi lấy thực phẩm. Sáu người tù được giao cho hai chiếc xe cải tiến và khi chúng tôi đến chỗ để lấy lương thực cách trại khoảng hai cây số thì quả là 1 bất ngờ. Ngay khi vừa lọt vào trong hàng rào thì có tiếng hô hoán: - Đơn vị nào? Cấp bậc? Lâu chưa..

    Giọng nói hoàn toàn miền Nam khiến sáu đứa tụi tôi sửng sốt. Phe mình. Từ trong các căn nhà mọi người đổ túa ra hỏi tíu tít. Ngay khi biết tông tích tụi tôi, cách xưng hô khác hẳn. Họ gọi chúng tôi bằng "Ông Thầy".

    Đây là trại giam giữ tù cấp Hạ Sĩ Quan của miền Nam. Quan sát rất nhanh, tôi thấy họ được đối xử khác hẳn với chúng tôi. Họ không ở trong những cái láng chứa cả trăm người mà ở trong những căn nhà lá nho nhỏ, có lẽ độ mươi mười lăm người 1, và họ có 1 tí đất để trồng rau. Những người lính ở đây không bao giờ biết được cách họ chưa đầy hai cây số lại có 1 trại giam sĩ quan. Bởi vậy, trại bỗng như 1 cái chợ vỡ, mọi người túa ra bao vây lấy sáu đứa tụi tôi. Họ hỏi tới tấp không kịp trả lời. Trông họ khác hẳn tụi tôi. Họ không mặc đồ tù mà là quần áo giống như lính BV. Bỗng 1 người hô:

    - Có cái gì đem cho mấy Ông Thầy đi, bà con ơi.

    Tôi nghĩ dáng dấp bệ rạc trong bộ đồ tù với chữ số ở phía sau lưng đủ tố cáo cảnh sống của chúng tôi. Chỉ trong vòng vài phút sau đó, đồ tới tấp quẳng lên hai chiếc xe cải tiến, cảm động nhất là có cả mấy cái áo trấn thủ được kết lại từ những mảnh chăn và mấy cái mũ cũng được khâu vá từ những mảnh vụn. Rất nhiều rau và có cả mấy cây mía. 1 người chạy ra dúi vào tay tôi 1 cái lon sắt - không rõ anh ta gò lấy hay tự nó đã như vậy - và bảo tôi:

    - Ông Thầy, cái này xài đỡ lắm.

    Cái lon sắt ân tình đó khá dầy dặn lớn hơn lon sữa đặc 1 chút, đã là vật tùy thân của tôi trong suốt mười năm lao đao. Quả thật là "đỡ lắm" vì nó vừa là lon uống nước, vừa là cái để đựng đồ ăn, để đun nấu, pha trà. Nó đeo đẳng tôi như chính cái tình đồng đội không bao giờ phai nhạt giữa những người lính với nhau. Trong số chiến lợi phẩm, tôi nhớ có khá nhiều thuốc lá. Mấy người bảo vệ đi theo hình như cũng ngó lơ cho tụi tôi để "thoải mái" với những anh em Hạ Sĩ Quan. Có người cho hay họ bị bắt từ năm 1968 - tức tết Mậu Thân - tôi nhẩm tính. Bảy năm. Họ hỏi những câu hỏi như: "Tình hình SG ra sao?" "Ông Thầy có biết tiểu đoàn TQLC Trâu Điên không?" "Liệu mình có thắng không?" "Chính phủ mình có biết số phận của tù nhân không?".. Hơn 1 trăm con người bu chung quanh tụi tôi với cả nghìn câu hỏi không có câu trả lời. Nhưng cái tình của họ đối với chúng tôi có lẽ là niềm an ủi lớn nhất, nó không chỉ là tình đồng đội mà còn chan chứa tình người. Khi về, chúng tôi chia chiến lợi phẩm cho cả trại. Tôi ngồi nhai 1 khúc mía. Nước mía ngọt lịm, thấm vào từng đường gân sớ thịt và tôi có cảm tưởng như mình đang hồi sinh.

    Trại tù Yên Bái khi chúng tôi tới thì đã có khoảng hai trăm anh em bị bắt từ trước. Họ ở trong ba cái lán và cũng chính họ dựng sẵn chỗ cho chúng tôi. Những anh em này đã giúp chúng tôi rất nhiều để đương đầu với những nhọc nhằn của đời tù. Câu khuyên đầu tiên là cố giữ sức khoẻ để chờ ngày về. Ngày về diệu vợi và xem ra không tưởng đối với tôi, nhưng khi nghe họ thuật lại, tôi cũng bán tín bán nghi. 1 số anh em cho hay khoảng hơn 1 năm về trước họ đã được thả 1 lần. Họ được tập trung lại học tập hai ngày với 1 cái tin sốt dẻo rằng họ sẽ được đưa trở lại miền Nam để trao đổi tù binh. Họ được phát hai bộ đồ công nhân màu xanh, cùng với những xa xỉ phẩm như thuốc đánh răng, bàn chải, khăn lông, xà bông, và hách nhất là 1 cái ba lô mà theo lời họ thì rất đẹp, có quai da hẳn hoi và thấy đề là sản xuất tại Tiệp Khắc. Khi lãnh những thứ đó, ai nấy đều mừng và trong cái nỗi mừng tủi sẽ được về miền Nam đó, anh em vẫn kháo với nhau rằng BV dẫu sao cũng còn cố muốn chứng tỏ họ đối đãi với tù binh đúng theo qui ước quốc tế. Ít nhất thì cũng có kem đánh răng hẳn hoi. Những người tù súng xính trong bọ quần áo công nhân đó được đưa đi 1 vòng HN bằng xe Molotova và sau đó chở đi về Nam. Nhưng khi đến Vĩnh Linh họ được giữ lại không đi tiếp. Cho đến cỡ 1 tuần sau, họ được thông báo 1 cái tin rất khó tin:

    - Chính quyền miền Nam không nhận các anh.

    Theo lời của viên cán bộ thì miền Nam đã không thừa nhận là đã đánh sang Lào, là QĐ Miền Nam không bao giờ vượt biên giới qua QG lân cận và do đó không hề có chuyện CS BV bắt được sĩ quan VNCH ở Lào. Chính quyền miền Nam hoàn toàn phủ nhận lời cáo buộc của CS HN về những tố cáo không bằng chứng này. Kết quả là họ được chở trả lại trại và tất cả các đồ tế nhuyễn trong đó có cái ba lô Tiệp Khắc đều phải nộp vào kho.

    Xin ghi lại đây sự kiện trên và mong mỏi anh em nào ở trại Yên Bái còn sống đâu đó, VN hay bất cứ nơi nào trên thế giới, nếu có dịp xin lên tiếng xác minh.

    Đời sống tù là 1 đời sống biệt lập. Chúng tôi không hề được biết chuyện gì đang xảy ra ở bên ngoài. Sáng ra sắp hàng từng đội đi lao động khổ sai, về đến trại thân thể rã rời, và ít nhất thì 1 tuần ba bốn buổi tối phải sinh hoạt học tập. Chúng tôi sống như những đơn vị lao động không được suy nghĩ. Chúng tôi sống với 1 bức tường im lặng phủ lên đầu vì không được biết ngoài trại này cuộc sống diễn tiến ra sao. Dật dờ, không biết số phận ra sao có lẽ là nỗi đau khổ lớn nhất. Hơn cả ngay cái việc bị hành hạ lao động khổ sai.

    Cho đến 1 hôm bỗng cán bộ cho chúng tôi nghe đài - chữ của ngoài Bắc gọi tắt Đài Phát Thanh. Tiếng của các xướng ngôn viên đài phát thanh HN được tiếp vận lên tận đây có cái cung bậc cao, the thé như muốn xoáy vào tai người nghe. Những tin tức loan tải làm mọi người choáng váng và không ai tin đó là sự thật. Đài HN loan tin QĐ GP đã chiếm được Ban Mê Thuột, đã lấy được Phước Long làm thủ đô của Mặt Trận GP Miền Nam. Hôm sau đi lao động về, 1 tấm bản đồ lớn được dựng trước cửa trại. Trên đó là những lá cờ đỏ sao vàng được cắm để đánh dấu những vùng đã được GP. Trên đài phát thanh, HN luôn luôn nói 1 điều QĐ GP, hai điều QĐ GP nhưng trên tấm bản đồ họ không cắm cờ của Mặt Trận GP Miền Nam mà là cờ đỏ sao vàng. Trước những tin tức tới tấp rằng vùng này đã được GP, vùng kia đã được GP, chúng tôi vẫn cười khẩy, không 1 ai tin. Tôi nhớ 1 ông bạn đồng tù đã kể lại vụ Tết Mậu Thân. Theo lời ông thì khi dốc toàn lực để Tổng Tấn Công Nổi Dậy vào năm 1968, ngay tại HN, Ông HCM cũng cho dựng 1 tấm bản đồ lớn, và chính ông cũng có lần ra tận đó chiêm ngưỡng thành tích của QĐ GP. Ngay mấy ngày đầu cờ nhỏ cũng được cắm và còn cẩn thận, sơn mầu đỏ những vùng đã được GP, khởi đầu là vùng Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng. Nhưng chỉ độ mười ngày sau thì tấm bản đồ chỉ rõ từng bước tiến của QĐ GP bị dẹp mất tiêu. Ông bạn kết luận:

    - Bổn cũ soạn lại, chắc nó sắp dẹp đến nơi.

    Đôi ba người còn bàn rằng đây là 1 đòn chí tử, 1 sai lầm lớn về chiến thuật của HN. Họ đã dốc toàn lực vào cuộc tiến công này và trực diện đánh theo chiến tranh qui ước chứ không còn là du kích chiến nữa. Và như vậy e rằng họ sẽ lãnh đủ vì hỏa lực của CS không thể so được với bom đạn của Mỹ. Mậu Thân cho thấy tất cả những đơn vị, cán bộ nằm vùng bị lộ diện, bị tiêu diệt và lần này thì chính quân chính qui BV cũng sẽ lãnh đòn.

    Bàn kiểu gì cũng được, nhưng càng ngày bản đồ ở trước trại càng thấy nhiều cờ đỏ ở phía Nam. Sau Đà Nẵng, Đà Lạt. Vùng Ba Chiến Thuật chỉ còn có Biên Hòa chưa thấy cắm cờ. Đài Phát Thanh HN phát toàn nhạc quân hành, và tin tức thì liên miên thuật lại những bước tiến vũ bão của QĐ GP và những thảm bại của Ngụy quân.

    Mọi sự diễn ra như chuyện không có thật, chuyện giả tưởng và chúng tôi nhất định không tin. Bộ quân lực VNCH là đồ bỏ chắc? Chúng tôi đã từng đối mặt với đối phương giữa những lằn lửa đạn. Chúng tôi biết rõ tinh thần của những người lính, dù là Nghĩa quân, ĐPQ hay những binh chủng nổi tiếng như TQLC, Dù, BĐQ. Dẫu có đem chém, những người tù binh ở trại Yên Bái vẫn không tin những tin tức của đài HN. Cuộc chiến đã có những lúc lên cao độ nhưng quân lực VNCH chưa bao giờ nhượng bộ. Tết Mậu Thân, chỉ những đơn vị chủ lực như Dù mới có carbine còn đa số là Thompson vậy mà dù bị tấn công bất ngờ, chúng tôi đã đẩy lui cả 1 đạo quân BV với AK 47, với B40, B41 và hỏa tiễn 122 ly. Mùa hè đỏ lửa ở Huế, ở Quảng Trị, ở Cao Nguyên. An Lộc nhỏ bé đã đứng vững dù quân số chênh lệch 1 chọi bảy tám và hỏa lực của địch đã được vận động tới mức tối đa. Ngay 1 cái quận lỵ bé tí của tôi, quận Đôn Luân, với 1 số quân ít oi và hỗn tạp đã chống trả với công trường 7 trong gần nửa tháng. Bộ quân lực VNCH là đồ dởm chắc?

    Chúng tôi ngày ngày vẫn phải đi lao động, kẻ chặt tre, người cày ruộng, đứa đào đất, đục đá nhưng tối về là tụm năn tụm ba vừa nghe đài vừa diễu cợt.

    Tôi nhớ mãi vào ngày 30/4/1975 khi về đến trại thì đài oang oang loan tin xe tăng quân GP đã húc sập cổng Dinh Độc Lập và Tổng Thống Dương Văn Minh đã đầu hàng và miền Nam đã hoàn toàn GP.

    Quan chức cán bộ cho hay ngày mai chúng tôi không phải lao động, được nghỉ để ăn mừng ngày tổ quốc thống nhất và đặc biệt sẽ là mổ 1 con trâu để liên hoan.

    Thế này là thế nào? Ông Quyền vừa nhai miếng thịt trâu nửa sống nửa chín bảo tôi:

    - Ông Thầy có tin không? Tướng Patton cũng không thể đánh nhanh được như vậy. Cái ông Võ Nguyên Giáp thắng ở ĐBP vì Mỹ từ chối không xài B57 đánh bom giúp Pháp và ông Giáp có cả 1 đống cố vấn Tầu và vũ khí chở xuống từ Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa. Nhưng đó là trận đánh công đồn, thật ra cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi không tin Tướng Giáp đủ bản lĩnh để trong hơn 1 tháng đánh tan QĐ mình. E có cái gì khúc mắc !

    1 ông bạn khác hỏi tôi:

    - Lúc ông bị bắt ai làm Tổng Thống?

    - Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.

    - Còn ông Dương Văn Minh?

    - Đại tướng Dương Văn Minh đã hồi hưu từ lâu, đâu có giữ chức vụ gì.

    - Thế tại sao lại có chuyện tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng? Tôi nhớ độ nửa tháng trước tụi nó vẫn ra rả Thiệu Kỳ Khiêm cơ mà!

    Thái độ của tù binh không có gì lọt qua mắt cán bộ nhưng có lẽ chính họ cũng choáng váng trước những sự việc xảy ra. Họ không hề có biện pháp trấn áp gì, vẫn lo liên hoan cười nói và luôn mồm câu: "đất nước thống nhất - hòa bình lập lại" hoặc "chúng ta đánh bại ba đế quốc Nhật Pháp Mỹ.." Không khí của kẻ thắng được thể hiện không chỉ nơi những người lính canh tù mà khi đi ra ngoài lao động chúng tôi thấy cờ xí và biểu ngữ răng khắp nơi.

    Vài hôm sau ngày 30/4, chúng tôi được đọc báo! 1 chồng báo N/d cũ cả tuần được phân phát tứ tung, trên trang nhất là tấm hình xe tăng CS ủi sập cổng dinh Độc Lập. Lời nói không có sức thuyết phục như hình ảnh. Tôi nhìn đi nhìn lại tấm hình trên tờ báo. Báo của HN lúc đó vẫn còn in typo và giấy rất xấu. Đang chăm chú nhìn cái cổng Dinh Độc Lập bị xệ 1 bên và cái họng súng 100 ly trên pháo tháp của chiếc xe tăng, tôi nghe tiếng 1 ông bạn tù:

    - Mẹ kiếp. Nó vào đến Dinh Độc Lập thật.

    - Ghép hình mấy hồi. Tôi chơi ảnh từ thủa bé, cỡ này ăn thua gì. Nếu muốn tôi cũng có thể dùng kỹ thuật phòng tối cho cụ Diệm đi duyệt binh ở ngay HN.

    Tôi không ngờ cái câu phát biểu này lại được anh em tù loan truyền rất nhanh. Trong cái sững sờ của sự việc, trong nỗi tuyệt vọng đến tận cùng, 1 vạt bèo trên mặt nước có thể trở thành cả 1 cái bè hoặc hơn nữa. Người này rỉ tai người kia: - Thằng Dũng là photographer thứ thiệt. Nó tinh lắm nhìn ngay được vụ ghép hình.

    Sáng hôm sau tôi không phải làm lao động và quãng 10 giờ sáng hai viên cai tù súng ống hẳn hòi tiến vào phòng. Đây cũng là thói quen rất đặc biệt của những người CS. Bất cứ khi nào đi vào phòng tù cũng võ trang cẩn thận và luôn luôn đi 2,3 người dù họ biết chắc trong phòng chỉ có 1 ông tù ốm đói. Tôi bị dẫn lên văn phòng trưởng trại để làm việc.

    Khi tôi vừa bước vào đến cửa thì đã có tiếng đập bàn, quát tháo: - Tại sao anh bôi nhọ chế độ? Tại sao anh ngoan cố, tung tin đồn xuyên tạc láo lếu?

    Thấy tôi ngây mặt nhìn, ông trưởng trại - tôi không bao giờ biết ông ta cấp bậc gì và tên thật ra sao, bởi lúc nào cũng chỉ biết ông ta là anh Sáu - đập bàn quát tiếp:

    - Ngoan cố. Đến giờ phút này anh vẫn còn ngoan cố không tin vào chế độ. Mỹ đã cút chạy anh còn vọng tưởng gì? Thằng Dương Văn Minh đã đầu hàng quân GP. Ngụy quân Ngụy quyền các anh lúc nào cũng cứng đầu ương ngạnh ngoan cố không chịu giác ngộ. Đến giờ này anh còn suy tưởng gì?

    - Thưa cán bộ..

    - Anh còn cãi nữa à? Anh bảo là báo N/d ghép hình là thế nào?

    Ngay khi bị giữ lại ở phòng, tôi biết ngay lý do và đã suy nghĩ cách trả lời: - Tôi đâu có nói báo của nhà nước ghép hình. Tôi có nói là ông phóng viên chụp vội quá nên hình không rõ nét. Vả lại tấm hình in cũng mờ quá.

    - Ngoan cố! Ngoan cố!

    Và ông trưởng trại bỗng cười sằng sặc, chỉ vào mặt tôi:

    - Sự thật sờ sờ mà anh vẫn còn mơ ngủ..

    Sự thật sờ sờ ông trưởng trại tù hất vào mặt tôi phải chờ đến gần 1 tháng sau mới đúng là sự thật không chối cãi được. Tôi nhớ chúng tôi sáng ra không phải đi khổ sai mà được lùa vào phòng lớn của trại vì có TW xuống. Nếu quen thuộc với nếp sống ở miền Nam thì sẽ bực mình vì ở XHCN Miền Bắc không có gì minh bạch cả, cái gì cũng úp úp mở mở. Nhưng nếu hiểu rằng nhà cầm quyền chủ trương chỉ cho người dân biết những gì họ muốn người dân biết thì sẽ hiểu cái ngôn ngữ như TW ở trên. Những thằng tù như tụi tôi chỉ được biết "TW" mà không hề được giới thiệu đó là nhân vật cỡ nào, chức vụ gì và ngay cả đến tên tuổi cũng không, dù chỉ là bí danh đầy "màu đỏ, mầu hồng" như Nguyễn Chiến Thắng, Trần Gia Tăng !

    Nhưng TW có khác thật vì ông ta đến với 1 phái đoàn tới năm người và trông cái cung cách đón tiếp trọng vọng và đầy vẻ khúm núm của ông Sáu trưởng trại và mấy ông cán bộ, tụi tù đều hiểu ông ta phải quan trọng lắm. Điều khác nữa nổi bật hẳn là ông TW và mấy người tùy tùng đều mặc áo sơ mi trắng dài tay. Dù áo không ủi và bỏ ngoài quần nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên trên cái nôi của XHCN, chúng tôi được mát mắt vì từ trước đến nay chỉ thấy hoặc là áo sọc tù đỏ, hoặc là quần áo mấu xám xịt, mầu nâu u tối của lính, của cán bộ và của dân chúng.

    Tôi đã nhớ rất kỹ cái vụ này không hẳn chỉ là cái bề ngoài mát mắt mà chính những gì TW nói với tù binh chúng tôi.

    Đó là 1 người trung niên, da trắng và ăn nói khác hẳn ngay từ câu mở đầu:

    - Tôi được TW cử xuống để tường trình với anh em rằng hòa bình đã lập lại, đất nước nay đã thống nhất và ngày sum họp với gia đình của anh em không còn xa nữa.

    Tôi nhìn sang bạn tù bên cạnh. Ông bạn tù nhìn tôi. Ơ ! Thế bây giờ chúng ta là anh em với TW rồi. Từ trước tới ngày hôm nay, nếu không phải là những mỹ từ đầy thóa mạ, lịch sự lắm họ gọi chúng tôi là "các anh". Nay là anh em cùng 1 cha 1 mẹ VN thì còn gì bằng, và điều này cũng chưa mừng bằng lời hứa là chúng tôi sắp được về sum họp với gia đình. Riêng cá nhân tôi, "sắp" có nghĩa là gần 1 thập niên.

    Sau lời mào đầu đầy tình cảm, TW đi thẳng vào vấn đề:

    - Hiện anh em còn bán tín bán nghi, không tin rằng dân tộc chúng ta đã đánh tan, đuổi toàn bộ bọn Mỹ cút khỏi VN. Tên đại sứ Mỹ đã phải cuốn cờ rút chạy bằng phi cơ trực thăng. Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam đã ký giấy đầu hàng vô điều kiện..

    Hội trường không 1 tiếng động.

    Lũ tù ngồi xổm thành từng hàng ngũ chong tai nghe như muốn nuốt lấy từng lời của TW. Ở bên cạnh chiếc bàn trải khăn đỏ có 1 cái giá. Sau lời mào đầu đầy vẻ anh em đó là màn tường trình Đại Thắng Mùa Xuân. Cứ theo lời TW thì có tới hai ý kiến để tấn công miền Nam vào mùa xuân 1975. 1 là của tướng Trần Văn Trà muốn tấn công dọ đường mở các trận đánh ở phía Tây Bắc SG nhằm vào các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long để làm áp lực với SG và để đo lường phản ứng của Mỹ. Ý kiến thứ hai của tướng Võ Nguyên Giáp dùng trận địa chiến đánh thẳng từ Quảng Trị xuống và tấn công vùng Ban Mê Thuột, Pleiku, Komtum ở Cao Nguyên Trung Phần vì các địa bàn này gần với hậu cứ, dễ tiếp liệu từ ngoài Bắc vào.

    TW dõng dạc: - Đ/c Lê Duẩn và BCT vô cùng sáng suốt nên đã chấp nhận cả hai ý kiến là chính đáng. QĐ n/d anh hùng bắt đầu bằng mục tiêu Phước Long, mở đầu bằng các trận công đồn chung quanh tỉnh lỵ này..

    Tim tôi nhói lên. Tôi không bao giờ tưởng tượng được cái quận lỵ nhỏ tí teo của Phước Long lại trở thành con chốt thí đầu tiên trong cả 1 chiến dịch lớn nhằm xóa VNCH. Tôi ngồi chết dí trong hội trường của trại tù, tai lùng bùng, mắt như mờ đi. Những hình ảnh bi hùng của Đồng Xoài hiện ra như 1 cuốn phim quay chậm. Những người Nghĩa Quân, những người lính Thám Báo.. Thiếu tá Quận Trưởng, ông Khoát, sống hay chết? tôi nhớ đến cảnh người lính trúng đạn 100 ly của T54, người và áo giáp tung ra như những tràng bông đỏ. Ở góc kia, tôi vẫn thấy ông Ch/u Kiệt và Ch/u Văn.

    Tiếng của TW vẫn rõ ràng và âm vang: - Trận Phước Long cho thấy BCT của ta sáng suốt. Bọn Mỹ đã không dám can thiệp. Mỹ đã bỏ rơi bọn đàn em, bọn bù nhìn tay sai Thiệu Kỳ Khiêm. Nhưng BCT luôn luôn dự trù những bất ngờ có thể xẩy ra. Hạm đội 7 của Mỹ vẫn còn lảng vảng ngoài biển Nam Hải. Bọn chúng còn những cứ điểm QS lợi hại ở Thái Lan, ở Phi Luật Tân, ở Guam. BCT của ta dự trù có thể Mỹ lại điên cuồng nhảy trở vào VN và có thể bọn chúng sẽ huy động 600,000 lính từ những nơi trên bất thần trở cờ. BCT do đó đã huy động toàn thể lực lượng vũ trang n/d, cả phụ nữ lẫn thiếu nhi. Bốn triệu tay súng đã sẵn sàng để đương đầu nếu Mỹ vẫn tiếp tục mưu đồ, ôm mộng đế quốc..

    Ông TW cầm cái gậy chỉ vào những tấm carton trên giấy trắng vẽ xanh vẽ đỏ, mũi tên ngang mũi tên dọc. Trận Ban Mê Thuột, Ngụy quân đã thua như thế nào. Cuộc tiến chiếm Pleiku diễn tiến ra sao..Và cuối cùng là xe tăng T54 ủi sập cổng dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đã phải đầu hàng.

    Phải nhận rằng ông TW này có khả năng thuyết trình vì rõ ràng tù nhân với quá khứ bom đạn đã ngồi im thin thít nghe và không thể bàn tán gì được trước sự thật sờ sờ trước mắt. Miền Nam không còn nữa. QĐ VNCH không còn nữa.

    Cuối cùng, ông TW cười tươi như hoa, dõng dạc:

    - Trước cái vui lớn của tổ quốc, tôi cũng xin báo 1 tin vui nhỏ dành riêng cho anh em. Anh em sẽ được viết thư về thăm gia đình. Tôi hứa sẽ đích thân đưa những lá thư của anh em vào tận Miền Nam và sau đó theo dõi để thư được đưa đến từng gia đình. Anh em sẽ có thư trả lời ngay trong ít ngày sắp tới.

    Nói tới đây ông TW quay sang bên cạnh: - Anh Sáu phát cho anh em giấy bút, phong bì và chỉ dẫn anh em viết cho mau. Sáng mai gom, góp lại rồi chuyển cho tôi.

    Như vậy là tù chúng tôi được báo hai tin vui 1 lúc. Không biết có anh em nào vui cái niềm vui lớn của TW là đã đuổi được Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào không nhưng tin vui nho nhỏ là được liên lạc về gia đình xem ra có vẻ lớn hơn.

    Chúng tôi được phát 1 phong bì có chữ Par Avion và 1 tờ giấy pelure mầu trắng nhờ nhờ rất mỏng. Ấy, không phải cứ phăng phăng mà viết. Phải học tập cho thông suốt trước. Anh Sáu trưởng trại đích thân đứng ra hướng dẫn nội dung thư.

    Thứ nhất không được tiết lộ vị trí trại.

    Thứ nhì phải nêu rõ quyết tâm học tập và đề cao chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.

    Nội dung thư chỉ để cho gia đình thấy rõ mọi tù nhân đều khoẻ mạnh, được đối xử tử tế và đang cố gắng để thông suốt đường lối CM. Những ai đã đi tù, tù kiểu gì cũng vẫn là tù, tù binh, tù cải tạo, tù vượt biên, tù phục quốc hay cả tù hình sự đều đã có kinh nghiệm khi được viết thư lần đầu về nhà. Mở đầu là cám ơn đảng, cám ơn nhà nước và cưối cùng là nêu quyết tâm học tập. Đoạn giữa là chuyện riêng. Mặc dầu đã dặn dò kỹ, nhưng trước khi dứt lời anh Sáu còn cẩn thận nhắc mọi người đừng dán thư lại.

    Tôi bó gối ngồi suy nghĩ. Viết thư cho ai bây giờ? Chú Hà Bỉnh Trung là sĩ quan cao cấp e rằng cũng đang ở trại tù nào đó. Liệu gia đình Dung có còn ở chỗ cũ không? Liệu gia đình ông bà nhạc tương lai có bị liệt vào tư sản mại bản không? Kể từ hôm trại tù được nghe đài, cái loa phóng thanh the thé suốt ngày và qua đó những tin tức về chiến dịch đánh tư sản mại bản đã khiến tôi lo lắng rất nhiều vì gia đình Dung có cửa tiệm chuyên về máy lạnh rất lớn. Cuối cùng tôi lựa bà bác chị của bố tôi. Bác tôi Đỗ Thị Mùi đã già rồi chắc không có vấn đề gì. Tôi viết rất ngắn gọn, nhờ Bác cho gia đình tôi hay tôi vẫn còn sống và khoẻ mạnh, nhờ thông báo cho gia đình Dung biết tin tức của tôi.


    (còn tiếp)

  4. #4
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    phần cuối...

    Lá thư của tôi trót lọt dễ dàng nhưng có những bạn tù khác phải viết lại thư, trong đó buồn cười nhất là 1 người đã bị gọi lên mắng mỏ vì nhắc nhà gửi áo len. Bộ đảng và nhà nuốc không cho anh ăn mặc ấm áp hay sao?

    TW giữ đúng lời hứa và có lẽ đây là lần duy nhất xảy ra trong cuộc đời tù tội của tôi. Khoảng hơn 1 tuần sau chúng tôi nhận được hồi âm của gia đình. Bao thư của miền Nam trắng tinh và dầy dặn không thấy dán tem, có lẽ được chuyển theo dạng đặc biệt. Thư tôi nhận được do chú Trung viết. Không rõ ông có được học tập trước hay không nhưng cũng mở đầu bằng giọng hồ hởi phấn khởi đầy những từ ngữ mới mẻ ca tụng Đảng và Nhà Nước và đoạn kết ông cũng khuyên bảo tôi cố gắng học tập để trở thành người tốt. Ông cho hay cả nhà bình yên nhưng Dung và gia đình đã đi xa.

    Trại có cái không khí khác hẳn khi mọi người được thư nhà. Nỗi niềm tâm sự được trải ra với nhau trước những tin tức mới đến. Nhiều người được báo là gia đình đã đi kinh tế mới. Người khác thì vợ con không còn ở chỗ cũ và úp úp mở mở để hiểu đã di tản sang Guam, sang Mỹ.

    Tôi bó gối ngồi 1 mình trong đêm. Như vậy là chú Trung còn ở SG nhưng Dung đã cùng gia đình di tản. Ngay hôm bị vứt vào cái hố ở chiến khu Dương Minh Châu tôi đã nghĩ mọi sự kể như xong, tôi sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Nhưng không thể tự dối mình bởi cái hy vọng mong manh sẽ có ngày tái ngộ với nàng vẫn vương vấn trong suy nghĩ của tôi ngay cả lúc lê cùm trên đường Trường Sơn. Nhưng hôm nay giữa đêm trong núi rừng Việt Bắc tôi thật sự hiểu là không còn hi vọng gì nữa. Gió lạnh đầu xuân lùa qua những bức liếp lá như xoáy vào cái tê buốt của cuộc đời. Tôi bật người dũi xuống nằm sấp trên chiếc sạp tù lịm đi.

    Sinh hoạt của trại tù binh bên ngoài vẫn như vậy, sáng ra lao động khổ sai cho đến xẩm tối thì bị lùa về trại, cơm nước xong là học tập, là kiểm thảo. Nhưng tận cùng ở phía trong, mọi sự khác hẳn kể từ ngày nhận được thư nhà. Cái vui nhỏ của TW chỉ tác động đến từng cá nhân. Mỗi người mỗi cảnh chẳng ai giống ai, cũng chẳng ai an ủi ai được ai. Có người từ cả gia đình đã đi xa - ai ở đây cũng hiểu là đã đi Guam, đi Mỹ. Có người băn khoăn vợ dại con thơ, đổi đời làm sao sống? Nhưng trùm lên đó vẫn là cái "sốc" lớn. Tại sao lại thua? Tại sao lại thua kỳ cục như vậy?

    Chúng tôi bàn tán, đưa từ giả thuyết này đến giả thuyết khác, ngẫm lại toàn là những chuyện không tưởng. Trong khi đó cái phấn khởi, nỗi vui mừng của quản giáo, của binh lính và đôi khi chúng tôi thấy ở cả nơi người dân hiện rõ ra.

    Khoảng 1 tháng sau 30/4, chúng tôi được xem phim quay những chiến tích của QĐ n/d và ảnh dân chúng miền Nam chào đón đoàn quân GP ở đại lộ Thống Nhất. Anh em từ nơi đây toàn là sĩ quan, có những người cũng đã từng nện gót trên đại lộ Thống Nhất dẫn đơn vị diễn hành trong ngày lễ lớn như Lễ Quốc Khánh, Ngày Quân Lực,nhưng khi nhìn lính BV mặt mũi non choẹt, quần áo thốc thếch, dép râu, mũ tai bèo ôm AK 47 ngơ ngác ngồi trên những chiếc Molotova, mọi người như đau quặn lên. Chúng tôi vừa thất trận và khi nhìn người chiến thắng, không ai tin đó là kẻ thắng.

    Tôi nhớ vụ chiếu phim này vì 1 chuyện khác nữa. Vài người tù được gọi lên trước để dọn dẹp hội trường. Trong khi các anh em lo quét, lo xắp xếp để cho quang, tôi lui hui cùng 1 ông khác dọn dẹp bàn thờ. Không thể dùng chữ gì khác vì đó quả là bàn thờ với bức tượng bán thân ông HCM bằng thạch cao trắng và cạnh đó lúc nào cũng có hoa. Khi tôi vừa ôm bức tượng toan rời đi chỗ khác thì có tiếng quát:

    - Anh kia ! Để bức tượng Bác xuống.

    Tôi ngơ ngác chưa hiểu thì 1 viên cán bộ hầm hầm xấn tới:

    - Ai cho phép anh đụng đến tượng Bác? Ngữ anh mà được sờ đến tượng Bác à? Bộ anh định làm ô uế Bác à?

    Anh ta gằn ở tiếng "à" đầy thịnh nộ và đỡ tượng ông Hồ từ tay tôi, nhẹ nhàng trang trọng bê đi như đang ôm 1 cái gì linh thiêng.

    Nhìn anh ta lòng tôi chùng xuống. Nếu gia đình không vào Nam chắc chắn tôi sẽ lớn lên và trưởng thành trong XHCN miền Bắc và rồi có lẽ tôi cũng giống như anh ta và bao nhiêu thanh niên khác được giáo dục để rồi sùng tín ông Hồ như tín đồ tin vào đấng cứu rỗi.

    Nhìn trở lại hơn chín năm trôi dạt từ trại tù này sang trại tù khác, ký ức bỗng hiện ra 1 người Mỹ. Khi tụi tôi đang cong người đẩy 1 chiếc xe cải tiến chất đầy đá ong thì có tiếng lơ lớ:

    - Ê, ê, mấy anh kia.

    Ba đứa tôi ngưng lại. Phía đầu dốc con đường đất bùn lầy là 1 người Mỹ mắt xanh. Anh ta cũng đi dép râu và quần áo cũng đen xỉn như bất cứ ai. chiếc xe jeep nhà binh rõ ràng là chiến lợi phẩm từ miền Nam, sa hố nằm nghiêng bên lộ. Trong khi tôi còn đang ngạc nhiên thì ông bạn tù thâm niên hơn tôi chửi thề:

    - Đù má thằng phản bội.

    Và anh ta sấn sổ bước tới cái xe jeep tay thủ cây gậy gỗ. Tôi và ông bạn kia lín nhín chạy theo. Người Mỹ lùi vào phía bên kia chiếc xe dơ tay chỉ:

    - Tên gì? Tên gì? Tôi báo cáo cán bộ.

    - Đù má mày. Tao đánh thấy mẹ mày.

    Người Mỹ bỏ chạy. Người bạn tù quay sang phía hai đứa tôi:- Thằng khốn nạn. Nó là tù binh Mỹ nhưng hèn mạt, lạy lục tụi nó xin tha. Nó lấy tên Việt là Nguyễn VN được phong cho cái chức là chuyên viên gì đó, chuyên lo sửa cái máy điện ở thị xã. Nó đến trại mấy lần nói chuyện, toàn là giọng hèn hạ chịu không thấu. Hồi trước nó cũng đạp xe thấy mẹ, chắc mới được cấp xe jeep.

    Tôi đứng bên bờ đường đất nhìn người Mỹ cao lênh khênh vẫn còn nắm đấm cung tay dọa dẫm tụi tôi. Không hiểu anh ta có trở về Mỹ hay thật sự muốn ở lại XHCN với cái tên mới Nguyễn VN.

    Cái gì rồi cũng phải trải qua. Chuyện miền Nam tan hàng, miền Nam rã ngũ, Tổng thống Dương Văn Minh và thái độ của HK mới đầu còn là đề tài sôi nổi nhưng rồi câu hỏi lớn hiện ra rất đỗi thực tế. Hòa bình lập lại rồi tai sao còn giam giữ tù binh? Chúng tôi vẫn sống đời khổ sai nhưng câu hỏi không qua mắt được ban quản giáo. Lời giải thích rất giản dị. Còn nhiều vấn đề nên tạm giữ các anh, Đảng và Nhà Nước đâu có muốn tốn cơm nuôi các anh, phí sức người sức của chăm lo cho các anh. Nhưng đất nước vừa thống nhất, còn nhiều phức tạp trước mắt.

    Đến gần cuối năm, chúng tôi được 1 tin mừng:"các anh sửa soạn đoàn tụ với gia đình trong ngày rất gần đây" Trong khi chờ đợi, chúng tôi sẽ không phải đi lao động. Khoảng ba bốn ngày sau khi được nghỉ lấy sức thì ông Sáu trưởng trại họp tù lại: - Đề án lớn là giúp các anh về lại với gia đình càng sớm càng hay. Nhưng hiện công tác đòi hỏi phải động viên tới các anh, cần sự đóng góp của các anh. Xong sớm các anh về sớm..

    Thế này thì còn gì bằng. Làm sớm nghỉ sớm. Mấy trăm anh tù được huy động phát quang 1 khu rừng thưa. Chúng tôi chặt cây, dựng những căn nhà sơ sài và đặc biệt là làm hàng rào khá chắc chắn. Cái không khí thoải mái hẳn đi. Mấy anh lính đi bảo vệ cũng không cần hối thúc gì, kiếm chỗ mát ngồi hút thuốc lào. Quang cảnh gợi nhớ đến thời SV của tôi sau thời ông Diệm bị giết. Lúc đó tôi đang học Luật và cô bạn Nguyễn Thị Bình Minh có lần rủ tôi đi trại hè SV. Chị Minh có người chồng chưa cưới là thi sĩ. Lần duy nhất trong đời tôi dự trại hè, đi xuống đâu đó ở Vĩnh Long để đào giếng, làm vệ sinh, cắt tóc cho các em bé.. Sở dĩ tôi nhớ chị Bình Minh và anh Trần Đại chỉ vì 1 câu thơ. Khi đang lo đào đất và xây 1 nhà vệ sinh công cộng, anh Trần Đại ứng khẩu đọc 4 câu thơ mà mỗi lần nhớ đến tôi lại tủm tỉm cười: Tôi đi xây cầu tiêu, Cho ngườidân đến ị, Tôi đi sơn cuộcđời , Mong 1 ngàymai mới.

    Cái cảnh tôi đang dự phảng phất như 1 trại hè. Cái khác biệt duy nhất mà chúng tôi nhận ra rất nhanh cho chúng tôi đang đi dựng trại tù. Không phải là 1 trại mà liên miên hết trại này qua trại khác. Nhu cầu rất rõ. Càng làm nhanh càng tốt. Và càng rào cao càng chắc chắn là đạt yêu cầu. Thật là giản dị. Tù xây nhà cho tù, tù tự nuôi tù và nếu cần tù sẽ đóng góp sức người sức của để cùng phục vụ chung. Ngay khi đó chúng tôi không ai đặt câu hỏi là tre nứa, đá ong chúng tôi đôi khi phải đổi cả mạng sống, được chở đi đâu, bán cho ai và lợn tức thu nhập ai hưởng?

    Liên miên trong mấy tháng, chúng tôi bị điều đi dựng trại cho đến 1 hôm tù chịu không thấu thì tin mừng đến. khoảng độ mười người được gọi lên khung làm việc. Sau đó họ trở về với 1 bộ quần áo khác - quần áo dân - để về xum họp với gia đình. Tại sao chỉ có mười người? Ông Sáu trại trưởng đã họp mọi người lại làm lễ "phóng thích" và nhân tiện trấn an: - Các anh không bao giờ thấu triệt được những khó khăn mà Đảng và Nhà Nước phải đối phó. Bọn tàn dư của chế độ cũ vẫn chưa chịu nằm yên. Bọn đế quốc vẫn lăm le. Kẻ thù trong, kẻ thù ngoài vẫn muốn đẩy dân vào vòng nô lệ. Tuy nhiên Đảng và nhà nước lúc nào cũng nghĩ đến các anh, ngay khi tình hình an ninh địa phương cho phép, các anh sẽ về với gia đình.

    Tù lại lo đi xây trại hăng hái hơn bởi quả là ở cuối đường hầm có ánh sáng le lói. Đã có người về đấy thôi. Và sau đợt đầu có có vài ba đợt nữa, mỗi đợt thường không quá mười người. Thường thì thấy tù mỏi mệt quá, căng thẳng quá là lại có 1 đợt phóng thích. Nó như cái bó cỏ trước mũi con ngựa. Lâu lâu người xà ích lại hạ bó cỏ cho con ngựa giựt vài cọng để cố rướn lên kéo xe.

    Bao giờ cũng là 1 lời hứa mơ hồ."khi nào tình hình an ninh địa phương cho phép các anh sẽ về." Hoặc "địa phương chưa có điều kiện để tiếp đón các anh ".

    Cứ thế chúng tôi di chuyển từ địa điểm này qua địa điểm khác lo xây dựng những cái nền cho nhà tù với hàng rào, những căn lán sơ sịa và những hệ thống nhà cầu lộ thiên. Chỉ là căn bản bởi chúng tôi không có nhiều thì giờ. Mãi đến sau này tìm hiểu tôi mới biết cả triệu người tù cải tạo ở miền Nam đang được dự trù để đưa ra Bắc. Và điều không ngờ là những trại tù đó lại để dành cho chính tôi và 1 số tù binh khác khi "chuyển diện" từ tù binh thành tù cải tạo.

    Khi thuộc diện tù binh, chúng tôi chịu sự quản chế của QĐ miền Bắc. Dù từng đối mặt với nhau trên chiến tuyến nhưng cách gì nữa lính vẫn là lính. Khi chuyển sang tù cải tạo, chúng tôi chịu sự quản lý của CA N/d.

    So với chế độ tù cải tạo thì tù binh là thiên đường.

    Những người được chế độ gọi 1 cách rất văn vẻ là Học Viên Học Tập Cải Tạo với hàm ý rằng họ không phải là tù, nhưng trên thực tế từ người dân cho ngay cả đến cán bộ đều gọi họ là tù. Tù Cải Tạo. Chữ nghĩa dù có đẹp đến đâu cũng không thể đánh lận con đen bởi cảnh sống thực tế cho thấy họ đang ở tù mà không hề được xử và nhất là không có tội danh. Đảng và Nhà Nước thì luôn luôn biện minh rằng đây là chính sách khoan hồng nhất. Cải tạo ít lâu trở thành người tốt thì về. Chỉ có điều thế nào là người tốt thì hoàn toàn do quyết định của Đảng, của TW, của Nhà Nước hay đôi khi chỉ là của ông cán bộ dấm dớ nào đó.

    Tù binh chúng tôi sau những ngày tháng miệt mài đi xây trại cho đến khi coi như xong, đã đến lúc được tập trung lại. Lần cuối đó cỡ 30 người được thả về, số còn lại "đáng lẽ cũng đã về nhưng vì tình hình địa phương chưa cho phép. Đảng và Nhà Nước có để các anh về ngay bây giờ thì khi về đến địa phương các anh sẽ bơ vơ, không có hộ khẩu là có thể nguy đến tính mạng vì phản ứng của dân chúng. Các anh biết các anh vẫn là tội phạm chiếntranh."

    Trời đất ơi, dân miền Nam căm thù chúng tôi đến vậy sao? Nếu là tội phạm chiến tranh thì sao không lập phiên tòa xử?

    Ông Sáu trại trưởng bảo vì đó là Đảng và Nhà Nước khoan hồng và từ nay không còn tù binh nữa và ông Sáu và những người bộ đội canh tù nay hết nhiệm vụ. Không phải là tù binh nữa, chúng tôi được cải tội danh và trở thành Học Viên Học Tập Cải Tạo đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội Vụ, của CA N/d. Như vậy cuộc đời tù tội của tôi từ nay sẽ rẽ sang 1 ngã khác, cái đoạn đường tăm tối nhất mà tôi sẽ phải trải qua.

    Đầu tiên, vì không còn trại giữ tù binh nữa nên chúng tôi được phân tán mỏng thành từng nhóm độ 2-30 người. Mỗi toán đến 1 trại. Tôi nhẩm tính chỉ riêng số trại tù mới do tù binh khởi lập đã trên 1 chục, chưa kể đến những trại đã có sẵn. Hẳn nhiên là con số tù phải lớn lắm.

    Những anh em tù cải tạo được lũ lượt chuyển ra Bắc sum họp với tụi tôi. Ngay lần hội ngộ đầu tiên đã có rất nhiều khác biệt. Những người tù cải tạo vẫn còn đượm nét "thư sinh". Họ được nhà nước hứa đưa đi học tập mười ngày rồi sẽ trở về với gia đình vợ con. Sáu bảy tháng sau họ bị lùa xuống tầu, vào trong các toa xe lửa chở 1 lèo ra Bắc. Đã có những người chết ngộp trong các khoang tầu. Đã có người bỏ xác trong các toa xe. Họ bỗng bị vứt vào trong các trại tù với những căn láng sơ sệch sơ sịa, nền đất ẩm ướt.

    Nước sông công tù. Nước sông vốn từ trên núi chảy tụ xuống hoặc từ mương rãnh đổ ra. Chẳng ai mất tiền để mua và hơn nữa biết bao giờ mới hết, mới cạn. Công tù cũng y chang. Họ bị đẩy vào cảnh tự dựng, tự xây lấy nhà từ để tự nhốt. Vào những năm 1976, 1977 VN lâm vào cảnh suy kiệt kinh tế. Người dân còn phải ăn độn khoai, độn bobo, ăn mì luộc viện trợ thay cơm. Dân đã vậy, tù còn khổ gấp vạn lần. Miếng ăn trở thành vô cùng vĩ đại và cái đói ám ảnh mỗi 1 con người. Tôi đã chạm mặt tử thần chỉ vì miếng ăn. 1 lần cả đội tôi được lệnh đi đào đá ong ở khá xa. Mặc dù ăn đói, chúng tôi vẫn phải lo đào chặt những viên đá ong cho đủ tiêu chuẩn. Hôm đó khi trở về 1 làng gần, chúng tôi được gửi ở nhà dân. Bà cụ già đầy lòng nhân đã ái ngại nhìn chúng tôi:

    - Sắn mới rỡ ở nương về, các ông cứ ăn thoải mái.

    Sắn mới nhổ tươi rói, nướng thơm lừng và ăn ngọt lịm. Tôi ăn lấy ăn để, ăn không kịp nhai, mỗi miếng sắn vừa dẻo vừa bùi như quện với nhau thi đua trôi vào bao tử. Vừa ăn xong là tôi vật ra ngủ thẳng cẳng không biết trời biết đất gì nữa. Nhưng chỉ đến nửa đêm, tôi choàng tỉnh, người nóng bừng bừng. Tôi bắt đầu nôn. Nôn thốc nôn tháo, nôn tới mật xanh mật vàng. Tôi nằm không yên, ngồi không được, cả người nóng như cục than. Anh em đồng đội xúm vào và may mắn gia đình bà cụ là dân địa phương biết ngay tôi bị say sắn. Mãi sau này tôi tìm hỏi được biết trong sắn có những hóa chất gì đó nhất là sắn tươi, rất độc, nếu ăn nhiều quá lại không hợp có thể chết như chơi. Người con bà cụ cho tôi uống 1 hơi ba bốn bát nước nấu với 1 ít lá cây gì đó tôi cũng chẳng hiểu. Đầu óc tôi lơ mơ như say như tỉnh, tứ phía quay cuồng. Bát nước đầu chưa xuống đến dạ dày lại ói ra. Người nhà nông vẫn ép. Tới bát thứ ba thứ tư gì đó, anh ta vỗ vỗ vào lưng tôi: - Không sao đâu. Không chết được đâu. Lá này chuyên trị say sắn tài lắm.

    Và thật là nhân đức. Anh ta ngồi cạnh tôi kiên nhẫn bắt tôi uống thứ nước lá gia truyền, ói lại uống, cho đến gần sáng, tôi lả người đi, nằm xoải ra trên nền đất.

    Tôi bị liệt giường liệt chiếu gần 1 tháng, lúc gượng dậy soi gương thấy mình là 1 người khác.

    Đó là đối với tôi, 1 thanh niên đang độ cường tráng và đã trải qua hơn 1 năm quen cảnh tù đầy. Nhưng đối với tù cải tạo từ Nam ra, đối phó với cái đói cái rét khó khăn hơn nhiều. Tập thể tù cải tạo khác hẳn tù binh. Tương đối tù binh vốn là sĩ quan nên khá đồng dạng và có thể vì chúng tôi bị bắt tại trận trong lúc cuộc chiến chưa thật tình ngã ngũ nên niềm kiêu hãnh vẫn được duy trì. Tù binh đã bảo bọc nhau, đoàn kết và giữ phẩm cách để ngay chính những người cai tù cũng có phần e dè kính nể. Nhưng tập thể Quân Cán Chính miền Nam bị dồn đi học tập lại khác. Có vẻ như trại tù là phản ánh của 1 xã hội miền Nam thu hẹp lại. Khó mà tưởng tượng được 1 ông thứ trưởng, 1 ông dân biểu, 1 vị đốc phủ sứ cả đời nhung lụa nay bỗng đói, bỗng khát và bỗng bị khổ sai. Người CS có biệt tài tha hóa con người, đẩy mọi cá nhân vào tận cùng của đáy vực khổ đau, sử dụng miếng ăn như 1 võ khí để bẻ gãy mọi đề kháng. Tôi đã chứng kiến cảnh những tai to mặt lớn cãi nhau vì bát cơm này đầy hơn bát cơm kia, cảnh tố cáo nhau, làm ăng ten để bớt khổ bớt đói.

    Tôi nhớ mãi ông thẩm phán già, ông Nguyễn Văn Thông. Ông vốn là sĩ quan Quân Pháp đã về hưu nhưng dại dột đi trình diện học tập vì tưởng "đi cho xong, cho nó nhẹ người." Ông bị gán cho đủ thứ tội và phải đi Bắc vì thuộc thành phần ác ôn. Trầm tĩnh, ít nói, chịu đựng nhưng từ ông là 1 cái gì nhân ái, tình người luôn tỏa ra. Ông bảo với tôi: - Môn võ trong tù là ít ăn ít nói. Càng ít nói càng tốt. Càng ít ăn còn tốt hơn nữa. Và nhất là muốn trở về thì đừng làm anh hùng.

    Tôi không bao giờ muốn làm anh hùng. Tôi vốn là đứa ít nói nhưng cái ăn không lúc nào không ám ảnh tôi. Bản tính tôi khảnh, nhưng từ xưa lại hay ăn vặt, lúc đi lính, ngay cả khi hành quân, lúc nào ba lô cũng có ô mai, kẹo để buồn mồm thì nhai. Có những đêm trời lạnh như cắt, gió núi lùa vào như những mũi gai, tôi sực tỉnh để thấy mình vừa mơ đang nhai kẹo lạc.

    Tôi gọi ông Thông là Bác vì trọng nể tư cách và trọng nể tuổi tác. Tôi và ông Thông đã bị gọi lên làm việc 1 buổi vì chuyện này.

    Viên quản giáo vừa thấy tôi và ông Thông là đập bàn:

    - Hai anh đã học thông suốt nội qui trại chưa?

    - Chúng tôi lúc nào cũng chấp hành nội qui của trại.

    - Láo. Các anh láo. Các anh vẫn còn duy trì tác phong Ngụy. Vẫn đặc sệt đầu óc quan lại.

    Tôi và ông Thông lúng túng chờ đòn tiếp:

    - Các anh biết nội qui trại yêu cầu mọi người phải cư xử bình đẳng. Anh Dũng, anh gọi anh kia là gì?

    Tôi chột dạ nhìn người quản giáo tóc bù xù và mặt thì đen quắt lại, giả lả: - Ông Thông là bạn với gia đình từ lâu tôi vẫn gọi là bác nên quen miệng.

    - Láo. Cả nước chỉ có bác là Bác Hồ. Anh định dụng tâm gì vậy? Anh định bôi nhọ chế độ hay sao? Nội qui nói rõ phải sưng hô là anh, không có cái kiểm rởm ông này bà nọ, không có cái thói quan liêu chú cháu gì nữa.

    Tôi và ông Thông đã phải viết tờ kiểm điểm tới bốn tối liền. Lần đó ông Thông thì thầm trong đêm:

    - Họ thế cả. Họ muốn phạt ngang phạt dọc để chặt bằng mọi thứ, cây già cây non, cổ thụ hay giây leo, cứ phạt cho ngang nhau là khu rừng trở thành đẹp đẽ lý tưởng và ta có 1 XHCN lý tưởng.

    Cái so sánh của bác Thông làm tôi tủm tỉm cười trong đêm, nhưng quả là khó cho tôi khi phải gọi ông là anh. Đối với tôi đó là 1 sự bất kính, và là 1 băng hoại của nếp sống của dân tộc.

    Lịch sử sau này chắc chắn phải đưa ra những lý do khiến miền Nam sụp đổ. Những lý do tất phải nhiều nhưng có những lý do phải là người đương thời, những kẻ trực tiếp can dự, sống trong cuộc chiến mới cảm nhận được. Với cá nhân tôi, tôi vẫn nghĩ là quân dân miền Nam diễu cợt, thiếu nghiêm chỉnh và thờ ơ. Tôi nhớ mãi khoảng 1 thời gian sau khi bị động viên, lúc còn đang ngu ngơ ở tiểu khu Phước Long, Trong 1 lần về phép được hầu chuyện với các vị thức giả ngồi xoa mạt chược ở nhà chú Trung. Tôi không nhớ ai vì tới sáu vị - phải đánh tới gió xồi - nhưng dù xoa, mọi người vẫn bàn chuyện nước. Vừa xoa vừa nói chuyện chính trị, thời cuộc, càng hào hứng. 1 vị đã phát biểu: - Cái thế tất yếu là miền Nam sẽ thắng vì chúng ta vừa đánh vừa dưỡng. HN dốc toàn lực, nay hết đáng sợ không còn sức dể kéo dài. Quí vị thấy bộ đội BV bị bắt trong trận Mậu Thân mặt mũi non choẹt, có khi mới 16, 17 tuổi. Phải sử dụng đến con nít, tôi e miền Bắc kiệt quệ, hết nhân lực rồi.

    Cái quan điểm rất lãng mạn và đầy lạc quan đó đôi khi còn được phản ánh nơi cung cách ăn nói. Phản chiến thế giới um sùm về vụ chuồng cọp và cán bộ nằm vùng đã giật giây để có được "Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù". Chuồng cọp bỗng trở thành biểu tượng cho miền Nam với tất cả xấu xa được gán ghép.

    Thế Chuồng Cọp có đáng sợ như Kiên Giam không? Đối với lính tráng miền Nam, Chuồng Cọp chẳng qua chỉ là 1 sự ví von, diễu cợt. Đơn vị nào ở hậu cứ cũng đều có Chuồng Cọp để phạt những binh sĩ ba gai, ba đồ, thiếu kỷ luật. Đi phép mười ngày nhưng 1 tháng sau mới lò dò về trình diện thì phải ngồi chuồng cọp. Say rượu đánh nhau thì phải ngồi chuồng cọp. Đó là 1 khoảng đất trống rộng độ năm sáu mét vuông, được quây bằng giây thép gai. Kẻ bị phạt ngồi trong đó nhưng đa số đều chấp nhận trong cái suy nghĩ của mình - làm bậy nên cấp chỉ huy phạt. Họ vẫn được ăn uống tử tế và ngay cả những nhu cầu vệ sinh tối thiểu cũng vẫn được hưởng. Nhưng bỗng nhiên mấy ông nhà báo, mấy ông quay phim ngoại quốc thổi phồng lên, khiến cả thế giới nói đến Chuồng Cọp và vẽ vời rằng Chuồng Cọp là 1 hình thái đầy ải tù binh, hành hạ cán binh CS bị giam giữ ở Côn Sơn, ở Phú Quốc, 1 biểu tượng đầy tàn ác, thiếu văn minh, không có dân chủ, độc tài quân phiệt của miền Nam. Người ngoại quốc nhìn thấy cái Chuồng Cọp với 1 kẻ ngồi thu lu trong đó hẳn phải rùng mình. Nhưng họ có bao giờ được biết rằng ngồi Chuồng Cọp đôi khi lại là lúc phè nhất. Nhưng nội nghe cái tên Chuồng Cọp đã rởn tóc gáy. Hỡi ơi, thế giới không nói đến Kiên Giam. Phải chăng Kiên Giam - chữ của CS Trung Quốc - nghe nó nghiêm chỉnh hơn cái ví von Chuồng Cọp của binh sĩ miền Nam? Và khi cả triệu quân cán chính miền Nam bị đầy đọa, tại sao báo chí thế giới không ghé mắt vào xem Kiên Giam? Đã có bao nhiêu tù chết trong những lò Kiên Giam?

    Suy nghĩ trên có lý do của nó. Tôi đã bị Kiên Giam và nếu không nhờ có sức thì e đã đi tàu suốt.

    Mọi sự bắt đầu từ kỹ thuật khai thác sức lao động của tù. Tù nhân được lao động theo chế độ khoán, làm xong là nghỉ. 1 ngày chặt 50 cây tre, đủ tiêu chuẩn thì đạt, và những người cai tù, những bảo vệ lúc nào cũng rêu rao: "Các anh cố làm nhanh nghỉ sớm." Nhưng đến tối về học tập kiểm thảo thì tiêu chuẩn lại được đưa ra thảo luận. Tại sao anh A làm có nửa buổi là xong mà những người khác cố tình bê trễ để đến tận chiều tối chưa rồi? Ý kiến lên ý kiến xuống để cuối cùng phải nâng cao tiêu chuẩn, mỗi ngày thay vì 50 nay nâng lên 60 cây tre. Tù được khuyến khích để tự mình đẩy mình vào cái thòng lọng xiết cổ.

    Toán tôi lúc đó cỡ gần 50 nhân mạng trong đó có độ mười anh em tù binh, còn lại là tù cải tạo từ miền Nam ra. Chúng tôi được điều đi nhổ mạ, khoán mỗi người mười mét vuông. Đứng ngoài nhìn vào nhà nông làm sao dễ thế nhưng khi chính mình phải cong lưng giữa đồng mới thấy công việc không dễ, không nhẹ nhàng gì cả. Nhổ 1 nắm mạ phải rũ hết đất bùn ở rễ, sau đó gom lại thành từng bó lớn. Lá mạ tuy non nhưng rất sắc cứa vào bàn tay đôi khi rớm máu. Cái đáng sợ nhất là ruộng mạ non thường là hơi sấp sấp nước, chân lúc nào cũng phải ngập dưới bùn và để nhổ mạ, luôn phải ở thế cúi lom khom.

    10 mét vuông không phải nhỏ, và nếu được lứa, mạ rất dày. Lưng tôi như còng đi, gập xuống và mỗi lần đứng thẳng dậy phải rất từ từ vì bắp thịt và xương sống như dãn ra, như co lại mỏi nhừ. Chúng tôi đã rỉ tai với nhau để ì à ì ạch, làm thật chậm để mong ngày mai bớt tiêu chuẩn. Nhưng 1 ông bạn tù to lớn làm rất nhanh, vèo 1 cái đến tầm trưa là xong. Người bảo vệ cho anh ta nghỉ để linh tinh. Cái chữ linh tinh đúng là linh tinh vì anh ta có dịp đi bồi dưỡng lẻ. Anh ta mò mẫm đi tìm con cua, con ốc, kiếm thêm tí rau tăng khẩu phần. Cả đội vẫn lui cui nhổ mạ và đã có tiếng xì xào. Trên đường về anh bạn tù nhơn nhơn bảo anh ta đói quá, to con lớn xác nên cần ăn nhiều. Ô kìa ai chẳng đói? Sống trong trại tù - nhất là tù Bắc trong những năm 78, 79 - không đói thì chỉ có là thánh. Mười sáu ký lô tiêu chuẩn giấy tờ nhưng thực tế bị ăn đầu ăn đuôi e còn được mười hai ký. Chữ thực phẩm cũng mù mờ, có thể là gạo nhưng đa phần là bột mì, đôi khi là sắn. Lao động khổ sai và học tập liên miên, tù trông như những bộ xương biết đi. Đâu phải chỉ có mình anh đói?

    Cuộc kiểm thảo tối đó sôi nổi và anh chàng to khoẻ ăn nhiều được tuyên dương và để noi gương anh hùng của anh ta, tiêu chuẩn nhổ mạ tăng lên mười lăm mét vuông. Hôm sau người hùng làm còn hăng hơn nữa trong khi cả đội lệt bệt hẳn so với hôm đầu. 2 tù binh - Tr/u Ngọc và Th/u Lâm - cùng nhóm với tôi từ ngày đầu khi trại từ binh giải tán - đâm lì, nhất định không chịu lao động nữa, ngồi trên bờ ruộng. Ngay khi về đến trại, họ bị tách riêng ra và bị kiên giam ngay lập tức vì có "lập trường ngoan cố".

    Trước đây tù binh được giữ riêng nhưng kể từ khi tù cải tạo được chuyển ra Bắc, các trại từ đều có thường phạm. Những người tù thường phạm được giam ở những căn láng chen lẫn với tù cải tạo, đôi khi có những bức tường thấp ngăn ra. Nội qui trại nào cũng cấm đoán những liên hệ giữa hai loại tù nhưng trên thực tế, tù thường phạm là 1 nguồn cung cấp cho tù cải tạo. Cái gì cũng có thể mua bán đổi chác được hết. 1 điều lạ là đa số tù thường phạm còn rất trẻ. Họ đều mang những án tích nghe đến rợn người, từ trộm cắp, hiếp dâm cho đến cướp của giết người. Họ như những con thú hoang sống bất cần đời, tù ngục đối với họ trở thành nhà. Chính những người bị XHCN ruồng bỏ lại là những người đầy nhân tính, đầy óc giang hồ chi nghĩa, sẵn sàng sống chết vì bạn bè, vì những điều mà họ cho là phải, là đúng. Họ cũng là những người tò mò muốn tìm hiểu về miền Nam, về những cảnh sống mà như Sáu Sẹo nói với tôi: - Em tin là anh kể chuyện thật. Nhưng như vậy thì tụi em bị lừa, lừa từ lúc mới đẻ ra cho đến khi lớn, bị lừa cho đến già. Cả đời bị lừa, cả nước bị lừa.

    Không hiểu vì sao Sáu Sẹo lại thân với tôi. Bắt đầu Sáu làm thân trước, thấy tôi ngồi 1 mình thơ thẩn, Sáu đến chào và đưa thuốc mời. Sau này Sáu bảo trông tôi giống người anh bị chết ở Lào. Tỉ tê đử thứ. Tôi kể chuyện miền Nam. Sáu Sẹo kể chuyện miền Bắc. Bố của Sáu là liệt sĩ, là bộ đội được điều đi Nam và tử trận. Sáu có 1 bà mẹ mù lòa và 1 cô em: - Ở đâu bây giờ chả biết. Nó lấy chồng mạn ngược, không liên lạc thư từ gì nữa. Chắc sợ rắc rối lý lịch.

    Sáu có bí danh Sáu Sẹo vì bị thương trong 1 trận hỗn chiến với CA. Viên đạn xuyên qua mặt trổ từ má phải sang má trái. Sáu bảo: - Nhích lên nhích xuống 1 li là ông cụ làm em chết thẳng cẳng. Vậy mà không gẫy răng. Thằng bs bảo may mà viên đạn xuyên qua không chạm vào răng, vào hàm, không thì cũng đi đứt.

    Không chết nhưng hai bên má Sáu lõm xuống thành hai vết sẹo và giọng nói cũng hơi ngọng đi. Sáu Sẹo học hết lớp bẩy thì bắt đầu sống bờ sống bụi và án tích chồng chất vì đủ thứ tội cho đến khi chém chết 1 viên CA thì bị chung thân. "Em chết trong tù không sao nhưng cứ thương mẹ em." Bất cần đời, sẵn sàng ăn thua đủ, Sáu sẹo trở thành trùm của 1 đám tù lau nhau.

    - Chúng em phải dựa vào nhau mà sống. Lơ mơ là chúng nó đè lên đầu.

    Ông Thông thấy tôi kể chuyện bảo:

    - Những ảnh như vậy thấy nhan nhản trước mắt. Ông cứ nhìn mấy anh em tù hình sự thì thấy ngay. Nhưng họ khác mình khác, không đồng thì không hòa được. Tôi nghĩ là ông nên đề phòng nên lơi lơi tránh xa xa 1 tí.

    Người già và có kinh nghiệm sống lúc nào chẳng dè dặt.

    Khi hai người bạn tôi bị kiên giam, cả đám tù binh như xìu xuống và đội thì ít lao xao hẳn đi. Tôi đã chứng kiến những người bị kiên giam lúc thả ra, có người đi không được chỉ bò, có người thần trí lẫn lộn cả tháng sau vẫn còn ngu ngơ. Cái đáng sợ hơn nữa là 2 ông Ngọc và Lâm bị giam mà không có thời án, không rõ bị đến bao giờ.

    Khoảng 3,4 ngày sau tôi xoay sở được mấy chục viên vitamin C. Tôi nghĩ đây là cách hay nhất để giúp hai ông Ngọc và Lâm. Nhưng làm sao để chuyển cho họ?

    Dãy xà lim kiên giam được xây ở rìa trại, cách li với tù bằng 1 hàng tường thấp nhưng phía trên có rào kẽm gai. Dò hỏi lân la tôi được biết là họ ở xà lim số 6 và số 7.

    Chủ nhật đó, tôi đánh tiếng Sáu Sẹo tới ngay. Nghe xong, Sáu bảo:

    - Được, để em lo vụ này cho, anh yên tâm. Quăng vào cái gói tí xíu này dễ mà. Tưởng cái gì to lớn mới sợ.

    Đêm hôm đó Sáu Sẹo vượt tường vào. Xà lim số 6, số 7 trống không không có ai. Sau này tôi mới rõ buổi chiều không hiểu vì lý do gì hai ông Lâm và Ngọc bị đổi sang xà lim số 1 và số 8. Sáu Sẹo đâm lao thì phải theo lao, thò miệng qua lỗ thông hơi hỏi từng phòng và cuối cùng thì cũng vứt hai gói vitamin vào đúng chỗ đúng người.

    Nhưng không hiểu sao, hôm sau đàn em của Sáu Sẹo báo cho hay Sáu bị gọi lên làm việc cả ngày đến tối cũng chả thấy về. Tôi vừa lo vừa sợ, lòng như lửa đốt. Quả nhiên ngay sau đó tôi được lệnh không phải ra ngoài lao động và khi lên làm việc, tôi bị dội ngay 1 loạt những lời quát tháo. Tôi suy nghĩ kỹ, nhất định phải cứu Sáu Sẹo. Cách hay nhất là chối phăng để trì hoãn. Làm việc - tức hỏi cung - cả buổi, tôi vẫn khăng khăng chối coi như không biết chuyện gì xảy ra. Nhưng đến lúc được trả về, vừa đứng dậy, viên CA cười khẩy:- Từ sáng đến giờ anh vẫn không nhận chủ mưu phá rào liên lạc với tù bị kỷ luật kiên giam. Tôi cho anh về suy nghĩ nhưng thằng Sáu Sẹo nó khai hết cả rồi.

    Tôi chết lặng. Từ đầu tôi không nói và CA cũng không nhắc đến tên Sáu cho đến lúc này. Tôi thất thểu ra về, phía sau còn vẳng tiếng cười gằn của viên CA .

    Cách hay nhất là làm cho mọi chuyện nhẹ đi. Hôm sau tôi nhận, tôi khai giản dị:- Tôi không làm điều gì quá đáng. Chỉ gửi cho mấy anh vài viên vitamin C.

    - Vitamin ở đâu ra?

    - Cán bộ cũng rõ, xin anh em mỗi người 1 viên.

    - Anh đừng có láo. Tôi đố anh xin được nửa viên. Ngữ anh ai mà cho?

    Tôi mắc đủ thứ tội. Liên hệ trái phép với tù thường phạm. Mua bán trái phép ngược nội qui, âm mưu thông đồng với tù thường phạm để phá vỡ kỷ luật trại. Liên lạc trái phép với tù bị kiên giam. Tụ tập, toa rập lập bè đảng để chống phá trại. Tôi thú thật cũng không còn minh mẫn để nhớ hết tội danh. Tối hôm đó, 1 đàn em của Sáu liên lạc với tôi:- Anh khai tên Sáu Sẹo rồi phải không? Anh bị tụi CA nó lừa rồi. Sáu Sẹo bị đánh thừa sống thiếu chết nhưng cắn răng không khai. Nhưng CA chìa cho coi lời khai của anh và nó bị điệu đi rồi.

    Tôi phát hoảng: - Điệu đi đâu?

    - Có trời mà biết. Tụi em thấy chúng nó lôi thằng Sáu Sẹo xềnh xệch ra khỏi trại, e bị dần mềm xương, dám gẫy chân rồi. - Liệu có bắn không?

    - Cần gì bắn tốn đạn. Chúng nó kiên giam ở trại khác ít lâu sau thì cũng chết.

    Tối hôm đó tôi chập chờn trong giấc ngủ ma quái và sáng hôm sau vừa bước vào phòng làm việc, viên CA nhìn tôi tủm tỉm cười nhẹ nhàng:

    - Anh lo lắng cho hai anh Ngọc Lâm. Để chứng tỏ lượng khoan hồng, hai anh ấy được tha về đội. Nhưng trại không thể không duy trì kỷ luật với những đứa ngoan cố như thằng Sáu Sẹo. Nó cứng đầu ra cái điều hảo hán giang hồ, từ nay nó không gặp lại anh nữa đâu.

    Nói xong viên CA nheo mắt nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi chợt thấy trước mặt tôi không phải là khuôn mặt của 1 con người. Nó méo mó dị dạng không ra hình thù gì nữa. Cái khuôn mặt có cái mồm rộng hoác và hàm răng nhô ra thụt vào đó hắt vào mặt tôi lời kết án chung thẩm:

    - Anh cũng giống thằng Sáu. Tội anh còn to hơn vì anh chủ mưu. Anh bị phạt kiên giam hai tháng để suy nghĩ và cải hối.

    Ngay lập tức hai viên CA từ phía sau có AK kè tôi đi. Trước khi đạp tôi vào căn xà lim tối om, họ lục xoát, moi hết của tôi mọi thứ vất đi, cả đôi dép râu cũng bị lột. Trời cuối tháng mười 1 ta bên ngoài lạnh cắt nhưng chưa thấm gì so với phía trong xà lim, bởi cảm nhận đầu tiên khi cánh cửa sập lại đối với tôi là cái lạnh buốt cả từ ngoài vào lẫn trong tâm can ra. Tôi ngồi bệt xuống sân xi măng tê tái.

    Độ mươi mười lăm phút sau khi cánh cửa sập lại, tôi nghe tiếng thét từ phòng bên trái: - Tên gì?

    - Dũng.

    - Tù gì?

    - Tù binh.

    - A ! Bao lâu?

    - Biệt giam hai tháng

    - Ăn thua mẹ gì.

    Sau đó là im lặng.

    Tôi lớn tiếng hỏi lại theo đúng ngôn ngữ của ông bạn bên kia:- Tên gì?

    - Đồng.

    - Tù gì?

    - Thường phạm.

    - Bao lâu?

    - Không thời hạn. Ở đây 4 tháng rồi.

    Cuộc nói chuyện ngắn ngủi và phải hét rất to mới nghe rõ vì dãy biệt giam được xây bằng xi măng khá dầy. Căn phòng bề ngang độ 1 thước rưỡi, bề sau khoảng hơn hai thước. Cái khe thông hơi khá cao rộng cỡ nửa gang tay được xây xéo để ánh sáng hắt lên phía trên. Đó là nguồn ánh sáng duy nhất vì phía trước là tấm cửa gỗ dày và cửa sổ có xong sắt cũng kín mít. Tôi đưa tay sờ. Tường láp nháp sần sùi, những cục xi măng nhô ra như những chiếc gai. Mùi xú uế xông lên nồng nực. Tôi rùng mình trước cái viễn ảnh sẽ ở trong cái địa ngục này hai tháng.

    Bên tai tôi vẳng tiếng ông Thông: "Muốn sống sót trở về thì đừng làm anh hùng". Liệu cái hành động gửi mấy viên thuốc vitamin C vào cho bạn bè có phải là hành động anh hùng không? Nếu tôi không thoát nổi căn hầm tối này, thì đó có phải là cái chết anh hùng không? Liệu trường hợp tương tự xảy ra vào ngày mai, ngày mốt, tôi có lại gửi thuốc cho bạn bè không?

    Tôi không suy nghĩ gì được nhiều vì có tiếng lách cách mở cửa sổ chấn song. 1 bát lưng cơm được chuồn vào. Người đưa cơm chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi. Từ sáng tới giờ tôi chưa ăn gì nhưng không thấy đói, dạ dày chắc co thắt lại, không tiết chất chua nên đòi hỏi. Tôi đã có dịp nhìn những người tù ra khỏi phòng kiên giam. Có người đi không nổi chỉ còn bò lê. Có người ngơ ngơ ngác ngác như mất hồn. Tôi để bát cơm trên nền xi măng ngắm nghía. Cái bát sắt dầy dặn có lẽ được sản xuất ở Trung Quốc, nhiều chỗ sơn đã long trơ cái cốt sắt phía trong. Tặc lưỡi, tôi bốc từng nhúm những hột cơm mầu vàng ệch bỏ vào miệng nhai kỹ. Đừng để quỵ. Đừng chết. Không thể thua được.

    Tôi không biết đó là bữa cơm duy nhất trong ngày. Tù biệt giam ở trại này chỉ có 1 lưng bát cơm 1 ngày. Tôi nói ở trại này vì mỗi trại có cách đối xử khác nhau, tùy nơi. Sau này tôi được nghe có trại hễ kiên giam là bị xiềng ngồi, ngồi giống kiểu đóng gông thời Pháp, có nơi bị khóa hai chân, có nơi khóa cả chân lẫn tay, có nơi 1 ngày được ăn tới hai lần. 1 ông bạn tù còn kể rằng có những tù được nuôi bằng cơm trộn muối, lượng muối nhiều hơn cơm để cho mau chết. Riêng ở đây là 1 bát 1 ngày.

    Tôi quyết định phải tự duy trì sức khoẻ và bắt đầu ngay lập tức. Tôi đi vòng quanh đếm. Nếu đi bước ngắn là hai mươi hai bước, đi sãi chân bước dài thì chỉ mười bước. Tôi đi không biết bao lâu, cắm cúi đi, đầu óc trống rỗng. Tôi chợt khám phá cái dụng tâm của bưc tường xi măng xù xì gai gốc. Tôi không thể ngồi dựa lưng vào bức tường được. Tôi mệt quá ngồi bệt xuống sàn láp nháp, ôm đầu gối gục đầu trong thế ngủ ngồi.

    Trời tối từ lúc nào tôi cũng không rõ. Tôi sực tỉnh vì lạnh quá. Gió lùa qua khe thông hơi như rít lên trong đêm âm u. Chung quanh tôi là bóng tối dày đặc, là cái im lặng đến rợn người. Tôi mò mẫm đến góc phòng cầm cái ca nước lên nhấp 1 chút. Nước lạnh điếng. Nhất định không để cái buồn chán xâm nhập, tôi bèn vừa đi quanh vừa hát. Câu đầu tiên buộc ra khỏi miệng là "này công dân ơi, QG đến ngày GP..". Mới đến đó tôi khựng lại. Phải chăng là phản xạ tự nhiên? Phải chăng là tự tiềm thức? Tại sao lại là bài hát tôi đã từng lúng búng trong miệng bao nhiêu năm trời không thuộc hết bài đó lại bật ra vào lúc này. Tôi lắc đầu xua đuổi những hình ảnh tới tấp trở về trong ký ức. Tôi hát 1 lèo hết bài quốc ca, hát đầy đủ và hát đi hát lại cả chục lần. Cái lạnh rừng núi vẫn không giảm. Tôi hét:

    - Tên gì?

    Và tự trả lời: - Tên Dũng. Đỗ Lệnh Dũng. Tr/u Đỗ Lệnh Dũng, số quân 66-168-330

    Tôi đến đất Bắc trong cơn mưa phùn lạnh gần 7 năm về trước, 7 năm của tù đày nhục nhã, 7 năm của cái buồn nhiều hơn vui, 7 năm của cố gắng sống còn.

    Tôi sắp rời đất Bắc để trở lại nơi đã ấp ủ nuôi dưỡng tôi và trong cái niềm vui hồi đó, ông trời có lẽ cũng thông cảm nên nắng đẹp, không nóng quá như những ngày hè vừa qua.

    Hình như dân Bắc, nhất là ở ga Yên Bái này, mọi người đã quen nhìn lũ tù cải tạo miền Nam gầy guộc, co rúm, nheo nhếch. Đã biết bao nhiêu đám tù tới và đi? Chẳng ai đếm và cũng chẳng ai buồn lý tới. Cơm áo hàng ngày, cuộc sống không bao giờ nghĩ tới tương lai, người dân XHCN chẳng ai có thời giờ cho lũ tù cải tạo.

    Đứng ở sân ga chưa tới 10 phút, tôi cố giương mắt lên nhìn lần cuối. Những người dân cũng vẫn trông không khác gì so với những ngày đất nước chưa thống nhất, trừ mấy chiếc Honda, Suzuki. Vẫn gồng vẫn gánh và những phụ nữ già nua trùm khăn mỏ quạ ngồi bên những chiếc thúng bán xôi, bán bánh kẹo trông ủ rũ như cuộc đời phía trước.

    Những ông bạn tù – đợt này về hơn 100 mạng – đều là những thứ "Ác ôn, ngoan cố, lý lịch hắc ám". Nếu không thì đã được xuất trại từ lâu mới phải. Tiếng súng đã ngưng từ hơn 7 năm rồi mà! Trong cái suy nghĩ đó tôi quay sang hỏi ông đứng cạnh:

    - Binh chủng nào mà giờ này vẫn còn dính với tụi tôi?

    - Đâu có lính tráng gì. Công chức. Chủ sự

    - Sao bóc nhiều lịch thế? - Dân vận. Họ bảo tôi ác ôn, là bọn phun nọc độc vào quần chúng, là chiến tranh tâm lý xách động quần chúng, là tay sai CIA

    - Lắm tội thế hẳn nào.

    Cả 2 cùng cười, nhưng là cái cười méo xệch, trông quả không giống con giáp nào.

    May quá, khi xe lửa ngưng ở HN, chúng tôi không bị dân chào, ném đá như lần trước. Ga Hàng Cỏ đông, ồn ào như chợ vỡ, người ta chen nhau, huých nhau để leo lên con tàu Thống Nhất xuôi Nam. Cho dù tù được nhốt ở toa cuối nhưng tiếng chửi, tiếng la hét inh ỏi vẫn vọng vào qua cửa sổ đóng kín.

    Vào khoảng nửa đêm gần sáng, ông bạn tù dân vận huých tôi: - Ngửi thấy không?

    Mùi biển. Gió từ ngoài đem vào cái mùi tanh ngọt của rong rêu, của cá, của nước mặn.

    - Chắc bắt đầu qua khỏi Vinh, Thanh Hóa. Vậy mình sắp về đến nơi.

    Tôi bật cười trong đêm. Về đến nơi! Có về đến nơi thì vẫn thân phận tù không án, ngày về đến nơi thật vẫn tít mù tắp không biết đến bao giờ. Đây có lẽ là con tàu tốc hành nên ngừng rất ít, đâu bốn năm chặng gì đó và tất nhiên không có chuyện chúng tôi được xuống ga đi lại cho dãn gân dãn cốt. Gần đến trạm là bộ đội, CA kéo sập hết cửa sổ lại. Toa cuối nên lắc dữ và lũ tù cũng chỉ còn biết ngồi chịu trận lắc lư theo tầu.

    Khi tầu ngừng sau hơn môt ngày 1 đêm, chúng tôi được lệnh. Vừa đặt chân xuống lại miền Nam, chúng tôi nghe tiếng bà con gọi nhau: - Cải tạo. Tù cải tạo.

    Chỉ 1 loáng, những người dân Bình Tuy có mặt ở sân ga ồ lại phía chúng tôi. CA áo vàng, trật tự viên và bộ đội chặn lại, họ xua. 1 chiếc bánh lá được ném sang và sau đó là tới tấp đủ thứ. Những em bé quần đùi áo xốc xếch đặt cả cái thúng xuống và vung tay ném bất cứ thứ gì trong đó về phía tụi tôi. Bọn CA hò hét ngăn cản, lùa chúng tôi vào 1 góc, nhưng anh em tù ai nấy đều chộp, vồ được. Người thì trái bắp luộc, kẻ thì bánh ít, quả ổi, quả chuối hay 1 nắm xôi đậu.

    Có cái gì dâng lên trong tôi. Thế ra lòng người miền Nam vẫn ở với chúng tôi. Thế ra sau bẩy năm cái tình vẫn còn nguyên đó, cái tình của những người dân buôn thúng bán bưng, của những em bé bán dạo. Tôi nheo mắt nhìn nắm xôi đậu đen gói trong lá chuối. Miếng xôi đã vỡ, văng xuống đất 1 nửa. Miếng xôi xộc xệch, mầu xôi hơi tim tím bao lấy những hột đỗ đen thẳm. Tôi cẩn thận nắm nó lại, bỏ vào túi.

    Những chiếc xe GMC màu ô-liu nay đã cũ kỹ, chiến lợi phẩm của cuộc Đại Thắng Mùa Xuân, chờ sẵn và rất nhanh chúng tôi bị lùa lên. Các ông bạn tù vừa đi vừa ngoái lại coi đám đông cỡ hơn 100 người dân vẫn đứng tụ trên sân ga. Họ vẫn đứng đó nhìn theo chúng tôi và biết đâu không có 1 em nhỏ đang ngóng cổ xem bố mình có mặt trong đám tù chăng?

    Trại tù nào dưới chế độ thì cũng thế. Nhưng xem ra sau hơn bẩy năm học tập, hết đợt này đến đợt khác, trại tù này trông có vẻ khang trang ngăn nắp. Khởi thủy đây có thể là rừng hoang, đất cứng như đá, đồng khô cỏ cháy nhưng để đổi lấy những dãy nhà tù ngang dọc, những căn nhà quản giáo, những hàng rào, vọng gác, bao nhiêu tù đã gục ngã. Họ trả giá bằng chính xương máu của mình để có được chỗ tự giam và giam bằng hữu đồng đội.

    Khi chúng tôi xuống xe thì trại tù vắng vì tù còn đi lao động bên ngoài. Cái nắng của miền Nam khác cái nắng mạn ngược miền Bắc. Nó có vẻ nóng nhưng không gắt, mặt trời rạng rỡ nhưng không oi, người không lúc nào cũng rịn mồ hôi. Ít ra thì dù vẫn là tù, nay chúng tôi đang ở miền Nam và cái vụ thăm nuôi có vẻ sẽ dễ dàng hơn.

    Tôi đã chuyển trại cả chục lần nên hiểu chuyện gì sẽ xẩy ra. Đối với anh em cùng cảnh là màn hỏi thăm tới tấp. Ai đã được thả, ai đã chết, kẻ nào còn lê lết trong những địa danh như Hoàng Liên Sơn, Thái Nguyên, Việt Bắc. Với tụi tôi là 1 vài ngày thích ứng. Không phải lao động nhưng lại cong người khai lý lịch.

    Ai đã đi tù CS đều biết cái màn khai lý lịch. Đã có ai khai dưới 10 lần chăng? Tôi không chắc nhưng cá nhân tôi thì không đếm xuể. Tù cũng đã rút kinh nghiệm và bảo nhau. Càng viết dài càng tốt, nhưng càng khai ít càng tốt. Đây là cả 1 nghệ thuật. Bản lý lịch viết vỏn vẹn có 2,3 trang thế nào cũng phải khai lại. Nhưng viết dài mà lại khai tứ tung ngũ hoành, dây mơ, rễ má là thế nào cũng được làm việc tiếp. Trước sau tôi không bao giờ nêu tên ông bác Đỗ Lệnh Tích của tôi trong lý lịch. Đây là quyết định của tôi ngay từ lúc đầu khi bị khai thác ở mặt trận. Trước hết tôi không nghĩ ông bác tôi muốn nhòm ngó gì đến thằng cháu Ngụy và nếu có muốn ông cũng không dại gì hy sinh sự nghiệp CM, không thể để lý lịch có tì vết. Về phần tôi, tôi không muốn bị phiền hà. Với gia đình, tôi không thể dấu nên khai là đã đi Mỹ nhưng cố không ghi rõ thời gian, nhưng khi nhận được thùng quà từ Mỹ thì tôi phải khai rõ hơn. Từ đó, mỗi lần khai lý lịch, câu hỏi: "Bố anh đi Mỹ từ năm 1964 làm gì? Có phải là CIA không?" Người CS nhìn đâu cũng ra CIA và luôn luôn đem con ngáo ộp CIA ra chụp lên đầu bất cứ ai. Trong 1 lần "làm việc" tôi đã thẳng thắn nói lại với ông quản giáo chấp cung rằng muốn làm việc cho CIA cũng không dễ gì đâu. CIA trả lương cao lắm. Nhưng ông ta cười khẩy mắng tôi như tạt nước vào mặt tôi vì bênh vực CIA. Điều mà mãi sau này cho đến đâu trước hôm mãn tù tôi mới biết rằng chính tôi đã bị kết tội có dính líu đến CIA, rằng gia đình bố mẹ anh chị em tôi đã có những liên hệ nguy hiểm với Mỹ và có thể CIA đã tìm đủ mọi cách cứu tôi. Chuyện gì xẩy ra ở bên Mỹ quả là tôi mù tịt vì tôi không hề nhận được thư từ của bố mẹ tôi và sau này tôi cũng mới biết là thư của ông cố vấn Mỹ cùng nhiều thư từ khác của cơ quan công quyền HK để vận động cho tôi.

    Ít nhất thì khi về đến miền Nam tôi cũng lại có cái vui là gặp lại ông già Thông. Ông vẫn chưa được thả mặc dù đã sống 1 cuộc đời tù gương mẫu – Gương mẫu theo kiểu nghĩa không phiền hà, luôn luôn ẩn trong đám đông không bao giờ đối đầu trực diện với cai tù. Tập họp, ông ngồi ở gần cuối. Đi đâu khi phải di chuyển, ngay cả khi phải đi lao động, ông cũng đi ở giữa. Có gì ăn nấy và khi có thăm nuôi thì đem ra chia hết cho mọi người. Ông không có tài sản riêng. Vâng, trong tù vẫn có thể tư hữu. Cái điếu cày chẳng hạn. 1 cái vòng tiện ra từ vỏ đạn được khắc tỉ mỉ để làm quà cho vợ khi về. 1 cái áo ấm gia đình gửi cho. Lỉnh kỉnh nhiều thứ lắm nhưng ông Thông thì chủ chương vô sản. Nhưng những điều khôn ngoan đó vẫn không giúp ông ra tù sớm.

    Nói đến tư hữu phải công nhận tù miền Nam giầu hơn tù miền Bắc rất nhiều. Chế độ đã khoan hồng hơn lúc mới chiến thắng, đã cho phép thân nhân gia đình thăm nuôi thả dàn, càng thăm nuôi nhiều càng tốt. Có rất nhiều ông tù ăn riêng vì họ được thăm nuôi thừa bứa, bữa ăn nào cũng có cao lương mỹ vị như thịt heo khô khô, ruốc chà bông và đôi khi có cả lạp xường nữa. Vảng vất đâu đó cái xã hội của miền Nam lại đang tái diễn trong tù. Tất nhiên là các ông quản giáo không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để chấm mút.

    Trong cái bối cảnh đó, đời tù của tôi lại vấp ngã ngay trong ngày lao động đầu tiên. Khi chia đội, anh em trong số vài ông cựu tù binh nhất định bầu tôi làm đội trưởng. Buổi sáng đầu tiên trước khi cuốc xẻng ra khỏi trại, tôi phải tập hộp mọi người để bá cáo. Viên quản giáo nhìn đám tù mới tới tận mặt khó đăm đăm và ngay khi tôi vừa báo cáo nhân số xong thì ông ta gằn giọng:- Anh báo cáo với cán bộ, tại sao anh lại đội mũ. Yêu cầu anh bỏ mũ ra báo cáo.

    Tôi sững người nhưng tuân hành ngay. Bá cáo xong. Ông lại quát to hơn:- Không phải chỉ có mình anh. Tất cả đội viên đều phải bỏ mũ. Bỏ hết mũ ra báo cáo lại.

    Tôi quay lại yêu cầu anh em tuân hành và báo cáo lần nữa.

    Hôm sau tôi bảo anh em. Không ai đem theo mũ. Khi tôi báo cáo xong, viên quản giáo cười gằn:

    - Trời nắng tại sao các anh không đội mũ. Anh Dũng. Tại sao anh không cho anh em đội viên đội mũ. Anh định âm mưu chống đối gì đây. Tôi muốn anh lên chỗ tôi giặt cho tôi mấy cái chăn ngay lập tức.

    Bỗng nhiên tôi ở thế chẳng đặng đừng. Tôi nhớ đến ông Thông và cố nghĩ xem nếu ông ở vị thế này thì sẽ đối phó ra sao. Tôi không suy nghĩ được lâu vì viên quản giáo nói từng tiếng như gằn:- Anh Dũng, anh nghe rõ không? Anh lên phòng tôi lấy mấy cái chăn giặt ngay.

    - Thưa cán bộ, tôi sẵn sàng chấp hành nội qui của trại, không làm điều gì xai trái. Nhưng xin cán bộ thông cảm. Tôi không từ chối những công tác nặng nhọc nhưng cái vụ giặt chăn..

    - Được. Anh không phải nói nhiều. Các anh có ai muốn giặt chăn cho tôi không?

    Không khí căng thẳng tột độ và 1 cánh tay giơ lên. Tôi không biết đây là 1 hành động cứu anh em hay là 1 bon chen cố ý. Lạy trời đây là 1 nghĩa cử. Viên quản giáo vẫy người đó ra tuyên bố ngắn gọn:

    - Anh không phải giặt chăn. Từ nay anh là đội trưởng. Anh dẫn đội viên đi. Còn anh Dũng anh đứng đó chờ lệnh.

    Đời tù không án nên hình phạt không có đoạn kết không có gì ngạc nhiên. Tôi bị phơi nắng đến cỡ gần hai giờ thì bị xỉu nằm lăn ra giữa sân. Người tôi khô kiệt, da tôi như bỏng và đầu óc tôi toàn những đốm tối và đốm sáng loé lên từng chặp.

    Khi anh em đi lao động về tôi vẫn nằm đó cho đến lúc viên quản giáo khệnh khạng ra lệnh lôi tôi vào. Tôi bị sốt nóng, bị bỏng da nằm li bì cả tuần lễ.

    Cuộc đụng độ của tôi ngay khi vừa tới trại với ông quản giáo đã gây tiếng dội ngay lập tức. Quản giáo Hùng nổi tiếng và có bí danh Hắc Ám với rất nhiều thủ thuật. Viên quản giáo này theo sát tù cải tạo, không hề nương tay trong, lúc nào cũng đôn đốc tù làm việc cật lực. Bộ mặt lạnh như tiền, sẵn sàng trở mặt, đang ngọt nhạt bỗng quát tháo, không có gì xảy ra trong phòng qua mắt được ông ta. 1 ông tù cải tạo đã phải lắc đầu "Nó như con ma xó, động 1 tí là có chuyện liền". Anh em xì xào về hệ thống ăng-ten của viên quản giáo này tinh vi đến độ không biết nên nghi ngờ ai nữa. Mọi người thấy tôi gân xì-mốc, mặt đối tay đôi với Hùng Hắc Ám trước đám đông đều lo lắng cho số phận tôi. Đến ông Thông tuy không ở cùng phòng cũng bò sang dặn dò phải cẩn thận, e rằng Hùng Hắc Ám sẽ còn dở nhiều thủ đoạn nữa. Trời đất, tôi là 1 thằng tù, đối phó với tôi thì quá dễ. Ông Hùng nếu muốn cứ vu cho tôi bất cứ tội danh nào chẳng được, và muốn hành hạ tôi kiểu gì chẳng xong.

    Bẵng đi cỡ nửa tháng, vào 1 buổi chiều khi vừa ăn xong, tôi được gọi lên làm việc. Từ sau hôm bị phơi nắng đến phát sốt, da phỏng tôi lẳng lặng không hé 1 lời về chuyện xảy ra, ai hỏi chỉ cười và bảo:

    - Cán bộ quản giáo có lý của ông ta. Tôi cố giữ tư cách của tôi. Thế thôi, vả chuyện qua rồi đừng để ý hơn.

    Tôi chăm chỉ thi hành bổn phận tù, lao động như mọi người và tỉnh bơ không nói năng oán trách gì. Phải chăng kinh nghiệm và sự khôn ngoan của ông Thông đã thấm vào tôi?

    Khi tôi bước vào, quản giáo Hùng Hắc Ám đang ngồi ở ghế xa lông gỗ, có lẽ là thành tích của mấy ông tù giỏi nghề mộc. Bộ ghế gọn gàng xinh xắn. Thấy tôi, quản giáo Hùng không nhúc nhích chỉ cái ghế đối diện:

    - A, anh Dũng. Ngồi xuống đi.

    Thế này là thế nào? Tôi lập tức thủ thế:

    - Thưa cán bộ, tôi được gọi lên để làm việc.

    Câu nói vô thưởng vô phạt nhưng rõ ràng. Tôi chờ đợi mà hỏi cung, màn viết tờ kiểm điểm hoặc có thể cả màn ăn đòn hội chợ. Quản giáo Hùng vẫn nhỏ nhẹ:- Ngồi xuống làm 1 cốc trà đã. Thuốc 3 số còn mấy điếu, làm 1 điếu đi.

    Tôi tiến thối lưỡng nan, tôi lẳng lặng ngồi xuống nhận ly trà và điếu thuốc ngoại. Đâu cỡ nửa điếu thì ông quản giáo vào đề.

    - Tại sao anh không giặt chăn cho tôi?

    - Thưa cán bộ, tôi đã nói ngay từ hôm đó. Quả thật tôi không thể làm các việc cán bộ nhờ được. Có thế thôi, e giải thích thế nào cũng không xong…nhưng tôi chỉ muốn là tôi xin cán bộ thông cảm.

    - Anh có biết họ gọi tôi là Hùng Hắc Ám không?

    - Tôi có nghe. Tôi chỉ nghĩ mỗi người đều có bổn phận phải chu toàn. Cán bộ lo tròn bổn phận chu toàn. Cán bộ lo tròn bổn phận là đúng, còn nếu vì thế mà có biệt danh Hắc ám thì đã sao.

    Ông quản giáo phá ra cười ha hả, và ông ta làm tôi sững người: - Tôi thích anh. Tôi đã để ý xem thái độ của anh sau hôm đó. Tôi đã đọc kỹ lý lịch của anh. Tôi e sẽ còn ở lại trại lâu vì những liên hệ của anh và gia đình anh. Tôi khuyên anh điều này. Đôi khi mình muốn là mình cũng không được. Gió chiều nào mình che chiều nấy thì mới dễ sống. Ở trại hay ngay cả ở bên ngoài cũng vậy.

    Khi trở về phòng tôi vẫn không tin những gì xảy ra, và nhất là những lời khuyên quí hóa của ông Hùng. Tôi ở tù 6,7 năm, chưa có ông cai tù nào nào lại ngọt nhạt như vậy với tôi, lại còn cho hút thuốc 3 số. Ông Thông lại càng lo hơn bảo tôi phải coi chừng, nhưng quả không có chuyện gì xảy ra cho tôi. Cái lien hệ quản giáo – tù cải tạo tưởng đã cho qua đến cỡ 2 tháng sau tôi lại được gọi lên. Lần này tôi không biết ông ta sẽ dở võ gì nữa. Trông ông ta tươi tỉnh, tôi cũng đỡ lo.

    - Ngồi xuống, ngồi xuống. Tôi có chuyện nói.

    Tất nhiên là ngồi và im lặng.

    - Tôi không trực tiếp coi phòng nữa nên gọi anh lên. Ngày mai tôi sẽ làm việc ở ban an ninh trại. Trước khi tôi đi tôi hỏi anh xem anh muốn gì tôi giúp.

    Tôi ngồi ngây mặt ra, cầm ly trà, không biết nói sao cho đúng. Giúp gì mới được chứ ? Giúp tốt nhất là thả tôi ra, trả tôi về với xã hội bên ngoài. Ông Hùng hỏi:

    - Anh muốn làm thư viện không? Anh muốn làm ở ban ẩm thực không?

    Đây cũng là 1 chi tiết khó tin đối với những người dân bên ngoài vòng rào. Hầu như nhà từ nào cũng có 1 nơi được gọi là thư viện. Sách vở đương nhiên là sách tuyên truyền và sặc mùi chủ nghĩa. Coi thư viện thì nhàn quá, không phải đi lao động. Tôi hỏi 1 câu thật vô lý:

    - Thế thư viện thiếu người sao cán bộ?

    Ông Hùng cười khằng khặc:

    - Sao lại thiếu được. Biết bao nhiêu người xung phong, xung phong đủ kiểu nữa là khác. Nếu anh muốn thì tôi cho cái anh đang coi thư viện xuống lao động lại. Dễ thôi.

    Đầu óc tôi làm việc rất nhanh. Ông bạn tù đang coi thư viện chắc đã đút lót khẳm. Tôi chợt loé lên ý nghĩa và nói ngay:- Tôi thấy hình như ở trạm y tế hình như cần người. Tôi có 1 chút kinh nghiệm về y khoa. Nếu được, tôi xin lên đó có ích lợi hơn.

    Đã đòi thì đòi cho đáng. Làm ý tá có nghĩa là ở riêng, không phải ở chung trong phòng giam tập thể. Còn cái vụ y khoa thì nhằm nhò gì. Cái trạm y tế cũng như cái thư viện. Chẳng qua là trang sức vậy thôi, thuốc thang đau, dụng cụ y khoa đâu mà phí phạm để lo cho tù.

    Ông quản giáo tử tế:

    - Được, dễ thôi. Để tôi bảo các Đ/c. Tôi sẽ không còn trực tiếp coi cải tạo viên nữa nên anh cũng nên cẩn thận.

    Tôi nhớ đến lá số tử vi của tôi. Hay người ta thực sự có số? Bởi khi ông Hùng quản giáo Hắc Ám lên làm phó trại đặc trách an ninh, vài ngày sau, tôi được điều lên làm việc ở trại y tế thật.

    Bỗng dưng tôi trở thành tù quí phái. Không có danh từ nào đúng hơn chữ quí phái. Trại tù Hàm Tân hình như là 1 trong những trại tù lớn nhất ở miền Nam Quá trình xây dựng trại này nay đã khiến nơi này đôi chỗ có hoa có lá và cái trạm y tế khá khang trang. Cùng làm việc ở trạm là 1 ông tù cải tạo có vẻ biết tiêm chích còn khá trẻ. Ông Bương gọi tôi là anh xưng em. Hai đứa chia nhau 1 cái phòng có hai chiếc giường 1 làm bằng gỗ và trời đất, có mùng che muỗi nữa. Bệnh xá có tám cái giường, luôn luôn có bệnh nhân. Đủ thứ bệnh từ phù thủng cho đến những thứ bệnh tôi chẳng biết là bệnh gì nữa. Thuốc nhiều nhất là ký ninh và 1 ít aspirin. Nhưng nhiều ông tù được thăm nuôi có những thuốc quí như trụ sinh ngoại chẳng hạn. Lúc này đa số thuốc là từ bên Châu Âu gủi về có lẽ vì liên hệ với Mỹ còn khó khăn.

    Ông Bương trọng tôi vì tôi đọc được lời chỉ dẫn bằng tiếng ngoại quốc và giảng cho ông cách dùng. Tôi mới đầu còn nhát nhưng rồi cũng có thể chích thịt, chích gân được. Dụng cụ y khoa duy nhất chỉ có cái ống nghe và 1 lô kim chích đã cùn. Tôi phải mài lại kim trên miéng đá rất mịn. 1 hôm tôi đang ngủ thì có bệnh nhân khẩn cấp. Anh em khênh lên 1 người tù, bụng đã chướng lên. Họ cho hay ông ta ngầy ngật mấy ngày, chính trạm đã ký cho ông ta ở nhà không phải lao động. Tối hôm đó ông đã vật vã và người từ bên cạnh hô hoán lên vì thấy ông cứ trợn mắt và bụng to quá.

    Ông Bương và tôi nhìn nhau. Chỉ có nước đem ra bệnh viện tỉnh thì mới mong có cơ cứu được. Mấy ông tù bảo nhau: - Cổ chướng. Sưng gan cổ chướng.

    Tôi nghĩ thầm chắc là Hepatitis tới lúc phát, giai đoạn cuối. Bung bệnh nhân cứng ngắc, hai mắt vàng ươm. Tôi hỏi ông Bường:

    - Có cách gì đưa lên bệnh viện tỉnh ngay không?

    - Phải xin phép và chỉ còn cách khênh lên, đi đường bộ.

    Tôi nói với viên cai tù áp tải: - Xin phép cán bộ cho bệnh nhân lên tỉnh, ở đây không đủ thuốc men.

    - Nguy ngập lắm, e không lên tỉnh thì khó qua.

    - Để mai tính.

    - Xin cán bộ thông cảm. Tụi tôi sẵn sàng khiêng bệnh nhân đi bộ. Còn nước còn tát.

    - Phải xin phép ban an ninh.

    - Xin cán bộ giúp, tôi sẵn sàng đi lên gặp an ninh.

    Ngần ngừ 1 lát, có lẽ trông cảnh người bệnh và ánh mắt cầu khẩn của lũ tù, viên cai tù bảo:- Được, tôi và anh lên bananninh, nhưng tôi bảo trước khôngđược đâu màmong.

    May quá, ông phó trại an ninh đang có mặt, thấy tôi, ông Hùng chấp thuận liền, và vỗ vai tôi: - Phải không anh Dũng. Tôi cho phép đi vì anh, đừng để có chuyện gì xảy ra. Xa lắm đó. Để tôi bảo 1 người đi theo các anh.

    Lúc đó đã khoảng chín giờ tối. Chúng tôi biết từ đây ra bệnh viện rất xa nhưng thì thào bàn tán, hy vọng ra ngoài trại có thể quá giang xe của dân. 6 anh em đều xung phong và chúng tôi thay phiên nhau cáng người bệnh trên chiếc băng ca cũ kỹ.

    Đi áp tải là 1 bộ đội còn trẻ măng. Anh này xem ra dễ chịu, lẳng lặng đi cách chúng tôi mấy bước chân. Bình thường, 1 lũ tù 6 đứa phải có ít nhất 2 bảo vệ đi kèm, nhất là tối tăm thế này. Nhưng có lẽ ai cũng xúc động trước cái chết chăng ? Cái chết đến thật. Khoảng 12h đêm khi đang đi thì bệnh nhân co giật dữ dội trên băng ca, gào lên những âm thanh rùng rợn. Tôi đã cột bệnh nhân khá kỹ, lòng ao ước giá có mócphin thì đỡ biết mấy.

    Bệnh nhân dãy dụa dữ quá, tụi tôi đành hạ cáng xuống bên quốc lộ. Giữa đêm trăng sáng, trên con đường nhựa, sáu người tù đứng quanh chiếc băng ca thúc thủ. Khi bệnh nhân ngoẹo đầu sang 1 bên, dãy dãy rồi bất động, tụi tôi chỉ còn biết nhìn nhau. 1 ông bạn tù đưa tay lên làm dấu thánh giá. Tôi thấy 2,3 người chấp tay niệm Phật. Tôi quì xuống vuốt mắt cho ông bạn tù giữa đêm trăng, lòng trống rỗng và đầu óc thì như ở đâu đâu.

    Cả bọn không ai nói gì, đứng đó, bóng đổ nghiêng bên mặt đường cho đến khi bảo vệ viên lên tiếng:

    - Đã bảo mà. Cứ để chết ở trại có phải đỡ mệt không?

    Mọi người quay lại nhìn anh ta. Khuôn mặt trẻ bụ bẫm hơn dưới trăng. Thôi thở dài nói với mọi người: - Nghĩa tử là nghĩa tận. Tụi mình cố hết sức rồi. Đành quay về vậy.

    Bức thư ngắn chưa đầy 1 trang giấy nhưng đã làm tôi ngẩn ngơ suốt cả ngày. Thư của Lê Hiếu Trung mở đầu;:

    "Tao tưởng mày tiêu ở Đồng Xoài rồi, đến lúc tao gặp Bác Chuyên mới biết mày còn sống nên nghuệch vài hàng. Tao báo mày tin vui trước; Tao đã có vợ và 1 đứa con – con gái xinh giống mẹ. Tin buồn – hay cũng là tin vui vì nhờ thế tao không phải đi cải tạo; tao cụt mẹ nó 1 giò, làm anh hùng độc cước. Bị ở Phú Giáo sau Đồng Xoài đâu 2 tuần lễ.."

    Lê Hiếu Trung cao to, cao hơn tôi cả 1 cái đầu, là 1 tay nhu đạo hạng cừ. Tôi không nhớ Trung có mấy đẳng, nhưng có 1 dạo làm HLV lò nhu đạo của Thầy Thích Tâm Giác. Cả đời tôi cái gì cũng dở dang. Tôi cùng học nhu đạo với Trung với ông Watanabe nhưng ít tháng thì bỏ cuộc khi bị dập xương chân trong khi Trung vẫn miệt mài theo đuổi nhu đạo.

    Vào Thủ Đức, hai đứa gặp lại và trở nên thân thích. Tôi nhớ tôi nằm giường trên, phía dưới là ông Bùi Dương Liêm, và bên cạnh phía trên là Lê Hiếu Trung. Trung đi Thiết Giáp và cũng chính pháo đội Trung ở Phú Giáo đã yểm trợ cho Đồng Xoài vào những lúc cuối.

    Bức thư ngắn ngủi nhưng tôi đọc đi đọc lại. Mọi sự như mới hôm qua thì phải. Tôi thừ ra, mường tượng đến 1 Tr/u Lê Hiếu Trung cao to nay tập tễnh với chiếc nạng gỗ. Nó phi lý đến cùng cực, không cách gì có thể chấp nhận được. Tối đó tôi ngồi viết 1 lá thư.

    Qua 1 quãng hai bên là ruộng, con đường trải nhựa hiện ra trước mặt. Có cái thèm muốn kỳ lạ dâng lên trong tôi. Tôi quì xuống lề, đưa tay sờ mặt đường. 1 cảm giác đầm ấm tràn lên, và tôi biết chắc mình đã ra khỏi tù, đã rời khỏi cái đại ngục khổ sai, của quản giáo, của bảo vệ. Để đi về đâu?

    Tôi hoàn toàn mất phương hướng, không biết phải đứng phía nào đón xe, đành đứng đợi. Mặt trời chiếu xiên, tôi nhìn bóng tôi đổ dài trên mặt đường. Cuộc chạy việt dã bây giờ mới thấm. Cơ thể tôi rã rời.

    Không biết tôi có vẫy không nhưng chiếc xe đò thắng khá gấp phía bên kia đường. Người tài xế thò đầu ra hỏi lớn:

    - Tù cải tạo phải không, lên đi.

    Anh ta đưa tay vẫy vẫy và tôi chạy ào sang. Chiếc xe chở cồng kềnh đủ thứ trên mui. 1 cô gái trông còn trẻ, mở cửa ra, bước xuống chỉ phía trong:- Chú vào ngồi giữa đi.

    - Từ đây về SG bao nhiêu cô? Tôi chỉ có 10 đồng.

    Đó là khoản tiền đường được phát cùng với giấy ra trại. Ông lơ đến cạnh tôi lúc nào không biết, dục:- Lẹ lên đi chú. Tiền bạc gì, ai tính tiền chú đâu mà lo. Tù mấy năm vậy ?

    Tôi nhanh nhẩu trèo lên và chui vào trong, không kịp trả lời anh ta. Vừa êm chỗ, cô gái ngồi bên cạnh quay sang cười và cúi xuống lôi ra 1 trái quít đưa cho tôi:

    - Chú ăn đi cho mát lòng dạ. Ở tù xót ruột chết.

    Tôi phì cười, đưa tay nhận trái quít đỏ mỡ màng.

    - Lâu quá mới thấy quít.

    - Ối, về SG lại thấy đủ thứ chú ơi. Chỉ sợ không có tiền.

    Mọi người trong xe cùng cười. Xe đang chạy ngon trớn thì người con gái bên cạnh vỗ vào tôi:

    - Chút xíu nữa tời trạm kiểm soát, chú cứ ngồi yên không phải xuống. Tù cải tạo ngồi đâu ngồi đó nhe chú. Chú giữ giùm cháu cái này không thôi tụi nó dẫm phải hư hết.

    Cô lôi dưới ghế ra 1 bọc, để yên trên lòng tôi. Chiếc bọc cũng hơi nằng nặng. Ít phút sau xe ngừng ở trạm kiểm soát, tất cả khách phải xuống nhưng cô gái lại dặn tôi:

    - Chú ngồi yên đó nhờ giữ cho cháu cái bị nhe.

    CA lố nhố ở trạm. Hai người trèo lên ngó ngang ngó dọc, trong khi người lơ xe đang thì thầm to nhỏ gì đó với 1 người CA ở đầu xe. Tôi nghe anh ta lớn tiếng:

    - Thôi, lên xe lẹ đi bà con.

    Từ chỗ tôi đón xe cho tới khi về đến xa cảng ở xa lộ Biên Hòa có lẽ có đến bốn trạm kiểm soát. Lần nào cô gái cũng dặn tôi ngồi yên trên xe và chả thấy ai nói năng gì, tôi cứ thế làm theo lời dặn. Khi xuống xe, cô gái toét miệng ra cười:- Cám ơn chú nhiều. Cháu biếu chú.

    Cô đưa cho tôi tờ năm đồng. Tôi khựng lại ngỡ ngàng. Tôi có làm gì đâu mà cô ta cám ơn tôi, lại còn đưa nữa. Cô gái vẫn cười:- Chú ơi, cái bọc chú giữ giùm cháu là cafe đấy. Tụi nó thấy chú tù ra trại nên để yên. Cháu chuyên đi cafe lậu mà chú. Chú cầm tiền này uống cafe, tiền lời phải chia chác cho sòng phẳng.

    Tôi lắc đầu nhất định không cầm. Cô gái vẫn cười vỗ vào cánh tay tôi:- Ờ tại chú mới ở tù ra. Ở SG bây giờ có ai chê tiền đâu chú. Giết nhau cũng giết chú ơi.

    Tôi nhìn cô, cô còn trẻ quá chắc ngoài độ 20. Mà cô buôn lậu gì kỳ cục, bởi tôi không mường tưởng được cafe lại trở thành hàng lậu, hàng quốc cấm. Thấy vẻ mặt ngỡ ngàng của tôi cô gái vẫn cười:- Chú ơi cái gì cũng quốc doanh. Cái gì nhà nước cũng quản lý hết. Cháu đi bảy ký cafe mà nhiều khi phải đút lót năm lần mới lọt.

    - Tôi mới ở tù ra chẳng hiểu mô tê gì cả.

    Cô gái bọc hàng quày quả bỏ đi. Bến xe đông đảo. Tôi đi chậm chạp quan sát, chưa biết làm thế nào để về nhà thì 1 xe Honda xà tới:

    - Bố. Bố lên đi con trở về. Nhà bố ở đâu?

    Cả đời chưa ai gọi tôi bằng bố cả. Tôi nhìn ông xe ôm hỏi:

    - Từ đây về ngã tư Công Lý Yên Đổ bao nhiêu ông?

    - 100. Nhưng bố chỉ có 10 đồng thôi phải không ? Hồi tôi ra trại cũng được mười đồng. Bố ơi, bây giờ không còn Công Lý nữa. Đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa rồi bố ơi.

    Khi tôi móc tiền ra, ông ta cười:

    - Cất đi bố ơi, cải tạo với nhau, ai lấy tiền bố.

    Khi ông ta rú ga dọt đi, tôi đứng ở hè phố, lòng bâng khuâng về những gì xảy ra khi vừa chạm với xã hội bên ngoài. Tôi đi ngược phía Công Lý và vừa đến cổng nhà thì có tiếng la:

    - Anh Dũng. Anh Dũng về.

    Quyền từ phía trong chạy ra ôm ngang vai tôi, vừa ôm vừa lắc, vừa la:

    - Anh Dũng về. Anh Dũng về.

    Tôi như nghẹn, không nói được nửa lời, mặc cho Quyền vừa ôm vừa đẩy tôi vào. Chú thím Trung cũng chạy ra. Cả nhà vây lấy tôi. Tôi vẫn đứng ôm cái gói ngây ra không biết phải nói gì với những người thân cho đến khi chú Trung từ tốn: - Để anh Dũng vào nhà đã.

    Tôi nhìn ông. Ông dáng người vốn mảnh khảnh, sau bao năm không gặp vẫn thế, nhẹ nhàng từ tốn. Nhìn ông tôi biết chắc tôi đã về.

    Bữa cơm tối quây quần chỉ có năm người - chú thím, vợ chồng Quyền và tôi. Tất cả các em trai gái trong nhà đều đi vượt biên và sống ở Mỹ vài ba năm rồi. Chú Trung cho hay nhà cũng có giấy tờ và có thể sẽ đi Mỹ đoàn tụ bất cứ lúc nào. Khi ăn gần xong ông nhỏ nhẹ:

    - Dung có chồng rồi anh biết không?

    Tôi đặt đũa xuống. Cả nhà nhìn tôi chờ đợi. Tôi chậm rãi:

    - Bây giờ nghe chú thì cháu biết. Nhưng cháu không ngạc nhiên. Cháu đã tự hỏi cháu nhiều lần trong những đêm tù không ngủ được. Cháu nghĩ đó là giải pháp tốt đẹp nhất cho Dung. Dung còn trẻ và còn cả 1 tương lai dài ở trước mặt. Dung phải sống, thưa chú!

    Bà thím cười tủm tỉm:- Nhưng cô Thu xinh ghê đấy chứ. Chú thím gặp cô Thu 1 lần ở nhà bác Chuyên, hôm ấy cô đến nhận đồ để thăm nuôi Dũng. Bao giờ thì dẫn cô Thu về ra mắt thím đây?

    Tôi đánh bài lảng:

    - Thân cháu sợ cháu chưa lo nổi. Mới ở tù ra thấy như ở cung trăng rớt xuống, ngơ ngẩn không biết trời biết đất gì. Mọi thứ lạ hẳn so với ngày xưa.

    Chú Trung mơ màng:

    - Ngày xưa. Ngày xưa..

    Người tôi bồng bềnh như mơ như tỉnh. Rõ ràng tôi biết tôi đang mở mắt nhưng đầu óc lơ mơ không biết mình đang ở đâu.

    1 nửa tôi muốn choàng dậy, tôi muốn thoát ra cái mơ mộng êm ái, 1 nửa khác trong tôi ghìm tôi xuống, xúi tôi cứ nằm yên bởi đây chỉ là mộng vui. Tôi lắng nghe xem những tiếng động quen thuộc của những buổi sáng, tiếng người này gọi người kia, tiếng cuốc xẻng, tiếng tập họp báo cáo . Nó cứ chập chờn tiếng có tiếng không. Đầu óc tôi như chối bỏ sự thật. Tất cả chỉ là giấc mơ, phải dậy để ra sân, phải dậy để lao động, quản giáo đang hò hét ngoài kia. Cho tới 1 lúc tôi tưởng tôi đã tỉnh hẳn. Tôi tự nhủ: "Dũng ơi, mày đang ở nhà, mày đang ngủ trên giường nhà mày 1 mình."

    Rồi tôi lại ngài ngại, không muốn tỉnh hẳn vì sợ đây không phải là sự thật. Cơ thể trạng thái mềm thoải mái. Những thớ thịt, những sợi gân chùng xuống, dãn ra lơ tơ mơ. Tôi khẽ cựa mình. Tôi không nằm trên chiếc chiếu rách mà quả thật tôi đang nằm trên chiếc giường nệm. Tôi đưa tay cấu vào đùi để thực sự tin vào thực tại. A, tôi thấy đau. Tôi không ngủ mơ.

    Tôi ngồi dậy vẫn chưa tin hẳn. Tôi bước xuống giường, mò ra cửa, lần xuống nhà dưới. Tôi bật đèn và và ngơ ngác nhìn. Tôi chậm chạp đi từ phòng khách vào nhà bếp rồi lại trở ra.

    Tôi ngồi xuống chiếc ghế gỗ ở trong góc phòng đăm đăm nhìn bức tranh sơn mài. Bức tranh của ông Nguyễn Gia Trí vẽ ba cô gái tà áo tung bay. Bức tranh ở đó trên mảng tường này từ xửa từ xưa, từ lúc tôi còn là học trò trung học. Tôi vốn yêu nhiếp ảnh, đã cầm máy từ lâu và nhờ nhiếp ảnh tôi biết đến bố cục, biết đến góc độ ánh sáng, biết đến gam mầu. Lần nào nhìn bức tranh tôi cũng như bị nó hút vào, như chính mình đang tung tăng cùng các cô gái trong cái không khí xuân thì.

    Đêm nay tôi ngồi nhìn lại bức tranh sau bao năm xa cách. Tôi nhìn vào mảng mầu vàng ươm, những khoảng nâu ánh hồng. Những tà áo dài lượn lờ như múa và từ đó tôi nhìn thấy Dung. Tôi ngây người như bị thôi miên. Tôi thấy bố mẹ và các em cười nói. Tôi thấy tôi đang ngồi ở hiên giảng đường Luật đông lúc nhúc lúi húi ghi cours. Tôi thấy cả ông khoa trưởng Vũ Văn Mẫu. Rồi nhòa đi như 1 cảnh phim câm, Dung lại ở đó đăm đăm nhìn tôi. Tôi mở to mắt. Không phải, không phải. Từ trong đó, từ trong cái long lanh của sơn mài Nguyễn Gia Trí là Thu, là Song Thu:- Dũng sao vậy? Sao không ngủ, ngồi đây làm gì?

    Bà dì đứng ở cửa bếp từ lúc nào, đang nhìn tôi lo lắng. Tiếng bà đầy quan ngại làm tôi sực tỉnh.

    - Cháu khát nước, xuống tìm cái gì uống. Khuya rồi, sao dì còn thức.

    - Thấy đèn sáng nên dì xuống.

    Tôi đứng dậy ôm vai bà:- Thôi dì cháu mình đi ngủ lại.

    Hơn bảy năm lao tù để lại những vết hằn trên tôi. Suốt 1 tháng, cứ quá nửa đêm là tôi tỉnh và mười lần như 1, mối ám ảnh mình không thực đang ngủ 1 mình trong chính căn phòng êm ấm vẫn đeo đuổi tôi. Nhiều năm sau, thỉnh thoảng tôi vẫn choàng dậy, ngồi bật lên ngơ ngác định ra tập họp để ra lao động theo nội qui trại.

    Khách sạn Majestic ở bến Bạch Đằng trông vẫn cổ kính như xưa. Tôi còn nhớ hồi bé tí vừa vào SG cùng bố, tôi đã có dịp ăn trưa ở đây. Hôm đó bố tôi có hẹn bạn và cho tôi đi theo. Tôi cũng nhớ cái bàn tròn trải khăn trắng kê sát cửa sổ nhìn qua bên đường là sông SG. Tôi cẩn thận khóa chiếc xe đạp Trung Quốc hiệu Phượng Hoàng vào cột điện, khóa 2,3 lần. Chú Trung biết tính tôi hay lơ đễnh, dặnđidặn lại:- Bây giờ khác ngày xưa, Dũng nhớ cẩnthận.

    Tôi thấy chú Trung hay dùng chữ ngày xưa và bao giờ cũng có tí ngậm ngùi gì trong đó. Tôi vừa ở tù ra, chưa có định kiến gì về đời sống bên ngoài, nhưng cũng hình dung được giá trị của chiếc xe đạp. Hồi trong tù khi nghe tiêu chuẩn đánh giá của người miền Bắc là Đạp Đồng Đài, tôi ngơ ngác cho đến khi được giải thích. Kẻ nào có xe đạp, đồng hồ, và Radio mà người Bắc gọi là Đài, kẻ đó là người có máu mặt. Thang giá trị đó nay chắc đã lan vào miền Nam.

    Tôi đứng bên này đường Tự Do nhìn sang. Buổi chiều nắng đã dịu, gió từ sông thổi lên khiến không khí như có đượm hơi ẩm. Nhân viên Hướng dẫn Du lịch từng nhóm líu ríu kéo nhau ra khỏi cửa. Họ ăn mặc khá bảnh bao khác hẳn người dân. Lẫn trong đám, Song Thu nổi lên trong chiếc áo dài mầu thiên thanh. Nàng cười nói với mấy cô bạn rồi tách ra đứng bên đường như chờ đợi. Tôi vừa chớm băng qua đường thì Thu nhìn sang. Như 1 mũi tên, nàng chạy ào qua suýt nữa té ở giữa đường có lẽ vì giày cao gót. Chạy sang vừa tới trước mặt tôi, Thu đứng sững lại như sợ lầm người. Vẻ người, gương mặt Thu như có cái e thẹn của người nữ khi bộc lộ tình cảm quá lộ liễu. Tôi bước tới đưa tay ra. Thu cũng đưa tay ra:- Anh Hai mắt Thu rưng rưng, 1 giọt nước từ từ đọng lại lăn xuống khoé mắt. Tôi cười nhẹ nhàng:- Anh về tối hôm qua.

    - Sao không báo trước cho em hay.

    - Làm sao báo được. Nhưng bây giờ thì anh đang ở trước mặt Thu.

    Đúng lúc đó chiếc xe gắn máy Bridgestone xà đến cạnh hai đứa. Thu nhìn, nói khẽ:

    - Tuấn nó đến đón em.

    Tuấn nhìn và gật đầu chào tôi:

    - Anh Dũng phải không? Em là Tuấn, nghe chị Thu nói nhiều về anh.

    - Chào Tuấn. Anh mới về tính rủ Thu đi uống nước.

    Tuấn tủm tỉm cười nhanh nhẩu: - Vậy lát anh đưa chị Thu về nhà nha. Để em về nói với ba má.

    Mọi việc xảy ra êm đềm tự nhiên giống như thể mỗi ngày tôi và Thu vẫn gặp nhau, giống như cả nhà Thu đều biết tôi là ai, mày ngang mũi dọc ra sao, nhất là tôi được chấp nhận như người bình thường, 1 người đúng theo nghĩa con người, không phải 1 thằng tù, 1 công cụ sản xuất hay 1 con vật biết lao động.

    Con đường Tự Do - nay có tên Đồng Khởi - vào giờ này vắng tanh. Hai đứa thong dong đi cạnh nhau. Sau những năm tù đày, đối với tôi, không có gì để phải ngạc nhiên về sự đổi thay của SG. Tất cả chung quanh tôi là màu đỏ và mầu vàng. Mọi thứ dưới mắt chế độ đều được khoác mầu sắc đấu tranh và ý thức hệ. Tôi không nhìn thấy cửa hàng cửa tiệm nào có bảng sơn màu xanh cả. Thây kệ, đối với tôi, nay chỉ có Thu.

    - Mình kiếm cái gì uống không?

    - Anh ở trong ấy lâu rồi, bây giờ thèm gì?

    Ôi thôi, cái gì cũng thèm nhưng có lẽ thèm nhất là tình yêu thương. Tôi giữ ý tưởng đó không nói ra.

    - Mấy năm rồi chưa được uống bia.

    Thế ra cái quán đó vẫn còn, chỉ đổi tên, tất nhiên phải đổi vì nó mang tên đầy phản động Imperial. Quán trông như 1 nhà quí tộc bị phá sản, nhưng vẫn cố duy trì vẻ quí phái đã tàn phai với tấm thực đơn bèo nhèo và nhất là tấm hình ông Hồ cầm can đánh nhịp cho dàn nhạc giao hưởng. Nó kệch cỡm lẻ loi trong cái quán nhỏ. Lâu quá mới lại được uống bia lạnh. Nó thấm vào đến chân tơ kẽ tóc. Tôi cười bảo Thu:

    - Hồi xưa còn đi học, lâu lâu xin được tí tiền, anh hay ngồi đây 1 mình, ra điều mình là dân sang, dân chơi nhưng bao giờ cũng chỉ đủ tiền uống 1 chai 33.

    - Hôm nay anh uống thả cửa. Em bao.

    - Sợ 1 chai là say. Lâu quá không uống bia.

    Hai đứa thủ thỉ đủ thứ chuyện. Tôi chợt nhận ra chưa bao giờ tôi nói yêu Thu dù ngay trong trại khi được thăm nuôi, tôi đã ngỏ ý xin cưới nàng.

    - Thu biết anh yêu Thu?

    - Không ai liều như anh. Đang ở tù mà xin cưới con gái nhà người ta.

    - Tại vì anh yêu Thu. Khi yêu người ta không sợ.

    Thu bóp nhẹ tay tôi như 1 kiểu đồng tình êm ái nhẹ nhàng. Chiều ngoài kia đang xuống hẳn, dăm ba ngọn đèn đường nhạt nhòa trong cái chạng vạng của đất trời. Hai đứa thả bộ dọc đường vắng.

    - Anh thèm phở.

    - Khu này đâu có tiệm phở nào ngon.

    - Phở bà Dậu còn không?

    Thu cười ngất:- Em có biết phở bà Dậu ở đâu đâu.

    Tôi cũng cười ngất:- Ngày xưa phở bà Dậu ngon nhất SG, sao em không biết.

    - Mèng ơi, cái gì cũng ngày xưa. Hồi đó em còn bé tí và ở tuốt tận Hóc Môn, biết khỉ gì.

    - Vậy mình đi ăn phở bà Dậu. Lậy trời còn phở bà Dậu. Để anh chở Thu đi.

    Trong nỗi thèm phở, tôi liến thoắng kể cho Thu nghe về cái quán phở rất thân thuộc với tôi từ thủa thiếu thời. Bà Dậu hay lắm, lúc nào cũng nướng xương trước khi nấu. 1 ông bạn đã học Dược, gật gù bảo bà Dậu có thể đậu thủ khoa trường Dược vì khi nướng xương bà đã phong tỏa khiến nước lèo không bị đục. Xương bò khi nướng hơi chín phía ngoài khiến vẩn protein không thoát ra được. Thu cứ nghiệm coi đúng không, khi Thu luộc thịt vẫn phải vớt bọt vì protein bị chín đóng thành vẩn khiến nước lèo vừa đục, vừa hôi. Bánh phở bà Dậu cũng hết xảy vừa đủ dai không nhão, có vị ngọt vị thơm của gạo. Tuyệt nhất là thịt chín. Thịt chín trong bát phở của bà Dậu bao giờ cũng vậy, vừa đủ to, đủ dầy. Nó không thô tục, không bèo nhèo ăn vừa thơm vừa ngọt. Thu biết không tô phở của bà Dậu lúc nào cũng vậy, mọi sự tương xứng, nước, bánh, thịt, không có gì quá đáng, không có gì thiếu hụt. Với anh, phở bà Dậu là nhất.

    Nghe tôi huyên thuyên, Thu cười phì:- Đúng là Bắc Kỳ. Nghe anh tả mà bắt thèm. Phở bà Dậu ở đâu?

    Đến đây, tôi chạm vào thực tế của đời sống. Chiếc xe đạp Phượng Hoàng. May quá nó vẫn còn đó. Tôi vừa mở 2,3 lần khóa nói với Thu:

    - Chở em bằng xe đạp được không?

    - Chở em bằng xe bò cũng được. Cả nhà em chỉ còn mỗi cái xe gắn máy, có chuyện gì mới dám đi, còn đi đâu cũng lô ca chân, hay xe lam.

    Lọng cọng líu ríu, tôi mất 1 hồi mới quen được trò chở nhau trên xe đạp, phương tiện giao thông phổ biến nhất hiện nay. Đường Đồng Khởi cấm xe đạp và xe xích lô, tôi phải đi vòng khá xa nhưng khi quẹo vào cư xá Công Lý thì tiệm bà Dậu vẫn còn đó nhưng đóng cửa. Tôi nhìn cây trứng cá. Nó vẫn còn đó. Tôi nhìn mấy cái bàn gỗ, mấy chiếc ghế, tất cả vẫn còn đó. Tôi chợt nhớ. Phở bà Dậu chỉ bán đến cỡ hai, ba giờ trưa là hết. Thu cười:

    - Xui dữ.

    Thế đấy. Ngày đầu tiên của chúng tôi nó ngờ nghệch ngớ ngẩn nhưng nó thực, nó tự nhiên không gượng gạo, nó bình thường nhưng đầy tình, chan hòa lòng yêu thương.

    Từ Thức khi trở về trần thấy quê hương bản quán mà ông hằng ấp ủ, nhớ nhung không còn nữa, kẻ thân người thuộc đều đã mất và ông thấy mình không còn lý do gì để vương vấn. Từ Thức bỏ vào núi không còn dấu vết. Ít ra là ông cũng hơn tôi để chọn lựa.

    Tôi đã lang thang khắp SG Chợ Lớn cả tuần nay. Bộ quần áo của Quyền cho mượn khá rộng nên trông tôi lùi xùi, giống y hệt như người dân từ các vùng quê đổ về SG kiếm ăn.

    Xanh xao, gầy guộc, hai mắt lúc nào cũng đờ đẫn, tôi bước thấp bước cao đi giữa làn sóng người, lòng dửng dưng. Y quan dị tích thì. Đỗ Phủ bảo với chế độ mới, mọi sự đều thay đổi, cả đến quần áo.

    Nhưng ông thi sĩ đời Đường này chỉ nói đến quần áo và trang phục của các ông quan, các bậc vương giả, những người đang hưởng bổng lộc của tân Triều. Nay cái đổi thay không chỉ ở thượng tầng mà hiển hiện ngay trong đời sống hàng ngày. Tôi được cô gái buôn lậu cafe và ông cựu tù lái xe ôm thương xót có lẽ vì cái chức "tù cải tạo". Nay không ai coi tôi là tù nữa. Nay tôi là 1 người bình thường của xã hội nên được đối xử như 1 người bình thường.

    Tôi nhớ buổi sáng sau khi lót lòng 1 đĩa xôi đậu đen chấm muối vừng, tôi lang thang và đi qua bùng binh, tôi nhẩn nha đi vào chợ Bến Thành. Hình như tôi chưa bước chân vào cái chợ nổi tiếng này lần nào, thỉnh thoảng lắm thì chỉ ghé thì chỉ ghé hàng trái cây ngay bên vệ đường Lê Thánh Tôn. Trời khá nóng nhưng khi bước vào bên trong, hơi người nồng nực hẳn lên. Tôi định kiếm 1 bộ quần áo và nghĩ mua ở chợ chắc rẻ hơn là vào tiệm. Còn đang lớ ngớ đứng ngó thì bà bán hàng nhìn tôi với ánh mắt đầy miệt thị: - Mua gì?

    Tôi chưa kịp nói năng gì thì 1 tràng, 1 dọc âm thanh chua như hất vào mặt: - Mới sáng ra chưa mở hàng mà găp cái của này lại ế sưng cả ngày. Không mua đi chỗ khác. Đúng là cú nhìn nhà bệnh. Phỉ phui. Phỉ phui.

    Tôi chết trân. Tôi là con cú đang rình người sắp chết! Tôi lớn lên ở SG. Cả tuổi hoa niên của tôi là SG. Tôi chưa bao giờ bị rủa xả như hôm nay. Tôi lủi ra, khi đi sang phía nhà ga lúc nhúc người và ngoái đầu nhìn lại cái chợ yêu dấu của SG. Tôi nhắm mắt lại để nhớ mấy tấm quảng cáo kem đánh răng Hynos và vỏ xe Michelin màu tươi vui sống động. Mở mắt ra nay là mầu vàng, màu đỏ và là khẩu hiệu. Nổi nhất vẫn là câu: "Không có gì quí hơn độc lập tự do" của ông Hồ.

    Tôi đi tới những nơi đầy ắp kỷ niệm, đầy những nhớ nhung. Tôi nhớ lại khi ở tù, tôi luôn tự nhủ nếu được trở về thế nào cũng đi tới chỗ này, góc kia của SG, nhưng tôi thấy mình lạc lõng bơ vơ. Tôi có cảm giác như đang lưu vong trên quê hương mình và tôi không có cùng suy nghĩ, cùng tiếng nói với đồng bào tôi nữa.

    Khi ra đường tôi là 1 người như trăm vạn người khác nhưng khi trình diện CA phường, tôi lại hiện nguyên hình là 1 tên lính Ngụy, 1 tên tù. Trên nguyên tắc, tôi được ra trại nhưng vẫn là tù, đặt dưới sự quảnchế của địaphương. Theo ngôn từ trước 75, tôi chỉ được tạm tha chứ không chứ không phải là công dân bình thường. Trước khi tới đồn CA, chú Trung đưa tôi gói thuốc lá Điện Biên.

    - Cháu bỏ thuốc lá rồi.

    Chú Trung cười nhẹ:- Dũng cầm bao thuốc này để lên bàn CA. Bây giờ khác xưa. Hễ dính dáng đến cán bộ CA nhà nước là phải chè lá. Nhớ để lên bàn, lúc về làm như mình quên, không phải là đút lót.

    Tôi ôm tờ giấy ra trại và cái sổ gia đình ngày xưa trên đó có tên tôi, chỉ có điều đã bị gạch bỏ với hàng chữ ghi "mất tích trước năm 1975".

    Hồi ở tù tôi đã được giảng nhiều về XHCN nhưng vẫn lơ mơ cho đến khi thực sự sống trong đó. Chế độ hộ khẩu là cái thòng lọng tròng vào cổ người dân, là cái gọng kềm siết họ lại không cách gì cục cựa được. Nó giúp chế độ kiểm soát chặt chẽ mọi người. Đi đến đâu ngủ qua đêm là phải trình tổ dân phố và đôi chỗ phải trình cả với đồn CA. Không ai dám chứa chấp người lạ. Không có hộ khẩu có nghĩa là mất quyền công dân, có nghĩa là bị loại ra ngoài rìa xã hội. Có hộ khẩu là có lá bùa hộ mệnh, là được phân phối các nhu yếu phẩm từ hạt gạo, hạt đường, bột ngọt cho đến vải vóc. Có hộ khẩu là được quyền mua hàng ở các cửa tiệm quốc doanh. Tôi thuộc quyền quản lý của CA có nghĩa là tôi vẫn là thành phần bị quản chế, bi theo dõi và hàng ngày phải lên báo cáo với CAP về sinh hoạt.

    Khi đưa tờ giấy ra trại và sổ gia đình, viên CA người Bắc lật đi lật lại rồi bảo:- Trường hợp này căng lắm.

    Tôi định hỏi "căng có đến độ đứt không?" nhưng kìm lại được. Tôi không nói năng gì vội, để gói thuốc Điện Biên lên bàn, rồi nhỏ nhẹ:- Tôi có tên trong sổ gia đình từ trước ngày GP. Trong giấy ra trại cũng đề rõ tôi về địa chỉ này. - Tôi nói căng lắm vì tên anh đã bị gạch đi.

    - Lúc đó gia đình tôi nghĩ là tôi đã chết, đã mất tích.

    - Tôi nói căng lắm. Được, anh về ngày mai lên tôi giải quyết.

    Không hề có chuyện giải quyết. Tôi như lãnh bản án treo, có lần viên CA đã nói xa nói gần đến chuyện tôi sẽ phải đi kinh tế mới mặc dù vào thời điểm này không ai nói đến kinh tế mới kinh tế cũ như hồi CS mới chiếm miền Nam.

    Bà dì tôi là người nhạy cảm và nhìn thấy ngay lý do. Khi có giấy tờ từ Mỹ bảo lãnh, chú Trung đã ra phường làm giấy tờ sang nhượng căn nhà nhưng không được chấp thuận với nhiều lý do. Ông bà bán nhà, mai mốt con cái ông bà về đòi lại thì sao? Họ là người thừa kế tài sản, phải có sự đồng ý của họ.

    Khi chú Trung viết thư và những đứa em tôi đồng loạt ký tên đồng ý để ông được quyền bán nhà thì CA bảo phải đích thân họ ký với nhà trức trách VN mới hợp lệ. Bà dì bảo tôi:- Dũng ơi, chúng nó muốn chú dì hiến nhà cho nhà nước mới cho đi Mỹ. Đã có vài trường hợp tương tự rồi. Nó không cho Dũng vào hộ khẩu ở nhà này chỉ vì muốn nuốt không căn nhà.

    Hàng ngày tôi phải lên phường báo cáo là đi những đâu, gặp ai, nói chuyện gì. Lăp đi lặp lại những lới khai nhàm chán đó cỡ 1 tuần lễ, viên CA bảo tôi:

    - Anh phải tìm việc làm, không thể ăn bám vào xã hội được.

    - Tôi rất muốn được phục vụ nhưng không nơi nào nhận vì mới ở trại cải tạo ra lại không có hộ khẩu.

    - Chuyện đó là chuyện riêng của anh, nhà nước không đi kiếm việc làm cho anh được. Nếu không có việc thì anh nên đi kinh tế mói khai khẩn, lao động sản xuất.

    Tôi kể lại lời đe dọa này, cả nhà dãy nảy:- Dũng đừng nghe lời nó. Không đi đâu hết, Dũng đâu cần chúng nó. Cả tháng chưa được 1 lạng đường, 1 hộp sữa, cần gì. Cứ lì ra, đừng có làm đơn đi kinh tế mới. Đi để mà chết à?

    Tôi nghe theo, cứ trân mặt ra, kệ viên CA lúc ngọt lúc sẵng dụ tôi làm đơn đi kinh tế mới. Ít nhất họ cũng không thể bắt tôi trở lại trại tù vì không có hộ khẩu.

    Thật ra tôi không đến nỗi phải lo miếng ăn nhờ có tiếp tế từ nước ngoài, nên chuyện kiếm việc làm không phải là mối bận tâm của tôi.

    Sau bữa cơm ga đình ấm cúng với tiếng cười đùa của mấy đứa em nhỏ, tôi ngồi nói chuyện với ba má Thu. Cả nhà vốn là nhà giáo nên ăn nói từ tốn rành mạch. Ba Thu hỏi tôi rất nhiều về quá khứ học hành, về gia đình. Ông nâng chén trà lên nhấp giọng rồi nhìn tôi dịu dàng:

    - Hai bác biết chuyện của Thu và con ngay từ ngày đầu khi Thu đưa những lá thư con viết cho anh bạn. Bác hiểu những khốn đốn con trải qua và hết sức vui khi thấy con còn tin vào tình người. 2 bác đã lớn tuổi, sống qua đủ mọi biến đổi của đất nước. Bây giờ vào lúc cuối đời lại phải nhìn những nghịch cảnh đau thương. Hai bác buồn chán lắm nhưng biết sao.

    Tôi ngồi im nghe. Giọng ông đều đều, rõ ràng nhưng đầy ngậm ngùi, không phải chỉ cho ông, cho tôi mà như cho tất cả mọi người. Bà má ngồi cạnh đó nhỏ nhẹ:- Con đứng ngạc nhiên. Gia đình hai bác cởi mở và con cái bao giờ cũng trình thưa mọi chuyện dù là riêng tư. Khi Thu ngỏ ý đi thăm nuôi con, 2 bác đồng ý liền. Ngay cả 1 lần đi thăm nuôi con về, Thu nó khác hẳn, lúng túng và khi hai mẹ con nói chuyện, Thu cho hay con hỏi nó làm vợ.

    Tôi ngồi đó sượng trân nhìn Thu. Nàng cũng hơi đỏ mặt nhưng tủm tỉm cười. Tôi thu hết can đảm nói:

    - 2 bác hiểu cho hoàn cảnh của con. Sống trong tù, con không ao ước gì hơn là 1 mái ấm gia đình, yêu thương và được yêu thương.

    - Bác hiểu nhưng Thu là con gái lớn nhất. Cha mẹ nào cũng muốn con hạnh phúc. Lúc đó bác lo sợ vô cùng. Nhưng thôi, bây giờ khác, con cứ lại chơi với gia đình. Chuyện của hai đứa âu cũng là trời định. Các con cứ tìm hiểu nhau ít lâu. Bác nói thật, con đừng buồn. 2 bác lo sợ tuổi tác chênh lệch, biết đâu chỉ là bồng bột. Bởi vậy 2 con nên suy nghĩ cho kỹ.

    Khi ba má Thu rút vào phía trong, tôi và Thu ra vườn ngồi dưới gốc cây ổi.

    - Anh thấy ba má dễ chịu không?

    - Không những dễ chịu mà còn dễ thương nữa, chỉ sợ ba má chê anh già, chê anh không xứng với Thu.

    - Em đâu thấy anh già.

    Tôi xoay người sang ôm Thu. Trong bóng đêm tôi nhìn vào mắt nàng, đồi mắt long lanh, sâu thẳm. Chúng tôi hôn nhau, rồi ngồi đó tay trong tay. Tôi hát bài hát của ngày xưa "May mà có em đời còn dễ thương.."

    Tình yêu cho thêm sức sống. Tình yêu giúp người ta vượt mọi sự. Tôi trở nên lạc quan hơn.

    Giữa lúc đó tôi nhận được điện tín của gia đình ngắn và gọn: "ĐỂ VIỆC BẢO LÃNH ĐOÀN TỤ DỄ DÀNG KHOAN LẬP GIA ĐÌNH." Đây là 1 ngạc nhiên lớn vì tôi chưa viết thư cho gia đình về chuyện tôi và Thu. Tôi hỏi chú dì thì được biết chưa ai kể chuyện này cho bên Mỹ cả. Ngoài cái điện tín tôi cũng nhận được bản sao giấy tờ đủ loại liên hệ đến chuyện gia đình tôi bảo lãnh, trong đó có cả những giấy của 1 số cơ quan công quyền HK. Ông bạn Sam Graves của tôi cũng có thư cho hay đã vận động những cơ quan có thẩm quyền cao nhất để giúp tôi đi Mỹ càng sớm càng tốt.

    Cầm cái điện tín trong tay, đọc đi đọc lại, tôi nhớ đến khẩu hiệu Ba Khoan - Khoan yêu Khoan cưới Khoan đẻ. Nhưng đó là khẩu hiệu do TW Đảng đề ra cho cán bộ ĐV trong thời gian cầm súng.

    Từ lúc ra khỏi tù, tôi không tơ tưởng gì đến chuyện đi Mỹ bởi đối với tôi chuyện đó trở thành định mệnh. Tôi không tin số tôi có thể xuất ngoại. Lý do hơn nữa có lẽ vì Thu. Tôi đã đưa cho Thu tờ điện tín. Nàng đọc xong,im lặng. Tôi nói với Thu.

    - Anh đã xin cưới Thu ngay khi còn là 1 thằng tù. Nay anh ra khỏi trại, anh lập lại với Thu. Anh muốn cùng Thu lập gia đình.

    - Thế còn ba má ở bên Mỹ. Còn chuyện bảo lãnh?

    - Ở VN có Thu. Anh không đi đâu cả.

    - Ai cũng muốn đi Mỹ.

    - Anh chỉ muốn ở cạnh Thu. Ngày mai anh sẽ xuống thưa ba má, mình làm đám cưới càng sớm càng tốt.

    - Lấy em bỏ vụ đi Mỹ à nhe.

    - Không những chỉ lấy em mà mình sẽ có cả đàn con. Khỏi đi đâu hết.

    - Người ta bảo "cột đèn biết đi cũng vượt biên", em thấy đâu đâu cũng toàn nói chuyện đi nước ngoài.

    - Anh là cột đèn bị chôn sâu ở đất này. Thu là cái đèn soi sáng suốt đời anh.

    - Bắc Kỳ ăn nói trơn tuột.

    - Nam Kỳ dễ thương.

    Tôi viết 1 thư dài cho bố mẹ và các em, gửi kèm hình ảnh của Thu và tôi. 1 bức điện tín nữa viết: ĐỒNG Ý ĐÁM CƯỚI, CỐ GIỮ ĐỪNG CÓ CON ĐỂ BẢO LÃNH DỄ DÀNG. Tôi đọc xong vò bức điện tín vứt vào xọt rác và không nói gì với Thu.

    Đúng lúc đó chú dì và Quyền em tôi có giấy tờ đi Mỹ. Vụ hộ khẩu của tôi trở nên gay go hơn. Sở nhà đất và CA phường viện đủ lý do tạo sức ép để rồi chú dì phải ký giấy hiến nhà cho nhà nước. Bà dì tôi cáu kỉnh: - Chúng nó nhân nghĩa để bà Tú Đễ, bắt ký giấy hiến nhà mà còn đạo đức giả nói Nhà Nước chỉ giữ hộ, tạm quản lý khi nào ông bà sống ở Mỹ không nổi, về đây Nhà Nước trả lại.

    Mất nhà thì tôi ở đâu? Trong cái hệ thống tham nhũng công khai từ trên xuống dưới tôi trở thành khúc xương khó nuốt. Bọn chúng muốn chiếm nhà nhưng trên 1 khía cạnh nào đó, tôi vẫn là người hợp pháp được quyền trú ngụ ở căn nhà này. Viên CA nói với tôi:

    - Anh nên nhớ anh vẫn thuộc quyền quản lý của địa phương.

    - Thưa cán bộ tôi biết nhưng trong sổ gia đình từ xưa đến giờ vẫn có tên và giấy ra trại cũng ghi rõ tôi về địa chỉ này.

    - Anh thuộc thành phần ăn bám vào xã hội. Tôi đề nghị anh nên đi kinh tế mới.

    Tôi im nhưng nhất định lý lợm cho đến hôm cuối thì CA nhượng bộ.

    - Thôi được, Nhà Nước đồng ý cho anh ở lại địa phương này. Anh thuộc thành phần quản lý của phường. Tôi cho anh đi kiếm chỗ ở trong phường và đồng ý cho anh nhập hộ khẩu.

    Khi ở tù, tôi không chú ý lắm nhưng khi ra ngoài, tôi thấy mình đối diện với 1 khuôn mặt vô hình, 1 bóng đen trùm ngợp lúc nào cũng muốn đè tôi xuống, lúc nào cũng sẵn sàng bóp nghẹt tôi. Những từngữ N/d, TổQuốc, NhàNước, Đảng và XHCN luôn luôn trở thành chủ từ để nói với người dân. Không ai biết những thứ đó ở đâu, là ai bởi đó là Tập Thể. 1 CA viên dấm dớ có thể nhân danh Chế Độ, nhân danh N/d để đày đọa đối tượng cần trấn áp hay để moi tiền, sangđoạt tàisản và cả những lúc cần ban ânhuệ.

    Viên CA đã nhân danh Nhà Nước để cho tôi nhập hộ khẩu ở SG. Tôi thu xếp ở nhờ 1 gia đình người quen. Chính thức tôi không có công ăn việc làm nhưng thực tế tôi xoay sở làm đủ thứ việc. Tôi lăn vào giữa đời, đi buôn chợ trời, buôn từ viên thuốc trụ sinh cho tới vài thước vải, dăm hộp sữa. Tôi mua hàng ở đầu đường này bán hàng ở cuối đường kia. Tôi làm môi giới bán đồ cổ, đủ thứ từ choé cổ đời Khang Hi, Càn Long cho đến những của "gia bảo" như vòng ngọc, tượng đồng đen. Xin nói rõ tôi chả biết giá trị đích thực của các món đồ nhưng trong xã hội VN lúc này, giả và thực làm sao phân biệt. Dân, nhất là cán bộ miền Bắc nhiều tiền không thể tả, hẳn là tiền thu nhặt được từ Miền Nam. Cái gì họ cũng mua và cái gì càng nhỏ càng dễ giấu càng quí. 1 lần tôi dược nhờ bán 1 viên ngọc Huyền Thiết. Đó là 1 miếng đá mầu đen lớn cỡ hai con tem và dày cỡ nửa bao diêm. Người bán bảo nó là ngọc Huyền Thiết - nôm na là sắt đen - quí và hiếm có 1 không hai, vốn là của Vua Tự Đức. Ông Vua này bẩm sinh yếu đuối bệnh hoạn, phải đeo ngọc này để kỵ phong kỵ hàn và có đủ sức khoẻ để hưởng tam cung lục viện. Tôi nghe để mà nghe nhưng rùng mình khi biết giá 40 cây vàng. 1 lạng vàng lúc này là 1 gia sản. Tôi cũng đi rao tứ phía với các tay chạy hàng. Điều mà tôi không bao giờ tưởng đã xảy đến. Có người mua thật. Qua hai ba trung gian nữa, viên ngọc nghe nói được bán cho bà vợ ông Lê Duẩn với giá 50 lượng vàng. Đó là lần tôi trúng mánh lớn nhất, huê hồng tới 1 cây vàng.

    Thu thì lắc đầu. Nàng không chấp nhận kiểu làm ăn này nhưng chúng tôi cũng chưa biết phải làm gì hơn.

    Ngày ngày tôi đứng chờ Thu tan sở. Hai đứa lang thang đi ăn đủ chỗ. SG nay đi hai bước là có chỗ ăn. Lề đường hễ có chỗ trống là có quán. Đủ thứ quán. Tạt vào đâu cũng có thể có 1 tô bún, 1 tô cháo . Quán cafe và quán nhậu còn nhiều nữa. Tôi không hiểu tại sao thiên hạ ăn nhậu dữ vậy. Thu có vẻ hiểu biết hơn:- Có ai có việc làm tử tế đâu, toàn buôn chợ trời buôn đồ ngoại. Rảnh quá chỉ ăn nhậu tối ngày. Anh không thấy ai cũng uống rượu đế à?

    Cuối tuần tôi gần như ở Bà Quẹo suốt ngày. Gia đình Thu coi tôi như rể, như người trong gia đình.

    Bốn tháng sau khi ra trại, chúng tôi thành hôn. Tôi đề nghị ông Trung và ông Vận làm phù rể. Mới đầu Thu ngần ngừ nói rằng hai ông bạn tôi đều đã có gia đình và nhất là ông Trung lại chống nạng e kỳ quá, còn ông Vân thì hom hem dễ sợ. Không hom hem sao được sau những gì ông Vận trải qua. Cựu Tr/u Vận đặc trách truyền tin ở Đồng Xoài đã rớm nước mắt khi hai đứa tôi gặp lại nhau lần đầu và tôi kể rõ về cái chết của Hoàng. Ông Vân bao giờ cũng vậy, ôn tồn cam chịu:

    - Bà già moa mất rồi. Đến lúc chết bà vẫn tin thằng Hoàng còn sống. Khi toa và ông Hùng rút đi chừng mươi phút sau thì tụi nó tràn vào như kiến. Moa vẫn nằm trên chiếc băng ca, cả người băng bó, máu me tùm lum. Miểng 82 dính đầy người mà sao moa không bị gãy xương bể gáo mới là lạ. 1 tên cán bộ nhìn moa và phán "khênh cái thằng này đi". Tên cán bộ nhíu mày không nói gì và hai người lính cúi xuống mỗi người 1 đầu khênh moa ra khỏi tiểu khu. Lúc đó tiếng súng vẫn đì đẹt nhưng chẳng ai hỏi han cản trở gì cả. Moa vẫn nhớ ơn hai người lính và liên lạc với họ đều đều. Đó là ông Tám và ông Sang, hai người nghĩa quân. Họ đem moa về nhà rồi chính họ lo lắng chămsóc cho moa đến tận 30-4.

    Ông Vận không kể nhiều hơn, nhưng tôi thấm tận tâm can. Có lẽ QG và CS chỉ khác nhau duy nhất tình người. Ông Vận bị cải tạo 4 năm nhưng may không phải ra Bắc. Tôi nói với Thu chỉ muốn những người thực sự chia sẻ cuộc đời lính tráng xa xưa nay ở cùng bên tôi trong giờ phút trọng đại của đời tôi.

    Cuối cùng nàng đồng ý.

    Gia đình tôi nay ở VN chỉ còn bác Chuyên và bà chị gái góa chồng nên họ nhà trai rất ít người. Đám cưới dù giản dị nhưng vui. Không ai thấy cảnh ông phù rể Trung chống nạng tập tễnh là kỳ dị. Không ai thấy ông Vận hom hem là xấu cả. Bởi mọi người đều biết họ là ai, đều biết 3 đứa tôi đã cùng sát cánh vào lúc thâp tử nhất sinh trong ngày cuối của Đồng Xoài.

    Cô dâu tươi cười. Chú rể thì rõ ràng đang hạnh phúc. Mọi người vui tíu tít. Khi lễ gia tiên, tôi nói khẽ với Thu: "Fleur de Racaille" thì nàng cười bảo nhỏ:

    - Em đợi đến hôm nay mới xài.

    1 cái gì dâng lên trong tôi. Tôi như người khác. Tôi nhìn đâu cũng chỉ có Thu. Tôi đi đâu, làm gì cũng chỉ nghĩ đến vợ.

    Tôi đi tới đi lui trước cái tiệm bé tí bày đủ thứ máy. Phải nói ngay gần như tất cả đều là máy cũ nhưng rất tốt. Từ những thứ rẻ tiền như Kodak cho đến loại đắt vô cùng như Leica, hay Hasselblass

    Tôi nhớ ngay cái phòng tối dã chiến của bố tôi ở HN. Bố quây quanh chân bàn thờ gia tiên bằng vải đen để có phòng tối nhưng mỗi lần rửa hình ông cụ còn cẩn thận đóng hết cửa lại cho thật tối, ánh sáng không lọt vào.

    Lúc đó, tôi học lớp nhì thì phải, vẫn hay chui vào trong ngồi nhìn ông pha thuốc, nhìn những tấm hình từ từ hiện ra trong cái khay nông đựng nước hóa học màu nhờ nhờ. Tôi đã cầm những tấm ảnh còn ướt sũng đem trải ra nơi 1 tấm kính để chờ cho khô. Phải chăng bắt đầu từ cái gầm bàn thờ tối om đó, tôi đã được bố tôi nhen nhúm nỗi đam mê nhiếp ảnh. Ông cụ ngay cả sau này vào SG vì làm việc cho USIS nên vẫn dính líu đến phim ảnh. Bố đã đóng góp rất nhiều trong các phim Chúng Tôi Muốn Sống và Đất Lành ..Cũng như nhiều phim thời sự của VNCH thời ông Diệm vẫn được chiếu trong các rạp chớp bóng trước khi đi vào tuồng chính.

    Vì vậy tôi bắt đầu cầm máy sớm. Khi còn là SV, tôi theo học khóa đào tạo nhiếp ảnh viên tài tử của Hội Nhiếp Ảnh VN tổ chức ở Hội Việt Mỹ với các bậc thầy như Cao Lĩnh, Nguyễn Ngọc Hạnh, Cao Đàm, Mạnh Đan.. Tôi đã tí toáy gửi ảnh tham dự các cuộc thi và ảnh đã được triển lãm cũng như đôi lần được giấy khen, được giải khuyến khích.

    Khi ở trong quân ngũ, lúc nào tôi cũng thủ 1 chiếc máy hình. Hơn mười năm qua tôi không tơ tưởng đến chuyện cầm máy nữa. Nay tôi là công nhân chuyên súc, rửa chai lọ cũ trong 1 hãng. Đây là 1 ân huệ lớn của các ông thuộc Sở Nhà Đất và CA Phường. Họ đã bố trí cho tôi làm công nhân ở đây để có thể êm xuôi vụ bắt chú Trung hiến nhà. Tôi đã trở thành 1 người gương mẫu của chế độ, có đóng góp lao động và được hộ khẩu hợp pháp để mua nhu yếu phẩm.

    Sau đám cưới, và nhất là sau khi được làm việc ở công ty rửa chai lọ, tôi coi như tạm yên. Tôi đi làm để mà đi làm bởi vì lương công nhân có lẽ chỉ vừa đủ để mua gạo cho hai đứa. May là gia đình bên Mỹ vẫn chu cấp đều nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào. Tôi có cảm giác hồi phục trở lại. Sau những năm dài cô quạnh trong tù, sau những lao đao của kiếp người, tôi đã đi tìm được bình yên. Tôi được yêu thương, được ông bà nhạc coi tôi như con đẻ, đối xử với tôi như đứa anh cả trong nhà. Lũ em Thu quấn lấy tôi và nhất là tối tối tôi vẫn kèm bài vở cho tụi nó.

    Thu hiền và dịu dàng. Thu trong sáng lúc nào cũng lo cho tôi. Tôi đang có 1 mái ấm gia đình.

    Khi đứa con đầu biết bò, tôi muốn có hình chụp để gửi cho ông bà nội nó. Ông thợ chụp hình sau 1 hồi đắn đo, đồng ý đến tận nhà chụp nhưng đòi 1 khoản tiền lớn làm tôi khựng lại. Ông ta kể tràng giang đại hải rằng thuốc rửa rất đắt, phim khan hiếm. Ông ta cũng ra điều kiện là phải chụp nguyên cả cuộn thì mới bõ công đến nhà. Tôi nhẩm tính vào thấy nếu tôi có máy thì rẻ hơn nhiều. Bàn đi bàn lại, Thu đồng ý là nên có 1 chiếc máy chụp hình.

    Mấy ngày qua tôi mò mẫm đi tìm 1 cái máy rẻ rẻ 1 chút. Thật ra máy ảnh bây giờ không quá đắt có lẽ vì chẳng ai có thì giờ tiền bạc để phí phạm vào nhiếp ảnh. Nó phù phiếm. Nó không thực tế. Những chổ bán máy hình không còn nhan nhản như trước 1975 và tất cả máy bày bán đều là máy cũ nhưng còn rất tốt, nhất là so với giá ngày xưa thì rất rẻ. Tôi loay hoay. Tôi đắn đo. Mua máy loại bết quá thì không có đủ những căn bản kỹ thuật như độ nhạy độ mở..Cuối cùng tôi cắn răng mua cái Nikon F3 ống kính normal.

    Thỉnh thoảng VN cũng có những cuộc thi nhiếp ảnh. 1 hôm vợ tôi về bảo tôi:

    - Em vừa phải đi dự 1 vụ triển lãm nghệ thuật. Mấy tấm hình anh chụp đẹp hơn nhiều, sao anh không gửi dự thi.

    Tôi cười ngất vì quả thật tôi không có ý định dự thi, đoạt giải. Sinh hoạt xã hội gần như xa lạ với tôi. Tôi chỉ biết cặm cụi ngày ngày rửa chai lọ, sắp vào những thùng lớn để ngày ngày công ty đem đi phân phối. Đủ thứ chai, thứ lọ được thu hồi bằng nhiều ngả, nhiều ngách, từ những người lượm chai cho đến những chai lọ được đem đổi như chai bia "33" chẳng hạn. Ngày đánh nhau với chai lọ, tối về vui với gia đình. Tôi cũng gần như không có bạn bè ngoài gia đình Trung. Tôi bỏ nhậu nhẹt vì không còn thích nữa 1 phần, phần khác là tiền bạc. Chiếc máy hình là trò vui duy nhất và tôi chỉ chụp Thu, chụp con cái và cảnh chung quanh nhà. Tôi rửa hình lấy nên tổn phí chẳng đáng bao nhiêu. Khi nghe thu khuyến khích tôi cười: - Ờ để coi. Nhung giải thưởng bằng tiền mặt mới gửi à nhe.

    Hai vợ chồng tôi cùng cười về viễn ảnh kiếm tiền bằng ảnh nghệ thuật.

    Vậy mà tôi đoạt giải thật, 1 lúc tới hai giải. Giải đầu là cuộc thi toàn quốc có trên 1000 ảnh gửi dự.

    Bức tôi chụp hai đứa con con ngồi cạnh nhau được chấm nhất, ngoài bằng khen và huy chương tôi còn nhận được 1 triệu đồng. Bức thứ hai cũng chụp hai đứa nhỏ được giải nhất trong cuộc thi nhiếp ảnh vùng Thái Bình Dương. Tôi không dám ký tên Đỗ Lệnh Dũng mà dùng tên con gái. Thiên hạ bắt đầu để ý đến nhiếp ảnh gia Mai Uyên.

    1 ký giả của tờ báo Tân Gia Ba đến thăm VN viết bài và cần có hình ảnh đăng kèm. Ông ta tìm tới tôi nhờ giúp. Tôi không rõ tờ báo đó đã sử dụng bao nhiêu tấm hình, chỉ biết tôi kiếm được 1 số tiền quá lớn ngoài sức tưởng tượng khi mà lợi tức trung bình của dân Việt chưa tới 300 đô, tôi chỉ tốn chưa đầy 2 đô la vốn liếng và vài ngày làm việc mà kiếm tới 250 đô la thì quả là ghê gớm.

    Thành quả đầu tiên trong đời cầm máy khiến tôi chú trọng hơn đến ý nghĩ trở thành 1 nhiếp ảnh gia nhà nghề.

    Tình trạng kinh tế của VN vào thời điểm những năm cuối thập niên 80 chưa có gì khả quan nếu không nói là tồi tệ. Đâu đó tôi đọc thống kê của các cơ quan như Lương Nông Quốc Tế hay Ngân Hàng Thế Giới thì VN vẫn bị liệt vào nước nghèo nhất thế giới. Lương cán bộ công nhân là lương chết đói và trong bối cảnh đó thiên hạ tìm những nguồn lợi phụ nhưng đôi khi lại lớn hơn gấp nhiều lần như tham nhũng hối lộ, như buôn lậu.

    Hình như cả SG nói riêng và miền Nam nói chung thoi thóp được là nhờ những thùng quà và tiền từ ngoại quốc gửi về. Mọi thứ càng ngày càng khan hiếm sau hơn mười năm ngưng tiếng súng. Mọi thứ ngày xưa tìm đâu cũng có nay trở thành quí hiếm. Thuốc và giấy rửa hình là thí dụ. Nó biến mất nhưng chỉ là bề mặt, nếu có móc nối, có tuy-ô thì vẫn tìm ra nhưng rất đắt.

    Trong cái mơ mộng trở thành nhiếp ảnh gia nhà nghề, tôi cố trang bị thêm 1 ống kính 105 mm, 1 ống kính Wide-angle và cũng lập được 1 phòng tối dã chiến tạm dùng đủ. Điều may mắn là các hãng ngoại quốc - trừ Mỹ vì vẫn còn cấm vận - đang mon men nhảy vào khai thác thị trường VN. Họ vào là để hành sử theo đúng kinh tế thị trường là phải quảng cáo, giới thiệu món hàng trước. 1 trong những đòn họ tung ra là bảo trợ các cuộc thi. Đủ mọi hình thái từ thể thao đến hội họa, từ văn chương đến nhiếp ảnh. Tôi dự tất cả những cuộc thi ảnh và như lần nào cũng hoặc chiếm giải hoặc ảnh được trưng bày. Điều may mắn hơn là những báo Tuổi Trẻ, Lao động đều đăng ảnh của Mai Uyên.

    Khi sở Du Lịch đưa ra kế hoạch quảng cáo du lịch, họ cần 1 nhiếp ảnh và theo như sau này tôi nghe thuật lại thì người phó giám đốc đã nhớ đến tên tôi vì đọc báo Tuổi Trẻ

    Khi Sở Du Lịch muốn tuyển nhiếp anh gia Mai Uyên, nhưng khi biết rõ tôi là sĩ quan Ngụy bị bắt tại chiến trường, bị tù dài dài và nhất là gia đình bố mẹ anh em đều ở Mỹ thì "coi bộ căng lắm". Tôi khai có vợ cũng đang làm công nhân viên cho Sở Du Lịch thì mọi sự "bớt căng" đi 1 chút. Cuối cùng họ đồng ý mướn tôi theo từng kế hoạch, có nghĩa giản dị khi nào cần thì gọi. Tôi cũng thích như vậy hơn vì được rộng cẳng, không phải trói buộc với thủ tục hành chính lỉnh kỉnh, không phải chung đụng hàng ngày với công nhân viên cán bộ nhà nước và nhất là không phải đối phó với những tranh quyền đoạt lợi ở sở.

    Khi tôi được biết là sẽ chịu trách nhiệm "bố trí 1 đội ngũ" nhiếp ảnh gia "có tay nghề cao và vững" để đi chụp thắng cảnh từ Nam ra Bắc, tôi thực sự xúc động bồi hồi dù viễn ảnh phải xa vợ con cả tháng có làm tôi thực sự băn khoăn. Nhưng cái ước mơ tự thủa thiếu thời nay bừng dậy trong tôi. Tôi ước mơ được thấy Hồ Ba Bể, ChùaTây Phương. Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được xuống Thới Bình, Cà mau để nhìn những rặng dừa nước, cánh đồng Nọc Nạn, thăm Thất Sơn. Rồi còn Đèo Cả, Đèo Ngang. Rồi còn những cái tên tôi nghe từ thủa lọt lòng như núi Ba Vì, như Cha Pa.

    Phải chăng khi tôi quyết định lập gia đình với Thu và vun vén cái tiểu gia đình mà tôi coi như mạng sống của mình, phải chăng khi lờ đi cái viễn ảnh Mỹ, còn có 1 lý do thầm kín khác ngấm ngầm trong tôi? Tôi yêu đất nước và tôi muốn đặt chân lên mọi nẻo đường Nam Bắc, tôi muốn thực sự nhìn thấy quê hương và đó là 1 trong những lý do khiến tôi không để ý gì đến vụ bảo lãnh? Tôi tâm sự với Thu điều này. Thu dịu dàng:- Anh phải nhận đừng để lỡ cơ hội. Đừng lo cho em và các con vì ông ngoại bà ngoại và cậu dì ở trong nhà. Không phải lúc nào anh cũng có dịp đi 1 vòng Nam Bắc đâu. Nhớ là phải viết Nhật ký để em đọc và đứng mê gái HN là được.

    Kế hoạch của Sở Du Lịch rất rõ ràng. Ảnh do đoàn công tác chụp sẽ được đem triển lãm ở các QG khác trong nỗ lực quảng cáo nét đẹp của VN để giúp phát triển du lịch.

    Tôi đề nghị và được chấp thuận danh sách có các tay nhiếp ảnh hạng nhất của VN: Cao Đàm, Đào Hoa Nữ, và hai người con của Cao Đàm là những người đang được chú ý như những ngôi sao của thế hệ đang lên.

    Tôi đã chìm mình trong sương mù Cha Pa, đã ngẩn người nhìn tượng La Hán trong Chùa Tây Phương, đã chua xót nhìn Lăng Khải Định với kiến trúc ngô nghê, đã dầm mình trong Thác Bản Dốc. Núi cao trùng điệp, sông dài mênh mông của đất nước từ Nam ra Bắc khiến tôi thực sự khám phá ra mối liên hệ giữa người và thiên nhiên, giữa 1 cá nhân và dân tộc.

    Chính nhờ cơ hội này mà tôi được nghe và đến tận nơi những địa danh như Cù Mông, Thạch Hãn, Cổ Loa, Đèo Ngang, Đèo Cả.. Làm sao tôi kể hết ra được những nỗi xúc động khi đối diện với âm vang dội lại của cả 1 quá trình lịch sử dân tộc.

    Đất nước mình đẹp quá. Lịch sử dân tộc có 1 bề dày với lịch sử Hán tộc. Dân mình hiền lành thông minh và cầncù.

    Tôi không thể nào kể hết được những tình cảm dấy lên trong tôi ở mỗi nơi, từ cái giếng đến đến những cảnh chùa, nơi đâu cũng đều mang chứng tích của lịch sử.

    Lớp sóng phế hưng đã phủ lên những danh tích như từ những mảnh vụn của đời sống, của cảnh vật, đâu đó tôi vẫn lờ mờ nhận ra gốc rễ của mình.

    Thành Cổ Loa đã không còn nữa nhưng thật khó ngăn nổi những bồi hồi khi cầm trên tay mũi tên bằng sắt nay đã gỉ, lớp hoen ăn sâu vào trong và mũi không còn sắc như xưa. Câu chuyện Thần Kim Qui và chiếc Nỏ Thần chắc chỉ là huyềnthoại nhưng chắc chắn đạo quân An DươngVương đã trang bị cung tên rất hùng hậu mới chống trả được Triệu Đà. Tôi đã tần ngần khi thấy 1 rổ lớn những mũi tên được thu lượm. Nó là chứng tích của lịch sử. Lồng trong đó là truyện tình đẫm nước mắt Trọng Thủy Mỵ Châu. Nước trong cái giếng sâu thămthẳm đó có thật sự rửa sáng những viên ngọc trai chăng? Tôi ngờ là không nhưng khi đứngnhìn vào lòng giếng,ít ai cầmnổi xúcđộng.

    Rồi còn trụ đồng Mã Viện. Nó tượng trưng cho sức đề kháng của dân Nam trước áp lực Bắc phương. Mã Viện đã là thủ phạm vụ tịch thu trống đồng đem về Tàu nấu chảy đúc tiền và làm trụ đồng để yểm dân Nam. Không còn dấu tích trong cái vụ với lời yểm "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" nhưng họa Bắc Phương vẫn còn đó. Thác Bản Dốc đẹp vô cùng, đúng là 1 địa điểm du lịch đầy hấp dẫn. Tôi đã chụp rất nhiều ảnh nơi đây.

    Tôi cũng đã trở lại HN của thời thơ ấu. Suốt mấy ngày 1 nỗi buồn day dứt ẩn hiện không lúc nào nguôi. Người dân HN của 1954 nay đâu mất. HN vẫn là thủ đô nhưng không còn vẻ thanh lịch ba sáu phố phường của Thăng Long. Nay là những lời nói sỗ sàng, là thái độ sẵn sàng ăn thua đủ, là những sống sượng đến phát lợm giọng. Nhà cửa vẫn tiêu điều dù tiếng súng đã ngưng trên 1 chục năm. Những mái ngói thấp lụp sụp xiêu lệch. Những mảng tường long lở và những cánh cửa gỗ mở ra, phía trong tối om. Lòng mong mỏi, nỗi háo hức của tôi khi vượt cầu Long Biên đã nhường cho nỗi ngán ngẩm của thực tế.

    Nếp sống Bắc Nam thật khác. Khi tôi chụp hình 1 bà già ngồi ăn xin ở cổng chùa Thày, lạp tức 2,3 viên CA ập đến.

    - Anh định bêu xấu XHCN hay sao mà chụp ăn mày?

    Họ đòi dẫn tôi vào trụ sở CA, đòi tịch thu phim và cả máy hình. Tôi cố giảng giải cho họ cái khía cạnh đẹp khi sự việc được lọc qua ống kính, họ mắng tôi là ngụy biện. Cùng đi để canh chừng và giám sát tụi tôi có viên Phó Giám Đốc Sở Du Lịch và ông này chắc chắn là CA cỡ bự, ông ta xuất trình giấy tờ đủ thứ họ mới tha cho tôi. Khi ở Rạch Giá, tôi chụp cảnh mấy đứa nhỏ gầy guộc xanh xao đang tắm trong 1 vũng nước thì chẳng ai để ý và viên CA áo vàng còn cười:

    - Chụp làm chi mấy đứa nhỏ ở truồng?

    Đây cũng là 1 cơ hội lớn cho tôi vì cũng được cầm máy với hai nhiếp ảnh gia đày tay nghề là Cao Đàm và Đào Hoa Nữ. Từ họ, tôi học được rất nhiều về nhiếp ảnh. Nhưng có lẽ lời khuyên lớn nhất của ông Đàm "Ống kính là vật vô hồn. Mình có để hồn mình vô đó thì mới có tấm ảnh đẹp, mới đem lại sức sống cho ảnh, tránh nhàm chán, lập lại. Muốn thế phải mở to con mắt ra nhìn sao cho tìm dược nét riêng do mình tạo ra."

    Toàn bộ tập ảnh được Sở Du Lịch in ra và đem đi triển lãm ở nhiều nơi để giới thiệu du lịch. Tôi thực sự không hiểu là ở những đâu vì đó không phải là điều đáng để ý. Điều đáng quý nhất là tôi đã được đi, được nhìn và cá nhân tôi, tôi cũng đã giữ được

    Tôi thực sự không hiểu là ở những đâu vì đó không phải là điều đáng để ý. Điều đáng quý nhất là tôi đã được đi, được nhìn và cá nhân tôi, tôi cũng đã giữ được 1 bộ ảnh khá đồ sộ. Tôi bảo Thu khi hai đứa ngồi nhìn ảnh:

    - Đây là tài sản quý nhất anh để lại cho em và các con.

    "Bây giờ con đã có gia đình, đã có con cái nên con sẽ thông cảm với bố mẹ nhiều hơn. Mẹ vẫn cằn nhằn bố từ bao nhiêu năm qua vì đã không nỗ lực vận động xin xỏ để con đi cùng gia đình hồi 64. Bố cũng đã suy nghĩ rất nhiều và đã có nhiều đêm không ngủ vì câu hỏi đặt ra. Liệu cái quyết định để con lại VN hồi đó có thuận lý hay chăng? Bây giờ sau bao nhiêu năm trời, cái quyết định vào lúc này không phải là ở bố mẹ nữa mà là của chính con - đúng ra phải nói là của vợ chồng con. Bố chỉ muốn con chiêm nghiệm cái tình phụ tử của con đối với hai đứa cháu nội của bố. Lòng yêu thương của cha mẹ đối với con cái khó có thể đo lường so sánh được. Cái day dứt từ bao năm qua vẫn còn nguyên nơi bố mẹ. Bố chỉ mong con vì bố mẹ và hơn nữa vì tương lai của hai đứa nhỏ, sớm lo thủ tục để có thể nhập cảnh HK. Bố mẹ đã làm hết sức. Ông Sam Grave cũng làm hết sức. Theo chỗ bố hiểu, Sở Di Trú Mỹ đã chấp nhận trường hợp của con.."

    Ít khi bố tôi viết thư và nếu có thì cũng chỉ vài hàng ngắn. Đây là lần đầu ông cụ viết 1 lá thư dài "tâm sự" với tôi về chuyện xảy ra từ bao năm trước.

    Thú thật ngay sau khi xảy ra vụ vì thuộc tài nguyên QG, ở tuổi động viên, tôi phải ở lại VN, tôi có cáu kỉnh bực dọc nhưng có lẽ vì còn trẻ quá, tôi quên đi rất nhanh. Đời đẹp quá, ở VN hay Mỹ có khác gì nhau? Tôi có mọi thứ ở đây. Bạn bè, gia đình chú dì, và Dung. Cuộc sống theo đó cuốn tôi theo vận mệnh của miền Nam. Cơn lốc dữ của dân tộc đã đẩy cá nhân tôi vào những vòng xoáy lớn khiến tôi không còn thì giờ ngoái cổ lại mà thương tiếc dĩ vãng hay suy nghĩ về 1 sự việc để đặt câu hỏi "giá mà thế này, giá mà thế khác"

    Sau bao nhiêu biến đổi, nay tôi đã định lại được, đã có 1 gia đình nhỏ, đời sống vật chất chẳng thể hơn ai nhưng cũng không đến nỗi phải than phiền. Tôi có tình yêu thương tràn trề của người vợ lúc nào cũng cười vui, cũng chiều chuộng. Tôi có 1 đứa con gái rất xinh, 1 đứa con trai rất ngoan. Có nên đánh đổi cái an bình này để đi Mỹ, để bắt lại từ đầu?

    Ngay khi tôi ra khỏi tù, điện tín của bố mẹ là 1 thông điệp rõ ràng. Mọi sự xếp sang 1 bên lo đi Mỹ càng sớm càng tốt. Tiếp theo đó, tôi nhận đủ thứ giấy tờ từ những tờ giấy của nhà băng bảo đảm bố mẹ tôi có đủ tiền lo cho tôi, thư can thiệp của Thượng Nghị Sĩ Mỹ với Sở Di Trú yêu cầu HK chấp nhận cho tôi dược nhập cư, cho đến cả thư của ông Phó Tống Thống Al Gore. Tôi biết ông bạn Sam Grave vẫn liên tục vận động cho tôi. Trong 1 thư, ông Sam viết:"Những gì tôi được biết cho thấy ở VN hiện vẫn còn rất nhiều khó khăn, Tôi tin rằng HK sẽ cống hiến cho anh nhiều cơ hội hơn. Anh hãy tìm cách để qua sống ở nước này vì tương lai của anh, của gia đình anh, và nhất là của hai đứa con. Tôi tin rằng nền giáo dục của HK sẽ giúp rất nhiều trong việc học hành của chúng nó.."

    Sau những đợt vượt biên, người dân VN nay nói đến HO, đến đoàn tụ gia đình. Tin tức từ bên ngoài cho thấy thuyền nhân nay bị xua đuổi, bị từ chối và cũng có rất nhiều tin nói có thể những người đang kẹt lại các trại tị nạn ở Thái Lan, ở Mã Lai, Nam Dương sẽ bị hồi hương. Vả lại, vượt biên ngoài chuyện có thể bị bắt, bị tịch thu gia sản, sống bơ vơ cầu bơ cầu bất, còn nạn hải tặc, nạn bị bão chết cả tàu, cả thuyền. Bây giờ là chuyện HO và đoàn tụ. Thiên hạ bàn tán đủ kiểu, theo dõi tin tức về vụ này và loan truyền về đủ mọi mánh khoé, mưu mẹo, giấy tờ để có thể thuộc diện HO, diện con lai, diện đoàn tụ. Phải nói đó là cơn sốt của SG.

    Vợ chồng tôi cũng nói chuyện nhiều về vụ đi Mỹ. Thu rất thẳng thắn bảo nàng sợ đi Mỹ. Bố mẹ anh em Thu đều ở SG. Cả đời nàng gắn bó với SG. Sang đó nàng sẽ vô cùng cô đơn. Nhưng Thu bảo tùy tôi, đi đâu nàng cũng đi đó, vợ chồng sống chết có nhau, vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia.

    Tôi vẫn cứ dụ dự cho đến 1 hôm thấy đứa con trai đầu lòng hý hoáy vẽ. Tôi lẳng lặng đến phía sau cu cậu nhìn. Tôi giật bắn người. Con tôi đang vẽ hình ông HCM. Đứa nhỏ ngoái lại nhìn bố, cười toe: - Ba. Cô giáo bảo vẽ Bác, đứa nào vẽ đẹp nhất được thưởng kẹo.

    Tôi cố dằn xuống để con tôi không thất sự xúc động nơi tôi. Hình ảnh thiếu nhi khăn quàng đỏ "ôm hôn Bác thắm thiết" chợt hiện ra. Nếu con tôi cũng sẽ tôn thờ ông Hồ như nền giáo dục của chế độ cố uốn nắn thì sao? Tôi cố lấy giọng ngọt ngào bảo:

    - Con vẽ hình ba đi, ba cho nhiều kẹo hơn cô giáo.

    - Con phải vẽ hình bác chứ. Bác yêu nhi đồng lắm. Nhờ Bác mình mới thắng Pháp thắng Mỹ..

    Tối hôm đó tôi kể lại cho Thu. Hai vợ chồng ngao ngán nhìn nhau. Hai đứa nhỏ sẽ ra sao nếu được nhồi sọ kiểu này? Quyết định đi Mỹ trở nên dứt khoát hoàn toàn.

    ***

    Khi tôi ôm hồ sơ vào để phòng vấn, mọi sự xảy ra êm xuôi, trừ 1 câu hỏi làm tôi suy nghĩ. Người Mỹ phỏng vấn tôi từ đầu vẫn nói chuyện qua 1 thông dịch viên dù ông ta biết tôi hiểu tiếng Mỹ. Khi xếp đống giấy tờ lỉnh kỉnh-mà có lẽ quan trọng nhất là cái giấy ra trại, cái bùa hộ mạng của dân HO - ông ta bỗng nói bằng tiếng Việt rất sõi: - Trường hợp của anh rõ rệt, lại có nhiều giấy tờ từ Mỹ bảo đảm, tại sao tới giờ anh mới lên gặp chúng tôi. Bộ anh không muốn đi Mỹ à?

    - Tôi cũng không biết phải giải thích như thế nào nữa. Nhưng bỏ quê cha đất tổ ra đi thì cũng cần suy nghĩ cho chín.

    Người phỏng vấn gật gù như học được 1 từ VN lạ tai:

    - Suy nghĩ cho chín. Lần đầu tiên tôi nghe tiếng này.

    - It's an important decision

    - Indeed. It's important decision.

    Khi gia đình tôi rời văn phòng ODP, tôi nhớ lại tòa nhà trắng cũ vẫn còn đó nhưng bỏ trống chơ vơ khác với hai lần trước tôi đến. Lịch sử đã lật qua trang và đang có tin Mỹ sẽ ủi xập cái bin-đinh đồ sộ đó để xây lại. Nhưng đó là phần của Mỹ. Phần của VN thì sao? Nhất là phần đời của những người người dân khốn cùng, của những kẻ đã chịu mọi hậu quả của súng đạn. Sau cuộc chiến, chuyện đổi thay nhưng vẫn còn nằm trong chờ đợi.

    Tối hôm đó, khi cả nhà đã ngủ yên, tôi lẳng lặng ra ngồi ở gốc cây mận. Chung quanh yên tĩnh lạ thường. Tôi ngửi thấy mùi đất ẩm trộn lẫn trong lá cây đang ải trong vườn. Đất ấm như đang dâng lên trong cái oi nắng còn lại sau 1 ngày mệt mỏi. Lòng tôi trống rỗng, như 1 hiếu vắng. Tôi không suy nghĩ được gì, ngồi đó nhìn vào cái mờ ảo của khu vườn lâu nay vẫn là nơi tôi lui về, trốn chạy trước những ồn ào của cuộc sống. Tôi biết chắc tôi sẽ mất cái khu vườn thương yêu này, nơi bố con tôi hay thong dong, hay cười đùa. Rồi còn lại những trái ổi, trái mận ngọt ngào, trái khế chua dôn dốt. Rộng hơn nữa là SG, là VN. Nhưng tôi có muốn con tôi trở thành đối tượng của Đoàn, của Đảng? Tôi có muốn con tôi tôn thờ thần tượng HCM? Đổi chác nào cũng có giá trị của nó. Tôi ý thức rõ điều đó và băn khoăn tự hỏi rồi mai mốt đây, trong quãng đời còn lại, liệu tôi sẽ giống như bố tôi, loay hoay suy nghĩ, tự dằn vặt về 1 quyết định liên quan đến con cái chăng? Tôi không rõ và câu trả lời chắc chắn sẽ có trong tương lai, không phải của vợ chồng tôi mà có lẽ của hai đứa nhỏ.

    Tôi quay vào nhìn con. Hai đứa nhỏ đã thiếp đi và lạy trời trong giấc ngủ chúng nó không mơ thấy Bác Hồ.

    Suốt hơn ba tháng tôi không như còn là tôi nữa, lúc nào cũng thấp thỏm, lúc nào cũng đúng ngồi không yên. Mọi sinh hoạt cá nhân và gia đình đều quay quanh viễn ảnh sẽ rời khỏi VN. Tôi thăm hết người này đến người khác và điều đáng để ý nhất là mọi người đều chúc mừng tôi. Tôi không dám nói với ai về suy nghĩ của tôi vì có thể thiên hạ sẽ cho tôi là rởm, là làm bộ, hay hơn nữa là lên mặt đạo đức, yêu nước cái mẽ ngoài. Nhưng tại sao lại phải mừng rỡ khi rời quê hương bản quán, quê cha đất tổ. Cuộc đời tôi gần như gắn chặt với nhưng tang thương, những đen tối nhất trong lịch sử nhưng chính sự gắn bó lại khiến tôi day dứt. Dạo sau này lúc nào rảnh là tôi lại mò mẫm đọc lại lịch sử VN. Hồi bé tôi không có cơ hội để thực sự hiểu lịch sử dân tộc vì tôi được giáo dục trong 1 môi trường cách biệt với quảng đại quần chúng. Tôi nhớ và thương ông Mai Văn Khoa vô cùng bởi vì những gì ông nói với tôi về quá trình của dân tộc mình trong những ngày ở Phước Long. Từ đó lòng mong mỏi tìm hiểu đã thôi thúc tôi. Tôi đọc đi đọc lại sách của cụ Trần Trọng Kim. Tôi thủ kỹ cuốn VN Máu Lửa. Tôi mê ông Đào Duy Anh. Tôi đọc gần như nát cuốn của ông Lê Văn Siêu và Nguyễn Đăng Thục. Điều mà tôi cảm nhận lớn nhất là lòng yêu nơi chôn nhau cắt rốn, là sự gắn bó với làng với nước. Tôi ngẫm nghĩ về bài đọc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Cái ông già đi khắp nơi để rồi cuối cùng về nói với con cháu:- Quê hương là chốn đẹp hơn cả.

    Tôi đã quên hẳn Malraux, Gide hay những tác giả cổ điển như Molière hoặc tân thời sau này như Sagan. Tôi quay về với Bướm Trắng, với Hồn Bướm Mơ Tiên. Qua Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, tôi thương chị Dậu hoặc bất cứ phụ nữ VN nào mà Chị Dậu là điển hình. 1 phần nào tôi hiểu cha tôi hơn qua Nguyễn Tuân, hiểu mẹ tôi qua Cô Mai trong Nửa Chừng Xuân. Tôi cũng yêu thơ của Vũ HoàngChương, Đinh Hùng và cả thơ của ông thày triết học Nguyên Sa.

    Sách vở miền Nam đã bị thiêu hủy, bị đốt từ sau năm 1975 nhưng nhờ lòng yêu quý sách vở của 1 số đông nên vẫn còn những cuốn được lưu truyền lén lút. Tôi đang ở trong trạng thái khám phá không những phía ngoài mà cả ở chính trong tôi qua văn học VN. Tôi tự nhủ tuy muộn nhưng chính từ sự muộn màng đó, tôi chiêm nghiệm được cái quá khứ nhỏ bé của tôi trong cái chúng lờn của dân mình. Đây có lẽ cũng là lý do khiến tôi chần chừ trong việc nộp đơn xin đi Mỹ.

    Nhưng rồi cái gì đến phải đến. Chỉ còn ít lâu nữa tôi sẽ rời VN, 1 chọn lựa tưởng như dễ dàng nhưng khi xảy ra không khỏi có những day dứt dằn vặt.

    Khi leo lên chiếc phi cơ ở Tân Sơn Nhất, tôi dắt Mai Uyên và nói nhỏ với nó:

    - Mai mốt lớn lên con phải nhớ con là người VN.

    Nó ngước mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi bỗng thấy câu nói của tôi nửa có tính cách cải lương, nửa dối trá với chính mình nhưng tận cùng là nỗi chua xót ngậm ngùi.

    Chuyến bay vất vả, chuyển từ Vọng các tới San Fancisco rồi mới bay đi Hoa Thịnh Đốn. Vợ con tôi đờ đẫn có lẽ vì mệt, vì mất ngủ, vì không quen với đố ăn trên phi cơ và có thể cũng vì căng thẳng.

    Nhưng ở phi trường National Airport là cả 1 hội ngộ rất lớn. Bố mẹ con cái ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Bố tôi già hơn xưa nhưng vẫn tráng kiện. Ông ôm tôi nói nhỏ:

    - Cám ơn con đã đem vợ con con qua đây với bố mẹ.

    Nghe như 1 lời tạ lỗi làm tôi sững sờ. Mẹ tôi miệng thì cười tươi nhưng hai mắt đẫm lệ, hai tay ôm hai cháu. Mấy đứa em tôi quấn lấy Thu hỏi thăm. Sam Graves đứng cao vượt lên và khi bắt tay, ông nói với tôi:

    - Welcome. Welcome to America.

    Tôi biết cái chân tình của Sam đối với tôi. Ông đã xông vào mọi cửa, liên lạc mọi nơi để vận động cho tôi được HK chấp nhận. Cảm động hơn nữa là ông đã bay lên tận Washington DC để đón tôi. Tình bằng hữu là 1 nối kết khi đã có thì mỗi ngày 1 thêm bền chặt.

    Khi về đến nhà lại là 1 đại tiệc. Đồ ăn thức uống ê hề. Người ngạc nhiên nhất có lẽ là Thu vì đủ thứ mà nàng không ngờ như bún, chả giò, bánh tôm và cả cà cuống nữa. Cuối bữa, tôi thấy Diệp nháy nháy mắt rồi đi ra vườn. Tôi theo cô em gái con chú dì ra. Hai anh em ngồi ở cái ghế gỗ. Diệp hỏi:

    - Anh có muốn gặp Dung không? Em chưa dám nói cho Dung biết vụ anh lấy vợ cũng như anh sẽ qua đây.

    Tôi trầm ngâm. Quả tình hình bóng Dung đã khuất hẳn trong cái quá khứ dồn dập của đời tôi. Tôi nhìn Diệp, cô bé ngày xưa nay đã lớn, có gia đình trông chững chạc hẳn ra. Tôi thong thả: - Anh cám ơn Diệp, nhưng thôi đừng nói gì nữa. Như vậy có lẽ tốt cho anh, tốt cho Dung. Mỗi đứa đều có gia đình, có đời sống phải lo. Let bygone be bygone.

    Đêm ở Virginia dịu dàng. Thảm cỏ xanh như thẫm hơn trong bóng đêm mờ nhạt. Diệp cầm tay tôi bóp nhẹ:

    - Tụi em hiểu anh và khi gặp nhau tụi em tránh không nói đến quá khứ. anh nói cũng phải. Mọi sự bây giờ khác, không như ngày xưa nữa. Em đồng ý với anh sẽ không nói năng gì. Let's bygones be bygones.

    Diệp quay sang cười:- Chị Thu xinh lắm, lại hiền nữa. Mừng anh. Hai bác chắc vui lắm.

    - Anh cũng mong hai bác vui và mong Thu được các em thương. Thu không quen ai ở đây cả, chỉ có gia đình mình. Thôi, mình vào với cả nhà đi.

    Hai anh em thong thả đi vào nhà. Diệp bảo tôi:

    - Virginia dễ thương lắm vì là đất của tình yêu. Virginia is for lovers. Anh với chị Thu đang là "lovers" thế nào cũng yêu nơi đây, nhất là mùa thu.

    Như tất cả những người HO khác, cuộc sống gia đình tôi là bỡ ngỡ, là hoang mang. Xã hội Mỹ xa lạ, cái gì cũng phải học, phải mò mẫm. Tôi may mắn chỉ hai tuần lễ sau đã kiếm được việc làm tại tiệm hình CPI trong khu thương xá tấp nập tại Tyson Corners nhờ những kiến thức trong phòng tối.

    Hai đứa nhỏ thích hợp nhanh, có lẽ vì đầu óc còn trong trắng. Vợ tôi sau nhiều cuộc thảo luận của đại gia đình đã cắp sách trở lại trường. Cái bức xúc của đời sống mới khiến tôi không có thì giờ thừa như ở VN. Tất cả như 1 cuộc chạy đua, chung quanh tôi đời sống quay cuồng. Sam Graves theo tôi từng chút, luôn luôn khuyến khích tôi vượt mọi khó khăn, nhưng lần nào nói chuyện, cái nhức nhối VN vẫn là đề tài chính. Khoảng hơn 1 năm khi đặt chân đến Mỹ, tôi đi xa lần đầu- xuống tận Indiana để như lời Sam nói, gặp gỡ gia đình anh, bởi những gì anh nói với vợ con về tôi khiến tôi trở thành 1 ám ảnh "ai cũng muốn gặp Tr/u Dũng". Sam còn hứa là đến Indiana, anh sẽ dành cho tôi 1 ngạc nhiên lớn.

    Nước Mỹ mênh mông nhưng 1 khía cạnh nào đó, tôi không thấy chênh lệch giữa chỗ này chỗ khác. Khi từ SG xuống Cà Mau hay ra ngược Thanh Hóa, cảnh trí, thiên nhiên và ngay cả người dân khác biệt nhau rõ rệt như đập vào mắt không chối cãi được. Nhưng tôi không có cái cảm giác đó ở xứ Mỹ. Đâu cũng thế. Hay tại tôi vẫn chỉ là kẻ đứng bên lề , 1 công dân hạng hai hai ba, 1 HO lớngớ?

    Khi bước vào nhà ông cựu cố vấn Mỹ thì tôi thực tình xúc động. Lá cờ mặt trận GP với những vệt máu khô được đóng khung treo giữa phòng khách. Đúng là 1 ngạc nhiên lớn. Sam nói với tôi: - Lúc chia tay ở bệnh viện Cộng Hòa, anh đưa tôi lá cờ này. Tôi treo nó ngay ở chỗ trang trọng nhất trong nhà và tôi đã kể lại sự tích của nó cho mọi người hay. Hễ nhìn thấy lá cờ là tôi nghĩ ngay đến VN, đến Phước Long và Phước Lộc..

    Tôi ngây người nhìn lá cờ và lùng bùng trong lỗ tai là tiếng bom, tiếng đạn, trong trí tôi là cảnh người dân gồng gánh chạy loạn, cảnh máu đổ, thịt rơi. Cái quá vãng chiến tranh sau hơn 1 thập niên vẫn còn nguyên đó, tươi roi rói trong tôi. Tôi còn nhìn thấy nó ngay cả ở Sam và ngay giữa xã hội Mỹ thanh bình.

    Những lần lái xe đi làm, những buổi trưa hè êm dịu, tôi thấy những người Mỹ lui cui cắt cỏ, dọn dẹp garage thảnh thơi tự tại. Những bãi cỏ xanh ngắt, những đứa bé hớn hở cầm vòi xịt nước cười đùa như nắc nẻ làm tôi lại nhớ đến những vô lý của cuộc sống. Những người Mỹ vô tư đó, những gia đính HK coi thể thao là mối quan tâm hơn cả, bàn chuyện ciné hoặc thời trang hàng ngày, bỗng đâu phải lo lắng, quan tâm đến 1 người thân ở tận xó xỉnh xa xôi như VN với cái chết luẩn quẩn trong suy nghĩ. Nếu là tôi thì liệu tôi có phản chiến, có chống đối chiến tranh chăng? Nhất là cuộc chiến đó xa lạ, và có vẻ như không lối thoát? Cái gì đã khiến những thanh niên Mỹ như Sam Graves cầm súng bên tôi ở VN?

    Tất nhiên đã có những danh từ đẹp đẽ tôi từng được nghe nhiều lần để biện minh cho cuộc chiến từ ở cả phía bên này lẫn bên kia. Bên này là Tiền Đồn của Thế Giới Tự Do, bên kia là Mũi Xung Kích. Bên này là tự do khai phóng nhân quyền, bên kia là GP, là tiến tới thế giới đại đồng, là vô giai cấp. Giữa đó là hai cực quyền lực và đằng sau đó là quyền lợi của phe nhóm. Những suy nghĩ đó bao giờ cũng đưa đến những kết luận chua chát. Chỉ khi vượt ra, ngoảnh lại mới thấy sự phi lý tột cùng của chiến tranh và thương cho dân mình.

    Lá cờ MTGP treo ở phòng khách của ông Đại Tá S.Graves nay chỉ là dấu tích của 1 lừa dối. Nó bị xé tan ngay khi HN đạt được mục tiêu. Nó chỉ là giai đoạn và tôi đã bỏ cả mạng sống mình để chiếm lấy nó, và Sam thì quí nó như 1 bảo vật. Tôi chua xót nhìn những vệt máu khô có chỗ đã mờ nhưng có những vệt còn thẫm màu lốm đốm.

    Nhưng giữa cảnh đạn bom có những bông hoa đã nở và cái tình bạn của Sam Graves với tôi là bông hoa đẹp nhất trong đời. Mẹ anh, vợ con anh đối đãi với vợ chồng tôi thân thiết, cởi mở và luôn luôn nhắc tôi và Thu "feel at home" - coi nhau như người nhà.

    S.Graves nay đã lên tới chức Đại tá trong Lữ Đoàn Yểm Trợ 88, nhưng Sam không bao giờ cư xử với tôi như 1 Đại tá. Sam luôn luôn gọi tôi là Tr/u Dũng - bằng tiếng Việt hẳn hoi. Những năm tháng tham chiến ở VN là niềm hãnh diện lớn của 1 quân nhân Mỹ và là kho tàng bất tận để kể lại cho người chung quanh. Đủ thứ, từ món ăn cho đến muỗi nhiệt đới, từ các trận đánh cho đến các phong tục lạ lẫm. Sam nhớ rất nhiều và nhớ chính xác nhũng chi tiết mà tôi đã quên mất từ lâu. Sam nhắc đến những đồng đội của tôi như Đ/u Cảnh, như Ch/u Sao. Ừ nhỉ, thế ông Đ/u đẹp trai của tôi với ca sĩ Thanh Tuyền có thoát được không? Còn ông Ch/u Sao người gốc Miên của Phước Long, ông ta sống hay chết, có phải đi học tập không?

    Tan tác đã nhiều. Cuộc sống của mỗi chúng tôi đã bị dập vùi, đã bị cuốn trôi theo những dòng chảy khác nhau. Hơn 1 thập niên sau cuộc chiến, chúng tôi vẫn chưa có dịp nhìn lại nhau, có dịp ôn lại các quá khứ súng đạn và tình chiến hữu, thậm chí còn không biết gì về số phận của nhau. Ngồi trong căn nhà êm ả rộng rãi ở Indiana, tôi quặn lòng nhớ bạn, nhớ đồng đội. Đầu óc tôi lơ mơ, bồng bềnh như trôi dạt trong khoảng ký ức mênh mông.

    Hơn 1 tuần lễ ở Indiana, tôi tưởng tôi có thể cùng Thu trốn được cuộc sống quay cuồng, vội vã, làm việc không ngơi nghỉ của sinh hoạt cơm áo hàng ngày, những câu chuyện với ông cựu cố vấn và những người Mỹ mới quen đẩy tôi ngược về với những cái mà tôi cố né tránh từ lâu. Đến lúc nào thì chiến tranh, bom đạn thôi ám ảnh tôi?

    Đời sống gia đình tôi mỗi ngày 1 ổn định. Thu sau những cố gắng miệt mài đã hoàn tất chương trình bốn năm tại đại học George Mason và kiếm được việc làm trong 1 công ty tài chánh. Hai đứa nhỏ càng ngày càng lớn cũng đã hoàn tất chương trình trung học. Phần tôi, công việc đã đưa đẩy từ chỗ này đến chỗ khác nhưng vẫn là công việc trong nghề nhiếp ảnh. Đây là điều mà tôi thấy lạ. Tuổi thanh xuân của tôi đã cống hiến cho chiến tranh và khi đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, tôi đối phó với cuộc sống mới không nghề ngỗng hay như kiểu Mỹ vẫn thường bão:"no skill". Nỗi đam mê nhiếp ảnh và cái kiến thức tự mò mẫm của 1 nhiếp ảnh gia tài tử đã giúp tôi kiếm được miếng cơm manh áo. Kỹ thuật phòng tối của tôi ở VN là kỹ thuật sơ đẳng, cổ lỗ. Tôi đã phải vừa làm vừa học, học nhiều hơn cả làm, học ở sách, ở sở, ở bạn bè. Trong nỗ lực tìm tòi đó, tôi gặp thêm rất nhiều bạn bè cùng sở thích để rồi chúng tôi cùng nhau sinh hoạt hàng tuần. Đi chụp hình cùng nhau vào những ngày nghỉ. Thảo luận với nhau về cách áp dụng computer trong phòng tối. Những sinh hoạt đó đẩy đến quyết định cùng nhau lập Hội Nhiếp Ảnh VN vùng Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi mở lớp dậy các em nhỏ và cả những người lớn muốn cầm máy. Đây là 1 niềm vui vì hội hoàn toàn bất vụ lợi, và moi người hăng say xây dựng 1 tập hợp nhỏ những người có cùng sở thích, cùng giúp đỡ nhau học hỏi. Đất Mỹ là đất của cơ hội. Câu này đúng với tôi trong cái nghĩa chật hẹp nhất. Tôi đã tìm lại được quân bình trong đời sống như 1 người bình thường nhất. Hiện nay tôi đã có 1 căn nhà nhỏ, ngày ngày đi làm, tối về lo kèm hai đứa nhỏ, coi tivi hoặc nhâm nhi lon bia. 1 cuộc sống giản dị, bình thường nhưng là mơ ước không với tới trong đời tôi kể từ ngày vào quân trường Thủ Đức cho đến ngày ra khỏi trại tù cải tạo. Xem ra cái hạnh phúc nhỏ nhoi bình thường đó không dễ dàng gì đạt đến. Ít ra thì ở nước Mỹ ngày nay tôi cũng có cái yên tâm rằng hạnh phúc tôi đang có là của tôi, của gia đính tôi và không ai có toan tính hoặc âm mưu gì cướp đoạt nó đi.

    Khi ông Sam Graves gọi cho tôi hay rằng ông sẽ về hưu và ngỏ ý mời tôi đến dự lễ "rửa tay gác súng" tôi hoan hỉ nhận lời, nhất là khi ông lại bảo sẽ dành cho tôi 1 ngạc nhiên lớn. Với Sam, lúc nào cũng vậy, không bao giờ cho biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng ông cũng cẩn thận dặn tôi ăn mặc cho nghiêm chỉnh và nên soạn sẵn 1 bài ngăn ngắn để đọc trong buổi lễ. Hiện ông ta đang giữ chức Đại tá Chỉ Huy Phó Liên Đoàn Yểm Trợ 88 nên hay lên họp ở Ngũ Giác Đài và lần nào cũng vậy, hai đứa đều hẹn nhau đi ăn cơm và hàn huyên. Sam cho hay sau thời quân ngũ, ông sẽ dành hết thì giờ vào nghề phát thanh, nghề radio, 1 đam mê từ khi còn nhỏ. Ông tỏ ra rất hào hứng khi trút bỏ được bộ quân phục để lao vào cái ước mơ của thời thanh xuân.

    Trời tháng hai ở Indiana không lạnh lắm và buổi lễ diễn ra ngay trong doanh trại Liên Đoàn Yểm Trợ 88 thật vô cùng long trọng. Lâu lắm rồi tôi mới có dịp sống lại không khí nhà binh, đắm mình trong những bản quân hành. Các lễ nghi quân cách được cử hành vô cùng long trọng với các quân nhân mặc lễ phục. Tôi không nhớ có bao nhiêu vị tướng có mặt trên lễ đài trong buổi lễ giải ngũ của Đại tá Sam Graves, bởi tôi còn nhẩm đi, nhẩm lại bài nói chuyện bằng tiếng Anh đã thủ sẵn trong túi áo. Các diễn giả lên tiếng đều là người vai vế từ Đề Đốc, Trung Tướng đến các vị chức sắc. Họ nói về quá trình binh nghiệp của Đại tá Graves, về khả năng lãnh đạo chỉ huy, về thành tích trong quân ngũ, tựu trung đều là những lời ca ngợi vị đại tá về hưu này. Tôi thật sự băn khoăn. Phải thú thật tôi hơi run khi nghĩ mình bước lên bục diễn đàn để nói trước cả ngàn người trong cái không khí nghiêm trang như thế này. Nhưng thật may, không ai mời tôi lên và tôi bảo Thu: - May quá, họ không bắt anh lên. Chắc ông Sam thấy để 1 anh Mít nhà quê lên dọc diễn văn trong khung cảnh này không hợp tí nào."

    Thu gục gặc bảo tôi:

    - May cho anh đó.

    Sau lễ nghi quân cách mọi người tựu lại trong những lều lớn bày đủ thứ bánh trái, nước uống. Ai nấy như quen nhau từ lâu, cười nói rổn rảng. Vợ chồng tôi là người ngoại quốc duy nhất lạc vào thế giới này và có lẽ vì là "của lạ" ai nấy đều gật đầu chào, nhất là ông Sam thì luôn giới thiệu "Tr/u Dũng" với tất cả nhiệt tình.

    Tôi hiểu là buổi tối sẽ có 1 dạ tiệc nữa, nhưng thực sự cũng thấy việc không phải bước lên diễn đàn như trút được gánh nặng nên hoan hỉ đi dự tiệc. Trước khi đi, bà vợ Sam bảo tôi rằng buổi tối mới vui. Vợ chồng tôi cũng nghĩ vậy vì cho rằng đây là bữa tiệc nhỏ chia tay thân mật đối với 1 cấp chỉ huy về hưu.

    Nhưng bữa tiệc không nhỏ chút nào. Hội trường rộng mênh mông với những chiếc bàn phủ khăn trắng trên bày dĩa, muổng, tách ly, ly bóng lộn và rất nhiều hoa. Những sĩ quan trẻ mặc đại lễ đeo găng tay trắng đứng từ cửa vào tiếp tân. Họ ân cần hỏi tên họ và dẫn từng vị khách vào bàn. Mỗi sĩ quan đều cầm 1 quyển sổ ghi tên từng vị khách và khi vợ chồng tôi được tiếp, họ lật sổ. Không thấy tên Đỗ Lệnh Dũng. Vợ chồng tôi đứng sượng trân trong khi mẹ và cả gia đình Sam Graves đứng quanh tụi tôi lúng túng không biết chuyện gì xảy ra. Có thể lắm chứ. Đại tá Sam Graves vì quá bận bịu lo tổ chức buổi lễ đã quên béng, không ghi tên vợ chồng bạn Tr/u Đỗ Lệnh Dũng. Những viên sĩ quan tự chạy lăng xăng hỏi han nhau về ông bà khách Mít dấm dớ, còn vợ chồng tôi lóng ngóng không biết xử sự ra sao. Giữa lúc đó, 1 viên Tr/u tiến tới lịch sự:

    - Xin Tr/u và phu nhân theo tôi tới bàn đặc biệt.

    Giọng nói của viên sĩ quan đầy vẻ nghiêm trang và hơi có quá phần trọng vọng. Tôi nhẹ cả người dắt Thu đi theo. Khi đến gần tôi đâm hoảng. Hai bàn đặc biệt phủ khăn đỏ nổi bật ngay sát khán đài, đã có dăm ba người đang ngồi. Người Tr/u giơ tay chỉ chỗ bên bàn phía phải. Tất cả khách đều đứng dậy chào đón vợ chồng tôi và ai nấy đều biết tôi là Tr/u Dũng. Tôi lịch sự bắt tay, xưng tên với họ và liếc nhìn. Đa số là Đại tá. Vừa yên chỗ thì có tiếng hô lớn và nhạc quân hành cử lên để tiếp 1 vị Tướng khác. các vị Tướng huy chương đầy ngực đều tiến về hai chiếc bàn đỏ, dành cho khách danh dự. Đến giờ này tôi đã hiểu sự ngạc nhiên Sam hứa dành cho tôi. Vợ chồng tôi là 1 trong số khách danh dự của buổi tiệc.

    Suốt đời lính tôi đã trông thấy nhiều vị tướng như các ông Lý Tòng Bá hay cả Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng chỉ là trông thấy từ xa trong các lễ lạc và thường tôi phải ôm súng đứng nghiêng ngóng cổ mà ngó. Nhưng hôm nay, giữa đất Mỹ, tôi bỗng ngồi ngang hàng với Đề Đốc, với Thiếu Tướng, Trung tướng Mỹ thì quả là 1 vinh dự lớn. Ngồi ngay sát tôi là Trung tướng Wayne M.Erch, Chỉ huy Trưởng đơn vị Yểm Trợ 88. Ông ân cần thăm hỏi tôi về VN, về đời sống hiện nay. Đai Tá Sam Graves là phụ tá cho ông nên chắc ông đã có dịp nghe Sam kể về chiến tranh VN và mối liên hệ giữa chúng tôi. Ông bảo:

    - Tôi được nghe về trận Đồng Xoài và những hành động đầy dũng cảm của người lính VN.

    Hình như ai ở bàn cũng muốn nghe chuyện về tôi, chuyện đi trên con đường mòn HCM và bỗng nhiên tôi trở thành đề tài của mọi câu chuyện trong bàn. Rồi buổi tiệc cũng bắt đầu vối chủ đề tuyêndương những anh hùng MỹQuốc.

    Khởi đầu là Tướng William Sherman của khóa West Point 1838. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc Nội Chiến HK, nhưng nơi đây mọi người tựu lại để nhớ đến 1 đức tính vô cùng tiêu biểu cho 1 quân nhân nơi ông. Tướng Sherman rời chức vụ quân ngũ và đứng ra lao vào ngành ngân hàng Ông đã đầu tư tổng cộng 130 ngàn Mỹ kim của các bạn đồng đội và như lời vị tướng đã quá vãng này viết cho vợ: "West Point chắc chắn không thể đào tạo được những nhà nông nghiệp, những chuyên viên ngân hàng hay những nhà buôn giỏi." Ông đã thất bại, khoản đầu tư 130 ngàn ra mây khói. Nhưng ông đã cố gắng hoàn lại cho toàn thể các bạn đồng đội số tiền mà họ gửi gấm ông. Bản tuyên dương được đọc nói rõ chính vì hành vi này ông và gia đình đã khánh tận, nhưng hành vi giữ chữ tín xứng đáng khiến tướng Sherman được vinh danh là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Người thứ nhì là trung sĩ Samnel Graves Jr. Trung sĩ Samnel Graves phục vụ trong QĐ thời đệ nhị thế chiến, bị bắt làm tù binh. Khi sắp bị lính Đức Quốc Xã hành hình thì "như 1 cơ may do lời nguyện cầu Thượng Đế" ông được thả và dẫn đi tới trại tù. Ông sống lây lất khổ cực và khi được QĐ đồng minh cứu thoát,ông sụt 100 pounds. Với lòng tin và lới hứa khi suýt bị bắn, cố Trung sĩ Samnel Graves Jr. khi giải ngũ đã trở thành mục sư và cống hiến trọn đời cho Thượng Đế. Với hành vi này ông được vinh danh là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Hai người vừa kể nay đã quá vãng. Hai người nữa đều là cựu chiến binh Mỹ phục vụ tại VN. Đại tá James Saboc khi phục vụ ở VN mới chỉ là Tr/u. Trong 1 cuộc hành quân tại ĐBSCL, trung đội của ông có nhiệm vụ phục kích đêm và đụng lớn với 1 đơn vi CS quân số trội hẳn với hỏa lực M 79 và rất nhiều AK 47. Cuộc chạm súng trong đêm khiến tám người trong Trung đội bị thương. Nhờ lòng can đảm bình tĩnh, đơn vị do ông chỉ huy đã đẩy lui đơn vị địch. Tr/u James Saboc đã được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng và nhành Dương Liễu. Chính vì những thành tích tham dự cuộc chiến tại VN, hôm nay ông được tuyên dương là Anh Hùng Mỹ Quốc.

    Kế tiếp là chuyện của Tr/u Vic Bandini. Ông là phi công trực thăng phục vụ LLDB. Trong 1 phi vụ cứu các toán nhảy ở biên giới Lào, phi cơ của ông trúng phòng không địch những 2 lần, nhung do bình tĩnh, ông đã cứu được 4 trong 10 binh sĩ nhảy toán và trở về căn cứ an toàn. Khi vừa đáp xuống hậu cứ, 1 vị Tướng của TQLC chờ sẵn với rất nhiều huy chương. Tr/u Vic kể lại:

    - Tôi được gắn Ngôi Sao Bạc. Vậy đó, không giấy tờ chính thức, không có gì ghi trong quân bạ. Bởi vì trên thực tế chính phủ Mỹ không bao giờ công khai nhận đã gửi những toán đặc biệt nhảy xuống đất Lào.

    Chính vì phi vụ sống chết này, hôm nay Tr/u Vic Bandini được vinh danh là Anh Hùng Nước Mỹ.

    Tôi ngồi đó vừa nhâm nhi ly bia, vừa nghe những bản tuyên dương lòng thanh thản cho đến khi 1 vị sĩ quan trẻ trong ban tiếp tân nói khẽ với tôi:

    - Tr/u sửa soạn để lên diễn đàn.

    Tôi đớ người ra, sờ vội trong túi. May quá vẫn còn đem theo bài nói chuyện đã thủ sẵn. Nhưng tôi khựng lại khi ông bạn Sam lên tiếng:

    - Chúng ta hãy cùng đứng dậy chào đón 1 vị anh hùng của nước Mỹ, Tr/u Đỗ Lệnh Dũng.

    Mọi người nhất loạt vỗ tay và tôi mặt đỏ tía tai, lúng túng đứng dậy cúi chào.

    1 sĩ quan lên đọc 1 bản diễn văn khá dài về trận Đồng Xoài và sau đó là cảnh tôi bị tù đày.

    Tôi nghe, vừa cảm động, vừa ngượng trước những danh từ đầy hoa mỹ. Cuối bản đọc có ghi "Những hành vi vô vị lợi, sẵn sàng đem mang sống của mình ra bảo vệ đất nước VN, Tr/u Đỗ Lệnh Dũng đã nêu cao truyền thống bất khuất của quân lực VNCH và cũng là của QĐ HK. Chính vì vậy, nay tuyên dương Tr/u Đỗ Lệnh Dũng là Anh Hùng MỹQuốc."

    Giữa những tràng vỗ tay, tôi bước lên diễn đàn. Tôi quá xúc động để nói và nội dung bài viết sẵn xem ra không thích hợp với không khí trong hội trường. Tôi chỉ còn biết lắp bắp:- Tôi rất xúc động và bao nhiêu điều tôi muốn nói cùng với Đại tá Sam Graves, vị cố vấn cũng là bạn thân của tôi, cũng như những lời đúng ra phải nói cùng các quí vị nay không cần thiết nữa. Trong sự xúc động tận cùng, vợ chồng và các con tôi xin được nói tiếng Cảm ơn đến tất cả mọi ân tình mà cá nhân Sam Graves bạn tôi và toàn thể quí vị dành cho tôi.

    Tối hôm đó, khi khép cánh cửa buồng lại, tôi nhìn vào tấm bảng tuyên dương với chữ ký của nhiều vị chức sắc trong QĐ Mỹ, lòng bâng khuâng.

    Tôi nhìn Thu buột miệng:

    - Anh đâu có muốn làm anh hùng.

    Vợ tôi cười:

    - Thế anh muốn làm gì?

    - Anh chỉ muốn làm anh hiền. Anh chỉ muốn 1 đời sống giản dị, bình thường, không bắn giết, không súng đạn. Ước ao đó từ nhỏ nhưng rồi cả đời anh là trận chiến, là tù đày, là khổ nhục. Làm anh hùng để làm gì?

    Vợ tôi ôm tôi, ghé tai nói rất khẽ.

    - Anh là anh hùng của riêng em.



    Bạt Tác giả xin chân thành tri ân nhân vật chính của câu chuyện: Đỗ Lệnh Dũng.

    Ông đã kiên nhẫn trong nhiều tháng trời trả lời mọi câu hỏi liên quan đến cuộc đời thăng trầm của ông, đã chia sẻ với tác giả những chi tiết riêng tư thầm kín nhất, kể cả những chi tiết mà ông nói "cố quên để còn nhìn được về phía trước". Không có sự cộng tác chân thật của ông, tác phẩm chắc chắn khó có thể thành hình.

    Mặc dầu được xây dựng trên cuộc đời có thật với những dữ kiện có thật, tác phẩm Đỗ Lệnh Dũng không thể coi là 1 cuốn tiểu sử hay tự truyện. Đa số tên tuổi trong tác phẩm là những người có thật, nhưng trộn lẫn trong đó vì những lý do tế nhị, có những tên tuổi đã được thay đổi.

    Vì tác phẩm dựa trên các biến cố của cuộc chiến mà hậu quả vẫn còn ray rứt trong chúng ta, hẳn là quan điểm của tác giả có thể không đồng thuận với tất cả mọi người. Tác giả nhận hoàn toàn những sai lầm có thể có và những sai lầm đó không hề do lời kể của nhân vật chính.

    Tác giả xin cảm ơn chị Giang Hữu Tuyên và anh Uyên Thao, hai người bạn đã kiên nhẫn chịu đựng những thay đổi bất thường của tác giả, khuyến khích thúc dục để tác phẩm sớm hoàn thành.

    1 số bạn bè của tác giả đã đọc bản thảo, đóng góp ý kiến, giúp tác giả sửa chữa những sai sót. Xin cảm ơn quí anh Đỗ Đình Duyệt, Hoàng Xuân Trường, Vũ Ánh, Nguyễn Tuyển, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Mạnh Tiến về những đóng góp của quí anh.

    Hai người trẻ tuổi Nguyễn Kỳ Phong và Phan Lê Dũng đã giúp tìm tài liệu và góp phần đánh máy bản thảo. Xin cảm ơn Phong và Dũng.

    Tác phẩm sẽ không bao giờ hình thành nếu thiếu tình yêu thương, lòng bao dung và sự hỗ trợ của Phương Mai cùng các con tôi - Tin, Na, Bé.

    Tác Phẩm này trước hết nhắm ghi lại 1 số hình tượng sống trong 1 giai đoạn tràn ngập thảm cảnh của người dân VN và kế tiếp để dành tặng Mai và các con với ước vọng 1 ngày nào đó cả nhà sẽ có thể về lại quê hương sống như 1 gia đình VN bình thường.

    Virginia 7/2/2006

    LÊ THIỆP.


    Nguồn: http://vantuyen.net/

  5. #5
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    Chiến hữu

    Tưởng Năng Tiến


    "Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào."
    Trung úy Đỗ Lệnh Dũng



    Trung úy Đỗ Lệnh Dũng thời còn trẻ.

    Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn!

    Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình, nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy. Cỡ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi - với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

    Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ.

    Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân - sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung - đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

    Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người - toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch - nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

    Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông:

    - ”Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

    Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc - theo đường mòn Hồ Chí Minh - để đi cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, trung úy Đổ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!


    Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được viết lại bởi nhà văn Lê Thiệp, bằng một cuốn sách - dầy đến bốn trăm trang - lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu - như sau:

    “Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay."

    "Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và úc được gặp lại cha mẹ thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù …"

    "Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống."


    Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt vào ngày 21 tháng 1 năm 2007, ở thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái - chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân - người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

    Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa - đang tản mát khắp năm Châu - đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị - hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

    Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ. Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

    Nửa khuya, tôi thức dậy. Đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ. Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều - theo kiểu “ngày ở / đêm về” - như thế.

    Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại. Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai - bao quanh trại cải tạo Tân Rai - ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa. Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn - của ký giả Bùi Bảo Trúc:

    "Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách."

    "Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị cuối của ông là Trung Đoàn 49, Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay."

    "Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống."


    Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn.


    Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

    Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác: Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?


    "Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống …"

    "Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây… Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấy tôi mà khóc."

    "Vợ anh cũng khóc. Tôi cũng khóc. Người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc…

    Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

    Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi - như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm 2006.

    Tưởng Năng Tiến

  6. #6
    nguyenphuong's Avatar
    Status : nguyenphuong v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Jul 2012
    Posts: 645
    Thanks: 40
    Thanked 16 Times in 6 Posts

    Default

    Trỗi dậy mùa Xuân
    Vũ Ánh
    (tặng các bạn HO của tôi)

    Tôi yêu quân đội từ trước thời gian theo lệnh gọi lên đồi Tăng Nhơn Phú. Tình yêu đến bất ngờ do nghề nghiệp mà tôi lựa chọn đưa lại: Phóng Viên Mặt Trận. Ở vào cái tuổi 23 lúc chiến tranh bắt đầu lan rộng, tôi muốn vá trời lấp biển, muốn "ngon" hơn tất cả những người nổi danh nhất trong lịch sử phóng viên mặt trận từ các thế chiến và cuộc chiến tranh Triều Tiên mà tôi đã có dịp đọc hay phải đọc vì đòi hỏi của giáo trình khi còn học nghề. Thế là sau khi được trang bị một số kiến thức cần thiết, tôi nhảy ngay ra tiền tuyến.

    Những trận đầu làng nhàng, đi với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Đại Đội tương đối ít nguy hiểm khiến tôi tưởng bở đòi lên đi theo Trung Đội để tạo nhiều cảm xúc hơn. Và rồi mùa mưa năm 1966, lần đầu tiên tôi sợ đến "tiểu" ra quần trên kinh Thác Lác và chứng kiến cái chết của Phóng viên Huỳnh Thành Mỹ lúc đó đang làm phóng viên nhiếp ảnh cho hãng thông tấn AP. Tiểu Đoàn 42 BĐQ trong trận đó "bị" khá nặng. Cộng quân cố gắng chọc thủng phòng tuyến vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn diễn ra suốt ngày hôm đó, nghĩa là từ 10 giờ sáng và cho tới 4 giờ chiều. Tôi nghe rõ tiếng kèn thúc quân ma quái của quân Cộng. Dù lấy hết can đảm và bình tĩnh, tôi cũng chỉ nói vào trong máy ghi âm được gần một phút. Nhưng mắt tôi đã chứng kiến hết mọi diễn biến từ đầu đến cuối và tôi bắt đầu hiểu tính chất bi hùng tráng của cuộc chiến tự vệ của người lính VNCH, đồng thời một nguồn cảm hứng mãnh liệt dấy lên trong lòng. Tôi biết rằng mình sẽ không bỏ cuộc, sẽ phải theo chân những người lính này mãi mãi chừng nào chiến tranh còn diễn ra. Rồi tôi tự cho mình một nhiệm vụ mà không cần hỏi ý kiến hay nhận lệnh từ bất cứ cấp chỉ huy nào trong ngành của tôi lúc đó: phải tường thuật tất cả những gì xảy ra nơi chiến trường và trong đời của những người lính, kể cả những khi họ nằm xuống, hay đã phải để lại một phần thân thể nơi chiến trường. Hậu phương cần phải được biết điều đó.

    Phóng Viên Mặt Trận luôn cận kề những chiến trường lửa đạn. Tuổi trẻ khiến tôi nghĩ một cách lý tưởng rằng những diễn biến của mặt trận chính là những khuyến cáo chính xác nhất để chính quyền có thể tổ chức một hậu phương đoàn kết và vững mạnh. Tôi đã chứng kiến rất nhiều hoàn cảnh mà nếu ai không phải là Lính, không sống với Lính sẽ không bao giờ tin được. Đó là, khi theo những chiếc quân xa cùng với những người lính trở về hậu cứ sau mỗi cuộc hành quân thế nào cũng nghe những tiếng khóc, những lời trì xiết, chửi rủa từ Tổng Thống cho đến những ông Tư Lệnh Sư Đoàn, các ông Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng và nhất là các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng. Họ cho các ông ấy "ăn" đủ thứ. Khi ấy những người mẹ, người vợ lính bị kích xúc do đang phải đối mặt với những mất mát không thể nào bù đắp lại được. Tôi cũng đã chứng kiến những người vợ lính còn rất trẻ, ngồi như tượng đá, không khóc thành tiếng, nhưng nước mắt cứ lặng lẽ chan hòa tưởng như dòng lệ ấy không bao giờ ngưng được. Nỗi đau khổ của họ có bao nhiêu người biết, bao nhiêu người hay?

    Cho nên, những kỷ niệm về lính, về trận mạc không thể xóa nhòa được trong tôi, dù đã trên 40 năm. Chúng luôn luôn sống động và luôn luôn là chiếc đồng hồ báo thức mỗi khi tôi gần như chìm đắm vào những cơn mê sảng của lòng hận thù trong đời tù của mình sau ngày 30-4-1975.

    Vì tình yêu thiêng liêng với quân đội cho nên khi bị đẩy vào sau những cánh cổng nhà tù Cộng Sản, lớp trẻ chúng tôi lúc ấy lại muốn đội đá vá trời khi cố gắng thực hiện lại hình ảnh hùng tráng của đoàn tù binh Anh bên Cầu Sông Kwai. Chúng tôi gọi nhau có khi bằng cấp bậc, có khi gọi bằng anh xưng em, coi những người lớn cấp hơn vẫn là những người chỉ huy cũ của mình. Chúng tôi cố gắng chứng tỏ cho kẻ thù thấy rằng, dù đã là người ngã ngựa, đã thất trận nhưng vẫn không dậu đổ bìm leo, vẫn trật tự có trên có dưới. Thậm chí đã có lúc chúng tôi muốn coi những nhà trưởng, đội trưởng của chúng tôi trong nhà tù Cộng Sản giống như vị Đại Tá người Anh trong phim, người đã tự nguyện vào nằm trong "chuồng cọp" thay cho những sĩ quan và binh sĩ dưới quyền. Chúng tôi không mấy thành công trong việc giữ những thể diện ấy và trong rất nhiều trường hợp, chúng tôi phải nằm "chuồng cọp" vì những lời tâu hót của nhà trưởng, hay đội trưởng thường là những sĩ quan đàn anh của chúng tôi.

    Đã có một thời gian những bài sổ tay tôi viết về một vài hiện tượng của những cựu quân nhân ở quận Cam này từng có những ngô nhận về tôi và khoác cho tôi đủ thứ áo. Tuy nhiên, tôi không quan tâm lắm tới chuyện này vì tôi biết một cách chắc chắn là do vài cá nhân đó đã có những hành vi làm mất thể diện quân đội VNCH trong trại giam, nên sang đây đã cố gắng sửa lại hình ảnh kém vinh hạnh của họ bằng những tiểu sảo chính trị rất buồn cười: chỉ có chống Cộng bằng cách động dao động thớt mới đúng. Còn các kiểu khác đều là tay sai hay nằm vùng của Cộng Sản. Vì yêu quân đội, tôi sẽ không bao giờ cố gắng chịu đựng cái lối đánh trống thổi kèn để chống Cộng bằng miệng hay làm chính trị một cách hoang tưởng của những cá nhân này.

    Cũng vì thế cho nên khi Lê Thiệp gởi cho cuốn "Đỗ Lệnh Dũng", tôi đã đọc hết ngay truyện ký này trong một đêm. Cuốn sách đến tay tôi bằng đường bưu điện đúng lúc quận Cam đang vào Mùa Đông. Ở vào cái tuổi 66, thức trọn đêm trường lạnh lẽo để đọc hết gần 400 trang sách, nhưng sáng ra vẫn không càm thấy "oải" vì cuốn sách toát ra cái hơi ấm của tình người, củng cố được niềm tin cho chúng ta rằng trong những điều kiện khắt khe của một cuộc đổi đời, chúng ta vẫn còn tìm được nhiều người tốt. Những người lính chúng tôi vẫn một dạ trung thành với lý tưởng và chính nghĩa quốc gia. Tôi không thể lầm lẫn chính nghĩa và chính quyền.

    Đỗ Lênh Dũng cũng thuộc thế hệ chúng tôi. Anh không chọn binh nghiệp. Dũng mặc áo lính vì lệnh tổng động viên. Anh thú nhận là cho đến khi tốt nghiệp khóa 3/68, ra trường đáo nhậm đơn vị rồi anh vẫn chưa có ý thức gì về cuộc chiến mà người ta gọi là cuộc chiến ý thức hệ. Anh mặc áo lính chỉ vì "người ta sao tôi vậy" trong khi anh đủ điều kiện để "người ta sao nhưng tôi không vậy". Nhưng khi bắt đầu vào cuộc rồi, người sĩ quan trẻ tuổi, tâm hồn vẫn còn như tờ giấy trắng này đã ghi trọn hình ảnh chiến đấu của những đồng đội của mình, hoàn cảnh của họ, những thiệt thòi mà họ phải chịu đựng. Khi một người có hoàn cảnh giống như những người khác chung quanh thì tự nhiên tình cảm và mối liên hệ phát triển.

    Thực tế của những năm tác chiến khiến Đỗ Lệnh Dũng cảm thấy một điều: không thích thú hay ham muốn những vị trí có chữ "thọ" lớn ở hậu phương nữa. Không phải vì Dũng cảm thấy xấu hổ mà vì anh biết rằng các đồng đội của anh ở tiền tuyến đang cần tới mình. Một người càng dày dạn với chiến trận, càng yêu quân đội hơn, một tình yêu chân thực, giản dị chứ không phải tình yêu bị thúc đẩy bởi khát máu chém giết. Với tình yêu lớn lao ấy và lý tưởng, Đỗ Lệnh Dũng đã không bỏ đồng đội dù biết rằng mình có thể đi vào chỗ chết.

    Trận Đồng Xoài với Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng thu gom tàn quân mở đường máu mong thoát khỏi vòng vây của Cộng quân khi Chi Khu Đồng Xòai thất thủ là một thiên anh hùng ca biểu tượng cho các đơn vị Quân Lực VNCH bị đẩy vào cảnh "mãnh hổ nan địch quần hồ". Bằng tất cả trái tim và lòng nhiệt thành của tuổi trẻ, Dũng đã bảo vệ danh dự của một người lính cho tới giờ phút chót, không bỏ trốn trước địch quân.

    Lê Thiệp đã nhập vai và viết truyện ký về một người đi trong chiến tranh bằng một lối kể chuyện nhỏ nhẹ, nhưng đầy hấp dẫn. Anh bỏ hầu kết những tĩnh từ nào có thể khiến cho người đọc hiểu lầm là cựu Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng viết một bản cáo trạng với chế độ hiện nay ở Việt Nam. Lê Thiệp chỉ trình bày một Đỗ Lệnh Dũng, chàng thanh niên bước vào trận mạc chỉ vì đạo luật tổng động viên, nhưng khi bước vào rồi, anh làm hết bổn phận và trách nhiệm với một ước mơ giản: khi hết chiến tranh, anh được phép trả súng quay lại trường Luật và làm công việc mà mình thích.

    Phần nói đến lao tù Cộng Sản thì không có gì khác những điều mà phần đông những anh em HO chúng tôi đã trải qua, có khi còn nhiều trường hợp kinh hãi hơn nữa. Tuy nhiên, cảnh giải giao tù binh ra ngoài bắc theo đường Trường Sơn thì hoàn toàn là một kinh nghiệm mới mẻ và Đỗ Lệnh Dũng là người đầu tiên kể lại trên sách vở. Trong cảnh khốn quẫn đó, Dũng gặp được một số người ở phía đối phương còn giữ được lương tri và tình người. Đây phải chăng cũng là một an ủi cho những gian khổ mà anh và những đồng đội của anh đã trải qua.

    Nhưng khi đọc đến đoạn Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng chào kính Đại Tá Nguyễn Văn Thọ ở ngoài Bắc, tự nhiên mắt tôi nhòa lệ. Nó gợi trong tôi hình ảnh của những người lính Anh bên chiếc cầu định mệnh tại xứ Miến Điện xa xôi của họ hồi Thế Chiến Thứ Hai. Nó cũng gợi lại cho tôi hình ảnh của lớp tù cải tạo chúng tôi khi chào kính những vị chỉ huy đáng kính hay vài vị chỉ huy đáng khinh trong tù chỉ để gởi một thông điệp đến kẻ thù: "Chúng tôi thua trận, các anh thắng trận muốn làm gì thì làm, nhưng điều các anh không làm được chính là không bắt chúng tôi bất kinh với những cấp chỉ huy, các đàn anh của chúng tôi".

    Bìa sách Đỗ Lệnh Dũng (Lê Thiệp) Thời gian đi qua mau quá, chúng tôi đang bước vào những mùa Xuân cuối cùng của thế hệ chúng tôi. Ấy vậy mà vẫn cứ tưởng chuyện mới như mới xảy ra ngày hôm qua. Tôi đã đọc khá nhiều những hồi ký viết về chiến tranh, hay lao tù, nhưng dường như chưa có cuốn nào viết về thứ hạnh phúc mà người Mỹ thường gọi là "happy ending" như Lê Thiệp. Lê Thiệp đã mô tả về mối tình giữa Đỗ Lệnh Dũng và Song Thu. Mối tình khởi sự từ một chuyến thăm nuôi và từ một lá thư tỏ tình do Dũng đã 'uống thuốc liều'. Kết thúc mối tình là một đám cưới khi Dũng được thả về. Một thanh niên và một thiếu nữa độc thân lấy nhau là chuyện thường, có gì đáng nói. Tôi không nghĩ như vậy, bởi vì trong suốt những năm tháng tù đầy, ít ra tôi cũng được biết vài mối tình đi đến những kết thúc có hậu bằng một đám cưới ngầm ở nhà thăm nuôi khi chú rể vẫn còn trong tù. Câu chuyện như trong cổ tích. Bởi vì ở vào hoàn cảnh xã hội biến dạng và tan nát khi Dũng được thả về, một xã hội mà trong đó, người ta đang tranh sống, tình yêu bắt đầu được tính bằng "cây", bằng danh vọng, quyền lực và lý lịch thì việc Song Thu kết hôn với một anh cựu tù cải tạo mà tất cả các cánh cửa tương lai của anh đều đã bị đóng chặt không phải là chuyện thường. Phải nói, đó là một mối tình lớn.

    Riêng tôi, tôi cho rằng mối tình này với phần kết thúc có hậu như vậy đã làm cho hơi ấm lan tỏa và bao trùm mọi chi tiết tàn khốc của truyện ký để cho trên đống tro tàn của cuộc chiến, những đóa hoa nhân ái nở rộ.

    "Đồn anh đóng ven rừng mai.
    Nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa?"

    Trong tất cả những bài hát viết về lính, tôi chỉ thuộc hai câu này của một ca khúc mà chính tôi cũng không nhớ tên tác giả. Phải chăng vì tôi đã trải qua những hoàn cảnh chênh vênh của những đêm trừ tịch nằm tiền đồn, nghe bài hát này phát ra từ những chiếc radio nhỏ của những người lính xa gia đình nên nhập tâm chăng, hay là do hát gói ghém được giấc mơ Xuân thầm kín nhất của lớp thanh niên chúng tôi đang lao vào chiến tranh thời đó?

    Xuân Đinh Hợi (2007)

    * Trích trong KBC Hải Ngoại số Xuân 2007

Trang 1/3 123 cuốicuối

Similar Threads

  1. Anh Đỗ Phủ Ở Buồng Nào?
    By Hoanghac in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 06-03-2014, 11:08 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •