Remember ?

Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 7 tới 10 trên 10

Tựa Đề: 17 năm trong các trại "cải tạo" của CSVN

  1. #7
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default

    Phần 5

    Trại Cải Tạo Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.



    Chương 39. Đi Về Miền Nam


    Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ, đặc biệt vào những năm đầu tiên. Nhiều người đã chết, nhiều người bị bệnh kinh niên, và nhiều người thì bị thương tật. Bệnh trĩ của tôi càng lúc càng nặng mà không có thuốc men gì để trị hay để làm giảm đau! Tôi không thể biết được có bao nhiêu người còn lại trong số bốn trăm mười trại viên đầu tiên đến trại Tân Lập vì đã có nhiều lần di chuyển xáo trộn, đến và đi. Theo tôi nghĩ thì chắc phải có ít nhất là khoảng một phần ba trại viên đã chết trong số bốn trăm mười người đến Tân Lập trên chuyến tàu “Sông Hương”. Vài trại viên đã bị đưa đi khỏi K5 của trại Tân Lập để biệt giam ở một nơi nào đó và rồi mất biệt luôn.

    Sau khi Trung Quốc tấn công vào các tỉnh miền Bắc Việt Nam năm 1979, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng. Việt Nam và Trung Quốc không còn ở tình trạng “môi hở răng lạnh” nữa mà bây giờ là răng cắn môi chảy máu! VC chia miền Bắc ra thành ba khu vực: khu một gồm các tỉnh giáp với biên giới Trung Quốc, khu hai là miền Trung Du Bắc Việt, và khu ba là đồng bằng sông Hồng. Sau khi bị Trung Quốc tấn công, họ đưa hết các trại cải tạo ở khu một về khu hai, và kể từ khi đó thì trại Tân Lập rất đông trại viên. Chúng tôi đã phải đào giao thông hào trong sân sát với buồng giam để chuẩn bị cho trận tấn công của Trung Quốc vào khu hai.

    Dự tính của VC thành lập những “nông trường” quốc doanh cho chúng tôi sống ở đó suốt đời đã không thành công. Hai “nông trường” được thành lập ở Thanh Hóa có tên là Thanh Phong và Thanh Lâm cuối cùng đã trở thành hai trại cải tạo mà thôi! Họ bắt đầu phải đưa trại viên trở về miền Nam từ năm 1980, nhưng cuộc nổi dậy của các trại viên ở một trại ở Hàm Tân vào đầu năm 1981 khiến việc này bị đình lại cho đến năm 1982. Kể từ tháng tư năm 1982, trại Tân Lập bắt đầu chuẩn bị cho cuộc di chuyển vào Nam.

    Từ Tết năm 1982, các tin đồn về sự thay đổi của trại từ “tù chính trị” sang “tù hình sự” được loan truyền khắp nơi trong trại. Hầu hết những tin đồn này đều phát xuất từ các cán bộ. Nhưng chúng tôi không biết được điều đó sẽ là chúng tôi sẽ được thả ra khỏi trại hay di chuyển vào Nam. Cũng đã có vài cuộc phóng thích nhưng không bao giờ đạt đến con số một trăm trại viên. Thời gian ấy, trại Tân Lập rất đông trại viên từ K1 đến K5; tôi nghĩ toàn trại có thể đạt đến con số ba ngàn trại viên. Phạm nhân hình sự chỉ là thiểu số so với số trại viên đến từ miền Nam. Tôi không tin họ có thể thả một số lớn trại viên như thế, do đó tôi nghĩ rằng có lẽ sẽ có một cuộc di chuyển.

    Vào sáng ngày 7 tháng tư năm 1982, chúng tôi đi ra nhà lô để lao động như thường lệ. Nhưng từ ngày hôm qua, chúng tôi đã nghe các trại viên trong đội vận chuyển và đội lâm sản cho biết rằng ở các phân trại K1, K2, K3 và K4 đã đọc tên trại viên được chuyển vào Nam rồi. Nhưng mọi việc dường như vẫn diễn ra bình thường ở phân trại K5.

    Tôi đang làm một cái “hòm” bằng gỗ cho một cán bộ ở nhà lô đội 10. Đó là một cái rương bằng gỗ đặc biệt vì nó được làm bằng loại gỗ “lác”, một thứ gỗ quý ở miền Bắc. Tôi đã bào xong bốn tấm ván hông, chỉ đợi để cắt mộng và ráp vào mà thôi. Nhưng đó lại là một giai đoạn khó nhất trong việc đóng “hòm” vì tôi phải cưa những cái mộng đuôi cá nhỏ cho thật khít khao nếu không thì lúc ráp nó sẽ bị nứt hết. Tôi không thể tập trung được vào việc làm này mà chỉ đứng ở cầu bào nhìn về phía cổng trại. Phân trại K5 là bộ chỉ huy của toàn trại, nếu có việc di chuyển như vậy thì nhất định các trại viên sẽ phải tập trung về đây trước khi đi nơi khác.

    Cán bộ quản giáo đội 10 không nói gì với tôi mà chỉ nói với Vui và Nam, hai trại viên trong đội rằng sẽ không có gì hết và chúng tôi phải làm việc như thường lệ. Tôi nghe ông ta nói và trả lời lại rằng tôi có thể làm mọi việc mà ông ta bảo, nhưng chắc chắn là sẽ không hoàn hảo như ý muốn vì đầu óc tôi không thể điều khiển hai tay tôi được nữa! Sống quá lâu trong trại và ở đội 10, tôi trở nên quen thuộc với từng cán bộ một và không còn sợ họ như lúc đầu nữa, nhưng tôi lại luôn luôn giữ một khoảng cách để họ không có lý do gì mà phạt tôi. Ngoài ra thì làm một cái “hòm” gỗ cho cán bộ là công việc làm có tính cách riêng tư; họ không có cách gì để bắt buộc tôi được!

    Hầu hết các cán bộ trong các trại cải tạo đều rất nghèo. Họ cần những thứ rất là tầm thường như những cái rương bằng gỗ, cái ghế nhỏ, cái bàn, và đôi khi chỉ cần một quyển sổ có vẽ hình bông hoa mà thôi. Làm những việc này là những công việc riêng tư nên đôi khi phải dấu cả Ban Giám Thị, nhưng nhờ đó mà tôi sống được dễ dàng hơn trong trại! Đôi khi tôi muốn đi ra ngoài chỉ để tắm giặt mà thôi, nhưng tôi bảo với tên cán bộ gác cổng rằng tôi phải ra nhà lô để làm việc. Hắn ta là người đang nhờ tôi vẽ dùm mấy bông hoa trong cuốn sổ cho nên hắn sẽ cho tôi đi một cách dễ dàng với điều kiện là tôi đừng trốn trại và làm dùm công việc mà hắn nhờ! Đó là cách sống của tôi trong trại: làm những điều có lợi cho tôi mà không hại ai hết là được rồi.

    Khoảng mười giờ sáng, các trại viên ở các phân trại khác bắt đầu đến nơi. Họ mang xách đồ đạc trên vai. Chúng tôi nhìn một cách kích thích, nhưng chưa thể vào trại được cho đến trưa.

    Chiều hôm ấy, tiếng kẻng báo giờ đi lao động vang lên như thường lệ. Chúng tôi tập họp ở sân để chuẩn bị xuất trại thì thấy có một cán bộ cầm giấy vào đọc tên các trại viên ở lại trong trại. Những người không có tên thì đi lao động. Có khoảng mười lăm trại viên trong đội tôi được ở lại, trong đó có tôi; chúng tôi trở vào buồng để lấy đồ đạc và di chuyển sang một buồng khác ở khu B với các trại viên từ K1 đến.

    Một tiếng đồng hồ sau thì cán bộ quản giáo đội 10 vào dẫn tôi ra nhà lô để hoàn tất cái “hòm”. Nam, người bạn thân với tôi trong đội vẫn ở lại; anh ta trông buồn buồn nhưng cố dấu đi. Tôi giao lại cho anh ta tất cả đồ đạt trong cầu bào của tôi –đó là tài sản của tôi. Tôi thường dấu nhiều thứ trong ấy như cam (hái lén từ vườn cam ở gần nhà lô), khoai lang, khoai mì, bắp cải, gạo, bo bo, vân vân; những thứ mà các cán bộ cho tôi khi tôi làm những công việc riêng tư cho họ. Tôi cũng giao cho Vui, phụ tá của tôi ở đội 10, những dụng cụ và chỉ anh ta cách hoàn tất cái hòm sau khi tôi đã làm xong phần hông và nắp.

    Những sự chia tay trong trại diễn ra thường xuyên. Các trại viên ở lại thường ái ngại cho những trại viên phải ra đi, nhưng lần này thì mọi việc đều ngược lại. Nhìn dáng vẽ buồn rầu của họ, tôi không biết nói gì hơn là an ủi họ rằng chắc rồi sẽ còn những cuộc di chuyển tiếp theo. Nam và Vui đều được thả ra sau lần di chuyển thứ hai của trại Tân Lập.

    Một điều ngộ nghĩnh là nhiều cuộc chia tay khác lại diễn ra giữa trại viên với cán bộ nữ và giữa trại viên với các phụ nữ sống quanh trại! Vài cán bộ còn bảo rằng họ không muốn chúng tôi đi vì không thích các phạm nhân hình sự thay thế chúng tôi. Mọi người đều đã thay đổi quan điểm, và đôi khi tôi tự nghĩ không biết ai cải tạo ai đây?

    Đêm hôm ấy, hầu như mọi người đều thức để trò chuyện. Vài trại viên còn biết trước rằng chúng tôi sẽ được chuyển vào trại Thủ Đức. Thủ Đức là trại mà từ đó tôi được đưa ra trại Tân Lập năm năm về trước! Nếu thật sự chúng tôi được chuyển về trại Thủ Đức thì đó chỉ là giai đoạn ngắn mà thôi vì Thủ Đức chỉ là một trại trung chuyển, và chúng tôi đều mong rằng chúng tôi sẽ được thả ra khi về đến miền Nam.

    Ngày hôm sau, tôi xếp mọi thứ vào cái ba lô để chờ đợi. Đã có kinh nghiệm từ lần di chuyển trước từ Nam ra Bắc, tôi cố giữ lại những thứ thật cần thiết để được càng nhẹ càng tốt dù rằng ở trong trại thì mọi thứ đều cần. Thời tiết tháng tư vẫn còn lạnh, do đó tôi mặc cái áo khoác thay vì nhét nó vào ba lô. Cái áo khoác của tôi đã rách nát và phải mạng vá lại bằng nhiều thứ vải. Chỉ có hai bộ đồng phục tù là tương đối còn coi được nên tôi bỏ chúng vào ba lô cùng với mùng mền. Tôi cũng đã cắt cái pon-sô của tôi thành hai phần, một để làm áo mưa còn một tấm để làm tấm trải phía dưới chiếu ngăn rệp. Tôi cuộn chiếc chiếu và tấm pon-sô ấy vào với nhau và cột vào nắp ba lô, cái bi-đông đựng nước uống và cái hũ đựng cơm thì được treo vào hông ba-lô. Tôi đã sẵn sàng, nhưng tôi nghĩ họ sẽ di chuyển vào ban đêm vì đó là thói quen của họ.

    Tôi cố đi ngủ sớm ngay lúc vừa điểm nhập buồng vì tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ di chuyển vào tối hôm ấy. Khoảng nửa đêm, các cán bộ vào để kiểm trại viên trước khi di chuyển. Chúng tôi phải xếp vào hàng và họ còng hai người lại với nhau trước khi dẫn chúng tôi ra khỏi cổng trại. Đó là sáng sớm ngày 9 tháng tư năm 1982; tôi đã ở trại Tân Lập được bốn năm, mười một tháng, mười tám ngày!

    Không có chiếc xe nào phía trước cổng trại. Dưới sự dẫn đường của cán bộ vũ trang, chúng tôi đi về phía bờ suối hướng qua phân trại K3. Hướng đó ngược với hướng đi về phía Bến Ngọc nếu chúng tôi thật sự đi về Nam. Tất cả chúng tôi đều lo lắng biết đâu đây lại là một trò ma mảnh nào đó của họ. Đến bờ suối nơi tôi vẫn thường băng ngang vì nơi đó tương đối cạn, chúng tôi băng qua suối. Đôi dép râu của tôi vuột mất quai nên tôi phải bỏ nó vào ba-lô và đi chân không kể từ khi ấy. Nhiều người có quá nhiều đồ đạc nặng nề di chuyển rất khó khăn nhất là với chiếc còng trên tay nên đã phải bỏ bớt đi một phần.

    Qua bờ suối bên kia, chúng tôi quay ngược lại về phía Bến Ngọc. Tôi thở dài nhẹ nhõm! Tôi đoán có lẽ đó là chỗ duy nhất để có thể băng qua suối. Con đường mòn đi đến Bến Ngọc từ phân trại K3 phải băng qua một khu rừng bồ đề. Trong bóng đêm, tôi không thể tránh khỏi những bụi gai mắc cỡ và những viên đá sắc cạnh ở khắp nơi. Với chiếc quần ướt và đôi chân trần bị cắt đứt bởi đá và gai nhọn, tôi phải rán theo kịp mọi người trong sự đau đớn và lạnh lẽo. Nhưng trong thâm tâm thì tôi vẫn luôn hy vọng vượt mọi thứ để được về miền Nam, để ít nhất được gặp lại gia đình và quê hương tôi.

    Đó là lần thứ hai tôi đi qua phía bên kia bờ của Bến Ngọc. Lần đầu tiên là lúc tôi mới đến trại Tân Lập năm năm về trước; đoàn xe ngừng một lúc để đợi nhau rồi chạy thẳng xuống suối để đi qua bờ bên kia. Lần này thì chúng tôi đến Bến Ngọc lúc sáng sớm, và đoàn xe đã chờ sẵn ở đó! Tôi không biết tại sao nó không chịu đi vào trại dù lúc ấy suối A-Mai chảy cũng không đến nỗi mạnh lắm. Đó là đoàn xe “Molotova” chứ không phải xe đò như lúc chúng tôi đi đến trại. Chúng tôi leo lên sàn của những xe không mui ấy và đợi tất cả trại viên đến nơi.

    Khi mọi người đến nơi thì trời cũng đã sáng tỏ. Rất đông người đứng hai bên đường để tiễn đưa chúng tôi, vài người còn ném thức ăn lên xe. Khi chúng tôi đến đây thì họ nhìn chúng tôi với sự nghi ngại; bây giờ, khi chúng tôi rời nơi đây thì họ tiễn chúng tôi với tình cảm của họ. Kể từ khi gia đình trại viên đến thăm, dân chúng sống quanh vùng trại bắt đầu tiếp xúc với dân miền Nam. Họ cũng bắt đầu biết ít nhiều về sự thật của miền Nam, những điều mà họ đã bị che đậy hằng bấy lâu nay.

    Chúng tôi rời Bến Ngọc vào sáng sớm. Quang cảnh nơi này trông có vẻ đông đúc hơn khi chúng tôi đến. Nhà cửa mọc nhiều thêm lên, vài nhà gạch chen lẫn với nhà lá, dân chúng cũng đông đúc hơn, đất đai cũng không còn hoang vắng như trước, đồi trọc đã được che phủ bởi cây trà và khoai mì.

    Đoàn xe đến con đường nhựa khoảng một giờ sau. Vài chiếc xe gắn máy Honda chạy trên đường. Khi đoàn xe chạy ra khỏi thị xã thì đường xá trống trải hơn. Chúng tôi đứng lắc lư trên xe khi đoàn xe chạy trên con đường đầy những ổ gà. Năm năm sau khi chiến tranh chấm dứt, không có gì gọi là “cải tiến” trên những phương tiện giao thông ở Bắc Việt ngoài vài chiếc Honda du nhập từ miền Nam! Xe cộ cũng phải lao xuống suối, đường xá cũng đầy những ổ gà, và dân chúng cũng dùng xe đạp như một phương tiện vận chuyển chính của họ.

    Tôi không biết đoàn xe chạy theo hướng nào, nhưng vào khoảng trưa thì bắt đầu thấy vài chiếc xe hơi chạy trên đường. Một chiếc xe có vài người ngoại quốc -với da trắng tóc vàng- chạy theo đoàn xe chúng tôi một lúc lâu. Họ không có một dấu hiệu gì cho biết họ là người nước nào, do đó chúng tôi cũng không biết họ là ai. Một người trong bọn họ chào chúng tôi với dấu hiệu hình chử V bằng hai ngón tay, và vài người trong chúng tôi giơ còng lên để cho họ thấy hoàn cảnh của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng họ là những phóng viên, nhưng tôi không biết rõ họ là người nước nào vì trong quốc gia của Cộng Sản, các phóng viên nhất là của Phương Tây không thể đi lại dễ dàng như thế.

    Tôi đoán rằng đoàn xe sẽ chạy về phía cảng Hải Phòng để chúng tôi lên tàu về Nam, nhưng tôi lại thấy con đường có vẻ khác hơn lúc chúng tôi đi đến. Rừng núi từ từ biến mất; đoàn xe chạy trong một vùng đồng bằng. Khoảng chiều, xe cộ càng lúc càng đông. Con sông Hồng với bờ cát trải dài ra xa xuất hiện dọc theo đường đi. Đó là mùa nước cạn. Đoàn xe chạy qua cầu vào giờ tan việc. Xe cộ rất đông trên cầu. Có rất nhiều xe gắn máy Honda và dân chúng ăn mặc quần áo sặc sỡ hơn là những hình ảnh mà chúng tôi thường thấy về thành phố Hà Nội. Thời trang miền Nam đã du nhập ra miền Bắc sau khi chúng bị cấm đoán ở miền Nam, thật là một chuyện khôi hài! Đó là cây cầu Thăng Long xuyên qua sông Hồng, cây cầu dài nhất miền Bắc. Chúng tôi đang vào thành phố Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa.

    Dân chúng nhìn chúng tôi một cách tò mò, nhưng tôi không thấy một dấu hiệu nào của sự thù hận. Vài người vẫy tay dường như chào chúng tôi. Dân Hà Nội đã bắt đầu thay đổi lối sống và thay đổi cả cái nhìn của họ!

    Đoàn xe không đi thẳng vào Hà Nội mà chỉ đi vòng quanh. Tôi nhìn thấy ánh phản chiếu từ mặt nước hồ ở xa xa nhưng không biết có phải đó là Hồ Gươm hay không.

    Sau khi qua Hà Nội, đoàn xe chạy thẳng hướng Nam khi trời đã bắt đầu tối. Chúng tôi không thể nào ngủ được trong tình trạng ấy cho nên chỉ ngồi dựa vào đồ đạc để cố nghỉ ngơi một chút. Tôi tự hỏi làm thế nào để chịu đựng được một chuyến đi về miền Nam trên chuyến xe như thế này. Đoàn xe tiếp tục chạy trong đêm tối; tôi không thể nhìn thấy được gì ở hai bên đường để đoán biết mình đang đi đâu.

    Cuối cùng thì mặt trời cũng bắt đầu mọc; tôi thấy những cánh đồng lúa ở chung quanh. Vài nhà lá với cái ao phía trước là đặc điểm của miền đồng bằng miền Bắc. Chúng tôi đang đi trong địa phận tỉnh Hà Nam Ninh, một tỉnh mới bao gồm ba tỉnh Hà Tây, Nam Định và Ninh Bình. Đoàn xe quẹo phải và rồi ngừng lại ở cuối một con đường đi đến một dòng sông khi trời sáng tỏ. Vài người cho biết đó là con sông Đáy chảy qua thị xã Phủ Lý của tỉnh Nam Định.

    Hai bên con đường từ khúc rẽ vào đến bờ sông, nhà cửa cất theo nhiều loại nằm san sát với nhau. Một khu chợ ngoài trời nằm gần bờ sông. Dân chúng khá đông đúc. Vài chiếc đò chở khách từ bờ kia sông sang đang cập bến. Không thấy có cây cầu nào băng qua sông, tôi đột nhiên nhớ tới chiếc phà mỗi lần chỉ chuyển được một chiếc xe chở chúng tôi qua sông khi chúng tôi đi ra miền Bắc năm năm về trước. Chẳng lẽ câu chuyện đời xưa ấy lại diễn ra ở một thị xã như thế này hay sao?

    Chiếc ca-nô kéo theo một cái mảng nhìn thấy từ xa. Đó không phải là một chiếc mảng tre mà làm bằng cây bọc thép, và nó có thể chở được hai xe mỗi lần. Chiếc ca-nô thì quá cũ kỹ và không được bảo trì, trông giống như loại tàu nhỏ của Hải Quân miền Nam trước đây. Mười lăm chiếc xe qua sông vào khoảng giữa trưa, chạy khoảng một tiếng đồng hồ qua một dãy núi đá vôi để đi vào phân trại A của trại cải tạo Nam Hà.

    Trại cải tạo Nam Hà trông có vẻ rất kiên cố hơn trại cải tạo Tân Lập với nhà gạch bao quanh bởi tường cao. Tôi không có dịp để biết nhiều về trại này vì chúng tôi chỉ ở trong một khu biệt lập. Nền chỗ nằm làm bằng xi-măng chứ không bằng gỗ như ở trại Tân Lập và chắc là cũng ít rệp hơn.

    Khoảng nửa đêm ngày thứ hai, chúng tôi được chuyển ra ga Phủ Lý để chờ xe lửa. Địa danh này tôi đã từng biết đến qua các tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn viết khoảng những năm 1930. Nhưng cái gọi là ga “Phủ Lý” chỉ là một căn nhà nhỏ có hai vách ở hai đầu còn hai mặt kia thì trống trơn. Nó được xây có lẽ từ thời Pháp thuộc mà không được sửa sang lại bao giờ. Một bóng đèn treo phía dưới mái nhà không có trần chiếu ánh sáng mờ mờ vàng vọt cho căn phòng khoảng sáu thước ngang mười thước chiều dài.

    Trên sáu trăm trại viên chen chúc trong căn phòng ấy; chúng tôi chỉ có thể ngồi co ro ở chỗ để đợi xe lửa. Sau một lúc thì đầu gối và đùi tôi bị tê mà không thể duỗi chân ra được. Tôi bảo Tâm, người bạn bị còng chung còng đứng dậy và đổi vị trí để ngồi dựa lưng nhau. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút, nhưng các tên cán bộ canh gác ở đó không cho phép chúng tôi được cử động nữa. Họ muốn chúng tôi ngồi yên để dễ kiểm soát.

    Xe lửa đến khi mặt trời đã xuất hiện ở chân trời, lúc ấy khoảng bảy đến tám giờ sáng. Các cán bộ đọc tên chúng tôi một lần nữa trước khi cho chúng tôi từng cặp một bước lên xe lửa. Chúng tôi chiếm chỗ trên ba toa xe. Điều khó khăn là cái ghế ngồi trên xe lửa làm cho ba người. Hai cặp có thể ngồi được ở hai hàng ghế nhưng một cặp khác không thể ngồi ở hai bên ghế của đường đi ở giữa với cái còng không dây trên tay. Chúng tôi phải chia xẻ sự khó khăn này bằng cách đổi chỗ với nhau: hai cặp ngồi trên ghế và một ngồi dưới sàn xe.

    Mặc dù với cái còng trên tay, tôi vẫn thấy cảm thấy thoải mái hơn ở trong hầm của chiếc tàu “Sông Hương” năm năm trước. Đây là chuyến xe lửa chở khách, do đó chúng tôi có phòng vệ sinh và có phục vụ thức ăn hàng bữa với thực đơn của khách. Chúng tôi không phải bước trên sàn dơ bẩn như trên tàu nữa, và trên tất cả là chúng tôi đang được đi về miền Nam, quê nhà của chúng tôi! Vài người có vẻ lạc quan tếu còn phát biểu rằng “ngày đi đau khổ, vinh quang ngày về!” Tôi thì không chắc rằng có vinh quang gì không, nhưng ít ra thì tôi cũng biết được mình đang đi đâu và tôi có thể gặp lại được gia đình tôi.

    Con đường xe lửa chạy dọc theo đường quốc lộ số một, con đường duy nhất chạy từ Bắc vô Nam Việt Nam. Tôi nhìn thấy những hố bom nằm rải rác trên những cánh đồng, dấu hiệu của chiến tranh vẫn còn vương lại trên miền Bắc Việt Nam. Đường quốc lộ số một quá hẹp và đầy ổ gà. Chiếc xe lửa cũ kỹ với đầu máy chạy bằng than phun đầy bụi khói! Đến những ga dọc đường, xe không ngừng nhưng chạy chậm lại, do đó chúng tôi có thể nhìn thấy những sinh hoạt của dân miền Bắc. Những người bán hàng rong, phần lớn là trẻ con mang những cái rổ đựng đầy hàng bánh chạy theo xe rao mời khách. Ở vài ga đầu tiên, cán bộ không cho chúng tôi mở cửa sổ, nhưng rồi sau đó họ có vẻ lờ đi. Vài trại viên có tiền đã mua hàng của những đứa trẻ bán hàng rong này. Khi chúng nhận ra chúng tôi là những người khách hàng đặc biệt, chúng không chịu nhận tiền nữa, nhưng không ai muốn lợi dụng chúng.

    Các chiếc xe lửa khách đường ngắn -gọi là tàu chợ- đầy khách đứng ngồi ngổn ngang và ngay cả có nhiều người đeo bám ở cửa; thật là một quang cảnh lộn xộn mà tôi chưa từng thấy bao giờ! Tôi đột nhiên rùng mình nghĩ đến chuyến đi của vợ tôi khi cô ấy đến thăm tôi vào năm 1979. Làm thế nào để vợ tôi có thể chịu đựng được một chuyến đi dài đăng đẵng và lại lộn xộn như thế? Chỉ có tình yêu mới giúp được cô ấy vượt qua được những vất vả và có đủ sức để làm việc ấy mà thôi. Trên chuyến tàu từ Nam ra Bắc, ngoài tình trạng hỗn loạn còn có cả cướp giật, và ngay cả giết người nữa. Những người đàn bà với đồ đạc ngổn ngang rỏ ràng là mục tiêu của bọn này. Tôi nghĩ những chuyến tàu ấy còn tệ hơn là chuyến tàu mà chúng tôi đang đi mặc dù hành khách không bị còng như chúng tôi!

    Tới một ga mà tôi không nhớ tên, xe lửa ngừng lại một lúc. Vài đứa trẻ bán hàng rong nhảy lên xe để bán hàng. Tôi mua hai trái chuối nướng bọc trong nếp bằng tiền mà tôi dấu trong ba-lô rồi ngồi ăn một cách ngon lành như một món ăn rất đặc biệt.

    Tôi ngồi mệt mỏi trên sàn tàu và chợp mắt được một lúc. Một đêm chờ đợi ở ga “Phủ Lý” làm tôi mệt nhoài, nhưng tôi không thể ngủ được. Tới phiên tôi được ngồi lên ghế khi trời vừa tối. Chiếc xe lửa đi qua sông “Bến Hải” trên một chiếc cầu song song với chiếc cầu nổi tiếng mang tên là “Hiền Lương” ở vĩ tuyến thứ mười bảy nơi đã từng là ranh giới chia cắt hai miền Nam Bắc Việt Nam.

    Có bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra trên chiếc cầu mang cái tên “hiền lành và lương thiện” này và trong cái vùng mang tên là vùng “phi quân sự” này? Thật là một sự lạm dụng danh từ! Con sông quá nhỏ bé, và chiếc cầu cũng vậy! Nhưng chúng đã đi vào lịch sử Việt Nam như một địa danh không thể quên được. Đã hai lần đất nước bị chia cắt, và những tên như sông Gianh hay sông Bến Hải đã khắc sâu vào tâm khảm của người dân Việt như những vết nhơ không thể xóa sạch được.

    Việt Nam đã thống nhất! Vấn đề là những người Cộng Sản đã lợi dụng lòng yêu nước của người dân để xây dựng một chế độ vô nhân đạo trên đất nước. Chẳng những họ đã cướp công của nhân dân trong chiến tranh mà họ còn cướp cả tài sản của người dân sau khi cuộc chiến chấm dứt nữa. Với những khẩu hiệu như “tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội” họ cướp tất cả của cải của người dân! Sau chiến tranh thì người dân trong nước càng lúc càng nghèo dần. Con sông “Bến Hải” đã đi vào lịch sử, nhưng chủ nghĩa Cộng Sản thì vẫn tồn tại. Dân tộc Việt Nam đã vượt qua được một cuộc chiến tranh ghê gớm nhưng rồi lại phải sống trong nghèo khổ dưới sự cai trị của Cộng Sản. Chỉ có những người Cộng Sản là độc quyền yêu nước. “Yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa” quả là một định nghĩa kỳ quặc!

    Trời tối hẳn khi tàu tiến vào thành phố Huế, cố đô của Vương Quốc Việt Nam. Vào Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng đã tạm chiếm thành phố này và tạo nên một cuộc thảm sát dã man. Tôi cố nhìn xem sinh hoạt của Huế nhưng không thể được vì trời quá tối. Chiếc xe lửa ngừng ở một trạm và tôi ngủ thiếp đi ở chổ ngồi.

    Người bạn mang chung còng với tôi là Tâm cử động khiến tôi giật mình tỉnh giấc lúc xe lửa đang đi ở một nơi nào đó ở miền Trung Việt Nam. Tôi ngạc nhiên khi thấy những hàng cột điện chạy ngược lại trước mặt mình. Đêm qua tôi vẫn nhớ tôi ngồi ngược với chiều của tàu chạy, có nghĩa là hàng cột phải chạy từ phía sau lưng tôi. Điều gì đã xãy ra đêm qua? Xe lửa đi ngược lại về miền Bắc hay đi vào nơi nào đó của miền Trung? Tôi tự hỏi. Mọi người cũng cảm thấy lo lắng. Sau đó thì chúng tôi được biết rằng xe đã đổi đầu máy chạy bằng dầu sau khi ngừng ở Huế do đó nó cũng đổi chiều của chiếc xe luôn.

    Đến vài ga ở miền Trung, dân chúng bắt đầu nhận được ra chúng tôi nên vẫy tay chào. Khi đến ga Quy Nhơn vào khoảng trưa, hàng trăm dân chúng đã đứng dọc hai bên đường rầy, ném quà bánh lên xe, la hò, và vẫy tay chào đón chúng tôi giống như là thân nhân của họ. Sau khi rời ga Quy Nhơn, các cán bộ không cho chúng tôi mở cửa xe nữa. Nhưng xuyên qua cửa kính, chúng tôi vẫn nhìn thấy dân chúng tụ họp ở sân ga và vẫy chào chúng tôi khi thấy xe lửa đến nơi.

    Đến Nha Trang, một thành phố biển nổi tiếng của miền Trung, tàu chạy chậm lại vì đó là giờ tan sở. Hàng ngàn dân chúng đã đứng sẵn dọc theo đường rầy đi qua thành phố. Tin tức loan truyền nhanh hơn tàu chạy! Vài trại viên mở cửa xe ra và thấy cán bộ không nói gì. Chúng tôi đồng loạt mở cửa xe. Dân chúng la hò, vẫy khăn tay, ném quà bánh lên xe, và vài người còn chạy theo xe như là họ nhìn thấy được thân nhân của họ vậy. Ga Nha Trang đầy người. Xe lửa chạy chậm lại. Dân chúng chào đón chúng tôi giống như một “đoàn quân chiến thắng”. Nhà cửa hai bên đường rầy đều bật đèn sáng trưng, và dân chúng thì đứng để đợi đoàn xe đi qua. Dù họ thật sự vui mừng khi thấy chúng tôi hay chỉ là sự tò mò, họ đã gây cho tôi một cảm giác mà tôi không thể nào quên được suốt cả cuộc đời mình!

    Xe ra khỏi thành phố Nha Trang khi trời đã tối. Chúng tôi đóng cửa sổ lại để ngủ. Tôi nằm trên sàn xe nghe tiếng bánh xe siết vào đường rầy rồi chìm vào một giấc ngủ say cho đến khi trời hừng sáng. Tàu chạy chậm lại rồi ngừng ở một ga tên là ga “Mường Mán”. Đoàn xe đò đã chờ sẳn ở đó để đón chúng tôi.

    Mường Mán là một ga xe lửa nằm trong địa phận tỉnh Phan Thiết, phía Đông Nam của miền Trung Việt Nam. Từ đó đến trại Thủ Đức cũng còn một khoảng khá xa nếu quả thật chúng tôi được đưa về trại Thủ Đức như tin đồn. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi đã bị lừa, và chắc là chúng tôi đang được đưa về một trại nào đó ở miền Trung.

    Trạm xe lửa im lìm một cách khác thường. Không thấy một hành khách hay một người bán hàng rong nào. Chúng tôi ngồi trên xe đò chờ đợi cho đến giữa trưa, và rồi đoàn xe chạy về phía Bắc trên Quốc Lộ số một qua thị xã Long Khánh, rẽ mặt vào một nơi khá nổi tiếng trong chiến tranh tên là “Rừng Lá” thuộc chiến khu của Việt Cộng tên là núi “Mây Tào”.

    Trại mà chúng tôi đến có bí danh là Z30D và tên thật của nó là trại “Thủ Đức”, không phải là trại “Thủ Đức” ở thị xã Thủ Đức gần Sài Gòn, mà là trại “Thủ Đức” ở Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải. Lúc đó vào khoảng ba giờ chiều ngày 18 tháng Tư năm 1982.


    Chương 40. Trại Cải Tạo Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải

    Trại cải tạo Z30D là thế hệ tiếp theo của trại ở thị xã Thủ Đức gần Sài Gòn. Nó cũng lấy tên là trại Thủ Đức, nhưng dân chúng thường gọi nó là trại Z30D theo bí danh của nó.

    Muốn đến trại từ Quốc lộ số 1 thì người ta phải đi khoảng hai cây số trên một con đường mòn xuyên qua khu rừng buông và cẩm lai (một loại cây gỗ quý trồng trong vùng này). Khi tôi mới đến trại thì nó gồm có ba phân trại là K1, K2 và K3. K1 là phân trại chính và cũng là bộ chỉ huy của trại. K2 nằm cách K1 khoảng ba cây số về phía Bắc và K3 khoảng bốn cây số về phía Nam. Một dòng suối, nguồn cung cấp nước cho toàn trại chảy qua cả ba phân trại, nó rất cạn về mùa nắng nhưng lại chảy rất mạnh về mùa mưa.

    Trại Z30D thay đổi từng ngày kể từ khi tôi đến cho đến lúc tôi rời trại. Đầu tiên, K1 chia làm bốn khu tên là khu A, B, C và D. Khu A bao quanh bởi hàng rào và tường gạch, và gồm bốn ngôi nhà xây, mỗi nhà chia làm hai buồng giam. Khu B gồm bốn nhà lá bao quanh bởi một hàng rào bằng tre gai. Khu C là một nhà lá nằm riêng rẽ gần với nhà bếp. Khu D nằm phía sau của trại là một căn nhà gạch xây dựng chưa hoàn chỉnh nằm riêng rẽ không có hàng rào bao quanh.

    Chúng tôi gồm khoảng sáu trăm trại viên được đưa vào hai khu A và B. Trong khu A, chúng tôi được nhốt trong ba nhà 2, 3 và 4. Nhà 1 thì dành cho những trại viên bị kỷ luật. Năm mươi trại viên trong mỗi buồng giam rộng khoảng sáu thước, dài mười hai thước với một nhà vệ sinh ở một đầu trong đó có một cái hồ nhỏ chứa nước bơm từ suối vào. Ở giữa mỗi nhà phía bên ngoài có một cái hồ xây lớn hơn chứa nước dùng cho trại viên. Cấu trúc của các căn nhà tương tự như các nhà giam ở trại Tân Lập nhưng các bục nằm thì xây bằng xi măng lót gạch bông thay vì bằng ván gỗ lót trên khung sắt. Và mái nhà thì lợp bằng tôn xi măng chứ không lợp bằng lá cọ như ở trại Tân Lập. Các căn nhà lá ở khu B thì có vẻ rất sơ sài với vách làm bằng tre và lá buông và các cửa sổ có song làm bằng tre. Tôi không hiểu sao họ lại nhốt chúng tôi trong những căn nhà quá sơ sài như thế? Tuy nhiên các nhà này đều lần lượt thay thế bởi nhà gạch.

    Từ khu A sang khu B, trại viên phải đi qua một cổng đóng kín suốt ngày ngoại trừ khi đi lấy cơm dưới sự hướng dẩn của cán bộ hoặc ban thi đua. Nhà bếp nằm phía cuối trại về phía mặt ở gần với láng mộc bên ngoài vòng rào gần với bờ suối. Mỗi khu đều có cửa riêng để đi ra con đường chính của trại, do đó có tất cả ba cổng trại. Hàng rào quanh trại làm bằng hai lớp: hàng rào kẽm gai và tre gai trồng sát nhau. Một cái hào sâu chứa đầy nước đào dọc theo hàng rào ngăn cách hàng rào với khu trại.

    Trong khu A còn có hai hàng rào khác, một hàng rào tre ngăn cách khu A với khu B và một bức tường gạch ngăn cách nhà 1 với các nhà khác. Chúng tôi có thể liên lạc nhau được trong cùng một khu ngoài nhà số một dành cho những trại viên bị phạt kỷ luật vì lý do này hay lý do khác.

    Khu D của K1 là một căn nhà gạch chưa xây dựng hoàn chỉnh và không có rào ngăn. Các trại viên ở khu này là những người trong ban thi đua và các bộ phận lẻ: những người được ban giám thị trại tin tưởng và làm việc ở khu cơ quan.

    Đối diện với trại giam là khu cơ quan chia làm ba phần từ trái sang phải là: nhà ở của các cán bộ, văn phòng và nhà kho. Hầu hết nhà trong khu cơ quan đều làm bằng gạch lợp ngói ngoài khu nhà ở của gia đình cán bộ thì làm bằng cây lá.

    Một con đường đất sét chạy từ quốc lộ số 1 vào trại và đi thẳng đến bờ suối ngăn cách khu cơ quan với khu trại giam. Cây so đũa, một loại cây lá nhỏ và có hoa màu trắng, được trồng khắp nơi trong trại. Chúng tôi thường thu nhặt bông so đũa để nấu canh cải thiện cho những bữa ăn của chúng tôi.

    Quanh trại toàn là rừng. Vài khu đất trồng bắp còn rải rác những gốc cây đốt cháy dở dang. Cây lá buông mọc khắp nơi, do đó dân chúng gọi đây là khu rừng lá. Dân trong vùng lấy lá buông để lợp nhà và những đọt buông nhỏ để đan quạt và làm nón lá, một loại nón của người Việt Nam. Những cọng buông già thì được làm đũa và làm cần câu. Vào mùa Xuân, những cây buông này trổ bông, có trái rồi chết. Trái buông có chất độc có thể giết chết cá, do đó dân chúng thường giã nát trái buông để đổ xuống suối bắt cá.

    Cây cối trong khu rừng này được chính quyền miền Nam Việt Nam trồng rất lâu đời. Các loại cây như Cẩm Lai, Trắc, Gỏ, Thao Lao, và Mun là những loại cây cung cấp gỗ quý. Trong chiến tranh, khu này là khu trắng, một khu oanh kích tự do. Có một đồn địa phương quân nằm cạnh quốc lộ để giữ an ninh cho quốc lộ số 1.

    Dòng suối, nguồn cung cấp nước cho trại bắt nguồn từ trên núi; nó chạy vòng quanh ra tận quốc lộ số 1 ở gần phân trại K3 rồi trở vào đến phân trại K1. Trại làm một cái cầu bắt ngang suối bằng cách cột những thân cây theo hình chử X đặt vào lòng suối rồi lót những tấm ván ngang qua. Nó trông giống như những chiếc cầu khỉ ở đồng bằng miền Nam. Suối rất sâu vào mùa nắng, nhưng chảy xiết vào mùa mưa. Mặt nước đôi khi lên gần đến những tấm ván lót cầu, và chiếc cầu đong đưa rất mạnh mỗi khi chúng tôi đi trên ấy. Bên cạnh cầu, ở sát bờ suối là một nhà nhỏ đặt máy bơm cung cấp nước cho trại và khu cơ quan. Phía bên kia suối hoàn toàn hoang vu. Tre gai, cây buông, và nhiều loại cây rừng mọc san sát. Chỉ có một con đường mòn nhỏ chạy dọc theo bờ suối từ K1 sang K3.

    Điều khác nhau giữa rừng miền Nam và rừng ở miền Bắc là ở miền Nam thì có rất nhiều loại thú trong rừng: rắn, thỏ, chim, khỉ, heo rừng, và đôi khi có cả voi nữa. Suối thì đầy cá và sò ốc. Những thứ ấy có thể là nguồn thức ăn cho chúng tôi sau này! Ngoài ra thì măng tre, cây chuối rừng, và nấm mối là những thứ mà tôi dự kiến. Năm năm ở trại Tân Lập đã dạy cho tôi cách để kiếm ăn mỗi khi có cơ hội! Một vài cái bẫy cò ke đặt ở đâu đó trên khu lao động, vài sợi dây với chiếc lưỡi câu tự chế cắm vào bờ suối, đó là những thứ mà tôi nghĩ tôi có thể làm được một cách dễ dàng.

    Hầu hết trại viên ở trại Z30D trông không đến nỗi tệ hại như trại viên ở Tân Lập. Khi đi lao động về hầu như mọi người đều có những thứ thu nhặt ở hiện trường lao động. Đó chính là một dấu hiệu tốt! Hầu hết những trại viên cũ ở đây đều mặc quần áo làm bằng bao cát. Tôi nghĩ họ đã thu nhặt bao cát này quanh khu trại vì nơi đây đã từng là chiến khu, hầm hố với bao cát nằm rải rác khắp nơi.

    Trại viên ở trại Z30D gồm những người thuộc chế độ cũ, một số người trong những lực lượng chống Cộng sau năm 1975, và những thuyền nhân bị bắt khi vượt biên thất bại. Chưa có tội phạm hình sự cho mãi đến năm 1985 khi những nữ can phạm được đưa đến trại, và rồi đến năm 1988, phạm nhân hình sự hầu như chiếm đa số trong trại sau đợt thả rộng rải các trại viên thuộc chế độ cũ.

    Một số trại viên ở lại trại Thủ Đức khi tôi bị đưa ra miền Bắc năm 1977 như Cang, Trang, Lương, vân vân, vẫn còn ở lại trại Z30D, nhưng Nhàn, cựu nhân viên của tôi thì lại bị đưa đi đến một trại khác để biệt giam sau vụ nổi dậy của trại viên vào Tết năm 1981. Nhàn đã chết sau khi vừa được thả ra năm 1988, mặc dù anh ta mới khoảng trung tuần ba mươi tuổi.

    Ban thi đua trại viên lúc ấy do Trí, cựu thiếu tá cảnh sát, làm trưởng ban khám xét chúng tôi rất cẩn thận khi chúng tôi vừa đến trại. Những người trong Ban Thi Đua này gồm những sĩ quan của Nam Việt Nam trước đây. Vài người bạn của tôi lưu ý tôi nên cẩn thận đối với một người trong ban thi đua tên là Cung, nguyên là một thiếu tá Nhảy dù, chồng của một vũ nữ khoả thân ở Sài Gòn vào những năm 1970. Sau đó thì Cung đã bị chuyển vào làm ở bếp. Trại viên trong trại thường gọi hắn là “Cung Củ Đậu” (nói lái lại là “cẩu đụ”).

    Cơ cấu tổ chức của trại Z30D hầu như giống ở trại Tân Lập, và tôi nghĩ đó cũng là một hình thức chung cho các trại cải tạo của Cộng Sản. Trong trại là Ban Thường Trực Thi Đua và Hội Đồng Tự Quản. Ở cơ quan là Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ. Không có gì khác ngoại trừ cách điều hành trại.

    Ban Giám Thị của trại Z30D cũng là Ban Giám Thị của trại Thủ Đức năm năm về trước với Mạch là trại trưởng, Phúc trại phó, và Ninh là trưởng phân trại K1. Một tên cán bộ tên là Nhu là một người rất đặc biệt về sau này; hắn ta chỉ là trung uý phụ trách về hậu cần lúc ấy. Nhưng rồi hắn ta càng ngày càng có thế lực và đã làm thay đổi tất cả từ trong trại giam đến ngoài cơ quan. Kể từ khi nắm quyền hành vào năm 1985, Nhu đã leo từ trưởng K1 đến trưởng trại và rồi kết hợp luôn cả hai trại Z30D và Z30C thành một. Trại viên sau đó phải làm việc rất vất vả để phá rừng lấy gỗ quý, chuyển đá về lót lòng suối, đắp đập làm thuỷ điện, xây dựng nhà cho riêng Nhu và xây dựng khu vui chơi. Hắn ta trở thành một hung thần không những đối với trại viên mà cả đối với các cán bộ nữa.


    Chương 41. Những Ngày Đầu Tiên Về Miền Nam


    Những phấn khởi khi được về miền Nam đã trôi qua sau mấy ngày; tôi cũng phải trở lại với sống một cuộc sống bình thường trong trại cải tạo. Chúng tôi vẫn còn ở cùng đội như lúc di chuyển khỏi trại Tân Lập và đi lao động như thường lệ. Công việc hàng ngày là làm cỏ cho các mảnh đất trồng bắp. Cỏ tranh là một loại cỏ rất khó dẫy sạch vì rễ nó ăn luồn dưới mặt đất. “Một cái cuốc cho mỗi trại viên”, đó là phương pháp lao động ở trại Z30D.

    Đất trồng bắp chen lẫn với rừng rậm. Các cây nhỏ đã được dọn sạch, nhưng những cây lớn vẫn còn. Bắp được trồng quanh các cây này. Chúng tôi phải đào gốc buông dọn thêm đất để trồng bắp. Những cây buông có đường kính ở gốc khoảng một thước với rễ ăn sâu xuống đất, do đó chúng tôi phải đào cái hố khoảng ba thước đường kính để bứng gốc của chúng. Chỉ tiêu cho mỗi trại viên là hai cây buông mỗi ngày. Đó quả thật không phải là một công việc dễ dàng.

    Nhà lô của đội chúng tôi núp trong rừng rậm, do đó cán bộ quản giáo đội là ông vua trong vùng. Bất cứ ai muốn đến nhà lô đều phải đi qua một con đường mòn nhỏ đầy gai mắc cỡ, và đôi khi rắn rết hay bò cạp khắp nơi. Ban giám thị trại ít khi nào muốn đến đó nên cán bộ quản giáo cùng cán bộ vũ trang có thể dùng bất cứ trại viên nào mà họ cần để làm những công việc riêng tư cho họ.

    Với khả năng về vẽ và về mộc, thời gian này tôi hầu như là làm trong nhà lô mà thôi. Các trại viên khác đặt cho những người làm công việc riêng cho cán bộ là “sĩ quan nhà lô”. Tôi biết đó là một ý nghĩ không tốt, nhưng tôi không có sự chọn lựa nào khác. Ở trong trại, chúng tôi phải làm những gì mà các cán bộ bảo chúng tôi làm nếu chúng tôi muốn sống. Vã lại việc vẽ vài cái bông hoa trong cuốn sổ hay làm một cái rương gỗ cho họ cũng chẳng phải là một công việc “dơ bẩn” hay “xấu xa” gì. Chẳng qua chỉ là công việc nhẹ nhàng hơn các người khác mà thôi, do đó vài người trở nên ganh tỵ! Sống trong trại không dễ dàng hơn cuộc sống trong xã hội vì tôi phải va chạm hàng ngày với nhiều người mà không thể tránh né họ được. Làm thế nào để làm vừa lòng hết mọi người?

    Vào ngày Chúa Nhật hai tuần sau khi viết thư cho gia đình, tôi được gọi đi thăm nuôi. Tôi rất ngạc nhiên! Đứa em trai út của tôi là Tuấn từ Phan Thiết vào thăm tôi. Tuấn đã tốt nghiệp Đại Học Kinh Tế và đang làm việc ở thị xã Phan Thiết thuộc tỉnh Thuận Hải. Chắc là em tôi đang làm việc cho chính quyền của VC nên tôi mới được phép thăm vì hôm ấy không phải là ngày thăm nuôi.

    Ngày thứ hai hôm sau, tôi đi lao động như thường lệ. Hôm ấy đội chúng tôi không làm ở nhà lô mà đi làm vệ sinh cho một miếng đất ở phía sau nhà thăm gặp.

    Nhà thăm gặp nằm phía bên phải của một con đường đất sét cách trại khoảng năm trăm thước về hướng quốc lộ số 1. Đó là một căn nhà gạch dài khoảng hai mươi thước rộng sáu thước nằm bên trong vòng rào bằng kẽm gai. Cổng trước của nhà thăm gặp đi thẳng vào phòng thăm nuôi. Phía bên mặt là phòng làm việc của cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi và làm phòng để các thân nhân trại viên đến đăng ký, còn phía bên trái là một căn phòng lớn làm phòng chờ đợi. Mỗi phòng đều có cửa cửa trước, cửa sau và nhiều cửa sổ.

    Phía sau khu nhà thăm nuôi là miếng đất trồng bắp. Chúng tôi đang làm cỏ ở đấy mà mọi con mắt đều hướng về phía nhà thăm nuôi. Đột nhiên tôi thấy vợ tôi và mẹ tôi ở trong phòng chờ đợi. Tôi vẫy tay làm dấu gọi và hai người cũng nhìn thấy tôi. Tôi không biết tại sao trại lại không gọi tôi ở lại để được ra thăm nuôi. Vợ tôi bảo con tôi đến gặp tôi, nhưng nó chỉ đứng ở xa xa. Có lẽ tôi còn quá xa lạ với nó! Tôi dẫn con tôi đến gặp cán bộ quản giáo để hỏi về trường hợp của mình. Hắn ta đang nhờ tôi làm những công việc riêng tư, cho nên hắn đi vào hỏi cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi và trở lại cho tôi biết rằng tôi đã được gặp gia đình vào ngày hôm qua cho nên họ không giải quyết cho tôi nữa. Tôi giải thích cho hắn biết rằng hôm qua chỉ là em tôi ghé để xem có phải tôi đã về đây không để báo cho mẹ và vợ tôi biết đến thăm tôi hôm nay. Tên cán bộ quản giáo vào gặp cán bộ phụ trách thăm nuôi lần nữa rồi ra báo cho tôi biết là tôi được vào thăm ngay nhưng không được vào trại để thay quần áo. May mắn cho tôi là hôm ấy tôi làm lao động ở sau nhà thăm nuôi, nếu không thì chắc gia đình tôi đành phải quay về.

    Vợ tôi trông có vẻ khoẻ mạnh hơn ba năm trước khi gặp nhau ở trại Tân Lập; có lẽ vì cô ấy không phải trải qua một đoạn đường quá dài như lúc đi từ Nam ra Bắc! Đặc biệt là con tôi, lần đầu nó biết được cha, người cha thật sự chứ không phải chỉ qua mấy tấm hình chụp. Sau một lúc bỡ ngỡ, nó đến với tôi và gọi “ba”! Nó đã gần bảy tuổi và đang học lớp một ở trường tiểu học.

    Mẹ tôi thì trông già và gầy hơn. Bà đã chịu đựng qua nhiều khổ đau kể từ khi cha tôi đi vào chiến khu. Cuộc đời bà chỉ là một chuổi dài phấn đấu cho cuộc sống của gia đình, cho chồng và cho con.

    Điều mất mát lớn lao đối với tôi là cái chết của bà ngoại tôi, điều mà tôi cảm thấy lâu lắm rồi. Gia đình tôi đã dấu tôi việc này suốt ba năm trường. Nhiều lần tôi có hỏi về bà ngoại tôi, nhưng mọi người trong gia đình đều tránh không nói tới. Tôi biết họ không muốn tôi đau buồn bởi vì bà ngoại là người gần gũi với tôi nhất.


    Chương 42. Cậu Học Trò Tên Tâm

    Đầu năm 1983, tôi được biên chế vào đội 2, họ gọi đó là “đội mía” với công việc làm hàng ngày là trồng và chăm sóc các ruộng mía ở phân trại K3 thuộc trại Z30D.

    K3 nằm cách K1 khoảng bốn cây số về phía Nam, và vào lúc ấy thì nó chỉ là một trại nuôi bò cho toàn trại. Chỉ có vài trại viên được ban giám thị trại tin tưởng ở đó cùng với hai cán bộ trong một ngôi nhà lá không có rào ngăn nào cả. Hàng ngày, họ dẫn khoảng năm mươi con bò vào đồng cỏ ở gần chân núi Mây Tàu để cho bò ăn và rồi buổi chiều lùa bò trở về chuồng. Phân trại K3 đã từng là một phần của trại nơi giam giữ các trại viên, nhưng khi một số đông trại viên được thả vào năm 1980 thì nó bị bỏ hoang.

    Ngày đầu tiên đi lao động ở các cánh đồng ở K3, tôi gặp Tâm, nguyên là học trò của tôi ở lớp 12 trường trung học Hoàng Gia Huệ nơi tôi đã dạy từ năm 1970 đến năm 1975. Hoàng Gia Huệ là một trường trung học công giáo thuộc một giáo xứ ở Trung Chánh, của đồng bào di cư từ Bắc vào Nam năm 1954. Hiệu trưởng của trường ấy đồng thời cũng là cha xứ tên là Diêng, linh mục phụ trách nhà thờ ở trong xứ đạo. Trong cuộc nổi dậy của Công Giáo chống lại Cộng Sản vào năm 1976, vài giáo sư của trường cũng như một phần đồng bào trong xứ đạo ấy đã bị bắt giam, số còn lại thì chuyển đi nơi khác hay trốn biệt. Tâm cho tôi biết là cha Diêng trốn vào “mật khu” để chống lại VC. Chính Tâm cũng bị bắt trong cuộc nổi dậy đó.

    Tâm khoảng hai mươi lăm tuổi vào lúc ấy, nhưng trông có vẻ trẻ hơn số tuổi có lẽ vì dáng dấp nhỏ nhắn. Da sạm nắng vì thường làm việc ngoài đồng mà không bao giờ đội nón. Thật ra thì tôi không thể nhận ra học trò của mình được cho đến khi Tâm đến nói chuyện với tôi. Nhưng kể từ đó hắn ta rất cần thiết đối với tôi vì Tâm vừa trẻ lại vừa lanh lẹ. Chúng tôi lần lần trở thành hai người bạn thân và tôi bảo Tâm gọi tôi bằng “anh” thay vì bằng “thầy”! Hàng ngày khi đi lao động ở các cánh đồng mía ở phân trại K3, Tâm thường thu nhặt những thứ ăn được và nấu ăn cho cả hai. Rắn, chuột, ếch nhái, và ngay cả thỏ cũng khó có thể thoát khỏi bàn tay của hắn ta vì hắn “nhanh như sóc”! Tôi chỉ cho Tâm cách làm bẫy và chúng tôi bắt được khá nhiều các thú nhỏ để cải thiện các bữa ăn.

    Chúng tôi phải đi vào K3 bằng một con đường mòn nhỏ dọc theo bờ suối. Khoảng cách chỉ khoảng bốn cây số, nhưng phải mất hàng hai tiếng đồng hồ mới đến nơi được vì con đường mòn đầy những gai mắc cỡ và đá nhọn, và chúng tôi còn phải lội qua những con suối nhỏ nữa. Vào những ngày mưa lớn thì càng khó khăn hơn vì chúng tôi phải đi vào rừng để tránh dòng suối chảy siết. Chúng tôi thường không về trại vào buổi trưa, và họ chỉ cho phép một trại viên là “anh nuôi” đi cùng với cán bộ vũ trang về lãnh cơm và thức ăn cho cả đội.

    Công việc hàng ngày của chúng tôi là làm luống để trồng mía. Luống mía rộng khoảng một thước rưỡi, cao khoảng năm tấc và dài tuỳ theo chiều dài của miếng đất. Chúng tôi phải nối những đọt lá buông non lại với nhau để căng song song cách nhau khoảng bốn thước để làm chuẩn cho các luống mía. Nếu luống mía đụng phải cây nào thì chúng tôi phải đào gốc cây ấy. Các cánh đồng quanh phân trại K3 đã bỏ hoang lâu ngày nên cỏ tranh và bụi rậm đầy dẫy. Đặc biệt là các cây buông mọc cùng khắp rất khó bứng đi. Làm luống mía quả thật là một công việc nặng nhọc vì chúng tôi chỉ có mỗi người một cây cuốc mà thôi, tuy nhiên điều tốt nhất là chúng tôi cảm thấy chút nào đó tự do và quan trọng hơn cả là chúng tôi có cơ hội để thu nhặt được những thức ăn thêm.

    Sau khi các luống đã thành hình, chúng tôi trồng vào đó những hom mía mà họ mua ở nơi nào đó. Những hom mía này được cắm vào luống với góc độ khoảng ba mươi độ. Trong vòng ba tháng lao động nặng nhọc, bốn mươi trại viên chúng tôi làm được khoảng mười mẫu mía. Chúng tôi lại phải khai phá thêm nhiều đất và chờ cho mùa thu hoạch vụ đầu để có hom trồng cho khu đất mới vì họ không muốn bỏ tiền thêm ra mua hom mía nữa. Cùng lúc ấy, chúng tôi phải làm cỏ cho các ruộng mía đã trồng để giúp mía dễ mọc lên. Vụ thu hoạch mía đầu tiên diễn ra khoảng một năm sau khi cây mía bắt đầu có cờ. Chúng tôi chặt mía sát gốc lấy ngọn trồng cho các ruộng mới và thân mía thì đem đi bán cho các lò đường. Chúng tôi còn phải đốt lá mía ở các ruộng đã thu hoạch để giúp cho cây mía mọc lên mùa thứ hai, và họ bảo rằng mùa thứ hai này mới là mùa thu hoạch có năng suất cao nhất. Hai mươi mẫu mía này là những ruộng mía đầu tiên mà chúng tôi đã làm ở trại Z30D. Vài năm sau, trại thành lập lò đường và mua thêm mía của nơi khác về để nấu đường cộng thêm với mía trồng trong trại.

    Đầu năm 1984, Tâm và tôi chuyển về đội mộc. Tâm làm trong nhóm làm mộc còn tôi thì thuộc nhóm xây dựng. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng còn gặp nhau cho đến khi Tâm được thả ra vào cuối năm 1984.


    Chương 43. Vợ Tôi Nói Tiếng “Giả Từ!”

    Sau lần thăm nuôi đầu tiên thì vợ và con tôi thường lên thăm tôi khoảng hai hoặc ba tháng một lần. Chúng tôi bắt đầu có dịp để nói được những điều mà chúng tôi muốn nói. Cán bộ phụ trách nhà thăm gặp lần lần dễ dãi hơn. Hắn ta không còn ngồi ở bàn nữa và còn cho chúng tôi được gặp nhau dài hơn hai mươi phút như thời hạn mà trại ấn định vì cũng không còn nhiều trại viên thăm gặp như lần đầu nữa.

    Kể từ khi ấy, tôi cảm thấy chút nào đó gần gũi với vợ tôi hơn trước. Nhưng tôi lại thấy một vài điều gì đó chia cắt chúng tôi, những điều mà tôi không thể giải thích được. Vợ tôi trông cũng “mỏng manh”, ít nhất là diện mạo bên ngoài, vẫn là người mà tôi yêu, nhưng tôi nghĩ có lẽ cô ấy đã thay đổi. Cô ấy có vẻ tự tin hơn trước, và tôi nghĩ cô ấy thật sự không còn “mỏng manh” như trước nữa. Cô ấy không còn cần tôi nữa. Ngược lại chính tôi mới là người cần cô ấy! Tôi cũng không biết rằng vì tình yêu hay chính là những quan niệm cổ xưa đã là sợi dây trói buộc chúng tôi với nhau. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi đã phải uổng phí cuộc đời vì tôi. Đôi khi tôi bảo vợ tôi rằng mặc dù tôi vẫn rất yêu thương cô ta nhưng tôi không muốn cô ấy phụ thuộc vào tôi nữa vì tôi không thể biết bao giờ tôi mới được thả ra. Tôi rất mong việc ấy, nhưng mọi cái đều không còn tùy thuộc vào tôi nữa! Tôi chỉ mong cô ta hãy nuôi dạy con chúng tôi trở nên người tốt trong xã hội mới này mà thôi.

    Cuối năm 1983, trại bắt đầu cho phép những trại viên mới về từ trại Tân Lập được thăm nuôi qua đêm. Điều này trước đây chỉ áp dụng cho những trại viên thuộc diện đặc biệt như các “đội trưởng”, “ban thi đua”, và các trại viên làm trong các “bộ phận lẻ”. Vợ tôi bảo tôi tìm cách hỏi cán bộ để chúng tôi được gặp nhau qua đêm ít nhất một lần để chúng tôi có dịp nói những điều xảy ra trong thời gian dài mà tôi xa nhà. Không hiểu tại sao tôi lại cảm thấy chút nào đó lo lắng về ý định này của vợ tôi.

    Cán bộ quản giáo của đội lúc ấy tên là Tư. Hắn ta cũng đang nhờ tôi làm một vài công việc riêng. Hắn ta bảo tôi rằng hắn chỉ có thể giúp tôi được việc này nếu tôi là đội trưởng hay đội phó mà thôi vì đó là quy định của ban giám thị trại. Hắn ta dựng ra một chức vụ mới cho tôi là “đội phó đặc trách về đời sống” cho trại viên trong đội, và đó là lần đầu tiên mà tôi được gặp vợ tôi qua đêm vào tháng mười năm 1983.

    Nhà thăm gặp cho trại viên và gia đình ở qua đêm là một căn nhà lá nằm trong vòng rào đối diện với khu thăm nuôi. Nó có bốn phòng ở hai đầu nhà để thăm gặp và một căn phòng ở giữa dành cho cán bộ. Phòng thăm gặp là một phòng nhỏ hình vuông mỗi cạnh khoảng ba thước, vách lá và nền đất. Chỉ có một cái giường nhỏ với chiếc chiếu cói và một cái bàn không có ghế ở bên trong phòng. Một bóng đèn điện treo phía dưới mái nhà cung cấp một ánh sáng vàng vọt cho căn phòng.

    Đêm ấy, vợ tôi đã nói rất nhiều về cuộc sống của cô ấy kể từ khi rời trường Chu Văn An để về nhà, và điều chính yếu là cô ấy muốn tôi nói với gia đình tôi để cô ấy được phép về sống với gia đình ba má cô ấy. Tôi cũng đã biết về những sự xung khắc giữa vợ tôi với gia đình tôi từ lâu, nhưng tôi nghĩ cô ấy có thể vượt qua được những điều ấy. Vợ tôi luôn luôn dễ hòa hợp với mọi người! Ở lại với vợ tôi, tôi đã không thể ngủ được, suốt đêm nằm nghe những điều cô ấy nói cộng với tiếng dế và tiếng côn trùng rên rỉ bên ngoài phòng. Trở vào trại vào chiều ngày hôm sau, tôi suy nghĩ rất nhiều về những điều mà vợ tôi đã tâm sự và bỗng cảm thấy một cái gì đó không ổn mà tôi sẽ phải đối phó trong những ngày sắp tới. Đó không đơn giản như mọi việc bình thường. Tôi không thể từ chối những yêu cầu của vợ tôi, nhưng tôi biết rằng tôi sẽ mất cô ấy. Tám năm chờ đợi đã quá dài đối với cô ấy; tôi không thể nào ích kỷ! Cô ấy phải có cuộc sống riêng, ngay cả không có tôi trong đó. Cô ấy có thể làm việc ấy một mình, nhưng cô ấy đã hỏi tôi trước, chính điều này khiến tôi lâm vào tình trạng tiến thối lưỡng nan. Tôi vẫn còn yêu vợ tôi quá nhiều, nhưng tôi lại không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời vì tôi. Cô ấy có thể bắt đầu làm lại cuộc đời ở cái tuổi ba mươi hai; nếu không thì sẽ quá trễ! Với ý nghĩ ấy, tôi đã viết thư cho gia đình tôi.

    Hai tháng sau, vợ tôi lại lên thăm tôi lần nữa. Cô ấy cảm ơn tôi về quyết định của tôi. Chúng tôi ở lại với nhau đêm ấy, và đó cũng là lần cuối cùng! Cô ấy đã dời trở về nhà với cha mẹ.

    Ba tháng sau đó, vợ tôi lại lên thăm tôi. Nhưng lần này thì cô ấy không muốn ở lại và chỉ cho tôi biết cô ấy đang sửa soạn đi ra nước ngoài với người “anh họ” của cô ấy. Theo lời vợ tôi cho biết thì ông anh họ ấy đã di tản sang Mỹ vào năm 1975, và hiện đang có ý định bảo lãnh cô ấy sang đó với anh ta. Tôi hoàn toàn không biết gì về ông “anh họ” này, và tôi nghĩ tôi cũng không cần phải biết. Điều duy nhất tôi biết là lần ấy sẽ là lần cuối cô ấy lên thăm tôi. Cô ấy trông có vẻ xa xôi đối với tôi mặc dù vẫn đang ngồi gần nhau trong nhà thăm gặp. Cô ấy ăn mặc cũng có vẻ sang trọng hơn những lần trước. Và cô ấy nhất định quay về nhà sau giờ thăm gặp mặc dù tôi đã xin được ở lại đêm ấy. Vợ tôi chưa nói tiếng “từ giã” nào cả, nhưng qua thái độ của cô ấy tôi biết đó là lời nói giã từ. Tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho tôi vì “đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.”

    Trong lần gặp nhau cuối cùng ấy, vợ tôi đã nhờ tôi ký tên vào giấy cho phép con tôi đi với cô ấy ra nước ngoài. Tôi đợi tờ giấy ấy, nhưng mãi vẫn không thấy. Tôi biết tôi cũng sẽ mất cả con tôi một khi tôi ký vào giấy ấy. Tôi luôn luôn sẳn sàng chấp nhận mọi mất mát, và chỉ cầu mong cho vợ con tôi được một cuộc đời khá hơn. Tôi đã viết rất nhiều bức thư cho vợ tôi nhưng rồi lại xé đi! Tôi không muốn cứ mãi làm một vật cản đường tiến của cô ấy. Cô ấy phải được đền bù cho những mất mát mà cô ấy đã phải chịu suốt tám năm trường!

    Tôi phải ở trong trại bao lâu nữa đây? Không ai biết được điều này. Cô ấy đã hoàn toàn đúng khi viết cho tôi trong một bức thư sau đó rằng cô ấy phải “thực hiện những điều thật tế trước mắt chứ không thể mất thời giờ để chờ đợi một sự viễn vông!” Đó là một lời “từ giã” mà tôi nhận được từ vợ tôi. Để ghi khắc điều này, tôi quyết định bỏ hút thuốc. Tôi trao lại cho bạn bè tất cả thuốc hút mà tôi có và nói với họ rằng kể từ giờ phút ấy sẽ không bao giờ tôi đặt một điếu thuốc lên môi. Điều ấy quả là một điều không dễ dàng đối với một người nghiện thuốc lá như tôi, nhưng tôi quyết phải làm được việc này để chứng tỏ cho mọi người thấy tôi sẽ làm được cái mà nhiều người vẫn thường cho rằng họ chỉ có thể “bỏ được người yêu chứ không thể bỏ được thuốc lá.” “Cô ấy đã bỏ tôi; tôi sẽ bỏ hút!” Tôi nghĩ đó có lẽ sẽ là chấm dứt cho chuyện tình của mình, nhưng rồi nó vẫn đeo đẳng tôi mãi mãi trong suốt thời gian tôi ở trong trại cải tạo. Nó chỉ mới là lời “từ giã” chứ vẫn chưa phải là lời “vĩnh biệt”!

    (Hết chương 39 – 43 . Xin xem tiếp chương 44 – 47)

  2. #8
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    Chương 44. Đội Mộc


    Vào đầu năm 1984, tôi được chuyển về đội làm mộc của trại Z30D. Các trại viên làm ở đội này thường là những người tình nguyện khi trại có nhu cầu tuyển một số trại viên có tay nghề để bổ sung cho đội. Lần này thì tôi không tình nguyện vì tôi cảm thấy làm nông nghiệp ở trại Z30D cũng không đến nỗi quá nặng nề như ở trại Tân Lập và nhất là chỉ làm rẫy, không có những con đĩa mà tôi kinh khiếp nhất. Thêm vào đó, đi làm nông nghiệp còn có cơ hội để thu nhặt được những thức ăn cải thiện nữa! Tuy nhiên chính cái lịch sử làm mộc ở trại Tân Lập đã đưa tôi vào đội mộc của trại Z30D.

    Nhà ở của đội nằm cuối khu trại, gần nhà bếp và đó cũng là nhà ở cho các trại viên làm trong đội bếp. Đó là một dãy nhà lá dài và không ngăn riêng thành từng phòng giam. Vách nhà làm bằng lá buông đắp vào lớp tre đan và những song cửa sổ làm bằng những thanh tre dọc. Đây quả thật là một kiến trúc rất sơ sài đối với một nhà giam.

    Khoảng một trăm năm mươi trại viên thuộc ba đội được nhốt trong căn nhà giam dài khoảng sáu mươi thước ngang sáu thước. Các trại viên thuộc đội bếp ở một đầu nhà, đội mộc ở giữa, và đội xây dựng ở đầu kia. Có hai nhà vệ sinh ở hai đầu nhà. Các trại viên nằm ngủ trên những vạt đan bằng tre và đặt lên một khung gỗ hai tầng. Cách bố trí trong nhà giam cũng tương tự như ở trại Tân Lập chỉ có điều mọi thứ vật liệu được làm rất cẩu thả. Chúng tôi không có kệ để đồ đạc cho nên phải đặt ngay trên đầu chổ nằm. Căn phòng tuy thế vẫn còn chỗ trống cho nên chúng tôi cũng không đến nỗi quá chen chút! Điều tệ hại nhất là nền nhà bằng đất nên trong nhà rất bẩn thỉu. Ba đội ở trong nhà giam này thường làm từ sáng đến tối mới về phòng để ngủ, vì vậy cũng không ai quan tâm nhiều đến vấn đề vệ sinh này!

    Khi về đây, tôi gặp lại những người bạn và những sếp cũ của tôi, những người đã ở lại trại Thủ Đức khi tôi bị chuyển ra trại Tân Lập năm 1977. Họ đều làm ở đội bếp. Trong thời gian sống ở đây, tôi chỉ nhớ có một người bị chết vì bệnh, đó là ông Cựu Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc của nội các cuối cùng của chính phủ Nam Việt Nam. Một số khác thì đã ở trại Z30D với tôi cho đến đợt thả rộng rãi năm 1988 như Lương, cựu trưởng ban A10, Trang, cựu trưởng ban A8, và một số khác thì ở lại trại với tôi cho đến chung cuộc như Cang, nguyên Đặc Ủy Trưởng, Nghi, nguyên trưởng toán đặc nhiệm Cảnh Sát Đặc Biệt.

    Đội mộc là đội có số trại viên đông nhất toàn trại Z30D, nó được chia ra làm bốn nhóm: nhóm mộc, nhóm xây dựng, nhóm xẻ gỗ, và nhóm rèn.

    Nhóm làm mộc và nhóm xây dựng khoảng ba mươi trại viên thường làm việc hỗ trợ nhau trong những công việc như đóng đồ mộc trong nhà, làm cửa nhà, và làm những công việc của xây dựng như gắn cửa, gắn đòn tay và vì nhà, và làm nhà bằng cây gỗ hay tre nứa.

    Nhóm xẻ gỗ khoảng mười lăm trại viên có nhiệm vụ xẻ gỗ bằng cưa vòng và cưa mâm, cung cấp gỗ thành phẩm cho mộc và xây dựng.

    Nhóm rèn khoảng mười trại viên chuyên làm dao cho đội lâm sản, làm và sửa cuốc cho các đội nông nghiệp.

    Nhà lô của đội mộc nằm gần con suối. Đó là bốn căn nhà lá nằm trong một khoảng đất độ một mẫu, rào quanh bởi dây kẽm gai: một láng dành cho nhóm mộc và xây dựng, một dành cho nhóm rèn và xẻ, một dành cho những trại viên ở lại làm vào buổi trưa, và nhà cho các cán bộ. Căn nhà duy nhất có vách là nhà ở cho các cán bộ. Láng xẻ và rèn nằm song song với một con đường đất sét đi từ K1 sang K2 và nằm đối diện với nhà bếp (bếp sau đó dời vào một nơi khác). Căn nhà dành cho cán bộ nằm cạnh cổng chính đi vào khu mộc và gần với láng rèn và xẻ. Nhà dành cho trại viên ở lại làm buổi trưa nằm thẳng góc với nhà dành cho cán bộ, và căn láng mộc và xây dựng nằm cuối khu đất, song song với láng rèn và xẻ. Tất cả các cấu trúc được làm theo hình chử U với khu đất trống ở giữa dùng để chứa cây gỗ.

    Làm công việc xây dựng ở trại Z30D tương đối dễ dàng hơn ở trại Tân Lập vì cây gỗ đã được cắt sẳn theo hình dáng và kích thước với cưa xẻ và cưa mâm. Chúng tôi không phải đẻo và bào tròn. Các lỗ mộng thì hình vuông và dùng đinh để đóng, do đó cũng đơn giản hơn làm mộng đuôi cá.

    Đầu tiên thì chúng tôi chỉ có nhiệm vụ làm và sửa chữa các nhà lô của các đội, sửa chữa các nhà của khu trại và khu cơ quan. Khoảng sáu tháng sau, một cán bộ tên là Nhu nắm quyền điều hành đội và mọi việc đều bắt đầu thay đổi. Trại viên phải làm việc nhiều hơn tám giờ mỗi ngày và đôi khi còn phải làm cho tới tối mịt. Tổng số trại viên của đội lên tới con số trên một trăm người. Nhu đốt các căn láng trong khu mộc và cho xây dựng mới, và nhà ở cho trại viên làm ngoài giờ được trang bị lại với những sàn ngủ vì chúng tôi không những phải làm trưa mà còn phải ở lại làm đêm. Căn láng xẻ và rèn được xây hai tầng: tầng trên dành cho cán bộ canh gác láng mộc và tầng dưới thì đặt máy cưa và làm phòng cho những người làm mũi cưa. Một căn nhà hình bát giác nằm cạnh cánh cổng được xây dựng cho Nhu mỗi lần đến kiểm tra công việc của đội và sau đó dành cho Giới, trại viên phụ với Nhu trong công tác xây dựng.

    Khi công việc của đội quá nhiều, Nhu đã thành lập ba nhóm cưa xẻ gồm một nhóm của các cán bộ để liên tục xẻ gỗ hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Trại viên phải ở lại nhà lô và thay phiên nhau làm việc. Buổi tối, Nhu buộc các trại viên trong các đội khác chuyển mạt cưa đem đổ dấu vào các ruộng mía. Đội kiểm lâm của tỉnh Thuận Hải cũng thường đến kiểm tra về việc phá rừng, nhưng không thể tìm thấy dấu vết. Đôi lúc họ cũng đã bắt giam các trại viên đi lấy gỗ, nhưng rồi cũng phải thả ra vì họ không thể giử các trại viên đang ở trong trại cải tạo. Khoảng chừng sáu tháng sau, rừng quanh trại hoàn toàn bị khai phá. Nhu cho các trại viên trồng cây bạch đàn xen lẫn với mía để thế vào. Gỗ quý được xẻ và chuyển đi nơi khác. Nhu càng lúc càng giàu và càng có thế lực.

    Công việc xây dựng trong trại cũng được tiến hành để thay thế các căn nhà lá. Đầu tiên thì nhóm xây dựng chỉ phụ các nhà thầu làm nhà trong khu B của trại. Sau đó, chúng tôi phải tự xây nhà lấy. Những căn nhà được xây lên rồi phá xuống rồi xây lại nhiều lần. Tôi không biết tại sao, nhưng vài cán bộ cho biết rằng Nhu làm như thế để thu tiền của “nhà nước” về cho “trại”, vì hắn ta sẽ báo cáo tổng số diện tích xây dựng lên trên để nhận ngân khoản.

    Trong thời gian ấy thì Giới, một trại viên trước là thiếu tá dù của VNCH, phụ cho Nhu trong công tác xây dựng và nắm hết mọi quyền hành mặc dù Tứ là đội trưởng của đội mộc. Tôi cảm thấy không an toàn chút nào trong công tác xây dựng vì công việc làm rất cẩu thả, do đó tôi đã nói với Tứ chuyển tôi về nhóm xẻ gỗ. Trong nhóm này, tôi phụ đẩy máy cưa và đôi khi đi đo và tính gỗ do đội lâm sản chuyển về khu đất bên cạnh khu mộc. Cây gỗ hầu hết là loại gỗ quý như Cẫm Lai, Trắc, Gỗ Tếch, Gõ Đỏ vân vân được đem về quá nhiều đến nỗi đôi khi tôi phải đo cả ngày và tối lại mới có thời giờ để tính toán khối lượng.

    Làm việc trong đội mộc, tôi không thể thu hoạch được thêm thức ăn như lúc làm trên các cánh đồng. Nhưng được cái là nhà lô của đội nằm gần bờ suối, do đó tôi làm một số câu cắm đặt ở bờ suối và bắt cá góp thêm vào bửa ăn. Đôi khi tôi có thể dùng buổi trưa để đi câu ở suối nữa.

    Cho đến năm 1986, khi nhiều nhà đã được xây dựng, Nhu chuyển tôi về làm công việc vẽ tranh để trang trí nội thất, tuy nhiên tôi vẫn thuộc nhân số của đội mộc.


    Chương 45. Nhu Và Sự Thay Đổi Của Trại Z30D

    Cuộc sống của chúng tôi ở trại Z30D tuỳ thuộc rất nhiều vào một cá nhân. Tên hắn ta là Trịnh Văn Nhu. Hắn ta điều hành trại theo đường lối riêng của hắn, và là một bóng ma không những đối với trại viên mà cả đối với cán bộ nữa.

    Trại trưởng trước của trại là Đoàn Mạch, người đã từng làm trại trưởng của trại Thủ Đức từ những năm 1975. Khi tôi mới chuyển về trại Z30D thì Mạch vẫn còn là trại trưởng và Phúc là trại phó. Trưởng phân trại K1 là Ninh. Nhu lúc ấy chỉ là trung úy phụ trách về hậu cần. Ban Giám thị trại lúc ấy điều hành trại theo một đường lối mà tôi vẫn thấy ở trại Tân Lập với mục đích là giữ cho trại viên trong một kỷ luật và lao động như thường lệ. Chúng tôi làm lao động tám giờ một ngày và chỉ làm công việc lao động hàng ngày trên những cánh đồng bắp nhỏ hay làm việc trong các nhà lô. Khu vực quanh trại vẫn còn hoang vắng; cây cối và bụi rậm còn mọc dầy đặc. Trại lúc ấy còn có vẻ rất tạm thời ngoài các kiến trúc ở khu A.

    Nhu bằng với tuổi của tôi, lúc ấy khoảng bốn mươi, nhưng hắn trông có vẻ già hơn. Hắn ta lùn, ốm, và có diện mạo trông rất rõ ràng là của một người bần nông miền Bắc mặc dù hắn đã cố tìm cách che đậy bằng mọi phương tiện! Da ngâm đen, và hàm răng hô được gắn rất nhiều vàng, điều mà chúng tôi thường nói đùa lén với nhau là “khi hắn ta cười thì cả bầu trời này đều rực rỡ.” Cái kỳ cục nhất của hắn ta là cách ăn mặc khác thường. Khi tôi gặp hắn ta lần đầu ở nhà kho, hắn ta mặc một bộ vét màu xanh lá mạ rất rực rỡ mặc dù trời hôm ấy rất nóng. Tôi cũng thấy nhiều lần khác hắn ta mặc đồ pi-da-ma đi khắp nơi trong trại cũng như trong các hiện trường lao động của trại viên. Khi nói chuyện với các trại viên lớn tuổi, hắn ta cố dùng những từ ngữ thân thiện, nhưng tư cách thì lại tỏ ra rất mất dạy.

    Vào năm 1985, tôi nghe nói rằng Nhu được bầu vào chức vụ Bí thư của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản của trại, đó là một chức vụ quan trọng ở cơ quan trại. Trong quốc gia của Cộng Sản, luôn luôn có hai tổ chức trong cùng một đơn vị: tổ chức chính quyền và tổ chức Đảng (Đảng Cộng Sản). Ở cơ quan trại thì có hai đơn vị chính là Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ, và hai tổ chức Đảng của hai đơn vị này là Đảng Bộ và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản.

    Do nhu cầu xây dựng trại, Nhu bắt đầu nắm lấy quyền điều hành đội mộc. Hắn ta không làm Cán Bộ quản giáo, nhưng vì là Cán Bộ hậu cần và là Bí Thư đoàn Thanh Niên, hắn ta điều hành hết mọi công việc của đội. Cán bộ quản giáo lúc ấy chỉ là bù nhìn! Nhu thay đổi cán bộ quản giáo của đội bất kỳ lúc nào. Hắn ta tái tổ chức đội, đặt hai tổ mộc và xây dựng lại với nhau, và biên chế nhiều trại viên vào đội. Đội mộc trở thành một điểm nóng của toàn trại với tổng số trại viên lên đến trên một trăm người. Hắn ta buộc trại viên làm việc nhiều hơn là tám giờ một ngày, và đôi khi hắn ta lấy đồ vật trong nhà kho của cơ quan để “bồi dưỡng” cho trại viên. Chẳng ai dám phê bình hắn vì hắn ta là cán bộ hậu cần, và hắn cũng thường bảo rằng: “thủ kho to hơn thủ trưởng.”

    Nhu nổi lửa đốt nhà lô của đội mộc rồi cho xây dựng mới. Căn nhà dành cho các trại viên làm ngoài giờ được làm vách và đặt sàn nằm vì hắn ta buộc trại viên của đội làm cho đến tối mịt và không được nhập trại vào buổi trưa. Căn láng của máy cưa xẻ thì được xây hai tầng; tầng trên dành cho cán bộ canh gác khu nhà lô ngày lẫn đêm, và tầng dưới thì để máy cưa. Một căn nhà cho cán bộ quản giáo ở gần cổng và một căn nhà hình bát giác ở cạnh đó dành cho riêng hắn ta mỗi lần đến nhà lô.

    Sau khi đội mộc đã được tái tổ chức, Nhu bắt đầu nắm lấy đội xây dựng. Đội này đang phụ với các nhà thầu xây dựng căn nhà ở khu B của trại. Khi đội xây dựng đã được tái tổ chức, Nhu đuổi các nhà thầu và cho đội xây dựng tự làm các nhà trong khu B. Những căn nhà này được làm rất cẩu thả so với các nhà khác với tường mười thay vì hai mươi phân, và các sàn nằm thì xây bằng xi măng thay vì lát gạch. Nhu không quan tâm đến chất lượng xây dựng mà chỉ chú ý đến thời gian. Đôi khi hắn ta buộc trại viên phải hoàn tất công việc trong một hai ngày không kể ngày đêm hay phẩm chất tốt xấu. Hắn ta thường xuyên hiện diện ở các điểm nóng. Hắn ta thưởng cho những trại viên làm việc siêng năng và xử phạt các trại viên tỏ ra lười biếng. Những tưởng thưởng này chỉ là một ít thịt, một ít đường, hay đôi khi là một bộ đồng phục tù, nhưng chúng tôi cũng phải ra sức lao động vì không ai muốn bị nhốt kỷ luật.

    Trong thời gian này, trại viên nằm đầy trong các phòng giam kỷ luật. Các cán bộ đôi khi phải dời các trại viên ở quá lâu trong ấy về cùm ở phòng giam để dành chỗ cho những trại viên mới vào. Một khi trại viên bị nhốt kỷ luật, họ phải ở trong đó cho đến khi Nhu nhớ và thả ra. Đôi khi cán bộ trực trại còn phải nhắc Nhu về những trại viên bị cùm quá lâu. Nhu thưởng phạt trại viên một cách rất bất thường. Tôi nghĩ rằng hắn ta muốn cảnh cáo cho những trại viên khác để họ làm lao động tích cực hơn. Ngoài ra, hắn ta cũng muốn chứng tỏ cho các trại viên biết rằng hắn ta có quyền hành vô giới hạn; hắn ta có thể làm mọi việc mà không cần biết đến giới hạn của luật pháp.

    Do nhu cầu xây dựng, đội lâm sản sau đó đã bị Nhu nắm lấy quyền hành. Nhu đốt khu rừng phía bên kia suối nơi đội lâm sản dựng nhà lô. Hắn ta cho xây lại nhà lô của đội lâm sản ở khu vực K3, gần chân núi Mây Tàu. Hắn ta biên chế thêm trại viên vào đội này và cho nhiều cán bộ vào cùng làm với các trại viên đồng thời quản chế trại viên luôn. Đội lâm sản đôi khi phải ở luôn trong rừng cả ngày lẫn đêm. Cây cối được hạ và chuyển về nhà lô đội mộc dấu ở khu đất trống bên cạnh. Rừng chung quanh trại bị phá quá nhanh cho nên toán kiểm lâm của tỉnh Thuận Hải thường vào để kiểm tra trại. Nhu cho trại viên đem dấu mạt cưa trong các ruộng mía, và che dấu các cây gỗ bằng lá buông và mía. Hắn ta tổ chức tiệc tùng cho các nhân viên kiểm lâm mỗi khi họ đến kiểm tra trại, và rồi dần dần các toán kiểm lâm này đã bị mua chuộc.

    Kể từ khi Nhu nắm lấy đội mộc thì trại Z30D cũng bắt đầu thay đổi. Đầu tiên các khu nhà giam tạm thời của khu B và C bị hạ. Khu D biến thành khu B với bốn căn nhà mới xây thêm. Khu nhà bếp mới được xây dựng ở gần với khu B, và khu bệnh xá ở gần khu A. Khu trại được rào quanh bằng tường gạch và chỉ có một vọng gác nằm thẳng với hội trường giửa hai khu A và B. Khu nhà giam kỷ luật nằm phía sau hội trường. Hai bức tường ngăn cách khu A và B với khu hội trường. Khu đất nằm giữa khu nhà bếp và khu bệnh xá được dùng làm khu vực tập họp trại viên đi lao động. Sau đó Nhu cho xây dựng một thư viện ở gần bệnh xá, đào và xây hồ nuôi cá vàng, và làm một vườn hoa bên cạnh. Muốn đi vào bệnh xá, mọi người đều phải đi qua một cây cầu bắt ngang hồ nước. Thư viện được làm hai tầng: tầng dưới làm thư viện còn tầng trên thì làm phòng nơi Nhu tiếp khách vào thăm trại. Hai kiốt nằm hai bên đường vào hội trường dùng làm “căn tin” bán đồ đạc cho các trại viên có tiền. Khu hội trường sau đó biến thành cái gọi là “khu vui chơi.”

    Không những ở trong trại mà cả khu cơ quan và khu vực chung quanh trại cũng hoàn toàn thay đổi. Trại viên phải đào ao trong khu cơ quan và xây cầu cùng các nhà nổi trên các hồ nước. Khu vực phía trên suối được đào để làm hồ nước thủy điện. Lòng suối thì được cẩn bằng đá lấy từ núi về. Rất nhiều công viên được thành hình ở hai bên suối. Nhu cho xây lại khu thăm nuôi phía bên kia suối, cất nhiều nhà cho thân nhân ở lại qua đêm để thu tiền và làm một căn tin để bán đồ cho thân nhân. Mọi việc đều được thực hiện bằng lao động nặng nhọc của trại viên.

    Sau khi các kiến trúc của trại gần hoàn chỉnh thì Nhu đưa một số trại viên đi xây những căn tin và khách sạn ở lề đường của Quốc Lộ Số Một và đi xây đập thủy điện ở thị xã Tân Xuân, cách trại khoảng sáu mươi cây số. Cùng khi ấy thì đội lâm sản được dời vào khu mới để hạ cây gỗ và phá rừng để trồng mía và bạch đàn. Khoảng sáu tháng sau thì khu vực rừng rậm chung quanh trại khoảng trên mười lăm cây số đều bị tàn phá. Cây bạch đàn được trồng vào để thay thế cho các loại cây gỗ quý đã được trồng hàng trăm năm trước. Nhu càng lúc càng trở nên giàu có và có thế lực!

    Sự thay đổi còn xảy ra trong nội bộ nhân sự ở cơ quan nữa. Sau khi trại trưởng Đoàn Mạch nghỉ hưu, “trung ương” cử Ý vào thay, và Nhu lên làm trưởng phân trại K1 mặc dù lúc ấy hắn ta chỉ mới mang lon trung úy. Nhu bắt đầu nắm hết quyền hành ở cơ quan và Ý chỉ là một bù nhìn. Trại phó Phúc thì là một bóng mờ, không ai để ý gì đến hắn ta. Ninh, nguyên trưởng phân trại K1 được chuyển đi nơi khác khi Nhu thay thế. Mọi việc từ K1 đến K2 đều nằm trong tay Nhu. Sau một thời gian thì cả hai phân trại K1 và K2 được nhập vào nhau và Nhu trở thành trưởng trại mặc dù lúc ấy hắn ta chỉ mới mang quân hàm đại úy. Sau khi nhiều trại viên được thả vào năm 1988, trại Z30C ở cách trại Z30D khoảng ba mươi cây số được sát nhập vào và Nhu biến thành trại trưởng của liên trại, lúc ấy thì hắn ta mang lon thiếu tá. Hắn ta leo lên bốn cấp chỉ trong vòng ba năm. Hắn đặt các “đàn em” vào các chức vụ trưởng phân trại K1 và K2 để dễ dàng hành động theo ý.

    Các cán bộ cũng rất sợ Nhu. Các cán bộ quản giáo và vũ trang luôn phải canh chừng để loan báo cho các trại viên biết khi thấy Nhu đi đến từ xa vì nếu có điều gì đó xảy ra thì không những trại viên bị cùm mà các cán bộ cũng có thể bị chuyển đi. Có một lần tôi đi vẽ bức tranh tường ở khu cơ quan; các trại viên thì đang đào ao gần đó, và các cán bộ cũng đang làm lao động ở gần để chặt bỏ các cây xoài. Một cán bộ đang chặt nhánh một cây có đầy kiến vàng. Hắn ta nhảy ra xa để phủi kiến đeo đầy cổ. Tôi nghe Nhu la lớn lên: “Mày sắp là Đảng viên mà lại sợ mấy con kiến vàng à?” Tên cán bộ đành phải tiếp tục làm việc, một tay cầm dao chặt nhánh xoài còn một tay thì phủi mấy con kiến đang đeo ở cổ. Thật là một cảnh tượng mà tôi chưa hề trông thấy bao giờ! Nhu đối xử với các “đồng chí” của hắn ta còn như vậy thì đối với chúng tôi hắn ta sẽ đối xử ra sao?

    Nhu lại là một con người rất mê tín. Hắn ta dùng riêng Văn như một người bói toán và coi địa lý. Trần Hồng Văn, một tên thọt và từng là một ký giả trong chế độ Cộng Sản, bị tù vì tội gì thì tôi không được biết. Hắn ta quả thật là một tên ba hoa! Văn được Nhu cho làm việc ở thư viện và được ở trong một căn phòng riêng ở gần thư viện. Hắn ta bảo với Nhu rằng dòng suối phía sau trại là một con rồng mà cái đầu rồng thì nằm ở gần với tảng đá phía sau khu láng mộc. Nhu cho xây một căn nhà hình bát giác ngay trên con suối ở đó cho riêng hắn ta, và xây một vườn hoa trông giống hình một ngôi mộ ngay trên bờ suối. Hắn tin rằng đó là mộ của hắn và khi nó được hoàn tất thì hắn ta sẽ đứng vào ngôi mộ ấy coi như hắn ta đã được chôn ở đó để kiếp sau được tốt. Tôi biết được điều này nên mặc dù không tin tôi cũng muốn phá ý đồ của hắn ta bằng cách đem chôn một con cá lòng tong mà tôi câu được trong dòng suối. Tôi khấn rằng nó sẽ biến thành một con kình ngư sau này thay vì Nhu biến thành vương tướng như ý hắn mong muốn!

    Trong “thời đại” của Nhu, các trại viên phải làm việc rất nặng nhọc mà lại bị xử phạt một cách rất vô lý. Vài trại viên đã bị thương tật, bị chết, và vài người bị què khi khai thác vùng đất đầy mìn ở một đồn địa phương quân cũ phía bên kia Quốc Lộ Số Một, để trồng cây bạch đàn. Trại viên phải làm việc cả ngày lẩn đêm không đủ thời giờ nghỉ ngơi. Đội mộc phải làm việc hai mươi bốn giờ trong một ngày với hai nhóm làm việc thay phiên nhau trong ba ca. Những đội khác thì phải làm thêm những việc làm ban đêm như đào ao, đào hồ thủy điện, phụ đội xây dựng. Nhu tưởng thưởng những đội đi làm đêm bằng cách chiếu phim chưởng của Tàu và bắt buộc mọi người phải ở lại xem với hắn ta cho đến khuya rồi lại phải thức dậy sớm sáng hôm sau để đi lao động hàng ngày như thường lệ!


    Chương 46. Trại Viên Nữ

    Đầu năm 1985, sau khi trại vừa hoàn tất cơ bản việc xây dựng bên trong khu trại giam thì chúng tôi được lệnh phải dồn lại nhường hai căn nhà để đón các trại viên mới; đó là những trại viên nữ. Họ gồm khoảng hai trăm người và chia làm ba thành phần. Thứ nhất là các trại viên thuộc dạng “chính trị” gồm nhân viên chế độ cũ và những người bị bắt tham gia các tổ chức chống Cộng sau ngày 30 tháng tư năm 1975. Thứ hai là các người bị bắt vì vượt biên thất bại hay tổ chức vượt biên và những người không có tội trạng rõ ràng nên bị xử án “tập trung cải tạo”. Thứ ba là những tội phạm hình sự mang trọng tội như cướp của, giết người và mang án tù từ mười năm trở lên.

    Hôm ấy tôi đang vẽ bức tranh nền trong hội trường thì các trại viên này được chuyển vào đó để khám xét trước khi cho về phòng giam. Trông họ cũng chẳng khác gì các trại viên khác, cũng dơ dáy luộm thuộm; đặc biệt là đồ đạc của họ rất nhiều và cồng kềnh hơn các nam trại viên. Tôi không thể phân biệt được ai cho đến khi nghe có người gọi nhỏ tên mình, và tôi rất ngạc nhiên khi nhận ra đó là bà thiếu tá Thủy, nguyên trưởng toán “Thiên Nga” thuộc Cảnh Sát nữ trước đây. Có lẽ Thủy là người nữ trại viên duy nhất thuộc “chế độ cũ” bị giữ lại sau gần mười năm cải tạo!

    Cũng vào đêm hôm trước đó, trong một trò chơi “bói Kiều” với các bạn trong phòng giam, tôi đã bắt trúng một câu là: “Ở đây âm khí nặng nề, bóng chiều đã ngã, dặm về còn xa! “ Ở trong trại giam mà lại bắt trúng câu ấy thì quả thật là “bất hạnh!” “Bóng chiều đã ngã”; thời gian ở tù đã chín muồi rồi, đã dài đăng đẳng rồi, thế mà “dặm về còn xa”; đường về còn quá xa xôi, vẫn còn phải ở tù tiếp! Riêng hai chử “âm khí” thì chúng tôi chỉ đoán là nó ám chỉ đến những oan hồn uổng tử đã chết trong trại vẫn còn vất vưởng đâu đây chứ không hề nghĩ đến những người nữ tù sắp chuyển đến trại!

    Trong số các trại viên nữ này tôi muốn nói một ít đến một thành phần được lãnh một cái án rất “kỳ khôi” của Cộng Sản, đó là án “tập trung cải tạo”. Cũng như những nam trại viên, ngoài những thành phần của “chế độ cũ” thì còn có những người không có một tội danh rõ ràng và không thể có bằng chứng xác thực để kết án, VC đã ban cho họ một cái án “tập trung cải tạo” và chỉ được tha ra khỏi trại khi đạt được “tiến bộ”. Có những người được ghép những tội danh rất lạ lùng như “âm mưu lật đổ chính quyền”, như “tình nghi vượt biên”, cũng có những người không có tội danh gì mà chỉ là những gái mãi dâm bị bắt trong những vụ càn quét và rồi bị tù thật lâu với cái án “tập trung cải tạo”. Một thí dụ điển hình là trường hợp của Thoáng, một cô gái bị bắt vào năm mới mười sáu tuổi. Anh rể cô ấy ăn cướp trên tàu hỏa bị bắt và bị kết án mười năm, được thả ra sau bảy năm tù. Người chị bị kết án ba năm vì lưu trử tang vật. Thoáng thì không có tội danh gì mà chỉ là người ở chung nhà với cô chị nên bị kết án “tập trung cải tạo” và được thả ra năm 1986 sau mười năm tù! Quả là sự “ưu việt” của chế độ Cộng Sản!

    Hai dãy nhà 1 và 2 ở khu B, phía bên phải hội trường nhìn từ cổng vào được rào riêng ra dành cho các trại viên nữ. Đầu tiên thì họ cũng được biên chế vào các đội đi làm nông nghiệp như đa số các trại viên ở trong trại. Lúc ấy thì trại đang trồng hai loại nông sản chính là mía để cung cấp cho lò đường và ớt để xuất khẩu.

    Sau khoảng hai tháng thì Nhu cho thành lập xưởng may để may đồng phục tù cung cấp cho các trại cải tạo trong cả nước và xử dụng hai đội nữ để may. Nhu tách riêng một phần của khu cơ quan nơi từng là nhà ở của các cán bộ độc thân ra để làm xưởng may. Tường bao quanh khu xưởng may được xây sau đó và trại viên lại phải đào ao xây hồ, làm nhà nổi, xây cầu bắc ngang để đi vào xưởng may. Cứ mỗi lần có những công việc như vậy thì toàn thể trại viên trong trại lại phải đi lao động thêm vào ban đêm và làm cả những ngày chúa nhật. Các đội mộc và xây dựng thì làm và sửa sang nhà cửa; các đội khác thì đào ao, lát đá quanh bờ ao, làm các công viên.

    Xây dựng đập thủy điện cho trại là một công trình tốn nhiều công sức của trại viên nhất trong thời gian này.

    Dòng suối chảy ngang qua khu vực trại rất nhỏ. Mùa mưa thì bề ngang khoảng hai mươi thước, nước chảy rất siết. Mùa nắng thì nó trông giống như một cái mương nhỏ, nhiều chỗ có thể đi ngang qua được vì nước chỉ tới mắt cá chân. Chỉ có một vài chỗ là có thể tắm được nhưng lại giống như một vũng nước bùn vì mọi trại viên đều được dẫn đến đó để tắm sau giờ lao động.

    Khi Nhu ra lệnh làm đập thủy điện thì chúng tôi rất lo sợ vì ở trại không có một công cụ nào để đào đất ngoài mấy cây cuốc hay xà-beng và sức lực của trại viên! Thêm vào đó không có một ai hay một chuyên viên nào biết về việc xây đập thủy điện.

    Công việc trước tiên mà trại viên phải làm là nới rộng lòng suối từ chiếc cầu trở lên. Hai người một chiếc ky đan bằng tre để di chuyển đất đá đắp vào bờ, dự kiến là sẽ cách bờ suối cũ khoảng một trăm thước. Số trại viên trẻ và tương đối khỏe hơn thì dùng cuốc, xẻng, hay xà-beng để đào đất. “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm.” Câu “châm ngôn” này của VC đã được áp dụng một cách triệt để. Trại viên còn thêm vào: “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, nếu thấy chẳng êm, làm thêm ngày nghỉ!” Thế là tất cả trại viên chúng tôi đều phải thực hiện cho được chỉ tiêu ấy và làm cả ngày lẫn đêm và không có ngày Chúa Nhật hay ngày lễ nào cả!

    Đây là lúc mà toàn thể trại viên đều lao động rất vất vã. Người nào cũng thiếu ngủ, thiếu ăn. Chúng tôi có thể ngủ bất cứ lúc nào ở bất kỳ nơi đâu. Một trại viên nào đó đã diễn tả tình trạng ấy trong một bài ca được đổi lời từ một bài hát được nghe gần như hàng ngày trên các đài phát thanh của VC lúc bấy giờ. Bài hát mang tên “Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh” đã được đổi thành “Mùa Xuân trên trại Z30D”:

    “Mùa Xuân này mẹ đi thăm con.
    “Mới biết đường lên Ba Mươi Đê (Z30D)
    “30D cuốc đất đào ao, cho con tôi thân xác tiêu điều!
    “Mờ sương, năm giờ sáng mẹ xuống xe vô thăm,
    “Lúc này con ốm nhom, xanh xao gầy còm.
    “Còn cần chi con nói me tường.
    “Đường đen trong lon guigoz,
    “Lon ruốc xào với bao cơm khô.
    “Đây bánh chưng hai cái mẹ mua
    “Cho con ăn cho đở đói lòng.
    “Và đây hai ngàn rưởi mẹ chắt chiu cho con,
    “Con cầm dấu đem vô, lo giử hộ mình.
    “Cần thì con cứ lấy ra xài.
    “Ngày mai me không lên thăm,
    “Có ít tiền con lo thân con.
    “Bao nhiêu năm trong chốn khổ sai,
    “Mong con tôi được sống qua ngày!
    “Mùa Xuân trên rừng lá Hàm Tâm xa xôi
    “Là mùa Xuân khổ nhất trên đời!”


    Việc đào hồ để làm đập thủy điện là một công việc tốn rất nhiều công sức và thời gian, do đó Nhu lựa một số trại viên trẻ và khỏe mạnh để làm thường xuyên, số còn lại thì phải làm những công việc lao động hàng ngày ở trại và chỉ đào hồ vào ban đêm hay ngày nghỉ. Nhân dịp có số nữ trại viên chuyển về trại, Nhu cho thành lập nhóm đào hồ hỗn hợp nam nữ và Nhu thường gọi đó là toán “mũi nhọn xung kích”. Đây là nhóm lao động hỗn hợp nam nữ đầu tiên ở trại. Cũng từ đó, việc “quan hệ nam nữ” bắt đầu diễn ra một cách phức tạp trong trại.

    Trong những đêm lao động trên công trình “đập thủy điện”, Nhu thường cho dựng một chiếc lều ở phía trên khu đất tương đối cao và đặt bàn ghế ngồi nghe nhạc, uống trà. Trại viên lao động bên dưới, Nhu và một số cán bộ ngồi bên trên cao để quan sát trông giống như những phim La Mã diễn lại thời đại vua chúa đang trông coi các nô lệ làm các đền đài lăng tẩm. Cũng từ đó, nhạc vàng bắt đầu được nghe một cách công khai trong trại vì Nhu luôn mở băng cát sét nhạc vàng để nghe trong những buổi làm lao động ban đêm.

    Một thay đổi khác kể từ khi có các trại viên nữ chuyển đến là đội văn nghệ. Từ trước thì các vai trò nữ trong những vở diễn là do các trại viên nam giả gái, do đó tuồng tích, nhất là cải lương, rất khó tập vì phải chọn những vở có ít nhân vật nữ. Kể từ khi có đội văn nghệ hỗn hợp thì đội văn nghệ càng trở nên có nhiều sắc thái hơn, nhưng cũng trở thành phức tạp hơn. Có vài nữ trại viên đóng tuồng cải lương rất xuất sắc như Sương, mặc dù không có nhan sắc nhưng lại rất dễ bắt đèn sân khấu và ca diễn cũng rất khá. Vài người khác có khả năng ca hát cả tân và cổ nhạc như Ngọc, Thương, Chuyên vân vân. Nhiều vở cải lương rất khó tập như “Thái Hậu Dương Vân Nga”, “Tấm Cám” đã được đội văn nghệ hỗn hợp này trình diễn rất thành công.

    Khi thành lập đội văn nghệ hỗn hợp thì ngoài công việc vẽ tranh để trang trí trại, Nhu giao cho tôi thêm nhiệm vụ phụ đội văn nghệ để làm các công việc về y trang, đạo cụ, và phong màn. Thật quả là một việc làm rất phức tạp! Vật liệu trong trại luôn luôn rất hiếm hoi. Để thực hiện các y trang cho các vở tuồng xưa, tôi đã phải dùng các loại quần áo tù và dùng cả mùng mền rồi nhờ đội may may theo sự tưởng tượng của tôi vì cũng không có một tài liệu nào trong trại để nghiên cứu cả. Sau đó dùng bột màu và giấy bạc của các bao thuốc lá để trang trí cho các quần áo ấy. Gươm giáo và các thứ khác thì dùng tre gỗ hay giấy để làm. Khi hóa trang thì tùy theo tình trạng của từng trại viên mà thực hiện. Thường thì vài trại viên nữ có sẵn các son phấn riêng của họ, họ giữ để dùng riêng khi hóa trang ra sân khấu. Ai không có thì tôi đành phải dùng bột màu ở phòng vẽ để bôi lên mặt! Đây là một việc làm có hại cho làn da, nhưng ai cũng phải chấp nhận vì dù sao thì việc tập để diễn văn nghệ vẫn khỏe hơn là đi lao động. Có lần Nhu đã cho phép tôi đi cùng với một nhóm trại viên đặc biệt về chợ Bến Thành để mua sắm các son phấn cho đội văn nghệ, nhưng không thể nào đủ vì không có ngân khoản nào cho việc này mà chỉ là tiền riêng của các trại viên nữ đưa nhờ tôi mua dùm.

    Đội văn nghệ thường chỉ tập trình diễn mỗi năm hai hay ba lần, mỗi lần khoảng hai hay ba tháng, nhất là trong các ngày lễ Tết hay ngày lễ Độc Lập của VC. Thời gian còn lại thì bổ sung nhân lực cho những công việc lao động cần thiết trong trại.

    Một vấn đề phức tạp xảy ra sau khi các trại viên nữ chuyển đến trại là vấn đề “quan hệ nam nữ”. Sở dĩ nói rằng đây là một vấn đề phức tạp vì có việc khác xảy ra từ sự quan hệ này. Trước hết, theo nội quy của trại cải tạo thì luôn luôn nghiêm cấm việc quan hệ giữa các trại viên với nhau cho dù đồng phái hay khác phái. Trại trưởng Nhu thì ra lệnh phạt rất nặng việc quan hệ nam nữ này, nhưng hắn ta lại khuyến khích nam nữ làm việc chung với nhau. Hắn ta bảo rằng làm như thế thì kích thích họ hăng say lao động. Mỗi khi lao động đêm trên công trình làm hồ thủy điện, hắn ta bảo hai trại viên khác phái phải khiêng chung một ky đất, nhưng rồi khi không thích thì hắn ta lại bắt họ nhốt vào nhà biệt giam. Một điều nữa là mỗi người có một cái nhìn về việc này, người thì kết án hay chê bai, kẻ thì thờ ơ hoặc không có ý kiến.

    Sự quan hệ nam nữ này lúc đầu thường xảy ra một cách bí mật qua những bức thư xếp nhỏ lại dấu một nơi nào đó gọi là “kẹo”, hay những cái nhìn, cái liếc mắt từ xa gọi là “chích”. Rất khó đánh giá được đây là một sự liên hệ tình cảm thật sự hay chỉ là sự lợi dụng để tìm cách thỏa mãn những nhu cầu về vật chất hoặc tình cảm! Đa số trại viên nữ, nhất là những người thuộc dạng hình sự thường rất thiếu thốn vì không có sự tiếp tế của gia đình. Họ thường là những người đã bị gia đình từ bỏ hay vô gia cư. Các trại viên nam thì dù ít dù nhiều cũng có gia đình tiếp tế, tuy nhiên lại sống xa gia đình quá lâu nên thường thiếu thốn tình cảm hoặc chưa có vợ hoặc vợ đã sang ngang(!) Hai thành phần như thế rất dể gặp nhau nhất là trong hoàn cảnh hạn hẹp của trại cải tạo. Sự đổi trao một ít vật chất để lấy một ánh mắt, một nụ cười cho dù có giả dối thì cũng là một điều tự nhiên, có tính chất con người. Nhiều người trong số trại viên cũng đã phê bình gay gắt hay tỏ vẻ chê bai việc quan hệ này, nhưng rồi cũng không thể tránh được sự việc phải xảy ra.

    Riêng Nhu thì lợi dụng việc này khi cần thiết và lại xử phạt khi thấy hết cần. Trong lúc ấy thì chính Nhu lại lập một “cấm phòng” cho riêng hắn ta. Năm nữ tù được hắn ta chọn riêng ra để ở riêng một giang sơn mà chỉ có Nhu mới được quyền tới lui, trại viên và cả cán bộ đều không dám bén mảng. Các trại viên đặt tên cho năm người này là “ngũ long công chúa”. Đó là: Loan, Mai, Châu, Anh, và Phi (sau khi Phi được thả ra thì Tú vào thế). Bốn người làm trong tiệm may để may và sửa quần áo cho các cán bộ còn Phi thì phụ trách căn-tin. Trong số này thì Loan là người mà Nhu canh chừng chặt chẽ nhất. Mọi người trong trại không ai bảo ai đều biết rằng cô ta chính là “người của Nhu”. Liên lạc với một trong số “ngũ long công chúa” là một điều mà các trại viên ít ai dám. Lộc một trại viên trong đội văn nghệ chỉ vì sự liên hệ với Loan mà bị cùm ở nhà biệt giam nhiều lần. Nam , trại viên phụ trách kỷ thuật lò đường và âm thanh cho đội văn nghệ, người được Nhu rất tin cẩn đã tự tử bằng thuốc rầy chết vì sự quan hệ với Tú.

    Trong thời gian này thì tôi thường đi vẽ các bức tranh tường chung quanh trại và khu cơ quan, cũng như ở những nơi vừa xây dựng xong. Những viên “kẹo” thường xuyên được bỏ vào thùng sơn với những lời lẽ rất buồn cười. Tuy nhiên tôi chỉ cảm thấy tội nghiệp cho họ mà thôi, nhất là khi nghĩ lại hoàn cảnh của chính bản thân mình trong thời gian khổ sở nhất ở trại Tân Lập. Tôi thấy cho dù họ có muốn lợi dụng sự quan hệ để kiếm ăn thì cũng là một điều tự nhiên của bản năng sinh tồn, giống như chính tôi đã phải kiếm cái ăn bằng cách này hay cách khác những khi có dịp.

    Riêng có một cô gái mà tôi cảm thấy rất tội nghiệp, đó là Phi, một trong “ngũ long công chúa”. Tôi biết cô ấy có nhiều tình cảm đối với tôi nhưng lại sợ Nhu nên không dám biểu lộ. Cô ta vẫn thường để một ca nước sữa đậu nành phía trước phòng vẽ cho tôi mỗi lần có dịp đi ngang qua. Sau khi được thả ra khỏi trại lại còn viết thư vào cho tôi, tuy nhiên tôi không thể trả lời vì không muốn gieo vào lòng cô ấy một hy vọng. Lúc ấy thì quả thật nỗi đau vì sự chia tay với vợ tôi vẫn còn cho nên tôi chưa thấy có được một tình cảm nào với ai cả!

    Một việc khác rất phức tạp xãy ra trong số các trại viên nữ là việc quan hệ “đồng phái!” Tôi không biết lý do gì mà trong số nam trại viên lại ít khi thấy có hiện tượng này mà nó lại xãy ra rất phổ biến trong số những trại viên nữ. Họ giành giật nhau, ghen tuông nhau, thậm chí đánh đập nhau đổ máu vì những “người tình đồng phái”. Xá, cô gái giử nhiệm vụ đánh trống trong đội văn nghệ có lẽ là một người được nhiều các nữ trại viên “yêu thương” nhất mặc dù trông diện mạo bên ngoài thì rất là luộm thuộm.

    Lần lần về sau thì sự liên lạc nam nữ trong trại càng lúc càng trở nên công khai hơn khi trại cho phép các trại viên được ra “khu vui chơi” vào buổi tối. Đến khi một số trại viên nữ được cho đi làm “diện rộng”, tức làm những việc trong khu vực quanh trại mà không có quản chế, thì có vài trại viên nữ đã có mang và sanh con ngay trong trại. Lúc ấy thì số nam trại viên thuộc “chế độ cũ” đã được thả ra, chỉ còn lại một số ít, và các nam phạm nhân hình sự được đưa vào chiếm đa số trong trại.


    Chương 47. Phòng Vẽ Của Tôi

    Không có gì ngạc nhiên bằng có được một phòng vẽ riêng ở trong trại cải tạo. Vậy mà điều ấy đã đến với tôi trong trại Z30D. Năm 1985, khi Nhu, tân trại trưởng, sắp hoàn tất việc tái thiết hội trường trong trại, hắn ta bảo các trại viên trong Ban Thường Trực Thi Đua tìm một họa sĩ để vẽ một bức tranh nền cho hội trường. Hắn ta muốn bức tranh phải được vẽ vĩnh viễn lên tường chứ không vẽ lên màn để mọi người khi vào hội trường có thể nhìn thấy ngay.

    Một hôm trong khi tập họp để chuẩn bị đi lao động thì Thường Trực Thi Đua gọi tôi ở lại trong trại để gặp Nhu. Tôi rất ngạc nhiên và cũng hơi lo sợ vì tất cả các trại viên đều biết rằng gặp Nhu thường có nghĩa là sắp có tai vạ. Làm việc trong đội mộc, tôi đã cố gắng tránh né hắn ta bằng cách nói với Tứ, đội trưởng, đổi tôi qua nhóm cưa xẻ thay vì làm trong nhóm xây dựng. Vào thời gian ấy, trại đang bắt đầu cho tái thiết. Nhu có mặt hầu như thường trực với nhóm xây dựng, và hắn ta cũng đã đưa rất nhiều trại viên vào các phòng kỷ luật vì hắn ta cho rằng những trại viên ấy “có vẻ” lười biếng.

    Tôi đợi Nhu ở hội trường cho đến trưa. Nhóm xây dựng của đội mộc cũng đang làm trong ấy. Nhu vào và chỉ cho tôi tấm pa-nen bằng tôn ở cuối hội trường rồi hỏi tôi:

    -“Mày liệu có vẻ được một tấm hình lớn ở đó không?”

    -“Có thể được, nhưng tôi chưa biết “ban” muốn vẽ gì.” Tôi trả lời hắn ta với một tiếng thở dài nhẹ nhõm.

    -“Chỉ vẽ phong cảnh mà thôi!” Hắn ta nói xong rồi hát nho nhỏ một câu trong bài ca cũ: “Đường quanh co quyện gốc thông già!” -“Tao muốn mọi người vào hội trường nhìn vào bức tranh của mày sẽ có cảm tưởng rằng hội trường trải ra xa xa.” Hắn ta nói thêm.

    -“Tôi sẽ cố gắng với khả năng có được của tôi, tôi chỉ xin “ban” cấp cho tôi sơn và cọ vẽ.”

    Tôi đi theo hắn ta ra kho của cơ quan để lãnh sơn và cọ rồi bắt đầu vẽ bức tranh.

    Đó là bức tranh phong cảnh đầu tiên tôi vẽ trong trại cải tạo. Như tôi đã nói, làm việc vẽ trong trại cải tạo rất nguy hiểm vì mỗi một cán bộ có cách đánh giá khác nhau, và mọi lời phê bình của họ đều không có một ích lợi nào cho người vẽ tranh. Nhiều trại viên đã bị nhốt kỷ luật vì việc này. Nhưng trong hoàn cảnh như thế thì tôi không có điều chọn lựa nào khác hơn là làm những điều mà Nhu bảo tôi làm nếu không muốn bị vào phòng kỷ luật! Để ngăn ngừa, tôi đã vẽ phác mẫu bức tranh và đưa cho Nhu xem trước.

    Tôi đã vẽ phong cảnh hồ Xuân Hương ở Đà Lạt, cao nguyên miền trung Việt Nam làm bối cảnh và vài cây thông để làm tiền cảnh; một con đường mòn chạy vòng từ xa và đổ vào cái bục ở cuối hội trường. Đi vào từ cửa hội trường, người ta có cảm giác dường như đi vào một rừng thông để đến cái hồ ở xa xa. Tôi hoàn tất bức tranh trong bốn tuần lễ. Nhu rất bằng lòng và đưa cho tôi một ít tiền để “bồi dưởng”. Lần đầu tiên trong trại cải tạo tôi đã nhận tiền từ một cán bộ. Tôi chẳng màng nhiều đến số tiền ấy ngoài việc biết rằng kể từ đó tôi có thể tránh được công việc lao động nặng nhọc, thay vào đó là chỉ có việc vẽ tranh mà thôi. Tôi tự nhủ là chỉ nên vẽ tranh phong cảnh vì ít nhất thì chúng có vẻ chung chung, và không ai có thể phê bình gì ngoài việc nó đẹp hay xấu.

    Sau đó thì Nhu bảo đội xây dựng xây ba tấm tường ở ngoài trời quanh khu vực tập họp trại viên trong sân trại. Tôi vẽ ba tấm tranh tượng trưng cho ba miền của Việt Nam: Bắc, Trung, và Nam . Tôi vẽ phong cảnh chùa một cột ở Hà Nội trên bức tường ở gần cổng vào khu B, tháp chuông Thiên Mụ trên bức tường xây gần bệnh xá, và quang cảnh chợ Bến Thành ở bức tường vào cổng khu A. Mỗi bức tranh ấy cao khoảng hai thước rưỡi, dài khoảng ba thước, và tôi đã phải bỏ ra hàng tháng trường để hoàn tất ba bức tranh ấy. Sau đó tôi lại phải vẽ lại nhiều lần vì các bức tranh ấy nằm ngoài trời mà lại vẽ bằng loại sơn để sơn trong nhà nên rất dể bị phai dưới mưa nắng.

    Tôi được chuyển sang làm công việc vẽ và trang trí, nhưng cũng vẫn thuộc đội mộc. Hàng ngày, tôi xuất trại cùng với đội ra tới nhà lô rồi xách sơn và cọ vẽ đi vẽ, hầu hết là tranh tường nơi nào mà Nhu bảo tôi vẽ. Tôi chỉ làm theo lệnh của hắn ta mà thôi. Để được dễ dàng hơn trong công việc, một hôm tôi nói với Nhu rằng có nhiều cán bộ phê bình tranh tôi với nhiều ý kiến khác nhau khiến tôi cũng không biết phải làm sao cho đúng. Tôi không biết hắn ta làm gì, nhưng kể từ sau khi ấy chẳng có cán bộ nào đến phê bình tranh của tôi nữa. Tôi thầm biết Nhu đang cần tôi, nhưng tôi vẫn cố giữ một giới hạn để hắn không có lý do để kỷ luật mình.

    Ở trong trại lúc ấy thì mọi trại viên đều phải làm lao động cho dù mưa nắng. Có một lần Nhu buộc tôi phải vẽ lúc trời đang mưa lâm râm, tôi pha loãng sơn ra trong dầu hôi rồi vẽ lên tường. Những giọt nước mưa làm sơn chảy nhòe nhoẹt khắp bức tường. Sau đó thì tôi lại phải cạo hết bức tường rồi vẽ lại từ đầu. Kể từ hôm ấy, tôi có lý do để nghỉ lúc trời đang mưa.

    Đầu năm 1986, trong khi tôi đang vẽ trong căn-tin thì Nhu bảo tôi tìm thêm một họa sĩ nữa để vẽ chung với tôi. Tôi giới thiệu Điệp, một trại viên vừa chuyển về từ trại Z30C. Điệp cũng là bạn của tôi lúc làm việc ở cơ quan, và anh ta cũng từng có một phòng tranh riêng ở Sài Gòn trong những năm 1970. Điệp không quen vẽ phong cảnh. Khi anh ta mới về trại Z30D thì vài người quen đến nói với tôi tìm cách giới thiệu anh ta ra làm ở phòng vẽ để Điệp không lên làm trong Ban Thi Đua vì ở những trại miền Bắc anh ta đã bị mang nhiều tai tiếng rồi. Tôi chẳng biết gì về Điệp ở các trại khác, nhưng tốt nhất là giới thiệu anh ta để có người quen biết làm việc chung vì lúc đó cũng rất nhiều công việc mà Nhu giao cho.

    Với hai người, Nhu giao cho chúng tôi một cái phòng nằm trong căn nhà, nơi từng là phòng cho cán bộ quản giáo của đội mộc, để làm phòng vẽ.

    Phòng vẽ của chúng tôi là một cái nhà mái lá dài khoảng sáu thước ngang bốn thước với nền xi măng và tường bằng ván gỗ. Nó nằm dọc theo con đường phía trước của nhà lô đội mộc. Cửa trước phòng vẽ mở ra đường và cửa hông thì nhìn ra miếng đất trống nối liền xưởng mộc với căn-tin kế bên đập thủy điện. Ngồi từ cửa trước của phòng, tôi có thể trông thấy mọi người đi đến nhà lô đội mộc từ mọi phía; đó là địa điểm quan sát lý tưởng để canh chừng Nhu mỗi lần hắn ta đến quan sát công việc của đội mộc.

    Trong phòng vẽ, tôi ngăn riêng ra một góc nhỏ theo bề ngang của phòng và rộng khoảng một thước để làm kho chứa sơn và cũng chứa cả những thứ thuộc “tài sản riêng” của tôi. Chúng tôi bắt đầu vẽ tranh trên khung vải, hầu hết là tranh phong cảnh. Khung thì chúng tôi hoặc là tự làm lấy hoặc nhờ đội mộc, vải là loại vải để may quần áo cho trại viên. Các bức tranh này không thể giữ lâu được, nhất là những bức tranh có kích thước lớn, nhưng chẳng ai cần vì dù sao thì cũng là “nước sông, công tù!”

    Cũng trong thời gian này thì Linh, anh rể của vợ tôi, được chuyển về trại Z30D và làm “anh nuôi” trong đội của anh ta. Hàng ngày, anh ấy đi gánh nước ở bờ suối gần chổ phòng vẽ để về nấu nước uống cho đội anh ấy, và anh ta cũng mang thức ăn cho chúng tôi. Điệp và tôi thì đưa những thứ mà chúng tôi có như cá tôi câu được ở dưới suối hay những thức ăn mà chúng tôi được “bồi dưởng” từ đội mộc vì đội ấy đang làm cả ngày lẫn đêm để hoàn thành những công trình xây dựng cho trại.

    Vào những buổi trưa, tôi thường bỏ đi câu cá ở bờ suối giao cho Điệp ở lại giữ phòng vẽ. Điệp là “ông từ giữ chùa”! Gia đình anh ta thường xuyên đến thăm hoặc gửi quà tiếp tế nên anh ta cũng không cần thiết phải kiếm ăn như tôi. Thời gian này có thể nói là thời gian mà tôi được thoải mái nhất trong cuộc đời cải tạo. Bên cạnh không phải làm việc nặng nhọc, tôi còn có cơ hội để đi câu cá kiếm ăn thêm, có thể nuôi mấy con vịt xiêm và nuôi cả con mèo nữa.

    Nhu không cho phép bất cứ cán bộ nào được đến phòng vẽ ngoài hắn ta ra, do đó chúng tôi chỉ cần để ý đến hắn ta mà thôi. Kể từ lúc hắn ta bảo rằng các tấm tranh của chúng tôi vẽ chính là ý kiến của hắn thì tôi không còn nghe một lời phê bình bất lợi nào nữa cả! Một vài cán bộ chỉ lén đến phòng vẽ của chúng tôi là để nhờ chúng tôi làm những việc riêng tư như đóng dùm mấy quyển sổ, vẽ vài bông hoa trong sổ, hoặc giúp các đồ đạc trang trí đám cưới. Điệp thường làm những việc ấy. Tôi thì dùng hầu hết thời giờ rảnh ở dưới suối để câu cá, cá nhỏ hay cá lớn đều bắt hết! Tôi phải tự làm lưỡi câu, và lần lần trở thành một chuyên viên! Da tôi trở nên sậm hơn, nhưng tôi lại cảm thấy khỏe hơn. Kể từ khi dòng suối trở thành cái đập thủy điện, cá càng lúc càng hiếm hoi dần. Đôi khi tôi phải đi xuống phía dưới để câu cá, nhưng tôi vẫn có thể tìm đủ thức ăn. Điều ấy có thể tiết kiệm được cho gia đình tôi vì tôi chỉ cần thêm một ít gia vị, nước mắm, và vài thứ cần thiết cho đời sống mà thôi.

    Hàng ba hay bốn tháng thì mẹ tôi thường lên thăm tôi một lần. Đôi khi thì con tôi cũng đi theo; thường là vào dịp nghỉ hè hay Tết. Khi đến sớm nó có thể lẻn vào phòng vẽ để gặp tôi trước khi tôi đi ra nhà thăm gặp. Tôi cũng không biết nhiều về tin tức của vợ tôi kể từ khi cô ấy nói tiếng “từ giã”. Con tôi cũng không đề cập nhiều đến mẹ. Ngoài ra thì tôi cũng không muốn biết nhiều về cuộc sống mới của cô ấy. Có một lần tôi đi ra nhà thăm gặp để gặp chị vợ tôi khi chị ấy lên thăm chồng là Linh, nhưng chị ấy không muốn gặp tôi và bảo Linh vào nói với tôi rằng tốt hơn thì tôi không nên ra gặp. Tôi cũng tránh luôn từ đó. Tôi biết họ không muốn tôi làm phiền đến cuộc sống mới của vợ tôi nữa. Tôi không rõ cô ấy có làm giấy ly dị hay chưa vì tôi cũng không hỏi. Tôi nghĩ rằng tôi vẫn còn yêu vợ tôi, nhưng tôi lại thấy nhẹ nhàng hơn vì tôi không còn là một vật cản đường cho cuộc đời của cô ấy nữa! Trong những bức tranh của tôi đôi khi tôi thêm vào bóng hình một người con gái đi từ xa: một chút buồn, nhưng lại là một sự trống vắng bình yên. Nhiều người hỏi tôi về sự tĩnh lặng của những bức tranh mà tôi vẽ; tôi thường bảo với họ rằng đó chỉ là biểu hiện nỗi buồn trong nội tâm tôi khi tôi đang ở trong hoàn cảnh này.

    Trong thời gian này thì Điệp và tôi vẽ rất nhiều tranh, ít nhất cũng đến con số năm trăm tấm lớn nhỏ, quả thật là một số lượng khổng lồ! Chúng tôi thường rất phân vân mỗi lần bắt đầu vẽ một tấm tranh mới. Đôi khi chúng tôi phải dời cái cây, đổi bối cảnh, đổi chiều dòng sông hay dòng suối, thay đổi màu sắc vân vân từ một tấm tranh đã vẽ để biến thành một tấm tranh mới. Dần dần chúng tôi làm quen với sự tạo hình của tranh phong cảnh! Chúng tôi có thể vẽ được năm đến mười bức tranh từ một tấm hình mẫu. Những bức tranh của chúng tôi được treo khắp nơi: trong trại, trong cơ quan, trong nhà thăm gặp, trong căn-tin. Đôi lúc Nhu lại dùng chúng như một món quà để tặng khách đến thăm trại. Điều đáng buồn là những tranh này được vẽ bằng sơn để sơn trong nhà và lại vẽ lên loại vải thô rất xấu nên chúng không thể giữ được lâu mà không bị nứt nẻ, phai màu, hay đôi khi bị rách!

    Điệp được thả ra vào tháng giêng năm 1988. Phòng vẽ vẫn tiếp tục hoạt động cho đến khi Lập, một phạm nhân hình sự với cái án chung thân ra làm với tôi năm 1990. Đến khi ấy thì phòng vẽ được dời vào trong trại, chiếm một phòng nhỏ ở đầu nhà số 1 khu A, gần với văn phòng của “thường trực thi đua”. Họ sợ Lập sẽ trốn trại nếu được làm ở phòng vẽ bên ngoài. Tôi không thích làm bên trong trại vì không còn được đi câu cá, nhưng lại không được một sự chọn lựa nào khác. Lập không biết vẽ tranh, do đó hắn ta chỉ làm công việc trang trí cho ban thi đua. Thời gian này tôi cũng không có nhiều việc để làm vì mọi thứ đều phụ thuộc vào đội mộc. Tôi phải đợi họ đóng khung, đợi sơn, đôi lúc phải đợi lệnh của Nhu vì hắn ta không thường xuyên vào phòng vẽ ở trong trại. Có những ngày tôi không làm gì cả. Tôi chỉ cho Lập làm những công việc xong rồi nằm lắt lư trên chiếc võng treo trong phòng vẽ hoặc đi đấu láo với các bạn, hoặc lên hội trường phụ trang trí cho đội văn nghệ. Quả thật là những ngày buồn tẻ!

    Vào tháng Chín năm 1990, tôi bị chuyển qua đội lâm sản sau khi bị nhốt vào nhà kỷ luật. Phòng vẽ cũng đóng cửa từ đó. Căn phòng biến thành phòng “văn hóa” cho ban thi đua. “Vắt chanh bỏ vỏ” là cách mà Nhu đối xử với các trại viên khi hết cần thiết. Tôi thừa biết điều này, nhưng quan niệm sống của tôi trong trại cải tạo là “tránh né lao động” được lúc nào hay lúc ấy. Ít ra thì tôi cũng đã được gần năm năm không phải lao động nặng nhọc!

    (Hết chương 44 – 47 . Xin xem tiếp chương sau)

  3. #9
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    Chương 48. Đợt Thả Năm 1988.


    Ở trong trại cải tạo thì quả thật không có gì buồn cho bằng mỗi lần thấy bạn bè được thả ra mà chính mình thì vẫn còn tiếp tục ở lại. Niềm vui nhìn thấy bạn được ra về không thế nào bù đắp cho được nỗi buồn cho thân phận mình không biết ngày mai sẽ ra sao.

    Gần mười ba năm tù đã trôi qua với không biết bao nhiêu lần ngồi trong hàng để nghe đọc tên những người được ra khỏi trại. Bao nhiêu lần hồi hộp chỉ mong có tên mình trong danh sách ấy, rồi cũng bao nhiêu lần thất vọng lủi thủi đi theo đội xuất trại lao động trong khi những người được ra về thì vui cười trở vào phòng dọn dẹp đồ đạc trước khi rời trại! Mười ba năm qua từ Nam ra Bắc rồi lại từ Bắc vào Nam, tôi không thể nào nhớ nỗi đã có bao nhiêu lần như vậy đã xãy ra. Có lần dăm mười người, cũng có lần vài chục người. Lúc đầu còn thấy chán nản, xôn xao, còn có những đêm nằm suy tư mất ngủ, nhưng dần dần chỉ còn thấy một chút gì đó xao xuyến rồi đâu lại vào đấy! Cuộc sống hàng ngày trong trại vẫn phải tiếp tục, phải cố gắng phấn đấu để sinh tồn.

    Có người bảo rằng khi ở tù quá lâu thì con người bị chai lỳ đi, nhưng tôi lại nghĩ đó không phải là sự chai lỳ mà là sự chấp nhận, chấp nhận những cái gì xảy đến ngoài tầm tay mình, cho dù điều đó tốt hay xấu. Ở tù không thể là một sự chai lỳ, không phải là một thói quen, mà là một sự chấp nhận hoàn cảnh.

    Khi trở về miền Nam, được gặp gia đình thường xuyên hơn, được nghe gia đình kể về cuộc sống của những người bạn đã được thả ra. Có người kết luận rằng họ được ra khỏi cái nhà tù nhỏ là trại cải tạo để sống trong một nhà tù lớn hơn, đó là xã hội của những người Cộng Sản. Thậm chí còn có người cho rằng ra ngoài “xã hội” họ thấy còn “mệt” hơn là ở trong “trại cải tạo”! Nói thì nói thế thôi chứ có mấy ai không thấy vui mừng khi được nghe tên mình rời khỏi trại cải tạo, và có ai lại muốn đánh đổi cuộc sống ở bên ngoài để vào trở lại trại cải tạo?

    Từ năm 1985, trại Z30D cũng có những chuyển biến khác lạ. Từ khi Nhu bắt đầu nắm quyền hành thì chúng tôi thấy nhiều dấu hiệu khác thường! Ngoài việc phải lao động vất vã hơn thì có nhiều điều trước kia rất cấm kỵ mà lúc này lại trở nên rất thông thường. Hát “nhạc vàng” trước đó có thể coi như một là một trọng tội. Khi chúng tôi muốn nghe anh Nghiêm Phú Phát hát cho nghe mấy bản “nhạc hải ngoại” như bản “Một chút quà cho quê hương” của Việt Dzũng hoặc bản “Sài Gòn vĩnh biệt” của Nam Lộc thì chúng tôi phải cắt người canh chừng hai đầu nhà và lại còn phải lựa chọn “thính giả” nữa. Những người hát nhạc vàng mà bị báo cáo hay bắt gặp là vào ngay nhà kỷ luật. Thế mà khi Nhu lên nắm quyền, vào những đêm lao động đào hồ thủy điện, những băng cát sét nhạc vàng và nhạc hải ngoại lại được hát một cách công khai cho mọi người nghe để lấy “khí thế” lao động! Những bộ phim chưởng Trung Hoa lại biến thành những buổi chiếu bóng “bồi dưởng” cho trại viên đi lao động đêm. Tiếp theo đó thì đội văn nghệ được phép chọn một số những bản nhạc vàng để trình diễn kèm với nhạc “cách mạng”.

    Các gia đình lên thăm nuôi cũng cho biết rằng những hiện tượng này cũng là những điều đang xãy ra ở ngoài xã hội. Những bản nhạc gọi là “nhạc cách mạng” và những phim có tính cách tuyên truyền không còn được dân chúng ủng hộ nửa. Ngay cả những người làm cho VC cũng không muốn thưởng thức chúng nửa mà mọi người bây giờ lại bắt đầu trở lại với “nhạc vàng” và “phim chưởng”.

    Thêm vào đó thì nền kinh tế của đất nước hiện đi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Sau khi chính sách “ngăn sông cấm chợ” của nhà nước VC bị thất bại, họ bắt đầu cho nới rộng việc giao thương buôn bán, tuy nhiên vẫn không thể cứu vản nỗi một nền kinh tế vốn đã suy tàn của đất nước. Cuộc chiến tranh với Trung Quốc ở các tỉnh ở biên giới phía bắc Việt Nam đã biến Việt Nam và Trung Quốc trở thành hai “kẻ thù trước mắt”. Trung Quốc không còn là một hậu thuẩn vững mạnh của Việt Nam nữa. Liên Sô và các nước Đông Âu bắt đầu giai đoạn đổi mới để mong hồi phục phần nào nền kinh tế đang què quặt của các nước ấy, do đó họ cũng không còn có thể giúp cho Việt Nam được. Trong nước thì chính sách hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn thất bại. Nông dân rời bỏ ruộng vườn lên thành phố để kiếm ăn. Các vùng “kinh tế mới” không thể phát triển được và những người đi “kinh tế mới” lục tục kéo về lại thành phố tạo nên một thành phố ăn không ngồi rồi. Nền kinh tế của Việt Nam dựa vào nông nghiệp mà ruộng đất thì lại bỏ hoang, thành phố thì phi sản xuất.

    Cùng lúc ấy thì chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam càng làm cho nền kinh tế tồi tệ hơn. Việt Nam giờ đây chỉ còn dựa vào số hàng hóa và ngoại tệ cung cấp bởi những người di tản gởi về cho thân nhân trong nước. Xã hội lúc ấy thì ngoài hai giai cấp thống trị (những người Cộng Sản cao cấp) và giai cấp bị trị, thì bắt đầu sản sinh một giai cấp mới, đó là những người có thân nhân nước ngoài gởi về để “viện trợ”. Kinh tế đất nước trở thành một nền kinh tế “ăn bám”.

    Ngoài ra thì thân nhân trại viên cũng cho biết rằng Mỹ đang có những đợt đàm phán với VC về vấn đề “tù binh chiến tranh” (P.O.W.) và “những người Mỹ mất tích” ở Việt Nam (M.I.A.). Củ “cà rốt” của “Chú Sam” là việc bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Trong những cuộc hội đàm này, họ cũng có đề cập đến những người tù “cải tạo” của Việt Nam Cộng Hòa. Một lần nửa, chúng tôi lại có một chút hy vọng; hy vọng ở những người “đồng minh” đã bỏ rơi mình suốt mười mấy năm trong lao tù Cộng Sản.

    Quả thật thì chúng tôi không còn gì để mong đợi. Mười mấy năm qua chúng tôi không còn một tổ chức nào để làm chổ dựa, không còn một chính quyền nào để mà trông chờ. Có một chút hy vọng cho dù mong manh vẫn còn hơn không có gì cả. Tôi vẫn luôn nhớ lời của anh bạn Muông, người tù thời “Nhân văn giai phẫm” ở miền Bắc Việt Nam rằng “ở tù Cộng Sản mà không có án tức là không bao giờ có ngày về ngoại trừ có một phép lạ”, và chúng tôi đang trông chờ cái phép lạ ấy. Vẫn biết rằng người Mỹ chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ hơn là số phận của chúng tôi, nhưng ít ra đó cũng là một chút bám víu để mong một “phép lạ” xãy đến. Có còn hơn không!

    Những ngày tháng vẽ tranh với Điệp, bạn tôi, trong phòng vẽ cũng là những ngày tháng mà tôi cãm thấy bơ vơ và lạc lõng nhất. Mặc dù lúc ấy quả thật tôi rất nhàn hạ, nhưng cứ mỗi lần anh bạn mình được vợ con vào thăm rồi lại được ở lại qua đêm thì tôi lại thấy hụt hẩng làm sao! Tôi vẫn thường tự nhũ rằng “đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả”, cũng như tôi vẫn tự an ủi rằng tôi không còn là “vật cản đường tiến” của vợ tôi nữa. Nhưng cứ mỗi khi nhìn cảnh đầm ấm của người rồi nhìn lại mình tôi vẫn cãm thấy có một điều gì đó đau lòng và chán nản. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao trong cùng một hoàn cảnh mà người thế này kẻ lại thế kia? Tôi không ganh tị với hạnh phúc của người khác mà chỉ cãm thấy buồn cho thân phận của mình mà thôi. Dù thế nào thì cũng phải chấp nhận hoàn cảnh. Chấp nhận rồi lại đổ cho “phần số”, đó là phương cách dể dàng nhất để tự an ủi mình.

    Đầu năm 1988, những tin tức về một đợt phóng thích rộng rãi càng lúc càng dồn dập. Trại Z30D lúc ấy là trại cải tạo duy nhất ở miền Nam còn giam giữ các trại viên thuộc “chế độ cũ”. Tất cả các trại viên thuộc dạng này ở trại Z30C đều đã được chuyển sang trại Z30D, và trại Z30C chỉ còn giam giữ phạm nhân hình sự. Con số trại viên thuộc dạng “chế độ cũ” trong hai phân trại K1 và K2 của trại Z30D lúc ấy lên đến con số trên một ngàn người. Tôi nghĩ chắc phải có một biến chuyển nào đó thì VC mới chịu thả chúng tôi ra để mà “đóng cửa trại” như chúng tôi vẫn thường nói.

    Những ngày cận Tết có một phái đoàn Bộ Nội Vụ của VC vào trại và gọi nhiều trại viên lên để “làm việc”. Qua thời gian ở các trại cải tạo, chúng tôi đã biết rằng đó là giai đoạn gặp gỡ sau cùng ở trong trại để “họ” có dịp dụ dỗ, hăm doạ ngõ hầu những người ra về sẽ cộng tác với họ sau này.

    Tối ngày 18 (?) tháng giêng năm 1988, Điệp và tôi còn phải ở lại trễ trong phòng vẽ vì Nhu đang ở đó để xem chúng tôi làm việc. Đột nhiên, hắn hỏi tôi: “Không biết trước kia mày làm gì mà các ông ấy nhất định không chịu thả mày mặc dù tao đã đề nghị nhiều lần?” “Mày tao” là cách nói chuyện của Nhu với các trại viên. Tôi ngạc nhiên và cũng có hơi ngỡ ngàng trả lời hắn: “Tôi làm gì thì chắc là ban cũng đã biết vì tất cả đều nằm trong hồ sơ! Tôi nghĩ chắc là ban chưa đề nghị đúng mức mà thôi!”

    Hắn không nói gì thêm mà cũng không đề cập gì đến Điệp dù lúc ấy thì Điệp cũng đứng gần đó. Tuy nhiên lời nói của hắn đã đủ cho tôi biết rằng lần này cũng sẽ không có tên của tôi trong danh sách ra trại. Đó là lần đầu tiên trong trại cải tạo tôi biết trước số phận của mình, và cũng là lần đầu tiên mà tôi cãm thấy buồn vì mình sẽ không được ra về cùng với bạn bè.

    Đêm ấy trong phòng giam, tôi không ngủ được ngồi đàn hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, tất cả mọi bản nhạc cổ điển mà tôi đã học được trong thời gian ở trại Z30D. Những bản nhạc Việt Nam soạn riêng cho Tây Ban Cầm cũng như những bản nhạc Tristesse của Chopin, Serenade của Schubert, hợp khúc cung đô trưởng của Paganini vân vân đã được tôi đàn đi đàn lại nhiều lần. Tôi không biết hôm ấy tiếng đàn của tôi có buồn bã lắm hay không, hoặc là mọi người đều đang hồi hộp mong chờ ngày mai, nhiều người trong phòng giam cũng đang nằm thao thức. Thỉnh thoảng tôi nghe đâu đó có tiếng thở dài.

    Buổi sáng hôm sau, sân tập họp lao động có không khí khác lạ, các cán bộ hiện diện đông hơn mọi khi. Sau khi các đội nữ xuất trại, một số cán bộ mang cặp giấy vào và bắt đầu gọi tên những người được “tha ra khỏi trại.”

    Mặc dù biết trước sẽ không có tên mình, nhưng khi nghe họ đọc tên từng người một, tôi vẫn cảm thấy hồi hộp. Danh sách thả quá dài! Hầu như mọi người đều được đọc tên. Tôi bàng hoàng cả người, chẳng lẽ họ thả nhiều như thế mà cũng vẫn không có tên mình? Điệp ngồi cạnh tôi được đọc tên lúc nào tôi cũng không hay, và anh ta cũng không có dấu hiệu gì khiến tôi nhận ra. Bạn bè ai được về ai ở lại tôi cũng không biết. Tôi chỉ cố nghe xem có tên mình hay không; tôi chỉ mong Nhu đã nhớ lầm! Đến lúc chấm dứt cũng vẫn không nghe tên mình, tôi thẩn thờ đứng dậy đi vào buồng. Lúc đó mới biết mọi người hầu như được thả ra, số không có tên quá ít ỏi so với số ra khỏi trại.

    Những người được ra về gọi nhau ơi ới, chuẩn bị đồ đạc để chia chác cho những người ở lại, hoặc cho các trại viên có án mà họ quen biết trong trại, hay gởi qua ban thi đua để cho các trại viên nữ. Tôi ngồi nhìn mọi người ra về mà không có một phản ứng nào hết. Điệp và các bạn đến giao đồ đạc lại cho tôi mà tôi cũng không hay biết gì.

    Cuối cùng thì tất cả đã ra văn phòng cơ quan để làm thủ tục ra khỏi trại. Số còn lại chưa tới hai mươi người. Chúng tôi giật mình nhìn nhau. Tại sao lại thế này, tại sao họ có thể thả gần hết mọi người mà chỉ giữ lại một số ít ỏi như thế này? Họ đang làm gì đây?

    Chúng tôi, số còn lại được dồn vào buồng số 1 của khu A để trống các buồng khác cho Thường Trực Thi Đua điều động các trại viên quét dọn để đón các tù mới. Chiều hôm ấy thì lệnh từ trại trưởng Nhu đưa chúng tôi ra các nhà lô để ở. Các người thuộc đội mộc như Hùng, Diễm, và tôi thì ra nhà lô đội mộc. Các người làm ở bếp như Cang, Nghi thì qua nhà bếp. Các người ở phân trại K2 thì ở lại bên ấy để chăn bò và gà vì sau đó phân trại K2 được bỏ trống và biến thành trại chăn nuôi bò và gà vịt của trại Z30D.

    Đêm đầu tiên ngủ ngoài trại, tôi nằm một mình trong phòng vẽ thao thức nghe tiếng ếch nhái và côn trùng rên rỉ mà suy nghĩ về số phận của mình. Giờ này chắc là Điệp đã về đến nhà, và chắc gia đình tôi cũng đã biết tôi vẫn còn ở lại trong trại. Không biết gia đình tôi nghĩ ra sao khi thấy tôi không thể “tiến bộ” được mặc dù đã gần mười ba năm cải tạo?

    Sau đó khoảng hai tuần thì số còn lại ở trại Nam Hà được đưa vào trại Z30D để nhập chung với chúng tôi. Tổng số trại viên còn lại trong trại cải tạo sau đợt thả năm 1988 là 210 người, trong số có một số cấp tướng lãnh như: Đảo, Tất, Trường, Thân, Sang, Giai, một số cấp đại tá như Xảo, Của, Hản, Tấn, Phô, vân vân. Số còn lại đa số thuộc các thành phần An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát Đặc Biệt, Trung Ương Tình Báo của VNCH. Chúng tôi bước vào giai đoạn bốn năm cuối của mình trong trại cải tạo Z30D.

    Đài phát thanh Hà Nội sau đó loan báo rằng họ đã thả hầu hết những người của “chế độ cũ”. Số rất ít còn lại là thành phần “có nợ máu với nhân dân và không chịu cải tạo nên không thể thả ra được”. Cách nói này của Cộng Sản đã quá quen thuộc đối với chúng tôi, do đó không làm chúng tôi suy nghĩ nhiều. Chỉ có một điều mà chúng tôi không hiểu là họ có dự định gì đối với chúng tôi, số rất nhỏ còn lại này!


    Chương 49. Tôi Đi Lâm Sản

    Sau đợt về tháng giêng năm 1988, tôi ra ở và làm việc tại phòng vẽ. Đáng lý ra thì tôi phải ngủ chung với các bạn thuộc đội mộc của tôi ở một phòng nằm cuối láng mộc, nhưng vì trong phòng vẽ cũng có một chiếc giường nên tôi ngủ một mình ở đó cho tiện. Hàng ngày tôi làm việc theo giờ giấc của đội mộc, trưa và tối thì thường thả dọc theo bờ suối để câu cá. Rất ít khi tôi vào trong trại, chỉ khi nào có ngày nghỉ thì tôi mới vào để gặp gỡ bạn bè số mới từ trại Nam Hà về.

    Thời gian sống một mình trong phòng vẽ, tôi đi lại và làm việc chỉ cần phải để ý có một mình Nhu mà thôi. Có đêm dù không đi lao động nhưng tôi vẫn có thể đi xem phim “chưởng” mà Nhu chiếu để “bồi dưỡng” cho các đội làm đêm, sáng hôm sau có thể ngủ dậy trễ một chút cũng được vì Nhu cũng ít khi nào dậy sớm! Khi mẹ tôi và con tôi lên thăm, tôi có thể gặp nó riêng ở phòng vẽ khi nó vừa đến nơi, tôi có thể nói với cán bộ phụ trách nhà thăm gặp để ra gặp gia đình trước giờ thăm, hoặc có thể gặp nhau ngay bờ suối trong lúc tôi câu cá! Ở ngoài sân kế bên phòng vẽ, tôi nuôi cả mấy con vịt xiêm và gà để lấy trứng.

    Đến đầu năm 1990, Lập, một phạm nhân hình sự, được đưa ra làm chung trong phòng vẽ. Tôi nghe nói Lập nguyên là một công an của VC có nhiệm vụ đặc trách việc tổ chức vượt biên giả mạo để bắt những người vượt biên. Anh ta lại có ý định vượt biên thật sự nên đã giết chết đồng bọn để đi. Việc không thành nên bị bắt và lãnh án tù chung thân. Chuyển đến trại Z30D, anh ta bị thương ở mắt vì bị mìn nổ trong khi khai phá một đồn địa phương quân cũ ở phía bên kia quốc lộ số 1 để trồng cây bạch đàn. Sau khi đi bệnh viện về thì anh ta được Nhu đưa ra phòng vẽ để làm chung với tôi vì anh ta cũng biết chút ít về trang trí.

    Khoảng một tuần sau khi Lập ra thì có lệnh dời phòng vẽ vào trong trại. Họ sợ Lập trốn trại vì anh ta mới ở trại không bao lâu mà án lại quá dài. Phòng vẽ được dời vào chiếm một căn phòng đầu nhà số 1 của khu A, nằm gần văn phòng Thường Trực Thi Đua. Vào trong trại, tôi không có nhiều việc phải làm vì tất cả đều lệ thuộc vào đội mộc như đóng khung, làm pa-nen. Lập thì làm cho ban thi đua còn tôi thì thỉnh thoảng chỉ phụ với đội văn nghệ để vẽ phong màn, làm trang trí sân khấu. Tranh lúc này cũng được vẽ rất ít vì trại cũng không cần nhiều như trước. Các khu nhà đã xây cất quá nhiều, bây giờ chỉ còn đập phá để xây cái mới. Tranh thì cứ dời nơi này đến nơi khác. Lúc này thì trại cũng đang khai phá khu mới ở tận khu vực của trại Z30C, bấy giờ đã trở thành phân trại K2 của trại Z30D. Thỉnh thoảng tôi cũng phải đi theo đội vào đó để sơn nhà, vẽ tranh tường vân vân. Về sau thì họ cho Lập đi còn tôi thì đôi lúc không làm gì cả.

    Mặc dù làm ở phòng vẽ nhưng tôi vẫn thuộc đội mộc và ở chung phòng với đội này. Đội mộc lúc ấy chỉ toàn phạm nhân hình sự. Nhiều lần, tôi yêu cầu cán bộ Tư, trưởng phân trại K1 chuyển tôi về đội 20 với các bạn ở Hà Nam Ninh về, nhưng không được. Một hôm trong lúc điểm số để nhập buồng, tôi được gọi đi họp với số trại viên “chế độ cũ” nên đứng riêng một bên. Tên cán bộ vũ trang không biết nên đã đánh tôi vì lý do tôi không chịu vào buồng. Tôi ra báo cáo với cán bộ trực trại và sau đó chính Nhu phải xin lỗi trước buổi họp với các trại viên. Vài hôm sau tôi được đưa về chung buồng với đội 20.

    Trong một lần đi vẽ ở căn tin nằm bên lề quốc lộ số 1, Nhu bảo tôi phải vá lại tấm tranh đã bị rách. Tôi bảo hắn ta là để tôi vẽ tấm khác thế vào vì tấm cũ bị rách quá nhiều khó có thể vá và sửa lại được. Thế là hắn ta la lối om sòm rồi gọi tên cán bộ đứng gần đó đưa tôi vào trại nhốt vào phòng kỷ luật!

    Tôi nghĩ đây là hành động mà hắn ta trả thù về việc phải xin lỗi tôi trước mặt các trại viên, và cũng là cái cớ để dẹp phòng vẽ vì lúc đó cũng hết cần thiết.

    Khi bị đưa về nhốt vào phòng biệt giam, điều đầu tiên tôi suy nghĩ là không biết mình sẽ phải ở trong đó bao lâu. Đối với Nhu thì không cần phải thắc mắc lý do bị nhốt vì hắn nhốt bất cứ ai mà hắn không thích, không cần nêu lý do và cũng không cần đọc lệnh phạt. Còn thời gian ở trong đó bao lâu thì tuỳ theo hắn mà thôi.

    Tên cán bộ trực trại trước khi đưa tôi vào phòng biệt giam đã cho tôi biết rằng theo điều lệ ở đó thì tôi chỉ được mặc một cái quần đùi mà không được mặc áo vì họ muốn tránh trại viên dùng vãi áo để kết thành dây thắt cổ tự tử. Tuy nhiên đối với tôi thì hắn ta “nhân nhượng” cho phép tôi được mặc áo vì trong đó rất nhiều muỗi! Suốt 15 năm ở các trại cải tạo, tôi đã cố tránh việc phải bị giam vào nhà “kỷ luật” bởi vì điều ấy rất dể dẩn đến sự suy sụp tiếp theo. Lần này thì tôi cũng không thể thoát được.

    Nhà “kỷ luật” là một căn nhà xây rất kiên cố, trông giống như một lô-cốt bề ngang khoảng sáu thước dài khoảng mười thước nằm phía sau hội trường. Nó được ngăn cách với hội trường bởi một bức tường cao và ngăn cách hai khu A và B bởi tường rào khu. Có hai cửa nhỏ ở hai đầu nhà với cánh cửa được khoá kín ngoại trừ lúc cán bộ hay ban thi đua đưa cơm nước vào hoặc đưa người vào làm vệ sinh. Phía sau cánh cổng là một lối đi rộng khoảng một thước dẩn vào một lối đi ở giữa rộng khoảng một thước rưỡi. Hai bên lối đi này là hai dãy phòng biệt giam với những cánh cổng bằng sắt khép kín.

    Phòng “biệt giam” là một phòng kín dài khoảng hai thước ngang một thước không có một cửa sổ nào cả mà chỉ có cửa cái nhỏ và thấp, khi đi vào phải cúi mình xuống. Trên cánh cửa cái còn có một lỗ nhỏ với một cánh cửa được đóng chốt ở phía ngoài để đưa thức ăn vào. Ánh sáng chỉ được cung cấp bằng một bóng đèn điện trần treo trên cao, bóng đèn này cũng ít khi được thắp sáng do đó căn buồng luôn tối tăm.

    Đi qua cửa buồng, về phía bên trái là bệ nằm xây bằng xi măng cao khoảng năm tấc và ngang cũng khoảng năm tấc. Phía bên phải là khoảng trống có để một cái sô nhỏ bằng nhựa cho trại viên tiêu tiểu tiện vào đó. Trại viên bị nhốt trong phòng biệt giam phải nằm đưa chân về phía cửa vì phía đó có một thanh sắt dài luồn qua các phòng. Chân trại viên thì được còng bằng một còng sắt hình chữ U dính vào thanh sắt ấy. Nếu chỉ bị còng một chân thì trại viên có thể chọn chân mặt hay chân trái. Chân bị còng phải gác lên thanh sắt dài và rất khó xoay trở vì chiếc còng rất chật. Ở tư thế này thì người bị còng chỉ có thể nằm ngửa hay nghiêng về một bên tuỳ theo chân bị còng hay có thể ngồi lên nằm xuống để vận động cho đỡ bị cóng chứ không thể đứng dậy được.

    Căn phòng rất ẩm mốc và hôi thúi vì chẳng những không có ánh sáng bên ngoài lọt vào mà trại viên còn phải ăn ngủ ỉa đái tại chổ và lại không có gì để lau rửa ngoài một ít giấy báo phát hàng ngày và một ca nước khoảng một lít để vừa uống vừa làm vệ sinh cá nhân. Vì phòng rất tối tăm nên không có ruồi, nhưng muỗi thì bay cùng khắp cả ngày lẫn đêm! Mặc dù mới lần đầu bước chân vào nhà kỷ luật nhưng tôi đã nghe nói đến điều này. Để tránh phần nào bệnh sốt rét, tôi đã uống trước hai viên quinine khi được cho về thay quần áo trước khi đi vào đấy. Chưa quen với muỗi bay vo ve bên tai nên suốt ngày đêm hôm ấy tôi không hề chợp mắt; tay thì cứ đuổi muỗi không ngớt

    Nằm trong phòng biệt giam, tôi chẳng thấy buồn mà chỉ thấy tức cười và thấy lo. Tức cười bởi vì một duyên cớ không đâu mà lại bị đi kỷ luật. Còn lo vì không biết bao giờ mới ra và khi ra thì thân thể sẽ ra sao đây? Bất cứ ai khi đã bị Nhu nhốt rồi thì ít ra cũng phải hai ba tháng mới được cho ra dù với bất kỳ một lý do nào, và khi ra khỏi nhà biệt giam thì cũng thân tàn ma dại, đi đứng vật vờ như bóng ma, thân hình thì giống như một bộ xương biết cử động! Đó là chưa kể đến những bệnh hoạn này nọ. Muỗi, rệp, cùng những đêm mất ngủ, những khẩu phần ăn ngày hai bữa chỉ một chén nhỏ cơm độn khoai với một ít nước muối và một lon nước vừa uống vừa rửa ráy hàng ngày. Con người dù khoẻ mạnh hay có sức chịu đựng tới đâu cũng không thể chịu nỗi một điều kiện sống như vậy! Tôi vẫn nhớ những lúc chính mình phải mua chuộc cán bộ hay ban thi đua để gởi được một cục đường hay một chút mắm ruốc cho các bạn trong nhà kỷ luật trước đây. Giờ đây tới phiên mình không biết có ai làm việc ấy hay không?

    Tôi lại nghĩ không biết làm sao nhắn được cho gia đình đừng lên thăm nuôi trong lúc này bởi vì họ sẽ không cho gặp mặt trong lúc đang bị giam trong nhà kỷ luật. Đủ thứ suy nghĩ diễn ra trong đầu óc trong khi tay tôi thì cứ phải xua muỗi không ngớt bám vào chân tay, vào mặt, vào mình mẩy và đốt xuyên qua cả áo! Cuối cùng thì tôi phải ngồi dậy xé một cánh tay áo ra để làm đồ đuổi muỗi, vậy mà hôm sau dấu muỗi đốt cũng đầy khắp người.

    Sáng sớm có tiếng lanh canh mở cửa. Thật ra nằm trong đó thì không biết ngày đêm là gì cả, chỉ khi ra ngoài thì mới biết trời đã sáng tỏ! Tên cán bộ trực trại vào mở khoá cho tôi và nói với tôi rằng “Ban bảo thả anh ra và đưa anh đi theo đội lâm sản ngay tức khắc!”

    Tôi có hơi ngạc nhiên nhưng không trả lời gì cả mà chỉ theo hắn về phòng để chuẩn bị đồ đạc đi “lâm sản”. Đội ấy đã xuất trại chỉ còn cán bộ quản giáo đứng đợi để dẩn tôi ra nhà lô của đội ở khu vực K3 cũ. Đội lâm sản lúc bấy giờ gồm toàn những phạm nhân hình sự, chỉ mình tôi lạc lõng trong đó mà lại là người “già” nhất đội!

    Giống như những trại viên khác thuộc đội lâm sản, tôi phải trang bị một con dao đi rừng. Không có thắt lưng đeo dao, tôi phải dùng dây lá buông cột quanh hông rồi treo lủng lẳng con dao một bên còn bên kia thì đeo bi đông đựng nước uống. Trang bị xong xuôi, tôi theo các đội viên khác bắt đầu vào rừng.

    Mặc dù đã nhiều lần đi rừng từ Bắc vô Nam , nhưng tôi chưa hề đi rừng với mục đích lấy gỗ. Ở đội mộc trại Tân Lập, tôi chỉ đi vào bìa rừng để cưa cây về làm cột nhà. Trong thời gian ở trại Z30D này thì tôi chỉ đi rừng để đo khối lượng của cây gỗ mà đội lâm sản hạ sẳn. Lần này thì chính tôi phải hạ những cây gỗ ấy! Không biết phải làm thế nào đây?

    Khoảng 9 giờ sáng, chúng tôi bắt đầu rời nhà lô đội lâm sản. Rừng ở Z30D đã bị khai phá đến tận chân núi; chúng tôi phải đi bộ về phía Z30C, lúc ấy đã là phân trại K2 của trại Z30D. Ngang qua những ruộng bắp, các đội viên lâm sản khác rẽ vào để hái một vài trái bắp ngon mang theo mình, họ còn đi thăm những chiếc bẩy cò ke mà họ đặt vào hôm trước.

    Lâm sản là một đội thuộc “diện rộng” đi không có cán bộ quản chế, do đó trông họ rất có vẽ tự do! Hấu hết đội viên lâm sản là những người sắp mãn án tù nên không ai có ý định trốn trại. Vì chưa biết đường nên tôi phải đi theo anh nuôi của đội, số khác thì đã rẽ ra để đi thăm bẩy hay đi đến những điểm hẹn riêng của họ. Hiện trường lao động của đội lúc ấy là một khu rừng rậm cách nhà lô khoảng 15 cây số.

    Khi đến nơi thì đã trưa, tôi phụ với anh nuôi nấu cơm cho đội và chia sẳn ra từng phần cho mỗi người. Các đội viên khác cũng lần lượt đến nơi, ăn uống xong thì bắt tay vào việc. Hôm đó họ hạ những cây trắc, gõ, cẩm lai, thao lao mà họ đã chọn sẵn. Chỉ tiêu là mỗi người một cây. Tôi thuộc nhóm cắt ngọn và cành cây.

    Đầu tiên, một số người leo lên cây chặt hết những dây leo quấn quanh các cây với nhau để đề phòng cây bị vướng hay bị treo khi được cắt đứt. Giai đoạn này có lẽ là giai đoạn khó khăn nhất. Tiếp theo thì từng hai người một cưa “mở miệng” ở gốc cây bằng loại cưa giống cưa khung nhưng lớn hơn và răng cưa cũng to hơn, các cưa này vẫn thường được mài ở đội mộc. Họ phải chọn hướng để cây ngã. Sau đó thì cưa ngang phía đối diện bằng loại cưa “cá mập”. Khi cây đã ngã thì đến giai đoạn cắt ngọn và cắt cành cây, dọn đường cho xe vào kéo gỗ. Giai đoạn này được coi là công việc nhẹ nhàng nhất và dành cho những người chưa quen việc hay những người “già yếu” trong đội. Tôi thuộc toán này! Nói là “nhẹ nhàng” nhất, nhưng khi làm xong thì mồ hôi tôi cũng ướt cả áo quần và tay chân thì mỏi nhừ. Đêm ấy vào trại tôi ngủ như chết, một ngày đêm không ngủ trong nhà kỷ luật và một bửa lao động nặng khiến tôi không còn biết trời đất gì nữa hết! Cũng may là họ cho tôi về phòng của đội 20 chứ không ngủ chung với đội lâm sản. Đã từng ở chung với các phạm nhân hình sự ở đội mộc, tôi cũng không lạ gì cách sống của chúng. Được cái là họ cũng vị nể chúng tôi nên cũng không đến nỗi nào.

    Sau vài hôm đi theo đội lâm sản, tôi bắt đầu trổ tài đánh bẫy. Họ rất ngạc nhiên là tôi luôn luôn bắt được nhiều thú hơn mọi người khác. Mỗi loại thú có một thói quen của chúng, do đó tôi đã áp dụng phương pháp mưu sinh để đánh bẫy. Tất cả những thứ bắt được tôi đều giao cho anh nuôi cùng với gia vị của riêng tôi để nấu ăn chung cho cả đội. Nhờ thế mà các đội viên đội lâm sản bắt đầu thích tôi, họ làm dùm chỉ tiêu cho tôi để tôi có thời gian đi “cải thiện” cho đội. Ngoài việc bẫy thú ra thì rừng còn có rất nhiều thứ có thể ăn được như măng tre, nấm, cua cá ở các dòng suối nhỏ, vân vân. Lần lần tôi trở thành phụ tá cho “anh nuôi” của đội. Một số khác trong đội thấy vậy cũng bắt đầu góp chung vài thứ họ thu nhặt được để ăn chung vào bữa ăn trưa.

    Ngoài việc thực hiện chỉ tiêu của trại ra, một số đội viên lâm sản còn kiếm được tiền bằng cách cắt lá buông cho dân đi lấy lá, hạ cây gỗ và cắt sẳn thành đoạn ngắn cho những người dân đi lấy gỗ. Số tiền này họ phải chia với các cán bộ phụ trách đội lâm sản. Chỉ một số có sức khoẻ mới làm được việc này. Thường đó là số chuyên hạ cây, sau khi hạ xong cây thì họ đi làm thêm kiếm tiền. Đây là phương cách sinh sống của tù và của cả cán bộ thuộc đội lâm sản!

    Bên cạnh việc lấy gỗ cho toán xẽ, đội lâm sản còn có nhiệm vụ lấy đọt lá buông cung cấp cho tổ chằm nón lá của trại, lấy tre cho đội xây dựng, lấy măng cung cấp cho bếp cơ quan, và lấy củi đốt cho bếp trại và bếp cơ quan.

    Việc lấy lá buông tương đối nhẹ nhàng hơn nên thường dành cho các trại viên yếu. Chúng tôi dùng câu liêm để cắt những đọt lá buông xuống rồi chất lên xe bò chở về trại. Riêng việc đi lấy tre thì rất mới lạ đối với tôi vì nó không đơn giản như tôi nghĩ từ đầu.

    Tre rừng là loại tre gai, thân và cành đầy gai nhọn. Không thể chặt đứt gốc tre rồi kéo cây tre ra khỏi bụi vì cành đầy gai vướng chằng chịt vào nhau. Đầu tiên chúng tôi phải dùng câu liêm để dọn một “cái thang” leo lên trên bụi tre. Đó là một khoảng trống với những cành tre ngang làm bậc thang. Tiếp theo thì người chặt tre phải leo lên đến nơi nào mà họ dự định cắt ngọn, dùng dao chặt đứt ngọn tre ném qua một phía. Từ nơi ấy họ phải róc cành tre từ trên xuống dưới, và phải róc nhiều cây cùng một lúc để có thể dọn sạch các cành tre. Khi các cây tre đã trơ trụi, họ leo xuống bên dưới chặt đứt gốc tre và lúc ấy mới kéo được cây tre ra vì chúng không còn vướng vào nhau nữa.

    Khi chặt tre như vậy thì hầu như phải chặt cả bụi tre cùng một lúc chứ không chỉ chặt vài cây trong một bụi, do đó phải chọn những bụi tre đủ độ già để lấy được nhiều cây. Khu vực quanh trại đã phát quang hết nên không còn tre, mỗi lần đi lấy tre thì chúng tôi phải đi rất xa, thường thì phải có xe chở chúng tôi đi và chở cây tre về.

    Tôi chỉ đi theo đội lâm sản khoảng hai tháng thì được trở về đội 20 với các bạn. Tuy nhiên thời gian này có thể nói là thời gian mà tôi đi nhiều nhất khắp các khu vực quanh trại và cả ngoài dân chúng và đó cũng là thời gian tự do nhất trong cuộc đời cải tạo của tôi.


    Chương 50. Trại Z30D Tiếp Tục Thay Đổi

    Đợt thả đầu năm 1988 đã khiến trại Z30D giãm hẳn con số trại viên xuống, do đó phân trại K2 đã được loại bỏ và trở thành một trại nuôi bò và gà vịt. Số bò trước đó được nhốt ở chuồng bò trong phân trại K3 cũ được chuyển hết sang K2. Các phạm nhân hình sự lần lượt được điều về lấp đầy phân trại K1 và trở thành lực lượng lao động chính của trại. Nhu đã nắm giữ chức vụ trại trưởng sau khi loại trừ được Ý. Tất cả các “đối thủ” khác đều bị Nhu tìm cách này hay cách khác loại ra khỏi trại. Hắn ta đưa người của mình lên nắm các chức vụ then chốt trong trại. Một nữ cán bộ tên là Phúc được đưa lên làm trại phó, trưởng phân trại K1 lúc đầu là Binh sau đó là Tư, mới chỉ là trung úy. Mọi quyền bính thật sự đều nằm trong tay của Nhu; hắn ta tha hồ làm mưa làm gió ở trại Z30D.

    Hai lãnh vực lớn mà Nhu nhắm tới vẫn là lâm sản và xây dựng. Đập thủy điện sau khi hoàn tất đã cung cấp được điện cho trại và khu cơ quan trong mùa mưa và một phần trong mùa nắng. Tuy nhiên lòng hồ cứ cạn dần, do đó trại viên phải ra công để vét và nới rộng lòng hồ không lúc nào ngưng.

    Các phạm nhân hình sự đa số trẽ, vào trại chưa bao lâu nên lao động có năng suất hơn so với chúng tôi, những trại viên lớn tuổi. Khu đất phía bên kia bờ suối đã hoàn toàn khai phá, Nhu cho làm một con đường đất đi từ K1 vào tới khu vực K3 cũ. Đất khu này đều được trồng ớt để “xuất khẩu” và trồng mía để nấu đường chén ở lò đường của trại.

    Một khu vực thăm nuôi được thành lập mới ở bên kia bờ suối, phía dưới láng mộc. Khu thăm nuôi gồm một nhà thăm gặp chính và nhiều nhà khác dùng làm nhà thăm gặp qua đêm. Lúc đầu việc thăm gặp qua đêm chỉ giới hạn một số ít trại viên, về sau Nhu ra lệnh rộng rãi hơn và thân nhân muốn ở lại qua đêm phải đóng tiền phòng, ngoài việc “lót đường” cho các cán bộ phụ trách thăm nuôi, cho cán bộ ký giấy cho phép và quà cáp cho chính Nhu nữa! Từ khi ấy, có nhiều trại viên và thân nhân được ở lại không những một đêm mà có khi cả tuần lễ hay mười ngày. Thân nhân thì không những là vợ, mà mẹ con hay bất cứ ai cũng có thể xin ở lại. Nhà thăm gặp lúc đó trở thành nơi tiệc tùng cho các cán bộ với gia đình trại viên. Các chiếc xe đò chở người đi thăm nuôi lúc đầu còn ngừng ở nhà đón khách bên cạnh quốc lộ số 1 rồi trại cho xe ra đón vào, sau đó được chạy thẳng vào tới góc căn tin gần đập thủy điện.

    Căn tin này lúc đầu chỉ bán một ít đồ đạc và nước uống, chủ yếu là phục vụ các trại viên lao động đêm. Dần dần nó biến thành địa điểm buôn bán cho các thân nhân trại viên đến thăm nuôi và ở lại. Nước đá, nước ngọt, thịt heo, gà vịt, trứng, chuối, vân vân được mua về bán tại đây. Căn tin khi ấy được nới rộng ra sát bờ suối với một sàn gác ở phía trên làm ve ra khỏi bờ suối. Trại viên sau khi gặp thân nhân ở nhà thăm gặp thì được dẩn ra căn tin để ngồi uống nước và nói chuyện tiếp. Mọi thứ đều nhằm mục đích kiếm tiền!

    Bãi đất trống giữa láng mộc với căn tin được sửa lại thành công viên với cầu nổi, vườn hoa, tượng và băng đá. Một con đường nhỏ chạy dọc theo bờ suối từ nhà thăm gặp đến căn tin được thành hình để thân nhân trại viên đi mua sắm. Đá được đem về lát dọc theo bờ suối và trong các vườn hoa cũng như trên các con đường đi. Các công việc này tốn rất nhiều công sức của trại viên. Đá được đập từ núi chuyển về rồi lại phải đẻo ra theo hình dáng kích thước để lát xuống lòng suối. Nước lũ vào mùa mưa dâng lên cuốn đi rồi lại phải làm lại nhiều lần.

    Càng ngày càng có nhiều trại viên được thăm gặp ở lại nhiều ngày, Nhu cho làm một số căn nhà lá nằm riêng rẽ dọc theo con đường phía bên kia đập thủy điện hướng về phân trại K3 cũ. Mỗi căn nhà lá này chỉ có một phòng, nằm cách xa nhau và chỉ được dùng cho một số trại viên chọn lựa vì khu ấy rất khó kiểm soát nếu trại viên có ý định trốn trại.

    Gần khu thăm nuôi đặc biệt này là khu “nhà lô” của đội 23, đội của các “bác già” như Nhu vẫn thường gọi. Đó là đội của các trại viên nguyên là các tướng lãnh và các cấp đại tá và một số trung tá thuộc quân lực VNCH; đội do tướng Lê Minh Đảo làm đội trưởng. Vì nằm gần nên khu thăm nuôi này cũng được các “bác già” chăm sóc cẩn thận. Đường đi luôn luôn được quét dọn sạch sẽ, nhà cửa luôn luôn được dọn dẹp ngăn nắp, cây cối chăm bón tươi tốt. Đa số những người thuộc đội 23 này khi thăm gặp qua đêm thường được ưu tiên ở khu vực ấy. Nhu cũng thường dẩn khách đến thăm trại đi qua khu vực ấy để “giới thiệu”.

    Khu rừng dọc theo bờ suối lần lượt được khai hoang sạch sẽ. Cây bạch đàn được trồng thay vào đó. Tiếp theo thì Nhu cho trồng thuốc lá vàng loại giống Virginia để bán ra ngoài. Trong trại thì hắn ta cũng tổ chức một tổ làm các loại thuốc lá mang những nhản hiệu giả mạo thuốc ngoại quốc như Jet, 555, Dunhill, Craven A, vân vân. Tổ làm thuốc này do các phạm nhân bị bắt vào về tội làm thuốc lá giả mạo. Các phạm nhân này muốn sống thoải mái trong trại thì phải cung cấp vật liệu và công sức để làm những cái mà họ đã bị kết án để rồi Nhu lại có dịp tung những thứ này ra trở lại thị trường. Quả thật là một điều “khôi hài đen!”

    Quanh trại còn được đào nhiều ao nuôi cá trắm cỏ và cá rô phi mà các cá giống đều do các phạm nhân cung cấp nếu họ muốn được làm công việc nuôi cá ở trại thay vì đi lao động cực nhọc.

    Bên cạnh Quốc Lộ Số 1, Nhu cho xây dựng một “khách sạn” và quán cà phê do Dũng và gia đình làm quản lý. Dũng là một phạm nhân trẽ bị án chung thân vì tội bắn chết công an ở Sài Gòn. Gia đình của hắn ta cũng rất có thế lực trong nhà nước Cộng Sản nên Dũng đã tránh khỏi tội tử hình. Vào trại hắn ta lại được hưởng nhiều ưu đãi nữa. Khách sạn và quán cà phê này cũng là nơi mà Nhu và các khách của hắn ta làm địa điểm “ăn chơi”. Ngoài ra, một quán “cà phê nhạc” cũng được lập ở thị xã Long Khánh do các phạm nhân nữ làm chiêu đãi viên. Hầu hết những nơi này tôi đều có dịp đến để thực hiện công việc gọi là “trang trí nội thất”: sơn và vẽ bảng hiệu cùng treo tranh ảnh.

    Căn nhà “bát giác” nơi trước kia Nhu xây cho riêng hắn ta bên bờ suối gần với láng mộc đã được dành cho một nữ phạm nhân mà chúng tôi thường gọi là “bà trời!” Nữ phạm nhân này bị bắt về tội truyền bá đạo giáo mê tín. “Bà trời” biến nơi này thành nơi “tu hành” và cũng là nơi để chụp hình cho khách, nhất là thân nhân đến thăm trại viên.

    Sau khi nhập chung hai trại Z30D và Z30C thành một, Nhu bắt đầu nới rộng địa bàn sang Z30C lúc đó là phân trại K2 của trại Z30D. Hắn ta cho cất nhà và lập bản doanh riêng ở bên ấy. Máy cưa cũng được dời sang và bắt đầu khai phá rừng để lấy gỗ khu vực này.

    Sự thay đổi trong trại cũng được thực hiện một cách nhịp nhàng. Kể từ khi có sự trộn lẩn giữa hai thành phần trại viên “có án” và “tập trung cải tạo” thuộc chế độ cũ, cơ cấu của Ban Thi Đua trại viên cũng được thay đổi. Lân, Nuôi, Phò, vân vân là những trại viên ở trại Tiên Lãnh miền Trung bị xử án trong trại vì tội làm và nghe lén đài phát thanh ngoại quốc. Người ráp máy thu thanh thì bị án tử hình. Lân thì lãnh án chung thân còn Nuôi, Phò, Sang vân vân thì từ mười lăm đến hai mươi năm. Khi được chuyển về trại Z30D thì Nhu đã dẹp Ban Thi Đua cũ để cho Lân, Nuôi và Phò vào thế chổ. Theo tôi thì hắn ta đã bước một bước khéo léo trong việc này. Hắn ta đã xữ dụng thành phần này như một trung gian giữa số trại viên thuộc chế độ cũ và số bị kết án để dể điều hành công việc trong trại. Về phía trại viên nữ thì hắn ta đưa Tâm lên làm Thi Đua. Tâm có người cha đã bị giết chết trong cuộc tấn công ngày 30 tháng tư năm 1975 của VC, sau đó cô ta lấy một cán bộ VC rồi lại “chiêu hồi” chồng tham gia tổ chức chống lại Cộng Sản. Bị bắt và bị kết án 20 năm còn chồng thì bị tử hình.

    Khi phạm nhân hình sự chiếm đa số trong trại thì một lần nữa Nhu lại thay đổi Ban Thi Đua. Lân vẫn ở nhiệm vụ trưởng ban, nhưng Nuôi và Phò được thay thế bằng Hạnh, một phạm nhân hình sự. Châu, một phạm nhân nữ mang tội phạm về kinh tế thay cho Tâm được thả ra khỏi trại. Nhu cũng thường xuyên “bồi dưởng” cho các thành viên trong Ban Thi Đua, do đó theo tôi thấy thì đây là một Ban Thi Đua làm được việc nhất mà lại ít gây căm thù nhất trong trại viên và phạm nhân.

    Một thay đổi lạ lùng nhất ở trong trại là việc thành lập cái gọi là “Khu Vui Chơi”. Trong thời gian đầu của việc xây dựng đập thủy điện thì vào những đêm lao động để đào hồ, các trại viên trước khi ra về thường được ghé qua “căn tin” ở gần đập để ngồi nghe nhạc và uống nước. Đôi lúc cũng có những buổi chiếu vidéo phim chưởng Trung Quốc nhưng chỉ ở khu cơ quan. Năm 1988, Nhu bắt đầu cho thành lập “Khu Vui Chơi” trong trại. Khu trồng bạch đàn ở hai bên con đường đi vào hội trường được trang bị những băng ghế ngồi và bàn nhỏ làm bằng bìa gỗ xẽ lấy từ đội mộc. Các bàn và băng ghế này được chôn cố định. Ở đầu đường vào hội trường được dựng một cổng với tấm bảng “Khu Vui Chơi”; hai bên cổng là hai ki-ốt bán nước uống và bánh kẹo, thuốc lá vân vân. Ngoài việc được phục vụ nước uống, thường là sửa đậu nành, trại viên ra khu vui chơi còn được phép ngồi nói chuyện tiếp xúc nhau dù là khác phái! Sau đó tất cả được vào hội trường để xem vidéo phim chưởng hay ca nhạc, nhất là các băng nhạc vidéo hải ngoại như “Thúy Nga Paris”. Đôi khi trại còn tổ chức ca nhạc ngoài trời do các trại viên lên ca với sự đệm nhạc của các trại viên trong đội văn nghệ. Các trại viên khác thì tự do khiêu vũ. Nhạc vàng lúc này được ca hát không còn cấm đoán trong trại nữa.

    Có ba thành phần trại viên được ra khu vui chơi. Thứ nhất là những người bỏ tiền ra mua vé; khi đóng cửa buồng thì những người này được đứng riêng ra để ra khu vui chơi, số còn lại thì vào buồng và khóa cửa phòng lại. Thứ hai là những trại viên trong toán lao động đêm, nhóm này thường nhập trại khi các trại viên trong khu vui chơi đã vào hội trường để xem phim. Thành phần thứ ba là “các bác già”, ở nhà số 1 khu A, các trại viên thuộc thành phần “chế độ cũ” không bị khóa cửa cho đến sau khi tan buổi chiếu phim. Mặc dù được tự do đi ra khu vui chơi, nhưng thành phần này cũng ít khi tham dự ngoài những buổi chiếu vidéo ca nhạc hải ngoại mà các băng nhạc này thường do gia đình mang lên để “ủng hộ” cho trại.

    Khu vui chơi lần lần biến thành chổ hẹn hò cho các cặp “nhân tình” trong trại! Không chỉ những đêm văn nghệ mà cả những ngày nghỉ hay buổi trưa đi lao động về, các cặp “quan hệ nam nữ” này thường ra đó để gặp nhau. Sự quan hệ nam nữ giữa các trại viên với nhau lúc đầu còn lén lút dần dần trở nên công khai từ khi thành lập cái gọi là “khu vui chơi”.

    Để tận dụng “tài nguyên”, các hào nước sát hàng rào trại được cho vét lại và cho đấu thầu nuôi cá rô phi và cá trắm cỏ. Trại viên nào muốn ở trong trại nuôi cá thì phải cung cấp cá giống và nuôi cá cho trại. Mọi phương tiện đều dẩn đến việc đầu tư để lấy thêm tiền “gây quỷ”, như các cán bộ giải thích. Thực hiện kế hoạch “tự túc” do nhà nước VC đề ra cho các cơ quan, đơn vị, trại cải tạo dần dần biến thành một cơ sở kinh doanh dưới mọi hình thức.


    Chương 51. CT: Cải Tạo hay Con Tin?

    Chúng tôi, một số rất nhỏ còn lại sau đợt thả đầu năm 1988 quả thật đã bị một cú sốc khá nặng. Hàng ngàn trại viên được ra về mà chỉ có trên dưới hai mươi người bị giữ lại! VC đang suy tính gì đây? Mỗi người chúng tôi đều có trong đầu một suy nghĩ. Ngay ngày hôm ấy, thay vì nhốt kỹ chúng tôi để đề phòng việc trốn trại thì họ lại “thả lỏng” chúng tôi ra, đưa chúng tôi ra ngủ bên ngoài trại mà không cần một sự canh giữ nào. Thật là một điều nghịch thường! Chúng tôi bảo nhau rằng sau Tết có thể họ sẽ thả chúng tôi vì theo chúng tôi nghĩ thì cũng chẳng có một lý do gì để họ giữ lại một số quá ít như thế này trong khi có thể thả hầu hết mọi người khác. Thêm vào đó, nếu so sánh số còn lại với số ra về thì cũng chẳng có gì khác biệt nhau mấy. Chúng tôi đành chuẩn bị một cái Tết điều hiu nhất từ trước tới nay ở trong trại cải tạo với một hy vọng mong manh là chúng tôi sẽ ra về sau Tết.

    Hùng và Diễm làm ở láng mộc, một mình tôi ở phòng vẽ. Phải làm công việc hàng ngày nhưng tôi không còn đầu óc đâu mà suy nghĩ tới việc làm. Tôi vẽ giống như một người máy, cứ tô màu cho kín khung vải chứ chẳng để tâm đến những gì mình đang vẽ. Chỉ mong cho tới giờ nghỉ là thả rong xuống suối câu cá và suy nghĩ vẩn vơ. Vì không còn Điệp làm “ông từ” giử chùa nên tôi phải khép cửa phòng vẽ lại mà đi. Nhu cũng không thường xuyên ghé qua như trước; có lẽ hắn ta cũng biết tôi đang bị xáo trộn đầu óc nên không muốn gặp tôi trong tình trạng này.

    Đội mộc bắt đầu bổ sung các phạm nhân hình sự. Bạn bè đã về hết nên tôi thường ăn uống sinh hoạt chung với Thực, một người bị bắt về tội vượt biên và ở đội mộc cũng đã khá lâu. Thực hàng ngày đi làm và nhập trại cùng với đội mộc. Những con cá câu được vào đêm hôm trước tôi rộng vào một thùng nước để hôm sau giao lại cho Thực tùy nghi nấu nướng, và chúng tôi ăn trưa và chiều với nhau. Ngoài ra còn có Nam cũng thường hay lui tới phòng vẽ với tôi. Nam là người bị bắt vì tội tổ chức vượt biên, làm ở lò đường và là chuyên viên về âm thanh và ánh sáng của đội văn nghệ. Cũng nhờ Nam mà không bao giờ tôi thiếu số đường dự trử. Sau này, Nam tự tử chết bằng thuốc rầy vì tình yêu vô vọng với một tù nữ tên là Tú, bán ở căn tin.

    Tin tức từ những người mới ra về cho biết rằng họ không còn bị quản chế như những đợt thả trước kia mà được nhập “hộ khẩu” với gia đình ngay sau khi trình diện. Về cuộc sống ở ngoài xã hội thì họ cũng cho biết ngoài số những người có thân nhân ở ngoại quốc chi viện về thì số còn lại đa số sống cũng rất vất vã. Công việc làm không có mà sức khỏe cũng không đủ để cáng đáng những công việc nặng nề như đạp xe xích lô, xe ba gác, hay làm phu khuân vác vân vân. Điều này không chỉ xảy ra đối với những người cải tạo về mà cũng là tình trạng chung của mọi người dân trong nước.

    VC thường nói rằng đất nước ta nếu có khó khăn thì cũng chỉ là “tạm thời”, còn thuận lợi mới là “cơ bản”. Đã mười ba năm qua kể từ ngày chấm dứt chiến tranh, thế mà tình trạng đất nước ngày càng khó khăn hơn. Không biết cái gọi là “tạm thời” này bao giờ mới chấm dứt?

    Khoảng hai tuần sau, số trại viên còn lại ở trại Hà Nam Ninh được chuyển về nhập chung với chúng tôi nâng tổng số trại viên còn giử lại trong trại cải tạo lên con số khoảng hai trăm mười người. Sau đó ít lâu họ lại thả một vài người mà họ cho rằng “già yếu bệnh tật”. Số còn lại bước vào một giai đoạn cải tạo hoàn toàn mới.

    Không lâu sau đó, đài phát thanh Hà Nội loan báo rằng họ đã thả hầu hết số “ngụy quân và ngụy quyền” ở trong các trại cải tạo. Họ còn nói rằng số rất ít còn giử lại vì lý do những người này thuộc thành phần “có nợ máu với nhân dân và không chịu cải tạo” nên không thể thả ra được! Như vậy là rõ ràng rằng chúng tôi sẽ không thể nào ra về ngoại trừ có một “phép lạ” nào đó. Không biết họ sẽ đối xử với chúng tôi như thế nào đây? Đưa ra tòa án “nhân dân” để xử, đưa đi đày ở những hải đảo nào đó, hay đưa đi những nông trường để sống ở nơi ấy trọn đời? Chúng tôi nghĩ rằng đúng lý ra thì họ phải đưa chúng tôi ra trở lại miền Bắc để “gần với trung ương” cho dể thi hành các biện pháp chế tài chứ tại sao họ làm ngược lại là đưa vào miền Nam.

    Cùng lúc ấy thì cũng có những tin tức về các cuộc hội đàm của phái đoàn Mỹ do tướng Vessy dẩn đầu với phái đoàn Hà Nội về vấn đề “Người Mỹ Mất Tích” và “Tù Binh Chiến Tranh”, trong đó có đề cập đến những “quân nhân và nhân viên của chính quyền Nam Việt Nam” đang ở trong các trại cải tạo. Thế là một bên tung một bên hứng. Vô hình chung chúng tôi cũng như những “tù binh chiến tranh” và “người Mỹ mất tích” lại trở thành những món hàng để ngã giá, một thứ “con tin” trong cuộc mua bán giữa Mỹ và VC!

    Riêng cuộc sống của chúng tôi trong trại cải tạo thì hoàn toàn thay đổi. Không biết vì chúng tôi đã trở thành một nhóm “thiểu số và già nua” hay vì lý do gì khác mà những công việc lao động nặng nhọc không có mặt chúng tôi nữa. Ngoài số chăn bò và gà vịt ở K2 cũ và vài người ở đội mộc và đội bếp, số mới về từ trại Hà Nam Ninh được biên chế thành hai đội: đội 20 và đội 23.

    Đội 23 gồm những cựu tướng lãnh của quân lực VNCH cũ như các tướng Đão, Giai, Trường, Tất, Sang (tướng Thân làm ở Bệnh Xá) và các người thuộc cấp đại tá như Hản, Xảo, Của, Phô, Tấn vân vân cùng vài người cấp trung tá. Số còn lại thuộc đội 20, đa số thuộc các thành phần: An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát Đặc Biệt và Trung Ương Tình Báo.

    Công việc của hai đội này chỉ làm lao động quanh khu vực nhà lô của đội. Nhà lô đội 23 nằm gần bờ suối phía bên kia đập thủy điện từ cầu hướng về phía K3. Nhà lô của đội 20 nằm cách trại khoảng bốn cây số hướng về phía Quốc Lộ Số 1. Mặc dù trại Z30D lúc ấy đang lao động rất vất vã cả ngày lẫn đêm với các công việc như đào ao, vét lòng hồ thủy điện, xây dựng, vân vân, nhưng hai đội 20 và 23 thì chỉ sáng đi chiều về chứ không hề đi lao động đêm như các đội khác.

    Ngoài ra mỗi buổi tối các phòng của nhà số 1 khu A dành cho hai đội này được mở cửa cho đến khi các đội làm đêm vào nhập buồng hoặc đến khi khu vui chơi chấm dứt. Riêng các trại viên nguyên cấp tướng thì được ở riêng một căn nhà nằm cuối sân của nhà 1 và các trại viên cấp đại tá thì được ở một buồng nhỏ ở đầu nhà, hai nơi này không bị khóa cửa về đêm và có giường riêng cho mỗi người. Chúng tôi còn được xem truyền hình ở một phòng TV nằm ở góc cuối bệnh xá. Những khi có trận đá bóng quốc tế hay có những chương trình đặc biệt còn có thể xem cho đến khi chấm dứt, có lúc đến sau nửa đêm, miển là “biết điều” với cán bộ trực trại và có gói thuốc lá 555 để hắn ta “xông muỗi”!

    Đến thời gian này thì những tin tức không còn bị che dấu hoàn toàn như trước kia. Một số sách báo ngoại quốc được mang vào trại như các tuần báo “Times”, “Newsweek” của Mỹ hay tạp chí “Le Monde” của Pháp. Tin về việc đổi mới ở Liên Sô và các nước Đông Âu không thể bị bưng bít được. Ngay cả hôm mà người dân Đông Đức giật sập bức tường Bá Linh, ngày 9 tháng 11 năm 1989, chúng tôi cũng được xem trên truyền hình ở căn tin với một số cán bộ!

    Tôi thấy hình như họ không còn quan tâm nhiều đến những vấn đề chính trị nữa mà chỉ chú ý đến việc “kiếm ăn”. Những tô “mì tôm có người lái” (mì ăn liền nấu với thịt hay trứng) quan trọng hơn tin về sự sụp đổ của bức tường Bá Linh hay của cả Đông Đức. Những gói thuốc “ba số có cán” (thuốc lá 555 đầu lọc) cần thiết hơn sự tồn tại của nhà nước Cộng Sản Liên Sô!

    Đầu năm 1990, việc lập thủ tục HO cho những người tù cải tạo đã được thả ra để đi sang Mỹ trở nên rầm rộ. Tin tức về những người bạn này đã ra đi, người bạn kia thì đang chờ chuyến bay khiến chúng tôi ở trong trại sốt ruột hơn lúc nào hết. Chúng tôi nghĩ rằng cái “phép lạ” đang xãy ra, nhưng bao giờ thì đến với chúng tôi? Một số người lại tỏ ra lạc quan cho rằng có thể chúng tôi sẽ không được thả để đi theo diện HO mà sẽ được đi thẳng từ trong trại cải tạo. Mỗi tối thường có những nhóm nhỏ ngồi bàn tán và phóng đại những tin tức do gia đình đưa lên. Người nào đi thăm nuôi vào cũng cố gắng moi cho được những “thang thuốc bổ” (những tin tức có lợi cho chúng tôi). Thậm chí có người còn cho rằng khi sang đến Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ được lãnh “ráp ben” nữa! Quả là một sự “lạc quan tếu!” Tôi thì nghĩ rằng cho dù đó là những phóng đại sai lệch sự thật, nhưng chính chúng lại thật sự là những “liều thuốc bổ” giúp những người còn lại như chúng tôi vượt qua được một chặng đường đầy dẫy những thử thách và chán nản trong thời gian ấy!

    Từ khi các trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về, phong trào thăm nuôi trở nên mạnh mẽ hẳn lên. Lúc đầu thì gia đình vợ con lên thăm còn ở lại một đêm. Dần dần thời gian thăm gặp kéo dài hàng tuần lễ, mười ngày. Nhất là kể từ lúc trại cho phép trại viên được ở lại dể dàng miễn là “đóng tiền phòng” và “biết điều” với các cán bộ ký giấy và cán bộ phụ trách nhà thăm gặp. Nhiều người nhờ có thân nhân ở ngoại quốc gởi tiền về sống một cách rất sung túc, họ không ăn cả phần ăn của trại nữa.

    Đến giữa năm 1990, có những người trung gian lên giới thiệu các phụ nữ cho các trại viên còn độc thân hoặc đã bị vợ bỏ với hy vọng sẽ được gán ghép vào danh sách “đi Mỹ”. Những người tù thì vì nhu cầu sinh lý và vật chất còn những người phụ nữ kia thì lại muốn ra đi. Hai đối tượng này kết hợp nhau giống như một khế ước tạm thời! Tình cãm chỉ là một sự gượng ép, giả dối.

    Tương lai của những người tù cải tạo chúng tôi khi ấy là gì? Có phải chăng là cái vé để đi đến một chân trời xán lạn của xứ Hoa Kỳ vàng son? Quả thật là một sự mĩa mai! Đối với chúng tôi thì chỉ mong điều ấy là một “phép lạ” để cứu chúng tôi ra khỏi trại giam mà thôi. Mười mấy năm khổ sở, có những lúc xuống tận cùng địa ngục của trần gian, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi nơi ấy để nhìn thấy lại gia đình, để sống bên những người thân cho hết phần đời còn lại của mình.

    Quả thật chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam mà người dân lại có giấc mơ “đào tẩu” lớn như vậy! Ngoài xã hội cũng như trong trại giam, đàn ông, đàn bà, trẽ em, tất cả chỉ muốn bằng mọi cách rời khỏi cái đất nước có đầy những bậc “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đãm đang” này. Thật là một điều lạ lùng. Có ai đó đã nói một câu rất cay đắng “nếu cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng đi khỏi đất nước này nữa!” Một câu nói đùa, nhưng chắc cũng không xa với thật tế. Vậy thì chúng ta có nên đặt lại câu hỏi mà VC thường dùng trong những ngày chúng mới vào miền Nam rằng “ai thắng ai giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản” hay không?

    Riêng cá nhân tôi thì giống như nhiều người khác, cuối cùng dục tính trong con người tôi cũng không thể khắc phục được, tôi đã bước chân vào “cái vòng lẩn quẩn” với một người phụ nữ. Mặc dù mỗi người có một trường hợp khác nhau nhưng tựu chung thì cũng là vấn đề sinh lý và nhu cầu vật chất.

    Cô ta là con gái của một trại viên ở trại Hà Nam Ninh chuyển về. Lúc ấy tôi còn đang ở phòng vẽ bên ngoài trại. Cô ấy và hai đứa con trai thường lên thăm ba và ông ngoại. Mỗi lần như vậy thì con của cô ta hay đến phòng vẽ chơi với tôi. Thỉnh thoảng cậu con mang cho tôi món này món nọ. Tôi nghĩ đó cũng là một sự cư xử thường tình của một người dân đi thăm nuôi đối với một người tù. Ngoài cô ấy ra thì cũng có nhiều người khác biếu quà cho tôi. Do đó tôi chỉ nhận và cãm ơn về lòng tốt của mọi người.

    Tháng 11 năm 1989, ba cô ấy được thả ra với lý do già yếu bệnh tật, và sau đó thì phòng vẽ của tôi cũng được dời vào trong trại. Tôi không có gì để nhớ! Đến đầu năm 1990, trong lúc thăm gặp tôi thì mẹ tôi cho biết rằng có một người nào đó muốn thay thế bà lên thăm nuôi tôi. Tôi rất ngạc nhiên nhưng lại bảo mẹ tôi từ chối dùm.

    Tháng 8 năm 1990, trong lúc phong trào các phụ nữ được giới thiệu lên thăm các trại viên nỗi lên rầm rộ thì cô ấy lại lên. Một lần, hai lần, rồi nhiều lần liên tiếp cho đến khi cô ấy xin được ở lại. Trong hoàn cảnh ấy tôi không biết đối phó ra sao, thêm vào đó vì đã “ăn chay” quá lâu lại tự nhiên có một người đàn bà dâng hiến cho mình, tôi không thể cưởng lại được dục vọng. Cô ấy lại là một người đàn bà rất đòi hỏi về xác thịt! Thế là tôi đã nhắm mắt xuôi tay cho “cuộc thế xoay vần!” Đến khi nhận ra được rằng mình đang đùa với lửa thì mọi việc đã muộn màng, tôi không làm thế nào để bước lui được nữa.

    Vào tháng 11 năm 1990, chỉ mới hơn ba tháng sau lần đầu tiên cô ấy lên thăm tôi thì trại có lệnh cho chúng tôi khai báo những thân nhân sẽ đi theo với chúng tôi sang Mỹ! Các cán bộ thì bắn tin rằng việc này là do phía của phái đoàn Mỹ yêu cầu. Nghe tin này tôi nghĩ ngay đến vợ con tôi; thế là tôi đã viết thư gửi về yêu cầu vợ tôi cho tôi được ghi tên hai mẹ con vào danh sách thân nhân rồi sau này ra sao tôi cũng chấp nhận. Nói là nói vậy thôi chứ tôi biết trong thâm tâm tôi vẫn còn yêu vợ tôi, tôi chỉ có một hy vọng duy nhất là sẽ nối lại tình xưa! Vợ tôi đã từ chối đề nghị này và bảo rằng hãy để yên cho vợ tôi mà chỉ nên lo cho mẹ và con tôi mà thôi.

    Không biết tại sao cô ấy biết được việc làm này của tôi. Thế là một “trận giặc” đã xãy ra ở nhà thăm nuôi đêm hôm đó. Cô ấy chỉ muốn chiếm đoạt cả linh hồn lẫn thể xác tôi cho một mình cô ấy. Cô ấy còn nói với tôi rằng “con cái thì muốn đẻ lúc nào mà không được!” Cô ta không muốn tôi lo cho cả con tôi nữa. Tôi rất bực mình bảo cô ta đừng bao giờ lên gặp tôi nữa nhưng rồi cô ta vẫn cứ lên. Ở trong hoàn cảnh của trại cải tạo thì tôi không còn cách nào khác hơn là phải ra gặp. Một phần vì chán nản bởi lời từ chối của vợ, một phần vì dục tính, câu chuyện cứ kéo dài mãi cho đến ngày tôi ra khỏi trại, rắc rối mãi cho đến ngày tôi rời khỏi đất nước.

    Đây là trường hợp của cá nhân tôi; tôi không biết các trường hợp khác xãy ra như thế nào. Nhưng có điều tôi nghĩ chắc ít ai có thể giử được lâu dài cái chuyện mua bán tình cãm như vậy!

    Vào thời gian này thì ngoài việc đi lao động cầm chừng và đợi đi thăm nuôi, chúng tôi có thêm một sinh hoạt khác, đó là học tiếng Anh. Có lẽ mọi người đang chuẩn bị để đi Mỹ! Từ trước việc này bị cấm đoán rất chặc chẽ trong các trại cải tạo. Bất cứ một tài liệu sách báo nào viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh, Pháp vân vân mà bị khám phá đều bị tịch thu, người lưu trử thì bị giam kỷ luật. Nội quy của trại cũng có nói rằng “không được nói tiếng nước ngoài” vì họ cho rằng điều đó là việc truyền bá một nền văn hóa “phản động và đồi trụy”. Đến giờ thì họ lại “bỏ ngỏ”, chẳng những không cấm đoán mà còn nhờ cả trại viên dạy cho họ tiếng Anh nữa.

    Học tiếng Anh trong trại thì chỉ học qua sách vở, tạp chí và tự điển. Tuy nhiên lúc ấy có một trại viên nguyên là một giáo sư Anh ngữ ở Sài Gòn trước đây tên là Việt Huy, hay Nguyễn Đình Huy. Và rồi ông Huy đã trở thành “ông thầy” cho nhiều người. Sau này khi được thả ra ông Huy đã ở lại nước hoạt động tiếp và lại bị bắt vào trong trại.

    Đầu năm 1991, lần đầu tiên chúng tôi được nhận mỗi người một gói quà do các bạn đã sang Mỹ góp nhau gởi về làm quà Tết cho chúng tôi. Những món quà mà đã bao lâu rồi tôi không thấy, trong đó có cả những lon bia Budweiser, những gói thuốc lá Marlboro. Họ còn gởi cho chúng tôi cả tiền dollar nửa, nhưng phải đổi ra tiền Việt Nam để xài. Thế là các cán bộ lại có dịp vào ăn Tết với trại viên! Giờ đây họ lại đề cập cả việc “xuất cảnh” đối với chúng tôi. Họ mong rằng khi sang Mỹ rồi thì chúng tôi hãy “nhớ” đến họ -nghĩa là nhớ gởi cho họ những món quà như vậy! Thật là một sự “duy vật” hơn bất cứ một sự duy vật nào.

    Thêm vào đó thì thời gian này là lúc mà Liên Sô và các nước Đông Âu bắt đầu tan rã. Những cán bộ VC lúc ấy rất lo lắng không biết số phận của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa và số phận của chính họ rồi sẽ ra sao. Tôi vẫn nhớ vào tháng tám năm 1991, khi các đơn vị Cộng Sản bao vây điện Cẫm Linh, các cán bộ trong trại đã tỏ ra rất vui mừng. Họ đến phòng chúng tôi và “cá” với chúng tôi rằng Gorbachev sẽ thất bại và Liên Sô sẽ trở lại với chủ nghĩa Cộng Sản. Nhìn thấy hoàn cảnh chúng tôi, họ liên tưởng đến tình cảnh của chính họ; họ lo sợ một khi Cộng Sản Việt Nam sụp đổ thì số phận của họ sẽ ra sao. Tên cán bộ trực trại còn nói với tôi sau khi nghe tin Yeltsin làm chủ trở lại tình hình ở Liên Sô rằng: “Các anh đi cải tạo còn có Mỹ nhận đi, đến phiên chúng tôi không biết ai sẽ nhận chúng tôi đây?”

    Từ khi mới bước chân vào trại luôn luôn nghe những lời sắt máu, chửi bới, nào là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”, nào là “lũ ngụy quyền là bọn tay sai” đến bây giờ thì tất cả đều xoay ngược chiều. Chúng tôi nghĩ đó quả thật là một phép lạ! Nếu không có cái “phép lạ” này có lẽ là chúng tôi đã rũ xương ở chốn rừng thiêng nước độc của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa rồi. Tôi nghĩ rằng dù cho có cố gắng bóp méo lịch sử tới đâu đi nữa thì rồi họ cũng không thể thoát được sự đào thải của định luật phát triển tự nhiên. Con người vẫn mãi mãi là con người chứ không bao giờ là những con khỉ biến thành người, càng không thể là những rô bô được điều khiển bởi những nút bấm!


    Chương 52. Ngày về

    Sau gần hai tháng đi lâm sản với các phạm nhân hình sự rồi cuối cùng thì tôi cũng về với các bạn của tôi. Nhu ra điều kiện là trước khi cho về đội 20 thì tôi phải vẽ cho hắn ta mười lăm bức tranh để trang trí trong khu vực mới ở Z30C, tức là K2 của trại Z30D. Tôi thấy đó không phải là một điều kiện mà là một mệnh lệnh. Hắn ta là trại trưởng mà tôi là tù, vậy thì tôi phải làm những gì mà hắn ta ra lệnh.

    Trước đó thì Lê Minh Đão, đội trưởng đội 23, có cho tôi biết là Nhu có ý định trả tôi về với nhóm của chúng tôi. Ngẫm nghĩ, tôi thấy rất tức cười về việc này. Nhu là ông vua trong trại, muốn làm gì thì có mọi quyền hành để làm có gì mà phải đánh tiếng trước? Tuy nhiên tôi biết hắn ta muốn tôi phải có lời “xin xỏ” với hắn để tôi được hắn ban “đặc ân”! Do đó tôi nói với anh Đão rằng anh ấy hãy nói với Nhu để tôi được về đội 20. Thế là sau thời gian khoảng hai tháng để hoàn tất 15 bức tranh, tôi được chuyển về đội 20 và đi lao động với đội này.

    Lúc còn ở phòng vẽ bên ngoài trại, mỗi buổi trưa tôi vẫn thường đi câu cá ở khu vực gần nhà lô của đội 23 gần bờ suối, tuy nhiên tôi không biết rõ đội này làm lao động như thế nào. Đội 20 có nhiệm vụ chính là chăm sóc một vườn trồng điều nằm cách trại khoảng bốn cây số về hướng Quốc Lộ Số 1. Mỗi buổi sáng, chúng tôi xuất trại như thường lệ để đi đến nhà lô của đội. Hơn năm năm kể từ ngày bắt đầu đi vẽ tranh, tôi chỉ làm việc có một mình hoặc với Điệp, bây giờ đi lao động chung với các bạn bè, tôi cãm thấy vui hơn. Công việc làm của chúng tôi cũng không có gì là vất vã, chỉ làm cỏ vun gốc những cây điều hay trồng một ít bắp. Chính yếu là có hoạt động ngoài trời cho bớt cuồng chân tay trong trại giam. Buổi trưa thì treo võng nằm ngủ một giấc trong nhà lô cho đến lúc báo thức để làm lao động tiếp tục. Chiều về ghé tắm ở bờ suối hay tắm ở giếng nước trong nhà lô rồi nhập trại.

    Vì tương đối gần Quốc Lộ nên chúng tôi có cơ hội thuận tiện để mua sắm các thứ cần thiết. Hàng ngày cán bộ quản giáo cho phép Hòa hay một vài người khác đi chợ mua sắm cho chúng tôi. Có lúc có những người dân ghé qua nhà lô để bán cho chúng tôi thịt rừng mà họ đánh bẩy được hoặc chuối, bánh vân vân. Đôi khi các cán bộ còn làm “thịt cầy” và mua rượu về nhậu với trại viên nữa!

    Các cán bộ quản giáo và vũ trang đi theo đội 20 thường có những bữa ăn đặc biệt vì hầu như ngày nào trong đội cũng có người đi thăm nuôi. Một chút ít quà cáp để mua lấy sự thoải mái cũng là chuyện thường tình.

    Vào lúc này thì Nhu đang chú tâm vào việc khai thác khu vực mới ở Z30C, nếu có dịp thì hắn chỉ ghé qua đội 23 chứ không khi nào đến khu vực của đội 20. Vì thế chúng tôi không phải lo việc đối phó với hắn. Đây cũng là lúc mà tôi tránh gặp mặt Nhu để khỏi phải bị hắn nhắc nhở tới việc vẽ tranh nữa. Những thời gian đi lao động vất vã thì làm công việc vẽ tranh là một cách để tránh né lao động, còn lúc này tôi không thích làm việc ấy một chút nào!

    Hàng ngày đi lao động với đội; tối về tôi tập thể dục ở ngoài sân khu nhà số 1. Nếu thích thì vào xem truyền hình hay ghé qua khu vui chơi để đấu láo với các nữ tù ở đội văn nghệ, hoặc vào hội trường xem vidéo. Có lúc thì vào phòng ngồi trò chuyện với bạn bè, nghe những tin tức “sốt dẽo” hay uống vài thang “thuốc bổ” để mà hy vọng. Cứ thế mà thời gian trôi qua!

    Sáng ngày 16 tháng giêng năm 1992, chỉ còn hơn mười ngày nữa đến Tết thì tôi được thả ra khỏi trại! Có khoảng phân nữa chúng tôi được thả trong một đợt trước Tết, số còn lại thì được thả ra sau Tết năm ấy.

    Nhiều lúc tôi suy nghĩ rằng khi được nghe tên mình trong lệnh phóng thích chắc là tôi sẽ rất vui mừng, nhưng thật tế thì không có như vậy. Tôi hoàn toàn dững dưng khi nghe tên mình được ra khỏi trại cải tạo. Xem đó như là một điều tất nhiên.

    Trở vào buồng để dọn dẹp đồ đạc trước khi ra về, tôi giao cho Uy một vài món cần thiết còn bao nhiêu thì cho Lập, phạm nhân hình sự làm chung với tôi trong phòng vẽ. Tôi chỉ mang về chiếc ba-lô đã cũ và cái mùng là hai thứ mà tôi mang theo từ lúc vào trường Chu Văn An, tôi cũng không quên mang về một bộ đồ tù còn mới để ghi nhớ. Tôi lại phải dìu anh Sỹ ra cổng trại để nhận giấy ra trại. Anh ấy quá yếu vì bị bệnh. Số tiền trại phát để đi đường thì hầu hết chúng tôi góp nhau gữi vào cho Lân, đang là trưởng ban Thi Đua, là một trại viên cải tạo đã bị xữ án chung thân ở trại Tiên Lãnh.

    Cầm tờ giấy ra trại trên tay, tôi lững thững đi bộ ra tới con đường đất hướng về phía Quốc Lộ Số 1 thì nghe có tiếng xe gắn máy ở phía sau lưng. Tư, lúc ấy là trưởng phân trại K1 của trại Z30D ngừng xe lại bảo tôi leo lên để anh ta đưa tôi ra tới đường cái đón xe đò về nhà. Tư đã từng là cán bộ quản giáo của đội “mía” lúc tôi mới về trại Z30D, người đã giúp tôi gặp vợ tôi qua đêm để giải quyết chuyện gia đình vào năm 1983, là cán bộ quản giáo đội mộc vào thời gian tôi còn làm ở đội này, và cũng thường lén Nhu ghé vào phòng vẽ để nhờ tôi vẽ dùm những bức tranh cho vợ anh ta dạy học trường cấp một ở thị xã. Bên cạnh Nhu giống như một hung thần thì Tư lại là một con người có cách cư xữ rất nhã nhặn.

    Một chủ thuyết sai lầm không nhất thiết phải sản sinh những con người xấu, tôi nghĩ.

    Trên chuyến xe đò, mọi người nhìn tôi dò hỏi. Họ đều biết tôi vừa mới được ra khỏi trại cải tạo. Tất cả đều rất ngạc nhiên khi biết rằng tôi đã đi cải tạo từ năm 1975, sau gần 17 năm trường. Họ cứ tưởng rằng không còn chúng tôi trong các trại cải tạo nữa! Anh tài xế và anh lơ xe từ chối không nhận tiền mà tôi trả anh ấy lại còn bảo rằng tôi vừa mới được ra trại thì tiền đâu mà trả!

    Ngồi trên xe đò, tôi suy nghĩ về hoàn cảnh của mình khi về đến nhà rồi bỗng nhiên tôi lẫm nhẫm bài thơ “Ngày về” của Tố Hữu, một thi sĩ của Bắc Việt:

    “Rồi một hôm nào cổi áo xanh,
    “Hết cùm, hết xích, hết roi canh.
    “Nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm,
    “Anh trở về anh của gia đình.

    “Đây nẽo làng quen tự bé thơ,
    “Tre non ngoặt ngọn ý mong chờ.
    “Nóc nhà ai khói lam lên đó,
    “Có phải nhà anh tự thuở xưa?

    “Có lẽ con anh lớn lắm rồi?
    “Chúng đương đùa nghịch hét vang cươi.
    “Anh về nên chúng ngừng vui lại,
    “Bỡ ngỡ rồi la: Cha, cha ơi!

    “Và vợ anh đương thổi lữa chiều,
    “Rung mừng quẳng đủa, bỏ nồi niêu.
    “Đôi hàng tóc xõa tung không búi,
    “Ôm lấy anh mà khóc, giận, yêu!

    “Nhưng ngỏ nhà xưa đã tới đây,
    “Cột sơn còn đó, liếp tre gầy.
    “Bảng mờ ai khắc tên lên đó,
    “Anh thấy sao như kẻ lạc loài.

    “Chân muốn vô song lại ngập ngừng.
    “Chó nhà đâu đã sủa người dưng?
    “Anh nhìn len lén vườn cau mới,
    “Và tấm bình phong đứng lạnh lùng.

    “Vâng chính xưa anh ở chốn này.
    “Tre già còn đó, miếu còn đây.
    “Lòng bâng khuâng mãi ôn ngày cũ,
    “Chợt tiếng người đâu: Chú hỏi ai?

    “Anh hỏi nhà anh? Không phải đây!
    “Rồi thôi quay đóng cửa then cài.
    “Để ngoài sương gió chiều se lạnh.
    “Bên khóm tre già, khách đứng ngây!”


    Bao nhiêu giấc mơ “tương phùng” thế mà giờ đây trên đường về tôi lại cãm thấy bơ vơ, lạc lỏng làm sao! Làm gì có được cái cảnh “Rung mừng quẳng đủa bỏ nồi niêu, đôi hàng tóc xõa tung không búi, ôm lấy anh mà khóc giận yêu!” Phải chăng chính vì vậy mà khi nghe tên ra về tôi chẳng thấy một chút gì là vui mừng hớn hở?

    “Anh sẽ về, em ơi, anh sẽ về.
    “Dù đêm khôn cùng, hay mất hết người thân yêu,
    “Hay em không còn như thiên đường xưa,
    “Cũng gắng trở về chết nơi ra đời!”


    Vâng, rồi cũng đến ngày tôi phải về mà thôi, dù về để mà nhìn thấy cảnh đau lòng, để nhìn thiên đường hạnh phúc đã đổ vỡ, thì cũng phải về để “chết nơi ra đời!” Lời của bài hát sao mà đúng với tâm trạng của tôi quá như vậy!

    Xe đã đến Ngã Tư Hàng Xanh. Con đường Xa Lộ Sài Gòn – Biên Hòa ở đoạn này quá tấp nập hơn cả những ngày tháng trước năm 1975. Xe xích lô rất nhiều, họ bu quanh chiếc xe đò để mời khách. Tôi định đi bộ về nhà, nhưng rồi không hiểu tại sao tôi lại bước lên một chiếc xích lô và nói với anh phu xe: “Anh cho tôi về Ngã Tư Bình Hòa.”

    Anh ta vừa đạp xe vừa hỏi chuyện:

    - “Có phải anh mới ra trại cải tạo không?”

    - “Sao anh biết?”

    - “Thì nhìn cách ăn mặc và cái ba lô của anh là biết ngay mà!”

    - “Chắc anh đã đón nhiều người như tôi rồi phải không?”

    - “Cũng khá khá!” Anh ta cười “Tôi cũng đi cải tạo hết gần một năm, trước là trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến. Còn anh sao mà về trễ quá vậy?”

    - “Tôi cũng không biết sao, có lẽ không tiến bộ nên họ cứ giữ mãi!”

    - “Chắc các cha khai báo thành khẩn quá chứ gì?”

    Tôi cười với anh ta mà không trả lời. Tôi đã nghe quá nhiều cách nói này. Thành khẩn hay không thành khẩn. Tiến bộ hay không tiến bộ. Tại sao có những người trước kia có cấp bậc và chức vụ cao mà vẫn được thả ra sớm hơn những người có cấp bậc và chức vụ thấp? Tại sao chúng tôi phải ở lại thêm bốn năm trong khi hầu như mọi người đã được ra về từ năm 1988? Tất cả những điều đó đối với tôi giờ này không có gì là quan trọng cả. Điều mà tôi đang suy nghĩ chính là tôi đang trên đường về nhà và tôi sẽ phải chứng kiến một số phận hẫm hiu mà tôi đã biết trước!

    Con đường từ Hàng Xanh qua Bà Chiểu đông nghẹt xe cộ. Chiếc xích lô đạp với chiếc càng xe cao ngóc lên khác hẳn với những chiếc xích lô đạp trước kia cứ ủi vào những chiếc xe đạp và xe gắn máy để tiến tới khiến tôi phát khiếp. Sài Gòn không còn là Sài Gòn nữa. Sài Gòn bây giờ là Thành Phố Hồ Chí Minh. Cũng vì vậy mà tôi không còn nhận ra một nét quen thuộc nào của Sài Gòn ngày xưa. Đường xá nhộn nhịp hơn, cái nhộn nhịp bừa bãi! Hàng quán đầy dẫy khắp mọi nơi, mọi nhà, mọi ngõ ngách. Những con đường trông chật hẹp hẳn lại vì nhà cửa lấn ra tới tận lề đường, nhiều căn nhà còn bao luôn cột đèn đường vào bên trong. Xe cộ chạy ngang dọc không theo một trật tự nào hết. Đúng là họ đã “giải phóng” Sài Gòn và giải phóng luôn cái “ý thức” của người dân Sài Gòn!

    Chiếc xích lô quẹo phải qua đường Lê Quang Định. Khu chợ Bà Chiểu với cái tên chợ vẫn còn kia, nhưng ngôi trường “Nam Tỉnh Lỵ” và “Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn” không nhìn thấy được. Hàng quán đã che lấp cổng trường và hàng rào quanh trường. Bao nhiêu kỷ niệm thời ấu thơ của tôi đang hiện về khi xe chạy trên đoạn đường này; một đoạn đường mà không biết bao nhiêu năm tháng từ thời bắt đầu cắp sách đến trường cho đến năm cuối của bậc trung học tôi đã lê bước đi qua. Tôi đã thuộc lòng gần như từng viên đá, từng bậc thềm. Thế mà giờ đây nó hiện ra trước mắt tôi lạ lẫm làm sao! Chỉ còn có con đường nằm trơ trọi còn hai bên lề đường thì không còn đâu nữa. Bộ hành và xe cộ cùng chia xẽ lòng đường vốn đã quá nhỏ hẹp này!

    Xe đã đến Ngã Tư Bình Hòa. Con đường cắt ngang là con đường gì đó nhỉ? Tôi rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy cái tên rất kỳ khôi trên tấm bảng chỉ tên đường: “Nơ Trang Long!” Tôi không thể nào quên được tên của con đường này. Cái tên Nguyễn Văn Học mà ngôi mộ vẫn nằm trong một công viên ở góc đường ấy với đường Chi Lăng, đối diện với “Trường Vẽ”. Giờ đây nó đã đổi thành con đường Nơ Trang Long, một cái tên rất xa lạ. Thôi cũng phải như vậy mà thôi; bởi vì Sài Gòn đã là Thành Phố Hồ Chí Minh thì đường Nguyễn Văn Học trở thành đường Nơ Trang Long cũng quá đúng với lý lẽ của nó.

    Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn, tôi cố hướng mắt nhìn về phía căn nhà của mình, nơi mà tôi đã sống suốt quảng đời thơ ấu. Quang cảnh đã hoàn toàn thay đổi. Những bải đất trống phía bên kia đường không còn nữa. Những cái sân nằm yên lặng sau những hàng rào phía trước các căn nhà cũng không còn thấy đâu. Thay vào đó là những kiến trúc tạp nhạp lấn ra tới tận mặt đường. Dẫu sao thì tôi vẫn không quên được vị trí của nhà mình; tôi ra dấu cho anh phu xích lô dừng lại.

    Bỗng tôi nghe có tiếng la lớn ở nhà bên cạnh: “A! Tụi bây ơi, anh Hai về kìa!”

    Quay lại nhìn người vừa nói, tôi không thể nhận ra được là ai. Ngày tôi đi thì những cô gái này chỉ là những đứa bé mà giờ đây thì chúng đã tay bồng tay mang. Hai đứa em tôi đang bán hàng trong nhà chạy ra, và rồi mẹ tôi cũng ra đón tôi vào. Tôi đã trở về nhà sau mười sáu năm bảy tháng hai ngày!

    Princess City, Indiana
    Mùa Xuân năm 2002.

    KALE

  4. #10
    Moderator
    chimtroi's Avatar
    Status : chimtroi v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Dec 2007
    Posts: 1,263
    Thanks: 5
    Thanked 3 Times in 3 Posts

    Default

    Cám ơn bác Tam73F. Phần audio quý NT và các bạn có thể nghe ở đây.

Trang 2/2 đầuđầu 12

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-04-2014, 02:59 AM
  2. Câu chuyện của người tù "Cải tạo" về từ Yên Bái
    By Longhai in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-20-2014, 04:05 AM
  3. Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 09-29-2013, 04:31 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •