Remember ?

Trang 1/2 12 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 6 trên 10

Tựa Đề: 17 năm trong các trại "cải tạo" của CSVN

  1. #1
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st 17 năm trong các trại "cải tạo" của CSVN

    Sắp tới ngày 30/4, để hiểu thêm cuộc sống khốn khổ, khốn nạn của những người "bên thua cuộc" sau ngày "giải phóng", mời bà con đọc 'Hồi ký Kale', kể về những năm tháng địa ngục trần gian mà ông đã trải qua trong các trại "cải tạo", kể từ khi bị "giải phóng", với 16 năm 7 tháng 2 ngày ở các nhà tù từ Nam ra Bắc, như Thủ Đức, Long Thành, Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải...

    Sách được viết xong năm 2002, gồm 5 phần, 53 chương. Ngoài bản in, còn có audio (click ở đây để nghe). Hãy đọc/ nghe và so sánh cuộc sống tù ngục của những người tù chính trị là những làm việc cho chế độ VNCH, với những người tù chính trị hiện nay, cũng như so sánh với cuộc sống của những người tù chính trị ở Liên Xô trong "Quần đảo ngục tù" của Alexandre Soljenitsyne, để thấy sự giống nhau/ khác nhau như thế nào.

    Về lai lịch, tác giả cho biết:

    "Ba tôi đã gia nhập tổ chức Việt Minh, một tổ chức do Cộng Sản thành lập nhằm mục đích quy tụ dân chúng để chống Thực Dân Pháp. Ông đã bị giết trong cuộc chiến ấy vào năm 1952, trước khi hoà ước Genève được ký kết, do đó tôi là con của một gia đình có người anh hùng đã chết trong chiến tranh, một 'liệt sĩ' theo như danh từ của Cộng Sản.

    Tôi còn có ba anh chị họ tập kết ra Bắc vào năm 1954, và tôi có nghe nói họ đã đi du học ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Một người bác của tôi cũng là một người Cộng Sản; ông ta bị bắt nhốt ở trại tù Côn Lôn từ năm 1956 đến năm 1962. Sau khi thả ra, ông lại tiếp tục hoạt động cho VC và chết năm 1970; ông ta cũng là một liệt sĩ! Với một gia đình như vậy, đôi lúc tôi nghĩ đơn giản rằng VC sẽ không trừng phạt tôi một khi chúng vào Sài Gòn.

    Sự thiếu hiểu biết về Chủ nghĩa Cộng Sản, về những người Cộng Sản khiến tôi cùng nhiều người dân miền Nam bị lẩn lộn giữa những người Cộng Sản với những nhà ái quốc. Khi còn trẻ, tôi vẫn thường tôn sùng những người Cộng Sản, đặc biệt là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, tôi đã đồng hoá họ với những nhà ái quốc. Tôi cũng từng nhập chung cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến chống Thực Dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Tôi đã từng làm nhiều bài thơ yêu nước đăng trên những tạp chí Sinh Viên..."





    17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN

    Hồi ký Kale




    Lời Mở Đầu

    Tôi không là văn sĩ, và cũng không có tham vọng làm một nhà văn. Tôi không phải là một nhà ái quốc theo đúng nghĩa của nó. Tôi chỉ là một người Việt Nam bình thường, làm những công việc bình thường trong một quốc gia không bình thường! Giống như hàng trăm ngàn người ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi đã vào những trại tập trung của Cộng Sản, cái mà chúng đặt tên là “Trại Cải Tạo”, để rồi đã phải trải qua suốt gần 17 năm dài ở trong ấy. Viết những trang hồi ký này, tôi chỉ muốn làm một chứng nhân của một giai đoạn lịch sử chứ không có tham vọng kết án những cái gọi là “tội ác của Cộng Sản” hay nêu gương những người anh hùng bất khuất ở trong đó.

    Những người Việt “Quốc Gia” mà trong đó có tôi đã thất bại trong cuộc chiến mà người Mỹ đặt tên là “Chiến Tranh Việt Nam” – cuộc chiến của Mỹ ở chiến trường Việt Nam -. Tôi không biết kết quả thật sự của cuộc chiến ấy là người Mỹ đã thắng hay bại mặc dù sau khi “Chiến Tranh Việt Nam” chấm dứt thì khối Cộng Sản đã lần lượt sụp đổ, nhưng điều mà tôi thấy rõ là những người Việt Quốc Gia đã phải chết trong các Trại Cải Tạo của Cộng Sản hay đang phải lưu vong khắp thế giới, và những người Việt Cộng Sản đang ngự trị trên toàn lảnh thổ Việt Nam. Chúng ta đã thất bại vì chúng ta đã không nêu được cái chính nghĩa “Quốc Gia” trong khi “Việt Cộng” có cái chính nghĩa “Giải phóng” đất nước của họ. Những nhà lãnh đạo của chúng ta đã làm gì trong thời gian chiến tranh, điều đó hẳn là hầu hết chúng ta đã nhìn thấy! Chúng ta đã bị lãnh đạo bởi những người chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cá nhân hay tập đoàn hơn là quyền lợi chung của đất nước. Chúng ta mệnh danh là những người “Việt Quốc Gia” nhưng lại trở thành những người đánh thuê cho Mỹ. Khi Mỹ rút lui thì chúng ta không còn một khối người “Việt Quốc Gia” nữa mà đã trở thành những toán quân rã ngũ. Đa số những nhà lãnh đạo thì lo đi tìm sự an toàn riêng cho bản thân và gia đình họ, phần lớn còn lại thì âm thầm hoặc tìm phương lẩn trốn ra nước ngoài hoặc nộp mình vào các trại cải tạo để mong hưởng sự “khoan hồng” của “Đảng và Nhà Nước”.

    Ở trong trại Cải Tạo, chúng ta cũng không có một sự đoàn kết nào mà lại sống âm thầm, nghi ngờ nhau, đổ lổi nhau, hoặc tự chia rẽ nhau. Cộng Sản đã khai thác triệt để những nhược điểm ấy để dể điều hành các trại cải tạo của họ.

    “Mỗi người Việt Nam đều có trong đầu một ông quan”, không biết cái thành ngữ này có đúng hay không, nhưng tôi thấy không ai trong chúng ta muốn làm một con ốc trong một cổ máy mà chỉ muốn làm người điều hành cổ máy ấy mà thôi, để rồi rốt cuộc thì chẳng ai có một cổ máy nào để điều hành!

    Chúng ta đã thất bại và những người Cộng Sản đã chiến thắng. Điều ấy là một thật tế không thể chối cải được! Mặc dù giờ đây thì đất nước ta đang bị cai trị bởi một chủ nghĩa “phi nhân” trong khi cả thế giới đã phải từ bỏ, điều quan trọng mà tôi thấy được là đất nước ta không còn chiến tranh nữa, dân tộc chúng ta không còn chết chóc tang thương nữa. Phần còn lại của chúng ta và của các thế hệ mai sau là làm thế nào để đất nước Việt Nam chúng ta thoát khỏi những tắc nghẽn của một chủ thuyết sai lầm để mà tiến lên.

    Tôi viết những trang hồi ký này chỉ để ghi lại những gì đã diễn ra cho chính bản thân tôi cũng như cho những người bình thường nhất ở trong những cái gọi là “Trại Cải Tạo” của Cộng Sản. Tất nhiên còn nhiều điều mà tôi không được chứng kiến hay trải qua, cũng như những điều mà tôi không thể nào nhớ hết được. Vì thế tôi mong những ai đã sống trong giai đoạn ấy nên ghi lại và tổng hợp thành một bức tranh toàn diện về các trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam.

    Như tôi đã nói, tôi không là một nhà văn cho nên không có trình độ để trao chuốt văn ngôn. Các bạn đọc nên xem đây như là một lối kể chuyện của một người bình thường. Đối với những ai đã sống trong các trại cải tạo thì coi như đây là một đóng góp để nhớ lại thời gian đen tối và đau khổ của chúng ta. Còn đối với những ai chỉ nghe nói đến hai chử “Cải Tạo” thì coi như đây là một sự tìm hiểu thêm về một giai đoạn của đất nước.

    Ghi nhớ tất cả các bạn đồng cảnh và
    những người đã chết trong các trại Cải Tạo.
    Gửi tất cả tình thương về mẹ!


    KALE



    Phần 1

    Tôi Đã Ở Lại



    Chương 1. Dấu Hiệu Đầu Tiên: Cuộc Di Tản Chiến Thuật.


    Trước ngày 30 tháng tư năm 1975, những tin tức về sự mất mát ở các tỉnh miền Trung Việt Nam đã khiến tôi rất lo lắng. Là nhân viên của cơ quan tình báo chính quyền Nam Việt Nam, điều gì sẽ xãy đến cho tôi một khi Cộng Sản tiến vào Sài Gòn? Tôi đã nghe thấy nhiều về những sự thãm sát ở Huế khi Cộng Sản tiến vào thành phố ở miền Trung này vào Tết Mậu Thân, 1968. VC dùng dây kẽm gai cột người ta lại với nhau rồi chôn sống; VC bắt người ta phải tự đào hố rồi bắn chết họ trong ấy. . . . Những cuộc di tản của hàng trăm ngàn người từ những thành phố miền Trung là một bằng chứng xác minh sự sợ hải của nhân dân đối với Cộng Sản. VC tạo sự kinh hoàng trong nhân dân ngay cả đối với những người dân thường. Dưới chiêu bài giải phóng, VC tạo nên cuộc chiến để nhằm thôn tính miền Nam Việt Nam; chúng thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và bắt đầu cuộc chiến chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mà chúng gọi bằng ngụy quyền miền Nam Việt Nam.

    Khi quân đội Mỹ vào Nam Việt Nam, VC đổi chiến tranh Việt Nam thành cuộc chiến chống lại cái mà chúng gọi là Đế Quốc Mỹ. Chúng đồng hoá Mỹ với Pháp; chúng nhập chung cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến chống Pháp thành một. Thật ra, Cộng Sản đã cướp công của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống Pháp để rồi chúng thôn tính miền Bắc Việt Nam biến thành một quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản. Việt Nam bị chia thành hai quốc gia: Miền Bắc Cộng Sản và Miền Nam Dân Chủ. Hai nước sẽ phát triển riêng rẽ để chờ một cuộc thương thuyết để thống nhất đất nước. Thể chế chính trị của quốc gia sẽ định đoạt bởi người dân qua một cuộc tổng tuyển cử dưới sự kiểm soát của tổ chức quốc tế. Tôi không muốn kể lại đây lịch sử của đất nước tôi vì đã có nhiều sách vở đề cập đến vấn đề này, nhưng vì có vài chi tiết có liên quan đến việc tôi đã ở lại đất nước trong khi hàng trăm ngàn người dân đã ra đi trong những ngày của cái gọi là “giải phóng” của Cộng Sản.

    Ba tôi đã gia nhập tổ chức Việt Minh, một tổ chức do Cộng Sản thành lập nhằm mục đích quy tụ dân chúng để chống Thực Dân Pháp. Ông đã bị giết trong cuộc chiến ấy vào năm 1952, trước khi hoà ước Genève được ký kết, do đó tôi là con của một gia đình có người anh hùng đã chết trong chiến tranh, một “liệt sĩ” theo như danh từ của Cộng Sản. Tôi không thể hình dung được cha tôi như thế nào vì ông đã chết khi tôi mới lên bảy, và ông đã bỏ nhà đi vào mật khu từ khi tôi mới lên hai. Tôi nghe nói ông là một cán bộ kinh tài của quân du kích. Trên đường đi công tác, ông cùng một người bạn bị phục kích và bị giết sau khi ông đã bắn chết hai lính lê dương và một lính Pháp. Tôi vẫn thường có một ít tự hào về cha tôi. Tôi còn có ba anh chị họ tập kết ra Bắc vào năm 1954, và tôi có nghe nói họ đã đi du học ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Một người bác của tôi cũng là một người Cộng Sản; ông ta bị bắt nhốt ở trại tù Côn Nôn từ năm 1956 đến năm 1962. Sau khi thả ra, ông lại tiếp tục hoạt động cho VC và chết năm 1970; ông ta cũng là một liệt sĩ! Với một gia đình như vậy, đôi lúc tôi nghĩ đơn giản rằng VC sẽ không trừng phạt tôi một khi chúng vào Sài Gòn.

    Mặt khác, tôi nghe nói rằng Cộng Sản là những người vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc; họ chỉ có duy nhất Đảng Cộng Sản của họ mà thôi! Trong tình trạng mập mờ đó, tôi không thể tưởng tượng được họ sẽ đối xử với tôi thế nào khi sự việc xãy ra!

    Sự thiếu hiểu biết về Chủ nghĩa Cộng Sản, về những người Cộng Sản khiến tôi cùng nhiều người dân miền Nam bị lẩn lộn giữa những người Cộng Sản với những nhà ái quốc. Khi còn trẻ, tôi vẫn thường tôn sùng những người Cộng Sản, đặc biệt là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, tôi đã đồng hoá họ với những nhà ái quốc. Tôi cũng từng nhập chung cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến chống Thực Dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Tôi đã từng làm nhiều bài thơ yêu nước đăng trên những tạp chí Sinh Viên. Thêm vào đó, sự lộn xộn của chính phủ Nam Việt Nam từ Tổng Thống Ngô đình Diệm đến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khiến mọi người dân miền Nam trông chờ một chính phủ vững mạnh ngỏ hầu có thể xây dựng đất nước. Hầu hết nhân dân miền Nam thường trông về cơ cấu chính quyền miền Bắc như một mẫu mực mà họ mong muốn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Bắc Việt đã ở tại vị từ năm 1954 đến năm 1975 có lẽ là một minh chứng hùng hồn cho một cơ cấu chính quyền vững chắc!

    Mặc dù có nhiều điều tồi tệ đã xãy ra trong khối Cộng Sản, từ Liên xô, Trung Quốc, và các nước Đông Âu, chúng tôi vẫn hy vọng Cộng Sản Việt Nam sẽ khác hơn. Những cuộc đấu tố ở miền Bắc trong giai đoạn cải cách ruộng đất sau 1955 với những cảnh con cái đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, cũng chưa đủ thuyết phục để nhân dân oán ghét Cộng Sản. Những hình ảnh về cuộc thãm sát tại các vùng tạm chiếm của Cộng Sản bị nghi ngờ là chiến thuật tuyên truyền của Chính Phủ Nam Việt Nam. Dân chúng bị lẫn lộn giữa cái tốt và cái xấu về những người Cộng Sản. Họ không thể phân biệt giữa chủ nghĩa Yêu Nước với chủ nghĩa Cộng Sản.

    Cuộc di tản chiến thuật khỏi Buôn Mê Thuột, Đà Nẵng được loan báo như một việc thực thi Hiệp Định Paris. Tôi chẳng biết gì về nội dung của Hiệp Ước này, nhất là những điều mật ước mà tôi nghe nói về việc phân chia đất nước tại vĩ tuyến 12 ở Phan Rang, một tỉnh miền Trung, để nhường cho Mặt Trận Giải Phóng. Hầu hết những gì tôi nghe được thường là những tin đồn. Trong một quốc gia đang có biến động chính trị, tin đồn nhiều khi còn được tin tưởng hơn những gì mà chính phủ phổ biến.

    Mặc dù là một nhân viên tình báo của chính quyền Nam Việt Nam, tôi không hề học tập về Chủ Nghĩa Cộng Sản. Trong nhiệm vụ hàng ngày, tôi chống lại những tổ chức của Sinh Viên thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Tôi chỉ biết rằng đó là những tổ chức con đẻ của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, một tổ chức của VC. Tôi đã thành công trong việc tái chiếm Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học vào năm 1972 từ trong tay của nhóm Bừng Sống, một tổ chức của Cộng Sản. Mặc dù bị lên án tử hình trên đài phát thanh giải phóng vê việc ấy, tôi vẫn thờ ơ. Họ chỉ biết bí danh tôi chứ không biết tên thật của tôi, hơn thế nữa, tôi vẫn đang sống trong vùng của mình. Ngược lại, nếu Cộng Sản chiếm Sài Gòn, điều gì sẽ xảy ra cho tôi một khi họ biết tôi là ai? Sự lo lắng cộng với sự thiếu hiểu biết khiến tôi không còn biết phải làm gì.


    Chương 2 . Những Điều Đó Xảy Ra Chính Trong Gia Đình Tôi.

    Ngày 19 tháng tư năm 1975, sau khi đưa vợ tôi vào văn phòng để làm việc, tôi ghé qua nhà mẹ tôi như thường lệ. Tôi gặp Tài, em tôi vừa từ Đà Nẳng về đến nhà. Tài là trung sĩ Thông Dịch viên trong Hải quân Nam Việt Nam. Đà Nẳng là một thành phố lớn ở miền Trung và cũng là một hải cảng quan trọng. Tài chỉ còn một bộ đồ dính thân vì đã phải trải qua bao nhiêu phương tiện mới về được đến nhà. Em tôi đã kể lại cho nghe bao nhiêu chuyện kinh khủng mà nó đã chứng kiến trên đường đi từ Đà Nẳng về Sài Gòn. Khi ở trên một chiếc tàu, một người đàn bà nhờ nó bế dùm đứa con để bà ta đi tìm một đứa khác đã bị thất lạc; sau đó bà ta biến mất vào đám đông. Nó không biết phải làm sao, và làm thế nào để bế đứa trẻ về nhà trên một lộ trình quá xa như thế, do đó nó đưa đứa trẻ cho một người lạ rồi chạy đi mất. Dân chúng chen chúc nhau leo lên tàu; nhiều người bị rơi xuống biển chết chìm.

    - “Tại sao em không đi luôn ra ngoại quốc?” Tôi hỏi Tài.

    - “Vì họ ra lệnh về Sài Gòn để chống lại VC.”

    - “Em có thấy VC vào Đà Nẵng không?”

    - “Không, tôi chẳng thấy ai ngoài dân chúng di tản khỏi Đà Nẳng. Họ ra lệnh chúng tôi rời Đà Nẳng cho VC, nhưng tôi chẳng thấy VC nào trong thành phố khi tôi rời nơi ấy. Tôi cũng không hiểu sao chúng ta lại thất bại mà không có cuộc đụng độ nào.”

    - “Em có nghe nói gì về những mật ước của Hoà Ước Paris không?”

    - “Họ nói nhiều về những điều này, nhưng thật ra tôi không được ai phổ biến một cách chính thức hết khi họ ra lệnh rời Đà Nẵng.”

    - “Làm sao em về được đến nhà?” Tôi tò mò hỏi.

    - “Đầu tiên, tôi đi theo tàu tôi về đến Cam Ranh. Từ đó đến Vũng Tàu, tôi lên được một chiếc tàu của Hải Quân Mỹ vì tôi là Thông dịch viên.”

    - “Sao tàu em không về Sài Gòn?”

    - “Tôi không biết; nó đi luôn ra đảo Phú Quốc.”

    - “Em thấy gì trên đường về Sài Gòn?”

    - “Dân chúng sợ hải; họ nói đến VC và những cuộc tàn sát dù họ chẳng thấy một tên VC nào trong thành phố. Họ chen chúc nhau trên đường ra hải cảng. Họ chất mọi thứ lên xe đạp, xe gắn máy, hay gánh lên vai. Trẻ con khóc lóc vì lạc mất cha mẹ; vài người nằm chết trên vỉa hè. Hàng ngàn người dân rời bỏ nhà cửa khi nghe VC về đến hoặc nghe các đơn vị quân đội ta rút lui. Anh làm trong Phủ Trung Ương Tình Báo, anh có biết gì về chương trình của Chính Phủ hay của Mỹ đối với tương lai của đất nước ta hay không?” Tài bất thần hỏi tôi.

    - “Không!” Tôi lúng túng trả lời.

    Tôi bảo Tài lấy quần áo tôi thay ra vì nó quá dơ sau hơn mười ngày đường. Khoảng 10 giờ, Lân, anh họ tôi từ cơ quan đến. Anh ấy là thượng sĩ Hải Quân. Vào Quân Đội từ năm 1962, anh ta làm về truyền tin trong Hải Quân Việt Nam ở tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài Gòn. Anh ấy đến hỏi tôi có định sửa soạn đi với anh ta ra ngoại quốc khi cần thiết không. Tôi trả lời anh ấy: “Tôi nghĩ chắc Cơ Quan của tôi đã chuẩn bị chương trình riêng cho nhân viên rồi. Trong trường hợp khẩn cấp, tôi sẽ gặp anh ngay.”

    Thật ra tôi không biết phải làm sao trong lúc ấy. Nghe tin về trình trạng căng thẳng của đất nước, tôi rất phân vân. Chúng ta có thể chiến đấu chống lại VC nếu họ tiến vào Sài Gòn; tại sao lại phải rời bỏ đất nước mà không chiến đấu chứ? Quân Lực chúng ta vẫn hùng mạnh. Vũ khí chúng ta vẫn còn đầy đủ ngay cả nếu Mỹ có ngưng viện trợ đi nữa. Tôi không thể hiểu nỗi tại sao chúng ta lại thua khi chúng ta đang giành được chiến thắng trên mặt trận và ngay cả ở hậu phương. Những sự rút lui của các đơn vị quân lực chúng ta khỏi các tỉnh miền Trung mà không có một trận đánh nào xãy ra đã làm dân chúng đâm ra hoang mang sợ hãi. Dân chúng di tản khỏi các thành phố mặc dù chưa thấy một VC nào tiến vào. Toàn bộ sự kiện ấy đã tạo nên một sự rối ren chưa từng thấy cho đất nước.

    Tôi nhìn ra đường phố trước nhà. Tiệm sửa xe đạp và xe gắn máy vẫn mở cửa như thường lệ. Tiệm tạp hoá vẫn ồn ào. Tiệm may và hớt tóc vẫn có khách. Vài người bán hàng rong đang rao hàng. Bộ hành vẫn ung dung. Xe hơi, xe gắn máy, và xe đạp vẫn qua lại. Mọi cái dường như vẫn sinh hoạt bình thường; không thấy một dấu hiệu nào của chiến tranh. Dân chúng Sài Gòn đã quá quen thuộc với chiến tranh kể từ năm 1945; họ nghe tiếng súng một cách lơ đểnh ngoại trừ trường hợp nó nổ ngay bên cạnh họ.

    Năm 1954, một triệu người dân miền Bắc di cư vào Nam; họ đã kể lại bao nhiêu điều ghê gớm về Cộng Sản, nhưng dân miền Nam vẫn nghi ngờ. Dân miền Nam đoán rằng những người dân miền Bắc vì quá nghèo đói đã vào Nam để kiếm sống. Chủ nghĩa Cộng Sản hay Chủ Nghĩa Xã Hội trong đầu óc của người miền Nam chỉ đồng nghĩa với sự đói nghèo. Sự tuyên truyền của Chánh Phủ Nam Việt Nam không đủ để chiêu dụ nhân dân miền Nam chán ghét chế độ Cộng Sản, thường thì dân chúng nghĩ đến quyền lợi của họ hơn là lý tưởng chống Cộng. Bên cạnh đó, họ vẫn cho rằng nếu VC tiến được vào Sài Gòn, họ có thể có đủ thời gian để rời khỏi đất nước: Cuộc di cư của hàng triệu dân miền Bắc sau hiệp định Genève là một minh chứng cho ý nghĩ đó.

    Tôi vẫn nghĩ đã có sẵn một kế hoạch di tản riêng của cơ quan tôi khi sự việc diễn ra, nhưng tôi lại nghĩ mọi việc không đến nỗi quá tồi tệ đến như vậy! Tôi chẳng hề muốn đi đến Mỹ hay bất cứ một quốc gia nào khác. Tôi sẽ ở lại đất nước nếu Cộng Sản để tôi làm một người dân bình thường, nếu không có sự trả thù. Mặc khác, tôi nghĩ Việt Nam sẽ tạm thời là một quốc gia trung lập khi chiến tranh chấm dứt. Một cuộc thương thuyết sẽ diễn ra sau đó để bàn về việc thống nhất đất nước. Trong thời gian ấy, tôi có thể chọn lựa giữa việc ở lại hay ra đi.

    Chiến tranh Việt Nam là cuộc Nội Chiến hay cuộc chiến giữa Chủ Nghĩa Cộng Sản và Chủ Nghĩa Tư Bản, cuộc chiến tranh Giải Phóng hay cuộc chiến tranh Ý Thức Hệ. Đó chỉ là những danh từ! Dân tộc Việt Nam ước muốn chấm dứt cuộc chiến ấy càng sớm càng tốt dù họ chưa biết điều gì xảy ra sau đó.

    Trên hai mươi năm chịu đựng chiến tranh, dân tộc Việt Nam đã quá chán ngán; chính tôi cũng thế! Sinh ra năm 1945, năm của Đệ Nhị Thế Chiến; Nhật Bản xâm chiếm đất nước tôi từ tay Thực Dân Pháp. Tôi đã sống qua ba cuộc chiến chống Nhật, Pháp, và cái gọi là chiến tranh Giải Phóng. Tôi chỉ mong mỏi hoà bình đến với đất nước tôi. Hy vọng của tôi cũng đơn giản như những lời yêu cầu của dân chúng Mỹ khi họ tụ tập đòi hỏi binh sĩ của họ rời khỏi Việt Nam ngay tức khắc. Sống bên kia bờ Thái Bình Dương, họ chẳng biết gì về sự đau khổ của nhân dân Việt Nam khi phải gánh chịu cuộc chiến giữa Cộng Sản và Tư Bản. Hàng ngàn lính Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam làm rúng động người Mỹ và cả Thế Giới. Thế thì hàng triệu người Việt Nam đã chết trong cuộc chiến ấy thì thế nào đây? Ý nghĩ ấy khiến tôi tức tối! Những giọt nước mắt đột nhiên trào ra.


    Chương 3. Một Tình Huống Bi Thảm

    Tôi có hẹn với những cộng tác viên của tôi vào trưa ấy, do đó tôi phải đến nhà hàng Sing-Sing ở đường Phan Đình Phùng để gặp họ. Lễ, người đã từng là Chủ Tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học, một trong những cộng tác viên ấy hỏi tôi.

    - “Anh có biết gì về việc rút lui của chúng ta khi VC chiếm Sài Gòn không?”

    - “Không, chưa biết!” Tôi lúng túng trả lời.

    - “Tôi chuẩn bị đi ra ngoại quốc trong vài ngày tới; anh có đi với tôi không?”

    - “Tôi nghĩ còn quá sớm để có quyết định như vậy. Ngoài ra, tôi còn phải hỏi sếp trước đã. Anh có tin tức gì cho tôi không?” Tôi hỏi về công việc để tránh những câu hỏi của Lễ.

    - “Nhóm Bừng Sống đang trỗi dậy ở trường sau một thời gian dài vắng bóng.”

    - “Tôi đã biết điều ấy; còn Hoan và Thắng thì thế nào?”

    Nhóm “Bừng Sống” là một tổ chức nằm vùng của VC đã được thành lập ở Đại Học Khoa Học từ năm 1965; Hoan và Thắng là hai lãnh tụ của nhóm ấy. Khi tôi thành công trong việc tái chiếm Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học từ nhóm này thì nhóm Bừng Sống biến mất. Hoan và Thắng trốn vào mật khu của VC. Chúng tôi bắt được Giàu, trưởng nhóm Bừng Sống.

    - “Chúng tôi chưa thấy Hoan và Thắng xuất hiện.” Lễ đáp lời tôi.

    - “Tôi phải đi gặp sếp cái đã. Hẹn các anh ngày mai lúc 10 giờ; chúng ta sẽ bàn về việc tương lai khi tôi biết được ít nhiều.”

    Đó là lần cuối cùng tôi gặp Lễ vì anh ta không đến gặp lại tôi vào ngày 20 tháng tư như đã hẹn trước. Tôi đoán anh ta đã rời bỏ đất nước.

    Tôi đến nhà an toàn ở đường Phan Thanh Giản. Dù đã 2 giờ trưa, hầu hết nhân viên đều ở đó để chờ đợi sếp Long. Chúng tôi đều mong mỏi biết rỏ mọi điều đang diễn ra trong nước và kế hoạch của Cơ Quan. Đẹp, thư ký của sếp bảo rằng Long đang có cuộc họp trong Dinh. Tôi nghĩ có lẽ ông ấy đang gặp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng không biết hỏi ai để xác minh điều ấy. Sau khi bị một máy bay F-5 do Nguyễn Thành Trung, trung uý thuộc Không Lực Việt Nam Cộng Hoà lái, thả bom vào dinh tuần trước, ông Thiệu đang ẩn mình trong dinh.

    Sếp tôi, Ông Long, mới 35 tuổi, còn quá trẻ khi được giữ chức vụ. Ông ta hơi mập và tóc xoắn nên mọi người trong cơ quan thường gọi là Long Quắn để phân biệt với một vài “Long” khác. Vì thường chơi Tennis vào buổi trưa nên da ông rám nắng; ông ta đi khá nhanh mặc dù đôi chân hơi ngắn. Tôi nghe nói ông ta có họ hàng xa với Bà Thiệu, đệ nhất phu nhân. Ông ta cũng ở tại Mỹ Tho, một tỉnh của miền Nam, gần nhà của gia đình Bà Thiệu. Tôi không biết điều đó thật không, nhưng tôi nghĩ Long rất có tài trong nhiệm vụ của ông ấy. Ông ta làm việc rất tận tụy nữa; nhiều người thì cho rằng vì ông ấy độc thân và lại có học vấn khá. Đó là điều rất hiếm trong một cơ quan đang điều hành hầu hết bởi những sĩ quan quân đội. Long đã tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa và Trường Quốc Gia Hành Chánh.

    Trong công tác hàng ngày, chúng tôi thường làm việc không có giới hạn giờ giấc. Đôi khi chúng tôi làm đến 2, 3 giờ khuya, ăn vài món gì đó rồi lại làm việc tiếp. Lúc khác chúng tôi lại ngủ cả ngày để lấy lại sức lực. Suốt thời gian làm ở Cơ Quan, tôi chưa hề nghỉ phép thường niên vì không có thời giờ. Tình trạng chính trị của Sài Gòn quá rối ren. Sinh viên của Viện Đại Học Sài Gòn và Viện Đại Học Vạn Hạnh (của Phật Giáo) biểu tình hầu như hàng ngày để đòi hoà bình và chống lại chính quyền. Hầu hết những cuộc biểu tình này đều bị giật dây bởi VC hay bởi những đảng phải chống lại chính phủ. Trung tâm của nó phát suất từ chùa Ấn Quang. Tôi không biết nhiều về mục đích của các đảng phái đối lập, nhưng tôi nghĩ rằng trong một quốc gia đang có chiến tranh, mọi sự gây xáo trộn đều là giúp đỡ cho kẻ thù.

    Long về đến nhà an toàn vào khoảng 3 giờ chiều, ông ta trông mệt mỏi và chậm chạp, không còn cái vẻ nhanh nhẹn như mọi ngày. Chúng tôi chờ đợi một tin xấu! Ném cặp lên bàn, ông ta bắt đầu bằng một giọng nói thấp.

    “Hôm nay tôi có đi họp; họ không đề cập gì về hiện tình đất nước. Họ chỉ bảo rằng chúng ta phải xếp đặt mọi việc tuỳ theo những gì mà chúng ta thấy cần. Mỹ đã bỏ rơi chúng ta, do đó chúng ta phải chiến đấu bằng chính sức lực của chúng ta. Chúng ta sẽ gặp lại vào ngày mai trong Cơ Quan để làm những việc phải làm.”

    Với những lời nói mập mờ ấy, chúng tôi biết rằng đất nước đang gặp khó khăn. Chúng ta chỉ là những quân cờ trên bàn cờ của những cường quốc. Họ đến đây với danh nghĩa của Hoà Bình; họ rời bỏ chúng ta cũng với danh nghĩa của Hoà Bình. Chúng ta phải chiến đấu một mình với Cộng Sản, không chỉ với Cộng Sản Việt Nam mà với Cộng Sản trên toàn địa cầu! Mỹ và Đồng Minh đã chấm dứt viện trợ có nghĩa là chúng ta phải tự gánh lấy gánh nặng của cuộc chiến. Chúng ta không sợ sự hy sinh xương máu mà chúng ta rất sợ sự phản bội.

    Tôi gặp Tuân và Banh, những người bạn thân của tôi trong Cơ Quan trước cửa nhà an toàn. Banh cho biết Thuận và Giang đã đi rồi! Banh đã từng là Chủ Tịch Sinh Viên Luật Khoa năm 1973. Thuận và Tuân đã từng làm việc chung với tôi khi chúng tôi mới vào làm ở Cơ Quan. Chúng tôi thường thu lượm tin tức của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn và của các nhóm chống chính quyền thuộc cái gọi là “Thành Phần Thứ Ba” vào những năm 1969-1970 trước khi làm việc cho Ban A17. (Ban chúng tôi có mật danh là A17 vì hiện lúc ấy có 17 phân khoa thuộc viện đại học Sài Gòn). Giang là người làm chung với tôi trong công tác; anh ta cưới một cô vợ giàu có và có lẽ gia đình họ đã tìm được cách vượt biên khi họ nghe được những tin tức có hại cho tài sản của họ. Tôi nghĩ có lẽ Thuận đã ra đi với gia đình anh của anh ta vì họ làm việc trong sân bay Tân Sân Nhất. Chúng tôi cũng thông cảm cho họ về việc rời bỏ này; họ phải lo đến cuộc đời họ và gia đình họ trước tiên.

    - “Chúng tôi chưa tính gì hết. Chúng tôi nghĩ phải chờ đợi kế hoạch chung của Cơ Quan vì chúng tôi không có phương tiện riêng. Còn anh thì thế nào?”

    Banh cười nói dường như muốn che dấu những lo lắng của mình.

    - “Tôi thì nghĩ chúng ta nhất định sẽ có kế hoạch chung vào ngày mai.”

    Tôi cố giữ bình tĩnh. Tôi không thể biết làm gì trong lúc ấy. Leo lên một chiếc tàu nào đó trong bến tàu Sài Gòn đối diện với trụ sở trung ương của chúng tôi hoặc đi vào phi trường để lên một chiếc phi cơ nào đó đến một quốc gia khác, điều này tôi có thể làm được cho một mình tôi, nhưng còn vợ tôi với đứa nhỏ còn trong bụng kia thì làm thế nào đây; cô ta đang có mang tám tháng. Điều tôi chờ đợi là một kế hoạch chung của cơ quan để di tản trong vòng trật tự, điều này sẽ an toàn hơn cho vợ tôi.

    Chúng tôi cưới nhau vào năm 1972 sau gần ba năm quen biết. Chúng tôi gặp nhau vào tháng 11 năm 1969; ngày đầu tiên tôi vào nhận việc ở Cơ Quan và cũng là ngày sinh nhật thứ 20 của vợ tôi. Chị vợ tôi và anh rể cô ta cũng làm trong Cơ Quan. Khi gặp cô ấy ở phòng nhận việc, tôi rất kinh ngạc vì cô ấy trông quá trẻ để làm việc cho một cơ quan tình báo! Cô ta mới vừa tốt nghiệp trung học.

    Sau gần ba năm chung sống, vợ tôi có mang và cũng rất hạnh phúc với đứa con trong bụng. Thật ra đó là lần thứ hai cô ấy có mang; lần đầu đã bị sẩy vào tháng thứ hai. Vợ tôi rất khổ sở khi một bác sĩ báo cho biết cô ấy không thể có con được vì một chứng bệnh nan y. Tôi đã phải đưa vợ tôi đi đến đủ loại thầy thuốc, kể cả những lang băm. Một bà thầy thuốc đông y bảo rằng bà ta có thể cho thuốc để vợ tôi có được một đứa con duy nhất mà thôi, và đó là đứa mà cô ấy đang mang trong bụng.

    Cuộc sống chúng tôi trong thời gian này rất bình an. Cô ta làm trong phòng tuyển mộ ở trụ sở trung ương; tôi vẫn thường đưa vợ tôi đến nơi làm việc mỗi bữa sáng và rước về mỗi bữa chiều. Tôi ít khi vào Cơ Quan vì tôi làm cho một ban công tác ngoại vi. Lương bổng chúng tôi không đủ xài nên tôi phải dạy thêm môn hoá học cho vài trường trung học tư thục ở Sài Gòn; đó là nguồn thu nhập chính của chúng tôi và cũng là ngụy thức của tôi.

    Nếu cuộc đời chúng tôi trôi qua một cách êm đềm như thế, tôi đã không phải viết những trang hồi ký này! Những biến động bất ngờ đã xãy đến làm đảo lộn hết mọi việc và mọi người dân trong đất nước tôi. Hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương lưu vong trên toàn thế giới. Hàng trăm ngàn nhân viên chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã bị giam trong những cái gọi là “trại Cải Tạo” của Cộng Sản từ Bắc chí Nam và một số đã chết trong ấy. Việt Nam trở thành một quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Đó có phải do lỗi của chúng tôi hay không? Tôi không muốn đổ lỗi cho bất cứ ai khác, nhưng chúng tôi làm được gì trong hoàn cảnh ấy? Chúng tôi không thể giải quyết được gì ngay cả hoàn cảnh cá nhân nữa. Làm sao chúng tôi có thể tự chống lại được với Cộng Sản trên toàn thế giới trong khi chúng tôi bị trói tay bởi sự bỏ rơi của một cường quốc và các Đồng Minh?

    Tôi không phải là một lãnh tụ của Việt Nam Cộng Hoà. Tôi không biết gì về những chiến lược của chánh phủ Việt Nam, nhưng tôi nghĩ cái gọi là “chiến lược” của những quốc gia nhỏ cũng chỉ là “chiến thuật” của những cường quốc mà thôi! Chúng tôi có thể chống lại VC trong những ngày tháng ấy và sẽ chết cho tổ quốc chúng tôi. Tôi không chối bỏ điều ấy, nhưng làm sao chúng tôi làm được việc ấy một khi họ buộc chúng tôi phải từ bỏ sức mạnh của chúng tôi.

    Tôi nghe rất nhiều lời phê bình đổ lỗi cho Chính Quyền nhất là các nhà lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hoà về việc đánh mất Nam Việt Nam. Tôi không biết điều đó đúng không, nhưng tôi nghĩ chúng ta cần phải chấp nhận cái lỗi chung của chúng ta đừng đổ cho vài người, ngay cả những cấp lãnh đạo. Tôi không bào chữa cho họ hay cho chúng ta. Tôi chỉ muốn nói để hiểu sự thật về những gì xảy ra trong đầu óc chúng ta trong những tháng ngày ấy. Chúng ta lẫn lộn giữa sự an toàn cho chính chúng ta và sự an nguy của đất nước, giữa sự ở lại hay ra đi. Tôi nghĩ những kẻ đã rời bỏ Việt Nam trong lúc ấy chưa hẳn là hèn nhát, những người đã ở lại chưa chắc đã là anh hùng. Mỗi người có hoàn cảnh và cơ hội khác nhau, và tôi đang cố nhớ lại hoàn cảnh và cơ hội của chính bản thân tôi trong thời gian ấy để tìm hiểu tại sao tôi lại ở lại!

    Tôi đến đón vợ tôi tại văn phòng của cô ta ở Số 3 Bến Bạch Đằng, đối diện với Bến Tàu Sài Gòn. Quang cảnh bến tàu rất bình thường; những chiếc tàu chiến của Hải Quân Việt Nam vẫn đậu nối đuôi nhau dưới bến. Vài thuỷ thủ và sĩ quan Hải Quân đang đi bộ trên vỉa hè gần Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Tư Dinh của Thủ Tướng nằm im lặng dưới bóng cây đa. Vài người lính gác đứng nghiêm phía trước dinh. Con đường Bạch Đằng từ Nguyễn Huệ đến Thống Nhất là khu vực quân sự; chỉ những người làm bên trong ấy mới được vào. Tôi cố tìm xem có điều gì bất thường hay không, nhưng chẳng thấy gì cả! Tôi tự hỏi tại sao mọi việc trông quá bình thường trong một hoàn cảnh lộn xộn như vậy của đất nước. Tôi hỏi vợ tôi sau khi cô ấy ngồi phía sau xe gắn máy:

    - “Em có nghe về kế hoạch của Cơ Quan mình không?”

    - “Không! Việc gì vậy anh? Em nghe có người nói rằng sếp chúng ta sẽ rời cơ quan và ông Phụ Tá Lộc sẽ thay thế. Đó chỉ là tin đồn vì em thấy ông Bình vào Phủ sáng nay.”

    - “Anh chưa biết điều gì thật sự xảy ra, nhưng anh nghĩ có lẽ có những hoàn cảnh xấu có thể đưa đến sự mất nước.”

    Vợ tôi chẳng quan tâm gì đến vấn đề chính trị. Cô ấy chẳng để ý điều gì ngoại trừ cuộc sống hàng ngày của chúng tôi. Tôi vẫn nhớ lúc Đảng Dân Chủ của Tổng Thống Thiệu ra mắt dân chúng, cờ của đảng ấy có hình dạng đối nghịch với cờ của Bắc Việt với nền vàng ngôi sao đỏ treo khắp nơi; tôi đùa với vợ tôi rằng đó là cờ của VC. Sợ hải, cô ta bảo tôi lái xe qua đường khác để tránh! Tôi không biết cô ta sẽ bảo tôi làm gì đây một khi lời nói đùa của tôi biến thành sự thật, một khi cây cờ đỏ sao vàng treo khắp nơi trong Sài Gòn! Tôi mỉm cười với ý nghĩ ấy để dấu đi sự lo lắng trong lòng.

    Chúng tôi đến nhà ba mẹ vợ tôi để tìm hiểu xem họ có biết gì không. Chị vợ tôi làm trong Ban Nghiên Cứu nói với tôi rằng chị ấy nhìn thấy những tin tức xấu trên tờ trình cho Tổng Thống mà chị ấy đánh máy hàng ngày. Tình trạng tồi tệ của đất nước chúng ta đã diễn ra, đặc biệt là những tỉnh miền Trung, sau khi Tổng Thống ra lệnh rút các đơn vị quân đội khỏi Buôn Mê Thuột qua đường liên tỉnh lộ số 7. Hàng ngàn dân chúng đã bị chết trên con đường mà báo chí gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng này. Tôi đã đọc được tin này trên báo chí, nhưng tôi không biết được điều gì sẽ xảy ra sau đó, nhất là kế hoạch cho đất nước theo như Hoà Ước Paris. Tôi muốn có một lời giải thích rõ ràng của những nhà lãnh đạo, và đang chờ đợi điều ấy. Làm việc cho một cơ quan trưc thuộc Phủ Tổng Thống, tôi nghĩ phải có một kế hoạch cho chúng tôi một khi có điều gì đó xảy ra.

    Linh, chồng của chị vợ tôi nói:

    - “Tôi thì không nghĩ VC có thể vào được Sài Gòn.”

    - “Sao anh biết chắc vậy?” Tôi cắt lời anh ta.

    Linh làm trong Ban Huấn Luyện của Cơ Quan. Anh ta trả lời tôi một cách lúng túng. “Tôi nghe nói chúng ta nhường một phần đất của chúng ta từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 17 cho Mặt Trận Giải Phóng và tạo thành một tuyến phòng thủ vững chắc từ Tuy Hoà để sẵn sàng thương thuyết với VC và Bắc Việt theo mật ước của Hoà Ước Paris.”

    - “Anh nghĩ chúng ta có đủ sức để đánh lại VC mà không cần viện trợ của Mỹ hay không?”

    - “Tôi nghĩ có thể được. Trong Tết Mậu Thân, chúng ta chưa có những vũ khí tối tân như M16 mà chúng ta vẫn thắng được VC với AK. Giờ đây chúng ta có nhiều thứ.”

    - “Sau trận chiến Nam Lào, quân đội chúng ta yếu hơn; tôi không biết chúng ta có thể chịu đựng được một cuộc tổng tấn công như Tết Mậu Thân hay không?”

    - “Chiến trường ở Đường 9 Nam Lào là một cuộc thí quân! VC biết hết mọi chiến lược của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ đó là kế hoạch của Mỹ, họ không muốn quân đội ta quá mạnh đến nỗi họ khó có thể điều khiển.”

    - “Mọi cái chúng ta nghĩ chỉ là điều chúng ta suy đoán. Chúng ta không có được những lời giải thích rõ ràng của những nhà lảnh đạo của chúng ta. Giờ đây tôi nghĩ có lẽ chúng ta phải quyết định những gì phải làm trong tình trạng nguy kịch này. Chúng ta nên tự đặt kế hoạch cho chính mình chứ không nên chờ đợi từ những nhà lãnh đạo của chúng ta nữa.”

    - “Làm sao chúng ta có thể tự mình làm được gì?” Linh đột nhiên hỏi.

    - “Đó là lý do mà chúng tôi đến đây. Vợ tôi và tôi không thể làm gì được một mình, nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta hợp lại thì có thể có được một ý kiến hay!”

    Chúng tôi im lặng nhìn nhau. Mỗi người đều có riêng một mối lo. Tôi nghĩ chẳng ai có thể biết phải làm gì trong lúc ấy nên tôi phá tan bầu không khí im lặng nặng nề ấy.

    - “Chúng ta sẽ suy nghĩ đến những điều này và sẽ bàn lại sau vậy.”

    Trên đường về nhà, tôi đi ngang qua chợ Bến Thành, một trung tâm thương mại của Sài Gòn và của miền Nam Việt Nam. Xe cộ đầy đường. Hàng hoá tràn ngập trên vỉa hè. Khách hàng chen chúc trong những cửa hàng. Vài cặp tình nhân vai sánh vai lang thang trên vỉa hè Lê Lợi. Mọi việc diễn ra giống như mọi ngày. Tôi không thể nhận ra được không khí chiến tranh trong một bối cảnh như vậy. Quán cà phê “La Pagode” trên đường Lê Lai nơi tôi thường ngồi uống cà phê và nghe nhạc vẫn đang mở cửa; tiếng nhạc quen thuộc êm đềm vọng ra khi tôi đi ngang qua. Tiếng chuông của nhà thờ Đức Bà vang lên một giọng ngân làm nhẹ nhàng tâm hồn tôi. Là một Phật Tử, nhưng tôi lại thích nghe tiếng chuông ấy vì nó khiến tôi cảm thấy nhẹ nhàng bởi giọng điệu trong sáng của nó. Trụ sở vĩ đại của Toà đại sứ Mỹ nằm một cách kiêu hãnh đối diện với trụ sở của Toà đại sứ Anh Quốc nằm im lìm trên đại lộ Thống Nhất. Vài quân nhân thuỷ quân lục chiến Mỹ trong chiến phục với M16 trên tay đứng gác ở cổng Toà Đại Sứ và trên hai vọng gác ở góc tòa nhà.

    Chúng tôi về đến cư xá Thanh Đa nơi chúng tôi đang ở. Gia đình chị vợ tôi ở tầng trên, cũng nơi ấy; hai người đã về trước chúng tôi. Chúng tôi vừa dời về đây vài tuần nên chỉ có một ít đồ đạc trong nhà: một bộ đồ bằng mây trong phòng khách, tấm nệm trải trên sàn trong phòng ngủ, vài đồ đạc để nấu nướng trong nhà bếp. Phòng ăn vẫn trống trơn. Tôi nhìn ra cửa sổ. Dòng sông Thanh Đa lấp lánh trong ánh chiều. Vài chiếc ca-nô rẽ sóng phía xa xa. Hàng dừa bên kia sông im lìm phản chiếu bóng cây trên mặt sông. Màu tím nhạt của bầu trời kết hợp với màu xanh đậm của cây cối tạo nên một bức tranh hài hoà. Tôi thích được thưởng thức một cuộc sống như thế, nhưng điều gì đây sẽ xảy ra cho tôi trong một bối cảnh đất nước như thế này! Sự lo âu đột nhiên xâm chiếm lấy hồn tôi.

    Những tiếng gõ cửa làm gián đoạn dòng suy nghĩ của tôi. Linh ghé qua để trò chuyện như thường lệ, nhưng tôi nhìn ra được dáng vẻ buồn bả của anh! Linh và Lan, chị vợ tôi, có hai đứa con trai. Tôi không nhớ họ lấy nhau vào thời gian nào, nhưng con của hai người một đứa lên ba còn một đứa mới vài tháng tuổi. Linh di cư vào Nam năm 1954 và hiện đang làm việc trong Cơ Quan. Họ gặp nhau trong ấy. Cao khoảng một thước bảy, với khuôn mặt dài và luôn tươi cười, Linh dể gây cảm tình với mọi người. Theo Linh hôm nay còn có Hào, bạn cùng học với tôi ở Đại Học Khoa Học, làm trong Cơ Quan và hiện đang biệt phái sang Cảnh Sát. Hào vừa cưới vợ cách đây không lâu; tôi nghĩ anh ta cũng đang lo lắng cho số phận mình. Tôi hỏi Hào có biết gì không, nhưng anh ta chỉ nhún vai mà không trả lời gì hết.

    Tôi bắt đầu cuộc nói chuyện sau khi vừa ngồi vào chổ ở ngoài ban công.

    - “Hai anh có ai biết tin tức gì liên quan đến diễn tiến cuộc chiến đang diễn ra ở Xuân Lộc không?”

    - “Chúng ta đang đưa hết quân vào chiến trường ấy. Tôi hy vọng chúng ta có thể chặn đứng được VC ở đó để chờ viện trợ của Mỹ.” Hào xác định.

    - “Tôi thì không tin Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ nữa! Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã thất bại trong việc yêu cầu Quốc Hội Mỹ viện trợ 722 triệu đô la. Có lẽ bây giờ chúng ta phải tự lực mà thôi.” Linh nói.

    - “Các anh nghĩ Tổng thống Pháp, Valery Giscard d”Estaing, có thể giúp chúng ta được gì trong việc tìm kiếm một giải pháp cho Việt Nam không?” Tôi hỏi một cách vô hy vọng.

    - “Đó là cố gắng của Pháp để giúp Việt Nam, tôi nghĩ đó cũng là một thoáng hy vọng cho chúng ta và cũng là ước muốn của đám “thành phần thứ ba” nữa.” Hào lại nhún vai.

    Tôi nghĩ tất cả mọi người trong chúng ta đều lo lắng cho số phận của đất nước và của chính bản thân mình trong lúc ấy. Chúng tôi đều làm trong cơ quan tình báo, thế mà lại chẳng biết gì về kế hoạch của quốc gia. Tất cả những gì chúng tôi biết được phần lớn là từ báo chí ngoại quốc.

    Trong những ngày này, những tin tức từ những tạp chí như Times hay Newsweek hay từ những đài phát thanh như Voice of America và BBC dường như đều có ý định đạp đổ đất nước chúng tôi. Tân “nội các chiến tranh” của Tổng Thống và Tân Thủ Tướng dân sự Nguyễn Bá Cẩn không thể nắm vững được chính quyền. Dân chúng hoang mang về những tin đồn tung ra khắp nơi. Trừ vài cá nhân giàu có có thể bỏ ra tám ngàn đô la để mua một tấm giấy thông hành, mọi người khác đều không thể có được điều kiện để trốn ra khỏi nước một khi VC tiến vào, ngay cả những người làm việc cho Mỹ và cho Chính Phủ và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Mọi người đều đang mong chờ Mỹ định đoạt dùm số phận của họ theo như Tổng Thống Mỹ đang yêu cầu Quốc Hội Mỹ chuẩn chi ngân khoản tài trợ để giải cứu hai trăm ngàn người dân miền Nam đã cộng tác với Mỹ trong cuộc chiến. Thật là một điều bi thảm khi phải đặt cả cuộc đời mình trong tay của người khác!

    Hội đàm Paris là chiến thắng cho cả VC lẫn Mỹ. Sự sụp đổ của Phnom-Penh là sự bắt đầu. Điều gì kế tiếp sẽ xảy ra cho đất nước chúng tôi? Một chiếc phi cơ vận tải C5A bị rơi một cách kinh hoàng vào tuần qua làm chết nhiều trẻ em mồ côi vẫn là một mối nghi ngờ về việc Mỹ đang có ý định bỏ rơi Việt Nam. Một khi số trẻ em mồ côi hầu hết là lai Mỹ đã ra đi, chúng tôi không biết số phận của chúng tôi sẽ ra sao tiếp theo đó. Có thể nào nhờ đó mà Mỹ có thể tiếp cứu chúng tôi dễ dàng hơn khi điều tồi tệ nhất xảy ra, hay đó chính là điều duy nhất mà người Mỹ làm được ở Việt Nam trước khi họ phủi tay. Với những sự việc như thế, tại sao chúng ta không tự tìm cách cứu lấy mình. Tôi hỏi Linh và Hào về khả năng có thể di tản khi cần thiết.

    - “Chúng ta không có tiền để mua thông hành, do đó chỉ còn cách chờ kế hoạch chung của Phủ.” Linh nói một cách buồn bã.

    - “Tôi thì hy vọng rằng Cơ Quan của chúng ta đã có sẵn sàng một kế hoạch. Tôi không thể nào nghĩ được một cơ quan tình báo mà lại không có sẵn một kế hoạch để lo cho nhân viên trong tình huống nguy kịch.” Hào nói một cách không chắc chắn.

    - “Ngoài ra, Cơ Quan chúng ta nằm kế bên bến tàu; tôi nghĩ trong tình hình khẩn cấp chúng ta có thể leo lên tàu để ra đi. Điều đáng lo cho chúng ta là gia đình chúng ta.” Tôi nói mà buồn rầu nghĩ đến vợ tôi.

    Chúng tôi đều biết rằng trong tình trạng khẩn cấp thì chính gia đình chúng tôi là cái mà chúng tôi lo âu nhiều nhất, và những gì chúng tôi đang bàn tính chính là về sự an toàn cho gia đình chúng tôi. Tôi vẫn thường nghe một thành ngữ rằng: “nước mất, nhà tan”, và sự tuyên truyền của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà về sự “Tắm Máu” khi VC tiến vào luôn luôn là một ám ảnh trong tâm tư tôi. Tôi không sợ chết nếu nó có thể đem lại sự an toàn cho gia đình tôi, nhưng tôi chỉ lo sợ cho sự đau khổ mà gia đình tôi phải chịu khi việc tồi tệ diễn ra.

    Một khoảng khắc im lặng bao trùm sau lời tôi nói. Tôi không biết làm thế nào để phá tan sự im lặng ấy, do đó tôi kể lại những điều mà tôi nghe sếp tôi nói vào sáng hôm ấy. Cuối cùng tôi đi đến một kết luận rất vô nghĩa.

    - “ Có lẽ chúng ta sẽ biết được ít nhiều vào sáng ngày mai trong Cơ Quan.”

    Hào từ giã. Linh bảo tôi đi với anh ấy sang nhà chị anh để hỏi coi có chương trình nào không. Anh rể của Linh là một giám đốc trong bộ Dân Vận và Chiêu Hồi. Ông ta không có ở nhà, và chúng tôi hẹn gặp lại hôm sau.

    Chúng tôi về nhà với tâm tư rất bối rối. Linh bảo tôi gói ghém những thứ cần thiết để đề phòng tình huống khẩn cấp. Chúng tôi chỉ có một cái túi xách tay nhỏ từ những ngày đi trăng mật, do đó chúng tôi lên mượn Linh một cái ba-lô cho dể mang và còn phải phụ giúp vợ tôi vì cô ấy quá nặng nề với cái bầu. Tôi bỏ vào túi xách vài bộ quần áo cho chúng tôi, và một ít đồ dùng cho đứa trẻ sắp ra đời nữa. Tôi nói đùa với vợ tôi rằng nếu con chúng tôi sanh ra trên đường đi trốn thì phải đặt tên nó là “Di Tản” để nhớ lại chuyện này. Chúng tôi cười để xoa đi bao nỗi lo sợ.


    Chương 4. Phủ Trung Ương Tình Báo Chuẩn Bị Di Tản

    Tôi đến Trụ Sở Trung Ương sớm hơn mọi ngày. Sau khi đưa vợ tôi vào văn phòng, tôi đi thẳng đến khu nhà của Ban A17 chúng tôi thay vì đi đến trường để dạy học mặc dù hôm ấy tôi có giờ dạy. Tôi không thể nào xuất hiện trước mặt học trò của tôi được. Tối hôm qua, tôi đã mất ngủ mặc dù đã uống thuốc ngủ; quá nhiều vấn đề khiến tôi bị nhức đầu. Tôi phải nói vợ tôi gọi báo bệnh dùm.

    Khu nhà Ban A17 của chúng tôi ồn ào chứ không im lặng như thường lệ. Tôi nghĩ rằng giờ ấy còn sớm thế mà mọi người đều có mặt đông đủ. Đẹp, thư ký của sếp tôi đang đánh máy cái gì đó. Tuân bảo tôi cô ta đang làm danh sách và địa chỉ của nhân viên đề phòng trường hợp khẩn cấp. Ở nước tôi vào lúc ấy, người dân chưa dùng điện thoại ngoại trừ những gia đình giàu có hoặc các cơ sở thương mại. Sự liên lạc với nhau thường được thực hiện bởi những liên lạc viên; anh ta lái xe gắn máy đi tìm những người cần thiết để báo lại những điều cần phải làm. Đôi khi chúng tôi lại không ở tại nhà mình, do đó chúng tôi cần có một địa chỉ chính xác trong những trường hợp như thế này. Tôi ghi lại địa chỉ của mẹ tôi thay vì địa chỉ của tôi vì tôi không muốn ở một mình trong nhà tôi trong trường hợp này.

    - “Có gì xảy ra trong cơ quan chưa?” Tôi hỏi Tuân.

    - “Chưa có gì đặc biệt! Tôi nghĩ chắc phải đợi sếp vào thì mới biết. Không biết các nơi khác trong Phủ có làm danh sách không, nhưng theo tôi thì chắc phải có điều gì đó quan trọng.”

    - “Ai sẽ là người liên lạc? Tôi nghĩ chắc là Hiệp và Điền chứ gì?

    - “Tôi cũng nghĩ thế, nhưng theo tôi thì chúng ta nên vào đây thường hơn để tự lo liệu lấy mình. Tại sao anh không điện thoại hỏi bà xã ở bên đó xem có gì không?” Tuân đột nhiên hỏi tôi.

    - “Tôi cũng định sẽ điện thoại hỏi vợ tôi, Lan và Linh nữa để chúng ta có thể biết được vài điều đang diễn ra trong cơ quan.”

    Với hàm râu chưa cạo, Tuân trông lớn hơn số tuổi ba mươi hai. Chúng tôi thường gọi đùa là tên Tây lai vì hàm râu quai nón và cái sống mũi cao của Tuân. Trong những ngày đầu tiên mới vào làm trong cơ quan, Tuân và tôi thường làm chung với nhau trong “Đội Công Tác Sinh Viên”. Chúng tôi gia nhập các cuộc biểu tình của sinh viên để thu nhặt tin tức. Chúng tôi cùng nhập ngũ chung một ngày, ở chung trong một trung tâm huấn luyện. Sau khi trở về làm cho Cơ Quan, tôi phụ trách công tác ở Đại Học Khoa Học còn Tuân ở Đại Học Văn Khoa, nhưng chúng tôi vẫn thường hỗ trợ nhau. Vợ của Tuân cũng là bạn học với vợ tôi; chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đi chơi chung với nhau do đó hai chúng tôi là những người bạn thân.

    - “Tôi nghĩ chúng ta đang đứng ở bên bờ vực.” Tuân cắt ngang. “Hai vợ chồng tôi chắc sẽ tính chuyện ra đi càng sớm càng tốt!”

    - “Hy vọng hai người sẽ làm được việc ấy. Hoàn cảnh hai người tương đối dễ dàng hơn tôi; vợ tôi quá nặng nề với cái bầu, tôi không thể làm gì khác hơn là chờ đợi chương trình của cơ quan. Hơn nữa, tôi nghĩ không lẽ một cơ quan tình báo mà lại không có một chương trình lo cho nhân viên trong tình trạng nguy kịch hay sao.”

    - “Tôi hy vọng thế, nhưng ít ra chúng ta cũng nên nghĩ đến điều ấy. Tôi thật không biết tình trạng đất nước ta quá tồi tệ đến thế sao.” Tuân lo lắng nói.

    Mọi nhân viên trong ban chúng tôi đang bàn tán về tình trạng xấu của đất nước, nhưng thật ra chúng tôi không rõ nó tồi tệ đến mức nào. Chúng tôi không thể tin được một ngày chúng tôi có thể mất nước mà chỉ nghĩ đến một trận chiến lớn với VC khi chúng tiến vào Sài Gòn mà thôi. Có tin đồn là chúng tôi sẽ rút về vùng 4 ở đồng bằng sông Cửu long để chống lại VC. Nhưng cuộc chiến ở Xuân Lộc vẫn đang tiếp diễn. Chúng tôi làm trong một cơ quan chuyên lo về những vấn đề chính trị, nên cũng không biết nhiều về việc quân sự. Đó chính là nhược điểm của chúng tôi.

    Trong một quốc gia mà chiến tranh diễn ra quá lâu, các vấn đề chính trị, quân sự, và kinh tế đều bị lẫn lộn nhau. Những nhà lãnh đạo quân sự trở thành lãnh đạo chính trị đã tạo thành sự lộn xộn cho quốc gia. Đất nước không có được một nhà lãnh đạo lớn có thể kết hợp sức mạnh của toàn dân để chống lại kẻ thù. Phó thủ tướng Trần Văn Hương, người đại diện cho miền Nam nhưng lại không có thực quyền, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một trung tướng nhưng lại không đại diện được cho quân đội. Mỗi một tướng lãnh là một ông vua trong vùng với quyền lực riêng của mình. Sự chia rẽ trong hàng ngũ tướng lãnh càng lúc càng trầm trọng khiến binh lính trở nên nghi ngờ. Thiếu Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống, và Đại Tướng Dương Văn Minh, kết hợp với nhóm Phật Giáo Ấn quang và với cái gọi là “Thành Phần thứ Ba” để chống lại Tổng Thống. Họ đều muốn tổng thống phải từ chức. Tôi không biết họ làm được gì cho đất nước một khi họ nắm quyền hành. Một vài ngôi sao sáng trong bầu trời chính trị đã bị giết chết như Nguyễn Văn Bông, giám đốc trường Quốc Gia Hành chánh và cũng là chủ tịch đảng Cấp Tiến.

    Tôi nghĩ phương cách hay nhất là sự đoàn kết toàn dân như một câu tục ngử của Việt Nam“Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Tôi không đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo về sự đánh mất đất nước, nhưng chính họ là những người đã nắm vận mệnh đất nước trong tay. Có một câu nói của người xưa rằng “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, tôi nghĩ thêm rằng “nhất tướng thất bại triệu cốt khô!”

    Tôi điện thoại hỏi vợ tôi ở phòng tuyển mộ và chị vợ tôi ở Ban Nghiên cứu; họ đều đã làm danh sách cho nhân viên. Chúng tôi hiểu rằng đó là dấu hiệu xấu của đất nước. Tuy nhiên chúng tôi không biết được xấu đến mức nào, và chúng ta phải làm gì để giải quyết. Đi ra nước ngoài như nhiều người đã làm, chuẩn bị chống lại VC khi chúng tiến vào Sài Gòn, hay rút về đồng bằng sông Cữu Long như tin đồn? Chúng tôi không biết thật sự phải làm gì. Chỉ làm một danh sách thì không thể giải quyết được gì! Chúng tôi muốn có một lời giải thích rỏ ràng, và chúng tôi đang chờ sếp vào.

    Long đi nhanh vào phòng. Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Điều này bất thường vì ông ta không có thói quen như vậy. Ông ta thường đi vào hội trường để trò chuyện với chúng tôi trước khi vào văn phòng riêng. Chúng tôi đều mong những lời của ông ta. Khoảng nửa giờ sau, ông ta đi ra với một dáng buồn bã.

    “ Tôi rất lấy làm buồn mà báo tin rằng chúng ta đang phải trải qua một giai đoạn khó khăn và nguy hiểm. Nhiều áp lực buộc Tổng Thống phải từ chức, và tôi không biết ông ấy có từ chức không. Tôi cũng không biết ai sẽ thay Tổng Thống Thiệu nếu ông ấy từ chức. Phó Tổng Thống chỉ là tạm thời mà thôi. Thêm vào đó, tôi không biết đất nước sẽ ra sao trong tình trạng như thế này. Chúng ta đang lập danh sách theo như lệnh của cấp trên, nhưng tôi không biết để làm gì. Tôi chỉ mong chúng ta bình tĩnh trong mọi tình huống. Chúng ta sẽ làm việc như thường lệ, và chúng ta cũng sẽ hợp sức nhau.”

    Nhiều cái “tôi không biết” của ông Long khiến chúng tôi phân vân hơn lúc nào hết. Chúng tôi không chờ đợi một ý kiến mơ hồ như vậy. Trong tình trạng như thế, chúng tôi nghĩ một cấp chỉ huy cần nên trình bày rõ ràng sự thật cho nhân viên chứ không nên che lấp bằng những lời lẽ mập mờ. Chúng tôi không cần biết ai sẽ là Tổng Thống; điều chúng tôi cần muốn biết là tình trạng đất nước như thế nào và chúng tôi phải đối phó ra sao. Tôi nghĩ ông Long cũng đã bị mơ hồ bởi vì ông ta là bà con với bà Thiệu; một khi ông Thiệu từ chức, ông Long cũng mất đi hậu thuẩn và cũng có thể mất đi chức vụ. Có lẽ ông ta đã quá chú ý đến địa vị của mình nhiều hơn là vận mạng của đất nước! Ông Long là một ứng viên sáng giá trong chức vụ Đặc Uỷ Trưởng mặc dù ông ta còn trẻ và không phải là một sĩ quan quân đội. Ông ta đã thành công hầu hết trong mọi công tác mà ông ta nắm giữ, và ông ta cũng có học vấn hơn nhiều người lãnh đạo trong cơ quan. Trong ban của chúng tôi, hầu hết nhân viên đều đã tốt nghiệp bậc Trung Học, và một số tốt nghiệp Đại Học. Để điều hành một ban như thế, Long có nhiều thuận lợi hơn một sĩ quan quân đội mặc dù cơ quan đang được lãnh đạo bởi quân đội.

    Long đã đi sau khi nói chuyện. Tuân, Banh, và tôi đi ra quán cà phê La Pagode như thường lệ trước khi đi gặp các cộng tác viên.

    - “Các bạn có nghĩ rằng ông Thiệu sẽ từ chức hay không? Tôi bắt đầu.

    - “Tôi nghĩ ông ta sẽ từ chức vì dân chúng có vẻ không ưa ông ấy sau vụ độc diễn trong kỳ bầu cử Tổng Thống vừa qua. Tuy nhiên tôi không biết ai sẽ làm Tổng Thống trong lúc này.” Banh nói nhanh, “tôi nghĩ có lẽ Tướng Dương Văn Minh và Tướng Nguyễn Cao Kỳ là sáng chói nhất.”

    - “Tôi thấy Big Minh đã nắm vai trò lãnh đạo một lần rồi và đã không làm được gì cho đất nước. Còn ông Kỳ là một Cao Bồi trong quân đội; làm thế nào ông ta có thể lãnh đạo đất nước trong tình huống như thế này?” Tuân đưa ý kiến.

    - “Tôi cũng đồng ý! Đối với tôi thì sự thay ngựa giữa dòng không phải là một giải pháp hay trong lúc này. Ông Thiệu thật ra không hoàn hảo trong vai trò của ông ấy đang nắm, nhưng nếu phải chọn giữa ba người này thì có lẽ tôi chọn ông ta. Ngoài ra tôi không biết ai thích hợp hơn trong lúc này.” Tôi góp ý.

    - “Theo tôi thấy thì vài vị tướng lãnh và cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba” muốn thương thuyết với VC về hoà bình đất nước, nhưng làm sao chúng ta tin được Cộng Sản.” Tuân nói.

    - “Đúng vậy! Người Mỹ đã không còn muốn cái mà họ gọi là “Chiến Tranh Việt Nam” nữa; dân chúng Mỹ thì nghĩ rằng đây là cuộc nội chiến giữa Nam và Bắc Việt Nam. Họ muốn chúng ta tự giải quyết cuộc chiến của chúng ta. Họ cũng chẳng cần biết rằng đây là cuộc chiến tranh giữa Chủ nghĩa Cộng Sản và Chủ nghĩa Tư Bản mà chúng ta chính là nạn nhân. Tôi nghĩ chính người Mỹ muốn ông Thiệu từ chức và giải quyết chiến cuộc qua thương thuyết, và đó là áp lực chính.” Banh nói nhanh nhẩu như thường lệ.

    Hàm râu càm mà không có ria mép khiến Banh trở nên trông buồn cười ở cái tuổi mới hai mươi sáu. Banh là họ hàng bên ngoại với gia đình Đỗ Kiến ở Mỹ Tho; Đỗ Kiến Nhiểu, đô trưởng Sài Gòn là cậu của anh ta. Tôi cũng nghe nói rằng gia đình Đỗ Kiến là họ hàng với Bà Thiệu, đệ nhất phu nhân. Một khi nhà lãnh đạo đặt họ hàng ông ta trong các chức vụ quan trọng điều đó có nghĩa là ông ta không tin tưởng cấp dưới. Đó cũng là lý do để các lực lượng khác có cơ hội đối kháng. Sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng Hòa và cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm và các em của ông ta Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn là một chứng minh rỏ ràng. Các tăng lữ Phật Giáo đã nắm vai trò chính trong sự lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, và giờ đây họ lại nắm phần quan trọng trong sự đối đầu với tổng thống Thiệu. Lực Lượng thứ Ba thật ra cũng chẳng có thực lực ngoài hai tướng Kỳ và Big Minh mà cả hai đều có sự khác biệt nhau. Vài người khác như bà luật gia Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân, ni sư Huỳnh Liên, vân vân chỉ dựa vào lực lượng Phật Giáo Ấn Quang; thật ra thì VC chính là phần tử chính len lỏi trong đó. Nguồn nhân lực chính là lực lượng Sinh Viên thì đã bị nhóm sinh viên của chúng tôi bao vây từ năm 1972 sau khi chúng tôi thành công trong việc giành lại Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn từ tay Huỳnh Tấn Mẫm, một tên Cộng Sản. VC không còn có thể lợi dụng Sinh Viên được nữa nên chúng thành lập vài nhóm như “Lực Lượng Thanh Niên Cứu Đói”, và “Nhóm Ký Giả ăn mày” để quấy động tình hình Thủ Đô.

    Ngoại trừ vài lực lượng chống đối với Tổng Thống Thiệu, tình hình thủ đô vẫn lặng yên sau khi cuộc rút lui khỏi Buôn Mê Thuột và Đà Nẵng được loan báo. Dân chúng cho rằng Nguyễn Văn Thiệu là chướng ngại cho hoà bình; nhiều áp lực từ mọi phía yêu cầu ông từ chức. Cơ quan chúng tôi là một bộ phận trực thuộc phủ tổng thống, do đó sự thay đổi tổng thống cũng đồng nghĩa với sự thay đổi trong cơ quan.

    - “Theo các anh thấy thì thay đổi tổng thống có thể giúp đất nước ta tiến đến hoà bình hay không?” Tôi hỏi.

    - “Tôi không nghĩ vậy!” Tuân nói một cách buồn bã, “đã nhiều lần chúng ta thay đổi cấp lãnh đạo nhưng càng khiến tình hình thêm rối ren mà thôi.”

    - “Tôi cũng đồng ý! Sau khi nền đệ nhất cộng hoà bị lật đổ, người Mỹ đưa quân vào khiến cuộc chiến càng lúc càng thêm gay gắt. Đất nước ta đã nhiều phen thay đổi cấp lãnh đạo, nhưng không ai có khả năng giữ được tình hình yên ổn như lúc còn Ngô Đình Diệm.” Banh nói thêm.

    - “Tôi thì nghĩ các cấp lãnh đạo của chúng ta chỉ muốn tranh giành quyền lực chứ không nghĩ đến vận mạng của đất nước.” Tuân nhận định. “Tôi rất tiếc cho các vị lãnh đạo của chúng ta bởi vì chúng ta phải phục vụ cho những kẻ không biết nghĩ đến gì ngoài quyền lợi của chính họ.”

    - “Chúng ta còn trẻ, và chúng ta muốn mang hoà bình lại cho đất nước. Tôi nghĩ nếu VC không quá tôn sùng cái chủ nghĩa Cộng Sản của chúng thì tốt hơn chúng ta giao đất nước này cho họ để nhân dân có được hoà bình.” Tôi nói một cách thành tâm.

    - “Tôi cũng nghĩ thế! Chúng ta đã quá mệt mỏi với cuộc chiến. Hàng trăm năm qua chúng ta chưa có cơ hội để xây dựng đất nước.” Banh nói; “Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ không còn chiến tranh để chúng ta có thể làm được những điều mà chúng ta muốn làm.”

    Tôi đến nhà hàng Sing Sing trên đường Phan Đình Phùng để tiếp xúc với các cộng tác viên, nhưng không gặp Lễ như đã hẹn. Nhàn, Nghĩa, Trung, Tâm, Vinh, Trí, và Lâm đều hy vọng biết được vài điều gì đó. Tôi nhắc lại những điều tôi nghe được từ sếp và yêu cầu họ hãy làm những điều cần thiết để tự cứu lấy mình. Họ là những cộng tác viên trẻ đã giúp tôi trong việc chiếm lại Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học trong những ngày đầu. Nhàn, trưởng nhóm ấy bị cụt mất một chân. Tôi không biết điều gì đã xảy ra cho hắn vì tôi không bao giờ hỏi lý do. Hắn luôn luôn trông có vẻ tươi cười vui vẻ. Những người này chỉ mới đang học năm đầu tiên ở Đại Học Khoa Học, nhưng lại làm việc rất thành công. Trong một tình trạng như thế này, họ còn quá trẻ để tự định đoạt lấy tương lai mình, và điều mà họ có thể làm được có lẽ là chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan! Tôi hiểu họ đang chờ một lời giải thích rõ ràng chứ không phải những gì mà tôi vừa nói. Tôi nói một cách lúng túng.

    “Tôi biết tôi đã không có được những gì mà các anh mong đợi, và chính tôi cũng rất lo lắng như các anh. Tình trạng của tôi có lẽ còn khó khăn hơn các anh. Tôi rất tiếc. Tôi nghĩ chúng ta đành phải tự giải quyết lấy vấn đề của chính chúng ta chứ không nên quá trông chờ vào Cơ Quan. Tôi hy vọng các anh hiểu điều tôi nói.”

    Từ hôm ấy, tôi ở lại nhà mẹ tôi vì tôi không muốn bị lỡ cơ hội mỗi khi Cơ Quan cần liên lạc. Tôi đã bảo những cộng tác viên của mình nên tự giải quyết lấy mọi việc, nhưng tôi cũng vẫn dựa vào Cơ Quan!

    Lân, Phụng, Tài và tôi chơi bài tứ sắc và nói chuyện nhau. Phụng là em của Lân và cũng là trung sĩ Hải Quân. Anh ta từng ở nhà mẹ tôi lúc còn đi học, và anh ta cũng cưới một cô thợ may trong tiệm may của mẹ tôi. Tôi kể cho họ nghe những điều xảy ra trong Cơ Quan của tôi sáng nay cùng những gì mà Cơ Quan đang chuẩn bị. Tôi nghĩ họ cũng như tôi đều lo lắng cho sự an nguy của gia đình. Ở đất nước tôi, đàn ông luôn làm chủ gia đình và quyết định mọi việc quan trọng trong gia đình. Lân có 3 con nhỏ, Phụng thì chỉ mới có một đứa; chỉ có Tài là còn độc thân nên không lo gì cả ngoại trừ chính bản thân nó. Đề tài chính trong cuộc đối thoại của chúng tôi đều nhằm vào tình trạng của đất nước và làm thế nào để thoát thân khi sự việc tồi tệ diễn ra. Với 3 người đang làm cho Hải Quân Việt Nam, việc di tản bằng tàu thật quá dễ dàng, nhưng tôi vẫn luôn tin vào kế hoạch của Cơ Quan và trông chờ vào kế hoạch ấy. Tôi nói với họ điều tôi đang suy nghĩ và họ cũng đồng ý như vậy.

    Linh đến đi với tôi tới nhà của chị anh ta. Anh rể anh ta, Thụ, là tổng giám đốc trong bộ Dân Vận Chiêu Hồi gặp chúng tôi như đã hẹn trước.

    - “Anh có dự định gì trong vấn đề di tản một khi tình trạng khẩn cấp xảy ra không?” Linh hỏi ngay.

    - “Chưa!” Thụ trả lời một cách hấp tấp, “nhưng đã có vài việc xảy ra trong Bộ vào sáng nay.”

    - “Điều gì vậy?” Linh hỏi một cách lo lắng.

    - “Ông Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhã bảo rằng có nhiều áp lực buộc Tổng Thống phải từ chức, và có lẽ ông ấy phải nhượng bộ thôi. Tôi không biết khi nào và điều gì sẽ xảy ra, nhưng chúng tôi cũng đang chuẩn bị cho việc thay đổi ấy vì Nhã là họ hàng với ông Thiệu.”

    - “Tôi đã nghe điều ấy rồi, và sáng nay Cơ Quan chúng tôi đã làm danh sách nhân viên.” Tôi giải thích. “Hôm qua tôi cũng có nghe nói việc Nguyễn Khắc Bình nhường quyền lại cho Nguyễn Phát Lộc, nhưng việc này chưa xảy ra.”

    - “Tôi nghĩ việc ấy sẽ đến nhanh thôi!” Linh thêm vào. “Anh có ý nghĩ thế nào về tình trạng đất nước ta không?”

    - “Tôi nghĩ chắc rất là phức tạp. Người Mỹ muốn chúng ta giải quyết tình trạng chiến tranh bằng chính bản thân chúng ta, nhưng họ lại áp lực khắp mọi mặt. Vài vị tướng lại muốn Tổng Thống phải từ chức để hoà đàm với VC, nhưng họ lại không biết làm thế nào nói chuyện được với Cộng Sản vì CS là những người không bao giờ tôn trọng thoả ước. Tôi không biết ai sẽ làm Tổng Thống khi ông Thiệu từ chức: Nguyễn Cao Kỳ và Dương Văn Minh là hai ứng viên sáng chói. Với Kỳ thì có lẽ sẽ có chiến tranh thay vì thương thuyết. Ngược lại Minh hiện là người được nhóm “Lực Lượng Thứ Ba” hậu thuẩn mà lực lượng này lại đang hợp tác với VC. Tôi không biết việc gì sẽ xảy ra một khi Big Minh nắm quyền.” Thụ trả lời theo nhận định riêng.

    - “Chúng tôi đến đây để hỏi xem anh có kế hoạch gì không một khi tình trạng nguy kịch xảy ra.” Linh cắt lời. “Chúng ta nên có dự định riêng chứ không thể hoàn toàn trông cậy vào chính phủ hay vào Mỹ.”

    - “Tôi chưa có ý định nào cả, nhưng cũng đã nghĩ đến điều ấy rồi. Tôi nghĩ chúng ta sẽ có đủ thời giờ để đi một khi sự việc xảy đến. Anh có nhớ khi chúng ta di cư khỏi miền Bắc sau khi hiệp định Genève ký kết không? Tôi không nghĩ rằng đất nước bị mất quá nhanh đến nỗi chúng ta không có thời giờ để chuẩn bị ra đi.” Thụ trả lời một cách thành thật.

    Tôi biết rằng Thụ chưa có ý tưởng gì cho việc rút lui vào lúc ấy vì anh ta không muốn mất một địa vị mà anh ấy đang có. Sau vài câu chuyện xã giao, chúng tôi từ giả ra về. Linh có vẻ hơi thất vọng vì anh ta nghĩ anh rể anh ta có thể giúp được anh ta trong tình huống ấy.


    (Hết chương 1 – 4 . Xin xem tiếp chương 5 – 7)

  2. #2
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    Chương 5. Những Báo Hiệu Về Sự Sụp Đổ Của Việt Nam Cộng Hoà

    Ngày 21 tháng tư năm 1975, tôi đến văn phòng trong cơ quan rất sớm, các bạn tôi cũng thế. Họ đang bàn tán về việc bàn giao nhiệm vụ giữa ông Đặc Uỷ Trưởng Nguyễn Khắc Bình với ông Nguyễn Phát Lộc, phụ tá Điều Hành. Chúng tôi đã biết việc này xãy ra là kết quả của sự thay đổi trong phủ Tổng Thống, và mọi việc đang bắt đầu!

    Ông Long, sếp chúng tôi cũng đến rất sớm. Ông ta bảo chúng tôi giữ bình tỉnh, nhưng tôi nghĩ chính ông ta lại thấy không có vẽ bình tĩnh chút nào. Ông ta đi quanh các phòng và hội trường nói nhiều chuyện khác nhau nhưng lại tránh không đã động đến việc đang xãy ra trong Dinh. Chúng tôi nghĩ chắc ông đã biết về việc chúng tôi đang suy đoán về sự từ chức của Tổng Thống.

    Thật ra Nguyễn Văn Thiệu hay ai khác làm Tổng Thống không thành vấn đề với chúng tôi. Điều chúng tôi quan tâm chính là vận mệnh của đất nước và số phận của chúng tôi. Ai sẽ là Tổng Thống và ông ta sẽ làm gì để đối phó với vận mạng của đất nước? Phó Tổng Thống Trần Văn Hương không đủ sức để nắm chức vụ. Tướng Dương Văn Minh là người muốn hoà hợp với Cộng Sản. Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ có lẽ sẽ dẫn đất nước đến một trận chiến lớn.

    Chúng tôi chẳng sợ chết nếu phải chiến đấu với VC. Chúng tôi cũng biết rằng mọi sự hòa hợp với Cộng Sản sẽ đưa đến sự thất bại bởi vì chúng sẽ không bao giờ giữ lời giao ước. Nhưng chúng tôi lại không có được sự lựa chọn nào! Áp lực chính là người Mỹ; đó mới chính là sự đau khổ cho dân tộc nước nhỏ. Tôi nghĩ người Mỹ không muốn chúng ta đánh nhau nữa. Họ muốn có thương thuyết để có một nền hòa bình trong danh dự như họ thường nói, và điều này có nghĩa là họ chọn Big Minh để thực hiện điều họ muốn. Nguyễn Văn Thiệu đã nói rằng: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì mà Cộng Sản làm”. Tôi không biết ai là tác giả thật sự của câu nói ấy, nhưng tôi nghĩ quả thật điều đó rất đúng.

    Cô thư ký của sếp, Đẹp, vẫn tiếp tục đánh máy danh sách địa chỉ của nhân viên. Vài người muốn thay đổi địa chỉ, và vài người không vào cơ quan ngày hôm qua. Sự bàn giao chức vụ trong cơ quan diễn ra rất lặng lẽ; không có một nghi thức nào, không có sự tham dự của nhân viên, vì vậy chúng tôi sẽ không biết gì nếu không ai loan báo. Tin đồn về sự bàn giao này đã thành sự thật. Chúng tôi lại cũng nghe nói rằng Nguyễn Phát Lộc, tân Đặc Ủy Trưởng chỉ có nhiệm vụ duy nhất là lo chuẩn bị việc di tản cho chúng tôi. Chúng tôi hỏi sếp về tin đồn này, nhưng ông ta từ chối không chịu nói; ông ta chỉ nói rằng mọi việc sẽ diễn tiến theo sự sắp xếp. Những lời nói mập mờ này không làm chúng tôi bằng lòng, và chúng tôi quả thật không biết giải quyết tình trạng chúng tôi ra thế nào: hoặc là chờ đợi cơ quan hay tự tìm lấy phương kế riêng mình để thoát thân.

    Sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được loan báo chiều hôm ấy, và bài diễn văn dài chín mươi phút của ông ta được truyền đi trên đài truyền hình và đài phát thanh khắp cả nước. Chúng tôi nghe một cách lơ đễnh dù tổng thống có một dáng vẽ rất là buồn rầu và giận dử. Chúng tôi đã biết trước việc này rồi, và chúng tôi cũng còn biết rằng ông cụ 72 tuổi, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương chỉ làm Tổng Thống tạm thời mà thôi. Điều chúng tôi đang lo là ai sẽ thay thế tiếp theo và ông ta sẽ đối phó ra sao với tình trạng của đất nước.

    Lời kêu gọi đoàn kết để chống kẽ thù của Trần Văn Hương chỉ là nghi thức. Ông ta không có thực lực để huy động sức mạnh của các tướng lảnh và của nhân dân. Dân chúng không còn tin tưởng chính quyền nữa. Họ đổ cho chính quyền là tham nhũng và đưa quốc gia đến tình trạng hiện thời. Tôi không biết đó là sự thật hay chính là ảnh hưởng của sự tuyên truyền của VC. Nếu điều đó đúng thì sự tham nhũng của cấp lảnh đạo trong chính quyền và quân đội chính là sự tàn phá đất nước trong chiến tranh vì điều này khiến kẽ thù có cơ hội để làm tan nát sự đoàn kết toàn dân. Dân chúng sợ Cộng Sản, nhưng họ lại không tin tưởng vào chính quyền. Điều đó đã khiến một người nào có nhiệt tâm kết hợp toàn dân để chiến đấu chống Cộng sẽ rất khó khăn. Hầu hết mọi người Việt Nam đều biết câu tục ngữ “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”, nhưng không ai thực hiện điều ấy. Quả thật là một điều khó khăn! Làm thế nào chúng ta có thể đối phó với việc này cho dù chúng ta có sức mạnh và nhiệt tình đi nữa?

    Cái chết của vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam, Ngô Đình Diệm, vào năm 1963 đã bắt đầu cho sự xáo trộn trong cấp lãnh đạo ở Nam Việt Nam; sự từ chức của Nguyễn Văn Thiệu có lẽ là sự mở màn cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa! Chúng tôi đều nghĩ đến điều này, nhưng không ai biết phải làm sao để giải quyết vấn đề của đất nước và của chính bản thân chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng sẽ có cơ hội để chiến đấu một trận chiến cuối cùng với VC và mong rằng cái gọi là các quốc gia Đồng Minh sẽ không bỏ rơi chúng tôi trong cuộc chiến ấy.

    Trận chiến ở Xuân Lộc đã thất bại trước khi Tổng Thống từ chức. Vài dư luận cho rằng Mỹ đã ngăn không cho tướng Lê Minh Đão, tư lệnh Sư đoàn 18 dùng một loại vũ khí hóa học để dành chiến thắng trong trận chiến ấy! Chúng tôi không biết điều đó có thật vậy không, nhưng sự thất bại này là sự thất vọng cho mọi người trong thủ đô vì đó là tuyến phòng thủ cuối cùng về phía Đông Bắc Sài Gòn.

    Sự viện trợ của các nước Đồng Minh đặc biệt là của Mỹ chỉ là một sự mơ hồ sau khi Tổng Thống Mỹ Ford bị quốc hội Mỹ phủ quyết ngân khoảng viện trợ 722 triệu Mỹ Kim về quân sự khẩn cấp cho chính phủ Sài Gòn. Những cuộc di tản của người Mỹ, Nhật, và những người ngoại quốc khác ra khỏi Sài Gòn là một bằng chứng rõ ràng về sự bỏ rơi của Mỹ. Cuộc chiến hai mươi năm chấm dứt trong sự từ chức của tổng thống dưới áp lực nặng nề của nhiều phía. Tôi không biết Tân Tổng Thống có thể nào đối phó với hòa bình của đất nước hay không. Trong lúc ấy, tôi chỉ nhìn thấy viễn ảnh của sự mất nước sẽ xãy ra khi chứng kiến trên truyền hình Ông Trần Văn Hương di chuyển rất khó khăn dưới sự trợ giúp của người khác. Mặc dù trong diễn văn, ông ta thề rằng ông ta sẽ chiến đấu cho đến khi nào mọi lực lượng đều chết hết hay đất nước mất đi và sẽ được chôn chung với các chiến sĩ, tôi nghĩ chắc ông ta không có cơ hội thực hiện lời thề vì ông ta đã quá già yếu ở cái tuổi bảy mươi hai.

    Rõ ràng rằng sự chuyển giao chức vụ trong cơ quan là để chuẩn bị cho việc di tản cho nhân viên, nhưng chúng tôi cũng không thấy một chương trình nào cả. Một cơ quan tình báo phải sắp xếp rất nhiều điều một khi muốn bỏ cuộc như việc tiêu hủy hồ sơ, chuẩn bị phương tiện vận chuyển cho hàng ngàn nhân viên và gia đình, vân vân… Chúng tôi chỉ được khuyên là nên giữ bình tỉnh trong mọi tình huống và chờ đợi quyết định của cấp trên. Tôi nghĩ họ chẳng dám quyết định gì hết. Một vài người có cơ hội riêng đã đi ra ngoại quốc, số còn lại không thể tự lo lấy mình được thì đang phải chờ đợi trong vô vọng một kế hoạch của cấp lảnh đạo.

    Những ngày tiếp theo quả là những ngày dài nhất của chúng tôi. Lời kêu gọi của Tân Tổng Thống giữ vững vị trí để chống lại kẽ thù được ban ra như một mệnh lệnh. Chúng tôi phải ứng trực một trăm phần trăm trong cơ quan. Chúng tôi phải ở lại trong văn phòng cả ngày ngoại trừ khi đi tiếp xúc với cộng tác viên hay về nhà thay quần áo. Chúng tôi không biết làm gì mà chỉ còn biết túm tụm nhau đánh bài và bàn tán. Tôi không biết đang chờ đợi việc gì: một trận chiến với VC, một cuộc di tản, hay sự sụp đổ của đất nước. Thật là một tình huống bi thãm!

    Vợ tôi cũng phải ở lại trong văn phòng, và chúng tôi chỉ gặp nhau vào buổi cơm trưa. Tôi cãm thấy tội nghiệp cho cô ấy với cái bầu trong lúc này. Cô ta là một người phụ nữ nhỏ nhắn mà tôi hay gọi đùa là “fragile”, và cô ta cũng rất thích cái tên ấy. Trong tình trạng ấy, tôi không hiểu cô ta có đủ sức để chịu đựng hay không. Tôi tự hỏi cái bầu ấy là một niềm hạnh phúc hay chính là nỗi buồn của cô ta mặc dù cô ta đã chờ đợi nó rất lâu. Tôi không thể nào có quyết định gì cho chúng tôi mỗi lần nhìn vợ tôi. Cô ấy quá mảnh mai và cái bầu thì lại quá nặng nề; làm thế nào có thể leo lên tàu để làm một chuyến đi đến một nơi vô định! Tôi sẽ không thể nào bỏ mặc vợ tôi một mình trong lúc ấy vì cô ấy cũng làm việc cho cơ quan, và tôi cũng không muốn bỏ rơi cô ta để tìm cách tự cứu lấy mình. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ cùng chết nếu tình trạng tồi tệ diễn ra. Điều tôi mong mõi là con tôi sẽ được sanh ra trước khi tình trạng tồi tệ xảy đến, chúng tôi sẽ tìm ra một phương cách cho chúng tôi: trốn ở đâu đó, đi ra khỏi đất nước, hay tự sát nếu cần thiết.

    Bên cạnh tình trạng xáo trộn của đất nước, chúng tôi vẫn phải làm công tác thường lệ. Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn đã được bầu một cách thành công. Phạm Minh Cảnh, cộng tác viên của tôi trở thành Chủ Tịch. Lễ ra mắt Tân Ban Chấp Hành vẫn được tổ chức như thường lệ. Thay vì tổ chức ca nhạc trong buổi lễ ra mắt, lần này chúng tôi cho chiếu một phim đã bị xem là tội lỗi vào thời ấy, đó là phim Exorcist. Tôi không biết tại sao sếp lại chọn phim ấy vì nó đã bị cấm từ lâu bởi cơ quan kiểm duyệt của chính phủ. Tôi cũng không đến dự buổi lễ vì tôi không muốn cho vợ tôi xem phim rùng rợn trong khi cô ấy đang mang thai và cũng chính vì tôi đang quá lo lắng cho số phận của chúng tôi trong hiện tình của đất nước. Điều đầu tiên mà Tân Tổng Hội yêu cầu là cho tấn công Bắc Việt bằng vũ khí nguyên tử để giải quyết tình trạng miền Nam. Tôi nghĩ đó quả thật là một điều vô ích và buồn cười bởi vì không ai trên thế giới còn muốn một cuộc chiến tranh nguyên tử. Chiến Tranh Việt Nam chính là cuộc chiến tranh cục bộ giữa chủ nghĩa Tư Bản và chủ nghĩa Cộng Sản để tránh một cuộc chiến toàn cầu. Mọi thứ vũ khí hiện đại nhất của hai phe Đông Tây đều đã được thử nghiệm trên chiến trường Việt Nam trong suốt hai mươi năm. Có lẽ đây là lúc phải chấm dứt cuộc chiến ấy! Điều đáng buồn là chúng ta, những người lính Nam Việt Nam đã bị hy sinh bởi những nước lớn.

    Trận chiến ở Xuân Lộc đã chấm dứt với sự thất bại của sư đoàn 18; những người lính thất trận rút lui một cách vô trật tự về thủ đô. Các đơn vị VC bao vây Sài Gòn; hỏa tiển của VC rơi khắp nơi trong thủ đô, ngay cả trong bộ chỉ huy cơ quan. Trong khi đó chính phủ dưới sự lảnh đạo của một ông cụ già, Trần Văn Hương, đã bị VC từ chối việc đại diện để thực hiện cuộc hòa đàm. Ở Mỹ, Tổng Thống Ford loan báo rằng đối với người Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Điều còn lại đối với Mỹ là việc di tản cho sáu ngàn người Mỹ ở Việt Nam. Để di tản cho khoảng hai trăm ngàn người Việt Nam có liên quan với Mỹ, họ cần một đơn vị rất lớn, và điều này khó có thể được quốc hội Mỹ chấp thuận.

    Tôi cãm thấy rất đau lòng khi phải đặt số phận mình trong tay những người sống bên kia bờ đại dương, những kẽ không quan tâm đến gì khác hơn là quyền lợi của họ. Rỏ ràng rằng dân chúng Mỹ đã quá sợ cuộc chiến mà họ cho rằng dài nhất trong lịch sử Mỹ; họ mong có hòa bình! Họ không muốn tiếp tục cái mà họ gọi là “Chiến Tranh Việt Nam”, nhưng tôi nghĩ họ chẳng quan tâm gì đến hàng triệu người Việt Nam mà số phận của họ đang bị đe dọa một khi Cộng Sản chiếm cứ. Năm 1972, cái gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” sau hiệp định Paris đã dọn đường cho sự rút quân đội Mỹ khỏi Việt Nam. Người Mỹ cuối cùng sẽ ra khỏi Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh mà họ càng lúc càng bị lún sâu vào vũng lầy.

    Người Mỹ cho rằng Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ, và họ không muốn đổ tiền vào cái lỗ không đáy ấy nữa. Họ đổ cho chính quyền Việt Nam là tham nhũng và đã làm mất nước, nhưng họ không cho nhân dân Việt Nam tự chọn lựa cấp lãnh đạo. Họ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ như ở Mỹ với sự tự do hoàn toàn và với sự đối lập. Tôi nghĩ điều này quả thật là quá viễn tưởng đối với một nước đang ở trong chiến tranh hàng trăm năm.

    Hầu hết mọi đảng phái đối lập và ngay cả trong các tổ chức chính quyền, VC đều có người len vào để thúc đẩy những phần tử bất mãn làm việc có lợi cho chúng. Thay vì giúp đở cho việc xây dựng một chính quyền mạnh thì Mỹ lại giúp cho các tổ chức chống đối để Cộng Sản có cơ hội lợi dụng. Những phong trào sinh viên học sinh từ Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi đều bao gồm những người Cộng Sản từ cấp lãnh đạo đến các người ủng hộ. Cái gọi là mẹ và chị trong các phong trào này chẳng ai khác hơn là những người Cộng Sản. Nếu chính quyền đàn áp các phong trào này thì bị cho rằng chính quyền đã dùng bạo lực với đàn bà và thanh niên, nếu không thì càng lúc càng thêm xáo trộn cho đất nước. Các vấn đề này càng ngày càng làm chính quyền trong tình trạng tiến thối lưỡng nan. Tôi không bào chữa cho chính quyền, nhưng trong nhiệm vụ hàng ngày tôi đã từng đối đầu với những khó khăn này. Điều tôi muốn nói ở đây là một quốc gia có chiến tranh không giống như một đất nước đang hòa bình, và chúng ta cần nên chấp nhận trách nhiệm của mình chứ không nên đổ cho chính quyền mà thôi. Tôi vẫn luôn nhớ một thành ngữ của Trung Hoa rằng: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách (Sự còn mất của đất nước là trách nhiệm của mọi người ngay cả kẻ thất phu.)

    Sự di tản của người Việt Nam là đề tài chính trong những ngày này đặc biệt là đối với sĩ quan và nhân viên chính quyền Nam Việt Nam, nhưng thường dân lại đầy đặt phi cảng Tân Sân Nhất. Quốc lộ 15, con đường chính để di tản từ Sài Gòn đã bị VC siết chặc. Hầu hết những sĩ quan Nam Việt Nam có phương tiện đều đã đưa gia đình ra đi, nhưng số còn lại thì tự hỏi việc ra đi này có quá sớm hay không! Vấn đề khó khăn cho chúng tôi lúc ấy là một cuộc ra đi quá sớm là việc đầu hàng mà không có chiến đấu, nhưng nếu để quá trễ thì lại không còn kịp nữa. Tổng Thống từ chức Nguyễn Văn Thiệu đã rời Sài Gòn đi Đài Loan mặc dù trong diễn văn từ chức ông ta đã nói rằng ông ta chỉ từ chức chứ không bỏ cuộc. Nguyễn Khắc Bình, Đặc Ủy Trưởng đã đi ngay ra nước ngoài sau khi bàn giao quyền hành. Vài vị lãnh đạo trong cơ quan như ông phụ tá Tấn, Giàu, ông Tâm trưởng ban A, đã bỏ cuộc và ra đi. Trong khi đó lệnh từ tân Tổng Thống là phải giữ vị trí để chuẩn bị trận chiến đấu cuối cùng. Mọi việc đang xãy ra khiến chúng tôi hoang mang hơn lúc nào hết. Ông Long, sếp chúng tôi cố gắng trấn an chúng tôi bằng cách hiện diện thường xuyên trong văn phòng, nhưng tôi nghĩ ông ấy cũng đang rất lo lắng vì ông ta không có những phong cách thường ngày. Ông ta đi vòng quanh và tránh những câu hỏi của chúng tôi về hiện tình của đất nước.


    Chương 6. Ngày Cuối Cùng Của Đất Nước

    Những tiếng nổ vọng từ xa cộng với tiếng ồn của xe cộ khiến cho bộ mặt thủ đô trở nên kỳ lạ. Tiệm ăn và rạp chiếu bóng đông nghẹt người, những ngân hàng cũng thế. Người Việt Nam rút tiền ra để mua đô la và vàng; giá đô la tăng từ 118 đồng lên 500 đồng rồi lên đến hàng ngàn, giá vàng cũng tăng vọt lên. Những người chuẩn bị di tản cần đô la và vàng để mua hộ chiếu và lo cho cuộc sống của họ ở quốc gia khác; những người khác thì không còn tin vào tiền tệ của Việt Nam và tin vào ngân hàng nữa một khi sự việc xảy đến. Thẻ tín dụng cũng có chỗ đứng trong chợ đen ở Sài Gòn lúc ấy.

    Mặc dù thủ đô trông dường như rất yên ổn khi nhìn vào những sinh hoạt bình thường, một sự nặng nề đang bao trùm lấy đầu óc dân chúng. Họ đang chờ đợi điều gì đó đang xảy đến. Đó là một điều ghê gớm đối với những sĩ quan Nam Việt Nam; đó là sự chờ đợi một cuộc sống trong hòa bình, nhưng cũng đầy những điều không dự đoán được đối với người dân thường. Dù sẽ có một trận chiến lớn hay một thỏa hiệp với VC, điều đó đều đồng nghĩa với cái chết sớm hay muộn mà thôi.

    Chúng tôi sẽ chấp nhận một trận đụng độ chứ không chịu bỏ cuộc, nhưng chúng tôi lại không có được sự chọn lựa bởi vì chúng tôi không có quyền. Điều gì xảy đến cho chúng tôi một khi VC chiếm thủ đô: một biển máu, một sự trả thù, và họ sẽ đối xử thế nào với kẻ thù của họ. Mọi cái đều đồng nghĩa với cái chết. Tại sao chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong danh dự thay vì cái chết trong tủi nhục? Hàng triệu sinh mạng của đồng bào đang bị đe dọa, nhưng dường như mọi người đều thờ ơ. Cuộc sống vẫn diễn tiến như lệ thường! Dân chúng Sài Gòn quá quen thuộc với chiến tranh kể từ thời Thuộc Địa Pháp, từ cuộc tổng tiến công của VC vào Tết Mậu Thân 1968, và từ “mùa Hè đỏ lửa” 1972. Vài người còn hy vọng rằng vài chiến thắng của VC chỉ là tạm thời giống như Tết Mậu Thân: người Mỹ bỏ cuộc lúc đầu nhưng rồi sau đó họ lại giúp Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa giành lại chiến thắng. Tôi nghĩ rằng ít ai ở Nam Việt Nam có thể tưởng tượng được sự mất nước lại diễn ra dễ dàng như trở bàn tay.

    Sự hỗn loạn trong hàng ngũ lãnh đạo đã xảy ra ngay sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương không thể nắm được quyền lực; sự cố gắng để hòa đàm là mục tiêu chính của tân tổng thống mặc dù ông ta đã tuyên bố sẳn sàng chiến đấu với VC nếu cần thiết. Cộng Sản tuyên bố ngay tức khắc rằng chức Tổng Thống của Hương không thể chấp nhận được vì Hương là “anh em với Thiệu”. Các đơn vị quân đội Miền Bắc và VC đang bao vây Sài Gòn sau khi sư đoàn 18 thất bại ở mặt trận Long Khánh. Sân bay Biên Hòa và Tân Sân Nhất cùng vài nơi trong đô thành đều bị hỏa tiển của VC pháo kích vào. Trong khi đó ở Mỹ, Tổng Thống Ford loan báo rằng: “Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, và người Mỹ có thể lấy lại sự tự hào của họ trước chiến tranh Việt Nam.” Điều đó có nghĩa rằng không còn cơ hội nào để Mỹ giúp đở Nam Việt Nam nữa, và nếu có một trận chiến toàn diện, chúng ta phải đối đầu với tình thế bằng chính sức lực của chúng ta.

    Trong khi Hương đề nghị một cuộc hòa đàm bằng cách cử một Bộ Trưởng ra Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt, thì Cộng Sản vẫn tiếp tục từ chối sự hợp tác hòa bình. Trong một bài diễn văn, tân Tổng Thống nói rằng: “Đồng Minh của chúng ta đã bỏ rơi chúng ta, do đó chúng ta phải tự bảo vệ tổ quốc chúng ta. Sài Gòn có thể trở thành một biển lửa và một núi xương nếu có một cuộc chiến toàn diện xãy ra mà điều này tôi rất muốn tránh.”

    Vào ngày Chúa Nhật, 27 tháng Tư 1975, dưới áp lực của đại sứ Mỹ G. Martin và các nhà lảnh đạo miền Nam Việt Nam, Trần Văn Hương tuyên bố từ chức sau sáu ngày giử chức Tổng Thống. Ông ta nói rằng ông ta sẽ trao quyền lại cho người được quốc hội Nam Việt Nam chọn lựa để thực hiện hòa bình cho Nam Việt Nam.

    Chúng tôi nhận tin ấy với sự vô vọng hoàn toàn; chúng tôi phải tìm mọi cách để thoát khỏi đất nước. Chúng tôi đều biết Tổng Thống kế tiếp chính là Dương Văn Minh người đang là một lãnh đạo cao cấp của “Lực Lượng Thứ Ba” (một thành phần đứng trung gian giữa chính phủ Nam Việt Nam và Cộng Sản) và có liên hệ với Phật Giáo chùa Ấn Quang. Một cuộc hội đàm trong thế yếu như vậy có nghĩa là sự thất bại; điều đó có thể tránh một cuộc tắm máu cho nhân dân chứ không thể tránh được sự trả thù đối với chúng tôi, những kẻ thù của Cộng Sản.

    Cuộc bàn giao chức vụ Tổng Thống giữa Hương và Minh sáng sớm ngày 28 tháng Tư diễn ra rất lặng lẽ và đơn giản. Trong lời diễn văn, Minh hứa với Hương (người mà Minh thường gọi bằng Thầy) rằng ông ta sẽ không làm mất sự tin tưởng của Hương để tránh cuộc tắm máu cho dân chúng trong Thủ Đô. Minh chấp nhận một chính phủ liên hiệp bao gồm Cộng Sản, những người Trung Lập, và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Cái gọi là thành phần trung lập là vài tổ chức ở Miền Nam như Thành Phần Thứ Ba, Phật Giáo Ấn Quang, Hòa Hảo, Cao Đài, và Công Giáo. Điều đầu tiên là Minh tuyên bố sẽ thực hiện một trong những điều kiện tiên quyết của Cộng Sản cho việc hòa đàm: Yêu cầu quân đội Mỹ và nhân viên cùng dân sự Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 giờ. Không có một điều nhắc nhở gì đến hàng triệu nhân viên chính quyền và quân đội của Nam Việt Nam ngoài việc ra lệnh phải ngưng bắn ngay tức khắc.

    Trong Cơ quan chúng tôi, có nhiều lệnh khác nhau về việc thiêu hủy và không thiêu hủy hồ sơ. Lò thiêu đã đầy giấy; không thể nhét thêm vào được nữa. Sếp tôi lần đầu tiên thảo luận về việc di tản, nhưng ông ta lại không có quyết định nào mà lại phải chờ kế hoạch chung của Cơ Quan. Chúng tôi biết rằng Cơ Quan chúng tôi tùy thuộc vào CIA của Mỹ và cấp lãnh đạo của chúng tôi phải hỏi các cố vấn Mỹ trước. Người Mỹ chỉ có 24 giờ để rời khỏi Việt Nam. Làm thế nào họ có thể giúp chúng tôi? Tất cả chúng tôi đều tuyệt vọng! Vài người đi qua cảng Sài Gòn đối diện với cơ quan để leo lên tàu ra đi, nhưng những người khác thì lại lúng túng với hoàn cảnh mà phải chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan trong sự tuyệt vọng.

    Sau khi nghe sếp ra lệnh về việc tập trung tại nhà an toàn ở đường Hai Bà Trưng vào sáng ngày hôm sau, tôi ghé chở vợ tôi về. Trời gần như tranh tối, nhưng vài chiếc trực thăng vẫn tiếp tục lượn vòng trên bầu trời. Đường phố có vẻ khác lạ hơn hôm qua: bộ hành đi vội vã, những người lính vũ trang và không vũ trang đi lại khắp nơi, xe nhà binh chạy cùng khắp. Dù đã có lệnh ngưng bắn ban ra từ tân Tổng Thống Minh, hầu hết quân nhân và Cảnh sát không rời súng. Vài phi công Việt Nam Cộng Hòa tức giận về nỗi đau của đất nước đã dùng phi cơ A-37 tấn công phi cảng Tân Sân Nhất, đốt cháy vài chiếc phi cơ trên phi cảng và tạo nên tiếng nổ vọng vào đến trung tâm Sài Gòn. Vài quân nhân Việt Nam trong chiến phục của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù dùng súng M16 bắn vào các trực thăng. Những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã quá thất vọng không biết làm gì hơn là bày tỏ mối bất bình bằng cách bắn vào những người Mỹ đang di tản, nhưng không có điều gì xãy ra cho họ ngoài việc một chiếc trực thăng bị rớt xuống biển khi đang đáp lên một mẫu hạm của Mỹ. Dân chúng lái xe đạp và xe gắn máy chở đầy hàng hóa lấy từ những kho hàng của Mỹ bỏ rơi lại ở Tân Cảng, Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 10 dặm.

    Thủ Đô trở nên rối loạn ngay sau khi Big Minh lên cầm quyền. Trụ sở tòa đại sứ Mỹ bị bao vây bởi những người dân muốn vào để chiếm một chổ trong trực thăng đang đáp trên sân thượng. Những người lính gác Mỹ trong quân phục Thủy Quân Lục Chiến với súng M16 cầm tay đứng nghiêm một cách lơ đễnh ở các vọng gác. Đám đông phía trước cánh cổng đóng kín giơ giấy tờ lên cao; đôi khi cánh cổng mở ra và tôi thấy vài người Tây phương đi vào. Tôi cũng thấy vài người Việt Nam phía trong tòa đại sứ. Người Mỹ cuối cùng phải rời Việt Nam trong vòng 24 giờ, do đó việc di tản này diễn ra rất vội vã và ồn ào càng lúc càng tạo nên sự nghi ngờ trong dân chúng. Mọi người dân trong thủ đô dường như cảm thấy việc mất nước đã gần kề. Dân chúng đổ ra đường để xem trực thăng trên trời, hoặc tìm đường di tản, hoặc đi thu nhặt những hàng hóa từ những kho bỏ lại của Mỹ. Các quân nhân Việt Nam cùng với cảnh sát không còn muốn can thiệp vào nữa. Tất cả đã tạo thành một quang cảnh rối loạn chưa từng thấy!

    Lần đầu tiên tôi mang về nhà một khẩu súng ngắn. Tôi không muốn cho vợ tôi biết nên dấu nó trong góc ngăn tủ kéo. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi làm việc này, nhưng tôi cãm thấy một chút nào đó lo ngại và sợ hãi cho hành động này của tôi. Tôi đoán rằng tôi đang chuẩn bị cho cái chết của chúng tôi, hay chỉ cho chính mình tôi nếu tôi không đủ can đảm để giết chết vợ tôi khi sự việc diễn ra. Tôi cãm thấy tội nghiệp cho đứa con còn trong bụng dù là trai hay gái. Tôi đã từng nói với vợ tôi về việc đặt tên cho con là Anh Hoàng nếu nó là trai và Hoàng Anh nếu là gái. Trong hoàn cảnh ấy, tôi không biết nó có được sanh ra hay không. Tôi tự nghĩ rằng một trận chiến cuối cùng có thể không xãy ra, nhưng việc mất nước thì chắc không thể tránh được.

    Cộng Sản hay Tư Bản không có ý nghĩa gì đối với tôi. Cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu trên đất nước sẽ chấm dứt, và tôi nghĩ không bên nào thắng trong chiến tranh Việt Nam vì người Việt cả hai phía đã chết quá nhiều trong cuộc chiến. Tôi không nói đến những người lính, tôi chỉ muốn nói đến những thường dân, những người dân vô tội đã bị giết chết trong một cuộc chiến rất vô nghĩa. Nếu tôi chết đi khi chiến tranh chấm dứt, tôi sẽ chỉ là một trong những người lính chiến đã chết trong cuộc chiến ấy. Tôi hy vọng rằng dân tộc tôi sẽ hạnh phúc trong hòa bình cho dù dưới chế độ Cộng Sản. Tôi nghĩ rằng cho dù là Cộng Sản hay Tư Bản, mọi người đều là người Việt; điều đó còn tốt hơn là đất nước trong tay bọn Thực Dân. Những ý nghĩ này khiến tôi có một chút an lòng, và tôi về nhà với một tâm tư hơi nhẹ nhàng để tìm một phương cách thoát đi.

    Ngồi phía sau xe gắn máy, vợ tôi không nói gì trên đường về nhà, nhưng tôi cảm thấy nước mắt thấm ướt cổ tôi nơi mà cô ấy áp mặt vào. Tay vợ tôi ôm chặt hơn mọi ngày. Tôi hiểu rằng cô ta đang lo sợ một sự việc kinh khủng xảy ra, và cô ta cũng sợ phải mất đi niềm hạnh phúc mà cô ta đang hưởng. Tôi không biết làm thế nào để làm vợ tôi an lòng ngoài việc vuốt ve tay cô ta. Gần ba năm chung sống, tôi luôn luôn đưa vợ tôi đi đến những nơi mà cô ấy muốn đi. Bất cứ khi nào vào Cơ Quan, tôi thường vào văn phòng để hôn vợ tôi trước khi đến văn phòng của tôi. Cô ấy thường hay nhắc đến lần đầu tiên đi xem phim với nhau, tôi đã chúc cô ta một đêm ngon giấc trước khi từ giả ra về và bảo với tôi rằng cô ấy đã yêu tôi kể từ lúc đó. Chúng tôi đã từng dự định sẽ có hai đứa con, một trai và một gái, nhưng khi biết vợ tôi chỉ có thể có được một đứa con duy nhất, chúng tôi hy vọng đó sẽ là trai. Ở đất nước chúng tôi, tư tưởng trọng nam khinh nữ có lẽ là một thói tục, và có lẽ chúng tôi cũng không thoát khỏi thói tục đó. Thật ra, tôi chỉ muốn con trai để vừa lòng vợ tôi mà thôi; tôi không quan tâm mấy về việc có con trai hay con gái. Tôi biết rằng đứa con là niềm hạnh phúc cho vợ tôi, nhưng trong hoàn cảnh chúng tôi như thế này thì không biết đó là hạnh phúc hay sự hối tiếc. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi, cho đứa con chưa chào đời, và cho cả chính tôi nữa! Chúng tôi đang kẹt vào một tình huống khó gỡ. Tôi chỉ còn biết dựa vào kế hoạch chung của Cơ Quan, nhưng nhìn cảnh di tản vội vã của người Mỹ, tôi biết rằng chúng tôi không còn có thể dựa vào họ được nữa. Làm thế nào họ có thể giúp chúng tôi một khi chính họ còn phải rút lui một cách vội vã như vậy? Tôi không biết cái lệnh cho người Mỹ rút lui trong 24 giờ là của Big Minh hay xuất phát từ phía Mỹ, nhưng theo tôi thì mọi việc đều bắt nguồn từ Washington bởi vì người Mỹ đã muốn rút lui trong danh dự. Họ rút khỏi Việt Nam theo lệnh của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà chứ không phải họ bị thua trận; có lẽ điều đó có nghĩa là danh dự đối với họ!

    Tôi hoàn toàn không biết ai đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam, nhưng tôi cãm thấy chúng tôi đã bị bỏ rơi sau khi cuộc chiến chấm dứt. Năm 1963, Dương Văn Minh đã dọn đường cho quân đội Mỹ vào Việt Nam để chống lại Cộng Sản. Năm 1975, chính Dương Văn Minh lại nắm quyền hành để thương thuyết với Cộng Sản, và người Mỹ lại có cơ hội rút lui toàn bộ khỏi Việt Nam. Thật là một cuộc lập lại theo chiều ngược của lịch sử.

    Lịch sử Việt Nam đã trải qua một ngàn năm dưới ách đô hộ của Trung Hoa, một trăm năm dưới chủ nghĩa Thực Dân Pháp, và trên hai mươi năm trong cuộc chiến giữa hai chủ nghĩa Tư Bản và Cộng Sản. Mọi người Việt Nam đều mong hòa bình hơn bất cứ người nước nào trên thế giới, nhưng trước hết phải là nền hòa bình trong tự do chứ không phải bị lệ thuộc vào bất cứ nước nào.

    Dân Việt Nam không thể phân biệt được chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Cộng Sản, vì thế họ đồng hóa cả hai với nhau. Chánh phủ Nam Việt Nam đã không thể nêu rõ điều này cho dân chúng, và hầu hết dân chúng đã coi Cộng Sản là những nhà ái quốc còn Mỹ là quân xâm lược. Thêm vào đó, sự can thiệp trực tiếp vào Việt Nam của quân đội Mỹ khiến chính phủ Nam Việt Nam mất chính nghĩa chống Cộng và đẩy dân chúng chống lại Mỹ. Dân chúng không còn tin tưởng vào chính quyền Nam Việt Nam cho dù có nhiều sự tuyên truyền để giải thích về sự tàn bạo của Cộng Sản. Cộng Sản gọi chính quyền Nam Việt Nam là ngụy quyền và dân chúng dường như đã tin rằng chính phủ Nam Việt Nam chỉ là công cụ của Mỹ. Cuộc chiến giữa Tư Bản và Cộng Sản đã biến thành cuộc chiến tranh giải phóng để chống lại cái gọi là “Đế quốc Mỹ”. Tôi nghĩ tất cả những điều đó bắt nguồn từ việc can thiệp trực tiếp của Mỹ ở Việt Nam trong khi Liên Xô và Trung Quốc chỉ đổ vũ khí và tiền bạc vào Việt Nam; họ không đưa quân đội vào Việt Nam ngoại trừ những cố vấn.

    Tôi không hiểu sao cả Mỹ lẫn Cộng Sản đều nói rằng họ đã chiến thắng cuộc chiến. Người thất bại thật sự có lẽ là chính chúng tôi, Chính Phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!

    Chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì xảy đến bởi vì chúng tôi đã thất bại cuộc chiến cho dù có đổ cho ai đi nữa. Tôi biết điều ấy và cũng đang chờ đợi trong đau khổ những bất hạnh xãy đến cho tôi và gia đình tôi. Không biết lúc nào những điều này xãy ra, vài ngày nữa hay vài tháng nữa, nhưng điều ấy phải đến, không thể tránh được bởi vì bất cứ một sự liên hiệp nào với Cộng Sản đều luôn luôn là một sự tự sát nhất là liên hiệp trong thế yếu. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều ấy: Một lần vào năm 1945 chánh phủ liên hiệp giữa Cộng Sản và một vài đảng phái khác chỉ là tạm thời để Cộng Sản có thời gian loại trừ những người không Cộng Sản, và vào năm 1954 không lâu sau khi Cộng Sản ký hiệp định Geneve, bộ đội của họ đã vượt vùng phi quân sự để xâm lăng Nam Việt Nam. Tôi không nghĩ cái chính phủ liên hiệp mà Big Minh đề nghị sẽ được Cộng Sản chấp thuận một khi chúng đang thắng thế. Ngay cả nếu cho chúng chấp thuận giải pháp đó của Big Minh, điều đó cũng chỉ là tạm thời để chúng nắm chính quyền và loại trừ những người khác. Sự thất bại của chúng tôi chỉ là vấn đề của thời gian.

    Khi tôi về đến thì mọi người đã tụ họp đầy đủ tại nhà mẹ tôi. Lân, Phụng, Tài và tôi cùng chia xẻ những lo lắng với nhau vì chúng tôi có cùng hoàn cảnh. Lân và Phụng đã quyết định không ra đi theo tàu của họ vì vợ không chịu đi đâu. Tôi nghĩ không người Việt nào muốn rời đất nước họ trừ trường hợp rất cần thiết. Dân tộc Việt Nam từng sống trong vòng của lũy tre làng của họ; họ ít khi đi khỏi nơi họ từng sống ấy, và họ rất tự hào với nơi họ sinh trưởng cho dù nơi ấy có nghèo nàn đến đâu chăng nữa. Hàng triệu người dân miền Bắc Việt Nam di cư vào miền Nam vào năm 1954 khi Cộng Sản chiếm miền Bắc. Họ xây dựng làng xóm của họ và sống với nhau; họ giữ gìn tập quán riêng của họ mặc dù họ sống trên một phần đất của Việt Nam, tôi không thể tưởng tượng người Việt sẽ ra sao một khi họ sống ở nước ngoài. Thêm vào đó, mọi người đều không biết họ sẽ đi đến đâu một khi họ leo lên chiếc tàu hay là chiếc trực thăng. Tất cả đều là một sự đánh cuộc với số mệnh. Đối với tôi, tôi sẽ không đi một mình bởi vì tôi không muốn bỏ lại vợ tôi với đứa con còn trong bụng. Trong trường hợp cần thiết, tôi định sẽ trốn một nơi nào đó chờ đợi vợ tôi sanh nở xong; sau đó chúng tôi sẽ tìm một cách nào đó để trốn đi. Một điều mà tôi tiên đoán lúc ấy là sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp giữa Big Minh và Cộng Sản, do đó tôi có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc di tản cho chúng tôi. Tôi đã nói điều suy nghĩ này với vợ tôi để trấn an cô ta và cũng để tự trấn an lấy mình.

    Tối hôm ấy, chúng tôi gói ghém mọi cái cần thiết để chuẩn bị cho việc tập trung tại nhà an toàn của sếp vào ngày mai. Tôi không thể ngủ được mà cứ nghĩ ngợi đến mọi điều đã xãy ra trong đời mình. Mùi cà phê và thuốc lá trong phòng làm tôi thức suốt đêm. Vợ tôi đã chìm vào giấc ngủ say vì có lẽ cô ta quá mệt mõi, tôi đoán thế. Đó là một đêm yên lặng ngoại trừ tiếng trực thăng bay lượn trên bầu trời và tiếng nổ vọng từ xa. Lệnh giới nghiêm vẫn còn hiệu lực, do đó không có xe cộ hay bộ hành nào ngoại trừ xe nhà binh đang làm nhiệm vụ. Ánh sáng hỏa châu trên bầu trời chiếu qua cửa sổ và soi sáng con đường nhỏ phía dưới tầng gác sau nhà mẹ tôi, nơi tôi đã từng sống vào thời thơ ấu. Cái bàn viết nhỏ nơi tôi ngồi làm bài từ lúc học tiểu học đến đại học vẫn nằm trong góc phòng; những hình vẽ ngộ nghĩnh vẫn còn trên mặt bàn. Chiếc giường tôi đang nằm cũng là chiếc giường nơi tôi đã ngủ khi còn bé. Sách vở của tôi từ trung học đến đại học vẫn còn xếp gọn trên chiếc kệ do tự tôi làm. Không có gì thay đổi ngoại trừ ý nghĩ của chính tôi. Tôi cãm thấy tiếc nuối cho thời niên thiếu mà tôi không bao giờ còn sống lại được.

    Tiếng ho của mẹ tôi phía dưới nhà kéo tôi về hiện tại. Tôi nghe tiếng rót nước vào ly và tiếng bước đi của mẹ tôi. Đó là những âm thanh mà tôi đã từng nghe một thời gian dài. Mẹ tôi là một người đàn bà dáng người nhỏ nhắn, nhỏ hơn khổ người đàn bà Việt Nam trung bình, nhưng bà không yếu. Mẹ tôi có thể ngồi may suốt ngày bên bàn máy may để kiếm tiền nuôi chúng tôi. Cả cuộc đời của bà là một sự hy sinh cho các con. Cha tôi đã rời gia đình ra đi vào mật khu vào lúc bà còn rất trẻ, và ông đã bị giết chết trong một trận chiến với lính Pháp khi mẹ tôi mới 29 tuổi. Kể từ lúc đó, bà phải tự nuôi con. Là một người thợ may, hàng ngày mẹ tôi đã phải làm việc rất cực nhọc từ sáng sớm đến tối mịt. Bà cho chúng tôi đi học và mong muốn chúng tôi phải tốt nghiệp đại học để khỏi phải nghèo như bà. Khi tôi làm cho chính quyền Nam Việt Nam, em gái tôi trở thành giáo sư, và em trai tôi là thông dịch viên, chúng tôi yêu cầu mẹ tôi đừng làm việc nữa, nhưng bà nói rằng bà đã quen làm việc và không thể ngồi không để chờ nhận tiền của chúng tôi. Tôi nghĩ cuộc đời mẹ tôi chính là một tấm gương sáng cho các người đàn bà Việt Nam. Trong lúc ấy, tôi cảm thấy một chút hối tiếc là đã chưa được đền đáp công ơn của mẹ tôi, và tôi cũng không biết có còn cơ hội để thực hiện được điều này không.

    Sáng sớm hôm sau tôi chở vợ tôi đến nhà an toàn ở đường Phan Thanh Giản. Em út tôi, Tuấn và em họ tôi, Nghĩa cùng đi với tôi. Tôi muốn có hai đứa đi theo để nếu tôi phải ra đi thì sẽ không bị cô độc ở nước ngoài. Thêm vào đó Nghĩa đã từng là cộng tác viên của tôi ở Đại Học Khoa Học, do đó nó cũng nên ra đi để được an toàn hơn.

    Chúng tôi đi ngang qua Tòa Đại Sứ Mỹ trước khi đến trụ sở an toàn. Đường phố trông có vẽ bận rộn hơn những ngày trước. Những người lái xe gắn máy chạy về phía trung tâm thủ đô với những túi xách chất đầy phía trước và người đi cùng ngồi phía sau. Mặc cho kẽm gai phía trên tường rào và những người lính gác Thủy Quân Lục Chiến, vài người Việt Nam đang leo lên tường rào của Tòa Đại Sứ Mỹ, chen chúc vào cửa chính và cửa hông để cố len vào trong đó. Hàng ngàn dân chúng với những đồ đạt của họ đứng đầy quanh trụ sở tòa đại sứ và cổng chính của Trụ Sở Cảnh Sát Quận Nhất, phía sau tòa đại sứ. Những người di tản đang chờ trực thăng trên những sân thượng của vài căn nhà ở trung tâm Sài Gòn, họ đứng vây quanh những người lính gác hải quân trên con đường đi vào cảng Sài Gòn. Thật là một cuộc di tản vô trật tự! Tôi không thể thấy một người Tây Phương nào trong đám đông cạnh Tòa Đại Sứ Mỹ; có lẽ họ đã đi hết vào tối hôm qua.

    Nhà an toàn đầy đặt nhân viên;tôi nghĩ không còn cái ý nghĩa của nhà an toàn nữa rồi. Tôi thấy mọi người đều hiện diện đầy đủ kể cả những cộng tác viên của tôi cùng gia đình họ. Điệp, một họa sĩ trong ban chúng tôi cùng bà vợ đang mang bầu gặp tôi ở phía trước cửa và bảo tôi rằng ông Long, sếp chúng tôi, đang gọi điện thoại cho ông Lộc, tân đặc ủy trưởng, để hỏi về việc di tản cho nhân viên và gia đình. Chúng tôi lo lắng chờ đợi. Tuân cùng vợ đến chào vợ chồng tôi. Chúng tôi nói chuyện về những điều đang xảy ra trong thủ đô, nhưng điểm chính là số phận cũng như hoàn cảnh của chúng tôi. Trung, Tâm, Trí, Lâm, Vinh, và Nhàn, những cộng tác viên của tôi vây quanh tôi và hỏi nhiều điều mà tôi không thể trả lời được. Tôi tự hỏi tại sao họ không chịu tự di tản vì họ còn trẻ và độc thân nữa, quá dể dàng leo lên một con tàu nào đó trong cảng Sài Gòn. Tôi nghĩ có lẽ họ cũng chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan. Một sự chuẩn bị không hoàn chỉnh chính là một thảm họa trong trường hợp khẩn cấp như thế này đây. Do hoàn cảnh của vợ tôi, tôi sẽ không ra đi được nếu không có kế hoạch chung của cơ quan.

    Ngay sau khi tôi đến, Long, trong một dáng vẻ buồn phiền, đi ra khỏi phòng và nói rằng cuộc di tản của cơ quan sẽ không thể thực hiện ngay được vì người Mỹ phải lo cho họ trước. Ông ta yêu cầu chúng tôi tự tìm cách di tản lấy một mình nếu không muốn tụ họp tối hôm ấy tại trụ sở đường Nguyễn Hậu để chờ trực thăng Mỹ. Chúng tôi lần lượt đi ra khỏi nhà an toàn. Sau khi chia số tiền mật phí còn lại, Long và Hiệp, nhân viên an ninh của ban, trốn vào trụ sở Cảnh Sát quận nhất và leo vào Tòa Đại sứ Mỹ bằng cổng sau. Hầu hết chúng tôi đều phải ra về để tìm cách tự cứu lấy mình.

    Tôi đi ngang qua cảng Sài Gòn và thấy chiếc lambretta của Vũ Công Tuấn, bạn cùng làm với tôi bỏ ở đó; tôi biết anh ta đã ra đi theo tàu Hải quân ngay sau khi rời nhà an toàn. Tôi hỏi Tuấn và Nghĩa có muốn đi vào cảng hay không, nhưng cả hai đều không muốn. Trên đường về nhà, tôi ghé qua nhà Điệp để xem coi họ có cách nào ra đi không vì vợ của Điệp cũng đang có mang như vợ tôi, nhưng họ cũng không có kế hoạch nào khác. Tôi đành phải ra về chờ đợi sự việc sẽ đến trong sự thất vọng tột cùng.

    Trực thăng vẫn còn bay lượn trên không, và vài tiếng súng bắn một cách vô vọng lên bầu trời. Tiếng gầm của đại bác và hỏa tiển vang vọng từ xa. Vào trưa hôm ấy, một chiếc trực thăng phản lực cùng hai chiếc phi cơ chiến đấu bay thẳng về phía Đông trên bầu trời; nhiều tiếng súng bắn lên từ mặt đất cùng vài cụm khói trắng nổ bên trên tiển đưa những người ra đi. Đó là chuyến di tản cuối cùng của người Mỹ, có lẽ là của đại sứ Mỹ Martin.

    Người Mỹ đã đến Việt Nam dưới chiêu bài là giúp người Việt gìn giử tự do của họ, và rồi người Mỹ lại rời Việt Nam không một nghi thức tiễn đưa nào ngoài sự giận dữ của những người dân bị bỏ rơi.

    Thực dân Pháp đã rời Việt Nam vào năm 1954 sau khi thua trận Điện Biên Phủ, nhưng họ lại không đi bằng cửa sau như người Mỹ. Họ đã giúp những người đã cộng tác với họ hoặc những người không muốn sống với Cộng Sản đi vào miền Nam hay sang Pháp. Tôi thật không hiểu tại sao một cái gọi là “cường quốc” như Mỹ lại không thể tìm ra được giải pháp nào để ra đi trong danh dự thay vì chạy trốn một cách vội vã như vậy! Họ luôn miệng bảo rằng họ đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam, và họ đã trao cho lính của họ những chiếc huy chương đủ loại; tại sao họ lại để ông đại sứ của họ chạy trốn như một kẻ phản bội.

    Những người dân Sài Gòn đổ ra đường để xem cuộc ra đi cuối cùng của người Mỹ với sự khôi hài xen lẫn với ít đắng cay tủi nhục. Những người lính Nam Việt Nam coi đó như sự đau khổ của họ. Những nhà lảnh đạo của họ đã từ chức hay trốn chạy, những đồng minh của họ đã rút lui. Làm thế nào họ có thể đối phó được với tình hình trong khi cái gọi là “chính phủ hòa bình” của “lực lượng thứ ba” buộc họ phải từ bỏ vũ khí? “Lực lượng thứ ba”, những kẽ đã làm xáo trộn hậu phương để giúp kẻ thù, lại đang cai trị đất nước để nói chuyện với kẻ thù. Làm thế nào tôi có thể tin được họ? Con đường di tản của tôi đã bị chặn lại; hoàn cảnh tôi đang ở trong tình trạng tiến thối lưỡng nan. Tôi chỉ còn biết ngồi chờ cho mọi việc xãy đến với tôi ngay cả cái chết mà tôi cũng đang chuẩn bị. Tôi nghĩ chắc không có gì tồi tệ hơn là chờ đợi một điều xấu nhất xảy đến mà không có một cách nào để tự vệ.

    Đêm 29 tháng tư năm 1975 quả là một đêm dài nhất trong cuộc đời tôi. Tôi không đến trụ sở cơ quan đường Nguyễn Hậu như hẹn vì tôi biết đó chỉ là một lừa dối cuối cùng. Người Mỹ đã đi hết rồi, ai lo cho chúng tôi, một nhóm người di tản to lớn như vậy. Tôi nghĩ con đường di tản duy nhất là đi vào cảng và leo lên tàu, nhưng tôi lại không thể làm được việc ấy. Cuộc tụ họp ở Nguyễn Hậu đêm ấy đã thất bại; vài người đã ra đi bằng tàu Hải quân, nhưng số đông thì trở về nhà sáng hôm sau trong nỗi tuyệt vọng.

    Tiếng nổ của bom, hỏa tiển, và đạn pháo nghe vọng từ xa suốt đêm. Đài phát thanh Sài Gòn chỉ truyền thanh quân nhạc: Một thói quen của đài ấy khi có một biến cố quan trọng. Người Việt đã từng nghe loại nhạc này từ cuộc đảo chánh 1963 lật đổ nền đệ nhất cộng hòa, từ Tết Mậu Thân 1968, từ những cuộc đảo chánh chống chính phủ của Dương Văn Minh và của Nguyễn Khánh. Lần này thì dòng nhạc ấy đang chuẩn bị cho một biến cố quan trọng nhất, có lẽ là cho sự mất nước! Đài tiếng nói hoa kỳ đã ngưng phát thanh bài White Christmas được phát liên tục trước đó; sự rút lui của Mỹ đã hoàn tất. Đài BBC thì loan báo rằng Tổng Thống Dương Văn Minh của Việt Nam đã thất bại trong dự định hợp tác với VC, và các đơn vị quân đội Cộng Sản đang bao vây Sài Gòn chờ đợi sự đầu hàng của Big Minh. Cộng Sản cho rằng Minh chỉ là sự tiếp nối của một chính phủ do Mỹ giúp đỡ.

    Chúng ta đã thất bại, và đất nước chúng ta phải mất trong một hai ngày tới. Các đơn vị Cộng Quân đang bao vây thủ đô. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tan rã hoàn toàn. Hầu hết các nhà lãnh đạo của chúng ta đã trốn chạy, và tân tổng thống thì ra lệnh buông vũ khí. Cuộc hòa hợp nếu diễn ra cũng chỉ là một tự sát. Tôi đã nghe phát thanh suốt đêm chờ đợi sự việc tồi tệ nhất diễn ra với nỗi thất vọng hoàn toàn. Tôi đã không thể kềm được những giọt nước mắt khỏi trào ra.


    Chương 7. Những Ngày Đầu Tiên Trong Chế Độ Cộng Sản


    Ngày 30 tháng tư năm 1975, một ngày lịch sử mà chắc không một người Việt nào ở trong nước hay đang lưu vong trên toàn thế giới có thể quên được. Tôi choàng dậy sớm mặc dù đã không ngủ tối hôm qua. Vợ tôi vẫn còn ngủ say; tôi không muốn đánh thức cô ấy vì tôi muốn cô ấy được an ổn tâm thần cho dù sự việc tồi tệ nhất có diễn ra ngay vào sáng hôm đó. Con đường phía trước nhà mẹ tôi đã ồn ào mặc dù lệnh giới nghiêm vẫn đang còn hiệu lực. Dân chúng đi lui tới rất vô trật tự; xe gắn máy bóp kèn inh ỏi.

    Tôi biết sẽ có điều gì đó diễn ra vì đêm qua tôi đã nghe nói đến việc mất nước trên những đài phát thanh. Tôi quả thật không hiểu tại sao những cái gọi là cơ quan ngôn luận của thế giới tự do lại thường xuyên có những thông tin có lợi cho đối phương như vậy. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai và hình ảnh của ông Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy trưởng Cảnh Sát Việt Nam, bắn một tên VC trong Tết Mậu Thân được đăng tải trên nhiều báo chí và tập san, nhưng tôi chưa hề thấy một hình ảnh nào về sự tàn sát ở Huế, Quảng Trị, khi VC tạm chiếm các thành phố này, hay những hình ảnh của trẻ em ở một trường tiểu học ở Cai Lậy bị giết bởi đạn pháo kích của VC. Cuộc chiến tranh được coi là dài nhất và thê thảm nhất sau cuộc Thế Chiến Thứ Hai thì không thể nào tránh được việc giết chóc những người dân vô tội. Những kế hoạch tuyên truyền của những cơ quan thông tin đã khiến Cộng Sản đạt được sự đúng đắn trong khi cái gọi là Đồng Minh thì lại mất đi sự ủng hộ của quần chúng. Sự thất bại của chủ nghĩa Tư Bản trong chiến tranh Việt Nam không do chính cuộc chiến mà bắt nguồn từ những phong trào phản chiến ở Mỹ và trên thế giới.

    Tôi đang chờ đợi sự khủng hoảng của đất nước với niềm tuyệt vọng vô bờ. Dân chúng thì dường như quá quen với chiến tranh nên vẫn sống như thường lệ. Tôi không thể phân biệt được ai là VC ai không vì mọi người đều là người Việt. Đó cũng chính là điều khó khăn cho tôi trong nhiệm vụ hàng ngày. Đôi khi tôi nghĩ sự chấm dứt cuộc chiến này có lẽ sẽ tốt hơn đối với nhân dân tôi cho dù chiến thắng thuộc về phía bên nào. Chúng ta đều là người Việt dù là Cộng Sản hay Tư Bản. Điều tôi hy vọng chính là dân tộc tôi sẽ sống trong hòa bình và giàu có hơn. Một trăm năm trong chủ nghĩa Thực Dân và ba mươi năm chiến tranh đã khiến đất nước tôi trở thành một nước nghèo nàn và tan nát nhất thế giới. Nếu VC có thể đem lại hạnh phúc và ấm no cho toàn dân thì quả thật chiến thắng của họ rất xứng đáng. Đời tôi thì cũng chỉ như một hạt cát trong bãi sa mạc, và nếu tôi có chết đi thì cũng không là gì cả. Ý nghĩ này khiến tôi có một chút an tâm.

    Tiệm may của mẹ tôi vẫn mở cửa như thường lệ. Thợ may vẫn đến làm việc, khách hàng vẫn đến và đi như không có chuyện gì xảy ra. Khoảng 10giờ 30 sáng, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh việc đầu hàng Cộng Sản một cách vô điều kiện. Ông ta nói rằng “việc đầu hàng này sẽ tránh việc tắm máu của dân chúng một cách vô ích”, và ông ta yêu cầu “quân đội Việt Nam Cộng Hòa hãy buông vũ khí trong trật tự và chờ đợi tại chỗ để bàn giao cho VC.”

    Tôi nghe nhiều tiếng súng nhỏ nổ vài nơi nào đó rất gần. Mặc dù đã có lệnh ngưng bắn, vài chiến binh nhảy dù gác ở Viện Ung Thư gần nhà mẹ tôi đã nổ súng vào các đơn vị VC và rồi tự sát. Vài cuộc đụng độ lẻ tẻ vẫn xảy ra ở Bà Quẹo, gần trại Hoàng Hoa Thám của quân Nhảy dù. Những chiến sĩ tuyệt vọng và không có cấp chỉ huy đã tự động gây nên những cuộc đụng độ cuối cùng trước khi tự sát. Họ là những người cuối cùng ngã xuống cho đất nước. Tôi không biết họ có phải là những vị anh hùng hay không, nhưng tôi rất ngưỡng mộ những hành động đó. Tôi đã không đủ can đảm để làm việc ấy mặc dù tôi cũng đã suy tính việc này rồi khi tôi mang súng về nhà. Quả là rất khó có thể quyết định tự chấm dứt cuộc đời mình ngay cả trong hoàn cảnh hoàn toàn tuyệt vọng đi nữa.

    Tiếng súng đã thưa dần. Đường phố càng lúc càng trở nên náo nhiệt; tôi không thấy một VC nào ngoài những đứa trẻ cầm súng M16 và mang băng vải đỏ trên tay áo ngồi trên những chiếc xe đủ loại từ xe nhà binh đến xe dân sự lấy được từ những người di tản. Dân chúng gọi họ là những “nhà cách mạng ba mươi” có nghĩa là những người lợi dụng thời cơ để trở thành những nhà cách mạng ngay trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Họ từng là những học sinh, sinh viên, hay những nhân dân tự vệ trong vùng. Những người lính Nam Việt Nam thì trở về nhà trong bộ đồ lót: binh phục và vũ khí của họ đã bỏ lại nơi nào đó trong đường phố. Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh trên đài phát thanh Sài Gòn yêu cầu binh sĩ và sĩ quan ở lại vị trí để đợi bàn giao cho VC đã không có hiệu lực; mọi người đều cố tìm đường thoát thân hay trở về nhà. Những người di tản thất bại đang vội vã quay về lại nhà. Dân chúng đứng trước cửa nhà để cố xem coi VC ra thế nào trong lần đầu tiên trong cuộc đời của họ! Tất cả những điều này đã tạo nên một quan cảnh rất khôi hài.

    Mọi người đều có những suy nghĩ rất khác nhau. Binh sĩ và sĩ quan Nam Việt Nam thì lo lắng về số phận của họ; những người giàu có thì lo cho của cải của họ, và dân nghèo thì lại chờ đợi sự thay đổi số phận của họ theo như Cộng Sản hứa hẹn. Những sự lo lắng cộng với mong chờ đã tạo nên một sự kỳ lạ chưa từng thấy trong đời tôi.

    Vào Tết Mậu Thân, dân chúng đã vội vàng di tản ngay khi nghe VC đến. Giờ này đây, họ không còn biết chạy đi đâu vì VC đã chiếm toàn bộ đất nước rồi! Số phận của họ không còn nằm trong tay của chính họ nữa. Họ phải chờ đợi điều gì đó đến với họ. Đài Phát Thanh Hà Nội ra lệnh các đơn vị VC không được đụng đến một cây kim hay sợi chỉ của dân chúng, nhưng vài người thì nói đùa rằng VC thích lấy những cái quý giá hơn là những cây kim hay sợi chỉ. Vài người khác còn đùa rằng kể từ đây họ không còn lo sợ bị VC pháo kích nữa vì Mặt Trận đã giải phóng Sài Gòn! Sự chịu đựng của dân chúng đã quá sức đến nỗi họ có thể đùa ngay cả trong sự tuyệt vọng tột cùng của họ.

    Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh cùng giọng ca của Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm “Nối Vòng Tay Lớn” liên tục nhau phát thanh trên đài Sài Gòn. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ nổi tiếng của Nam Việt Nam, trong những năm 1960 – 1970 đã cùng với nữ ca sĩ Khánh Ly hát những ca khúc phản chiến trong các Đại Học ở Nam Việt Nam để thúc đẩy các phong trào chống chính quyền trong sinh viên. Nhiều lần chúng tôi đã nêu việc này lên cấp trên, nhưng chính quyền không có lý do để đàn áp cho đến khi Trịnh Công Sơn nhập ngũ. Các phong trào ca hát chống chiến tranh và chống chính quyền này vẫn tiếp tục cho đến ngày này Trịnh Công Sơn ra mặt là một tên Cộng Sản với bản nhạc “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng các “đồng chí” của anh ta (từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay…). Tôi không biết gì về Nguyễn Hữu Hạnh chỉ vì tôi không trực tiếp ở trong quân đội. Tôi cũng không biết ông ta là Cộng Sản hay chỉ là người Cơ Hội.

    Xe cộ, binh phục, và vũ khí bỏ bừa bãi đầy trên đường phố. Trẻ con nghịch đùa với vũ khí và đạn pháo M30, và cũng đã có vài tai nạn xãy ra. Vài người tháo rời những thứ trong xe cộ do những người di tản bỏ lại và lấy đi những gì lấy được. Không còn cảnh sát giữ trật tự đường phố nữa nên xe cộ bị tắt nghẽn và mất trật tự. Vài thanh niên mang băng đỏ đã tự đứng ra làm người chỉ dẩn lưu thông cố duy trì trật tự.

    Khoảng trưa, đơn vị VC vào chiếm Đài Phát Thanh Sài Gòn và tuyên bố chấp nhận việc đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của cái gọi là “Ngụy Quyền Nam Việt Nam”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe danh từ “ngụy quyền” và “ngụy quân”. Cùng lúc đó, Cộng Sản tuyên bố rằng Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không còn nghe tiếng của Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Hạnh đâu nữa. Bài ca “Sài Gòn Quật Khởi” đã thay vào đó, và đó cũng là lúc mà dân Sài Gòn lần đầu tiên được nghe một loại nhạc vừa nhanh vừa có âm điệu giống như nhạc Tàu. Sài Gòn đã được tiếp thu bởi cái gọi là “Ủy Ban Quân Quản Thành Phố” do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch.

    Vài chiếc xe Molotova, loại xe nhà binh của Liên Xô, bắt đầu thấy xuất hiện trên đường phố chở đầy những bộ đội Bắc Việt trong quân phục xanh với “nón cối” một loại nón của bộ đội Bắc Việt. Dân chúng đổ ra đường để chào đón những người lính Cộng Sản, những con người còn quá trẻ và quá lạc lõng trong ánh sáng chói lọi của Sài Gòn. Đó là cách mà dân Sài Gòn chuẩn bị cuộc sống của họ với những người Cộng Sản! Những lo lắng của họ đã thành sự thật, và họ đành phải chào đón những người Cộng Sản với niềm vui để che dấu những lo âu đang mang trong lòng. Tôi không thể phân biệt được ai là kẻ có một cảm tình thật sự!

    Vẫn còn vài người chở trên xe đạp hay xe gắn máy những hàng hóa lấy được trong những nhà kho bỏ lại chen lẫn với dân chúng đang chào đón những bộ đội chiến thắng. Dân Sài Gòn bắt đầu giãm đi những lo âu khi thấy những bộ đội Bắc Việt rất là luộm thuộm và lạc lõng. Trẻ con bắt đầu quen dần với VC và chúng còn leo lên cả trên những chiếc xe tăng của VC. Trong lúc đó thì đài truyền hình Sài Gòn lại chiếu cảnh một chiếc xe tăng Cộng Sản cày bừa lên cánh cổng mở rộng của dinh Tổng Thống, bắn một cách vô nghĩa vào tòa nhà, và cây cờ của VC đã được kéo lên nóc dinh. Cờ ba màu của mặt trận giải phóng miền Nam treo khắp nơi. Vài tiệm của người Tàu còn treo cả cờ của Trung Cộng nữa.

    Cuộc chiến ghê gớm nhất trong hai mươi năm đã chấm dứt một cách dễ dàng; những người chiến thắng thì ngỡ ngàng, và những kẻ thất bại thì vẫn chưa tin vào sự thật! Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, nhưng cái gì đây sẽ tiếp tục sau cuộc chiến? Đối với những sĩ quan của chế độ củ và đối với bản thân tôi thì dĩ nhiên là đang chờ đợi những cuộc trả thù. Bất cứ điều gì xãy đến, chúng tôi đều phải chấp nhận hết vì chúng tôi đã chiến bại. Cái chết sẽ là điều cuối cùng; tôi nghĩ thế. Nhưng đối với nhân dân nước tôi, đặc biệt là dân Sài Gòn, điều gì sẽ đến với họ đây khi họ là những người đã quen sống với sự tự do? Nền hòa bình mà Cộng Sản mang đến cho đất nước tôi dường như là khó chịu ngay đối với những người dân chưa hề có dính líu gì đến chế độ cũ. Sự đối nghịch giữa những bộ đội miền Bắc và dân Sài Gòn trông quá rõ ràng nhất là vẻ bên ngoài. Những bộ quân phục luộm thuộm với những đôi dép râu của VC quả thật rất khó được chấp nhận bởi dân Sài Gòn, những người đã quen với thời trang.

    Không lâu sau khi tiếp thu Sài Gòn, Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh ban hành một số quy định nhằm mục đích làm thay đổi lối sống của Sài Gòn: bất cứ ai còn sống theo lối sống của Mỹ như mở hộp đêm, khu giải trí, hoặc ăn mặc “sặc sỡ” sẽ bị phạt. Nhiều thanh niên nam nử bị cắt quần ống loe và mái tóc dài. Trên đường phố đã thấy có dấu hiệu của sự thay đổi: chiếc áo dài truyền thống đã biến mất để thay vào đó bằng áo bà ba và quần đen. Băng khẩu hiệu và bảng hiệu của các cửa hàng cũng đổi màu thành nền đỏ chử vàng. Bệnh viện Từ Dũ đổi tên thành “xưởng đẻ”! Bệnh viện Nguyển Văn Học thành “Bệnh Viện Nhân Dân tỉnh Gia Định”. Danh từ “nhân dân” được dùng khắp nơi: Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Chính Quyền Nhân Dân, và đặc biệt là “Tòa Án Nhân Dân”. Mọi cái đều là của nhân dân, nhưng Cộng Sản điều khiển hết mọi thứ. Trong mọi văn bản của VC, luôn có tiêu đề:

    Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam

    Độc Lập, Hòa Bình, Trung Lập.

    Nhưng không ai tin đây là một quốc gia trung lập ngoại trừ một nước Cộng Sản.

    Ngày thứ Năm, 1 tháng Năm 1975 cũng là ngày Lao Động của Cộng Sản Quốc Tế. VC tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại gồm có xe tăng T-54 và PT-76, hỏa tiển SAM của Sô Viết và tất cả mọi thứ vũ khí của các nước Cộng Sản. Hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn và vùng phụ cận hiếu kỳ đổ xô vào xem.

    Tôi đưa vợ tôi đến nhà ba má cô ấy. Đường phố đông đúc. Mặc dù tôi nghe rằng vài tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa đầu hàng, nhưng VC đã tuyên bố rằng chúng đã hoàn tất nhiệm vụ giải phóng đất nước. Cuộc diễn hành được tổ chức ở Sài Gòn, trước dinh Tổng Thống cũ chính là để ăn mừng chiến thắng của họ. Đường phố được trang hoàng bởi rừng cờ và biểu ngữ màu đỏ chói, màu của máu. Tôi nhìn thấy những biểu ngử như: “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Hầu hết những khẩu hiệu đều mang tên tác giả là Hồ Chí Minh. Tôi không biết những cái đó có đúng không, nhưng có một khẩu hiệu đã khiến tôi buồn cười. Khẩu hiệu đó cũng nói rằng do Hồ Chí Minh là tác giả: “Kế hoạch mười năm là trồng cây, kế hoạch trăm năm là trồng người”. Tôi đã biết câu nói này là của Quản Di Ngô, một chiến lược gia thời Đông Chu, vào thế kỷ thứ 5 trước Thiên Chúa giáng sinh.

    Hình của Hồ Chí Minh treo cùng khắp nơi với câu: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Hồ đã từng là người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam và là một người Cộng Sản Quốc tế ở Liên Xô, Hồ đã chết vào năm 1969 sau khi thất bại trong việc mưu toan thôn tính miền Nam vào Tết Mậu Thân. Vào lúc này thì người dân miền Nam đã nhận thức được điều mà họ đã từng nghe nói về “Bác và Đảng”. Ở miền Bắc Việt Nam, không có gì ngoài Bác -bác Hồ- và Đảng -đảng Cộng Sản-. Đối với người dân trong chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam thì gia đình, tổ quốc, tôn giáo đều không có ý nghĩa gì ngoài Bác và Đảng! Và giờ đây điều đó đã trở thành cái thực tế để nhân dân miền Nam chiêm nghiệm những gì mà họ đã nghe được trước kia. Nghĩ đến điều này, tôi bỗng cảm thấy tội nghiệp cho dân tộc mình.

    Bằng cách ban hành những quy định cho nếp sống mới, VC đã loại trừ tự do cá nhân của dân chúng, và bằng cách đóng cửa báo chí, họ đã chấm dứt quyền tự do ngôn luận của người dân. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?

    Đường phố từ nhà tôi đến nhà ba mẹ vợ tôi đã được trang hoàng đỏ chói. Cờ ba màu của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam chen lẫn với cờ đỏ của Bắc Việt và cờ của Cộng Sản Trung Hoa treo trước mọi nhà. Băng biểu ngử và vài bảng hiệu cũng nhuộm màu đỏ. Dân Sài Gòn thích ứng rất nhanh với hoàn cảnh. Nhưng vẫn còn dấu hiệu của những cây cờ ba sọc đỏ của VNCH đã được vẽ lên trước đây. VC chưa đủ thời giờ để xóa hết những thứ này cũng như những khẩu hiệu cũ: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” hoặc “Đất nước còn là còn tất cả, đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.” Những cái ấy dường như là một chứng tích cho dân chúng để họ có cơ hội nhận rõ những hành động của Cộng Sản trong những ngày sắp tới.

    Một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt một cách dể dàng, nhưng tôi nghĩ vết thương của nó sẽ không dễ gì hàn gắn được. Đối với người dân miền Nam, những người đã quen sống trong tự do, chắc sẽ không dễ gì sống được trong một chế độ độc tài, nhất là dưới chế độ Cộng Sản.

    Anh chị vợ tôi, Linh và Lan, đều ở bên nhà ba má vợ tôi. Họ chưa dám ở nhà họ một mình. Linh nói với tôi rằng chúng tôi phải trình diện tại cơ quan vào ngày mai, 2 tháng 5 theo lệnh của ông Lộc, nguyên đặc ủy trưởng. Tôi không biết phải làm sao vì tôi đã nghe nói rằng người tiếp thu cơ quan là Nguyễn Tá, người đã từng làm việc chung với tôi trong khi tôi còn làm trong ban nội chính. Tá đã trốn vào mật khu khi bị nghi ngờ là VC. Tôi từng đi công tác ở Đà Lạt với Tá khi tôi đang theo dõi những hoạt động của nhóm “Lực Lượng thứ ba”, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta chỉ biết bí danh của tôi chứ chưa biết tên thật.

    - “Tôi nghĩ chúng ta phải lựa chọn thôi bởi vì không thể nào trốn tránh mãi được. Sinh mạng chúng ta giờ đây giống như con cá nằm trên thớt, chúng ta không còn gì khác hơn là phải đánh cuộc với số mệnh.” Linh nói.

    - “Chúng ta thì coi như đã chết rồi từ ngày hôm qua.” Tôi trả lời. “Tôi thì chẳng còn tha thiết đến điều gì nữa cả, tôi sẽ đi vào cơ quan ngày mai với anh để xem tình hình thế nào. Nhưng tôi cảm thấy không yên tâm về vợ tôi với cái bầu của cô ta.”

    Chúng tôi nhìn nhau im lặng. Linh và tôi có cùng hoàn cảnh vì chị vợ tôi và vợ tôi đều cùng làm trong cơ quan. Tôi không biết có nên để vợ tôi đi trình diện hay không, nhưng rồi cô ấy không muốn ở nhà để chờ đợi tôi. Vợ tôi cũng muốn được cùng chấp nhận mọi điều xảy ra cho chúng tôi. Thêm vào đó, vợ tôi cũng không thể trốn đi đâu được vì hồ sơ giấy tờ vẫn còn lại trong văn phòng, và VC đã biết mọi điều về chúng tôi.

    (Hết chương 5 – 7. Xin xem tiếp chương 8 – 19)

  3. #3
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st

    Phần 2

    Trại Cải Tạo Long Thành


    Chương 8 . Cải Tạo

    Hầu hết nhân viên của Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo không thể di tản được đều có mặt ở trụ sở trung ương sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975 nhưng lại ở ngoài sân thay vì trong văn phòng như mọi ngày. Chúng tôi phải trình diện cho cái gọi là “Uỷ ban Quân Quản” của “Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời”. Mọi người cố giữ vẻ bình tĩnh, nhưng không ai có thể che dấu được sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt. Mặc dù rất đông người trong sân, một sự im lặng nặng nề bao phủ khắp nơi. Ai nấy đều thì thầm với nhau dường như sợ rằng lời nói của mình có thể bị người khác nghe được. Không như tôi đã dự đoán, Tuân, Banh, và hầu hết những người làm việc với tôi như Nhàn, Trung, Tâm, Trí, Lâm, Vinh, đều ở lại. Tôi nghĩ họ đều độc thân, hay gần như độc thân, việc leo lên một con tàu nào đó để đi là một việc rất dễ dàng đối với họ. Tuy nhiên, tôi đoán rằng có lẽ họ đều đã quá tin vào kế hoạch di tản chung của Phủ. Một kế hoạch không hoàn chỉnh đã tạo nên một tình trạng bi thảm như thế này đây! Giờ này thì mọi người chỉ còn biết giao tính mạng mình cho sự may rủi mà thôi.

    Sau khi đã điền tên vào giấy để trên bàn đặt giữa sân, vợ tôi và tôi đến gặp Linh và Lan, chị vợ tôi cùng chồng chị ấy. Giấy tờ chúng tôi đã tiêu hủy vào tối hôm qua nên không thể nộp cho viên thư ký ngồi ở bàn theo lời yêu cầu của ông ta. Tôi không biết viên thư ký này, nhưng vài người cho chúng tôi biết đó là trung tá Khương, trước đã từng là Chánh sở An Ninh của Phủ. Tôi cũng không rõ ông ta là Việt Cộng hay chỉ là người Cơ Hội! Tôi đi ngang qua Tuân và Banh; cả hai chỉ nhìn tôi gật đầu không nói lời nào. Tôi không còn nghe tiếng cười của Tuân và Banh như thường ngày nữa. Chúng tôi chỉ trao nhau những nụ cười chua cay để thay vào đó.

    Lần đầu tiên chúng tôi phải ngồi xổm xuống đất để đợi đến phiên mình làm giấy tờ. Long, cựu nhân viên của phòng tuyển mộ gọi tên từng người trong danh sách; chúng tôi tuần tự đến ký tên vào một tờ giấy đặt trên bàn ở gần cổng của phòng y tế, kế bên bãi đậu xe.

    Những ngày từ 2 tháng năm đến 14 tháng sáu, tôi nhớ có hai lần tôi phải đến trình diện với những tên VC đã tiếp thu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo. Lần đầu tiên -tôi không nhớ rõ ngày nào- họ cử hai người mặc thường phục đến nhà mẹ tôi chở tôi đến một trụ sở cũ của cơ quan ở đường Trần Bình Trọng. Chúng bảo tôi viết lại những gì tôi biết được về khoảng thời gian từ năm 1969 đến 1972 lúc tôi trà trộn trong sinh viên để tiếp cận với Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn do Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch. Họ giữ tôi từ sáng đến sáu giờ chiều mới đưa tôi về nhà. Tôi phải đưa tiền để mua phần ăn trưa. Lần thứ hai, họ gửi thư gọi tôi đến trình diện tại nhà an toàn cũ của ban A17 tại đường Phan Thanh Giản, nơi đây tôi gặp Nguyễn Tá, người đã làm việc chung với tôi khi tôi còn làm ở Ban Z, Ban Công Tác Nội Chính, và cũng là người đã tiếp thu Phủ. Tôi nghĩ lần đó chỉ vài ngày trước khi tôi phải đi trình diện cải tạo. Tôi không phải viết gì lần này. Nguyễn Tá khuyên tôi nên đi trình diện học tập cải tạo theo chỉ thị của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời để được sự khoan hồng của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.

    Kể từ đó, danh từ “Cải Tạo” được nghe nói đến khắp nơi! Cải Tạo Tư Tưởng, Cải Tạo Nếp Sống, Cải Tạo Xã Hội, Cải Tạo Kinh Tế, vân vân và vân vân, được loan báo hàng ngày trên đài phát thanh và truyền hình. Binh sĩ Nam Việt Nam trình diện cải tạo và được thả về sau ba ngày. Hạ Sĩ Quan Nam Việt Nam được thả về sau bảy ngày cải tạo, và rồi sĩ quan từ cấp thiếu uý đến đại uý phải học tập trong 10 ngày. Sĩ quan từ Thiếu Tá trở lên, nhân viên chính quyền từ Trưởng Ty đến Tổng Thống cũng như nhân viên tình báo trung cấp và cao cấp phải trình diện học tập trong một tháng.

    Theo thông cáo của Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời, lịch trình trình diện của chúng tôi là từ ngày 13 tháng sáu đến 15 tháng sáu và địa điểm là trường Trung Học Chu Văn An. Chúng tôi phải đóng tiền ăn trong một tháng là mười bốn ngàn đồng cho mỗi người và phải mang theo chăn màn quần áo. Mọi việc diễn tiến rất hợp lý. Cộng Sản chọn trường học để làm địa điểm trình diện cải tạo và quy định thời gian hợp lý cho từng cấp bậc. Mặc dù chúng tôi không tin vào lời nói của Cộng Sản, chúng tôi cũng phải tự trấn an bằng cách hy vọng điều đó là sự thật. Ngoài ra, chúng tôi làm được gì trong hoàn cảnh ấy, và chúng tôi có thể trốn đi đâu bây giờ? Chúng tôi coi như đã chết rồi từ ngày 30 tháng tư.

    Ngày 13 tháng sáu nhằm ngày thứ sáu, ngày xui xẻo! Ngày 14 là Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng năm, cũng là ngày xui đối với người Việt Nam! Chúng tôi quyết định chọn ngày 14 tháng sáu là ngày đầu tiên đi cải tạo với hy vọng rằng hai cái xui sẽ trở thành một cái hên! Tôi chẳng còn tiền để đóng nên đành phải cầm thế chiếc nhẩn cưới để có tiền đi cải tạo. Điều này giống như một chuyện đùa, nhưng đó chính là sự thật mà tôi đã trải qua một cách cay đắng.

    Trên chuyến xe buýt từ nhà mẹ tôi đến trường Trung Học Chu Văn An, chúng tôi gặp một ông lão, ông ta hỏi chúng tôi đi đâu vậy. Tôi nghĩ rằng ông nhìn thấy đồ đạc cồng kềnh của chúng tôi. Tôi trả lời rằng chúng tôi đi “học tập cải tạo!”. Ông ta nhìn chúng tôi cười một cách khó hiểu và chúc chúng tôi may mắn. Lúc đó tôi không hiểu được ý nghĩa nụ cười của ông ta, tôi đoán chắc ông ấy tỏ vẻ thương hại chúng tôi. Không chỉ có hai chúng tôi đi cải tạo mà còn có cả đứa con còn trong bụng vợ tôi nữa!

    Trường Trung Học Chu Văn An là trường mà tôi đã theo học vào lớp 12. Đó là năm 1963, năm mà Dương Văn Minh được Mỹ giúp sức để làm cuộc đảo chánh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bắt đầu xáo trộn miền Nam Việt Nam ngõ hầu Mỹ có cơ hội đưa quân vào Việt Nam. Mười hai năm sau, tôi lại trở lại trường xưa, và Dương Văn Minh, người đã vừa giúp đở VC chiếm miền Nam, đang ở trong Đại Học Xá Minh Mạng dành cho sĩ quan từ cấp đại tá đến cấp tướng ở kế bên.

    Bạn bè và đồng nghiệp của tôi đang đứng phía trước trường. Lan và Linh, vợ chồng chị vợ tôi đã trình diện vào hôm qua sau khi giao hai đứa con trai bốn tuổi và một tuổi cho ông bà ngoại nuôi dùm. Nhìn cái bụng vợ tôi, tôi tự hỏi làm sao cô ấy có thể chịu đựng được một tháng cải tạo cho dù đó là một tháng như họ nói. Nhưng tôi lại nghĩ mỗi người đều có hoàn cảnh khó khăn riêng. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng chúng tôi coi như đã chết từ cái ngày “giải phóng”. Phần còn lại chỉ là một cuộc sống vô vọng; ranh giới giữa cái sống và cái chết chỉ là một danh từ. Trong ý nghĩ đó, chúng tôi bước vào ngày cải tạo đầu tiên của chúng tôi sau khi nói đùa với bạn bè rằng “ai đi sớm sẽ được về sớm.”

    Trường Trung Học Chu Văn An nằm đối diện với nhà thờ Ngã Sáu, trên đường Minh Mạng thuộc quận Năm Sài Gòn. Từ trường tôi có thể nhìn thấy trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn trên đường Hồng Bàng nơi tôi thường đến hầu như hàng ngày từ năm 1969 đến năm 1975 trong công tác. Trường có hai dãy nhà hai tầng. Tôi được đưa vào nhà đầu tiên, vợ tôi cũng thế. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy quang cảnh trên đường phố bên ngoài. Vợ tôi vào phòng đầu tiên dành cho phụ nữ, nơi từng là lớp học của tôi mười hai năm trước. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là đời tôi đang diễn ra những sự trùng hợp kỳ lạ. Tôi đứng trên ban-công của trường nhìn về phía nhà thờ nơi tôi từng chơi đùa cùng bạn bè. Bạn tôi vẫn đang ở đấy, nhưng họ không phải là những người bạn học cũ của tôi. Một vài người lo lắng quay về nhà; một vài người khác vội vã băng qua đường để vào “trường” sau khi từ giã thân nhân.

    Lớp học nơi tôi bước vào hoàn toàn trống rỗng. Mọi vật đã được dời đi nơi khác. Tôi trải chiếc chiếu cói lên sàn nhà nơi được đặt bục giảng của giáo sư trước kia. Chúng tôi chia nhau mỗi người một khoảng trống khoảng vừa một chiếc chiếu. Cái ba-lô biến thành gối nằm và nó đi theo cùng tôi đến lúc tôi trở về mười bảy năm sau. Trong ba-lô, tôi có 1 cái mùng nilon, một cái mền nilon nhà binh, hai quần Jean, hai áo sơ mi, cái bi-đông đựng nước uống, cái áo khoác, một pon-sô nhà binh, mười gói mì ăn liền, một gói cơm sấy, một gói thịt khô, và một gói đựng thuốc gồm Tylenol, Penicillin, thuốc tiêu chảy, Quinine, và một cuộn băng keo. Tôi chuẩn bị cho một cuộc sống trong rừng chứ không phải trong thành phố. Cái mà tôi quên là chiếc võng mà tôi nghĩ có lẽ sẽ rất cần thiết với tôi sau này. Lớp học gợi tôi nhớ đến những người bạn xưa, vài người đã chết trong cuộc chiến, vài người đang ở nơi nào đó bên ngoài kia, một vài người chắc đang ở trong hoàn cảnh giống như tôi bây giờ đây.

    Tôi đi qua phòng vợ tôi. Mọi người trong phòng đã giúp vợ tôi có chổ nằm kế bên chị vợ tôi. Ngọc, Liễu, Ba, những người đàn bà làm chung với vợ tôi trước kia ở phòng tuyển mộ cố an ủi tôi bằng cách hứa sẽ chăm sóc vợ tôi khi cô ấy cần. Tôi rời vợ tôi sau một lúc và đi quanh tìm bạn bè.

    Mọi người đang bàn tán về danh từ “cải tạo” của Cộng Sản, nhưng không ai dám nhìn nhận sự thật rằng cải tạo không gì khác hơn là trả thù. Danh từ “tẩy não” và quyển sách “Trại Đầm Đùm” được viết bởi một nhà văn ở miền Nam là những gì mà tôi được biết về sự cải tạo của Cộng Sản, nhưng sự thật về cái gọi là “Cải Tạo” vẫn còn là một điều bí mật đối với tôi. Chúng tôi đã được biết ít nhiều về việc cải tạo các “Cosack” ở Liên Sô sau khi Cộng Sản cầm quyền ở đây, các Cosack được đưa đi Siberia để cải tạo và chết ở đấy. Sau khi chiếm Trung Quốc, Cộng Sản đã đưa hàng trăm ngàn người Trung Hoa Quốc Gia đi Tân Cương để cải tạo và chết ở đó. Nhưng chúng tôi không biết gì về số phận các người Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh chiếm miền Bắc. Họ đã bị giết chết hay vẫn còn trong các trại tập trung ở miền Bắc Việt Nam? Những người Cộng Sản Việt Nam đối xử thế nào với kẻ thù của họ?

    Tôi không nghĩ Cộng Sản Việt Nam sẽ làm một cuộc thảm sát giống như Hitler đã làm ở các lò sát sinh vì chúng không muốn làm mục tiêu cho công luận, nhưng giết lần mòn là điều mà họ có thể thực hiện mà không sợ ai phản đối. Đi vào trại, chúng tôi phải chấp nhận mọi điều xãy ra ngay cả điều xấu nhất, đó là cái chết.

    “Tẩy Não” và “Cải Tạo” có lẽ là hai từ rất tương đương nhau! Cộng Sản “tẩy não” kẻ thù của họ như thế nào? Cải tạo tư tưởng là từ mà Cộng Sản dùng rất nhiều trong những ngày đầu “giải phóng”. Chúng bảo rằng nhân dân miền Nam đã từng sống một thời gian dài với Đế Quốc Mỹ và Ngụy Quyền Nam Việt Nam cần phải được cải tạo tư tưởng để thích hợp với xã hội mới: Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa!

    Nhưng cải tạo như thế nào vẫn là một điều khó hiểu. Mỗi nơi có một cách để cải tạo. Những thanh niên bị cắt quần ống loe, phụ nử không được mặc áo dài và không được trang điểm, cái gọi là “nhạc vàng” bị cấm triệt để, sách vở xuất bản ở miền Nam Việt Nam bị coi là “phản động và đồi trụy” và bị thiêu huỷ, dân chúng phải lao động và thu nhập tuỳ theo công sức mà họ đóng góp, vân vân và vân vân. Đó là những điều mà Cộng Sản gọi là cải tạo xã hội. Nhân viên của chế độ cũ phải được học tập những điều gọi là “tội ác” của Đế quốc Mỹ và Ngụy quyền cùng chiến thắng của cách mạng và của Xã Hội Chủ Nghĩa. Đó là những điều mà Cộng Sản gọi là cải tạo tư tưởng để thích hợp vơi xã hội mới. Mặc dù chúng tôi không tin đơn giản như vậy, nhưng chúng tôi lại hy vọng mọi việc sẽ không đến nỗi quá tồi tệ. Điều đó cũng rất tự nhiên đối với một con người khi lâm vào cảnh khốn cùng thì luôn mong mỏi một điều gì đó khá hơn để mà tự an ủi mình. Chúng tôi không thể đi đâu được, không thể trốn tránh được, chúng tôi đành phải đặt số phận mình vào tay kẻ thù, đi vào trại cải tạo và chờ đợi mọi điều có thể xảy ra với chúng tôi.


    Chương 9. Điều Vô Lý

    Vài chiếc xe van mang tên của những nhà hàng ăn ở Sài Gòn như “Bách Hỷ”, “Đại La Thiên”, “Đồng Khánh”, “Mandarin”, tiến vào trường. Nam nữ tiếp viên mặc đồng phục trắng xếp thức ăn lên bàn đặt trong sân trước trường gần cổng chính, và rồi từ chiếc loa phóng thanh treo ở dãy nhà đầu tiên vang lên lời mời “trại viên” đi ăn cơm chiều! Những “trại viên” vào ngày hôm qua đi đến bàn ăn một cách tự nhiên, nhưng những “trại viên” mới vào đi theo một cách lúng túng. Tôi cùng vài người trong đội đi đến bàn ăn của nhà hàng “Bách Hỷ”, lấy một ít thức ăn vào chén rồi đến ngồi ăn chung với vợ tôi. Chị vợ tôi nói rằng ngày hôm qua “họ” giải thích phần ăn ấy là tiền của chúng ta đóng góp. Họ chưa có nhà bếp nên phải mua từ những nhà hàng đến phục vụ chúng ta. Lời giải thích rất hợp lý, nhưng nhìn những bộ đội của họ đang canh gác quanh trường ăn cơm với rau muống và nước mắm trong những mâm nhôm, chúng tôi cảm thấy nghi ngờ! Chúng đang làm gì đây? Thật là một điều vô lý! Có phải đó là một cách để che mắt nhân dân Sài Gòn, và đối với những phóng viên ngoại quốc ngoài kia có lẽ đó là cơ hội tốt để loan truyền về chính sách nhân đạo của Cộng Sản!

    Sau khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, phóng viên ngoại quốc vẫn tiếp tục quan sát và săn tin về những gì đang xảy ra sau cái gọi là “giải phóng” của Cộng Sản Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến lớn nhất sau Thế Chiến thứ hai, do đó Cộng Sản luôn tạo cơ hội tuyên truyền khắp thế giới cũng như họ đã làm như thế trong chiến tranh. Phóng viên ngoại quốc luôn luôn là phương tiện cho họ thực hiện chiến lược này. Ai có thể biết được những gì xảy ra bên sau bức màn sắt? Tôi không tin họ đối xử với chúng tôi như vậy mà không có mục đích gì. Cộng Sản luôn luôn dùng một hành động này để che dấu một hành động khác. Điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi sau khi họ đạt được mục tiêu tuyên truyền về chính sách nhân đạo của họ đối với kẻ thù? Tất cả chúng tôi đang chờ đợi những điều sắp xảy ra.


    Chương 10. Chuyến Di Chuyển Đầu Tiên

    Khoảng sáu giờ chiều, tôi đang ngồi với vợ tôi thì có người vào gọi vợ tôi rời trường Chu Văn An để ra về với lý do là cô ấy sắp đến ngày sinh. Cô ấy đang có mang ở tháng thứ chín. Tôi nghĩ điều này sẽ tốt hơn cho vợ tôi vì cô ấy sẽ không phải sinh con trong trại, nhưng tôi lại không biết cô ấy sẽ ra sao đây khi không có tôi bên cạnh. Tôi xách túi xách và tiễn vợ tôi ra cổng với lời an ủi rằng hy vọng rồi đây chúng tôi sẽ gặp lại nhau sau 1 tháng. Tôi nhìn theo vợ tôi bước lên chiếc xích lô đạp rồi quay trở vào trường với một nỗi buồn mang mác. Tôi sẽ không thể gặp được con tôi khi nó chào đời! Tôi sẽ không có dịp để săn sóc vợ tôi, cô bé mỏng manh của tôi, khi cô ấy sinh nở! Nhưng tôi cảm thấy như vậy là tốt hơn là vợ tôi phải chịu đựng sự đau đớn trong trại.

    Mọi người ngóng theo tôi khi tôi đưa vợ tôi ra về và rồi quay lại vào trong trường. Có vài người đến chúc mừng vợ tôi đồng thời an ủi tôi vài lời, sau đó chúng tôi ngồi bàn tán về tương lai chúng tôi sau khi “họ” thả vợ tôi ra về. Trường Chu Văn An nằm cạnh bên nhà bảo sanh Hồng Bàng; nếu chúng tôi còn tiếp tục ở đây để cải tạo thì rất thuận tiện cho vợ tôi một khi cô ấy sinh đẻ. Không ai bảo ai, chúng tôi đều chuẩn bị sẳn sàng cho một sự di chuyển.

    Sáu chiếc xe buýt tiến vào trường vào khoảng 7 giờ chiều. Chúng tôi được báo cho biết rằng chúng tôi sẽ được chuyển đến một trại cải tạo để có điều kiện thuận tiện hơn cho chúng tôi học tập một cuộc sống trong một chế độ mới. Chúng tôi đã đoán điều này sẽ phải đến, nhưng lại không biết chúng tôi sẽ bị đưa đi đâu đây: một khu rừng sâu, một hải đảo như Phú Quốc hay Côn Nôn nơi đã từng là trại giam những can phạm chính trị hay trọng tội. Chúng tôi đang thảo luận về chuyến di chuyển vì hầu như mọi người đều đã sẵn sàng sau khi thấy vợ tôi rời trường.

    Khoảng 8 giờ, hai người mặc thường phục đội nón cối tự xưng là “Anh Bảy” và “Anh Tư” vào gọi tên chúng tôi xếp theo thứ tự từng đội từ đội 1 đến đội 6 và cho chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ được chuyển đến một trại cải tạo, nhưng không ai dám hỏi chúng tôi sẽ đi đâu. Mọi việc xong xuôi vào khoảng 9 giờ, nhưng chúng tôi phải đợi đến nửa đêm. Những chiếc xe buýt vẫn đậu trong bóng tối ở sân trước trường. Không ai ngủ được cho dù chúng tôi đã phải trải qua một ngày căng thẳng mệt mỏi. Mọi người thì thầm với nhau dường như sợ rằng người khác có thể nghe được lời đối thoại của mình, nhưng trong sự yên lặng ấy thì ngay cả tiếng muỗi bay cũng có thể nghe rõ mồn một. Mọi người đều lo lắng về nơi sẽ đến và điều gì rồi sẽ xảy ra ở trại cải tạo ấy.

    Đèn trong sân trường đột nhiên bật sáng. Mọi người dường như đang đợi chờ giây phút ấy nên đứng ngay dậy và hướng mắt ra sân trường. Vài người mang đồ đạc của họ tiến ra ban công. Giọng của “Anh Bảy” và “Anh Tư” vang lên gọi trại viên đi đến xe buýt thuộc đội mình. Tôi leo lên chiếc xe thứ ba dành cho đội ba rồi ngồi đợi. Tôi chẳng còn gì để lo lắng nữa cả vì tôi biết rằng nếu có điều gì xảy ra thì tôi chỉ chịu một mình tôi mà thôi. Ít ra tôi không còn lo cho vợ tôi và đứa con chưa ra đời của tôi nữa.

    Đoàn xe rời trường vào khoảng 2 giờ sáng về hướng ngã tư Bảy Hiền. Thành phố rất im lặng. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ đến Tây Ninh hay vào chiến khu D của Việt Cộng, nhưng đến Bảy Hiền, đoàn xe lại đi thẳng rồi sau đó quẹo phải vào xa lộ “Đại Hàn”. Tiếp theo đoàn xe lại quẹo trái vào xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Tôi không hiểu sao “họ” không đi thẳng đường Phan Thanh Giản để vào xa lộ mà lại phải đi theo một lộ trình xa xôi như thế. Có lẽ “họ” muốn đánh lạc hướng chúng tôi. Đoàn xe cuối cùng tiến vào nơi gọi là “Làng Cô Nhi Long Thành” vào khoảng 7 giờ sáng. Phải mất năm tiếng đồng hồ để di chuyển một lộ trình khoảng ba chục dặm chỉ để dấu một địa điểm mà chúng tôi đã biết từ lâu.


    Chương 11. Trại Cải Tạo Long Thành

    Làng Cô Nhi Long Thành đã có một lịch sử mà hầu hết chúng tôi đều biết đến. Từ 1968 đến 1971, một tên Việt Cộng tên là Tư Sự núp dưới lốt áo tăng lữ Phật Giáo đã sáng lập và điều hành cái gọi là “Làng Cô Nhi”. Hắn ta dùng cô nhi để quyên tiền cho VC. Hắn cùng đồng bọn chứa vũ khí để chống lại bất cứ ai có ý định xâm nhập vào làng. Trong giai đoạn này, chính quyền Nam Việt Nam đã rất khó khăn để giải quyết tình hình. Nếu tấn công vào “Làng” thì có nghĩa là chính quyền đã tấn công trẻ con. Nếu không thì càng lúc càng nguy hiểm cho chính quyền.

    Có một lần tôi đã đến Làng Cô Nhi dưới danh nghĩa của phóng viên cho nhật báo “The Saigon Post”. Trẻ con đầu trọc chân đất phải làm việc trên cánh đồng dưới nắng nóng của mặt trời, và chúng chỉ được ăn chay vào mỗi bửa ăn trưa theo như quy định của tăng lữ Phật Giáo. Cùng đi với chúng tôi còn có nhóm người trong “thành phần thứ ba”. Tôi đã rất bực tức khi nhìn thấy trẻ con phải đứng dưới trời nắng nóng để đón chào những kẻ mang danh nghĩa “lãnh tụ” của cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba” này! Chúng dùng trẻ mồ côi để thu thập tiền bạc từ nhiều nguồn cung cấp mà nhất là từ những hội từ thiện Mỹ, và trẻ con lại là cái lá chắn cho chúng nữa.

    Sau đó, chính quyền Sài Gòn đã phải dùng quân đội và cảnh sát để tấn công vào chiếm lấy Làng, giải cứu trẻ em; “Làng Cô Nhi” đã trở thành trại cho “Nạn Nhân chiến cuộc Bình Long”. Một lần nữa tôi đã có dịp đến đây để trao quà cho các nạn nhân chiến cuộc dưới danh nghĩa của “Đoàn Sinh Viên Khoa Học Cứu trợ Đồng bào chiến nạn”. Tổ chức này chính là tiền thân của Ban Đại Diện Sinh Viên Khoa Học mà tôi đã thành lập đầu tiên ở trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn.

    Trại Cải Tạo Long Thành nằm trên đỉnh của một ngọn đồi sát bên quốc lộ Số 1. Không có cái bảng nào để cho biết đó là trại cải tạo ngoài một bảng kẻ khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” mà chúng ta thường thấy khắp nơi sau ngày 30 tháng tư năm 1975. Đoàn xe ngừng lại ở giữa con đường chính của trại. Đó là con đường đất sét đỏ rộng khoảng năm mét và dài khoảng tám trăm mét nối từ cổng vào đến căn nhà cuối của trại. Vì trại nằm trên đỉnh đồi nên không có cái giếng nào cả. Nước được chuyển đến bằng xe bồn. Khi chúng tôi đến đã thấy nhiều người cầm can xếp hàng phía sau chiếc xe bồn. Họ vẫy tay chào chúng tôi dường như chào đón những người mới đến.

    Hai bên con đường chính là mười căn nhà trệt, mỗi bên năm cái, một căn nhà khác nằm cuối đường và một cái nữa nằm cạnh cổng trại. Mỗi căn nhà chia ra làm hai phòng giam, mỗi phòng chứa khoảng 100 trại viên thuộc 2 đội. Mỗi phòng có bốn khung cửa cái và tám khung cửa sổ không có cánh cửa. “Họ” chia trại viên ra thành 4 khối: Khối 1 gồm những người từng làm việc trong chính quyền Nam Việt Nam từ Trưởng Ty đến Tổng Thống. Khối 2 gồm những người mà họ gọi là “Đảng Phái Phản Động” (tất cả các đảng phải chính trị ở miền Nam Việt Nam) với chức vụ từ Thư Ký đến Chủ Tịch Đảng. Khối 3 gồm những người làm cho cơ quan tình báo từ trung cấp đến cao cấp. Khối 4 gồm những sĩ quan cảnh sát từ Thiếu Tá đến cấp Tướng. Năm căn nhà phía bên phải con đường dành cho khối 1; phía bên trái thì hai căn nhà đầu tiên dành cho khối 4, ba cái còn lại là của khối 3, căn nhà cuối đường dành cho trại viên nữ, và căn nhà gần cổng là của khối 2. Còn một kiến trúc khác được dùng làm hội trường để họp tất cả trại viên.

    Khoảng 50 trại viên trong mỗi đội được chia làm 4 tổ. Mỗi tổ phải nằm thành hai hàng trong phòng, do đó có tất cả 4 hàng trong mỗi phòng giam: 2 hàng cạnh tường và 2 hàng ở giữa phòng. Những trại viên nằm cạnh tường quay đầu về phía tường, còn những trại viên nằm hàng giữa thì nằm đối đầu nhau. Khoảng trống giữa hàng giữa và hàng cạnh tường dùng làm lối di chuyển.

    Còn hai phòng nhỏ ở hai đầu nhà nơi từng là phòng ăn cho cô nhi nay trở thành phòng họp cho cán bộ cùng các đội trưởng, phòng chứa dụng cụ lao động cho trại viên.

    Đầu tiên, trại không có hàng rào để ngăn khu hay khối. Đầu năm 1976, “họ” bắt đầu xây tường gạch xi măng để rào quanh trại và chia cách từng hai nhà một, tường rào ngăn giữa đường chính với từng khu, và tường ngăn cách riêng biệt khu nữ. Cùng lúc đó, trại đóng giếng và bơm nước vào từng khu thay vì cung cấp nước bằng xe bồn. Trại Long Thành càng lúc càng được củng cố.


    Chương 12. Ngày Đầu Trong Trại Cải Tạo Đầu Tiên


    Tôi thuộc tổ 2, đội 3 trong khối 3, do đó tôi phải vào phòng đầu tiên trong nhà thứ tư phía bên trái của con đường. Chẳng có gì trong phòng ấy nên tôi phải trải chiếc chiếu cói trên nền xi măng ở giữa phòng để có chỗ ngủ và sinh hoạt.

    Việc đầu tiên tôi phải giải quyết là làm thế nào có nước để dùng! Tôi không có gì đựng nước, do đó tôi phải tìm cho được cái gì đó để đựng nước uống và rửa ráy. Tôi đi lùng xung quanh trại và tìm được một tấm tôn từng để lợp mái cho nhà ở của nạn nhân chiến cuộc vào năm 1972. Tôi không biết làm thế nào để làm cái thùng đựng nước bằng tấm tôn này, do đó tôi đã uốn hai đầu lại giống như xếp tờ giấy sau đó xếp hai đầu còn lại biến nó thành một cái thùng chứa hình hộp vuông. Cái thùng đầu tiên này không thể đựng nước được vì nó rò rỉ khắp nơi. Tôi quyết định đi lùng một lần nữa để tìm ra cái gì đó để hàn nó lại. Lần này, tôi nhặt được một cái nón sắt, một tấm giấy hắt ín, vài cây đinh, và vài cây gỗ 5×10 phân. Tôi đốt tấm giấy để lấy hắc ín hàn mấy cái lổ ở đáy thùng, và rồi tôi đóng hai thanh gỗ vào 2 bên thùng để giữ thành thùng và cũng để khiêng nó. Tôi đã có một cái thùng đựng nước, nhưng rồi tôi lại không thể khiêng nó một mình tôi được. Tôi nói với Điệp khiêng dùm phụ và chia nước để dùng chung. Chiều hôm ấy, chúng tôi đã được một thùng đầy nước, nhưng chúng tôi quyết định chỉ sử dụng nước khi thật cần thiết mà thôi. Lúc ấy là cuối tháng 6, trời bắt đầu mưa. Chúng tôi làm thêm 2 cái thùng nữa theo cách ấy để đựng nước. Sau kinh nghiệm đầu tiên, chúng tôi làm một cách tốt hơn. Vài tuần sau, tôi có thể làm được cả cái thùng tròn từ tấm tôn.

    Điều khó khăn gặp phải là chẳng có cái nhà vệ sinh nào trong phòng. Tôi đi quanh trại để tìm xem có nhà cầu nào không, nhưng quả thật không có cái nào cả. Chung quanh trại chỉ có một hàng rào thưa bằng kẽm gai, tôi nghĩ tôi có thể chui qua một cách dể dàng. Chỉ có một cái trạm gác ở cổng trước. Tôi nghĩ chỉ có một cách giải quyết là tìm một cái xẻng hay cái cuốc rồi chui qua hàng rào, không phải để trốn trại mà là chỉ để “ỉa” mà thôi! Như tôi đã nói, trại là làng cô nhi trước đây, do đó tìm một cái cuốc hay xẻng không phải là việc khó khăn. Đó là bài học đầu tiên mà tôi học được của cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” của “cách mạng”.

    Và rồi tôi lại tự hỏi tôi tắm ở đâu bây giờ? Tôi lại chưa quen tắm ngoài trời, vã lại còn có đàn bà con gái trong trại nữa! Tôi đi đến một cái lều tôn bỏ hoang nơi từng là nhà tạm trú cho nạn nhân chiến cuộc, nhưng có nhiều trại viên nữ đang chờ đợi ở đấy. Tôi đành phải bỏ ra về để tắm ngoài trời với chiếc quần đùi vậy! Tôi nghĩ rằng để sống được trong trại, tôi cần phải nhanh chóng thích ứng với mọi tình huống! Và đó cũng là bài học thứ hai mà tôi đã học được trong ngày đầu tiên trong trại cải tạo.

    Có tiếng gọi trại viên đi đến nhà bếp để lãnh phần ăn chiều. Tôi phải đi vì là phiên mình có nhiệm vụ lãnh thức ăn cho tổ, do đó tôi xếp hàng đi theo các trại viên khác để đi đến nhà bếp. Nhà bếp là một dãy lều dài khoảng năm mươi thước rộng khoảng sáu thước gồm những hàng cột và mái lợp tôn. Hai dãy lò bằng đất sét với sáu lò nằm dọc theo chều dài: một dãy lò để nấu cơm và dãy kia để nấu thức ăn và nước uống. Trên mỗi lò có một cái chảo to, và tôi trông thấy vài người nấu bếp đang quậy cơm và thức ăn bằng những cái xẽng. Vài người cho biết rằng những đầu bếp này là người làm cho nhà thầu, nhưng tôi lại nghĩ có thể họ là tai mắt của VC. Trong một trại mà hầu hết là những người đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong chế độ cũ, tôi nghĩ VC không thể không lợi dụng cơ hội để len lỏi vào thu lượm những tin tức cần thiết cho chúng.

    Tôi nhận được một sô cơm và anh bạn cùng nhóm nhận một thau canh bí đỏ nấu với đậu phọng. Việc tiếp theo mà tôi phải làm khi đem cơm về đến nơi là làm sao để chia đều ra cho mười hai anh em trong tổ. Tôi yêu cầu mọi người trong tổ để đồ đựng cơm và thức ăn riêng rẽ ra chung quanh sô cơm, và tôi dùng cái ca quân đội của tôi để đong cơm cho mỗi người. Người bạn cùng nhóm của tôi cũng làm như vậy với phần canh. Đó là lần đầu tiên chúng tôi chia phần cho bữa ăn chiều.

    Phần cơm mà tôi nhận được trong bữa ăn đầu tiên này là một loại cơm nấu bằng gạo lức đỏ lẫn đầy thóc, nó thường được dùng để làm thức ăn cho gia súc. Phần canh thì lỏng bỏng vài lát bí đỏ và mấy hột đậu phọng nấu trong nước nêm một ít muối cùng vài lát hành xanh. Tôi đã phải ngồi nhặt thóc lẫn trong cơm trước khi ăn để tránh khỏi bị đau dạ dày.

    Ngày đầu tiên trong trại cải tạo trôi qua khi chúng tôi nghe tiếng kẻng đánh dội vào từ khu cơ quan. Đó là tiếng đập của chiếc búa nện vào một cái vỏ bom treo trên cành cây. Kể từ đó, tôi đã phải tập để quen dần với tiếng kẻng nghe khắp mọi nơi: tiếng kẻng báo thức, kẻng báo giờ lao động, giờ giải lao, vân vân… Sống trong trại cải tạo không là gì khác hơn là làm những việc mà “cái kẻng” và cái gọi là “cán bộ” bảo chúng tôi phải làm, và đó cũng là bài học thứ ba mà tôi đã học được trong ngày đầu tiên trong trại cải tạo đầu tiên.

    Mọi người đã treo mùng, nhưng những tiếng thì thầm vẫn còn nghe một vài nơi trong phòng giam. Tôi nghĩ mọi người đều có những câu chuyện riêng muốn chia xẻ với bạn bè, nhưng trong hoàn cảnh này thì có gì hơn là nói về số phận của chúng tôi sẽ ra thế nào đây trong những ngày tháng sắp tới. Tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ mệt nhọc sau khi suy nghĩ về vợ tôi cùng với đứa con chưa ra đời.


    Chương 13. Mười Bài Học Tập Của Cộng Sản

    Những tiếng kẻng báo thức vang dội khắp nơi trên khu đồi. Mọi người đều bật dậy khi một “cán bộ” tên là Bảy vào phòng giam để báo cho trại viên biết rằng họ phải lên hội trường khi nghe một hồi kẻng báo hiệu sau buổi ăn sáng. Hắn ta bảo rằng đó là buổi lên lớp đầu tiên. Tôi thức dậy súc miệng và rửa mặt để chờ buổi ăn sáng. Một xô cháo lỏng với một ít muối được người trực mang về và chia cho mọi người. Vì quá đói, tôi ăn một cách ngon lành buổi ăn sáng đó, uống một ngụm nước và chờ giờ đi “lên lớp”.

    Tiếng kẻng chưa đánh mà đã có nhiều trại viên đã sắp hàng sẵn trên đường. Vài đội ở khối 1 đã đi lên hội trường ngay sau khi nghe tiếng kẻng vì họ ở gần nhà bếp nên họ đã có phần ăn sáng sớm hơn mọi người khác. Trại viên ngồi đầy trong hội trường khi chúng tôi đi vào. Hội trường là khu dạy nghề cho trẻ cô nhi khi trại là Làng Cô Nhi. Nó dài khoảng một trăm mét ngang khoảng 40 mét. Chẳng có gì trong ấy ngoại trừ một cái bàn và vài chiếc ghế ở cuối hội trường, một lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và tấm ảnh của Hồ Chí Minh treo trên tường với hàng chử “Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Đại Sống Mãi Trong Sự Nghiệp Của Chúng Ta” ở phía dưới. Trên bức tường phía bên trái là băng khẩu hiệu: “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do”, và khẩu hiệu “Nước Việt Nam là một, Dân Tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” được treo trên bức tường bên phải của hội trường.

    Chúng tôi ngồi vào chỗ trong hội trường bằng cách bỏ dép của mình ra và ngồi lên ấy! Vài “cán bộ” mặc thường phục đội nón cối màu xanh đi vào hội trường ngồi vào ghế cạnh chiếc bàn. Một cán bộ đứng lên giới thiệu “đồng chí” Hai Côn là trưởng trại sẽ có đôi lời với trại viên. Hắn ta bảo chúng tôi phải đứng lên và bỏ mũ nón để chào mừng Hai Côn. Hai Côn khoảng năm mươi tuổi, ốm và xanh, cao khoảng một mét sáu mươi lăm. Giọng của ông ta cao hòa với tiếng hú của chiếc loa. Trong lời nói chuyện, Hai Côn bảo rằng “Đảng và Nhà Nước” đã khoan hồng tha tội chết cho chúng tôi, do đó chúng tôi phải được cải tạo để trở thành người dân lương thiện. Để bắt đầu cho chương trình cải tạo, chúng tôi phải học mười bài về lịch sử Việt Nam mà điểm chính là lịch sử của “cuộc cách mạng” của những người Cộng Sản. Dân tộc Việt Nam anh hùng đã đánh thắng ba tên đế quốc lớn nhất thế giới: Thực Dân Pháp, Phát Xít Nhật, và đặc biệt là Đế Quốc Mỹ. Đế Quốc Mỹ là tên sen đầm quốc tế, là tên đứng đầu của chủ nghĩa Tư Bản, và Chủ Nghĩa Tư Bản là con đĩa có hai vòi: một vòi để hút máu nhân dân trong nước của chúng và vòi kia là để hút máu dân tộc các thuộc địa. Chủ nghĩa Tư Bản đang dãy chết và “Ba dòng thác Cách Mạng” đang mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Cái gọi là “Ba dòng thác Cách Mạng” theo Hai Côn là cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, cuộc cách mạng Dân Chủ, và cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Dân tộc Việt Nam sau khi đánh thắng Đế Quốc Mỹ đã hoàn tất cuộc cách mạng giải phóng; nhiệm vụ tiếp theo là hoàn thành cuộc cách mạng Dân Chủ và tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Hai Côn nói thêm rằng, “yêu nước tức là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội!” (Tôi hoàn toàn kinh ngạc về cái định nghĩa này!)

    Tiếng vỗ tay của chúng tôi tiếp theo tiếng vỗ tay của chính Hai Côn ở cuối mỗi điểm của bài diễn văn làm chúng tôi ngạc nhiên không ít. Chúng tôi chưa hề quen thuộc với cách làm này!

    Đối với chúng tôi, những người đã từng ở trong bộ máy của cái gọi là “ngụy quân” và “ngụy quyền” của Nam Việt Nam, Hai Côn bảo rằng chúng tôi là những người có tội đã chống lại nhân dân và chống lại cách mạng. Chúng tôi là tay sai của Đế Quốc Mỹ, do đó chúng tôi cần phải được cải tạo để thành người dân chân chính. Chúng tôi phải từ bỏ cuộc sống ăn bám vào nhân dân và phải lao động để có được cuộc sống như những người dân lương thiện khác. Cải tạo có nghĩa là bao gồm cải tạo tư tưởng và cải tạo hành động.

    Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được nghe VC định nghĩa về danh từ “lao động”. Hai Côn bảo rằng “lao động” là thước đo sự tiến bộ trong quá trình cải tạo. Đất nước ta giàu đẹp với rừng vàng biển bạc (!); nhân dân ta anh hùng với Hai Bà Trưng, và Quang Trung những người đã đánh thắng quân Tàu, và đặc biệt nhất là thế hệ “Hồ Chí Minh”. Chúng ta phải lao động để theo kịp các nước tiên tiến khác. Các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè chúng ta trên toàn thế giới đang hỗ trợ chúng ta để tái thiết đất nước sau chiến tranh, nhưng chúng ta cần phải dựa vào chính mình trước. Chúng ta cần phải làm việc và làm việc thật cật lực để xây dựng một quốc gia giàu đẹp.

    Bài diễn văn của Hai Côn được hắn ta phát biểu một cách trôi chảy dường như đã được hắn ta học thuộc một cách nhuần nhuyễn. Đôi lúc, hắn ta lại dùng vài câu thơ của Hồ Chí Minh để thêm vào. Chúng tôi nghe một cách yên lặng. Nhưng điều chính thức mà chúng tôi muốn biết thì vẫn còn mơ hồ: chúng tôi sẽ được cải tạo ra sao? Chúng tôi không nghĩ rằng chúng tôi đến đây chỉ để học mười bài học và chỉ để học cho biết thế nào là lao động, mặc dù chúng tôi rất muốn sự việc sẽ được diễn ra như vậy.

    Sau khi bài diễn văn của Hai Côn chấm dứt, một cán bộ khác tên Bào lên tự giới thiệu là “trại phó” và cho chúng tôi biết một lịch trình học tập bao gồm “lên lớp” và “thảo luận” tại phòng. Chúng tôi ra về phòng để ăn trưa và suy nghĩ về thân phận mình trong những ngày sắp tới.


    Chương 14. Quen Dần Với Trại Cải Tạo

    Cuộc sống của chúng tôi mấy ngày đầu trong trại là sự cố gắng để thích ứng với môi trường mới. Ngủ dưới đất, mọi người bắt đầu cảm thấy đau lưng. Chúng tôi bảo nhau là nên tìm những thứ gì không thấm nước lót phía dưới chỗ nằm để tránh bị thấp khớp. Tôi lấy cái pon-sô xếp lại làm hai lót phía dưới chiếc chiếu cói. Khi đi quanh trại để lùng sục những thứ bỏ rơi, tôi tìm được một chiếc mền cũ trong chiếc chòi bỏ hoang, nhặt về mạng vá lại rồi giặt sạch để lót nằm thay cho cái nệm. Vải của những bao cát thu nhặt được dùng làm vật liệu để vá quần áo, mùng mền, vân vân. Chỉ thì tháo ra từ những cái bao cát ấy còn kim may thì tự chế lấy bằng cách mài nhỏ sợi dây thép, mài nhọn một đầu còn đầu kia thì đập dẹp ra rồi dùng vật nhọn để đục lỗ.

    Sau vài ngày đi khiêng nước, dép tôi đã bị đứt và rách nát, không còn mang được nữa. Tôi nhặt được một mảnh vỏ xe, bắt chước cách làm dép râu của VC, tôi tháo miếng thép trong ba lô của tôi ra, mài nó thành một con dao nhỏ để cắt miếng vỏ xe thành hình dạng giống như đôi dép rồi đục 8 lỗ để luồn những sợi dây bằng ruột xe qua. Chúng trở thành một cái gì đó cũng giống đôi dép, nhưng không thể hoàn hảo như ý muốn. Tôi đã mang đôi dép tự chế ấy trong suốt mười năm trường. Vài người khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Họ đã bắt đầu sản xuất loại dép râu này để đổi chác thứ này thứ nọ cho các trại viên khác.

    Lùng tìm những thứ cần thiết cho cuộc sống trong trại càng ngày càng phổ biến. Bắt đầu thì chỉ có những trại viên trẻ, sau đó việc này lan tràn cho tất cả mọi người trong trại. Mặc dù trại trước đây là làng cô nhi và tiếp theo là trại cho đồng bào chiến nạn và đã có rất nhiều những tiếp liệu từ những nguồn cung cấp, đặc biệt là từ viện trợ nhân đạo của Mỹ, nhưng rồi vật liệu càng lúc càng khan hiếm dần. Vài trại viên đã bắt đầu luồn ra ngoài hàng rào trại để lùng tìm vật liệu, nhưng chưa một ai có ý định trốn trại cả. Mọi người đều đặt hy vọng vào một tháng cải tạo!

    Để có nhà vệ sinh ít nhất là cho phụ nữ, chúng tôi đã đề nghị “ban giám thị trại” cho phép chúng tôi tự xây dựng hai nhà vệ sinh. Chúng tôi kéo sập 2 cái lều, lấy gỗ và tôn để làm vật liệu. Chúng tôi đào một lỗ lớn cho mỗi nhà vệ sinh ở gần góc cuối hàng rào trại và xây hai nhà tạm thời gồm có 10 lỗ cầu cho mỗi nhà vệ sinh. Chúng tôi phải gọi đó là “cầu xí” thì đúng hơn. Không có giấy vệ sinh, trại viên đành phải dùng mọi thứ gì có thể làm sạch được, ngay cả nước để rửa. Chúng tôi có được hai cái nhà cầu cho nam và nữ trại viên, nhưng rồi chúng càng lúc càng bẩn thỉu, dòi bọ khắp nơi. Tro bếp được rắc lên hàng ngày nhưng cũng không thể khá hơn được. Bệnh truyền nhiễm bắt đầu sinh sôi nẩy nở trong trại, nhất là bệnh tiêu chảy và ghẻ ngứa. Một bệnh xá được thiết lập bao gồm nhiều bác sĩ như Văn Văn Của (từng là đô trưởng Sài Gòn), nhưng điều tệ hại là không có thuốc men ngoại trừ những thứ thuốc của chính chúng tôi mang theo. Trại viên bắt đầu dùng lá cây và cỏ để trị bệnh: lá ổi nấu nước để trị tiêu chảy nếu được uống vào và trị bệnh ghẽ ngứa nếu dùng để tắm gội, vài thứ cỏ được dùng để trị phù thũng, vân vân. Bác sĩ Văn Văn Của đã biến thành một bác sĩ “châm cứu”. Nhiều người đã nói đùa bằng cách biến một câu châm ngôn của Việt Nam rằng “Đói ăn rau, đau khắc phục” (thay vì đau uống thuốc). Nhiều người còn đùa rằng để trị bệnh thì tốt nhất là dùng “AKcillin” và “CKC” thay vì dùng “Penicillin” và “APC”! (AK và CKC là hai loại súng của VC). Tôi nghĩ rằng đó là sự thể hiện tính khôi hài của người Việt mặc dù ở trong tình huống thật bi thảm.

    Trồng khoai lang là việc đầu tiên mà chúng tôi đã làm để cải thiện cuộc sống trong trại. Nhưng chúng tôi lại không có giống ngoại trừ một ít dây khoai thu nhặt được ở khu đất hoang gần trại, nơi đã từng là đất canh tác khi đây còn là làng cô nhi. Từ một vài dây khoai, chúng tôi nhân ra thành nhiều nhánh, và từ một vài khu đất nhỏ chúng tôi đã lần lần khai khẩn khắp nơi trong khu trại. Điều khó khăn gặp phải là nước tưới; chúng tôi đã đào những hố nhỏ gần những nhà tắm và khai mương để dẫn nước tưới ra đó. Khoai được thêm vào những xuất ăn sáng, và lá khoai lại là một thứ rau! Đó bỗng nhiên lại là bài học đầu tiên của chúng tôi học được trong việc “cải thiện bữa ăn” của chúng tôi bằng công sức lao động!

    Trại viên buộc phải lên hội trường vào mỗi buổi sáng để học mười bài học. Nhưng rồi sau vài ba ngày, tất cả đều chán ngán với cách diễn đạt của cán bộ. Tôi chợt hiểu rằng họ đã được nhồi nhét những bài học ấy và rồi trở thành những con vẹt không hơn không kém bởi vì tất cả đều nói cùng một cách. Những điều mà chúng tôi đã nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên, chúng tôi lại được nghe lập lại và lập lại nhiều lần trong những lớp tiếp theo, nhưng chúng tôi lại không được phép hỏi những điều mà chúng gọi là chống lại “đường lối và chính sách của Đảng và nhà nước”. Thí dụ như khi học bài về “lịch sử phát triển của loài người”, họ bảo rằng nhân loại đã được phát triển từ Cộng Sản nguyên thủy, qua các giai đoạn Nô lệ, Phong kiến, Tư bản, đến chủ nghĩa Xã Hội và rồi đến giai đoạn cao nhất của loài người là “Cộng Sản Chủ nghĩa”. Chúng tôi không thể hỏi rằng những gì mà con người sẽ tiến tới sau khi đạt được chủ nghĩa Cộng Sản bởi vì theo họ thì Cộng Sản Chủ Nghĩa là giai đoạn tột cùng của loài người; con người sẽ không còn phát triển nữa sau khi đạt được Chủ Nghĩa Cộng Sản! Thật là một luận điệu buồn cười, nhưng chúng tôi cũng phải chấp nhận như vậy và chỉ được thảo luận theo chiều hướng ấy mà thôi.

    Bài học đầu tiên là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”. Chúng tôi phải lên lớp hết 2 buổi sáng từ bảy giờ đến trưa, và thảo luận tại phòng vào buổi chiều. Diễn giả là một cán bộ được giới thiệu là từ “bộ chính trị” vì họ muốn có một cán bộ cấp cao đến dạy chúng tôi, những người mà họ cho là nhân viên cao cấp của “ngụy quyền”. Cũng chẳng có gì khác hơn là những điều mà chúng tôi đã nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên. Trong phần thảo luận, chúng tôi đã phải kết án về những cái mà chúng cho là “tội ác của Đế Quốc Mỹ” trên toàn thế giới và đặc biệt là phải lên án những tội ác này trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc thảm sát ở Mỹ Lai, cái gọi là “sự tàn phá miền Bắc Việt Nam bằng không lực”, cuộc phong tỏa vịnh Bắc Việt, sự tàn phá của cái gọi là “chất độc màu da cam”, vân vân, là những đề tài mà chúng tôi phải thảo luận. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi phải khai báo những điều mà chúng tôi biết được về những kho chôn dấu đạn dược hay đồ tiếp liệu của Mỹ sau khi rút khỏi Việt Nam. Đối với chúng tôi, những người từng làm trong cơ quan tình báo thì chúng muốn biết những chương trình mà Mỹ đã dự định sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt cũng như những tình báo viên mà Mỹ vẫn còn cài lại sau khi rút khỏi Việt Nam. Tôi nghĩ rằng tất cả những buổi thảo luận này đều nhắm mục đích tìm hiểu về những chiến lược của Mỹ sau chiến tranh Việt Nam. Luôn luôn có một cán bộ hiện diện trong mỗi buổi thảo luận để nghe những gì chúng tôi nói và sau đó chúng tôi còn phải nộp lên một bản tường trình về buổi thảo luận.

    Sau bài học đầu tiên này, chúng tôi được nghỉ hai ngày không phải lên lớp. Trong thời gian ấy, chúng tôi phải học những bài “nhạc cách mạng” như “Giải Phóng Miền Nam”, “Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn”, “Chiếc gậy Trường Sơn”. (Trường Sơn là một dãy núi nối dài từ Bắc đến Nam Việt Nam, nơi mà con đường mòn Hồ Chí Minh băng qua). Điều buồn cười xảy ra là những người trước đây chưa hề ca hát nay đã phải làm việc ấy bởi vì mọi người đều phải thay phiên nhau ca, không loại trừ một ai. Những bài ca “nổi tiếng” do trại viên sáng tác đã được viết ra trong thời gian này như bản “Ngày vui đã tới” của Vũ Thành An, một nhạc sĩ nỗi tiếng của Nam Việt Nam và cũng là một cựu trưởng ty “dân vận chiêu hồi”. Chúng tôi cũng phải học hát những bản nhạc ấy nữa! Tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Ngày vui đã tới, chúng ta xây lại đời ta. Nhớ ơn Cách Mạng, chúng ta xin nguyện thành người dân chân chính.” Tôi nghĩ lúc này quả là quá sớm để có những nịnh hót như thế, nhưng tôi không muốn phê bình ai hết bởi mỗi người có một cách sống riêng trong trại cải tạo.

    Nhiều người cho rằng tại sao trại viên không chịu giữ một thái độ hiên ngang trong trại cải tạo bằng cách chống lại những người Cộng Sản, nhưng họ có biết rằng chúng ta đã không còn một chính quyền, không còn đất nước, không có hậu thuẩn; chúng ta không có gì cả ngoài cái mạng sống, mà chính nó cũng không còn tùy thuộc vào chúng ta nữa, vậy thì chúng ta làm được gì? Tôi cũng nghĩ rằng tôi không thể làm được gì trong hoàn cảnh ấy, không thể trốn đi đâu được. Mọi sự chống đối đều dẫn đến cái chết; mọi sự nịnh bợ là những điều vô sĩ. Làm anh hùng trong hoàn cảnh ấy cũng là điều vô ích, do đó có lẽ tôi đã chọn cách “nín thở qua sông” để mà sống trong hoàn cảnh ấy mà thôi! Tôi cũng chẳng cần ai phê bình là mình hèn nhát. Điều mà tôi đã suy nghĩ là làm sao tôi có thể sống sót được để gặp lại gia đình mà không quá hèn đến nỗi bán rẻ linh hồn.

    Tiếp theo bản nhạc của Vũ thành An là vài bản nhạc của những trại viên khác như Đèo Chánh Mun ở khối 1, và Bạch Văn Nghĩa ở khối 3; tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Học tập hăng say anh em ơi, đem tình thương làm vòng tay nối, quyết dựng ngày mai với niềm vui…”

    Tôi không biết phong trào sáng tác nhạc này là do sự thúc đẩy của tâm hồn hay là do sự nịnh hót, nhưng quả thật đó là lúc mà có nhiều nhạc phẫm sáng tác bởi trại viên hơn bất cứ lúc nào khác. Tôi đoán có lẽ vì lúc ấy chúng tôi chưa bị lao động, và thêm vào đó ai cũng hy vọng sẽ được thả về sau 1 tháng cải tạo như “chính sách của Đảng và Nhà Nước” quy định! Tôi rất tiếc đã không có tài năng sáng tác nên đành phải học những bản nhạc ấy vậy.

    Việc tập hát đã diễn ra mỗi tối trước khi đi ngủ. Một vài trại viên có khả năng ca hát đã trở thành những “quản ca” để dạy các trại viên khác từng câu một trong bài ca. Trại viên trong phòng giam đã phải lập lại từng câu tiếp theo “quản ca”. Sau khi tập hết bài ca, từng trại viên một lại phải thay phiên nhau ca cả bài ca. Bằng cách ấy, không ai có thể tránh không hát, và mọi người đều thuộc lòng từng bài ca một. Đó cũng là lý do tại sao tôi lại thuộc vài đoạn của những bài ca ấy cho đến bây giờ.

    Có một bài ca về “Giặc Mỹ” đã trở thành một điều diễu cợt vì nó có một câu là: “Than ôi Abrams đã bí nên bi”. Lúc đó chúng tôi thường được cho ăn một thứ canh bí đỏ nấu với đậu phọng, và trại viên đã đặt tên cho loại canh đó là canh Abrams! Người Việt chúng ta thường hay tìm ra được cách để diểu cợt cho dù trong hoàn cảnh bi đát đi nữa! Tôi cũng muốn nói ở đây là tướng Abrams của Mỹ là người đã có sáng kiến thiết lập 1 vòng đai chiến lược để ngăn chặn Cộng Sản tràn xuống Nam Việt Nam.

    Sau hai ngày học ca nhạc “cách mạng”, ban giám thị trại đã buộc chúng tôi phải tiếp tục như thế cho hết thời gian ở trại cải tạo Long Thành. Tôi không thể nhớ có bao nhiêu bản nhạc mà chúng tôi đã phải học thuộc trong thời gian này. Vài bản mà tôi vẫn nhớ từng đoạn cho đến giờ như “Sài Gòn quật khởi”, “Vàm cỏ Đông”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, vân vân. Khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không được hát bản “Giải phóng miền Nam” nữa mà phải hát bài “Tiến Quân Ca”, bài quốc ca của Bắc Việt. Nhưng bản nhạc “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là bản nhạc mà chúng tôi đã phải hát mọi nơi mọi lúc ở mọi trại giam. Khi lên hội trường, khi bắt đầu hay chấm dứt một việc gì, đặc biệt là trước khi chấm dứt cuộc họp để đi ngủ, chúng tôi đều phải hát bản nhạc ấy, do đó nhiều trại viên gọi đó là bài ca “tạm biệt”. Đôi khi đi cầu, tôi đã nghe vài trại viên trẻ đổi lời của bài ca thành “như có con dòi trong cầu tiêu của trại cải tạo”. Quả là một hành động liều lĩnh bởi vì trong trại lúc nào cũng có những phần tử gọi là “ăn ten” báo cáo lên cán bộ mọi điều mà chúng nghe thấy, và chúng tôi đã được báo cho biết nói xấu Hồ là một trọng tội.

    Bài ca “Tự Nguyện” là bài ca duy nhất của một sinh viên miền Nam mà chúng tôi được ca trong thời gian này. Chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên vì hầu hết chúng tôi đã biết bản nhạc ấy trong thời gian mà Sinh Viên Sài Gòn xuống đường đòi hòa bình cho Việt Nam. Tôi vẫn nhớ những câu của bài ca:

    “Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng”
    “Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương”
    “Nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm”
    “Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”

    Một cán bộ đã giải thích rằng lời ca đó được trích từ một bài thơ của Hồ Chí Minh. Tôi không biết điều đó có đúng không, nhưng tôi nghĩ mọi cái đều là của Hồ! Sự tôn sùng lãnh tụ là điều mà tất cả Cộng Sản thế giới đều làm chứ không riêng gì VC.

    Bài học thứ hai, “Lũ Ngụy Quyền là bọn tay sai” được dạy trong 2 buổi sáng, nhưng phải thảo luận suốt một tuần lể. Sau 2 buổi chiều thảo luận, hầu hết là thú nhận tội lỗi và hứa sẽ sửa đổi, chúng tôi phải làm một bản sơ đồ tổ chức của Phủ Trung Ương Tình Báo. Điệp, họa sĩ của ban A17 và tôi được mọi người cử ra để vẽ sơ đồ. Tài liệu thì được cung cấp bởi những sếp cũ của chúng tôi như Lộc, đặc ủy trưởng, Thúy, trưởng ban R (ban nghiên cứu), Phong, trưởng ban Z (ban nội chính), Lương, trưởng ban A10 (ban tổng hợp tin tức), Trang, trưởng ban A8, Cang, cựu đặc ủy trưởng, Quân, trưởng ban Y (ban yểm trợ) vân vân. Điều buồn cười mà tôi thấy là toàn bộ Cơ Quan Tình Báo, đầu não của quốc gia đều nằm trong trại cải tạo và đang cung cấp tất cả mọi điều về cơ quan cho Cộng Sản. Sau này, Lộc và Thúy đã chết tại trại Nam Hà sau thời gian đi thẩm vấn tại trại Hỏa Lò, Hà Nội.

    Trong khi Điệp và tôi vẽ sơ đồ tổ chức của Phủ thì những người khác phải viết bản tự khai đầu tiên. Những cán bộ của trại đến từng phòng giam hàng ngày khuyến khích rằng ai viết thành thật những tội lỗi của mình thì sẽ được hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Một điều khôi hài khác lại xảy ra là có những trại viên không thể nhớ được những điều mình đã làm trước đây, họ phải đi hỏi lại những người đã làm chung công việc ấy rồi viết vào để mong rằng mình sẽ được tha ra khỏi trại sớm như lời hứa của cán bộ.

    Cũng trong lúc ấy, những người giữ chức vụ cao của cơ quan lại di chuyển qua trại Thủ Đức. Hầu hết những người đang cung cấp tài liệu để chúng tôi vẽ lại sơ đồ tổ chức của cơ quan đều chuyển đi, do đó Điệp và tôi đã phải ngưng làm công việc ấy và trở lại làm bản tự khai như mọi người khác. Tôi suy nghĩ hầu hết tài liệu đã bỏ lại trong cơ quan, và mọi người đều đã khai báo hết mọi cái rồi. Tôi đành phải viết những điều mà tôi đã làm và nêu tên những người mà tôi thấy trong trại cũng như những người mà tôi chắc rằng đã trốn khỏi đất nước như những cộng tác viên. Tôi đã tránh không khai cho những người mà tôi không thấy trong trại và không biết chắc về tình trạng của họ. Tôi nghĩ thế nào VC cũng hỏi lại những điều khai báo này nên tôi đã viết thêm 1 bản phụ để giử riêng.

    Trong những ngày viết bản tự khai, chúng tôi được cho ăn một ít thịt, điều mà VC gọi là “bồi dưỡng” cho chúng tôi trong lúc chúng tôi “động não”! Nhiều danh từ mà tôi chưa từng nghe trong ngôn ngữ của Việt Nam. Khi chúng tôi có một ít thịt trong bửa ăn thì họ bảo rằng chúng tôi được “ăn tươi”. Khi chúng tôi trồng được ít rau để ăn thêm thì chúng bảo rằng chúng tôi “cải thiện”. Khi họ bắt chúng tôi đi lao động trong ngày Chúa Nhật thì họ gọi là “lao động Xã Hội Chủ Nghĩa”!

    Ngày Chúa Nhật hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi phải đi lao động Xã Hội Chủ Nghĩa từ sáng sớm đến trưa. Ai có cuốc thì phải sửa lại con đường chính từ cổng đến dãy nhà cuối cùng: đào mương dọc 2 bên đường và lấy đất đấp thêm lên con đường. Những người không có cuốc thì dùng tay không mà nhổ cỏ và dọn dẹp vệ sinh trong khu trại và khu cơ quan.

    Khi ở trong trại thì mỗi người đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, nhưng tôi nghĩ rằng cái ý nghĩ chung nhất của mọi người là những suy tư về gia đình và sự mong đợi ngày về. Mọi diễn biến đều được diễn dịch theo những điều hoặc là thuận lợi hay bất lợi đối với những mong mõi ấy. Khi “Ban Giám thị trại” cung cấp ván cho chúng tôi làm sạp nằm thì vài người đã cho rằng chắc là chúng tôi phải ở đây lâu hơn là một tháng. Nhiều người còn cho rằng chúng tôi phải cải tạo ít nhất là sáu tháng khi nghe cán bộ bảo chúng tôi phải trồng khoai mì bởi vì khoai mì muốn có củ thì phải trồng ít nhất 6 tháng. Những điều phát biểu này đã tới tai các cán bộ, và họ đã đến từng buồng giam để trấn an chúng tôi rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước” trước sau như một, ai đạt được nhiều tiến bộ trong cải tạo sẽ được về sớm. Cách giải thích này tôi được nghe lập đi lập lại nhiều lần ở nhiều trại khác nhau. Tôi nghĩ đó là những gì mà các cán bộ đã học tập khi nói chuyện với trại viên.

    Những bận rộn hàng ngày như lên lớp, thảo luận, và tranh đấu với cuộc sống đã giúp tôi ít suy nghĩ đến gia đình, nhưng khi chui vào mùng, tất cả lại hiện ra một cách rỏ ràng trong óc tôi. Đặc biệt là đứa con còn trong bụng, nó là trai hay gái, và vợ tôi ra sao khi cô ấy sanh nở, những điều này luôn xâm chiếm lấy tâm hồn tôi. Tôi đã cố thử viết ra những ý tưởng này, nhưng không thành công vì tôi chưa hề quen với việc viết nhật ký. Đêm trong trại cải tạo rất dài. Vì chưa hề ngủ dưới đất, do đó lúc đầu tôi rất khó vỗ giấc ngủ, nhưng rồi tôi đã cố gắng bằng cách thở thật sâu và đếm từ 1 đến 100 rồi lại tiếp tục lại như vậy. Sau khoảng 4 đêm, tôi bắt đầu quen với việc ấy và có thể ngủ dễ dàng mỗi khi chui vào mùng. Thêm vào đó, tôi cố làm việc bận rộn suốt ngày. Nếu không làm những việc mà họ bảo làm thì tôi đi tưới những luống khoai của riêng tôi, đi lấy nước xài, hay làm những công việc riêng. Sau khi buổi họp tổ chấm dứt chui vào chỗ nằm, tôi cảm thấy mệt mõi và chìm vào giấc ngủ một cách dể dàng. Tôi biết rằng giấc ngủ sẽ rất cần thiết cho tôi trong trại, và cố gắng không suy nghĩ gì nữa mỗi khi chui vào mùng. Tôi đã giữ được thói quen này suốt gần 17 năm trong các trại cải tạo và chính nhờ vậy mà tôi đã vượt qua được những khó khăn gặp phải.

    Việc di chuyển một số trại viên qua trại Thủ Đức đã xãy ra và Linh, chồng của chị vợ tôi cũng đi sang đó. Tôi nghe nói trại Thủ Đức nguyên là trại giam nữ can phạm trước đây. Chị vợ tôi là Lan vẫn ở lại trại Long Thành, do đó hàng ngày tôi vẫn thường đến để giúp chị ấy. Tôi nghĩ rằng cuộc sống của phụ nữ ở trong trại có phần khó khăn hơn nam giới, do đó tôi thường dành cho chị ấy những thuận lợi hơn của chính tôi, đặc biệt là nước xử dụng hàng ngày. Mỗi khi đến phòng giam dành cho nữ, tôi thường gặp những người bạn của vợ tôi; họ cũng thường hỏi tôi có biết gì về vợ tôi và đứa con không. Điều này thường làm tôi rất lúng túng mỗi khi trả lời. Tuy nhiên tôi có thể nói được gì ngoài chử “không”!

    Vợ và con tôi ra sao? Câu hỏi này luôn lởn vởn trong đầu óc tôi. Tôi vẫn nhớ lúc tôi chở vợ tôi vào phòng cấp cứu khi cô ấy sẩy thai lần đầu và ngồi bên ngoài chờ đợi. Tôi không nghe tiếng rên siết nào của vợ tôi, và sau đó mấy ngày, cô ấy đã kể lại rằng cô ấy đã cố nín chịu đau vì không muốn tôi lo lắng cho cô ấy. Tôi không biết cô ấy sẽ làm sao đây khi tôi không có ở gần bên để lo cho cô ấy lúc sinh nở. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi rồi lại nghĩ đến một câu ca dao của Việt Nam rằng: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình.”

    Sau bài học thứ hai, chúng tôi đợi những bài học kế tiếp, nhưng vẫn không thấy gì xảy ra trong suốt 1 tuần lễ. Trại viên bắt đầu lo lắng vì mọi người đều mong chấm dứt 10 bài học tập để còn được trở về với gia đình! Chúng tôi đều nghĩ rằng chúng tôi không thể tin vào một tháng cải tạo, nhưng làm thế nào sống mà không có chút hy vọng? Tôi nghĩ rằng Ban Giám Thị trại biết điều này nên họ cho các cán bộ đến từng buồng giam và nói rằng họ đang đợi những cán bộ từ Hà Nội vào để dạy chúng tôi những bài học còn lại.

    Những tin đồn về 1 cuộc di chuyển nữa sẽ xảy ra sau khi một số trại viên được di chuyển sang trại Thủ Đức. Tối thứ bảy ấy, trại viên được đi xem phim ngoài trời. Trước khi chiếu phim, trưởng trại Hai Côn nói rằng chúng tôi sẽ không đi đâu nữa hết mà phải cố gắng để cải tạo ngỏ hầu hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Ban Giám Thị và các cán bộ ở trung ương đang nghiên cứu các bản tự khai của trại viên và sẽ hỏi một vài điều trong các bản tự khai ấy trước khi tiếp tục chương trình học tập.

    Phim chiếu tối hôm ấy nói về trận chiến Điện Biên Phủ và nêu gương những người anh hùng đã dùng thân mình để chặn những khẩu đại pháo bị đứt dây lăn xuống triền dốc hay những người đã dùng thân mình lấp lỗ châu mai trong trận chiến. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một niềm kiêu hảnh của VC, nhưng trong phim tôi lại thấy rằng người dân Việt Nam đã là những người hy sinh quá nhiều cho chiến thắng ấy. Chỉ với sức lao động, người dân Việt đã phải chống lại với máy móc và phi cơ của Thực Dân Pháp. Họ không phải là Cộng Sản, họ chỉ là những người dân thường với lòng yêu nước. Cộng Sản đã lợi dụng lòng ái quốc của nhân dân để nắm chính quyền rồi lại nói rằng “yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội!” Thật là một sự liên kết kỳ cục! Những điều mà họ nói như: “Với bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” hay “Nơi nào cần thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên” chỉ là những chiêu bài để lợi dụng sức lao động của nhân dân. Người dân miền Bắc đã bị lợi dụng trên 30 năm trường, và bây giờ là đến phiên người dân miền Nam. Lao động Xã Hội Chủ Nghĩa có gì khác hơn là làm việc không công.

    Hôm sau, thay vì đi lao động Xã Hội Chủ Nghĩa, chúng tôi phải thảo luận cuốn phim và so sánh chiến thắng của trận đánh Điện Biên Phủ với chiến thắng của cái gọi là “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử” để giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Dưới sự điều khiển của cán bộ, buổi thảo luận sau đó đã biến thành dịp để chúng tôi thú nhận những tội lỗi mà chúng tôi đã làm trong việc ngăn cản tiến trình của chiến dịch ấy. Thật là một việc buồn cười! Nhưng tôi chợt biết rằng mọi việc xảy ra trong trại cải tạo đều phải theo cách ấy mà thôi, và tôi phải chấp nhận điều này không cần suy nghĩ. Thái độ của tôi sẽ là nói càng ít càng tốt, tôi tự nhủ như vậy trong khi nghĩ tới một câu chuyện ngụ ngôn mà tôi học được lúc còn bé ở trường tiểu học. Chúng ta chỉ có một cái miệng mà phải làm hai công việc là ăn và nói, trong khi lại có tới hai lổ tai chỉ để nghe mà thôi. Tại sao chúng ta không nói ít mà nghe nhiều; đừng để cái miệng làm việc quá sức nó.

    Trại viên toàn trại rất lo lắng về một trại viên trong khối một bị chuyển đi. Các cán bộ giải thích rằng trại viên ấy đã có “nợ máu” với nhân dân trong vùng mà anh ấy hoạt động trước đây, do đó anh ấy phải ra trước “tòa án nhân dân” trước khi đến một trại cải tạo khác. Chúng tôi không biết gì về tình trạng của anh ta sau này, nhưng chúng tôi lại không xa lạ gì với cái gọi là “tòa án nhân dân” của VC kể từ giai đoạn “cải cách ruộng đất” sau khi Cộng Sản chiếm miền Bắc Việt Nam 1954. Mọi việc đều diễn ra theo một trình tự mà Cộng Sản muốn. Trong lúc đó, họ cũng cho chúng tôi biết rằng chúng tôi được giữ trong trại chính là để được bảo vệ bởi vì nhân dân rất là giận dữ về những tội ác mà chúng tôi đã làm để ngăn cản tiến trình giải phóng nhân dân! Thật cảm ơn cho sự tốt đẹp của “cách mạng”; chúng tôi đang được kẻ thù bảo vệ và đang được hưởng sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Quá nhiều những danh từ được dùng để che dấu cho một hành động trả thù. Tôi nhớ lại một bài hát của Phạm Duy, một nhạc sĩ nỗi tiếng của miền Nam Việt Nam, trong đó có dùng một từ “một rỗ danh từ”, và cũng nhớ một thành ngử Việt Nam “mật miệng gươm lòng” để áp dụng cho những người dùng lời nói tốt đẹp để che đậy những ý đồ xấu xa. Tôi nghĩ tôi có thể dùng những điều này cùng với câu nói của Nguyễn Văn Thiệu rằng “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để làm phương châm cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới trong trại cải tạo.

    Kinh nghiệm sống trong trại cải tạo đã đến với tôi từng bước một. Tôi không biết tôi có thể sống cho đến lúc rời trại được không, nhưng tôi nghĩ rằng tôi sẽ cố gắng với tất cả khả năng của tôi. Tôi cũng hiểu được rằng mọi sự thất vọng đều sẽ dẫn đến sự thất bại không cứu vãn nổi.

    Lý Muối Liềm, một nữ thiếu tá cảnh sát của Nam Việt Nam là người đầu tiên được tha ra khỏi trại để điều hành trung tâm điện toán ở bộ chỉ huy cảnh sát. Sự di chuyển của một số cấp cao sang trại Thủ Đức diễn ra tiếp theo, và rồi một trại viên được đưa ra tòa án nhân dân. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo cho chúng tôi, những người còn lại? Chúng tôi tất cả đều sống trong sự lo lắng, nhưng chúng tôi không biết phải làm gì ngoài việc chờ đợi mọi việc diễn ra không có cách gì cưỡng lại được.


    Chương 15. Tháng Đầu Tiên Trôi Qua


    Sự tranh đấu để sinh tồn trong trại cải tạo giúp tôi ngày một thích ứng với những khó khăn. Tôi cũng đã quen với cảnh nghèo từ lúc còn bé thơ, nhưng cuộc sống trong hoàn cảnh quá hạn hẹp của trại cải tạo thật quá khó khăn cho tôi. Tôi không biết những người khác đã quen sống trong sự tiện nghi sẽ làm sao để thích ứng được với cuộc sống này. Trại Long Thành giam giữ hầu hết những người có cấp bậc cao trong chính quyền Nam Việt Nam. Sự thay đổi giữa hai thái cực của nếp sống diễn ra một cách quá đột ngột. Vài người nguyên là những bộ trưởng, thứ trưởng chưa hề lao động chân tay, nay lại phải tự đi khiêng nước xài và làm mọi việc như những người khác. Điều này đã tạo nên một cảnh tượng rất khôi hài.

    VC không cho chúng tôi kể lại những việc làm trong quá khứ. Chúng bảo rằng chúng muốn chúng tôi bình đẳng, nhưng tôi biết rằng chúng sợ chúng tôi sẽ hình thành một tổ chức trong trại rất nguy hiểm cho chúng, và chúng cũng muốn tạo sự đối nghịch giữa chúng tôi với nhau để chúng dể quản lý. Khi viết bản tự khai, nhiều người vẫn còn dùng những chử như “ông” để nói đến những người lảnh đạo cũ của họ; VC buộc phải viết lại và dùng những từ như hắn, nó, để thay vào. Khi nói về chính quyền và quân đội Nam Việt Nam, chúng tôi phải gọi bằng “ngụy quyền” và “ngụy quân” thay vì quân lực hay chính phủ VNCH. Tôi cũng đã phải viết lại bản tự khai vì lý do này.

    Khi nói chuyện với các cán bộ, chúng tôi phải làm đúng quy định là đứng cách xa ba bước và cầm mũ nón trên tay. Chúng tôi phải gọi các binh lính và sĩ quan VC làm trong trại là “cán bộ” và tự xưng là tôi. Khi đi ngang qua các cán bộ, chúng tôi phải chào chúng bằng cách giở mũ và cúi đầu. Mọi việc có nghĩa là chúng tôi phải kính trọng chúng và phải tập vâng lời chúng. Cách tốt nhất là tránh tiếp xúc với VC càng nhiều càng tốt. VC cũng không cho phép chúng tôi tự nhận là tù nhân và nói rằng chúng tôi vào trại là để cải tạo chứ không phải để ở tù! Chúng tôi phải tự nhận mình là trại viên.

    Mỗi tối, chúng tôi phải họp đội để sinh hoạt trước khi ngủ. Đội trưởng báo cáo những việc xảy ra trong tổ, đội, và trong khối, cũng như truyền đạt lại những chỉ thị của cán bộ. Sau đó mỗi trại viên phải phê bình và tự phê bình. Điều này quá xa lạ đối với chúng tôi lúc đầu vì chúng tôi chưa hề có việc phê bình và tự phê. Nhưng cán bộ bảo chúng tôi phải làm việc này một cách nghiêm túc. Chúng tôi phải cố gắng để tìm ra những lỗi lầm của chính mình và của người khác để kể ra trong những buổi họp này, và do một lý do nào đó, chúng tôi thường cố tìm những điều không mấy quan trọng để phê bình nhau và bỏ qua những điều có vẻ nghiêm trọng. Đôi khi, tôi đã phải tự cho rằng mình vẫn còn nhớ nhà, nhớ vợ con, chưa đủ an tâm để cải tạo. Vài người thì phê bình rằng bạn mình đã ngủ gục trong lớp học tập hay trong buổi thảo luận, hoặc có người thì giả bịnh để khỏi lên lớp hay khỏi làm những việc khác. Mọi điều nhỏ nhặt đã bắt đầu trở thành đề tài để phê bình. Dần dần mọi người đều trở thành con rùa núp kín trong cái mai, rất khó tìm ra được lỗi lầm của nhau. Những buổi họp phê bình thường trở thành tự phê với những lỗi nhỏ như nhớ nhà, không chú ý lúc học tập, nói chuyện trong lớp học, không thuộc bài hát, vân vân, và rồi những người khác đứng lên phê bình những lỗi lầm này để người tự phê có dịp hứa khắc phục và làm tốt hơn. Bất kỳ khi nào bị phê bình, trại viên đều phải nhận lỗi và hứa sẽ sửa chửa; nếu không thì sẽ có những buổi họp khác cho đến khi nào người trại viên ấy nhận lỗi mới thôi. Đó là cách thực hiện phê và tự phê của Cộng Sản. Mọi điều đều phải viết ra bản báo cáo để trình lên cán bộ. Tôi được biết rằng “phê và tự phê” đã từ lâu là phương cách của những người Cộng Sản để kiểm tra nhau, điều này không chỉ xảy ra ở trong trại mà là ở khắp mọi cơ quan đơn vị của Cộng Sản.

    Sau vài ngày sống chung với nhau, chúng tôi biết rằng có vài phần tử do thám trà trộn vào trong khối 3 của chúng tôi. Thí dụ như Phòng, Bá, Lâm, là những người mà không ai biết xuất xứ. Mặc dù chúng bảo rằng chúng đã làm việc cho Cơ Quan Tình Báo, nhưng chúng chẳng biết gì về cơ quan tình báo và không ai trong chúng tôi biết được chúng. Chúng tôi phải bảo nhau đừng nên nói chuyện nhiều với những người này vì chúng tôi nghi ngờ rằng chúng là VC trà trộn vào để lấy tin tức từ chúng tôi. Nhưng trong cuộc sống chung đụng thì làm thế nào tránh khỏi sự bất cẩn. Cán bộ đều biết hầu hết những gì chúng tôi nói hoặc làm. Điều này khiến mọi người nghi ngờ lẫn nhau, và vài người lại bị nghi ngờ là đã làm “ăn ten” cho cán bộ, tức là đã báo cáo lên cán bộ mọi điều, mặc dù không biết có đúng như vậy hay không.

    Từ việc “phê và tự phê” cho đến việc nghi ngờ làm “ăn ten”, mọi người trong trại bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau. Trại viên càng lúc càng trở nên ích kỷ và co rút lại trong cái vỏ của mình. Mọi người đều sống riêng rẽ trong cuộc sống chung. Không ai còn dám phơi bày tâm tư mình ra cho người khác; ai cũng dường như sợ rằng điều mình nói ra sẽ tới tai cán bộ như một thành ngữ Việt Nam rằng “tai vách mạch vừng”. VC đã không cần phải chia rẽ trại viên với nhau, nhưng chính trại viên đã tự chia rẽ nhau. Bằng cách bóp dạ dày trại viên, VC đã thành công trong việc khiến trại viên không còn nghĩ đến điều gì ngoài cái ăn, và bằng phương pháp tạo nên mối nghi ngờ lẫn nhau, họ đã thành công trong việc chia rẽ trại viên để dể điều hành trại. Họ không cần phải có hàng rào vây quanh trại, không cần phải khóa trại viên trong buồng giam mà chính trại viên đã tự giam mình với cái hy vọng mỏng manh là sẽ được cải tạo và sẽ được trả tự do sau một tháng.

    Dĩ nhiên tôi cũng là người bị điều lừa dối ấy dẩn dắt. Tôi cũng đang sống trong cái hy vọng mong manh là sẽ được về để gặp vợ con tôi sau một tháng cải tạo, nhưng trong thâm tâm tôi thì tôi lại không tin điều đó là thật. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ bị đưa đi đến một nơi khác, như đến đường mòn Hồ Chí Minh hay rừng rậm ở miền Trung để làm đường hay làm đường rầy cho việc tái thiết Việt Nam sau chiến tranh. Cái giá phải trả có thể là chính sinh mạng chúng tôi, nhưng ít ra tôi còn có cơ hội để phục vụ dân tộc mình.

    Cuộc sống của tôi đã không còn là của tôi nữa. Đáng lý ra tôi đã phải chết đi cùng với nước Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 tháng 4, nhưng tôi đã không đủ can đảm để kết liễu đời mình. Tôi đã ném cây súng xuống dòng sông Thanh Đa và tự nộp mình vào trại cải tạo. Những gì tôi đang mong chờ trong trại giờ đây cũng giống như một phép lạ. Chúng tôi không còn ai giúp đở mình. Chính quyền của chúng tôi đã không còn nữa. Những người đồng minh của chúng tôi đã rút lui. Có hàng rào quanh trại hay không cũng là vô nghĩa bởi chúng tôi không biết đi đâu bây giờ. Cả nước giờ đây đang nằm trong tay của VC. Phía bắc là Trung Cộng, phía tây là Kampuchia và Lào cũng là Cộng Sản, và phía đông là Thái Bình Dương. Chúng tôi đi đâu được đây nếu chúng tôi ra khỏi trại?

    Tôi nghĩ chỉ có phép lạ mới cứu được chúng tôi mà thôi! Nếu VC không dùng thủ đoạn lừa bịp thì chúng tôi cũng sẽ đi vào trại mà thôi vì chúng tôi chẳng có con đường nào khác để đi. Nhưng với thủ đoạn ấy, chúng đã giữ được chúng tôi trong trại mà không ai có một ý định đào thoát nào cả; chúng tôi đều đang có một hy vọng mong manh rằng mình sẽ được thả ra sau một tháng. Cái hàng rào mỏng manh quanh trại không phải là thứ để ngăn được chúng tôi mà chính thủ đoạn dối trá của VC là điều đã giữ được chúng tôi ở trong trại cải tạo lúc đầu. Chúng tôi chưa từng quen thuộc với kiểu dối trá có hệ thống này. Quả là một thủ đoạn thành công!

    Điệp, người bạn nằm gần tôi trong phòng giam, viết trong một bài thơ cho vợ anh ta, có một câu mà tôi vẫn nhớ: “Anh sẽ về một tháng hoặc một năm!” và tôi nghĩ rằng đó cũng là ý nghĩ chung nhất của mọi người trong tháng đầu tiên cải tạo. Mặc dù không ai tin vào một tháng cải tạo nhưng ai cũng nghĩ nếu dài lắm là một năm mà thôi chứ không ai dám nghĩ nó lại quá dài như chúng tôi đã phải trải qua.

    Chúng tôi cũng không được biết điều gì đang xãy ra trong cái xã hội mới ở bên ngoài ngoại trừ một vài tờ nhật báo như “Sài Gòn Giải Phóng”, “Nhân Dân”, hay “Quân Đội Nhân Dân”, mà những tờ báo này thì chỉ loan những tin tức về những sự thành công của VC về mặt kinh tế và chính trị. Bên cạnh đó, những tin đồn lại loan truyền khắp trong trại. Có người cho biết Dương Văn Minh đã được đi sang Pháp sau khi giao miền Nam cho VC. Ngô Khắc Tĩnh, cựu tổng trưởng giáo dục đã bị bắt tại Vũng Tàu khi toan trốn chạy. Phó tổng thống Trần Văn Hương thì bị quản thúc tại gia vì quá yếu. Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4, đã tự sát khi VC tiến vào bản doanh. Nhân dân miền Nam đã được tổ chức thành những tổ tam tam chế để kiểm soát lẩn nhau. Tôi không biết những tin đồn ấy đúng hay không, nhưng tôi nghĩ mọi tin đồn này đều nhằm mục đích báo cho chúng tôi biết rằng chúng tôi chỉ có con đường duy nhất là ở trong trại cải tạo mà thôi vì chúng tôi không có chỗ dung thân nếu đào thoát khỏi trại. Nếu những tin đồn ấy là đúng thì điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi một khi chúng tôi trốn ra khỏi trại? Bị bắt lại có nghĩa là chết mà thôi. Tôi nghĩ chắc chẳng ai còn dám đánh cuộc với số mệnh mình một lần nửa.

    Tiếp theo bài học thứ hai và bản tự khai, những bài học sau này chỉ còn là hình thức. Vài trại viên đã trốn không lên lớp, trong đó có tôi. Thay vào đó tôi chỉ lo săn sóc mấy luống khoai lang của tôi mà thôi. Nắng mùa hè của miền nhiệt đới đã đốt cháy da tôi, và tôi cảm thấy da mình hình như dầy hơn xưa. Tôi không còn ngại mưa nắng nữa. Chỉ trong hai tuần lễ, dáng vẻ thư sinh của tôi đã biến mất nhường chổ cho dáng vấp của người nông dân. Nhưng trên tất cả các thứ đó thì sự bận rộn này đã khiến tôi không còn nghĩ nhiều đến gia đình tôi nữa.

    Thuốc lá và những thứ cần thiết cho đời sống càng lúc càng cạn dần. Vài trại viên có tiền đã nhờ những người nấu bếp mua dùm họ thuốc hút và kem đánh răng. Điều này tới tai cán bộ, và ban giám thị trại đã có một buổi họp để loan báo rằng họ sẽ tổ chức một cái tiệm chạp phô gọi là “căn tin” do những nhà thầu người Hoa để bán những thứ cần thiết cho trại viên. Căn tin nằm gần bên nhà bếp và bán nhiều thứ như thuốc lá, kem đánh răng, thực phẫm khô, và cả cà phê uống vào buổi sáng. Những trại viên có tiền có thể mua mọi thứ hoặc nhờ mua dùm những thứ mà họ muốn. Việc mở căn tin đã làm những trại viên bi quan trở nên chán nản hơn bao giờ hết, nhất là đã vào tuần lễ thứ tư khi mọi người đang mong cho chấm dứt một tháng cải tạo. Vài trại viên lạc quan thì lại cho rằng đó là cơ hội để họ tiêu tiền trước khi về nhà; họ mua mọi thứ và sống như là họ đang sống ở nhà họ! Cuộc sống trong trại lại trở thành hai thái cực giữa những người có tiền và những người không có tiền.

    Tôi không còn tiền vì tôi đã đưa lại cho vợ tôi khi cô ấy rời trường Chu Văn An, do đó điều mà tôi phải làm là “khắc phục khó khăn”. Cái khó nhất đối với tôi là thuốc lá vì tôi thường hút quá nhiều. Cách duy nhất để có thuốc lá hút là đổi chác những cái mà tôi đang trồng cho những người có tiền. Để tiết kiệm tiền, tôi mua thuốc rê và giấy quấn thuốc để hút. Điều này đã nhắc nhở tôi nhớ đến bà ngoại tôi lúc còn ở nhà, bà tôi vẫn thường hay quấn thuốc rê để hút mỗi khi nằm trên ghế bố may vá phụ mẹ tôi trong tiệm may. Bà ngoại tôi là người gần gũi với tôi nhất từ khi tôi còn bé; bà đã gần 70 tuổi vào lúc này. Tuổi thơ của tôi luôn luôn hiện ra một cách rõ ràng mỗi khi tôi nhớ đến bà. Tôi nhớ đến cái bàn thờ trong nhà mẹ tôi nó được thừa hưởng từ ông cố tôi, một người thuộc giòng dõi chúa Trịnh. Cái lư nhang chạm hình tre và chim mà tôi vẫn thường chùi bóng mỗi lần Tết đến. Hai cái tô lớn viền bạc đặt trên hai cái đài gỗ với hai chiếc muỗng bạc được kể là của chúa Trịnh dùng để súc miệng. Những bộ chén dĩa bằng sứ có đóng dấu Trịnh Phủ phía dưới đáy. Ông ngoại tôi tên Trịnh Văn Giàu, người từng là Đốc Học Nam Kỳ. Cậu Hai, anh cả của mẹ tôi từng là Thượng Thư của triều đình Huế. Với một gia phả như vậy, thế mà bà ngoại tôi lại phải sống trong cảnh nghèo túng từ khi ông tôi qua đời bởi vì bà chỉ là tỳ thiếp của ông tôi. Bà đã giữ gìn những bảo vật ấy của gia đình như một kỷ niệm và thường kể lại chuyện ngày xưa cho chúng tôi nghe mỗi lần đám giỗ ông tôi.

    Tuần lễ thứ tư đã gần hết và mười bài học tập cũng đã hoàn tất. Nhưng chúng tôi không ai nghe nói gì về sự chấm dứt của chương trình cải tạo. Trại viên trong trại chia ra làm ba nhóm người tùy theo quan điểm về việc cải tạo. Những người lạc quan thì chờ đợi cho hết tháng để họ được về sống với gia đình trong xã hội mới. Họ xài hết tiền để mua sắm mọi thứ ở căn tin và sống như thể họ không ở trong trại cải tạo. Những người bi quan thì buồn phiền; họ sống như những cái bóng và không nói chuyện với ai ngoại trừ những cái lắc đầu chán nản và những tiếng thở dài. Những người chấp nhận số phận thì chuẩn bị sống thời gian dài trong trại. Họ tiết kiệm và thu nhặt mọi thứ và luôn chuẩn bị tư thế cho một cuộc di chuyển. Những suy nghĩ về ngày về chỉ là một phép lạ. Tôi thuộc nhóm người này! Mặc dù tôi cũng mong cho hết một tháng, tôi lại không nghĩ là tôi sẽ được thả ra. Tôi chỉ muốn xem coi điều gì sẽ xảy ra sau đó. Tôi không dám nói rằng, đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì mà Cộng Sản làm, nhưng trong thâm tâm tôi thì tôi luôn luôn nghĩ điều đó là đúng. Điều hy vọng duy nhất của tôi là sẽ có một lúc nào đó có một sự thay đổi và tôi sẽ được ra về để gặp con tôi và được sống trong gia đình tôi cho đến cuối cuộc đời như một người dân bình thường. Đó có lẽ chỉ là một giấc mơ mà thôi!

    Ngày 14 tháng 7, ngày quốc khánh của Pháp, và cũng là ngày mà mọi người trong trại cải tạo Long Thành đang chờ đợi. Một tháng cải tạo, điều đó có đúng như vậy không? Không ai có thể biết điều gì sẽ xảy ra sau một tháng ngoài việc chờ đợi điều gì đó xảy ra. Hy vọng và chán nản trộn lẫn với nhau tạo nên một cảnh tượng kỳ lạ trong trại viên. Mọi người đều hy vọng nghe được điều gì đó từ ban giám thị trại, nhưng lại sợ phải nghe tin xấu. Chỉ còn một ngày nữa là chấm dứt một tháng cải tạo thế mà không có gì thay đổi. Hàng can chờ đợi lấy nước ngắn hơn mọi ngày. Trại viên đã không tự đứng để đợi lãnh nước nữa kể từ khi học bài học đầu tiên. Họ đặt thùng theo hàng, cử người trực đổ nước vào thùng và xách về sau khi xong. Những sinh hoạt trong trại hầu như ngừng lại hẳn nhường chỗ cho những nhóm trại viên ngồi với nhau để hút thuốc, uống trà và bàn tán.

    Tôi đi đào một ít khoai lang để nấu chè đêm nay để ăn mừng sự chấm dứt của một tháng cải tạo. Ông Đỗ Kiến Nâu, cậu của Banh, người đã từng là trưởng ty cảnh sát quận 3, Banh, bạn tôi, cùng tôi sẽ ăn với nhau tối nay. Những củ khoai lang của tôi cũng còn rất nhỏ, khoảng ngón chân cái, và tôi đã phải đào cả 2 luống mới đủ một nồi chè. Tôi làm hai luống mới để thay thế hai luống khoai đã đào và dùng dây khoai để trồng cho hai luống ấy. Tôi cũng không hiểu tôi đã làm gì đây bởi vì hôm nay là ngày cuối cùng trong trại cải tạo! Tôi vừa làm một việc theo thói quen, hay tôi không tin đó là ngày cuối cùng. Tôi không chắc chắn điều gì hết nữa rồi. Tôi nghĩ tôi đã trở thành một người hoài nghi. Chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một, như lời của cán bộ đã giải thích, nhưng tôi vẫn không tin vào lời nói ấy! Làm thế nào để có thể tiến bộ được trong cải tạo? Tôi tự cảm thấy buồn cười cho mình qua những ý nghĩ này. Khi mang một ít khoai lang cho chị vợ tôi ở nhà nữ, tôi nghe được dự định của họ về chương trình tổ chức lễ phóng thích vào ngày mai. Tôi hỏi chị Lan, chị vợ tôi, về tin này, nhưng chị ấy cho biết đó chỉ là tin đồn không căn cứ vì ngày mai là ngày cuối cùng của một tháng như mọi người đang chờ đợi.

    Kể từ khi Nghĩa, chồng của cô Đẹp (thư ký của sếp tôi), đã dời đi qua trại Thủ Đức, có nhiều tin đồn về những sự liên hệ giữa Đẹp với Tư Điệp, cán bộ phụ trách khối 3 và nhà nữ. Trại viên thường tin vào những tin đồn phát xuất từ nữ trại viên và cho rằng những tin tức ấy phát xuất từ Tư Điệp. Tôi không biết chắc gì về sự liên hệ giữa Đẹp và Tư Điệp, nhưng tôi nghĩ rằng một người đàn ông từ rừng sâu ra ngoài thì rất dể dàng yêu một người đàn bà đẹp như Đẹp!

    Có khoảng một trăm nữ trại viên trong nhà nữ. Ngoài một số nữ sĩ quan quân đội và cảnh sát từ đại úy trở lên, số còn lại hầu hết là cán bộ tình báo trung cấp của cơ quan. Bà đại tá Hương, chỉ huy trưởng nữ quân nhân, và bà thiếu tá Thủy, trưởng toán Thiên Nga của Cảnh sát, đã được chuyển qua trại Thủ Đức. Sự liên hệ nam nữ trong trại càng lúc càng trầm trọng. Mặc dù tôi cần phải giúp đở chị vợ tôi, tôi cũng phải cố gắng giới hạn việc đi sang khu nhà nữ vì tôi không muốn bị những tin đồn. Hầu hết những nữ trại viên trong ấy đã từng làm trong cơ quan đều biết vợ tôi, do đó tôi không muốn vợ tôi nghĩ sai về những sự liên hệ của tôi.

    Đêm ấy, hầu như mọi người đều không thể ngủ sớm như thường ngày. Từng nhóm ba hay bốn trại viên ngồi với nhau trong sân giữa các nhà bên những chiếc bàn nhỏ để ăn tối và đối thoại với nhau. Ông Nâu, nguyên trung tá cảnh sát, Banh, bạn tôi và tôi cùng ngồi quanh chiếc bàn nhỏ do tôi đóng lấy đặt giữa sân giữa khối 3 và khối 4. Chúng tôi nấu chè bằng chiếc lò làm bằng thùng nhôm. Chúng tôi không tin rằng chúng tôi sẽ được thả ra, nhưng chúng tôi lại mong ở một phép lạ nào đó. Kể từ khi vào trại, Banh dùng hầu hết thời giờ để học đánh cờ tướng. Hắn ta đã trở nên ồn ào hơn, nhưng đêm nay, hắn ta lại im lặng một cách khác thường. Cậu của Banh, ông Nâu, là một người hút thuốc nối đầu; ông ta xin tôi cái píp mà tôi tự chế, mở điếu thuốc ra rồi nhồi thuốc vụn vào điếu để tiết kiệm thuốc. Sau này, ông Nâu bị dời ra trại Hà Tây và chết ở đấy. Banh và ông cậu mang theo vào trại một ít tiền, và đôi khi họ cũng đã giúp tôi trong những lúc ngặt nghèo. Để đổi lại, tôi trồng rau để ăn thêm vì chúng tôi cũng thường ăn cơm chung. Chúng tôi ngồi im lặng cho đến nửa đêm để suy nghĩ về những gì có thể xảy ra vào ngày mai. Có thể nào có điều gì đó hay không, hay chúng tôi chỉ mong chờ một điều vô vọng? Một tháng cải tạo đã trôi qua, không chỉ có chúng tôi mà cả gia đình chúng tôi cũng đang chờ đợi cho ngày này. Không ai ngủ được yên giấc đêm ấy mà chỉ mong cho trời sáng. Mỗi lần giật mình tỉnh giấc, tôi nghe tiếng thở dài đâu đó trong phòng giam.

    Mọi người đều thức dậy sớm vào sáng ngày 15 tháng 7 mặc dù không có lịch trình lên lớp hay thảo luận. Không có một cán bộ nào đến các phòng giam. Vài người đi lang thang trên con đường tiến về phía hội trường, nhưng hội trường thì trống rỗng! Tôi nghĩ rằng nếu có một buổi lễ thì ít ra cũng phải có sự trang hoàng. Vài người còn cho rằng buổi lễ ấy sẽ tổ chức một nơi khác thay vì tổ chức trong trại, và nếu có điều đó xảy ra thì chúng tôi sẽ được di chuyển đến một nơi nào đó ở Sài Gòn. Tôi nghĩ đó chỉ là một sự lạc quan tếu. Nhưng trong thâm tâm thì tôi cũng mong điều đó sẽ xảy ra như một phép lạ. Tôi không thể chờ đợi mà không làm gì cả, do đó tôi đi tưới những luống rau và luống khoai. Tôi không muốn quá ưu tư và đặt quá nhiều hy vọng để rồi không có gì cả, và tôi luôn tự nhủ rằng mọi việc đều đã được an bài! Điều buồn cười là những trại viên trẻ lại là những người tin vào số mệnh. Ngược lại những trại viên lớn tuổi thì lại luôn luôn chờ đợi một cách sốt ruột về việc phóng thích.


    Chương 16. Cuộc Sống Tiếp Nối Trong Trại

    Một ngày chờ đợi đã trôi qua trong nỗi tuyệt vọng. Mọi người đều trở về một cách chán nản với cuộc sống hàng ngày trong trại. Một dãy thùng chờ lấy nước lại được xếp dài trên con đường chính như thường lệ. Bửa ăn sáng với cháo và muối, trưa chiều với chén cơm cùng miếng canh bí đỏ với vài hạt đậu phọng lại tiếp tục như mọi ngày. Nhưng không còn một trại viên nào ngồi ở ngoài sân giống như đêm hôm trước. Hoặc là mọi người đều mệt mỏi về sự chờ đợi hay họ đã buồn ngủ vì thức quá khuya đêm qua, mọi trại viên đều đi ngủ sớm hơn mọi khi.

    Bảy Sói, một cán bộ tên Bảy với chiếc đầu hói phụ trách khối 3 vào phòng giam vào sáng sớm và yêu cầu trại viên sau khi ăn sáng xong thì chuẩn bị để lên hội trường. Mọi người lại trở nên sống động và vui vẻ với những hy vọng. Vài người bỏ cả việc ăn sáng và xếp hàng sớm hơn người khác dường như họ muốn được về nhà ngay tức khắc vậy! Khung cảnh không còn vẻ im lặng như những lúc sửa soạn lên lớp để học 10 bài học tập nữa; trại viên chuyện trò om sòm trên con đường đi lên hội trường.

    Không có sự trang hoàng nào trong hội trường. Khi trại viên đến nơi, vài cán bộ khiêng vào hội trường một cái bàn và vài chiếc ghế, và rồi Hai Côn, giám thị trưởng đến để nói chuyện với trại viên. Trong lời phát biểu, Hai Côn lập lại điều mà chúng tôi đã nghe nhiều lần rằng: “Chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một: đánh những kẻ chạy đi chứ không đánh những người ở lại! Và chúng tôi phải đạt cho được tiến bộ trong việc học tập cải tạo để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước.” Tôi tự hỏi làm sao họ có thể đánh được những người đã chạy đi! Về việc chấm dứt một tháng cải tạo, Hai Côn nói rằng họ không nhận được chỉ thị nào của “trung ương” về việc này. Việc trở về với xã hội của trại viên là tùy thuộc vào mức độ tiến bộ của mỗi người chứ không phải là vấn đề thời gian vì chúng tôi phải làm thế nào để thích ứng được với xã hội mới. Trước khi chấm dứt lời phát biểu, Hai Côn cho biết là để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, ban giám thị trại cho phép trại viên được viết thư cho gia đình để báo cho gia đình biết rằng chúng tôi sống tốt trong trại và đang có nhiều tiến bộ trong học tập cải tạo, và đồng thời khuyên nhủ gia đình thực thi đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Chúng tôi không được cho biết địa điểm của trại mà chỉ được dùng bí số là 15NV cho địa chỉ nơi gửi.

    Những điều đã xãy ra khiến mọi trại viên trở nên chán nản hơn bao giờ hết. Đặc biệt những trại viên “lạc quan” đột nhiên hiểu rằng họ cần phải hiểu VC nhiều hơn những gì mà họ nghe VC nói. Riêng đối với những người đã không tin rằng sẽ được về trong một tháng thì dù sao đây cũng là cơ hội để họ có thể biết tin tức gia đình. Được viết thơ về nhà còn hơn là chẳng có gì mặc dù họ cũng thừa hiểu rằng họ sẽ không được viết hết mọi điều họ muốn. Thơ chắc chắn là sẽ được cán bộ kiểm duyệt kỹ lưỡng, nhưng ít ra thì chúng tôi cũng có dịp để liên lạc được với gia đình. Điều mà tôi muốn được biết nhiều nhất là con tôi là trai hay gái, và sức khỏe của vợ tôi ra sao sau khi sanh nở. Mẹ và bà ngoại cũng là những người mà tôi muốn hỏi đến.

    Chỉ có hai trang giấy để viết như quy định, làm thế nào để viết hết cho mọi người trong gia đình? Trước hết, tôi nghĩ tôi phải dùng từ rất là khôn khéo để cho biết về tình trạng của tôi trong trại. Tôi sẽ viết rằng mọi việc đều tốt đẹp, tôi được nuôi ăn uống đầy đủ và tôi có trồng thêm vài luống khoai lang để dặm thêm vào phần ăn hàng ngày nữa! Sức khỏe tôi cũng tốt, do đó tôi có tặng cho bạn bè một số thuốc khi họ bị bệnh. Dĩ nhiên, điều tôi muốn biết là con tôi là trai hay gái. Sau khi hỏi thăm về mẹ tôi cùng bà ngoại, tôi còn phải viết một ít điều theo quy định của trại để khuyến khích gia đình tuân hành đường lối chính sách của chính quyền địa phương để giúp tôi trong trại, từ đó tôi có thể được ra về sớm hơn. Điều này đã làm mất hết nửa trang giấy! Những suy nghĩ về bức thư khiến tôi không còn để ý gì đến hoàn cảnh chung quanh trên đường từ hội trường về đến phòng. Tuy nhiên tôi vẫn nhận ra rằng một sự im lặng bao trùm lấy bầu không khí chung quanh chứ không ồn ào như buổi sáng sớm khi đi lên hội trường.

    Mọi người đang suy nghĩ về số phận của mình và về cái thủ đoạn mà VC đã dùng. Trong thông cáo về việc cải tạo, chúng chỉ nói rằng chúng tôi phải mang theo thức ăn và quần áo chăn màn cho một tháng chứ không hề đả động đến thời gian cải tạo là một tháng! Chúng tôi không thể bảo rằng chúng đã dối gạt, mà chính chúng tôi là những người không hiểu rõ ràng cái thông cáo ấy! “Anh sẽ về một tháng hoặc một năm!” (…hay bao nhiêu năm nữa?) Tôi nghĩ đến câu thơ trong bài thơ của Điệp mà rùng mình lo sợ. Bao lâu nữa tôi sẽ về? Tôi tự hỏi. Đời tôi thì coi như đã chấm dứt kể từ ngày 30 tháng tư, nhưng gia đình tôi sẽ ra sao đây? Tôi không muốn họ chờ đợi tôi trong tuyệt vọng. Không có gì tồi tệ hơn là sinh ly!

    Viết thư là điều chính yếu cho trại viên trong những ngày kế tiếp. Vài người viết đi viết lại bức thư mà cũng hình như chưa vừa ý với nó. Mọi người giờ đây dường như là đã phải chấp nhận số phận của mình như một điều dĩ nhiên. Lắc đầu và nhún vai là câu trả lời cho ngày về. Không còn ai bỏ thời giờ ra để ngồi uống trà, cà phê, hút thuốc và tán gẩu. Có thêm vài trại viên trồng khoai lang trên khu đất còn lại trong trại. Nước trong những hố đào gần nhà tắm bắt đầu khan hiếm hơn trước do đó tôi phải tưới rau và để những luống khoai cho nó mọc theo ý nó. Tuy nhiên tháng bảy ở Việt Nam thì trời nhiều mưa nên cũng không đến nỗi nào.

    Hai cán bộ phụ trách khối 3 là Bảy Sói và Tư Điệp đến lấy thơ hàng ngày, nhưng cả tuần sau vẩn còn vài trại viên chưa viết xong thư. Họ không còn vội vã như trước đây nữa! Thời gian không còn là vấn đề quan trọng đối với họ nữa. Tôi đã cố gắng gửi thư sớm với hy vọng sẽ sớm nhận thư hồi âm, nhưng đôi khi tôi vẫn thấy tiếc vì tôi nghĩ tôi vẫn còn thiếu điều gì đó.

    Bên cạnh việc viết thư cho gia đình, cuộc sống trong trại vẫn diễn tiến như lệ thường: trại viên thức dậy buổi sáng theo tiếng kẻng báo thức, tập thể dục mười động tác du nhập từ miền Bắc do vài trại viên hướng dẫn, ăn sáng với cháo và muối, ăn trưa và chiều với chén cơm và ít canh bí đỏ nấu với đậu phọng, họp tổ đội buổi tối trước khi đi ngủ. Nhưng có một điều thay đổi là sau buổi họp ở hội trường thì chúng tôi phải thay phiên nhau xuống bếp để nấu nướng thay cho nhà thầu. Ban giám thị trại đã cho biết rằng số tiền mà chúng tôi đóng khi đi trình diện đã hết, do đó kể từ ngày 15 tháng bảy chúng tôi phải làm mọi việc trong trại và “Chính Phủ và Nhân Dân” sẽ phải nuôi chúng tôi. Sau buổi họp khoảng mười ngày, chúng tôi nhận được tám trăm đồng mỗi tháng được báo là của “Nhà Nước” cung cấp cho mỗi trại viên để mua sắm những thứ cần thiết như kem đánh răng, sà phòng, giấy vệ sinh, hay những thứ cần thiết khác cho phụ nữ. Mọi việc xảy ra có nghĩa là chúng tôi phải chuẩn bị cho sự cải tạo dài hạn, nhưng mà bao lâu thì vẫn là một câu hỏi không có lời giải đáp. Chúng tôi phải đạt được tiến bộ trong cải tạo để được tha về với xã hội. Thế nào là tiến bộ? Mười bài học tập đã qua; làm thế nào để đạt được tiến bộ trong khi chúng tôi chỉ ở trong trại mà không làm gì cả?

    Để xử dụng thời gian trống trong trại, trại viên bắt đầu làm những việc như chơi cờ tướng, viết những thực đơn tưởng tượng, vẽ, chạm trên gỗ hay vỏ dừa, vân vân. Anh bạn tôi tên Nguyện thì lại dùng hầu hết thời giờ để đi đào Hà Thủ Ô, một loại rễ của dây leo. Anh ta xắt lát hà thủ ô, phơi khô, sao lên rồi nấu nước uống. Vài người cho rằng rễ Hà Thủ Ô là một loại thuốc làm cho tóc đen hơn. Tôi không biết điều đó đúng không, nhưng tôi thấy da Nguyện càng lúc càng đen trong khi tóc anh ấy thì càng ngày càng bạc nhiều ra mặc dù anh ấy mới ba mươi tuổi vào lúc đó!

    Khi tôi không chăm sóc rau và khoai trên cánh đồng, tôi dùng thời giờ rảnh để học khắc gỗ, chạm bằng nhôm, và khắc sọ dừa để làm những “đồ mỹ nghệ”. Cái búa để chạm thì làm bằng một bù lon bẻ cong lại; đục thì là một cọng thép lấy trong dây điện đập dẹp và mài bén 1 đầu. Mọi vật đều được thu lượm quanh trại và được tôi chế tạo lấy. Miếng nhôm được cắt thành những sợi nhỏ khoảng hai ly rồi mài trên nền xi măng. Tôi vẽ hình lên những miếng gỗ được cắt bằng cái cưa nhỏ tự chế, mài nhẳn lên nền xi măng, rồi đục theo đường vẽ. Dùng cái búa nhỏ, tôi nhét những sợi nhôm vào những đường kẻ sau đó giũa phẳng bằng một cái giũa làm bằng dây kẽm gai. Để làm những đồ mỹ nghệ bằng gáo dừa, tôi dùng cái cưa tự chế cắt gáo dừa thành cái kẹp hình con cá vàng, mài lên nền nhà và đánh bóng bằng lá mít. Sau đó tôi chạm vây cá, đầu và đuôi cá bằng cái đục nhỏ. Sản phẩm làm ra trông cũng giống như những cái kẹp tóc bằng đồi mồi. Tôi cũng không biết tôi làm những cái đó để làm gì, nhưng tôi cảm thấy thích thú với công việc này. Tôi đặt những “tác phẩm” ấy bên đầu chổ nằm rồi nghĩ đến ngày trở về để trao tặng vợ tôi. Tôi đã từng vẽ nên những đồ tôi làm thường đẹp hơn nhiều người và cũng vì tôi đã tốn nhiều thời gian cho chúng nữa. Bức tranh tứ quý gồm bốn hình Mai, Lan, Cúc, Trúc được cẩn băng nhôm trên gỗ nâu. Bức tranh mẹ bồng con là bức tranh cẩn nhôm hình người đầu tiên trong trại vì không ai có thể cẩn nhôm khuôn mặt người. Tôi đã nghĩ đến vợ con tôi khi làm bức tranh này, đó là tấm mà tôi thích nhất.

    Hai tuần sau khi gữi thư, chúng tôi nhận được bức thư đầu tiên của gia đình. Hôm đó là ngày thứ bảy, Bảy Sói và Tư Điệp đến khu của khối 3 để trao thư. Chúng tôi nghe thấy từ trước lúc hai cán bộ ấy trao thư cho nhà nữ. Trại viên gọi nhau và nhờ các đội trưởng đi nhận thư, nhưng Bảy Sói và Tư Điệp chỉ muốn giao riêng cho từng người.

    Bức thư tôi nhận được từ vợ tôi, mẹ tôi và bà ngoại tôi. Trong thư còn có tấm ảnh vợ tôi đang bế con trai tôi khoảng một tháng tuổi. Vợ tôi viết rằng con trai tôi thường khóc đêm khiến cô ta mệt lắm. Mọi người trong nhà thương cháu lắm vì đó là đứa cháu đầu tiên trong gia đình. Lúc sanh thì nó cân nặng khoảng ba kilô, không lớn lắm nhưng cũng đủ để vợ tôi khó khăn khi sanh nở. Vợ tôi còn bảo rằng cô ta mong tôi học tập tốt để được về phụ nuôi con. Mẹ và bà ngoại tôi cũng viết vài hàng trong thư cho biết hai người sức khỏe vẫn tốt và tiệm may cũng vẫn hoạt động như thường lệ. Vì cha tôi là một “liệt sĩ” do đó mẹ tôi đã trở thành tổ trưởng tổ dân phố. Vài “đồng chí” của cha tôi cũng có đến thăm và hy vọng rằng tôi sẽ được về sớm vì tôi là con trong một gia đình “có công với cách mạng!” Họ chúc tôi có sức khỏe và thành công trong việc cải tạo để sớm trở về nhà. Cách viết trong thư cũng giống như những gì mà Hai Côn đã nói lúc ở hội trường. Tôi nghĩ không phải chỉ có tôi đang cải tạo mà cả gia đình tôi cũng đang bị cải tạo bởi VC. Những danh từ rất xa lạ với ngôn ngữ Việt Nam trước đây được viết trong thư của gia đình tôi chỉ sau hai hay ba tháng là một bằng cớ hiển nhiên chứng minh sự thay đổi của xã hội bên ngoài.

    Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bức thư cho đến lúc gần như thuộc lòng từng chữ một. Tấm ảnh vợ tôi đang ẵm con tôi đã được tôi đóng trong một cái khung làm bằng mảnh gỗ nâu đục lỗ và lồng vào một miếng mi-ca. Miếng mi-ca này tôi nhặt được khi làm luống khoai; tôi phải dùng lá mít đánh bóng cho hết những vết trầy rồi dùng kem đánh răng chà cho trong lại. Chỉ cái khung ấy mà tôi đã phải bỏ ra hàng tuần lễ để hoàn tất. Nhưng đó là cái mà tôi yêu thích nhất và nó đã đi theo tôi suốt gần 17 năm trong các trại cải tạo.


    Chương 17. Lệnh Tha Đầu Tiên


    Cuộc sống trong trại lại nối tiếp như thường lệ mấy ngày sau khi nhận được bức thư đầu tiên của gia đình. Ngoại trừ vài trại viên muốn cải thiện thêm cho phần ăn nên phải trồng rau hay khoai lang, số còn lại chưa phải làm gì cả. Vẫn có cái căn tin nằm trong khu nhà bếp do những nhà thầu người Hoa để bán đồ vật và thực phẩm cho trại viên có tiền. Với 800 đồng hàng tháng, tôi chỉ có thể mua được một cây kem đánh răng nhỏ, một ít thuốc rê, và 500 gram đường.

    Khoảng tháng tám, VC buộc mọi người dân trong nước phải đổi tiền lần đầu tiên. Họ dùng đồng tiền mới với trị giá là 500 đồng bạc miền Nam hay 400 đồng miền Bắc đổi lấy một đồng mới này, và họ chỉ cho phép mỗi người dân đổi được mười ngàn tiền cũ mà thôi, số còn lại phải gửi vào ngân hàng nhà nước. Điều buồn cười xảy ra trong trại là có những trại viên mang vào trại quá nhiều tiền, họ phải nhờ những trại viên bạn bè khác đổi dùm. Tôi cũng nghe nhiều điều xảy ra ngoài xã hội. Nhiều người dân miền Nam giàu có đã phải nhờ những người bà con miền Bắc vào đổi dùm tiền, sau đó họ lại không nhận được số tiền đổi ra! Tôi không biết điều này có xảy ra trong trại hay không bởi vì nếu có đi nữa thì chắc không ai dám nói ra. Kể từ đó, thay vì 800 đồng, chúng tôi chỉ được một đồng sáu chục xu mỗi tháng. Lúc đầu còn mua được phần như trước, nhưng sau đó thì chỉ có thể mua được một cây kem đánh răng mà thôi. Kinh tế Việt Nam bị suy sụp quá nhanh sau lần đổi tiền!

    Ban Giám Thị của trại bảo chúng tôi phải chuẩn bị cho ngày lễ Quốc Khánh đầu tiên ở miền Nam, ngày 2 tháng 9, 1975 (họ gọi là ngày Lễ Độc Lập). Chúng tôi phải làm báo tường, tập ca hát trong ban đồng ca, và phải trang hoàng cho ngày ấy.

    Tôi đã viết một đoản văn để đăng báo tường lấy tên là “Điếu thuốc rê”. Nội dung đoản văn tôi muốn nói đến một chiều hướng đi xuống của cuộc sống của nhân dân miền Nam sau cái ngày giải phóng của VC. Nhưng tôi lại cố dấu nó trong cách viết để cán bộ và ban giám thị trại không thể nhận ra.

    Điếu thuốc rê.

    Hắn ta ngắm nhìn những luống khoai lang thẳng tắp được thực hiện bằng chính công sức lao động của mình.

    Hắn đặt chiếc cuốc xuống đất và ngồi lên cán cuốc. Tay trái hắn giơ lên lau những giọt mồ hôi trên trán, còn tay phải thì thọc vào túi áo để lôi ra một chiếc hộp nhỏ. Mở nắp hộp ra, hắn lôi ra một cuộn giấy quyến, xé một mảnh nhỏ, rồi để nằm trên bàn tay trái giữa 4 ngón tay. Ngón tay cái kẹp lấy miếng giấy quyến. Tay phải hắn nhúm lấy một miếng nhỏ thuốc rê từ chiếc hộp, rải ra trên miếng giấy quyến, và dùng ngón tay cái để giử cho thuốc nằm xuống mặt của miếng giấy quyến. Tiếp theo, hắn dùng cả hai bàn tay cẩn thận cuộn thuốc vào trong miếng giấy quyến để biến thành một điếu thuốc, nhưng điều khác biệt là nó có một đấu lớn và một đầu nhỏ. Cuối cùng thì hắn dùng nước bọt để dán điếu thuốc ấy lại.

    Điếu thuốc rê trên môi hắn đã gợi hắn nhớ lại những điếu thuốc Winston, hay Lucky mà hắn thường hút không lâu trước đây. Chỉ một vài tháng thôi mà dường như bao nhiêu năm đã trôi qua. Hắn không thể ngờ rằng giờ này hắn có thể làm được những luống khoai như thế này, và hắn cũng không thể ngờ rằng hắn có thể cuộn được một cách thiện nghệ một điếu thuốc rê như thế này!

    Hắn nghĩ tất cả đều đã thay đổi.


    Trong ngày lên hội trường để nghe tuyên bố về việc chuẩn bị lễ Độc Lập, một sự kiện mà tôi không thể quên là vài trại viên đã được Ban Giám thị kêu lên để hát. Nhiều người đã hát những bản nhạc cách mạng mà chúng tôi đã phải học trong trại, nhưng chị vợ tôi, Lan, lại hát một bản nhạc dân ca tên là Lý Chim Quyên. Bài ca đã làm nhiều người phải rơi lệ vì những câu như: “Chim ơi chim xa rừng, là chim thương núi nhớ non. Người cách xa con người, ơi đâu còn có gì buồn hơn.”

    Tôi cũng phải tham gia vào một ban đồng ca để tập hát bản nhạc tên là “Việt Nam mến yêu”, một bản nhạc tiền chiến thường được nghe trước đây ở miền Nam. Ban đồng ca do Bửu Uy, nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, làm ca đoàn trưởng. Chúng tôi đã chọn bài ấy cũng vì nó có vẽ trung dung, không đến nỗi cực đoan như những bài mà chúng tôi đã phải học trong trại. Bên cạnh đó thì Điệp và tôi lại được các trại viên khác cử ra để trang trí cho tờ báo tường của khối 3 vì chúng tôi cũng đã từng làm trang trí cho vài tập san sinh viên khi chúng tôi còn làm trong cơ quan, do đó tôi cũng hơi bận rộn.

    Mọi người đều hy vọng sẽ có những điều gì đó xảy ra trong ngày quốc khánh của VC, ít nhất sẽ có sự phóng thích một số trại viên nào đó, và tôi nghĩ người nào cũng mong rằng mình sẽ có tên trong danh sách phóng thích ấy. Những tin đồn lại được loan truyền ra. Thơ của gia đình giờ đây lại được trở thành những điều để trại viên hy vọng. Trong khi gia đình nói rằng họ mong chúng tôi sẽ cải tạo tiến bộ để được tha ra trong ngày quốc khánh thì trại viên lại suy diễn rằng gia đình họ đã biết sẽ có cuộc phóng thích trong ngày ấy mà không thể viết rõ ràng trong thư. Vài người khác lại còn nói rằng gia đình họ có thân nhân làm trong bộ Nội Vụ của VC cho biết tất cả trại viên trong trại cải tạo sẽ được thả ra vào ngày Quốc Khánh vì VC muốn dùng ngày ấy để chứng tỏ chính sách khoan hồng của họ, và chúng tôi sẽ được đưa về Sài Gòn để dự buổi lễ phóng thích, một phần của buổi lể Quốc Khánh.

    Trại viên lại sống trong hy vọng và chờ đợi. Không khí trong trại lại sống động và nhộn nhịp hẳn lên, không còn cái vẻ im lìm như mọi khi kể từ khi ban giám thị tuyên bố chuẩn bị cho ngày lễ độc lập. Vài trại viên có năng khiếu lại còn vẽ cả hình của Hồ Chí Minh để trang hoàng trong ngày ấy. Mặc dù không còn những buổi thảo luận như lúc học mười bài học tập, nhưng các cán bộ lại thường xuyên đến từng phòng để quan sát chúng tôi làm báo tường, tập ca hát, vẽ, hay làm trang trí.

    Vài ngày trước ngày 2 tháng 9, 1975, cán bộ lại đến phòng rất sớm khi chúng tôi vừa mới thức dậy để gọi chuẩn bị lên hội trường. Mọi người lại trở nên sống động hẳn lên khi biết rằng hội trường đã được trang hoàng xong bởi những khẩu hiệu và bàn ghế che phủ bởi khăn bàn. Không có tập thể dục sáng hôm ấy, và vài trại viên bỏ cả phần ăn sáng mặc dù đã được chia phần rồi. Hy vọng có lẽ đã thành sự thật! Hầu như mọi người đều chọn những bộ quần áo đẹp nhất để mặc vào và sắp hàng chờ đợi. Những tiếng cười, những khuôn mặt vui tươi, và sự ồn ào náo nhiệt đã trở lại sau một thời gian dài im lặng! Hai tháng rưỡi kể từ ngày vào trại, đây là ngày vui vẻ nhất của trại viên. Vài người lại ngâm nga mấy câu hát của Vũ Thành An: “Ngày vui đã tới, chúng ta xây lại đời ta.”

    Hội trường đầy những lá cờ của Mặt Trận Giải phóng và những băng khẩu hiệu đỏ chói. Bức ảnh lớn của Hồ Chí Minh treo như thường lệ trên tường phía cuối với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” ở phía dưới. Một khẩu hiệu đặc biệt được chăng trên bức tường hông rất dễ nhìn khi bước vào hội trường: “Chào mừng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước”.

    Tiếng vỗ tay của trại viên vang vội cả hội trường khi Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ tiến vào. Hai Côn, trại trưởng đọc một bài diễn văn khai mạc rất dài. Hắn ta nói những điều mà chúng tôi vẫn nghe trong mười bài học tập về sự thất bại của Đế Quốc Mỹ và của chủ nghĩa Đế Quốc, về chiến thắng của Cách Mạng Việt Nam và của chủ nghĩa Xã Hội. Để kết luận, hắn ta dùng câu nói của Hồ Chí Minh rằng: “Hà Nội, Hải Phòng, và những thành phố khác có thể bị phá hoại, nhưng thắng xong giặc Mỹ, chúng ta sẽ xây dựng lại mười lần đẹp hơn.” Hắn ta hy vọng rằng chúng tôi, những người được hưởng sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, sẽ góp phần xây dựng đất nước khi được trở về xã hội, và rồi hắn ta giới thiệu đồng chí Bào trại phó, sẽ đọc danh sách phóng thích.

    Tất cả trại viên đều phấn khởi khi thấy “đồng chí Bào” với chiếc cặp da trên tay tiến đến chiếc máy vi âm. Hắn ta trân trọng rút ra một tờ giấy, đặt lên bục và nói:

    “Để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, nhân danh Ban Giám Thị trại, hôm nay tôi xin loan báo danh sách phóng thích cho những trại viên đã thực hiện tiến bộ trong cải tạo và được về với xã hội để góp phần vào việc xây dựng lại đất nước. Khi được trở về xã hội, tất cả các anh phải thực hiện chính sách của chính quyền địa phương”.

    Danh sách mà “đồng chí Bào” đọc chỉ gồm khoảng 20 tên, và rồi hắn ta trở về chổ ngồi mà không nói thêm lời nào nữa hết. Sau đó chúng tôi khám phá ra rằng những người được về trong danh sách phần lớn là những chuyên viên cần thiết và những người có công đã làm cho cách mạng trước đây. Mọi người trong hội trường chờ đợi trong im lặng. Sự chán nản và những tiếng thở dài thất vọng bao trùm cả hội trường.

    Sau một phút, Hai Côn trở lại máy vi âm và nói rằng đối với những người còn ở lại để tiếp tục cải tạo, Đảng và Nhà Nước cho phép sẽ được nhận quà của gia đình hàng ba tháng một lần. Chúng tôi sẽ được phép viết thư về nhà để cho biết ngày giờ và địa điểm đến gửi quà cũng như những thứ cần thiết của chúng tôi. Và rồi Hai Côn tuyên bố bế mạc buổi lễ. Những tiếng vổ tay lác đác để tiễn chào Ban Giám thị và các cán bộ. Những sự kích thích khi trại viên đi lên hội trường đã nhường chổ cho sự chán nản khi chúng tôi trở về phòng.

    Những ngày kế tiếp, chúng tôi không còn chuẩn bị gì cho ngày lễ Độc Lập; thay vào đó thì chúng tôi chỉ viết thư cho gia đình. Các cán bộ cũng không nhắc nhở gì đến việc này, và ngày lễ Độc Lập ấy trôi qua một cách lặng lẽ mà không có một nghi thức nào hết ngoài việc chúng tôi có thêm phần ăn tươi (một miếng thịt khoảng 3 ngón tay trong bữa ăn trưa và chiều).

    Nhận quà của gia đình, quả là thê thảm! Chúng tôi sẽ ở trong trại bao lâu nữa đây? Mỗi 3 tháng một lần và rồi bao nhiêu lần nhận quà của gia đình nữa? Và rồi gia đình chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu để mà lo cho chúng tôi trong hoàn cảnh này? Trong lần đổi tiền vừa qua, hầu hết nhân dân miền Nam đã càng lúc càng nghèo hơn. Chính sách của Cộng Sản là tạo nên sự bình đẳng trong dân chúng, không phải là sự bình đẳng trong giàu sang mà là bình đẳng trong sự nghèo túng.

    Tôi nghĩ đến gia đình tôi và không biết sẽ xin gì trong thư. Vợ tôi đang làm gì với đứa con mới chào đời? Mẹ tôi ra sao? Bà cũng vẫn ngồi bên bàn máy may hay đang làm gì? Mẹ tôi đã nuôi tôi lúc còn bé, giờ đây lại phải phụ với vợ tôi để nuôi tôi tiếp tục cuộc sống trong trại cải tạo! Cuộc đời bà chỉ là một sự hy sinh cho các con. Tôi không muốn mình là một gánh nặng cho gia đình. Nhưng tôi làm gì được đây trong hoàn cảnh khó khăn này? Tôi cố chọn những thứ thật rẻ và thật cần thiết để xin như muối mè, mắm ruốc, thuốc rê, hột giống rau muống, và thuốc cảm lạnh. Tôi cũng không quên hỏi về những tấm ảnh mới của con tôi. Tôi đã viết đi viết lại bức thư cho đến hạn cuối cùng mới chịu gửi đi và chờ đợi gói quà đầu tiên.

    Một tuần sau, chiếc xe thùng chở đầy quà tiến vào trại vào buổi sáng sớm. Mọi người đều chờ đợi một cách nôn nao. Các đội trưởng đến hội trường để lấy danh sách những người có quà và cho phép trại viên tuần tự đi lấy quà. Những gói quà đã được mở ra để kiểm tra trước khi phát cho trại viên. Năm kí lô mỗi gói quà không thể nào gói hết được những món cần thiết, nhưng ít ra nó cũng gói ghém được tình thương của gia đình dành cho trại viên. Tôi run rẩy mở từng món để thưởng thức trọn vẹn tình cảm của mình. Có mười tấm hình của vợ con tôi. Bức thư thì còn được kiểm duyệt trước khi trao về cho tôi. Tôi mang hình đi khoe với chị vợ tôi và các bạn trong phòng. Con tôi đã lật qua được và không còn khóc đêm nữa. Em gái tôi cho biết rằng những tấm hình này là do đồng chí Ba Son, bạn của em tôi chụp dùm. Tôi không biết đồng chí ấy là ai, nhưng tôi cảm thấy không thích thú chút nào khi có người lạ trong gia đình mình. Nhưng mà trong hoàn cảnh mới của đất nước thì điều gì xảy ra khác hơn được đây? Giai đoạn của chúng tôi đã qua rồi. Bây giờ là giai đoạn của các “đồng chí!” Gia đình tôi cũng không thể nào ngoại lệ được. Tôi buồn rầu mà nghĩ rằng: “Đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.” Tôi nhớ lại câu nói ấy của Nguyễn Văn Thiệu rồi tự lắc đầu chán nản.

    Mọi vui vẻ rồi cũng trôi qua, những lo buồn rồi cũng phải nhạt dần. Chúng tôi cũng phải trở về với cuộc sống hàng ngày trong trại. Ban Giám thị trại lại ra lệnh lao động tập thể trong toàn trại thay vì lao động cá thể, do đó đất đai lại được thu về cho trại. Tôi không còn giữ được những luống rau và khoai của riêng mình nữa. Mỗi sáng chúng tôi phải đi lao động trên những cánh đồng của trại ngoài những trại viên tới phiên trực để dọn dẹp vệ sinh hay lấy nước cho các trại viên khác. Cuốc xẻng cũng là của chung. Chúng tôi đã học tập về lao động tập thể trong mười bài học tập, và lúc này là lúc mà chúng tôi có cơ hội để thực hành những điều ấy. Đó là lời giải thích của Ban Giám thị trại.

    Đất đai trong trại là loại đất sét pha trộn với đá sỏi ở trên đỉnh đồi nên rất cứng khi gặp nắng. Chúng tôi phải dùng cuốc chim để đào xới lên trước khi làm những luống thẳng tắp bằng cách chăng dây làm chuẩn. Đó là một thứ lao động rất nặng, nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn trẻ và vẫn còn sức lực. Những trại viên lớn tuổi thì không làm luống; họ cắt hom khoai lang và trồng lên những luống mà chúng tôi làm sẳn. Sau khoảng 1 tháng, quang cảnh trại thay đổi hẳn. Không còn đất trống; những luống khoai thẳng tắp song song với nhau trông như những đùn cát trong bãi sa mạc. Điều thay đổi nhiều nhất là mọi người trong trại trở thành nâu đen dưới ánh nắng mùa hè của miền nhiệt đới. Chúng tôi phải lao động mỗi sáng từ bảy giờ tới trưa. Tôi nghĩ đó là buổi đầu để chúng tôi tập làm quen với lao động chân tay. Ngoài ra cũng không đủ đất để hai ngàn trại viên trong trại canh tác. Chúng tôi vẫn còn được thời gian vào buổi chiều để làm những việc riêng. Tôi không còn đất để trồng rau được nữa, do đó tôi dùng hầu hết thời gian rảnh để vẽ hình vợ con tôi hay làm những sản phẩm mỹ nghệ khác.

    Không phải trại viên nào cũng có quà gia đình, và năm kí lô không thể nào đủ cho ba tháng, do đó trại viên trở nên thiếu năng lượng sau một thời gian ngắn lao động nặng nhọc. Mặc dù lúc đó thì cơm cũng không đến nỗi ít lắm, nhưng thức ăn chỉ có canh với 1 ít bí đỏ và vài hạt đậu phọng thì không thể nào đủ cho cuộc sống. Vài người đã bị phù thũng và ghẻ ngứa. Những con cào cào, dế, và bọ cây đã trở thành những con tôm bay. Chuột, ếch nhái, rắn, và cắc kè đã trở thành những thứ thịt cao cấp. Rau dại càng lúc càng hiếm. Mọi cái gì không độc đều là những món ăn bằng cách này hay cách khác; chúng tôi đùa rằng cái gì nhúc nhích được là ăn được, con gì cũng ăn được ngoại trừ con bù lon!

    Cái lon guigoz bằng nhôm là vật gần gũi với trại viên nhất. Chúng tôi gắn vào đấy cái quay cầm cho dễ mang đi khắp nơi. Vào buổi sáng khi đi lao động, nó là vật đựng nước uống, nó trở thành đồ để đựng những thứ cải thiện được trên hiện trường lao động, và trở thành cái nồi nấu khi trở về phòng. Khi chúng tôi ngồi trong hàng hay khi lên hội trường thì nó trở thành cái ghế. Thật là một vật có lợi cho chúng tôi! Tôi có thể nói đó là thứ hữu dụng nhất cho trại viên trong trại cải tạo, và chúng tôi gọi nó bằng cái tên là “gô”. Hũ chao sau khi ăn hết được làm thành điếu bát để hút thuốc lào hay làm đèn dầu. Chai nước tương thì được cắt miệng để làm ly uống nước. Không có cái gì bỏ phí hết!

    Cuộc sống trong trại thì ngày này qua ngày khác đều diễn ra giống nhau: đi lao động, ăn uống, đợi nhận thư hay nhận quà, họp tổ đội trước khi đi ngủ, và làm mọi thứ linh tinh cho cuộc sống hàng ngày. Mọi ngày đều rất dài như là người xưa thường nói “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.”

    Khoảng ba tháng sau thì một số nữ trại viên được thả về trong đó có cả chị vợ tôi, Lan; chị ấy bỏ lại đồ đạc cho tôi. Tôi cảm thấy mừng cho chị ấy, và cho cả vợ tôi nữa vì qua chị ấy vợ tôi có thể biết được sự thật về cuộc sống của tôi trong trại. Đó là nhóm cuối cùng được thả tại trại Long Thành ngoài vài trại viên thả ra lẻ tẻ do sự cần thiết của VC.


    Chương 18. Tết Ở Trại Long Thành

    Lễ Tết đầu tiên ở trại cải tạo Long Thành đã được chuẩn bị chu đáo trước hàng tháng. Tết là một ngày lễ quan trọng nhất đối với người Việt vì đó là những ngày để gia đình có dịp gặp gỡ nhau, để nhớ lại ông bà tổ tiên, và cũng để ăn mừng thành công của mùa màng. Trong những ngày gần Tết, chúng tôi lại nghe tin đồn về việc VC sẽ bỏ cái Tết truyền thống Việt Nam để dùng Tết Dương Lịch thay vào hoặc dùng ngày Độc Lập của chúng để ăn Tết! Chúng tôi bảo nhau rằng đó là một ý kiến tồi tệ nhất vì họ không thể cấm được dân chúng tự ăn Tết lấy. Nhưng rồi Ban Giám Thị trại đã cho chúng tôi sửa soạn cái Tết đầu tiên trong trại như là một hành động để đánh tan dư luận ấy.

    Mỗi khối có những nhóm khác nhau để lo chuẩn bị Tết gồm các tiết mục như ca nhạc, kịch, múa lân, làm báo tường, và trang trí. Bên cạnh đó thì có một nhóm để làm chung cho toàn trại như làm bánh chưng và bánh tét. Bánh chưng để tượng trưng cho đất mẹ, và bánh tét thì để nhắc nhở công trạng của vua Quang Trung đã đại phá quân Thanh nhân ngày Tết.- Làm cây nêu như một tượng trưng cho việc bảo vệ gia đình người Việt, và tổ chức những trò chơi chung như bóng chuyền, đá banh, nhảy bao bố, và bóng bàn.

    Ngoài việc lo trang trí cho khối 3, tôi còn phải phụ làm cây nêu cho toàn trại. Cây nêu là một cây tre cao để treo những thứ tượng trưng như cái khánh, bánh pháo (giả), và câu liễng đỏ viết chử Tàu. Hai trại viên khác cùng với tôi được cán bộ dẫn đi lấy cây tre để làm cây nêu. Hôm đó là ngày 23 Tết, ngày đưa tiễn ông Táo, vị thần giữ nhà về chầu Thượng Đế. Gia đình người Việt thường tổ chức cúng tiễn ông Táo bằng những phẩm vật. Chúng tôi đến nhà của một người dân ở gần trại để xin họ một cây tre trong lúc họ đang cúng vái. Họ đã hỏi chúng tôi về cuộc sống trong trại, cho chúng tôi một ít đồ cúng và còn bảo rằng họ chỉ cho chúng tôi thôi chứ không cho cán bộ đâu!

    Tôi rất lấy làm ngạc nhiên về cách nói này vì tôi nghĩ những người dân vùng này thường giúp đở VC trong chiến tranh. Khi thấy tên cán bộ ra ngoài, một bà cụ bảo chúng tôi rằng trong chiến tranh gia đình bà đã nuôi dấu VC, nhưng bây giờ thì chính họ lại bị bóc lột tận xương tủy. Trong chế độ cũ, họ không phải đóng thuế nông nghiệp, nhưng dưới cái gọi là chính quyền cách mạng, họ phải đóng góp hầu như tất cả những gì mà họ làm được cho cái thuế nông nghiệp ấy. Dân chúng càng lúc càng nghèo trong khi VC thì càng ngày càng giàu có.

    Tám tháng ở trong trại và mười tháng kể từ ngày “giải phóng”, đó là lần đầu tiên tôi nghe những lời bày tỏ sự bất bình của người dân trong xã hội mới. Những người dân này lại là những người đã từng giúp đở VC trong chiến tranh. Tôi không dám tham gia vào cuộc nói chuyện mà chỉ lắng nghe và gật đầu.

    Chúng tôi định sẽ treo đèn lồng trong trại và trong các phòng. Vài khẩu hiệu với những câu như: Chúc mừng Năm Mới hay Mừng Tết Bính Thìn, 1976 được treo ở cổng chính của trại và ở mỗi khối. Chúng tôi cắt những bông giấy màu vàng và màu hồng dán trên các cây trong trại để tượng trưng cho hoa mai và hoa đào. Hoa mai để tượng trưng cho Tết ở miền Nam, và hoa đào để tượng trưng cho Tết miền Bắc.

    Trong những ngày Tết, các gia đình người Việt thường có những món tượng trưng như dưa hấu, pháo đỏ, bánh chưng và hoa mai, hoa đào. Chúng tôi cũng có hầu hết những thứ đó, nhưng có điều chỉ là những thứ giả mà thôi! Lần đầu tiên ăn Tết trong trại, chúng tôi đón mừng Tết một cách buồn bã thay vì vui tươi mặc dù chúng tôi đã chuẩn bị tất cả một cách chu đáo.

    Vài ngày trước Tết, thời tiết hơi se lạnh và màu trời vàng vọt. Gió nhẹ thổi qua ngọn đồi Long Thành khiến tôi nhớ vô cùng cái Tết ở nhà cách đó khoảng 50 cây số. Ai đang chùi bộ lư trong nhà mà tôi vẫn thường chùi hàng năm? Tôi vẫn nhớ giọng nói oang oang của bà ngoại tôi đang hướng dẩn em gái tôi làm bánh mứt, những thứ đặc biệt vào mấy ngày Tết; đôi khi tôi cũng giúp bà để quậy nồi bánh đậu xanh. Còn đâu hơi thơm quen thuộc và ấm áp của hương trầm bao phủ khắp nhà đêm giao thừa. Mẹ tôi vẫn thường làm việc trong tiệm may của bà cho đến nửa đêm giao thừa, và có lúc tôi cũng phải phụ bà để hoàn tất công việc bởi vì những người thợ may thường đã về nhà họ để ăn Tết. Tôi không hề quên được cách xếp đặt bàn thờ để đón ông bà. Mọi thứ dường như hiện ra rất rõ trong tôi trong những ngày Tết đầu tiên xa nhà này. Không có gì có thể thay thế được cái Tết trong gia đình! VC bảo rằng chúng tôi cần phải làm quen với cuộc sống cộng đồng. Chúng tôi phải làm sao đây nếu chúng tôi không muốn sống cộng đồng? Mọi người chuẩn bị cho ngày Tết mà không ai có vẻ hứng thú một chút nào.

    Đêm giao thừa, ban giám thị và các cán bộ đến từng phòng giam chúc Tết cho chúng tôi. Chúng tôi phải thức để đón họ cho đến quá nửa đêm. Họ chúc rằng chúng tôi sẽ đạt được tiến bộ trong cải tạo ngỏ hầu sớm về với gia đình, nhưng không một ai còn tin tưởng vào những lời nói của họ nữa. Trong ngày đầu năm, chúng tôi cũng chúc mừng nhau như một thói quen, nhưng tôi biết đó chỉ là phép xã giao mà thôi!

    Những trò chơi đã chuẩn bị rất kỷ lưởng, nhưng chỉ có vài trại viên ghi tên tham dự. Chúng tôi không thể nào lập được hai đội banh để chơi bóng tròn mà chỉ có chơi bóng chuyền giữa ba khối 1, 3 và 4. Điều ngộ nghĩnh mà tôi vẫn nhớ là trong lần thi đấu nhảy bao bố thì hai người đạt giải nhất lại là hai người có một chân: đó là Nhàn, nguyên là cộng tác viên của tôi, và ông Đại Tá Phấn, nguyên đô trưởng Sài Gòn.

    Mọi người vẫn hy vọng một cách mơ hồ về việc tha ra khỏi trại vào ngày Tết, nhưng rồi 3 ngày Tết đã trôi qua trong lặng lẽ. Sau Tết vài ngày thì những chiếc xe chở đầy gạch xi măng đem vào trại. Chúng tôi tự hỏi họ đang định làm gì đây? Tôi thì nghĩ VC đang chuẩn bị để xây tường để củng cố trại. Chúng tôi lại phải đem gạch chất thành đống dọc theo hai bên con đường chính, và rồi sau đó thì những bức tường lại được xây lên dọc theo 2 bên đường, bao quanh trại, và ngăn cách các nhà với nhau. Không gian của chúng tôi càng lúc càng hẹp lại dần


    Chương 19. Thăm Nuôi Lần Đầu

    Ngày 19 tháng 8 năm 1976, để mừng sinh nhật của Hồ Chí Minh, chúng tôi không đi lao động mà đi lên hội trường. VC gọi đó là để chào mừng ba ngày lễ lớn gồm có ngày 19 tháng 8 sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày Nam Bộ Kháng Chiến 23 tháng 8 và ngày lễ Quốc Khánh 2 tháng 9. Tôi chẳng muốn lên hội trường để nghe những bài diễn văn của chúng, nhưng chẳng có đường nào để tránh. Thêm nữa, chúng tôi không phải đi lao động và còn có ăn tươi, ít ra cũng có một ít thịt.

    Cờ xí và biểu ngữ treo đầy trong hội trường trước đó mấy ngày. Kể từ khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không còn nhìn thấy lá cờ ba màu của cái gọi là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ở đâu nữa mà chỉ còn thấy lá cờ máu của Bắc Việt. Thêm một lần nữa, người dân miền Nam đã bị lợi dụng lòng yêu nước để VC biến cả nước thành một nước Cộng Sản. Tôi tự hỏi không biết ai là Ngụy đây?

    Trang trí trong hội trường luôn luôn như cũ với tấm hình Hồ treo giữa bức tường cuối, gần bên cái bục nơi các cán bộ ngồi, câu khẩu hiệu “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” phía dưới. Lần này thì chúng tôi ngồi trên những hàng băng ghế chứ không ngồi dưới đất nữa. Kể từ khi bắt đầu lao động, trại viên trong khối 2 làm trong hội trường để đan rổ rá, làm chổi, và vài sản phẫm bằng tre. Vì họ đa số lớn tuổi nên được phân công làm những việc nhẹ hơn. Thêm vào đó thì cũng không đủ đất cho gần hai ngàn trại viên lao động. Những trại viên trong khối 2 đã thu nhặt gỗ ở những căn lều cũ cho nạn nhân chiến cuộc để làm những hàng ghế băng trong hội trường. Những cây gỗ mười phân vuông đã được chôn xuống nền đất của hội trường để làm chân ghế và đóng thành những thanh ngang để làm mặt ghế. Những hàng băng ghế này ngồi cũng chẳng thoải mái chút nào, nhưng dù sao thì chúng tôi cũng không phải ngồi xuống đất nữa.

    Cái bục cũng đã được làm cố định ở cuối hội trường và đặt sẳn bàn ghế cho cán bộ mỗi lần có hội họp.

    Rất nhiều cán bộ vào hội trường sáng hôm ấy. Sau khi đứng lên ngồi xuống mấy lần để chào đón ban giám thị như thường lệ, Thùy, giám thị trưởng giới thiệu nhà văn Hoài Thanh người sẽ thuyết trình về đề tài thơ của Hồ Chí Minh. Thùy nói rằng Hoài Thanh là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, nhưng không ai trong chúng tôi biết về ông ta.

    Hoài Thanh khoảng trên năm mươi, hơi mập và lùn với khuôn mặt vuông và hai gò má bầu. Ông ta mặc áo bỏ vào trong quần chứ không bỏ ngoài như những cán bộ cao cấp khác, và ông ta lại thắt cà vạt nữa! Một điều khác đã làm chúng tôi ngạc nhiên là khi ông ta ngồi vào chổ thì một cán bộ lại đem đến một chai bia thay vì ly nước như thường lệ!

    Tôi cũng không nhớ nhiều về những điều mà Hoài Thanh đã nói trong buổi diễn thuyết về thơ của Hồ vì thơ của Hồ rất tầm thường, có thể nói là giống như thi ca hò vè của Việt Nam, có khi còn dở hơn, với những bài thơ lục bát, ngoài một tập thơ bằng chử Hán tên là “Ngục Trung Nhật Ký” mà chúng tôi nghĩ là không phải của hắn ta. Điều duy nhất tôi nhớ về Hoài Thanh là lời mở đầu của ông ta với một câu rất bạo là: “Thơ của Hồ Chủ tịch sở dĩ hay vì đó là thơ của Hồ Chủ tịch!” Tôi không biết sao ông ta lại dám nói như vậy trong một bài diễn thuyết cho chúng tôi nghe? Một sự nhạo báng Hồ là một trọng tội trong quốc gia của VC! Nhưng tôi nghĩ chắc là các cán bộ cũng không hiểu ẩn ý của lời ông ta nói vì khi thấy chúng tôi vỗ tay thì họ cũng vỗ tay theo.

    Khoảng giữa trưa, sau khi Hoài Thanh rời hội trường, trại phó Bào lên nói vài điều về ba ngày lễ lớn. Để kết luận, ông ta nói rằng để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, trại cho phép chúng tôi có cơ hội để thăm gặp gia đình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9.

    Mười bốn tháng kể từ lúc vào trại, có lẽ đây là lúc mà tôi thấy kích động nhất.

    Sau khi đã nghe chính sách của Đảng và Nhà Nước về ba năm tập trung cải tạo, tôi không còn tin tưởng được nữa. Đầu tiên thì chúng bảo rằng chúng tôi phải mang theo thức ăn cùng quần áo chăn màn cho một tháng, và bây giờ thì ba năm tập trung cải tạo và sẽ được tha ra khỏi trại khi đạt được tiến bộ. Chúng lại chơi chữ một lần nữa! Thế nào là tiến bộ? Không ai có thể giải thích được hay biết được điều này. Tôi nghĩ rằng điều đó có nghĩa là chúng có thể giử chúng tôi mãi mãi hay có thể thả chúng tôi bất cứ khi nào nếu chúng muốn.

    Con đường trở về với gia đình của tôi đã bị tắt nghẽn! Cuộc sống còn lại của tôi, ngay cả nếu ở ngoài xã hội thì cũng chỉ là một sự vô vọng mà thôi. Sống trong trại cải tạo thì cũng giống như một cuộc sống không có linh hồn. Ngày này qua ngày khác, tôi sinh hoạt như một cái bóng: làm việc, ăn, ngủ với tiếng kẽng giống như một người máy hoặc như con chó Pavlov. Tâm tư tôi không còn hiện hữu trong tôi nữa. Đôi khi tôi vừa làm việc mà lại vừa nghĩ tới gia đình tôi, ngay cả trong giấc ngủ. Họ chính là cứu cánh của cuộc đời tôi. Được gặp gia đình, đó quả là sự kích thích vô cùng đối với tôi, và với những người khác nữa! Viết thư và hai tuần lể chờ đợi, quả là lâu.

    Tôi cũng không biết viết gì trong thư cho gia đình khi mà bức thư ấy sẽ bị các cán bộ kiểm duyệt cẩn thận. Họ không muốn chúng tôi suy nghĩ nhiều về gia đình để mà an tâm cải tạo và tin tưởng tuyệt đối vào chính sách của Đảng và Nhà Nước. Thật là một điều rất buồn cười khi bảo chúng tôi phải yên tâm để ở tù và tin tưởng vào những lời nói dối của chúng! Nhưng chúng tôi cũng phải nói như vậy như một con vẹt. Ở trong trại cải tạo, chúng tôi không những chỉ bị cưỡng bức lao động mà còn bị cưỡng bức suy tư nữa. Trong bức thư cho gia đình gửi qua cán bộ, tôi chỉ viết để báo tin cho gia đình tôi về việc thăm nuôi cùng ngày giờ và địa điểm, hỏi thăm về bà ngoại tôi, mẹ tôi, về vợ con tôi cùng mọi người trong gia đình. Tôi lén viết một bức thư khác cho vợ tôi và dấu trong cái quai của cái giỏ xách dự định sẽ mang ra cho gia đình tôi hôm thăm nuôi mặc dù tôi cũng biết trước là họ sẽ khám xét rất kỹ. Tôi muốn cho vợ tôi biết rằng ngày trở về của tôi chắc là còn lâu lắm; mà vợ tôi hãy còn trẻ. Tôi muốn cô ta hãy quên tôi đi mà làm lại cuộc đời khác, nhưng rồi tôi lại không đủ can đảm để viết điều ấy. Tôi chỉ viết để khuyến khích vợ tôi hãy sống trong một xã hội mới không có tôi. Tôi yêu cô ấy nhưng lại không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời. Tôi chỉ muốn được gặp con trai tôi và nghĩ rằng vợ tôi sẽ tự nuôi con được cho dù cô ấy có rời tôi đi nữa.

    Trong những ngày này, chúng tôi lại bận rộn di chuyển trong trại vì có một số trại viên mới đến. Họ là những thành phần được gọi là nạn nhân của chế độ cũ gái điếm và gái bán bar và được đưa vào trại để được “phục hồi nhân phẩm”, một danh từ mới để thay thế cho việc bỏ tù! Những trại viên mới này được ở trong ba nhà ở khối 1. Chúng tôi phải dồn lại và khối 3 chỉ còn ở trong hai nhà thay vì ba như trước; những cái sạp gỗ của chúng tôi phải được đặt sát vào nhau.

    Ngày 1 tháng 9, ngày đầu tiên trong lịch trình thăm nuôi, tất cả chúng tôi rất kích thích. Mọi người đều chọn những bộ quần áo đẹp nhất để chuẩn bị. Sau hơn 14 tháng lao động trong trại, bộ đồ đẹp nhất của tôi là cái quần đã sờn gối và cái áo đã sờn cổ! Khoảng chín giờ sáng, vài người đã được gọi ra để thăm gặp gia đình. Họ mang theo những cái giỏ xách trống, xếp vào hàng để được khám xét, và rồi đi ra. Tôi cũng chờ đợi trong sự nôn nao. Tôi không biết là gia đình mình sẽ lên thăm hôm nay hay ngày mai. Bức thư viết riêng cho vợ tôi cũng đã dấu kỹ trong tay xách của cái giỏ. Tôi nhìn cách khám xét của họ mà cảm thấy hơi an lòng.

    Khoảng trưa, Điệp và tôi được gọi cùng lúc; tôi nghĩ chắc hai gia đình đã đi chung vì hai nhà ở gần nhau. Đã bắt đầu đông trại viên được thăm nuôi vào thời gian ấy, do đó việc khám xét dễ dàng hơn. Bà ngoại tôi, mẹ tôi cùng vợ con tôi đến thăm. Tôi nhìn thấy mọi người khi đi đến gần nhà thăm nuôi, đặc biệt là vợ tôi đang ẵm con trong tay. Con tôi trông rất nhỏ nhắn, hoặc là đã quá lâu tôi không nhìn thấy một đứa bé, tôi không biết rõ. Vợ tôi thì trông gầy hơn trước dù rằng cô ấy vốn cũng đã gầy rồi. Tôi cảm thấy tội nghiệp vợ tôi vì đã chịu quá nhiều đau khổ. Ba năm hạnh phúc không đáng để cô ấy phải trải qua những đau khổ này.

    Mười lăm phút không thể đủ để chúng tôi nói với nhau những điều muốn nói, và thêm vào đó còn có cán bộ quan sát nữa. Họ luôn muốn chúng tôi nói dối về tình trạng của chúng tôi. Những cuộc đối thoại của chúng tôi toàn là những lời nói dối, nhưng chúng tôi lại hiểu nhau qua những lời nói dối ấy. Tôi thử bế con tôi, nhưng nó lại khóc đòi mẹ. Bà ngoại tôi thì trông rõ ràng là già và gầy hơn, nhưng giọng bà vẫn oang oang. Đó là lần cuối cùng tôi gặp bà, và cái hôn giã từ tôi vẫn nhớ mãi. Mẹ tôi không nói lời nào. Tôi nắm tay mẹ tôi và nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ tôi. Mẹ tôi đã chịu đựng quá nhiều đau khổ kể từ khi ba tôi rời gia đình đi vào mật khu và chết trong ấy. Cả cuộc đời mẹ tôi đã hiến cho con cái. Tôi không biết nói gì với mẹ tôi mà chỉ nhìn bà.

    Tôi nói nhỏ với vợ tôi về bức thư trong cái quai của túi xách, và vợ tôi cũng cho tôi biết cô ta có viết cho tôi bức thư để trong hộp mắm ruốc. Dấu thư trong hộp mắm ruốc, một món đồ vừa nhầy nhụa lại hôi nữa, quả là một sáng kiến! Tôi nhìn thấy vợ tôi khóc khi tôi hôn nàng lúc từ giã. Mười lăm phút thăm gặp đã trôi qua. Mọi người đứng lên một cách uể oải như muốn kéo dài thêm giây phút giã từ! Các cán bộ phải bảo trại viên xếp hàng nhanh lên để vào trại nhường chổ cho nhóm khác; đó có lẽ là phương cách duy nhất để chấm dứt thời gian thăm nuôi. Tôi xách hai túi quà chậm chạp đi xếp hàng. Vợ tôi quay đi chổ khác để dấu những giọt nước mắt. Sự nao nức lúc chờ đợi đã nhường chỗ cho sự buồn bã lúc chia tay. Trại viên bước vào trại mà còn quay mặt lại cho đến khi đã đi qua khỏi cổng trại, cánh cổng ngăn cách hai nhà tù: nhà tù của các trại viên trong trại cải tạo và nhà tù cho dân chúng trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

    Có quá nhiều trại viên thăm nuôi cho nên việc khám xét càng lúc càng dễ dàng hơn. Không có đủ cán bộ, họ cho phép vài trại viên đội trưởng phụ làm việc này. Tôi xếp mọi vật riêng rẽ ra từng cái một trên sàn của hội trường. Cán bộ chỉ đứng quan sát trong khi một trại viên của khối 1 xét đồ đạc tôi bằng cách cầm lên rồi đặt xuống từng món một chứ không hề mở ra. Tôi lo cho bức thư của vợ tôi, nhưng mọi việc diễn ra êm xuôi.

    Bức thư mười trang giấy mà vợ tôi đã viết cả tuần trước khi đến thăm tôi. Vợ tôi bảo rằng cô ta sẽ không có thời gian và cơ hội để nói với tôi những điều mà cô ấy đã trải qua từ lúc rời trường Chu Văn An về với gia đình. Điều ấy đã từng xảy ra thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình ở Việt Nam! Sự xung đột giữa gia đình chồng với người vợ luôn là đề tài chính trong nhiều gia đình. Người Việt Nam thường sống với nhau cả 3 thế hệ dưới một mái nhà, do đó sự đối kháng này khó có thể tránh được, đặc biệt là khi người vợ, một người lạ, sống một mình trong gia đình bên chồng. Cái gọi là mẹ chồng và em chồng là những điều đã xảy ra tự ngàn xưa, tiếp tục đến bây giờ, và không biết còn xảy ra bao lâu nữa? Tôi đã biết điều này từ ngày đầu tiên chúng tôi sống chung, và tôi cũng đã cố gắng để có mái nhà riêng. Nhưng khi vợ tôi trở về lại với gia đình thì mọi cái lại trở lại như cũ, có thể còn xấu hơn vì không còn tôi ở nhà nữa. Điều khó khăn cho vợ tôi là trong xã hội mới này, vì là nhân viên của chế độ cũ, vợ tôi không thể tìm được việc làm nào cho cuộc sống mà phải chia xẻ cảnh nghèo với gia đình tôi. Thêm vào đó, theo một thói tục cũ của Việt Nam, người đàn bà khi đã có chồng thì phải ở chung với gia đình bên chồng một khi người chồng xa nhà, vợ tôi không thể nào làm khác hơn.

    Về tình trạng của gia đình tôi, vợ tôi không nói gì rõ ràng mà chỉ viết rằng cô ấy đã phải thường xuyên đi xếp hàng để mua gạo và mọi vật dụng trong gia đình, nhưng ít ra thì cô ấy cũng mua được vài món. Con tôi thì cũng đủ sữa trộn với nước cháo, và mặc dù bà ngoại tôi rất ghiền cà phê sữa, bà cũng phải nhường sữa cho cháu. Không những trong trại chúng tôi học cách nói dối mà cả bên ngoài mọi người đều làm chuyện ấy. Chúng tôi nói dối nhau và lại hiểu nhau qua lời nói dối ấy.

    Đất nước thì tả tơi; dân chúng trong nước thì nghèo nàn, nhưng mọi người phải nói rằng đất nước ta giàu đẹp; khó khăn chỉ là tạm thời! (Tạm thời đến bao giờ, hay là mãi mãi?) Tôi biết về tình trạng của gia đình mình nên đã không xin gì cả. Tôi không muốn làm gánh nặng cho họ. Những gói quà của gia đình giúp tôi rất nhiều trong trại, nhưng lại là mối lo cho gia đình tôi vì họ phải chia xẻ cho tôi phần đã quá ít oi của họ. Tôi không thể nào hiểu nổi một quốc gia mà người dân lại phải xếp hàng để mua mọi thứ cần thiết cho đời sống của họ. Đó chính là một minh chứng hùng hồn cho câu nói “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì mà Cộng Sản làm”.

    Đêm ấy, tôi không thể nào ngủ được mà cứ nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những gì sẽ viết trả lời cho thư vợ tôi. Tôi có thể viết gì bây giờ trong cảnh này ngoài việc trấn an cô ta với tình yêu của tôi? Tôi cũng không biết được tình yêu của mình sẽ là sự an ủi hay là nỗi tuyệt vọng cho vợ tôi. Mới có 25 tuổi, cô ấy đã phải đè nén bao nhiêu ham muốn để sống một mình nuôi con và chờ đợi cho một mối tình viễn vông và vô vọng, quả là một hoàn cảnh ngang trái! Trong thư của vợ tôi, cô ấy viết rằng cô ấy rất hạnh phúc khi có được tình yêu của tôi dành cho cô ấy, một mối tình mà không dễ gì ai cũng có được. Cô ấy có ý muốn đợi tôi ba năm như chính sách của Đảng và Nhà Nước quy định cho các trại viên trong trại cải tạo, nhưng điều gì đây nếu đó không phải là ba năm. Cô ấy không biết cô ấy sẽ ra sao đây nếu mà chúng tôi chỉ còn gặp được nhau khi tóc đã bạc!

    Tôi trả lời thư của vợ tôi thế nào đây khi mà chính tôi cũng không tin điều mà VC đã nói? Đời tôi thì hình như đã hết rồi, còn vợ tôi thì thế nào? Tôi không muốn ích kỷ, nhưng tôi phải nói gì đây? Tôi vẫn nhớ câu nói : “mất đất nước vào tay Cộng Sản là mất tất cả”. Nhưng mà tôi biết rằng vợ tôi sẽ không bỏ tôi được đến khi cô ấy không còn hy vọng gì, hoặc là khi tôi đã chết. Đôi lúc tôi cũng có nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát khỏi mọi đau khổ cho chính tôi và cho vợ tôi nữa. Tôi nghĩ đến mọi điều nhưng rồi chỉ viết ra những diễn biến trong tâm tư tôi khi tôi được gặp vợ con và gia đình mình. Nhìn cảnh tượng vợ tôi ôm con, tôi biết rằng cô ấy đang hạnh phúc vì đứa con chính là những gì mà cô ấy đã mong ước.

    Ngày 2 tháng 9, ngày lễ Độc Lập của VC, nhưng cũng không có tổ chức lễ lộc gì vì họ bận rộn cho ngày thăm nuôi cuối cùng của trại viên. Tôi không còn chờ đợi ai đến thăm nữa mà chỉ ngồi tại chỗ đọc đi đọc lại bức thư và suy nghĩ về vợ con tôi. Khoảng trưa, Điệp lại được gọi ra để nhận thêm quà. Anh ta cho tôi biết rằng tôi có một gói nhỏ kèm theo. Vợ tôi gửi thêm cho tôi một ít mì khô và quan trọng hơn là bức thư mà tôi nghĩ là cô ấy dấu bên trong. Tôi lục kỹ và tìm ra bức thư nằm giữa cuộn mì khô. Vợ tôi viết về những diễn biến trong tâm tư của cô ấy khi gặp tôi rằng cô ấy đã run rẩy và đổ mồ hôi giống như là bị bịnh khi thấy tôi đi từ trong trại ra. Vợ tôi bảo là cô ấy nghĩ tôi đến từ địa ngục, và nghĩ rằng cô ấy chắc không thể nào gặp lại tôi được. Trên đường về nhà, những người đi cùng còn bảo rằng ai mà hôn vợ sẽ bị phạt khi trở vào trại và hỏi tôi có bị phạt không(?) Cô ấy muốn sẽ vượt qua mọi khó khăn để đợi tôi.

    Tôi yêu cô ấy nhiều, nhưng tôi không muốn để cô ấy thất vọng. Tôi không biết làm sao để cho cô ấy biết điều ấy. Mặt khác, cô ấy đang sống trong hy vọng và hạnh phúc với đứa con. Tôi không thể tiêu diệt giấc mơ của vợ tôi. Người ta bảo rằng: sống là hy vọng; cô ấy đang sống, do đó tôi không thể giết chết sự sống của cô ấy. Trong thư, tôi đã viết rằng tôi sẽ yêu cô ấy mãi cho dù cô ấy có sống trong một cuộc sống khác không có tôi đi nữa! Tôi không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời để đợi tôi, nhưng thật tình thì trong thâm tâm tôi vẫn mong một ngày trở về với cô ấy. Dù không tin vào thời gian ba năm cải tạo như VC đã nói, nhưng tôi vẫn hy vọng điều đó là đúng. Hai mặt trái ngược luôn luôn xung đột trong lòng tôi khiến tôi không đi tới một quyết định nào được nữa.

    Thời gian thăm gặp đã hết, trong lúc chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau thì có vài chiếc xe đò trống đi vào trại đậu ở gần cổng chính. Điều gì xảy ra đây? Kể từ khi những người được gọi là nạn nhân của chế độ cũ đến trại chúng tôi cũng chờ đợi cho sự việc xảy ra. Nhưng chúng tôi không mong nó xảy ra quá cận lúc chúng tôi vừa thăm nuôi. Đồ đạc chúng tôi quá cồng kềnh. Chúng tôi phải gói gọn chúng lại mặc dù chưa ai nói điều gì hết.

    Mười giờ tối hôm ấy, Tư Điệp và Bảy Sói, hai cán bộ phụ trách khối 3 đến gọi chúng tôi sửa soạn để di chuyển. Chỉ vài người đang nấu ở nhà bếp là còn ở lại để nấu nướng vài ngày chờ bàn giao lại cho những trại viên mới. Chúng tôi hầu hết đã chuẩn bị và chờ đợi, nhưng chưa biết chắc mình sẽ đi đâu. Một nhóm đã đi sang trại Thủ Đức vài ngày trước khi những nạn nhân của chế độ cũ đến. Chúng tôi chắc cũng vậy thôi. Vợ tôi cũng đã nói cho biết rằng Linh, anh rể của vợ tôi đã đi khỏi trại Thủ Đức đến một trại nào đó ở miền Bắc, do đó có lẽ chúng tôi sẽ thay thế các trại viên ở trại Thủ Đức. Vài ngày trước khi thăm gặp gia đình, ban giám thị đã chiếu cho chúng tôi xem phim có tựa đề “Chuyện Chúng Mình” nói về đời sống của một trại viên trong một trại ở miền Bắc, và tôi nghĩ đó chính là chuẩn bị tinh thần chúng tôi cho cuộc di chuyển này. Tôi đã sẵn sàng, không còn lo lắng gì cả vì ít ra tôi đã gặp được gia đình tôi. Nếu điều gì đó xảy đến cho tôi, tôi sẽ chấp nhận nó như một điều dĩ nhiên.

    Khoảng nửa đêm, chúng tôi rời khỏi trại Long Thành sau một năm hai tháng mười tám ngày ở trại này.

    (Hết chương 8 – 19. Xin xem tiếp chương 20 – 26)

  4. #4
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    Phần 3

    Trại Cải Tạo Thủ Đức


    Chương 20.Trại Cải Tạo Thủ Đức


    Cảm tưởng đầu tiên khi đến trại Thủ Đức là chúng tôi thật sự ở tù! Trại là trung tâm cải huấn nữ can phạm của thời Việt Nam Cộng Hòa. Nó đã được xây dựng từ thời thực dân Pháp, tôi không biết rõ lắm, nhưng quả thật là rất kiên cố. Gần mười lăm tháng ở trại Long Thành, chúng tôi chưa hề bị nhốt trong phòng giam, nhưng khi vừa đến trại Thủ Đức, điều đầu tiên mà họ làm là khóa trái cửa phòng lại ngay sau khi chúng tôi đi vào.

    Trại nằm trong thị xã Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 15 cấy số. Một vòng rào làm bằng tường xi măng bao quanh trại với kẽm gai bên trên. Hai bên của cánh cổng chính bằng sắt là hai vọng gác. Ở mỗi góc tường có một chòi canh. Một cái sân rộng phía sau cổng chính dẫn đến một bức tường ngăn cách sân với khu trại giam bên trong; chỉ có một cánh cổng nhỏ ở bức tường ấy. Vài kiến trúc ở phía góc sân được dùng làm văn phòng cho cán bộ và cho ban giám thị. Qua bức tường ấy, chúng tôi đã phải đi giữa một con hẻm hẹp khoảng một mét rưỡi có hai bức tường ở hai bên trông giống như giao thông hào.

    Đầu tiên, tôi được dẫn vào một phòng giam ở khu B. Có hai cái bục xây bằng xi măng cao khoảng một thước ở sát hai bên tường. Phần giữa hai bục ấy là lối đi dẫn đến một cái nhà cầu ở cuối phòng. Những bức tường xây quanh cái sân nhỏ phía trước phòng giam, do đó chúng tôi chỉ thấy được những người cùng buồng giam chứ không thể nhìn thấy được những người ở khác buồng. Bốn mươi người được nhốt trong một phòng giam có một nhà cầu với hai lỗ cầu được thông bằng nước và một vòi tắm. Ít ra thì nó cũng sạch sẻ hơn cái cầu xí ở Long Thành.

    Vài ngày sau, họ di chuyển tôi đến nhà giam số 4 trong khu A cùng với các bạn khác; chúng tôi chuẩn bị để di chuyển! Hình bát giác của nhà giam số 4 khiến nó trông giống như ngôi nhà thờ. Vài người nói rằng nó cũng đã từng là nhà nguyện cho các nữ tu đạo Công giáo, và trại Thủ Đức này cũng từng là nhà dòng.

    Nhà giam số 4 giam được khoảng bốn trăm người. Chúng tôi ngủ trên những cái bục xi măng cao hơn lối đi khoảng một thước. Một cái nhà vệ sinh lớn nằm phía bên phải của phòng giam có bốn lỗ cầu, hai vòi tắm và một bồn rửa mặt. Có rất nhiều khung cửa sổ chung quanh với những song sắt và một cánh cửa duy nhất đi ra một cái sân rộng ở gần cổng đi ra sân trước của trại. Ba buồng giam khác nằm đối diện với phòng giam số 4 cũng thuộc khu A, do đó chúng tôi có thể trông thấy các bạn tù khác ở những phòng giam kia. Tất cả chúng tôi trong khu A là được chuẩn bị để di chuyển. Trại Thủ Đức chỉ là trạm trung chuyển, do đó chúng tôi không phải làm gì cả ngoại trừ người nào muốn tình nguyện đi bửa củi cho nhà bếp.

    Mỗi sáng, một cán bộ đến buồng giam để mở cửa; ông ta đứng ở cửa, và chúng tôi phải ngồi tại chổ đếm số theo thứ tự từ số 1 đến số cuối cùng. Chúng tôi chỉ có nửa giờ để ra ngoài sân phơi nắng hay tập thể dục rồi lại phải vào lại buồng giam để nghe đọc báo cho đến giờ cơm trưa. Buổi chiều, chúng tôi thay phiên nhau để tắm giặt. Sau khi ăn chiều, cán bộ lại đến để kiểm tra trước khi đóng cửa buồng giam; đôi khi chúng tôi phải đứng xếp hàng ở trong sân để điểm vào phòng, nhưng thường thì cũng ngồi đếm số trong phòng giống như buổi sáng.

    Khi chúng tôi đến trại Thủ Đức, đã có hai nhóm trại viên di chuyển khỏi trại để đi đến trại nào đó ở miền Bắc Việt Nam. Đó là hai nhóm từ trại Long Thành: nhóm thứ nhất đã rời trại Long Thành sau mấy tuần đầu và nhóm nữa thì mới vừa rời trại Long Thành cách đó không lâu. Tôi nghe nói họ được chuyển đi trại Nam Hà ở miền Bắc.

    Lần này là đến phiên chúng tôi.

    Thời gian ở trại Thủ Đức là lúc mà chúng tôi khỏe nhất trong các trại cải tạo. Ngoài việc không phải làm gì, chúng tôi còn được ăn uống tương đối đầy đủ hàng bữa với cơm và canh cà chua hay bí xanh cùng một ít thịt. Chúng tôi bảo nhau rằng họ bồi dưởng chúng tôi để sẵn sàng đi lao động khổ sai! Đó là câu nói đùa nhưng cũng không xa với thật tế.

    Khoảng mười ngày sau, vài nhóm trại viên khác đến lấp đầy các phòng giam ở trại Thủ Đức, và số còn lại ở trại Long Thành cũng được đưa qua đây luôn. Các cán bộ đến phòng giam số 4 để đọc danh sách các trại viên chuẩn bị để di chuyển, ai không có tên thì được dời sang phòng giam khác. Tôi thuộc nhóm di chuyển.

    Chúng tôi không làm gì nữa kể từ hôm ấy, chỉ túm tụm nhau bàn tán về cái trại sắp tới.

    Hai hôm sau, một cán bộ đến phòng giam số 4 và gọi Tuân cùng tôi đi hỏi cung, và rồi hai chúng tôi được dời sang một phòng giam khác để số còn lại chuyển đi vào đêm hôm ấy. Họ được di chuyển đến trại Lào Kai và Quảng Ninh ở miền Bắc Việt Nam


    Chương 21. Tôi Ở Lại Đề Điều Tra


    Thật ra thì không có gì đặc biệt để kể về trại Thủ Đức vì đó chỉ là một trạm trung chuyển!

    Khi Tuân và tôi ở lại để bị hỏi cung thì họ chuyển chúng tôi đến khu B của trại.

    Ngoại trừ khu A có bốn phòng giam có chung cái sân rộng, các nhà khác trong trại đều được ngăn cách nhau bởi những bức tường, do đó trại viên trong các nhà giam khác nhau không thể trông thấy nhau được ngoại trừ lúc đi lãnh cơm ở nhà bếp. Nhưng luôn luôn có một cán bộ hay một thi đua đi kèm.

    Có nhiều loại trại viên được giam ở trại Thủ Đức như: tội phạm hình sự, những người trong cái mà VC gọi là “những tổ chức phản động”, những người đã đứng lên chống lại Cộng Sản sau ngày 30 tháng tư năm 1975, những người tổ chức vượt biên hay vượt biên bị bắt lại, những nhà triệu phú bị bắt khi VC đánh tư sản mại bản trong chiến dịch “cải tạo kinh tế tư bản”, và những nhân viên của chế độ cũ. Họ giam mỗi loại trong mỗi khu khác nhau. Khu A là để dành cho những trại viên tạm thời chờ đợi để di chuyển. Khu B giam những nhân viên chế độ cũ và các nhà triệu phú. Khu C giam giữ tội phạm hình sự, các người trong những tổ chức chống đối và thuyền nhân.

    Không như ở trại Long Thành, tôi không thể biết được có bao nhiêu trại viên trong trại Thủ Đức vì họ được đưa đến và chuyển đi liên tục và vì chúng tôi không trông thấy nhau.

    Cái gọi là khu B thì chỉ có một dãy nhà với hai buồng giam và cái sân phía trước bao quanh bởi các bức tường. Khi được đưa đến đây, đã có khoảng một trăm trại viên khác ở đó trước rồi. Họ đã được chuyển đến từ trại Long Thành và chưa được chuyển đi ra miền Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự hiện diện của vài người như các ông Cang, nguyên đặc ủy trưởng của cơ quan tình báo, Trang trưởng ban A8, Lương trưởng ban A10, Việp và Nhụ chánh nhất tòa thượng thẫm Sài Gòn. Trong phòng giam số 1, hầu hết các trại viên là nhân viên củ của chính quyền Nam Việt Nam và vài triệu phú như dược sĩ La Thành Nghệ, ông vua kẽm gai Hoàng Kim Qui. Phòng giam số 2 gồm các trại viên từng làm trong lực lượng cảnh sát và cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa.

    Chúng tôi không phải làm gì suốt thời gian ở khu B, và do một lý do gì đó mà tôi không rõ, ban giám thị trại lại dường như rất dễ dàng đối với chúng tôi hơn lúc nào hết. Họ không đóng cửa phòng giam cho đến sáu giờ chiều mỗi ngày và cho phép chúng tôi được đi lại trong sân, nấu nướng và tập thể dục.

    Cuộc hỏi cung đã được diễn ra gần hai tháng. Đầu tiên tôi phải đi làm việc hàng ngày rồi về phòng viết đi viết lại bản khai báo những điều mà họ hỏi. Sau đó, thỉnh thoảng họ mới kêu tôi lên một lần, và rồi họ không còn gặp tôi nữa vì có lẽ đã xong.

    Điều họ muốn hỏi tôi là tất cả những gì mà tôi biết được có liên quan đến “lực lượng thứ ba”, những người mà tôi đã theo dõi từ năm 1970 đến 1972 trước khi tôi làm việc cho ban A17. Vài người trong nhóm này đang làm việc cho VC như bà Ngô Bá Thành, hiện đang làm dân biểu trong quốc hội của VC. Họ cũng đã là những người đã từng làm xáo trộn hậu phương để giúp cho VC có thêm cơ hội để thôn tính miền Nam Việt Nam. Tôi chẳng ưa bọn này vì họ là những người đứng cửa giữa để hưởng lợi của cả hai phía.

    Tôi nghĩ rằng những điều mà tôi biết về Lực Lượng Thứ Ba là quá ít ỏi bởi vì lúc ấy tôi chỉ theo dõi họ dưới tư cách là ký giả cho tờ nhật báo “The Saigon Post”. Những gì tôi nhìn thấy về họ chỉ là diện bên ngoài! Bà Ngô Bá Thành là người đã tốt nghiệp Luật khoa ở Đại Học Sorbonne, Pháp; chồng bà ta là Ông Ngô Bá Thành, một bác sĩ thú y làm giáo sư cho trường Đại Học Nông Lâm Súc Sài Gòn. Luật sư Trần Ngọc Liễng thì đã từng làm bộ trưởng quốc phòng thời Đệ nhất Cộng Hòa. Đại tướng Dương Văn Minh, chủ tịch của Hội đồng tướng lãnh của Quân Lực Nam Việt Nam, người đã lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Tất cả bọn này đã từng giữ những chức vụ cao ở Nam Việt Nam trước đây. Họ chống đối với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hay do một lý do nào khác mà tôi không biết, đã liên kết với những tăng lữ Phật Giáo Ấn Quang để hình thành cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba”; một lực lượng mệnh danh là đứng giữa nhưng chỉ chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chứ không hề chống lại VC.

    Mọi điều tôi viết cho VC là điều mà họ đã biết rồi vì họ cũng có nhiều người trà trộn trong “Lực Lượng Thứ Ba”. Lực Lượng thứ Ba, những kẻ đã giúp VC thôn tính miền Nam Việt Nam gần đây; tôi không hiểu tại sao VC lại hỏi tôi về họ. Họ đã nghi ngờ điều gì đó chăng, hay VC muốn có bằng cớ để lật đám này xuống. VC thì luôn luôn làm như vậy với những ai không phải là Cộng Sản. Tôi nghĩ thật là ngu khi họ muốn chiếm một địa vị nào đó trong guồng máy của Cộng Sản mà không gia nhập Đảng Cộng Sản. Ngay cả dù cho họ có muốn gia nhập đảng Cộng Sản đi nữa thì họ cũng chỉ giữ được những chức vụ nhỏ thôi chứ làm sao mà leo lên được những chức vụ cao như lúc họ ở trong chính quyền miền Nam Việt Nam trước đây? VC chỉ xử dụng những người này tạm thời mà thôi để lấy lòng dân chúng; bây giờ đây có lẽ là lúc mà VC muốn loại trừ những người này ra khỏi tổ chức.

    Thêm hai đợt di chuyển nữa xảy ra vào thời gian này, nhưng Tuân và tôi vẫn còn ở lại trại Thủ Đức để điều tra. Hai tháng sau, chúng tôi chuyển đến khu D, bỏ trống khu B cho những trại viên được chuyển đến và chuyển đi.


    Chương 22. Khu D Trại Cải Tạo Thủ Đức


    Hai tháng sau đó, chúng tôi được dời qua khu D của trại. Đã có thêm hai lần di chuyển ra Bắc nữa xảy ra, nhưng không ai trong nhóm chúng tôi bị chuyển đi. Chúng tôi gồm khoảng một trăm trại viên hầu hết đến từ trại Long Thành. Họ chia chúng tôi thành hai đội: đội 1 gồm những người đã từng làm trong chính quyền Nam Việt Nam cũ và đội 2 gồm những người từng làm trong Lực lượng Cảnh Sát và Cơ quan Tình báo trung ương của Nam Việt Nam. Ngoài ra còn vài người là những người bị bắt trong khi VC đánh tư sản mại bản như dược sĩ La Thành Nghệ, và ông vua kẽm gai Hoàng Kim Quy.

    Khu D của trại Thủ Đức nằm ở cuối trại trong một khoảng đất rộng khoảng một mẫu được bao bọc bởi bốn bức tường. Một bên tường là khu C, một bên là khu B, và hai phía kia là khu đất trống ngăn cách trại với khu dân chúng chung quanh. Có hai vọng gác nằm ở hai góc tường nối khu D với các khu B và C. Hai cánh cửa rộng khoảng một thước, một mở ra khu đất trống bên ngoài trại còn một thì dẫn vào khu C và đi vào nhà bếp.

    Có hai dãy nhà song song nhau và song song với bức tường ngăn cách với khu B: dãy nhà giữa là dành cho các trại viên làm ở nhà bếp và ban thi đua, cái còn lại nằm gần bức tường là phòng giam của chúng tôi. Cả hai đều là nhà gạch với mái ngói và nền gạch bông. Cấu trúc trông rất mới, có lẽ chúng vừa được sửa lại để làm phòng giam.

    Hai đội chúng tôi được ở trong hai phòng thuộc căn nhà thứ 2 bao quanh bởi hàng rào kẽm gai với một cái sân chung tráng xi măng ở phía trước. Tôi ở trong phòng giam thứ hai. Đó là một căn phòng rộng khoảng tám thước dài khoảng mười lăm thước, có một gian ở đầu phòng dùng làm nhà vệ sinh. Khi chúng tôi dọn vào, căn phòng trông có vẻ rất mới. Nó trông giống như một nhà kho vừa mới tân trang lại để làm phòng giam. Sơn và nền còn rất mới. Không có gì trong phòng, do đó chúng tôi phải lót chiếu cói lên sàn nhà để làm chổ ở. Ba dãy chiếu được cách ra bởi một khoảng trống làm lối đi.

    Để giăng mùng, chúng tôi phải cột hai hàng dây kẽm vào hai đầu tường dọc theo lối đi. Đồ đạc của chúng tôi thì phải chất xuống chỗ nằm. Căn phòng trông giống như chổ tạm trú.

    Tôi trải tấm pon-sô phía dưới chiếc chiếu cói để ngăn độ ẩm của nền gạch như tôi vẫn thường làm, và đặt cái ba lô vào phía sát tường. Chỗ nằm của tôi sát bên ngưỡng cửa, do đó tôi có thể nhìn thấy được bên ngoài phòng giam dù có đóng cửa đi nửa. Cánh cửa phòng giam làm bằng loại cửa song sắt kéo.

    Cán bộ cử Uyển làm đội trưởng đội 2. Họ chia đội thành ba tổ và bảo Đôn, Tuân và tôi làm tổ trưởng. Điều khó khăn cho tôi là trong tổ của tôi đa số là những sếp củ của tôi. Nhưng ở trại Thủ Đức, chúng tôi chưa phải làm lao động nhiều; sự thành lập tổ đội chỉ có mục đích điều hành sinh hoạt hàng ngày mà thôi.

    Ban giám thị trại không đóng cửa phòng giam vào ban ngày và cho phép chúng tôi được đi bách bộ trong vòng rào ngăn cách khu nhà. Chúng tôi phải ngồi khoảng hai giờ mỗi ngày để nghe đọc những tờ nhật báo như “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân”, “Sài Gòn Giải Phóng”, và đôi khi tờ tập san “Tuổi Trẻ”. Những tin tức trong những nhật báo hoặc tập san này hầu hết là những tin về những thành công của VC trong các lãnh vực kinh tế và chính trị.

    Cửa phòng giam được đóng lại lúc sáu giờ chiều; chúng tôi phải họp tổ đội sau khi ăn cơm tối. Đội trưởng phổ biến những chỉ thị của cán bộ. Thời gian sau, họ cho chúng tôi một TV để trong phòng, và chúng tôi được xem TV thay vào những buổi họp.

    Cũng nhờ dịp này mà chúng tôi có dịp xem những ca sĩ mặc áo bà ba với quần đen, quấn khăn rằn quanh cổ. Hầu hết những bài ca này chúng tôi đã được học ở trại Long Thành, nhưng những ca sĩ lại hát ở một nhịp điệu nhanh hơn và với một giọng cao hơn, chúng tôi không thể bắt chước được điều này. Những tin tức trong TV thì cũng chỉ là những tin về sự thành công của VC trên các lãnh vực nông nghiệp, kinh tế, và chính trị. Không có điều nào về hiện tình trong nước và quốc tế ngoài những thành công của các nước xã hội chủ nghĩa và sự thất bại của các nước tư bản. Các phim để giải trí thì thường là những phim Liên Xô với những chủ đề nêu bật những ưu điểm của chủ nghĩa Cộng Sản và những mặt xấu của chủ nghĩa Tư Bản và Phong Kiến.

    Tình trạng ăn không ngồi rồi ở trại Thủ Đức khiến ngày càng trở nên dài hơn! Chúng tôi phải tìm những gì đó để làm như chơi cờ tướng, viết những thực đơn tưởng tượng, nấu nướng, hoặc tụ tập nhau uống trà và tán dóc. Tôi dùng hầu hết thời gian của mình để tập vẽ chân dung. Đôi khi tôi phải tình nguyện đi chẻ củi nhà bếp để có được thêm phần cơm cháy.

    Cuối năm 1976, cán bộ bảo chúng tôi phải canh tác khu đất khoảng một mẫu ở bên ngoài vòng rào trại. Chúng tôi trồng bí đỏ, cải xanh, và rau muống. Mảnh đất cũng quá nhỏ đối với một trăm trại viên nên chúng tôi cũng chỉ làm vào buổi sáng mà thôi.

    Tết năm 1977, chúng tôi được phép găp gia đình. Mẹ tôi cùng vợ con tôi lên thăm tôi trong hai mươi phút như quy định của trại. Trại chỉ cách nhà khoảng mười lăm cây số. Gia đình tôi bảo rằng họ thích như thế vì rất gần nhà, và họ mong sẽ gặp tôi thường xuyên hơn trong thời gian sắp tới. Vợ tôi vẫn còn ở nhà nuôi con và phụ mẹ tôi để làm việc nhà. Con tôi thì cũng vẫn không cho tôi bế nó. Còn mẹ tôi thì cũng vẫn im lặng như mọi khi. Bà đã vượt qua quá nhiều đau khổ để có thể thốt nên lời. Tết năm ấy, chúng tôi có nhiều thứ để ăn Tết, nhưng không ai có thể thưởng thức được vì ai cũng suy nghĩ về gia đình mình ở cách không xa nơi đó là bao. Càng gần nhà thì lại càng nhớ nhà nhiều hơn.

    Vào khoảng tháng ba năm 1977, nhiều đứa trẻ được đưa đến ở đầy trong khu B của trại. Chúng là những đứa trẻ khó dạy của các gia đình được đưa vào để “học tập cải tạo”, và những đứa trẻ bụi đời bị bắt trong những chiến dịch “làm sạch thành phố” của VC. VC gọi chúng là tàn dư của “Mỹ Ngụy”. Sau đó thì gạch được chở vào đầy trong trại. Chúng tôi lại phải di chuyển số gạch ấy chất thành đống dọc theo khu C và D. Họ đang chuẩn bị để xây dựng thêm, nhưng tôi không chứng kiến được vì sau đó không lâu tôi đã phải chuyển đi trại Tân Lập




    Phần 4

    Trại Cải Tạo Tân Lập, Vĩnh Phú



    Chương 23. Cuộc Hành Trình Đi Vào Địa Ngục


    Ngày thứ Bảy 16 tháng 4 năm 1977, chúng tôi không đi lao động như thường lệ! Tên cán bộ vào phòng giam rất sớm báo tất cả trại viên mang đồ đạc ra sân trước để khám xét định kỳ. Ở trại Thủ Đức này, thường chỉ có khám xét khi sắp có sự di chuyển, do đó chúng tôi luôn phải chuẩn bị tư thế để ra đi. Chúng tôi phải mang tất cả đồ vật cá nhân ra sân, đặt riêng rẽ từng cái một và chờ đợi cán bộ hoặc “Ban Thi Đua” đến khám. Theo quy định của trại, chúng tôi không được phép giữ mọi vật bén nhọn vì lý do an toàn, không được giữ lương khô, muối, hay tiêu ớt để đề phòng trốn trại. Nhưng họ có quyền tịch thâu bất kỳ cái gì mà họ muốn. Chúng tôi thường dấu những thứ “bất hợp pháp” ở những nơi kín đáo hoặc bỏ lại trong phòng để dùng lại sau này, và nếu chúng tôi có di chuyển thì để lại cho người khác vậy. Cán bộ và Ban Thi Đua cũng biết điều ấy nên họ khám rất chu đáo khắp nơi trong sân cũng như trong phòng giam. Tuy nhiên làm sao họ có thể tìm được hết mọi thứ mà chúng tôi đã cố tình dấu.

    Tôi vừa bị một cơn cảm lạnh mấy ngày qua, một thứ bệnh thương hàn thì đúng hơn; tóc tôi rụng khá nhiều! Một trại viên bác sĩ tên Tôn Thất Hưng đã chữa bệnh cho tôi bằng châm cứu, bằng xông hơi lá bạch đàn hái trong trại, và bằng vài viên Tylenol. Vài người cho tôi biết Tôn Thất Hưng là bác sĩ “dõm” vì anh ta không nói được giọng Huế dù có dòng họ Tôn Thất, một giòng họ hoàng gia ở Huế, và anh ta lại trông quá trẻ so với số tuổi năm mươi theo giấy tờ. Anh ta có cho tôi xem giấy của anh ta là Bác sĩ Tôn Thất Hưng, tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Lyon, Pháp, và Văn Bằng Châm cứu tại Tokyo, Nhật Bản. Tôi không biết anh ta là Bác sĩ thật hay giả, nhưng trong hoàn cảnh ấy, tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác hơn là giao tính mạng mình cho anh ta. Tôi còn gặp lại Tôn Thất Hưng năm năm sau này khi tôi trở lại trại Thủ Đức; khi đó anh ta không làm Bác Sĩ nữa mà chỉ là một trại viên như mọi người khác. Anh ta được thả vào năm 1985 sau mười năm cải tạo chỉ vì tội xử dụng giấy tờ giả mạo theo như lúc đọc lệnh tha.

    Sáng hôm ấy, tôi có cảm giác sẽ bị di chuyển vì tôi có nghe nói đã có một số trại viên ở nơi khác chuyển tới vào ngày hôm qua. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại có linh cảm này, nhưng kể từ khi bị giữ lại để điều tra sau khi bạn bè tôi bị đưa đi vào năm 1976, tôi luôn luôn chuẩn bị tư thế. Cái thông cáo về ba năm cải tạo vừa ban hành hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi; tôi trở thành nghi ngờ khi nghe thông báo của “Đảng và Nhà Nước” về chính sách đối với nhân viên của “Ngụy quân và ngụy quyền”. Họ bảo rằng chúng tôi phải đạt được “Tiến Bộ” trong thời hạn ba năm để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước! Tôi nghĩ rằng một lần nửa họ lại chơi chữ. Tôi không thể biết tôi sẽ ở trong trại bao lâu, và tôi có thể chịu đựng được bao lâu? Trong thâm tâm, tôi chỉ mong gia đình tôi quên được tôi, coi như tôi đã chết từ những ngày “giải phóng”. Một tháng, một năm, rồi thì ba năm, và rồi bao nhiêu năm nữa tôi phải ở trong trại? Tôi không muốn ở lại trại Thủ Đức vì nó quá gần nhà tôi. Tôi không thích tạo hy vọng cho gia đình tôi để rồi họ sẽ thất vọng khi nhận ra sự thật. Một sự di chuyển thật xa có lẽ là một giải pháp. Với ý nghĩ đó, tôi mang đồ đạc ra sân không một chút lo âu.

    Hôm nay Đàn, một trại viên trong ban thi đua chỉ được phép đứng quan sát trong khi bốn cán bộ khám xét rất kỹ mọi vật của trại viên sau khi họ đã khám xét trại viên từ đầu đến chân! Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi bị lục soát cẩn thận như vậy. Tôi đoán linh cảm của tôi chắc là đúng. Sau khi khám xét xong, một cán bộ khác cầm giấy đi đến gọi tên từng trại viên. Ai có tên thì ở lại ngoài sân còn ai không có thì có thể đi vào phòng giam. Trong danh sách, có tên của một trại viên đang bệnh nặng không thể ra sân trước đó, tên cán bộ gọi một trại viên khác điền vào cho đủ số. Tôi thấy vài người bạn tôi như Tuân, Hạnh, Lộc, Trung, Vinh, Tâm, có trong số ra đi, nhưng vài người khác có chức vụ cao trong Cơ quan như Cang (cựu Đặc Uỷ Trưởng), Lương (Giám đốc A10), và Trang (Giám đốc A8) lại trở vào buồng giam.

    Chúng tôi được đưa qua khu A của trại Thủ Đức, giam vào trong phòng giữa gần cửa khu. Từ đó, chúng tôi có thể nhìn thấy những trại viên mới chuyển đến, đa số họ tóc tai dài thòng, da rám nắng như những người từ rừng rậm mới ra. Hầu hết họ đều trẻ hơn chúng tôi. Tôi bỗng nghe một giọng ca lập đi lập lại một khúc ca buồn nảo nuột: “Buổi sáng mùa đông, người lính trẻ trong tù, hai tay ôm song sắt, trông ngóng về phương xa. Người lính khe khẻ nói, mình ơi hởi mình ơi, vì anh không dám giết, nên anh làm tù nhân, vì anh không dám giết, nên anh đành xa em.”

    Vinh, trước là nhân viên của tôi, la lên hỏi những người ấy từ đâu đến, và tôi nghe một giọng từ phòng bên vang lên: Tây Ninh! Tôi đoán có lẽ là họ đã ở những trại trong chiến khu D của Việt Cộng trước đây và giờ đây họ được đưa về để cùng chúng tôi di chuyển đến một nơi khác. Trại Thủ Đức chỉ là một trạm trung chuyển. Từ khi tôi bị giữ lại để điều tra, tôi luôn chuẩn bị tư thế để ra đi vì tôi không nghĩ rằng VC lại giữ chúng tôi ở một nơi quá gần Sài Gòn như vậy. Nhưng vấn đề là bao giờ thì đi, và đi đâu? Một hải đảo hay rừng Trường Sơn, hay Bắc Việt là những nơi mà tôi luôn nghĩ đến. Trong thâm tâm, tôi vẫn hy vọng đó sẽ là một nơi nào đó ở miền Nam , ít ra tôi vẫn còn ở trên “đất nước tôi”. Tôi chưa thể xem miền Bắc như là đất nước tôi được dù trong thật tế nó là một phần của Việt Nam . Những cái nón cối của người dân miền Bắc, những bộ đồng phục kaki màu vàng, xe đạp, dép râu, và những khuôn mặt đầy sát khí của người dân miền Bắc là những điều quá xa lạ đối với tôi! Trong chiến tranh, chúng tôi đối đầu với VC, nhưng chúng tôi không thù hận chúng; chúng tôi không giận dữ đối với chúng. Khi nói về những người lãnh đạo miền Bắc, chúng tôi vẫn dùng những từ ngữ nhã nhặn. Ngược lại, họ luôn căm thù chúng tôi dường như là họ chỉ muốn giết chúng tôi ngay nếu có thể. Họ đã được dạy căm thù từ khi đi học. Những hình ảnh của những đứa trẻ miền Bắc trong những bộ đồng phục với khăn quàng đỏ la hò những khẩu hiệu dử tợn luôn luôn ám ảnh trong đầu tôi. Con tôi sẽ như thế nào đây trong một thứ xã hội như thế? Ngay cả trong chiến tranh, tôi vẫn chỉ muốn một xã hội đàng hoàng, không phải một thứ xã hội sắt máu. Lời ca của bài hát do ai đó đang lập đi lập lại khiến tôi nghĩ đến xã hội tương lai (hay có thể là trong hiện tại). “Vì anh không dám giết, nên anh làm tù nhân!” Thật là một hoàn cảnh bi thảm.

    Bửa ăn trưa và chiều được Cang và Trang, những sếp cũ của chúng tôi mang đến. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi mà chỉ nhìn chúng tôi bằng một cái nhìn buồn bã. Trong trại, những trại viên được ở lại ít ra đã biết tình trạng sống của họ, còn những trại viên ra đi phải chấp nhận mọi điều xấu xảy ra cho họ ở nơi khác. Tôi nghĩ tôi phải chấp nhận mọi điều xảy đến cho tôi vì tôi đã đặt cuộc đời tôi trong tay kẻ thù. Điều tốt nhất là im lặng chịu đựng những bất hạnh xảy đến, ngay cả cái chết nếu cần thiết. Tôi nhớ đến lý thuyết của nhà Phật dạy rằng “sống gửi, thác về” để tự an ủi mình.

    Khoảng nửa đêm, trong khi đang ngủ thì một cán bộ vào phòng giam gọi chúng tôi dậy chuẩn bị lên đường. Tôi đã sẵn sàng cho việc ấy, nhưng không nghĩ là nó đến quá nhanh như vậy. Tôi vội vàng bỏ quần áo, chăn màng vào balô. Một ít thức ăn còn lại lúc thăm nuôi hôm Tết như một hộp đường, một hộp bột gạo lứt, một ít thịt chà bông, tôi cố nhét chúng vào hai cái túi nhỏ của balô. Cái pon-sô được cột chặt vào bên cạnh ba-lô, cái bi-đông nước uống phía bên kia, và chiếc chiếu cói đặt lên trên, xong tôi gài chặt nắp ba-lô lại. Mọi vật chuẩn bị giống như lính chuẩn bị hành quân. Tôi thử ba-lô lên vai xong bỏ lại xuống sàn ngồi đợi. Mọi người trong phòng giam đã xong xuôi. Đèn ngoài sân đột nhiên bật sáng. Cán bộ đi lại và nói chuyện ồn ào. Tôi nghe tiếng xe phía bên ngoài tường rào ngăn cách trại giam với cổng chánh.

    Khoảng hơn một giờ sau, một cán bộ cùng hai người vũ trang đi vào phòng giam kêu tên từng trại viên. Chúng tôi sắp hàng đi theo hai tên cán bộ vũ trang qua cánh cửa nhỏ đi ra ngoài sân trước. Vài chiếc “Molotova” đã đậu sẳn đó và chúng tôi được đưa lên sàn che kín của một chiếc xe sau khi đã bị còng hai người chung vào một bằng một loại còng thô sơ do những lò rèn ở địa phương làm ra. Loại còng này không có dây xích nên tay chúng tôi không thể cử động được dễ dàng. Đó cũng là lần đầu tiên tôi bị còng, tuy nhiên tôi chẳng nghĩ gì cả và cũng chẳng thấy xấu hổ nửa. Tôi chấp nhận điều này như một chuyện dĩ nhiên trong trại, và rồi có lẽ tôi còn sẽ phải chấp nhận bao nhiêu điều xấu hơn nửa. Hai tên cán bộ vũ trang ngồi ở hai bên sau của xe và mỗi xe chứa khoảng bốn mươi trại viên. Chúng tôi phải chờ cho đến khi đủ 410 trại viên lên xe. Xe rời khỏi trại Thủ Đức vào khoảng bốn giờ sáng ngày 17 tháng 4 năm 1977, tôi đã ở trại này đúng bảy tháng 12 ngày.

    Mười chiếc Molotova cùng một chiếc xe nhỏ dẫn đường rời cổng trại vào sáng sớm, nhưng cũng đã có một vài xe đạp trên đường phố. Tôi thấy ai đó trong xe ném vật gì xuống đường, và sau này tôi mới biết họ đã gửi thư về nhà báo tin di chuyển. Tôi không biết thư có tới nhà không, nhưng tôi nghĩ đó quả là một hành động gan liều vì rất dễ bị trừng phạt nếu bị phát hiện.

    Lần này, đoàn xe không che dấu lộ trình mà đi thẳng ra Tân Cảng trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hoà cách trại Thủ Đức khoảng mười lăm cây số.

    Chúng tôi được tháo còng và leo lên chiếc tàu Sông Hương. Vài người cho biết đó là tàu Việt Nam Thương Tín, tàu đã từng đưa một số người di tản từ đảo Guam trở về Việt Nam trước đây. Bốn trăm mười người chúng tôi được đưa vào một hầm tàu đầy bụi than. Hầm tàu rộng khoảng 200 thước vuông cao khoảng bốn thước chỉ có một lỗ trống vuông mỗi cạnh khoảng sáu thước ở phía trên. Cạnh vách hầm ở phía giữa có một nhà xí làm bằng nan gỗ bọc chiếu cói. Bàn cầu là một cái bàn có khoét lỗ tròn trên mặt bàn và một cái sô đặt phía dưới. Chúng tôi phải trải chiếu trên sàn hầm bằng sắt để chiếm chổ riêng, tuy nhiên vì hầm tàu quá nhỏ so với số 410 người nên mỗi người chỉ vừa một chỗ để ngồi dựa trên đồ đạt. Tôi được lên tàu sớm nên giành được một chỗ khá cao ở góc hầm nơi để những bao than. Điều này giúp tôi rất nhiều vì sau một ngày lênh đênh trên biển, phân và nước tiểu từ nhà cầu lan ra lênh láng trên sàn. Trên bốn trăm người mà chỉ có một cái sô nhỏ không thể nào đủ để đựng những thứ tiêu hoá.

    Thức ăn và nước uống được thòng xuống từ trên sàn tàu bằng một sợi dây qua cái lỗ. Họ cho chúng tôi ăn mì gói. Tôi đột nhiên nhớ đến những con gấu trong sở thú Sài Gòn mà trước đây thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem. Chúng tôi trông giống những con thú bị nhốt trong hầm và được những người nuôi thú cho ăn từ trên cao. Điều tệ hại hơn là có quá đông lũ chúng tôi trong một cái hầm nhỏ và dơ dáy; trong khi đó chỉ có vài con thú được nhốt trong một cái hầm được dọn dẹp sạch sẽ hơn. Tôi không thể ăn được gì trong những ngày này vì quá mệt và hôi hám! Mỗi khi quá đói, tôi cố nhấm nháp một ít mì gói khô và nhấp một ngụm nước để tránh việc đi tiêu tiểu tiện càng nhiều càng tốt. Tôi không muốn bước trên sàn tàu đầy những thứ bẩn thỉu!

    Tàu rời cảng khi trời bắt đầu sáng. Tôi nghĩ chắc khoảng tám giờ. Tuân, bạn tôi và tôi cá nhau đoán nơi mà chúng tôi sẽ đến. Tôi đoán một nơi nào đó ở miền Bắc, còn Tuân thì bảo đảo Côn Nôn, nơi đã từng giam những trọng tội và tù chính trị của chính quyền Nam Việt Nam trước đây. Tôi không hiểu tại sao tôi lại đoán chúng tôi sẽ đi ra miền Bắc. Có lẽ tôi đã nghe nói đến những đợt đi ra Bắc trước đây. Tôi không biết chắc các bạn tôi đã bị đưa đi đâu, nhưng tôi biết họ đã bị di chuyển đến một nơi nào đó ở miền Bắc Việt Nam.

    Từ khi Tuân và tôi bị giữ lại để điều tra, đã có thêm ba chuyến di chuyển ra Bắc nữa, vậy thì lần này tôi nghĩ chắc cũng không khác. Chúng tôi đợi tàu ra đến biển để nhìn hướng mặt trời. Vài người khác cũng nhập bọn với chúng tôi để suy đoán. Chúng tôi chưa thể biết tàu đã ra đến biển chưa, nhưng đến sau bửa ăn trưa đầu tiên khi mặt trời nghiêng về hướng tây, chúng tôi đoán có lẽ tàu đã ra biển và dựa vào hướng của mây bay cùng với hướng của bóng mặt trời chúng tôi biết tàu đang tiến theo hướng Bắc. Mọi người đều thất vọng. Chúng tôi trong thâm tâm đều hy vọng ít ra chúng tôi vẫn ở miền Nam cho dù ở bất cứ trại nào!

    Bốn trăm mười trại viên trong đó có khoảng 50 người từ khu D trại Thủ Đức, những người từng làm trong chính quyền Nam Việt Nam, trong Lực lượng Cảnh Sát, Tình Báo, và khoảng năm mươi từ khu C, những người trong những tổ chức chống Cộng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 như “Lực Lượng Phục Quốc” của Đạo Công Giáo, những Giáo Phái Cao Đài, Hoà Hảo. Số còn lại đến từ Tây Ninh gồm những sĩ quan Cảnh Sát từ Trung Sĩ đến Trung Uý. Họ hầu hết trẻ hơn chúng tôi. Chúng tôi đang tiến về Bắc Việt, một vùng đất hoàn toàn xa lạ với chúng tôi dù rằng thật ra đó là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi đã từng nghe nhiều điều về miền Bắc, về sự đói nghèo của phần đất ấy, về cái gọi là “sắt máu” của Cộng Sản Bắc Việt. Lần này có lẽ chúng tôi có cơ hội để nhìn sự thật.

    Xế chiều, tàu tròng trành như đang gặp bão. Vài người bị say sóng ói mữa khắp khoang hầm trộn lẫn với phân và nước tiểu tạo thành một mùi hôi thối khó chịu. Vài người dùng nước để rửa, nhưng càng làm cho khoang hầm dơ bẩn hơn lên. Những chổ gần cầu xí bị vây bẩn nên một số người phải dời sang những chổ cao hơn làm khoang hầm trở nên chật chội hơn. Không ai có thể ngủ được trong tình trạng đó.

    Tôi ngồi bó gối nghĩ đến gia đình, vợ con tôi. Họ sẽ như thế nào khi biết tôi đang di chuyển đến một nơi vô định? Lần sau cùng gặp con tôi, nó không cho tôi bế! Tôi muốn mở ba-lô để lấy hình ra xem, nhưng không được vì quá chật chội, tôi đã phải nhường chổ cho bạn bè. Thêm vào đó, tôi không muốn làm việc ấy trước mặt mọi người. Ai cũng nghĩ đến gia đình trong hoàn cảnh ấy nhưng cũng phải che dấu đi bằng mọi cách.

    Đột nhiên, một giọng hát từ đâu đó cất lên với bản nhạc “Ngày Anh Xa Vắng”. Mọi người im lặng lắng nghe. “Đợi chàng một hai năm, hay là cả đời xuân xanh, ngày nao đầu pha tuyết sương, vẫn mong tái ngộ một lần.” Bài ca được viết cho người vợ có chồng đi chinh chiến, nhưng trong hoàn cảnh ấy, lời ca lại thích hợp hơn lúc nào hết. Người đang ca là Hồ, trong nhóm trại viên từ Tây Ninh. Hồ không phải là ca sĩ; giọng anh lại không trau chuốt, nhưng rất buồn. Anh có diện mạo của một người đàn bà với dáng ẻo lả. Sau này chúng tôi thường gọi anh là “chị Hồ”, tuy nhiên trong cuộc sống chung, anh có nhiều nghị lực hơn mọi người tưởng.

    Khi giọng ca của Hồ chấm dứt, nhiều người tham gia thay phiên nhau hát những bài “nhạc vàng” đã lâu bị cấm đoán trong trại. Vài người dùng muỗng gõ nhịp. Đám đông bắt đầu tụ tập quanh Hồ. Gần hai năm từ cái ngày “giải phóng”, tôi hứng khởi lắng nghe những bản nhạc quen thuộc của ngày xưa. Mọi người dường như quên đi hoàn cảnh bi thảm đang diễn ra! Không ai ca hay; cũng không có nhạc cụ nào đệm theo, nhưng những bản nhạc xưa dường như thấm sâu vào tâm tư mọi người. Gần gũi với “nhạc cách mạng” hầu như hàng ngày từ lúc vào trại, chúng tôi khát khao được nghe những dòng nhạc êm ái của “nhạc vàng” để xoa dịu tâm tư và cũng để gợi lại những kỷ niệm của ngày xưa. Không ai dám ca nhạc vàng trong trại vì chẳng ai muốn bị kỷ luật. Nhưng giờ đây trong hoàn cảnh bi thảm này, tôi nghĩ chẳng ai còn lo sợ đến “chánh sách” nữa.

    Đám đông tiếp tục đến khoảng nửa khuya, nhưng rồi lơi dần. Bổng nhiên có một nhóm trại viên đánh nhau và la lối ở bên khu dành cho khu C trại Thủ Đức. Mọi người nhìn cảnh ấy, nhưng không ai muốn can thiệp vào. Một nhóm trẻ trong nhóm “Thanh niên Phục Quốc” đang đánh một trại viên mà chúng cho rằng đã làm “ăn-ten” ở khu C. Những người bị cho là “ăn-ten” là những trại viên đã báo cáo lên cán bộ những việc xảy ra trong trại viên. Có đôi khi một người bị nghi ngờ làm “ăn-ten” chỉ vì người ấy làm đội trưởng và không đủ khôn khéo để làm vừa lòng mọi người, nhưng cũng có khi vì người ấy muốn tiến bộ để sớm về với gia đình. Sống trong trại không đơn giản như ngoài xã hội vì phải đối phó với nhiều hạng người mà không thể tránh va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, còn phải tránh sao khỏi là mục tiêu đối với cán bộ nữa. Tôi đã chọn một thái độ “nín thở qua sông” từ lúc vào trại đầu tiên là trại Long Thành, nhưng đôi khi tôi không tin tôi có thể làm vừa lòng mọi người. Ca dao Việt Nam nói rằng: “Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê.” Sống trong trại cải tạo, tôi luôn cảnh giác với việc đổ cho trại viên khác là “ăn-ten”. Vài người vì ghét nhau thường hay nói xấu nhau, ai biết được? Tôi nghĩ rằng cách tốt nhất là im lặng quan sát một cách kỹ càng để tự bảo vệ lấy bản thân mình.

    Một lúc sau, ba trại viên từ khu C là Long, Tri và Dũng đi về phía của khu D tìm Uyển và Đôn định “thanh toán”. Chúng cho rằng Uyển và Đôn là “ăn-ten” ở khu D trại Thủ Đức. Tôi không chắc điều này, tuy nhiên tôi nghĩ Uyển và Đôn đều là những người có học, Uyển tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa còn Đôn là Kiến Trúc Sư, tôi nghĩ họ không thể dể dàng làm “chó săn” cho Cộng Sản. Nhưng ai mà biết được? Tuân và tôi khuyên những người ấy đừng làm những điều thiếu suy nghĩ như vậy vì chúng tôi chưa biết chắc gì về Uyển và Đôn. Ngoài ra, điều gì sẽ xảy ra sau này vì chúng ta vẫn còn đang ở trong trại?

    Sự lộn xộn này đã làm đứt đoạn những bản “nhạc vàng”; mọi người về chỗ riêng ngồi im lặng dựa vào những đống đồ đạt mà nhìn lên trời. Không ai có thể ngủ được trong hoàn cảnh ấy. Tôi nhắm mắt cố tập trung tư tưởng. Không lâu sau khi vào trại, tôi thử tập một vài điều mà tôi biết được về Yoga. Hàng đêm trước khi đi ngủ, tôi thường ngồi xếp bằng một lúc, hai tay đặt trên đùi, mắt nhắm lại, và tập trung tư tưởng cố không nghĩ đến gì cả. Tôi thường tập như vậy để tách mình ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn. Đôi lúc trong lúc mơ màng, tôi cảm thấy mình nhẹ như lông, dường như có thể bay khỏi mặt đất; đôi lúc, tôi bị chìm vào giấc ngủ say mơ thấy mình đang ở trên một cánh đồng đầy hoa cỏ, mỗi bước đi như những cánh chim bay bổng, hoặc mơ giấc mơ của một cậu bé học trò đang cấp sách đến trường mà mỗi bước đi trên đường như có cánh dưới chân. Thức dậy, tôi thử phân tách những giấc mơ ấy, nhưng không thể được! Tôi nghĩ rằng đó chỉ là những ước mơ của tự do khi tôi đang bị giam hãm trong tù.

    Sáng sớm hôm sau, một trận mưa nhỏ làm cho tình trạng hầm tàu trở nên bi thảm hơn. Trại viên dùng mọi vật có được để che thân và đồ đạt. Nước mưa trộn với phân và nước tiểu tạo thành những vũng nhầy nhụa trên sàn hầm rất khó tránh khi muốn di chuyển. Hầm tàu càng lúc càng bẩn thỉu! Trại viên phải ngồi co lại tại chỗ tránh di chuyển trừ trường hợp cần thiết. Thức ăn cùng với nước trong thùng được thòng xuống từ những cái giỏ tre, trại viên cử người nhận rồi chia cho nhau. Dù rằng chúng tôi quá đói và mệt, không ai có thể ăn hay ngủ được giữa mùi hôi thối ấy! Tôi không biết điều gì ghê gớm hơn đang chờ đợi ở trại miền Bắc, nhưng tôi vẫn mong tốt hơn là hãy ra khỏi nơi này để tránh được tình trạng quá tệ hại.

    Khoảng sau khi phát phần ăn trưa, tàu ngừng lại. Vài trại viên trước là Hải Quân Việt Nam đoán rằng tàu cập bến nào đó ở miền Trung, có thể là Cam Ranh hay Đà Nẳng, bởi vì quá sớm để đến Bắc Việt. Tôi không biết có đúng vậy không, nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn mong chúng tôi sẽ được đưa đến một trại ở miền Trung để ít ra chúng tôi còn được ở trên phần đất nước của chúng tôi. Bắc Việt quá xa lạ với chúng tôi dù rằng thực tế thì đó cũng là phần lảnh thổ của Việt Nam. Trong niềm mong mỏi đó, chúng tôi đặt mọi thứ vào lại trong túi ba-lô chuẩn bị rời tàu. Ít ra thì chúng tôi không còn ở trong căn hầm bẩn thỉu này!

    Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi, và đợi chờ cho đến trời tối. Trời vẫn còn mưa, nhưng cũng đã nhỏ dần. Chúng tôi không nhận được mì gói cho bữa ăn chiều như thường lệ mà chỉ được dưa hấu. Không có gì để cắt ra, chúng tôi đành phải đập dưa vào sàn tàu. Võ dưa ném vào những vũng lầy nhầy làm cho sàn hầm thêm kinh khủng. Nhưng không ai còn để ý nữa vì ai cũng nghĩ sẽ rời nơi này.

    Khi trời đã tối hẳn, mái che hầm tàu mở rộng. Một chiếc thang được thòng xuống cho mọi người lần lượt leo lên boong. Vài hòn đảo nhỏ hiện ra mờ mờ từ đàng xa, đôi ba chiếc thuyền với những cánh buồm cuộn nhiều múi đặc trưng của miền Bắc khiến chúng tôi biết rằng chúng tôi đã đến cảng Hải Phòng. Không còn Nam Việt Nam, không còn miền Trung nữa, chúng tôi đã đến miền Bắc Việt Nam, đến trung tâm của Cộng Sản Việt Nam! Mọi người đều thất vọng.

    Phía bên kia đầu tàu cũng có trại viên leo lên boong. Chúng tôi không biết còn có thêm một hầm tàu khác nữa. Chúng tôi đứng vào hai hàng, một cán bộ còng hai người đứng cạnh nhau trước khi chúng tôi lên bờ. Tay phải tôi còng chung vào tay trái của Nghiệp, bạn tôi, chúng tôi bước lên hai tấm ván bắt từ tàu lên bờ. Với cái còng không dây còng hai tay của hai người, một khi tay người này di chuyển, tay người kia cũng phải di chuyển cùng chiều để tránh bị tréo tay, do đó Nghiệp và tôi di chuyển rất khó khăn trên cầu. Tôi được nghe kể rằng trong lúc lên bờ, có hai người từ nhóm bên hầm kia bị rơi xuống biển mất tích mà không ai cứu. Vài người nghĩ rằng họ tự tử, nhưng tôi thì cho rằng một người trong họ bị trượt và kéo theo người kia; họ không thể gượng lại được vì cái còng và đồ đạt nặng nề trên vai.

    Một hàng xe đò đang chờ sẵn trên bến. Nghiệp và tôi lên ngồi vào giữa chiếc xe đầu vì chúng tôi lên sớm. Lúc ấy vào khoảng 6 giờ chiều nhưng trời tối vì đang mưa lâm râm. Tháng tư ở miền Bắc trời vẫn lạnh vì mưa phùn gió bấc, đó là những gì mà tôi thường đọc trong sách nói về miền Bắc. Chỗ ngồi chúng tôi ở phía tài xế nên tôi ngồi phía cửa sổ xe có thể nhìn quang cảnh bên ngoài. Bến cảng nơi chúng tôi lên hoàn toàn hoang vắng. Cầu tàu đổ nát vì đã bị nhiều trận bom. Ánh sáng từ những chiếc thuyền buồm trên vịnh Hạ Long lấp loáng từ xa. Bóng của những hòn đảo nhỏ trông như những con quái vật khổng lồ vươn lên từ biển cả. Đó là một thắng cảnh của Việt Nam, nhưng làm sao chúng tôi có thể thưởng thức được trong hoàn cảnh thế này!

    Một cán bộ phát mỗi người chúng tôi một ổ bánh mì cho chuyến đi trong khi chúng tôi chờ trên xe. Đoàn xe bắt đầu chuyển bánh vào khoảng nửa đêm. Tôi cho rằng Việt Cộng quen với việc hoạt động về đêm. Đó là lần thứ tư tôi bị di chuyển từ lúc vào trại. Lần đầu tiên từ trường Chu Văn An đến Long Thành, lần thứ hai từ Long Thành qua Thủ Đức, lần thứ ba từ Thủ Đức đi Tân Cảng, và đây là lần thứ tư: lần nào cũng bắt đầu vào nữa đêm, đó có lẽ là thói quen của chúng!

    Thành phố Hải Phòng ở gần đó. Đoàn xe chạy qua nơi nào đó trong thành phố nổi tiếng này, thành phố lớn thứ nhì ở miền Bắc. Tôi nhìn thấy những căn nhà lá chen lẫn với nhà gạch. Vài ngôi nhà nửa gạch nửa lá; con đường đi rải rác những hố bom: dấu vết sự tàn phá của chiến tranh. Thành phố tối om vì thiếu ánh sáng; vẫn còn những cột đèn dầu của thời Pháp thuộc. Tôi thấy một quán café có ánh đèn néon. Tên cán bộ theo xe nhắc chúng tôi đóng cửa sổ xe để tránh dân chúng giận dữ ném đá vào chúng tôi, những kẻ thù của họ trong chiến tranh! Nhưng, tôi chẳng thấy dân chúng trên đường phố ngoài vài đứa trẻ con ngó một cách lơ đểnh vào đoàn xe. Vài chiếc xe đạp chở đầy phía sau đang chạy trên đường phố. Thành phố rất im lìm trong đêm vắng.

    Đoàn xe ra khỏi thành phố sau vài phút; tôi đoán đó chắc chỉ là phần ven thành phố. Trời có trăng. Tôi cố nhìn ra đường để xem sinh hoạt của nhân dân miền Bắc, nhưng chẳng thấy gì. Cảm thấy mõi mệt và đói bụng sau hai ngày trên tàu, tôi ăn một ít bánh mì, uống một ngụm nước rồi chìm vào giấc ngủ.

    Tôi giật mình thức dậy vào sáng sớm khi đoàn xe chạy trong một khu rừng. Có một vài người đẩy xe đạp thồ chất đầy củi bên lề đương. Đó là lần đầu tôi nhìn thấy cái gọi là “xe đạp thồ” của miền Bắc. Loại xe này chỉ có khung xe và hai bánh xe. Người ta dùng thanh gỗ dài cột vào ghi-đông để dễ lái; và họ cột những đồ nặng vào khung xe. Người ta không thể ngồi trên yên xe vì thật ra không có yên xe nào cả, họ phải đi bộ bên hông xe để lái bằng tay trái và giữ thăng bằng chiếc xe bằng tay mặt. Loại vận chuyển này đã nổi tiếng trong trận đánh Điện Biên Phủ để chuyển súng đạn cho chiến dịch. Những người đàn bà đi hai bên đường gánh hay đội những gánh củi to. Cái nghèo của miền Bắc hiện ra rất rõ nét ở những sinh hoạt này.

    Vào sáng sớm, đoàn xe rẽ mặt vào một con đường mòn gồ ghề xuyên qua khu rừng bồ đề. Đến một cái suối, xe đầu tiên ngừng lại chờ đợi cả đoàn xe, rồi cả đoàn lần lượt chạy thẳng xuống suối! Dòng suối chảy xiết; chúng tôi lo sợ vì đang bị nhốt trong xe với chiếc còng trên tay. Tài xế dường như quen thuộc lối đi nên lái chầm chậm qua suối một cách dể dàng. Qua thêm ba suối như vậy nữa thì tới một con sông lớn. Tên cán bộ cho biết đó là nhánh của sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Tôi tự hỏi làm thế nào để qua được con sông lớn như thế này mà không có cái cầu nào cả. Đó không phải là con suối, và tôi nghĩ nó cũng không cạn như con suối! Tôi nhìn thấy một con đường dốc đi thẳng xuống bờ sông. Đoàn xe ngưng lại khoảng một giờ thì có một chiếc phà nhỏ từ bờ bên kia sông qua. Đấy là một chiếc ca-nô nhỏ kéo một chiếc mãng tre nhỏ. Nó chỉ có khả năng chở một chiếc xe mỗi lần! Xe tôi là chiếc xe đầu của đoàn xe nên được lên phà trước. Sông chảy siết vì mùa nước. Phà chạy ngược dòng kéo chiếc xe qua bờ bên kia, và rồi có vài người cột dây cáp vô phà quay ròng rọc kéo phà vào bờ sông. Chiếc phà qua lại bờ kia để kéo một xe khác. Mọi việc diễn ra như trong chuyện đời xưa! Phải mất năm tiếng đồng hồ mới xong đoàn xe.

    Tay phải tôi bị sưng lên. Còng quá chật mặc dù cổ tay tôi nhỏ. Tôi cố xoa bóp nó bằng tay trái. Ngồi bên cạnh tôi Nghiệp không nói gì, dường như đang ngủ dù tôi biết rằng anh ta vẫn thức. Tôi hỏi tên cán bộ để đi tiểu rồi cùng Nghiệp đi ra một bụi cây bên đường. Tôi cảm thấy nhẹ hơn sau khi ấy. Dân chúng nhìn chúng tôi tò mò. Vài đứa trẻ con mặc quần đùi và áo vá đùm la lên: “Nguỵ, Nguỵ”, nhưng không thấy ai ném đá như chúng tôi đã được báo trước. Tôi muốn hỏi chúng vài câu nhưng không dám. Vài trại viên ném cho chúng ít bánh mì; chúng chụp lấy rồi ăn ngon lành. Vài đứa trẻ còn chạy đến gần xe để nhận dưa hấu. Các cán bộ phải xua chúng ra xa khỏi đoàn xe. Đoàn xe bắt đầu chạy lại khi bắt đầu chiều.

    Rừng nối tiếp rừng, núi tiếp nối với núi, đoàn xe phải vượt qua nhiều con suối. Tôi ngồi gật gù mệt mỏi ở băng ghế và thức tỉnh khi trời bình minh. Đoàn xe lắc lư trên con đường đầy hố bom. Những đồi chè hiện ra hai bên đường trông giống như đường đi Đà Lạt ở Cao Nguyên miền Trung. Đây đó có những đoàn người mang gùi trên lưng đi hái chè, họ thoáng ẩn hiện giữa những hàng cây chè thẳng tắp. Vài người dân chạy xe đạp trên đường với chiếc cuốc cột trên sườn xe. Họ đang đi làm cho những nông trại tập thể! Chúng tôi đã được nghe nói về việc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt từ năm 1955, không còn ai còn được làm chủ ruộng đất nữa; mọi cái đều là của chung. Trong mười bài học tập khi mới vào trại, chúng tôi đã được dạy rằng đất đai và công cụ sản suất là của mọi người dân trong xã hội. Việt Cộng bảo rằng đó là việc làm chủ tập thể. Nhân dân làm chủ tất cả, “nhưng không có gì cả!” Mức hưởng của mỗi người tuỳ công lao động mà người đó đóng góp. Chúng tôi thì đùa rằng “ai làm ít lảnh ít, làm nhiều lảnh nhiều, và ai không làm thì hưởng hết!”

    Chúng tôi đang đi vào một thành phố nhỏ vào sáng sớm. Tôi nhìn thấy hàng chử “Uỷ Ban Nhân Dân Thị xã Phú Thọ” trên nền đỏ treo trước căn nhà gạch có cột cờ treo lá cờ đỏ ngôi sao vàng, cờ của Bắc Việt. Phú Thọ là một phần của tỉnh Vĩnh Phú (gồm 2 tỉnh cũ: Vĩnh Yên và Phú Thọ) ở miền Trung Du Bắc Bộ. Thị trấn quá nhỏ với vài căn nhà gạch số còn lại hầu hết là nhà lá. Những cánh đồng khoai mì và đồi chè xác nhận rõ ràng đặc sản của vùng. Cây soan nằm thành hàng giữa những cánh đồng và dọc theo đường. Dân địa phương dùng cây soan để cất nhà lá vì chúng có nhựa đắng có thể tránh được mối mọt. Vào mùa đó, cây soan đang ra bông màu tím nhạt. Những ngọn đồi trồng cây cọ để lấy lá lợp nhà. Dân miền Nam dùng lá dừa nước còn dân miền bắc thì dùng lá cọ để lợp nhà. Hầu hết nhà cửa trong vùng thường có vách đất với một cái ao nhỏ phía trước nhà. Sau này tôi mới biết rằng dân chúng đào ao để lấy đất đấp nền nhà và trét vách còn ao thì để nuôi cá.

    Qua khỏi Phú Thọ, đoàn xe rẽ mặt trên một con đường gồ ghề để vào một khu rừng. Những dãy núi thoáng hiện đàng xa. Vài người dân miền núi nhìn chúng tôi một cách tò mò khi đoàn xe đi qua. Họ là những người thuộc các sắc tộc Thái, H”Mông, Tày, tôi không biết rõ, lưng họ đều mang gùi và tay cầm rìu. Đồi núi bao bọc lấy thung lũng. Những cánh đồng lúa bậc thang trên lưng đồi trông từ xa giống như những con rắn đang bò ra khỏi hang. Nhà sàn với mái cong và cao là một đặc trưng của miền núi. Những đứa trẻ con bụng ỏng dơ dáy chơi đùa bên cạnh những con heo thả rong. Những con chó nằm lơ đểnh ở hiên nhà. Mọi vật tò mò nhìn chúng tôi khi đoàn xe đi qua. Ở nơi xa xôi này, xe hơi là cái gì rất bất thường đối với mọi người.

    Khoảng trưa, đoàn xe đi qua một con suối rộng và chảy mạnh tên là “A-Mai” ở một cái bến nhỏ tên là “Bến Ngọc” rồi chạy trên một con đường đất sét rộng khoảng sáu thước. Hai bên đường có nhiều nhà lá hơn trước. Một khu nhà gạch vây quanh bởi một hàng rào tre và kẽm gai dầy có tấm bảng mang tên “Trường Phổ Thông Công Nông Nghiệp Số 1” nằm bên phải con đường. Trẻ con khoảng từ 10 đến 15 tuổi mặc quần đùi áo xanh bạc màu đang làm trên những cánh đồng quanh trường dưới sự trông chừng của những công an mặc quân phục. Tôi tự hỏi chúng là tù hay là học sinh của trường? Đoàn xe cuối cùng ngừng lại trước cửa của trại: chúng tôi đang đến trại cải tạo Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú sau một ngày rưỡi đi xe từ cảng Hải Phòng. Lúc đó khoảng giữa trưa ngày 20 tháng 4 năm 1977.


    Chương 24. Một Cái Nhìn Tổng Quát Về Trại Tân Lập

    Hai hàng “cán bộ” đang chờ đợi chúng tôi trước cổng trại khi chúng tôi đến nơi; họ hầu hết đều được vũ trang! Những bộ đồng phục vàng với những quân hàm mà chúng tôi chưa từng thấy trước đây ở các trại miền Nam. Chúng tôi được tháo còng và đưa vào trong trại. Một cái băng biểu ngử giăng ngang cổng trại đề: “Chào mừng các anh đến với nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa”.

    Trại cải tạo Tân Lập nằm giữa một thung lũng bao quanh bởi rừng núi. Từ trại chúng tôi không thể nhìn thấy được đâu là chân trời. Con đường duy nhất dẫn đến trại là một con đường đất sét rộng khoảng bảy thước chạy từ Bến Ngọc, một cái bến mang tên của một ông cả trong vùng, người đã lập ra nó. Ai muốn đi đến trại từ Hà Nội thì phải đi xe lửa từ ga Ấm Thượng, rồi dùng một phương tiện duy nhất đến Bến Ngọc là chiếc đò dọc, một chiếc ghe nhỏ chèo bằng tay dọc theo nhánh của con sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Từ Bến Ngọc đến trại thì chỉ có cách đi xe đạp hoặc đi bộ.

    Có tất cả bảy phân trại thuộc trại cải tạo Tân Lập đặt tên là K, từ K1 đến K7. Phân trại mà chúng tôi được đưa đến là K5, cũng là bản doanh trung ương của bộ chỉ huy toàn trại. K1, K2 và K3 là ba phân trại lớn khác, các K khác nhỏ hơn. Từ Bến Ngọc vào thì K đầu tiên là K5; và K cuối cùng là K1 cách K5 khoảng mười lăm cây số về phía bắc. K3 cách K5 bởi một cái suối tên là A-Mai, đó là nguồn cung cấp nước cho toàn trại và cho nhân dân sống trong vùng. K2 nằm khoảng giửa K5 và K1, và K4 cách K5 khoảng mười cây số về phía tây. K6 và K7 là 2 trạm trung chuyển để nhận tiếp liệu cho toàn trại.

    Con đường đất sét từ Bến Ngọc đến K5 xa khoảng mười lăm cây số đi qua một dốc cao tên là dốc Trinh. Cái dốc này khá cao và rất trơn trợt vào những ngày mưa. Con đường từ ngả rẽ vào trại K5 phải đi qua một cánh đồng có tên là cánh đồng Mua vì có nhiều cây Mua mọc ở đó. Mua là một loại cây họ với cây sim có hoa màu tím nhạt và trái màu xanh đen. Một chuồng bò nằm ở đầu khúc quanh ấy để làm cột mốc giữa đất của trại và những khu đồi và rừng cây gần đó. Khoảng cách từ khúc rẽ này đến trại khoảng tám trăm thước.

    Kiến trúc của K5 trại cải tạo Tân Lập được chia ra làm hai phần: khu cơ quan và khu trại.

    Khu cơ quan K5 cũng là bản doanh của trại. Nó gồm ba dãy nhà gạch để làm văn phòng nằm theo hình chữ U và bốn dãy nhà lá phía sau hai nhánh để làm nơi ở cho các cán bộ độc thân. Căn nhà gạch chính nằm ở đáy hình chử U của tổng thể là căn nhà khang trang nhất nằm trên nền cao. Đó là văn phòng của toàn trại và của trưởng K5. Hai căn nhà gạch kia là văn phòng của Ban giám thị và Hội Đồng cán bộ phụ trách K5. Bốn dãy nhà lá khác được xây dựng trong một khu riêng biệt dành cho các cán bộ có gia đình. Một nhà giữ trẻ dành cho con của các cán bộ nằm gần khu gia đình. Rải rác chung quanh khu trại là những nhà lá gọi là “nhà lô” được dùng làm địa điểm lao động cho trại viên và cũng là điểm canh gác trại vào ban đêm.

    Khu trại giam là khu đất hình vuông mỗi cạnh khoảng năm trăm thước bao quanh bởi tường gạch cao khoảng ba thước với kẽm gai khoảng một thước rưỡi bên trên. Trừ mặt trước ra, hai bên tường rào là hào sâu đầy nước. Cổng chính là một cái nhà gạch hai tầng với hai trạm gác ở hai bên của cánh cổng rộng khoảng sáu thước. Tầng trên cổng gác là văn phòng của “cán bộ trực trại”. Có tất cả bốn khu trong trại giam tên là khu A, B, khu bệnh xá, và khu bếp cùng hội trường.

    Đi vào trong trại, qua khỏi cánh cổng là một sân rộng khoảng một mẫu dùng làm khu quan sát và để làm khu tập họp trại viên đi lao động. Khu A ở phía góc phải gồm bốn dãy nhà gạch mái lợp lá cọ và bao quanh bởi một dãy phòng dùng làm phòng của “Ban thi đua”, phòng của “cán bộ quản giáo” và làm cái gọi là “phòng ăn” cho trại viên. Các nhà trong khu A được ngăn cách nhau bởi những bức tường gạch cao khoảng hai thước có gắn miểng chai bên trên. Mỗi bức tường có một cánh cửa nhỏ. Khu B ở phía cạnh trái của trại gồm hai dãy nhà không có rào quanh. Mỗi đầu nhà phía trái là một cái hồ xi măng hình chữ nhật cạnh mười và mười lăm thước sâu khoảng một thước rưỡi chứa nước để uống và để tắm rửa, nước này được bơm vào từ một máy bơm đặt ở gần suối. Mỗi nhà chia ra hai phòng giam mỗi phòng là sáu gian rộng năm thước, có hai gian làm kho chứa đồ ở hai đầu nhà và hai gian ở giữa làm nhà vệ sinh.

    Phòng giam là căn phòng dài khoảng ba mươi thước rộng năm thước. Một cánh cửa gỗ ở cuối phòng có thể khóa bên ngoài bằng một thanh gỗ luồn qua những khoen sắt. Mười bốn khung cửa sổ có song sắt không có cánh cửa gồm sáu cái ở mỗi phía và hai cái ở một đầu, chúng được mở rộng quanh năm ngay cả trong mùa đông với mục đích dể kiểm soát bên trong.

    Hai dãy sạp hai tầng được làm bằng khung sắt chử L lót ván để làm chổ ngủ cho trại viên. Ai ngủ phía trên thì phải leo lên bậc được làm bằng những thanh sắt ngắn hàn dính vào khung thẳng đứng. Kệ để đồ đạc cho trại viên được làm dọc theo tường phía trên cửa sổ ở tầng trên, còn trại viên nằm phía dưới thì để đồ đạc trong cái kệ ở trong nhà vệ sinh. Tầng dưới của sạp cao khỏi mặt nền khoảng sáu tấc, tầng trên khoảng hai thước, do đó người nằm tầng dưới không thể đứng thẳng người được trên sạp.

    Lối đi rộng khoảng hai mét ở giửa hai dãy sạp dẫn vào nhà vệ sinh. Trần nhà làm bằng nan tre đan có đóng dây kẽm gai dấu bên trên. Chỉ có một bóng đèn nhỏ treo giữa phòng chiếu ánh sáng mờ về đêm, nhưng nó lại được thay bằng một ngọn đèn dầu sau khi điện cúp vào khoảng chín giờ tối. Ngọn đèn dầu này làm bằng một cái chai cắt ngang miệng với cái tim cắm thẳng vào dầu hôi.

    Cái gọi là “nhà vệ sinh” cho trại viên trong phòng giam là một căn phòng rộng khoảng ba thước dài sáu thước với phía sau là nhà cầu và phía trước là kho chứa đồ. “Nhà cầu” là một lổ xí cao khoảng nửa thước với hai cái bàn ngồi hình bàn chân làm bằng xi măng ở hai bên một cái lổ nhỏ, phía dưới được đặt một cái thùng bằng gỗ. Phân tươi sẽ được lấy đi vào sáng hôm sau từ cái cửa nhỏ phía ngoài phòng giam và sẽ được làm phân bón được gọi là “phân bắc”! Đó là một loại nhà cầu phổ biến ở miền Bắc được gọi là “cầu ba ngăn”. Chổ chứa đồ đạc trại viên nằm bên dưới sạp nằm được đặt phía trước của nhà vệ sinh. Đó là một phòng nhỏ có ba cái kệ bốn ngăn đặt dọc theo tường. Cửa phòng vệ sinh không thể khép sát được, do đó căn phòng giam luôn luôn có mùi hôi thối.

    Khu vực bệnh xá là một dãy nhà gạch dài khoảng ba mươi thước rộng sáu thước nằm trong một khu đất rào quanh bởi kẽm gai. Bên phải của cổng bệnh xá từ ngoài đi vào là một vườn trồng thuốc nam. Phía bên phải của bệnh xá là một cái ao nhỏ nuôi cá rô phi và một khu đất trồng rau muống, một loại rau thông dụng của người Việt, để “bồi dưởng” cho bệnh nhân. Phía mặt, gần khu A của trại là một hàng dậu cao bằng cây dâu tằm, một loại thuốc “an thần”. Không có bác sĩ hay y tá nào làm trong bệnh xá ngoài vài trại viên được ban giám thị tin tưởng cùng một cán bộ phụ trách, tất cả những người này đều không có một chút kiến thức gì về phòng bệnh và trị bệnh. Hầu hết thuốc men trong bệnh xá là những loại bột lá hay rể cây được vò viên nhỏ gọi là “thuốc dân tộc”.

    Hội trường là kiến trúc lớn nhất trong trại rộng khoảng tám thước dài năm mươi thước trên một nền đất viền bằng gạch nằm thẳng đường nhìn ra cổng chánh của trại. Mái hội trường lợp bằng lá cọ và vách thì trét bằng đất trộn với rơm. Những khung cửa sổ làm bằng tre và một khung cổng chính ở đầu hội trường nằm song song với cổng chính của trại. Một cái bục có màn đỏ che ở một đầu hội trường chứng tỏ rằng hội trường này có mục đích để trình diễn văn nghệ, nhưng hội trường thì lại trống rỗng!

    Khu vực nhà bếp nằm cạnh bên hội trường phía bên góc trái của trại gồm có hai dãy lều nằm thành hình chử L: Một dãy dùng làm nhà nấu nướng và một dãy ở cuối khu song song với hội trường làm nhà kho và nơi phát cơm cho trại viên. Khu nhà bếp được rào quanh bởi một vòng rào kẽm gai với một cánh cổng rộng phía trái để các người làm trong bếp ra vào và một cổng nhỏ phía phải dành cho trại viên đi vào lấy cơm hay nước uống. Nhà nấu bếp là một căn lều không có vách với sáu cái lò có những cái chảo to phía trên: ba cái để nấu thức ăn hay nước uống và ba cái để nấu cơm (hay đúng hơn là nấu khoai mì, bắp, hoặc bo bo). Một cái giếng duy nhất trong trại nằm gần nhà nấu được nhìn thấy rõ từ xa vì có một cái cần kéo nước dài làm đòn bẩy bằng tre cột một miếng sắt to ở một đầu còn đầu kia thì cột một sợi dây treo cái thùng để lấy nước. Vào mùa nắng, giếng rất sâu nhưng nước trong còn về mùa mưa thì nước lên tới miệng giếng nhưng rất đục. Nhưng chúng tôi cũng phải uống nước ấy mà thôi! Có một căn nhà lá nhỏ khác nằm trong khu bếp để nhốt trâu kéo xe cho nhà bếp, xe trâu là phương tiện di chuyển duy nhất của nhà bếp. Xe bò miền Nam khác với xe trâu của miền Bắc ở chổ xe bò miền Nam thì có bánh xe làm bằng gỗ niềng sắt còn xe trâu miền Bắc thì có bánh xe làm bằng vỏ xe hơi. Ngoài ra ở miền Bắc dùng trâu kéo xe chứ không dùng bò như miền Nam, do đó chúng tôi gọi nó là xe trâu.

    Sau khi được tháo còng, chúng tôi xếp hàng đôi để đi vào trại. Họ không xét đồ đạc chúng tôi nữa, và chúng tôi được đưa thẳng vào khu A. Tôi thuộc đội đầu tiên, do đó vào phòng giam số 1 trong nhà đầu tiên ở khu này. Khi tôi vào đến thì đã nghe tiếng của Tuân gọi tới chỗ dành sẵn gần chỗ hắn nằm ở tầng trên trong góc phòng. Ở mỗi chỗ nằm có để sẵn một chiếc chiếu cói, một cái mùng vải, hai bộ đồng phục tù, và một cái nón cối bằng lá. Tuân, Hạnh, Lộc và tôi nằm gần nhau ở tầng sạp trên dành cho bốn trại viên, do đó chúng tôi dễ nói chuyện với nhau hơn vì không sợ bị người khác nghe thấy và báo cáo.

    Việc đầu tiên tôi làm là đi tắm và giặt áo quần ở cái hồ ở phía đầu nhà. Tôi dùng cái gào bằng cao su cột bởi một sợi dây để kéo nước trong hồ lên. Sau khi tắm giặt xong, tôi cảm thấy hơi thoải mái hơn một chút bèn mặc thử bộ đồ tù vào. Chúng tôi nhìn nhau trông thật kỳ khôi! Cái kỳ cục nhất mà chúng tôi chưa từng thấy trong đời là cái nón cối bằng lá cọ. Chúng tôi bật cười với nhau khi nhìn nhau trong độ đồng phục tù này! Chúng tôi trông giống những người lao động trong những tấm hình chụp những công nhân ở Trung Cộng mà chúng tôi đã từng thấy trước đây. Màu xanh của bộ đồng phục gợi cho tôi nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu, một thi sĩ của miền Bắc: “Rồi một hôm nào cởi áo xanh, hết cùm, hết xích, hết roi canh”. Cái áo xanh mà Tố Hữu nói đến là chiếc áo tù của thời Pháp thuộc, và nó đã được nhà nước Bắc Việt bắt chước lại. Nhưng điều khác nhau là chúng tôi không phải là “tù nhân” mà là “trại viên” của trại cải tạo! Tù nhân thì có án, còn chúng tôi thì không. Chúng tôi phải thực hiện cho được tiến bộ để được trở về với xã hội! Quả thật là một điều khôi hài khi bị giam mà không có án phạt.

    Khoảng hai giờ chiều, vài phạm nhân hình sự mang phần ăn vào nhà ăn, và rồi cán bộ vào báo chúng tôi đi ăn cơm! Đó là một bửa ăn thịnh soạn nhất mà chúng tôi nhận được kể từ ngày vào trại: một nồi cơm, một tô lớn thịt trâu, một tô canh, và một tô thịt heo cho sáu trại viên. Có cái gì đó lẫn trong cơm mà chúng tôi chưa nhận ra được. Vài người nghĩ là một loại đậu, nhưng sau này chúng tôi biết được đó là bo bo, một loại thức ăn gia súc của người Ấn Độ. Thịt trâu là loại thịt rất dai mà chúng tôi ăn lần đầu. Ở miền Nam, dân chúng ít khi nào ăn thịt trâu, nhưng đối với dân miền Bắc thì thịt trâu là loại thịt thông dụng. Chúng tôi không thể nào ăn hết phần ăn này nên chúng tôi quyết định mang phần còn lại vào để dùng tiếp. Lúc đó còn quá sớm cho bữa ăn chiều nhưng lại quá trễ đối với bửa ăn trưa, do đó vài người vẫn chờ đợi bửa ăn chiều như thường lệ với mong mõi là sẽ có thêm bữa ăn thịnh soạn như vậy nữa. Vài người còn không mang phần ăn thừa vào và lại nói rằng họ sẽ được ăn như thế hàng ngày. Quả thật là một sự lạc quan tếu! Nhưng rồi không có bửa ăn chiều nào nửa hết. Chúng tôi bị nhốt vào phòng giam vào khoảng 6 giờ chiều, và tôi thì ngủ ngay sau khi đó vì quá mệt.

    Ngày hôm sau, chúng tôi phải lên hội trường để nghe ông giám thị trưởng, “đồng chí Thùy” nói chuyện. Ông ta là một người hơi ốm và xanh, cao khoảng một thước sáu mươi hai. Cái áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần vàng trông giống kiểu của một cán bộ cao cấp của VC. Bài nói chuyện của hắn ta rất trôi chảy như những diễn giả khác vì tất cả đều học cùng một bài! Thùy là sếp của toàn trại. Với cái nhìn đầu tiên, hắn trông rất dễ gây cảm tình, nhưng qua cách nói không hở răng, cười không hở môi, chúng tôi biết hắn ta là một người rất hiểm độc. Với giọng nói Nghệ tỉnh, quê hương của Hồ, rất khó nghe, hắn ta dùng rất nhiều thơ của Hồ Chí Minh để thêm vào bài nói chuyện. Nhưng tựu trung thì bài nói chuyện của Thùy là nói đến sự quan tâm của “Đảng và Nhà Nước” đối với việc cải tạo của những người có tội với nhân dân. Chúng tôi được đưa đến đây là để được gần với trung ương, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc cải tạo. Chúng tôi sẽ có điều kiện để lao động và học tập! Và rồi để kết luận, hắn lại bảo rằng ai tiến bộ trước sẽ được về trước. Chúng tôi đã nghe nói đi nói lại điều này ở mọi trại cải tạo rồi, chẳng có gì mới mẻ cả!


    Chương 25. Cuộc Tuyệt Thực

    Hai ngày đầu tiên ở trại Tân Lập là hai ngày nghỉ ngơi! Chúng tôi tụ tập nhau để hát nhạc vàng, ăn trưa và tối, tắm giặt và đi rong trong khu A. Chúng tôi không thể ra khỏi khu được vì họ đóng cửa, nhưng chúng tôi có thể đi qua các nhà trong khu để gặp nhau. Cơm nước thì được những phạm nhân hình sự làm trong nhà bếp mang đến nơi. Có vài phạm nhân hình sự làm trong Ban Thi Đua, nhưng họ chỉ đứng ngoài quan sát chúng tôi mà thôi.

    Ngày chúa nhật 24 tháng 7 năm 1977, những sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi diễn tiến như thường lệ sau khi cửa phòng giam được hai cán bộ đến mở ra, một cán bộ vũ trang và cán bộ trực trại. Trong lúc tôi cùng Tuân, Hạnh và Lộc đang ngồi uống trà tại chổ nằm thì nghe tiếng ồn ào ở ngoài sân. Một nhóm trại viên la hò cổ võ cho việc đánh nhau. Vài thanh niên trong nhóm “Phục Quốc” đánh Thượng, một trại viên thuộc nhóm “tình báo”. Chúng bảo rằng Thượng có thái độ rất là hèn hạ khi nói chuyện với cán bộ trực trại mà lại khoanh tay lại. Kết quả của trận đánh ấy là tay của Thượng bị gãy! Tôi thì không thấy thái độ của Thượng sáng nay ra thế nào, và cũng không biết Thượng có phải là ăn ten hay không dù anh ấy đã ở cùng trại với tôi ngay từ lúc đầu. Thượng không phải là bạn thân của tôi, và anh ta chỉ là một trại viên bình thường như nhiều trại viên khác chọn thái độ “nín thở qua sông” để sống trong trại. Nếu quả thật anh ta có khoanh tay khi nói chuyện với cán bộ trực trại thì tôi nghĩ đó cũng chỉ là một thói quen khi thời tiết miền bắc đang lạnh mà thôi. Những thanh niên “Phục Quốc” là những người yêu nước, tôi không phủ nhận điều này, nhưng họ còn quá trẻ để hiểu biết mọi việc. Sự chống đối VC lại đổ lên đầu của Thượng, đó là một điều rất bất công.

    Các cán bộ và ban thi đua vào mang Thượng đi bệnh xá và đóng cửa ở các bức tường ngăn cách các nhà với nhau trong khu A. Trại viên bắt đầu tập họp trong các phòng giam, và tôi nghe giọng đồng ca bản nhạc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” vang lên từ nhà số 2, đó là bài ca tâm lý chiến thường được hát trong những dịp tranh đấu. Vài trại viên từ phòng 2 sang yêu cầu Uyển và Bình tham gia vào. Trong phòng 1 nơi tôi đang ở có khoảng một trăm trại viên chia làm hai đội: đội một và đội hai. Uyển, trại viên từ khu D của trại Thủ Đức làm đội trưởng đội 1 và Bình từ khu C của trại Thủ Đức là đội trưởng đội 2. Ngoại trừ những trại viên đang tắm giặt ở hồ nước, các trại viên còn lại trong phong đều tụ họp nhau và bắt đầu ca nhạc vàng và nhạc tranh đấu.

    Khoảng mười giờ, bốn cán bộ vũ trang đi cùng cán bộ trực trại vào khu A để dẫn vài trại viên lên hội trường. Đó là những người đã đánh Thượng vào sáng nay như Tri, Long, Bình, Dũng, và vài người khác mà tôi không nhớ tên. Sau một lúc thì họ thả Long và Dũng về, số còn lại thì đưa đi K1 để biệt giam. Vài người sau này đã chết ở đó, số còn sống thì cũng rất tang thương.

    Bửa ăn trưa được các phạm nhân hình sự mang đến phòng ăn như thường lệ, nhưng tôi nghe ai đó ra lệnh không được ăn. Tôi không biết ai đã ra lệnh này, và chẳng trại viên nào dám đi vào phòng ăn vì ai cũng sợ bị đánh như Thượng sáng này! Có lẽ đó là lần đầu tiên mà VC chứng kiến cảnh ấy trong trại. Những cán bộ vũ trang đi chung quanh khu A nhưng không vào trong. Cán bộ trực trại thì vào hỏi Uyển về tình hình đang diễn biến. Vài người lên tiếng yêu cầu thả những người bạn của họ trước khi họ ăn cơm. Cuộc tuyệt thực bắt đầu!

    Bài ca “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” được lập đi lập lại nhiều lần và bắt nhịp bởi những tiếng vỗ tay tạo nên một nhịp điệu kích động. “Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người…Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!” Cái không khí quen thuộc này tôi đã từng nhìn thấy trong những buổi xuống đường của sinh viên được giật dây bởi VC trước kia nay lại đang diễn ra trong một trại cải tạo của VC. Quả là gậy ông đập lưng ông! Ngay cả những bài như “Dậy Mà Đi” hoặc “Tự Nguyện” của VC cũng đã trở thành một vũ khí tranh đấu chống lại chúng. “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà không khốn một lần”, hoặc “Nếu là người, tôi xin chết cho quê hương”. Những lời ca này lại trở thành đúng lúc hơn lúc nào hết.

    Tuân, Hạnh, Lộc và tôi ngồi tại chỗ của chúng tôi để uống trà tham gia cuộc tuyệt thực! Bữa ăn chiều không được mang vào và phần ăn trưa thì vẫn nằm nguyên trong nhà ăn. Vào khoảng 6 giờ chiều, cán bộ trực trại và cán bộ vũ trang vào điểm buồng giam như thường lệ. Chúng tôi không đứng ngoài sân để điểm mà ngồi tại chỗ để đếm số thứ tự. Nhạc vàng và nhạc tranh đấu lại được cất lên cho đến nửa đêm mặc dù đèn điện đã tắt sớm hơn mọi ngày. Chúng tôi thay phiên nhau hát. Tôi không thuộc nhiều nhạc, do đó tôi đã ca một bản nhạc tiền chiến tên là “Ghen”. Đó chỉ là bản tình ca. Khoảng nửa đêm, chúng tôi chui vào mùng ngủ vì muỗi quá nhiều. Tôi chìm vào giấc ngủ mệt mỏi với cái dạ dày trống rỗng.

    Cuộc tuyệt thực bắt đầu một cách ồn ào và rồi chấm dứt trong lặng lẽ.

    Cộng Sản đã cô lập chúng tôi mà không cần cấm đoán những gì mà chúng tôi muốn làm trong vòng rào khu A. Không có một hậu thuẫn nào để làm chổ dựa, không có một tổ chức nào để hướng dẩn, cuộc tranh đấu trông giống như một ngọn lửa nhỏ, bạo phát bạo tàn! Họ chẳng cần đàn áp cuộc chống đối; nó tự tàn lụi lấy. Tôi đã biết trước như vậy và đang chờ đợi những hành động trả đũa của VC tiếp theo sau.

    Sáng hôm sau, cán bộ đến để điểm buồng, trại viên ra khỏi phòng giam, nhưng có thêm vài cán bộ vũ trang đi kèm với cán bộ trực trại. Không ai nhắc nhở gì đến cuộc tuyệt thực hôm trước có tiếp tục hay không. Một ngày không ăn và một đêm thức khuya đã khiến mọi người đều đói và mệt. Khi bữa ăn trưa được mang vào nhà ăn, mọi người đều đặt đồ đựng chung quanh và trại viên trực chia phần cho mỗi người như thường lệ. Cuộc tuyệt thực đã chấm dứt một cách dễ dàng giống như khi nó bắt đầu! Vài người cũng còn tụ tập để hát nhạc vàng, nhưng không còn quy tụ được đông như trước đó. Sau một đêm, tôi nghĩ chắc ai cũng nhận ra được tình trạng nguy hiểm của mình ở trong trại khi không có được một sự hậu thuẫn nào. VC chưa làm gì cả, nhưng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra sau này đây. Tôi nghĩ chắc là họ không dễ dàng bỏ qua đâu. Có lẽ họ đã học được bài học diễn ra khi đưa những trại viên đánh Thượng đi, và họ đợi sự kiện lắng dịu lại.

    Những trại viên nổi tiếng trong cuộc tuyệt thực đều bị trừng phạt về sau bằng cách này hay cách khác. Một số đã chết trong những phân trại khác và một số lại trở thành ăn- ten còn tồi tệ hơn những người khác !


    Chương 26. Lao Động Là Vinh Quang

    Những ngày nhàn rỗi tiếp sau cuộc tuyệt thực trôi qua trong lặng lẽ. Tôi đi vòng quanh khu A để xem những bảng viết trên tường. Có 4 loại bảng được kẻ khắp nơi; đó là: bốn tiêu chuẩn cải tạo, ba mươi sáu điều nội quy của trại, hai mươi điều lệnh về nếp sống văn hóa mới, và mười chín điều về kỷ luật lao động.

    Cái gọi là “Bốn Tiêu Chuẩn Cải Tạo” gồm bốn điều quy định mà mọi trại viên phải thực hiện để được coi là có tiến bộ. Điều quan trọng nhất là nhận tội và khai báo tội lỗi của người khác mà mình biết dù họ đã bị bắt vào trong trại hay vẫn còn ở ngoài xã hội. Tôi không thể nhớ từng chữ của bản văn, nhưng tựu chung nội dung như sau:

    1. Thành thật thú hết tội lỗi còn dấu diếm hay chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của đồng bọn và bọn phản cách mạng mà mình biết được dù chúng đã bị bắt vào trong trại hay còn ở ngoài xã hội.

    2. Tích cực học tập cải tạo; có trách nhiệm giúp đở các trại viên khác trong việc cải tạo.

    3. Chấp hành nội quy của trại. Không được có lời nói phản tuyên truyền hoặc hành động phá hoại.

    4. Tự nguyện tự giác lao động, tích cực học tập cải tạo. Đề xuất được những sáng kiến tốt trong việc quản lý và giáo dục phạm nhân, đẩy mạnh sản xuất của trại.

    Nội quy của trại gồm 36 điều chia làm 4 phần: phần tổng quát, kỷ luật về học tập, về nếp sống, và về lao động.

    Mười chín điều về “kỷ luật lao động” và hai mươi điều về cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” được phát triển một cách chi tiết từ bản nội quy.

    Cái quan trọng nhất là bốn tiêu chuẩn cải tạo và nó được kẻ khắp mọi nơi trong trại. Các cán bộ cũng thường bảo rằng việc trở về xã hội của trại viên là tùy theo mức độ mà người ấy thực hiện được qua 4 tiêu chuẩn này. Điều đó đã khiến nhiều trại viên bị lẩn lộn giữa sự tiến bộ và sự tự trọng bởi vì nếu muốn làm theo những tiêu chuẩn ấy thì người trại viên phải làm những điều đi ngược lại quyền lợi của người khác. Quả là một chiến thuật nguy hiễm của VC để chia rẽ trại viên với nhau để điều hành trại! Trong hoàn cảnh ấy thì ai mà không muốn được ra khỏi trại? Trại viên không còn tin tưởng nhau, và điều này giúp Cộng Sản điều hành trại được dễ dàng hơn.

    Vài ngày sau khi xảy ra vụ tuyệt thực, tình hình trong trại càng lúc càng lắng dịu hơn. Vào ngày thứ hai một tuần sau đó, một cán bộ vào phòng giam của chúng tôi gọi Uyển và Bình, hai đội trưởng trong phòng, cho mười trại viên đi với hắn để lấy “xe cải tiến” cho việc lao động vào hôm sau! Xe cải tiến là cái gì? Chúng tôi hỏi nhau.

    Tôi theo nhóm để lấy xe cải tiến. Tên cán bộ giải thích rằng “xe cải tiến” là phương tiện để giải phóng đôi vai vì chúng ta dùng nó thay vì gánh nặng bằng vai. Thật là một cách giải thích kỳ khôi! Nhưng chúng tôi cũng không hiểu được cái từ “cải tiến” là thế nào. Cái gì đã cải tiến trong chiếc xe? Một cái máy gắn vào hay cái gì khác?

    Chúng tôi, mười trại viên mặc bộ đồng phục tù với cái nón cối bằng lá cọ trông rất kỳ khôi đi theo tên cán bộ. Qua cổng trại, tên cán bộ bảo chúng tôi phải bỏ mũ nón ra; chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Không nói lời nào, nhưng trong thâm tâm chúng tôi cảm thấy tôi nghiệp cho cái thân của kẽ chiến bại.

    Trời cuối tháng tư, thời tiết miền Bắc vẫn còn se lạnh. Chúng tôi đi trên con đường đất sét nhầy nhụa dọc theo bức tường gạch phía trước trại. Những hình vẽ một cách vụng về trên tường diễn tả các hoạt động của trại viên. Những bông hoa soan màu tím nhạt rụng đầy trên mặt đất, và những chồi non đang trồi ra khỏi cành cây trơ trụi. Dân chúng gọi đó là cây “sầu đông” vì đó là loại cây duy nhất ở miền Bắc bị rụng hết lá về mùa Đông.

    Cái gọi là “xe cải tiến” là chiếc xe kéo có một cái thùng bằng gỗ dài khoảng một thước rưỡi rộng một thước và cao khoảng năm tấc với hai bánh xe bằng sắt bọc cao su gắn phía dưới. Hai càng xe bằng gỗ được gắn vào cái thùng ấy để kéo đi. Chúng tôi kéo năm cái xe trên con đường đất sét bên cạnh hàng rào trại nằm gần bên suối A-Mai đi từ bộ chỉ huy trại đến lò gạch.

    Suối A-Mai lúc ấy đang cạn nước. Bờ suối chạy dài ra xa. A-Mai là con suối nhỏ chảy vào một nhánh của sông Hồng, do đó dòng suối cũng lên xuống theo sự lên xuống của dòng sông Hồng. Trong mùa mưa, nước sông Hồng lên rất cao, và đôi khi làm vỡ đê gây ngập lụt cho đồng bằng Bắc Việt. Tên cán bộ cho biết nước suối A-Mai từng lên tới tận con đường và chảy rất mạnh trong những ngày mưa lớn.

    Phân trại K3 hiện ra ở phía xa xa bên kia bờ suối. Phương tiện duy nhất để đi từ K5 qua K3 là chiếc mảng tre do một phạm nhân lái. Một sợi dây cáp bằng thép nối liền hai cột xi măng ở hai bên bờ suối, và chiếc mảng được nối với sợi cáp bằng một cái ròng rọc. Người lái mảng chống sào để đưa chiếc mảng đi từ bờ này qua bờ kia. Có một con đường mòn từ con đường đất sét xuống tới bến mảng. Bên mặt của con đường đất sét, tôi nhìn thấy một vài cái nhà lá mà cán bộ cho biết đó là “nhà lô” cho những trại viên làm mộc. Cánh đồng phía sau trại hoàn toàn hoang vu với cỏ cao và bụi rậm.

    Cách trại khoảng hơn một cây số, lò gạch vươn lên cao từ xa với tường bằng đất và mái lợp tôn rỉ. Khu đất quanh lò gạch bị đào bới trông giống như một thành phố cổ đang bị đào bới để tìm di tích. Một cái sân phẳng nằm bên cạnh dùng làm nơi đóng gạch.

    Chúng tôi kéo xe vào trong một cái chòi bên cạnh lò gạch, nơi ở của cán bộ. Hắn ta nói với Uyển rằng ngày mai sẽ vào để dẩn đội đi lao động ngày đầu tiên và rồi hắn đưa chúng tôi về trại.

    Đến gần suối chổ quẹo vào trại gần máy bơm nước, tên cán bộ bảo rằng để “bồi dưỡng” cho việc làm của chúng tôi, hắn cho phép chúng tôi được tắm giặt trong mười lăm phút. Chúng tôi chạy thẳng xuống suối, cởi quần áo và tắm giặt một cách vội vả. Lúc ấy đã gần trưa, nhưng cũng còn hơi lạnh. Chúng tôi phải mặc áo quần ướt đi về trại.

    Không chỉ có chúng tôi, những người đi lãnh xe, mà tất cả mọi trại viên trong trại đều thắc mắc về chữ “cải tiến”. Khi nghe chúng tôi mô tả hình dạng của chiếc xe cải tiến, tất cả đều bật cười. Kể từ lúc ấy, hai từ “cải tiến” hay “cải thiện” đều trở thành một sự diễu cợt: xe cải tiến, thức ăn cải thiện, quần áo cải tiến, vân vân. Chúng tôi dùng từ “cải thiện linh tinh” để chỉ những người gặp cái gì thu nhặt cái đó, và nó đã trở nên một từ rất thông dụng trong trại cải tạo.

    Trại viên sẵn sàng để đi lao động vào những ngày tiếp theo. Chúng tôi đã được cho biết rằng chúng tôi được “Đảng và Nhà Nước” đưa ra đây là để có điều kiện thuận tiện cho việc lao động cải tạo. Bằng cách này hay cách khác, chúng tôi phải làm việc và làm việc cực nhọc.

    Một thành ngữ tốt để thay cho “lao động cưởng bức”: “Lao động là vinh quang!” Cái thành ngữ này đã trở nên quá quen thuộc đối với mọi người trong nước kể từ ngày Cộng Sản vào. Không chỉ chúng tôi trong trại mới biết mà mọi người dân đều biết rằng “lao động là vinh quang”. Những người Cộng Sản bảo rằng thông qua quá trình lao động, nhân loại đã được phát triển từ vượn người để biến thành con người, và cũng thông qua lao động dân chúng sẽ cung cấp tài sản cho xã hội. Sự phát triển của xã hội tùy thuộc vào sự lao động của nhân dân, do đó mọi người trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa phải lao động cho chính mình và cho xã hội.

    Trong cải tạo, lao động là thước đo sự tiến bộ của mỗi trại viên, họ bảo rằng đó là việc cải tạo thông qua lao động. Tôi nghĩ mọi thứ giải thích đều nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải làm việc! Nhưng trong tình trạng ấy thì chúng tôi làm gì khác được ngoài việc phải làm những điều mà VC bảo chúng tôi làm? Chống lại lệnh chúng là chết sớm mà thôi. Cách duy nhất là phải chấp nhận hoàn cảnh để tìm cách sinh tồn. Mỗi khi tránh được việc lao động, chúng tôi thường đùa với nhau rằng “lao động là vinh quang, nhưng ở không là huy hoàng!”

    Tiếng kẽng đánh thức chúng tôi dậy như thường lệ. Sau khi điểm số trại viên, cán bộ trực trại bảo chúng tôi cho người đi nhà bếp lảnh phần ăn sáng rồi chuẩn bị đi lao động. Đó là lần đầu chúng tôi lảnh phần ăn sáng ở trại Tân Lập, một muỗng canh (gọi là cái muôi) bo bo luộc rất khó nhai vì cái vỏ cứng của hạt bo bo. Ngoại trừ vài người thật sự bệnh và được bệnh xá cho phép nghỉ hay những người trực vệ sinh buồng, mọi người đều phải xếp hàng đi ra sân tập họp phía sau cổng trại. Đã có một hàng cọc với những bảng nhỏ đề tên đội cắm sẳn ở đó. Trại viên ngồi xổm thành hai hàng theo từng đội. Có cả hai đội của phạm nhân hình sự ngồi phía bên phải của bãi tập họp. Họ trông bẩn thỉu và ốm yếu với quần áo bạc màu và tả tơi. Nhìn họ rồi nghĩ lại mình, tôi bỗng rùng mình! Bộ đồ tù này có thể chịu đựng được bao lâu, và riêng tôi thì có thể chịu đựng được bao lâu trong hoàn cảnh này?

    Một cán bộ mặc sắc phục với quân hàm thượng úy -ba sao với một gạch- tự giới thiệu là trại phó đặc trách K5 tên là Bảng sẽ có vài lời nhân buổi lao động đầu tiên của chúng tôi. Chẳng có gì mới! Chúng tôi, những tội phạm của Nhà Nước và Nhân dân phải cải tạo tội lỗi của chúng tôi. Đảng và Nhà Nước đưa chúng tôi đến trại này là để có điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo. Để được trở về với gia đình và xã hội, chúng tôi phải đạt được cái gọi là “tiến bộ”. Có ba điểm chính trong việc cải tạo để đạt được sự tiến bộ, đó là học tập, lao động và chấp hành nội quy của trại. Trong ba điều ấy thì lao động là điều quan trọng nhất. Chúng tôi phải cố gắng tối đa trong lao động vì lao động là thước đo mức độ tiến bộ của mỗi người! Giống như các cán bộ khác, Bảng lập lại những gì mà hắn đã được nhồi nhét vào đầu.

    Bảng khoảng trung tuần bốn mươi, giọng nói Nam Định với chử “l” và “n” lẫn lộn với nhau chứng tỏ nguồn gốc bần nông của hắn, một giai cấp chính của VC. Tôi đã nghe nói rằng để được gia nhập Công An của Cộng Sản thì người nào cũng phải có ít nhất là ba đời thuộc giai cấp bần nông. Cộng Sản bảo rằng người trong giai cấp ấy không có gì phải mất ngoài cái quần đùi rách, khi chiến thắng thì họ sẽ được tất cả. Quả là một lý do vững chắc để gia nhập “Cách mạng”! Tiểu tư sản trí thức và tư sản là những giai cấp không trung thành với Đảng, chỉ có bần nông và công nhân là giai cấp trung thành nhất.

    Nhiều cán bộ đi vào trại sau khi Bảng chấm dứt bài diễn văn. Họ là những “cán bộ quản giáo” hay còn gọi là “ban quản giáo” phụ trách các đội lao động.

    Cán bộ trực trại gọi từng đội đi lao động. Đầu tiên là những đội hình sự và rồi đến phiên chúng tôi theo thứ tự từng đội từ 1 đến 8. Khi một đội được gọi đến, đội trưởng phải đứng lên và la lớn: “tất cả đứng dậy”, “bỏ mũ nón” và rồi “đứng nghiêm”. Khi đội đã đứng yên, đội trưởng quay lại đối diện với cán bộ trực trại và báo tổng số trại viên trong đội mình, số trại viên ốm bệnh, số ở trong trại với những lý do, và tổng số trại viên xuất trại đi lao động. Trại viên đi theo hàng đôi qua cổng trại với mũ nón cầm ngửa ra hai bên. Các trại viên phía bên phải cầm nón ở tay phải và bên trái cầm nón ở tay trái. Họ bảo rằng làm thế là để dễ quan sát coi có gì dấu trong nón hay không, nhưng tôi thì nghĩ họ muốn trại viên phải có thái độ phục tùng. Một hàng cán bộ vũ trang đợi chúng tôi bên ngoài trại. Cán bộ quản giáo đi cùng với trại viên còn hai cán bộ vũ trang -còn gọi là cán bộ bảo vệ- đi phía sau.

    Trong những ngày đầu tiên này, chúng tôi được chia ra thành tám đội với những công việc làm như sau:

    - Đội 1 và 2 gọi là đội gạch có nhiệm vụ làm gạch.

    - Đội 3 gọi là đội rau xanh có nhiệm vụ trồng rau.

    - Đội 4 gọi là đội xây dựng có nhiệm vụ sửa chữa nhà cho trại và cơ quan.

    - Đội 5, 6, 7 và 8 gọi là các đội nông nghiệp có nhiệm vụ làm trên những cánh đồng quanh trại.

    Ngoài các đội của chúng tôi còn có các tội nhân hình sự làm trong những đội như “đội chăn nuôi” chuyên nuôi heo, bò, gà vịt, đội “lâm sản” chuyên đi lấy củi, và đội “nhà bếp” chuyên nấu trong bếp. Một số phạm nhân hình sự khác thì làm trong những bộ phận lẻ gọi là “diện rộng”, đi lao động không có cán bộ đi kèm, và làm việc riêng cho các cán bộ hay cho cơ quan.

    Chúng tôi im lặng bước đi trên con đường mà tôi đã đi ngày hôm qua để đến lò gạch. Chúng tôi thuộc đội 1, do đó đội chúng tôi là “đội gạch”. Có hai đội làm ở lò gạch là đội 1 chuẩn bị đất và đội 2 đóng gạch. Công việc của chúng tôi là đào đất, gánh nước từ suối lên đổ vào đất, quần trâu để nhào đất, và khiêng đất lên sân cho đội 2 đóng gạch.

    Trong mùa nắng, đất sét trộn cát rất cứng. Để đào đất ấy, chúng tôi phải dùng cuốc và xà beng chứ không thể dùng xẻng. Đất được đào khu chung quanh và chuyển đến một cái hố nhỏ ở chính giữa bằng xe cải tiến. Việc nặng nhọc nhất là gánh nước từ suối lên, khoảng cách chừng năm trăm thước. Chúng tôi phải gánh đôi nước khoảng bốn mươi lít trên vai và đi trên một con đường gồ ghề. Cái lỗ để trộn đất sâu khoảng hai thước phía dưới mặt đất, chúng tôi phải làm những bậc thang để gánh nước xuống và khiêng đất lên cho đội 2. Vài trại viên đã đan những cái ky bằng tre cho hai người khiêng đất, đó là những thanh tre được đan vào nhau với hai đòn để cầm. Đội chúng tôi được chia làm ba tổ để thay phiên làm những việc như gánh nước, làm đất, và khiêng đất lên sân đóng. Thật là một công việc nặng nhọc nhất là dưới ánh nắng bởi vì nếu trời mưa thì không thể đóng gạch được.

    Sau khi đất và nước đã đủ trong lỗ, hai trại viên dẫn hai con trâu vào để lùa chúng đi quanh lỗ đất ấy. Chân trâu đạp lên đất để trộn đất với nước cho đến khi đồng nhất. Nếu chỗ nào không được thì chúng tôi phải đạp cho đất được hoàn toàn. Họ gọi công việc này là “quầng trâu”.

    Đống đất đã được nhào cho đồng nhất xong thì chúng tôi phải dùng cuốc xẻng để trộn lần cuối và đánh thành đống để chuẩn bị khiêng lên chổ đóng gạch. Công việc này được gọi là “lên quả”.

    Khi vừa ra tới lò gạch thì tên cán bộ quản giáo bảo tôi chẻ lạt tre cho những người khác đan ky khiêng đất. Tôi không biết làm sao nên đã chẻ tre thành thanh thay vì thành sợi lạt. Tên cán bộ không nói gì với tôi mà bảo tôi đi làm đất thay vì chẻ lạt. Vào giờ trưa, hắn tập họp đội lại và đưa tôi ra làm một thí dụ điển hình về một người không hề biết lao động là gì mà trong chế độ cũ chỉ biết ăn bám vào công sức lao động của người khác! Tối hôm ấy trong phòng giam, chúng tôi phải họp để phê và tự phê, và rồi tôi lại được đưa ra để làm đề tài phê bình cho đến khi tôi phải nhận khuyết điểm. Cuối cùng thì tôi phải nói rằng tôi không hề biết gì về lao động tay chân bởi vì lúc nhỏ tôi chỉ đi học và khi lớn lên tôi chỉ làm việc trí óc chứ chưa hề làm việc tay chân. Tôi hứa sẽ cố gắng tích cực hơn trong thời gian tới để theo kịp những người khác. Kể từ hôm ấy trở đi, chúng tôi phải đi lao động từ sáng đến chiều và tối lại thì phải ngồi họp để kiểm điểm những việc làm trong ngày cho đến khi nghe tiếng kẽng đánh báo ngủ.

    Đóng gạch cũng chẳng khỏe hơn làm đất. Chúng tôi phải ngồi xổm trên sân suốt ngày dưới ánh nắng. Đất mang lên sân được chất thành những đống nhỏ, người đóng gạch phải dùng cái khung bằng gỗ đè vào đống đất để lấy đất và đập xuống sân, kéo viên gạch sắp thành hàng và lấy cái khung ra để làm viên gạch khác. Điều này tưởng chừng như dễ dàng, nhưng dưới ánh nắng và suốt ngày phải ngồi xổm, bò từ nơi này đến nơi khác khiến mọi người đều bị đau lưng, đau hông, và đau vai. Thêm vào đó còn phải làm cho đủ tiêu chuẩn mà tiêu chuẩn ấy thì cứ tăng lên hàng ngày.

    Giữa hai công việc đóng gạch và làm đất thì tôi chọn công việc sau mặc dù có nặng hơn nhưng tôi có thể di chuyển được chứ không phải ngồi xổm suốt ngày. Đội của chúng tôi và đội 2 thay phiên nhau làm hai việc này. May mắn cho tôi là tôi chỉ làm đội gạch khoảng một tháng thì được đổi sang đội làm mộc. Tôi không biết tôi có thể chịu đựng bao lâu nếu cứ ở đội làm gạch? Lao động quả thật là vinh quang, đặc biệt là lao động cưỡng bức! Trong trại, chúng tôi luôn luôn phải biết cái thành ngữ “tự nguyện và tự giác lao động”, nhưng nếu chúng tôi không tự nguyện thì họ buộc chúng tôi phải lao động hoặc là xử phạt chúng tôi bằng mọi cách!

    (Hết chương 20 – 26 . Xin xem tiếp chương 27 – 33)

  5. #5
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    Default


    Chương 27. Tôi Làm Thợ Mộc


    Làm gạch quá nặng nề đối với tôi, và đi làm ngoài đồng thì những con đỉa bám đầy chân mỗi lần bước xuống nước khiến tôi rất kinh khiếp. Vì vậy khi trại cần ai biết làm thợ mộc để biên chế vào đội mộc, tôi tình nguyện ngay dù thật tình thì tôi chẳng biết gì ngay cả việc cầm cái cưa để cưa gỗ! Tôi cũng muốn nói ở đây là cái cưa ở Việt Nam là loại cưa khung với cái khung gỗ có hai tay cầm dài khoảng năm tấc nối liền nhau bởi một thanh gỗ nhỏ dài bằng cái lưởi cưa và được căng bằng một thanh gỗ khác ở giữa. Cái cưa này rất khó giữ cho thăng bằng nếu chưa quen tay.

    Tôi được chuyển ngay sang đội mới thành lập, đó là đội 10 và Uyển vẫn làm đội trưởng đội này. Ngày đầu tiên đến “nhà lô” của đội, ngay phía sau vòng rào trại, để làm mộc, tôi được phân công để rọc gỗ thành những thanh gỗ khổ 4×10 phân. Tên cán bộ quản giáo bảo tôi đặt tấm bìa gỗ dày lên trên hai cái ghế ngựa và ngồi thẳng lên đó. Tôi phải giử lưỡi cưa bằng cả hai tay; tay mặt nắm vào một đầu ngay chỗ lưỡi cưa gắn vào khung còn tay trái thì giữ đầu kia của khung cưa. Sau đó cả hai tay phải đưa đều lên xuống và mắt thì nhắm thẳng theo đường mực để lái lưỡi cưa cắt theo đó. Điều này nghe cũng dễ, nhưng khi làm thì rất khó vì đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải xẻ gỗ bằng cưa. Lưỡi cưa cứ đi lượn vòng như con rắn bò chứ không đi theo ý mình muốn, càng lái thì nó càng bị kẹt trong gỗ khiến tôi rất khó nhọc mới đưa lên xuống được. Chỉ một lúc sau mồ hôi đẫm ướt cả mình mẫy, và hai vai tôi ê ẩm như bị ai đánh.

    Tôi ráng giử bình tỉnh và tự nhủ rằng dù sao thì còn hơn là phơi nắng và giẫm bùn suốt ngày ở chỗ làm gạch. Ở trong trại, tôi không thể tránh không làm việc được, do đó đành phải chấp nhận cái khá nhất trong số những cái xấu! Sau vài ngày, tôi có thể lái được lưỡi cưa theo ý mình và công việc cũng trở nên dễ dàng hơn một ít.

    Thời gian sau đó, đội chúng tôi được phân công làm nhà để gia đình trại viên đến thăm nuôi. Nhà thăm nuôi này nằm ở ngả rẽ vào phân trại K5, đối diện với chuồng bò. Tôi lại cũng chẳng biết tí gì về kiến trúc, cho dù làm nhà gạch hay nhà lá. Nhưng trong đội có vài người ở trại Tây Ninh đã từng làm nhà, họ trở nên những “chuyên viên” hướng dẫn chúng tôi làm việc này.

    Công việc đầu tiên của tôi là phải dùng rìu để đẽo cây gỗ thành cột nhà. Những cây này do các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản mang về. Trước hết tôi phải đẽo vuông cái cây rồi đẽo thành hình bát giác, sau đó dùng cái bào để bào tròn thành cột nhà. Họ gọi là “chuông tư”, “trầm tám”, rồi “lăng cạnh”! Để làm những xà nhà thì chỉ cần đẻo thành hình vuông rồi bào sơ cho có hình dáng.

    Long và Tranh, những “chuyên viên” trong đội đặt cột và xà nhà trên mặt đất theo hình dạng của sườn nhà rồi vẽ những cái mộng và lỗ mộng cho chúng tôi đục, cưa và ráp lại thành hình.

    Chúng tôi phải đào một cái ao phía sau để lấy đất đắp nền nhà. Sau ba tuần thì sườn nhà được dựng lên, và lúc đó là lúc chúng tôi phải làm mái, làm tường, và những công việc về mộc khác.

    Để làm tường bằng đất, chúng tôi phải đục những lỗ vuông nhỏ cạnh 1×3 phân trên cột và xà nhà gọi là “lỗ bua” để nhét những thanh tre vào. Những thanh tre được nối tiếp nhau và cột dính lại thành hình dạng trông giống như mạng lưới. Trong lúc đó thì một toán phải đào đất, trộn rơm và nước vào rồi dùng chân trần mà đạp cho thành một chất nhầy nhầy. Chúng tôi dùng tay để trét thứ đất trộn rơm ấy vào vách để thành vách đất.

    Mái nhà thì làm bằng ba lớp tre. Những cây tre để nguyên cây gọi là “đòn tay” được cột bằng dây lạt song song theo đường ngang từ cây kèo này qua cây kèo khác với khoảng cách khoảng một thước. Những cây nứa nhỏ được gọi là “rui” được cột vào đòn tay theo chiều dọc cách nhau khoảng năm tấc từ đòn tay trên cùng đến đòn tay cuối. Cuối cùng là những thanh tre chẻ khoảng ba phân cột vào rui theo chiều song song với đòn tay ở khoảng cách khoảng ba tấc được gọi là “mè”.

    Để lợp mái, chúng tôi dùng lá cọ non dài khoảng một thước rưỡi đến hai thước. Chúng tôi xé hai tép nhỏ ở hai bên lá cọ, gắn nó vào mạng lưới của rui và mè theo chiều ngửa lên. Sau ba lớp lá, chúng tôi phải cột một thanh tre để giử lá ở vị trí vì vùng này thường hay có bão. Đỉnh của mái nhà là một hàng các cọc tre đâm xuyên qua và những cái lá cọ móc vào rồi đặt nằm chéo nhau.

    Sườn nhà được nối với nhau bằng những mộng đuôi cá hay những cọc tre. Chỉ có cửa sổ và cửa cái là dùng đinh để đóng mà thôi! Cái nhà, hay nói đúng hơn là căn lều khoảng 8×10 thước, mà chúng tôi phải bỏ ra hai tháng trường để làm hoàn tất với công sức lao động cực nhọc của bốn mươi người chưa kể những phạm nhân hình sự cung cấp cây và lá. Nhưng điều mà tôi thu nhận được qua thời gian này là tôi bắt đầu có một ít kinh nghiệm về việc sử dụng cưa, đục, bào và rìu, tất cả sẽ có ích cho tôi trong thời gian sắp tới.

    Sau khi hoàn thành “nhà thăm nuôi” cho trại viên, đội chúng tôi, đội 10 được đặt tên là “đội mộc và xây dựng tạm thời” với nhiệm vụ làm và sửa chữa nhà cửa làm bằng cây và tre trong trại và khu cơ quan. Trong thời gian không có công tác xây dựng thì chúng tôi được làm mộc ở nhà lô. Một đội khác được thành lập trong lúc đó là đội 2 chuyên làm mộc gia dụng như đóng đồ đạc bằng gỗ, xẻ gỗ cung cấp cho mộc và xây dựng.

    Tôi suy nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để tránh các công việc nặng nhọc khác ở trong trại là làm sao học nghề làm mộc để được ở lại đội 10. Với một ít khéo léo và với khả năng về tính toán, tôi nhanh chóng bắt kịp nghề nghiệp này. Tôi có thể tính được mọi thứ trong căn nhà và không cần phải sắp cây gỗ xuống đất theo hình dạng cái khung nhà để vẽ mộng. Tôi chỉ cần cán bộ quản giáo cho biết về kích thước chung của căn nhà là có thể tính toán một cách chính xác bao nhiêu vật liệu để làm. Sáu tháng sau, tôi trở thành chuyên viên cho đội! Tôi lợi dụng việc ấy để có thể làm những điều mà tôi muốn làm theo ý mình.

    Hàng ngày đến nhà lô, cán bộ quản giáo nói với đội trưởng Uyển về công việc phải làm, và rồi Uyển hỏi tôi cần bao nhiêu trại viên để làm công việc ấy. Tôi thường yêu cầu số người nhiều hơn là nhu cầu để mọi người đều được thoải mái hơn trong công việc. Khi làm nhà, tôi thường bảo những phạm nhân hình sự trong đội lâm sản chất những thứ cần thiết theo từng loại để chúng tôi khỏi phải di chuyển quá nhiều, điều đó có thể làm chúng tôi rất mệt nhất là với tình trạng thiếu dinh dưỡng ở trong trại. Mọi điều mà tôi tính toán đều với mục đích là làm thế nào để tránh cho chúng tôi mất sức. Chúng tôi phải tránh sự tiêu hao năng lượng cho chúng tôi trong hoàn cảnh này để còn có thể sống sót!

    Luôn luôn có những điều ngộ nghĩnh xảy ra trong mọi tình huống, ngay cả trong những tình cảnh bi đát nhất. Ở trại Tân Lập thì hầu hết nhà cửa là nhà “tạm thời”, nghĩa là nhà làm bằng tre, gỗ và lá cọ. Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, và đôi lúc chính điều này đã tạo nên một cảnh ngộ trái ngược. Các cán bộ và gia đình của họ cần nhà để ở, cần chòi để nuôi heo gà vân vân, và chúng tôi lại là những người làm ra những thứ mà họ cần. Nhà tốt hay xấu là tùy thuộc vào chúng tôi! Còn chúng tôi thì cần cái gì? Tất nhiên điều mà tù cải tạo nào cũng cần là thức ăn và công việc làm nhẹ nhàng! Tôi không bao giờ quên cơ hội để đòi hỏi những thứ cần thiết cho cuộc sống của chúng tôi như gà, thịt, trứng, khoai mì, và ngay cả rau. Họ khó có thể từ chối những điều yêu cầu ấy vì họ luôn muốn chúng tôi làm việc tốt cho họ. “Chúng tôi luôn muốn làm tốt mọi việc và làm nhanh cho các ông, nhưng như các ông thấy, chúng tôi không đủ sức. Nếu các ông có món gì đó để bồi dưỡng cho chúng tôi, món gì cũng được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm việc tốt hơn”. Đó là câu nói đầu môi của tôi mỗi lần tôi muốn hỏi xin thức ăn cho chúng tôi khi làm việc cho họ.

    Có một lần chúng tôi làm một căn nhà bảy gian cho khu gia đình cơ quan, khi đặt cây đòn tay ở nóc nhà, tôi thấy vài người mang đồ đến cúng rồi tặng cho chúng tôi đồ cúng ấy. Tôi hỏi xem họ làm gì vậy thì họ cho biết cây đòn tay là một vật quan trọng nhất trong cái nhà, và theo sự tin tưởng của họ, họ yêu cầu chúng tôi trân trọng khi đặt đòn tay cho căn nhà để họ có may mắn khi sống trong nhà ấy. Chúng tôi thì chẳng cần điều gì ngoài phẩm vật của họ! Kể từ đó, chúng tôi đã biết được rằng cho dù là Cộng Sản, họ cũng rất mê tín.

    Một lần khác khi làm cửa nhà cho họ, chúng tôi làm cửa trước và cửa sau thẳng đường từ trước ra sau. Họ đến yêu cầu tôi cho làm chéo qua một chút. Tôi biết đó cũng là một điều mê tín, do đó tôi bảo với họ rằng đó là ý kiến của “ban kế hoạch trại”. Một lát sau họ mang đến cho chúng tôi một bao bo bo và bảo tôi làm dùm họ điều mà họ muốn. Chúng tôi chia nhau phần bo bo rồi vừa sửa lại mà vừa cười với nhau!

    Sự thiếu ăn và cái đói là điểm chính yếu trong trại cải tạo. Đội chúng tôi dù được làm những việc tương đối nhẹ nhàng hơn vài đội khác nhưng lại không có được những “bồi dưỡng” như những đội nông nghiệp, do đó tôi đã phải yêu cầu cán bộ quản giáo cho trồng cái gì đó để trại viên trong đội có thêm phần ăn. Ông ta cho phép Niệt, một trại viên trong đội làm việc ấy. Sau vài tháng, Niệt thay luôn người phạm nhân hình sự và trở thành trại viên “diện rộng” làm riêng cho cán bộ quản giáo. Niệt trồng cho đội giàn bầu và vài luống rau, ngoài ra anh ta còn có nhiệm vụ đi kiếm thêm thức ăn cho cán bộ quản giáo. Đôi lúc anh ta mang vào phòng cho riêng tôi một ít thức ăn mà anh ấy kiếm được. Trong cái địa ngục như trại Tân Lập, không có gì quan trọng hơn thức ăn, mọi loại thức ăn, bởi vì mọi người đều đói!

    Đầu năm 1978, Uyển chuyển qua làm trong ban “Thi Đua”. Ban Giám Thị đưa Yêm từ K1 qua làm đội trưởng đội 10. Yêm chưa biết gì về mộc và xây dựng, nhưng vì là đội trưởng anh ta muốn nắm lấy trách nhiệm. Anh ta đưa tôi vào làm mộc ở nhà lô thay vì làm công việc xây dựng. Đó là thời gian mà tôi có dịp để học đóng đồ gia dụng. Công việc này tương đối nhẹ hơn làm xây dựng, nhưng phải ở tại nhà lô và không có thêm được thức ăn “bồi dưỡng”. Điều này rất quan trọng cho chúng tôi.

    Trong trại, chúng tôi thường làm giường, tủ chạn, bàn ghế cho cán bộ và gia đình. Đôi khi họ còn bảo tôi làm dùm “hòm” (rương đựng quần áo làm bằng gỗ). Việc này thường là công việc làm riêng tư, không có trong kế hoạch của trại, do đó tôi lại có cơ hội để yêu cầu họ cung cấp cho tôi món này món nọ.

    Sau vài tuần lễ, Yêm không thể nào làm được việc của đội, đặc biệt là khi làm căn nhà khá lớn, do đó cán bộ quản giáo và cán bộ kế hoạch của trại bảo tôi phải trở lại làm việc như là chuyên viên về xây dựng cho đội. Tôi làm công việc này vì tôi biết họ cần tôi trong công tác xây dựng, và đó cũng là cơ hội để tôi có thể tránh được công việc nặng nề và có cơ hội giúp các trại viên khác trong đội.

    Cũng vì điều này đã khiến có lần tôi suýt bị nguy hiểm khi ban giám thị trại có ý định chơi trò chơi dân chủ trong trại bằng cách cho phép trại viên bầu ban thi đua và các đội trưởng. Tôi đã cảm thấy đó là một chiến thuật của VC để loại trừ những trại viên nào được các trại viên khác có cảm tình.

    Trong đội tôi, dưới sự chủ trì của cán bộ quản giáo, các trại viên đã đề cử đội trưởng Yêm, đội phó Sinh, và tôi ra để được bầu vào chức vụ đội trưởng. Sau cuộc bầu cử, tôi lại là người được một trăm phần trăm phiếu bầu của các trại viên trong đội. Một buổi họp của Ban Giám Thị với Bích, một phạm nhân hình sự làm trưởng ban thi đua, đã đi đến kết luận là phải chuyển tất cả những người đã được các trại viên tín nhiệm đi đến phân trại khác, trong đó có tên tôi. Uyển, Yêm và vài người nữa được chuyển đi K1, nhưng họ giữ tôi lại vì lý do không có người thay thế để làm công việc xây dựng. Tôi ở lại đội 10 với nhiệm vụ củ là “chuyên viên về xây dựng”, và họ đưa Tống từ K1 sang làm đội trưởng đội 10.

    Các trại viên đến đội 10 và đi khỏi đội, các trại viên được chuyển đến trại Tân Lập và rồi được thả ra khỏi trại; nhiều cán bộ quản giáo đến phụ trách đội 10 và chuyển đi đội khác. Tôi vẫn cứ ở đội ấy hầu hết thời gian từ đầu cho đến khi rời trại Tân Lập để đi về miền Nam. Long, Tranh, Tánh, và những trại viên trong nhóm 410 người trên chiếc tàu “Sông Hương” đã được thả ra khỏi trại từ đội 10. Vui, Nam, Giới, Tứ, và những trại viên khác được chuyển đến trại Tân Lập từ Lào Kai, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn vân vân là những trại viên cuối cùng của đội 10. Nhưng chỉ có tôi là ở đội ấy từ đầu đến cuối.

    Cũng không phải tất cả mọi việc đều trôi chảy! Mặc dù chúng tôi thường làm trong nhà lô, “nắng không tới mặt, mưa chẳng tới đầu”, nhưng rồi cũng luôn luôn có những việc ngoại lệ. Trong mùa giông bão, và miền Bắc Việt Nam thì thường có giông bão, chúng tôi phải đi sửa mái nhà trong trại và khu cơ quan trong khi các đội khác thì được nghỉ. Mái nhà làm bằng lá cọ rất dể bị tung bay trong gió bão nên chúng tôi không bao giờ được nghỉ ngơi trong mùa này!

    Thêm vào đó, chúng tôi làm việc nguy hiểm mà không có trang bị an toàn nào cả. Làm việc trên mái nhà, đặc biệt là vào mùa đông khi có mưa phùn và gió bấc, những sợi lạt tre rất bén dễ cắt đứt tay. Tôi đã té xuống đất một lần từ mái khi cột dây lạt và dây bị đứt làm mất thăng bằng. May mắn là tôi rơi trúng đống lá cọ nên chỉ mất một cái răng chứ không bị thương nặng. Nếu không có đống lá thì không biết tôi sẽ ra sao?

    Một lần khác, ba trại viên trong đội cùng tôi phải đi cắt một cây sung ở bờ suối A-Mai về làm cột nhà. Hôm ấy trời mưa nhỏ chứ chưa phải là mưa to. Sung là một loại cây có nhiều nhựa rất khó cưa ngang bằng cái cưa cá mập. Cây lại nằm ở bờ suối ngay chỗ giáp với mặt nước. Chúng tôi không thể đứng dưới nước để cưa nên chúng tôi phải đóng cái ghế ngựa vào thân cây và ngồi trên ghế để cưa cây. Mực nước càng lúc càng dâng lên cao. Có lẽ là đang mưa to ở trên nguồn. Lúc đầu thì cây sung nằm gần bờ nhưng lần lần thấy bờ càng xa ra. Khi đã cắt xong thì chúng tôi không còn làm cách nào khác hơn là bám vào thân cây để nó trôi theo dòng nước đang chảy xiết. Một lần may mắn nữa là cây sung lại trôi tấp vào bờ; chúng tôi lôi nó lên bờ và đi về nhà lô với quần áo ướt và lạnh.

    Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để quen dần với mọi thứ. Kể từ lúc bắt đầu chưa biết làm mộc là gì cho đến lúc có thể làm được hết mọi việc và thành một thứ chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng trong trại, tôi đã phải vượt qua biết bao nhiêu là khó khăn! Cán bộ và ban giám thị lần lần biết tôi. Đầu năm 1981, nhà lô đội 10 chuyển qua địa điểm mới, ở gần bộ chỉ huy trại và nằm cạnh vườn cam. Tôi có thể đi ra nhà lô một mình mà không cần phải có cán bộ đi theo trông chừng. Đôi khi ban giám thị trại còn cho phép tôi được đi một mình ra nhà dân để quan sát lấy ý về để làm nhà cho cơ quan. Tôi nghĩ tôi có thể nhân đó mà trốn trại được và họ chỉ có thể phát hiện khi điểm buồng vào buổi tối mà thôi. Nhưng như tôi đã nói từ trước, trại Tân Lập bao quanh bởi núi rừng và thật sự tôi không biết đi đâu khi trốn ra khỏi trại! Cũng đã có vài cuộc trốn trại nhưng chưa một ai đi được xa vì tất cả đều bị những người dân miền núi trong vùng bắt nộp về trại để nhận phần thưởng là một ít gạo và thực phẩm. Mọi cuộc trốn trại bị thất bại đều dẫn đến cái chết bằng cách này hay cách khác sau khi bị biệt giam một thời gian dài.

    Một mẫu chuyện tình trong đời cải tạo: Khi nhà lô mới của đội 10 dời về khu vườn cam, nó cũng nằm gần nhà giữ trẻ cho gia đình cán bộ. Cô giáo nhà trẻ tên là Lan thường đến nhà lô để nhờ tôi làm dùm thước kẻ. Lúc đầu tôi không chú ý gì đến cô ta vì cô ta là “cán bộ”. Nhưng lâu dần điều ấy trở thành thường xuyên, và cô ta chỉ nhờ tôi làm dùm công việc này trong khi có nhiều trại viên khác làm trong nhà lô. Mỗi lần có dịp đến để sửa chữa trong nhà trẻ, học sinh của cô ta lại cho tôi biết rằng cô giáo đang “trang điểm” trước khi ra gặp tôi! Vài người bạn trong đội và ngay cán bộ quản giáo cũng biết điều này, nhưng họ chỉ cười với tôi mỗi khi thấy cô ấy đi tới nhà lô. Lan không đẹp nhưng có nụ cười hấp dẩn và thân hình cân đối, có lẽ vì cô ấy lao động từ bé. Sự quan hệ của chúng tôi dần dần trở nên gần hơn cho đến khi tôi chuyển về miền Nam đầu năm 1982. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không chuyển khỏi trại Tân Lập?

    Không chỉ mình tôi mà một số trại viên khác cũng bắt đầu có những sự quan hệ với các cán bộ nữ. Bên cạnh đó thì sự quan hệ giữa trại viên, nhất là những người trong đội lâm sản với dân quanh vùng càng lúc càng nhiều hơn. Thật là một tình trạng đảo ngược! Tôi có thể nói rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, nhưng mà quan điểm của con người thì đã bắt đầu thay đổi!


    Chương 28. Dưới Hai Tầng Áp Bức

    Trại Tân Lập không phải là một trại mới xây như tên gọi của nó. Tân Lập là một mẫu mực của một trại cải tạo của Việt Cộng bởi vì nó đã được thành lập từ thời 1954 sau khi Cộng Sản thôn tính miền Bắc Việt Nam. Nó đã từng là trại giam giữ các nhân viên của thời Pháp. Trong phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” 1955 ở miền Bắc, nó lại được dùng để tập trung các văn thi sĩ có những tư tưởng chống Cộng. Tân Lập cũng đã từng là nơi để nhốt những địa chủ trong giai đoạn “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc sau 1954. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các tù binh Mỹ cũng đã bị giam ở đó. Trước khi chúng tôi đến trại thì Tân Lập đã là trại cải tạo các thiếu nhi phạm pháp và các trẻ bụi đời. Với một lịch sử như vậy, Tân Lập là một trại cải tạo tổ chức rất hoàn hảo.

    Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại Tân Lập gồm hai thành phần: Các đơn vị Công An VC quản lý trại và các trại viên.

    Các sĩ quan công an VC được chia làm hai bộ phận, “Ban Giám Thị” và “Hội Đồng Cán Bộ”. Ban Giám Thị hay Ban Chỉ Huy trại gồm những Công An trông coi các việc điều hành chung trong trại như Trưởng trại, các trại phó đặc trách mỗi K, các trại phó trông coi các ban ngành như kế hoạch, giáo dục, chấp pháp, và an ninh. Hội đồng cán bộ bao gồm hai bộ phận chính, đó là các cán bộ quản giáo trông coi trại viên trong mỗi đội và các cán bộ vũ trang hay cán bộ “bảo vệ” có nhiệm vụ canh gác trại và quan sát trại viên lao động bên ngoài trại.

    Trại viên trong trại được chia thành từng đội và tổ. Mỗi đội gồm khoảng từ ba mươi đến bốn mươi trại viên với một trại viên được sự tín nhiệm của ban giám thị hay cán bộ quản giáo làm đội trưởng. Đội được chia thành ba hay bốn tổ tùy theo công việc của từng đội. Mỗi tổ có khoảng mười trại viên và có một tổ trưởng trông coi công việc lao động do đội trưởng hay cán bộ quản giáo giao phó cho tổ ấy.

    Một tổ chức đặc biệt của trại Tân Lập là cái gọi là “Ban Thi Đua” gồm có “Thường Trực Thi Đua” và “Hội Đồng Tự Quản” bao gồm các đội trưởng. Đó là những cái tai và mắt của Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ.

    Khi chúng tôi vừa đến trại Tân Lập thì cái gọi là “Thường Trực Thi Đua” nằm trong tay của các tội nhân hình sự, với Bích, một tên “mắt lé răng hô”, và Khôi nắm giữ mọi sinh hoạt trong trại. Chúng rất có thế lực! Có lần tôi được gọi lên văn phòng của chúng để kẻ khẩu hiệu, tôi thấy có một cán bộ kế hoạch của trại vào để hỏi vài trại viên đi theo làm công việc gì đó. Bích đang nằm để một phạm nhân xoa bóp trong phòng riêng phía bên trong văn phòng của thường trực thi đua; hắn ta la lớn lên rằng “bảo ông ta đợi tôi, tôi đang bận!” Tôi không hiểu hắn ta là loại tù gì? Nếu là trại viên thì chắc đã bị phạt nặng lắm rồi!

    Còn Khôi thì hàng mỗi buổi sáng ngồi ở bệnh xá để cho phép trại viên được nghỉ bệnh trong trại hay không. Các trại viên nào muốn khỏi đi lao động thì phải có cái gì đó đút lót cho hắn!

    Trong khi trại viên chỉ có một chén nhỏ bo bo thì chúng có đầy dẫy thức ăn; trong khi trại viên bị nhốt trong phòng giam thì chúng có riêng phòng ngủ và có riêng những người phục dịch để giặt giũ và ủi áo quần! Chúng dường như là những ông vua ở trong trại. Không ai biết về tội trạng của chúng và án tù mà chúng bị xử. Tôi nghe vài phạm nhân hình sự bảo rằng Bích đã từng là một cán bộ kinh tài làm trong bộ tài chánh ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Hắn ta ăn cắp tiền của bộ và bị xử hai mươi năm. Khôi thì là một sĩ quan ở địa phương có tội giết vợ nên bị tù chung thân. Ban Giám Thị trại rất tin tưởng bọn chúng nên trao cho bọn chúng hết mọi quyền hành trong trại.

    Vào năm 1978, vài trại viên trong nhóm “Chế độ cũ của miền Nam” gia nhập vào “Thường Trực Thi Đua”. Khôi được dời đi K1, nhưng Bích thì vẫn là trưởng ban thi đua cho đến khi được tha ra khỏi trại vào năm 1981.

    Tôi không muốn phê bình hay kết án các hành động của Ban Thi Đua trong nhóm của các trại viên đến từ miền Nam. Tôi chỉ muốn kể lại ở đây những gì đã xảy ra ở trại Tân Lập. Đối với những ai đã ở trại Tân Lập thì tôi nghĩ họ đã biết quá nhiều về các Thường Trực Thi Đua này. Còn đối với những người khác thì tôi nghĩ chắc là khó có thể tin được những việc làm của họ là sự thật. Đôi khi chính tôi còn phải tự hỏi rằng những người ấy là công an của VC hay là tù cải tạo?

    Uyển, Bình, Tú, Diêu vân vân là những “thường trực thi đua” được điều khiển bởi Bích và hành động cũng giống như Bích. Trại viên trong trại bị áp bức bởi hai bộ phận: Các Cán Bộ và các Thi Đua. Điều nguy hiểm của Cộng Sản là chúng dùng thủ đoạn “ném đá dấu tay”, dùng Thi Đua như một công cụ của chúng để điều hành trại. Các cán bộ thì luôn miệng nói rằng “đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước” là không đánh đập hay hành hạ trại viên để trả thù, và nếu có những hành động xấu nào đó xảy ra thì đó là hành động của từng cá nhân chứ không phải là chính sách của Đảng và Nhà Nước. Những điều mà các Thi Đua làm đó là do ý của họ chứ không phải là do Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ!

    Nhiều trại viên đã không thù hận các VC mà lại thù hận những thi đua, và họ đã quên rằng chính các thi đua là những người thi hành những chỉ thị của Ban Giám Thị trại.

    Các Thường Trực Thi Đua đứng bên ngoài phòng giam để quan sát, nghe lén, và phê bình các buổi họp của trại viên.

    Các Thường Trực Thi Đua tổ chức riêng cho mình những hệ thống ăn-ten gồm những trại viên làm tai mắt cho chúng.

    Các Thường Trực Thi Đua gọi những trại viên vi phạm nội quy của trại lên văn phòng và đánh đập các trại viên ấy.

    Các Thường Trực Thi Đua bắt buộc các trại viên bị bệnh phải đi lao động.

    Rất nhiều hành động của Thường Trực Thi Đua đã tạo nên những căm thù trong trại viên.

    Cái chiến thuật này của Cộng Sản đã rất thành công trong trại cải tạo, đặc biệt là ở trại Tân Lập. Trại viên sợ hãi các thường trực thi đua như Bích, Uyển, Bình, Tú, Diêu, vân vân, hơn cả những cán bộ trong ban giám thị như Thùy, Bảng, hay Trung.


    Chương 29. Quay Đầu Về Núi!

    Mùa Đông năm 1977, đó là mùa Đông đầu tiên mà chúng tôi phải chịu ở miền Bắc Việt Nam. Thời tiết rất lạnh, nhất là đối với chúng tôi, những trại viên bị ốm đói, không đủ quần áo che thân, và ngủ không có chăn mền trong những phòng giam mà cửa sổ luôn luôn được mở rộng để dễ kiểm tra bên trong. Mưa phùn và gió bấc là những điều mà trước kia chúng tôi chỉ được đọc trong các tiểu thuyết viết về sự đau khổ của những người nghèo ở miền Bắc. Giờ đây chúng tôi phải sống với những thứ đó trong một tình trạng còn tồi tệ hơn cả những người nghèo, trong cái địa ngục của thế gian!

    Lưu Đình Việp, nguyên chánh nhất của tòa thượng thẩm Sài Gòn đã bị bệnh tiểu đường. Ông ta làm trong đội “rau xanh”. Một hôm nọ ông ta bị con đỉa cắn vào chân; máu không cầm được mà lại không thể ở trong trại để nghỉ ngơi. Hàng ngày ông phải gánh những gánh gọi là “phân tươi” để tưới rau. Phân tươi còn gọi là “phân bắc” là phân lấy từ nhà cầu của trại viên trộn với nước suối. Vết thương của ông ta bị làm độc và không có thuốc men gì nên ông bị chết sau vài tuần lễ! Ông ta là người trại viên đầu tiên chết ở trại cải tạo Tân Lập.

    Sau đó thì trại viên thay phiên nhau chết từng người một. Vài trại viên đã ngã ra chết khi đang hút thuốc lào; tay của họ còn nắm cái điếu. Vài người chết trong lúc lao động. Có người thì chết trong lúc đang ngủ.

    Lúc ấy tôi đang làm trong đội 10, đội “mộc”. Tôi phải đóng quan tài gần như hàng ngày, và những tội nhân hình sự trong “đội lâm sản” thì mang người chết đi chôn.

    Hôm ấy là một đêm mùa Đông vào tháng chạp năm 1977. Chúng tôi đang ngồi họp sau bửa ăn chiều trong phòng giam khi đã bị nhốt vào phòng thì nghe tiếng lanh canh mở khóa phòng giam làm gián đoạn buổi họp của chúng tôi. Cán bộ quản giáo của đội 10 vào và bảo Uyển, đội trưởng đội 10 cho năm người đi với ông ta. Lúc đó vào khoảng chín giờ tối. Hôm ấy là phiên trực của tôi do đó tôi đi cùng bốn trại viên khác trong đội để đến nhà lô của đội đóng một cái quan tài chôn một trại viên vừa chết cách đó khoảng một tiếng đồng hồ. Điều này rất là bất thường vì chúng tôi vẫn thường làm việc này trong giờ lao động mà thôi.

    Đóng một cái quan tài! Nói thì dễ hơn làm vì chúng tôi không có sẵn gỗ ván theo kích thước. Chúng tôi phải cưa gỗ bằng cưa tay để có được theo đúng kích thước, phải bào cho nhẵn và rồi lại phải rong cạnh cho thẳng để có thể ghép vào nhau được. Tiếp theo đó thì chúng tôi đóng thành một cái quan tài hình hộp vuông dài hai thước với các cạnh năm và sáu tấc có sẵn cái nắp để đóng đinh vào. Chiếc quan tài làm xong vào khoảng nửa đêm; chúng tôi khiêng nó vào bệnh xá để đặt tử thi và đồ đạc của anh ta vào đó.

    Với hai sợi dây cột vào hai đầu của quan tài, chúng tôi luồn một thanh đòn tre ngang qua cho dễ khiêng bằng vai. Một người trong chúng tôi bưng một cái mâm gồm một chén cơm, vài trái chuối, vài cây nhang, và hai cây đèn cầy. Một người khác thì cầm cây đuốc để soi đường vì lúc ấy trời rất tối. Một người nữa thì cầm mấy cái xẻng, và hai người còn lại thì khiêng quan tài. Cán bộ quản giáo đi phía trước còn hai cán bộ vũ trang thì đi phía sau, chúng tôi đi trên một con đường đất sét dốc ngược về phía K4 của trại. Cái nghĩa trang để chôn trại viên bị chết nằm trên đỉnh của một ngọn đồi trước dùng để trồng cây trà, nằm cách K5 khoảng mười cây số.

    Dưới ánh đuốc lung linh, những ngôi mộ đất nhỏ nằm không theo thứ tự trông giống như những luống cày dở dang. Bạn bè của chúng tôi đang nằm đó! Nhưng ít ra thì thân xác và linh hồn của họ không còn bị hành hạ nữa, và gia đình họ cũng không còn phải chờ đợi họ một cách vô vọng nữa!

    Thọ, một trại viên trong đội văn nghệ đã viết một bài ca có tựa đề là “Quay đầu về núi”.

    “Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải đợi phải mong. Và rồi một ngày mai anh chết đi, thân xác anh quay đầu về núi, trong mộ phần không chút khói hương…. Xin em trồng giữa mộ anh một loài hoa nhỏ dại không tên.”

    Cái huyệt hố đã được các phạm nhân hình sự đào sẵn. Chúng tôi đặt quan tài gần bên cạnh hố, đốt mấy cây nhang và hai cây đèn cầy, đặt cơm, muối, và mấy trái chuối lên mâm. Tôi khấn thầm cho anh ta được bình an nơi thiên đàng, và rồi chúng tôi thòng quan tài xuống dưới huyệt, lấp đất lại và trở về trại.

    Trời đã bắt đầu hừng đông; chúng tôi được phát mỗi người một chén cơm và ít muối để bồi dưỡng cho việc làm này và được cho phép nghỉ trong trại hôm ấy, không phải đi lao động. Đó là lần đầu tiên tôi đi chôn một người bạn tù, tôi không nhớ được tên anh ta. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng vì sau đó chúng tôi phải thay phiên nhau đi hầu như hàng đêm!

    Đầu tiên, chúng tôi đóng quan tài khi có người chết; sau đó chúng tôi đóng sẵn để chờ người chết. Trại viên chết quá nhiều, chết vì đói, vì bệnh không có thuốc, vì kiệt sức. Chúng tôi không còn gỗ để đóng quan tài nữa, do đó chúng tôi phải dùng một cái quan tài cho nhiều người chết. Chúng tôi đặt người chết và đồ đạc của họ quấn trong chiếc chiếu vào trong quan tài, mang đến mộ phần của họ, chôn tất cả xuống mộ và mang chiếc quan tài trống trở về cho người chết khác!

    Đỉnh đồi sau đó đã đầy, chúng tôi phải dời qua một đỉnh đồi khác để lập một nghĩa trang mới. Trại Tân Lập nằm trong một thung lũng bao quanh bởi núi, do đó tất cả các người chết đều được quay đầu về núi cho dù có chôn họ theo hướng nào đi nữa!


    Chương 30. Đói!


    Đó có lẽ là điều chính yếu trong tất cả các trại cải tạo, và ở trại Tân Lập thì đó lại là một vấn đề quan trọng giữa cái sống và cái chết. Rất khó có thể diễn tả được cái đói trong trại cải tạo bởi vì nó khác hơn mọi cái đói khác. Người ta đói vì không có gì ăn. Trại viên thì đói mặc dù vẫn có ăn ngày ba bữa!

    Ngày đầu tiên đến trại Tân Lập, chúng tôi được một bữa ăn thịnh soạn gồm cơm, thịt trâu và thịt heo. Vài ngày sau thì chúng tôi vẫn có cơm độn với một ít bo bo với một ít canh bí đỏ. Nhưng rồi thì bo bo được lần lần thay cho gạo cho đến khi chúng tôi chỉ được chín mươi phần trăm bo bo với một chút cơm và đôi khi không có một tí cơm nào nữa hết.

    Cao lương hay bo bo là một loại thực phẩm gia súc được viện trợ từ Ấn Độ. Hột bo bo lớn khoảng một phần tư hạt bắp với cái vỏ cứng và dầy hơn hạt bắp. Bo bo chưa xay vỏ rất khó nấu chín, và cái vỏ thì cũng rất khó lột ra ngay cả nấu thật lâu đi nữa!

    Đầu tiên thì chúng tôi nhai bo bo giống như ăn cơm, nhưng rồi chúng tôi khám phá ra rằng bo bo bị tiêu hóa ra ngoài nguyên cả hột. Chúng tôi phải nhai kỷ hơn, nhưng mà cái vỏ cứng của nó khiến răng và hàm chúng tôi đau chịu không nỗi. Chúng tôi lại phải giã nó ra, và vài người còn nấu lại trước khi ăn nữa.

    Cái đói đã tạo nên nhiều hành động rất là bi hài, đặc biệt là khi chia phần ăn. Khi đi lấy bo bo ở nhà bếp về cho đội thì phải có ít nhất là hai trại viên đi cùng. Một người để mang bo bo còn người kia thì đi theo để kiểm soát vì mọi người đều nghi rằng bo bo bị cắt bớt trên đường từ bếp về đến đội. Để chia phần ăn, các trại viên thường dùng thành ngữ “công bằng và chính xác!” Nhưng rồi ai cũng nghĩ rằng phần của mình ít hơn của người khác. Trại viên không tin tưởng vào những cái chén hay cái muôi (muỗng canh) nữa, do đó vài người đã chế ra những cái cân làm bằng thanh tre với một hòn đá cột ở một đầu và cái đĩa cột ở đầu kia để chia phần ăn. Cũng chưa đủ, có người còn đề nghị đếm số theo một thứ tự nào đó hay bắt số theo một quy ước nào đó rồi người đầu tiên lấy phần ăn cho dù đó không phải là cái chén của mình. Thật là một bi hài kịch! Một tục ngữ Việt Nam nói rằng: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Điều này trông rất rõ ràng trong trại cải tạo.

    Bữa ăn của trại viên thường là một chén nhỏ bo bo hay một thứ gì đó xem như tương đương với cơm, và một chén canh rau. Bát canh rau này thường là nước muối có một vài cọng rau như lá xanh của bắp cải, lá của su hào, lá cải củ, hay rau muống, tùy theo từng mùa. Cái gọi là “những thứ tương đương với cơm” là những cái mà trại có như bo bo, khoai mì, khoai lang, bắp, và đôi khi bánh bột mì.

    Khoai mì hay sắn là thường xuyên nhất vì đó là sản phẩm chính của tỉnh Vĩnh Phú. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên là “bạch sâm”! Điều tệ hại là chúng tôi ít khi được ăn khoai mì tươi mà thường là khoai mì khô: Sắn lát hay sắn duôi! Sắn lát (chúng tôi gọi là nút chai) hay sắn duôi (cắt thành sợi) được cắt từ nguyên củ khoai mì kể cả vỏ và tim, được phơi nắng (và phơi cả mưa), và được trữ lâu ngày trong nhà kho, do đó chúng thường rất dai và mốc. Sau khi được nấu lên, sắn lát chỉ chín ở lớp ngoài còn bên trong thì vẫn còn sống, còn sắn duôi thì biến thành một chất cháo nhầy nhụa.

    Khoai mì, khoai lang, và bắp là những thứ nông sản mà dân địa phương thường nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Dân chúng trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa không nộp thuế bằng tiền, đặc biệt là thuế nông nghiệp; họ đóng bằng những nông phẩm của họ để thay vào đó. Sau vụ mùa, chúng tôi thường thấy những người dân địa phương sống vùng quanh trại gánh sắn duôi, sắn lát, khoai lang, và bắp vào trại để nộp thay vì nộp cho chính quyền địa phương.

    Dân chúng trong vùng rất nghèo, họ là những người dân sơn cước như người Tày, Mường, H”Mông, hay những người dân sống trong xóm đạo (Công giáo) bị chuyển từ những thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định về đây sau năm 1954 để xây dựng “khu tinh tế mới”. Để thực hiện chính sách đàn áp tôn giáo đặc biệt là Công giáo, và để tịch thu tài sản của những người giàu có và những gia đình của những người làm cho chế độ cũ, Cộng Sản đã thiết lập những cái gọi là “khu kinh tế mới” ở những vùng xa xôi hẻo lánh và bắt những người dân này đến để khai phá. Vài địa danh như Bến Ngọc, A-Mai, và dốc Trinh là tên của những người đầu tiên đến khu này. Ngọc là tên của một ông cả trong làng người đã lập ra cái bến, A-Mai là người chết đầu tiên trong dòng suối, và Trinh là tên một cô gái vẫn còn sống, người đã bị VC hiếp dâm và vẫn thường đi lang thang trên đầu dốc gần trại.

    Dân chúng sống quanh trại rất nghèo đến nỗi không đủ áo quần để mặc; họ trao đổi mọi thứ có được để lấy cả mấy bộ đồ tù! Vài trại viên phải đưa áo quần trại cho các phạm nhân hình sự nhờ đổi dùm thức ăn mặc dù họ biết chắc rằng những phạm nhân hình sự này sẽ cắt xén rất nhiều của họ. Trong tình trạng đói kém thì có được một ít còn hơn là không có gì cả! Quần áo rách còn có thể vá lại được chứ cái đói thì không thể trị được. Một bộ áo quần đổi lấy một ký bo bo, ba kí lô sắn, hay nửa ký lô gạo, sau một thời gian ngắn những trại viên mới đến còn tả tơi hơn những phạm nhân hình sự.

    Theo kỷ luật của trại, trại viên không được phép mua bán đổi chác bất cứ vật gì. Đôi khi các cán bộ lại đứng ra làm trung gian để kiếm lời; họ bảo rằng làm như thế thì đôi bên đều có lợi. Các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản và ở diện rộng là những người thu lợi nhiều nhất trong dịch vụ này.

    Nhiều sự vi phạm kỷ luật của trại bắt nguồn từ cái đói mà ra đã bị nâng lên như là những vi phạm do từ quan điểm của trại viên. Một trại viên chỉ nhặt quả bí đỏ để ăn vì quá đói đã bị xử phạt rất nặng vì đã phá hoại tài sản của trại, tài sản của Đảng và Nhà Nước, và tài sản của Xã Hội Chủ Nghĩa! Nhiều trại viên đã bị chết trong các nhà biệt giam chỉ vì vài cọng rau mà họ thu nhặt lúc làm lao động trên cánh đồng.

    Đôi khi chúng tôi cũng được trại phát cho một ít đường, chỉ một ít khoảng độ một trăm gram cho mỗi trại viên. Những hạt đường ấy dường như thấm sâu vào từng tế bào vị giác trên đầu lưỡi của tôi. Vài trại viên còn ngồi đếm từng hạt đường mà anh ta bỏ vào miệng. Không chỉ đường mà thôi, muối cũng rất hiếm trong trại. Tôi vẫn luôn nhớ một lần vào năm 1978, chúng tôi đang đắp nền cho một căn nhà của khu gia đình cán bộ nằm trên một khoảng đất trồng khoai lang. Chúng tôi nhìn một cách thèm thuồng những củ khoai thu nhặt cho các cán bộ. Tôi cố hỏi xin cán bộ quản giáo các lá khoai lang để “bồi dưởng” cho đội. Chúng tôi không có muối để ăn với lá khoai lang luộc, và chúng tôi cũng không được phép mang bất cứ vật gì vào trại. Chúng tôi đành phải ăn những lá khoai nhạt phèo đó để lấp cho đầy cái dạ dày đang trống rỗng của chúng tôi vậy!

    Chung quanh trại cũng không còn cái gì có thể thu nhặt để ăn được. Qua thời gian, rau dại đã không còn mọc được, cào cào, dế, ếch nhái, và ngay cả chuột cũng không thể sinh tồn được vì chúng đã bị tiêu diệt bởi nhiều thế hệ tù. Dòng suối A-Mai thì không có một con cá hay cả một con ốc! Dân chúng nghèo khổ trong vùng đã thu nhặt hết những thứ gì ăn được. Có lẽ cá, ốc, và thú vật trong vùng đều đã tuyệt chủng hết rồi!

    Chúng tôi chỉ dựa vào tiêu chuẩn của trại là mười lăm kí lô của những thứ tương đương với gạo trong mỗi tháng cho mỗi trại viên.

    Khoai mì, đặc biệt là sắn lát và sắn duôi không có một chút dinh dưỡng nào cả; nó chỉ giúp cái dạ dày cảm thấy đầy một chút mà thôi. Nhưng ngay cả chúng cũng không đủ để lấp được cái dạ dày vốn đã trống rỗng của chúng tôi nữa! Sau thời gian dài ăn khoai mì, thân hình chúng tôi trở nên còm cõi trong khi mặt thì trông to ra! Đầu tiên chúng tôi cảm thấy nằng nặng ở hai gò má, và rồi thì hai quai càm sưng lên. Chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Có phải chúng tôi mập ra không? Khuôn mặt chúng tôi trở nên to nhưng lại xanh xao! Chất độc của acid cyanhydric trong vỏ của khoai mì đã tích trử trong tuyến dưới hàm khiến chúng tôi giống như bị bệnh quay bị. Khi thức dậy mỗi buổi sáng, ghèn dán kín đôi mắt tôi; cổ họng tôi thì khô khốc! Căn phòng dường như quay cuồng quanh tôi khi tôi đặt chân lên mặt đất.

    Khoai lang, gọi là “hoàng sâm” thì làm cho miệng tôi đắng nghét mỗi khi thức dậy, và nó khiến chúng tôi đói hơn là ăn khoai mì vì số lượng của nó quá ít! Bắp, bo bo, và bánh bột mì thì đỡ hơn một chút, nhưng lại không có thường xuyên như khoai mì. Bắp thì là loại cho gia súc ăn, không phải là loại bắp ngọt, được phơi khô rất cứng và nấu chưa được mềm ra. Bánh bột mì là loại bột do Liên Xô viện trợ được nhào và nặn rồi luộc thành những cái bánh tròn khoảng một tấc đường kính và dầy khoảng một phân.

    Tôi đã cố gắng tập ăn ít ngay từ trại đầu tiên, nhưng cái phần ăn này cũng vẫn thiếu đối với tôi. Trong khi chia phần, tôi cố lảng tránh ra xa, nhưng rồi tôi vẫn còn quan sát từ đàng xa và đôi khi vẫn cảm giác là phần của mình ít hơn của người khác. Tôi tự ghét mình vì điều này, nhưng vẫn không thể tự kềm chế được mình.

    Mỗi trại viên có cách ăn khác nhau. Có người thì ăn ngay sau khi chia phần; người khác thì để lại cho đến khi vào chổ ngủ mới ăn vì họ không muốn ngủ trong cơn đói! Có người thì ăn chậm chạp như không muốn bữa ăn chấm dứt; người khác thì ăn vội vã như quá đói và sợ phần ăn của mình bị mất đi. Vài người thì chia phần ăn ra làm những phần nhỏ và ăn mỗi lần một chút dường như họ có nhiều phần ăn vậy; người khác thì ăn ngay một lúc nhưng lại nhai rất kỹ như muốn phần ăn của mình được hấp thu một cách trọn vẹn.

    Cái thói quen xấu của tôi là tôi thường hay đổ nước vào chén sau khi ăn xong rồi uống luôn phần nước ấy như muốn không bỏ sót cái gì trong chén sau khi ăn xong! Khi Uyển còn là đội trưởng của đội, tôi thường ngồi ăn chung với anh ta; chúng tôi vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bữa ăn! Sau khi Uyển chuyển qua làm thi đua, tôi không mang phần ăn vào phòng như trước nữa mà ăn ngay sau khi được chia ra, xong rồi rửa chén bát và đặt chúng ngay trên bàn để đợi bửa ăn tiếp theo.

    Đầu tiên thì chúng tôi có những phòng ăn gần cổng khu A, nhưng không ai ăn uống trong đó. Chúng chỉ được dùng để làm nơi đặt đồ lấy nước uống và để treo áo quần đi lao động. Vào năm 1980, sau khi những trại viên ở những trại khác được chuyển đến thì những phòng ăn ấy trở thành phòng dành cho các cán bộ quản giáo và ban thi đua. Chúng tôi dựng những chiếc lều tranh trong sân ở gần phòng giam với những chiếc bàn và kệ bằng tre để chứa đồ đạc của chúng tôi vì lúc đó chúng tôi quá đông.

    Tôi không biết làm thế nào để mô tả được cái đói trong thời gian này. Nó có nghĩa là chúng tôi ăn mỗi ngày ba bữa mà vẫn đói, không thấy cái gì trong dạ dày cả. Khi những trại viên chuyển đến trại Tân Lập từ Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, vân vân, lúc miền Bắc bị Trung Cộng tấn công, họ trông thấy chúng tôi mà đâm ra sợ hãi! Mặc dù chúng tôi ra miền Bắc sau họ, nhưng chúng tôi trông gầy ốm và xanh xao hơn họ nhiều. Chúng tôi thường so sánh sự khác nhau của những trại cải tạo do Công An quản lý và do Bộ Đội quản lý qua sự ốm đói của các trại viên.

    Cái đói và sự thiếu ăn đôi khi khiến vị giác chúng tôi trở nên sai lệch. Hầu hết trại viên trong tình trạng này đều biết rằng họ cảm thấy ngọt ngào ngay cả khi bỏ một hạt muối vào miệng. Khi được hỏi anh sẽ ước muốn điều gì khi được thả ra thì Chưởng, một trại viên trong đội tôi nói rằng anh ta chỉ muốn một rổ đầy khoai mì để ăn cho đã đời trong khi ngồi trên xe lửa về miền Nam. Nhưng rồi anh ta cũng không thực hiện được ước mơ của mình bởi vì anh ta đã chết sau đó mấy tháng! Chúng tôi thường đùa rằng nếu cho chúng tôi được chọn lựa giữa một bửa ăn ngon lành và một cô gái đẹp thì chúng tôi sẽ chọn bửa ăn. Một bửa ăn ngon có thể giúp chúng tôi sống sót được; ngoài ra chúng tôi làm gì được với một cô gái đẹp trong tình trạng của chúng tôi như thế?

    Mỗi lần có được bửa ăn “tươi”, một chút thịt heo nấu với nước muối, mọi người trong chúng tôi đều muốn có được một ít mỡ thay vì thịt nạc. Sự thiếu dinh dưỡng đã tàn phá mọi thứ dự trử trong cơ thể khiến cho da chúng tôi trở nên mốc thếch và nhăn nheo. Da trâu cũng trở nên một loại thực phẩm cao cấp, ngay cả loại da đã bịt trống cũng đã bị đánh cắp để ăn. Khi đào khoai lang ngoài đồng, nhiều trại viên đã ăn sống khoai mà không lột vỏ cũng không rửa sạch. Vài bệnh trạng như kiết lỵ và tiêu chảy do sự ăn uống thiếu vệ sinh mà ra đã giết chết rất nhiều trại viên vốn yếu ớt sẵn rồi. Một trại viên làm ở lò rèn nướng một con cóc nhỏ rồi ăn cả con đã ngã ra chết ngay tại chổ vì gan cóc bị nhiểm độc.

    Mỗi đêm, cái đói khiến tôi rất khó ngủ. Chiếc loa phóng thanh nhỏ treo ở cuối phòng lại vang lên lời ca của một ca sĩ nỗi tiếng của VC, Ái Vân, con gái của nữ nghệ sĩ nhân dân Ái Liên. “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao, dù đạn bom man rợ thét gào, dù thân thể triền miên mang đầy thương tích….” Bài ca được quảng cáo là đã được đoạt huy chương vàng tại đại hội thanh niên toàn thế giới (chính xác là thế giới Cộng Sản) ở Đông Đức. Tôi rất bực mình nhưng không biết làm gì khác hơn là nhét lỗ tai lại và cố vỗ giấc ngủ. Tôi muốn la to lên rằng “cuộc đời này rất vô nghĩa, tình yêu cũng rất vô nghĩa khi mà cái dạ dày của tôi đang trống rỗng và tôi đang sống trong cái địa ngục của thế gian này!”

    Dùng thực phẩm như là một con mồi và chiếc gậy là một thủ đoạn của VC. Chúng bảo rằng ai làm lao động tốt sẽ được ăn phần ăn đặc biệt và ai lười biếng thì bị ăn phần ít hơn. Chúng chia ra làm ba loại tiêu chuẩn ăn: 15 kí lô lương thực hàng tháng cho những trại viên bình thường, 18 kí lô cho những trại viên tiên tiến, và 13 kí lô cho những trại viên lười biếng. Điều này đôi khi cũng làm vài trại viên bị sa bẫy! Trong lúc đói ai mà không muốn có được nhiều hơn, do đó có người đã cố làm lao động để được xuất ăn đặc biệt. Họ đã quên rằng làm như thế thì họ sẽ mất rất nhiều năng lượng mà không thể bù đắp được bởi vài kí lô thực phẫm hàng tháng! Những người to xác và những người ăn xuất ăn đặc biệt lại là những người bị suy sụp sớm nhất.


    Chương 31. Bến Ngọc

    Dòng suối A-Mai, nguồn cung cấp nước cho trại và cho cả nhân dân sống chung quanh là một trong những con suối đổ vào con sông nhỏ, một nhánh của sông Hồng. Suối A-Mai thường chảy rất siết nên thuyền bè không thể di chuyển được. Các nguồn cung cấp cho trại được chuyển đến bằng thuyền bè thì phải cập vào một cái bến bãi tên là “Bến Ngọc”, cách K5 khoảng mười lăm cây số.

    Dân chúng địa phương kể lại rằng trước đây có một ông điền chủ trong vùng tên là Ngọc đã làm ra cái bến ấy để làm nơi đổi chác những sản phẩm của ông ta với người khác. Khi Cộng Sản chiếm miền Bắc, gia đình ông ta bị giết trong đợt đấu tố địa chủ của giai đoạn cải cách ruộng đất năm 1955. Cái bến đã bị bỏ hoang. Từ đó dân chúng dùng tên ông ta để đặt cho bến ấy.

    Thật ra thì không có gì ở Bến Ngọc ngoại trừ một cái bãi cát dài khoảng trên một cây số, rộng khoảng sáu trăm thước về mùa khô và khoảng mười thước về mùa nước lớn. Dân chúng thường dùng bến ấy để cập những mảng tre bương mà họ chặt ở khu rừng trên thượng nguồn rồi chống theo dòng suối để đến bến bán cho người khác.

    Lương thực, than đá, lá cọ, và xăng dầu cung cấp cho trại được chuyển bằng xe lửa từ ga Hàng Cỏ ở Hà Nội đến ga Ấm Thượng, và rồi người ta dùng một chiếc phà để chuyển đến Bến Ngọc. Từ đó, họ thường dùng xe trâu để chuyển về trại nếu chỉ có một số lượng nhỏ, nhưng nếu số lượng lớn như tre, lá cọ, than đá, thì trại viên và cán bộ phải đi ra đó mà lấy để chuyển về. Trại thường tổ chức một buổi “ra quân” để làm việc này.

    Sáng sớm hôm có buổi “ra quân”, khi mở cửa phòng giam, cán bộ trực trại sẽ bảo chúng tôi sẵn sàng để đi “Bến Ngọc”. Chúng tôi không mang đồ đạc lỉnh kỉnh của riêng mình mà chỉ mang theo bình nước uống vì khi về chúng tôi sẽ phải mang vác nặng nề trên một lộ trình khá xa! Chúng tôi xuất trại như thường lệ, nhưng những chiếc xe cải tiến thì đã được đem về đậu trước cổng trại sẳn sàng. Trại viên lấy xe của đội mình để kéo theo, quẹo về phía trái ở trước cổng trại rồi quẹo mặt vào con đường đất sét đi về phía Bến Ngọc. Con đường này rất bụi bặm vào ngày nắng nhưng lại trơn trợt vào ngày mưa. Các trại viên kéo xe cải tiến đi phía trước, hai hàng trại viên khác đi tiếp theo, và cuối cùng là các cán bộ, chúng tôi phải đi vội vã.

    Khoảng nửa đường từ K5 đến Bến Ngọc, có một ngôi trường mà đầu tiên trông thấy đã khiến tôi rất kinh ngạc, đó là “Trường Phổ Thông Công Nông Nghiệp Số 1”. Học sinh trong trường là các trẻ em khoảng từ mười đến mười lăm tuổi. Chúng ăn mặc giống hệt chúng tôi và làm việc như chúng tôi! Các “thầy giáo” là những công an mặc quân phục với súng trên vai trông chừng chúng làm việc trên những cánh đồng. Đó là loại trường học gì vậy? Chúng cũng có buổi “ra quân” như chúng tôi. Tôi thử hỏi xem chúng học cái gì trong trường thì chúng cười và nói “học cái gì, chúng cháu làm việc như trâu!” Chúng thường gọi chúng tôi là “bố” và hỏi xin “thuốc lào” dù chúng còn rất trẻ. Chúng là những trẻ bụi đời ở những thành phố lớn ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, hoặc những đứa trẻ hư hỏng mà gia đình không dạy được phải đưa vào trại để cải tạo. Cái gọi là “trường học” thật ra là một trại tù để giam trẻ con mà thôi. Hầu hết bọn chúng sẽ được chuyển đi các “nông trường” để sống cho hết đời hoặc vào các trại cải tạo khi đến tuổi mười tám.

    Cộng Sản không có nhà tù, họ chỉ có “trường học”, “trại cải tạo”, và các “nông trường” mà thôi.

    Những đứa trẻ này cũng tả tơi và ốm đói như chúng tôi; chúng kéo xe cải tiến đi về phía Bến Ngọc với những cán bộ vũ trang đi theo sau. Không có gì khác với chúng tôi cả ngoài việc chúng là trẻ con! Có lẽ có một điều khác hơn là chúng ăn nói dơ dáy với những tiếng lóng mà chúng tôi không thể hiểu nỗi, và chúng chửi thề luôn miệng!

    Chúng tôi đến Bến Ngọc khoảng giữa trưa và chờ đợi tất cả đến nơi. Chiếc phà đầy than chưa cập bến. Trời bắt đầu mưa. Không có chổ nào núp mưa; chúng tôi ngồi co ro dưới mưa. Cái lạnh và cái đói trộn lẫn với nhau làm tôi run rẩy; hai hàm răng tôi đánh bò cạp. Tôi không ước mong gì hơn là có được một chén cơm nóng ở trong một căn phòng ấm áp. Điều ước muốn ấy thật quá đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh này thì nó còn khó hơn bay lên cung trăng! Tôi nhìn quanh các bạn bè; vài người trong họ đã từng giữ những chức vụ chỉ huy trước đây. Họ cũng đang co ro và run rẩy như những con mèo ướt.

    Cán bộ thì mặc pon-sô họp nhau cười nói và chia nhau những điếu thuốc lá. Trại viên thì ngồi trong hàng run rẩy dưới mưa. Hai hình ảnh trái ngược nhau ở cùng một chỗ! Tôi chẳng thương mà cũng chẳng ghét gì các cán bộ. Họ cũng là những người Việt Nam; vài người trong bọn họ cũng có tính người. Lớn lên trong một xã hội được xây dựng trên nền tảng của sự hận thù, họ giống như những người máy. Tôi vẫn nhớ người bạn cũ của tôi tên là Khiêm, anh ta đã theo VC sau khi tốt nghiệp trung học, trong những ngày đầu “giải phóng”, anh ta đã nói với tôi rằng một khi đã gia nhập đảng Cộng Sản thì anh ấy giống như có một dây thòng lọng quấn quanh cổ. Anh ấy phải làm những gì mà họ bảo làm, nếu không thì anh ấy sẽ bị thắt cổ chết mà thôi.

    Chế độ Cộng Sản đã tạo nên những con người làm những gì mà họ được ra lệnh làm, nói những gì mà họ đã được nhồi nhét vào đầu, và suy nghĩ những gì mà họ được chỉ bảo. Năm này qua năm khác, họ đã được dạy rằng chúng tôi là những kẻ thù của Nhà nước và của Nhân dân, và quan trọng nhất là kẻ thù của Đảng, do đó họ phải đối xử với chúng tôi như những kẻ thù.

    Trẻ con ở miền Bắc đã được dạy rằng chúng tôi là những tên quỷ dữ chỉ biết ăn gan uống máu của nhân dân. Khi các đứa trẻ trong “trường” hỏi chúng tôi về những điều này, chúng tôi không biết làm thế nào để giải thích cho bọn chúng mà chỉ biết cười và bảo đùa rằng chúng tôi cũng đã từng ăn gan và uống máu, nhưng chúng tôi chỉ ăn gan gà và uống máu dê mà thôi! Trẻ con ở miền Bắc được dạy rằng dân chúng miền Nam đã bị bóc lột đến tận xương tủy, do đó dân miền Bắc phải vào để giải phóng dân miền Nam, những người đang sống trong sự nghèo nàn và đau khổ. Điều tuyên truyền này đã khiến người miền Bắc nghĩ rằng dân miền Nam nghèo hơn người miền Bắc rất nhiều.

    Có nhiều người đã thay đổi cả ý nghĩ sau khi được vào Nam. Trung úy Trung, cán bộ chấp pháp trong Ban Giám thị của trại, người đã từng có thái độ căm thù chúng tôi ra mặt khi chúng tôi mới đến trại. Khi hắn ta được vào miền Nam trở về, nhìn thấy những khác biệt giữa sự thật và những gì mà hắn ta đã được nghe trước kia về miền Nam, hắn ta đã thay đổi hẳn thái độ và trở nên tử tế hơn nhiều cán bộ khác. Nhiều cán bộ khác cũng đã thay đổi thái độ sau khi được vào miền Nam. Tôi tự hỏi thế thì ai cải tạo ai đây?

    Mưa đã tạnh, và chiếc xe trâu của nhà bếp cũng đang mang phần ăn trưa đến cho chúng tôi. Vài củ khoai mì với một lời an ủi là sẽ có phần “ăn tươi” vào bữa chiều đã giúp chúng tôi có một ít năng lực để làm việc.

    Chiếc phà đã cập bến. Bốn trại viên phụ trách một chiếc xe cải tiến; chúng tôi phải thay phiên nhau xúc than đổ lên xe. Chiếc xe đầy than rất nặng; bánh xe lún vào trong cát không thể di chuyển được dễ dàng dù chúng tôi đã cố đẩy hết sức mình. Một người trong chúng tôi giữ càng xe, ba người khác đẩy mạnh phía sau, nhưng chiếc xe vẫn không nhút nhích. Chúng tôi đổi cách làm: một người vẫn giử càng xe để lái, một người đẩy phía sau, hai người còn lại nắm vào bánh xe mà xoay để chiếc xe di chuyển từng đoạn ngắn một. Chúng tôi vật lộn với chiếc xe gần một tiếng đồng hồ mới đem nó được lên đường để chờ mọi người làm xong! Sau lần đầu đó, chúng tôi rút được kinh nghiệm. Mỗi lần đi lấy than chúng tôi mang theo vài chiếc ky để khiêng than đá từ chiếc phà lên xe cải tiến để ở trên bờ.

    Đi trở về trại cũng rất xa dù khoảng cách chỉ vào khoảng mười lăm cây số. Đến những dốc ngược hay những đoạn đường lầy lội, chúng tôi lại phải tiếp tục vật lộn với chiếc xe. Dốc Trinh có độ dốc khoảng ba mươi độ là một đoạn đường khó khăn nhất vì nó dài khoảng trên một trăm thước. Dân chúng địa phương bảo rằng họ đặt tên cho cái dốc ấy theo tên của một người con gái vẫn còn sống. Cô ta bị một tên VC cưỡng hiếp trở thành điên loạn. Trong những đêm có trăng, cô ấy thường khỏa thân đi lại trên dốc với mái tóc xõa ra trông giống như một bóng ma. Người ta thường gọi tên cái dốc là “dốc Trinh Hồng” vì tên cô ta là Hồng.

    Về đến trại, chúng tôi hoàn toàn hết sức lực! Cái gọi là “bửa ăn tươi” là một miếng thịt nhỏ khoảng ngón tay cái không đủ để thuyết phục chúng tôi ăn ngay được bửa ăn dù chúng tôi đang rất đói.

    Đi lấy lá cọ hay lấy tre cũng chẳng khá hơn. Ba trại viên một xe cải tiến, số còn lại phải vác bằng vai. Hai bó lá cọ khoảng hai mươi ký lô mỗi bó được xuyên qua bởi một cây đòn xóc quả là quá nặng nhất là con đường quá dài và lầy lội với những dốc ngược. Để chất được nhiều trên xe cải tiến, họ bắt chúng tôi phải buộc những thanh tre vào sườn xe để chất lá lên cao lên khỏi sàn xe. Muốn kéo xe dể dàng hơn, vài người trong chúng tôi phải buộc dây vào càng xe rồi quấn quanh vai trông giống con trâu mang ách. Tôi thường đi theo xe cải tiến để lấy lá hay lấy tre mặc dù nó nặng hơn một chút vì tôi không thể gánh trên vai được; nó khiến vai tôi đau rã rời.

    Cuối năm 1979, khi trại cho phép gia đình đến thăm nuôi trại viên, con đường đi Bến Ngọc trở thành con đường của gia đình chúng tôi! Bến Ngọc cũng trở nên đông đúc hơn. Một số dân địa phương có thêm một nghề mới, đó là giúp đở gia đình trại viên để chuyển đồ đạc họ từ phà lên bến và đôi khi phụ gánh vào trại.

    Cũng kể từ đó, đi Bến Ngọc lại là một niềm vui cho chúng tôi mặc dù cũng vẫn rất mệt. Chúng tôi có cơ hội để gặp được dân Sài Gòn. Mặc dù họ không phải là thân nhân mình đi nữa, nhưng ít ra họ vẫn thấy thân quen hơn.

    Có lần tôi đi cùng mấy người trong đội đến Bến Ngọc để lấy gỗ về làm nhà, một người đàn bà đến hỏi tên tôi rồi bà ta bật khóc. Bà ấy là vợ của anh bạn tôi đi thăm chồng đang ở K3. Bà ta trao cho tôi một ít quà và bảo rằng bà ta không thể nhận được ra tôi vì tôi thay đổi nhiều quá. Có lẽ là tôi đã quá tang thương nên không còn nhận ra được nữa! Tôi không nhận quà của bà ta nên sau khi thăm chồng xong bà ta gởi qua cho tôi một ít; đó cũng là lần đầu tiên tôi nhận được món quà của người Sài Gòn.


    Chương 32. Hút Thuốc Lào


    Có lẽ mọi trại viên đều biết đến “thuốc lào” dù rằng có người không hề hút thuốc. Khi ra đến trại Tân Lập, chúng tôi không còn được phát thuốc lá nữa mà được phát loại thuốc vụn và thuốc lào.

    Thuốc vụn là loại thuốc cắt thừa trong các hảng thuốc lá. Nó rất khó quấn thành điếu vì thuốc rất nát, nhất là với loại giấy quyến nhỏ dùng để quấn thuốc lá trong các hảng. Vài người sáng chế ra cây cờ nhỏ làm bằng miếng giấy dầy hay bằng miếng nilon để cuộn thuốc. Tôi không thể quấn được thuốc theo cách ấy mà phải dùng mọi thứ giấy có được để quấn bằng tay như quấn thuốc rê. Nhưng thuốc ấy không thể nào có đủ để hút trong vòng một tháng hơn để đợi kỳ phát sau. Ngoài ra thì còn “thuốc lào” nữa! Chúng tôi làm gì đây với loại thuốc này? Nhiều người không biết hút thuốc lào nên thử cuộn để hút như hút thuốc rê, nhưng nó không thể đốt cháy được. Tôi cũng thử làm theo cách ấy lúc đầu. Chỉ một vài người miền Nam là biết hút thuốc lào thôi, họ đổi thuốc vụn cho chúng tôi để lấy thuốc lào.

    Thuốc lào hút được lâu hơn vì mỗi lần chỉ hút một nhúm rất nhỏ. Có hai loại điếu để hút thuốc lào, đó là điếu bát và điếu cày. Hầu hết những trại viên từ miền Nam mới ra đều hút thuốc lào bằng điếu bát tự chế. Điếu bát là một cái hủ kín có hai lỗ trên mặt: một lỗ để chứa thuốc lào và một lỗ để hút. Cái lỗ để đựng thuốc lào được gắn vào đó một cái “nỏ” hình loa kèn để chứa một nhúm nhỏ thuốc lào mỗi lần hút, còn cái lỗ để hút thì được gắn một ống dài thường là ống tre. Cái “nỏ” được gắn theo chiều ngược để đầu nhỏ của hình loa kèn nhúng vào trong nước chứa trong bát trong khi cái loa kèn thì nằm phía trên nắp. Khi hút, khói thuốc sẽ đi vào nước trong điếu trước khi vào miệng của người hút. Trong trại, ít người có được cái điếu bát thật sự. Vài người chế tạo cái điếu bát từ những hũ chao, nhưng nó không hoàn hảo để mà hút thuốc lào và lại rất khó mang theo mình.

    Khi vừa ra tới trại Tân Lập, chúng tôi nhìn thấy những phạm nhân hình sự hút thuốc lào bằng một ống điếu làm bằng tre gọi là “điếu cày”, và chính chúng đã chỉ chúng tôi cách hút thuốc lào bằng loại điếu này.

    Cái ống điếu gọi là “điếu cày” vì nó được những người thợ cày mang theo ra đồng mỗi khi họ đi cày ruộng. Nó được làm bằng một mắt tre dài khoảng sáu hoặc bảy tấc, đường kính khoảng ba phân có một đầu kín để chứa nước và một đầu hở để hút thuốc. Cách cái mắt tre khoảng năm phân, người ta xoi một lỗ nhỏ để gắn cái nỏ điếu vào theo độ dốc khoảng bốn mươi lăm độ. Cái nỏ điếu phải được gắn thế nào để đầu nhỏ của nó chấm vào nước trong điếu mỗi khi được giữ khoảng 45 độ và khi được giữ ở chiều gần như ngang thì nó nằm trên mặt nước. Nghệ thuật làm nỏ điếu là phải xoi lỗ làm sao cho khi hút nó rít lên một tiếng kêu lớn. Chúng tôi thường không ai biết làm nỏ điếu, do đó chúng tôi phải đổi chác với các phạm nhân hình sự để có được cái điếu cày.

    Để đốt thuốc mỗi lần hút, chúng tôi cần phải có giấy hay những thứ nào dễ bắt lửa. Giấy rất hiếm trong trại cải tạo, do đó chúng tôi thường phải chẻ tre thành những thanh mỏng, ngâm trong nước vài ngày rồi đem phơi khô để làm đóm.

    Hút thuốc lào thì phải học cách hút. Chúng tôi nhúm một chút thuốc và vò nó lại thành những viên nhỏ gọi là “con dế”, đặt con dế ấy lên nỏ điếu, đốt cái đóm, và rồi với chiếc điếu ở vị trí khoảng 45 độ, chúng tôi đặt môi vào đầu điếu. Cùng lúc ấy, chúng tôi phải vừa đốt thuốc vừa hít nhẹ vào để khói thuốc đi vào trong điếu và con dế được đốt hết. Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn “tuyệt vời” nhất đối với người hút thuốc lào. Con dế đã bị đốt trọn vẹn sẽ được phun ra, rồi người hút thuốc lào giữ cái điếu gần như ngang với mặt đất để cái nỏ chỉ nằm trên mặt nước trong điếu chứ không chìm vào trong nước nữa, tiếp theo người hút phải hít một hơi dài; cái điếu kêu rít lên, đó là lúc người hút thuốc lào cảm thấy “say sưa” nhất!

    Tôi đã hút thuốc lào không lâu sau khi đến trại Tân Lập. Phong, một người tù hình sự làm chung với tôi khi tôi đi vẽ tấm tranh cổ động cho trại đã cho tôi cái điếu cày và chỉ tôi cách hút.

    Cảm giác say sưa của thuốc lào rất khác với cảm giác say thuốc lá hoặc say rượu. Nó làm cho người hút dường như bị tê ở mặt, dường như đang bay bổng, tay run run, đầu óc thì rất tỉnh táo nhưng không thể kiểm soát được các cử động của tay chân. Đôi khi người say thuốc lào có thể bị ngã sấp xuống; mặc dù anh ta đã có ý muốn nắm giử vào vật gì đó để gượng lại nhưng anh ta không thể điều khiển cử động của mình được nữa. Cái cảm giác đầu tiên này chỉ xảy ra trong vòng năm phút, và rồi “con dế” tiếp theo không thể mang lại cái cảm giác ấy được nữa cho đến một thời gian lâu sau, có khi đến hôm sau. Đó cũng là lý do khiến các trại viên hay hút thuốc lào vào mỗi sáng sớm khi giật mình thức dậy. Cảm giác say thuốc lào là một cảm giác rất khó quên. Một người nào đó đã đặt ra một câu ca dao để diễn tả rằng “Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên!”

    Khi Uyển làm đội trưởng của đội 10, Uyển và tôi thường ngồi ăn cơm chung với nhau, vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bửa ăn. Hai loại thuốc mà trại phát cho chúng tôi lúc ấy là “Sông Cầu” và “An Thái”. Vào năm 1980, khi các gia đình miền Nam được phép ra thăm nuôi, họ mang loại thuốc lào miền Nam tên là “999”. Tôi đã hút thử thuốc này một lần duy nhất, và nó khiến tôi “gần chết!” Nhịp tim tôi đập rất nhanh; tôi ngã sấp xuống nền nhà mà không thể kiềm chế được mình. Tôi bỏ hút thuốc lào kể từ đó, giao điếu cày của tôi cho Nhân, người bạn nấu nước trong đội. Điếu của tôi trở thành tài sản chung cho đội!

    Hàng ngày khi đi lao động, Nhân mang cái điếu ấy theo mặc dù anh ta không hút thuốc lào. Vào giờ giải lao, các trại viên trong đội tôi thường đến chỗ của Nhân để uống nước và hút thuốc lào. Đôi khi họ bỏ vào lon guigoz những thứ mà họ thu nhặt được trên hiện trường lao động nhờ Nhân nấu dùm để “cải thiện”. Chúng tôi không được phép mang vào trại những thứ này, do đó phải ăn những thứ ấy ngay lúc giải lao.

    Mỗi đội thường có một người phụ trách nấu nước uống khi đi làm lao động. Người này thường được gọi là “anh nuôi”, và trại viên trong đội thường phải nhờ những anh nuôi ấy nấu dùm đồ ăn mà họ thu nhặt được để ăn lúc giải lao. “Anh nuôi” còn có nhiệm vụ mang cái điếu cày cho toàn đội vì trại không cho phép mỗi người mang điếu riêng của họ khi đi làm lao động. Khi đi lao động, “anh nuôi” gánh một đôi thùng nước có treo lủng lẳng xung quanh những củi nấu, ống điếu cày, và lon guigoz. Những hình ảnh rất quen thuộc của các trại cải tạo là “anh nuôi”, cái lon sữa guigoz bằng nhôm có gắn quai gọi là lon “gô”, và chiếc điếu cày.


    Chương 33. Muông, Người Tù Hình Sự Đặc Biệt


    Hắn ta vào khoảng năm mươi vào năm 1977. Tội của hắn là truyền bá thơ văn của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”, và hắn không có một án phạt nào cả! Hắn ở trong trại cải tạo từ năm 1955.

    Tôi gặp Muông lần đầu tiên lúc tôi đang vẽ tấm tranh cổ động cho trại ở phòng ăn của một đội ở khu B, gần văn phòng của “Ban Thường Trực Thi Đua”. Hắn đến để xem tôi vẽ.

    - “Tại sao anh không tự vẽ lấy tấm tranh cổ động?” Hắn hỏi tôi.

    Tôi ngạc nhiên hỏi lại hắn. “Sao anh hỏi tôi như vậy?”

    - “Vì tôi nghĩ anh có đủ khả năng để sáng tác tấm tranh chứ không cần phải bắt chước theo tờ báo.” Hắn trả lời tôi.

    - “Cám ơn anh, nhưng đây là cách làm của tôi trong mọi trại cải tạo. Điều này dễ cho tôi hơn vì tấm tranh cổ động này không phải là của tôi, không ai có thể chụp mũ cho tôi được vì nó không phải ý tôi.”

    - “Anh khôn quá!”

    Hắn ta hơi lùn, nhưng không ốm đói như những người khác. Tóc hắn đã ngã xám, gần như bạc hẳn mặc dù hắn trông không có vẻ già lắm. Hắn ta hỏi tôi nhiều điều về miền Nam, hỏi tôi làm gì trong chính quyền Nam Việt Nam, hỏi về gia đình tôi, vân vân. Tôi chỉ trả lời những điều chung chung vì tôi không biết hắn có phải là “cán bộ” muốn điều tra tôi hay không.

    Tôi muốn hỏi hắn về tội trạng của hắn, án phạt mà hắn bị, nhưng tôi thấy không tiện vì điều đó rất là bất lịch sự. Hầu hết các phạm nhân ở khu B đều là những tội phạm hình sự mang những tội như giết người, cướp của, hay hiếp dâm. Án phạt của họ thường ít nhất là mười năm.

    Phong, một phạm nhân hình sự vẽ chung với tôi trong phòng nói cho tôi biết rằng Muông là một “tù nhân chính trị” chứ không phải hình sự. Nhưng Phong không biết loại chính trị gì mà Muông bị bỏ tù!

    Muông là một trại viên làm việc ở “ban chỉ huy trại”, nuôi heo cho cán bộ; hắn đã ở trong trại quá lâu nên có thể đi bất cứ đâu cũng không cần có cán bộ canh chừng. Đôi khi hắn ta mang cho tôi một ít thức ăn, một ít rau, và chúng tôi lần lần quen biết nhau nhiều hơn. Hắn ta kể cho tôi nghe về những việc xảy ra ở miền Bắc sau 1954 khi bị Cộng Sản chiếm. Tất cả những nhân viên làm cho Pháp hoặc cho Chính Phủ Quốc Gia đều bị bắt đi cải tạo, và một số lớn đã chết trong các trại. Số còn lại thì bị chuyển đến những nông trường quốc doanh và sống ở đó cho hết đời.

    Trong phong trào “nhân văn giai phẩm” vào năm 1955, hầu hết những văn thi sĩ có những tư tưởng đi ngược lại đường lối của Đảng đều bị cải tạo. Hắn ta không phải là nghệ sĩ hay nhà văn gì cả mà chỉ lưu giữ những bài viết của nhóm ấy và bị người khác báo cáo. Điều ấy khiến hắn bị trả một cái giá là cả cuộc đời hắn ở trong trại cải tạo từ năm 1955. Hai mươi hai năm từ những trại như Lào Kai, Yên Bái, Sơn La, vân vân, hắn được chuyển về trại Tân Lập để chờ đi nông trường. Hắn bảo rằng không bao giờ có chuyện thả các trại viên không có án ngoại trừ khi người ấy có thân nhân làm cho Cộng Sản ở cấp bậc cao, hoặc là có một “phép lạ” nào đó!

    Tôi hỏi hắn tại sao hắn không về nhà vì tôi thấy hắn có thể đi bất cứ đâu mà không ai canh chừng. Hắn nói rằng hắn đã về nhà hai lần rồi, nhưng không có thể trốn đâu được hay sống được trong xã hội của Cộng Sản. Họ kiểm soát hết mọi thứ kể từ gia đình chúng ta, họ hàng chúng ta, và cả hàng xóm chúng ta.

    Tôi thường xuyên gặp Muông cho đến khi hắn được chuyển đi một trại nông nghiệp của nhà nước tên là “Hồng Trường” vài tháng sau.

    (Hết chương 27 – 33 . Xin xem tiếp chương 34 – 38)

  6. #6
    Moderator
    TAM73F's Avatar
    Status : TAM73F v?n ch?a c m?t trong di?n ?n
    Tham gia: Apr 2009
    Posts: 2,321
    Thanks: 0
    Thanked 0 Times in 0 Posts

    1st


    Chương 34. Một Ngày Bình Thường Ở Trại Tân Lập


    Một ngày ở trại Tân Lập bắt đầu khi tiếng kẻng đánh báo thức vào buổi sáng; chúng tôi phải xếp chăn màn và đặt chúng vuông vắn gọn gàng ngay trên đầu nằm. Họ gọi đó là “chăn vuông chiếu thẳng”, nhưng tôi nghĩ làm như thế để họ dễ kiểm soát đồ đạc mà chúng tôi dấu diếm. Theo quy định của trại, chúng tôi không có quyền lưu giữ những vật bén nhọn vì lý do an toàn, không được phép cầu nguyện bất cứ một tôn giáo nào, không được đọc những loại sách vở báo chí “phản động và đồi trụy”, vì vậy ngoài những “vũ khí bén nhọn” thì họ luôn luôn lục tìm những loại Kinh Thánh, những kinh của đạo Phật hoặc các tôn giáo khác, và mọi loại sách vở hay bản viết tay tiếng ngoại quốc hoặc không xuất bản ở các nước Cộng Sản. Có nhiều trại viên đã bị phạt rất nặng vì lưu giữ những thứ này.

    Cán bộ trực trại đến điểm số trại viên sau khi tiếng kẻng đánh không lâu. Ông ta đứng ở ngưỡng cửa đếm từng người đi ra, và rồi buồng trưởng báo cáo số trại viên đã đi ra ngoài, số trại viên ốm bệnh hay đang ở trong nhà cầu. Các trại viên không ra được phải la to lên để chứng minh rằng mình có hiện diện trong phòng.

    Vài trại viên tới phiên trực đi đến nhà bếp để lãnh nước uống và phần ăn sáng về chia ra cho mọi người trong đội trong khi những người khác cố gắng rửa mặt đánh răng thật nhanh. Chúng tôi thường không đủ thời gian để ăn sáng nên phải mang phần ăn theo và ăn sau.

    Một hồi kẻng khác để báo tập họp trại viên ở sân phía sau cổng chính, chúng tôi có khoảng mười lăm phút vào hàng và đi ra sân tập họp chuẩn bị xuất trại đi lao động. Sau khi trại viên ngồi xổm xuống chỗ của từng đội, cán bộ trực trại gọi từng đội một để xuất trại. Đội trưởng đứng lên khi đội được gọi và la lớn lên “tất cả đứng dậy”, “nghiêm”, và rồi “bỏ mũ nón”. Sau đó anh ta phải quay về phia cán bộ trực trại để báo cáo tổng số trại viên trong đội, số đi lao động, số nghỉ trong trại vì các lý do. Các trại viên đi theo hàng đôi qua cổng gác để xuất trại với mũ nón cầm ở tay quay ra hai bên hàng.

    Trên đường đi đến nhà lô hay đến cánh đồng để làm lao động, cán bộ quản giáo sẽ cho đội trưởng biết về công việc trong ngày để chúng tôi có thể triển khai việc làm ngay khi tới nơi.

    Tới hiện trường lao động, chúng tôi phải đứng nghiêm trong hàng và bỏ mũ nón ra để đội trưởng báo cáo với cán bộ bảo vệ trước khi phân công làm việc.

    Từ chín đến mười giờ, chúng tôi có được mười phút giải lao để hút thuốc, ăn sáng, hay uống nước do anh nuôi nấu. Khoảng trưa khi nghe hồi kẻng, chúng tôi phải thu dụng cụ đem vào nhà lô và xếp hàng để đội trưởng báo cán bộ bảo vệ và trở vào trại.

    Đến bờ suối, cán bộ thường cho chúng tôi năm hoặc mười phút để rửa chân tay. Đôi khi chúng tôi tranh thủ để tắm nhanh với quần áo mặc luôn trên người rồi về trại.

    Trước khi nhập trại, đội trưởng lại phải báo cáo cán bộ trực trại hay cán bộ gác cổng chính. Một vài trại viên đến phiên trực đi thẳng xuống nhà bếp để lãnh phần ăn cho đội còn những người khác thì về phòng để sẳn đồ đựng chờ chia cơm nước hay làm những công việc riêng như phơi quần áo ướt, gặp bạn bè, hoặc chuẩn bị cho buổi lao động chiều. Chúng tôi chỉ có khoảng một giờ buổi trưa trước khi nghe tiếng kẻng đánh báo thức vào buổi chiều. Hầu hết trại viên thường cố ngủ để có sức lao động buổi chiều. Mọi việc lại diễn ra giống như buổi sáng ngoại trừ khi ra về thì chúng tôi được cho phép tắm giặt khoảng nửa giờ.

    Đội tôi là đội làm mộc nên thường làm tại nhà lô và ít khi về trại vào buổi trưa. Chúng tôi ngưng việc vào lúc nghe tiếng kẻng buổi trưa, đi tắm giặt ở suối gần đó, và ăn trưa. Anh nuôi đã vào trại để lãnh phần ăn trưa và chia ra trước cho mỗi người, do đó chúng tôi thường có nhiều thời gian nghỉ trưa hơn những đội khác. Tôi thường ngủ ngay trên cái ghế bào của tôi vào buổi trưa. Khi nghe tiếng kẻng báo thức buổi chiều, chúng tôi thức dậy để chuẩn bị lao động trong khi các đội khác phải tập họp trong sân trại.

    Chúng tôi phải điểm nhập buồng vào khoảng bảy giờ chiều. Vài người đem phần ăn chiều vào trong phòng để ăn vì họ không đủ thời giờ ăn uống nếu họ muốn làm việc gì đó. Khi nghe tiếng kẻng báo điểm buồng, chúng tôi phải xếp hàng sẵn để đợi cán bộ trực trại vào. Buồng trưởng báo cáo tổng số trại viên trong buồng, số nhập buồng, và số trại viên khác với những lý do. Một ngày làm việc đã qua, nhưng một ngày ở trong trại vẫn chưa chấm dứt! Chúng tôi còn phải ngồi sinh hoạt trong đội để phê bình và tự phê bình về những mặt yếu, mặt mạnh trong ngày, trong tuần hay trong tháng. Những buổi họp này thường trở nên rất nghiêm trọng vì cán bộ hay ban thi đua thường đứng bên ngoài để nghe lén và góp ý. Chúng tôi thường chỉ được ngủ khi đèn đã tắt.

    Bốn trăm mười trại viên đến từ trại Thủ Đức là những trại viên đầu tiên ở phân trại K5, trại cải tạo Tân Lập. Sau cuộc tuyệt thực, khoảng mười trại viên bị đưa đi biệt giam ở K1, số còn lại ở trong hai căn nhà ở khu A. Khoảng một trăm trại viên trong mỗi phòng giam có nghĩa là chúng tôi mỗi người có một khoảng trống khoảng vừa một chiếc chiếu cói tám tấc. Đầu năm 1980, trại viên ở các trại phía Bắc gần biên giới với Trung quốc được chuyển về trại Tân Lập vì Bộ Đội Trung Quốc tấn công Việt Nam. Hầu hết các K ở trại Tân Lập đều đầy trại viên! K5 có khi đạt đến con số hai trăm trại viên trong mỗi phòng giam! Khoảng bốn tấc bề ngang cho mỗi trại viên, chúng tôi chỉ còn đủ chỗ để nằm nghiêng chứ không thể nằm ngữa được, và phải quay đầu nằm ngược chiều nhau để tránh khỏi đạp vào nhau trong khi ngủ. Có người còn phải ngủ cả dưới sàn nhà. Nhưng điều đó còn không ghê gớm bằng điều kiện vệ sinh của phòng giam. Hai trăm người với một cái lỗ cầu duy nhất, quả là ghê gớm!

    Rệp đầy dẫy khắp nơi, trong các tấm ván lót sàn ngủ, trong những lỗ nhỏ trên tường, trong chiếu, mùng, chăn, và ngay cả trong quần áo chúng tôi. Tôi đã phủ tấm pon-sô phía dưới chiếc chiếu mà chúng cũng có thể leo lên mùng và nhảy dù xuống mình tôi, tôi không thể nào tránh chúng được, cũng không thể giết hết chúng được. Vài người mang ván nằm ra để đập và giết rệp, nhưng chúng lại tiếp tục sinh sôi nẩy nở. Ruồi, muỗi, rệp, và mùi hôi thối, thật là một địa ngục của trần gian! Vào buổi sáng khi điểm buồng, tên cán bộ trực trại không dám đứng ngay cửa phòng mà đứng núp vào vách để tránh mùi hôi thúi từ trong phòng bay ra.

    Không đủ chổ để trại viên chứa đồ đạc, chúng tôi phải làm những căn lều ở sân cạnh mỗi phòng giam. Sân càng chật hẹp hơn. Trong những ngày nghỉ, cái sân trông giống như một cái chợ trời nhất là khi trại viên bày đồ đạc của họ ra để phơi. Khi điểm buồng vào phòng, chúng tôi phải đứng trên hàng hiên.

    Vào lúc ấy, tôi làm việc với cương vị là phụ trách về kỷ thuật cho đội mộc; trong những ngày nghỉ vài trại viên trong đội cùng với tôi thường hay nói với cán bộ quản giáo để lãnh ra nhà lô lao động thay vì nghỉ ở trong trại. Không có nhiều công việc làm trong những hôm ấy; nó giúp tôi tránh được tình trạng đông đúc trong trại và có dịp để tắm giặt. Nước cung cấp không thế nào đủ cho trại vì máy bơm không đủ công suất để bơm cho quá nhiều trại viên. Thêm vào đó, khi làm việc như thế, nhất là những công việc riêng cho các cán bộ, chúng tôi có thể xin được món này món nọ rất cần cho những người ít được tiếp tế như chúng tôi. Ngày này qua ngày khác, lâu dần việc làm lao động trong ngày nghỉ của chúng tôi trở thành một thông lệ, chúng tôi thường đi làm hầu như hàng ngày.


    Chương 35. Tết ở Trại Tân Lập


    Ba ngày Tết ở trại cải tạo Tân Lập là những ngày mà trại viên mong đợi nhất vì khỏi phải đi lao động mà còn có những bữa ăn “thịnh soạn” nữa! Để chuẩn bị cho những ngày Tết này, trại phải làm nhiều việc trước đó hàng tháng. “Ban Thi Đua” và cái gọi là “Bộ phận Văn Hóa” -những người có nhiệm vụ trang trí trong trại và ngoài khu cơ quan nhân những ngày lễ- đã phải tổ chức một nhóm trại viên có những năng khiếu đặc biệt để làm những công việc chuẩn bị cho Tết. Thường thì có ba nhóm trại viên phục vụ Tết trong trại, đó là nhóm trang trí, đội múa lân, và đội văn nghệ.

    Hàng năm ở trại Tân Lập, nếu không có một công trình xây dựng quan trọng nào thì tôi được bổ sung vào nhóm trang trí cho Tết. Chúng tôi sẽ làm đèn lồng, kẻ khẩu hiệu chúc mừng năm mới, sơn vẽ đầu lân cho đội múa lân, và đôi khi phụ trang trí sân khấu cho đội văn nghệ trình diễn.

    Vật liệu để trang trí rất là hiếm hoi ở trong trại, do đó tôi phải tận dụng tất cả những gì có thể dùng được. Đèn lồng, thường là loại đèn sáu cạnh gọi là “đèn kéo quân” làm bằng sườn tre, nhưng chúng tôi không có cả dây để cột tre lại nữa, do đó chúng tôi phải thu nhặt bao cát hay bao bố để tháo lấy dây cột. Giấy màu thì phải nhuộm những loại giấy gì có thể dùng được như giấy báo, bao xi măng, tập sách đã xài rồi, vân vân. Màu đỏ thì dùng thuốc đỏ ở bệnh xá hay nhiều khi phải xay nát gạch ra để trộn với nước, màu xanh và tím thì dùng mực màu, màu vàng thì dùng thuốc quinine hòa tan trong nước, màu đen thì dùng lọ nồi hay than. Cọ vẽ thì làm bằng thanh tre giã nát một đầu hay dùng đuôi heo xin ở nhà bếp. Mọi thứ đều phải “khắc phục” như họ thường nói! Ban thi đua chỉ đưa riêng cho tôi một hộp màu nước để vẽ hoa trên những tấm giấy trắng dán sáu mặt của đèn lồng. Chính vì lý do đó mà công việc trông rất dễ dàng nhưng phải mất rất nhiều thời gian.

    Điều quan trọng nhất đối với những trại viên được bổ sung vào nhóm chuẩn bị cho ngày Tết là họ khỏi phải đi lao động mà đôi khi còn được những phần ăn thêm – mà chúng tôi thường dùng cái từ “bồi dưỡng”- như khoai mì, bo bo, hay đôi khi rau. Tôi thường là trưởng nhóm trang trí, do đó tôi có thể hỏi xin khoai mì để giã ra nấu hồ dán. Ban thi đua thường đưa cho tôi nhiều hơn số cần thiết và phần dư ra chúng tôi chia nhau trong nhóm.

    Trong trại thì mọi cái đều có một mục đích rõ ràng là kiếm ăn! Đó là phương cách để sinh tồn! Đôi khi tôi cũng bị một chút phân vân về việc này vì tôi được làm những việc nhẹ nhàng mà lại có “bồi dưỡng” trong khi những bạn bè khác thì phải đi lao động mà không có gì cả. Nhưng trong hoàn cảnh ấy thì phải làm sao đây? Phương cách để sống còn trong trại là phải tìm mọi cách để sống miễn là không làm hại ai hết là được rồi!

    Điều khác biệt chính yếu của việc chuẩn bị cho ngày Tết ở trại miền Bắc và trại ở miền Nam là ở miền Nam các trại viên làm vì họ thích làm, còn ở miền Bắc thì họ làm vì họ muốn tránh né lao động! Tôi hiểu thế, nên tôi không bao giờ vội vã trong việc làm để mọi người đều có thể kéo dài được thời gian nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt.

    Trong những ngày Tết, thường chúng tôi được nghỉ lao động trong ba ngày. Thời tiết miền bắc rất lạnh nên họ cho phép chúng tôi có một cái lò trong phòng giam để nấu nướng và để sưởi ấm, coi như đó là một ân huệ của trại trong những ngày đầu năm mới. Lò thường được làm bằng những cái thùng sắt cũ đốt bằng than bùn trộn với đất. Nó khiến căn phòng giam đã dơ dáy sẳn rồi lại thêm đầy bụi than, nhưng không ai còn chú ý đến việc ấy nữa bởi vì có dơ thêm một chút thì cũng vậy thôi. Ngoài ra chúng tôi còn có thể sưởi ấm thêm một ít và có thể nấu nướng gì đó ngay cả chỉ nấu một ít nước sôi để pha trà.

    Những phần ăn đặc biệt cũng được phát cho chúng tôi trong những ngày này như cơm trắng không độn, thịt heo, thịt trâu, bánh chưng, và kẹo mứt. Vài người bị đói quanh năm không thể kềm chế được đã ăn quá nhiều trong một lúc nên bị ói mửa và thổ tả đầy nhà cầu. Căn phòng càng lúc càng dơ bẩn hơn!

    Trong những ngày đầu năm, vài trại viên cũng còn cố giữ phong tục. Họ mặc áo quần tốt nhất của họ rồi đi gặp gở bạn bè để chúc tụng nhau dù rằng họ vẫn gặp nhau hàng ngày.

    Đêm đầu năm, buổi trình diễn văn nghệ thường được tổ chức ở hội trường do đội văn nghệ đảm trách, thường là tuồng cải lương, một loại tuồng của miền Nam. Không chỉ có sự tham dự của trại viên mà cả các cán bộ và gia đình và đôi khi cả dân chúng vùng xung quanh trại cũng vào xem. Ở cái vùng hẻo lánh này thì chẳng có gì để họ vui Xuân ngoài việc vào xem cải lương do trại viên trình diễn, đặc biệt là được xem người miền Nam ca cổ nhạc Nam bộ.

    Khi chúng tôi mới đến trại Tân Lập, chúng tôi được xem tuồng cải lương tên là “Bà Mẹ Sông Hồng” do các phạm nhân hình sự ở phân trại K1 trình diễn. Vì là người miền Bắc ca vọng cổ miền Nam nên giọng ca nghe rất buồn cười. Vài tháng sau, ban giám thị trại đã phải cho thành lập một đội văn nghệ gồm những trại viên có những khả năng đặc biệt như Tánh, người có thể đàn được nhiều nhạc cụ như guitar, đàn violon, đàn tranh, đàn cò, đàn nguyệt; như Dũng, người giả gái rất giống và rất đẹp nữa, vân vân. Đội văn nghệ thường phải đi lao động phụ với các đội khác trong những công việc lao động hàng ngày và chỉ tập để trình diễn trong những dịp như Tết hay ngày lễ độc lập của VC.

    Một bộ phận trại viên trong trại mà tôi muốn nói thêm ở đây là các phạm nhân hình sự. Mọi việc diễn ra hoàn toàn khác với chúng tôi trong các phòng giam tội nhân hình sự trong ba ngày Tết. Họ treo mùng và chiếu suốt ngày để ngăn riêng chỗ của mỗi người giống như là mỗi người có một phòng riêng trong phòng giam. Họ đặt trà, bánh mứt, thuốc lào, mọi thứ mà họ có được ở ngay chỗ nằm. Căn phòng giam trông rất tối tăm và mốc thếch với những đồ đạc dơ bẩn của họ. Tôi có đến đó một lần khi tôi làm với Phong, một phạm nhân hình sự làm trong bộ phận văn hóa.

    Ngoài việc không phải lao động ba ngày và có nhiều thức ăn ra, Tết ở trại Tân Lập khiến tôi rất nhớ gia đình. Kể từ năm 1980, khi trại quá đông trại viên, Tết còn là những ngày ghê gớm đối với chúng tôi vì nước không cung cấp đủ cho các trại viên trong trại. Gần hai ngàn trại viên mà chỉ có một cái máy bơm cũ kỹ, lúc thì chạy được lúc thì không quả là một điều kinh khủng! Không ai thích đi lao động, nhưng trong điều kiện ấy thì chẳng thà đi ra ngoài để được tắm giặt ở suối còn hơn là ở dơ trong trại. Vài trại viên trong đội 10 cùng với tôi thường hỏi cán bộ quản giáo đội để ra nhà lô làm việc, và trên tất cả là để tránh sự đông đúc và dơ bẩn ở trong trại.


    Chương 36. Tôi Nằm Bệnh Xá.

    Chúng ta có thể xem bệnh xá của trại cải tạo Tân Lập như là một nhà xác cũng là đúng vì nó không có thuốc men gì cho bệnh nhân. Đó chỉ là nơi để các trại viên bệnh hoạn nằm chờ Thần Chết hoặc chờ một Phép Lạ mà thôi. Chỉ có những cái gọi là “thuốc dân tộc”, cỏ khô, rễ và lá cây khô, và thuốc đỏ cho những người bị vết thương! Và quan trọng nhất là cũng không có một y sĩ hay người nào có một chút kiến thức về y học cả.

    Bệnh xá là một căn nhà gạch duy nhất trong trại có mái ngói với mục đích để trình diễn khi có khách đến thăm trại. Đi vào từ cổng trại thì nó nằm phía góc phải gần với hàng rào trại; bao bọc bởi hàng rào kẽm gai và cây dâu tằm ăn trồng gần nhau. Cây dâu tằm còn được dùng làm thuốc ngủ nữa.

    Trong một khu vực trơ trụi của trại giam thì màu xanh của khu vực bệnh xá được nổi bật lên như một điểm tương phản trong một bức tranh đồng màu. Vì lý do an ninh, cây cối và bụi rậm không được trồng trong khu vực trại ngoài khu bệnh xá và một ít ở khu bếp. Trong khu bệnh xá, người ta trồng rau và cây thuốc nam, trồng cây đu đủ để làm thức ăn cho bệnh nhân và vài loại hoa để làm cảnh.

    Nhân viên làm việc trong bệnh xá là những trại viên được Ban Giám Thị tín nhiệm chứ không cần phải có một kiến thức gì về y học. Khi tôi mới đến trại thì Khôi, một phạm nhân hình sự mang tội giết người trong ban Thường Trực Thi Đua làm ở đấy. Hắn ta là ông vua trong bệnh xá; hắn có thể cho phép bất cứ trại viên nào được nghỉ bệnh khỏi phải đi lao động để được đút lót phẩm vật. Khi hắn ta bị chuyển đi K1 thì vài trại viên khác vào làm trong bệnh xá, và một trung úy cán bộ phụ trách ở đó.

    Vào mùa Đông năm 1978, cuối cùng thì tôi cũng bị kiệt sức! Mặc dù tôi không làm những công việc quá nặng nhọc nhưng tôi cũng vẫn không còn sức đề kháng nữa. Mọi năng lượng dự trữ đều đã cạn. Tôi hầu như là một bộ xương biết đi mà thôi! Mỗi sáng thức dậy tôi bước xuống các bậc của tầng gác nằm một cách rất khó khăn. Một hôm thì tôi không còn gượng dậy được nữa, và các bạn tôi đã khiêng tôi xuống bệnh xá. Trí óc tôi lúc đó vẫn tỉnh, nhưng tôi phải giả như mê man vì nếu không thì họ sẽ buộc tôi phải đi lao động. Không có ai là bác sĩ, do đó tôi không sợ ai phát hiện được tôi đang giả vờ, và cũng không có thuốc men gì ở bệnh xá nên tôi cũng không sợ bị uống phạm thuốc.

    Mọi người nghĩ tôi đang chết dần mòn. Họ đặt tôi nằm trên một chiếc giường ở gần cửa sổ phía trước trong bệnh xá. Có hai dãy khoảng hai mươi chiếc giường trong phòng ấy. Căn phòng tất nhiên là sạch sẽ hơn phòng giam rất nhiều vì chỉ có khoảng trên dưới mười bệnh nhân mà lại được dọn vệ sinh hàng ngày. Nhà cầu thì nằm bên ngoài. Ngoài hai trại viên được ban giám thị cho phép làm việc ở đó ra thì các bệnh nhân khác đều hầu như kiệt sức hay gần chết, do đó họ không để ý nhiều đến vấn đề an ninh.

    Để trị bệnh cho tôi thì họ cho tôi uống những viên thuốc bột sâm dại mà họ thu nhặt ở trong rừng và trồng trong bệnh xá. Điều quan trọng là tôi được nghỉ ngơi không phải làm gì và còn được ăn uống khá hơn với cơm trắng và nhiều rau.

    Vài người bạn của tôi đến thăm, nhưng tôi vờ không nhận ra họ. Tôi nghe những người làm trong bệnh xá nói với tên cán bộ phụ trách rằng tôi bị kiệt sức về tinh thần lẫn thể xác, do đó tôi hơi bị thần kinh! Họ cần giữ tôi ở đó để đoán bệnh! Giống như những trại viên khác bị kiệt lực, không ai có thể sống sót được, nên họ nghĩ sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ chết mà thôi.

    Trong những ngày đầu nhìn thấy các bệnh nhân lần lượt chết, tôi nghĩ chắc tôi cũng không tránh khỏi. Tôi cảm thấy mất tinh thần. Nhưng khoảng một tuần sau, tôi cảm thấy mình khá hơn. Cái bản năng sinh tồn lại khiến tôi chiến đấu với chính tôi. Tôi cố dấu sự hồi tỉnh của tôi đi, nhưng trong thâm tâm thì tôi biết rằng tôi sẽ qua được cơn khó khăn này. Tôi cố làm sao để ở được trong bệnh xá càng lâu càng tốt. Chỉ có ở đây mới cung cấp cho tôi được những bữa ăn khá hơn một chút và không phải lao động! Tôi đã không bị bệnh gì nặng mà chỉ bị thiếu ăn.

    Đầu tiên tôi nằm suốt ngày suốt đêm khoảng một tuần lễ. Mỗi khi tỉnh dậy, tôi làm bộ như đang lầm bầm gì đó mà tôi không nhớ được. Đôi khi tôi hát nhỏ mấy câu hát tự nhiên đến với tôi. Tôi nghe họ nói với cán bộ phụ trách bệnh xá rằng tôi bị thần kinh nhưng không có triệu chứng gì nguy hiểm! Điều này tốt cho tôi vì tôi có thể ở bệnh xá chứ không bị cách ly.

    Một tháng sau tôi cảm thấy khỏe hơn mặc dù chỉ uống mấy viên thuốc làm bằng sâm dại và uống nước dâu tằm như là một phương thuốc an thần. Tôi biết rằng tôi không thể nằm mãi, do đó tôi giả vờ nửa tỉnh nửa mê và tự mình kiềm chế mình trong sự giả vờ ấy. Tôi nhận biết sự việc hay vờ như không biết gì cả tùy theo ý của tôi. Hàng ngày, khi họ cho rằng tôi tỉnh thì họ bảo tôi làm những việc lặt vặt như lau sàn nhà, nhặt rau cho bửa ăn của bệnh nhân. Khi họ thấy tôi đi tới lui và lầm bầm cái gì đó thì họ không bảo tôi làm gì cả. Đôi khi tôi cảm thấy buồn cười cho những hành động của chính mình rồi tự nhiên bật thành tiếng cười giống như tôi đang điên thật vậy. Mọi người cũng tưởng rằng tôi điên thật! Nhưng mà tôi cần gì? Tôi chỉ muốn lấy lại sức trước khi phải trở về buồng giam. Tôi cũng không cảm thấy mắc cỡ chút nào bởi vì tôi nghĩ rằng mình phải thực hiện câu cách ngôn của người Việt rằng “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy” để giả dại qua ải trong lúc này.

    Ba tháng sống trong bệnh xá giúp tôi rất nhiều sau này, nhưng tôi lại phải chứng kiến biết nhau sự đau khổ của những trại viên. Hầu hết những trại viên bị bệnh đưa vào đó đều đã chết vì đuối sức, chết vì bệnh mà không có thuốc và đói mà không có gì để ăn và không được nghỉ ngơi. Vài bệnh trạng thông thường dễ dàng giết chết họ bởi vì họ không còn sức đề kháng nào cả, và cũng không có gì để chửa trị. Một trại viên bị vết thương làm chứng uốn ván đã bị bỏ mặc cho chết một cách đau đớn. Nhiều trại viên bị thổ tả bị chết vì chỉ uống mấy thứ cỏ dại mà thôi. Vài người khác bị thương trong lúc làm lao động đã chết vì nhiễm trùng mà không có thuốc kháng sinh. Một trại viên bị các cán bộ đánh nằm chết ói máu bên cạnh giường tôi. Tôi không nhớ hết đã có bao nhiêu người chết trong thời gian ba tháng mà tôi nằm trong bệnh xá, nhưng tôi nghĩ cái danh từ “nhà xác” được dùng cho bệnh xá quả thật không sai chút nào!

    Trong thời gian nằm ở đó, tôi còn được chứng kiến một hoạt cảnh rất lạ lùng. Một hôm nọ có một phái đoàn của Bộ Nội Vụ đến thăm trại, các cán bộ trong trại đã dời hết những bênh nhân nặng đi đâu mất và thế vào bằng những trại viên khác. Tôi được ở lại vì lúc đó tôi cũng đã khá hơn nhiều. Sau đó họ dọn dẹp sạch sẽ bệnh xá rồi đặt ở mỗi đầu giường một hộp sữa đặc, một bộ quần áo tù mới, một gói đường với lời dặn là chúng tôi không được dùng những thứ đó mà chỉ để biểu diễn thôi. Khi phái đoàn đã đi khỏi trại, họ thu lại hết các thứ ấy rồi mới đưa các bệnh nhân trở về. Đó chỉ mới là phái đoàn của VC; nếu là một phái đoàn khác thì không biết họ sẽ biểu diễn tới mức nào?

    Tôi rất là may mắn đã xuất khỏi bệnh xá một cách lành lặn. Những “nhân viên bệnh xá” và ông “cán bộ bác sĩ” phụ trách ở đó cho tôi được trở về đội 10 với đề nghị là tôi phải thường xuyên trở lại để tái khám hàng tuần (mặc dù họ không biết khám bệnh là thế nào!) Họ rất hãnh diện là đã trị cho tôi hết bệnh mà chỉ cần dùng các thứ “thuốc dân tộc”.

    Kể từ khi đó, tôi chỉ làm việc như một trại viên coi về kỷ thuật xây dựng cho trại ở đội 10. Tôi không phải leo lên mái nhà hay khuân vác đồ nặng nề nữa.


    Chương 37. Làm Thợ Vẽ

    Những tấm hình mà tôi vẽ vợ con tôi đã đưa tôi đến với công việc vẽ vời ở trại cải tạo Tân Lập. Khi khám đồ đạc tôi, các thường trực thi đua và cán bộ đã trông thấy chúng và sau đó không lâu tôi được gọi lên để làm điều mà họ gọi là làm “văn hóa” -vẽ và kẻ chữ.

    Lần đầu tiên thì Long, người đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn cùng với tôi phải vẽ hai tấm tranh cổ động cho phong trào thi đua cải tạo của trại viên. Một tấm lấy đề tài là “lao động” và một có đề tài “học tập”. Long đã chọn đề tài “lao động” và tự vẽ phát lấy tấm tranh theo ý anh ta; riêng tôi thì hỏi Bích, trưởng ban thường trực thi đua đưa tôi hình trong một tờ báo và vẽ theo đó. Tôi cảm thấy không an tâm khi vẽ tranh cổ động tự ý mình vì “họ” thường có ý nghĩ về tấm tranh ấy theo cái nhìn của họ, nhất là đối với loại tranh có tính cách tuyên truyền.

    Tấm tranh cổ động đầu tiên của tôi rất là đơn giản: một cây bút cắm vào một bình mực và một quyển sách mở rộng nằm trên một cái bàn với một người ngồi phía sau như hậu cảnh. Tấm hình ở trong tờ báo vẽ theo kiểu đường nét rõ ràng, do đó tôi chỉ có việc phóng đại nó ra cho vừa với khổ của khung vải.

    Với một khả năng về nghệ thuật, Long phát tấm tranh của anh ta rất cẩn thận. Long đã chọn một đề tài khá phức tạp vì việc “lao động” trong trại có nhiều ngành nghề khác nhau. Anh ta đã tập trung vào đề tài chăn nuôi: Hai trại viên trong bộ đồng phục tù đang cho heo và gà vịt ăn. Long lại không vẽ bằng đường nét mà vẽ theo hình khối với những màu sắc tương phản để biểu diễn cấu hình của tấm tranh. Đó rõ ràng là một tấm tranh rất xuất sắc, nhưng tôi lại nghĩ chưa chắc gì nó thích hợp với những người không hề biết và cũng không cần biết gì về nghệ thuật!

    Tôi cũng muốn kể lại rằng việc vẽ vời ở trong trại, nhất là trại Tân Lập không đơn giản như ta nghĩ. Để có được tấm khung vải, chúng tôi đã phải tự làm khung lấy, và lại phải nối những cái mền của những trại viên được thả ra để căng khung vải. Sau đó, chúng tôi phải cà củ khoai mì ra để nấu hồ trộn với phèn chua để tránh bị lên men rồi phết lên khung vải trước khi bắt đầu vẽ. Việc này dù sao cũng là một công việc vui vì chúng tôi có thể có thêm khoai mì để ăn. Màu vẽ lại cũng là một vấn đề. Chúng tôi không có gì cả ngoài những gì mà chúng tôi có thể thu lượm được trong trại: lọ chảo trộn với dầu hôi để làm màu đen, mực xanh và tím, thuốc đỏ làm màu đỏ, vôi bột làm màu trắng, thuốc ki-nin làm màu vàng, vân vân. Ngoài ra phải lấy đuôi heo hay thanh tre để làm cọ vẽ. Mọi cái đều phải “khắc phục khó khăn” như họ thường nói!

    Hai tấm tranh cổ động khổ hai thước rưỡi, ba thước được hoàn tất sau một tháng trường. Rồi lại đến lúc để duyệt trước khi cho treo lên! Ban Giám Thị trại, Hội Đồng Cán Bộ, và Ban Thi Đua đã họp trong phòng mà chúng tôi để hai bức tranh để phê bình. Đối bức tranh của Long, họ nói rằng nó rất đẹp, nhưng hình ảnh của hai trại viên trông rất buồn, điều này có nghĩa là Long vẫn chưa an tâm cải tạo và không tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước! Đối với tấm tranh của tôi thì họ bảo rằng cái bút cắm thẳng vào bình mực trông giống như con dao đâm vào tim! Bích, trưởng ban thi đua nói rằng tấm tranh của tôi được vẽ từ một tấm tranh cổ động trong tờ nhật báo “Nhân Dân”, do đó họ không có thêm phê bình nào khác.

    Sau đó Long bị đưa sang K1 để nhốt biệt giam và tấm tranh của anh ta thì được Phong, một phạm nhân hình sự làm trong bộ phận văn hóa sửa lại. Tôi không biết rõ tại sao họ lại nhốt kỷ luật Long, vì bức tranh hay vì những hành động trước đó của anh ta. Long là người đã góp phần trong việc đánh ăn ten trên chiếc tàu “Sông Hương” khi chúng tôi được đưa từ Nam ra Bắc. Đó là một bài học cho tôi ở trong trại. Kể từ đó trở đi, tôi không bao giờ tự sáng tạo bất cứ tấm tranh nào. Khi nào làm công việc “văn hóa”, tôi luôn luôn đòi hỏi những hình mẫu và giử những bản mẫu ấy để tự đề phòng.

    Một lần khác, họ bảo tôi vẽ chân dung Hồ Chí Minh, tôi cố tránh bằng cách bảo rằng tôi không quen vẽ chân dung mà chỉ mới học vẽ hình vợ con tôi mà thôi. Họ bảo Long vẽ chân dung Hồ Chí Minh còn tôi thì vẽ chân dung của Các Mác và Lê Nin. Tôi chỉ vẽ đen trắng bằng than mà thôi và bảo với họ rằng tôi không biết vẽ chân dung bằng màu. Long đã vẽ hình của Hồ Chí Minh rất đẹp, nhưng anh ta vẫn bị phê bình là màu da của Hồ trong tranh giống như một xác chết! Màu sắc tự chế lấy không thể tạo được tấm tranh như ý họ muốn là “sống động”. May mắn là lần ấy Long chỉ sửa lại thôi chứ không bị kiên giam.

    Làm công việc “văn hóa” trong trại đôi khi cũng nguy hiểm, nhưng lại là một việc nhẹ nhàng và có lúc cũng có những “bồi dưỡng”. Trong những ngày lễ của VC như ngày Độc Lập, ngày Công An Nhân Dân, hay ngày Quân Đội Nhân Dân, công việc của tôi là cắt chữ dán vào vải để làm khẩu hiệu, và rồi chúng tôi đem treo chúng trong hội trường cùng với vài thứ trang hoàng khác. Sau khi hoàn tất công việc, chúng tôi thường được một bữa ăn đặc biệt, điều này rất có ích cho chúng tôi trong tình trạng thiếu ăn trong trại.

    Tôi luôn nhớ ngày Giáng Sinh năm 1977, ngày lễ Giáng Sinh đầu tiên ở trại Tân Lập. Sáng sớm ngày 24 tháng chạp năm 1977, thường trực thi đua bảo tôi đi trang trí cho khu cơ quan. Tôi rất ngạc nhiên vì VC không bao giờ cho phép chúng tôi có bất kỳ một thứ lễ nghi tôn giáo nào trong trại. Tôi không tin là họ tổ chức Lễ Giáng Sinh! Nhưng sau đó thì tôi khám phá ra rằng họ ăn mừng ngày “Công An Nhân Dân” của họ chứ không phải là ngày lễ Giáng sinh!

    Sau khi hoàn tất công việc, họ cho tôi một ít kẹo đậu phọng và đưa tôi trở vô trại. Mọi thứ đều đã thay đổi. Để ngăn ngừa trại viên ăn mừng Giáng Sinh, họ đã khám đồ đạc trại viên rồi biên chế để xáo trộn trại viên trong các đội với nhau. Tôi vẫn ở lại đội 10, đội làm mộc, và các bạn tôi đã giúp tôi mang đồ đạc sang phòng giam khác. Tối hôm đó chúng tôi có được một ít kẹo của họ cho để ăn lễ Giáng Sinh!

    Sau khi được tha ra khỏi biệt giam, Long làm việc trong bộ phận văn hóa còn tôi thì vẫn ở đội 10. Tôi chỉ làm công tác “văn hóa” trong những ngày lễ hoặc khi họ cần. Ngoài ra thì tôi cũng không thích làm việc ấy một cách thường trực vì nó khiến tôi phải ở mãi trong trại. Làm công việc xây dựng khiến tôi cảm thấy có chút gì đó tự do hơn mặc dù có hơi nặng nề hơn.


    Chương 38. Vợ Tôi Đến Thăm Nuôi

    Năm 1978, sau gần hai năm ở trại Tân Lập, tôi gần như kiệt sức! Tôi không còn nhận được ra mình nữa khi nhìn vào gương. Tóc thưa hẳn đi vì nước suối A-Mai có chất độc gì đó đã làm nó rụng quá nhiều. Mặt mũi thì xanh xao và hai quai càm thì lại bạnh ra do chất độc của acid cyanhydric trong khoai mì ăn hàng ngày chất chứa trong tuyến dưới càm. Tôi gầy rộc hẳn đi mặc dù trước kia thì tôi cũng vốn đã gầy rồi.

    Nhìn các bạn lần lượt ngã ra chết, tôi tự hỏi liệu mình có thể vượt qua được cơn khó khăn này hay không. Tôi không sợ chết nữa bởi vì điều đó chỉ làm tâm hồn và thể xác tôi trở nên thanh thản hơn mà thôi. Cái đói hành hạ tôi hàng ngày. Do sự thiếu ăn và do ăn uống thiếu dinh dưởng, tôi luôn cảm thấy đói ngay cả sau khi vừa ăn xong. Tôi nghĩ tôi sẽ chết trong vài ngày, vài tuần, hay vài tháng nửa mà thôi, nhưng tôi chẳng quan tâm đến điều ấy nữa. Hàng đêm, tôi chỉ mong mình ngủ trong bình yên và không bao giờ thức dậy vào sáng hôm sau để khỏi phải chịu đựng cái đau khổ này nữa. Nhưng tôi không chết! Tôi nghĩ chắc là tôi đã mắc nợ quá nhiều trong tiền kiếp nên kiếp này phải trả cho dứt. Dân tộc mình có cái tội là đã diệt chủng một dân tộc Chiêm Thành ở phía Nam của Việt Nam nên chúng tôi phải trả món nợ ấy.

    Kể từ tháng tư năm 1977, khi chúng tôi đến trại Tân Lập cho đến tháng sáu năm 1978, chúng tôi không được phép viết cho gia đình một chữ nào. Sau này gia đình tôi kể lại rằng họ tưởng tôi đã chết ở một nơi nào đó ở miền Bắc rồi. Họ đã nhờ những người quen biết làm trong chính quyền của VC hỏi dùm, nhưng không ai biết gì về tôi cho đến khi nhận được thư tôi hơn một năm sau.

    Cuối năm 1978, sau khi thấy chúng tôi chết quá nhiều, VC mới cho chúng tôi được nhận quà của gia đình với quy định năm kí lô mỗi ba tháng và với một số giới hạn như không được gởi thực phẩm khô, gia vị và muối để đề phòng trốn trại. Tôi đã nhận được gói quà đầu tiên của gia đình gồm những món rất thông thường nhưng gói ghém biết bao tình thương: mắm ruốc, muối mè, bột gạo lứt, đường đen, và vài loại thuốc men để trị cảm cúm. Qua bức thư của gia đình, tôi biết được gia đình tôi cũng đã rất nghèo khi họ nói rằng đó cũng là tình trạng chung của đất nước sau chiến tranh. Họ đã phải chia xẻ cảnh nghèo khổ ấy cho tôi.

    Những vật trông rất tầm thường đối với xã hội bên ngoài nhưng rất quý giá đối với trại viên trong trại cải tạo, nó có thể giúp chúng tôi vượt qua được bao nhiêu là sự khó khăn ngay cả nó có thể giúp chúng tôi sống sót được nữa. Giống như cây cối bị khô hạn lâu ngày, một cơn mưa rào có thể làm nó xanh tươi lại! Với một ít thêm vào bữa ăn hàng ngày khiến sức khỏe chúng tôi phục hồi rất nhanh; một vài loại thuốc thông thường như Aspirine, Tylenol, Vitamin, có thể trị được những bệnh đã tiềm ẩn lâu ngày vì chỉ uống mấy thứ “thuốc dân tộc” -những thứ lá cây rừng phơi khô-

    Đầu năm 1979, gia đình trại viên được phép đến trại để thăm nuôi, nhưng rất hiếm hoi. Chỉ một vài gia đình có thân nhân ở miền Bắc là đến được vì phương tiện di chuyển từ Nam ra Bắc còn rất khó khăn và hạn chế. Để đến trại từ Sài Gòn, thân nhân chúng tôi phải mất hàng mười ngày cho một chuyến đi! Họ còn phải xếp hàng đợi thật lâu mới có thể mua được vé xe lửa, đôi khi phải mất hai ba ngày. Từ Sài Gòn đến Hà Nội, xe lửa chạy mất ba bốn ngày. Rồi lại chờ “tầu chợ” (loại xe lửa đường ngắn) ở ga Hàng Cỏ để đến ga Ấm Thượng, mất thêm hai ngày nữa. Từ ga Ấm Thượng đến Bến Ngọc phải đi đò dọc theo sông Hồng và suối A-Mai. Đi vào trại từ Bến Ngọc, gia đình chúng tôi không có phương tiện nào khác ngoài cách đi bộ mười lăm cây số với đồ đạc nặng nề trên vai. Cho đến khi có nhiều thân nhân đến thăm nuôi, trại mới dùng một chiếc xe ngựa để đưa rước.

    Bên cạnh sự khó khăn về di chuyển, cướp bóc dọc đường còn là một điều rất thường xuyên xảy ra nữa. Rồi còn chuyến đi về Nam, do đó người đi thăm nuôi phải mất hàng tháng cho một chuyến đi để chỉ được gặp trại viên trong thời gian mười lăm đến hai mươi phút. Điều đó có đáng hay không? Chỉ có tình thương mới giúp họ làm được việc ấy mà thôi.

    Trong bức thư gửi cho tôi năm 1979, vợ tôi dường như có ý định đi thăm tôi. Vợ tôi viết rằng ít ra thì cũng có thể gặp tôi được một lần, nhưng mà cô ấy chưa có tiền! Bức thư ấy khiến tôi ở trong tình thế lưỡng nan. Tôi rất muốn gặp vợ tôi, nhưng lại không muốn cô ấy chịu cực khổ vì chuyến đi. Vợ tôi không khỏe mạnh như nhiều người khác. Tôi viết thư trả lời để ngăn cản ý định ấy của vợ tôi. Tôi bảo rằng tôi luôn yêu thương cô ấy, nhưng tôi không muốn cô ấy phải chịu cực khổ vì chuyến đi như thế. Vài gói quà của gia đình là đã giúp tôi nhiều lắm rồi, tôi chỉ muốn cô ấy an tâm để nuôi con mà thôi. Tình yêu mà cô ấy dành cho tôi là một động lực để giúp tôi vượt qua được cảnh ngộ này rồi.

    Vào tháng sáu năm 1979, khi mà tôi không trông mong gì cả thì một hôm tôi lại được gọi ở lại trong trại trong khi đội xuất trại đi lao động. Họ bảo rằng tôi có người đến thăm nuôi. Tôi rất kinh ngạc và đoán rằng có lẽ là vợ tôi đến. Không còn bộ quần áo cá nhân nào, tôi phải lựa một bộ đồng phục tù còn tương đối mới để mặc. Tôi không có được tấm gương để trông xem mình ra thế nào, nhưng tôi biết tôi trông rất kỳ khôi! Tôi không muốn vợ tôi trông thấy tôi như thế này, nhưng tôi phải làm sao đây? Hai năm rưỡi về trước gặp nhau ở trại Thủ Đức, tôi đâu đến nỗi như thế này. Ở trại Thủ Đức thì dù sao chúng tôi cũng đủ ăn và không phải lao động quá nặng nề, và tôi còn có quần áo riêng để mặc khi ra thăm không đến nỗi kỳ quặc như thế này. Hai năm ở trại Tân Lập gần như đã giết chết tôi, dù không giết chết ngay tức thì nhưng cũng đã từng bước một. Tôi không còn là tôi nữa!

    Tôi bước đi trên con đường đến nhà thăm nuôi như một người không có linh hồn. Chỉ có một phần hạnh phúc xen lẩn với không biết bao nhiêu nỗi lo lắng trong lòng! Vợ tôi ra sao? Làm sao cô ta có thể chịu đựng được một cuộc hành trình xa xôi và vất vả như thế? Gia đình tôi thế nào? Con tôi ra sao? Hàng trăm câu hỏi xâm chiếm lấy đầu óc tôi trên con đường đi đến nhà thăm nuôi.

    Vợ tôi đang đứng ở ngưỡng cửa với những người khác khi tôi đi đến nơi. Chúng tôi ngồi hai bên chiếc bàn lớn với tên cán bộ ngồi ở đầu bàn quan sát. Tôi cố vói qua nắm lấy tay cô ta và siết chặt. Những gì mà chúng tôi đã nói với nhau tôi không thể nhớ được, nhưng tôi nghĩ rằng tôi chỉ đủ thời gian để hỏi về gia đình, về con tôi, về cuộc sống của vợ tôi khi không có tôi ở nhà! Hơn một tuần lễ đi đến và rồi còn thời gian trở về mà chỉ gặp nhau được hai mươi phút, tôi nghĩ là không đáng cho sự chịu đựng của vợ tôi chút nào.

    Cô ấy trông vẫn trẻ, vẫn “mỏng manh”, vẫn là tình yêu của tôi như thuở nào, nhưng tôi thấy dường như xa xôi làm sao, dường như đến từ thiên đàng để gặp một người ở địa ngục! Cô ấy cho biết rằng cô ấy đi cùng với Ngọt, vợ của Tuân. Họ là bạn ở trung học, bạn có chồng làm chung với nhau, và bạn có chồng cùng ở tù chung nữa! Tôi cảm thấy hơi an lòng một chút khi biết rằng vợ tôi không phải đi một mình. Khi từ giã, tôi nhìn thấy ngón chân vợ tôi bị băng. Cô ấy cho tôi biết rằng thùng quà đã bị rơi khi cô ấy chất nó lên xe ngựa. Họ đã phải đi bộ từ Bến Ngọc vào đến trại vì có nhiều người đến thăm hôm ấy; chiếc xe ngựa đã chất quá đầy.

    Vợ tôi đã chịu bao nhiêu là khó khăn để đến thăm tôi, và còn con đường về nữa? Điều ấy cứ lởn vởn trong đầu óc tôi mãi khi tôi trở vào trại. Tôi đặt hai thùng và một giỏ quà lên chổ rồi nằm đó mà nghĩ đến vợ tôi. Cô ấy vẫn còn ở ngoài nhà thăm nuôi để chờ Ngọt đang thăm chồng bên K3. Chỉ có một hàng rào ngăn cách giữa vợ tôi với tôi, nhưng sao mà xa xôi quá như vậy! Hai mươi phút gặp nhau trôi qua như một giấc mơ mà tôi không thể nào quên được. Tôi còn có thể gặp được vợ tôi nữa không hay đây là lần cuối cùng? Những gói quà này chứa đầy tình yêu. Nó sẽ giúp tôi rất nhiều trong những ngày tháng sắp tới, nhưng điều quan trọng nhất đối với tôi lúc ấy chính là tình yêu của vợ tôi dành cho tôi vẫn còn hiện hữu.

    Tôi không thể chợp mắt được suốt đêm, mong tiếng kẻng báo thức. Điều đầu tiên khi ra đến nhà lô là hỏi Lung, cán bộ quản giáo của đội, dẫn tôi trở lại nhà thăm nuôi, nhưng mà vợ tôi đã đi cùng với Ngọt rồi. Tôi thất vọng đi trở về nhà lô không còn làm được gì nữa cả.

    Vợ tôi viết trong bức thư sau đó rằng cô ấy chỉ muốn ở lại với tôi một đêm thôi để có thể tâm sự được với nhau. Hai mươi phút trôi qua quá nhanh, nhưng cô ấy cảm thấy hãnh diện vì các bạn đi cùng bảo rằng tôi trông vẫn còn trẻ và trông không đến nỗi tệ hại như họ nghĩ! (ngay cả trong bộ đồng phục tù!)

    Kể từ khi có nhiều trại viên được thăm nuôi thì bộ mặt của trại thay đổi hẳn ra. Những trại viên có thân nhân ở nước ngoài gởi tiền về được thăm nuôi thường xuyên, vài người không ăn cả phần ăn của trại và chia nó ra cho những người khác. Các trại viên “cô nhi” có thêm được một ít trong tiêu chuẩn ăn hàng ngày, và giống như nắng hạn gặp mưa rào, mọi người trở nên khỏe mạnh hơn lên.

    “Đội lâm sản” và “đội vận chuyển” đã được giao cho các trại viên miền Nam. Chúng tôi bắt đầu liên hệ với dân chúng sống trong vùng quanh trại, và họ cũng đã bắt đầu làm quen với người miền Nam thông qua gia đình trại viên. Một số người dân có thêm một công việc mới, đó là giúp gia đình đến thăm mang đồ đạc và chuyển vào trại bằng xe đạp.

    Ở vùng hẻo lánh như nơi đó thì thời trang Sài Gòn là một điều rất hấp dẫn đối với những người dân không đủ quần áo để mặc. Khi những người Sài Gòn đến nơi thì trẻ con chạy theo nhìn, những cô gái thì ngắm nhìn rồi bàn tán, những người đàn ông thì huýt sáo. Trong một bức thư vợ tôi gửi tôi sau này, cô ấy nói rằng khi Ngọt và cô ấy đi vào trại thì thấy các đứa trẻ quần áo tả tơi chạy theo và bảo nhau đi xem các “tài tử”. Cô ấy không thể ngờ rằng lại có những người dân còn nghèo khổ đến như thế.

    Khi đã có nhiều người đến thăm nuôi, dân chúng trong vùng và cả gia đình cán bộ có thêm được một nghề mới, bán đồ đạc cho thân nhân và cho trại viên. Dân chúng đi mua những món hàng từ các thành phố gần đó về bán dọc theo con đường từ Bến Ngọc đến trại. Người đi thăm nuôi không phải mua những thứ nặng nề hoặc những thức ăn tươi từ Hà Nội nữa. Cán bộ và gia đình còn mang cả đồ vật vào trại bán cho các trại viên đã dấu tiền khi thăm nuôi. Mặc dù nội quy không cho mang tiền vào trại, nhưng rồi họ cũng làm ngơ.

    Cuộc sống trong trại càng lúc càng dễ dàng dần. Cán bộ trực trại có lúc đã bán cả rượu cho trại viên và vào uống với trại viên. Vào Tết năm 1982, họ nói rằng tổng số rượu mang vào trại lên tới con số trên hai trăm lít! Các cán bộ nữ thì bắt đầu học khiêu vũ với trại viên trong đội văn nghệ. “Nhạc vàng” vẫn bị cấm trong trại, nhưng các cán bộ lại bảo trại viên dạy cho họ hát. Tất cả những thứ đó trông giống như một sự tranh đấu giữa hai thứ văn hóa: cái văn hóa của người thắng trận và cái văn hóa của kẻ bại trận. Điều đó khiến tôi nhớ tới tình trạng của dân Mãn Thanh sau khi chiếm được nước Trung Hoa lập nên nhà Thanh rồi sau đó lại bị người Trung Hoa đồng hóa ngược lại vì Mãn Thanh là một dân tộc không có nền văn hóa phát triển như Trung Hoa.

    Cộng Sản thường nói rằng “ai thắng ai giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản”. Tôi nghĩ đây là một dịp để nhìn thấy được sự thật ấy. Họ đã thắng trong cuộc chiến, nhưng chiến tranh của hai nền văn hóa vẫn còn tiếp tục. Họ đã đốt hết sách vở của miền Nam, cấm ca hát “nhạc vàng”, cấm thời trang miền Nam, và thay vào đó bằng sách vở, ca nhạc, và thời trang của họ. Giờ đây họ lại muốn nghe nhạc vàng, muốn khiêu vũ kiểu miền Nam. Đó chính là dấu hiệu đầu tiên để trả lời câu hỏi “ai cải tạo ai, hay là ai thắng ai?”

    (Hết chương 34 – 38 . Xin xem tiếp chương 39 – 43)

Trang 1/2 12 cuốicuối

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 04-04-2014, 02:59 AM
  2. Câu chuyện của người tù "Cải tạo" về từ Yên Bái
    By Longhai in forum Chuyện tù cải tạo
    Trả lời: 0
    Bài mới nhất : 01-20-2014, 04:05 AM
  3. Trả lời: 1
    Bài mới nhất : 09-29-2013, 04:31 PM

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •