Chương bốn


Ông Bạch Khiếu Nhàn đi Huế ở chơi gần bốn tháng. Khi về tới nhà ông liền hỏi gia dịch vậy chớ lúc ông vắng mặt ở nhà có việc chi lạ hay không. Chú Phú đương ôm hành lý của ông đem vô buồng, nghe ông hỏi như vậy thì đáp rằng:

- Ông đi được hơn một tháng cô hai ở nhà trốn đi đâu mất.

- Cô hai nào?

- Bẩm ông, cô hai là cô quan Phủ ở bển.

- Úy! Cha chả! Nó trốn đi đâu?

- Dạ con không biết. Quan Phủ có sai người đi kiếm trên Bạc Liêu, mà kiếm không được.

- Nó đi với ai?

- Bẩm cổ đi một mình.

Khiếu Nhàn ngồi sảng sốt, mồ hôi nhỏ giọt, tay cầm cây quạt mà quạt, râu bay phất phơ. Chú Phú nói tiếp rằng:

- Bẩm ông, thầy ký Ðại cũng thôi làm việc với quan Phủ rồi. Thầy về có viết phong thơ để lại cho ông đây.

- Thầy thôi làm việc đi về hồi nào?

- Dạ, thầy thôi mà về, rồi cách ít bữa cô hai đi.

- Thơ đâu đưa coi.

Chú Phú lật đật lại bàn thờ lấy phong thơ của Chí Ðại mà đưa cho Khiếu Nhàn. Ông thấy phong thơ đã xé niêm rồi liềm hỏi rằng:

- Ai xé niêm đây?

- Bẩm. Cô hai qua cô xé cô xem rồi biểu tôi cất lại ông về trao lại cho ông.

- Nó có nói việc chi hay không?

- Dạ, không.

- Mầy nói con Bạch Tuyết trốn đi, mà nó xé thơ coi hồi nào?

- Bẩm cô coi thơ rồi khuya lại cô mới đi.

Khiếu Nhàn dỡ thơ ra đọc đi đọc lại hai ba lần, rồi ngồi suy nghĩ. Ông đã nghi cho Chí Ðại với Bạch Tuyết có tư tình với nhau nên dắt nhau mà trốn, chừng ông đọc thơ thấy có câu “Sợ là phận cháu khờ dại e sơ sẩy làm việc không xứng ý bác” thì ông càng nghi hơn. Ông lại bàn viết thấy có một miếng giấy đút dưới cuốn sách. Ông rút ra coi thì có ba chữ „Ông ngoại ôi“, tuồng chữ quả là chữ của Bạch Tuyết viết, song không thấy chữ chi nữa, ông lấy làm lạ, mới xếp bỏ chung vô bao thơ của Chí Ðại rồi mở tủ cất hết. Khiếu Nhàn thay áo rồi đi riết qua Phủ hỏi thăm chuyện Bạch Tuyết.

Quan Phủ nói có lệnh quan trên đuổi Chí Ðại đi được vài ngày, rồi Bạch Tuyết tom góp quần áo vàng bạc mà đi, ông có sai người lên Bạc Liêu tìm kiếm mà không gặp. Bạch Tuyết đi được ba bữa rồi có gởi một hộp vàng và kiềng về trả, coi con dấu nhà dây thép thì gởi tại Bạc Liêu.

Quan Phủ thuật tới đó rồi ngồi thở dài mà nói rằng:

- Thứ đồ hư quá; theo trai làm xấu ông bà cha mẹ, tôi giận không thèm sai đi kiếm nữa. Nó chết đi nữa, tôi cũng không tiếc một chút.

Khiếu Nhàn ngồi buồn nghiến, chừng quan Phủ nói rồi, ông mới hỏi rằng:

- Sao không sai người lên làng Chí Ðại ở đó mà hỏi thăm thử nó có theo lên đó hay không?

- Tôi biết Chí Ðại ở xứ nào đâu mà sai đi.

Khiếu Nhàn từ giã quan Phủ mà về.

Tối lại ông già Sen xin phép quan Phủ qua thăm Khiếu Nhàn, ông mới thuật lại mọi việc tại nhà lại cho ông Khiếu Nhàn nghe. Khiếu Nhàn giận vợ chồng quan Phủ và nghĩ thương cháu ngoại hết sức.

Sáng buổi hôm sau ông bỏ ít trăm bạc vào lưng, quyết đi tìm Bạch Tuyết với Chí Ðại.

Ông đọc thơ Chí Ðại lại, nói về quê quán mà thăm mồ mả rồi sẽ kiếm chỗ làm ăn, chừng nào ở yên nơi chắc chỗ rồi sẽ viết thơ cho ông hay.

Từ ấy đến nay không có cái thơ nào nữa, có lẽ Chí Ðại còn ở Vũng Liêm.

Ông tuốt qua Vũng Liêm hỏi dọ lần lần, họ chỉ đến nhà ông phó xã Mang. Ông hỏi thăm có Chí Ðại về đó hay không? Phó xã Mang đi khỏi, vợ ở nhà tuy nhớ lời Chí Ðại dặn, song thấy ông Khiếu Nhàn diện mạo nhơn từ, y phục tử tế đem lòng tin ông, nên tỏ thiệt rằng cách đây ba tháng trước Chí Ðại có về ở chơi vài bữa lại có dắt vợ theo.

Khiếu Nhàn hỏi thăm hình dạng vợ Chí Ðại thì biết quả là cháu mình nên trong bụng mừng thầm, song ngồi lo không biết bây giờ chúng nó dắt nhau đi đâu mà kiếm. Ông cho con phó xã Mang vài đồng bạc rồi hỏi thăm coi có biết Chí Ðại bây giờ ở đâu không?

Vợ phó xã Mang thấy ông tử tế, bụng muốn chỉ dùm ngặt không biết ở đâu mà chỉ. Khiếu Nhàn đi thẳng lên Sài Gòn ở gần một tháng đi cùng khắp các nẻo đường mà không gặp.

Ông trở xuống Mỹ Tho ở chơi năm sáu bữa nữa, mà cũng không gặp được.

Tiền bạc đem theo ăn xài đã gần hết, túng thế ông phải trở về Cà Mau, tính nghỉ ít ngày rồi đi kiếm nữa. Nào ngờ ông về nhà rồi mang bịnh rét, uống thuốc hoài mà bịnh dây dưa không dứt, nên ông không đi được nữa.

Qua năm sau Khiếu Nhàn biết trong mình thiệt mạnh nên mới sắm sửa hành lý mà đi tìm. Chuyến nầy ông ghé hết mỗi tỉnh, chỗ thì ở mười bữa, chỗ thì ở nửa tháng, mà đến chỗ nào ông hỏi thăm cũng chưa ra mối, nên lần lần ông lên tới Sài Gòn. Ông nghĩ lần trước mình cứ đi mấy đường lớn hoài nên không gặp; vậy chuyến nầy sớm mai mình ra chợ, buổi chiều mình đi mấy đường chẹt, nẻo tắt hoặc may có gặp hay chăng.

Bữa nọ, lối 4 giờ chiều, Khiếu Nhàn lần bước lên Cầu Kiệu, dòm phía đầu cầu bên kia thấy có một dãy phố lá.

Ông qua cầu rồi thủng thẳng đi dài trước dãy phố ấy, mỗi căn ông mỗi dòm vô, đi tới căn thứ tư ông thấy có một người đàn bà đương ngồi tựa cửa mà may, song day lưng ra ngoài nên không thấy mặt. Ông coi người ấy y phục bần tiện mà bộ ngồi giống Bạch Tuyết nên ông đứng lại chờ day mặt qua đặng ông coi có phải hay không.

Cách một hồi người đàn bà ấy đứng dậy ngó ra đường thấy Khiếu Nhàn vùng la lớn:

„Ủa, ông ngoại!”. Khiếu Nhàn cũng la lên: „Cháu“ rồi xốc xốc đi vô.

Người đàn bà ấy thiệt quả là Bạch Tuyết.

Mấy bữa rày Chí Ðại lành ngón chơn cái rồi, nên đi kéo xe kiếm tiền, trước mua gạo mà ăn, sau góp cho người ta. Bạch Tuyết bịnh đã giảm nhiều, nên lãnh một cái quần rán mà ngồi may mướn.

Khiếu Nhàn bước vô tới cửa, Bạch Tuyết ngồi bẹp xuống đất và khóc và lạy và nói rằng: „Xin ngoại tha lỗi cho cháu”. Khiếu Nhàn đứng ngó cháu mà khóc không nói tiếng chi được hết. Vợ lon ton Thiệt đang nấu cơm đàng sau nghe lộn xộn chạy ra hỏi thăm; chừng nghe nói ông cháu gặp nhau mới trải chiếu trên ván rồi mời Khiếu Nhàn ngồi.

Khiếu Nhàn nhìn Bạch Tuyết, thấy cháu mặc cái quần lãnh cũ có vá một miếng lớn tại đầu gối, cái áo vân đen càng cũ hơn nữa, tay mặt rách nên xé cụt tới cánh chỏ, còn vạt trước vạt sau mấy cái bông lủng hết nên có lỗ như đít rổ. Ông lại nhìn trong nhà không thấy có vật chi đáng, ông định chắc vợ chồng cháu nghèo lắm, nên ông càng đứt ruột nát gan. Ông chờ vợ lon ton Thiệt ra sau rồi ông mới hỏi rằng:

- Cô ở nhà trong đó là ai vậy?

- Thưa, chị đó là chủ nhà cháu ở đậu.

- Té ra cháu ở đây là ở đậu, chớ không phải nhà cháu sao?

- Dạ.

- Còn Chí Ðại đi đâu?

Bạch Tuyết nghe hỏi tới chồng thì đau đớn mà hổ thẹn nên day mặt vào vách ú ớ một hồi rồi thưa nho nhỏ rằng:

- Ði làm tối mới ...về. . .

Khiếu Nhàn hiểu ý cháu, nên nói rằng:

- Cháu đừng ngại chi hết. Ông về đến nhà ông Sen có thuật rõ chuyện của cháu cho ông nghe rồi. Ông không giận cháu đâu mà sợ. Bởi vì ông thương Chí Ðại lắm, năm trước ông cũng có ý muốn gả cháu cho thầy, song ông sợ quan Phủ ngăn trở nên ông tính đi Huế về ông sẽ định liệu. Chẳng dè ở nhà vợ chồng quan Phủ mưu sự muốn làm bức cháu nên mới ra nông nỗi nầy. Việc dĩ lỡ rồi, mà cũng giống ý ông muốn, nên ông không buồn chi hết. Ông có trách vợ chồng cháu là trách sao từ khi ông về đến nay vợ chồng cháu không về ở với ông mà cũng không gởi thơ cho ông biết chỗ ở, để ông già cả mà phải lặn lội đi tìm khắp xứ, thiệt khổ cho thân ông quá.

Bạch Tuyết khóc mà đáp rằng:

- Thưa ông, cháu thương nhớ ông, nhiều đêm cháu ngủ không được. Cháu cũng muốn về thăm ông, ngặt vì chồng cháu hổ thẹn không dám thấy mặt ông, cháu đã khuyên chồng cháu nhiều lần, bởi việc nầy là bởi cháu cậy thầy cứu cháu chớ thầy chẳng có ý bất nghĩa, nhưng mà thầy cố chấp lễ nghĩa quá, cháu khuyên không được. Nhiều khi vợ chồng nghèo cực quá, thầy muốn đưa cháu về ở với ông cho sung sướng tấm thân đặng thầy rảnh rang mà đi kiếm phương làm ăn. Cháu thấy chồng nghèo không nỡ phân ly, nên cháu không chịu, tại như vậy mà gần hai năm nay vợ chồng cháu không về, mà cũng không gởi thơ cho ông, vậy xin ông nghĩ tình mà tha lỗi cho vợ chồng cháu.

Khiếu Nhàn biết Chí Ðại vì liêm sỉ, còn Bạch Tuyết thì vì thương chồng, nên mới bị ông trách, bởi vậy ông cười mà nói rằng:

- Cháu nói bao nhiêu đó ông đủ hiểu rồi. Thôi, nay gặp được nhau thì vui, vậy cháu đừng khóc nữa, chồng cháu đi làm mấy giờ mới về?

- Thưa, chừng bảy giờ.

- Cháu lấy tiền đi mua đồ nấu cơm tối rồi ông trở lại ông ăn. Thẳng nó có về sớm, cháu biểu nó ở nhà mà chờ ông, chừng sáu giờ rưỡi ông trở lên.

Khiếu Nhàn đưa cho Bạch Tuyết mười đồng bạc, rồi kêu xe kéo mà đi. Chừng lối sáu giờ rưỡi, thiệt quả ông trở lại, có chở một gói áo quần lùm sùm. Ổng để gói lên ván rồi mở ra lấy đưa cho Bạch Tuyết một cây lãnh đen với hai xấp xuyến đen mà nói rằng:

- Cháu lấy hàng đây mà may áo quần vợ chồng bận cho lành lẽ; nghèo khổ rách rưới tội nghiệp quá!

Bạch Tuyết ôm hàng để bên cái chõng mình nằm, lấy mền đắp lại rồi đi ra nhà sau nấu cơm.

Khiếu Nhàn nằm trên ván mà nghỉ, chừng nửa giờ đồng hồ, bỗng nghe ngoài đường có tiếng chệc như vầy: “'T...m...nị là đồ ăn cướp người ta. Lấy gạo của người ta tem (đem) về ăn hôm nay sao không chịu giã gạo cho người ta, tiểu na má (tiếng chưởi tục) , nị là ăn cướp mà. Mai nị phải lại, hông lại ngộ kéo tầu (đầu) a, nói cho mà piết (biết)”.

Lại có nghe tiếng trả lời nho nhỏ, rồi lại có tiếng đàn bà la lớn rằng: “Cậu, cậu đã lành mạnh, đi kéo xe hai bữa rày, sao cậu chưa đem tiền mà góp cho tôi, cậu chờ tôi lôi lưng cậu phải hôn! Bữa nay đi xe được bao nhiêu đâu, góp liền bây giờ đi, không được hẹn mai hẹn mốt gì nữa hết.”

Khiếu Nhàn bước ra, ngó thấy Chí Ðại mặc quần bố xám, quần cụt tới đầu gối, đứng trân trân, một người chệc đang xĩ xô trong mặt, còn một người đàn bà đang lật lưng lấy tiền, ông lấy làm khó chịu hết sức, liền hỏi thiếu nợ bao nhiêu ông trả cho.

Chí Ðại ngó thấy ông, mặt mày tái mét, đứng trân trân, hai hàng nước mắt nhỏ giọt, không nói tiếng chi được hết.

Khiếu Nhàn hỏi thiếu tiền gạo bao nhiêu, người chệc nói một đồng, ông lấy bạc trả liền. Ông hỏi người đàn bà coi thiếu bao nhiêu tiền, người ấy nói thiếu mười lăm ngày tiền, mỗi ngày năm cắc. Ông đưa bảy đồng rưỡi bạc cho người đàn bà ấy rồi nắm tay Chí Ðại dắt vô nhà. Chí Ðại mặt mày sượng sùng, nên cứ đi theo như con nít, không nói một lời nào hết.

Vô tới nhà rồi, Khiếu Nhàn nói rằng:

- Ông không dè vợ chồng cháu nghèo đến nước nầy!

Chừng ấy Chí Ðại mới tỉnh lại, liền lạy ông và khóc và nói rằng:

- Cháu lỗi với ông nhiều quá, xin ông thứ tha.

Khiếu Nhàn đỡ dậy mà nói rằng:

- Cháu đùm Bạch Tuyết, nó mới khỏi sa tay vào kẻ thù, vậy ông mang ơn cháu, chớ cháu có lỗi chi đâu.

- Thưa ông, dầu ông thương cháu, ông tha lỗi cho cháu đi nữa, cháu cũng hổ thầm hoài, bởi vì cháu thọ ơn ông, cháu chưa trả được mà cháu lại làm phạm đến danh giá nhà ông nữa thì cháu còn mặt mũi nào dám ngó thấy ông. Ông nói cháu cứu vợ cháu, thưa ông, cháu nghe lời ấy cháu càng thẹn thùng thêm nữa. Chớ chi cháu là đấng trượng phu quân tử thì gặp lúc vợ cháu hoạn nạn như vậy cháu phải tận tâm bảo hộ nó hoặc phải liệu thế nào mà chống cự với kẻ nghịch, hoặc phải kiếm chỗ tử tế gởi nó ở rồi nuôi dưỡng nó, chờ ông về mà giao lại cho ông. Cháu lại không biết bền chí kiên tâm coi nghĩa nhẹ hơn tình, làm cho vợ cháu khi mới ra đi thì chịu tiếng oan mà thành tiếng hư thiệt, dường ấy thì cháu là đứa thất phu bất nghĩa, thế nào mà không hổ thẹn được.

- Dầu cháu không nói cho hết lời, ông cũng đã hiểu rồi. Việc nầy tại Trời khiến như vậy chớ không phải tại ai hết mà nếu muốn bắt lỗi ra thì một đứa một chút, chớ không phải lỗi một mình cháu.

Bạch Tuyết ở sau lắng nghe đủ mọi lời, chừng nghe tới đó liền bước ra mà nói rằng:

- Thưa ông, lỗi nầy tại cháu, chớ không phải tại ai hết, bởi vì lúc cháu trốn ra đi cháu đã mang tiếng lấy Chí Ðại rồi, bởi vậy cháu thầm nguyện kết tóc trăm năm với ảnh mà thôi, chớ không lẽ thác thân với người nào khác nữa được. Ðã vậy mà cháu lại hiểu ông muốn gả cháu cho ảnh nữa, nên lên tới Bạc Liêu, cháu tỏ thiệt không ái ngại chi hết.

Khiếu Nhàn cười và nói rằng:

- Thôi, bỏ chuyện cũ đi, chẳng cần phải giành lỗi với nhau làm gì, ông đói bụng rồi. Vậy nếu cháu nấu cơm rồi thì dọn ra đây mà cho ông ăn với.

Bạch Tuyết đi dọn cơm, còn Chí Ðại đi thay đổi áo quần. Anh lon ton Thiệt về nghe Khiếu Nhàn là ông ngoại của Bạch Tuyết thì anh ta niềm nỡ vô cùng. Ðêm ấy Bạch Tuyết thuật hết mọi việc lao khổ của Chí Ðại cho Khiếu Nhàn nghe rồi nói rằng:

- Thưa ông, vợ chồng cháu phối hiệp đã gần hai năm rồi mà chưa có hôn thơ hôn thú được. Nay sẵn có ông đây cháu xin ông bằng lòng cho vợ chồng cháu ra Xã Tây mà làm hôn thú cho rồi.

Khiếu Nhàn cười mà đáp rằng:

- Bây giờ đã thành hôn rồi còn xin phép tắc gì nữa. Mà thôi, để mai rồi ông sẽ tính việc đó cho.

Sáng mai Khiếu Nhàn bảo Chí Ðại ở nhà nói chuyện chơi cho vui và lén đưa cho Bạch Tuyết năm mươi đồng bạc đặng đi chợ mua ăn hoặc muốn sắm vật chi tự ý.

Ông nghe nói ở dãy phố đó có ông Nhiêu Tâm, thuở nay hốt thuốc cho Bạch Tuyết uống, ông mới lại làm quen chơi, rồi cậy đứng chủ hôn giùm cho Chí Ðại, còn ông thì đứng chủ hôn cho Bạch Tuyết, đặng có làm hôn thú cho cháu.

Ông Nhiêu Tâm vẫn đã có lòng thương Chí Ðại, nên nghe cậy thì ông chịu liền. Ðợi ít ngày may áo quần cho vợ chồng Chí Ðại xong rồi, mới dắt nhau xuống trước mặt Xã Tây xin làm hôn thú đủ phép.

Làm hôn thú xong rồi, ông cháu trở về nhà. Khiếu Nhàn với Bạch Tuyết vừa lòng phỉ nguyện nên vui vẻ vô cùng.

Chí Ðại tuy cũng vui, song nếu dòm mặt cho kỹ thì thấy anh ta có sắc lo.

Tối lại Khiếu Nhàn nói với Chí Ðại rằng:

- Sự nghiệp cũa ông tính hết cũng được mấy muôn đồng, mà cháu của ông bây giờ duy còn có một mình con Bạch Tuyết mà thôi. Ông biết cháu là người chí cao bụng tốt, bởi vậy từ ngày gặp cháu đến nay, ông yêu mến cháu cũng như cháu ruột của ông vậy. Nay ông gả Bạch Tuyết cho cháu được rồi, thì ông toại chí vui lòng, chẳng còn lo buồn chi nữa. Vậy ông tính đem hai cháu về ở với ông, trước hai cháu đỡ cực thân, sau ông có người hủ hỉ. Sự nghiệp của ông đó là sự nghiệp của hai cháu, vậy cháu phải về mà cai quản chớ ông già yếu rồi ông không coi sóc nữa được. Thôi hai cháu sửa soạn đồ đạc đặng bữa nào đi với ông.

Chí Ðại ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi thưa rằng:

- Thưa ông, cháu là đứa nghèo hèn côi cút, ông đem lòng thương cháu, đã không chê cháu bất lương, bất nghĩa, mà lại còn tính làm cho cháu ấm áo no cơm, lẽ thì cháu phải vưng lời mau mau dắt vợ cháu về ở với ông, đặng lo giấc ngủ, bữa ăn mà đền bồi ơn trọng mới phải. Ngặt vì vợ cháu, nó vì đại nghĩa nên mới quyết trao thân gởi phận cho cháu, mà đại nghĩa ấy cháu chưa làm giùm cho vợ cháu được, trong lòng cháu vẫn ái ngại hoài, nên không vui mà tính chuyện chi khác được.

- Việc đại nghĩa cháu nói đó là việc gì? Cháu nói rõ cho ông nghe thử coi.

- Thưa ông, ngày vợ cháu lên gặp cháu tại Bạc Liêu đó, nó có thuật rõ sự bà Phủ tráo thuốc mà giết nhạc mẫu cháu đặng giựt chồng, rồi cậy cháu ra giúp sức nó mà trả thù báo oán. Cháu biết sức cháu là châu chấu không thể chống với xe nổi mà cháu không biết dằn lòng để nhượng cái trách nhiệm ấy cho người có thế lực họ gánh cho. Cháu kết duyên với vợ cháu, tức là phải lo báo thù giùm cho vợ cháu, mà hơn một năm nay cháu không lo chi hết, nên cháu hổ thẹn vô cùng.

Khiếu Nhàn nghe nói nửa chừng, liền day qua ngó thấy Bạch Tuyết đang ngồi khóc, ông mới hỏi rằng:

- Chuyện tráo thuốc ai cho cháu biết mà cháu quyết chí báo thù.

- Thưa ông Sen.

Khiếu Nhàn lắc đầu rồi ngó ra ngoài đường, rưng rưng nước mắt. Cách một hồi ông mới nói với Bạch Tuyết rằng:

- Việc ấy xảy ra đã hơn 15 năm rồi, cháu còn nhắc lại làm chi! Bây giờ cháu tính báo thù, mà chừng báo thù được rồi mẹ cháu nó sống lại được hay sao?

Bạch Tuyết và khóc và nói rằng:

- Vậy chớ kẻ sát nhơn ông đành để cho an hưởng phú quí hoài sao? Cháu đã nguyện nếu cháu không trả thù cho mẹ cháu được, thì cháu không chịu thấy mặt người ấy.

- Chi vậy cháu! Ở đời làm lành thì gặp lành, làm dữ thì gặp dữ. Ðứa dữ thì để cho Trời hại nó, mình nuôi hờn kết oán làm chi.

- Ông biểu để Trời soi xét, họ làm như vậy mà 15 năm nay có thấy Trời hại họ đâu.

- Ðừng nói quấy không nên. Ông biểu cháu phải nghe lời. Hồi trước ông vừa nghe việc tráo thuốc thì ông cũng giận như cháu, ông muốn đi kiện cho quan trị tội đứa sát nhơn, song ông nghĩ dầu quan có phân thây xẻ thịt nó đi nữa, mẹ cháu cũng đã mất rồi, không thể nào sống lại được, nên ông mới bỏ qua. Thôi cháu nghe lời ông đừng thèm nhớ tới đi việc ấy nữa.

- Không nhớ sao được!

- Vậy chớ cháu thương má cháu mà hơn ông thương con hay sao? Ông biểu cháu, cháu phải nghe lời, đừng có trái ý ông.

Bạch Tuyết không dám trả lời, song ấm ức trong lòng nên ngồi khóc rấm rứt. Khiếu Nhàn muốn kiếm chuyện nói lãng nên day qua hỏi Chí Ðại rằng:

- Sao? Cháu tính bữa nào đi về Cà Mau với ông?

- Thưa ông, cháu tính khó đi lắm.

- Sao vậy?

- Bởi vì vợ chồng cháu thành hôn với nhau trái ý quan Phủ lắm, nếu nay mà vợ chồng cháu dắt nhau trở về Cà Mau thì coi như tuồng muốn chọc giận quan Phủ vậy. Ðã vậy mà phận cháu nghèo hèn, tuy ông thương cháu nên đem cháu về, mà cháu cũng vì muốn phục vụ ông nên mới về chớ chẳng có ý chi khác, song người ngoài không rõ đặng bụng cháu, họ dòm vô, chi cho khỏi họ nói ngày trước cháu thấy vợ cháu giàu sang, nên cháu rù quến đặng ăn của. Cháu không trả thù giùm cho vợ cháu được thì cháu hổ thẹn với vợ cháu rồi, nếu cháu còn phải hổ thẹn với thiên hạ nữa, thì cháu sống sao được. Thưa ông, như ông có lòng thương vợ chồng cháu, muốn cho cháu toàn danh tiết, và vợ cháu khỏi cực khổ tấm thân, thì xin ông làm ơn cho cháu gởi vợ cháu nương náu ít năm, chừng nào cháu làm nên thì vợ chồng cháu sẽ sum hiệp.

Bạch Tuyết châu mày mà thưa với ông rằng:

- Thưa ông, cháu cũng biết phận gái mà bỏ nhà ra đi thì nhục nhã cho tông môn lắm, nhưng tại dì cháu xúi cha cháu quá, nên bất đắc dĩ cháu phải liều thân. Hơn một năm nay, hễ cháu nhớ đến ông ở nhà một mình vào ra hiu quạnh thì cháu đau lòng xót dạ chịu không đặng. Nay cháu thiệt muốn về mà hủ hỉ với ông nhưng mà có về thì về cho đủ vợ đủ chồng, chớ đạo vợ chồng phú tắc cộng lạc, bần tắc cộng ưu[1], lẽ nào cháu về vui hưởng thanh nhàn, còn để chồng cháu dày bừa gió bụi cho đành.

Khiếu Nhàn lắc đầu nói rằng:

- Hai đứa bây, đứa nào nói nghe cũng phải hết. Có về thì về đủ vợ chồng, chớ kẻ bắc người nam sao được... Chớ chi gia tài ông một gánh một bưng, thì ông cũng túm mà đi ở với vợ chồng bây cho xong. Thôi, nếu vợ chồng cháu không chịu về thì để ông tính như vầy: “Gia tài của ông đó chính là gia tài của vợ chồng cháu. Vậy bây giờ cháu muốn năm bảy ngàn, hoặc bao nhiêu làm vốn buôn bán mà làm ăn thì cháu cứ nói đi, ông về ông lấy đem lên liền cho. Còn như ý cháu muốn làm thông ngôn ký lục thì cũng nói cho ông biết, dầu tốn hao bao nhiêu ông cũng rán lo cho cháu.

Chí Ðại đáp rằng:

- Thưa ông, cháu mang ơn ông rất nhiều, mấy năm nay cháu làm buồn cho ông thì có trả ơn cho ông thì chưa. Ông thương cháu, ông nói chuyện nãy giờ đó, cháu cầm cũng bằng bạc muôn rồi. Vả lại phận cháu làm trai đủ tay đủ chơn như người. Nếu Trời Ðất định số cháu phải cực khổ trọn đời, mà ông cứu vớt cháu thì sợ nghịch ý trời đất. Vậy xin ông an dưỡng quí thể, đừng lo cho phận cháu mà nhọc lòng ông.

- Khiếu Nhàn cười mà đáp rằng:

- Cháu luận nghe còn sơ siển lắm. Chẳng phải ông không đủ lòng mà cãi với cháu, song ông biết cháu là đứa chí cao, tánh cứng nên không cãi làm chi. Ðã vậy mà sách có câu: „Quân tử ái nhơn dĩ đức, tiểu nhơn ái nhơn dĩ cô truất''[2] : bởi vậy ông không muốn ép cháu về Cà Mau, mà cũng không muốn ép cháu thọ tiền bạc nữa.

Chí Ðại ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp rằng:

- Thưa ông, nếu được như vậy thì cháu chịu.

Khiếu Nhàn mừng rỡ liền nói rằng:

- Thôi, để thủng thẳng ông sẽ tính cho. Ông tính mai ông về thẳng nhà, vậy ông để lại cho vợ chồng cháu vài trăm đồng bạc mà xài, đợi ông trở lên rồi sẽ hay.

Chí Ðại nghe nói tới tiền bạc thì mắc cỡ ngồi cúi mặt lặng thinh. Khiếu Nhàn biết ý nên nói tiếp rằng:

- Ông thấy vợ chồng cháu nghèo khổ quá, ông chịu không được. Ông bàn tính câu chuyện với cháu đây là lấy thiệt tình mà nói, chớ chẳng có ý khinh cháu đâu mà cháu ái ngại. Ông cũng biết trên đời nầy kẻ giàu gả con cháu cho người nghèo thì thường khi bạc chàng rể, nếu có thương thì bất quá cho tiền bạc chút đỉnh, chớ chẳng hề tính lập nghiệp hoặc giúp cho nó lên danh bao giờ. Còn người nghèo hễ cưới được vợ giàu thì trông cậy nhờ, có kẻ bụng xấu lại lại mong cho ông cha bên vợ mau chết mà ăn của. Ông đây bụng chẳng phải như bụng những kẻ giàu nọ, mà ông cũng biết bụng cháu chẳng phải như bụng mấy chú rể kia. Cháu với ông gần gũi trót một năm, há chẳng thấu lòng nhau hay sao mà còn nghi ngại?

Chí Ðại nghe lời tri kỷ thì cảm động, nên cúi lạy Khiếu Nhàn mà nói rằng:

- Ông biết bụng cháu thật cháu cám ơn vô cùng. Ơn nầy biết ngày nào cháu đáp được và biết lấy chi mà đáp cho vừa. Như ông muốn để tiền bạc lại, thì cháu xin lấy hai mươi bốn đồng đặng cậy ông Nhiêu Tâm làm một tễ thuốc[3] cho vợ cháu uống mà thôi. Lúc nầy cháu nghèo, mà ông Nhiêu Tâm nói bịnh vợ cháu phải uống một tễ thuốc nữa mới thiệt mạnh. Vậy xin ông cho bao nhiêu đó, còn tiền ăn xài để mặc cháu lo chạy, có nhiều xài nhiều, có ít xài ít chẳng hại chi.

Khiếu Nhàn lắc đầu, miệng chúm chím cười và lấy hai mươi bốn đồng bạc đưa cho Chí Ðại.

Sáng bữa sau, Khiếu Nhàn về Cà Mau. Vợ chồng Chí Ðại đưa ông xuống ga xe lửa. Khi tới ga, Chí Ðại lo mua giấy, còn Khiếu Nhàn với Bạch Tuyết lên xe ngồi trước.

Ông đưa cho Bạch Tuyết ba trăm đồng bạc, dặn để dành mà xây dựng, đừng cho Chí Ðại hay. Bạch Tuyết sợ trái ý chồng nên dục dặc, ông ép riết mới chịu lấy.

Khi xe lửa sửa soạn chạy, Khiếu Nhàn kêu vói Chí Ðại mà dặn phải ở chỗ đó chờ ông, đặng chừng ông lên ông kiếm cho dễ.

Xe lửa chạy rồi, vợ chồng Chí Ðại thủng thẳng dắt nhau trở về.

Ði dọc đường, Chí Ðại tính nghỉ thêm một bữa đó nữa rồi sẽ đi kéo xe. Bạch Tuyết tỏ dấu buồn bực, không muốn cho chồng làm nghề ấy nữa, Chí Ðại sợ đói nên không nghe lời, túng thế Bạch Tuyết phải nói thiệt sự ông có để lại ba trăm đồng bạc. Chí Ðại châu mày mà trách vợ sao không biết trọng danh giá cho chồng. Bạch Tuyết năn nỉ nói rằng: „Xin anh đừng phiền. Hồi nãy thiệt em không muốn lấy bạc, vì em cũng biết làm như vậy thì hổ bụng anh. Ngặt em, thấy thân anh cực khổ em thương quá, nên bất đắc dĩ em phải lấy mà xây xài đỡ. Ðã biết ra ai làm ăn nghề nào cũng vậy, nhục vinh tại mình chớ không phải tại nghề, nhưng mà làm ăn cũng nên lựa nghề nào cho khỏe thân một chút. Nếu anh giận em, anh đi kéo xe nữa, em buồn rầu ăn ngủ không được, chắc bịnh sẽ phát lại, càng khổ thêm cho anh nữa“.

Chí Ðại nghe nói như vậy mới xiêu lòng.

Rạng ngày sau, anh ta mặc áo dài đi xuống Sài Gòn, tính kiếm việc xin làm.Vừa đi ngang qua sở Họa Ðồ bỗng nghe hai người lon ton nói chuyện với nhau rằng trong sở ấy có một thầy xin thôi việc. Chí Ðại liền làm đơn vào xin chỗ. Ông chủ sở Họa Ðồ thấy tuồng chữ hay, nên chấp đơn cho làm và định lương mỗi tháng mười tám đồng. Chí Ðại mừng rỡ, mãn giờ đi riết về nói lại cho vợ hay thì Bạch Tuyết cũng mừng. Tối lại anh ta lại nhà ông Nhiêu Tâm mà xin ổng làm một tễ thuốc cho vợ uống. Ông Nhiêu Tâm vừa nghe nói, liền lấy gói thuốc đưa cho Chí Ðại và nói Khiếu Nhàn đã biểu ông làm thuốc hôm nay mà cũng đã trả tiền trước rồi. Chí Ðại đứng chưng hửng.

Ông Nhiêu Tâm vẫn đã có nghe Khiếu Nhàn thuật tánh khí khái của Chí Ðại rồi nên thấy anh ta lưỡng lự ông mới nói rằng: „Tiền bạc là vật nhỏ mọn, cháu chẳng nên hiềm nghi lắm mà nhọc lòng“. Chí Ðại tạ ơn rồi đem thuốc về.

Mấy người cho tiền ngày, tiền tháng hổm nay nghe nói vợ Chí Ðại con nhà giàu, thì đã đem lòng kính phục, nay thấy Chí Ðại được làm thầy thông thì lại càng thêm kiêng nể nữa. Còn ông Khiếu Nhàn đi về dọc đường suy tới tính lui không biết dụng kế nào giúp đỡ Chí Ðại mà anh ta khỏi hiềm nghi hổ thẹn.

Về đến Cà Mau rồi, bữa sau ông qua dinh quan Phủ nói dối rằng ông đi chơi trên Mỹ Tho gặp Bạch Tuyết ở chung với Chí Ðại, ông biểu về hai đứa trẻ không nghe lời, nói như vậy đặng thử coi ý quan Phủ thương ghét lẽ nào. Quan Phủ lặng thinh một hồi rồi nói rằng: “Thứ con hư, nó chết đâu thì chết khuất mắt, cha còn biểu nó về làm chi“. Khiếu Nhàn thấy vậy không nói chuyện Bạch Tuyết nữa, lại xin cho đem ông già Sen về mà coi sóc việc nhà.

Lúc ấy ở Cà Mau có một người khách Hải Nam tên là Lâm Liễn Thành, buôn bán lớn, có kho để trữ cá khô, than đước và gạo trắng, lại có sắm bốn chiếc ghe biển, tục kêu là tàu Hải Nam, để chở mấy vật ấy qua Hạ Châu, hoặc Hương Cảng hoặc Xiêm La mà bán.

Chiều bữa nọ ông Khiếu Nhàn ghé tiệm Lâm Liễn Thành nói chuyện chơi. Trong lúc đàm luận chuyện buôn bán, Liễn Thành nói rằng buôn bán bây giờ chẳng có chi lợi bằng qua Ấn Ðộ dương vớt ngọc điệp[4] đem về Quảng Ðông, Hương Cảng mà bán, ngặt vì anh ta không có vốn đủ và không có người đi coi vớt ngọc điệp nên làm không đặng. Khiếu Nhàn nghe nói liền hỏi phăng[5] coi làm việc ấy phải xuất vốn chừng bao nhiêu, Liễn Thành nói phải xuất vốn hai muôn đồng mới đủ. Khiếu Nhàn ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:

- Nếu chú muốn làm việc đó thì tôi hùn một muôn, phần chú một muôn được hay không?

- Ông chịu hùn thì được, ngặt vì ông gia thế lớn, không lẽ bỏ nhà được, tôi thì mắc coi buôn bán ở đây. Ðặt người ở Quảng Ðông, Hương Cảng coi bán thì dễ, còn người đi tàu đi vớt ngọc điệp biết giao cho ai bây giờ?

- Không hại chi. Người đi coi vớt ngọc điệp để tôi kiếm cho.

- Nếu có người thì tốt lắm.

Hai người bằng lòng cả hai, nên bữa sau hội lại mà lập tờ hiệp đồng, trong tờ có định người đi coi vớt ngọc điệp ăn tiền công mỗi tháng sáu mươi đồng, lại hễ buôn bán có lời thì còn được lãnh thêm tiền huê hồng, tính thập phân chi nhứt[6].

Các việc tính xong rồi, Khiếu Nhàn biểu ông Sen coi nhà, còn ông đi tuốt lên Sài Gòn cho Chí Ðại hay. Chí Ðại nghe nói hết sức mừng rỡ nên chịu đi liền và xin gởi vợ ở nhà với ông đặng đi một mình cho dễ. Bạch Tuyết thấy chồng với ông ngoại đều như vậy nên không dám cãi song mặt không vui.

Khiếu Nhàn thấy vậy mới nói rằng: „Cháu đừng có buồn. Cháu về ở nhà với ông cho chồng cháu đi làm ăn một đôi năm, nếu may làm giàu được nó trở về vợ chồng sum hiệp an hưởng thanh nhàn vậy chẳng vui hay sao?“

Chí Ðại xin thôi làm sở Họa Ðồ. Vợ chồng từ giã hai vợ chồng lon ton Thiệt và ông Nhiêu Tâm rồi theo ông ngoại về Cà Mau.

Khi tới rồi, tối lại Khiếu Nhàn dắt vợ chồng Chí Ðại qua dinh mà nói cho chàng lạy quan Phủ, bà Phủ. Quan Phủ giận nằm trong phòng không chịu ra, còn bà Phủ ngồi xỉa thuốc sống[7], trổi giọng thấp giọng cao mà nhiếc Bạch Tuyết, mà cũng chịu cho lạy.

Bạch Tuyết vì sợ trái ý ông ngoại nên phải qua bên Phủ; chừng qua tới đó, thấy tình cảnh như vậy, cô lấy làm bất bình, nên vợ chồng đem để khay trầu rượu trên bàn thờ mẹ mà lạy rồi ra về không thèm cậy bà Phủ an ủi giùm cho quan Phủ bớt giận.

Sáng bữa sau, Khiếu Nhàn dắt Chí Ðại xuống tiệm Lâm Liễn Thành cho giáp mặt nhau và bàn tính việc đi vớt ngọc điệp.

Ðịnh chắc ngày khởi hành rồi, Khiếu Nhàn lén đem phần hùn một muôn đồng mà giao cho Lâm Liễn Thành và căn dặn đừng nói công việc hùn hiệp cho Chí Ðại biết.

[1] giàu cùng chung vui, nghèo cùng chung lo

[2] Người quân tử thương người thì làm cho cái đức của người càng lớn thêm, còn kẻ tiểu nhơn thương người thời làm cho người được sung sướng rồi trụy lạc» lời của Quản Trọng (Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên).

[3] thuốc huờn đông y.

[4] (perle) ngọc trai

[5] hỏi tới, đào sâu

[6] một phần mười

[7] dùng thuốc sống, lúc ăn trầu

----------------------------------------------

Chương năm


Chí Ðại đi rồi, Bạch Tuyết ở nhà xốn xang, ăn chẳng biết mùi, ngủ không yên giấc, thương nỗi chồng chơn trời góc biển linh đinh, rồi lại giận phận mình không rửa hờn báo oán đặng.

Khiếu Nhàn thấy cháu không vui cứ theo kiếm lời khuyên dỗ hoài. Bạch Tuyết sợ ông phiền nên trước mặt thì ráng làm vui mà sau lưng thì châu mày ủ mặt. Bạch Tuyết đã không đành an hưởng thanh nhàn, còn để cho chồng linh đinh cực khổ mà cách chừng một tháng không hiểu quan Phủ có ý chi, ngài qua xin Khiếu Nhàn cho rước con đem về. Tuy Khiếu Nhàn không cho, nói rằng Bạch Tuyết ở với ông đặng vào ra hủ hỉ cho vui, song Bạch Tuyết phát nghi, sợ bà Phủ bày mưu tính kế chi đây, nên mới xúi quan Phủ qua rước, cô bèn tính trốn nữa, một là tránh bà Phủ, hai là quyết làm cho cực khổ tấm thân như chồng, đợi chừng nào chồng về sẽ sum hiệp mà chung hưởng phú quí.

Tối bữa nọ Khiếu Nhàn ngủ rồi, Bạch Tuyết đương ngồi may thấy ông Sen đứng sớ rớ gần đó, cô mới kêu lại và khóc và nói rằng:

- Tôi thấy ông ngoại tôi càng ngày càng thêm già yếu rồi, phận tôi là gái có chồng, nghĩ khó mà trọn đạo thần hôn với ông ngoại tôi được. Tôi tớ trong nhà tôi trông cậy có một mình ông mà thôi. Vậy xin ông nghĩ bụng má tôi dưới cửu tuyền ráng lo lắng cho ông ngoại tôi. Nếu ông hết lòng thì dầu ngàn năm vợ chồng tôi cũng chẳng dám quên ơn nữa.

Ông Sen nghe lạ tai, bèn hỏi rằng:

- Cháu nói cái gì vậy? Nay cháu đã về đây, mà ông cũng đã về bên nầy rồi nữa, cháu còn lo sợ nỗi gì?

Bạch Tuyết không trả lời, lại day mặt vào vách mà khóc.

Cách vài ngày, Khiếu Nhàn đi đám cưới trong Trèm Trẹm, Bạch Tuyết ở nhà lén ông Sen tom góp quần áo và lấy ba trăm đồng bạc, rồi mướn ghe đi mất.

Khiếu Nhàn đi đám cưới về hay việc Bạch Tuyết trốn thì ông sửng sốt lo sợ phận gái liễu bồ[1], lộ đồ hiểm trở, nên biểu ông Sen coi nhà đặng ông theo mà tìm.

Khiếu Nhàn thương cháu như vậy, mà Bạch Tuyết đành lòng bỏ ông mà đi, nghĩ thiệt tội nghiệp cho ông mà cũng đáng giận cho Bạch Tuyết. Có lẽ cô ta từ nhỏ chí lớn không gần gũi ông, nên thương thì thương, mà không trìu mến, bởi vậy cô mới đành vì chồng mà phụ lòng ông.

Bạch Tuyết ra khỏi nhà, lật đật mướn ghe đưa lên Sài Gòn quyết tình đến chốn kinh thành xông pha gió bụi, dày đạp tuyết sương như chồng, chớ chồng cực khổ, mình thanh nhàn thì không trọn niềm phu phụ.

Cô đi tàu Lục Tỉnh lên tới Cần Thơ, tàu vưa cập cầu, bỗng thấy một thầy trạc chừng vài mươi tuổi, da trắng môi son, mình mặc đồ Lang Sa, tay cầm dù lục soạn, bước xuống tàu rồi đi thẳng vào phòng nhì, sau lưng có một đứa nhỏ theo xách va ly.

Sáng bữa sau, tàu lên đến Châu Ðốc, thầy leo lên bong[2] trên đứng hứng mát, hai tay cầm ống dòm kê vào cặp mắt mà xem tứ hướng, rồi day qua ngó thấy Bạch Tuyết, thầy men men lại gần, miệng cười chúm chím mà hỏi rằng:

- Xin phép cô cho tôi hỏi thăm một chút, biết có được hay không?

- Thưa thầy muốn hỏi việc chi?

- Tôi thấy cô tôi nhớ mày mạy, mà không biết cô ở đâu?

- Thưa tôi ở Sóc trăng.

- À phải! Năm nay cô chưa có chồng hay sao, mà đi một mình như vầy?

Bạch Tuyết hiểu ý con trừu nầy muốn chọc ghẹo mình nên cười thầm rồi đáp rằng:

- Thưa, tôi có chồng, song chồng tôi khác, chớ không phải như thầy.

- Vậy chớ như ai?

- Thưa, như mấy người nghiêm nghị, ăn nói khiêm cung, cử chỉ tề chỉnh kìa.

- Nói vậy thì tôi đây chẳng là liến xáo, xấc xược lắm sao?

- Thưa lời ấy tôi đâu dám nói!

- Chẳng biết chồng cô là ai? Xin cô cho tôi biết đặng tìm mà học.

- Thưa, chồng tôi ở bên Vũng Liêm.

- Ủa! Ở Vũng Liêm là ai kìa. Tôi ở tại Long Hồ, nếu cô nói tên có lẽ tôi biết.

- Thưa, chồng tôi là Phan Chí Ðại.

- Cơ khổ dữ hôn? Tôi xin lỗi chị, vì tôi không biết nên tôi lầm vậy xin chị chớ chấp.

Bạch Tuyết chưng hửng không hiểu là ai, vừa muốn hỏi thì thầy ấy nói tiếp rằng:

- Tôi đây là con ông Hội Ðồng Viễn ở Long Hồ, anh ở nhà khi còn nhỏ lên ở tại nhà ông già tôi đi học. Có lẽ khi anh có nói chuyện đó lại cho chị nghe chớ?

- Dạ, có nói. Xin lỗi thầy, thầy có phải tên là Lý Trường Thành hay không?

- Phải. Khi anh ở nhà thi đậu vào trường Mỹ Tho thì tôi còn ở học tại Long Hồ. Chừng tôi được vào trường Mỹ Tho thì anh thôi học, bởi vậy từ ấy đến nay anh em không gặp mặt nhau nữa. Chị đi đâu đây? Còn anh bây giờ ở đâu, làm ăn khá hay không?

Bạch Tuyết tỏ thiệt rằng chồng mình gặp thời vận chẳng may nên nghèo nàn. Nay làm từng khạo[3] mướn cho chệc, ngồi tàu đi qua Ấn Ðộ Dương mà vớt ngọc điệp, có để vốn liếng lại chút đỉnh, nên mình tính lên Sài Gòn ở mua bán làm ăn đỡ mà chờ chồng về. Còn việc của cô thì cô giấu, không chịu nói con ai và gốc ở đâu. Lý Trường Thành nói rằng mình học vừa mới thi đậu về nhà gặp tang cha. Bây giờ mẹ lại mang bịnh ho lao nên đi qua Cần Thơ rước thầy hốt thuốc cho mẹ, luôn dịp đòi bạc của họ thiếu.

Tối bữa sau tàu tới Vĩnh Long, Lý Trường Thành mời Bạch Tuyết ghé chơi cho biết nhà. Bạch Tuyết tính ghé đó, đặng sáng ngày xuống Vũng Liêm thăm mộ cha mẹ chồng, song cô nghĩ ở Long Hồ cô không quen với ai, và phận cô là gái không lẽ đi theo Trường Thành mà về nhà trong lúc đêm hôm, nên cô từ chối mà đi luôn, không chịu ghé.

Tàu tới Mỹ Tho, Bạch Tuyết ban đầu muốn kiếm chỗ ở đó đặng may thuê vá mướn mà độ nhựt, song cô nghĩ lại người Bạc Liêu, Cà Mau hay lên xuống Mỹ Tho, nếu ở đó sợ lậu tin rồi ông ngoại theo kiếm bắt, nên cô phải thẳng lên Sài Gòn.

Cô lên tới Sài Gòn, tuy quen biết phía Cầu Kiệu nhiều, song không dám lên đó mà ở, vì sợ ông ngoại biết chỗ lên kiếm. Cô mới lần vô phía chợ Ðũi, tính kiếm nhà xin ở đậu mà may mướn. Cô đương xách gói đi thơ thẩn ngoài đường bỗng gặp bà già bán cháo đậu, đương ngồi dựa gốc cây bàng mà nghỉ mát. Bạch Tuyết ngồi xề một bên giả mua cháo đặng làm quen hỏi thăm nhà cửa. Bà già ấy nói nhà ở trong đường hẻm Mặc Mầu (Mac Mahon). Bạch Tuyết hỏi thăm đến chồng con thì bà nói bà ở có một mình không có bà con chi hết. Bạch Tuyết mừng thầm liền năn nỉ xin ở đậu, chịu chia tiền phố với bà.

Bà già nghĩ nhà mình rộng rãi, mà khi đi bán cháo thì không có ai coi nhà, nên chịu cho Bạch Tuyết ở và dắt Bạch Tuyết về nhà. Bạch Tuyết thấy nhà không có đồ đạc chi hết, nên ngồi nghỉ một hồi rồi bà già dắt đi mua giường chiếu mùng mền đem về dọn chỗ nghỉ ngơi.

Bà già nầy không ai biết tên là chi, thuở nay lối xóm cứ kêu là „Bà già bán cháo đậu“ mà thôi. Bữa nào cũng vậy, hễ khuya bà thức dậy sớm nấu cháo, sáng ra bà gánh đi bán các nẻo đường, mỗi ngày mua cơm gạo, trầu thuốc rồi còn dư chừng vài ba cắc.

Bà bổn tánh thuần hậu, vui vẻ, nên ai cũng thương, ngặt bà có một tật là bà lẻo mép[4], chuyện đầu nầy bà hay đem nói đầu kia mà thôi. Có Bạch Tuyết ở đậu, bà đi bán khỏi khoá cửa nữa. Mà Bạch Tuyết cũng nhờ bà đi bán, nên bữa nào cũng gởi tiền cho bà mua cá thịt chút đỉnh nên khỏi đi chợ.

Tuy bà lẻo mép mà bà làm lợi cho Bạch Tuyết, bởi vì bà đi đến đâu bà cũng khoe Bạch Tuyết may khéo, nên Bạch Tuyết ở đó chưa được bao lâu, mà người gần kẻ xa đem áo quần đến mướn cô không đủ thì giờ may cho kịp.

Bạch Tuyết ở đó được vài tháng, may mướn tiền xài không hết nên mấy trăm đồng bạc cô đem theo còn y nguyên không bớt một đồng nào.

Chiều bữa nọ, Bạch Tuyết thấy trời tốt, muốn đi mua ít thước vải để may áo vắn[5] mặc trong nhà, nhưng vì cô ít đi chơi nên nhát đi một mình, mới cậy bà bán cháo đậu đi với cô.

Mua đồ rồi chừng trở về ngang qua nhà ga xe lửa Chợ Lớn, Bạch Tuyết ngó thấy một cô độ chừng mười lăm hoặc mười sáu tuổi, mình mặc áo quần vải đen, đầu choàng khăn lụa đỏ, tuy bộ tướng quê mùa song mặt mày sáng rỡ, một tay ôm dù, một tay xách gói, ở trên xe bước xuống đứng bợ ngợ, giáo giác, dường như không biết đi ngã nào.

Khi Bạch Tuyết với bà cháo đậu đi gần tới, thì nghe cô hỏi thăm một người kéo xe rằng:

- Anh ơi, anh biết nhà chị Tư Kiều ở đâu xin anh làm ơn chỉ giùm chút, anh.

Rồi lại nghe người kéo xe đáp rằng:

- Trời Ðất ơi! Ở đất Sài Gòn nầy, thiên hạ muôn ngàn, ai biết hết cho đặng? Ở đường nào, số mấy. Nói cho rõ người ta mới chỉ cho chớ.

Bộ cô nọ biết lời hỏi của mình quê mùa, nên cô thẹn thùa, đứng dụ dự, rồi nói một mình rằng:

- Chỉ có nói mà bây giờ có nhớ đâu.

Bạch Tuyết đã đi qua khỏi rồi, nghe mấy lời ấy biết cô nọ là người Lục tỉnh chưa từng lên Sài Gòn, vừa muốn trở lại hỏi thăm cho rõ, rồi chỉ giùm làm nghĩa, kế thấy một người xe kéo khác kề xe lại hỏi rằng:

- Tôi biết mà! Cô lên xe tôi kéo đi lại nhà cho.

Cô nọ tưởng thiệt, nên sắc mặt mừng rỡ, vừa leo lên xe, may Bạch Tuyết trở lại kịp mà cản rằng:

- Anh xe kéo nói bậy, cô đừng có nghe lời.

Cô nọ chưng hửng, đứng lơ láo không biết phải tin ai. Bạch Tuyết hỏi nghiêm chỉnh rằng:

- Cô ở đâu mà đi đây?

- Tôi ở Long Hồ, lên đây thăm chị Tư Kiều.

- Thuở nay cô có lên trên nầy lần nào hay chưa?

- Chưa.

- Nếu vậy thì cô làm sao mà biết nhà người quen được.

- Thiệt tôi không biết.

- Bây giờ trời đã tối rồi, mà cô không biết nhà người quen ở đâu mà tìm, vậy đêm nay cô đi đâu?

- Tôi đi đây là đi liều mạng, thiệt hồi ra đi không dè khó quá như vậy.

- Thôi, cô vô nhà tôi mà nghỉ đỡ một đêm; rồi sáng mai sẽ kiếm, chớ vát nầy[6] cô đi bơ vơ một mình, lúc ban đêm như vầy không dễ gì đâu.

- Cô nọ thấy Bạch Tuyết hảo tâm thì mừng song không biết lấy tiếng gì mà tạ ơn, nên ríu ríu đi theo.

Người kéo xe gạt không được nên chửi thề rằng: “Sướng dữ! Ðú họ, máng tào kê rồi“. Cô nọ nghe nói giựt mình, đứng lại ngó Bạch Tuyết. Bà cháo đậu day lại mắng người kéo xe rằng:

- Bây nói bậy, tao đào nát bây cho bây coi. Người ta quê mùa, bây muốn gạt người ta sao?

Bạch Tuyết nắm tay kéo cô nọ đi và nói rằng:

- Ðồ khốn nạn, nó gạt không được nên kiếm chuyện nói bậy, cô đừng có tin. Cô đi theo tôi, tôi không hại đâu mà sợ.

Cô nọ phát nghi, song nếu không đi theo Bạch Tuyết thì biết đi đâu, nên cực chẳng đã phải đánh liều. Về đến nhà, bà cháo đậu mở cửa, đốt đèn, rồi Bạch Tuyết dắt cô nọ vô biểu ngồi trên ghế đó mà nghỉ. Bạch Tuyết đi đọn cơm mời cô nọ ăn. Cô nọ tuy đói, song bợ ngợ nên nói no. Bạch Tuyết ép riết cô mới chịu ăn một chén.

Cơm nước xong rồi, bà cháo đậu lo đi ngủ đặng khuya có dậy sớm mà nấu cháo. Bạch Tuyết đóng cửa, đem đèn vô giường rồi lấy đồ ra ngồi may, mời cô nọ qua nằm một bên mà nghỉ. Bạch Tuyết và may và hỏi rằng:

- Cô ở Long Hồ mà còn cha mẹ, anh em hay không?

- Tôi mồ côi cha mẹ, mà cũng không có anh em chi hết.

- Chẳng giấu cô làm chi, tôi cũng là người Lục tỉnh lưu lạc lên trên nầy ở đậu nhà bà Sáu bán cháo đậu đây mà may mướn, chớ không phải tôi là người Sài Gòn đâu. Cô đừng ngại chi hết. Tôi thấy cô bợ ngợ cũng như tôi lúc mới lên lần đầu, nên tôi thương tôi biểu giùm cho, chớ không phải có ý chi khác. Ở đất nầy điếm đàng lung lắm. Không hại gì mai cô đi kiếm không được, trở lại đây mà nghỉ. Cô đừng có tin người ta mà lầm chết đa!

Cô nọ nghe lời thật tình thì động lòng, nên ngồi lặng thinh một hồi rồi nói rằng:

- Tôi không lẽ giấu chị, tôi tên là Trần Băng Tâm, cha mẹ khuất sớm, không có anh em nên về ở với cậu tôi từ bảy tuổi tới bây giờ là chín năm rồi. Khi tôi mới được mười ba tuổi thì cậu mợ tôi cho tôi đi bán mía, bán chuối. Cách chừng ba bốn tháng nay có một cậu con nhà giàu, học trường bổn quốc thi đậu rồi về ở không mà chơi, không chịu đi làm thầy thông, thầy ký. Ðêm nào cũng vậy, cậu ấy cứ ra hàng mía mà ghẹo chọc tôi hoài. Tôi giả như điếc, như câm, không thèm nghe lời cậu nói, mà cũng không thèm đối đáp với cậu. Cậu lại cậy người nầy người kia nói với tôi rằng, nếu tôi thuận tình với cậu thì cậu sẽ cho tôi tiền bạc và sắm quần áo, vòng bông cho tôi nữa. Phận tôi tuy nghèo hèn côi cút, song tôi không ham tiền mà làm hư danh tiết, bởi vậy hễ ai làm mai mối thì tôi lạy họ xin họ đi kiếm con gái khác mà nói chớ đừng nói với tôi. Mai mối nói hơn một tháng mà cột tôi không được, cậu giận mới quyết làm dữ, ban đêm tôi đi bán mía về cậu đón đường. Ban đầu cậu ghẹo chọc tôi không thèm trả lời. Lần lần cậu đi theo muốn đụng mình tôi, tôi hăm la làng, cậu sợ xấu nên không dám đụng. Cậu đón tôi hai ba lần rồi thôi, không thấy đón nữa mà đêm nào cậu cũng nghễu nghến[7] ngang hàng mía tôi hoài. Cách năm sáu bữa rày đây, tôi ngủ cựa mình đụng một người nằm bên tôi. Tôi thất kinh vùng kêu cậu tôi mà nói rằng: “'Cậu ôi, cậu đốt đèn lên giùm chút coi. Ăn trộm hay là ai mới đụng tôi đây nè“. Cậu tôi lặng thinh không trả lời, mà tôi nghe tiếng mợ dâu tôi cười nho nhỏ rồi la rằng: “Ngủ đi, đừng có nói bậy nào”. Tôi nghi cậu mợ tôi có ý muốn hại tôi nên tôi nhảy xuống đất, muốn chạy ra ngoài ván, nào dè có một người nắm vạt áo tôi mà kéo lại rồi kê miệng vào lổ tai tôi mà nói rằng: „Qua đây chớ phải ai đâu mà sợ. Nằm lại đây qua nói chuyện cho em nghe“. Tôi nghe tiếng mới biết cậu con nhà giàu đó, nên tôi nói lớn lên rằng: „Cậu buông tôi ra bằng không tôi la lên đây, cậu mang khốn đa. Cha chả! Cậu tưởng đâu ở trong rừng, trong núi không có làng xóm hay sao, nên cậu làm ngang dữ vậy. Tôi nói chưa dứt tiếng, người ấy choàng tay ôm ngang cổ tôi, rồi kế mợ tôi ứng tiếng nói rằng: „Con chết bầm đó, khéo nhỏng nhẻo hôn! Mầy ào ào đó mầy chết bây giờ đa!'. Tôi đương giận mà nghe mấy lời như vậy tôi càng giận thêm nữa, túng thế quá tôi nhảy xuống sông Long Hồ. Cậu tôi lật đật nhảy theo vớt tôi lên, rồi dắt tôi vô nhà. Mợ tôi đốt đèn lên, tôi thấy người khốn nạn ấy đương ngồi trên ván mà hút thuốc. Tôi đứng úp mặt vô vách mà khóc, quần áo đầu cổ ướt loi ngoi. Mợ tôi lại nói nhỏ với người đó ít tiếng rồi người đó mở cửa ra về.

Băng Tâm thuật tới đó, rưng rưng nước mắt; Bạch Tuyết động lòng nên lắc đầu thở ra mắt ngó Băng Tâm trân trân. Băng Tâm ngồi một chút rồi nói tiếp rằng:

- Tôi nhớ tới chừng nào tôi giận cậu ấy chừng nấy. Mình là con nhà giàu có, lại học hành giỏi, thiếu chi chỗ đương môn hộ đối[8] sao không nói mà cưới lại cứ theo quyết làm nhục tôi chi vậy. Thân tôi côi cút thiệt là khổ quá! Chị tưởng tôi không chịu đó rồi yên hay sao. Cậu nhà giàu đó về rồi, thì mợ tôi nói đắng, nói cay làm cho cậu tôi nổi giận đánh tôi bầm mình mẩy, lại nhiếc tôi, nói nuôi tôi uổng cơm, thân tôi chết đói mà không lo, không như vậy mà tôi còn chê để đi lấy du côn mới vừa ý. Tôi bị đòn mà ít phiền, chớ nghe mấy lời đó tôi phiền quá. Tự tôi nhờ ơn cậu mợ tôi nuôi tôi mặc dầu, mà ép uổng tôi việc hư như vậy tôi lạy cậu mợ tôi đừng ép tôi mà tội nghiệp. Cậu mợ tôi mắng nhiếc tôi một hồi nữa, rồi sáng ngày đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi sợ ở Long Hồ không yên mà may tôi bán mía chắt mót[9] để dành được ít đồng bạc nên tôi mới lên đây. Thuở nay tôi không ra khỏi chợ Long Hồ, nên không biết xứ nào hết. Hồi chiều xe lửa lên tới Chợ Lớn, tôi thấy bộ hành rùng rùng leo xuống, tôi tưởng đã tới Sài Gòn rồi, nên cũng xuống theo, té ra mới hay là Chợ Lớn. Tôi trở lại vừa muốn leo lên xe thì xe đã rút chạy rồi, nên tôi không dám theo. Tôi bơ vơ, may gặp ông già ổng chỉ đường tôi lại ga xe lửa mua giấy khác đi ra Sài Gòn, kế gặp chị đó.

Bạch Tuyết nghe Băng Tâm tỏ hết đầu đuôi việc riêng của mình biết cô là người chơn chất mà lại trọng trinh tiết, nên đem lòng thương.

Bạch Tuyết có việc buồn riêng, mà mấy tháng nay không tỏ cùng ai được, nay gặp Băng Tâm mới đem việc của mình mà tỏ cho Băng Tâm nghe. Hai người nói chuyện với nhau, tâm đầu, ý hiệp vô cùng.

Ðêm khuya thiên hạ ngủ hết, ngoài đường vắng teo, Bạch Tuyết mới hỏi Băng Tâm rằng:

- Hồi chiều cô nói đi kiếm chị Tư Kiều nào đó, vậy mà chị có bà con chi với cô hay không?

- Không. Chỉ là người Long Hồ, tôi quen mặt vậy thôi, chớ không phải bà con.

- Chỉ làm việc chi ở trên nầy?

- Năm ngoái chỉ về, tôi gặp chỉ tôi hỏi thăm, thì chỉ lấy anh Sáu Nhỏ dọn nhà ở trên nầy; chỉ có rủ tôi lên chơi, nên khi ra đi tôi tính lên nhà chỉ nương ngụ ít ngày rồi sẽ kiếm việc làm ăn, không dè đất Sài Gòn minh mông quá, biết đâu mà kiếm.

- Tưởng là bà con thì chẳng nói chi, chớ chỉ như vậy nghĩ cũng chẳng nên kiếm, bởi vì tôi coi tánh ý cô đây chắc là ở chung một nhà với chị không tiện. Thôi, cô ở đây làm chị em với tôi; tôi lãnh đồ rồi hai chị em mình may với nhau, tôi tưởng có lẽ kiếm đủ tiền nuôi miệng được, chẳng cần phải đi đâu làm chi.

- Chị có lòng thương tôi, hồi chiều chị cứu tôi cho khỏi lầm thiên hạ, ơn ấy đã trọng rồi, bây giờ chị làm phước cho tôi nương ngụ nữa thì ơn của chị biết ngày nào tôi mới trả đặng. Tôi nói thiệt với chị, phận tôi côi cút nghèo hèn nên từ nhỏ chí lớn không biết may vá. Nếu chị làm ơn cho tôi ở đây thì tôi tính làm bánh hoặc mua trầu cau, chuối mít gánh đi bán kiếm lời mà ăn, chớ may vá chắc là không được.

Bạch Tuyết nghe lời thiệt lấy làm vui lòng, nên cười mà đáp rằng:

- Cô muốn buôn bán cũng được. Như cô lạ, chưa biết đường, thì theo bà Sáu ở nhà đây ít bữa rồi quen. Ðể sáng tôi nói với bà Sáu.

- Tôi nhỏ hơn chị, vậy xin chị kêu bằng em, chớ đừng kêu bằng cô.

Bạch Tuyết gặc đầu, hai người ngó nhau mà cười rồi dẹp đèn đi ngủ. Sáng ngày sau Bạch Tuyết nói với bà Sáu bán cháo đậu cho Băng Tâm ở. Bà Sáu vui lòng cho liền. Bạch Tuyết biết Băng Tâm không tiền làm vốn mà mua bán, nên lấy bạc của mình mà đưa cho Băng Tâm mười đồng. Băng Tâm nói nhiều nên lấy có bốn đồng mà thôi.

Ngày ấy, hai chị em ở nhà nói chuyện với nhau.

Qua bữa sau, Băng Tâm đi theo bà Sáu ra chợ mua thịt và lòng heo đem về nấu cháo rồi gánh theo bà mà bán, một người bán cháo đậu và một người bán cháo lòng.

Bữa nào bà bán hết trước thì bà cũng chờ cho cô bán hết rồi mới về một lượt. Còn bữa nào cô bán hết trước thì cô cũng theo bà, bởi vì cô không biết đường nên về một mình sợ lạc. Mỗi bữa lời được năm ba cắc thì Băng Tâm đưa cho Bạch Tuyết cất, chớ không chịu giữ tiền.

Vã Băng Tâm có sắc da trắng, tóc dài, môi son, mày phụng, đi đứng yểu điệu, ăn nói dịu dàng, bởi vậy từ mấy thầy thông ngôn ký lục cho đến sắp dọn bàn nấu ăn, ai thấy cô cũng buông lời chọc ghẹo. Cô nghĩ phận gái cơ hàn, ra đi buôn bán làm ăn thường nhiều việc hiểm trở, nên cô buồn.

Ðêm nọ, cô nằm than thở với Bạch Tuyết rằng:

- Em thấy chị ở nhà ngồi may vá thiệt em muốn hết sức, ngặt phận em vụng về, nên phải đi mua gánh, bán bưng, chớ làm nghề của em nhiều khi hổ thẹn quá.

Bạch Tuyết hiểu ý, mới biểu Băng Tâm ở nhà cho cô dạy may, đừng đi bán cháo nữa.

Băng Tâm chẳng xiết nỗi mừng, từ ấy hai chị em ở nhà, Bạch Tuyết dạy lần lần, Băng Tâm may lấy chỗ dễ, còn chỗ khó thì để cho Bạch Tuyết.

Mỗi tháng kiếm trên mười hai đồng luôn luôn, ăn uống xài phí rồi còn dư vài đồng.

Hai chị em ở với nhau được bảy tám tháng, Bạch Tuyết mua mà may cho Băng Tâm được một cái quần lãnh, một cái áo xuyến, Băng Tâm mừng rỡ hết sức.

Tới lễ Chánh Chung[10], hai chị em nghe lời bà Sáu nói việc “diễn binh“ ngộ lắm, mới năn nỉ bà nghỉ bán một bữa đặng dắt giùm hai chị em đi coi.

Hai chị em đi coi với bà Sáu lên tới Nhà Thờ, thì gặp một chú mái chín[11] cứ theo chọc ghẹo hoài. Hai chị em mắc cỡ, muốn dắt nhau trở về. Bà Sáu nói họ chọc mặc họ, mình đi chơi thì đi, chuyện gì phải sợ mà về.

Hai chị em dằn lòng đi nữa, chẳng dè chú mái chín cứ đi theo, kiếm lời chọc ghẹo hoài. Hai chị em không thèm trả lời, lên tới „ba hình“ nắm tay nhau đứng dựa lề đường, chờ lính tới mà coi. Chú mái chín theo chọc nữa, lại thừa dịp đông người, chú chen vô đứng khít một bên Băng Tâm rồi làm bộ bị họ lấn, té đụng mình hai chị em chơi. Bạch Tuyết thấy chú chệc vô lễ, giận câm gan, song dằn lòng nhịn thua dắt bà Sáu với Băng Tâm đi tìm chỗ khác mà đứng.

Cách chừng ít phút đồng hồ, chú mái chín theo nữa. Chú đứng làm bộ bị họ lấn nên té ôm ngang mình Băng Tâm. Băng Tâm với Bạch Tuyết mắc cỡ, vừa muốn chen mà ra, bỗng nghe một cái bốp, rồi thấy chú mái chín té sấp dưới đất, trên đầu máu chảy đỏ lòm.

Hai chị em thất kinh, lật đật kéo bà Sáu mà chạy về, không dám coi diễn binh nữa, mà cũng không biết ai đánh chú mái chín lỗ đầu.

Cách nửa tháng sau Bạch Tuyết với Băng Tâm đương ngồi may bỗng thấy thầy thông ở căn phố ngang cửa đó khiêng ghế dọn bàn đem ra xe mà chở đi.

Qua ngày sau, lại thấy có hai người cu ly lại mở cửa căn phòng trống ấy, vô quét rửa, chùi lau sạch sẽ, rồi chiều lại có mấy xe chở giường nệm, ghế, bàn, tủ, thứ nào cũng mới và đẹp đem vô nhà mà dọn hực hỡ.

Sáng bữa sau, hai chị em đã thức rồi, mà còn nằm rán trong giường, nghe bà sáu mở cửa gánh cháo ra ngoài rồi nói lớn rằng: „Ủa! Té ra thầy dọn căn phố nầy hay sao? Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà tôi tưởng ai ở đâu lạ chớ!” Rồi lại nghe có tiếng người trả lời rằng: “Thưa phải, tôi mới dọn lại đây chiều hôm qua.”

Bà Sáu trở vô nhà kêu Bạch Tuyết mà nói rằng: „Nầy cháu, thầy mới dọn căn phố ngang của mình đó quen mà? Hổm nay, tôi đi bán gặp thầy hai ba lần, thầy nói chuyện nhỏ nhoi tử tế quá. Tôi có khen hai cháu may khéo quá, thầy hứa để thầy mua hàng đem về lại mướn may đồ thường đa.

Bà nói mấy lời rồi ra khép cửa lại, gánh cháo đi mất. Chừng sáu giờ rưỡi, mặt trời mọc lên rồi, Bạch Tuyết mới mở cửa dòm qua căn phố ngang đó, thấy Lý Trường Khanh là con ông Hội đồng Viễn ở Vĩnh Long, đương nằm trên ghế xích đu mà đọc nhựt trình thì cô chưng hửng chẳng hiểu vì cớ nào, cách mấy tháng trước mình gặp anh ta dưới tàu thì anh ta nói mẹ đau nặng, mà bây giờ lại lên dọn nhà ở đây.

Bởi cô chưa rửa mặt gỡ đầu, cô không muốn cho Trường Khanh thấy nên cô quày quả đi ra nhà sau. Cô thấy Băng Tâm đương rửa mặt, cô mới nói rằng:

- Thầy dọn về ở ngang nhà mình, bà Sáu nói hồi nảy đó tưởng ai lạ, té ra Lý Trường Khanh, là con ông Hội Ðồng Viễn ở Long Hồ mà.

Băng Tâm nghe nói quên lau mặt, đứng ngó Bạch Tuyết trân trân mà hỏi rằng:

- Chị nói tên gì?

- Lý Trường Khanh.

- Sao chị biết?

- Hồi qua trốn mà đi lên trên nầy qua có gặp dưới tàu. Ban đầu thầy theo chọc qua, chừng qua nói tên chồng qua rồi thầy chưng hửng nên năn nỉ xin lỗi, vì thầy quen với chồng qua.

- Ðâu để em ra coi thử coi có phải hay không?

- Băng Tâm lau mặt rồi đi ra đứng núp dựa cánh cửa lén dòm một hồi.

Chừng Bạch Tuyết gỡ đầu bới rồi, Băng Tâm trở vô bùng thụng[12] mà nói rằng:

- Phải rồi đó đa!

Bạch Tuyết không hiểu lời Băng Tâm, nên hỏi:

- Phải giống gì?

- Người đó là người muốn làm cưỡng bức em dưới Long Hồ đó. Bây giờ còn theo lên tới trên nầy nữa chớ!

Bạch Tuyết chưng hửng, chưa kịp nói chi hết, thì Băng Tâm nguy nguýt đi vô mùng mà nằm. Bạch Tuyết thấy Băng Tâm buồn, nên theo an ủi. Băng Tâm năn nỉ xin Bạch Tuyết kiếm chỗ khác mà ở đặng tránh Lý Trường Khanh.

Bạch Tuyết cũng muốn làm cho vừa lòng Băng Tâm, nhưng sợ đến chỗ khác không được tử tế như chỗ nầy, lại sợ ở lạ chỗ không có quần áo mà may nên khuyên Băng Tâm an lòng, nhà mình thì mình ở đừng thèm nói tới ai thì thôi.

Lý Trường Khanh dọn lại ở độ gần một tháng, mỗi ngày ra vô khi thì coi sách, khi thì nằm coi nhựt trình, song không đi đâu hết mà cũng không ngó qua nhà Bạch Tuyết và Băng Tâm.

Băng Tâm thấy người ta không nói động đến mình, mà lại ỷ có Bạch Tuyết binh vực nên lần lần hết lo sợ nữa. Còn Bạch Tuyết tuy bề ngoài vui cười như thường, song bề trong thương ông, nhớ chồng, giận mẹ ghẻ, nên nhiều đêm Băng Tâm ngủ giựt mình thức dậy thì thấy cô chong đèn mà khóc.

Thiệt Băng Tâm thường hay kiếm lời khuyên giải, nói rằng đạo vợ chồng có lìa nhau, chừng hiệp nhau mới vui, nhưng mà Bạch Tuyết nỗi sầu dồn dập lâu rồi, nhứt là chồng đi gần một năm mà chẳng có tin tức chi hết, chẳng hiểu chồng có bình an hay không, bởi vậy nỗi sầu của cô không thể nào gỡ được.

Có khi cô nghĩ nếu Chí Ðại không gặp cô, thì có lẽ ngày nay không đến nỗi dày bừa gió bụi, ly biệt quê hương như vầy, nghĩ đến đó cô càng đau lòng xót dạ hơn nữa.

Bạch Tuyết rầu buồn ăn uống không được, nên càng ngày càng ốm. Băng Tâm lo sợ, mới xúi gởi thơ cho ông ngoại mà hỏi thăm Chí Ðại về hay chưa. Bạch Tuyết muốn nghe lời, song sợ nếu mình gởi thơ mà chồng chưa về, rồi ông ngoại biết chỗ ở bắt mình về thì mình không trọn nghĩa với chồng được, nên cô không dám gởi thơ.

Bữa nọ, Bạch Tuyết nhuốm bịnh, Băng Tâm lật đật đi chợ mua thuốc cho Bạch Tuyết uống. Trường Khanh nằm bên nhà, vừa thấy Băng Tâm đội khăn ra khỏi cửa, liền bước qua, thấy Bạch Tuyết đương nằm ngoài ván ngoài mà đắp mền, bèn hỏi rằng:

- Bữa nay trong mình chị khó ở hay sao?

Bạch Tuyết lồm cồm ngồi dậy chào hỏi và đáp rằng:

- Nãy giờ tôi ớn lạnh và nhức đầu quá.

Trường Khanh lật đật chạy về nhà lấy một liều thuốc với một ve dầu đem qua khuyên Bạch Tuyết uống thuốc cảm rồi thoa dầu đó tự nhiên hết bịnh. BạchTuyết tạ ơn, lấy đầu thoa rồi rót nước uống thuốc. Trường Khanh nhắc một cái ghế tre để dựa cửa rồi nói rằng:

- Em xin lỗi chị, em dọn lại ở đây hơn một tháng rồi, em thấy chị hằng ngày, nhưng vì em có một việc hiềm nghi riêng, nên không dám qua thăm chị, chớ không phải em làm kiểu, làm cách chi đâu.

Bạch Tuyết chúm chím cười mà hỏi rằng:

- Thưa thầy, hiềm nghi việc chi?

Trường Khanh cúi mặt mà đáp rằng:

- Em nói thiệt cho chị biết, em dọn nhà ở đây là có ý muốn tỏ hết tâm sự của em cho chị nghe, rồi cậy chị làm ơn giúp giùm em một việc, ngặt vì hổm rày cô Băng Tâm ở nhà hoài, nên em không dám qua. Nay cô đi khỏi, vậy em thuật chuyện riêng cho chị nghe: „Năm ngoái em thi đậu rồi về nhà ở không mà chơi, em là con một, nên cha mẹ cưng, muốn chơi thế nào cũng không ngăn cản, mà nhà em lại giàu lớn, sẵn tiền sẵn bạc nên em muốn tiêu xài bao nhiêu cũng được. Em là trai mới lớn lên, nên hay say hoa đắm nguyệt. Bữa nọ em đi chơi, thấy cô hai ở nhà đây ngồi bán mía, tuy y phục tầm thường mà dung nhan xinh đẹp, em phải lòng, nên em quyết ân ái với cô cho phỉ tình hoài vọng.

Chẳng dè em cậy mai mối nói hết lời mà cô không xiêu lòng, em theo chọc ghẹo, dụ dỗ đủ cách mà cô không chịu. Túng thế, em đem cho cậu mợ cô một trăm đồng bạc mà năn nỉ thuận tình ban đêm mở cửa cho em vô nhà mà ngủ với cô. Thiệt, lúc ấy em tính chơi qua đường, chớ chẳng phải muốn lấy chồng vợ chi đó, mà em cũng tưởng con nhà nghèo hễ cho tiền nhiều thì nó chịu, chớ không có khó gì, nào dè cô rầy la om sòm rồi lại nhảy xuống sông muốn tự tử nữa. Em trở về nhà nằm nghĩ chẳng hiểu vì cớ nào mà cô nầy khó như vầy; thuở nay em muốn cô nào cũng được hết thảy, dẫu nhà giàu đi nữa em cũng muốn được thay, huống chi là con nhà nghèo hèn côi cút như cô mà lại muốn không được. Em ghét nên em không thèm nhớ tới cô nữa. Cách chừng một tháng bà già em đau nhiều, tính cưới vợ gấp cho em, nên biểu chú em dắt em đi coi hai ba chỗ con nhà giàu. Em đi coi vợ thì đi, mà trong bụng em không muốn chỗ nào hết, bởi vì em nghĩ con gái nhà giàu đứa nào cũng như đứa nấy, em có biết tánh ý đứa nào tốt, đứa nào xấu mà chọn lựa; nếu em nhắm mắt mà cưới bướng, rủi gặp nhằm đứa hư rồi em làm sao. Phận em giàu có, em chẳng cần kiếm gia tài thêm nữa, nếu em đi cưới vợ thì là kiếm trinh tiết, kiếm nhơn nghĩa, chớ kiếm tiền bạc mà làm chi, mà trinh tiết, nhơn nghĩa biết ai đâu mà kiếm? Em sực nhớ lại cô Băng Tâm, tuy là con nhà bần hàn côi cút, mà cô trọng trinh tiết hơn là tiền bạc, thuở nay chưa thấy con gái nhà ai tánh nết được như cô vậy. Em có ý muốn tỏ thiệt với bà già em, rồi xin cậy mai đi nói. Rủi bịnh bà già em trở nặng, em lo thuốc men hết sức mà không xong, cách ít ngày bà già em mất. Lo tống táng xong rồi, bà con ai cũng khuyên em kiếm vợ đặng có người coi sóc trong nhà. Em mới mượn họ hỏi thăm cô hai Băng Tâm, vì em quyết cưới cô chớ không thèm nơi nào khác. Chẳng dè hỏi lại mới biết cậu mợ đánh đuổi cô đi đâu mất lâu rồi. Em hay việc ấy thì ăn năn vô cùng, em đã ăn năn sự vô lễ đã cưỡng bức cô hồi trước, mà em lại ăn năn sự em làm cho đến đỗi cô bỏ xứ đi. Nếu cô đi ra mà có tai nạn điều chi thì lỗi tại nơi em hết thảy. Từ ấy đến nay, em quyết cưới cho được cô để chuộc tội em ở quấy với cô hồi trước. Em làm tuần bá nhựt cho bà già em rồi em qua Mỹ Tho ở gần nửa tháng không gặp cô, em mới tuốt lên Sài Gòn. Em ở đậu nhà thầy ký Huỳnh gần một tháng nữa mà kiếm cũng không gặp. Hôm lễ Chánh Chung em đi dạo chơi tình cờ gặp chị đi với cô hai và bà ở nhà đây. Em mừng quá muốn chạy đại lại xin lỗi, tỏ thiệt việc em tính đó cho cô hai biết và cậy chị đứng làm mai cho em cưới, nhưng vì cô còn giận em, lại nói giữa đường e cô mắc cỡ, nên em dằn lòng, cứ nom theo xa xa, tính tìm coi nhà ở chỗ nào rồi em sau sẽ tới. Chị với cô hai chắc là không thấy em, nên đi coi tự nhiên quá. Chừng em thấy có một thằng mái chín cứ theo chọc ghẹo rồi cọ trong mình hai chị em thì em nổi giận muốn chạy lại đánh cho biết chừng, song em nghĩ nếu đánh nó thì sanh sự rồi chị với cô hai đi mất, em biết đâu mà tìm. Em nghĩ như vậy, nên em dằn lòng. Chừng em thấy nó vô lễ một lần nữa, nên em xốc lại bổ cho nó một cây ba ton[13] trên đầu phun máu. Lính tuần thành áp lại bắt em dắt về bót, em không sợ chi hết, duy sợ lạc mất chị với cô hai không biết đâu mà kiếm. Vô bót em chịu thiệt với ông Cò rằng thằng chệc vô lễ với đàn bà con gái quá, nên em phải đánh mà răn nó. Ông Cò giải em qua Tòa, em cũng cứ nói như vậy, em lại mướn trạng sư cãi giúp cho em nữa, nên đòi hỏi lòng dòng ít bữa, Tòa tha em. Vụ kiện xong rồi em mới kiếm lại. Bữa nọ tình cờ em gặp bà già bán cháo đậu coi giống bà đi với chị hôm trước, nên làm quen hỏi thăm lần lần mới hay chị và cô hai ở đây.

Bạch Tuyết trước thấy tánh nết Trường Khanh dưới tàu, sau nghe Băng Tâm thuật cử chỉ hoa nguyệt nữa, bởi vậy thầy nói thiệt tình mà cô chưa tin nên hỏi rằng:

- Thầy đánh chú mái chín dê đó giùm cho chị em tôi thiệt tôi cám ơn thầy lắm, mà thầy biết chị em tôi ở đây rồi thầy dọn nhà ở gần làm chi?

- Thưa chị, bà bán cháo đậu chỉ nhà cho em rồi tối lại em lén đi ngang qua đây coi có thiệt quả chị ở đây hay không. Em thấy chị với cô hai đương ngồi may em muốn tỏ hết tâm sự của em cho cô hai biết và xin lỗi cô rồi cậy chị làm mai cho em cưới. Em muốn như vậy, mà rồi em sợ cô hai giận em dầu nói thiệt cô cũng không tin, nên em tính mướn phố ở gần đặng cô vô ra thấy mặt ít ngày cho nguôi bớt nước giận rồi em sẽ phân hơn thiệt với cô. Em nói thiệt cho chị thương, thầy thông ở căn phố em mướn đó có phải khi không mà thầy dọn đi đâu. Em muốn ở đây nên năn nỉ chịu cho thầy hết năm mươi đồng bạc, thầy mới chịu đọn đi chỗ khác cho em đó.

- Thầy thiệt là có tình quá!

- Thưa chị, gia thế em lớn lắm, vì em muốn kết tóc trăm năm với cô hai, nên em bỏ hết mà đi tìm. Hổm nay em muốn qua nói thiệt với cô mà em sợ cô không thương cô nhắc chuyện cũ rồi mắng nhiếc xấu hổ, nên em không dám. Vậy em xin chị làm ơn lựa lời êm ái nói giúp giùm cho cô hai hết giận đặng chịu kết duyên với em, trước em có được người xứng đáng tề gia nội trợ; sau em có thể chuộc cái quấy xưa, thì ơn của chị dầu ngàn ngày em cũng không dám phụ.

- Làm trai ở được như thầy vậy thiệt là ít có, mà còn tánh nết được như con hai Băng Tâm cũng không dễ kiếm đâu. Tuy nó nghèo hèn, song nhiều người sang giàu cũng không sánh với nó kịp. Tôi làm chị em với nó gần một năm nay, tôi biết rõ tánh ý nó. Nó nhỏ mặc dầu mà ăn ở khít khao cẩn thận, tôi đây cũng thua nó nữa.

- Xin chị làm ơn nói giùm.

- Nói giùm thì tôi không tiếc với thầy, song không biết thầy thiệt có bụng quyết kết tóc trăm năm với nó hay không, chớ thầy giàu, nó thì nghèo, tôi sợ...

- Chị hai còn nghi bụng em nữa sao? Chị đừng có nói chuyện giàu nghèo, bây giờ em biết khôn rồi, nên em trọng cái phải, cái tốt, chớ giàu sang mà hư thì sá gì. Nếu chị không tin bụng em, thì để em thề cho chị tin. Em mà có bụng quấy, muốn chơi qua đường thì...

- Thôi thôi, thầy đừng thề thốt làm chi. Ðể thủng thẳng tôi dọ ý nó coi, rồi tôi sẽ cho thầy hay. Cha chả! Mà bộ nó còn phiền thầy nhiều lắm nên sợ phải lâu ngày mới nói được.

- Không hệ gì, miễn chị hết lòng nói giúp giùm em cưới được thì thôi dầu chờ bao lâu em cũng chịu.

- Tôi hỏi thầy, ví như nó nói không ưng, thầy làm sao?

Trường Khanh cúi mặt xuống đất, lặng thinh một hồi, coi bộ buồn lắm rồi nói rằng:

- Nếu em không cưới đặng cô hai Băng Tâm thì em không thèm cưới ai hết.

Bạch Tuyết cười và nói rằng:

- Thầy đa tình quá!

- Thưa không, em trọng trinh tiết chớ có phải là đa tình đâu.

Trường Khanh vừa nói dứt lời thì Băng Tâm bước vào ngó thấy liền nguýt đi thẳng vô buồng. Trường Khanh đứng dậy cáo từ Bạch Tuyết mà về. Bạch Tuyết thấy Trường Khanh về đã lâu mà Băng Tâm còn nằm trong buồng hoài, bèn kêu mà nói rằng:

- Người ta đã về mất rồi mà còn sợ ai nên nằm hoài ở trỏng vậy?

Băng Tâm bước ra hỏi rằng:

- Nãy giờ chị bớt nóng hay không?

- Em đi rồi, nhờ thầy Trường Khanh qua nhà nói chuyện, qua bớt nóng.

- Hứ!

Bạch Tuyết có ý muốn ghẹo cho Băng Tâm hỏi đặng mà nói, chẳng dè Băng Tâm hứ một cái mà không chịu hỏi, lấy tay rờ trán Bạch Tuyết mà nói rằng:

- Sẵn bụng chị đói, thôi để em đi sắc thuốc cho chị uống. Chị rán uống thuốc cho mạnh, chớ chị không giỏi trong mình, em buồn quá.FF

Băng Tâm nói dứt lời rồi quày quã đi ra nhà sau súc siêu bắc thuốc. Ðêm ấy nhờ uống thuốc nên Bạch Tuyết trong mình khoẻ khoắn ngủ được. Ðến ba giờ khuya, cô thức dậy thấy Băng Tâm chưa ngủ, mới hỏi. Băng Tâm đáp rằng:

- Em thấy chị đau. Em lo sợ quá, nên ngủ không được.

Bạch Tuyết không chắc Băng Tâm vì giận Trường Khanh hay là vì thấy mình đau mà ngủ không được, song cô không hỏi, cứ dậy súc miệng, rửa mặt, ăn trầu, rồi to nhỏ thuật hết lời của Trường Khanh lại cho Băng Tâm nghe. Bạch Tuyết lại nói:

- Người ở được như vậy thiệt cũng đáng khen. Người ta đã biết lỗi bây giờ muốn cưới em đặng chuộc lỗi. Vậy em chẳng nên phiền trách nữa. Em xét lại mà coi, thuở nay người giàu sang thường kiếm con nhà giàu sang mà cưới, chớ có ai cả gan dám tính cưới con nhà nghèo hèn bao giờ; họ không kể nên hư phải quấy, họ sợ cưới con nhà nghèo về xí[14] hết gia sản của họ đi, hoặc họ nghĩ con nhà nghèo không thể gì làm giàu cho họ được. Chị thường thấy nhiều người tham tiền, tham bạc thái quá, trong nhà đã có của dư dùng không hết mà còn lo đi kiếm vợ giàu đặng kiếm thêm của nữa, tham đến nỗi chúng khinh mà không biết nhục, vợ lấy trai mà sợ hụt ăn nên không dám bỏ. Thầy Trường Khanh đã giàu có, mà lại học giỏi. Thầy trọng trinh tiết chớ không kể tiền bạc, nên quyết cưới em, vậy em chẳng nên hờn hoài mà hẹp bụng thầy.

Băng Tâm cười gằn mà nói rằng:

- Chị tin người đó, chị lầm chết đa!

- Em đừng nói vậy! Thầy nói qua nghe cũng phải, mà bộ thầy thiệt tình lắm mà!

- Chị nghe nói chị thấy bộ, chớ trong lòng người ta chị biết sao được. Thầy giàu, em nghèo, thầy muốn em là thầy muốn chơi qua đường, chớ nhà giàu mà nhơn nghĩa gì. Nếu thầy biết nhơn nghĩa thì hồi trước đâu có làm như vậy. Thầy muốn em chừng nào, em càng oán thầy nhiều chừng nấy.

- Thầy xin cưới em đem về làm vợ, chớ phải tính việc gì hay sao mà em nghi.

- Ðã biết con gái hễ lớn lên thì phải có chồng, song em không muốn có chồng như vậy.

- Vậy chớ em muốn chồng thế nào?

- Thầy Trường Khanh thì giàu sang, còn em thì nghèo hèn, bây giờ thầy muốn, thầy nói liều mạng. Em sợ thầy cưới em về ít năm, thầy đã thèm rồi, thấy con nhà giàu sang thầy tiếc, thầy hất hủi thân em, càng nhục cho em nữa. Em nghèo. Em lựa chỗ nghèo mà biết nhơn nghĩa mà kết bạn, miễn vợ chồng biết trọng nhau, biết thương nhau, dầu ăn muối em cũng vui.

Bạch Tuyết nghe mấy lời rồi nghĩ tới chuyện của mình thì động lòng, nên ngồi lặng thinh mà ngó đèn.

- Chị nói phải quấy cho em đó thôi, chớ duyên của em chị đâu dám ép. Thôi, để thủng thẳng dọ tình ý thầy thế nào, chị tưởng nhà giàu có người cũng biết nhơn nghĩa vậy chớ.

Chị em đàm luận đến gần sáng mới chịu tắt đèn mà ngủ.

Sáng ngày Băng Tâm thấy bịnh Bạch Tuyết giảm nhiều thì mừng. Cô muốn đi hốt thuốc thêm cho Bạch Tuyết uống, mà vì cô sợ nếu cô ra đi, ở nhà Trường Khanh lén qua òn ỷ với Bạch Tuyết nữa, nên cô đợi chiều bà Sáu đi bán cháo về rồi, cô cậy bà đi; chớ cô không dám đi.

Bạch Tuyết uống vài thang đầu thì thấy bịnh giảm nhiều mà uống thêm mấy thang sau bịnh lại trở nặng nữa, nóng nóng lạnh lạnh tối ngày nên nằm thiêm thiếp hoài. Tuy bịnh đau không may vá được, song nhờ có mấy trăm đồng bạc đem theo nên chạy thuốc rước thầy mà khỏi lo túng rối.

Trường Khanh thấy Bạch Tuyết đau lâu rồi, nghe bà Sáu nói đau nhiều, muốn qua thăm, nhưng vì sợ Băng Tâm nghi ngại, nên không dám qua.

Bữa nọ bà Sáu gánh cháo đi rồi, anh ta đánh liều qua thăm. Băng Tâm thấy dạng Trường Khanh thì lật đật bỏ đi ra nhà sau. Trường Khanh đứng tại cửa buồng dòm vô, thấy Bạch Tuyết nằm nhắm mắt, anh ta tưởng cô ngủ nên lén bước ra ngoài, đứng bợ ngợ không biết làm sao mà hỏi thăm. Băng Tâm tuy ghét Trường Khanh, song thương Bạch Tuyết, nên ngồi suy nghĩ một hồi rồi bước ra chào Trường Khanh. Trường Khanh được tiếng cô chào thì thơ thới trong lòng, liền hỏi thăm lăng xăng.

Băng Tâm mới nói với Trường Khanh rằng Bạch Tuyết vì nhớ chồng mà sanh bịnh, nếu chồng về thì chắc cô mạnh liền. Băng Tâm cậy Trường Khanh viết thơ cho ông Khiếu Nhàn ở Cà Mau mà hỏi thăm coi Chí Ðại về hay chưa. Cô lại căn dặn nếu viết thơ thì đừng nói tên Bạch Tuyết, xin trả lời đề tên Trường Khanh, và hễ viết thơ rồi có ai đến hỏi thăm Bạch Tuyết thì đừng chỉ.

Trường Khanh không hiểu Băng Tâm có cớ gì riêng mà căn dặn mấy điều ấy, song anh ta được nói chuyện với Băng Tâm thì mừng rỡ, không thèm hỏi chi hết, lật đật chạy về viết thơ rồi đem qua đọc nho nhỏ cho Băng Tâm nghe. Băng Tâm chịu rồi Trường Khanh liền kêu xe kéo chạy riết lên nhà thơ[15] mua cò[16] mà gởi.

Tình thương cháu như tình ông Khiếu Nhàn thiệt ít có!

Bạch Tuyết làm nhọc ông đã nhiều mà ông không trách chi hết. Bạch Tuyết trốn ông đi lần nầy, ông tuốt theo mà kiếm nữa. Ông lên Sài Gòn hỏi thăm ông Nhiêu Tâm với lon ton Thiệt, thì họ nói không thấy, ông đi bơ vơ ít ngày tìm không ra mối, túng thế ông phải trở về.

Vì ông buồn rầu lại thêm lo sợ, nên sanh bịnh rồi không đi kiếm nữa.

Bữa nọ ông còn đau mà tiếp được thơ của Trường Khanh hỏi thăm Chí Ðại, ông nghĩ hoài mà không biết Trường Khanh là ai. Ông nghi Bạch Tuyết cậy người hỏi thăm giùm, nên muốn lên kiếm hỏi cho ra mối đặng đem cháu về, ngặt vì trong mình ông còn bịnh, không thể đi xa được nữa, nên phải trả lời cho Trường Khanh rằng Chí Ðại chưa về và luôn dịp hỏi thăm coi có biết vợ Chí Ðại ở đâu hay không. Trường Khanh tiếp được thơ liền đem qua đọc cho Băng Tâm nghe. Băng Tâm nghe Chí Ðại chưa về thì chắc lưỡi lắc đầu rồi dặn Trường Khanh đừng trả lời về khoản của Khiếu Nhàn hỏi.

Hai người thấy Bạch Tuyết nằm thiêm thiếp, tưởng cô ngủ, nên đọc thơ thong thả, chẳng đè Bạch Tuyết nằm lóng tai nghe hết, hay chồng chưa về trong lòng càng lo sợ, càng buồn rầu, càng thương nhớ nên bịnh đã không giảm mà coi mòi nặng thêm.

Băng Tâm cứ ràng một bên mà săn sóc, còn Trường Khanh thì kiếm thầy đổi thuốc, chạy không hở chơn.

Nhờ có Bạch Tuyết đau, nên hai người mới gần nhau. Mà tuy gần gũi hằng ngày, song Băng Tâm cứ nghiêm nghị hoài, còn Trường Khanh nói chuyện lo thuốc men cho Bạch Tuyết mà thôi, chớ không hề dám tỏ lời chi khác.

Bữa nọ, lối ba giờ chiều, Băng Tâm đỡ Bạch Tuyết mà dắt ra ván ngoài nằm, cho khoảng khoát, đặng thầy thuốc coi mạch. Thầy coi mạch rồi đương ngồi viết toa, còn Băng Tâm với Trường Khanh thì đứng xớ rớ chung quanh đó. Có một người đàn bà trạc chừng ba mươi tuổi, ăn mặc tử tế, đi ngang qua nhà Bạch Tuyết, đứng dòm một hồi rồi bước vô sát cửa mà hỏi Trường Khanh rằng:

- Thầy ở đây, vậy chớ thầy có biết con Bạch Tuyết ở Cà Mau lên trên nầy mà nó ở căn nào đâu thầy há?

Trường Khanh chưng hửng, không biết có nên trả lời hay không, nên day lại ngó Băng Tâm, Băng Tâm rước[17] mà nói với người đàn bà ấy rằng:

- Không biết... Mà cô có bà con với người đó hay sao mà kiếm?

Người đàn bà ấy chưa kịp trả lời, Bạch Tuyết day mặt qua coi ai hỏi mình; người đàn bà ấy ngó thấy vùng la:

- Ủa con !

Rồi chạy đại vô nắm tay Bạch Tuyết và khóc và nói tiếp rằng:

- Con đi đâu làm cho dì kiếm dữ quá vậy con? Con ông nầy ông kia, giàu sang tột bực mà không chịu ở nhà, bỏ đi làm chi đến nỗi đau ốm cực khổ như vầy không biết! Cha con ở nhà rầu rĩ, ăn ngủ không được, ông ngoại con cũng khóc hoài, vậy con phải về với dì.

Bạch Tuyết trở mình day vô vách, không nói chi hết. Ông thầy thuốc, Trường Khanh với Băng Tâm không hiểu vì cớ nào mà người đàn bà ấy tỏ lời yêu mến như vậy mà Bạch Tuyết lại làm lơ nên nhìn nhau lơ láo.

Ông thầy thuốc từ giã mà về, dặn Băng Tâm cho uống một thang rồi mai ông sẽ tuần mạch lại. Trường Khanh đưa thầy thuốc ra khỏi cửa rồi lôi vô kéo ghế mà ngồi. Người đàn bà ấy cũng ngồi trên ván dựa nên Bạch Tuyết, rồi ngó Trường Khanh với Băng Tâm mà nói rằng:

- Bà con không biết, chớ con tôi đây là con riêng của quan phủ ở nhà. Tuy tôi là mẹ ghẻ mặc dầu, song tôi nuôi nó từ nhỏ đến lớn nên tôi thương nó còn hơn con ruột của tôi nữa. Cha nó muốn gả nó lấy chồng tử tế mà nó không chịu, cha nó giận la rầy, nên nó bỏ nhà mà đi, chớ mẹ con tôi ở với nhau như bát nước đầy, có giận nhau chi đâu.

Người đàn bà ấy nói tới đó rồi khóc nữa, và day lại vỗ về khuyên lơn Bạch Tuyết về Cà Mau. Bạch Tuyết cứ nói có mấy tiếng nầy:

- Dì về đi, tôi không có thể nào về Cà Mau được đâu.

Người đàn bà ấy năn nỉ hết sức không được, mới đứng dậy đội khăn, nói với Băng Tâm và Trường Khanh để đi ra chợ mua đồ một chút rồi tối sẽ trở vô.

Người nầy thiệt là kế mẫu của Bạch Tuyết.

Vì ông Bạch Khiếu Nhàn tiếp được thơ của Trường Khanh, ông muốn đi kiếm Bạch Tuyết mà vì có bịnh đi không được, ông tức tưởi thở than hoài nên tôi tớ trong nhà hay Bạch Tuyết ở Sài Gòn trong đường hẻm Mạc Mầu, rồi qua chơi bên Phủ, xầm xì nói chuyện lại với mấy tên lính.

Bà Phủ hay việc ấy, bà mới nghĩ thầm rằng Khiếu Nhàn đau hoài sợ nay mai ông chết. Gia tài của ông thì lớn, nếu ông chết mà Bạch Tuyết còn sống, vợ chồng nó hưởng hết gia tài còn gì. Bà nghĩ như yậy nên mới nói dối với chồng đi Bạc Liêu, đặng bà đi tìm Bạch Tuyết.

Bà Phủ từ giã Băng Tâm với Trường Khanh ra đi rồi thì Bạch Tuyết dây lại khóc và nói:

- Thầy với con hai đừng có tin, dì tôi có ý gì đó nên mới tìm đến đây chớ không phải thương gì tôi đâu. Con hai có sắc thuốc, hay nấu cơm hoặc nấu nước phải có ý cho lắm nghe hôn em.

Băng Tâm gật đầu nói rằng:

- Em hiểu rồi chị để đó mặc em.

Còn Trường Khanh không hiểu chi hết, nên đứng xớ rớ, ngó giáo giác, mà trong bụng đã sanh nghi rồi.

Ðêm hôm ấy gần tám giờ, bà Phủ mới trở lại. Trường Khanh nằm êm bên nhà, ngó thấy bà Phủ lại, anh ta cũng men men đi qua. Bà Phủ ngủ ở tại nhà Bạch Tuyết, cứ theo năn nĩ biểu về hoài, mà Bạch Tuyết không chịu nghe lời, nên sáng bữa sau bà khóc nghe rất thảm thiết và để lại ba mươi đồng bạc cho Bạch Tuyết uống thuốc rồi bà ra xe lửa mà về.

Bà Phủ về rồi, Bạch Tuyết cậy Trường Khanh kiếm mướn giùm một căn phố đặng có dời đi chỗ khác. Trường Khanh sẵn lòng đi kiếm phố giùm, nhưng vì anh ta muốn kiếm mướn cho được hai căn gần nhau đặng anh ta dọn về ở gần, mà đi đến đâu cũng thấy trống có một căn, còn mấy chủ ở gần thì chịu tiền cho họ mà họ cũng không chịu dọn đi chỗ khác cho mình ở, bởi vậy anh ta đi luôn đến chín mười bữa, mà đi không về rồi, không mướn được chỗ nào khác. Còn bà Phủ về đến nhà rồi, tối lại nằm làm thuốc cho chồng hút, bà to nhỏ nói rằng:

- Bữa hôm tôi nói với ông tôi lên Bạc Liêu mua đồ, mà lên đến đó cô Huyện cổ rủ quá, tôi phải theo cổ lên Sài Gòn chơi, nên về trể. Mà đi chơi chớ cũng là may! Tôi đi bậy mà lại gặp con Bạch Tuyết! Cha chả! Nó đau nhiều quá, mà nó nghèo khổ không có tiền uống thuốc. Tôi thấy vậy tôi động lòng, nên biểu nó đi theo mà về, nó nói sợ ông rầy, nó không dám về. Tôi không biết làm sao, túng thế phải để ít chục đồng bạc cho nó uống thuốc. Thiệt, con nó hư tôi giận nó lắm mà lên trển tôi thấy nó như vậy thiệt là tội nghiệp nên hổm nay tôi về dọc đường hễ tôi nhớ tới nó thì tôi ứa nước mắt. Ông nghĩ lại mà coi, bát bể đánh con nào đành. Con nó có dại thì mấy năm nay nó cực khổ như vậy cũng đủ rồi, không lẽ mình giận hoài, mà bỏ con chết hay sao. Mình thì giàu sang, còn con mình thì mình bỏ nó nghèo cực, đau không có tiền uống thuốc, thiên hạ họ thấy như vậy có lẽ họ cũng cười mình chớ. Phận tôi là mẹ ghẻ, chắc sao họ cũng nói tại tôi. Nếu ông bỏ nó thì tôi mang tiếng hơn hết. Vậy ông xin phép nghỉ ít ngày, lên đem nó về mà nuôi, đặng thiên hạ khỏi nói tôi độc hiểm.

Quan Phủ nghe lời vợ bèn xin nghỉ nửa tháng. Vợ chồng dắt nhau lên Sài Gòn kiếm Bạch Tuyết mà đem về.

Bữa nọ Trường Khanh đi lên Ðất Hộ kiếm phố không được, chừng trở về thì thấy Bạch Tuyết đương ngồi ăn cháo, anh ta mới ghé lại hỏi thăm. Hai người nói chuyện chưa được mấy tiếng thì bà Phủ bước vô, sau lưng lại có quan Phủ đi theo nữa.

Bạch Tuyết thấy Cha thì kinh hãi buông cái muỗng rớt bể hai, té xỉu nằm ngay dựa bên mâm cháo. Trường Khanh la lên một tiếng lớn. Băng Tâm ở nhà sau lật đật chay ra thấy Bạch Tuyết như vậy thì ôm mà khóc. Bà Phủ cũng lật đật leo lên ván mà đỡ Bạch Tuyết và khóc om sòm, quan Phủ hối đi lấy lửa mà đem ra hơ. Trường Khanh lính quýnh, nên chạy riết xuống bếp rinh luôn lò lửa đem lên. Băng Tâm với bà Phủ áp hơ chừng năm phút đồng hồ. Bạch Tuyết mở mắt ra rồi nói nho nhỏ rằng:

- Tôi không về đâu! Thà có chết thì ở đây cũng được.

Quan Phủ ngồi thở ra mà nói rằng:

- Con phải về đặng cha lo thuốc men cho con chớ. Ở đây sao đặng. Cha đã lên rước con thì con còn ngại nỗi gì.

Quan Phủ nói mà ứa nước mắt. Bạch Tuyết cũng khóc, nước mắt tuôn dầm dề. Tuy Bạch Tuyết tỉnh mặc dầu, song cô còn mệt lắm nên không nói nhiều được.

Ðêm ấy, bà Phủ ngồi ràng một bên mà săn sóc, quan Phủ biểu bà hết sức mà bà không chịu đi nghỉ. Băng Tâm cũng ngồi dựa bên Bạch Tuyết sáng đêm, còn Trường Khanh tuy về nhà mà trong lòng lo lắng quá nên ngủ không được.

Sáng ngày, quan Phủ đi mướn đò dọc mà chở Bạch Tuyết về Cà Mau. Bà Phủ ý muốn đi tàu, song nghe quan Phủ nói con đau nhiều quá đi tàu gió máy không tốt, nên bà không đám cãi. Lối chín giờ, quan Phủ đi mướn đò, còn bà Phủ đi chợ mua đồ chút đỉnh đem theo ăn dọc đường.

Trường Khanh đi ra nhà thuốc mua dầu nhãn mới về, nên đem qua cho Bạch Tuyết ngửi. Bạch Tuyết ngửi dầu thì trong người khỏe khoắn, ngó quanh quất thấy có một mình Băng Tâm với Trường Khanh mà thôi, bèn nói rằng:

- Cha của chị lên mà rước chị đó là tại mưu của mẹ ghẻ chị bày. Mẹ ghẻ chị muốn giết chị như bả giết mẹ chị ngày trước, nên bả mới tính như vậy, chớ không phải thương yêu gì đâu. Nếu hai em có lòng muốn cứu giùm tánh mạng chị, thì xin dời chị đi nhà khác cho mau.

Băng Tâm vốn đã có nghe Bạch Tuyết thuật sơ chuyện mẹ ghẻ thuốc mẹ ruột hồi trước, nay cô nghe nói mấy lời thì cô biến sắc. Còn Trường Khanh tuy không hiểu chi hết, song bụng muốn làm ơn cho Bạch Tuyết, nên bước lại gần nói rằng:

- Bây giờ gấp quá, biết dời đi đâu. Vậy để em dọn mùng chiếu rồi đem chị qua nhà em, đặng tránh quan Phủ được hôn?

Bạch Tuyết gặc dầu, Trường Khanh lật đật về nhà biểu đứa ở dọn giường. Anh ta vừa mới trở qua đặng dắt Bạch Tuyết đem về thì quan Phủ đi mướn đò rồi, ngài trở vô ngồi chim bỉm trên ghế làm cho Trường Khanh và Băng Tâm nhìn nhau rồi lắc đầu không dời Bạch Tuyết đi được.

Chừng nửa giờ sau, bà Phủ trở vô; nghe quan Phủ nói mướn đò rồi, bà liền kêu xe kéo lại đem Bạch Tuyết xuống đò. Băng Tâm đau đớn trong lòng chịu không được, nên cúi đầu lạy quan Phũ mà nói rằng:

- Thưa ông, chị tôi đau nhiều quá, nếu ông đem về tôi sợ chị tôi chết dọc đường. Vậy xin ông chờ tới ngày chị tôi uống thuốc mạnh rồi ông sẽ đem về, nghĩ chẳng muộn gì.

Quan Phủ châu mày mà đáp rằng:

- Tôi có rảnh rang chi đâu nên ở đây mà chờ cho được. Con của tôi lẽ nào tôi không thương hay sao, cần gì cô phải lo.

Trường Khanh đã không ưa quan Phủ mà nghe ngài nói tiếng xẵng[18] với Băng Tâm càng thêm giận, nên nói rằng:

- Thưa ông, người ta sao lại không biết thương con! Nhưng ông thương chị tôi đây, ông lại quyết giết chị tôi chết cho mau, thế thì cái thương đó hại hơn là cái ghét nữa.

Quan Phủ liếc ngó Trường Khanh mà không thèm trả lời. Ông vùng đứng dậy biểu bà Phủ cậy Băng Tâm phụ đỡ Bạch Tuyết đem ra xe. Băng Tâm do dự rồi ngó Trường Khanh dường như muốn hỏi, kế Trường Khanh hội ý, bèn nói rằng:

- Thôi cô hai đỡ giùm chị mà đi ra xe đi, mình nói hết sức mà ông không nghe, biết liệu làm sao bây giờ. Nầy, mà cô ở nhà cũng chẳng có việc chi, vậy cô làm ơn theo đò đưa chị xuống Cà Mau rồi sẽ về.

- Băng Tâm hiểu ý, liền thưa với quan phủ rằng:

- Thưa ông, tuy tôi không có bà con chi với chị tôi đây song chị em ở chung với nhau đã lâu, nên thương yêu nhau chẳng khác gì ruột thịt. Nay ông đem chị tôi về, mà chị tôi bịnh nhiều quá, thiệt tôi lo sợ không nỡ lìa chị tôi. Vậy tôi lạy ông xin cho phép tôi theo săn sóc chị tôi chừng nào chị tôi mạnh tôi trở về.

Băng Tâm và nói và khóc. Trường Khanh vừa ý nên gật đầu lia lịa. Bà Phủ không muốn cho Băng Tâm đi theo. May nhờ quan Phủ nghe lời trung hậu, động lòng ngài cho theo, nên Băng Tâm mới gói áo quần đi với Bạch Tuyết được.


[1] yếu đuối như cây liễu, cây bồ

[2] (pont): sàn tàu từng trên

[3] quản lý. Theo Lê Ngọc Trụ, „từng khạo“ là âm Hoa ngữ của từ ngữ đồng khảo, là người thay mặt chủ điền trông nom giùm những thửa ruộng của chủ, không có lương. Giải thích này không đúng với thực tế và với ý nghĩa trong truyện. Trong thực tế, từng khạo là cai tàu, cai thợ.

[4] ưa kể chuyện người khác

[5] ngắn

[6] lúc nầy, độ nầy

[7] đi tới đi lui

[8] môn đăng hộ đối: tương xứng danh vọng, tiền của

[9] Nhín nhút, tiện tặn

[10] lễ cách mång Pháp (ngày 14.7.1789), theo Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam.

[11] mãi tấn hay mãi tiến (買進) đọc theo âm Triều Châu thành mái chíng, sau khi Việt hóa viết thành mái chín, nghĩa tương đương với mãi biện (買辨) đọc theo giọng Quảng Đông thành mại pál, sau khi Việt hóa viết thành mại bản: Người quản lý mua bán hàng hóa, người môi giới buôn bán, người quản lý việc chở hàng, chở khách trên tàu thủy.

[12] vẻ mặt hờn giận

[13] (bâton): gậy

[14] lượm, tom góp

[15] bưu điện

[16] tem thơ

[17] cướp lời

[18] nói nặng, nói thẳng

-----------------------------------



Chương sáu






Trường Khanh đưa Bạch Tuyết xuống đò, thừa lúc vợ chồng quan Phủ ở trong mui, còn có một mình Băng Tâm đứng ngoài, anh ta mới lấy tay chỉ chỏ ra dấu.

Trạo phu[1] không hiểu hai người muốn tỏ ý gì nên dứng ngó trân trân.

Ðò đi rồi, Trường Khanh trở về tính đi tàu xuống Cà Mau, trước bảo hộ Bạch Tuyết, sau gần gũi Băng Tâm, nên thâu gom quần áo bỏ vào va-ly, biểu một tên gia đinh ở lại coi nhà, còn dắt một đứa theo đỡ tay chơn.

Anh ta chắc đò đi chậm, không thể tới trước mình được, nên thừa dịp ấy ghé Vĩnh Long thăm nhà và lấy bạc đem theo một ngàn nữa. Trường Khanh đi dọc đường suy nghĩ hoài không hiểu vì cớ nào Bạch Tuyết lại nói mẹ ghẻ rước về mà giết. Anh ta nhớ lại cách tháng trước, Băng Tâm có nói với mình Bạch Khiếu Nhàn là ông ngoại của Bạch Tuyết và biểu viết thơ hỏi thăm Chí Ðại, nên khi xuống Cà Mau, anh ta hỏi thăm nhà Khiếu Nhàn mà đến.

Chú Phú đang tưới kiểng, thấy Trường Khanh vào hỏi thăm Khiếu Nhàn thì nói ông đau nằm trong buồng hoài, không tiếp khách được. Trường Khanh biểu vào thưa rằng có mình tên là Trường Khanh ở Sài Gòn xuống và xin phép vô trong mà nói chuyện riêng với ông.

Khiếu Nhàn đau phong thấp nên nằm hoài, vừa nghe tên Trường Khanh thì ông chờn vờn ngồi dậy và hối chú Phú ra mời vào cho mau. Trường Khanh bước vào thi lễ, Khiếu Nhàn đáp lễ rồi mời ngồi, và nói rằng:

- Tôi có bịnh ra ngoài tiếp khách không được, xin thầy miễn chấp.

Trường Khanh không trả lời câu ấy, kéo ghế lại ngồi khít bên đầu giường rồi hỏi rằng:

- Thưa ông, con gái quan Phủ tên là Bạch Tuyết đó có phải là cháu ngoại ông hay không?

- Phải, nó là cháu ngoại tôi. Thầy biết nó bây giờ ở đâu hay không? Sao hôm tháng trước tôi gởi thơ hỏi thăm mà thầy không trả lời giùm một chút vậy!

- Thưa ông, tôi không trả lời cho ông, ấy là tại chỉ không muốn.

- Té ra thầy biết nó hay sao?

- Thưa biết, mấy tháng nay chỉ ở trên Sài Gòn thì phố tôi đâu mặt với phố chỉ.

- Bây giờ nó còn ở đó hay không? Nó cậy thầy xuống thăm tôi phải hôn?

- Thưa không, chỉ về gần tới Cà Mau nên tôi xuống trước mà cho ông hay.

- Úy cha chả! Nếu được vậy thì tôi có phước biết chừng nào.

Khiếu Nhàn vừa nói vừa cười vừa khóc, bộ ông mừng rỡ không thể tả cho rõ được. Trường Khanh để cho ông than thở vui mừng đã rồi mới đem chuyện Bạch Tuyết nhớ chồng, thương ông, mà sanh bịnh, bà Phủ lên rước cô không chịu về, quan Phủ lên nữa, bắt đại cô đem xuống đò chở về Cà Mau, mà thuật lại cho ông nghe.

Khiếu Nhàn nghe rõ rồi, ông không khóc mà cũng không mừng nữa, cứ ngồi xuống chiếu, bộ ông lo lắng lắm.

Trường Khanh thấy vậy mới hỏi rằng:

- Thưa ông, tôi không hiểu vì ý gì chị Bạch Tuyết không chịu theo cha mẹ về Cà Mau mà chỉ lại nói chỉ phải chết về tay mẹ ghẻ cũng như má chỉ hồi trước vậy? Chẳng giấu ông làm chi, tôi đây là anh em bạn của anh Chí Ðại. Từ ngày tôi biết chị Bạch Tuyết là vợ của anh Chí Ðại thì tôi theo bảo bọc chỉ luôn luôn. Vì tôi nghe chỉ nói mẹ ghẻ chỉ quyết rước chỉ về mà giết chỉ nên tôi tuốt xuống đây trước cho ông hay, sau lập thế cứu chỉ. Vậy xin ông tỏ hết việc nhà của ông cho tôi biết đặng tôi liệu cho.

Khiếu Nhàn nói rằng:

- Cháu gái tôi nó sợ phải lắm, bởi vì bà Phủ giết người không gớm tay, chớ không phải tay tầm thường. Ðể tôi nói tắt cho thầy nghe: bà Phủ khi mới vô làm bé quan Phủ, bà thừa dịp con gái tôi đau, bà tráo thuốc độc cho con gái tôi uống mà chết đặng mà giựt chồng. Sau bà thấy tôi giàu lớn mà con cháu duy còn có một mình con Bạch Tuyết mà thôi. Bà biết gia tài tôi sau nầy sẽ về con Bạch Tuyết ăn, nên thừa lúc tôi đi khỏi, bà ép uổng quan Phủ gả nó cho cháu bà. Con Bạch Tuyết nó nhớ thù mẹ nó, nên nó không ưng. Quan Phủ đánh khảo, nó giận mới trốn mà đi theo Chí Ðại. Từ ấy đến nay bà ghét nó lắm, bà làm sao không biết mà quan Phủ cũng ghét nó nữa. Bà có thương yêu gì, nên nghe nó đau, lên rước đem về mà nuôi.

Ờ ờ, tôi biết rồi, chắc là chồng nó đi xa, tôi đau ốm không làm chi được, nên bà mới lập mưu giết luôn nó đặng ngày sau bà đoạt gia tài của tôi cho thằng con trai quan Phủ ăn. Con Bạch Tuyết không có con, hễ nó chết rồi thì ngày sau gia tài của tôi về quan Phủ ăn, chớ Chí Ðại giành sao được.

Trường Khanh nghe nói mồ hôi nhỏ giọt. Khiếu Nhàn thở ra mà nói thêm rằng:

- Cha chả! Cháu tôi có bịnh nhiều mà đi dưới đò đây tôi sợ không xong.

Trường Khanh đáp rằng:

- Xin ông đừng lo, ở dưới đò có cô Băng Tâm là chị em bạn thiết với chị Bạch Tuyết. Cô cũng tận tâm với chỉ như tôi vậy. Tuy vậy mà cũng phải tính phương nào hễ ghe về tới ông rước về bên nầy mà nuôi mới tiện.

Khiếu Nhàn gật đầu, hứa để Bạch Tuyết về tới, ông sẽ qua Phủ rước đem về. Ông lại nói tiếp rằng:

- Thầy có lòng thương, nên không nệ cực khổ, theo bảo hộ cháu tôi như vầy, thiệt tôi mang ơn thầy quá.

Ông bèn kêu gia đinh dọn cơm cho Trường Khanh ăn, rồi sửa soạn giường chiếu đặng cho Trường Khanh nghỉ. Trường Khanh ở tại nhà Khiếu Nhàn được bốn ngày, bữa nào cũng sai đứa ở theo mình đó đi chơi đặng rình coi hễ thấy ghe đò quan Phủ về thì chạy về cho mình hay.

Qua ngày thứ năm, nó về báo rằng, quan Phủ về tới lại có đủ hai cô nữa.

Trường Khanh mừng rỡ liền hỏi rằng:

- Sao mầy biết rõ dữ vậy?

- Hồi nãy tôi đi ngay qua Phủ, thấy có một chiếc đò lớn đậu dưới bến. tôi giả nhà quê thấy đò tốt xuống coi chơi, rồi tôi hỏi ghe đâu đóng kiểu lạ dữ vậy. Bạn đò cười tôi rồi nói ghe đó ở Sài Gòn đưa con quan Phủ về dưới nầy. Tôi hỏi sao không đi tàu cho mau lại đi đò. Chúng nó nói người ta bịnh nhiều đi tàu sao đặng. Tôi hỏi bịnh nhiều hay ít. Chúng nó nói hôm mới xuống đò tưởng là chết gấp không về tới Cà Mau, may nhờ có cô nhỏ đi theo cổ săn sóc và đêm nào cổ cũng nói xầm xì hoài, nên bịnh mới nhẹ lần, bữa nay gượng ngồi chút đỉnh được.

Trường Khanh nghe nói mừng rỡ, chạy riết vô buồng thuật lại cho Khiếu Nhàn nghe. Khiếu Nhàn đau phong thấp, nên hai chơn tê ngắt, đi không được.

Ăn cơm rồi ông mới biểu gia đinh lấy võng mà võng ông xuống ghe đặng ông qua Phủ xin rước Bạch Tuyết về nuôi. Quan phủ thấy Khiếu Nhàn qua thì chào hỏi và nói rằng ngài hay Bạch Tuyết đau nhiều, nên lật đật lên Sài Gòn rước về mới về tới.

Ngài nói như vậy song không cho Khiếu Nhàn thấy mặt cháu. Khiếu Nhàn hỏi thăm chứng bịnh và hỏi thăm chuyện đi dọc đường một hồi rồi xin rước Bạch Tuyết về nuôi.

Quan Phủ lặng thinh, không nhứt định.

Bà Phủ trong buồng bước ra nói rằng:

- Bác già cả mà lại bịnh hoạn, nếu đem nó về thì càng rối thêm cho bác. Ðể nó ở bên nầy vợ chồng tôi nuôi lại không bằng bác hay sao?

Khiếu Nhàn ròng ròng quyết một xin đem Bạch Tuyết về hoài. Ông nói thét bà Phủ giận nên đáp rằng:

- Bác thương nó sao bác không đi kiếm nó đem về đi. Ai đi rước nó sẵn về đây cho bác hay sao, mà bây giờ bác giành nữa.

Khiếu Nhàn nghe nói xẳng thì giận mà lại lo, nên ngồi ngó quan phủ trân trân, không nói chi được nữa. Quan Phủ ngó lơ, không rầy vợ, mà cũng không nói cho mát lòng cha vợ trước. Khiếu Nhàn liệu nói nữa cũng vô ích, mà nếu mắng lộn thì mắng không lại bà Phủ, nên hối gia đinh võng ông về.

Trường Khanh nghe Khiếu Nhàn về nói bà Phủ không cho rước mà cũng không cho thấy mặt Bạch Tuyết thì lo sợ, nên đi ra đi vô gãi đầu hoài. Khiếu Nhàn bị võng đi động nên hai chơn nhức lại. Trường Khanh hối gia đinh lấy dầu thoa cho ông một hồi bớt nhức, rồi anh ta nhắc ghế lại gần bên giường mà hỏi rằng:

- Bây giờ ông tính phải làm thế nào mà đem chị Bạch Tuyết về bên nầy được?

- Xin thầy làm ơn tính giùm, chớ tôi bại chơn bây giờ có đi đứng gì được mà sanh sự.

- Thưa ông, tuy ở bên có cô Băng Tâm mặc dầu, song tôi nghe ông nói bà Phủ ác độc thì tôi lo quá. Thế nào cũng phải đem về bên nầy mới yên. Tôi có một kế, song xin ông cho phép tôi hỏi một đôi điều rồi tôi mới tính được.

- Miễn là thầy cứu cháu tôi được thì thôi, thầy biểu thế nào tôi cũng chịu hết thảy. Thầy muốn hỏi điều chi?

- Ông nói bà Phủ nhỏ hồi trước tráo thuốc mà giết bà Phủ lớn, vậy mà ông có đủ chứng cớ hay sao?

- Sao lại không có. Thầy hỏi ông Sen thì rõ, đầu đuôi có ông hết thảy. Ông nói tôi mới biết rõ chuyện đó.

Trường Khanh bước ra ngoài, kêu ông Sen vô, rồi biểu ông thuật rõ việc tráo thuốc lại cho anh ta nghe. Trường Khanh ngồi suy nghĩ một hồi rồi, mới nói rằng:

- Có lẽ cứu được!

Khiếu Nhàn mừng rỡ liền hởi:

- Làm sao?

- Chớ chi trong nhà có người nào thuở nay hay qua lại nhà bà Phủ thì càng dễ hơn.

- Có ông Sen đó, ông ở bên Phủ mười năm, ổng mới về bên nầy hơn một năm nay đó đa.

- Ðược vậy thì tốt lắm. Tôi tính làm như vầy đây. Tôi sai ông Sen qua bên dinh giả bộ thăm Bạch Tuyết, hẹn hò Băng Tâm, ban đêm lúc trong nhà ngủ hết cô lén mở cửa đem chị Bạch Tuyết ra ngoài đặng phụ tôi rước tuốt về bên nầy. Như sáng ngày quan Phủ có hay chạy qua mà đòi thì ông cự hẳn đừng có trả, không lẽ quan Phủ dám bắt ông mà sợ. Nói cùng là nghe, ví như bà Phù có xúi quan Phủ lên Toà mà kiện đi nữa, thì tôi ở nhà gìn giữ, còn ông với ông Sen đi đối nại, luôn dịp ông cáo bà Phủ về sự tráo thuốc mà giết bà lớn nữa, và xin quan Biện Lý đòi chứng tra hỏi cho minh bạch. Vợ chồng quan Phủ mắc lo việc đó, tự nhiên hết đòi bắt chị Bạch Tuyết nữa.

- Thầy tính hay lắm! Tôi tu nhơn tích đức, không muốn sanh sự. Mà nếu họ muốn làm dữ thì tôi chống cự chớ sợ gì.

Ông Sen nói rằng:

- Ðược để tối nay tôi qua dinh lén cho cô Băng Tâm hay, rồi biểu cô liệu coi bữa nào là được thì khắc kỳ[2] đặng tôi qua phụ với cô.

Trời vừa chạng vạng tối thì ông Sen lò mò qua dinh. Bà Phủ ngó thấy ông thì hỏi ông đi đâu. Ông nói nghe Bạch Tuyết mới về nhà trong mình có bịnh nên ông qua thăm. Bà Phủ hứ một cái rồi nói rằng:

- Nó đau để cho nó nghỉ, đừng có vô buồng nói lộn xộn nó mệt.

Ông Sen đứng ngoài dòm vô cửa buồng, thấy dạng Băng Tâm đi qua đi lại, mà mắc bà Phủ ngồi tại bộ ván dựa cửa buồng, và bà ngó ông chằng chằng, nên ông không nói mà cũng không ra dấu được. Ông đứng xớ rớ trót một giờ. Lính sửa soạn đóng cửa, ông phải ra về.

Trường Khanh với Khiếu Nhàn tuy chưa thi kế được, song không thối chí, biểu ông Sen đi ngủ tồi tối mai sẽ qua bên dinh nữa.

Bà Phủ thật là tay độc ác. Bà đem được Bạch Tuyết xuống đò thì trong túi bà có sẵn thuốc độc rồi, nhưng vì bị Băng Tâm giữ gìn thuốc men, cơm nước cho Bạch Tuyết hoài, nên bà không ra tay được. Bà sanh lòng oán giận Băng Tâm, nên lúc ở dưới đò thì bà tính về Cà Mau bà sẽ lập thế giết Băng Tâm chết trước rồi bà làm tới Bạch Tuyết mới nhẹm.

Ðò vừa về tới nhà thì bà cho người dọ tin Khiếu Nhàn, họ nói Khiếu Nhàn còn đau chơn đi đây không được mà trong nhà lại có một thầy lạ mặt. Bà hỏi tướng mạo thì biết là Trường Khanh, nên trong lòng không vui. Bà nhớ lại lúc ở trên nhà Bạch Tuyết, bà thấy Trường Khanh với Băng Tâm tình ý khác thường; nay bà đem Bạch Tuyết về Cà Mau mà Trường Khanh đi theo chắc là anh ta vì Băng Tâm mà đi chớ anh ta kêu Bạch Tuyết bằng chị không lẽ anh ta có tư tình với Bạch Tuyết. Bà Phủ nhớ tới việc đó thì trong lòng bà sanh lo, bởi vì bà coi bộ tướng Trường Khanh hẳn hòi, nếu anh ta ở đây mà bà động tới Băng Tâm hoặc Bạch Tuyết thì chắc anh ta sanh việc khó. Bởi bà lo lắng, không biết liệu thế nào cho kế thành mà khỏi sanh chuyện, nên ông Sen qua bà quạu quọ không cho vô thăm Bạch Tuyết.

Chừng ông Sen về rồi, bà nghi Trường Khanh sai qua nói chuyện chi đây, bởi vậy bà tiếc không cho ông Sen vô buồng đặng bà rình nghe coi nói chuyện gì, rồi bà sẽ lập kế mà hại Trường Khanh trước.

Chiều bữa sau, ông Sen lơn tơn qua dinh quan Phủ, bà Phủ hỏi ông đi đâu, thì ông nói ông Khiếu Nhàn sai ông qua thăm Bạch Tuyết xem bịnh nhẹ hay chưa. Bà Phủ không gắt gao trơn trớt như bữa trước nữa, bà cười và nói rằng:

- Bữa nay nó đã khá nhiều. Ông về thưa lại với bác rằng hồi chiều nó rán ăn được nửa chén cơm. Nó nằm chơi trong buồng, ông vô thăm nó một chút.

Bà nói dứt lời liền đứng dậy đi ra nhà sau. Ông Sen nghe bà biểu đi vô buồng thì mừng quá nên xâm xâm đi riết vô. Bà Phủ giả bộ đi ra sau nhà, mà chừng đi ngang qua cái buồng trống, khít bên cái buồng của Bạch Tuyết thì bà bước vô đó rồi kê mặt dựa kẹt vách ván mà dòm. Bà thấy ông Sen đứng nói chuyện xầm xì với Băng Tâm, hai người nói nhỏ quá bà nghe không rõ, duy thấy Băng Tâm gặc đầu lia lịa và nghe nói rằng: 'Tối nay hai giờ“. Bà lại thấy ông Sen bước ra ngoài rồi Băng Tâm ngồi trên giường ôm lỗ tai Bạch Tuyết mà hỏi nhỏ một hồi, bà biết Băng Tâm hẹn hò việc chi đây nên bà gật đầu cười thầm rồi trở ra cửa buồng mà đi xuống nhà sau.

Ông Sen về thuật lại cho Trường Khanh và Khiếu Nhàn hay rằng, ông đã giáp mặt hai cô nói chuyện thong thả và Băng Tâm hẹn hai giờ khuya đêm ấy cô sẽ lén mở cửa đem Bạch Tuyết ra ngoài, mà cô căn dặn phải có ai núp ngoài vườn đặng tiếp với cô đắt Bạch Tuyết về bên nầy chớ cô không thuộc đường sá. Trường Khanh gật đầu đáp rằng: „Tối nay tôi đi với ông“

Ðồng hồ gõ một giờ, Trường Khanh mặc quần lãnh đen, áo bành tô nỉ đen, mang giày tây đen, đội kết cũng đen, đi theo ông Sen qua dinh quan Phủ.

Ðêm ấy nhằm đêm mùng bảy, trăng đã lặn mất hồi đầu canh hai rồi, nên trời tối đen như mực. Qua đến cầu mát quan Phủ, ông Sen nói chó trong nhà quen với ông nên không sủa, vậy ông khuyên Trường Khanh tạm ngồi đó, còn ông lén bước nhẹ nhẹ vô cửa dòm coi trong nhà động tịnh lẽ nào. Ông nghe im lìm, lại thấy trong buồng Bạch Tuyết còn đèn chong leo lét.

Cách một hồi lâu, ông mới thấy dạng Băng Tâm đi qua đi lại, ông lật đật trở ra cầu mát nói cho Trường Khanh nghe, rồi hai ngưòi dắt nhau lén đi vô núp dựa bên mấy chậu kiểng để trước cửa. Trường Khanh núp giây lâu, không nghe chi hết, mới đứng dậy ngóng cổ dòm vô nhà, thì thấy Băng Tâm đứng trước cửa buồng ngó giáo giác bốn phía, rồi lần bước lại cửa mạch. Anh ta chắc Băng Tâm sẽ mở cửa đó mà ra, nên ở ngoài cũng lần bước đi lại phía đó.

Trường Khanh, ông Sen đứng ngoài im lìm mà chờ, Băng Tâm mở cửa nhẹ nhẹ bước ra, ngó thấy Trường Khanh thì mừng, nên đưa tay ra dấu biểu ở tại đó mà chờ. Cô quày quã trở vô, tính dắt Bạch Tuyết đem ra, nào dè cô vừa mới xây mình vô chưa khỏi cửa bỗng nghe tiếng la bài hải:

- Ăn trộm mở cửa đó, bắt nó! Bắt nó!

Băng Tâm giựt mình, không biết ăn trộm ở đâu, muốn chạy riết vô buồng, mà chơn rung lập cập, chạy không dược. Cô tưởng ăn trộm mở cửa sau, bà Phủ hay nên bà la, chừng cô thấy một gói đồ rớt bên chơn cô, rồi bốn năm chú lính vây cô biểu cô đưa tay đặng họ còng, chừng ấy cô mới hay cô bày kế mà mắc kế, nên cô thất kinh, đứng trân trân, không nói được tiếng chi hết.

Trường Khanh ở ngoài nghe hô ăn trộm, thì biết mưu đã lậu rồi, nên dắt ông Sen ra cầu mát mà ẩn mặt. Anh ta chạy được một khúc, nghe tiếng bà Phủ biểu „còng con nhỏ đó lại“ biết Băng Tâm đã bị hại nên không nỡ đi luôn, mới trở lại quyết vô bào chữa cho Băng Tâm. Ông Sen sợ Trường Khanh liên lụy nên chạy theo níu kéo lại.

Trường Khanh nghe tiếng Băng Tâm khóc trong lòng đau đớn như dao cắt, nên xô ông Sen rồi xốc xốc đi vô nhà, ngó thấy Băng Tâm hai tay bị còng hết thì giận quá, nên một tay thì nắm cái còng, còn một tay chỉ mấy chú lính mà nói rằng:

- Việc đâu còn có đó, bây không đặng phép làm ngang, phải mở còng ra cho mau.

Bà Phủ nghe Trường Khanh nói lớn tiếng, bà nổi giận, nên xốc lại chỉ Trường Khanh mà nói rằng:

- À sắp mày dùng nội công ngoại kích đây mà! Thầy đứng ngoài rình, còn con nọ mở cửa đưa đồ ra chớ gì! Cai Quới, mầy còng luôn thằng nầy nữa cho tao.

Trường Khanh trợn mắt đáp rằng:

- Bà đừng vu oan cho người ta, tôi ăn trộm của bà vật gì? Bà muốn làm dữ thì để tôi tới Tòa rồi bà sẽ biết tôi là người gì.

Cai Quới với mấy tên lính đứng dụ dự không biết phải còng luôn Trường Khanh hay không. Bà Phủ nghe Trường Khanh hăm he thì giận quá, nên giậm chơn nạt lớn rằng:

- Cai Quới, tao biểu mày bắt nó, sao mầy không chịu vưng lời tao? Tao sẽ lột lon mầy cho mầy coi!

Bốn tên lính thấy chú Cai bị quở, nên xúm lại bắt Trường Khanh mà còng. Trường Khanh có một mình vùng vẫy hết sức mà cự không lại, túng thế phải chịu thua, để cho chúng còng, song trợn mắt ngó bà Phủ lườm lườm.

Lúc đương lộn xộn ấy, quan Phủ ngồi tại bộ ghế giữa mà hút thuốc, không nói chi hết, còn Bạch Tuyết nằm trong buồng kêu trời mà khóc. Ông Sen thấy việc chẳng lành thì lật đật chạy vô cho Khiếu Nhàn hay.

Bà Phủ thấy lính còng Trường Khanh được rồi, mới day lại nói quan Phủ rằng:

- Ông làm phước bẩm đặng giải hai đứa ăn trộm nầy lên Tòa liền bây giờ cho tôi. Tang cớ đủ hết đây, chúng nó không nói gì nữa được.

Quan Phủ biểu lấy gói đồ mở ra coi thì thấy có một cái áo xuyến đen, hai cái quần lãnh với một chiếc neo. Quan Phủ dạy dắt hết gian nhơn đem giam dưới trại rồi lấy bút mực ra làm phúc bẩm. Bà Phủ lại nói:

- Ông cũng làm thêm một tờ phúc cho quan Chánh Bố xin lột lon cai Quới cho tôi. Lính tráng mà nó nghịch mạng quá như vậy không để làm gì. Quan Phủ ừ, rồi ngồi viết. Chừng quan Phủ viết xong rồi, bà biểu đọc lại cho bà nghe. Bà chê ông nói yếu ớt, nên sửa lại hai ba chỗ.

Khiếu Nhàn nghe ông Sen về nói Trường Khanh với Băng Tâm bị nhà bà Phủ phao là ăn trộm nên bắt còng hết hai người, thì ông thất kinh, ngồi than trời trách đất một hồi rồi tính sáng ngày biểu gia đinh võng ông qua Phủ đặng ông kêu nài cho hai trẻ. Chẳng dè sáng bữa sau, lúc mặt trời mới mọc, ông Sen đi thám dọ về bảo rằng quan Phủ đã sai lính giải Trường Khanh với Băng Tâm lên Tòa hồi khuya rồi. Khiếu Nhàn đổ mồ hôi, tay chơn run lập cập nằm ngửa trên giường mà khóc.

Bà Phủ làm cho Băng Tâm đi khỏi nhà rồi thì trong lòng bà thơ thới bởi vậy bà ra vô an ủi săn sóc Bạch Tuyết luôn luôn.

Chiều bữa sau quan Phủ đi vô kinh Bạch Ngưu đặng phân ranh đất của dân xin khẩn. Bà Phủ ở nhà, lúc mặt trời chen lặn bà vô buồng mở tủ lấy một thang thuốc rồi xuống bếp nhúm lửa mà sắc. Chừng thuốc tới rồi bà cho tôi tớ lính tráng qua chợ chơi hết; bà bưng chén thuốc đem vô buồng, kêu Bạch Tuyết thức dậy mà nói rằng:

- Bầy trẻ nó sắc thuốc rồi đây con, rán ngồi dậy mà uống. Phải uống riết cho mau mạnh, kẻo dì lo quá.

Bạch Tuyết nghi thuốc ấy chẳng hiền, nên không chịu uống, song sợ mích lòng mẹ ghẻ, nên phải nói dối rằng:

- Hổm rày uống thuốc bắc hoài, đắng miệng quá. Thôi, để nghỉ một bữa. Bà Phủ đáp rằng:

- Phải uống luôn cho mau mạnh, chớ nghỉ sao đặng. Thuốc sắc lỡ rồi, con không chịu uống bây giờ phải đổ hay sao?

Bà Phủ năn nỉ không được thì giận, nên hăm he. Chừng bà thấy Bạch Tuyết quyết không chịu uống, bà không thèm nói nữa, bỏ đi đóng cửa buồng cho chặt, rồi leo lên giường, tay thì đè Bạch Tuyết, còn tay thì bưng chén thuốc đổ vô họng. Bạch Tuyết đau lâu tay chơn yếu nhớt, vùng không lại sức bà Phủ, nên nằm mà la, song cắn răng mím miệng hoài, bà Phủ đổ thuốc không được. Bà Phủ tay mắc đè còn tay bưng thuốc, không thể vạch miệng được, lây quây một hồi bà mệt nên bà tính bóp họng Bạch Tuyết đặng có hả miệng cho bà đổ thuốc.

Bà vừa mới chận cổ Bạch Tuyết, bỗng nghe động cửa buồng một cái rầm, cánh cửa tróc ngã ngang, rồi thấy có hai người xông vô, một trai là Phan Chí Ðại với một ông già là ông Sen. Bà Phủ kinh hãi nên ngồi sửng sốt trên mình Bạch Tuyết, tay hãy còn bưng chén thuốc.

Còn Bạch Tuyết thấy chồng với ông Sen thì chờn vờn muốn ngồi dậy, mà bị bà Phủ đè nên gượng dậy không nổi. Chí Ðại chạy lại, tay giựt chén thuốc đưa cho ông Sen cầm, còn tay thì kéo bà Phủ xuống. Bà Phủ riu ríu xuống, cặp mắt chớp lạch, mặt mày tái xanh, coi bộ sợ sệt lắm.

Chí Ðại ôm vợ đỡ ngồi dậy, Bạch Tuyết choàng tay ôm cổ chồng và khóc và nói rằng:

- Nếu trễ một chút nữa thì chắc vợ chồng hết thấy mặt nhau.

Chí Ðại nói rằng:

- Lỗi nầy tại qua. Mà qua đã về rồi, thôi em đừng sợ chi hết.

Chí Ðại day qua thấy bà Phủ còn ngó trân trân thì nói rằng:

- Hồi trước bà giết bà già tôi rồi mà bà chưa vừa lòng, nay bà còn muốn giết luôn vợ tôi nữa? Việc dữ tại bà gây trước, vậy bà đừng trách. Bà độc ác quá, tôi phải trừ bà mới xong.

Anh ta kêu ông Sen mà nói rằng:

- Ông bưng chén thuốc cho kỹ, coi chừng đừng cho đổ, bởi vì chén thuốc đó có ích lắm. Bà Phủ nghe nói thất kinh, chờn vờn xốc lại, muốn giựt chén thuốc may nhờ Chí Ðại ngó thấy, đưa tay mà cản bà té dựa vào cái tủ, ông Sen mới bưng chén thuốc bước ra ngoài được.

Chí Ðại thò tay ẵm vợ đem ra ngoài rồi biểu ông Sen về; ông Sen bưng chén thuốc đi trước Chí Ðại ôm Bạch Tuyết theo sau. Bà Phủ muốn la làng, nhưng không hiểu tại bà nghĩ chén thuốc quan hệ hay tại bà sợ Chí Ðại làm dữ, mà bà không dám la, đứng tại cửa ngó theo, mặt mày xanh dờn, mồ hôi xối xả.

Tôi tớ đi chợ về thấy bà Phủ áo quần bàu nhàu, tóc tai xụ xợp, cửa buồng ngã nghiêng, không hiểu có chuyện chi, nên lật đật hỏi thăm.

Bà Phủ nói rằng: “Chí Ðại làm ngang qua bắt Bạch Tuyết, bà cản không nổi, nên nó phá nhà, phá cửa, rồi bồng vợ đi mất”. Bà nói như vậy rồi nằm gác tay qua trán mà suy nghĩ. Bà đã đáng tội rồi mà chưa biết ăn năn.

Chiều bữa sau, quan Phủ về, bà còn kiếm chuyện nói dối rằng Chí Ðại qua phá nhà và đánh bà mà bắt vợ, rồi bà xúi quan Phủ nhứt diện qua bắt Bạch Tuyết lại, nhứt diện lên Tòa kiện Chí Ðại về tội đánh bà. May cho quan Phủ lần nầy ngài không dám nghe lời vợ nữa, ngài nói rằng tuy Bạch Tuyết theo không Chí Ðại, song Khiếu Nhàn có làm hôn thú cho vợ chồng nó rồi, nên bây giờ vợ nó thì nó bắt, mình không phép ngăn cản. Bà Phủ giận quan Phủ không nghe lời, nên nằm dàu dàu không thèm nói chuyện Bạch Tuyết nữa.

Chí Ðại đi hơn một năm, đi tuy không hẹn, song về kịp kỳ quá!

Tàu vừa tới bến, thì tuốt lên nhà Khiếu Nhàn, thấy ông ngoại vợ đang ngồi than khóc, hỏi sơ chuyện nhà thì thất kinh, nên lật đật biểu ông Sen đi theo, tính qua dinh quan Phủ rước vợ đem về. . .

Bước vô dinh không thấy lính tráng, bạn bè chi hết, lại thấy cửa buồng của Bạch Tuyết đóng kín mít, trong lòng phát nghi. Hai người kề tai vào cửa thì nghe tiếng la nho nhỏ, và có tiếng vùng vẩy è è.

Chí Ðại nóng nảy kề vai phá cửa mà vô, mới gặp cuộc hung ác của bà Phủ đó. Chí Ðại đem Bạch Tuyết về tới nhà thuật sơ mọi việc lại cho Khiếu Nhàn nghe, thì ông mừng quá mà chảy nước mắt.

Ông Sen bưng chén thuốc đem cất trong tủ, rồi đi giăng mùng. Quét giường, dọn chỗ cho Bạch Tuyết nằm, còn Chí Ðại thì trở xuống tàu kêu ông thầy thuốc Quảng Ðông lên coi mạch hốt thuốc cho Bạch Tuyết uống.

Bạch Tuyết nhờ thuốc thang hay, mà cũng nhờ mừng chồng về, nên khuya lại trong mình nhẹ nhàng khỏe khoắn lắm. Cô ngồi dậy to nhỏ thuật hết lại việc nhà cho chồng nghe. Chí Ðại hay vợ vì mình mà phải dày bừa gió bụi thì kính trọng vô cùng.

Anh ta nghe chuyện Băng Tâm với Trường Khanh thì chưng hửng, rồi chừng tới lúc bà Phủ vu oan đặng làm hại hai người ấy trước rồi vợ mình sau, thì anh ta giận quá, liền đi lấy ve đổ thuốc của ông Sen bưng đem về đó rồi nhét nút chặt mà cất.

Sáng bữa sau, Chí Ðại bắt một con chó đổ thử một chút thuốc ấy vô họng, thì con chó đi gật gù, gật gưỡng chừng một giờ đồng hồ rồi té xỉu nằm chết.

Chí Ðại thất kinh, mà Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn thấy vậy cũng giùn mình. Chí Ðại biểu thầy thuốc Quảng Ðông xem mạch Bạch Tuyết lại thì thầy thuốc nói bịnh mười phần giảm được năm rồi, không còn lo chi nữa. Thầy coi mạch luôn cho ông Khiếu Nhàn thì cũng nói bịnh ông có thể cho thuốc chừng một tháng ông đi được.

Chí Ðại mừng rỡ vô cùng. Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn khuyên Chí Ðại hãy lên Tòa minh oan giùm cho Trường Khanh với Băng Tâm. Chí Ðại gầt đầu, rồi xuống tiệm Lâm Liễn Thành biểu chủ tiệm đưa cho mượn một ngàn đồng bạc, đặng lo tính việc nhà, rồi ít bữa sẽ tính sổ. Chí Ðại bỏ bạc vào túi, trở về nhà căn dặn gia đinh phải giữ gìn cẩn thận rồi vào trong từ giã Bạch Tuyết với Khiếu Nhàn mà đi Bạc Liêu, quyết báo oán cho vợ nên có đem ve thuốc theo nữa.

Chí Ðại lên tới Bạc Liêu thì thẳng vô Tòa, đọc hết các việc gian của bà Phủ Cà Mau cho quan Biện Lý nghe, nào là tráo thuốc giết bà Phủ lớn mà giựt chồng, nào là ép gả con ghẻ cho cháu mà đoạt của, nào giả thương yêu rước con ghẻ về mà làm hại, nào là vu oan cho Trường Khanh với Băng Tâm đặng rảnh tay, nào là đè con ghẻ đổ thuốc độc cho chết đi đặng có đoạt hết gia tài của Khiếu Nhàn.

Chí Ðại nói đủ đầu đuôi rồi đưa ve thuốc cho quan Biện Lý xem rồi van xin thả Trường Khanh với Băng Tâm là người ngay, còn xin bắt tội bà Phủ là người đã giết chết bà Phủ lớn, mà lại còn toan giết luôn Bạch Tuyết nữa.

Quan Biện Lý chăm chú nghe kỹ lắm, ngài cầm ve thuốc xốc lên xốc xuống mà coi rồi nói rằng:

- Vụ Trường Khanh với Băng Tâm bị cáo về tội ăn trộm thì tôi đánh dây thép qua Vĩnh Long hỏi thăm tánh hạnh đã biết rõ là người tử tế bị cáo gian, nên tôi đã thả hồi sớm mai nầy rồi. Còn vụ bà Phủ Nguyễn Thị Phường là vợ ông Phủ Lê Xuân Thới, thì thầy phải làm một lá đơn kể cho đủ mọi việc thầy vừa nói với tôi đó, rồi tôi sẽ xét ngay gian cho. Ve thuốc thầy để đây đặng tôi gởi cho lương y thí nghiệm. Thầy đi làm đơn đi; như chiều nay vô không kịp thì sáng mai vô hầu cũng được.

Chí Ðại nghe dạy như vậy liền xá quan Biện Lý mà ra, tính đi mướn Trạng Sư làm đơn kiện mới mạnh. Anh ta vừa tới nhà Trạng Sư, thấy Trường Khanh đương đứng trước cửa nhà mà nói chuyện với một cô nhỏ, nghĩ chắc cô ấy là Băng Tâm, nên mừng rỡ đi riết lại. Trường Khanh thấy Chí Ðại thì chưng hửng, vụt hỏi rằng:

- Anh Chí Ðại đó phải hôn?

- Phải.

- Anh về bao giờ? Anh có ghé Cà Mau hay không?

- Tôi ở Cà Mau lên đây.

Băng Tâm thuở nay chưa biết mặt Chí Ðại, song nghe người ấy là chồng Bạch Tuyết thì kính mến tự nhiên, bởi vậy vừa nghe Trường Khanh kêu tên, thì cô đã mừng rồi mà chừng nghe Chí Ðại ở Cà Mau lên, thì cô không ái ngại chi hết, vụt hỏi rằng:

- Anh có gặp mặt chị Bạch Tuyết hay chưa? Anh lên đây chi vậy? Bà Phủ có hại chỉ hay không?

Chí Ðại cúi đầu chào Băng Tâm, miệng chúm chím cười mà nói rằng:

- Anh đã gặp vợ anh rồi, mà cũng đã rước đem về bên nhà rồi nữa, hai em chớ lo. Anh nghe vợ anh thuật chuyện hai em hết lòng bảo hộ vợ anh đến nỗi phải mang họa, thì anh cám nghĩa hết sức, chẳng biết lấy chi mà tạ ơn hai em cho vừa.

Trường Khanh nói bứt ngang[3] rằng:

- Chuyện đó hơi nào anh nói thất công. Bây giờ anh đi đâu đây? Sao không ở nhà với chị?

Chí Ðại đáp rằng:

- Anh lên đây là quyết minh oan cho hai em, và luôn dịp anh kiện bà Phủ đặng báo thù cho vợ anh nữa. Anh đã vô Tòa thưa với quan Biện Lý rồi. Quan Biện Lý nói ngài biết hai em bị cáo gian, nên thả hai em rồi. Còn vụ bà Phủ thì ngài dạy anh phải làm đơn, nên anh lại đây mướn Trạng Sư làm cho hẳn hoi, bởi vì bà Phủ dữ quá anh về anh gặp bà đang đổ thuốc độc cho vợ anh, may anh phá cửa vô cứu kịp, chớ không vợ anh chết rồi. Anh lấy được thuốc độc mới nạp cho Tòa hồi nãy.

Trường Khanh với Băng Tâm nghe nói chắc lưỡi lắc đầu. Trường Khanh lại nói rằng:

- Tòa mới thả hai em hồi sớm mai. Hai em lại đây cũng tính mướn Trạng Sư kiện bà Phủ đặng đem chị về bên ông mà nuôi, và luôn dịp kiện thể diện hai em nữa. May anh đã về rồi, vậy anh liệu coi phải làm thế nào?

Chí Ðại nói:

- Hai em đừng lo, chuyến nầy anh quyết ra tay trừ bà Phủ đặng khỏi hậu họa. Vậy hai em theo anh vô Trạng Sư đặng anh cậy ổng làn đơn.

Ba người đắt nhau vô phòng Trạng Sư, Chí Ðại đọc hết đầu đuôi chuyện bà Phủ tráo thuốc mà giết mẹ vợ và chỉ chứng là ông Sen, thầy thuốc Ðài với tên Vân, ở Cái Tàu. Anh ta cũng thuật luôn chuyện bà Phủ cáo gian Trường Khanh với Băng Tâm rồi cậy Trạng Sư làm đơn. Trạng Sư biên hết lời của Chí Ðại nói, rồi đòi ăn nội vụ sáu trăm đồng bạc. Chí Ðại chịu.

Sáng bữa sau Băng Tâm đi chợ mua đồ, còn Trường Khanh với Chí Ðại lên đọc đơn lại và ký tên, rồi chồng bạc cho Trạng Sư. Trạng Sư khuyên hai người về, để mặc ông hầu nài, chừng nào xử sẽ có trát đòi.

Chí Ðại, Trường Khanh với Băng Tâm ngồi ghe trở về Cà Mau. Bạch Tuyết uống thuốc của ông thầy Quảng Ðông mấy bữa trong mình khá nhiều, ăn ngủ được, nên đã đi ra đi vô chút đỉnh. Cô thấy chồng về mà lại có Băng Tâm với Trường Khanh thì cô mừng nên hỏi thăm không dứt. Khiếu Nhàn cũng mừng, nên biểu ông Sen vịn cho ông rán đi ra ngoài mà nói chuyện. Trường Khanh thuật chuyện Tòa thả mình với Băng Tâm rồi thì Chí Ðại tiếp mà thuật chuyện mình đã mướn Trạng Sư làm đơn cáo bà Phủ.

Bạch Tuyết vui lắm, nói chuyện không ngớt, nhứt là theo hỏi Chí Ðại với Trường Khanh coi chắc Tòa bỏ tù bà Phủ hay không. Khiếu Nhàn ngồi lặng thinh ngó Bạch Tuyết một hồi rồi nói rằng:

- Ở đời mình chẳng nên gieo thù kết oán làm chi, miễn mình khỏi bị hại thì thôi, ai quấy để cho ông Trời hại họ. Bây giờ cháu bỏ tù bà Phủ, rồi mẹ cháu sống được hay không, mà cháu làm nhơ danh cha cháu.

Bốn người nhỏ nghe nói tới câu chót thì giựt mình, nên ngồi nhìn nhau không biết tiếng chi mà trả lời.

Cách ít ngày nghe nói có trát đòi quan Phủ và bà Phủ đi hầu, mà chừng về thì có một mình quan Phủ, còn bà Phủ bị Tòa giam. Bạch Tuyết uống thuốc chừng nửa tháng thì mạnh lại như thường, còn Khiếu Nhàn nhờ thuốc đó nên cũng bớt tê chơn, đi chút đỉnh được.

Bữa nọ có trát đòi ông Sen, vợ chồng Chí Ðại, Băng Tâm với Trường Khanh đi hầu. Mấy người đi dọc đường gặp thầy thuốc Ðài với tên Vân cũng đi hầu nữa. Tòa tra hỏi chứng cứ rõ ràng ngày trước bà Phủ tráo thuốc giết bà Phủ lớn mà lương y khám nghiệm ve thuốc của Chí Ðại nạp đó cũng là thuốc độc, nên quan Biện Lý định giải bà Phủ lên Tòa đại hình Long Xuyên.

Ðến bữa xử, Tòa đòi đi hầu một lượt nữa. Tòa kêu án bà Phủ tám năm cấm cố, quở quan Phủ Lê Xuân Thới làm quan bất minh.

Quan Phủ ở trong Tòa bước ra xuôi xị, đi không muốn nổi. Bạch Tuyết thấy cha như vậy thì ứa lụy, nước mắt chảy ròng ròng, lật đật chạy lại vịn cha mà nói rằng:

- Xin cha chớ phiền con, bởi vì dì giết mẹ con, mà lại muốn giết con nữa, nên con phải trả thù, con không dè làm như vậy mà liên lụy đến cha.

Quan Phủ lau nước mắt mà nói rằng:

- Cha đáng tội lắm, con chẳng có lỗi chi đâu.

Vợ chồng Chí Ðại với Trường Khanh, Băng Tâm thấy quan Phủ suy nhược tinh thần quá, thì lo sợ nên theo an ủi, rồi đi với ngài mà về không chịu để ngài đi riêng. Về đến Cà Mau, quan Phủ ghé nhà Khiếu Nhàn khóc lạy mà xin lỗi. Khiếu Nhàn thấy quan Phủ ăn năn, ông động lòng nên ngồi khóc, không nói chi hết. Bạch Tuyết thấy ông, cha như vậy nên cũng khóc mùi.

Có lẽ tại Tòa viết thơ cho quan Chánh Bố mà kể tội quan Phủ Lê Xuân Thới, nên cách ít ngày quan Phủ được tờ quan trên dạy phải làm đơn xin hưu trí lập tức. Ngài biết mình đáng tội nên vưng lịnh làm đơn gởi liền, không dám kêu nài chi hết.

Chí Ðại vừa về tới, kế gặp việc nhà lộn xộn, chưa tính sổ sách thâu xuất được. Chừng cứu vợ, trả thù xong, anh ta xuống tiệm Lâm Liễn Thành mà suy tính. Tính ra thì vốn hai muôn, lời được hai muôn nữa. Chí Ðại lấy tiền huê hồng hai ngàn đồng, lãnh tiền lương trong một năm rưỡi chín trăm đồng nữa cộng chung là hai ngàn chín trăm đồng. Anh trả lại cho Lâm Liễn Thành một ngàn còn dư được một ngàn chín trăm đồng. Lâm Liễn Thành trả một muôn đồng bạc vốn lại và chia lời gần một muôn nữa.

Chí Ðại chưng hửng hỏi:

- Tôi không có hùn đồng vốn nào mà chia lời, chia vốn nỗi gì?

Lâm Liễn Thành không thèm trả lời, đi lấy tờ hiệp đồng đưa cho Chí Ðại coi. Chí Ðại đọc từ đầu chí cuối, thấy tên mình đứng hùn rõ ràng mà ông Bạch Khiếu Nhàn thay mặt ký tên giùm, chừng ấy mới hiểu ông ngoại vợ mình muốn giúp mình làm ăn, song ông sợ mình thẹn thùa, nên ông làm kín như vậy.

Chí Ðại xách hết bạc lời, bạc vốn đem về, thấy Khiếu Nhàn đương ngồi nói chuyện với Trường Khanh, Băng Tâm, Bạch Tuyết và quan Phủ, anh ta mới đến ngay trước mặt Khiếu Nhàn mà nói rằng:

- Thưa ông, phận cháu nghèo hèn, ông lấy bực quân tử mà đãi cháu, giúp cho cháu làm ăn bạc muôn mà không nói cho cháu biết, thiệt xưa nay cháu chưa thấy ai đãi cháu ngoại rể như ông vậy. Chẳng nói cái ơn làm chi, cái tình của ông đó dầu muôn năm cháu cũng còn cảm hoài. Cháu đi buôn bán hơn một năm nay, số vốn một muôn sanh lợi cũng gần một muôn nữa, cháu lãnh tiền lương và tiền huê hồng đã nhiều rồi, vậy cháu xin ông lấy vốn và lời lại.

Ai nấy thấy bạc nhiều, mà lại nghe Chí Ðại nói như vậy, không hiểu duyên cớ làm sao, nên ngồi ngó Khiếu Nhàn không nháy mắt. Khiếu Nhàn vuốt râu cười mà nói rằng:

- Ông muốn cho cháu tiền bạc hoài mà cháu hiềm nghi không chịu lấy, nên ông phải tính thế cho cháu mà không nói cho cháu biết đặng cháu đi làm ăn, may được giàu lớn như người ta. Nay cháu làm ăn khá, một vốn sanh một lời, ấy là cái may của cháu. Bạc nầy ông đã quyết cho cháu rồi, nào ông lấy lại. Cháu đem cất đi, để làm vốn buôn bán làm ăn.

Chí Ðại từ chối hoài, không chịu lấy. Quan Phủ thấy bụng rể như vậy thì trong lòng ái mộ vô cùng. Trường Khanh với Băng Tâm đều kính phục. Khiếu Nhàn không biết liệu lẽ nào cho Chí Ðại lấy bạc, mà cũng không biết làm sao đền ơn cho Băng Tâm với Trường Khanh. Ông suy nghĩ một hồi rời nói rằng:

- Ðể ông nói cho mấy cháu nghe, gia tài của ông đây là gia tài của vợ chồng Chí Ðại. Ông đã cho nó một muôn đồng bạc đặng giúp nó hùn buôn bán, nay có lời nhiều nó không chịu lấy, nó trả vốn mà cũng trả lời cho ông nữa. Như có lấy thì ông lấy vốn lại thôi chớ có lẽ nào lấy tới lời nữa. Mà ông lấy vốn thì lấy cất đó cho vợ chồng nó, chớ lấy rồi đem đi đâu. Thôi để ông tính như vầy: Băng Tâm vì phận nghèo nên không chịu kết tóc trăm năm với thầy Trường Khanh là người giàu sang. Bởi hai người có lòng thương Bạch Tuyết theo bảo hộ nó đến nỗi mang họa mà không núng. Hổm nay ông tính hoài mà không biết lấy chi đền ơn đáp nghĩa hai người cho vừa. Vậy nay ông tính dùng số bạc lời mua ruộng, mua lò than tại đây, để cho Băng Tâm đứng bộ làm chủ, đặng cho cô hết hiềm nghi sự giàu nghèo nữa, rồi ông đứng làm chủ hôn mà gả cho thầy Trường Khanh, quan Phủ và mấy cháu nghĩ thử coi tính như vậy được hay không?

Vợ chồng Chí Ðại cúi lạy Khiếu Nhàn mà nói rằng:

- Mấy lời ông phân thiệt hiệp ý vợ chồng cháu lắm, chẳng phải bao nhiêu đó mà đền đủ ơn nghĩa của thầy Trường Khanh và Băng Tâm được, song ông làm như vậy thì thầy Trường Khanh với cô Băng Tâm đã được hiệp nhau, mà lại cũng gần vợ chồng cháu, đến già nữa.

Trường Khanh cũng động lòng nên cũng lạy ông Khiếu Nhàn mà thưa rằng:

- Thưa ông, từ ngày cháu xuống đây đến nay ông đã thấy rõ bụng cháu vì ăn năn việc cũ, và vì ái mộ lòng trinh bạch của cô hai Băng Tâm, nên quyết gần cô chớ không phải có ý chi khác. Nếu ông giúp lời cho cô hai chịu kết tóc trăm năm với cháu thì cháu ơn đã nhiều rồi, lựa là phải cho cô bạc vàng chi nữa.

Ai nấy đều ngó Băng Tâm, có ý trông coi cô định lẽ nào. Băng Tâm liền ngó Trường Khanh, miệng chúm chím cười rồi nói:

- Thưa ông cháu với chị Bạch Tuyết kết làm chị làm em với nhau, tự nhiên phải bảo bọc cho nhau, có ơn chi đâu mà ông lo đền đáp. Vậy chớ ngày cháu mới lên Sài Gòn, chị dìu dắt, nuôi dưỡng cháu đó, cháu không chịu ơn chị hay sao? Còn nhơn duyên của cháu vơi thầy Trường Khanh thì mấy tháng nay, cháu dọ được tính ý thầy rồi, bây giờ cháu chẳng còn hiềm nghi sự giàu nghèo nữa, nên ông chẳng phải mua ruộng đất, lò than cho cháu.

Trường Khanh nghe nói mừng quá, ngó Băng Tâm mà nước mắt rưng rưng.

Chí Ðại với Bạch Tuyết theo nói hết sức mà Băng Tâm cũng không chịu thọ tiền bạc. Khiếu Nhàn chọn ngày tốt đặng cho Trường Khanh với Băng Tâm làm lễ cưới. Quan Phủ về nhà đêm ấy nằm nhớ cử chỉ hào hiệp quảng đại của Khiếu Nhàn, và nhớ những lời ân tình nhơn nghĩa của bốn trẻ thì ngài hổ thẹn riêng, mà cũng ăn năn việc trước vô cùng. Bạch Tuyết lo mua vàng kiềng, sắm quần áo cho Băng Tâm đặng kịp ngày xuất giá. Chí Ðại với Trường Khanh muốn làm cho rỡ ràng nên dọn dẹp nhà cửa rực rỡ.

Ðến ngày cưới, có bà con của Trường Khanh và cậu mợ của Băng Tâm ở Vĩnh Long xuống đủ mặt. Khiếu Nhàn với Chí Ðại lại có mời quan Phủ và thân bằng quyến thuộc ở Cà Mau rất đông.

Khi vợ chồng lạy Trời, lạy Ðất, lạy hai họ rồi thì nam nữ nhập tiệc chén thù, chén tạc, hỉ hả trót đêm ai cũng vui cười, duy có cậu mợ của Băng Tâm nhớ chuyện cũ nên hổ thầm; còn Bạch Tuyết đương ăn uống nửa chừng rồi cáo thối, vô buồng nằm dàu dàu. Ðến khuya, khách ở gần giã từ về hết, duy còn có khách ở xa mà thôi, họ cũng đã sửa soạn thay đồ đi nghỉ, Chí Ðại lén bước vô buồng thấy Bạch Tuyết chong đèn năm thiêm thiếp, mà cặp mắt ướt rượt, lại dựa bên gối có một tờ giấy xếp để đó. Anh ta lén lấy tờ giấy ấy đem đọc, thì thấy Bạch Tuyết viết như vầy:

Anh ôi!

Phận em là gái bất trinh, lấy chồng không đợi lịnh cha gả, mà làm con lại bất hiếu, tuy báo thù cho mẹ được, song làm lụy đến thân cha.

Em thấy cô Băng Tâm chồng cưới, em hổ thẹn vô cùng mà em thấy mặt cha không vui, thì em lại càng nát gan đứt ruột.

Anh ôi, chẳng phải em kết nghĩa với anh rồi bây giờ em ăn năn, xin anh biết giùm bụng em. Anh là đứng trượng phu chí sĩ, cái thân hư của em đây đâu dễ dám bì. Anh vì em mà cực khổ mấy năm trời, rồi còn cứu mạng em và báo thù cho mẹ em nữa. Ơn nghĩa của anh cao như non, lớn như biển, lẽ thì em phải lo sống trăm năm đặng làm thân trâu ngựa mà đền ơn đáp nghĩa cho anh.

Ngặt vì em xét phận em thì em hổ thẹn buồn rầu, không thể nguôi được. Em tưởng vậy em phải chết thì mới chôn cái hư, mới lấp được cái mạch sầu của em mà thôi.

Anh ôi, duyên nợ của vợ chồng ta có mấy năm mà thôi. Xin anh chớ buồn, bởi vì kiếp nầy chẳng đặng trọn đời với nhau, thì em nguyện kiếp sau rồi em sẽ lên mà trả nợ.

Thư đến đó thì dứt mà chưa ký tên, Chí Ðại đọc rồi mồ hôi nhỏ giọt ngó trên bàn viết thì mực hãy còn đó. Anh ta bỏ thơ vào túi rồi, lén ngồi kế bên giường, lấy tay đè nhè nhẹ lên ngực Bạch Tuyết. Bạch Tuyết mở mắt thấy chồng thì lật đật mò trên gối, có ý kiếm tờ giấy hồi nãy. Chí Ðại hiểu ý nên ôm vợ và khóc và nói rằng:

- Qua đã lén đọc thơ của em. Em chết thì chắc qua cũng chết theo, chớ sống làm chi.

Bạch Tuyết xô Chí Ðại rồi lồm cồm ngồi dậy, ngó chồng một cách rất thảm thiết và lắc đầu nói rằng:

- Em hư lắm, em quấy lắm, không đáng làm vợ anh.

Chí Ðại nắm tay vợ mà đáp ràng:

- Nếu em không hư, thì ngày nay làm sao đôi ta được gần nhau đây, còn nếu em sợ quấy thì có thể nào báo thù cho mẹ được?

Có mấy lời đó mà Chí Ðại nói giọng nghe tất hữu tình lại hữu lý làm cho vợ ngồi ngó đèn, rồi day lại ôm chồng mà nói rằng:

- Anh như vầy mà chết sao đành.

Chí Ðại biết Bạch Tuyết đã xiêu lòng rồi, nên kiếm lời phải lẽ ngay mà phân giải riết, làm cho Bạch Tuyết dịu lần lần rồi bỏ buồn làm vui như cũ.

Tuy vậy mà sáng bữa sau Chí Ðại cũng mang bức thơ của vợ đưa cho Khiếu Nhàn với quan Phủ xem. Hai ông rõ ý Bạch Tuyết thì khóc ròng, nhứt là quan Phủ thấy con biết nên hư phải quấy ông càng thương thân con, và càng ăn năn việc cũ nhiều hơn nữa. Hai ông thay phiên nhau mà an ủi Bạch Tuyết. Vợ chồng Trường Khanh nghe Bạch Tuyết có chỗ buồn cũng theo khuyên giải hoài.

Cách ít ngày, vợ chồng Trường Khanh tính dắt nhau trở về Vĩnh Long đặng lo quản xuất sự nghiệp. Trường Khanh mời vợ chồng Chí Ðại đi theo chơi. Chí Ðại nghĩ cũng nên thừa dịp nầy trước về Vũng Liêm thăm mồ mả, sau dắt Bạch Tuyết đi chơi cho khuây lãng, nên xin phép Khiếu Nhàn với quan Phủ, rồi bốn vợ chồng dắt nhau ra đi.

Vợ chồng Chí Ðại đi chơi hơn một tháng, chừng trở về Cà Mau, Bạch Tuyết thấy quan Phủ đương lo cất nhà ở khít bên nhà Khiếu Nhàn thì có lòng mừng. Nhà quan Phủ cất vừa xong rồi thì có giấy hưu trí gởi lại. Quan Phủ dọn về nhà mới mà ở, vợ chồng Chí Ðại khi thì ở bên cha, khi thì ở bên ông, lại qua, qua lại tối ngày.

Bạch Tuyết lo coi sóc việc trong nhà, còn Chí Ðại lo dạy dỗ em là Xuân Sắc, ông cháu, cha con, vợ chồng, chị em thuận hòa, ái kỉnh, quên hết mọi nỗi buồn rầu ly biệt của ngày xưa.

Tự thảo sáng, Cà Mau 1912,

Tự nhuận sắc, Sài Gòn 1922

[1] người chèo ghe

[2] định thời hạn

[3] ngắt lời

-----HÊT-----