Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Septembre 1935

.

Chuyện xảy ra ở Cà Mau năm 1894. Ông Bạch Khiếu Nhàn là người giàu có, sanh được một cô con gái và gả cho Tri phủ sở tại, nhưng sau khi sanh Bạch Tuyết cô ta lại qua đời một cách lạ lùng. Tình cờ ông Khiếu Nhàn gặp Phan Chí Ðại từ Vĩnh Long xuống kiếm việc làm, thấy chàng là người hiếu nghĩa nên mời về ở nhà mình và xin cho chàng làm thầy ký tại dinh Tri phủ. Chí Ðại được ông phủ trọng dụng.

Vợ sau của ông phủ là người tham lam. Bà ta biết nếu ông Khiếu Nhân chết thì Bạch Tuyết là người cháu duy nhứt sẽ hưởng trọn gia tài của ông, bèn nghĩ kế gả nàng cho cháu ruột của bà. Bạch Tuyết vốn nghi ngờ dì ghẻ đã giết mẹ nàng để giựt chồng và lại thầm yêu Chí Ðại, nên không bằng lòng. Bà Phủ tìm cách nói quan Phủ đuổi Chí Ðại đi khỏi Cà Mau để chia rẽ. Trong thời gian ông ngọai đi xa, Bạch Tuyết bỏ nhà trốn theo Chí Ðại và nuôi chí báo thù cho mẹ.
Bạch Tuyết gặp Chí Đại và cùng lên Sài Gòn tìm việc làm. Cuộc sống của hai người gặp nhiều khó khăn, đứa con sanh ra vì không đủ tiền mua thuốc phải chết.

Ông Khiếu Nhàn lên Sài Gòn tìm được Bạch Tuyết, đem nàng về ở với mình và ngầm giúp đở Chí Ðại. Ông cho Chí Đại đi coi việc vớt ngọc điệp ở Ấn Ðộ dương để chàng có dịp lập thân. Lúc đầu Bạch Tuyết ở với ông ngoại nhưng lo sợ dì ghẻ hại nên bỏ trốn lên Sài Gòn. Bạch Tuyết tạo dựng được cuộc sống qua ngày và giúp Băng Tâm, một cô gái quê vừa lên Sài Gòn, thoát khỏi bọn lường gạt. Sau cùng Bạch Tuyết bị ông bà phủ lên bắt về. Bà Phủ tìm cách giết Bạch Tuyết nhưng...




Chương một

Ông Bạch Khiếu Nhàn tuổi đã quá lục tuần mà sức hãy còn mạnh khỏe. Từ khi con gái ông bất hạnh, tủi phận thon von[1] nên ít muốn đi chơi, cứ lui cui ở nhà hoặc sửa kiểng xem hoa, hoặc uống trà đọc sách.

Năm 1894, một buổi chiều kia gió xuân mát mẻ, nước lớn đầy sông, cỏ cây tươi tốt, Bạch Khiếu Nhàn mình mặc áo quần toàn bằng lụa trắng, vai vắt khăn nhiễu đỏ, thủng thẳng đi dọc theo mé sông Cà Mau mà hứng mát. Khi ông dừng chơn đứng coi sắp nhỏ lội đua, khi ông mỉm cười bầy chó rượt nhau cắn lộn.

Mặt trời chen lặn, gió càng thêm mát mẻ, Khiếu Nhàn đi lần tới quán cơm Chú Lỳ, tuy chưa mỏi chơn, song ông khát nước.

Chú Lỳ ngó thấy ông lật đật chào mừng và mời ông vào quán nước. Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười bảy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần cửa mà viết. Ông thấy người miệng rộng, môi dầy, vai ngang, trán chợt, tóc hớt cụt, mắt rạng ngời, tư cách nghiêm trang, mặt mày sáng rỡ, tuy y phục tầm thường mà hình dung không phải như người thường, bởi vậy ông cứ ngồi ngó hoài.

Người trai ấy viết ít chữ rồi ngó sững phía ngoài đường, ngó rồi day vô viết, rồi lại ngâm nho nhỏ. Chú Lỳ rót một chén nước trà nóng đem lại mời Khiếu Nhàn uống. Khiếu Nhàn tay bưng chén nước mà mắt ngó người trai ấy hoài.

Cách một hồi thấy tên trai ấy vò miếng giấy viết nãy giờ mà quăng dưới đất rồi đứng dậy bước ra ngoài đường.

Chú Lỳ rót thêm nước cho ông uống, ông biểu lượm miếng giấy cho ông, ông giở ra thấy có tám câu thi như vầy:

Ty hộ sương dầm gió hắt hiu,

Ðau lòng lưu lạc biết bao nhiêu.

Trong quê dã dượi vừng trăng tối,

Lạ cảnh cay co chén rượu chiều.

Cao thấp nát gan con sóng lượn,

Ngạt ngào đứt ruột tiếng chim kêu.

Có khi ra ngóng miền giang chữ,

Nước mắt tuôn theo giọt thủy triều.

Khiếu Nhàn đọc hết bài thi, thấy văn chương tao nhã thì khen thầm, mà thấy ý tứ thảm sầu lại tội nghiệp, nên tính ngồi nán đợi người ấy trở vô đặng làm quen hỏi coi người ở đâu cho biết. Té ra ông ngồi đợi chót giờ mà không thấy bèn kêu Chú Lỳ mà hỏi rằng:

- Nầy, người trai hồi nãy đó ở đâu lại đây, nị[2] biết hôn? Vào quán của nị sao không thấy ăn uống chi hết lại viết mấy câu thi rồi bỏ đi đâu mất?

- Khị[3] ăn cơm uống dượu hồi chiều dồi mà, khị đi chơi một lát dề ngủ chớ.

- Ủa? Nếu vậy thì người ấy ở đậu trong quán nị hay sao?

- Ờ.

- Người ở đâu lại vậy, nị biết hôn?

- Ở Long Hồ mà.

Khiếu Nhàn thấy khuya nên đứng dậy từ giã Chú Lỳ mà về. Chẳng dè vừa ra tới cửa lại gặp cậu trai ấy bước vào, ông bèn trở vào hỏi rằng:

- Trò em ở đâu lạ mà qua không biết?

- Thưa bác, cháu ở Vĩnh Long.

- Trò em ở Vĩnh Long xuống đây chơi hay là có việc chi? Không có quen hay sao mà ở đậu trong quán như vầy?

Khiếu Nhàn hỏi và kéo ghế mà ngồi. Cậu trai ấy thấy ông y phục phong lưu, không hiểu là ai nên đứng ké né mà đáp rằng:

- Thưa bác, cháu đến đây quyết kiếm công việc làm ăn song ở đã mấy ngày rày mà chưa kiếm được việc chi hết.

- Trò em ngồi mà nói chuyện chơi. Khi nãy trò em bước ra ngoài rồi tôi có lượm bài thi tôi đọc. Chẳng hay trò em làm bài thi ấy có ý chi vậy?

- Thưa bác, cháu ngồi buồn trong lòng cảm hứng nên ngụ ý mà làm giải buồn đó thôi chớ có ý chi đâu.

- Theo ý tứ trong bài thi đó thì thân trò em chẳng là gian truân lắm?

- Dạ thưa phải.

- Tôi có học chút đỉnh nên tôi thương học trò. Tôi đọc bài thi của trò em rồi nãy giờ có ý ngồi đợi chờ trò em trở vô đặng làm quen chuyện vãn chơi. Trò em xuống đây tính làm công việc chi? Lập tiệm buôn bán hay là tính khẩn đất làm ruộng?

- Chẳng giấu chi bác, cháu cũng biết thà hèn mà mình làm chủ mình còn hơn là sang mà đi làm tớ thiên hạ. Thiệt cháu muốn hoặc buôn bán hoặc làm ruộng, hoặc làm nghề chi khác cũng được, dầu cực khổ chẳng nệ gì, miễn là khỏi lòn cúi thì thôi, ngặt tiền thì cháu không có nhiều, còn nghề thì cháu không thạo. Cháu xuống đây, có ý muốn tìm chỗ ở dạy học, thảm vì cháu không quen biết ai nên hổm nay chưa kiếm được chỗ nào mà ở.

Khiếu Nhàn nghe mấy lời thì động lòng thương, vừa muốn hỏi nữa, bỗng có bốn người khách kéo vô quán ăn bánh uống nước, nghĩ chỗ nầy không phải là chỗ nói chuyện bèn đứng dậy nói rằng:

- Chưa biết nhau thì thôi, hễ biết nhau rồi thì đừng ngại. Tôi chưa ăn cơm chiều nên bụng đã đói rồi, đã vậy mà ngồi nói chuyện hoài thì chú Lỳ buôn bán không được, chắc chú phiền. Vậy tôi xin mời trò em vô nhà tôi nói chuyện chơi.

- Thưa bác, như bác có lòng thương tưởng, muốn cho cháu vô nhà chơi thì bác biểu chớ cần chi phải mời thỉnh.

- Theo lễ phải mời chớ.

Hai người dắt nhau ra đi. Lúc đi dọc đường, Khiếu Nhàn không hỏi thăm nữa. Cậu trai ấy thấy ông ít nói nên cũng lặng thinh, nhưng mà trong trí thầm tưởng có lẽ ông già nầy trong nhà đủ ăn, con cháu đông đảo nên tính rước mình về dạy học.

Chẳng dè đi khỏi chợ chừng bốn năm trăm thước, tới một cái cửa ngõ lớn, ông dừng chơn lại mà mời khách vào nhà.

Cậu trai ấy vừa bước vô sân thì thấy một sân kiểng vật tốt tươi, có non bộ, hồ sen, ba tòa nhà ngói nguy nga, lại có thính đường, thơ viện.

Vào nhà rồi, Khiếu Nhàn kéo ghế mời ngồi. Cậu trai ấy dòm coi trong nhà bàn ghế hẳn hoi, đã khiêm nhượng mà lại nhút nhát nên ké né không dám ngồi.

Khiếu Nhàn cười mà nói rằng: “Trò em chấp lễ quá vậy, hết vui rồi còn gì! Tục thường họ hay bắt phép, giành nhau ngồi trước ngồi sau, tôi ghét cái tục ấy lắm. Ví như tôi có làm quan đi nữa thì ra chốn công đường tôi mới có quyền, chớ thứ ngồi uống nước nói chuyện đời mà chơi, tôi cũng xưng tôi lớn nữa sao! Ngồi đi, ngồi nói chuyện chơi”.

Cậu trai nghe mấy lời hạ cố thì trong lòng bớt nhút nhát, song vẫn cứ nói khiêm nhượng rằng:

- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ, lại tuổi tác đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.

- Ối! Còn luận tuổi tác mà làm gì! Tôi mời thì trò em cứ việc ngồi, cung kính bất như phụng mạng.

Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi.

Uống vài chung trà rồi có một tên gia đinh bước ra thưa nho nhỏ, Khiếu Nhàn liền đứng dậy mời khách vào hậu đường dùng cơm. Cậu trai ấy xin từ, nói rằng mình đã dùng cơm chiều rồi, Khiếu Nhàn theo ép dùng thêm, nên cực chẳng đã phải vưng lời, vào ăn thêm một chén.

Cơm nước xong rồi ra ghế ngồi hút thuốc. Cậu trai ấy dòm coi nhà cửa mênh mông mà không thấy dạng bà chủ nhà nầy hay là con cháu chi hết, chỉ vài đứa gia đinh ra vô mà thôi, thì lấy làm kỳ.

Còn Khiếu Nhàn ngồi liếc khách một hồi rồi hỏi rằng:

- Chẳng hay trò em tên họ chi? Cha mẹ còn mạnh giỏi hay không?

- Thưa bác, cháu họ Phan, tên Chí Ðại, tổ quán ở Vũng Liêm, ông thân cháu mất hồi cháu được năm tuổi, còn bà thân cháu mới mất vài tháng nay.

- Nay trò em niên kỷ đặng bao nhiêu?

- Thưa, cháu mới mười tám tuổi, chưa có vợ.

- Nếu vậỵ thì bài thơ tự thuật của trò em hồi chiều trúng lắm. Mà cha mẹ khuất rồi, không có để sự nghiệp chút đỉnh gì hay sao, nên trò em phải bỏ xứ mà đi kiếm công việc làm ăn? Ðâu trò em thuật rõ việc nhà cho tôi coi thử coi, được không?

- Chẳng giấu chi bác, khi ông thân cháu khuất rồi, nhà nghèo, mẹ góa con thơ, gian truân nhiều nỗi. Ông Nhiêu Lang là anh em bạn thiết của ông thân cháu thấy vậy động lòng, mới cho lúa cho mẹ con cháu ăn rồi giúp tiền cho mẹ cháu làm vốn mua bán trầu cau đặng kiếm lời độ nhựt. Khi cháu được bảy tuổi ông đem cháu về mà dạy học chữ nho, cháu học tới 12 tuổi thuộc hết bộ Minh Tâm và bộ Tứ Thơ, rồi ông nói với cháu, đời nầy chữ nho để mà lập chí, không phải để lập thân, ông mới đem cháu mà gởi ở nhà người quen của ông là Hội Ðồng Viễn tại Vĩnh long, đặng cháu vào trường nhà nước mà học chữ Tây. Ông Hội Ðồng Viễn giàu có lớn, nên cháu ở đậu ông không ăn tiền ăn. Ông lại nói ông có một đứa con mà thôi, nó cũng học tại trường tỉnh nếu có cháu ở thì đi học với con ông cho có bạn. Phận cháu nghèo khổ, nghe ông Nhiêu Lang nói „phải học chữ Tây lập thân mới đặng”, thì cháu quyết rán mà học, dầu khó nhọc cho mấy cháu cũng chẳng nệ. Tới giờ thì cháu đi học, mãn giờ về thì cháu phải giúp việc trong nhà hoặc lấy trầu cho khách ăn, hoặc nấu nước cho ông Hội Ðồng. Cháu ở đó trọn năm năm, thiệt là cực khổ: đi học phải ôm sách vở cho cậu Hai Khanh là con ông Hội Ðồng, về nhà thì giặt áo quần cho cậu, ăn cơm thì ăn chung với mấy đứa ở, ngủ thì ngủ dưới nhà sau. Tuy cực khổ mà cháu không buồn; cháu có lo một điều là lo cho bà thân cháu ở nhà không biết ấm lạnh no đói thế nào. Lâu lâu ông Nhiêu lên Vĩnh Long bổ thuốc một lần, mà lần nào ông cũng ghé thăm cháu và cho đôi ba cắc bạc ăn bánh. Bây giờ nhắc lại cháu còn cảm thương ông Nhiêu, ông cho cháu hai cắc bạc, cháu vui mừng cũng bằng thiên hạ họ được hai trăm đồng.

Phan Chí Ðại lặng thinh một hồi rồi tằng hắng một cái và nói tiếp rằng:

- Cháu cực chừng nào rán học chừng ấy, quyết học cho thành danh đặng ngày sau làm có tiền mà đền ơn cho ông Nhiêu và trả thảo cho mẹ. Rủi quá, từ khi cháu lên tới lớp nhứt thì ông Nhiêu mang bịnh, yếu chơn, nên không đi Vĩnh Long được nữa. Cháu thi đậu mới vào trường Mỹ tho thì ông đã ly trần. Cháu hay tin buồn rầu, bứt rứt chịu không được, một là tiếc ông Nhiêu không sống lâu đặng ngày sau cháu đáp nghĩa đền ơn, hai là lo nỗi mẹ ở nhà bấy nay thốn thiếu, nhờ có ông Nhiêu, nay ông mất rồi còn ai hảo tâm mà nhờ cậy. Cháu viết thơ về nhà mà phân phiền với bà già cháu thì bà già cháu mượn người viết thơ trả lời khuyên cháu rán mà học, chẳng cần phải lo việc nhà, còn như cháu muốn đền ơn ông Nhiêu thì cứ học cho thành danh như ý ông muốn, ấy là cách đền ơn của người quân tử. Cháu vưng lời mẹ, ngày đêm rán học bởi vậy anh em một lớp cháu không thua trò nào hết. Cháu học tại trường lớn Mỹ Tho gần được hai năm, ngày nọ cháu đi chơi gặp người một xóm nói bà già cháu đau nặng. Cháu kinh tâm lật đật xin phép ông Ðốc Học sáu ngày đặng về thăm mẹ, ông Ðốc học nghi cháu nói dối nên không cho phép, cháu khóc lóc năn nỉ hết mà cũng không thể được. Cháu xốn xang, ăn nghủ không yên, một nỗi lo mẹ không tiền uống thuốc, hai lo ở nhà không ai chăm sóc. Qua ngày sau, trong lòng cháu bứt rứt quá không chịu được, nên cháu làm đơn xin phép nghỉ nữa. Ông Ðốc Học cũng không cho mà chuyến nầy lại rầy và hăm đuổi cháu. Cháu nghĩ phận có một mẹ già, cháu rán học mà có ý lập thân đặng ngày sau nuôi mẹ. Nếu mẹ cháu chết rồi, cháu học mà làm được ông gì cũng vô ích. Cháu thương mẹ cháu quá, nên nửa đêm cháu lén mở rương gói áo quần trốn về Vũng Liêm. Khi cháu bước vô nhà thấy mẹ cháu nằm thiêm thiếp trên giường, trong nhà vắng teo chẳng có ai hết, cháu quăng gói chạy lại ôm mẹ mà khóc. Mẹ cháu nhướng mắt nhìn cháu rồi tắt hơi, không nói được một tiếng chi hết.

Chí Ðại thuật lại đến đó thì đau đớn, giằng lòng không được nên giọt lụy tuôn dầm dề.

Ông Khiếu Nhàn chắc lưỡi lắc đầu mà nói rằng:

- Làm người lắm lúc có nhiều khổ não chịu không được. Trò em còn nhỏ nên chưa gặp khổ não bao nhiêu. Phận tôi đã già rồi, nên tôi gặp khổ não không biết mấy lần mà kể cho xiết.

Chí Ðại nói tiếp rằng:

- Cháu lạy xóm làng xin họ giúp tống táng bà già cháu xong rồi, thì cháu buồn rầu, chẳng biết làm việc gì. Cháu mới bán hết nhà cửa, tom góp được bảy mươi chín đồng bạc, trả nợ nần hết hai mươi lăm đồng, còn dư được năm mươi bốn đồng, cháu bỏ túi đi qua Mỹ Tho, tính vào lạy ông Ðốc Học mà xin học lại. Ông Ðốc Học nói vì cháu bỏ trường mà trốn, ông chạy giấy cho quan trên, ông không thể nào cho cháu vô học lại được. Cháu nghe nói ngẩn ngơ, lui gót trở ra, nước mắt tuôn dầm dề. Chừng ấy cháu mới biết đường đời thiệt là nhiều chỗ gay go. Tuy cháu buồn rầu song chẳng hề khi nào cháu thối chí. Cháu quyết đi kiếm thế làm ăn, dầu cực khổ cháu chẳng nài, miễn là đừng nhục danh giá thì thôi. Ban đầu cháu tính lên Sài Gòn kiếm việc làm, cháu tuy học ít, song viết chữ hay, có lẽ cháu làm việc giấy được. Mà rồi cháu nghĩ kinh thành là chốn đô hội, chẳng thiếu chi nhân tài, kẻ lỡ vận như cháu sợ e không chen lấn với họ được. Bởi vậy cháu mới lần bước xuống đây tính kiếm chỗ dạy học và nuôi miệng, nào dè cháu xuống đây đã năm ngày rồi mà kiếm chưa được chỗ dung thân, cháu lấy làm buồn nên hồi chiều cháu uống thử vài đồng xu rượu rồi làm thi giải buồn, không dè bài thi ấy lại được đến trước mặt bác.

Khiếu Nhàn nghe Chí Ðại thuật hết tâm sự, biết Chí Ðại là trai có hiếu, có nghĩa, có chí, có nết, càng đem lòng thương. Ông vấn thuốc hút rồi nói rằng:

- Phận trò em lận đận nghe nói ai cũng động lòng. Song trò em nên biết ở đời người có chí lớn hơn người có của, bởi vì người có chí tuy bây giờ không có của, song một ngày kia phải có, chớ người có của mà không có chí, sợ e một ngày kia của tiền mất hết mà chí lập cũng chưa được. Trò em vừa mới gặp đại tang tự nhiên phải buồn rầu; mà trò em xét lại thử coi con người ai khỏi mấy cái họa ấy đâu. Thôi trò em chẳng nên buồn lắm, hãy để tinh thần lo lập thân danh đặng hiển vinh cha mẹ. Bây giờ đây trò em nghèo mà nếu trò em có chi lớn thì làm giàu chẳng khó gì. Mà làm trai phải lấy danh giá làm trọng, chớ giàu nghèo có xá gì, bởi vì có khi nghèo mà vui còn có khi giàu mà buồn lắm. Như phận tôi đây nhà cửa kinh dinh[4], bạc tiền đầy dẫy, trò em thấy như vậy tưởng tôi vui lắm sao? Không, tôi buồn lắm! Tôi không có con trai, hồi trước tôi có một chút con gái, phải nó còn năm nay nó được ba mươi bảy tuổi. Khi nó còn nhỏ mẹ nó khuất sớm, tôi vào ra quạnh quẽ, trong chốn gia đình chỉ có vui với con mà thôi. Tôi thương nó thái quá nên rán dạy nó học chữ nho cho nó biết lễ nghĩa mà ở đời. Ðến chừng nó được hai mươi tuổi tôi mới gả nó lấy chồng. Chồng nó là quan phủ Lê Xuân Thới, bây giờ đang ngồi quận Cà Mau nầy đây. Nhắc tới nó tôi càng thêm buồn. Mạng số con tôi thiệt là vắn vỏi, có chồng được bảy năm, đau sơ sài chẳng có chi nặng mà phải bỏ mình, nghĩ thiệt buồn quá. Nó có để lại một chút con gái mà rể tôi nó bắt ở bên dinh không chịu cho ở với tôi, nên tôi ở một mình, quạnh hiu, hễ buồn thì uống nước trà coi sách, không có ai chuyện vãn chi hết.

Chí Ðại thấy Khiếu Nhàn có sắc buồn, tính kiếm chuyện nói cho khuây lãng, nên nói rằng:

- Thưa, từ ngày bác gái mất rồi, bác không tính chắp nối nơi nào sao bác?

- Việc ấy tôi không tính.

- Cháu tưởng nếu hồi trước bác kiếm chỗ chắp nối thì ngày nay bác ít buồn, mà ngày sau bác lại có con trai nối nghiệp nữa.

- Việc thành bại đều tại trời, nếu số tôi không có con trai thì dầu tôi cưới vợ khác sợ cũng không có được. Khi vợ tôi mới mất, có nhiều người cũng khuyên tôi như vậy. Song tôi nghĩ tôi cưới vợ khác may mà gặp chỗ hiền đức chẳng nói làm chi, rủi gặp người không có hạnh, họ về nhà rồi húng hiếp con tôi thì còn thêm nhọc lòng tôi nữa; bởi vậy tôi mới ở một mình mà nuôi con, tưởng hễ có phước con gái cũng như con trai, thiệt tôi không dè con tôi vắn mạng như vậy.

Trống nhà công sở đã trở canh ba. Khiếu Nhàn đứng dậy nói rằng:

- Nói chuyện chơi chưa đã thèm mà đã khuya rồi! Thôi, trò em uống một chén nước rồi đi ngủ. Tôi có biểu bầy trẻ dọn chỗ cho trò em rồi đây. Nầy, theo lời trò em than với tôi hồi nãy thì trò em xuống đây hổm nay kiếm chưa được chỗ ở mà dạy học. Vậy thôi để sáng tôi qua bên dinh tôi hỏi rể tôi coi như nó có cần dùng ký lục thì trò em qua mà làm giúp với nó được hôn?

- Thưa bác, cháu mới gặp bác một lần, mà bác tỏ lòng hạ cố lo lắng cho cháu như vậy, ơn ấy cháu lấy chi đền đáp cho vừa.

- Ối! Nói chuyện nhân nghĩa làm gì! Tôi thấy trò em côi cút, đã có khiếu thông minh, mà lại cò lòng trung hậu nên tôi thương. Tôi tính như vậy là muốn cho trò em có chỗ làm ăn đặng gần gũi với tôi chơi cho vui. Thôi, trò em nghỉ đi, để sáng mai tôi cho trẻ ra quán xách đồ hành lý đem vô đây mà ở. Học trò mà ở quán xá như vậy, đã cực khổ mà lại khó coi lắm.

Chí Ðại lại cái giường để tại chái trên mà ngủ, mùng gối chiếu mền thảy đều sạch sẽ. Sáng bữa sau, anh ta thức dậy sớm, rửa mặt rồi bước ra trước hiên mà xem kiểng. Cách chẳng bao lâu, có một cô trạc chừng mười lăm, mười sáu tuổi, mình mặc áo tím, đầu choàng khăn trắng, đi giày thêu, cập dù đỏ, gương mặt sáng như hoa nở, hàm răng đều như hột bắp, tướng đi dịu dàng, dung nhan tuấn tú ở ngoài bước vào sân, bộ muốn đi thẳng lại cửa cái mà thấy có Chí Ðại đứng đó, nên quẹo qua tay trái, đi dọc theo tường rồi đi thẳng vô sau nhà.

Chí Ðại nghi cô ấy là con gái quan Phủ qua thăm ông ngoại. Thiệt quả, cô vừa vô tới nhà trong thì nghe tiếng Khiếu Nhàn hỏi:

- Cháu qua sớm dữ hôn? Có cha cháu ở nhà hay không?

Rồi lại nghe tiếng trả lời nho nhỏ rằng:

- Thưa, cha cháu có ở nhà, mà còn ngủ.

Hai ông cháu nói chuyện với nhau rất lâu, rồi Khiếu Nhàn mới ra mời Chí Ðại vào uống nước trà. Tiệc nước vừa xong, kế tới tiệc cơm. Ăn cơm rồi, Khiếu Nhàn biểu Chí Ðại đi với một tên gia đinh ra quán lấy hành lý đem vô nhà ông mà ở, còn ông cũng sửa soạn thay đổi y phục mà đi qua dinh quan Phủ.

Ðến trưa Khiếu Nhàn về, vừa bước vô cửa thấy Chí Ðại đã đem đồ hành lý vô rồi thì gật đầu cười và nói rằng:

- May quá! Bên phủ đang kiếm một thầy ký bạ điền[5] và nhựt ký trát giấy. Tôi thuật công chuyện của trò em cho rể tôi nghe thì nó cũng động lòng thương nên nó biểu trò em chiều nay qua đó mà làm, tiền lương mỗi tháng là mười hai đồng, để rồi sau đó nó sẽ xin quan trên cho ăn lên. Xong quá, trò em qua Phủ mà làm, hễ mãn giờ về bên nầy ở chơi với tôi cho có bạn. Ðể tôi viết thơ đặng chừng hai giờ trò em cầm mà đi.

Chí Ðại nghe nói hết sức mừng rỡ, chẳng biết lấy lời chi mà tạ ơn cho nên vừa nói lính quýnh rằng:

- Ơn tế độ của bác, dầu muôn đời cháu không quên được.

Ðúng hai giờ chiều, Chí Ðại cầm bức thơ của Khiếu Nhàn mà qua dinh quan phủ. Quan phủ ngủ trưa chưa thức dậy nên phải ngồi ngoài chờ hơn một tiếng đồng hồ. Chừng nghe lính nói quan lớn thức dậy Chí Ðại lật đật trao bức thơ vô, tưởng thầm rằng quan lớn đã dạy mình làm việc hễ được thơ chắc cho kêu mình vô liền, nào dè quan lớn còn hút, chưa ra khách, nên Chí Ðại phải ngồi gần một giờ đồng hồ nữa.

Lối bốn giờ rưỡi quan Phủ bước ra. Làng dân thấy dạng đều đứng dậy hết thảy. Chí Ðại bước tới chấp tay xá ba cái. Quan Phủ ngó Chí Ðại rồi hỏi rằng :

- Thầy ở bên ông gia tôi phải hôn?

- Bẩm quan lớn phải.

- Vậy thì vào đây. Ông gia tôi có nói chuyện lương bổng cho thầy nghe rồi chớ ?

- Dạ, có rồi.

- Ðâu thầy làm thử ít bữa coi thầy làm được hay không ?

Chí Ðại theo quan Phủ bước vào nhà hầu, thấy có một thầy, chừng bốn mươi tuổi, đương ngồi cúi mặt xuống bàn mà viết. Quan Phủ dạy Chí Ðại nhắc ghế lại ngồi gần đầu bàn ấy rồi biểu thầy nọ đưa bộ điền cho Chí Ðại chép.

[1] Đơn chiếc, cô đơn

[2] âm tiếng quảng Đông, đại từ ngôi thứ hai: ông, anh, mầy

[3] âm tiếng quảng Đông, đại từ ngôi thứ ba: nó. Thí dụ dụ khị

[4] (經盈) ngăn nắp và đầy đủ.

[5] hay bộ điền hồ sơ đất ruộng

----------------------

Chương hai


Chí Ðại hễ tới giờ hầu thì qua dinh quan Phủ mà làm việc, mãn giờ rồi thì về nhà Khiếu Nhàn mà nghỉ, đã có nơi nương tựa nên lòng thương nhớ cha mẹ với ông Nhiêu Lang tuy không nguôi nhưng mà việc ấm no chẳng còn lo lắng nữa.

Chí Ðại với Khiếu Nhàn gần gũi nhau lâu chừng nào càng mến nhau chừng nấy. Khiếu Nhàn coi Chí Ðại cũng như con cháu ruột trong nhà. Chí Ðại kính mến Khiếu Nhàn chẳng khác gì sư phụ.

Có đêm hai người bàn luận việc đời với nhau, ông già đã lịch lãm nhơn tình nên mỗi lời đều dè dặt, người trẻ còn tự cường tự đắc, nên mỗi lời đều cứng cỏi, nhưng mà hai người chẳng khi nào chỏi với nhau, trẻ có tánh nóng nảy thì già chỉ lẽ tránh mà khuyên lơn, già có chán đời thì trẻ dùng lời êm mà an ủi.

Còn việc làm bên phủ thì Chí Ðại đã có sẵn tính thông minh mẫn cán mà còn thêm biết đọc, biết nói tiếng Lang sa, công việc làm chẳng hề để trể nải, hễ có quan Lang sa đến thì anh ta thông ngôn, hễ có giấy tờ chi bằng chữ Lang sa thì anh ta cắt nghĩa, bởi vậy quan Phủ càng ngày càng trọng dụng, các việc cho Chí Ðại coi sóc hết thảy.

Chí Ðại làm vừa được một năm thì quan Phủ xin tăng lương thêm mỗi tháng mười lăm đồng, lại cậy Chí Ðại mỗi chúa nhựt qua dinh dạy dùm con trai nhỏ của ông học chữ quốc ngữ.

Bạch Khiếu Nhàn tổ quán ở Thừa Thiên. Từ khi con gái ông bất hạnh rồi thì ông buồn rầu, nên ông không ra Trung Kỳ mà thăm mồ mả ông bà được. Năm ấy ông tính đi ra Huế mà thăm tổ quán chơi một tháng. Ông cậy Chí Ðại ở nhà coi chừng nhà cửa giùm cho ông.

Quan Phủ hay tin ấy thì qua nhà thăm Khiếu Nhàn và nói rằng:

- Cha có buồn thì đi chơi ít tháng đặng giải khuây. Nhà cửa để đó cho sắp gia đinh nó coi, ai dám phá khuấy chi mà lo. Chớ cha đi mà cha bắt thầy ký ở giữ nhà cho cha, thầy ở một mình buồn xo, chịu sao cho nổi. Ðể thầy qua bên Phủ thầy ở làm việc cho tiện và dạy thằng nhỏ nó học luôn thể. Chừng nào cha về rồi thầy sẽ trở về bên nây thầy ở.

Khiếu Nhàn suy nghĩ một hồi rồi gật đầu nói rằng:

- Tính như vậy cũng được.

Quan Phủ Lê Xuân Thới tuổi mới vừa bốn mươi bốn mà vì ông nầy có bịnh hút nên hình vóc gầy mòn, nước da huỳnh đản, bộ coi như người già năm mươi lăm tuổi. Vợ trước ông là con gái Bạch Khiếu Nhàn, chết để lại một đứa con gái tên là Lê Bạch Tuyết, năm nay đã được mười bảy tuổi rồi. Còn bà vợ sau tên là Nguyễn Thị Phường, vốn con của một ông Hương Thân ở Ðầm Dơi, mới hai mươi bảy tuổi, dung nhan đẹp đẽ, văn nói khôn lanh, có sanh một đứa con trai đặt tên là Lê Xuân Sắc, năm ấy mới mười tuổi.

Quan Phủ ngồi quận Cà Mau đã hơn tám năm rồi, khi trước làm Cai Tổng, rồi mới bổ lên Tri Huyện, sau lần lần Thăng chức Tri Phủ. Ông tuy tánh dãi đãi, song lòng hiền từ chẳng hề bó buộc nhơn dân, mà cũng ít khi làm hại làng, tổng, bởi vậy ai cũng kính mến ông.

Nếu có phiền ông là phiền về sự ông tối tăm, không thấy việc quấy trong chốn gia đình, để cho bà Phủ cầm trọn quyền, bà muốn khiến ông thế nào cũng được.

Nói cho phải, bà Phủ thiệt chẳng phải như người thường, bà khôn ngoan lanh lợi, tuy bà được yêu và được quyền, nhưng mà chẳng hề khi nào bà dùng yêu hoặc dùng quyền ấy mà yếm chế hay là cưỡng bức chồng bao giờ; nếu ý bà muốn việc chi thì bà dùng lời nhỏ nhoi khiêm nhượng mà phân với chồng luôn luôn, mà hễ bà phân thì ông nghe, chưa thấy ông trái ý lần nào, nên lời dịu ngọt của bà nghĩ thật là độc ác hơn lời sỗ sàng của các đàn bà khác.

Bà Phủ thấy con ghẻ là Bạch Tuyết, từ nhỏ chí lớn, tính nết dè dặt, ít nói ít cười mà còn là cháu ngoại Khiếu Nhàn, hễ Khiếu Nhàn qua đời rồi thì cô hưởng trọn gia tài rất lớn, nên thuở nay bà để ý gả Bạch Tuyết cho thằng cháu ruột của bà tên là thằng Ðồ, con xã trưởng làng Tân Thuận. Tuy bà tính thầm mưu kế làm giàu cho cháu như vậy, song thuở nay bà không nói ra, một là bà thấy Bạch Tuyết còn nhỏ, hai là sợ Khiếu Nhàn cản ngăn, nên bà không dám nói. Nhưng mà bà đã dọn đường trước, đặng chừng bà muốn đi bà khỏi đạp chông gai. Ở trong nhà bà tưng tiu, ngon ngọt với Bạch Tuyết luôn luôn, bà săn sóc miếng ăn, chỗ ngủ, mua sắm quần tốt áo lạ cho cô dầu cô không muốn, bà cũng làm.

Chẳng hiểu vì cớ nào bà yêu Bạch Tuyết như vậy, mà tánh cô thường lạt lẽo với bà hoài. Cô đương vui cười, mà hễ thấy mặt bà thì cô ké né buồn xo, không ai biết chắc cô sợ bà hay là cô ghét. Nội nhà, Bạch Tuyết chỉ ưa nói chuyện với ông Sen mà thôi, bởi vì ông Sen hồi trước ở với Khiếu Nhàn, chừng Khiếu Nhàn gả con cho quan Phủ thì ổng theo đặng đỡ tay chơn, đến khi mẹ Bạch Tuyết qua đời thì ông ẵm bồng, săn sóc Bạch Tuyết, nên Bạch Tuyết trìu mến.

Khiếu Nhàn đi Huế rồi, thì Chí Ðại đem rương qua dinh quan Phủ mà ở. Hễ làm việc rồi, rảnh thì anh ta dạy con trai quan Phủ học. Tuy ban đêm anh ta ngủ tại bộ ván lót tại cửa sổ phía trước, song ăn cơm thì quan Phủ cho ăn chung một mâm với vợ con, lại ông cho phép xông pha vô nhà trong nữa.

Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết hoài, nhưng mà thấy thì thấy, chớ anh ta không dám ngó, lại cũng không có dịp nào mà nói chuyện.

Bà Phủ thấy Khiếu Nhàn đi khỏi đến năm ba tháng mới về, nhắm dịp nầy là dịp tốt cho mình thi hành kế sách đã tính xưa nay, nên ban đêm vắng vẻ bà làm thuốc phiện cho ông, bà mới thỏ thẻ tỏ ý bà muốn gả Bạch Tuyết cho cháu bà. Ban đầu quan Phủ không chịu, ông nói rằng ông có chút con gái, ông coi nơi nào hay chữ ông gả chẳng luận giàu hay nghèo.

Bà không cãi liền với ông hồi đó, thủng thẳng lựa lời khôn khéo mà châm chích, nhứt là bà cắt nghĩa cho ông nghe rằng bà không có con gái, tuy bà không đẻ Bạch Tuyết song thuở nay bà dưỡng nuôi săn sóc nên yêu mến chẳng khác nào máu thịt của bà, nếu ông gả cho người học giỏi, hễ họ cưới rồi thì họ dắt đi xa, bà lìa Bạch Tuyết bà thương nhớ, chắc không khỏi sanh bịnh. Nếu ông gả cho cháu bà thì bắt nó ở đây luôn cũng được; tiếng gả con gái mà cũng như có thêm được một đứa con trai nữa, nghĩ coi tiện biết chừng nào.

Quan Phủ nghe bà thỏ thẻ mới vài ngày mà ông đã đổi ý, nên chịu gả con cho cháu. Bà Phủ muốn cho hai trẻ thành hôn cho mau, đặng chừng Khiếu Nhàn về, dầu ông không chịu thì việc đã lỡ rồi, ông không thể làm sao được.

Bà Phủ mới khuyên chồng tỏ riêng về việc hôn nhơn cho Bạch Tuyết hay rồi định ngày cho đi lễ hỏi, vì bà là mẹ ghẻ, mà lại gả cho cháu bà, nên bà không muốn nói với Bạch Tuyết chuyện đó.

Quan Phủ khen bà dè dặt, nên biểu bà vào phòng mà nghỉ để cho ông nói chuyện với con.

Trong nhà tôi tớ đều ngủ hết. Ông kêu Bạch Tuyết thức dậy ra đứng dựa bộ ván chỗ ông nằm hút, đèn đốt lu lu, ông lặng thinh ngồi vấn thuốc một hồi rồi tằng hắng một tiếng mà nói rằng:

- Nầy con, năm nay con đã lớn rồi nên cha tính gả con lấy chồng. Vậy con lo sửa soạn trong ít ngày nữa cha sẽ cho đi lễ hỏi.

Bạch Tuyết chưng hửng, đứng ngó cha sửng sốt, cách giây lâu mới đáp được rằng:

- Hôm trước cha có nói với ông ngoại con rồi, ông ngoại con biểu cha liệu chỗ nào phải thì gả, hễ cha đành đâu thì ông đành đó.

Bạch Tuyết đứng suy nghĩ một hồi rồi hỏi rằng:

- Mà cha tính gả con cho ai ở đâu.

Quan Phủ ngó trong mâm hút mà đáp rằng:

- Cha tính gả con cho thằng Ðồ. Tuy nó nghèo hèn hơn mình, song cha muốn làm sui chỗ đó cho gần gũi, chớ gả con đi xa, chừng cha nhớ không biết làm sao mà đi thăm cho được.

Bạch Tuyết ngó cha trân trân, đỏ mặt châu mày, song không dám nói chi hết. Con gái hễ nghe ai nói đến chuyện lấy chồng thì hổ thẹn, quan Phủ day lại thấy con không mắc cỡ mà cũng không buồn, nhưng có sắc giận, không hiểu ý con như thế nào, nên hỏi rằng:

- Sao con lặng thinh, không nói chi hết?

Bạch Tuyết vùng khóc và nói cụt lủn rằng:

- Thưa cha, con không chịu lấy chồng.

Quan Phủ chưng hửng mà hỏi rằng:

- Sao vậy?

- Thưa không có sao hết.

- Có cớ gì nên con mới nói như vậy chớ? Hay là con chê chỗ đó?

Bạch Tuyết ngập ngừng một hồi rồi mới đáp:

- Thưa phải, con chê chỗ đó.

Quan Phủ cười rồi bảo Bạch Tuyết đi ngủ. Quan Phủ thuật mấy lời của Bạch Tuyết lại cho vợ nghe thì bà Phủ nghi Bạch Tuyết có tình riêng với ai nên mới chê cháu bà. Ông cãi lẽ, nói rằng con còn khờ dại, nó thấy đàng kia nghèo nên nó chê chớ không phải tại cớ nào khác, vậy để thủng thẳng mà dỗ nó, chẳng nên vội lắm.

Ông nói nghe có lý, nhưng mà lòng nghi của bà cũng không giải hết được.

Chí Ðại ở bên dinh quan Phủ chưa được một tháng thì lại gặp tiết Trung Thu, quan Phủ đã mang bịnh hút, mà ông cũng ưa uống rượu nữa.

Mỗi năm hễ tới Trung Thu, ông cũng dọn ghe đi du hồ. Năm nay có Chí Ðại biết mùi thi chút đỉnh, ông càng hứng chí, nên mới tối ông biểu lính dọn ghe hầu, đem thịt rượu theo, mời Cai Tổng với ít người hương chức sở tại rồi đồng đi với Chí Ðại, bà Phủ và con trai nhỏ tính xuống trại đáy[1] ở vàm Rạch Mương Ðào mua tôm làm gỏi ăn, uống rượu mà thưởng nguyệt, để có một mình Bạch Tuyết với ông già Sen và ba tên lính ở lại giữ dinh mà thôi.

Trên trời bóng trăng vặc vặc, dưới sông nước dợn lòa lòa, lính chèo bỏ mái nhặt khoan, du khách chuyện trò hớn hở.

Thú vui cảnh lịch ai cũng tưởng thưởng trăng tới sáng cũng chưa muốn về, nào dè ghe đi vừa được mấy khúc sông, Chí Ðại phát đau bụng nhào lộn trong ghe, mặt mày tái xanh, mồ hôi ra như tắm. Quan Phủ lo sợ, mà không muốn bỏ cuộc vui, nên dạy ghé ghe vào xóm rồi biểu một tên lính mượn xuồng bơi mà đưa Chí Ðại về dinh, còn ghe hầu của ông thì đưa luôn xuống Mương Ðào.

Chí Ðại về đến dinh, lính đỡ lên ván mà nằm, mắt cháng[2] váng, ruột quắn[3] đau, cứ ôm bụng nhắm mắt mà ôm hoài. Gia đinh với lính tráng chộn rộn không biết thuốc chi mà cứu, đứa chạy ra, đứa chạy vào, đứa rót nước trà, đứa xoa dầu gió.

Lúc đương lính quýnh bỗng thấy Bạch Tuyết ở trong buồng bước ra, tay cầm một cái chén chung đưa cho ông Sen biểu đem cho Chí Ðại uống. Chí Ðại uống chén thuốc rồi, chừng một phút đồng hồ thì bụng hết đau, mặt hết xây xẩm, gượng ngồi dậy xin một chén nước trà. Bạch Tuyết còn đứng dựa cửa buồng, thấy Chí Ðại ngồi đậy, liền bước lại gần hỏi rằng:

- Thầy uống kỳ nam[4] đó có bớt đau bụng hay chăng?

- Thưa, bây giờ tôi bớt đau nhiều rồi. Té ra hồi nãy tôi uống đó là kỳ nam hay sao?

- Thưa phải ạ, kỳ nam đó hay lắm. Hồi tôi còn nhỏ, ông ngoại tôi đi ngoài Huế mua về cho má tôi. Xưa nay tôi cất để dành hoài. Hồi nãy tôi nghe nói thầy đau bụng; tôi lật đật mài một chút mà cho uống thử đó đa.

- Thiệt tôi cám ơn cô quá. Nếu tôi đau thét chắc phải chết.

Bạch Tuyết day mặt chỗ khác mà nói rằng:

- Bộ thầy còn mệt quá, thôi thầy đi nghỉ.

- Nói rồi xây lưng đi thẳng vô buồng.

- Gia đinh thấy Chí Ðại nằm êm mới đi đóng cửa rồi tản lạc đi kiếm chỗ mà ngủ, duy để có một mình ông già Sen ngủ trước nhà đặng coi chừng trà nước cho Chí Ðại mà thôi.

Bạch Tuyết trở vô buồng chong đèn ngồi têm trầu mà ăn, miệng nhai trầu mà mắt ngó ngọn đèn dầu trân trân, ngồi nơi đây mà trí ở đâu, có lẽ lúc ấy dầu ăn trộm vô nhà dọn hết đồ cô cũng không hay nữa.

Cô ngồi một hồi lâu, trong nhà từ trước đi sau vắng teo, cô đứng dậy đi lại cửa sổ ngó ra ngoài vườn. Bóng trăng bị cây án, nên thấy chỗ mờ chỗ tỏ, ngọn gió thổi lay tàu dừa nên thấy gục xuống cất lên. Chẳng hiểu lúc ấy cô nhớ đến việc gì mà giọt lụy tràn trề, vẻ mặt buồn bã.

Cách một hồi cô nghe Chí Ðại ho ngoài trước, cô thò tay bưng đèn muốn bước ra nhà ngoài, mà cô vừa tới cửa buồng rồi cô ngừng lại đứng suy nghĩ giây lâu, rồi trở vô để đèn trên ghế leo lên giường mà nằm.

Cô nằm trăn trở hoài, lúc thì buồn giọt châu lã chã, lúc thì giận ruột gan phừng phừng, nằm đã thèm rồi ngồi dậy ăn trầu, làm như vậy cho đến gần sáng, vợ chồng quan Phủ đi du hồ về, mà cô cũng chưa ngủ.

Ở đời miệng thiên hạ hay luận việc của mình làm, bởi vậy làm phận con gái dè dặt cử chỉ cho lắm đi nữa, mà có khi cũng còn phải mang tiếng.

Cô Bạch Tuyết nghe Chí Ðại đau bụng lật đật mài kỳ nam đem cho uống, cử chỉ đó chẳng có chi quấy; còn cô đứng nói với Chí Ðại mấy câu thì trước mặt gia đinh bốn năm người, mà câu nào cũng chơn chánh chẳng có chi phạm đến danh tiết.

Chẳng hiểu vì cớ nào chuyện như vầy, mà người ở trong nhà lại xầm xì với nhau cho thấu đến tai bà Phủ.

Bà Phủ nghe Bạch Tuyết chê cháu bà, thì bà đã để lòng nghi cho cô có tư tình với ai rồi. Nay bà vừa nghe cô mài kỳ nam cho Chí Ðại uống rồi lại đứng nói chuyện với Chí Ðại nữa, thì lòng nghi ngờ của bà hoá ra lòng tin quyết, bà định chắc Bạch Tuyết với Chí Ðại đã có ý riêng với nhau rồi.

Bà nổi giận không thể dằn được nên tối lại bà nằm làm thuốc cho quan Phủ hút, bà thỏ thẻ nói rằng: „Hôm trước tôi nghe mình nói con Bạch Tuyết nó chê thằng Ðồ thì tôi đã nghi nó có ngoại tâm, mình không tin lời tôi; nay việc bể ra rồi, trẻ trong nhà đều nói rùm tai, mình còn cãi tôi nữa thôi?“.

Quan Phủ nghe nói biến sắc, lồm cồm ngồi dậy hỏi rằng: „Nó lấy ai ở đâu?“.

Bà Phủ cứ nằm, tay cầm ống, tay cầm tiêm hơ thuốc, mắt chăm chú ngó đèn, song miệng cười gằn mà đáp rằng: „Nó lấy thầy ký Ðại chớ lấy ai? Thầy đi chơi Trung thu với mình, thầy làm bộ đau bụng đặng trở về; con Bạch Tuyết mài kỳ nam đem cho thầy uống, rồi đêm đó“

Quan Phủ ngồi sửng sốt, lặng thinh một hồi rồi lắc đầu nói rằng:

- Thầy ký thầy mang ơn tôi nhiều lắm, có lý nào thầy phụ lòng tôi. Ðã vậy mà bộ thầy chính chắn trung hậu lắm, người như vậy không thể nào làm việc quấy được. Có lẽ bầy trẻ nọ thấy con BạchTuyết mài kỳ nam cho uống, nên chúng nó nghi rồi bày chuyện nói bậy, hơi nào mà tin.

Bà Phủ đáp rằng:

- Hứ! Con đã hư rồi mà còn kiếm lời bào chữa! Mình không tin, thôi mình kêu thằng lính Thố hỏi nó đặng nó nói cho mình nghe.

Quan Phủ tức giận, ngồi bấy gan, muốn kêu sắp gia dịch ra mà tra hỏi cho minh bạch, mà vì ông sợ nếu thiệt thì càng xấu hổ nhiều hơn nữa, nên ông nằm co ... mà chịu không dám cãi với vợ. Bà Phủ thấy chồng đã chịu thua, bà liền đổi giọng dùng lời nhỏ nhoi mà an ủi rằng:

- Thôi việc đã lỡ rồi, bây giờ mình có buồn rầu đi nữa cũng không ích gì. Việc nầy mấy đứa trong nhà biết thôi, chớ người ngoài chưa hay, vậy để tôi hăm chúng nó đặng chúng nó đừng có đồn bậy ra ngoài. Mà ..tôi xin mình phải đuổi thầy Chí Ðại đi cho mau, rồi ép gả phứt con Bạch Tuyết cho thằng Ðồ đi thì danh tiếng mới vẹn toàn được. Nếu mình dụ dự để diên trì, tôi sợ thầy Chí Ðại thầy dắt con Bạch Tuyết trốn, bằng không thì thiện hạ họ hay rồi xấu hổ mình, mà tôi tuy là mẹ ghẻ, song tôi cũng không khỏi mang tiếng xấu lây nữa.

Tuy quan Phủ gác tay ngang qua trán nằm lặng thinh, song sáng bữa sau ông kêu Chí Ðại mà nói rằng ông mới được lịnh quan Chánh Bố[5] dạy phải bớt một thầy ký lục vì công việc làm không còn gấp như hồi trước nữa, và ông khuyên Chí Ðại hãy đi xứ khác kiếm chỗ làm ăn.

Chí Ðại nghe nói chưng hửng, chẳng hiểu vì cớ nào mình không thấy giấy tờ chi hết, mà quan Phủ lại nói có lịnh quan Chánh Bố dạy đuổi mình. Anh ta nghẹn cổ không biết lời chi đối đáp, chỉ xá quan Phủ rồi thâu góp quần áo bỏ vào rương.

Anh ta ra đi, vợ chồng quan Phủ chẳng có một lời chi tỏ lòng thương tiếc, duy kẻ gia dịch cùng lính tráng cảm động, song chúng nó thấy quan Phủ lạt lẽo, nên không dám tỏ dấu trìu mến cho lắm.

Chí Ðại qua nhà Khiếu Nhàn nằm thở ra, suy nghĩ coi bây giờ mình phải ở đây kiếm chỗ dạy học hay là phải đi đến xứ nào. Anh ta nhớ hơn một năm nay, quan Phủ yêu thương trọng dụng mình, thường nói hễ ông còn làm quan thì ông còn dùng mình hoài, vì cớ nào quan trên phải đuổi mình, mà ông nói cụt lũn, không tỏ tình gì yêu mến, mà lại còn biểu mình đi đến xứ khác kiếm chỗ mà làm.

Chắc là mình làm việc chi không vừa ý ổng hoặc có ai nói vô nói ra chi đây, nên ổng đổi ý, mới kiếm chuyện mà đuổi. Vã quan Phủ cầm quyền bính chánh quận nầy, nếu ngài không thương mình rồi mà mình còn vẩn vơ ở đây ắc chẳng khỏi mang họa. Vậy mình phải tránh trước cho xong, chừng ông Khiếu Nhàn trở về, như mình có thể trở lại đây được, thì mình sẽ xuống mà bái tạ ơn ông.

Chí Ðại nghĩ như vậy nên viết một bức thơ giao cho gia đinh giữ, dặn chừng Khiếu Nhàn về thì giao lại cho ông, rồi xin quá giang ghe hàng mà lên Bạc Liêu. Kẻ gia dịch của ông Khiếu Nhàn cùng người quen biết hỏi thăm coi anh ta tính đi đâu, thì anh ta ú ớ không biết đi đâu mà nói, nên phải nói bướng rằng đi về Vũng Liêm.

Bà Phủ nghe tin Chí Ðại đi rồi, thì trong bụng mừng thầm; chẳng phải bà rẽ phân Chí Ðại với Bạch Tuyết được mà bà mừng, bởi vì bà biết rõ là vu oan cho người ta, chớ hai đàng chẳng có tư tình với nhau hồi nào. Bà mừng đây là cái kế của bà đã thành được phân nửa rồi, bởi vì Chí Ðại đi rồi, bây giờ bà muốn thêu dệt thế nào cũng được còn Chí Ðại đâu mà đối nại, mấy đứa ở trong nhà là người của bà, nếu bà muốn biểu thế nào thì chúng nó nghe thế nấy, có đứa nào dám trái ý.

Bà thừa cơ hội ấy mới xúi riết quan Phủ gả Bạch Tuyết cho cháu bà. Quan Phủ bổn tánh thành thiệt, không rõ mưu sâu kế xảo của vợ, duy sợ tiếng xấu mà thôi, nên nghe lời bà cho kêu Xã trưởng Tân Thuận lên nói chuyện cho làm sui, rồi định ngày cho đi lễ hỏi.

Bạch Tuyết nghe kẻ gia dịch nói có lịnh quan trên dạy đuổi Chí Ðại nên Chí Ðại đã đi rồi, thì cô động lòng bứt rứt, nhưng vì phận cô là gái, không lẽ tỏ ý thương tiếc, nên cô giả dạng làm lơ, không thèm nói tới việc đó.

Chừng cô hay việc quan Phủ cho đòi Xã trưởng Tân Thuận lên rồi định ngày làm lễ hỏi thì lòng ức uất quá không thể dằn được nên tối lại thừa lúc gia dịch ngủ hết, cô mới bước ra trước ván chỗ quan Phủ nằm hút, cô đứng khóc rống lên mà nói rằng:

- Hôm trước con thưa với cha con không đành lấy chồng, mà nhứt cha gả chỗ đó con không chịu, sao cha lại định ngày cho đi lễ hỏi? Con thưa thiệt, có lỗi với cha thì con chịu lỗi, chớ nếu cha gả bướng thì con tự vận con chết theo mẹ con.

Quan Phủ đương hút, bỗng nghe con nói như vậy liền buông ống hút ra, day lại ngó trân trân, còn bà Phủ lồm cồm ngồi dậy cười gằn mà nói với quan Phủ rằng:

- Mình thấy con mình hay chưa? Thời thế đã hết rồi mới khiến con hư như vậy. Mình tính thế nào được thì mình tính lấy, xấu là xấu mình, chớ thứ mẹ ghẻ nầy mà sá gì! Ðể coi mình biết trị con mình hay không?

Quan Phủ đã nổi giận, mà bà còn châm chích thêm, chẳng khác nào lửa cháy mà bà còn chế dầu, bởi vậy quan Phủ lấy roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống đánh hơn một chục roi, cắn răng trợn mắt không cho Bạch Tuyết khóc. Ông vừa đánh vừa nói rằng:

- Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gả mầy đặng cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.

Bạch Tuyết nghe mấy lời ấy thì chưng hửng, không biết lấy chi mà đối nại được, chỉ kêu oan rằng:

- Oan ức lòng con lắm cha ôi? Mẹ ôi! Mẹ ở dưới cửu tuyền xin mẹ chứng giùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm mẹ ôi!

Bà Phủ nói Bạch Tuyết muốn rủa xéo bà, nên càng châm chích vô cho quan Phủ đánh thêm nữa. Bạch Tuyết chịu đòn đau quá, nên hết dám kêu rêu.

Bà Phủ thấy Bạch Tuyết sợ, mới giựt roi không cho quan Phủ đánh nữa; bà đỡ Bạch Tuyết ngồi dậy, biểu lạy cha, rồi đắt đi vô buồng lau nước mắt cho Bạch Tuyết và hỏi nhỏ rằng:

- Con lỡ một lần dì xin giùm, sau đừng có dại nói bậy nói bạ như vậy nữa, dì không xin, dì để cha con đánh chết đa. Thôi còn nằm mà ngủ đi nghe hôn?

Bạch Tuyết thấy mẹ ghẻ ân cần, an ủi thì cô không khóc nữa, song cô gầm mặt không ngó bà Phủ, mà không nói chi hết.

Chừng bà Phủ đã ra khỏi phòng rồi thì cô nằm lăn trên giường, lấy mền đậy mặt mà khóc. Ban đầu cô tức tủi muốn mua dấm với á phiện mà uống, đặng chết xuống cửu tuyền tỏ việc oan ức nầy cho mẹ biết.

Cô khóc một hồi lâu rồi cô ngồi dậy, đầu bỏ tóc xả, mắt ngó ra ngoài vườn mà nghĩ rằng: hơn một năm nay lần nào mình qua thăm ngoại thì cũng nghe ông khen Chí Ðại là trai trung hậu, nghĩa khí, tuy ông chưa nói rõ ra, song nếu suy lời ông nói xa nói gần, thì hiểu ý ông muốn gả mình cho Chí Ðại; mà xưa rày Chí Ðại làm việc với cha mình, tánh nết ôn hòa mà cứng cỏi, thiệt đáng mặt làm trai, dầu ông ngoại mình gả mình cho anh ta, nghĩ cũng xứng đôi vừa lứa, chớ không kém gì.

Tuy ý mình nghĩ như yậy, nhưng mà hơn một năm nay, mình với Chí Ðại chẳng có tình ý gì, hôm nọ Chí Ðại đau bụng, mình có mài kỳ nam cho uống và có hỏi thăm mấy lời mà thôi.

Thiệt, đêm ấy vắng vẻ, mình có ý muốn tỏ việc riêng của mình cho Chí Ðại nghe kẻo lòng ức uất bấy nay không biết tỏ với ai, mà mình muốn tỏ rồi lại ái ngại, nên không nói chi hết sao nay lại có lời vu oan việc nhơ nhuốc cho mình như vậy.

Bạch Tuyết suy nghĩ tới đó rồi chống tay lên trán ủ mặt châu mày. Cách một hồi cô với tay têm trầu mà ăn và nói nhỏ nhỏ một mình rằng: “Ý hị! Thân sao mà khốn khổ quá như vầy? Khi không mà mang tiếng lấy trai! Mà thôi thà theo trai còn hơn làm vợ kẻ thù. Ở đây thì lụy thân, ra đi thì mang xấu... Thà mang xấu mà báo oán cho mẹ được, chớ lụy thân rồi chắc phải chết, mà hễ chết rồi, thì còn ai trả thù báo oán cho mẹ“.

Bạch Tuyết nhứt định rồi thì trong bụng hết buồn.

Sáng bữa sau cô giả vui vẻ như thường. Bà Phủ kiếm lời ngon ngọt dã lã, thì cô đối đáp cung kính, chẳng có hơi giận hờn chút nào.

Bà Phủ thấy Bạch Tuyết đã thuận tùng nên bà mừng; bà khuyên ông thủng thẳng để cho bà dỗ, đừng có rầy rà đánh đập nữa.

Qua ngày sau, ăn cơm sớm mai rồi Bạch Tuyết xin phép cha đi qua thăm nhà ông ngoại.

Bà Phủ nghĩ Khiếu Nhàn đi khỏi, còn Chí Ðại cũng đã đi rồi, Bạch Tuyết qua đó chẳng có ai dụ dỗ mà sợ, nên khuyên chồng để con đi chơi cho khuây lãng.

Bạch Tuyết qua nhà ông ngoại đốt nhang lạy hết mấy bàn thờ rồi vô buồng ngồi mà khóc. Trong bọn gia dịch có chú Phú, bổn tánh thiệt thà, trọn ngày cứ lui cui làm hoài, không đi chơi bời đâu hết, nghe cô khóc thút thít, mới lại đứng ngoài cửa buồng mà dòm.

Bạch Tuyết vừa ngó thấy liền hỏi rằng:

- Hổm nay ông ngoại tôi có gởi thơ nói chừng nào về hay không?

Chú Phú gãi đầu đáp rằng:

- Hổng có! Phải có thơ thì anh em tôi đem cho cô đọc chớ bên nầy có ai biết chữ đâu mà coi.

Hôm ông đi, ông có nói chừng ít tháng ông về, nay đã hơn một tháng rồi, có lẽ ông cũng đã về gần tới, vậy đợi thủng thẳng ông về, cô khóc lóc làm chi. Bạch Tuyết không cãi với chú, lại hỏi rằng:

- Thầy ký Ðại hổm nay có qua bên nầy hay không?

- Có, thầy qua ở một bữa rồi quá giang ghe hàng mà đi Bạc Liêu. Thầy đi có chở rương theo nữa. Vậy chớ thầy thôi làm việc ở bển rồi sao cô?

- Có lẽ thầy thôi làm rồi. Thầy qua bên nầy, thầy có nói chuyện chi hay không?

- Thầy qua ở bên nầy một bữa, cứ mằm lim dim mà thở ra hoài, không nghe nói chuyện chi hết. Chừng thầy đi, thầy có đưa một phong thơ dặn ông về trao lại cho ông.

- Thơ đâu, đưa coi.

- Tôi cất trên thủ quyển đây.

Chú Phú vội vã đi lấy thơ đưa cho Bạch Tuyết, rồi trở ra vườn mà nhổ cỏ. Bạch Tuyết lau nước mắt rồi mở ra coi, thì thấy thơ như vầy:

Cà Mau, ngày 30 tháng 9 năm 1895.

Thưa bác,

Hơn một năm trường, cháu no cơm ấm áo. Cháu có chỗ dung thân, ấy là nhờ ơn bác chiếu cố, nên cháu mới được như vậy.

Cháu nhớ lòng quảng đại của bác chừng nào, cháu càng lo sợ chừng nấy, lo là lo không biết ngày nào đền ơn đáp nghĩa cho bác được, mà sợ là sợ phận cháu khờ dại, e sơ sẩy làm những việc không xứng ý bác.

Nay trời khiến cháu rủi ro không được nhờ ơn đức của quan Phủ nữa, mà cháu coi thế cháu cũng khó ở yên xứ nầy, vậy cháu tính cháu trở về Vũng Liêm thăm phần mộ cha mẹ ít ngày rồi sẽ kiếm chỗ nương thân

Chừng nào cháu ở chắc chỗ rồi cháu sẽ viết thơ mà thưa cho bác hay.

Cháu ra về còn tiếc một điều là không gặp mặt bác mà bái tạ ơn tri ngộ và tỏ lời kính mến bác. Thôi phận cháu nghèo hèn, ví dầu kiếp nầy không thể đền ơn trọng, đáp nghĩa dày được, thì cháu cũng nguyền kết cỏ ngậm vành kiếp sau.

Ít lời thành thiệt, kính dưng cho bác bốn chữ: Phước, Thọ, Khương, Ninh

Phan Chí Ðại

cẩn bái

Bạch Tuyết đọc thơ rồi nằm suy nghĩ rồi lại đọc nữa. Ðến nửa chiều trời mát, cô kêu chú Phú trả lại bức thơ và dặn cất đợi chừng ông về sẽ trao lại cho ông. Cô rửa mặt gỡ đầu rồi đi cùng trong nhà, từ trước tới sau một hồi, lại tới bàn viết, cô thấy giấy mực để sẵn tại đó, cô ngồi lại lấy một tờ giấy, mới viết ba chữ „ông ngoại ôi!“ rồi bỏ viết đứng dậy đội khăn đi về, không viết nữa.

Về vừa tới dinh, Bạch Tuyết thấy lính đương quét dọn ghe bầu, cô hỏi thăm sửa soạn ghe làm chi, thì chúng nó nói nghe quan Phủ đi Ðầm Chim tra xét vụ ăn cướp nào đó, chúng nó nghe không rõ.

Cô lật dật bước riết vào dinh, quả thấy gia đinh đương dọn mâm hút và quan Phủ với bà Phủ đã sửa soạn quần áo hết rồi.

Bà Phủ vừa thấy Bạch Tuyết về thì nói rằng:

- Cha con với dì đi Ðầm Chim, chiều mai mới về. Vậy con ở nhà coi nhà, tối biểu bầy trẻ đóng cửa cho kỹ lưỡng nghe hôn con.

Bạch Tuyết vâng lời, mặt mày hớn hở, thấy thằng em cũng sửa soạn đi theo, bèn lại ôm nó mà hun hai ba cái rồi hỏi:

- Dì đem em theo nữa sao?

- Ừ, đem em theo chơi.

Lối chạng vạng tối, lính vào thưa với quan Phủ rằng nước ròng đã nửa sông rồi, quan Phủ dắt vợ con xuống ghe.

Bạch Tuyết đương ăn cơm nghe cha đi lật đật buông đũa, uống nước rồi đi ra ngoài cầu mát mà đưa cha.

Ghe mở dây lui ra, Bạch Tuyết ngó theo rưng rưng nước mắt, song trời đã tối rồi, nên gia dịch với ông già Sen đứng gần đó mà không ngó thấy.

Ghe trở mũi vào sông Gành Hào rồi, Bạch Tuyết ngồi chồm hổm trên cầu mát, tay chống càm, miệng hỏi ông già Sen rằng:

- Cha tôi đi chừng nào mới tới Ðầm Chim?

Ông Sen đáp rằng:

- Xuống Mương Ðào phải đợi nước lớn rồi mới vô rạch được. Chắc tảng sáng mai mới tới Ðầm Chim.

Bạch Tuyết ngó quanh quất thấy lính và gia dịch đều đi vào dinh hết, chỉ còn một mình ông Sen đứng đó mà thôi, cô mới biểu ông Sen ngồi một bên, rồi cô nói nhỏ rằng:

- Dì tôi đã thuốc mẹ tôi chết mà giựt chồng, rồi bây giờ tính ép tôi cho cháu mà đoạt của ông ngoại tôi nữa, ông có hay không? Từ ngày ông thuật cho tôi nghe cách dì tôi giết mẹ tôi thì trong lòng tôi bứt rứt xốn xang hoài, không biết phương chi mà trả thù báo oán cho được. Nay dì tôi xúi giục cha tôi gả tôi cho cháu đặng đoạt gia tài cho trọn, cha chả! Thù xưa chưa trả đặng, lòng nào nỡ đành kết nghĩa vợ chồng với kẻ thù! Ngặt tôi thương cha tôi quá, nên tôi không nỡ nói cho hết lời được, dì tôi lại vu oan tiếng hư cho tôi, nói tôi lấy thầy Chí Ðại, đặng làm cho tôi sợ mà phải ưng. Trời ôi! Oan ức cho tôi biết chừng nào! Hôm cha tôi đánh tôi đó, thiệt tôi muốn tự vận mà chết cho yên thân, ngặt vì thù tôi chưa trả xong, nên tôi phải sống; tôi tính lo mưu báo thù cho mẹ tôi. Từ hôm cho tới bây giờ tôi lo tính nát trí tôi nghĩ nếu ở đây thì cha tôi sẽ gả tôi cho thằng Ðồ còn gì. Vậy tôi tính tôi phải trốn cho toàn danh tiết. May đêm nay cha tôi với dì tôi đi khỏi hết, vậy lối nửa đêm xin ông bơi xuồng đưa giùm tôi vô kinh đặng tôi đón ghe xin quá giang mà lên Bạc Liêu.

Ông già Sen nghe nói đến đó thì ứa nước mắt, ngồi khoanh tay thở dài mà nói rằng:

- Cháu tính như vầy cũng phải. Cháu ở đây không được nữa. Ngặt vì thân cháu là con gái, đi ra một tấc đường không dễ gì. Cháu trốn rồi cháu đi đâu?

- Tôi quyết đi kiếm thầy Chí Ðại. Người ta nói tôi lấy thầy, tiếng đã mang lỡ rồi, bây giờ tôi chẳng nệ gì nữa. Ðã vậy ông ngoại tôi thường khen thầy Chí Ðại lắm, lại tôi coi tướng thiệt là người trung hậu, tôi có chồng như thầy nghĩ chẳng kém gì?

- Nếu cháu làm như vậy thì cháu mang tiếng theo trai.

- Thà mang tiếng xấu theo trai, chớ ăn ở với kẻ thù thì chịu sao đặng.

- Như cháu theo, rủi không tìm được thầy Chí Ðại, rồi cháu ở đâu?

- Như tìm thầy không được, thì cháu kiếm chỗ nương dựa, đợi ông ngoại cháu về rồi cháu sẽ trở về.

Ông Sen suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:

- Từ khi bà Phủ mất rồi, cháu còn nhỏ ông bồng ẵm, cháu khôn lớn ông săn sóc, nay ông không đành để cháu đi một mình. Thôi cháu để ông đi theo với cháu.

- Không được. Hồi chiều tôi có tính như vậy, tôi muốn viết thơ để lại cho ông ngoại rồi tôi dắt ông theo, mà tôi sợ để thơ lại cha tôi đánh khảo gia đinh rồi lấy đi, ông ngoại tôi về không hiểu duyên cớ tưởng tôi hư, chắc buồn rầu phải chết. Vậy ông phải ở nhà, đặng chừng ông ngoại tôi về, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc lại cho ông ngoại tôi biết. Ông cũng làm ơn khuyên lơn ông ngoại tôi đừng buồn và khi nào ông ngoại tôi ươn yếu xin ông chăm sóc giùm.

Bạch Tuyết nói tới đó thì nước mắt tuôn dầm dề, ông Sen động lòng nên cũng khóc òa. Hai người than thở, căn dặn nhau một hồi nữa, rồi ông Sen đi lại bến thăm chiếc xuồng, còn Bạch Tuyết thủng thẳng trở vào dinh.

Bạch Tuyết vào phòng riêng đóng cửa lại rồi mở tủ lựa lấy năm đôi vàng, một cây kiềng và ba mớ áo, bốn cái quần lãnh, đồ ấy là đồ của Khiếu Nhàn sắm cho cô, còn đồ của quan Phủ mua thì cô bỏ lại hết.

Qua đến nửa canh ba, gia dịch ngủ im lìm, cô xách đồ ra ngoài đưa cho ông Sen, rồi lén đi xuống xuồng mà tỵ nạn. Bạch Tuyết ngồi trước day mặt ra phía sau, còn ông Sen ngồi sau bơi, hai người ngó nhau mà không nói chi hết, chỉ rơi lụy mà thôi.

Trăng lú mọc hướng đông ửng đỏ; xuồng vô tới Cái Ngang gặp một chiếc ghe của hai vợ chồng khách Triều Châu ở Bạc Liêu xuống Cà Mau đòi tiền rồi về. Bạch Tuyết xin quá giang, vợ chồng người khách chịu cho. Bạch Tuyết qua ghe kia rồi, ông Sen xô xuồng ra bơi trở về Cà Mau, bơi năm ba giầm thì lấy vạt áo lau nước mắt một cái.

[1] dụng cụ bằng lưới hình loa dùng bắt cá tôm ở các sông lớn Hậu giang

[2] choáng

[3] quặn

[4] Kỳ Nam và Trầm hương là sản phẩm đặc biệt nằm trong lõi của cây Gió. Cậy Gió có tên khoa học Aquilaria Crasna Pierre. Trị sơn lam chướng khí, no hơi, đau bụng, ói mửa, suyển (theo Tôn Thất Sam). Chữ Crasna gốc tiếng Khmer.

[5] hay Bố chánh: tỉnh trưởng, chủ tịch tỉnh


------------------------------------

Chương ba


Chí Ðại quá giang đi lên Bạc Liêu, nằm trong ghe dàu dàu, lúc tiếc chỗ làm ăn, lúc tủi thân lưu lạc. Có hồi anh ta nhớ tới Bạch Tuyết thì trong lòng ngần ngại, trong trí bàng hoàng, tuy anh ta chẳng có ý gì riêng, song thầm hỏi quan Phủ đương yêu mình vì cớ nào thình lình lại đuổi mình, mà chẳng có một lời thương tiếc, hay là tại trong nhà ngài có nàng Bạch Tuyết, nên ngài không muốn nuôi mình nữa chăng?

Từ lúc qua nhà Khiếu Nhàn cho tới lúc nằm dưới ghe thì Chí Ðại nhứt định về Vũng Liêm thăm mồ mả cha mẹ rồi sẽ đi kiếm chỗ làm ăn. Mà lên lới Bạc Liêu rồi, anh ta lại đổi ý, tính vào quán ở đậu ít ngày đặng kiếm thử coi có chỗ dạy học hay không, rồi sau sẽ về thăm quê quán. Chí Ðại ở đó được ba bốn ngày, may gặp ông Bá Hộ, trong nhà con cháu đông, nên chịu rước Chí Ðại về ở mà dạy học. Chí Ðại có chỗ dung thân, trong lòng hớn hở, hẹn sáng bữa sau sẽ đem đồ vô nhà ông Bá Hộ mà ở. Chiều bữa ấy anh ta ăn cơm rồi mới đi dạo chợ chơi. Vừa xuống tới mé sông, bỗng thấy một cô gái, tuy quần áo vải bô, song gương mặt sáng rỡ như trăng rằm, tay xách gói ở dưới ghe bước lên bờ rồi đứng ngó giáo giác. Chí Ðại đứng xa xa thấy hình dạng giống Bạch Tuyết, song trong trí không chắc, bởi vì không lẽ Bạch Tuyết lên Bạc Liêu làm chi, mà dầu có lên thì không lẽ đi một mình và mặc quần áo như vậy. Anh ta lần bước lại gần, nàng ấy day lại ngó thấy vùng kêu lớn rằng: „Thầy ký“, mặt mày coi hớn hở mà nước mắt lưng rưng muốn chảy. Chí Ðại nghe tiếng kêu, biết Bạch Tuyết thì trong lòng khấp khởi mắt ngó cô, miệng hỏi rằng: „Cô đi dâu lên trên nầy?” Bạch Tuyết cúi đầu lặng thinh không đáp mà hai hàng nước mắt nhỏ giọt.

Chí Ðại thấy tình cảnh như vậy không hiểu duyên cớ thế nào muốn hỏi nữa, mà nghẹn ngùng không muốn hỏi, chỉ đứng ngó cô mà thôi. Anh ta thấy cô tuy mặc áo vải quần vải song đầu có choàng khăn lụa mới, chơn có mang guốc gù ngà[1], tay lại xách một gói áo quần bùm sùm, trong lòng phát nghi nên hỏi nữa rằng:

- Cô đi với ai?

Bạch Tuyết lau nước mắt, không chịu đáp lại hỏi rằng:

- Bây giờ thầy ở đâu?

- Tôi còn ở tại quán cơm, dưới chợ đây.

- Tôi lại đó được hay không?

- Ðược mà cô lại quán làm chi?

- Thầy dắt tôi lại đó rồi tôi nói chuyện hết cho thầy nghe.

Chí Ðại dắt Bạch Tuyết về tới quán thì trời đã chạng vạng tối, mà trong quán chưa đốt đèn, Chí Ðại sợ chủ quán nghĩ việc chẳng tốt nên vừa bước tới thì nói với chủ quán rằng:

- May tôi kiếm gặp con em tôi, nên dắt lại đây hỏi thăm việc nhà một chút.

Chủ quán nghe nói thì gật đầu và khuyên nên dắt lên lầu mà nói cho tiện, chớ ở từng dưới thiên hạ ra vô lộn xộn. Chí Ðại dắt Bạch Tuyết lên tới chỗ anh ta ngủ mấy bữa rày, thì Bạch Tuyết ké né, không biết ngồi chỗ nào, Chí Ðại nhắc ghế mời cô ngồi rồi quẹt lửa đốt đèn. Anh ta muốn biểu tiệm dọn cơm cho cô ăn, cô nói rằng cô đã dùng cơm dưới ghe hồi chiều rồi.

Chí Ðại nóng nảy muốn biết coi Bạch Tuyết đi lên Bạc Liêu làm gì, rồi sao thấy mình mừng quá rồi lại khóc nên hỏi rằng:

- Cô đi đâu một mình như vầy, xin cô nói phứt cho tôi nghe thử coi.

- Chẳng giấu thầy làm chi, tôi trốn cha tôi với dì tôi nên tôi lên đây.

Chí Ðại vừa nghe mấy lời thì biến sắc, nghẹn cổ, ngồi ngó Bạch Tuyết trân trân. Bạch Tuyết cúi mặt mà nói rằng:

- Dì tôi muốn gả tôi cho thằng cháu là con Xã trưởng Tân Thuận, đặng ngày sau đoạt gia tài của ông ngoại tôi. Tôi biết mưu kế, nhứt là tôi với dì tôi đã có thù riêng, nên tôi không chịu. Dì tôi đặt điều nói tôi lấy thầy và xúi cha tôi đuổi thầy đi. Thầy đi rồi cha tôi ép gả tôi nữa. Tôi không chịu vâng lời, dì tôi lại xúi cha tôi đánh tôi sưng mình sưng mẩy và mắng nhiếc tôi xấu hổ lắm. Nếu tôi ở nhà thì tôi phải thác thân về tay kẻ thù, bởi vậy tôi mới trốn mà đi đặng lập thế báo cừu cho mẹ tôi, vì ngày trước mẹ tôi chết oan lắm.

Chí Ðại nghe nói chưng hửng, thấy phận Bạch Tuyết lao đao động lòng thương, còn quên phận mình khi không mà mang tiếng, nên hỏi rằng:

- Phận cô là gái, bỏ chốn khuê phòng ra đi như vầy, thì còn gì danh giá, mà cô lên đây gặp tôi, bằng cô không gặp thì làm sao?

Bạch Tuyết đáp rằng:

- Tôi cũng biết là phận gái ra khỏi nhà một tấc đường thì phải mang tiếng nhơ. Song tôi đã xét kỹ rồi hết, thà là tôi mang tiếng nhơ, chớ tôi không đành phối hiệp với kẻ thù. Ðể tôi thuật hết chuyện nhà của tôi cho thầy nghe, rồi thầy xét giùm coi trốn mà đi phải hay là quấy.

Nguyên hồi trước cha tôi cưới má tôi về ở mới hơn một năm, kế sanh tôi. Khi tôi được bốn tuổi, thì cha tôi mang bịnh hút. Má tôi tánh chất yếu đuối, tuy giỏi việc nhà, song không thạo làm nghề thuốc á phiện, làng họ muốn tấn ơn nên kiếm cho cha tôi một người góa chồng để làm tiểu thiếp và làm thuốc cho cha tôi hút. Người ấy là kế mẫu của tôi bây giờ đó, má tôi vốn con nhà hiền đức nên không chịu ghen tương như người ta, bởi vậy cưới dì tôi về hơn hai năm, lớn nhỏ thuận hòa chẳng hề nghe lời chi xích mích. Tuy vậy mà ý cha tôi càng ngày càng mê sa tiểu thiếp, xài tiền phí bạc tốn hao không biết bao nhiêu, nhiều khi lại còn hất hủi giằn thúc má tôi nữa. Má tôi thấy vậy ăn ngủ không được, nên trong mình sanh bịnh. Ông ngoại tôi có một chút gái nên cưng lắm, vừa nghe má tôi đau thì cho rước thầy Ðài hốt thuốc thiệt giỏi, má tôi uống năm sáu thang thuốc thì ăn ngủ được, trong mình mạnh lại như cũ. Ông ngoại tôi mừng rỡ, chẳng còn lo sợ nữa, nên đi lên Gia Ðịnh thăm anh em chơi. Má tôi ở nhà cứ uống thuốc thêm hoài cho thiệt mạnh. Chẳng dè đêm nọ uống thuốc vô rồi trong bụng quặn đau, đi sông không ngớt, đi thét má tôi nằm liệt tới sáng thì tắt hơi. Má tôi chết rồi, cha tôi biểu đem xác thuốc ra coi thì thấy bã đậu nhiều lắm. Cha tôi thất kinh sai làng đi bắt thầy thuốc Ðài. Ông nhìn xác thuốc thì lắc đầu, thề thốt nói rằng thang thuốc ấy không phải của ông hốt. Lúc đương cãi lẽ, ông già Sen, là người của ông ngoại tôi cấp theo giúp tay chơn má tôi, ổng lén vô phòng dì tôi kiếm được một thang thuốc còn nguyên chưa sắc, mới cầm đưa ra cho cha tôi coi. Cha tôi tra hỏi coi hồi chiều bữa trước ai đi hốt thuốc. Anh Vận bây giờ có vợ ở bên Cái Tàu, ảnh chịu ảnh đi hốt thuốc, mà ảnh lại khai rằng khi ảnh đi hốt thuốc về tới cầu mát, xảy gặp bà kế mẫu tôi. Bà biểu đưa thang thuốc cho bà cầm và biểu trở xuống xuồng buộc dây lại cho chặt. Một lát anh Vận trở lên cầu, bà kế mẫu tôi trao thang thuốc lại cho ảnh đem vô nhà, ảnh đem vô đưa cho má tôi, mà bất ý nên không coi có phải thang thuốc của ảnh đi lấy đem về hay là thang thuốc nào khác. Cha tôi biểu đưa thang thuốc của ông Sen tìm được trong phòng bà kế mẫu tôi cho ảnh nhìn, ảnh mở ra coi rồi nói thang thuốc đó là thang thuốc ảnh đi lấy bên thầy Ðài đem về, bởi thầy Ðài hốt thuốc trước mặt ảnh, ảnh không nhớ mấy vị kia, song ảnh nhớ chắc có ba trái táo đỏ. Cha tôi biểu dắt thầy Ðài lên: thầy thấy thang thuốc đó thầy cũng nhận là thang thuốc của thầy hốt. Cha tôi coi lại xác thuốc của má tôi uống thì không có trái táo. Cha tôi hỏi bà kế mẫu tôi vậy chớ vì cớ nào mà thang thuốc đó trong phòng bà. Bà biến sắc ú ớ không trả lời được, cách một hồi lâu bà mới nói ai đem vô để trong phòng hồi nào bà không hay. Thầy nghĩ đó mà coi có phải bà kế mẫu tôi tráo thuốc đặng giết má tôi mà giựt chồng hay không? Việc gian ác như vậy mà cha tôi lúc đó còn làm Cai Tổng, lại không nói tới dì tôi, để giải thầy thuốc Ðài lên tòa làm cho ổng bị tòa án kêu hai năm tù. Khi ông ngoại tôi về tới nhà thì chôn cất má tôi xong hết rồi, ông ngoại tôi đấm ngực kêu trời, bỏ ăn bỏ ngủ. Cách vài hôm ông ngoại tôi nghe xầm xì chuyện tráo thuốc mới qua nhà hỏi cha tôi. Cha tôi trả lời lôi thôi, mà ý lại binh vực dì tôi, nên ông ngoại tôi giận, rầy rà một hồi rồi bỏ ra đi về, từ ấy về sau không thèm nhìn biết đến cha tôi nữa, hễ nhớ tôi thì sai người qua rước tôi về chơi, chớ ông ngoại tôi không thèm tới lui. Ông ngoại mới thuận với cha tôi chừng vài năm nay, chớ mười mấy năm trước chẳng hề khi nào chịu nói tới cha tôi. Tôi chắc chuyện nầy ông ngoại tôi chưa nói cho thầy nghe bởi vì thuở nay ông ngoại tôi chẳng hề khi nào nói với tôi. Tôi biết rõ đầu đuôi mà thuật lại đây là nhờ có ông già Sen, ổng nói với tôi. Từ khi tôi biết rồi, thì tôi oán hận dì tôi lắm, tôi quyết làm thế nào tôi cũng báo thù cho má tôi được mới vui lòng. Có khi tôi muốn dọ ý ông tôi nên tôi đem việc ấy ra mà nói, chẳng dè nói tới thì ông tôi dàu dàu nên tôi không biết ý ông tôi thế nào. Tôi nói thiệt với thầy và nói cho có mặt đèn làm chứng cho tôi. Nếu tôi chưa trả thù cho má tôi được, thì tôi không thèm hưởng giàu sang chi hết. Cái thù của mẹ tôi mang nặng quá, mấy năm nay tôi ở chung một nhà với dì tôi thì tôi đã tím ruột bầm gan rồi, cha chả có lẽ nào bây giờ tôi đi phối hiệp với cháu của dì tôi là kẻ thù cho được. Bởi tôi nghĩ như vậy tôi mới trốn mà đi đây. Miễn tôi trả được thù cho má tôi thì thôi, tôi không kể thiên hạ cười chê chi hết.

Bạch Tuyết nói mà sắc mặt giận lắm. Chí Ðại ngồi nghe cũng phát giận song anh ta có ý muốn nghe cho rõ nên cứ ngồi lặng thinh. Chừng Bạch Tuyết nói rồi, anh ta thở dài mà nói rằng:

- Chuyện của cô tôi nghe mà tức quá, tôi ở Cà Mau hơn một năm. Ông bác có nói chuyện đó cho tôi nghe đâu. Chớ chi mà tôi biết quan Phủ sử sự như vậy, nói thiệt, thà tôi nghèo đói tôi chịu chớ không dám gần. Quan Phủ hiền từ lắm mà ngài nghe lời tiểu thiếp rồi làm những việc như vậy thì lòng nhơn của ngài chẳng khác nào lòng gian ác. Hèn chi ngài đuổi tôi! Hỗm rày tôi suy nghĩ hoài chẳng hiểu vì cớ nào ngài đương chuộng tôi khi không lại đuổi tôi, rồi chừng tôi từ giã mà đi thì ngài cũng chẳng tỏ một lời thương tiếc. Cô có nói đây tôi mới hay, chớ không thì tôi có dè đâu!

Hai người chong đèn ngồi ngang nhau, người ngó ra cửa sổ mà trong trí lo tính, còn người cúi mặt xuống đất mà khóc thút thít. Chí Ðại suy nghĩ một hồi rồi nói với Bạch Tuyết rằng:

- Phận cô làm con phải báo thù cho mẹ thì phải lắm. Nhưng mà cô chẳng nên oán quan Phủ, bởi vì con oán cha thì trái luân lý cang thường.

- Cha tôi có giết tôi đi nữa tôi cũng không dám oán. Tôi quyết trả thù là trả thù dì tôi chớ.

- Hồi cô còn nhỏ chẳng nói làm chi, từ khi cô lớn khôn rồi cô quyết báo thù sao cô không tính với ông bác?

- Tôi đã nói với thầy, hễ tôi nhắc tới chuyện má tôi thì ông ngoại tôi buồn xo. Có khi tôi tỏ ý muốn báo thù thì ông ngoại tôi cứ lắc đầu mà nói rằng người quấy để cho trời hại, mình chẳng nên kết oán mà tổn đức. Thầy nghĩ đó mà coi, ông ngoại tôi tánh ý như vậy mà tôi muốn báo thù sao đặng.

- Bây giờ cô muốn báo thù mà cô tính làm như thế nào? Cô toan giết bà Phủ cho chết hay là tính làm sao?

- Thưa thầy, tuy tôi oán dì tôi, song tôi không có lòng độc ác như dì tôi vậy được. Nếu tôi muốn giết dì tôi thì tôi cần gì phải trốn đi. Tôi muốn làm thế nào mà cáo với quan trên, đặng quan trên làm tội dì tôi mà thôi. Miễn là làm cho ra lẽ dì tôi thuốc má tôi chết cho cha tôi biết, bao nhiêu đó thì đủ rồi, chẳng cần giết dì tôi làm chi.

Chí Ðại gầt đầu, mắt ngó Bạch Tuyết trân trân và nói rằng:

- Phận gái ít ai có tánh khí như cô mà cũng ít ai có lòng nhơn như cô vậy. Cô nói mấy lời ấy làm cho tôi kính phục cô quá, làm như vậy đã trọn thảo với mẹ mà cũng không mất thảo với cha nữa. Nhưng mà cô phải xét lại cho kỹ, chẳng nên hốt tốc[2], bởi vì hốt tốc sợ việc không thành mà còn phải bị hại nữa. Nay cô muốn đến quan mà cáo bà Phủ thì trước hết cô phải có đủ chứng cớ cho chắc chắn. Quan Phủ đang có quyền thế mạnh mẽ, tôi sợ thầy Ðài với anh Vận không dám làm chứng cho cô đâu. Ðã vậy mà việc tráo thuốc xẩy ra mười mấy năm rồi, bây giờ không còn tang cớ chi hết, tôi sợ Tòa không thể làm tội bà Phủ được. Tôi chắc bấy lâu nay ông bác ôm lòng sầu mà nhịn thua, ấy cũng là vì không có tang chứng, chớ không phải lòng nhơn từ của ông đến đỗi dung thứ kẻ gian ác như vậy đâu. Không được, tôi sợ cô đi kiện không thành, mà lại bị tội cáo gian nữa.

Bạch Tuyết nghe Chí Ðại phân rõ các điều hơn thiệt, cô lấy làm tức quá nên khóc và nói rằng:

- Nếu vậy, người ta giết mẹ tôi chết rồi bây giờ tôi không thể nào báo thù cho mẹ tôi được sao?

Chí Ðại thấy cô đau đớn thì động lòng, không muốn cho cô thất vọng, nên kiếm lời nói êm rằng:

- Không phải không thể báo thù được, nhưng xin cô thủng thẳng đợi dịp thuận tiện rồi sẽ hay.

- Ðợi mười bốn năm rồi, bây giờ còn đợi đến chừng nào nữa? Chớ chi biết trước việc nầy như vậy thì tôi ở nhà tự vận mà chết phức cho rồi, đi đâu làm chi!

Bạch Tuyết khóc mùi, làm cho Chí Ðại xốn xang hết sức, song không biết lấy lời chi mà khuyên giải. Chí Ðại để cô khóc một hồi lâu cho thỏa lòng sầu, rồi mới nói rằng:

- Tôi chỉ chỗ lợi hại cho cô thấy mà thôi chớ không phải tôi nói báo thù không được. Xin cô bớt buồn để trí tỉnh táo mà lo.

- Thưa thầy, thầy là người có học, nếu thầy biết thế nào mà báo thù giùm cho tôi được thì tôi nguyện trọn đời đem thân nầy làm trâu ngựa đền ơn cho thầy.

- Nếu tôi biết kế chi thì tôi chỉ liền cho cô, cần chi phải đợi cô mượn. Tôi khuyên cô phải chậm chậm đợi ông bác đi Huế về rồi cô sẽ tính với ông. Phải có ông mới xong. Bây giờ tôi xin cô mau mau trở về Cà Mau mà ở. Có lẽ trong một vài tháng đây ông bác sẽ về, chớ không lâu lắc chi mà sợ.

- Úy! Tôi về Cà Mau sao được! Tôi về thì cha tôi bắt gả ép tôi cho cháu của dì tôi còn gì.

Chí Ðại châu mày, ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi mới nói:

- Cô phải trở về, nếu không về thì cô đi đâu? Chớ chi cô là con trai thì dễ, ngặt cô là gái, lìa nhà ra đi có dễ chi đâu. Cô phải về, cô về nhà, nếu cô không ưng cháu bà Phủ thì thôi, quan Phủ ép cô mà cô không chịu, không lẽ quan Phủ giết cô?

- Tôi nghĩ kỹ rồi hết, tôi không thể nào trở về nhà được. Dầu cha tôi không thương có đánh chết tôi đi nữa tôi cũng không phiền. Ngặt vì người ta vu cho tôi lấy thầy, tôi tức giận nên trốn mà đi, lên đến đây lại gặp thầy nữa, bây giờ nếu tôi trở về thì lời vu oan ấy thành ra lời có thiệt, tôi mang tiếng xấu với thiên hạ đã đành rồi, mà còn hổ thẹn với dì tôi nữa, tôi chịu sao được. Tôi đã nhứt định, nếu tôi không báo thù cho má tôi được thì tôi không trở về Cà Mau.

- Nếu cô không về, bây giờ cô đi đâu? Xin cô phải suy nghĩ lại: phận cô là gái, mà lại con quan nữa, cô phải trọng danh tiết hơn người thường. Cô lo báo thù cho mẹ thì đáng khen, song nếu báo thù được, mà thất tiết của mình, thì sự khen ấy sợ cân không nặng bằng sự chê đâu.

Bạch Tuyết ngước mặt ngó ngay Chí Ðại và nói rằng:

- Sự đau đớn của tôi không biết lấy tiếng chi mà nói cho thầy hiểu rõ được. Tôi tuy là con gái nhà quan, mà tánh nết tôi chắc là không giống con nhà quan khác. Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại tôi, thì trìu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp mặt thì ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được. Chừng tôi được mười hai tuổi, ông Sen thuật chuyện dì tôi tráo thuốc giết má tôi cho tôi nghe. Từ ấy cho đến bây giờ, tôi coi dì tôi là người thù, tôi không tin lòng cha tôi nữa, ở trong nhà tôi muốn việc gì cũng không nói cho ai biết, tính việc gì cũng không nói cho ai hay, ở với cha mẹ mà cũng như ở một mình trong rừng, dường ấy làm sao tôi giống người thường được. Xưa nay khi vui mà lại buồn thảm, khi buồn mà phải giả vui, tập quen tánh dối rồi nên với ai tôi cũng dối hết thảy, bởi vì tôi biết có ai thương tôi đâu mà nói thiệt tình với họ. Việc riêng của tôi, tôi đem mà tỏ với thầy từ hồi đầu hôm cho tới bây giờ, ấy là tôi nói ra lần thứ nhứt, chớ thuở nay tôi chưa nói cho một người nào nghe hết. Tôi thấy ông ngoại tôi thương thầy, tôi chắc thầy là người biết điều, tôi không nghi ngại chi hết, nên tôi mới dám tỏ thiệt.

Bạch Tuyết nói tới đó rồi ngưng lại, coi bộ suy nghĩ lắm. Cách một lát, cô nói tiếp rằng:

- Tôi đã tỏ thiệt việc nhà của tôi cho thầy nghe rồi, bây giờ tôi cũng bày luôn lòng dạ của tôi cho thầy biết nữa, không lẽ tôi dám dấu diếm thầy. Không biết thầy có hiểu hay không, chớ hơn một năm nay tôi coi ý ông ngoại tôi yêu thầy lắm. Tuy ông ngoại tôi không tỏ ra, chớ ông ngoại tôi nói chuyện với tôi, thường thường ông nói nhiều tiếng tôi hiểu ý muốn gả tôi cho thầy...

Bạch Tuyết nói mấy lời ấy rồi coi bộ hổ thẹn, nên cô ngồi day mặt vào vách, gỡ đất dính trong móng chơn, lặng thinh một hồi lâu, rồi thở ra mà nói tiếp rằng:

- Thân phận tôi bây giờ thiệt là khổ lắm. Nếu thầy thương ông ngoại tôi, thì thầy làm ơn cứu giùm tôi. Bây giờ tôi cũng như người lạc trong rừng, không biết đường đâu mà đi, trở về thì bị tay kẻ thù, bước tới thì bị sa chơn vào đường đời nguy hiểm, thiệt tôi không biết liệu sao cho được. Vậy tôi ký thác thân tôi cho thầy, xin thầy thương giùm. Nếu thầy không cứu tôi thì thà tôi chết, chớ tôi không thể nào trở về Cà Mau.

Chí Ðại rõ ý Bạch Tuyết thì mặt mày tái xanh, mồ hôi nhỏ giọt. Anh ta đi qua đi lại một hồi rồi đáp rằng:

- Cô tính như vậy thì quấy lắm. Cô theo tôi sao được. Cô theo tôi thì cô mang nhơ, mà tôi để cho cô đi theo tôi thì tôi cũng phải mang nhục nữa.

- Nếu thầy không thương thì tôi phải chết, chớ sống sao được.

Chí Ðại đứng lại, ngó ngay Bạch Tuyết mà nói rằng:

- Sao cô biết tôi không thương cô? Vì tôi thương nên tôi giữ tròn danh tiết cho cô, chớ làm nhục cô thì thương nỗi gì?

- Chớ bây giờ tôi tính làm sao?

- Cô không hiểu việc riêng của tôi. Tôi vốn con nhà bần tiện, chút thân côi cúc không nơi nương tựa, nên lưu lạc đến Cà Mau. Ông bác có lòng nhơn từ quảng đại, đem tôi về đãi như thượng khách, rồi lại kiếm chỗ cho tôi làm ăn. Cái ơn tri ngộ ấy tôi chưa đền bồi, hễ nghĩ tới thì tôi rất buồn, có lý nào tôi lại còn dám làm điều trái đạo.

- Thầy để cho tôi đi theo thầy, ấy là thầy cứu tôi trong cơn khốn khổ nầy, chớ phải thầy dụ dỗ chi đó hay sao mà thầy ngại.

- Ai biết được bụng ngay của tôi mà cô khuyên tôi đừng ngại?

- Tôi biết thì đủ rồi, cần gì ai nữa.

Chí Ðại gãi đầu rồi đi qua đi lại, coi bộ bối rối lắm. Bạch Tuyết ngồi ngó anh ta không nói chi hết, trong trí chờ nghe coi anh ta định lẽ nào, Chí Ðại lại đứng gần Bạch Tuyết chống tay lên ghế nói nhỏ rằng:

- Nầy cô, thiệt nếu cô biết giùm bụng tôi thì tôi không ngại nữa. Xin cô đừng có tưởng rằng tôi không thương cô. Cô tưởng như vậy tôi đau lòng lắm. Tuy tôi biết mặt cô đã hơn một năm nay rồi, nhưng mà đêm nay tôi mới giáp được mặt nói chuyện với cô thong thả. Cô đã lấy thiệt tình mà đãi tôi, không lẽ tôi giả dối với cô. Tôi nghe rõ việc riêng của cô nãy giờ, lòng tôi ái truất không thể nào nói ra cho được. Tôi nói thiệt trong đời nầy, trừ cha mẹ ra rồi chẳng còn thương ai hơn là thương cô nữa. Chớ chi thương cô mà có thể báo thù giùm cho cô được, lại cũng giữ giùm cho cô toàn vẹn danh thơm tiếng tốt thì dầu cho tôi mang hại đến nỗi tan xương nát thịt đi nữa tôi cũng chẳng xá gì. Ngặt vì thân tôi côi cúc, phận tôi bần cùng, đã không có thế lực, mà cũng không có tiền tài, bởi vậy dầu thương cô tôi cũng chẳng biết làm sao giúp cô, thế thì cô theo tôi cô đã nhơ danh mà lại không có ích gì.

Bạch Tuyết đáp rằng:

- Mấy lời thầy nói hồi nãy tôi nghĩ phải lắm: thủng thẳng mà tính chớ không nên hốt tốc. Vậy thì tôi đi theo thầy đỡ ít ngày rồi sau ông ngoại tôi về rồi sẽ tính, chớ biết làm sao?

- Còn một điều nầy lấy làm khổ cho cô nữa; cô vốn con nhà sang trọng. Thuở nay ăn no ngủ kỹ, vào ra kẻ dạ người thưa, phận tôi nghèo nàn hèn hạ, cô kết tóc với tôi sợ e cô phải dầm sương gội nắng cực khổ thân cô.

- Việc đó là việc riêng của tôi, xin thầy chớ lo. Tôi vốn con quan, mà thầy dám chắc thuở nay tôi sung sướng sang trọng lắm sao? Thuở nay thân tôi thiệt no ấm, song trí tôi sầu não, nghĩ chẳng có khổ nào hơn. Thà là tôi cực khổ mà có người yêu mến cho tôi bày tỏ việc buồn của tôi, còn hơn là trở về sung sướng mà phải phối hiệp với kẻ thù, hoặc phải chết không trả oán cho mẹ được.

- Nãy giờ tôi lo là lo cho phận cô. Còn phận tôi, xin cô cũng lo giùm một chút chớ. Tôi mà dắt cô đi, tuy là vì tình vì nghĩa, vì thương yêu nhau, vì biết bụng nhau nhưng mà đối với thiên hạ tôi lấy làm hổ thẹn lắm. Tôi kết tóc trăm năm với cô, chi cho khỏi thiên hạ dị nghị, họ nói tôi giúp việc với quan Phủ, thấy cô giàu sang nên khuyến dụ cô. Mà đối với thiên hạ thì tôi ít lo, chớ thiệt đối với ông ngoại cô, tôi lấy làm thẹn thùa quá. Tôi nói chắc, hễ cô với tôi thương nhau thì không khi nào tôi dám thấy mặt ông ngoại cô nữa.

- Tôi có dặn ông Sen ở nhà chờ ông ngoại tôi về thuật rõ việc khổ của tôi cho ông ngoại tôi nghe. Hễ ông ngoại tôi biết rồi thì thầy có quấy chi đâu mà ngại.

- Thế nào ông lại không nghi, mà dầu ông không nghi, tôi làm như vầy thì trái đạo nghĩa lắm.

- Nếu thầy tính hơn thua, phải quấy hoài, thì thân tôi còn gì?

Bạch Tuyết tủi lòng, nên ngồi khóc nữa. Chí Ðại thấy vậy xốn xang không chịu được nên bỏ đi lại đứng cửa sổ mà ngó ra ngoài. Trời đã khuya rồi, trong quán đều ngủ hết, dưới đường vắng vẻ, không có một người qua lại.

Anh ta suy tới tính lui, không biết liệu thế nào cho xong, nếu mình giữ cho toàn danh nghĩa của mình, dắt Bạch Tuyết trở về Cà Mau mà giao lại cho quan Phủ thì sợ cô cùng trí rồi cô tự vận, tội ấy tại mình; còn nếu mà mình đem cô ấy đi kiếm chỗ mà giấu đặng chờ Bạch Khiếu Nhàn về, thì lại e trai tơ gái lịch gần gũi nhau không thể giữ gìn cho trọn lễ nghĩa được.

Anh đứng suy nghĩ, một lát đứng ngó Bạch Tuyết một cái, thấy cô hình dung đẹp đẽ, sóng sắc dồi dào, đã vậy mà đêm khuya thanh vắng tình cảnh ngổn ngang, làm cho anh ta như dại như ngây bỏ trở đi vô, lúc gần tới bạch Tuyết ngồi nói rằng:

- Trời khiến như vậy, còn biết sao mà liệu.

Bạch Tuyết nghe mấy lời vùng đứng dậy, khít bên mình Chí Ðại, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, ngó Chí Ðại một cách hữu tình mà nói nho nhỏ rằng:

- Em cảm ơn thầy lắm.

Chí Ðại đứng ngó trân trân, không nói chi được hết, chỉ gục mặt xuống đất mà khóc.

Hai người khóc một hồi lâu, bỗng nghe đồng hồ gõ năm giờ, ngoài đường thiên hạ đi lại nói chuyện inh ỏi, trong quán kẻ làm công thức dậy mở cửa lộp cộp. Bạch Tuyết lấy gói vàng trao cho Chí Ðại và hỏi coi tính sáng ngày dắt nhau đi đâu.

Chí Ðại mở gói thấy vòng vàng kiềng nhiều quá thì lòng chẳng vui nên nói rằng:

- Cô đem vàng theo nhiều chừng nào càng nhục thêm cho tôi nhiều chừng ấy.

- Ðồ nầy của ông ngoại em sắm riêng cho em, chớ không phải của cha em đâu.

- Của ai cũng vậy.

- Nếu thầy không vui thì em bỏ, em không cần đeo vòng đeo kiềng chi đâu.

- Ðể sáng tôi gởi về trả cho quan Phủ.

- Tự ý thầy, thầy tính sao cũng được.

Sáng ngày Chí Ðại kiếm một cái hộp, bỏ hết vòng kiềng vào rồi đem lên nhà dây thép mà gởi về cho quan Phủ tại Cà Mau. Anh ta đến nhà ông Bá Hộ nói dối rằng anh ta có việc nhà phải trở về cho mau, nên chưa dạy học, đi dắt Bạch Tuyết xuống tàu về Vũng Liêm.

Chí Ðại về tới quê quán, ở đậu nhà phó xã Măng một bữa, đem Bạch Tuyết ra lạy mồ mả cha mẹ, rồi dắt nhau đi Sài Gòn, mà trước khi ra đi lại căn dặn vợ chồng phó xã Mang, nếu có ai đến hỏi thăm thì đừng nói có anh ta về đó.

Chí Ðại làm việc tại Cà Mau hơn một năm, tuy ăn ở khỏi tốn tiền song phải mua sắm quần áo, xài phí chút đỉnh, nên lúc ra trong mình chỉ còn dư được 50 đồng mà thôi.

Ở Bạc Liêu mấy ngày rồi về Vũng Liêm hao tốn nữa, nên khi lên tới Sài Gòn, trong túi còn có hai mươi lăm đồng. Tiền riêng của Bạch Tuyết còn được bốn mươi lăm đồng, hai người nhập chung thì thành số bảy chục đồng.

Hai vợ chồng không quen biết với một người nào ở Sài Gòn, nên lên tới đó không có chỗ ở đậu đặng kiếm sở làm, phải ở tại khách sạn Phước Lai, cứ mỗi ngày phải trả tiền phòng sáu cắc bạc. Vợ chồng nghĩ mình tiền bạc, hẹp hòi, còn kiếm chỗ làm cũng không chắc được, bởi vậy ăn xài tiện tặn hết sức, ăn cơm thì lại quán mua canh cải thịt kho sơ sài, đi chơi thì cứ dắt nhau đi bộ. Chí Ðại làm đơn vào sở Trường Tiền mà xin chỗ làm, thì họ nói không có chỗ trống, nên không thế cho được.

Bữa sau anh ta nghe nói sở Ba Son dễ xin mới làm đơn men tới nào dè đã có nhiều người vào đơn xin trước rồi nên họ bắt thi.

Tuần sau Chí Ðại vào thi đậu số 2, trong bụng mừng thầm chắc sẽ có chỗ làm chẳng dè họ biểu số l đi làm liền, còn số 2 phải chờ ít ngày, chừng nào có giấy đòi sẽ đi làm.

Chí Ðạt lật đật về khách sạn, nói lại cho vợ hay, tưởng là trong năm ba bữa họ sẽ kêu đi làm, té ra chờ hơn hai mươi ngày mà cũng chưa thấy tin tức chi hết. Anh ta nóng nảy làm đơn vào nhắc, thì họ biểu chờ chừng nào có chỗ trống họ sẽ kêu.

Ở Sài Gòn gần giáp tháng, túi nhẹ, mà chưa có chỗ làm. Chí Ðại buồn rầu, ban ngày đi thất thơ, ban đêm nằm nhau nháu.

Ðêm nọ, khách ở mấy phòng đều ngủ hết, anh dậy chong đèn ngồi mà lo, dòm thấy Bạch Tuyết nằm ngủ, tay gác qua trán mà mặt sáng như hoa nở, miệng vui như chúm chím cười, thì động lòng thương, rơi nước mắt.

Bạch Tuyết giựt mình mở mắt thấy chồng ngồi khóc. Chẳng hiểu việc gì, nên tay vịn chồng mà hỏi rằng:

- Có việc chi mà thầy buồn dữ vậy?

- Hôm ở dưới Bạc Liêu tôi đã nói với cô rằng tôi không có thể giúp ích cô được, mà lại sợ cô theo càng khổ thân cô...

- Bây giờ thầy ăn năn hay sao?

- Không, việc tôi làm lỡ rồi bây giờ dầu nát thân tôi, tôi cũng vui lòng, có lẽ nào tôi ăn năn. Tôi lo là lo cho phận cô đó mà thôi chớ.

- Xin thầy đừng lo cho em, bởi vì nếu tại em mà phải nhọc lòng thầy thì em buồn lắm.

- Vậy chớ cô quên báo thù cho mẹ hay sao?

- Làm sao mà em quên được. Em nghe thầy nói để thong thả ngày sau sẽ tính nên em làm lơ lảng mà chờ chừng nào thầy liệu được thì em cậy thầy làm chớ.

- Sự báo thù cho cô tôi coi khó lắm mà bây giờ cái khổ đã rấp tới nữa, bởi vì tiền bạc đã gần hết mà tôi kiếm chưa đươc chỗ làm. Nếu mai mốt hết rồi lấy chi mà nuôi nhau. Tôi đã nói trước với cô khổ lắm, cô ơi?

Chí Ðại nói tới đó nước mắt tuôn đầm dề. Bạch Tuyết lấy khăn lau nước mắt cho chồng và to nhỏ khuyên rằng:

- Xin mình đừng buồn, ở đời ai khỏi cực; có cực rồi chừng được sung sướng mới vui, chớ từ nhỏ chí lớn sung sướng hoài thì biết vui là gì. Nói cùng mà nghe, ví như Trời không thương, bắt đôi ta khốn khổ quá chịu không nổi, thì vợ chồng ta nằm ôm nhau mà chết cũng vui lòng, xin mình đừng buồn việc chi hết.

Chí Ðại nhìn vợ trong lòng khoan khoái vô cùng, mấy lời vàng đá ấy làm cho anh ta rất phỉ tình, mà cũng đau đớn. Bạch Tuyết thấy chồng thương cảm, thừa dịp nói rằng:

- Mình đừng kêu tôi bằng cô nữa chớ. Tiếng cô nghe vô tình quá.

- Thì em cũng đừng kêu qua bằng thầy nữa.

Hai người cười với nhau rồi kè vai nằm ngủ.

Chí Ðại tính không đợi sở Ba Son kêu nữa được, nên mấy ngày sau đi rảo khắp mấy hãng buôn xin chỗ mà làm. Ði tới đâu họ cũng hỏi trước đó có làm việc tại hãng nào hay không. Chí Ðại thiệt thà cứ nói tự thuở nay chưa giúp việc cho hãng nào hết, nên không hãng nào cho làm.

Bữa nọ Chí Ðại nghe nói Tòa Tân Ðáo có thiếu một người lon ton[3] đi giấy anh ta muốn xin vào làm đỡ, song làm việc hạ tiện sợ vợ không vui, nên về dọ thử bụng vợ rằng:

- Bạc của mình bây giờ còn có mười mấy đồng nếu đóng sòng phẳng mà chờ cho có sở sang trọng mới làm, thì vợ chồng ta chắc chết đói. Qua nghe nói Tòa Tân Ðáo đương cần dùng một người đi giấy qua muốn xin vô mà làm đỡ, ngặt làm tay sai cho người ta thẹn thùa quá nên qua chưa nhứt định.

Bạch Tuyết đáp rằng:

- Tìm vinh lánh nhục là lẽ thường. Nhưng mà em nghĩ nếu mình có tiền ở không mà ăn, thì thân mình mới khỏi ai giằn thúc; chớ mình nghèo đi kiếm chỗ làm ăn, làm chỗ nào lại khỏi bị người ta sai khiến. Chừng nào mình làm quấy, gạt gẫm người ta mà lấy tiền, hoặc chém giết người ta mà giựt của thì mới nhục. Xin anh đừng ngại chi hết, bất luận sang hèn, anh coi chỗ nào làm được thì anh xin mà làm, miễn là có chỗ dung thân rồi em sẽ đi may mướn vá thuê với anh kiếm tiền mà độ nhựt.

Chí Ðại nghe được mấy lời vàng đá, trong lòng đang buồn mà hóa ra vui. Rạng ngày anh ta vào Tòa Tân Ðáo xin đi lon ton.

Quan bằng lòng cho làm và định lương mỗi tháng là chín đồng. Anh ta vào làm việc gặp thầy tên Tú, vốn là bạn học anh ta hồi trước ở Vĩnh Long, vì thi rớt không vào trường Mỹ Tho được nên xin việc làm. Chí Ðại ngó thấy mừng rỡ hết sức, nên lật đật chạy lại hỏi thăm. Chẳng dè thầy nọ làm lơ, đã không chịu quen với Chí Ðại, lại còn bắt lỗi Chí Ðại vô phép làm cho Chí Ðại hổ thẹn mà nực cười, thẹn là thẹn thân hèn hạ, cười là cười thói kiêu căng, thầm nghĩ chớ chi mình giàu sang, chắc người không quen cũng xúm lại niềm nở.

Tối lại Chí Ðại thuật chuyện vô tình của thầy Tú lại cho Bạch Tuyết nghe, thì vợ tức cười, chớ không phiền trách. Anh ta thấy vợ chồng đồng tâm hiệp ý thì vui vẻ vô cùng, mới tính với vợ rằng mình ăn lương mỗi tháng chín đồng, tính ra nhầm một ngày có ba cắc. Ở khách sạn mỗi ngày tới sáu cắc, còn ăn cơm hết ba bốn cắt nữa, nếu ở như vậy hoài thì làm sao mà đủ xài nữa.

Bạch Tuyết khuyên chồng kiếm chỗ ở đậu đặng đỡ tốn hao, rồi cô ta kiếm áo quần may mướn đặng thêm tiền chút đỉnh. Bữa sau Chí Ðại làm quen với lon ton Thiệt rồi xin ở đậu mỗi tháng chịu một đồng bạc tiền phố.

Lon ton Thiệt chịu cho, song nài phải chịu phân nửa tiền phố là một đồng rưởi. Chí Ðại bằng lòng, mua một cái chõng, một chiếc chiếu và sắm chén đũa, nồi trách, rồi dọn dẹp về ở với lon ton Thiệt trên phía Cầu Kiệu.

Bạch Tuyết vì thương chồng nên không nệ cực khổ, hễ khi chồng đi làm thì cô ở nhà lãnh áo quần mà may mướn, mỗi tháng kiếm được năm bảy đồng nhập với lương của Chí Ðại thì đủ xài không thiếu hụt bữa nào.

Tuy chồng nghèo mà cô chẳng buồn, tuy chồng hèn hạ mà cô cũng kính luôn luôn, chẳng làm điều chi, chẳng nói chi mích bụng chồng mà thấy thiên hạ giàu sang cô cũng không phân bì so sánh.

Chí Ðại làm lon ton là tính làm đỡ chờ sở Ba Son kêu chẳng dè làm đến bốn tháng mà cũng chưa nghe tin tức. Bữa nọ anh ta đi làm về thấy Bạch Tuyết có sắc buồn. Tối lại anh to nhỏ với vợ rằng:

- Vì qua nên em hư danh xủ tiết, vì qua mà em phải cực hèn. Qua là đứa bất nghĩa, nhờ ơn ông, trở làm xấu cho ông, qua là đứa tiểu nhơn không cứu em lại làm cho em mang hại, bởi vậy ngày nay trời đất phạt qua nghèo hèn cực khổ như vầy đã đành rồi. Thảm cho em vì muốn báo thù cho mẹ mà phải hư thân, thiệt qua nghĩ đến việc ấy chừng nào, qua càng nát gan đứt ruột chừng nấy. Qua tính với em như vầy: có lẽ lúc nầy ông ngoại đi Huế đã về rồi, vậy để cho qua đưa em về Bạc Liêu đặng hỏi coi như ông ngoại về thiệt rồi, thì em ở với ông ngoại cho thân em hết cực khổ nữa.

Bạch Tuyết nghe nói vùng ngồi đậy hỏi rằng:

- Anh về với em hay không?

- Qua về sao đặng?

- Sao vậy?

- Qua còn mặt mũi nào dám thấy ông nữa.

- Em đã nói lỗi nầy tại em, chớ nào phải tại anh hay sao mà anh ngại.

- Qua không biết kiên tâm trì chí, bởi vậy lỗi tại qua chớ nào phải tại em.

- Thôi anh đừng cãi chi nữa cho thất công. Em nói thiệt nếu anh chịu về Cà Mau với em thì em mới đi, bằng không thì anh ở đâu em ở đó, giàu nghèo chẳng cần gì.

- Em cần phải về Cà Mau đặng toan mưu lo kế với ông ngoại mà báo thù cho má chớ.

Bạch Tuyết nghe nhắc việc báo cừu thì ngồi lặng thinh suy nghĩ một hồi rồi nắm tay chồng mà khóc và nói rằng:

- Em muốn báo thù cho má lắm. Ngặt vì anh đang gặp hồi hoạn nạn như vầy, em không nỡ lìa anh một ngày đặng. Thôi việc ấy để thủng thẳng ngày sau sẽ tính, chớ bây giờ em về, em sợ cha mẹ không thương lại càng khổ cho em nữa.

Chí Ðại thấy vợ có tình có nghĩa quá như vậy càng kính trọng hơn nhiều nữa.

Ngày qua tháng tới thấm thoát Chí Ðại làm lon ton tính đã quá một năm. Bữa nọ Bạch Tuyết có nghén mà lại cảm phong sương nên nóng vùi. Chí Ðại lo sợ, chạy đi kiếm thầy hốt thuốc cho vợ, nên đi làm trễ hết một giờ. Ông chủ vô nhà giấy kêu lon ton hai ba lần mà chẳng thấy mặt Chí Ðại, ông giận rầy la om sòm, rồi chạy giấy phạt tám ngày lương. Chừng Chí Ðại bước vô, nghe chuyện như vậy thì sợ nên lật đật vô năn nĩ ông chủ mà xin lỗi. Anh ta năn nĩ hết sức mà ổng không tha.

Anh trở ra bàn mà ngồi, phần thì lo cho vợ ở nhà, phần thì buồn vì nỗi bị phạt, nên ông chủ kêu hai ba tiếng mà anh ta không nghe. Ông chủ tưởng anh ta cứng đầu cứng cổ, nên kêu vô đánh hai bốp tai rồi chạy tờ xin đuổi.

Chí Ðại bị đánh lấy làm nhục nhã, tức giận muốn bỏ đi về, song nghĩ nhà nghèo vợ đau, nếu không nhẫn nhịn thì e khốn khổ hơn nữa nên phải dằn lòng ở mà làm. Chẳng dè sự nhẫn nhịn ấy không có ích gì bởi vì cách ba bữa có giấy quan trên cho đuổi, ông chủ kêu Chí Ðại vô mà cho hay, rồi dạy phải ra khỏi sở ngay lập tức. Chí Ðại hay tin chẳng lành ấy thì sảng sốt, tuy trong trí lo không có chỗ làm ăn, song bước chơn ra về lòng chẳng tiếc chúc nào hết. Anh ta về nhà thuật lại chuyện ấy cho vợ hay rồi vợ chồng nhìn nhau coi bộ buồn lắm.

Sáng bữa sau Chí Ðại kiếm chỗ khác xin làm, đi luôn trọn năm ngày mà chưa kiếm được chỗ nào hết. Trong rương còn có sáu bảy đồng bạc, anh ta lấy hốt thuốc cho vợ uống và mua gạo mua cá mà ăn, trong mấy ngày thì tiêu hết.

Bữa nọ hết tiền không biết lấy chi mua gạo mà ăn, Bạch Tuyết mới khuyên chồng đem một mớ quần áo ra tiệm cầm đồ mà cầm. Chí Ðại cùng thế rồi nên mới bất đắc dĩ đi, nhưng quá đau đớn trong lòng nên rưng rưng nước mắt.

Cầm mớ quần áo được ba đồng bạc đem về ăn xài mới năm sáu bữa thì hết nữa, mà cũng chưa có chỗ làm.

Bạch Tuyết nhờ uống thuốc nên hết nóng lạnh, mà dầu khỏi tốn tiền thuốc nữa, song cơm gạo không thể nhịn đặng, bởi vậy ba mớ áo với bốn cái quần lãnh của cô lần lần đã vào trong tiệm cầm đồ hết.

Chí Ðại lo sợ nên đi tối ngày không về nhà. Chiều bữa kia đi mỏi chơn quá mới lại ngồi trên cái băng để tại cầu Thủ Ngữ mà nghỉ.

Trên trời mây giăng đen kịt, dưới sông nước chảy lờ đờ. Người có việc buồn thấy cảnh như vầy càng buồn thêm.

Chí Ðại ngồi lo nỗi nhà không có gạo, mà vợ lại gần lâm bồn thì chua xót trong lòng, rồi thấy cảnh u ám dường như dục lòng buồn thêm, thì thối chí muốn nhào xuống sông Bến Nghé mà trả phức nợ trần cho rồi. Vừa tính cùng như vậy Chí Ðại liền nhớ tới Bạch Tuyết, nên ngồi ngó mặt nước trân trân mà suy nghĩ rằng: „Bạch Tuyết vì muốn báo thù cho mẹ nên trao thân gởi phận cho mình, mình đã biết không đủ sức giúp người mà không dằn lòng được, làm cho phải thất tiết với mình, bao nhiêu đó mình đã có tội nhiều rồi. Nay thấy nguy hiểm lại giựt mình muốn tìm đường mà tránh sao”. Chí Ðại vùng đứng dậy rồi lầm lũi đi về nhà.

Ðêm ấy anh ta không ngủ được, nằm tính trong trí rằng, nghề nào cũng nghề làm ăn, rất đỗi bọn cu ly kia, nó còn nuôi được vợ con nó thay, mình cũng đủ tay đủ chơn như nó, lý gì mình không chịu làm như nó. Anh ta sợ vợ buồn, nên không nói cho vợ hay.

Rạng ngày sau, thức dậy mặc áo quần cũ đi tuốt xuống nhà ga xe lửa Mỹ Tho tính kiếm mà vác mướn. Lúc Chí Ðại bước vô nhà ga xe lửa gần chạy nên thiên hạ lộn chộn, kẻ chen lấn mua giấy, người lật đật bưng đồ còn sắp bam bù đứa chạy đầu nầy xin vác rương, đứa chực đầu kia xin xách gói.

Tuy hồi hôm Chí Ðại đã quyết chí ra đó mà làm mướn, song đến nơi rồi thì mắc cỡ nên bợ ngợ đứng ngó, chớ không đành chạy tò tò theo người ta mà năn nỉ xin vác đồ, bởi vậy xe chạy rồi mà anh ta còn ngẩn ngơ chưa tỉnh lại.

Xe lửa chạy rồi, thiên hạ tản lạc lần lần, trong nhà ga còn có một khách đứng chơi vơi với vài tên bam bù ngồi ăn bánh.

Chí Ðại ra phía sau khoanh tay dựa lưng vào vách mà nghĩ thầm rằng làm bam bù thiệt là đê tiện mà nếu sợ xấu hổ không chịu làm thì mai mốt tiền đâu mà mua gạo ăn, rồi chừng vợ đẻ lấy chi mà nuôi nó.

Anh ta quyết chí chờ xe Mỹ Tho lên sẽ làm, chớ không dụ dự nữa.

Gần bảy giờ rưỡi rồi, nghe có tiếng xe lửa síp-lê[4] xa xa.

Xe kiếng[5], xe kéo chạy lại nhà ga rần rần, còn bam bù, cu ly[6] cũng tựu hội đông nức. Những người đi đón rước bà con đứng dọc theo mé nhà ga, còn bọn chực xách gói đứng dài theo đường xe lửa.

Chí Ðại bước lại gần bọn vác đồ. Cu ly đứa nào cũng tranh đứng trước, nên chen lấn nhau đấm cú nghe đùi đụi. Chí Ðại thấy vậy lấy làm buồn nên đứng sau xa mà ngó, chớ không dám bước lại gần.

Xe lửa vừa chạy tới, bọn cu ly nhảy ào lên, xô lấn nhau, có đứa té nhào xuống xe gần bị cán. Chí Ðại lắc đầu, thấy nghề hèn hạ mà còn giành giựt với nhau mới làm được thì thối chí ngã lòng, nên xây lưng đi về, tính mướn xe kéo mà kéo, tuy mệt một chút mà khỏi năn nỉ giành giựt.

Tối lại, Chí Ðại khóc mà tỏ thiệt với vợ việc mình tính làm hồi sớm mai mà không làm được và luôn dịp cũng nói mình quyết sáng ngày mai sẽ đi mướn xe mà kéo.

Bạch Tuyết nghe nói biến sắc, ngồi nhìn chồng một hồi rồi rơi lụy chứa chan, nói rằng thà hết tiền thì vợ chồng nằm ôm nhau mà chết một lượt còn vui lòng hơn nhiều.

Chí Ðại phải lấy lẽ phải quấy mà khuyên vợ lại.

Bạch Tuyết cản hết sức không được, nên sáng bữa sau phải để cho chồng đi, mà Chí Ðại vừa ra khỏi nhà thì cô cũng đội khăn đi nữa, tính đi kiếm chỗ làm mướn, chớ không để cho chồng cực khổ một mình, may có vợ lon ton Thiệt chạy theo níu lại, nói rằng có bụng có dạ phải dưỡng lấy thai, nên cô mới chịu trở vô nhà nằm mà khóc.

Chí Ðại thế giấy thuế thân mướn được một cái xe kéo. Khi thay áo xám quần cụt rồi nắm gọng xe kéo ra ngoài đường thì mặt mày tái xanh, trong lòng lạnh ngắt, hai hàng nước mắt rưng rưng.

Bữa đầu, ăn cơm và trả tiền xe rồi còn dư được chín cắc, Chí Ðại đem tiền về đưa cho vợ, Bạch Tuyết gượng gạo thò tay lấy tiền mà nước mắt chảy dầm dề.

Chí Ðại thấy vợ như vậy, phải gượng làm vui và không dám than mỏi mệt.

Kéo xe được mười ngày, mỗi ngày dư được năm, bảy cắc hoặc một đồng, đều đưa hết cho vợ cất. Bạch Tuyết không thể cản chồng được, mà phận mình mang mên gần ngày nên không thể giúp chồng thì buồn rầu hết sức.

Bữa nào cũng vậy, chồng đi kéo xe ăn cơm ngoài quán, vợ ở nhà không nỡ ăn cá thịt, cứ mua nước mắm húp mà nuốt cơm.

Ðêm nọ Chí Ðại hỏi vợ rằng:

- Em có tính thử coi ngày nào đẻ hay không?

- Em tính chắc tháng tới đây, lối chừng mùng năm, mùng sáu.

- Em gần ngày qua lo quá. Mình không có tiền dư lại ở đậu với người ta, chừng em đẻ tiền đâu mà thuốc men. Còn em đẻ ở nhà đây, biết vợ chồng anh lon ton Thiệt có vui lòng hay không?

- Hổm nay vợ anh lon ton Thiệt theo biểu em đẻ ở nhà hoài. Song em nghĩ ở nhà bất tiện lắm, bởi vì nhà chật, phần thì anh không có ở nhà. Vậy em tính em vô nhà thương thí trong Chợ Lớn mà nằm, chừng cứng cáp sẽ về.

- Em tính như vậy cũng xong, bởi vì việc sanh sản qua không hiểu chi hết, nếu đẻ ở nhà qua sợ quá.

Qua bữa mồng năm, Chí Ðại muốn ở nhà với vợ, Bạch Tuyết nói rằng bụng chưa đau đớn chi, nên chắc là chưa đẻ. Chí Ðại yên lòng mới đi kéo xe.

Ðến trưa, may gặp mối đi Tân Ðịnh, anh ta thừa dịp ấy mới đi thẳng về nghỉ một lát, chừng sửa soạn ra kéo xe đi nữa thì nghe vợ nói đau bụng. Anh ta lính quýnh hối vợ lên xe đặng anh ta kéo chạy riết vô nhà thương.

Ðường tuy xa song anh ta lo quá, nên chạy không biết mệt. Vô tới nhà thương, cậy mụ coi giùm thì họ nói tới tối mai mới đẻ. Chí Ðại để vợ ở đó kéo xe đem về trả cho chủ rồi mới trở vô thăm vợ.

Ðúng bảy giờ tối, Bạch Tuyết sanh được một đứa con trai, tóc đen mắt lớn, coi mạnh dạn lắm, vợ chồng thảy đều mừng rỡ. Bạch Tuyết móc túi lấy đưa cho Chí Ðại mười hai đồng bạc mà nói rằng:

- Anh lấy tiền đây mà cất giùm chút.

- Tiền đâu đó vậy?

- Hai mươi mấy ngày rày anh đưa cho em nên em để dành đó, chớ tiền ở đâu.

- Vậy chớ em không ăn xài hay sao mà tiền còn dữ vậy?

- Anh cực khổ quá mà em ăn xài sao đành. Anh cất giùm tiền rồi chừng em về sẽ mua mền và mua vải may quần áo cho con bận.

Chí Ðại lấy tiền bỏ túi, nghĩ tới tánh tình của vợ lại càng thương hơn trước nữa. Bạch Tuyết nằm trong nhà bảo sanh mười ngày, Chí Ðại ở nhà ban ngày đi kéo xe, ban đêm rảnh vô thăm vợ thăm con, chẳng sót bữa nào.

Qua ngày thứ mười một nhà thương không cho nằm nữa, Chí Ðại mới kéo xe vô rước vợ con đem về. Bạch Tuyết cứng cáp, ăn ngon, ngủ được, nên về nhà ra vô như thường. Chí Ðại có con thì thêm một mối lo nữa, nên ngày đêm kéo xe không dám nghỉ.

Bạch Tuyết tuy mạnh, song quanh quất một mình chẳng có ai giúp đỡ ban ngày, phải nấu cơm mà ăn, ban đêm phải thức mà săn sóc con cực nhọc dồn dập nên chưa đầy tháng mà đã mang bịnh thũng. Chí Ðại thấy vợ đau thì lo sợ, chạy mua thuốc lăng xăng, có mười mấy đồng bạc dư đem ra xây xài gần hết mà bịnh không thấy giảm.

Bởi Bạch Tuyết đau nên sữa không được tốt. Con bú sữa ấy rồi cũng sanh bịnh nữa, nên ngày đêm không ngủ cứ la khóc hoài. Bạch Tuyết trong mình không giỏi dỗ con không được. Chí Ðại thảm thiết, không đành bỏ vợ ở nhà mà đi kéo xe, nên phải ở nhà bồng con cho vợ nghỉ. Thằng nhỏ không đủ sữa bú nên la khóc om sòm, Chí Ðại bồng con mà ru, hai hàng nước mắt nhỏ giọt. Chí Ðại không đi kéo xe năm ngày thì trong nhà không còn một xu, muốn mua cho con một hộp sữa bò thì không tiền mà mua, muốn hốt cho vợ một thang thuốc bắc, thì hốt chịu họ không hốt. Anh ta lấy làm bối rối, mới cậy lon ton Thiệt hỏi giùm cho năm đồng bạc, hứa góp mỗi ngày bốn cắc, góp mười lăm ngày thì dứt nợ.

Họ không chịu cho bạc rẻ như vậy, nài phải góp mỗi ngày năm cắc. Chí Ðại phần không thuốc cho vợ uống, phần không sữa cho con bú, túng thế quá nên phải chịu lấy năm đồng bạc góp nửa tháng, mỗi ngày góp năm cắc.

Lấy năm đồng bạc về thì lật đật đi mua một hộp sữa bò cho con và rước thầy coi mạch hốt thuốc cho vợ liền. Thằng nhỏ có sữa bú thì bớt khóc một chút, còn Bạch Tuyết có thuốc uống mà bịnh không thấy giảm bao nhiêu.

Chí Ðại đi kéo xe chưa được, mỗi ngày phải lấy số tiền mới vay đem về đó mà góp lại. Anh ta góp được ba bữa, nghĩ làm như vậy mình thiệt hại quá, mới năn nỉ với chủ nợ xin đình chừng nào vợ bớt đau, mình đi kéo xe được rồi sẽ góp. Chủ nợ mắng nhiếc một hồi rồi sợ làm gắt Chí Ðại trốn thì mất bạc nên giả lòng nhơn mà cho đình song buộc phải bỏ ba ngày đã góp rồi đó đi, chừng nào khởi góp lại thì phải góp mười lăm ngày khác.

Thằng nhỏ nhờ có uống sữa bò thì bớt khóc, nhưng mà uống sữa rồi nó sanh bịnh hạ hơi. Bạch Tuyết biết con không ưa sữa bò song bị đau nên không có sữa, bây giờ biết lấy chi mà cho con bú.

Mấy đồng bạc đi vay đem về đó, lẩn quẩn ít ngày thì đã tiêu hết rồi, mà Chí Ðại cũng chưa đi kéo xe được, Chí Ðại muốn vay thêm bạc nữa, ngặt mình hỏi trước mà chưa góp được, bây giờ ai dám giùm thêm nữa.

Thằng nhỏ không có sữa bú một ngày một đêm la khóc tắt tiếng. Vợ lon ton Thiệt thấy vậy động lòng, mới mua cho một hộp sữa bò. Vì thằng nhỏ khát sữa lâu rồi nên chừng có sữa nó đòi uống hoài. Uống mới hết một phần hộp sữa thằng nhỏ sanh bịnh kiết rồi ít ngày nó vong mạng.

Vợ chồng Chí Ðại ôm con than khóc nghe rất thảm thiết. Chiều lại Chí Ðại gói con rồi vác đi chôn. Một mình lui cui cuốc đất rủi cuốc nhằm ngón chơn cái, máu chảy linh láng. Anh ta rán đào lỗ chôn con rồi thủng thẳng cà nhắc đi về lấy giẻ rách nhúng dầu hôi mà nịt ngón cẳng cái lại.

Qua bữa sau, Chí Ðại khuyên vợ ở nhà, để mình đi kéo xe mà kiếm tiền. Nào dè cầm xe chạy được một mối, ngón cẳng cái đứt hôm qua đó chảy máu ra nữa, nên nhức nhối chạy không được, phải trả xe mà về. Chí Ðại nằm gác tay lên trán mà than với vợ rằng:

- Em ôi! Có lẽ tại qua bất nghĩa nên Trời Ðất mới phạt qua khốn khổ như vầy. Qua nghĩ tội qua đáng lắm, nên qua chẳng dám phiền hà. Qua buồn là buồn cho phận em, vì qua mà phải chịu cực khổ đến nước nầy, nên qua thấy em qua đau lòng xót dạ hết sức. Qua đã suy xét kỹ rồi, nên qua tính như vầy: em để qua đưa em về dưới ông ngoại, em ở cho an thân. Còn phần qua thì rán làm ăn chừng nào khá rồi vợ chồng sẽ tái hiệp với nhau, chớ qua nghèo khổ mà em theo qua hoài, thì tội nghiệp thân em lắm, qua chịu không được.

Bạch Tuyết ngước mặt ngó chồng coi bộ không vui, song hỏi dịu dàng rằng:

- Anh biểu em về ở với ông ngoại, rồi anh đi đâu?

- Qua tính xuống dưới mấy chiếc tàu buôn xin ở làm công, đặng đi cùng các nước coi chỗ nào dễ làm ăn thì ở mà làm, chớ xứ mình qua coi khó làm giàu được.

- Làm giàu mà vợ chồng phải lìa nhau thì làm giàu, mà chi?

- Chớ ở chung với nhau, mà em cực khổ quá như vậy, qua vui sao được?

- Anh thấy em cực khổ anh thương nên anh muốn tính làm cho thân em sung sướng phải hay không?

Chí Ðại day mặt vào vách không dám trả lời. Bạch Tuyết tay vuốt tóc chồng, miệng nói tiếp rằng:

- Thân em được như vầy thì em chẳng trông mong chi nữa. Phận em là gái, hễ có chồng thì phải theo chồng, may giàu sang thì chung hưởng, rủi nghèo hèn thì đồng cực với nhau. Anh tưởng thân anh ăn bữa đói bữa no, còn phận em mâm cao cổ đầy như vậy em chịu được hay sao? Anh muốn trọn đạo làm chồng, nên tính cho thân em sung sướng; em đây em cũng muốn trọn đạo làm vợ, há em đành để cho anh cực khổ một mình sao? Em xin anh từ rày về sau cứ coi em là con nhà nghèo hèn kết bạn với anh đặng lo làm ăn vậy thôi chớ đừng có coi em là con nhà giàu sang nào hết.

- Em vì thương qua nên không nỡ lìa nhau, nếu em không nỡ lìa nhau thì em phải chịu cực mãn đời còn gì! Em phải xét lại, trời sanh em đã định cho em vào chỗ giàu sang sung sướng rồi, tại anh làm quấy, nên thân em mới sa vào vòng khổ não. Vậy em hãy nghe lời qua, nếu em cãi thì qua buồn lắm.

- Trời mưa cũng có khi nắng, người nghèo cũng có lúc giàu. Ở đời giàu nghèo ai dám đoán trước được. Xin anh đừng có thấy ngày nay cực khổ như vầy mà ngã lòng.

- Không, phận qua làm trai, Trời muốn khiến thế nào thì qua cũng chiều theo thế ấy, qua có buồn chí nản lòng bao giờ đâu. Qua lo là lo cho thân em mà thôi chớ.

- Xin anh đừng lo cho thân em, mà đừng có tưởng tại anh nên em mới cực khổ. Ngày nay vợ chồng mình cực khổ đây, chắc là tại Trời Phật định như vậy, chớ không phải tại ai hết. Mà nếu muốn chỉ lỗi ra, thì lỗi tại em, chớ có phải tại anh đâu. Thôi, xin anh hãy an lòng; bữa nay bịnh em mười phần đã giảm được năm rồi, còn ngón cẳng của anh có lẽ ít bữa đây nó sẽ lành. Vậy để em mạnh rồi, em sẽ lãnh đồ may mướn, vợ chồng xúm nhau làm mà nuôi nhau, miễn là vui với nhau thì thôi, giàu nghèo cần gì.

Qua bữa sau hết gạo nấu. Chí Ðại không vay hỏi bạc tiền nữa được túng thế phải lại tiệm gạo Chệt Xỏn ở gần đó năn nỉ mua chịu. Chệt Xỏn bán chịu cho một đồng bạc, song giao năm bữa phải lại giã gạo cho nó mà trừ. Chí Ðại mừng rỡ, lật đật bưng gạo đem về.

Chừng nấu cơm chín rồi, ngó lại chai nước mắm đã cạn khô, Chí Ðại trong lưng không còn một đồng xu, biết lấy chi mà mua đồ ăn nên hỏi vợ lon ton Thiệt xin ít hột muối bỏ vào ơ mà rang, rồi đâm nhỏ ra vợ chồng ăn với nhau.

Cách ít ngày Chí Ðại đã lành ngón cẳng cái, nên đi kéo xe mà kiếm tiền.

[1] còn gọi là ngù ngà. Ngù là nắp tròn chụp lên trên cái chót. Gù ngà là cái ngù tròn bằng ngà voi có chơn răng để vặn ở guốc đàn bà. Khi mang người ta dùng ngón chơn cái và ngón giữa kẹp cái chơn ngù.

[2] hấp tấp

[3] (planton) tùy phái

[4] siffler: thúc kèn

[5] loại xe do một hoặc hai con ngựa kéo. Thùng xe thường có bốn chỗ ngồi đối diện nhau. Bên hông xe có gắn kiếng (kính) để che mưa gió, vì vậy gọi là xe kiếng.

[6] cooly, couli: phu khuân vác

---------------------------------------------