Góc Truyện Dài *Tình HOÀI HƯƠNG *Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhứt
Chương 1
Đời Lên Hương
Tết Nguyên Đán lại tưng bừng trở về trên thế trần rồi đó ư? Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao hớn hở hân hoan đầy ân tình gởi cho nhau quà giáng sinh, kế đến là mừng năm mới Dương Lịch với cánh thiệp nồng ấm thắm thiết tình người. Thú vị quá! Đối với Hiếu Hòa thì ngày Thanksgiving, Christmas, Noel… no iết, hay Tết Nguyên Đán nguyên iết gì gì đó... không còn nữa, như Nhất Tuấn với bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" mà cô rất thích:
. . . Mới bốn mùa Thu qua
Mimosa, Mimosa, vẫn nở...
Sao mối tình đôi ta,
Ai làm cho dang dỡ?
Đêm nay Noel đây,
Nhưng em không về nữa.
Ðường khuya mưa bay bay.
Mimosa, Mimosa, thôi nở…
Trong hồn anh đêm nầy…
Tháng ngày thấm thoát trôi qua mau, như bóng chiều câu qua song cửa, cho mình nếm trọn đủ nỗi cay đắng, niềm đớn đau thầm lặng cùng cực buồn nhớ, khiến Hoà chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây... Hồi nhỏ bé, trước thềm năm mới xa xưa ở thành phố khá lạnh xứ Đà Lạt, Hòa ưa theo ba má đi khắp nơi chúc tết chú bác dì dượng họ hàng. Cô nhỏ thích có nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, dù không biết xài tiền, nhỏ cất tiền lẽ trong bóp cái đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, nhỏ vui mừng khấp khởi tới khoe bạn trẻ, xem ai có nhiều tiền hơn ai thôi. Hiếu Hòa vui vẻ tụm năm tụm ba với bạn, niềm hạnh phúc ấu thơ là xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai bé lủng lẳng bông vàng lắc lư theo từng cử động vui mắt. Đêm đêm nhỏ nằm mơ cô hái hoa bắt bướm lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ.
Rồi tháng năm qua dần... cô em lớn lên với tà áo hoa màu rực rỡ, thời mới lên trung học cùng bạn lượn quanh phố chợ, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng bạn với ta phơi phới nét xuân thì. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay quá đỗi là mau. Nay, nắng mùa Đông sót lại nét hoen sầu rả rích từng giọt mưa phùn bay bay trên phố Đà Nẵng, điệu buồn êm nhẹ hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Hòa thấy nhớ những cánh thiệp tươi màu còn cất ở dưới đáy va ly, cô muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Ở tình bạn cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, xa xăm, lẻ loi khôn tả. Cuộc đời Hòa như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông bao la bát ngát. Còn con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả bạn và người thân từ từ xa (như con tàu chỉ dừng chân lại trước thềm lục địa, tạm nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng họ tươi cười thản nhiên về sự phản bội đó. Rồi con tàu lặng lẽ nhổ neo ra đi). Hòa không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu, mà buồn làm chi. Do vậy tình bạn có phần dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều cất lên bên sườn đồi, dưới giàn hoa thiên lý kế rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo… muốn đặt nơi nào cũng được, không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ phai lạt, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ cần thiết!
Buổi tối cô ở nhà anh chị Thương, (vì nhà ba má quê Mỹ Chánh đang lộn xộn, không yên ổn, cô sống nơi đó chẳng tiện). Hòa kinh ngạc khi nhận được thiệp của Phú, Đông, chị Hạc. (Phú giới thiệu Đông gởi thư cho mình theo kiểu bạn bốn phương, vì cô không hề quen biết Đông). Thật quá lạ, Phú nghĩ gì về tôi? Tự thâm tâm cô có nhiều điều đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hòa không nhớ mấy về ai, và quên mất mình đã quen thân Phú. Mừng rỡ cầm mấy phong thư vô phòng, Hòa ngồi lên giường mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn xong, anh đã nhập ngũ, nay làm việc tại ven biên tỉnh Khánh Hòa. Đi nghỉ phép ở Đà Lạt, Phú đến thăm chị Khánh, và xin điạ chỉ Hoà.
Thoáng thời gian ngắn ngủi qua mau, Phú có biết bao thay đổi, đầy hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẻ, hai bàn tay trắng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn. Hòa thấy có cái gì sắt cạnh đâm sâu trong lồng ngực vỡ vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia Hòa tưởng là không có ai có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy. Thuở xa xưa ấy gặp Phú, quen Phú, trái tim cô như cuộn giấy trắng tinh, chưa thâu nhận bóng hình ai. Thấy Phú đẹp trai, phong nhã, đa tình, và sao mà anh lãng mạn, lả lướt quá đi! Hòa sợ. Vã chăng, nói cho cùng thì lúc đó cô đã có cảm tình thân thiết với “cố nhân”. Không! Hòa chẳng muốn nhớ đến “tên ai”, dù kỷ niệm nhỏ nhặt gợi lên hình ảnh đẹp trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái trước ngưỡng đời mệt nhoài, hụt hơi đắng cổ đến bây giờ.
Mùa Đông xưa trôi tuột về dĩ vãng mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian chìm sâu từng ngày, từng ngày… vào ý niệm. Hòa từ Đà Lạt xuôi qua mọi miền, đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng, về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang, ra tới Bến Hải… Có thể suốt đời mình vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm dịu êm một thuở vàng son. Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ vẫn theo cô đến chân trời góc bể, nơi Hòa đã sống, vui buồn, mòn mỏi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hoà âm thầm, nhỏ bé như loài hoa cỏ may mọc bên lề viả hè trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm một thuở ru tình... Do vậy cô rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại trong đó có câu:
Nửa bước em về chiều nay tư lự.
Nửa bước em về ngày xưa tháng cũ.
Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
Thơ anh bỗng buồn viết mãi không nên
Chiều cũ ven mưa phố lạnh lên đèn
Tình yêu bây giờ làm sao xa cách?
Tình yêu bây giờ buồn thế sao em?
Cô Ba Thu năm nay ngoài năm mươi tuổi, sinh tại Hà Đông (miền Bắc) vóc dáng cô Thu mập ơi là mập, lùn xủn; cô siêng năng chăm chỉ lo làm ăn buôn bán, nên cô hái ra tiền. Cô hoạt bát, nếu không muốn nói là hơi quá lanh miệng dẽo mồm. Bạn thân thiết của cô Thu là cô Nga (suýt soát tuổi bạn, cô sinh ở Phát Diệm) thì ốm nhom, cao lêu khêu. Hòa ít khi nghe cô Nga nói cười, cô kín đáo siêng năng mà lặng lẽ. Sáng sớm mỗi người đi bán một ngả, người bán chợ Cồn, người bán chợ Hàn, tối họ về ở chung một phòng chật chội, ngủ cùng một giường. Họ bán những thứ hàng tạp hóa giống nhau. Chẳng bao giờ Hòa nghe họ ồn ào, bực bội nặng nhẹ to tiếng cãi cọ. Hai bạn già (“còn tơ” chưa bao giờ có chồng, nên cả xóm thân thiện gọi họ là cô) họ suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, mà thuở ấy Hòa chưa từng nghe người khác gọi họ là “lesbian”, “bóng biết, lại cái” chi cả! Họ là hàng xóm sơ giao của chị Huyền.
Hôm nay bỗng nhiên cô Thu qua nhà chơi, cô nói nhiều chuyện vui thật vui, rồi cô vào đề: xin chị Huyền cho Hòa đi phụ cô trông coi cửa tiệm vào tháng Tết. Cô cười:
- Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẩy! Chị đồng ý cho em Hòa ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
Chị Huyền nhìn em cười nói:
- Em tôi chưa đi học, nếu giúp cô Thu, cũng hay, em ha.
Hòa đã ỏn ẻn mỉm cười đồng ý. Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc, người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô Thu và Hoà bận rộn suốt từ sáng đến tối bán buôn không ngơi tay, nhưng Hòa cảm thấy vui, không phiền hà khi hoà mình theo lòng phố thị huyên náo. Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít bán hàng không ngừng tay, bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều thì hai chị em mới có thể nghỉ ngơi xí, họ chia phiên nhau vô góc tiệm ăn cơm, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến từ lúc mười một giờ, thức ăn bây chừ đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Hòa ăn chẳng thấy ngon lành, vì mệt quá.
Ngày thứ hai trước khi đi làm, Hòa ghé tiệm ảnh Phụng Ký lấy mấy tấm hình. Ngày thứ ba, hai chị em rảo bước trên phố thật sớm. Hòa mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít đen. Má đã mua cho con đủ mọi thứ cần thiết từ đồng tiền lao nhọc của mẹ cha. Vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn không có năm bảy lần được mặc áo mới đẹp nhứt, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười vu vơ, không nhỉ? Tiệm của cô Thu đông nghẹt khách mua hàng, Hiếu Hòa đứng sau quầy niềm nở cười cười, bán bán, trao trao.
Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, cô chợt nhìn theo mãi chàng trai ngồi sau chiếc Velosolex do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vô tiệm, họ cười hoài. Hai chàng cứ... “liếc mắt đưa tình” húc cùi chỏ cười đùa với nhau. Họ chưa dám dựng xe để vô trêu ghẹo con bé áo tím. Mặc cô Thu đon đả mời chào, và cô ấy sẽ nói huỵch toẹt ra, nếu ai có ý “lả lơi chọc ghẹo” Hòa, khiến khách đỏ mặt mà xéo bước mau. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì!
Thanh niên ngồi sau lưng bạn có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, làn da trắng trẻo, đôi mắt anh sáng ngời đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn với hai má lúm đồng tiền sâu hoắm, chiếc răng khểnh khép nép bên khóe môi phớt hồng, anh có nụ cười tươi mát đến ngã lòng người. Ah! anh có dáng dấp khá giống Phú ở nụ cười có hai lúm đồng tiền! Anh nhìn Hòa đăm đăm và quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi! Cuối cùng dựng xe trước cửa tiệm, họ vô mua bốn hộp mứt, hai lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, ba chai rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Năm dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Mười áo thun trắng, mỗi cặp có màu khác nhau, quần sọt cũng vậy.
Trong khi Hòa gói hàng, cô Thu loay hoay soạn mấy cái giỏ xách nhựa mới, hào phóng tặng cho họ mang mớ quà cồng kềnh về. Chờ Hòa ngẩng lên, “chàng thư sinh Bắc Kỳ” đẹp trai ấy lại khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, anh đá lông nheo "kịch kịch" với cô em vài ba cái, anh mới chịu khệ nệ bưng hàng hóa theo bạn ra về. Ơ hay! Anh lại gật gật gù gù nheo nheo mắt ướt vẫy vẫy tay chào thân thiết. Hai chàng to nhỏ điều gì, lại khúc khích cười cười mãi nữa kìa! Hòa mắc cỡ, hai má nóng bừng, cô vội vàng cúi xuống tủ kính, giả vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Hòa "không có đồng tiền bát gạo nào" làm sao dám khoe với ai! Hòa thấy vui khi tối hôm ấy cô Thu qua nhà chị đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
- Em Hòa giúp tôi mấy hôm nay, thú thật là em đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi sẽ trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, thì mỗi ngày một trăm, vì em sẽ thức khuya bán chợ đêm Tết, về nhà rất muộn. Ăn uống tôi lo hết. Vất vả đấy nhá. Ra Giêng, nếu em còn ở nhà, thì giúp tôi bán hàng, tôi đưa em mỗi ngày ba bốn chục thôi, tùy ngày bán được hay không, vì tháng Giêng là tháng “ăn chơi” sẽ ế ẩm mà lị. Chỗ chị em, tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hòa không giận tôi nhá.
- Em vừa ở quê vô đây... lưng chừng ngày tháng, chưa biết đi học lại ở trường nào, nên giúp cô cho vui, tiền nong gì. Cô Thu.
- Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? em Hòa có duyên bán hàng ra phết nhé, tiệm tôi đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu mua đồ, chả mặc cả kỳ kèo gì sớt. Buôn bán, tôi chỉ trông chờ có khách xộp điệu nghệ thế chứ. Tôi có nhờ hai cậu ấy ra Giêng đến mở hàng khai xuân đầu năm. À, chị nhớ cho em giúp tôi một tay nhá.
- Tùy em tôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
- Ối dào! Em cứ đi làm cho vui mà có tị tiền còm, chờ tới lúc em đi học lại, không phải tiện và tốt sao?
- Chị nói có lý. Tôi sẽ nói em suy nghĩ, sẽ trả lời chị sau.
Liên tiếp mấy hôm sau, hai anh kia vẫn thả bộ trên phố, rồi họ vô tiệm cô Thu mua cái nầy, cái nọ. Có lần “chàng đẹp giai” nhờ Hòa chọn hộ cà vạt. Hòa biết anh ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình nào có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua anh muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi. Hòa thấy sợ! Mặc dù quen họ với tính cách là người khách mua bán hàng. Có thể chỉ là bạn, hay là anh trai hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống, không thể đi xa hơn. Hòa như con chim non lìa đàn sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh, sợ cơn đau buồn điếng lặng khác ập đến, thì tình cảm sẽ tổn thương biết mấy.
Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình anh ấy thơ thẩn solo trên phố, dường như cố ý chờ đợi ai. Sau đó vô tiệm, anh phụ cô Thu treo đồ đạc khách chê, đã vất bừa bãi trong góc phòng. Dù một hai giờ khuya, anh vẫn chờ cô dọn dẹp xong, anh mời hai chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa" khỏi chi địa, là cô Thu khoái khẩu, vui vẻ nồng nhiệt tươi tắn hân hoan hẳn lên. Chuyện gì cô cũng tốt, nhưng việc tiền nong thì: "tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cổ chày ra nước mà lị". Cô Thu vẫn nói thế với ông chủ cho cô thuê nhà mà. Có người khách không mời bỗng dưng đêm đêm đến giúp một tay, cô Thuận khoái tỷ vì chả mất tiền công, anh lại khỏe mạnh, nhanh nhẹn, xốc vác khá được việc.
“Ảnh” còn hào phóng mời hai chị em nhiều bữa ăn tối, ăn khuya… hậu hĩ quá chừng. Họa có điên hay sao mà cô Thu không nhận lời chứ. Chuyện trò vui vẻ hồn nhiên "thái mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô Thu cũng mời lại "con người tốt bụng ấy" tô bún bò giò heo, tô hoành thánh mì, chén chè, dĩa xôi. Vã chăng, cô Thu nhận thấy nếu cứ làm cái trò tình vờ phớt lờ… muối mặt ăn hoài của người ta, như ngầm ngầm lợi dụng chàng trai “dại gái”, cũng kỳ kỳ, ngượng ngùng bẽn lẽn sao sao ấy! Hiếu Hòa đi theo họ vào tiệm ăn như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi thân mật chuyện trò với ai, khiến cô Thu nhăn mặt, ghé miệng qua tai Hòa nói nhỏ:
- Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ. Chả biết.
Vì phép lịch sự, Hòa vờ lắng nghe anh ấy giới thiệu tên, nhưng thật tình nhỏ không nhớ rõ anh tên gì. Hòa nhút nhát rụt rè không dám hỏi lại, e bất lịch sự, sợ anh nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Trời đất ơi còn cô Thu chê em là con nhà quê vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó sao? Thế, cô tưởng em còn "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ ấy chắc? Hòa ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô Thu ân cần nói:
- Cậu Toàn Thắng là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn. Em nên vui tươi nhã nhặn một tị nha. Suốt buổi ăn em cứ xụ mặt xuống, trông thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!
Hôm sau quên lời cô dặn, Hòa vẫn buồn xo, lặng thinh, nên cô Thu nhích tấm thân phì lũ lết đít gần tới bên Hòa, cô khẽ húc một cái vô hông Hòa. Giật mình, Hòa vội nhăn răng ra cười rõ tươi. Trong khi anh đang bình luận chuyện thời sự, chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui, để cho em cười như reo thế. Ngạc nhiên, anh im bặt nhìn Hòa đăm đăm. Có lẽ anh nghĩ cô nhỏ nầy có dòng máu lãng lãng, khùng khùng, điên điên, chi chi đó nhỉ!? Cô Thu liền quay qua Hòa, lén thò bàn tay mũm mĩm xuống gầm bàn, dùng mấy ngón tay mập ú bấm bấm cào cào vô bên đùi Hòa, khiến em cảm thấy nhột nhột đau đau, nhưng không dám nhúc nhích, hoặc cười ruồi. Cô thì thầm:
- Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
- . . .
Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ những ụ rác to tướng, họ đem đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, hân hoan nồng nhiệt vui vẻ đón chào năm mới cổ truyền khá tưng bừng háo hức, trên những cành mai vàng tứ qúy nở hết cánh đẹp ơi là đẹp. Giao thừa và Tết Nguyên Đán lại đến. Bây giờ là ngày mồng hai tết, Hòa ghi tên dự thi hoa hậu, do Sư Đoàn 2 tổ chức tại hội chợ "Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ" bên Sơn Trà. Vì Hoà còn quá nhỏ tuổi, nên anh Thương (chồng chị Huyền) bắt em phải chạy xuống nhà anh Thuận ở đường Đống Đa, để anh trai ký giấy chấp thuận cho phép em đi thi (như ban tổ chức tại Sư Đoàn 2 yêu cầu).
Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng cuồn cuộn như vũ bão, khi lả lướt êm đềm nhẹ nhàng lâng lâng như mây khói sương lam. Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa đầy rung cảm, tạo thành âm điệu trầm bổng tuyệt vời, do ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, đã phủ chụp lên tâm hồn cô nhỏ vốn đa cảm, những dòng âm thanh rì rào, lâng lâng, ngất ngây, táo bạo và run rẩy. Sự tưng bừng huyên náo nầy khuấy đảo lên tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hòa phập phồng bối rối, băn khoăn, âu lo. Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, còn có năm người bạn mới, cũ, cùng khán giả đông nghẹt nồng nhiệt cổ võ, thì Hòa vững tin cố gắng hết mình.
Khuôn mặt Hoà để tự nhiên không hề biết dùng chút phấn son trang điểm, xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buôn làng Mnông rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nhiệt liệt hoan ca rất nhiều. Sau vũ điệu tưng bừng sôi động giật gân, Hòa phải hát một bài tự chọn "Nắng Chiều" của Lê Trọng Nguyễn. Vì khá mệt trong điệu nhảy "hùng hồn" mà hoang dại, nên Hòa vừa ca vừa thở, nghe dỡ ẹc. Đồng thời em phải trả lời năm bảy câu trắc nghiệm vấn đáp hóc búa, cùng các thích ứng thông minh mau lẹ khác. Hiếu Hòa lo mình kém tài, sẽ gây nên cảnh lố bịch đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói; sẽ hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy!
Đứng trên sân khấu có 84 vị xinh như mộng, tươi như hoa đang dự thi. Tất cả chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Họ và Hòa đã vượt qua vòng sơ kết. Rồi đợt hai còn bốn mươi cô lọt vô vòng bán kết. Đợt ba có mười lăm người may mắn vô vòng chung kết. Những ai bị loại bỏ thì buồn xo, len lén cúi mặt lủi thủi bẽn lẽn đi xuống. Số người còn nuôi hy vọng được đứng lại trên sân khấu, thì reo hoan tươi cười ôm nhau nhảy tưng tưng, giống trẻ con ghê, mặc dù cô nào cô nấy từ mười lăm đến “hâm” đi hâm lại xấp xỉ tới bâm mí tuổi rồi. Những cô còn đứng trên khán đài đã được ban điều hành mời họ qua đứng hai bên cánh gà tả và hữu. Hòa hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ ngày đầu năm mới mà bị ném cà chua, liệng trứng thối, bị xịt nước dơ đuổi xuống khán đài, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm chứ chẳng chơi.
Còn lại hai cô kia và Hòa là người cuối cùng đứng giữa khán đài rộng mênh mông. Giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Cuộc đời Hiếu Hòa dường như thăng hoa, từ khi đại diện ban giám khảo đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi, băng trôn đeo hàng chữ Hoa Hậu Cây Muà Xuân Chiến Sĩ. Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhứt, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay, năm ngàn đồng tiền mặt, do Đại Tá Lâm Văn Phát trao tận tay. Số tiền khá lớn, (khi lương lính bấy giờ một tháng chỉ có 1.200$).
Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Lòng hân hoan vui vẻ kinh khủng, Hoà mừng rỡ không thể tả nỗi. Mọi người ùa đến chúc mừng, bất kể lạ hay quen, họ chen lấn nhau đứng bên nhỏ xin chụp ảnh chung. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn quen phải nhảy lên sân khấu đứng gần Hòa, đưa hai tay ra che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim cô bừng sống, bay lên tận mây xanh, Hòa cười liên miên, vui mừng, luôn miệng nói cảm ơn mọi người đã gởi đến Hoà lời ưu ái chúc tụng nồng nhiệt. Ồ! Định mệnh đã đưa đến tay mình những cao qúy tươi đẹp nhứt trong đời tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không có ngôn ngữ nào có thể diễn đạt hết tâm tư Hoà mừng vui cuống quít kinh khủng. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho cô một kẽ hở vô cùng niềm nở, tuyệt vời, trân qúy, thân yêu nhứt đó mà. Hoà không biết để tri ân mà tạ ơn Ngài.
Hòa háo hức nhón gót nhìn quanh, cố ý tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao” ấy đã đến chúc mừng vinh quang “bạn”. Lần đầu tiên, bây giờ Hòa mới có dịp nhìn kỹ anh trong bộ quân phục đại lễ mùa Đông oai hùng. Ah! Thì ra anh là lính ở văn phòng, coi anh thật lạ hơn mọi lần, chứ không phải thư sinh bạch diện như cô đã nghĩ lầm! Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên: Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ có một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn, tay anh cầm chiếc mũ casket. Bây giờ nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, Thắng đứng nói chuyện bên mấy người quen mặc cevil, Hòa thấy họ khác lạ như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Thắng gật đầu chào Hoà, cười thân ái:
- Thân chào Hiếu Hoà. Ngồi làm khán giả, anh nghĩ thể nào em cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Anh rất hân hạnh chúc mừng Hòa nha.
- Cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan.
- Như anh, có ngờ đâu anh quen biết với một hoa hậu kìa.
- Ban giám khảo thấy em tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho lầm.
- Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thật mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, anh cũng thích tôn trọng sự thật hơn.
- Điều đó quý lắm chớ.
- Là thế. Mong em giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay nha.
- Hòa cảm ơn anh nhiều.
Thắng nhìn Hòa cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhứt đời mình đã để lại trong lòng cô tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hòa lâng lâng, xúc động, ngất ngây niềm vui bất ngờ khi bỗng nhiên mình được thành công chói sáng, hiển đạt không dám mơ. Tim Hòa rung lên từng hồi theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, muốn hụt hơi, khiến cô hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện. Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhứt là từ nay, cô có thể ngẩng mặt với đời chút xí, phụ chị ít tiền cho gia đình chị bớt khó khăn (sau ngày cháu bé con anh chị vừa mất). Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn ban tổ chức cho mở cuộc thi. Cám ơn ban giám-khảo và Sư-đoàn 2 Bộ Binh. Cám ơn gia đình chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, & bạn hữu thân quen rất nhiều.
Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông đi theo, còn có anh em Trịnh Trần, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc, đã đưa chị em Hiếu Hòa từ bến Sơn Trà, lên phà qua sông về đến tận ngỏ nhà. Đêm bây giờ tuyệt đẹp, đêm không u sầu không hoang liêu, đêm không ủ dột không lo âu, không còn hãi hùng đau thương do chiến tranh tàn phá, không phải đói khát nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu, mà là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao lấp lánh, huyền diệu trên bến Ngân Hà. Dù không có Thắng tiễn đưa Hòa về nhà như mọi ngày từ tháng Chạp vừa qua. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn 2. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao! Đúng lúc đời Hoà lên hương, Thắng lên sân khấu ghi tặng Hòa bài thơ:
“Dạ thưa!” người con gái khá ngoan hiền.
Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
Gió sớm khuya chiều viền quanh môi thắm.
E ấp ngập ngừng đồng tâm bẽn lẽn.
Khao khát trao em tình mến thầm hẹn.
Ngày anh đi mây xám lén bên thềm!
Cung đàn nhè nhẹ sáo diều êm êm.
Chiều xuống xua bóng đêm vờn quanh núi.
Tình tha phương với túi thơ ngậm ngùi…
Bãng lãng gót son bụi bờ tư lự.
Thơ người lữ thứ trao niềm an thư.
Dẫu trăm năm xin nồng nhiệt tương tư.
Mắt em nhìn là rung lên vạn ý,
Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
Tha thiết lắm. Ôi! Tình em gái nhỏ... (*)
- Ố... ồ ô! Thì ra Hòa hân hạnh quen biết với một quân nhân thi sĩ! Vui lắm thay.
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Anh “Khanh Tướng Công Hầu” Vui Tính
Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhứt
Chương 2
Anh “Khanh Tướng Công Hầu” Vui Tính
Lúc vẩn vơ tần ngần nhìn đám mây trắng lâng lâng trôi trên bầu trời quang rạng, bị ngọn gió vô tình đưa mấy chiếc lá vàng bay về cuối góc đường xa xa, thì Hiếu Hòa quyết định chọn sống ở Đà Nẵng cùng với anh chị Huyền. Điều tất yếu là cô cần tìm hiểu sơ sơ qua đôi chút về phong tục tập quán nhân sinh, địa hình nơi ấy, ngỏ hầu hy vọng mình sớm vui vẻ hoà nhập vào một miền đất đối với riêng Hoà vừa lạ vừa mới.
Khi “Liên Bang Đông Dương” Pháp ghi tên danh địa nầy là Tourane, thành lập từ năm 1888. Phác thảo sơ lược về Đà Nẵng, thì địa hình đa dạng tự tại an ngự ở trung bộ, hướng Tây và Nam giáp Tỉnh Quảng Nam. Bắc giáp Tỉnh Thừa Thiên, Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng có các Quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hoành Sơn, Liên Chiểu, Hoà Vang & quần đảo Hoàng Sa. Tuy Đà Nẵng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa khô và mùa mưa, nhiệt độ trung bình khoảng 30/o – 34o/C, nhưng không mấy oi bức ngột ngạt, vì có con sông Hàn Giang dài khoảng 7,2km chảy từ Nam lên Bắc thành phố, có biển Thanh Bình cách trung tâm thành phố chỉ vài km, & do thành phố ở bên nách sông Hàn và các biển gần & không xa, nên Đà Nẵng có phần mát mẻ dịu êm vào mỗi sáng sớm, hoặc chiều về, đêm buông.
Đà Nẵng thuận lợi về trục giao thông, tiện đường bộ trên quốc lộ 1A & đường xuyên Việt, quốc lộ 14B nối cảng biển với Tây Nguyên: đường biển, đường sắt, đường hàng không… đều là huyết mạch từ Đà Nẵng. Nói nôm na Đà Nẵng có thể coi như là “cái rốn trung độ” của miền Trung (nói riêng) và miền Nam Việt Nam (nói chung), vì nó nằm ở vị thế chính yếu quan trọng khi đối nội, điều phối trung tâm với miền Trung, Tây Nguyên. v.v… Đối ngoại dễ dàng thiết lập đường bay với Manila, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Phillippine, Thái Lan, Đài Loan… Đà Nẵng là một thương cảng tốt, là trung tâm có cửa ngỏ thương mại vô cùng quan trọng cho cả nước Việt Nam (lớn vào bậc nhứt ở các vùng Tỉnh phụ cận), cảng biển Tiên Sa sâu, (phi cảng Đà Nẵng đứng sau Tân Sơn Nhứt, vượt trội không thua kém Vũng Tàu, Nha Trang).
Đà Nẵng là thành phố đẹp oai sang với những ngôi biệt thự xinh lịch & nhiều toà nhà tráng lệ từ thời Pháp thuộc bỏ lại. Ven ranh có đồi dốc quanh co ở Huyện Hòa Vang xen kẽ vùng đồng bằng trù phú. Núi Mang cao 1708m, núi Bà Nà 1487m, đèo Hải Vân cao 500m. Núi Chúa, núi Ngũ Hoành Sơn cao 106m. Núi non phóng khoáng nhìn xuống tứ phương.
Biển Nam Ô xa thành phố 17km ở Phường Hoà Hiệp, hướng Tây Bắc. Biển Mỹ Khê xa thành phố 900m, không sâu, có phong cảnh êm đềm tĩnh mịch, cát trắng mịn, nước biển ấm với hàng dừa rũ bóng, đặc biệt nơi đây có nhiều rong câu chỉ vàng, rong câu chân vịt, có loại cá Chuồn làm gỏi trứng cá, thì ngon lắm. Có nhiều san hô đẹp. Biển Tiên Sa có bờ cát mịn ở phía Bắc Sơn Trà. Biển Non Nước bao la mênh mông nằm dọc ven chân núi Ngũ Hoành Sơn, có rặng phi lao ngày đêm lao xao theo tiếng rì rào sóng vỗ bờ trong thiên nhiên hữu tình. Biển Mỹ An xinh xinh nho nhỏ ở Quận Ngũ Hoành Sơn.
Đà Nẵng có nhiều di tích, cảng sông Hàn Giang, Liên Chiểu, sông Túy Loan, sông Cu Đê… Nhà thờ, chùa chiền, am tự, v.v... di tích lịch sử dân tộc Chăm… Tất cả những gì thuộc về Đà Nẵng đều độc đáo, thi vị, duyên dáng nét đặc thù nên thơ riêng! Nổi bật nhứt là các doanh trại… trong số đó có Sư Đoàn 2 Bộ Binh (2nd Infantry Division) được thành lập vào ngày 03 tháng 11 năm 1953 tại Mỹ Côi, Ninh Bình (là Liên Đoàn 32 lưu động cuả quân đội Liên Hiệp Pháp. Sau đó Pháp bàn giao lại cho ông Tôn Thất Đính, đổi tên thành Sư-đoàn 2 Dã Chiến). Khi nền Đệ Nhứt Cộng Hòa thành lập, thì lúc đó ông Tôn Thất Đính (đã thăng lên Đại-tá) bàn giao Sư-đoàn cho Trung-tá Đặng Văn Sơn ngày 22-11-1956. Ngày 1-12-1957 thì Trung-tá Lê Quang Trọng đảm nhiệm Tư Lệnh Sư-đoàn.
Ngày 1-12-1958, Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 2 đã chính thức đổi tên thành Sư-đoàn II Bộ Binh VNCH, là một trong ba đơn vị Chủ Lực Quân, trực thuộc Quân-đoàn I và Quân-khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sư đoàn 2 được tuyên dương công trạng, nhận lãnh giây biểu chương màu tam hợp trên quân kỳ Sư đoàn. Hiện nay Sư-đoàn 2 Bộ-binh đặt bộ chỉ huy chính ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Tư-lệnh Sư-đoàn 2 Bộ Binh do Đại-tá Lâm Văn Phát đảm trách từ tháng 6-1961. Tại nơi nầy, Hiếu Hòa hân hạnh quen thêm các anh khác, (bạn của Thắng). Họ đã:
Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ nần.
Nặng nề thay hai chữ “quân thân”,
Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ.
Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt,
Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
Hết bốn chữ “trinh trung báo quốc”.
Nghiêng mình những vì dân vì nước,
Túi kinh luân từ trước để về sau.
Nghìn thu một tiếng công hầu. (1)
Thắng hiên ngang oai hùng đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, dây biểu chương tam hợp móc bên trái, gù vai đỏ. Anh đến nhà đón Hiếu Hòa đi dự lễ mừng Quân Lực VNCH đã chiến thắng, diệt tàn quân việt cộng phương Bắc lẽn vô quậy phá miền Nam, trận đánh diễn ra ác liệt tại vùng Tiên Phước, Trà My. (Đà Nẵng, Quảng Nam). Đây cũng là dịp chào đón các thượng khách. Không phải là chờ xem buổi đại lễ long trọng, mà cô cùng dân chúng dám bất bình la ó om sòm, khi trải qua ba giờ chầu chực mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang. Thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công!
Nhứt là có ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn, Đại tá Tư Lệnh là cố vấn William làm quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên đến Việt Nam, được ông Tỉnh-thị Trưởng kiêm Tiểu-khu Trưởng lo hành chánh và quân sự, mời họ tham dự. Hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ (trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay hoà hảo mật thiết). Cờ Mỹ năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta. Đó là những kinh viện và quân viện -một nhu cầu chính trị khôn khéo, để thực hiện giai đoạn "hoà hảo thân thiện" then chốt đầu tiên-. Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời! Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở mút bên bờ đại dương xa xôi nầy, cũng được Mỹ ưu ái đặt mắt nhìn ngắm đến. Không hiểu họ có muốn đổi chác, nghiên cứu, dòm ngó gì tới xứ Việt Nam, hay không kỳ vọng mơ tưởng mảy may... mà họ chỉ muốn nhân đạo hào phóng cho đi tất cả (?!).
Tự dưng Thắng cúi xuống gần Hòa, anh thì thầm:
- Hẳn là em có xem phim “Midway” đang chiếu ở đây rồi, phải không nhỉ? Phim ghi lại cuộc hải chiến giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ ở trận “Battle of Midway” trong Thế Chiến Thứ Hai, thì Đô Đốc Hải Quân (của Nhật Bản Yamamoto), khi đoàn quân thắng trận ở Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), ông phán một câu xanh dờn:
- Tôi lo sợ những gì chúng ta đã làm, là đánh thức một gã khổng lồ đang ngủ, và trao cho ông ấy một ý chí khủng khiếp. (nguyên nghĩa tiếng Anh: I fear all we have done is to awaken a sleeping giant and fill him with a terrible resolve). (!!!, ???)
Các vị hành pháp, tư pháp (“mũ mão cân đai” chỉnh tề) đi sau vị chủ toạ, những “ôn” quyền uy bệ vệ đủng đỉnh lên khán đài chính. Quý phu-quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với chiến thắng tài danh lẫy lừng, đã đành thế! Nhưng kèm bên qúy phu nhân thủng thỉnh kiêu sa, đài các qua mái tóc búi quá cao đã làm kỹ ở ngoài tiệm, quần là áo lụa chưng diện sang trọng rực rỡ và thơm tho, theo mốt cổ áo hở toẹt vai, toác hoác xề xệ như mốt bà Nhu, cốt yếu khoe yết hầu đeo kim cương bự sư, cổ xệ xệ tới gần hai đường khe của bộ ngực thổn thện đung đưa, là dịp để quý bà phô trương thân hình úc núc giàu bơ sữa, khoe vòng vàng rườm rà từng xâu, lủng lẳng từng chùm sáng chói.
Qúy phu nhân không là gì ngoài dựa hơi hám vai vế chồng, một bước bà ta nhảy tót lên sàng danh vọng, bộ mặt vênh váo tô trét diêm dúa phấn son dày cui, ưỡn cặp vú bơm silicon, có bà sữa mắt hai mí đã lồi và trợn lên như mắt ếch, mũi hếch độn nòng không khéo, nên coi lộ liễu, bơm thừ lừ “cằm đôi môi chẽ” trề ra quá lố, mỗi khi họ nói cười hoặc ăn uống, thiệt dị hợm. Họ dương dương tự đắt nhoi nhoi lắc lư cái đít sung túc béo bở phì nhiêu lên... coi "khêu gợi khiêu khích"... sự dật dờ lả lơi thèm khát mấy gã xồn xồn "biết nhiu" mà kể!!! thì bố ai chịu cho nỗi hỡi quý phu nhân ui! Mặc sức cho đám phu phen, dân ngu khu đen (như Hạnh mà cũng... đứng dưới khán đài nầy há hốc miệng ngẩn ngơ thèm, thộn ra nhìn quý bà chằm chằm; thiệt đã con mắt quá đi). Các "ôn thần" chớp chớp mắt lia chia nhìn suốt từ trên xuống dưới bộ quần áo mỏng dính; như kỳ lân đá ngày đêm nhìn trời nhìn hiu quạnh không chớp mắt. Khán giả đứng chầu ở dưới tha hồ lỏ trăm ngàn con mắt nhìn lên "quý mệ" mà chỉ chỏ.
Ôi thôi… họ bàn tán lộ liễu, trắng trợn và bất lịch sự quá chừng, lấn át tiếng người xướng ngôn viên gào lên trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Hoà cũng không trách đám "phu phen bình dân giáo dục như mình" làm chi, bởi vì ai ai cũng được coi chùa, tội gì không ngó có mà ngu! Thì cứ tha hồ dòm cho đã... các nơi nghe! Khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới chịu im lặng đứng yên. Riêng đám dân gian mãi lo đứng thộn ra ngắm cặp vú trái bưởi ưỡn ra trước, cặp mông diêu nhô phía sau như cái thúng úp vô đít, thì dân gian cũng có vỗ tay vài ba nơi vang lên lẻ tẻ đấy, nhưng quá rời rạc, lổng chổng. Họ vỗ tay không nhiệt tình hưởng ứng, mà do “bổn phận, miễn cưỡng” của kẻ thấp cổ bé họng, thì đúng hơn. Buổi lễ long trọng càng kéo dài giống như bất cứ buổi lễ nào khác. Gió lộng xô đầu bù tóc rối, áo quần ai nấy đều bám bụi vàng, mặt mày bơ phờ mệt mỏi hốc hác; đồng bào chán ngán thở phào, như trút xong gánh nặng đè vai, họ vội vã về trên các ngả đường nghẹt cứng ứ nghẽn người tất bật lo chạy ngược xuôi kiếm sống.
Tiện cùng trên một đường đi, nên Thắng mời Hòa rẽ qua nhà anh cho biết. Thắng ở chung với ba anh bạn độc thân vui tính (và một anh vừa cưới vợ, vợ còn ở xa). Căn nhà thuê bao đủ tiện nghi, vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm ngoái hai anh ấy đi sắm đồ dùng cho bạn: thứ gì cũng có năm màu sắc phân biệt khác nhau, (mà lúc ấy Hòa nghĩ là hai ông khách nầy ưa làm đỏm, chải chuốt mà khó tính). Họ đang bàn tán về lần đảo chánh thứ nhứt ngày 11-11-1960, do Đại-Tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ-Huy-Trưởng Nhảy Dù + Trung-Tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các Thiếu-Tá Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Đại-Úy Phan Lạc Tuyên, Bác-Sĩ Phan Quang Đán... Lần thứ nhì gần nhứt do hai phi công Việt Nam: Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn Văn Cử đã ném bom bắn cháy dinh Độc Lập vào hôm 27 tháng 2 năm l962. Một quả bom không nổ rơi trúng phòng đọc sách của Tổng-thống Diệm, khi cụ đang ngồi đọc sách, thế mà tổng thống chả việc gì. Bà Nhu bị gãy một cánh tay. Một quả bom khác rơi ra ngoài sân dinh. Một lúc sau phòng-không mới bắn trả lên. Phi cơ ông Quốc bị trúng đạn, ông nhảy dù ra rớt xuống Nhà Bè. Ông Quốc bị bắt tại trận và vô tù. Còn ông Cử bay mút qua bên Nam Vang, nhưng dân chúng bàn tán: ổng cũng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!
Chuyện dội bom gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhứt là đời sống dân cư đang an lành; bỗng chốc ngơ ngáo kinh dị bàng hoàng thêm. Chả hiểu vì sao!? Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh, do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ, người đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhận. Thắng chua chát nghĩ thầm: “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí”. Có nghĩa là: “Làm tướng mà thua trận, thì đừng nói những câu có vẻ anh dũng. Làm quan mà bị mất nước, thì đừng nói những câu ra vẻ tài trí”. Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyển đề tài, niềm nở tiếp chào Hòa. Sau khi giới thiệu cô với bạn hữu ở chung nhà, Thắng nói:
- Mời em ngồi, anh vào thay bộ quần áo nặng nề nầy, rồi ra ngay. Xin lỗi em!
- Dạ vâng, anh cứ tự nhiên.
Bốn anh còn độc thân, có anh Lê Tiến là đỉnh đạt về tuổi tác cũng như binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi hai tuổi, tuy thế Hòa trông anh còn nét trẻ trung, vui tính. Anh Đào Ngũ Quang, hai mươi bảy tuổi: Thiếu úy Hải-quân. Kế đến là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng hai mươi hai tuổi, Bộ-binh. Anh Vương Quốc Tùng: Trung-úy Y sĩ Quân Y vừa có gia đình. Sau rốt anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân:
Anh chỉ là quân nhân Biệt Động
Đang thi hành "diệt Cộng an dân"
Nhọc nhằn nguy hiểm bội phần
Mưa bom lưới đạn xả thân diệt thù (2)
Anh Tiến nhìn Hòa nháy mắt, để trêu chọc anh Tùng:
- Hiếu Hòa biết không! Anh thích làm nghề mỗ tim gan phèo phổi. Không phải như bác sĩ Tùng. Mà anh í hả! anh thích mỗ thịt bò, heo, ngựa, thịt dê... cơ!
- Để làm gì cha nội?
- Lấy tim, bao tử, ruột non, ruột già làm phá lấu. Ăn ngon nhứt nhĩ à nha.
- Ngưởi thì hôi, nhìn lại ghê quá.
- Ấy. Sao toa nóng quá vậy, hở Quang? Để yên moa nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dô miệng mình. Còn hứng thú đâu mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, là toa khóc ré thế?
Quang (Quang là người đã chở Thắng đi mua sắm Tết, mà Hòa biết mặt) pha ly chanh đá bưng ra mời cô. Ngồi trên ghế nệm, anh tủm tỉm cười đùa:
- Á à a! Chả vì lúc đó tôi lười học, ăn chơi lêu lổng, hoang đàng chi điạ, đếch có tấm bằng nào, dù tuổi mình cao cao, vẫn ưa ở nhà bu theo bố mẹ. Tôi trốn chui trốn nhủi như con dế mèn trong cái lu dấu kín nơi góc phòng tối, để luyện "tịch tà kiếm phổ", coi thật chẳng giống con giáp nào. Bao giờ đói, tôi kêu inh ỏi re re ré… Đã bảo là con dế mèn mà không re ré sao nhỉ? Thế là có người nhà bưng cơm canh hầu tận chỗ. Đã nhe. Ngon lành nhe. Le lói nhe. Mẹ kiếp! Tôi chả trốn được bao lâu, thì cảnh sát đến nhà lục soát. Họ nắm tóc lôi giật lên, mang tôi về đồn bót. Họ hỏi cung tới tấp:
- Anh có yêu đồng bào, yêu gia đình không?
- Yêu.
- Yêu lính tráng không?
- Có.
- Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh không?
- Rất sẵn sàng.
- Hãy chuẩn bị đi lính.
- Không.
- Tại sao? Anh nói rằng: anh yêu nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
- ... Tôi lỡ dại vãi vào đấy bao nhiêu nước ...tiểu, khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Ngài coi tôi bước đi nè: có phải một chân là dấu chấm, một chân chấm phết, lê lết, te tua, tàn tạ, tiều tụy, tả tơi thối tha từ tiểu tiện, hay không hì.
- Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được đa. Tôi hỏi anh có yêu "Nước" không?
- Nước?
Chữ Nước viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc. Đất Nước. Quê Hương, chớ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chưa?
- Lỡ vênh váo rồi, tôi cho tới luôn, tiến lên, dọt lên, hứng lên, chứ có gì mà sợ! mà rét… mà run hì! Có sức chơi, thì có sức chịu, cứ liệu mà chơi:
- Ô! Ông nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à!
- Anh nầy giỏi quá ta.
- Có điều tôi chán ghét gây thù hận, giết chóc, máu huyết thổ ra có vòi, coi chóng mặt kinh hồn lắm. Tôi không thích tham dự. Thế thôi.
- Bây giờ, tôi mời anh đi.
- Đi đâu?
- Đi lính.
- Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
- Họ nghĩ tôi ngông cuồng, hay thần kinh bất ổn bấn loạn, khùng điên gì đó, nên anh kia cho ngay con số tám vô hai cườm tay tôi, kêu cái cộp. Ui cha ơi đau điếng thấy tới tổ tiên ông bà vãi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy mình hết giả đò thương tật, chân không cần đi điệu tango, bì bộp, cha cha cha... nhún nhảy nữa rồi. Cũng may là họ chưa tống cổ tôi vô nhà thương Biên Hoà, nếu bị chích vài mũi thuốc, chắc tôi ngoẽo thì chết cha đời trai!
Lúc ấy tôi hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức bên ta. Tại sao nà!? Giờ ăn cơm tù có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu có lính ôm súng gác lom lom dòm tôi. Nếu họ không dòm, lỡ tôi trốn chui trốn nhũi như con nòng nọc lặn sâu tít xuống hồ, thì sao! Giờ ngủ có lính đổi canh. Do tôi nghĩ: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. [Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lì, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy. Albert Einstein (1879-1955)]
- Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho ta. Ah! Nè các bạn! “ngũ quang” là có năm con đường tươi sáng rạng rỡ í. Cơ khổ! vì cái họ tôi trót lỡ là “Đào” chả hiểu sao ông cụ lẩm cà lẩm cẩm, đặt ngay tên đệm là “Ngũ”; thành thử vô tình tôi trở thành tên “đào ngũ”. Cha chả! nó ám ảnh tôi triền miên cho tới ngày ra khỏi lu, là tôi ngậm ngùi ca “những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt...” Ấy mà sau nầy tôi đi lính, thì nghiêm trang, đàng hoàng, sự thực “ta” đếch cần đào ngũ nhe, lẽ là tôi rất yêu mến đồng đội, đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Tôi mong thăng cấp như thằng Chiến, bạn nối khố nè.
Còn về việc khóc hu hu, thì đơn giản thôi, tôi đa tình, lãng mạn, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và da diết yêu cô bồ nho nhỏ ở phương xa. Tôi không được khóc đấy phổng? Nè bạn, muốn thoát ra khỏi những đau thương dằn vặt dày vò trong quá khứ, khi không có cách nào che chắn lại dĩ vãng buồn đau, thì ta phải cố gắng vượt qua rất nhiều đợt huấn luyện, thế là thân và tình cũng mềm ra, tôi nghiền ngẫm, suy nghĩ, thẩm thấu soi rọi một trong năm ba dữ kiện và sự kiện, mà mình từng nếm trải, cùng những chia sẻ ngọt bùi đắng cay và thân tình ấm áp trong cuộc sống, thì... phải vậy thôi.
Họ cười ha ha, hả hả, hí hí, khà… Quang muốn nhảy dựng lên chơi giựt nổi với đời, anh muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích lên mặt lấy hên dợt le xí, phừng phưng nổ những pha mê ly nghe ghê hồn từ Long An tới Long Bình, Long Biên, Long Hải, Long Đất, Long Thành, "Long Cuội ngồi gốc cây đa"... nếu không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, không dẹo chân ẹo người mà cười vang, thì không ăn tiền. Quang không nổi, thì đời trai kém vui đi. Lạ lùng thay, đến nay anh Quang: Thiếu úy Hải-quân đã thành nhân chi mỹ, anh đi lính và anh "sống dưới nước non" bồng bềnh nhiều ngày tháng, hơn anh ở trên bờ, (nay chắc anh nhớ cái lu nước, nên có phép về nhà ăn Tết chăng?) điều mà cô rất ngạc nhiên, tưởng anh chỉ lè phè là một võ biền, ai ngờ về mặt tri thức và giao tế, thì anh có miệng mồm nhanh nhẫu (“đoãn”), Quang lịch lãm, hóm hỉnh thì khỏi nói rùi.
Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn, anh thở từng hơi thuốc vặt:
- Quang chọc quê anh đó, khi uống rượu thì phải biết, hắn rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, ui đã điếu rồi, hắn nói hết sẫy. Hòa đừng tin hắn, nếu em tin hắn, ắt có ngày em vô “ngũ tử” à nha.
- Dạ. ảnh có tới "năm cửa tử", ai mà xớ rớ, thì dật dờ tiêu tùng, anh ha! Ảnh lém lắm.
Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện mình kể nửa đúng nửa sai. Quang biết hối hận về ngày cũ lêu lổng. Lẽ ra bây giờ ít ra là Đại-úy rồi. Thời buổi nầy không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng, để tự vươn lên với đời đích thực hơn.
Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, Hoà thấy anh trẻ trung tươi mát hơn khi anh mặc bộ quân phục, cô nhìn Thắng lại giống một bạch diện thư sinh ngày ngày đi lượn phố Tết hôm nào. Thắng cười:
- Trời ơi! Đoàn kết... kiểu thằng Quang á hả; đoàn kết là “đết còn” ấy.
- Đừng có dốc tổ nghe. Ỷ ta đây “đẹp giai, con nhà ràu, học rỏi” ứ hử! Báo cho mà biết: cậu chịu đèn “đằng ấy đã da diết tới đâu" rồi, thì bảo!
Ôi! anh Quang mập mờ lơ lửng lí lắc vu vơ… mà ngụ ý muốn “nhắc khéo ai” vậy cà? Những anh lính chiến phong sương nhuốm bụi trần, mỗi anh một cung cách: dí dỏm, duyên dáng, hóm hỉnh riêng… Họ hoan hỉ vui vẻ cười vang, thật trẻ trung hoà ái vô ngần, để tạm lãng quên những trách nhiệm và bổn phận của người lính trước binh đao khói lửa đang chờ đón. Đó là những hiền huynh vui tính trong thời loạn; mà cô có cảm tình nồng hậu & rất hân hạnh khi Hòa đã có một thời vàng son vinh dự từng thân quen quý anh. Dù cho “nếu Anh là...”
Nếu anh: lính Nhảy-Dù.
Em cố thành ưu tú.
Sánh vai ta vui bước.
Thủy-Quân mình nguyện ước.
Nếu anh là Binh-Bộ,
Ngao du giữa sông hồ.
Ngát hương đời dịu ngọt.
Pháo-Binh súng đề thơ.
Trao về nhau tình mơ.
Nếu anh là cánh buồm.
Em làm áng mây trôi.
Thiết Giáp vượt ngàn non.
Nếu anh là Phi-công.
Lả lướt trên thinh không.
Em sẽ là nắng lụa.
Đàn rung ngân phím loan
Nếu anh lính Hải Quân.
Em mơ mình nữ hoàng.
Nối nhịp cầu tao ngộ.
Tình yêu xuyên đại dương.
Nếu anh gieo tình thương.
Cùng chung một chí hướng.
Em nguyện làm nữ tì.
Hương trầm toả khói sương… (3)
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
(1) Nguyễn Công Trứ
(2) Trương Trọng Kiên
(3) thơ Tình Hoài Hương
Tháng Giêng & Tình Anh Lính Chiến
https://hoiquanphidung.com/uploadpic...ai 16 BIEN.jpg
Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhứt
Chương 5
Tháng Giêng & Tình Anh Lính Chiến
Hiếu Hoà ráng bện-đơm vô trong tâm chút hương hoa nồng ấm tình quê ở ngay trước mặt, mà xem ra dường như dật dờ, vời vợi, vò võ, lặng lờ, mênh mông, im lắng, bởi mọi thứ đang rời xa khỏi tầm tay mình. Từ nơi đây cảnh vật và con người đã thay đổi khác hơn xưa mất rồi! Hoà như con le le tan tác đàn, chấp chới, chờn vờn lạc lối bay giữa vùng trời bao la, lòng hoang dại với đôi cánh mệt mỏi rã rời…
Hoà nhìn khu ấp chiến lược dưới chân đồi bây giờ đã khác hẳn, coi thật buồn bã, vô cùng đơn độc khi nắng mới vừa ươm (hay chiều tà phai nắng lả lơi vắt mình trên đọt tre la ngà). Dù rằng quê hương trọn đời thủy chung không bao giờ phản bội con người; mà chính con người ngoảnh mặt quay lưng lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn, vì ai đó đành đoạn tập kết ra Bắc, rồi lủi vô Nam, lén gây ra cảnh chinh chiến tang thương khổ sầu trong lòng đất mẹ Việt dấu yêu? Để bây chừ nơi bóng chòi canh gỗ cao chót vót có những người lính phong sương đầu đội nón sắt, họ lo trấn giữ biên cương suốt từ tháng Giêng đến tháng Chạp chẳng hề nghỉ ngơi, bổn phận các anh chia nhau trông coi một vòng cung trách nhiệm. Hòa thấy anh đơn điệu, im lặng, chơ vơ trên vọng gác nơi phòng tuyến lồng lộng gió, tay anh luôn ghìm chặt bá súng, mắt anh chăm chú quan sát tứ phía, anh gìn giữ nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, xe GMC, xe thiết giáp cày xới, đất đỏ ngợp trời mù bay, nhiều khói thuốc súng dày phủ một góc núi, hoặc trầm lắng:
Trong đêm tối ai đang canh bóng giặc.
Anh có tiếc một thời anh đã mất.
Xác phượng hồng tơi tả tóc ai bay.
Cao nguyên đó một chuyện buồn bỏ ngỏ.
Bom đạn về cày xới cảnh tang thương. (1)
Bụi cây bờ cỏ bị đốt trụi đen thủi đen thui bên sườn dốc, len lỏi nơi khúc đồi thưa có con lộ với hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, dẫn đến doanh trại bộ chĩ huy của Sư Đoàn 2 chưa chắc hứa hẹn yên ổn, an vui gì. Hoả châu luôn bừng nở trong không gian đẫm sương mù và lạnh giá. Sau loạt B 40 và bê ta, nhiều hoả tiễn xè xè vút vút bay, từng chuỗi nổ dồn dập rền rền ngân vọng. Kinh khủng và buồn ơi là buồn biết bao! Địa pháo tới tấp rót xuống vùng giao tranh ác liệt, đạn rít bên mang tai rú rền, nghe to hơn trời long đất lở, ôi điêu tàn đổ nát, mắt các em và anh lính Bộ-binh nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí tiến vun vút về phía nội thù: Xi xi xì... Tạch tạch tạch… Pằng pằng… Uỳnh. Oằng. Ùm. Đạch đạch… cắc bụp, cắc cắc, bụp xè...
Sau khi bị pháo kích, thì quân ta đã phản pháo khá lâu. Đầu choáng váng đinh tai nhức óc, lừ đừ leo lên mấy bậc cấp làm bằng bao cát, chui tọt vô hầm Hoà lấm lét nhìn ra lổ châu mai: trên trời luôn có những chiếc phi cơ vun vút bay đi bay lại, rồi bay vút vô vùng khói lửa thảm khốc không chút ngại ngần. Theo đà lướt từ mấy chiếc phi cơ có mang theo những quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định khá chính xác. Những cây nấm lửa cuồn cuộn khổng lồ đùn lên, đùn lên cao. Khiến địch im hơi lặng tiếng nhiều giờ. Dưới đất xe tăng ầm ầm hú động quái dị nghe điếc tai không kém gì tiếng bom nổ xa xa.
Tàu bay thả lính Dù xuống rất xa dưới chân đồi, cuộc tổng tấn công quy mô của quân-nhân Nhảy Dù do Trung Tá Trần Quốc Lịch đích thân chỉ huy. Chân chưa bén đất, lính Dù đã hét vang, sôi bỏng cơn uất giận bùng vỡ. Dường như bọn Hoà đau ngực tức đến độ muốn ói máu, và các anh Bộ-binh mắt nổi đom đóm, những chòm râu tua tủa quanh cằm đựng đứng, hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẽ răng rít lên tiếng thở hổn hển dập dồn. Các anh dưới đất mặc bộ đồ tác chiến màu xanh nai nịt gọn gàng, thân dắt đầy lá, mang giày botte de saut, đầu đội mũ lưới sắt, họ lăm le ghì khẩu súng cổ lỗ sĩ trong tay, từng hàng nịt da đầy băng đạn, vài trái na dắt hai bên mạn sườn, hoặc trên ngực áo thò ra đung đưa lúc lắc. Lưng chiến sĩ cong cong cõng ba lô ghi những bài thơ tình nặng trĩu quân hành căng phồng hết cỡ: một tuần lương khô cá nhân gạo sấy mỗi ngày, vài bộ quân phục, chiếu mền, linh tinh... (hoặc anh dùng ba lô để chứa thêm đạn dược? Hoà có bao giờ dám lục lọi đồ dùng cá nhân của ai, nên không rõ). Bổn phận làm trai thời loạn dập vùi men đắng rượu cay đi hái thú đau thương: trả nợ non sông thật hết sẫy. Họ từng đi tham chiến đó đây:
Những trận nào Trà Linh qua Đá Dừng, Hòn Dựng
Dùi Chiên về Phường Rạnh ngược Khe Rinh
Bao lần anh cùng chúng em lận đận
Bôn ba băng rú rậm luống rùng mình
Những bận nào Quế Sơn, Rù Rì con suối ngược
Nước trôi nguồn nước lũ cuốn phăng phăng
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng (2)
Thân hình cong còng xuống dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã, họ tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn (truy tìm địch đang lén lút rình mò về phá hoại an ninh bình yên thôn làng). Chẳng bao giờ lính chịu bó tay chờ chết, cho đến lúc tai tái người gây gây rét từng cơn ớn lạnh luồn vô tủy sống mà chấp nhận thương đau. Chính nhân quân tử hiên ngang anh dũng đi tiêu diệt địch. Nếu lỡ trên đường sạn đạo có lạc vào cửa tử thần (bao trùm cả vùng chiến sử ca), Hoà thấy họ không tỏ lộ nét sợ hãi, băn khoăn lo lắng trên những khuôn mặt cương nghị đượm phong trần nắng gió mưa sương. Mắt họ bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa, cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống đâm vô cuống cổ khát khô bỏng họng. Họ trợn trừng hai con mắt, hàm răng nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh vững chãi đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá; cả nơi bì bõm sình lầy đồng chua nước mặn:
Đã nhiều lần đánh vào tận chiến khu
Lại nhiều đêm nằm trên đồi nghe gió hú
Đời chiến binh rất nhiều đêm mất ngủ
Súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng
Đợi địch quân như ngăn sói cản lang
Chỉ chập chờn chờ cho trời mau sáng (3)
Họ chụm đầu cúi mặt chia nhau từng vụn thuốc nhỏ, hít hít hơi thuốc vặt cho bớt lạnh, hai bàn tay khum khum che kín đóm lửa, không cho ánh sáng le lói thoát ra ngoài. Người lính Bô-binh thì luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu họ có được cái giao thông hào ẩm ướt trú chân, là may. Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến bàng hoàng cúi mặt, che dấu giòng nước mắt mằn mặn cay cay cố nuốt vô trong tim. Họ cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính xót xa cực nhọc khốn khó xiết bao! Họ luôn bị đời vô tình lãng quên! Cuộc sống người lính chiến nằm gai nếm mật là thế! là những ngọn nến lắt lẻo trong muôn triệu ngọn nến đời, do tự bàn tay người lính âm thầm đốt lên. Và, cuộc sống gian truân phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn gian khổ, khi bảo vệ quê hương, tổ quốc, tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn:
Sau những chuyến quân hành rong ruổi
Sống trở về trong bao nỗi mong chờ
Đời chiến chinh là thơ hay tiếng khóc?
Nếu không thì bằng khó nhọc đẫm mồ hôi! (3)
Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường điệu thôi-thúc họ từ bỏ tất cả phù du tuổi trẻ: yêu thương, xa hoa quyến rũ trong cuộc đời phù phiếm? mà họ không chút e ngại rụt rè, do dự? Phải chăng như đó là nghề của chàng mà! Thật cảm động đến bàng hoàng thảng thốt ngẩn ngơ. Tại sao người lính xông vô vùng chiến địa tàn khốc điêu linh nầy làm gì, thế hử!? Tại sao!? Nếu không vì các anh thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình??? & họ cầu mong ước ao giữ gìn non sông gấm vóc, và dân tộc an lành trường tồn đến thế? Phải không, thưa qúy anh rất đáng ngưỡng trọng và kính phục!? Cũng có thể do vì có em:
Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng! (2)
Có lẽ đang bắn nhau gần khu nầy lắm hay sao, mà cả ngọn đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Các cô gái của phòng 5 chân ướt chân ráo vừa đứng chưa vững trên sân của bộ chỉ huy hành quân, đã khiếp sợ xính vính lo âu tột cùng. Các cô giật mình quýnh quáng hét to, đồng loạt cúi cong người, tay bịt hai tai, họ vụt chạy vô căn hầm gần nhứt, chui tọt xuống hầm trú sâu lút đầu người. Các cô chui mau vào gầm bàn, gầm giường bố, họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng mếu máo như em bé lên ba, không ngớt kêu gào, thảng thốt, rên rỉ. Như có ai vừa thọc con dao găm sâu lút cán ngoáy ngoáy vô bụng mình.
Trái tim Hoà đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình nào đó bấu móng nhọn cắm phụp nơi trái tim mình, buồng phổi bóp chặt, làm ứ nghẹt hơi thở muốn bật máu tươi. Hoà tưởng mình mang trong người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm cho thân thể co siết, dúm dó, tay chân bủn rủn, run lẩy bẩy, lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ. Các cô la ó kêu gào từng hồi thất thanh, giống như con heo bị chọc tiết trong lò sát sinh. Các cô chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố nổ kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp ngân rền. Mặt đất rung rinh chuyển động u u… ục ục… như ở trong cơn động thổ bảy tám chấm.
Sau loạt đạn chi chi đó xé gió cỡ mươi quả bay đi, súng lớn giới hạn tầm bắn dường như bay ngang đầu, xuyên qua tường ghi sắt chắn bao cát nứt nẻ, khiến gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, đã rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt bị gió thổi vù vù chạm điện kêu lanh canh lách cách, lửa vàng lóe chớp đỏ đỏ kêu xẹt xẹt xẹt, nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp rơi loảng xoảng. Căn hầm bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay khét lẹt, quyện lẫn mùi hỗn hợp cuốn thốc bụi đất lẫn lộn tàn tro mù bay tứ phương. Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, năm cô gái nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay, lo lắng sợ hãi, xen lẫn chút hào khí đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt.
Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt sụp xuống quá lông mày, mấy cô dùng hai tay vịn lên góc hầm, lò mò bò bò, thụt thụt thò thò, họ nhấp nhổm tính leo ra khỏi miệng hầm đã bị sập một góc to, sẽ chạy đi tìm nơi an toàn khác; thì một tràng đạn lại ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ thất thanh kêu rú, hét tướng lên như con bò rống trong ba toa. Mấy cô lại vội vàng xô nhau cúi hụp người chui tọt xuống hầm sâu, giống con nhái bén lặn kỹ dưới đáy ao mút mùa lệ thủy. Cả khu đồi sục sôi kêu ục ục, ọc ọc... bụp bụp, ùm ùm, lòng đất nhấp nhô. Nhà cửa tiền chế phía trên hầm dường như động thổ, nhấp nhô rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều đã bạc mau trong giờ phút đẫm máu kinh hoàng!
Nhiều giờ sau, bình nguyên lắng dịu dần dần, thỉnh thoảng chỉ còn năm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ... từ từ nhỏ dần, xa dần rồi im bặt. Khi tiếng súng hoàn toàn im ắng, nhưng không gian còn bao trùm mùi khét nồng, oi ả, khi khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu, các cô mới uể oải lóp ngóp rều rệu bò dậy, họ đi không nỗi chẳng phải do đói, mà vì còn quá khiếp sợ. Tuyết Ngọc là cô gái ưa quậy tưng trời, mà bây giờ cũng im thin thít, xép re, cô lù đù ngồi bó gối ở một góc! Từng người một rụt rè len lén khum người, chổng mông bò bò bằng hai bàn tay và hai đầu gối… lên khỏi miệng hầm rồi, các cô tự động ngồi phệt ngay xuống đất, duỗi đôi chân ra, họ thừ người ngẩn ngơ, ngố ngáo, ngơ ngơ ngác ngác. Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng loang lổ gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn với tro bụi đất cát. Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ hãi hùng đã dâng đầy cổ họng khô bỏng.
Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm, mặc dù trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn, yểu điệu thắt đáy lưng ong, chăm chút tỉa tót tóc tai, họ cẩn thận vẽ lông mày lá liễu, đôi mắt kẻ viền lá răm, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, nụ cười rõ tươi tuyệt đẹp làm mát lòng người. Giờ phút thập tử nhứt sinh nầy, họ đã chà mặt xuống đất; bây chừ trông “qúy ẻm” lem luốc dị hợm, bộ dạng ai nấy giống như con mèo vá. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da “công nương qúy phái đài các diễm lệ” mất rùi. Mà bọn con gái ni đã "xù lông nhím" không ai thèm nhìn bạn cười nhạo nhau nửa lời.
Trung Tá Lịch được Đại-tá Phát mời, cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Tuyết Ngọc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân vinh dự, đã theo học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao tranh không chợp mắt, trông ông có vẻ hơi mệt, do tấm bản đồ hành quân địa phương chằn chịt dấu mực khoanh tròn xanh đỏ ghi trục toạ độ và đóng quân. Màu nâu ghi vùng cao độ, điểm chuẩn của trục trung độ và hoành độ được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái. Ông vẫn ra khẩu lệnh gọn gàng.
Tuy mệt thế, ông không mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, hồ ủi thẳng nếp. Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu, làm gậy chỉ huy. Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ huy Sư Đoàn nầy. Ông đậu thủ khoa khoá Sĩ quan Đông Dương, mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng, như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Đại Tá Phát vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với ông Rufus Phillips, làm giám đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ). Và ông Giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, đồ hộp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân... Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh "du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ.
Ắt hẳn "anh chàng" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy. Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng Hoà Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ. Vả chăng "chàng Mẽo" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" Cộng Hoà Việt Nam "bắt tay với Mỹ quốc viện trợ". Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao!? Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ kia: Thực tế nhất là xin vật liệu làm nhà tiền chế, tráng những con đường nhựa. Xin cung cấp cho xi măng, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, v.v... Cùng các giao hảo tốt đẹp khác. “Anh chàng ta” nói:
- "Sure". Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OKay!
Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các nữ quân nhân xộc xệch quần áo đang ngồi soãi chân, giạng háng, họ sửng sốt vội vàng lóp ngóp đứng phắt dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốc, đầu bù tóc rối xù to như tò vò ổ rơm, thân thể dúm dó, co ro cúm rúm, run run như người bị bệnh thần kinh ngố ngáo nặng. Thì ông quay sang Trung Tá Lịch và các sĩ quan tùy tùng... Họ nhìn nhau khe khẽ nhún vai, nhích cặp lông mày lên một chút, rồi qúy sỹ quan từng trải giàu kinh nghiệm lừ mắt, mím môi, cái bụng họ rung rinh vì dấu tiếng cười tươi, họ quay lại nhìn nhìn... mấy cô binh nhì dưới quyền non đời, hơi nhếch mép thân mến mỉm mỉm gật gù. Chao ôi! Thật thảm thương cho các em! đâu rồi nữ tướng hào kiệt anh tài (giống như Hoa Mộc Lan thuở xưa!? Có lẽ các nàng lo dông tuốt… chạy bán mạng về bên Tàu mất tiêu). Quê xệ hết sức ha các anh ui, các em thiệt mắc cỡ vì nơi đây các em đã:
Phấn hương đã nhạt, tình dẫu đậm
Cũng chẳng gặp chi để ngỡ ngàng
Hình ảnh cô em xinh ngày ấy
Đã rũ nhàu theo bóng thời gian. (4)
Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh bàng quan của thôn, xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ tai hoạ khác bất ngờ ập đến. Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút, nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các quân nhân dạn dày sương gió, từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn ở chiến trường, nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ, nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải. Các cô nhận biết, nghe quen tai đã phân biệt tiếng súng bắn đi hoặc câu vào. Tuy đôi lúc bất thần nghe súng nổ, họ giật bắn người, còn run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì, riết rồi điếc đặc không sợ súng.
Riêng Hoà điếc thật rồi, nhưng đứng trong khu bộ chỉ huy cô còn thấy đầu đạn bay vun vút trên đầu, cô thập thò lấp ló đi ra, đi vô nơi lều bạt, thấp thỏm run run nhìn về mấy ụ súng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung ùm… Oằng… Pằng… Tạch Tạch Tạch… Bùm! Hoà sợ hãi kinh khủng nấp vô góc nhà, rụt cổ co người, ngồi hụp xuống, hai tay Hoà bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng, đứt quãng như muốn hụt hơi. Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã đón chào Hiếu Hoà “bằng những pha ngoạn mục” đến thế sao!?
* * *
Tình Hoài Hương
*
(1) Phạm Hồng Thước
(2) Bùi Giáng
(3) Trương Trọng Kiên
(4) Thanh Cảnh
(5) (Yên Phú–Trần Điềm
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng