Trung Ngôn (nghe) Nghịch Nhĩ
Trung Ngôn (nghe) Nghịch Nhĩ
(về người chung rẻo đất... mà tình xa vạn dặm)
Rạch Gầm* sóng giạt khắp chân mây
Cho đến một hôm tại chốn này
Đắm đuối tôi thương mình quá đỗi
Yêu sao tình cuối vẫn mê say.
Cầm tay khẽ nói thật là lâu
Đằm thắm nụ hôn phớt buổi đầu
Xúc động bàng hoàng như muốn khóc
Sơn khê trân quý bởi vì đâu?
Trung Ngôn dấu ấn ở trên môi!
Nghịch nhĩ (thế nhưng ngọt cuộc đời)
Tần Sở* vinh huê men trái đắng
Những ngày ly biệt cảnh chia phôi.
Bút Nam Tào* tươi đẹp muôn màu
Dù kiếp này hay hẹn kiếp sau
Vị đắng trào lên đôi mắt ướt
Bách hạnh* tương sinh thuở ban đầu.
*
Tình Hoài Hương
(*) Rạch Gầm*= tên phụ lưu sông Tiền-giang. Nơi đây (vào Năm Ất Tỵ 1785): Quân Tây Sơn đã tiêu diệt 20 vạn quân Xiêm + 300 thuyền chiến, do hai tướng Tăng & Sương của Xiêm cầm đầu. Quân Tây Sơn do vua Quang Trung Nguyễn Huệ có tài dụng binh như thần, đã chiến thắng lẫy lừng vang dội, chiến công ấy ghi rõ trong lịch sử Việt Nam.
(*) Tần + Sở*= Hai nước thời Xuân Thu chiến quốc: từ thế kỷ 3 đến 7 trước Công-nguyên. Tần Thủy Hoàng thống nhất Lục-quốc: Tần ở Thiểm Tây. Sở ở Hồ Nam Hồ Bắc. Tần & Sở là 2 nước đối nghịch. Lời của người “trung ngôn” thường nghe “nghịch nhĩ” đối nghịch; giống như hai nước Sở và Tần.
(*) Bút Nam Tào*= vị tiên giữ sổ thiên mệnh. Nghiã bóng bài thơ nầy muốn nói đến sự sắc bén rõ ràng của người trung ngôn, sự thật không có gì phải che dấu, khuất lấp.
(*) Bách hạnh*= Hứa Tống (quan văn rất giỏi tự hào ta có trăm nết), ông cưới vợ xấu, thì trong lòng ông khinh chê. Nào ngờ Nguyễn Thị tuy không nhan sắc, nhưng có công, ngôn, hạnh, bà nhẹ nhàng bảo chồng không có “đức”, thì sao gọi là trăm hạnh! khiến chồng nể phục.
***
Tình Hoài Hương