DẠY CHÁU
Viết cho cháu nội Đăng Tâm.
Trương kim Báu
Thời kỳ được nghĩ hưu là thời kỳ tuổi già thần tiên nhất sau mấy chục năm đi làm, sáng không còn bận tâm giờ giấc, tiếng chuông báo thức buổi sáng chẳng cần, mùa Thu hay Đông lạnh rét khỏi phải lo. Buổi sáng cứ nằm nướng nghe tiếng chim ca hót véo von ở vườn nhà, ánh nắng chiếu rực sáng khắp phòng. Vợ chồng già không còn bận tâm thời gian, từ từ nhắc đến những kỷ niệm xưa ngày mới quen, cưới, xa cách, vận nước, tù tội, vượt biên... Đến Úc đúng 1 tháng đi làm, lo chu toàn tất cả cho cha mẹ, anh chị em, các con, bè bạn.
Bây giờ mới có nhiều ngày giờ lo cho nhau, làm những gì mình muốn, dịch Kinh, đi chùa, làm công quả, làm vườn, shopping, ngắm cảnh v.v.
Chiều nay đi chùa ra ghé thăm gia đình con trai, thấy hai vợ chồng con đã hơn 8 giờ đêm chưa ăn cơm tối, còn lo cho cháu nội 3 tháng tuổi, để sáng mai sớm đem gởi cháu ở nhà trẻ vì ngày mai con dấu hết phép nghĩ hộ sản.
Nhìn cháu nội, chúng tôi muốn được gần và xin được săn sóc, ban đầu bọn trẻ không muốn chúng tôi giữ cháu, viện nhiều lý do như cha mẹ đã già, cả đời cơ cực vì chiến tranh, lo cho 2 bên gia đình nội ngoại, lo cho các con, v...v...
Chúng tôi cũng đưa ra nhiều lý do, tình thương, gia đình, và nhất là để cháu rõ nguồn gốc, quê hương, dân tộc v.v...
Mấy chục năm rồi, nay ôm ru cháu ngủ tôi quên các câu hò, ca dao ngày xưa mẹ ru. Tôi đề nghị với chồng:
- Anh ơi! Bây giờ chúng mình phải kêu nhau bằng ông Nội, bà Nội như ngày xưa khi mình có đứa con đầu lòng, đã bỏ tiếng anh em mà xưng hô bằng Ba, Me để con bắt chước.
- Đúng, Đúng.
- Và lâu quá bà nội quên các câu hò ru em rồi.
- Có ngay. Ông Nội bấm Google in ra liền.
Ngày đầu ru cháu, Bà Nội hát bài Tình Ca Tiếng Nước Tôi.
"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
À à ơi! Tiếng ru muôn đời.
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui.
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi.
..................
Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần. Và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa
Những anh hùng của một ngày mai".
....... (nhạc Phạm Duy)
Được ôm trong đôi tay của bà Nội, với cả tình thương bao la của ông Nội ngồi bên, cháu nhếch miệng cười, lời hát những điệp khúc yêu nước của một dân tộc đưa cháu vào giấc ngủ thần tiên.
Ngày xưa chúng tôi không có ngày giờ lo cho các con nhiều, thời đất nước chinh chiến mỗi ngày anh phải đi bay, một phi công phản lực phải bảo vệ đất nước quê hương, tôi mỗi ngày cũng phải điên đầu cùng các con số vì với ngân hàng, con số hàng xu hay hàng triệu đều là con số, phải đúng 100 %, lúc đó không có máy móc hiện đại như ngày nay.
Cháu biết lật, biết bò, tập đi, chúng tôi mua một cái khung gỗ để cháu vào đó, có một tivi vừa tầm nhìn của cháu, cho vào những đĩa CD đặc biệt dạy con nít tập nói và biết nhận ra mặt chữ. Ông bà nội luôn kề bên để phụ giúp. Đi, nói, đọc chữ, tự nhiên rõ ràng khi cháu mới 2 tuổi.
Một hôm chồng tôi đưa một bài vừa copy, đó là bài hát Hội Nghị Diên Hồng:
- Bà nội hát cho cháu nghe bài này phải không?
- Không phải, chúng mình và cháu nội đóng kịch.
- Ồ, chắc vui lắm!
Cháu nội hai tay nhỏ xíu đưa lên làm loa.
- Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển!
Ông nội phụ thêm:
- Toàn dân Tiên Long! Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Nên hòa hay chiến?
Bà nội:
- Quyết chiến.
Cháu nội:
- Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?
Ông nội:
- Quyết chiến
- Quyết chiến luôn
Cứu nước nhà
Nối chí dân hùng anh.
Cháu nội:
- Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?
Ông bà nội:
- Hy sinh.
Thề liều thân cho sông núi
Muôn năm lừng uy. (Lưu Hữu Phước)
Hôm ấy cả ba người đều vui và cười ngã nghiêng, một chú bé nhỏ xíu với hai người già tóc đã bạc cùng nhau đóng kịch, sống lại thời còn đi học, nay hòa đồng cùng nhau. Biết cháu chưa hiểu những lời yêu nước sâu xa nhưng trong lòng ông nội cũng đã mãn nguyện, vì lòng yêu nước đã in sâu vào tim dù là nay đã già và sống ở Châu Úc xa xôi cách quê hương một bờ đại dương.
Tôi hiểu anh, người Phi công ngày nào trên vai, trên ngực đều mang những dấu hiệu Tổ Quốc, Không Gian, trách nhiệm, bổn phận.
Những buổi chiều đi chùa, cháu và bà nội thi nhau đọc các chữ bên đường, ai đọc trước và đọc đúng là thắng, rồi thi nhau đọc cửu chương. Ông nội là trọng tài, trọng tài này lúc nào cũng thiên vị, nên bà nội luôn thua.
Vào chùa ông nội trước, cháu sau, lễ lạy theo sát và bắt chước y khuông.
Ông nội mặt thật tươi khi thấy cô Huệ Nghiêm đến ngồi gần để nghe cháu mình đọc kinh Pháp Hoa.
Những sáng đưa cháu nội đến vườn trẻ và chờ đón về đó là những niềm vui của ông bà. Bữa ăn trưa như vui hơn, rộn ràng hơn khi có cháu dự vào. Cháu nói, đọc tiếng Việt thông thạo, nay lại chỉ từng món ăn, trái cây nói qua tiếng Anh, và vẽ hình, trong tấm hình nào cũng có ông bà nội và cháu, dán đầy vách phòng ăn.
Vườn hoa nở nhiều và đẹp hơn khi cả ba đều ra làm vườn, hoa cũng thích tiếng cười của ông bà và cháu nội.
Một hôm đến bác sĩ Tuấn chích ngừa, cháu nội nói cùng bác sĩ tên ông bà nội, tên cha mẹ và tên cháu, và còn khoe cùng bác sĩ cháu là người Việt Nam.
Tuổi già thật đầy đủ, sung sướng, chúng tôi đã trải qua những ngày thần tiên bên nhau, cảm ơn đứa cháu nội của chúng tôi đã làm cho cuộc sống chúng tôi tuyệt vời và ý nghĩa hơn.